VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐỨC KIÊN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐÀ NẴNG - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐỨC KIÊN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ
ĐÀ NẴNG - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ
Trần Đức Kiên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI
XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................ 7
1.1. Lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ........................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự ....................................................................................................................... 19
1.3. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét xử phúc thẩm ............... 29
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ
NẴNG TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019 ............................................................... 34
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng .......................................... 34
2.2. Kết quả thụ lý giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng từ 2015 - 2019 .......................................................................... 35
2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ....................................................................... 39
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
ĐÚNG PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................... 56
3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ..... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự ............................................................................................................................... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BA, QĐ
: Bản án, quyết định
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
ĐCS
: Đảng cộng sản
KC
: Kháng cáo
KN
: Kháng nghị
LTTHS
: Luật tố tụng hình sự
NCTN
: Người chưa thành niên
NN
: Nhà nước
PL
: Pháp luật
PVXXPT
: Phạm vi xét xử phúc thẩm
TAND
: Toà án nhân dân
TACPT
: Tòa án cấp phúc thẩm
TANDCC
: Tòa án nhân dân cấp cao
TANDCT
: Tòa án nhân dân cấp tỉnh
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
THQCT
: Thực hành quyền công tố
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TP
: Thẩm phán
TKTA
: Thư ký tòa án
TTATXH
: Trật tự an toàn xã hội
VAHS
: Vụ án hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
XXPT
: Xét xử phúc thẩm
UBTVQH
: Ủy ban thường vụ Quốc hội
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Thống kê tổng số thụ lý, giải quyết xét xử phúc thẩm vụ án
2.1. hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 35
2015 - 2019
Thống kê kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án 2.2. 36 nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019
Thống kê số lượng kháng cáo, kháng nghị, kết quả xét xử
2.3. phúc thẩm VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng 38
giai đoạn từ năm 2015-2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như đã biết, để giải quyết đúng vụ án hình sự và bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người của những người tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành quy định một VAHS được xét xử qua cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm (nguyên
tắc hai cấp xét xử); ngoài ra, còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm.
Vì có sự phân cấp xét xử nên thẩm quyền, phạm vi của từng cấp xét xử cũng được
quy định một cách khá cụ thể trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Với việc pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về hai cấp xét xử
VAHS cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tích cực nghiên cứu và đẩy mạnh công
tác cải cách tư pháp, lấy trọng tâm là ngành Tòa án, trong đó tại Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2000) của Đảng đã chỉ rõ: “Cải cách tổ chức,
nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp... Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân
dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp” [4].
Ngày 28 tháng 5 năm 2015, sau khi Luật tổ chức TAND năm 2014 có hiệu
lực, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13, về việc thành lập 03 Tòa án nhân dân
cấp cao, bao gồm: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (TANDCC 1), Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng (TANDCC 2), Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh (TANDCC 3) và theo quy định Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét
xử cấp thứ 3 từ dưới lên trong hệ thống xét xử 4 cấp của ngành Tòa án Việt Nam.
TANDCC có thẩm quyền dưới TANDTC và trên TANDCT... Tòa án nhân dân cấp
cao chính thức được thành lập và hoạt động từ ngày 01 tháng 6 năm 2015 [32].
Từ những phân tích nêu trên, học viên nhận thấy việc nghiên cứu phạm vi
xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp không chỉ đối với các vụ
án hình sự, dân sự … có ý nghĩa hết sức to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Vì trong
các Bộ luật tố tụng hiện nay nhà làm luật chỉ quy định về phạm vi xét xử phúc
thẩm, nhưng lại chưa có Điều luật nào quy định về phạm vi xét xử sơ thẩm, cụ thể
1
như tại Điều 345 BLTTHS Việt Nam năm 2015 quy định “Toà án cấp phúc thẩm
xem xét phần nội dung của BA, QĐ bị KC, KN. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem
xét các phần khác của BA, QĐ không bị KC, KN” [27]. Tại sao những quy định về
phạm vi xét xử phúc thẩm hình sự lại được luật hóa trong Điều 345 BLTTHS Việt
Nam 2015 còn những quy định về phạm vi xét xử sơ thẩm lại không được luật hóa
trong một Điều luật cụ thể, cũng giống như việc tại sao Tòa án nhân dân cấp quận,
huyện, thành phố thuộc tỉnh lại chỉ được luật hình sự và luật tố tụng hình sự quy
định xét xử sơ thẩm hình sự; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được xét xử sơ thẩm và phúc thẩm VAHS; Còn Tòa án nhân dân cấp cao lại
chỉ được giới hạn phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS theo quy định tại Điều 345
BLTTHS Việt Nam.
Việc BLTTHS Việt Nam năm 2015 quy định như vậy thì trong quá trình thụ
lý giải quyết các VAHS phúc thẩm của ngành Tòa án nói chung và của Tòa án nhân
dân cấp cao trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc
thẩm VAHS đã và đang có những thuận lợi và khó khăn vướng mắc gì hay không?
Chính vì vậy học viên lựa chọn Đề tài “Phạm vi xét xử phúc thẩm theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xét xử phúc thẩm hình sự là hoạt động xét xử của ngành Tòa án nhân dân
nói chung, PVXXPT theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam luôn là đề tài nóng
hổi, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Tuy nhiên, do các Tòa án
nhân dân cấp cao mới được thành lập chưa lâu (năm 2015), nên trên thực tế có rất ít
những đề tài khoa học nghiên cứu về Phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa án
nhân dân cấp cao. Hoặc cũng có thể một phần do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn
chế của học viên, nên khi viết đề tài này, học viên đã và mới chỉ nghiên cứu, tìm
hiểu một số công trình đã được công bố như sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: "Thực trạng hoạt động XXPT và
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động XXPT của Tòa phúc thẩm
2
TANDTC" của TANDTC, năm 2006 [35].
- Luận án tiến sĩ luật: “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt
Nam” của Vũ Gia Lâm, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2008 [18].
- Luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về THQCT và
kiểm sát XXPT VAHS của VKSND”, của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2012 [16].
- Luận văn thạc sĩ luật học “Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự”, của tác giả Nguyễn Thị Hồng Phương, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Khoa luật năm 2012 [20].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định”, của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2014 [42].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền
con người trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk”, của tác giả Nguyễn Anh Thư, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật
năm 2015 [40].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối
với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Vũ Thị Uyên, Học
viện Khoa học xã hội năm 2016 [43].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
tố tụng hình sự, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang”, của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2016 [15].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Đồng Nai”, của tác giả Nguyễn Xuân Quang, Học viện Khoa học xã hội
năm 2017 [21].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền XXPT VAHS theo PLTTHS Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Ngô Hà Nam, Học viện Khoa
3
học xã hội 2017 [19].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng
hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn
Thành An, Học viện khoa học xã hội năm 2018 [1].
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Trương Phạm Huyền Châu, Học viện Khoa học xã
hội năm 2018 [10].
Tuy các công trình và bài viết đã nghiên cứu việc áp dụng pháp luật pháp
luật hình sự và TTHS trong xét xử nói chung và trong phiên tòa xét xử án hình sự
nói riêng ở một số địa phương. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về
phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Phạm vi xét xử
phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực tiễn việc thụ lý giải quyết (xét
xử) phúc thẩm các VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, luận văn đưa ra
quan điểm lý luận về phạm vi, giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao; đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về PVXXPT và thực
hiện đúng đắn các quy định đó trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất: Phân tích khái niệm, đặc điểm xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa
án nhân dân cấp cao;
- Thứ hai: Phân tích được khái quát sự hình thành và phát triển của quy định
pháp luật về PVXXPT các VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao;
- Thứ ba: Đánh giá thực tiễn thực hiện PVXXPT của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm những ưu
điểm, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế;
4
- Thứ tư: Đưa ra yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định về
PVXXPT trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các quy định về PVXXPT và thực tiễn xét xử phúc thẩm
VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật quy định về phạm
vi xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Về thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng HCM về NN và PL, các quan điểm của ĐCS Việt Nam về xây dựng NN pháp
quyền, cải cách tư pháp, bảo vệ QCN...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, so sánh, phân
tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và vụ việc điển hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần trong việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự về phạm vi xét xử VAHS nói chung và phạm vi xét xử phúc thẩm
VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết,
các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của cán bộ tư pháp nói chung
và của Thẩm phán nói riêng về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS trong thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Bên cạnh đó, Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo,
5
nghiên cứu khoa học pháp lý. Các Tòa án nhân dân cấp cao có thể khai thác kết quả
nghiên cứu để áp dụng pháp luật quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS tại
Tòa án nhân dân cấp cao.
7. Cơ cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày
thành ba chương, tám tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI
XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Theo Từ điển Hán - Việt thì phúc thẩm không có nguyên nghĩa, mà phải
ghép nghĩa của hai từ: “phúc” có nghĩa là “lật lại, úp lại, xét kỹ”; còn “thẩm” có
nghĩa là “xử đoán” [2, tr. 136].
Còn từ điển Tiếng Việt thì “phúc thẩm” nghĩa là: TAND cấp trên xét xử lại
một vụ án do cấp dưới đã XXST mà có chống án [45, tr.790].
Theo từ điển Thuật ngữ Luật học của Trường đại học Luật Hà Nội thì “phúc
thẩm” là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nhằm kiểm tra lại
tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa lại những sai lầm
và vi phạm của Tòa án sơ thẩm, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật [44,
tr. 378].
Theo Khoản 1 Điều 330 BLTTHS Việt Nam năm 2015 (có hiệu lực kể từ
ngày 01/01/2018) thì “Xét xử phúc thẩm hình sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp
xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối
với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị” [27].
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng
hình sự được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là, phúc thẩm là một giai
đoạn trong quá trình Tố tụng hình sự, phúc thẩm là một thủ tục tố tụng và phúc
thẩm là một cấp xét xử.
Dưới góc độ là giai đoạn tố tụng, phúc thẩm được hiểu là giai đoạn của quá
trình TTHS, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại VAHS mà bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
7
pháp luật nhằm mục đích kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các bản án,
quyết định sơ thẩm, khắc phục kịp thời vi phạm, sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm,
bảo đảm việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của Nhà nước.
Dưới góc độ là thủ tục xét xử, thì thủ tục xét xử phúc thẩm trong TTHS là
cách thức tiến hành hoạt động TTHS để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại VAHS mà
một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực
bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp thời sai
lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước.
Dưới góc độ là cấp xét xử thì phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, theo đó Tòa án
có thẩm quyền xét xử lại VAHS mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp
thời sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi
ích NN.
Như vậy, xét xử phúc thẩm hình sự là việc TAPT xét xử lại VAHS đã được
TAST thẩm giải quyết bằng bản án, quyết định chưa có hiệu lực PL nhưng bị kháng
cáo, kháng nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết
định đó theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định. Sau khi bản án, quyết định sơ
thẩm được tuyên thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay mà còn một
thời gian để các đương sự (bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...)
kháng cáo, VKSND xem xét kháng nghị. Khi có KC, KN đối với BA, QĐ sơ thẩm
thì TACPT trực tiếp tiến hành xét xử lại VAHS. Thủ tục xét xử lại VAHS được gọi
là thủ tục PTHS, thủ tục này được bắt đầu khi có kháng cáo của các đương sự hoặc
kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định sơ thẩm trong thời hạn luật
định. Về bản chất phúc thẩm không phải là lần xét xử đầu tiên đối với một VAHS
mà là lần xét xử thứ hai. Thủ tục xét xử phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ
thẩm, mục đích của phúc thẩm hình sự là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
8
của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp bị kháng cáo, kháng nghị.
Thông qua đó, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân,
đảm bảo cho bản án, quyết định đưa ra thi hành là những bản án, quyết định đúng
pháp luật và có căn cứ. Căn cứ tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm là
kháng cáo, kháng nghị hợp pháp.
Như vậy, TTHS là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong
đó có giai đoạn xét xử, cụ thể như sau: Khi phân nhỏ giai đoạn xét xử thành các giai
đoạn nhỏ hơn thì XXPT có thể được hiểu là một giai đoạn trong TTHS; Còn dựa
vào cách thức tổ chức hệ thống TAND Việt Nam, thì TAND cấp trên có thẩm
quyền xét xử lại VAHS sau khi đã có BA, QĐ của TAND cấp dưới chưa có hiệu lực
pháp luật nhưng bị KC, KN thì phúc thẩm có thể được xem xét như một cấp xét xử
thứ 2 trên cấp XXST.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, theo học viên thì: “Xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hình sự mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp, bị đương sự (bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan …) kháng cáo hoặc bị Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị nhằm kiểm
tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
cấp sơ thẩm,giúp khắc phục kịp thời các sai lầm của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm,
bảo vệ công lý, quyền con người,lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân”.
1.1.1.2. Đặc điểm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Trong PTXXPT – VAHS thì Hội đồng XXPT đồng thời thực hiện cả hai
chức năng vừa xét xử lại VAHS về nội dung, vừa xét lại tính hợp pháp và tính có
căn cứ của BA, QĐ sơ thẩm. Do đó, XXPT - VAHS có 7 đặc điểm, gồm:
Một là: Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo
pháp luật khi xét xử của Tòa án nhân dân cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn
của các tình tiết thực tế, tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ thu thập
trong hồ sơ VAHS, được cơ quan tố tụng (Cơ quan điều tra và VKSND) và cụ thể là
9
được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm dùng làm căn cứ để ban hành bản án, quyết định
đối với VAHS ở cấp sơ thẩm. Có nghĩa là Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm sẽ kiểm
tra tính đúng đắn để xác định rõ nội dung VAHS, sự việc liên quan, kiểm tra, xác
minh chứng cứ có đầy đủ, chính xác không, thẩm tra xem pháp luật liên quan được
áp dụng có đúng không?
Từ các KC, KN đúng luật, Hội đồng XXPT sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại
đối với những BA, QĐ của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm bị KC, KN. Theo đó thì
Hội đồng XXPT tiến hành xét lại tính hợp pháp của BA, QĐ và tính có căn cứ về sự
phù hợp giữa kết luận trong BA, QĐ với những sự kiện xảy ra trên thực tế khách
quan của VAHS. Hội đồng XXPT tiến hành xét xử lại VAHS để giải quyết VAHS
một cách chính xác dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét
toàn diện, khách quan tài liệu trong hồ sơ VAHS.
- Hai là: Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm không bị ràng buộc, hạn chế bởi
những nội dung kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của VKSND. Vì nếu xét
thấy cần thiết thì cấp phúc thẩm mới có thể xem xét các phần khác của bản án,
quyết định không bị đương sự kháng cáo, VKSND kháng nghị trong giới hạn do
BLTTHS quy định (Điều 345 BLTTHS 2015).
- Ba là: Những người tham gia tố tụng hình sự có quyền, nghĩa vụ cơ bản
như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Khi bảo vệ nội dung KC, KN thì chủ thể KN, cơ
quan KN có quyền xuất trình các nguồn chứng cứ mới chưa được công bố tại
TAND cấp sơ thẩm.
- Bốn là: Đối tượng của xét xử phúc thẩm là những bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm do bị kháng cáo, kháng nghị hợp pháp nên chưa có
hiệu lực pháp luật. Khi XXPT - VAHS cũng là một cách để TAND cấp trên có thể
kiểm tra chất lượng xét xử và hướng dẫn TAND cấp dưới xét xử đúng PL, xây dựng
kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xét xử. Tuy nhiên, không phải tất
cả các VAHS xét xử ở TAND ở cấp sơ thẩm đều được XXPT. Mà chỉ có những
BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu PL bị KC, KN đúng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự mới là đối tượng của XXPT. Vì BA, QĐ sơ thẩm mặc dù có vi phạm,
10
thiếu sót nhưng không có KC, KN thì BA, QĐ đó cũng không bị XXPT. Và khi BA,
QĐ sơ thẩm đã có hiệu lực PL mới phát hiện thấy sai lầm thì cũng không phải là đối
tượng của XXPT. Vì trong trường hợp này BA, QĐ sơ thẩm đó sẽ được xem xét
theo thủ tục GĐT, tái thẩm theo quy định của PLTTHS.
Như vậy XXPT chỉ được áp dụng khi có KC, KN đúng luật định. Vì chỉ các
KC, KN đúng quy định của pháp luật mới là căn cứ để BA, QĐ chưa có hiệu lực PL
trở thành đối tượng cần được XXPT. Hay nói cách khác, kháng cáo, kháng nghị hợp
pháp là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Như vậy quyền KC là nét đặc trưng của XXPT - VAHS. Vì sau khi Tòa án
nhân dân xét xử sơ thẩm thì bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật ngay, bị
cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vẫn còn có quyền
kháng cáo yêu cầu xét xử lại một lần nữa ở Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp. Do
vậy khi căn cứ để tiến hành XXPT là Cáo trạng truy tố của VKSND; căn cứ để tiến
hành GĐT, TT là KN của những người có thẩm quyền là những căn cứ mang tính
quyền lực NN, thì XXPT có thể được phát sinh bởi KC của các chủ thể tham gia
TTHS. Với việc KC các chủ thể tham gia TTHS đã bày tỏ được sự chưa đồng ý đối
với BA, QĐ sơ thẩm và trình bày các ý kiến của bản thân đối với BA, QĐ sơ thẩm.
