VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐỨC KIÊN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐÀ NẴNG - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐỨC KIÊN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ

ĐÀ NẴNG - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận

văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào

khác.

TÁC GIẢ

Trần Đức Kiên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI

XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................ 7

1.1. Lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ........................................... 7

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án

hình sự ....................................................................................................................... 19

1.3. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét xử phúc thẩm ............... 29

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ

NẴNG TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019 ............................................................... 34

2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng .......................................... 34

2.2. Kết quả thụ lý giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân

cấp cao tại Đà Nẵng từ 2015 - 2019 .......................................................................... 35

2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ....................................................................... 39

CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

ĐÚNG PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................... 56

3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ..... 56

3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình

sự ............................................................................................................................... 61

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BA, QĐ

: Bản án, quyết định

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

ĐCS

: Đảng cộng sản

KC

: Kháng cáo

KN

: Kháng nghị

LTTHS

: Luật tố tụng hình sự

NCTN

: Người chưa thành niên

NN

: Nhà nước

PL

: Pháp luật

PVXXPT

: Phạm vi xét xử phúc thẩm

TAND

: Toà án nhân dân

TACPT

: Tòa án cấp phúc thẩm

TANDCC

: Tòa án nhân dân cấp cao

TANDCT

: Tòa án nhân dân cấp tỉnh

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TP

: Thẩm phán

TKTA

: Thư ký tòa án

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

VAHS

: Vụ án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXPT

: Xét xử phúc thẩm

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ Quốc hội

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Thống kê tổng số thụ lý, giải quyết xét xử phúc thẩm vụ án

2.1. hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 35

2015 - 2019

Thống kê kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án 2.2. 36 nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019

Thống kê số lượng kháng cáo, kháng nghị, kết quả xét xử

2.3. phúc thẩm VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng 38

giai đoạn từ năm 2015-2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như đã biết, để giải quyết đúng vụ án hình sự và bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người của những người tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng hình sự hiện

hành quy định một VAHS được xét xử qua cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm (nguyên

tắc hai cấp xét xử); ngoài ra, còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm.

Vì có sự phân cấp xét xử nên thẩm quyền, phạm vi của từng cấp xét xử cũng được

quy định một cách khá cụ thể trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Với việc pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về hai cấp xét xử

VAHS cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tích cực nghiên cứu và đẩy mạnh công

tác cải cách tư pháp, lấy trọng tâm là ngành Tòa án, trong đó tại Nghị quyết Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2000) của Đảng đã chỉ rõ: “Cải cách tổ chức,

nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần

trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp... Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân

dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp” [4].

Ngày 28 tháng 5 năm 2015, sau khi Luật tổ chức TAND năm 2014 có hiệu

lực, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban

hành Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13, về việc thành lập 03 Tòa án nhân dân

cấp cao, bao gồm: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (TANDCC 1), Tòa án nhân

dân cấp cao tại Đà Nẵng (TANDCC 2), Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ

Chí Minh (TANDCC 3) và theo quy định Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét

xử cấp thứ 3 từ dưới lên trong hệ thống xét xử 4 cấp của ngành Tòa án Việt Nam.

TANDCC có thẩm quyền dưới TANDTC và trên TANDCT... Tòa án nhân dân cấp

cao chính thức được thành lập và hoạt động từ ngày 01 tháng 6 năm 2015 [32].

Từ những phân tích nêu trên, học viên nhận thấy việc nghiên cứu phạm vi

xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp không chỉ đối với các vụ

án hình sự, dân sự … có ý nghĩa hết sức to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Vì trong

các Bộ luật tố tụng hiện nay nhà làm luật chỉ quy định về phạm vi xét xử phúc

thẩm, nhưng lại chưa có Điều luật nào quy định về phạm vi xét xử sơ thẩm, cụ thể

1

như tại Điều 345 BLTTHS Việt Nam năm 2015 quy định “Toà án cấp phúc thẩm

xem xét phần nội dung của BA, QĐ bị KC, KN. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem

xét các phần khác của BA, QĐ không bị KC, KN” [27]. Tại sao những quy định về

phạm vi xét xử phúc thẩm hình sự lại được luật hóa trong Điều 345 BLTTHS Việt

Nam 2015 còn những quy định về phạm vi xét xử sơ thẩm lại không được luật hóa

trong một Điều luật cụ thể, cũng giống như việc tại sao Tòa án nhân dân cấp quận,

huyện, thành phố thuộc tỉnh lại chỉ được luật hình sự và luật tố tụng hình sự quy

