NUÔI CÁ MÚ TRONG LỒNG LƯỚI
Cá song hay còn gọi là cá mú hiện tại có 13
giống, 40 loài phân bố ở Việt Nam. Đây là loài
cá có tính ăn mồi chuyên về động vật, thức ăn
chủ yếu là cá nhỏ, các loài giáp xác, các loài
động vật không xương sống, tôm, cua. Cá ăn
mồi suốt ngày, nhưng ăn mồi vào lúc chạng
vạng tối hoặc sáng sớm. Cá phân bố dọc theo bờ
biển từ Bắc đến Nam. Chúng sống chủ yếu ở
vùng cửa sông, nơi ven bờ hoặc gần các dạng
san hô. Đây là loài cá biến tính, khi nhỏ chúng là
cá thể cái, khi lớn lên một số chuyển thành cá
thể đực. Tuổi sinh sản của cá bắt đầu từ năm thứ
4 trở đi. Với cá mú có nhiều loại hình nuôi,
nhưng thông dụng nhất là nuôi trong lồng lưới,
bè hoặc nuôi trong ao đất. Ở nước ta, mô hình
nuôi lồng, bè được ưu tiên. Chọn nơi đặt lồng,
bè kín gió, tránh được sóng to, gió lớn, có độ sâu
6-10 m, có đáy sỏi ít bùn. Độ chênh lệch thủy
triều từ 2-3 m, lưu tốc dòng chảy dưới
0,8m/giây, ít tàu thuyền qua lại. Chọn lồng có
kích thước theo thứ tự dài-rộng- cao như
sau: 6 x 6 x 3m hoặc 3 x 3 x3m. Kích thước lưới
làm lồng có mắt lưới 2a = 1.5cm, kích
thước này cần được chủ động tăng dần theo thời
gian nuôi.
Chọn nơi có độ mặn trung bình từ 22-28%0
(phần ngàn), nhiệt độ trung bình từ 28-30 độ C,
độ pH (độ phèn ): 7.5-8.5, hàm lượng oxy hòa
tan > 3mg/lít để đặt bè, lồng. Chọn cỡ giống có
chiều dài thân từ 5-7cm trở lên, hiện tại có hai
nguồn giống là giống thu mua từ tự nhiên và
giống từ việc sản xuất theo phương pháp nhân
tạo. Giống tự nhiên tuy kích cỡ lớn, nhưng
không xác định được chất lượng và thường
không đều nhau, thả nhiều đợt do phải chờ gom
giống dẫn đến cá nuôi không đồng đều. Đôi khi
mua nhầm giống từ khai thác cào điện về nuôi sẽ
chậm lớn, còi cọc. Giống nhân tạo tuy nhỏ,
nhưng khắc phục được các nhược điểm của cá tự
nhiên. Mật độ thả cá thường trung bình từ 50-
100 con/mét khối. Thức ăn cho cá là các loài cá
tạp, nên chủ động cắt khúc cho kích cỡ thức ăn
vừa miệng cá. Lưu ý, khi mua cá làm thức ăn
cho cá mú, nên mua cá tươi, tốt nhất là còn sống,
tránh mua nhầm cá ươn, cá đã qua ướp hóa chất,
rất nguy hiểm cho cá mú. Ngày cho cá ăn 2 lần
vào lúc sáng sớm và chiều mát. Lượng ăn mỗi
ngày bình quân chiếm từ 5-7% so với trọng
lượng thân cá. Dùng máng ăn, vó ăn cho thức ăn
vào vó, dễ dàng điều tiết theo nhu cầu sử dụng
hàng ngày của cá, tránh dư thừa gây lãng phí và
ô nhiễm nước hoặc thiếu thức ăn, cá gầy yếu,
chậm lớn, suy dinh dưỡng, phân đàn. Nguồn
thức ăn của cá là động vật, do vậy lồng nuôi rất
dễ dơ bẩn, đóng rong, rêu, tảo… Thường xuyên
quan sát hoạt động bắt mồi của cá, lặn kiễm tra
đáy lồng nuôi mỗi ngày, để điều chỉnh thức ăn
cho phù hợp, tránh dư thừa. Định kỳ nên thường
xuyên chà rửa, chùi cọ lồng nuôi, bè nuôi, để
nước trong và ngoài lồng nuôi có sự trao đổi,
thay mới. Những thời điểm đổi nước hoặc nước
đứng cần chủ động cung cấp oxy cho cá thông
qua việc quạt chân vịt của ghe, hoặc hệ thống
sục khí chuyên dùng như máy oxy…Những khi
thời tiết thay đổi, dông bão, nước đứng, gió
nồm, gió chướng hoặc khi trời se lạnh, nên chủ
động giảm lượng ăn hàng ngày xuống ½ hoặc
tạm ngưng cho cá ăn. Sau khi nuôi được 3 tháng
thì tiến hành giảm thưa mật độ xuống còn 20-
30con/mét khối là tốt nhất, nhằm tạo điều kiện
để lọc cá theo cỡ, chăm sóc cá tốt hơn, tạo môi
trường tốt để cá sinh trưởng. Kiễm tra lưới, dây
neo, ngăn chặn hà bám vào lồng, cá tạp vào lồng
nuôi.
KS. Lý Vĩnh Phước