Và nêu ra các ý kiến, đề nghị của bản thân trong giai đoạn XXPT.
- Năm là: Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong XXPT là TAND,
VKSND cấp phúc thẩm và những chủ thể tham gia giai đoạn XXST được tuyên
quyền kháng cáo trong BA, QĐ sơ thẩm hoặc các chủ thể có liên quan đến KC, KN
hoặc các chủ thể khác tham gia ở giai đoạn XXPT được TAPT mời đến để tham gia
giai đoạn XXPT.
- Sáu là: Phiên tòa xét xử phúc thẩm VAHS có một số đặc thù (khác biệt với
phiên tòa xét xử sơ thẩm) như: Mặc dù theo Điều 354 BLTTHS 2015 quy định:
“Thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm tiến hành
như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi tiến hành xét hỏi một thành viên của Hội
đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội
dung kháng cáo, kháng nghị”. Nghĩa là việc công bố Cáo trạng của Kiểm sát viên (ở
11
cấp sơ thẩm) là chức năng và quyền hạn của Viện kiểm sát. Nhưng trong XXPT lại
được thay thế bằng việc một thành viên Hội đồng XXPT tóm tắt nội dung VAHS,
quyết định của BA sơ thẩm, nội dung KC, KN; Và việc luận tội của KSV ở phần
tranh luận (ở cấp sơ thẩm) đã được thay thế bằng việc trình bày kết luận của đại
diện VKSND.
- Bảy là: Khi tham gia phiên tòa XXPT - VAHS, các chủ thể tham gia giai
đoạn XXST có liên quan đến KC, KN có quyền bổ sung thêm nguồn chứng cứ.
Những người KC và chủ thể KN ngoài việc viện dẫn những tài liệu được thu thập
trong giai đoạn XXST ở hồ sơ VAHS mà còn được xuất trình những nguồn chứng
cứ mới chưa được xem xét tại phiên tòa XXST. BA, QĐ của TAPT phải căn cứ vào
kết quả tranh tụng khi XXPT. Khi XXPT các chủ thể tham gia XXPT đều được bảo
đảm được thực hiện những quyền, nghĩa vụ do pháp luật quy định, ... Như vậy
XXPT ngoài việc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của BA, QĐ sơ thảm còn
được quyền xét xử lại VAHS về mặt nội dung, nghĩa là xem xét tính đúng đắn của
VAHS về mặt thực chất.
Nên TTHS mới quy định các chủ thể tham gia XXST được quyền cung cấp
thêm tài liệu, chứng cứ mới để bảo vệ quyền lợi cho mình, không phải phụ thuộc
vào những tài liệu đã cung cấp trong giai đoạn XXST. Các chủ thể này đều được
quyền thay đổi lời khai, và yêu cầu mời thêm người làm chứng mới hoặc cung cấp
thâm các tài liệu, đồ vật mới. VKSND cấp phúc thẩm cũng có thể tự mình hoặc theo
yêu cầu của Hội đồng XXPT tiến hành ĐTBS, thu thập thêm những tài liệu mới để
làm sáng tỏ những vấn đề về nội dung VAHS. Tất cả các chứng cứ mới và chứng cứ
cũ đều được đưa ra xem xét trực tiếp tại phiên tòa XXPT và là căn cứ để HĐXX
phúc thẩm VAHS ban hành BA, QĐ phúc thẩm.
Bên cạnh những đặc điểm nêu trên thì khi xét xử phúc thẩm VAHS cũng cần
quan tâm đến các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng như: giữa Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm với Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm
(trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lý do kháng cáo quá hạn...);
giữa VKSND cấp sơ thẩm và VKSND cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản
12
án, quyết định sơ thẩm); Và mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm với
VKSND cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án...
1.1.2. Khái niệm phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Điều 345 BLHS Việt Nam năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018)
quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, như sau: Tòa án nhân dân cấp phúc
thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu
xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của BA, QĐ không bị KC, KN
[27].
Theo học viên, việc BLTTHS 2015 quy định như trên thì phạm vi xét xử
phúc VAHS, là giới hạn nội dung những vấn đề mà Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm
có thể xem xét, quyết định. Việc quy định phạm vi xét xử phúc VAHS có ý nghĩa
rất quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân cấp sơ thẩm.
Từ quy định trên, có thể thấy, khi tiến hành giai đoạn thụ lý xét xử phúc thẩm
VAHS, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm cần phải xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị trước, nếu thấy cần thiết thì mới xem xét đến phần không bị kháng cáo,
kháng nghị. Tuy nhiên, việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị của Tòa án
cấp phúc thẩm không bị hạn chế bởi việc quyết định theo hướng có lợi cho người bị
kháng cáo (chấp nhận kháng cáo) hoặc theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát
(chấp nhận kháng nghị) mà có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS
về tội nhẹ hơn, giảm bồi thường, miễn hình phạt…, thậm chí tuyên bố bị cáo không
phạm tội hoặc cũng có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS về tội
nặng hơn, tăng mức bồi thường…, nếu có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó.
Nhưng Bộ luật tố tụng hình sự lại chưa quy định thế nào là trường hợp “cần thiết”
cho nên có thể vận dụng hướng dẫn tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số
01/TTLN ngày 08 tháng 12 năm 1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự:
Trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị KC, KN có điểm cần được
giảm nhẹ TNHS cho bị cáo [38]
13
Mặc dù, được xem xét hầu như toàn bộ nội dung VAHS nhưng khi quyết
định thì HĐXX phúc thẩm VAHS chỉ được quyết định theo hướng không làm xấu
đi tình trạng của người kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng
xấu đi đó. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm chỉ xem xét những phần bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
hình sự quy định. Riêng các phần không bị KC, KN thì, TAPT chỉ xem xét đối với
những nội dung có thể dẫn đến việc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Còn việc BTTH thì
TAPT không được xem xét nếu không có KC, KN mặc dù có cơ sở để giảm mức
BTTH. Bên cạnh đó thì Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm cũng được quyền xem xét
về phần thủ tục tố tụng trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
ngay cả khi không có KC, KN.
Tóm lại PVXXPT - VAHS rất quan trọng vì chúng là cơ sở để HĐXX phúc
thẩm VAHS giải quyết các nội dung liên quan đến VAHS. Theo một cách tổng quát
thì PVXXPT - VAHS sẽ chỉ bị giới hạn bởi quy định của PL tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, tại phiên xét xử phúc thẩm VAHS, khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm mới, HĐXX phúc thẩm có quyền ra quyết định khởi tố
vụ án, hoặc ra các quyết định xử lý hành chính như cảnh cáo, phạt tiền đối với
những người vi phạm trật tự phiên tòa.
1.1.3. Mối quan hệ giữa phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền xét xử
của Tòa án cấp phúc thẩm
Như đã biết thì: Thẩm quyền xét xử của TAND là tổng hợp các quyền theo
quy định của PL để TAND giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc
xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của NN. Nên có thể hiểu việc pháp
luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền xét xử phúc thẩm chính là sự thể hiện
của việc Tòa án cấp phúc thẩm dùng các quyền được pháp luật quy định để áp dụng
khi thụ lý giải quyết một VAHS ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Nói như vậy để thấy
rằng, giữa phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS và thẩm quyền xét xử phúc thẩm
VAHS có mối quan hệ biện chứng qua lại chính là việc xác định giới hạn của việc
xét xử phúc thẩm một VAHS, cụ thể như sau:
14
Theo quy định của pháp luật về TTHS thì, thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp phúc thẩm sẽ được chia thành hai mặt, đó là: Thẩm quyền về mặt nội dung và
thẩm quyền về mặt hình thức, trong đó:
Thẩm quyền về mặt hình thức (hay còn gọi là thẩm quyền xem xét) là việc:
TAPT xác định các VAHS, các BA, QĐ của TAST nào thuộc thẩm quyền xem xét
của TAPT và giới hạn, phạm vi, mức độ xem xét của TAPT đối với VAHS đó. Tóm
lại thẩm quyền về mặt hình thức xác định TAPT có quyền xem xét cái gì, ở mức độ,
giới hạn nào;
Còn thẩm quyền về nội dung là việc: Xác định các quyền của Tòa án nhân
dân cấp phúc thẩm trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm nhưng bị xem xét và xét xử lại ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Từ những phân tích nêu trên, học viên nhận thấy: Thẩm quyền về hình thức
của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm bao gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm và
phạm vi xét xử phúc thẩm; Còn thẩm quyền về nội dung (hay còn gọi là thẩm quyền
quyết định) của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm là việc thể hiện ở các quyền hạn
của Tòa án phúc thẩm khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các VAHS bị kháng cáo
hoặc kháng nghị.
Có thể thấy, phạm vi xét xử (thẩm quyền về hình thức) và quyền hạn của Toà
án cấp phúc thẩm (thẩm quyền nội dung) có quan hệ qua lại biện chứng. Về phạm
vi xét xử, Toà án cấp phúc thẩm không chỉ xem xét phần bản án bị kháng cáo,
kháng nghị, mà còn có thể xem xét toàn bộ vụ án. Tuy nhiên, về thẩm quyền nội
dung thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có quyền:
a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định
sơ thẩm;
b) Sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo (kể cả có
kháng cáo hay không có kháng cáo);
c) Sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng tăng nặng đối với bị cáo nếu
có kháng cáo của bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát theo hướng đó;
15
d) Sửa quyết định bồi thường dân sự nếu có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề
đó...
Việc quy định hạn chế thẩm quyền quyết định nêu trên là bảo đảm quan
trọng quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng, nhất là đối với bị cáo.
1.1.4. Ý nghĩa của phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
1.1.4.1. Về mặt chính trị - xã hội
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng,
trong đó có quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS là góp phần vào việc thực
hiện những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, xác định Tòa án có vị trí trung
tâm, xét xử là trọng tâm theo tinh thần Nghị Quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cụ thể như sau: Đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của chủ thể tiến
hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ,
văn minh ... [3].
Theo đó, phải đổi mới toàn bộ hệ thống Tòa án nhân dân cũng như hoạt động
thực tiễn và đội ngũ cán bộ, công chức của ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các
ngành tư pháp nói chung, trong đó có các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm
VAHS, nhằm đạt được kết quả cuối cùng là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
nói chung và của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm luôn đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS thể hiện rõ sự phân định
nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với mỗi cấp xét xử đã được quy định trong
BLTTHS qua các thời kỳ (mới nhất là Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015). Việc
quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS đã đảm bảo cho bị cáo, người bị hại
và những người có quyền lời, nghĩa vụ liên quan đến VAHS bị xét xử ở cấp sơ thẩm
có quyền kháng cáo lên cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm thì những người
này vẫn còn nguyên quyền bào chữa, quyền đưa ra tài liệu chứng cứ, tạo điều kiện
được tranh tụng bình đẳng giữa người bị cáo, người bào chữa và với những người
tham gia tố tụng khác; còn VKSND được quyền bảo vệ nội dung kháng nghị. Tóm
16
lại, với việc quy định về PVXXPT - VAHS chính là cơ sở đảm bảo cho TAND xét
xử đúng người, đúng tội, đúng PL, góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân
đối với các cơ quan tư pháp, với Đảng và NN trong gian đoạn hiện nay.
1.1.4.2. Về mặt xây dựng pháp luật tố tụng hình sự
Việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, đảm bảo cho hoạt động
tố tụng hình sự được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Giai đoạn
XXPT-VAHS nối tiếp giai đoạn XXST-VAHS. Tòa án cấp trên (cấp phúc thẩm) chỉ
được xét xử phúc thẩm VAHS khi bản án, quyết định trong VAHS của Tòa án nhân
dân cấp sơ thẩm bị bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
kháng cáo hợp pháp hoặc bị VKSND cùng cấp (hoặc cấp trên) kháng nghị hợp
pháp.
Phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS còn định hướng cho hoạt động tố tụng của
các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với HĐXX
phúc thẩm VAHS trong việc thực hiện các quyền hạn của mình trong việc xem xét
và quyết định các vấn đề trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp sở thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc cả các nội dung khác không bị kháng cáo, kháng
nghị. Từ đó, các chủ thể tham gia vào quá trình xét xử phúc thẩm VAHS, nhất là
đối với các thành viên trong HĐXX phúc thẩm VAHS có điều kiện thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình một cách triệt để, hiệu quả hơn, hạn chế hoặc ngăn
chặn được sự tùy tiện cũng như lạm quyền của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cũng có
thể là Luật sư (người bào chữa cho các đương sự) trong việc xét xử phúc thẩm
VAHS và tham gia xét xử phúc thẩm VAHS. Qua đó đảm bảo cho bản án, quyết
định của HĐXX phúc thẩm VAHS luôn phù hợp với sự thật khách quan của VAHS
và các quy định của pháp luật.
Từ thực tiễn quy định tại Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015 (chính thức có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018) và từ những quy định khác của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, học viên thấy rất dễ dàng nhận
thấy thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm và nhận thức được Tòa án cấp
17
nào thì được xét xử phúc thẩm VAHS của các Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm, vì với
nội dung quy định tại Điều 345 BLTTHS 2015, TAPT xem xét phần nội dung của
BA, QĐ bị KC, KN. Khi xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của BA,
QĐ không bị KC, KN, thì:
Về thẩm quyền, TANDCT có thẩm quyền XXPT các BA, QĐ của TAND
cấp huyện trực thuộc bị KC, KN.
TANDCC có thẩm quyền XXPT BA, QĐ của TANDCT thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị KC, KN…
1.1.4.3. Về mặt thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS là quy định về giới hạn quá trình
xét xử lại VAHS có kháng cáo, kháng nghị, TAPT kiểm tra tính hợp pháp, tính có
căn cứ của bản án nhằm phát hiện có hay không những sai lầm, những vi phạm PL
trong quá trình giải quyết VAHS ở TAST, nếu có thì khắc phục và sửa chữa những
sai lầm, thiếu sót đó trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Tóm lại, bằng nhiệm vụ và thẩm quyền của mình TAPT ngăn chặn việc đưa
ra thi hành các BA, QĐ có vi phạm PL, góp phần bảo vệ lợi ích của NN, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thứ 2, XXPT là một trong những quy định thể hiện rõ bản chất dân chủ và
tiến bộ của BTTHS Việt Nam. Quy định này buộc các TAND sơ thẩm phải thận
trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và có căn cứ khi ra
BA, QĐ về VAHS. Nó không cho phép chủ thể đã KC, VKSND đã KN được bổ
sung, thay đổi KC theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo; không cho phép
TAPT sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu
không có KC của người bị hại hoặc KN của VKSND theo hướng đó.
Thứ 3, khi có KC, KN đối với BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực PL, TAPT
đưa vụ án ra XXPT trong thời hạn luật định. Cho nên XXPT còn là một trong các
phương tiện hữu ích để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của NN, của xã hội,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của các chủ thể tham gia
giai đoạn XXST.
18
Thứ 4, thông qua việc thực hiện chức năng giám đốc việc xét xử, TAPT
hướng dẫn TAND cấp dưới giải thích và vận dụng đúng đắn PL. Các Bản án phúc
thẩm là một hình thức mẫu để TAND cấp dưới học tập, rút kinh nghiệm cho việc
xét xử. Do đó XXPT có ý nghĩa trong việc bảo đảm ADPL đúng quy định.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự từ năm 1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015
Sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 33C
thành lập các Tòa án quân sự. Đây cũng là dấu hiệu phá bỏ hoàn toàn bộ máy tư
pháp của chế độ thực dân, phong kiến. Về mặt lập pháp, do những ngày đầu chính
quyền dân chủ nhân dân chưa kịp ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có
pháp luật về tố tụng, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra Sắc lệnh số 47 về tạm thời giữ nguyên các luật lệ hiện
hành của chế độ cũ nếu không trái với chính thể mới và không phương hại đến nền
độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó Chương IV và Chương V
Sắc lệnh có các quy định liên quan đến pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Ít lâu
sau, Sắc lệnh số 13 ngày 21/4/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán
được ban hành. Đây là văn bản pháp lý hoàn chỉnh nhất trong thời kỳ đầu của chính
quyền dân chủ nhân dân về tổ chức và hoạt động của Tòa án. Hệ thống Tòa án lúc
này gồm có Toà thượng thẩm, Toà đệ nhị cấp và Toà sơ cấp. Toà thượng thẩm đặt
tại 3 kỳ (Hà Nội, Huế, Sài Gòn) và làm nhiệm vụ xét xử phúc thẩm hình sự.
Tại HP 1946 đã ghi rõ ngành Tòa án của nước ta thời điểm đó gồm 4 cấp là:
Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Ngoài Tòa
án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp cũng có quyền xét xử phúc thẩm đối với quyết
định bản án của Tòa án sơ cấp. Năm 1950, cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất diễn
ra theo Sắc lệnh số 85-SL của Chủ tịch nước. Tòa án sơ cấp đổi thành Tòa án nhân
dân cấp huyện, Tòa án đệ nhị cấp đổi thành Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng
19
phúc án đổi thành Toà phúc thẩm.
Như vậy, mặc dù chưa được pháp luật quy định trực tiếp như hiện nay,
nhưng qua cách thức quy định tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp có thể thấy
nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử và phạm vi xét xử phúc thẩm hình sự đã
được ghi nhận trong thể chế tư pháp của Nhà nước dân chủ nhân dân từ những ngày
đầu tiên khi Việt Nam độc lập.