định xét xử sơ thẩm hình sự; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương được xét xử sơ thẩm và phúc thẩm VAHS; Còn Tòa án nhân dân cấp cao lại

chỉ được giới hạn phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS theo quy định tại Điều 345

BLTTHS Việt Nam.

Việc BLTTHS Việt Nam năm 2015 quy định như vậy thì trong quá trình thụ

lý giải quyết các VAHS phúc thẩm của ngành Tòa án nói chung và của Tòa án nhân

dân cấp cao trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc

thẩm VAHS đã và đang có những thuận lợi và khó khăn vướng mắc gì hay không?

Chính vì vậy học viên lựa chọn Đề tài “Phạm vi xét xử phúc thẩm theo pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”

làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xét xử phúc thẩm hình sự là hoạt động xét xử của ngành Tòa án nhân dân

nói chung, PVXXPT theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam luôn là đề tài nóng

hổi, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Tuy nhiên, do các Tòa án

nhân dân cấp cao mới được thành lập chưa lâu (năm 2015), nên trên thực tế có rất ít

những đề tài khoa học nghiên cứu về Phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa án

nhân dân cấp cao. Hoặc cũng có thể một phần do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn

chế của học viên, nên khi viết đề tài này, học viên đã và mới chỉ nghiên cứu, tìm

hiểu một số công trình đã được công bố như sau:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: "Thực trạng hoạt động XXPT và

giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động XXPT của Tòa phúc thẩm

2

TANDTC" của TANDTC, năm 2006 [35].

- Luận án tiến sĩ luật: “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt

Nam” của Vũ Gia Lâm, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2008 [18].

- Luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về THQCT và

kiểm sát XXPT VAHS của VKSND”, của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2012 [16].

- Luận văn thạc sĩ luật học “Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự”, của tác giả Nguyễn Thị Hồng Phương, Đại học Quốc

gia Hà Nội, Khoa luật năm 2012 [20].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo

luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở nghiên cứu

thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định”, của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2014 [42].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền

con người trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn

tỉnh Đắk Lắk”, của tác giả Nguyễn Anh Thư, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật

năm 2015 [40].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối

với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Vũ Thị Uyên, Học

viện Khoa học xã hội năm 2016 [43].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo luật

tố tụng hình sự, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang”, của tác giả

Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật năm 2016 [15].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm

tính mạng, sức khỏe của con người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Đồng Nai”, của tác giả Nguyễn Xuân Quang, Học viện Khoa học xã hội

năm 2017 [21].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền XXPT VAHS theo PLTTHS Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Ngô Hà Nam, Học viện Khoa

3

học xã hội 2017 [19].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng

hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn

Thành An, Học viện khoa học xã hội năm 2018 [1].

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành

phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Trương Phạm Huyền Châu, Học viện Khoa học xã

hội năm 2018 [10].

Tuy các công trình và bài viết đã nghiên cứu việc áp dụng pháp luật pháp

luật hình sự và TTHS trong xét xử nói chung và trong phiên tòa xét xử án hình sự

nói riêng ở một số địa phương. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về

phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Phạm vi xét xử

phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân

cấp cao tại Đà Nẵng”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực tiễn việc thụ lý giải quyết (xét

xử) phúc thẩm các VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, luận văn đưa ra

quan điểm lý luận về phạm vi, giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao; đưa ra

một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về PVXXPT và thực

hiện đúng đắn các quy định đó trong thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Thứ nhất: Phân tích khái niệm, đặc điểm xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa

án nhân dân cấp cao;

- Thứ hai: Phân tích được khái quát sự hình thành và phát triển của quy định

pháp luật về PVXXPT các VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao;

- Thứ ba: Đánh giá thực tiễn thực hiện PVXXPT của Tòa án nhân dân cấp

cao tại Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm những ưu

điểm, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế;

4

- Thứ tư: Đưa ra yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định về

PVXXPT trong tố tụng hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu các quy định về PVXXPT và thực tiễn xét xử phúc thẩm

VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật quy định về phạm

vi xét xử phúc thẩm VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

- Về thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng HCM về NN và PL, các quan điểm của ĐCS Việt Nam về xây dựng NN pháp

quyền, cải cách tư pháp, bảo vệ QCN...

