
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 476 - THÁNG 3 - SỐ 1&2 - 2019
65
nay, tỉ lệ người tham gia Bảo hiểm y tế trong
nhóm này chắc chắn sẽ gia tăng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
48,7% đối tượng có kiến thức về bảo hiểm y tế
tốt. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Lê
Ngọc Quỳnh (2012) cho thấy điểm kiến thức
chung của nông dân là 36,9% có kiến thức về
bảo hiểm y tế đạt [4]. Tuy nhiên tỷ lệ này thấp
hơn so với tỷ lệ 66% nông dân có kiến thức đạt
của nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính
sách y tế, tại Chí Linh, Hải Dương năm 2008.
Phần lớn đối tượng trong nghiên cứu của chúng
tối có thái độ tốt với Bảo hiểm y tế song tỷ lệ
này thấp hơn nghiên cứu của Lê Ngọc Quỳnh
(2012) [4] cho thấy tới 97,6% đối tượng nghiên
cứu cho biết họ có quan tâm đến Bảo hiểm y tế,
tuy nhiên cao hơn nhiều so với kết quả 86,8%
tại Nam Sách, Hải Dương; 67% tại Chí Linh, Hải
Dương; 74,7% tại Viết Yên, Bắc Giang; 78,64 tại
Yên Dung, Bắc Giang theo nghiên cứu của Viện
Chiến lược và chính sách y tế.
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình cao
hơn ở đối tượng có kiến thức Bảo hiểm y tế. Vì
nhiều lí do mà người dân chưa có nhận thức
chưa đúng hoặc hiểu sai về giá trị tấm thẻ bảo
hiểm y tế. Lúc cần đến thì đã quá muộn, nhất là
trong bối cảnh các cơ sở y tế công lập đang áp
dụng giá viện phí mới theo Thông tư
02/2017/TT-BYT của Bộ Y tế đối với người không
có thẻ bảo hiểm y tế. Kết quả này cùng xu
hướng với nghiên cứu của Lammers và
Wamerdam, 2010. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm y tế
hộ gia đình cao hơn ở đối tượng có thái độ tốt.
Điều này phản ánh ảnh hưởng khá rõ rệt của
niềm tin về bảo hiểm y tế của đối tượng với sự
tham gia bảo hiểm y tế gia đình của họ. Niềm tin
này sẽ chịu ảnh hưởng lớn bởi chất lượng khám
chữa bệnh liên quan đến Bảo hiểm y tế.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình của
mẫu nghiên cứu là 61,4%. Tỉ lệ có kiến thức tốt là
47,8%. Tỷ lệ có thái độ tốt về việc tham gia Bảo
hiểm y tế là 94,6%. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế
hộ gia đình cao hơn ở đối tượng có kiến thức tốt
và thái độ tốt về Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2017).
Báo cáo số 456/BC-CP - Việc
thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13 của Quốc
hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật
về bảo hiểm y tế tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân
.
2. Nguyễn Thị Kim Hoa và Mai Linh (2015). Thực
trạng sử dụng bảo hiểm y tế của người dân.
Tạp
chí xã hội học 2,
2 (130), 76-85.
3. Bùi Thị Tú Quyên và Nguyễn Thị Kim Ngân
(2016). Thực trạng bao phủ Bảo hiểm Y tế tại và
một số yếu tố liên quan ở người lao động phi chính
thức quận Long Biên, Hà Nội.
Tạp chí Y tế công
cộng,
42 (6), 48-55.
4. Lê Ngọc Quỳnh (2012).
Thực trạng tham gia bảo
hiểm y tế của nông dân thị xã Sơn Tây, Hà Nội,
năm 2012 và một số yếu tố liên quan
, Thạc sỹ Y tế
công cộng, Đại học Y tế công cộng.
5. Viện chiến lược và chính sách y tế (2012).
Đánh giá 2 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 38-
CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh bảo hiểm y tế
trong tình hình mới
,
6. Judith Lammers, Susan Warmerdam và
Rotterdam Ecorys (2010). Adverse selection in
voluntary micro health insurance in Nigeria.
AIDS
Research Series,
6,
VAI TRÒ CỦA NT-proBNP TRONG DỰ ĐOÁN HỘI CHỨNG CUNG LƯỢNG
TIM THẤP Ở TRẺ EM SAU PHẪU THUẬT TIM MỞ TIM BẨM SINH
Đặng Văn Thức1, Trần Minh Điển1,
Trần Thị Chi Mai2, Cao Việt Tùng1, Phạm Hồng Sơn1
TÓM TẮT18
Đặt vấn đề
: Tình trạng rối loạn huyết động và
suy tim cung lượng tim thấp là biến chứng thường gặp
trong hồi sức sau phẫu thuật tim mở, ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả điều trị.
Mục tiêu
: xác định vai trò dự
1Bệnh viện Nhi Trung Ương
2Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Đặng Văn Thức
Email: drthucnhp80@gmail.com
Ngày nhận bài: 12.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 4.3.2019
Ngày duyệt bài: 11.3.2019
đoán hội chứng cung lượng tim thấpcủa NT-proBNP ở
bệnh nhân sau phẫu thuật tim mở tim bẩm sinh.
Đối
tượng và Phương pháp
: Nghiên cứu 212 bệnh nhân
sau phẫu thuật tim mở tim bẩm sinh. NT-proBNP
huyết tương được định lượng tại các thời điểm trước
phẫu thuật (T0), sau 1 giờ (T1), sau 12 giờ (T2), sau
24 giờ (T3), sau 48 giờ (T4) sau phẫu thuật. Đánh
giámối liên quan của NT-proBNP với tình trạng huyết
động và hội chứng cung lượng tim thấp sau phẫu
thuật.
Kết quả nghiên cứu
: Nồng độ NT-proBNP
tăng cao nhất ở thời điểm T2 là 2133,4 pg/ml giảm
dần ở các thời điểm T3,T4. Sự khác biệt nồng độ ở
các thời điểm có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Nồng
độ NT-proBNP ở thời điểm sau 12 giờ sau phẫu thuật
trên 1562 pg/ml có giá trị dự đoán tốt nhất hội chứng