Theo Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, hệ
thống Tòa án ở Việt Nam bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, các Tòa án quân sự. Ngoài ra còn có Tòa án của
hai khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc, và khi cần có thể lập Tòa án đặc biệt. Nguyên
tắc hai cấp xét xử được ghi nhận chính thức và trực tiếp trong Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 1960 (nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Sắc luật số
01/SL/76 năm 1976 về hệ thống Tòa án của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng
hoà miền Nam Việt Nam). Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất về mặt nhà nước và pháp luật, Hiến pháp năm 1980 được ban hành. Luật Tổ
chức TAND 1981 không quy định nguyên tắc hai cấp xét xử của TAND. Tiếp đó,
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 cũng không quy định nguyên tắc này.
Năm 1988, BLTTHS đầu tiên được ban hành, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1990, 1992 và 2000, tuy không ghi nhận nguyên tắc hai cấp xét xử nhưng đã
quy định tương đối toàn diện các quy định về phạm vi phúc thẩm hình sự, từ định
nghĩa khái niệm đến kháng cáo, kháng nghị, từ thẩm quyền xét xử đến các quy định
cụ thể tại phiên toà cũng như nhiều vấn đề khác có liên quan. Việc không quy định
trực tiếp nguyên tắc hai cấp xét xử đã gây ra những tranh luận không cần thiết trong
một khoảng thời gian dài trong giới nghiên cứu cũng như trong thực tiễn, và chỉ
được giải quyết dứt điểm khi có Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Tuy nhiên,
trên thực tế căn cứ vào các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân, có thể thấy rằng tuy pháp luật không quy định trực tiếp, nhưng tinh
thần và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử, thủ tục xét xử phúc thẩm vẫn được
thể hiện qua các quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động của TAND.
20
Thực tiễn thực hiện thủ tục phúc thẩm hình sự theo BLTTHS 1988 cho thấy
đã có nhiều vướng mắc và bất hợp lý cần khắc phục như thời hạn xét xử bị chậm,
xác định sai chủ thể có quyền KC hoặc xác định sai nội dung KC, KN; thực hiện
không đúng PVXXPT; thực hiện không đúng và không đầy đủ các quy định về thủ
tục tố tụng tại phiên toà; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng...
Đối với tính chất của phúc thẩm trong TTHS, trước đây có nhiều ý kiến khác
nhau. Tuy nhiên kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự 2003 có hiệu lực thi hành đã thể
hiện rõ XXPT là 1 cấp xét xử tức là thừa nhận nguyên tắc 2 cấp xét xử (lưỡng cấp
tài phán). Những người làm luật cho rằng việc xét xử lại các VAHS có KC, KN sẽ
hạn chế và khắc phục được những sai sót trong xét xử của TAST buộc chính các
TAND cấp trên phải thận trọng hơn.
Trong đó tại Điều 241 BLTTHS 2003, quy định về PVXXPT – VAHS thì:
TAPT xem xét nội dung KC, KN. Khi thấy cần thiết thì TAPT có thể xem xét phần
khác không bị KC, KN của BA, QĐ sơ thẩm.
Như vậy, theo BLTTHS 2003, về nguyên tắc, Tòa án nhân dân cấp phúc
thẩm chỉ xét xử lại VAHS trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Những
nội dung còn lại của BA, QĐ sơ thẩm không bị KC, KN sẽ có hiệu lực PL ngay khi
hết hạn KC, KN. Nhưng khi XXPT nếu thấy cần thiết TAPT được quyền xem xét cả
những phần khác của BA, QĐ sơ thẩm không bị KC, KN. Tuy nhiên nếu chủ thể
tham gia TTHS rút toàn bộ KC, KN tại phiên toà thì việc XXPT phải được đình chỉ.
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về phạm vi xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự
Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa 13 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thay thế cho Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong đó tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự quy
định về PVXXPT, TAPT xem xét nội dung KC, KN. Khi thấy cần thiết thì TAPT
có thể xem xét phần khác không bị KC, KN của BA, QĐ sơ thẩm.
Như vậy theo quy định của BLTTHS 2015 thì phạm vi xét xử phúc thẩm của
Tòa án cấp phúc thẩm phụ thuộc vào phạm vi kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp.
21
Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ
án được khách quan, toàn diện thì TAPT có thể xem xét các phần khác của bản án,
quyết định không bị KC, KN.
Song song với việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS thì
BLTTHS 2015 cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của TAPT như sau:
1.2.2.1. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có nhiệm vụ và quyền hạn trong
việc xem xét đối với kháng cáo quá hạn
Điều 333 BLTTHS 2015 quy định thời hạn kháng cáo đối với bản án hình sự
sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; còn thời hạn kháng cáo đối với quyết định
sơ thẩm hình sự là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết
định. Như vậy, về nguyên tắc thì đối với những kháng cáo thực hiện ngoài thời hạn
luật định được gọi là kháng cáo quá hạn sẽ không được chấp nhận. Nhưng để đảm
bảo tính ổn định của BA, QĐ sơ thẩm, nếu có lý do chính đáng thì TAPT vẫn có thể
xem xét chấp nhận KC quá hạn đó nhằm bảo đảm quyền lợi của người KC, vì lý do
của việc KC quá hạn đó không phải do lỗi của họ. Các lý do đó có thể là do thiên
tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị,… khiến cho các chủ thể tham
gia giai đoạn XXST dù muốn cũng không thể KC trong thời hạn quy định được
(Điều 345 BLTTHS 2015 quy định về Kháng cáo quá hạn). Việc xét lý do KC quá
hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, không phụ thuộc vào
việc ngoài BC, đương sự KC quá hạn, trong VAHS còn có KC của các bị cáo hoặc
đương sự khác trong thời hạn quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 [27].
Còn về kháng nghị của VKSND, Điều 337 BLTTHS 2015 quy định: Thời
hạn kháng nghị của VKSND cùng cấp đối với bản án của Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm là 15 ngày, của VKSND cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày Tòa án cấp
sơ thẩm tuyên án; Thời hạn kháng nghị của VKSND cùng cấp đối với quyết định
của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKSND cấp trên trực tiếp là 15
ngày, kể từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định. Riêng đối với trách nhiệm thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, thì kháng nghị của VKSND quá hạn với bất
22
kỳ lý do gì cũng không được xem xét (Luật tố tụng không quy định về kháng nghị
quá hạn giống như Điều 335 BLTTHS 2015 quy định về kháng cáo quá hạn) [27].
Vậy nên, kháng nghị quá hạn sẽ không làm phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm,
cũng đồng nghĩa với việc không làm phát sinh phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS.
1.2.2.2. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền xem xét đối với quyết định
của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
Tại Điều 361 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã ghi rõ:
1. Hội đồng phúc thẩm có quyền:
a) Không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên quyết định của TAST khi xét
thấy các quyết định của TAST có căn cứ và đúng PLt;
b) Sửa quyết định của TAST;
c) Hủy quyết định của TAST và chuyển hồ sơ VAHS cho TAST sơ thẩm để
tiếp tục giải quyết VAHS;
2. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định”
[27].
1.2.2.3. Quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án của Toà án cấp
sơ thẩm
Tại Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ghi rõ:
1…
a) Không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
b) Sửa bản án sơ thẩm;
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ VAHS để điều tra lại hoặc xét xử lại;
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;
đ) Đình chỉ việc XXPT.
2. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án” [27].
Theo quy định nêu trên tại các Điều 355 và Điều 361 BLHS 2015, học viên
nhận thấy phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS đối với bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm sẽ là việc tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm
sẽ xem xét và đưa ra các quyết định gồm:
23
Một là, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng
có lợi cho bị cáo.
Khoản 1 Điều 357 BLTTHS 2015 quy định:
“Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất,
mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng
hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.” [27]
Tóm lại, khi có căn cứ xác định BA, QĐ sơ thẩm đã tuyên không đúng với
tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết
mới thì Hội đồng XXPT mới có quyền được sửa BA, QĐ sơ thẩm. Việc sửa BA,
QĐ trong trường hợp này thường theo hướng có lợi cho bị cáo. Cụ thể như sau:
- Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố là
có tội và áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt, nếu có căn cứ “do chuyển biến
của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa”;
- Miễn hình phạt cho bị cáo, nếu có căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 59 BLHS 2015 ghi rõ: Phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 54 BLHS 2015, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến
mức được miễn TNHS;
- Áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn hoặc khung hình phạt nhẹ hơn
đối với bị cáo. Trong trường hợp áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn,
Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm nhẹ hình phạt hoặc không giảm hình phạt cho bị
cáo;
24
- Giảm hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung, hủy một trong các loại hình
phạt mà TAST đã áp dụng đối với bị cáo;
- Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (từ hình phạt tù sang
CTKGG hoặc phạt tiền, cảnh cáo); giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án
treo;
- TAPT chỉ xem xét phần dân sự của BA, QĐ sơ thẩm khi có KC, KN đối
với phần đó. Nếu thấy mức BTTH mà TAST quyết định cao hơn mức thiệt hại thực
tế do tội phạm gây ra, thì TAPT có thể giảm mức BTTH đối với bị cáo hoặc bị đơn
dân sự.
Nếu VAHS có nhiều bị cáo, qua việc XXPT – VAHS, khi có căn cứ thì
TAPT có quyền sửa bản án sơ thẩm: áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn;
giảm mức hình phạt hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn; giảm mức
BTTH, cho hưởng án treo hoặc giảm thời gian thử thách của án treo... đối với cả
những người không có KC, KN. Trường hợp này được ghi rõ tại khoản 3 Điều 357
BLTTHS 2015: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng XXPT có thể sửa bản án sơ thẩm
theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không KC hoặc không bị KC,
KN” [27].
Hai là, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa BA, QĐ thẩm theo hướng
tăng nặng đối với bị cáo.
Khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 quy định:
“Trường hợp VKS kháng nghị hoặc bị hại KC yêu cầu thì Hội đồng XXPT có
thể:
a) Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn; áp dụng
hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
b) Tăng mức BTTH;
c) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
d) Không cho bị cáo hưởng án treo” [27].
Theo đó, TAPT chỉ có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng đối
với bị cáo trong trường hợp VKS - KN hoặc người bị hại KC theo hướng đó. Nếu
25
VKS - KN hoặc người bị hại KC yêu cầu tăng hình phạt mà không yêu cầu áp dụng
điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn đối với bị cáo, thì TAPT chỉ có
quyền tăng mức hình phạt trong khung hình phạt mà TAST đã áp dụng đối với bị
cáo mà không có quyền áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và
chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn.
Tuy nhiên, nếu có căn cứ thì HĐXX vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều,
khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức BTTH.
Ba là, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để
điều tra lại.
Khoản 1, Điều 358, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
“Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các
trường hợp:
a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để
khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;
b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ
sung được;
c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố”
[27].
Tóm lại TAPT sẽ được quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi việc
điểu tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
Việc điều tra ở cấp sơ thẩm bao gồm cả việc điều tra ở giai đoạn điều tra, giai
đoạn truy tố và khi XXST. Việc điều tra bị coi là không đầy đủ nếu CQĐT, VKS và
TAST không làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với VAHS …,
và TAST cũng sẽ được quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp
nếu VKS cấp phúc thẩm không thể ĐTBS được và khi XXPT cũng không thể làm
sáng tỏ được. Nếu việc điều tra ở cấp sơ thẩm tuy là không đầy đủ, nhưng có thể
ĐTBS được ở cấp phúc thẩm, thì TAPT không hủy bản án sơ thẩm mà yêu cầu
VKS cấp phúc thẩm ĐTBS hoặc tự mình yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
26
cung cấp thêm những nguồn chứng cứ khác.
Trong trường hợp cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi
tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm, hay có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố thì HĐXX cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, vì trong trường hợp này, bản án có thể
phản ánh không đầy đủ hoặc sai lệch so với sự việc đã diễn ra, các phán quyết của
tòa sơ thẩm không hợp lý.
Bốn là, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm
để xét xử lại.
Khi rơi vào các trường hợp đã được quy định tại khoản 2 Điều 358 BLTTHS
2015 thì HĐXX cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Cụ thể:
“Hội đồng XXPT hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành
phần HĐXX mới trong các trường hợp:
a) Hội đồng XXST không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;
c) Người được TAST tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó
đã phạm tội;
d) Miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị
cáo không có căn cứ;
đ) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc ADPL nhưng không
thuộc trường hợp Hội đồng XXPT sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ
luật này” [27].
Như vậy, HĐXX sơ thẩm phải đúng theo sự quy định của pháp luật. Tại Điều
254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi rõ: “Hội đồng XXST gồm 1 TP và 2
HTND. Trường hợp VAHS có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng XXST
có thể gồm 2 TP và 3 Hội thẩm. Đối với VAHS có bị cáo về tội mà BLHS quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng XXST
thẩm gồm 2 TP và 3 HTND [27]. Như vậy, khi rơi vào trường hợp thành phần của
HĐXX cấp sơ thẩm không đúng thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét
27
xử lại.
- Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định có thể là một những
trường hợp sau:
+ HĐXX không đủ 05 thành viên khi xét xử bị cáo về tội theo khung hình
phạt có mức cao nhất là tử hình;
+ Trong thành phần HĐXX không có HTND là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn
thanh niên khi xét xử bị cáo là NCTN;
+ TP hoặc HTND hết nhiệm kỳ nhưng chưa được tái bổ nhiệm;
+ Người không được bầu là HTND tham gia Hội đồng xét xử - VAHS;
+ Thành viên của HĐXX không phải là TP hoặc HTND của TAST.
- Vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể là một trong những
trường hợp sau đây:
+ Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án không đúng thẩm quyền (như Tòa án cấp
huyện xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử cùa Tòa án cấp tỉnh; Tòa án nhân dân
xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự...);
+ Vi phạm nghiêm trọng quyền bào chữa của bị cáo như TAST không yêu
cầu Đoàn luật sư cử NBC cho bị cáo là NCTN hoặc là người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất; bị cáo bị xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất quy định đến
tử hình...
+ Xử vắng mặt bị cáo hoặc NBC cho bị cáo trong những trường hợp pháp
luật không cho phép...
- Có căn cứ cho rằng bị cáo (được TAST tuyên bố không có tội) đã phạm tội,
nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Bị cáo phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm xác định bị cáo phòng vệ chính đáng;
+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
nên đã xác định hành vi của bị cáo đã quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
nên bị cáo không có tội;
+ TTAST đã tính nhầm thời hạn xóa án tích hoặc thời hạn bị xử phạt hành
28
chính nên cho rằng hành vi của bị cáo không đủ yếu tố CTTP.
Ngoài ra, trong hai trường hợp bao gồm: miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ hoặc bản
án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không
thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của
BLTTHS 2015 thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ
thẩm với thành phần HĐXX mới.
1.3. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét xử phúc thẩm
1.3.1. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng
hình sự Liên bang Nga
Bộ luật tố tụng hình sự Nga năm 2001, quy định phạm vi KC, KN phúc
thẩm và PVXXPT được xác định lại với những thay đổi rất cơ bản. Về bản chất, khi
XXPT, TAPT chỉ giải quyết VAHS trong phần bị KC, KN và chỉ đối với những
người bị kết án đề cập trong KC, KN (Điều 360).
So với Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015, thì luật tố tụng hình sự nước ta
tuy xét về bản chất thì phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS cũng vẫn là bản án, quyết
định sơ thẩm VAHS bị kháng cáo, kháng nghị nhưng trong khi BLTTHS của nước
Nga quy định rõ là việc chỉ giải quyết vụ án trong phần bị kháng cáo, kháng nghị và
chỉ đối với những người bị kết án đề cập trong kháng cáo, kháng nghị. Thì
BLTTHS Việt Nam lại quy định nếu xét thấy có căn cứ thì Tòa án cấp phúc thẩm
vẫn có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng
nghị [27].
Ở nước Nga, thì nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong XXPT
phải được tuân thủ một cách tối đa trong mọi trường hợp để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo. Chỉ có TAST mới có thẩm quyền ra bản án để kết tội bị
cáo; xác định bị cáo phạm một tội khác nặng hơn hay áp dụng hình phạt nặng hơn
cũng như xác định hay bác bỏ các tình tiết mới, các chứng cứ mới về vụ án. Vì vậy,
các quy định PL của Nga hạn chế các quyền hạn của TAPT trong việc sửa hoặc hủy
bản án sơ thẩm mà chúng có thể làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, đồng thời không
29
hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho họ, nếu có căn cứ.
Ngoài ra khi XXPT, TAPT có thể giảm nhẹ hình phạt mà án sơ thẩm đã
quyết định đối với bị cáo hoặc áp dụng luật về tội nhẹ hơn nhưng không được tăng
nặng hình phạt hoặc ADPL về tội nặng hơn. Bản án sơ thẩm chỉ có thể bị hủy vì lý
do cần áp dụng luật về tội nặng hơn hoặc vì hình phạt nhẹ trong trường hợp có
kháng nghị của Viện Công tố hoặc kháng cáo của người bị hại yêu cầu (Điều 383).