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, so sánh, phân

tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và vụ việc điển hình.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần trong việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự

và tố tụng hình sự về phạm vi xét xử VAHS nói chung và phạm vi xét xử phúc thẩm

VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết,

các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của cán bộ tư pháp nói chung

và của Thẩm phán nói riêng về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS trong thực tiễn xét

xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Bên cạnh đó, Luận văn có thể được sử

dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo,

5

nghiên cứu khoa học pháp lý. Các Tòa án nhân dân cấp cao có thể khai thác kết quả

nghiên cứu để áp dụng pháp luật quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS tại

Tòa án nhân dân cấp cao.

7. Cơ cấu của luận văn

Gồm phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày

thành ba chương, tám tiết.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm

vụ án hình sự.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử

phúc thẩm vụ án hình sự.

6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI

XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

1.1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Theo Từ điển Hán - Việt thì phúc thẩm không có nguyên nghĩa, mà phải

ghép nghĩa của hai từ: “phúc” có nghĩa là “lật lại, úp lại, xét kỹ”; còn “thẩm” có

nghĩa là “xử đoán” [2, tr. 136].

Còn từ điển Tiếng Việt thì “phúc thẩm” nghĩa là: TAND cấp trên xét xử lại

một vụ án do cấp dưới đã XXST mà có chống án [45, tr.790].

Theo từ điển Thuật ngữ Luật học của Trường đại học Luật Hà Nội thì “phúc

thẩm” là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nhằm kiểm tra lại

tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa lại những sai lầm

và vi phạm của Tòa án sơ thẩm, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật [44,

tr. 378].

Theo Khoản 1 Điều 330 BLTTHS Việt Nam năm 2015 (có hiệu lực kể từ

ngày 01/01/2018) thì “Xét xử phúc thẩm hình sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp

xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối

với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị” [27].

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng

hình sự được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là, phúc thẩm là một giai

đoạn trong quá trình Tố tụng hình sự, phúc thẩm là một thủ tục tố tụng và phúc

thẩm là một cấp xét xử.

Dưới góc độ là giai đoạn tố tụng, phúc thẩm được hiểu là giai đoạn của quá

trình TTHS, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại VAHS mà bản án, quyết định

sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của

7

pháp luật nhằm mục đích kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các bản án,

quyết định sơ thẩm, khắc phục kịp thời vi phạm, sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm,

bảo đảm việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của Nhà nước.

Dưới góc độ là thủ tục xét xử, thì thủ tục xét xử phúc thẩm trong TTHS là

cách thức tiến hành hoạt động TTHS để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại VAHS mà

một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực

bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp thời sai

lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước.

Dưới góc độ là cấp xét xử thì phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, theo đó Tòa án

có thẩm quyền xét xử lại VAHS mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp

thời sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi

ích NN.

Như vậy, xét xử phúc thẩm hình sự là việc TAPT xét xử lại VAHS đã được

TAST thẩm giải quyết bằng bản án, quyết định chưa có hiệu lực PL nhưng bị kháng

cáo, kháng nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết

định đó theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định. Sau khi bản án, quyết định sơ

thẩm được tuyên thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay mà còn một

thời gian để các đương sự (bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...)

kháng cáo, VKSND xem xét kháng nghị. Khi có KC, KN đối với BA, QĐ sơ thẩm

thì TACPT trực tiếp tiến hành xét xử lại VAHS. Thủ tục xét xử lại VAHS được gọi

là thủ tục PTHS, thủ tục này được bắt đầu khi có kháng cáo của các đương sự hoặc

kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định sơ thẩm trong thời hạn luật

định. Về bản chất phúc thẩm không phải là lần xét xử đầu tiên đối với một VAHS

mà là lần xét xử thứ hai. Thủ tục xét xử phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ

thẩm, mục đích của phúc thẩm hình sự là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ

8

của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp bị kháng cáo, kháng nghị.