TAPT chỉ có thể hủy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo vô tội trong trường hợp có KN
của Viện Công tố hoặc KC của người bị hại hay KC của người được tuyên vô tội
(Điều 385). Nếu TAST áp dụng không đúng BLHS hoặc hình phạt không tương
xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm và nhân thân người bị kết án, TAPT có
thể sửa bản án theo quy định tại Điều 387 Bộ luật này nhưng không được sửa hình
phạt nặng hơn cũng như ADPL về tội nặng hơn. Ngoài ra, Bộ luật này còn quy định
rất cụ thể các căn cứ mà theo đó TAPT sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm (các Điều 379
- 383).
1.3.2. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Bộ luật
tụng hình sự nước Cộng hòa Pháp
Bộ luật tố tụng hình sự nước Pháp, xác định PVXXPT dựa vào tư cách KC,
KN khi XXPT có thẩm quyền:
1) Bác KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2) Sửa bản án sơ thẩm;
3) Hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại vụ án;
4) Hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Cũng giống BLTTHS của nước ta và một số nước khác, luật tố tụng hình sự
của nước Pháp đã áp dụng triệt để nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị
cáo. Theo quy định của Bộ luật này, TAPT có quyền trực tiếp sửa bản án theo hướng
làm xấu hơn tình trạng của bị cáo: “Nếu có KN của Viện công tố, thì TAPT giữ
nguyên hoặc sửa toàn bộ hay một phần bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc không
có lợi cho bị cáo. Nếu chỉ có KC của của bị cáo hoặc đương sự, thì Tòa án không thể
quyết định theo hướng tăng nặng hình phạt đối với người KC” (Điều 515).
30
Khi xét thấy hành vi của bị cáo không cấu thành trọng tội, không tội, tội vi
cảnh, hoặc sự việc không xác định được hoặc không thể quy sự việc được cho bị
cáo thì tuyên bố đình chỉ việc truy tố đối với bị cáo (Điều 516). Trường hợp nếu bị
cáo được miễn hình phạt theo quy định của PL, thì TAPT sửa án sơ thẩm và miễn
hình phạt cho các bị cáo (Điều 514).
Nếu sự việc chỉ cấu thành tội vi cảnh, thì TAPT hủy bản án sơ thẩm tuyên
hình phạt và quyết định về việc bồi thường, nếu có yêu cầu (Điều 518).
Nếu sự việc mang tính chất một trọng tội thì hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố vô
thẩm quyền và ra quyết định yêu cầu Viện công tố đưa vụ việc ra trước Tòa án có
thẩm quyền xét xử (Điều 519).
Nếu thấy cấp dưới vi phạm hoặc bỏ qua các hình thức mà PL quy định thì
hủy bản án sơ thẩm và TAPT có quyền xét xử và ra quyết định về nội dung (Điều
520).
1.3.3. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật
tố tụng của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật tố tụng hình sự của Trung Quốc, quy định về thẩm quyền xem xét
của TAPT rất rộng, TAPT có quyền xem xét toàn bộ vụ án không phụ thuộc vào
giới hạn và phạm vi KC, KN.
Điều 186 của Bộ luật tố tụng tố tụng hình sư Trung Quốc quy định: “TAPT
phải tiến hành xem xét toàn diện các tình tiết và áp dụng PL trong bản án sơ thẩm
và không được giới hạn phạm vi KC, KN. Nếu chỉ có một số bị cáo trong VAHS
đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn bộ VAHS”. Khi xét xử phúc
thẩm, thì HĐXX phúc thẩm có các quyền quyết định những vấn đề như sau:
“TAPT có thể quyết định bác KC, KN hoặc huỷ bỏ hoặc sửa đổi quyết định
sơ thẩm theo các quy định của Điều 189, 190 hoặc 192 của Luật này” (Điều 193).
Tùy từng trường hợp cụ thể mà TAPT có thể quyết định các vấn đề như sau:
- Nếu phán quyết ban đầu là đúng trong việc quyết định các tình tiết và áp
dụng PL và phù hợp với hình phạt, Toà án phải bác KC, KN và giữ nguyên bản án
ban đầu;
31
- Nếu phán quyết ban đầu không có sai xót trong việc xác định các tình tiết
nhưng áp dụng pháp luật không chính xác hoặc hình phạt không phù hợp, Toà án
phải sửa bản án.
- Nếu những tình tiết trong phán quyết ban đầu không rõ ràng hoặc chứng cứ
không đầy đủ, Toà án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ sự việc, hoặc có thể
huỷ bản án ban đầu và trả lại vụ án cho Toà án đã XXST để xét xử lại (Điều 189).
Trường hợp HĐXX hủy bản án sơ thẩm và trả vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử
lại chỉ khi có căn cứ cho rằng TAST đã vi phạm trình tự tố tụng quy định trong luật,
cụ thể:
- Vi phạm những quy định của Luật này liên quan đến việc xét xử công khai;
- Vi phạm các quy định về rút truy tố;
- Tước bỏ các quyền hợp pháp của các bên đương sự được quy định trong
Luật hoặc hạn chế những quyền này mà có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của
việc xét xử;
- Thành lập HĐXX không đúng theo quy định của pháp luật; hoặc có những
vi phạm thủ tục tố tụng khác do pháp luật quy định có thể ảnh hưởng đến tính khách
quan của việc xét xử (Điều 191).
Như vậy, nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét
xử phúc thẩm cho thấy: so với BLTTHS Việt Nam 2015 và một số BLTTHS của
nước Pháp, nước Nga thì BLTTHS nước Trung Hoa cũng áp dụng triệt để nguyên
tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo khi xét xử phúc thẩm bằng việc quy
định “Khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc của người đại diện theo
pháp luật, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích của họ, Toà án cấp phúc thẩm
có thể không tăng hình phạt đối với bị cáo. Những hạn chế quy định tại khoản trên
sẽ không được áp dụng đối với những vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân hoặc kháng cáo của tư tố viên” (Điều 190). Và cũng với việc luật tố tụng hình
sự Trung Hoa quy định: Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét toàn bộ vụ án
không phụ thuộc vào giới hạn và phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Học viên nhận
thấy phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS theo pháp luật tố tụng hình sự nước Trung
32
Hoa là rộng lớn nhất trong số các luật tố tụng hình sự của các nước như học viên đã
trình bày và phân tích ở trong luận văn này (Việt Nam, Nga, Pháp).
Tiểu kết Chương 1
Để làm rõ cơ sở lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, Chương 1 của
luận văn, học viên đã tìm hiểu, phân tích nội dung một số khái niệm liên quan: Khái
niệm xét xử phúc thẩm VAHS; khái niệm phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS; Cũng
như việc làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của phạm vi xét xử phúc thẩm
VAHS; đưa ra được những so sánh đánh giá mức độ tương đương và những điểm
khác biệt về quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của tố tụng hình sự Việt
Nam với luật tố tụng hình sự của một số nước như Nga, Pháp, Trung Quốc.
Chương 1 của Luận văn, học viên cũng đã nêu và phân tích được quá trình
hình thành và phát triển các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của luật
tố tụng hình sự Việt Nam qua các thường kỳ. Đó chính là tiền đề lý luận cho việc
nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn ở Chương 2 của Luận văn.
33
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (hay còn gọi là Tòa án nhân dân cấp
cao 2) là một trong 03 Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam, có thẩm quyền theo
lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam gồm:
Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên - Huế, tỉnh
Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh
Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk.
TANDCC 2 thành lập trên cơ sở Tòa phúc thẩm TANDTC cao tại Đà Nẵng,
chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-6-2015, tính đến ngày 30/11/2019, Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có 79 cán bộ, công chức và người lao động, gồm: 23
Thẩm phán cao cấp, 01 Thẩm tra viên chính, 07 Thẩm tra viên, 29 Thư ký Tòa án,
02 chuyên viên chính, 04 chuyên viên và 13 người lao động theo diện Hợp đồng 68.
Ủy ban Thẩm phán gồm 12 Thẩm phán cao cấp. Lãnh đạo cơ quan gồm: Chánh án
và 02 Phó Chánh án; 05 tòa chuyên trách (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao
động); 02 phòng Giám đốc, kiểm tra; Văn phòng gồm các phòng: Phòng Hành
chính tư pháp; phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng; phòng Kế
toán - Quản trị; phòng Lưu trữ hồ sơ [33].
34
2.2. Kết quả thụ lý giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ 2015 - 2019
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019
Bảng 2.1. Thống kê tổng số thụ lý, giải quyết xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019
Tổng số thụ lý Đã xét xử Ghi Năm chú Vụ Bị cáo Bị cáo Vụ
2015 393 692 355 608
2016 328 620 320 605
2017 289 587 271 556
2018 384 730 339 630
2019 436 892 420 832
Cộng tổng 1.830 3.521 1.705 3.231
Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng [33]
Qua bảng số liệu thống kê, học viên thấy số lượng án hình sự được Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thụ lý xét xử phúc thẩm trong 05 năm qua là tương
đối lớn (tổng số thụ lý là 1.830 vụ/3521 bị cáo), tính trung bình mỗi năm 01 thẩm
phán cao cấp tại Tòa án nhân dân cấp cao 2 phải thụ lý tổng số 16 vụ án hình sự
phúc thẩm (tại mục 2.1 của Luận văn thì Tòa nhân dân dân cấp cao tại Đà Nẵng có
23 Thẩm phán cao cấp). Tuy nhiên hàng năm thì số lượng án hình sự được thụ lý,
xét xử phúc thẩm tăng giảm không đồng đều.
Trong đó: Thấp nhất là năm 2017, tổng số vụ án hình sự phúc thẩm do Tòa
án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng thụ lý là 289 vụ/587 bị cáo; Còn cao
nhất là năm 2019, với tổng số thụ lý là 436 vụ/892 bị cáo. Việc tăng giảm số lượng
án hình sự phúc thẩm một phần là những nguyên nhân, lý do khác nhau như việc
năm 2017, Quốc hội Nước ta phải đẩy lùi thời hạn có hiệu lực của các Bộ luật như:
BLHS 2015, BLTTHS 2015 …
Cũng thông qua Bảng 2.1 nêu trên, học viên thấy kết quả xét xử phúc thẩm
35
vụ án hình sự của TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng là tương đối cao, vì tính
bình quân mỗi năm TAND cấp cao 2 thụ lý 366 vụ/704 bị cáo, đã xét xử xử được
341vụ/646 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 93,1% số vụ/91,7% số bị cáo. Về kết quả xét
xử cụ thể học viên sẽ phân tích thông qua Bảng 2.2 của luận văn.
2.2.2. Kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ 2015-2019
Bảng 2.2. Thống kê kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019
Kết quả xét xử
Giảm
Chuyển
Hủy
Tổng
hình
án treo,
để
số bị
Ghi
Tăng
Hủy,
Sửa
Năm
phạt,
RKC,
cải tạo
điều
cáo đã
chú
Y án
hình
đình
dân
miễn
RKN
không
tra,
xét xử
phạt
chỉ
sự
hình
giam
xét
phạt
giữ
xử lại
2015 608 398 15 126 36 16 5 12
2016 605 347 15 93 99 36 15
2017 556 337 13 76 70 29 3 28
2018 630 403 51 91 41 17 4 22
2019 832 557 11 32 54 32 80 66
Cộng 3.231 2.042 105 418 300 130 88 4 143 tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng [33]
Thông qua Bảng 2.2 của luận văn, học viên nhận thấy kết quả xét xử sơ thẩm
VAHS của các Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại 12 Tòa án nhân dân tỉnh và thành phố
trực thuộc Trung ương (Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị,
tỉnh Thừa Thiên - Huế, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú
Yên, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk), đạt tỷ lệ xét xử
đúng quy định pháp luật và mang tính ổn định rất cao. Vì trong tổng số 3.231 bị cáo
được xét xử phúc thẩm VAHS thì số lượng được TAND cấp cao 2 xét xử phúc thẩm
36
phần lớn là y án, với 2042 bị cáo, chiếm 63,2%; sửa án sơ thẩm là 657 bị cáo, chiếm
20,3% (trong đó sửa án sơ thẩm để giảm hoặc miễn hình phạt là 418 bị cáo =
63,6%, Sửa án chuyển từ hình phạt tù sang cho hưởng án treo hoặc cải tạo, không
giam giữ là 130 bị cáo = 19,7%; sửa án tăng nặng hình phạt là 105 bị cáo = 16%,
....); rút kháng cáo, kháng nghị là 300 bị cáo, chiếm 9,3%; hủy án để điều, xét xử tra
lại là 143 bị cáo, chiếm 4,42% và hủy, đình chỉ điều tra là 88 vụ, chiếm 2,72%. Số
liệu trên cho thấy việc XXST của Tòa án cấp dưới đã đáp ứng yêu cầu về chất
lượng, về việc tuân theo quy định của PL về luật nội dung cũng như các quy định về
pháp luật TTHS. Do đó khi xét xử, HĐXX phúc thẩm VAHS tuyên y án là chiếm đa
số các VAHS đưa ra xét xử, chỉ một số là sửa BA, QĐ sơ thẩm, rất ít việc hủy án để
điều tra lại hoặc xét xử lại. Tuy số lượng được hủy, đình chỉ chiếm 2,72% nhưng đó
là do sự chuyển biến của tình hình với việc thực hiện Nghị quyết số 41/2017 ngày
20/6/2017 của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về việc thi
hành BLHS số 100/2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số
12/2017/QH14 và hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật tổ chức
cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số
94/2015/QH13.
Cũng thông qua Bảng số liệu 2.2 của luận văn, học viên nhận thấy số lượng
các bị cáo được HĐXX Tòa án nhân dân cấp cao 2 xét xử theo hướng giảm nhẹ
luôn chiếm số lượng lớn gấp nhiều lần số bị cáo bị tăng nặng: 548 bị cáo được
tuyên giảm (trong đó số bị cáo được giảm hoặc miễn hình phạt là 418; số được
chuyển từ phạt tù sang cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ là 130); còn
số bị cáo bị tăng hình phạt chỉ là 105 bị cáo. Điều đó đồng nghĩa với việc trong 05
năm qua (2015-2019) số lượng các kháng cáo, kháng nghị xin giảm nhẹ cũng nhiều
hơn số lượng kháng cáo, kháng nghị tăng nghị, cụ thể như sau:
37
Bảng 2.3. Thống kê số lượng kháng cáo, kháng nghị, kết quả xét xử phúc thẩm
VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019
Số kháng cáo, kháng Số kháng cáo, kháng Số không có Năm nghị tăng nặng nghị giảm nhẹ kháng cáo, kháng
158 450 nghị nhưng vẫn
được giảm nhẹ 2015 Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ
143 15 308 138 04
134 471
Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2016
119 15 342 124 05
161 395
Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2017
148 13 280 101 03
178 452
Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2018
127 51 344 102 06
109 723
Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2019
98 11 659 62 02
Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ Tổng số
635 105 1943 528 20
Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng [33]
Trước tiên nhìn vào bảng số liệu 2.2 và 2.3 của luận văn, học viên xin giải
thích việc số liệu “y án” không trùng nhau giữa 02 bảng số liệu vì tại bảng số liệu
2.2 học viên nêu lên để phân tích hoạt động thụ lý giải quyết các vụ án hình sự phúc
thẩm tại TAND cấp cao 2; Còn tại bảng số liệu 2.3, mục đích học viên nêu số liệu là
để phân tích và đánh giá kết quả xét xử đối với kháng cáo, kháng nghị tăng nặng và
giảm nhẹ, cụ thể học viên phân tích bảng số liệu 2.3 như sau:
38
Tại bảng 2.3 thể hiện trong tổng số 3.231 bị cáo được thụ lý xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự do có kháng cáo, kháng nghị, số lượng kháng cáo, kháng nghị
tăng nặng là 740 bị cáo = 22,9%; còn kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ là 2491 bị
cáo = 77,12% (tức là số lượng bị cáo kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ luôn gần gấp
5 lần số kháng cáo, kháng nghị tăng nặng). Song song với đó là kết quả xét xử cũng
tỷ lệ thuận theo: Trong số 740 bị cáo kháng cáo, kháng nghị tăng nặng thì HĐXX
chỉ áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
để tăng nặng đối với 105 bị cáo; còn trong 2491 bị cáo kháng cáo, kháng nghị giảm
nhẹ thì HĐXX đã áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự để giảm nhẹ cho 528 bị cáo. Ngoài ra, HĐXX phúc thẩm của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cũng đã tập trung nghiên cứu hồ sơ vụ án, các bản án
sơ thẩm và vận dụng triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các
chính sách pháp luật nhân đạo của Đảng và Nhà nước để giảm nhẹ cho 20 bị cáo
không có kháng cáo, kháng nghị xin giảm nhẹ (nghĩa là 20 bị cáo đã chấp nhận bản
án sơ thẩm).
2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
2.3.1. Những kết quả đạt được
Qua phân tích số liệu tại hai bảng số liệu: Bảng 2.1 và Bảng 2.2 ở mục 2.2
của luận văn, học viên nhận thấy công tác xét xử phúc thẩm VAHS tại TAND cấp
cao 2 trong thời gian qua (2015-2019) luôn bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Tòa án đã áp dụng và thực hiện đúng quy định tại Điều 241 BLTTHS
năm 2003 và Điều 345 BLTTHS 2015 về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, các
phán quyết của Tòa phúc thẩm đều căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa và trên cơ sở xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án.
Trong đó có một số VAHS lớn đặc biệt nghiêm trọng về an ninh quốc gia, ma túy,
giết người, cướp tài sản... nhất là các vụ án về tội tham nhũng, những vụ án lớn,
trọng điểm, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng theo dõi, chỉ đạo đã được TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng đưa ra xét
39
xử kịp thời, nghiêm minh, không để xảy ra việc xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm,
đáp ứng yêu cầu chính trị và đấu tranh phòng, chống tội phạm của các địa phương
thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ 12 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương (Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên -
Huế, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên, tỉnh Khánh
Hòa, tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk) nói riêng cũng như cả nước nói
chung.
Học viên xin nêu ra một số vụ án điển hình mà TAND cấp cao 2 đã tuyên
hủy án sơ thẩm của Tòa án cấp dưới để khắc phục vi phạm, sai lầm. Cụ thể như:
Vụ án Trương Phan Thị Thảo “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”: Trương Thị
Phan Thảo và Đinh Văn Cường là vợ chồng và là chủ sở hữu hợp pháp nhà đất tại
số 185 Phạm Như Xương, thành phố Đà Nẵng. Ngày 09/7/2011, vợ chồng Thảo thế
chấp tài sản nêu trên cho Ngân hàng Nam Việt - Chi nhánh Đà Nẵng vay
1.500.000.000đ, thời hạn vay 36 tháng. Mặc dù đã thế chấp nhà đất cho Ngân hàng
nhưng ngày 06/9/2011 vợ chồng Thảo vẫn lừa dối, viết giấy bán nhà đất tại số 185
Phạm Như Xương cho bà Lê Thị Hương với giá 1.500.000.000đ và cam kết giao tài
sản, giấy tờ và làm thủ tục sang tên cho bà Hương trong thời hạn 60 ngày. Với thủ
đoạn nêu trên, các bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này.
Cũng trong thời gian này, vợ chồng Thảo ký giấy cam kết bán nhà đất tại 154
Trường Chinh, Đà Nẵng cho bà Hương với giá 600.000.000đ. Nhưng sau đó vợ
chồng Thảo lại bội tín mang nhà đất tại 154 Trường Chinh bán cho vợ chồng ông
Đặng Non, bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết với giá 500.000.000đ theo hợp đồng chuyển
nhượng được công chứng ngày 12/01/2012; các bị cáo chiếm đoạt của bà Hương
600.000.000đ.
Như vậy, hành vi của các bị cáo trong việc bán nhà tại 185 Phạm Như Xương
chiếm đoạt của bà Hương 1.500.000.000đ cấu thành tôi “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” và hành vi bán nhà đất tại 154 Trường Chinh chiếm đoạt của bà Hương
600.000.000đ cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đọat tài sản”, Đinh Văn
Cường đồng phạm với vai trò giúp sức. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử
40
sơ thẩm tuyên bố bị cáo Thảo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và
bị cáo Cường không phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản” là chưa đánh giá hết tính chất của vụ án, bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội. Do đó, tại bản số 36/2015/HS-PT ngày 17/12/2015 của TAND
cấp cao 2 đã xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo
hướng Thảo và Cường phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Sau khi phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nêu trên kết thúc, TAND
cấp cao tại Đà Nẵng đã ra thông báo hướng dẫn và rút kinh nghiệm về việc Tòa án
cấp dưới có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm (hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ nhưng cấp
sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội).
Việc bản án số 36/2015/HS-PT ngày 17/12/2015 của TAND cấp cao tại Đà
Nẵng tuyên hủy bản án sơ thẩm nêu trên là để các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp
dưới tiến hành điều tra thu thập thập đủ tài liệu chứng cứ, có đủ căn cứ vững chắc
để kết tội các bị cáo. Qua đó tránh việc bỏ lọt tội phạm [33].
Vụ án Nguyễn Tấn Cự phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt sản”: Năm 2007, vợ
chồng Nguyễn Tấn Cự, Nguyễn Thị Nở mở cửa hàng kinh doanh mua bán điện
thoại di động Trường Thiên. Đến năm 2012, Cự không tham gia cùng Nở mua bán
điện thoại mà đã lợi dụng sự quen biết và tín nhiệm của nhiều người dân địa phương
để vay tiền và hốt tiền biêu hụi để làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng, cho người khác
vay lại hưởng lãi xuất chênh lệch. Trong thời gian đầu, Cự thực hiện việc trả lãi và
gốc sòng phẳng nhưng đến đầu tháng 6/2003 Cự đã chiếm tổng số tiền
5.470.200.000đ của những người bị hại và bỏ trốn khỏi địa phương.
Quá trình điều tra xác định được 05 người hiện nay còn nợ tiền Cự với tổng
cộng số tiền 5.315.000.000đ (Các trường hợp này đều có Giấy vay tiền của Cự). Tại
Cơ quan điều tra, những người này cam kết trở nợ dần cho vợ chồng Cự.
Tại Bản án sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 26/9/2014 của TAND tỉnh
Quảng Ngãi đã tuyên xử: Bị cáo Cự phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140, điểm b, p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999
41
(sửa đổi, bổ sung 2009), xử phạt Cự 13 năm tù. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về
phần dân sự và án phí. Cự kháng cáo kêu oan, vì cho rằng không bỏ trốn, người bị
hại kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đàng Nẵng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Qua kết
quả điều tra và tại Bản án sơ thẩm đều xác định Cự đã vay tiền của nhiều người và
hốt tiền biêu với mục đích làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng và cho người khác vay
lại để hưởng lãi xuất chênh lệch; kết quả điều tra cho thấy số tiền vay, hốt biêu Cự
đã cho nhiều người khác vay lại, có 05 người còn nợ Cự với số tiền là
5.315.000.000đ và đều có cam kết trả nợ, chưa có chứng cứ nào cho thấy Cự dùng
tiền vay và hốt biêu nói trên để mua sắm tài sản sử dụng cho gia đình và cá nhân
hoặc sử dụng vào mục đích bất hợp pháp (đánh bạc…). Lời khai của những người
còn nợ Cự và các tài liệu liên quan thể hiện rõ điều này.
Xét việc Cự đi khỏi địa phương, qua tài liệu thu thập được cho thấy Sổ văn
thư và Sổ theo dõi tiếp công dân của Đội điều tra Công an huyện Tư Nghĩa thể hiện
ngày 11/7/2013 có Đơn của Cự xin tạm vắng khỏi địa phương để đi tìm người đang
trốn nợ, nhưng đơn này đã bị thất lạc, nay Công an huyện Tư Nghĩa không tìm thấy;
còn Công an thị trấn Sông Vệ xác nhận khoảng tháng 7/2013 cha vợ Cự có đến nộp
Đơn xin tạm vắng cho Cự, nhưng cảnh sát khu vực không nhận. Tại Biên bản xác
minh ngày 15/01/2014 cho thấy Cự vào trú tại huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình
Thuận có đăng ký tạm trú và chấp hành tốt pháp luật.
Xét Đơn của Cự đã nộp tại Công an huyện Tư Nghĩa không còn nên không
có cơ sở khẳng định được nội dung Cự đã viết như thế nào. Tuy nhiên, từ ngày Cự
có Đơn xin tạm vắng khỏi địa phương cho đến ngày Cự bị bắt, qua các chứng cứ, tài
liệu thu thập được cho thấy: Ngày 21/8/2013 chỉ cách 01 tháng 10 ngày sau khi có
Đơn xin tạm vắng vợ chồng Cự đã trở về địa phương và đến UBND thị trấn Sông
Vệ chứng thực hợp đồng chuyển nhượng đất để giải quyết khoản nợ Cự vay trước
đây tại Ngân hàng BIDV và đã được Chủ tịch UBND thị trấn Sông Vệ chứng thực.
Sau đó thì 3 tháng 6 ngày sau, vợ chồng Cự tiếp tục về địa phương và đến Văn
phòng công chứng để công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
42
nhằm giải quyết số nợ vợ chồng Cự đã vay của Ngân hành nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam trước đó.
Từ những nhận xét trên, TANDCC tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm, nhận thấy
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Cự đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại với
tổng số tiền là 5.470.200.000đ và có hành vi bỏ trốn là chưa có căn cứ vững chắc;
đồng thời cần làm rõ thêm số tiền của những người nợ Cự là có thật hay không, theo
như yêu cầu của bị hại tại phiên tòa. Những vấn đề này Tòa án cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được. Do đó, hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho
VKSND tỉnh Quảng Ngãi để điều tra, truy tố và xét xử lại theo thủ tục chung.
Việc TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên hủy bản án sơ thẩm số
18/2014/HSST ngày 26/9/2014 của Tòa án sơ thẩm nêu trên, nguyên nhân chủ yếu
là do việc điều tra chưa đầy đủ, chưa đủ căn cứ vững chắc để kết tội bị cáo. Do vậy
việc hủy án sơ thẩm để điều tra lại nhằm tránh làm oan người vô tội [33].
Vụ án Lâm Quang Trung phạm tội “Sử dụng mạng Internet để thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản”: Khoảng tháng 7/2012, Trung thường đến các quán
Internet trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị để chơi các trò chơi điện tử
qua mạng (game online) và truy cập vào các trang Web, Yahoo, Facebook để
“chat”. Thấy bạn mình thường xuyên có tiền chi tiêu, mua sắm nên Trung hỏi và
biết đó là tiền lừa được của một số người trên mạng. Trung nảy sinh ý định chiếm
đoạt tài sản thông qua mạng Internet. Từ tháng 8/2012 đến tháng 12/2013, Trung đã
sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại tổng số
tiền là 214.790.000đ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2014/HSST ngày 17/9/2014 của TAND
tỉnh Quảng Trị xử phạt: Bị cáo Lâm Quang Trung 24 tháng tù, về tội “Sử dụng
mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, ngoài ra còn tuyên về phần
trách nhiệm bồi thường dân sự, quyền kháng cáo và thi hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/9/2014, vợ chồng bà Yến, ông Thắng (là bố,
mẹ của bị cáo Trung) có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và
xin được hưởng án treo cho bị cáo Trung; đồng thời xin xem xét lại phần truy thu số
43
tiền 137.790.000đ.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Bị cáo
Lâm Quang Trung, sinh ngày 22/12/1996. Ngày 17/9/2014, TAND tỉnh Quảng Trị
đưa vụ án ra xét xử thì bị cáo Trung chưa đủ 18 tuổi, thế nhưng Tòa án sơ thẩm
không đưa cha, mẹ bị cáo là ông Lâm Quang Thắng và bà Nguyễn Thị Yến tham
gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị cáo mà chỉ đưa ông Thắng,
bà Yến tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do
vậy việc ông Thắng bà Yến không được quyền kháng cáo với tư cách là người đại
điện hợp pháp cho bị cáo Trung về phần hình phạt là vi phạm Điều 231, khoản 3
Điều 306 BLTTHS (2003). Do bản án số 32/2014/HSST ngày 17/9/2014 của
TAND tỉnh Quảng Trị vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án cấp phúc
thẩm không thể khắc phục được nên đã hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét
xử lại theo đúng quy định của pháp luật [33].
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế
Qua nghiên cứu hồ sơ và các bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao 2
trong giai đoạn 2015 - 2019, học viên nhận thấy bên cạnh những kết quả đạt được,
thì việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tóa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, cụ như sau:
Một là, HĐXX phúc thẩm hình sự TAND cấp cao 2 chưa thường xuyên
trong việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm ngoài nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Trong số 1.705 vụ án hình sự phúc thẩm được xét xử (học viên đã nêu ở bảng
2.1 và bảng 2.3, mục 2.2 của luận văn) thì chỉ có khoảng 20 vụ án được cấp phúc
thẩm xem xét áp dụng ngoài nội dung kháng cáo, kháng nghị (chỉ chiếm 1,17%), và
chỉ áp dụng pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự để giảm nhẹ cho
các bị cáo; còn lại chỉ xét các nội dung có kháng cáo, kháng nghị mà không xem xét
đến các phần khác của bản án sơ thẩm. Điều đó đồng nghĩa với việc thiếu hiệu quả
trong công tác khắc phục những sai lầm, thiếu sót cho Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm
áp dụng thống nhất pháp luật.
44
Hai là, HĐXX phúc thẩm vụ án hình sự TAND cấp cao tại Đà Nẵng vẫn còn
hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
dẫn đến việc ra bản án hình sự phúc thẩm gây nhiều mâu thuẫn, thắc mắc trong dư
luận, bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm và được Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao tuyên hủy bản án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại. Điển hình như vụ án: Nguyễn Kích cùng đồng
bọn phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Nội dung vụ án: Ngày 26/10/2012, Nguyễn Kích - là Giám đốc Trung tâm
phát triển quỹ đất (PTQĐ) huyện Đông Hòa được ủy quyền làm chủ đầu tư thực
hiện tiểu dự án giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Phú Yên thuộc dự án Hầm
đường bộ qua Đèo Cả, trong đó có hạng mục di dời hệ thống viễn thông ra khỏi
phạm vi giải phóng mặt bằng. Lê Quốc Toản - Giám đốc công ty cổ phần xây lắp
(CPXL) Minh Thuận Khánh biết Công ty không đủ năng lực theo tiêu chí mời thầu
nên đã sửa chữa, thay thế giá trị hợp đồng (HĐ) kinh tế, lập khống HĐ lao động để
chuyển hồ sơ cho Trung tâm PTQĐ huyện Đông Hòa xét duyệt. Ngày 13/9/2013,
Kích ký HĐ kinh tế với Lê Quốc Toản để thi công công trình trên với giá trị
2.618.069.589 đồng mà không tổ chức thẩm định năng lực của công ty. Cùng ngày,
Nguyễn Kích ký Hợp đồng với Công ty TNHH Tín Phước phân công Phan Trí
Hùng làm Giám sát trưởng công trình.
Khi tổ chức thi công, lợi dụng sự thiếu kiểm tra, giám sát của chủ đầu tư và
đơn vị giám sát thi công, Toản đã có hành vi gian dối, không đào 718,5m chiều dài
tuyến để thu hồi sợi cáp quang loại 8Fo, không đào lắp đặt hệ thống tiếp địa và thi
công các khối lượng công việc khác không đúng với hồ sơ thiết kế được duyệt. Tuy
nhiên, khi làm hồ sơ nghiệm thu, thanh toán khối lượng thi công hoàn thành lần 01,
Toản đã chỉ đạo Lương Cành (nhân viên kỹ thuật) kê khống khối lượng thi công
hoàn thành lần 01 theo như thiết kế được duyệt để trình cho đơn vị tư vấn giám sát
và chủ đầu tư ký nghiệm thu công trình, thanh toán giá trị là 2.327.453.864 đồng.
Khối lượng công việc còn lại được gia hạn thời hạn thi công. Tin tưởng theo hồ sơ
Công ty CPXD Minh Thuận Khánh lập mà không tổ chức nghiệm thu khối lượng
45
thi công hoàn thành lần 01 theo đúng quy định của pháp luật, chủ đầu tư đã lập
chứng từ thanh toán chuyển Kho bạc huyện Đông Hòa giải ngân thanh toán cho
Công ty bằng 03 ủy nhiệm chi với tổng số tiền 2.327.453.000 đồng. Sau khi bị phát
hiện việc thi công gian dối và lập khống hồ sơ đưa vào nghiệm thu, thanh toán
chiếm đoạt tiền của Nhà nước, Toản có hành vi đối phó bằng cách chỉ đạo Cành
đem hộp cáp quang và hệ thống tiếp địa vào công trình, thuê xe đào, nhân công đào
lắp đặt và thu hồi phi tang sợi cáp quang 8Fo cũ.
Kết quả trưng cầu Giám định viên Trung tâm tư vấn xây dựng - trường Đại
học xây dựng miền Trung kết luận: Giá trị khối lượng đưa vào nghiệm thu, thanh
toán khống 21 hạng mục gây thiệt hại tài sản Nhà nước 512.569.039 đồng và xác
định trách nhiệm liên quan đến sai phạm gồm Đơn vị thi công, Đơn vị tư vấn giám
sát thi công và Chủ đầu tư công trình.
Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Yên tuyên phạt Lê Quốc Toản
09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Nguyễn Kích 06 tháng tù và Phan
Trí Hùng 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đều về tội “Thiếu trách nhiệm gây
hậu quả nghiêm trọng”.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án hình
sự sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Yên để điều tra lại.
Chánh án TAND tối cao Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản
án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, đề nghị Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao xem xét giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên giao
hồ sơ cho TAND cấp cao Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại.
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhận định: Thủ đoạn gian dối của Lê
Quốc Toản thể hiện ở việc Toản đã làm giả giấy tờ, tài liệu để hợp thức hóa hồ sơ
năng lực nhằm được chỉ định thầu; lợi dụng sự tin tưởng của chủ đầu tư và giám sát
công trình đã bỏ qua không thi công 21 mục công việc như thiết kế được duyệt
nhưng vẫn lập khống đưa vào nghiệm thu, thanh toán. Việc tiếp tục thi công sau khi
bị phát hiện là nhằm đối phó và che giấu hành vi phạm tội. Tòa án sơ thẩm kết án
Lê Quốc Toản về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ. Tòa án phúc thẩm cho
46
rằng cần phải giám định tư pháp để kết luận về khối lượng thực tế mà Công ty
CPXD Minh Thuận Khánh đã thi công khi thực hiện hợp đồng là không cần thiết.
Lời khai của các bị cáo không có cơ sở xác định giữa Toản, Kích, Hùng có
sự thông đồng, cấu kết nhau để Công ty CPXD Minh Thuận Phát được thanh toán
không đúng khối lượng đã thi công nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Tòa án
sơ thẩm kết án Nguyễn Kích, Phan Trí Hùng về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng” là có căn cứ. Tòa án phúc thẩm cho rằng cần điều tra lại để làm rõ
động cơ, mục đích của Nguyễn Kích và Phan Trí Hùng là không cần thiết.
Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án đã triệu tập Phạm Thị Tiền (vợ của Toản) và
Phạm Văn Sinh (em vợ Toản) là hai cổ đông còn lại của Công ty CPXD Minh
Thuận Khánh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Do đó, không nhất thiết phải đưa Công ty CPXD Minh Thuận Khánh vào
tham gia tố tụng [33].
Ba là, HĐXX phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không kịp
thời phát hiện vi phạm, thiếu sót của một số Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xác định
chưa đúng tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng dẫn đến việc bản án sơ thẩm
chưa áp dụng đúng những quy định của pháp luật tố tụng về xử lý vật chứng của vụ
án bị Viện kiểm sát kháng nghị. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm HĐXX lại không áp
dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự để sửa bản án sơ thẩm hình sự. Sau
khi phiên tòa phúc thẩm kết thúc, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã yêu cầu
TAND cấp cao tại Đà Nẵng phải tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với
HĐXX phúc thẩm, điển hình sư vụ án Phạm Thị Ngọc Anh, phạm tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Ngọc Ánh, ngụ 208/6 ấp 3, xã A, thành phố B,
tỉnh N giới thiệu bà Lê Thị Tươi ký hợp đồng mua đất diện tích 2.928,8m2 của ông
Nguyễn Văn Minh với giá 1,2 tỷ đồng, điều kiện thể hiện trong hợp đồng là sau 02
tháng bà Tươi mới có quyền thực hiện thủ tục sang tên chứng nhận quyền sử dụng
diện tích đất trên và bà Tươi được giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Sau đó, Ánh đã tự ý phân lô diện tích đất trên của bà Lê Thị Tươi và bán, làm
47
thủ tục sang tên cho 22 người khác để thu tiền hưởng lợi.
Không chỉ thế, thông qua hình thức kinh doanh trái phép này, bà Phạm Thị
Ngọc Ánh còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người, trong
đó 02 nhóm bị hại chính là những người chủ có diện tích đất cần bán và người mua
đất được phân lô bán lại. Thủ đoạn của bà Phạm Thị Ngọc Ánh thể hiện qua 03 hình
thức sau: Cùng một diện đất nhưng bà Ánh vừa thế chấp vay vốn vừa phân lô bán
lại cho người khác, cùng một lô đất nhưng bị cáo lập hợp đồng chuyển nhượng cho
nhiều người, hoặc sau khi đã nhận tiền của những người mua đất được phân lô
nhưng bà Ánh không thanh toán cho chủ đất với mục đích chiếm đoạt.
Bằng thủ đoạn nêu trên, từ năm 2010 - 2011, Ánh đã chiếm đoạt tài sản của
của 51 người với tổng số tiền là 5.227.550.000đ để tiêu xài cá nhân sau.
Ngày 28/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh N đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và
tuyên bị cáo Phạm Thị Ngọc Ánh mức án tù chung thân về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo qui định tại Điều 139 BLHS 1999. Phần xử lý vật chứng thì tuyên trả lại
cho bà Lê Thị Tươi một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc (sổ đỏ) do ông
Nguyễn Văn Minh đứng tên và hai bản hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(bản chính gốc) từ Nguyễn Văn Minh và Võ Thị Mộng Lan chuyển nhượng cho bà
Lê Thị Tươi, có kèm theo lời chứng thực (bản chính) của UBND xã D chứng thực.
Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với quy
định của pháp luật, VKSND tỉnh N nhận thấy Bản án sơ thẩm nêu trên có vi phạm,
sai sót nghiêm trọng như Tòa án nhân dân tỉnh N không đưa bà Lê Thị Tươi, sinh
năm 1964, ĐKTT: ấp Đông, xã K, huyện C, tỉnh N vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, trong phần thủ tục Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa đề nghị đưa bà Lê Thị Tươi vào tham gia với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không được HĐXX chấp nhận, nhưng
trong bản án phần xử lý vật chứng thì tuyên trả lại cho bà Lê Thị Tươi. Như vậy bản
án đã vi phạm Điều 191 BLTTHS 2003. Chính vì vậy, Viện trưởng VKSND tỉnh N
đã ban hành Quyết định Kháng nghị phúc thẩm Bản án số 37/2017/HSST ngày
28/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh N; đề nghị TAND cấp cao đưa vụ án ra xét xử
48
phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, trong đó có phần nội dung liên quan đến
việc tuyên xử lý vật chứng đối với bà Lê Thị Tươi.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX vẫn không sửa bản án sơ thẩm có
phần nội dung liên quan đến việc tuyên xử lý vật chứng đối với bà Tươi theo như đề
nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh N.
Qua nghiên cứu đơn khiếu nại của bà Lê Thị Tươi về việc đề nghị xem xét
theo thủ tục Giám đốc thẩm đối với bản án hình sự phúc thẩm nói trên, Tòa án nhân
dân tối cao nhận định Tòa án nhân dân cấp cao không xem xét đến phần kháng nghị
của Viện trưởng VKSND tỉnh N là không đúng. Tòa án nhân dân tối cao đề nghị
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với
HĐXX phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nêu trên để tránh những sai lầm
tương tự về sau [33].
Bốn là, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng có sai lầm, thiếu sót trong việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự khi không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm dẫn đến
trong một số ít trường hợp KC, KN là có căn cứ, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm
không phát hiện được sự vi phạm về thủ tục tố tụng, chưa phát hiện được sai lầm,
thiếu sót của cấp sơ thẩm trong việc ADPL, như: Chưa hiểu đúng quy định của Bộ
luật hình sự, chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
TNHS hoặc chưa xem xét toàn diện tại phiên tòa các chứng cứ cũ, chứng cứ mới,
tài liệu, đồ vật mới bổ sung sau khi xét xử sơ thẩm, cho nên vẫn quyết định không
chấp nhận KC, KN và giữ BA, QĐ sơ thẩm. Hậu quả của những vi phạm, sai lầm
này dẫn đến việc có thể bỏ lọt tội phạm và người phạm tội như vụ án Nguyễn Thị B,
phạm tội “Giết người”:
Nội dung vụ án: Ngày 31/3/2018, do có mâu thuẫn trong việc nợ tiền và tài
sản, Nguyễn Văn C đã nhiều lần gọi điện thoại đòi nợ, đe dọa và hẹn đến ngày
03/6/2016 C sẽ đến nhà Nguyễn Văn A để thu nợ. Do không có tiền và tài sản để trả
nợ nên A đã kể lại sự việc cho Nguyễn Thị B (53 tuổi là mẹ đẻ của A) và Nguyễn
49
Thị D (là vợ của A). Nghe A kể xong, B đã bức xúc và nói nếu đúng ngày
03/6/2016 C mà đến đòi nợ A thì B sẽ không để C làm vậy và sẽ giết C nếu C dám
đe dọa A, đồng thời B, D còn nói thêm “mẹ sẽ bảo vệ con”, “vợ sẽ phải bảo vệ
chồng”. Sau đó B bảo D đi tìm và báo với Nguyễn Văn E (là anh trai của A) về sự
việc A bị C đe dọa đòi nợ. E đến nhà A thì được C phân công là rủ thêm một vài
người nữa để phục kích quanh nhà A. Nếu khi đến đòi nợ C có hành vi đe dọa A là
tất cả cùng xông vào đánh giết C luôn.
Khoảng 10h ngày 03/4/2018, như đã hẹn không thấy A trả nợ, C đã cầm 01
con dao đến nhà A, đặt tại bàn uống nước nhà A để đòi nợ. Tại đây, sau khi phát
sinh mâu thuẫn chửi bới, giằng co, khi C vừa dùng tay trái cầm con dao (C là người
thuận tay phải) lên thì bị B dùng 01 con dao nhọn đâm thẳng vào vùng bụng và
ngực 02 nhát, còn D dùng nồi cơm điện đánh vào đầu C, A vung chân đạp vào phần
mông của C, E khiến C bị choáng ngã ra nền nhà. Thấy vậy E và một người tên Q
cũng xông vào dùng gậy đánh vào đầu và chân tay của C. Kết quả C bị tử vong tại
nhà C. Kết luận giám định pháp y xác định C bị tử vong do đa chấn thương, trong
đó có vết thương ở vùng ngực làm thủng tim do vật sắc nhọn là nguyên nhân dẫn
đến tử vong; ngoài ra còn có các vết thương ở vùng đầu, tay chân, lưng và vùng
mông bị bầm dập do vật tày cứng gây ra.
Ngày 02/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử sơ thẩm tuyên phạt Nguyễn
Thị B 12 năm tù về tội “Giết người”, theo quy định điểm n khoản 1 Điều 123; điểm
s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Những người còn lại gồm A, D, E và Q (đã đi khỏi
địa phương), do kết quả điều tra không chứng minh được tội phạm nên Tòa án cấp
sở thẩm không xem xét giải quyết.
Ngày 10/11/2018, đại điện hợp pháp của C đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh H, vì cho rằng bản án còn bỏ lọt tội phạm.
Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn C và giữ nguyên quyết định của bản
án hình sự sơ thẩm đối với Nguyễn Thị B.
Qua vụ án xét thấy: Vụ án có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm vì tại phiên Tòa xét xử
50
phúc thẩm VAHS đại diện VKSND cấp cao 2 cũng đã đề nghị HĐXX hủy toàn bộ
bản án để điều tra, xét xử lại.
Gia đình và người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn C đang đề nghị Viện
trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND cấp cao 2 kháng nghị giám đốc
thẩm theo hướng hủy toàn bộ bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm;
giao hồ sơ vụ án cho VKSND và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh H để điều
tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật [33].
Ngoài ra, qua nghiên cứu hồ sơ và bút ký phiên tòa, học viên nhận thấy phần
lớn các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX cấp phúc thẩm chỉ xét
các nội dung chính liên quan đến kháng cáo, kháng nghị mà không xét cho các đồng
phạm khác trong cùng một vụ án. Nhất là đối với các vụ án được kháng cáo với nội
xin giảm nhẹ hình phạt, nên tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX thường xuyên
đặt và ghi câu hỏi, câu trả lời của bị cáo: “Nội dung vụ án đúng như bản án sơ thẩm
đã tóm tắt không? Bị cáo kháng cáo xin nhẹ hình phạt có xuất trình thêm tình tiết
giảm nhẹ nào mới không?, và thông thường các bị cáo thường trả lời “có” hoặc
“không”. HĐXX phúc thẩm thường hay vận dụng các tình tiết mới như việc trước
khi mở phiên tòa phúc thẩm các bị cáo bị Tòa sơ thẩm tuyên phải bồi thường tiền,
tài sản, vật chất hoặc công khai xin lỗi bị hại thì đến trước khi mở phiên tòa phúc
thẩm bị cáo đã đến gặp và bồi thường cho bị hại một số tiền, tài sản, vật chất, công
khai xin lỗi; hay như đối với các bị cáo bị Tòa sơ thẩm tuyên nộp phạt tiền để sung
công quỹ nhà nước thì các bị cáo cũng đã nộp ngay khi làm thủ tục kháng cáo xin
giảm nhẹ để làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm. Điều này thể hiện tính nhân dân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước nhưng đôi khi cũng chưa thật sự mang lại hiệu quả thực thi pháp luật,
điển hình như một số vụ án về tội “cố ý gây tích”, “giết người”, nói chung là tội
phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, thì trong
những vụ án này cấp phúc thẩm thường tuyên ngoài phần hình phạt tù là hình phạt
chính thì các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền khoảng 50
triệu đến vài trăm triệu đồng trở lên nhưng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các bị cáo
51
nhiều khi cố ý không thực hiện phần nghĩa vụ dân sự này và tính toán để kháng cáo
phúc thẩm, chờ đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới bồi thường cho bị hại số tiền
rất ít khoảng 5 triệu đồng nhưng cũng vẫn được HĐXX phúc thẩm áp dụng làm tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới hoặc như trong một số vụ án như “Đánh
bạc”, “Tổ chức đánh bạc” ... nói chung là các vụ án liên quan đến hoạt động kinh tế
gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức thường bị Tòa cấp sơ thẩm
ngoài việc tuyên hình phạt tù là hình phạt chính, còn tuyên hình phạt bổ sung là
“tiền” để sung công quy Nhà nước với số tiền tương đối lớn hàng trăm triệu đồng
hoặc hàng tỷ đồng, nhưng trước khi mở phiên tòa phúc thẩm các bị cáo hoặc đại
diện gia đình các bị cáo đã đến cơ quan thi hành án dân sự xin nộp trước số tiền rất
ít khoảng 5 triệu đồng hoặc 10 triệu đồng, thì đã được HĐXX phúc thẩm áp dụng là
tình tiết giảm nhẹ mới ... [33]
2.3.2.2. Những vướng mắc
- Vướng mắc trong xác định tư cách tham gia TTHS của bị cáo không có
kháng cáo:
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 không quy định về việc xác định tư
cách tham gia TTHS phiên tòa XXPT bị cáo không có KC, KN. Theo mục 1 Phần
III Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/7/2004 của TANDTC, hướng dẫn đối với
bị cáo KC quá hạn không được TAND nếu cần thiết thì triệu tập họ đến phiên tòa
với tư cách là NLC. Thực tiễn xét xử hiện nay vẫn xác định bị cáo không KC và
không bị KC, KN khi được triệu tập tham gia phiên tòa XXPT cũng là NLC. Tuy
nhiên, xét về quyền và nghĩa vụ của NLC theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 thì vẫn còn có một số bất cập. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 thì NLC có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà
mình biết về VAHS, nếu khai báo gian dối thì phải chịu TNHS về tội khai báo gian
dối. Tuy nhiên, việc truy cứu TNHS đối với họ là không hợp lý bởi họ là người
cùng với bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội và với tư cách là bị cáo thì pháp
luật TTHS không bắt buộc họ phải khai báo trung thực hành vi phạm tội của mình
và đồng phạm. Do đó, việc xác định bị cáo không có KC, không bị KN là NLC là
52
chưa đảm bảo.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 thì cơ sở để Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của
BLHS về tội nặng hơn, tăng mức bồi thường thiệt hại, không cho bị cáo được
hưởng án treo chỉ khi có yêu cầu trong kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng
cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự. Theo đó, nếu đại diện hợp pháp của người
bị hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có kháng cáo
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không có lợi cho bị cáo thì
không được chấp nhận. Trên thực tế, không phải người bị hại nào, nguyên đơn dân
sự nào cũng có khả năng thực hiện việc kháng cáo (người bị hại đang phải nằm
trong bệnh viện trong tình trạng bất tỉnh, người bị hại chưa thành niên). Như vậy,
hiệu lực của kháng cáo quy định cho những người này tại BLTTHS 2015 chưa đầy
đủ và chưa đảm bảo quyền kháng cáo cho những người tham gia tố tụng.
2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, Do phúc thẩm các vụ án do Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, nên
các vụ án phúc thẩm của Toà án cấp cao là về những tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc
phức tạp.
Thứ hai, Quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử phúc thẩm còn những bất
cập: các trường hợp sửa tăng nặng hay giảm nhẹ cụ thể còn chưa đầy đủ, thiếu rõ
ràng...
Thứ ba, Do TAND cấp cao 2 là TAND có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với
12 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Do vậy số lượng VAHS nhiều, trong
khi xét về tính chất của các vụ án ngày càng phức tạp, biên chế Thẩm phán và Thư
ký còn thiếu (tính trung bình mỗi năm thì một Thẩm phán cao cấp phải thụ lý, xét
xử hơn 16 vụ án hình sự phúc thẩm, ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng
giải quyết án. Bên cạnh đó, các thành viên Ủy ban Thẩm phán ngoài công tác xét
XXPT còn tham gia xét xử GĐT, tái thẩm nên có dấu hiệu quá tải.
Thứ tư, Một số vướng mắc về nghiệp vụ chuyên môn chưa được hướng dẫn
kịp thời, nên việc ADPL vào thực tiễn xét xử gặp nhiều khó khăn, nhiều trường hợp
53
khi giải quyết những vấn đề cụ thể bị lúng túng, hoặc nhận thức khác nhau cho nên
kết quả giải quyết không đồng nhất, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.
Thứ năm, Về phía chủ thể tham gia tố tụng thường cố ý kéo dài thời hạn xét
xử bằng việc nộp đơn xin hoãn phiên tòa lần đầu, có nhiều trường hợp không chịu
nhận các giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Bên cạnh đó, việc chuyển giao, tống đạt
các lệnh, quyết định đến bị cáo, đương sự qua Bưu điện còn chậm trễ, không đảm
bảo các quy định về thủ tục tống đạt dẫn đến phiên tòa bị hoãn.
Thứ sáu, Việc quy kết trách nhiệm của người tiến hành tố tụng khi sai phạm
do án bị cải sửa, bị hủy đã giúp cho TP nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công
tác xét xử nói chung và trong XXPT các VAHS nói riêng, nhưng điều này đôi khi
cũng tạo tâm lý thận trọng quá mức trong đấu tranh xử lý tội phạm do việc phải
BTTH cho người bị oan, sai hoặc điều kiện tái bổ nhiệm lại nhiệm kỳ TP nên để có
sự “an toàn”, có một số trường hợp Hội đồng XXPT đã tìm lý do để hủy án sơ
thẩm, THSĐTBS sung mặc dù lý do hủy án, THSĐTBS là không cần thiết.
Thứ bảy, Nhận thức chưa đúng về án treo, coi án treo như là một loại hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù, do đó vì muốn cho hưởng án treo, nên đáng lẽ phải xử
mức án cao thì lại xử phạt mức án thấp để tạo điều kiện cho hưởng án treo. Hoặc,
khi không cho hưởng án treo được thì giảm hình phạt tù một cách thiếu căn cứ.
Thứ tám, Chế độ kinh phí, tài chính đối với hoạt động xét xử còn nhiều bất
hợp lý và chưa tương xứng với tính chất đặc thù của công tác và đòi hỏi yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ TAND.
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2 của luận văn, học viên đã nêu khái quát về sự hình thành và
phát triển của TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng; đã nêu được thực trạng thụ lý,
xét xử phúc thẩm các VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao 2 trong giai đoạn từ
2015-2019, trong đó tập trung nghiên cứu và phân tích những thuận lợi, những khó
khăn, vướng mắc của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đưa ra được những ví dụ
cụ thể để minh chứng cho những lập luận và phân tích đã nêu trong luận văn.
54
Toàn bộ nội dung của Chương 2 của luận văn sẽ là cơ sở thực tiễn để
Chương 3 của luận văn, học viên sẽ đưa ra một số đề xuất và giải pháp nhằm đảm
bảo thực hiện ngày càng tốt hơn những quy định của pháp luật về phạm vi xét xử
phúc thẩm VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao.
55
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
ĐÚNG PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự
3.1.1. Yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử
Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định một VAHS có thể được xét xử qua 2
cấp là một bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc xét xử của TAND được chính xác và
đúng đắn. Bởi vì qua hai cấp xét xử như vậy những vấn đề thuộc nội dung VAHS
một lần nữa được xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng, đầy đủ hơn. Trên cơ sở đó,
các phán quyết của TAND đưa ra đảm bảo độ chính xác cao hơn. Việc quy định và
thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử trong tố tụng hình sự tạo cơ sở pháp lý quan trọng
để VKS và các chủ thể tham gia tố tụng như: Bị cáo, người tham gia tố tụng khác có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án thể hiện thái độ không đồng tình với việc xét
xử của TAND theo quy định của PL tố tụng hình sự để VAHS được TAPT xét xử
lại. Thông qua đó, chủ thể của quyền KC, KN bảo vệ quyền, lợi ích của mình và
trong nhiều trường hợp thì lợi ích của NN và xã hội cũng được đảm bảo.
Việc quy định về nguyên tắc 2 cấp xét xử cũng như quy định về việc BA,
QĐ sở thẩm có thể bị sửa, bị hủy tại TAPT sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc
các hành vi vi phạm PL mà TAST mắc phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của
HĐXX sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa
ra phán quyết của mình. Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc
thẩm kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, tự
mình sửa chữa sai lầm, khắc phục thiếu sót hay đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm sửa
chữa những sai lầm của mình. Đây cũng chính là một hình thức hướng dẫn áp dụng
pháp luật có hiệu quả to lớn giữa Tòa án cấp phúc thẩm với Tòa án cấp sơ thẩm,
nhờ đó mà chất lượng xét xử tại các cấp ngày càng được nâng cao.
Việc xét xử lại vụ án mà cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân
56
dẫn đến sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng. Từ đó, giúp tìm ra các giải
pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về lập pháp cũng như về hướng dẫn áp dụng
pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án,
đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và yêu cầu cải cách tư pháp.
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS đáp ứng
các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với việc bảo đảm các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân, đảm bảo dân chủ, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội,
áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là sự
thể hiện nhận thức khoa học về hoạt động xét xử của Tòa án phù hợp với nguyên lý
của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nhận thức thế giới. Đó là nhận thức luôn có sự vận
động và phát triển, không phải trong mọi trường hợp nhận thức của con người về
một sự vật hiện tượng đã đúng đắn ngay từ lần nhận thức đầu tiên. Việc quy định
một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai cấp xét xử khác nhau là phù hợp với quy
luật của nhận thức nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khách quan của hoạt động xét xử.
Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước trong
việc đưa ra các phán xét về số phận pháp lý, sinh mạng chính trị, quyền lợi của
người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và những người có liên quan
là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Trong đó, vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền và
lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân là một nội dung quan trọng của Nhà
nước pháp quyền. Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của nhà nước,
trong phạm vi hoạt động của mình phải xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng
pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân “Hơn bất kỳ một
hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản
chất của Nhà nước, sai lầm của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án chính là sai
lầm của Nhà nước. Cho nên, đòi hỏi công tác XXPT phải chính xác, công minh, thể
hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân”. Cho nên cũng là một hình thức thực
hiện PL có hiệu quả chức năng giám đốc xét xử của TAND cấp trên đối với TAND
57
cấp dưới.
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS thể hiện sự
tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả các quyền con người trong
lĩnh vực tư pháp, một lĩnh vực mà từ xưa đến nay bất kỳ một quốc gia nào cũng
phải thực hiện là vô cùng quan trọng, đã tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố
tụng có thể trực tiếp bảo vệ quyền lợi của mình nhiều lần tại các phiên tòa xét xử
khác nhau. Đồng thời với việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia tham gia tố
tụng, việc xét xử ở 2 cấp cũng giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong
VAHS để có thái độ hợp tác tích cực với cơ quan NN có thẩm quyền trong việc
thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình. Việc quy định nguyên tắc 2 cấp xét xử
trong tố tụng hình sự với nội dung cơ bản là 1 VAHS có thể được xét xử và chỉ có
thể xét xử ở 2 cấp là XXST và XXPT, giúp tránh được tình trạng VAHS bị xử ở quá
nhiều cấp làm cho quá trình tố tụng kéo dài ảnh hưởng tới hiệu lực của BA, QĐ,
nhất là các BA, QĐ đã có hiệu lực PL.
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS góp phần
rất lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp
luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt
động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và Tòa án nói riêng. Bởi lẽ, việc xét xử phải nhắm đến mục đích cao nhất là
đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, tránh oan sai, đảm bảo quyền bình
đẳng của mọi công dân trong TTHS. Do vậy, sẽ là không công bằng nếu như tước
bỏ quyền được bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo, người tham gia tố tụng có quyền
và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án một lần nữa tại một phiên tòa xét xử khác,
nếu như chưa thể có các điều kiện thực tế để khẳng định hay bảo đảm rằng phán
quyết của lần xét xử đầu tiên là hoàn toàn chính xác. Với việc quy định và thực hiện
nguyên tắc xét xử công khai ở cả 02 cấp XXST và XXPT, giúp cho người dân có
điều kiện biết rõ về hoạt động xét xử. Mặt khác, khi biết được kết quả XXPT, thấy
được sự đánh giá về tính đúng đắn hay không đúng đắn của cấp XXST, người dân
mới thực hiện triệt để quyền giám sát hoạt động xét xử của TAND các cấp. Qua đó
58
mới có thái độ chính xác nhất về tính khách quan của hoạt động này trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, lợi ích chung của xã hội,
cộng đồng và lợi ích của NN.
3.1.2. Yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp
Công tác tư pháp là hoạt động hướng tới việc bảo vệ PL, bảo đảm cho PL
được tôn trọng và nghiêm chỉnh thực thi trong thực tiễn cuộc sống. NN Cộng hòa
XHCN Việt Nam với mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước là mục tiêu cao
nhất. Hoạt động tư pháp suy cho cùng là vì con người, bảo đảm ngày càng tốt hơn
QCN, tránh các hành vi xâm hại từ các cá nhân, tổ chức kể cả những cơ quan NN có
thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ gây ra. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn
còn những bất cập, hạn chế nhất định. Trong hoạt động của cơ quan tư pháp vẫn còn
có trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người không có hành vi phạm tội, gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền tự do, dân chủ của công dân, thậm chí xâm hại đến
QCN, QCD, gây dư luận không tốt trong xã hội.
Nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác tư pháp nói chung, nhằm xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, BCT đã ban hành các nghị quyết định hướng về công tác cải cách
tư pháp: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới [4]. Trên cơ sở định
hướng của Đảng, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL và hoạt động ADPL
phải trên tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ QCN, hướng đến mục tiêu xây dựng NN
pháp quyền XHCN.
Cho nên, giải pháp quan trọng để đảm bảo đạt được mục tiêu trên là: Hoàn
thiện chính sách, PL hình sự, PL dân sự và thủ tục TTHS. Trọng tâm của giải pháp
này là sớm hoàn thiện hệ thống PL liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu
của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống PL. Coi trọng việc hoàn thiện PL
hình sự và thủ tục TTHS, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
59
phạt cải tạo không giam giữ, chuyển từ hình phạt tù sang cho hưởng án treo đối với
một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng
đối với 1 số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tử
hình đối với 1 số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ quan hệ
dân sự làm oan và và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi
nguy hiểm cho XH mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - XH hội, khoa
học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Quy định TNHS nghiêm khắc hơn đối với
những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi PL, những người lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm minh để làm gương cho kẻ khác.
Muốn TAND là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm, theo tinh thần cải
cách tư pháp, thì bên cạnh các giải pháp căn cơ về nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí
của TAND trong hoạt động TTHS, đảm bảo thực sự “là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp” theo HP 2013 [28] thì việc nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng hình phạt
là một trong những nội dung chính hướng đến việc cụ thể hóa mục tiêu “đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” vào đời sống
xã hội, để kết quả áp dụng hình phạt thực sự đảm bảo ý nghĩa bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người. Yêu cầu này đặt ra cho mỗi TP, HTND sự quyết tâm cao trong
nhận thức, nghiên cứu quy định của PL, nhất là các quy định mới của Bộ luật hình
sự Bộ luật tố tụng hình sự mới, liên quan đến những thay đổi có lợi cho người phạm
tội, thể hiện tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội (so với quy định cũ).
3.1.3. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
QCN là 1 trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc gia trên thế giới
đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ QCN cũng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển
bền vững của một quốc gia. Mỗi đất nước đều có hệ thống PL riêng, dựa trên các
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và các giá trị truyền thống của quốc gia để bảo
đảm các QCN được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất.
Phòng, chống tội phạm là một công tác quan trọng, thường xuyên, liên tục và
lâu dài đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn
60
dân, trong đó, chú trọng công tác phòng ngừa khi tội phạm bị phát hiện và được
đưa ra xét xử thì áp dụng hình phạt phải đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội
phạm. Khi áp dụng hình phạt quá nặng sẽ dẫn đến việc xử lý tội phạm chỉ mang tính
chất trừng trị và thiếu tính giáo dục, còn khi áp dụng hình phạt quá nhẹ sẽ dung
dưỡng, làm cho tội phạm coi thường PL, từ đó không đáp ứng được yêu cầu phòng,
chống tội phạm nói chung.
3.1.4. Yêu cầu phòng ngừa tội phạm
Ngành Tòa án nói chung và Tòa nhân dân cấp cao nói riêng cần nghiêm
chỉnh thực hiện Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 17/11/2019 của Quốc hội nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam [31] về công tác phòng chống tội phạm và
vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành
án, mà cụ thể đối với Tòa án nhân dân tối cao:
Có giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các loại án. Giảm thiểu đến mức
thấp nhất tỷ lệ các BA, QĐ bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan. Bảo đảm xét xử
các VAHS nghiêm minh đúng PL không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Đẩy
nhanh tiến độ xét xử các VAHS tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, các
VAHS trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm... có đóng góp tích cực vào công
tác đấu tranh, phòng chống vi phạm và tội phạm. Để thực hiện được điều đó, việc
thực hiện đúng các quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử của TAPT có ý nghĩa
rất quan trọng.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự và thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Một là, Đảng và NN ta đang tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan tư pháp. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của công
cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, XXPT các VAHS là một trong
những hình thức giám đốc xét xử của TAND cấp trên đối với các VAHS mà BA,
61
QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực PL bị KC, KN nhằm khắc phục các sai sót của TAST,
bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, bảo vệ kịp thời các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là một bộ phận, một nội dung quan trọng của
hoạt động tư pháp. Cho nên cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
không thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả về thẩm quyền của Hội đồng XXPT
các VAHS.
Hai là, Trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay là nâng cao hơn nữa tính tranh tụng tại phiên toà theo tinh
thần chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW của BCT về Chiến lược cải cách tư pháp
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động XXPT ở nước ta. Việc XXPT các
VAHS ở nước ta đều được tiến hành tại phiên toà, do đó việc nâng cao tính tranh
tụng tại các phiên toà hình sự nói chung và phiên toà XXPT hình sự nói riêng không
thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả của XXPT các VAHS;
Ba là, Tình hình tội phạm ở nước ta những năm gần đây diễn biến ngày càng
phức tạp, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Cuộc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm đòi hỏi một mặt phải xử lý kiên quyết, nghiêm minh
đối với tội phạm, nhưng mặt khác phải tôn trọng và bảo vệ ngày càng có hiệu quả
hơn các quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân, không bỏ lọt tội phạm,
đồng thời không làm oan người vô tội. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử nói chung và hoạt động XXPT các VAHS
nói riêng.
3.2.1.2. Việc hoàn thiện quy định của BLTTHS về thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định sau:
- Theo Điều 330 BLTTHS 2015 thì tính chất của xét xử phúc thẩm VAHS là
việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại những BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị KC, KN. Do vậy cần thể hiện chính xác hơn bản chất pháp lý của
XXPT, vì theo quy định BLTTHS hiện tại thì VKS, bị cáo và các đương sự khác có
quyền KN, KC các BA, QĐ định sơ thẩm trong một thời hạn nhất định để XXPT.
Do bị KC, KN nên BA, QĐ đó chưa có hiệu lực PL. Hay nói cách khác BA, QĐ sơ
62
thẩm chưa có hiệu lực PL là do bị KC, KN trong thời hạn luật định chứ không vì bất
kỳ lý do nào khác. LTHS chưa quy định thời điểm nào BA, QĐ sơ thẩm có hiệu lực
PL mà tuỳ thuộc vào việc KC, KN. Nhưng, không phải toàn bộ BA, QĐ sơ thẩm cứ
bị KC, KN là chưa có hiệu lực PL; theo quy định của Luật tố tụng hình sự thì chỉ
phần của bản án bị KN, KC mới chưa được đưa ra thi hành. Vì thế phần bản án
không bị KN, KC sẽ có hiệu lực PL và thi hành bình thường.
Nhưng tại tại 3 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự thì HĐXX phúc thẩm
có quyền sửa BA, QĐ cho những bị cáo không KC, KN hoặc không bị KC, KN. Tại
Điều 330 Bộ luật tố tụng hình 2015 đã bổ sung nội dung này nhưng vẫn chưa đầy
đủ. Nên cần bổ sung thêm tính chất của XXPT, cụ thể: “XXPT là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại toàn bộ hay một phần VAHS mà Ba, QĐ sơ thẩm chưa có
hiệu lực PL do bị KC, KN trong thời hạn PL quy định và những phần của BA, QĐ
sơ thẩm đã có hiệu lực PL trong trường hợp mà pháp luật đã quy định” [27].
- Theo Điều 345 BLTTHS 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các
phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án nếu xét thấy cần thiết. Song
“cần thiết” là trường hợp nào thì chưa được quy định cụ thể trong BLTTHS 2015.
Vì thế, cụm từ “nếu xét thấy cần thiết” là không rõ ràng, chưa chặt chẽ mà cần phải
được quy định cụ thể. Cần phải quy định theo hướng ghi rõ trường hợp nào thì Tòa
án cấp phúc thẩm được quyền xét xử các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị
của bản án, quyết định sơ thẩm.
Do đó phạm vi xét xử phúc thẩm cần quy định như sau: “Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu TAPT thấy có căn cứ để
sửa hoặc hủy BA, QĐ theo hướng có lợi cho bị cáo không có KC, KN nhưng có liên
quan đến KC, KN đang được giải quyết thì có quyền xem xét toàn bộ VAHS không
phụ thuộc vào giới hạn và phạm vi KC, KN”. Giống như BLTTHS của nước Pháp.
- Theo Khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì cơ sở để Hội đồng
XXPT tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn; áp dụng
hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; tăng mức BTTH; chuyển sang hình
phạt khác thuộc loại nặng hơn; không cho bị cáo hưởng án treo trong trường hợp
63
VKS - KN hoặc bị hại KC yêu cầu. Như vậy, nếu đại diện hợp pháp của người bị
hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có KCo yêu cầu
TAPT giải quyết thì không được chấp nhận. Cho nên hiệu lực của KC quy định cho
những chủ thể này tại Bộ luật tố tụng hình sự là chưa đầy đủ và chưa bảo đảm
quyền KC cho các chủ thể tham gia tố tụng. Do vậy cần bổ sung khoản 2 Điều 357
theo hướng ngoài trường hợp VKS - KN hoặc bị hại KC yêu cầu, cần thêm đại diện
hợp pháp của người bị hại hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại,
nguyên đơn dân sự là NCTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
3.2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật (hướng dẫn, tổng kết xét xử
phúc thẩm, xây dựng án lệ)
Một là, Về tư cách tham gia tố tụng của bị cáo không KC hoặc không bị KC,
KN nhưng Hội đồng XXPT xét thấy cần thiết triệu tập họ đến phiên tòa XXPT thì
chưa được quy định rõ ràng; Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay vẫn chưa khắc phục
được vấn đề này. Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, cần có văn bản chính
thức của cơ quan có thẩm quyền về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị
cáo không KC hoặc không bị KC, KN và những người tham gia tố tụng khác ở giai
đoạn XXPT.
Hai là, theo Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng XXPT có
thể sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Luật
hình sự về tội nặng hơn, tăng mức BTTH trong trường hợp VKS - KN hoặc bị hại
KC có yêu cầu. Theo đó, nếu đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ
quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có KC yêu cầu TAPT giải quyết theo
hướng không có lợi cho bị cáo thì không được chấp nhận. Nhưng thực tiễn XXPT
thì không phải người bị hại nào, nguyên đơn dân sự nào cũng có khả năng làm KC
(trường hợp người bị hại đang phải nằm trong bệnh viện trong tình trạng bất tỉnh,
người bị hại CTN). Như vậy, hiệu lực của kháng cáo quy định cho những người này
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chưa đầy đủ và chưa đảm bảo quyền
kháng cáo những người tham gia tố tụng. Vì thế, cần có văn bản hướng dẫn Hội
đồng XXPT có quyền sửa BA, QĐ theo hướng tăng nặng TNHS sự và trách nhiệm
64
dân sự đối với bị cáo bị KC của người đại diện hợp pháp của người bị hại; cần
hướng dẫn bổ sung thêm cơ sở để Hội đồng XXPT tăng mức BTTH khi có KC của
nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích của đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân sự là NCTN, có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất.
Ba là, Theo Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng XXPT có thể sửa
BA, QĐ theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội
nặng hơn nếu có KC, KN yêu cầu chuyển khung hình phạt khác nặng hơn khung
hình phạt mà TAST đã áp dụng trong điều luật, hoặc chuyển sang tội danh khác
nặng hơn tội danh mà TAST đã xét xử. Cho nên, có thể vi phạm đến quyền được
bào chữa của bị cáo, quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 hoặc vi
phạm về thành phần Hội đồng xét xử trong trường hợp khung hình phạt nặng hơn
đó hoặc tội danh nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của TAST. Cụ thể
như việc Hội đồng XXPT tăng nặng hình phạt đối với bị cáo đến 20 năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình, hoặc thay đổi tội danh từ “Cưỡng đoạt tài sản” sang tội
“Cướp tài sản”. Thì Hội đồng XXPT có quyền sửa BA, QĐ trường hợp này không,
nếu Hội đồng XXPT không được quyền sửa BA, QĐ thì Hội đồng XXPT quyết
định như thế nào trong trường hợp này. Hiện nay vấn đề này vẫn chưa được hướng
dẫn cụ thể, rõ ràng. Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn về trường hợp này để áp
dụng thống nhất.
3.2.3. Giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống Toà án nhân dân
Như đã biết trong những năm qua, Đảng và NN đã ban hành và lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị, cải cách tư pháp, nên đã được được một số mặt tích
cực. Thi hành Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan, Tòa án nhân dân các cấp đã từng bước được kiện
toàn về tổ chức bộ máy và ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động; đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm, cán bộ, công chức Tòa án được củng cố, tăng cường cả về số lượng
và chất lượng; cơ sở vật chất đã có bước cải thiện nhất định, tạo điều kiện để các
65
Tòa án hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu và nhiệm vụ chính trị đặt ra
đối với công tác Tòa án.
Tuy nhiên, với nhận định: “tổ chức bộ máy của TAND vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số đơn vị chưa rõ ràng,
còn chồng chéo, trùng lắp… ; công tác kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với tinh giản
biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm đạt kết
quả thấp; cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức giữa TAND các cấp và trong từng
đơn vị, Tòa án chưa hợp lý; năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức không đồng đều, tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối văn
phòng; năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số đơn
vị, Tòa án còn hạn chế; công tác hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý điều hành chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách tiền lương còn bất
cập”… tại buổi Hội thảo về Đề án tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
TAND bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương
6 khóa XII của Đảng, nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới do
Tòa án nhân dân tối cao tổ chức ngày 05/8/2019, đồng chí Bí thư Trung ương Đảng,
Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình chủ trì Hội thảo đã kết luận và đưa ra
phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống Toà án nhân dân trong thời
gian tới, cụ thể như sau:
3.2.3.1. Về đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy Toà án nhân dân cấp cao
Về số lượng TANDCC: Có thể thành lập thêm TANDCC tại Cần Thơ và tại
Thái Nguyên; từ đó bố trí lại địa giới đảm nhận của các TANDCC. Đồng thời xem
xét lại cơ cấu tổ chức, bộ máy của TANDCC bao gồm: Ủy ban Thẩm phán, các Tòa
chuyên trách và bộ máy giúp việc.
Trong đó, bộ máy giúp việc được sửa đổi, bổ sung như sau:
+ Văn phòng: Là đơn vị cấp vụ loại II; thực hiện nhiệm vụ giúp Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao về công tác cán bộ, công tác hành chính tư pháp và bảo
66
đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp cao.
+ Bộ phận giúp việc cho Ủy ban Thẩm phán TANDCC trong công tác xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật: Thành lập Vụ Giám đốc thẩm,
tái thẩm (trên cơ sở gộp 3 Phòng Giám đốc, kiểm tra hiện nay) để giúp việc cho Ủy
ban Thẩm phán trong công tác xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các loại vụ, việc
thuộc thẩm quyền của TANDCC (không tổ chức cấp phòng trong Vụ).
3.2.3.2. Những nhiệm vụ, giải pháp lâu dài
Về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án nhân dân: Đề
nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 21 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định:
“Cơ cấu tổ chức của TANDTC gồm: Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Bộ máy giúp
việc; Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và các đơn vị sự nghiệp công lập khác”.
Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 37, Điều 39 Luật Tổ chức TAND 2014 theo
hướng: Giao cho Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh có thẩm quyền GĐT, tái thẩm
đối với BA, QĐ về một số loại vụ việc của TAND cấp huyện có hiệu lực PL.
Về đội ngũ cán bộ: Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 66 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 theo hướng tại TANDTC có Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán cao cấp,
Thẩm phán trung cấp; tại TANDCC có Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp.
Đề nghị sửa đổi điểm a các khoản 1, 2, 4 Điều 68; điểm a khoản 1 Điều 69
Luật Tổ chức TAND năm 2014 theo hướng rút ngắn thời gian giữ ngạch Thẩm phán
cũ còn 03 năm (thay vì 05 năm như hiện nay) nhằm tạo nguồn cán bộ trẻ cho các
chức danh lãnh đạo, quản lý.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014
theo hướng: Trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo TANDCC, TAND cấp tỉnh, TAND
cấp huyện có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán cao cấp (trước mắt không cần có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ
xét xử và sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để được đào tạo nghiệp vụ xét xử sớm
nhất…).
67
Đề nghị UBTVQH xem xét: Quy định về cơ cấu, số lượng thành viên Hội
đồng Thẩm phán TANDTC từ nguồn nhân sự bên ngoài TAND (quy định tại khoản
2 Điều 69) theo hướng không quá 02 người từ các đối tượng là Kiểm sát viên, Luật
sư; quy định cơ chế bảo đảm an toàn cho Thẩm phán và cán bộ Tòa án trong quá
trình thực thi công vụ.
Các điều kiện đảm bảo cho hoạt động Tòa án như: Đề nghị Nhà nước có
chính sách ưu tiên về trụ sở, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động; tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong công tác Tòa án; cải cách chế độ tiền lương và
chính sách ưu đãi cho cán bộ Tòa án [36].
3.2.4. Các giải pháp khác
Kết quả của công tác XXPT các VAHS phụ thuộc rất lớn vào các chủ thể
tiến hành tố tụng, nhất là đối với TP của TAPT. Thực tế cho thấy trình độ chuyên
môn và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ TP ở nước ta nói chung và của TP -
XXPT các VAHS nói riêng còn nhiều bất cập, không đồng đều, kỹ năng nghiệp vụ
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, xây dựng đội ngũ TP nói chung và đội
ngũ TP - XXPT các VAHS nói riêng có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên
môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi là một yêu cầu cấp thiết. Một số giải pháp có ý
nghĩa rất quan trọng để nâng cao năng lực của TP – XXPT, gồm:
- Tập trung nâng cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ
Thực hiện Chỉ thị 05 của BCT Trung ương về “đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương bốn về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ. Cần thiết phát triển phong trào thi đua thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chi
Minh với ggành TAND “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, gắn với phương
châm “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” với việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Người trong hệ thống Tòa án nhân dân với chủ đề “Nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ TP, cán bộ, công chức ngành
68
TAND”. Mỗi người TP phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống và tự
xây dựng kế hoạch hành động cho cá nhân; phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình
và phê bình; tích cực phát hiện và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu,
lãng phí, tiêu cực; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với
cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý và thực hiện công tác cán bộ.
- Thực hiện tốt công tác thi tuyển và bổ nhiệm thẩm phán:
Phải làm tốt công tác thi tuyển và bổ nhiệm các chức danh Thẩm phán
TAND, phải lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng
vững vàng, bảo đảm đúng các tiêu chuẩn theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật
tổ chức TAND 2014. Lựa chọn các TP xuất sắc ở TAST để bổ nhiệm TP ở TAPT.
Việc tái bổ nhiệm TP phải căn cứ vào chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của TP trong
nhiệm kỳ, kiên quyết không đề nghị tái bổ nhiệm những người hoàn thành nhiệm
vụ, nhưng còn hạn chế về năng lực.
- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn
và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ TP nói chung và Thẩm phán TAPT nói riêng:
TANDTC cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng (ngắn hạn) cho
đội ngũ TP cấp phúc thẩm về kỹ năng xét xử phúc thẩm, kỹ năng tranh tụng tại các
phiên toà phúc thẩm, cũng như các kỹ năng đặc thù nghiệp vụ xét xử và cập nhật
thường xuyên các kiến thức pháp luật. Do vậy sẽ là 1 trong những giải pháp quan
trọng và nhất thiết phải triển khai trong thời gian tới, để sớm trang bị kỹ năng nghề
nghiệp cho đội ngũ TP nói chung và các Thẩm phán TAPT nói riêng, để có thể đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài trong chiến lược cải cách tư
pháp ở nước ta.
- Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của
TP- XXPT:
Việc sắp xếp, bố trí và phân công nhiệm vụ đối với TP nói chung và TP -
TAPT nói riêng phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực tế
của họ. Cần kịp thời chuyển những TP hạn chế về trình độ chuyên môn hoặc kỹ
năng nghiệp vụ sang làm công việc khác phù hợp hơn.
69
- Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với Thẩm
phán:
Khi chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ được nâng nên sẽ tạo động giúp
Thẩm phán và Thư ký tòa án làm việc có chất lượng và hiệu quả, yên tâm, phấn
khởi, tập trung thời gian, trí tuệ vào nghiên cứu hồ sơ để hoàn thành nhiệm vụ
XXPT. Do vậy đây cũng được coi như là giải pháp hữu hiệu để hạn chế, ngăn chặn
sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường hành hóa ngày nay. Những năm gần đây,
Đảng và NN ta đã quan tâm và có nhiều cố gắng áp dụng những biện pháp cần thiết
để cải cách chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp
nói chung và đối với Thẩm phán nói riêng. Tuy nhiên, chế độ, chính sách đãi ngộ
đối với cán bộ, công chức và Thẩm phán hiện nay còn chưa phù hợp với đặc thù
công tác Toà án, còn nhiều bất hợp lý, chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp
và chế độ trách nhiệm pháp lý, chưa thực sự tạo được động lực khuyến khích đội
ngũ cán bộ, công chức đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất
đạo đức, năng lực công tác. Vì vậy, tiếp tục cải cách chính sách tiền lương và các
chế độ đãi ngộ khác để phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù, là một yêu cầu
cấp thiết và cũng một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt
động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử phúc thẩm nói riêng.
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở lý luận và pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở
Chương 1 và Thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của TAND cấp
cao tại Đà Nẵng trong giai đoạn 2015-2019 ở Chương 2. Tại Chương 3 của luận
văn, học viên đã nêu và phân tích các yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét
xử phúc thẩm, gồm: Yêu cầu về việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, yêu cầu
về chiến lược cải cách tư pháp, yêu cầu về bảo vệ quyền con người và yêu cầu về
phòng, chống tội phạm; Học viên cũng đã đưa ra được một số giải pháp nhằm bảo
đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS có giá trị thực tiễn cũng như
khoa học pháp lý.
70
KẾT LUẬN
Cải cách tư pháp là quá trình đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Trong đó, chú trọng việc bảo
đảm nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS là yêu tố vô cùng quan trọng. Với mục
đích đi sâu tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam quy
định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở TAND cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn
2015 - 2019, ở luận văn này, học viên đã nêu và phân tích làm sáng tỏ khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa, cũng như quá trình hình thành và phát triển của những quy định
của LTTHS Việt Nam về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS. Sau khi nêu được nội
dung những quy định của LTTHS Việt Nam hiện nay quy định về phạm vi xét xử
phúc thẩm VAHS, học viên đã nêu phân tích và so sánh những quy định này với
Luật tố tụng hình sự của một số quốc gia như: Nga, Pháp và Trung Quốc.
Với thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của TAND cấp cao
2 giai đoạn 2015-2019, luận văn đưa ra những giải pháp đảm bảo thực hiện đúng
những nội dung quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về phạm vi xét xử
phúc thẩm VAHS. Những giải pháp nêu trên có cơ sở thuyết phục, có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Việc thực hiện đầy đủ các giải pháp này sẽ
đảm bảo thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở Tòa án cấp phúc thẩm
nói chung và ở TAND cấp cao 2 nói riêng; góp phần to lớn trong công tác khởi tố,
điều tra, xét xử tội phạm xảy ra trên địa bàn 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, gồm: Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.
Luận văn này là tài liệu dùng để tham khảo trong quá trình thực hiện nguyên
tắc hai cấp xét xử trong TTHS nói chung và về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS tại
TAND cấp cao nói riêng. Do phạm vi của đề tài cũng như trình độ nhận thức của
học viên có những hạn chế, thiếu sót nên học viên mong sự đóng góp ý kiến của
các nhà khoa học.
Xin chân thành cảm ơn./.
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thành An (2018), Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình
sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện Khoa học xã hội.
2. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trương Thi, Sài Gòn, tr 136;
3. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới tổ
chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan Điều tra theo Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Nghị
quyết Đại hội đại biểu lần IX, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị
quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005,
Hà Nội.
7. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị
quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành
ngày 02/6/2005, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2013), Ban chỉ đạo Đề án IV “Đấu tranh phòng, chống tội phạm
xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”, Hà Nội.
10. Trương Phạm Huyền Châu (2018), Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao
tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội.
11. Chính Phủ (2012), Quyết định số 41/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về chế
độ dưỡng bồi người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự,
ban hành ngày 05/10/2012, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb tổng hợp Đồng Nai, tr 254-258.
13. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND,
Hà Nội.
14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luậst hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo luật tố
tụng hình sự, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư
“Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 08/12/2005, Hà
Nội.
18. Vũ Gia Lâm (2008), Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
19. Ngô Hà Nam (2017), Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội.
20. Nguyễn Thị Hồng Phương (2012), Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Xuân Quang (2017), Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
22. Đinh Văn Quế (1998), Về hình thức và thủ tục xét xử của phiên tòa hình sự,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 37-40.
23. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.
25. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
26. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
27. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
29. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
30. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
31. Quốc hội (2019), Nghị quyết 96/2019/QH14, về công tác phòng chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân
dân và công tác thi hành án.
32. Quốc hội, Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Tòa án nhân
dân cấp cao, ban hành ngày 28/8/2015, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Các báo cáo tổng kết công tác 2015 -
2019 và hồ sơ vụ án hình sự, Đà Nẵng.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 99/TANDTC về việc triển khai
thực hiện việc tổ chức Tòa án gia đình và người chưa thành niên, ban hành
ngày 14/4/2016, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: “Thực
trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động xét xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà
Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Hội nghị, hội thảo về “Chiến lược cải cách tư
pháp trong ngành Tòa án nhân dân định hướng đến năm 2030”.
37. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 hướng
dẫn hoạt động xét xử.
38. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1988), Thông tư liên
tịch số 01/TANDTC-VKSNDTC/TTLT hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 08/12/1988, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Thông tư liên tịch số
01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành
một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là
người chưa thành niên, ban hành ngày 12/7/2011, Hà Nội.
40. Nguyễn Anh Thư (2015), Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con
người trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nxb Tư
pháp, Hà nội.
42. Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2014), Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
43. Vũ Thị Uyên (2016), Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản
án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
Khoa học xã hội.
44. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
45. Viện ngôn ngữ (2006), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr
790