Thông qua đó, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân,

đảm bảo cho bản án, quyết định đưa ra thi hành là những bản án, quyết định đúng

pháp luật và có căn cứ. Căn cứ tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm là

kháng cáo, kháng nghị hợp pháp.

Như vậy, TTHS là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong

đó có giai đoạn xét xử, cụ thể như sau: Khi phân nhỏ giai đoạn xét xử thành các giai

đoạn nhỏ hơn thì XXPT có thể được hiểu là một giai đoạn trong TTHS; Còn dựa

vào cách thức tổ chức hệ thống TAND Việt Nam, thì TAND cấp trên có thẩm

quyền xét xử lại VAHS sau khi đã có BA, QĐ của TAND cấp dưới chưa có hiệu lực

pháp luật nhưng bị KC, KN thì phúc thẩm có thể được xem xét như một cấp xét xử

thứ 2 trên cấp XXST.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, theo học viên thì: “Xét xử phúc thẩm

vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực

tiếp xét xử lại vụ án hình sự mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp, bị đương sự (bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa

vụ liên quan …) kháng cáo hoặc bị Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị nhằm kiểm

tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân

cấp sơ thẩm,giúp khắc phục kịp thời các sai lầm của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm,

bảo vệ công lý, quyền con người,lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, pháp nhân”.

1.1.1.2. Đặc điểm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Trong PTXXPT – VAHS thì Hội đồng XXPT đồng thời thực hiện cả hai

chức năng vừa xét xử lại VAHS về nội dung, vừa xét lại tính hợp pháp và tính có

căn cứ của BA, QĐ sơ thẩm. Do đó, XXPT - VAHS có 7 đặc điểm, gồm:

Một là: Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo

pháp luật khi xét xử của Tòa án nhân dân cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn

của các tình tiết thực tế, tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ thu thập

trong hồ sơ VAHS, được cơ quan tố tụng (Cơ quan điều tra và VKSND) và cụ thể là

9

được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm dùng làm căn cứ để ban hành bản án, quyết định

đối với VAHS ở cấp sơ thẩm. Có nghĩa là Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm sẽ kiểm

tra tính đúng đắn để xác định rõ nội dung VAHS, sự việc liên quan, kiểm tra, xác

minh chứng cứ có đầy đủ, chính xác không, thẩm tra xem pháp luật liên quan được

áp dụng có đúng không?

Từ các KC, KN đúng luật, Hội đồng XXPT sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại

đối với những BA, QĐ của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm bị KC, KN. Theo đó thì

Hội đồng XXPT tiến hành xét lại tính hợp pháp của BA, QĐ và tính có căn cứ về sự

phù hợp giữa kết luận trong BA, QĐ với những sự kiện xảy ra trên thực tế khách

quan của VAHS. Hội đồng XXPT tiến hành xét xử lại VAHS để giải quyết VAHS

một cách chính xác dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét

toàn diện, khách quan tài liệu trong hồ sơ VAHS.

- Hai là: Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm không bị ràng buộc, hạn chế bởi

những nội dung kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của VKSND. Vì nếu xét

thấy cần thiết thì cấp phúc thẩm mới có thể xem xét các phần khác của bản án,

quyết định không bị đương sự kháng cáo, VKSND kháng nghị trong giới hạn do

BLTTHS quy định (Điều 345 BLTTHS 2015).

- Ba là: Những người tham gia tố tụng hình sự có quyền, nghĩa vụ cơ bản

như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Khi bảo vệ nội dung KC, KN thì chủ thể KN, cơ

quan KN có quyền xuất trình các nguồn chứng cứ mới chưa được công bố tại

TAND cấp sơ thẩm.

- Bốn là: Đối tượng của xét xử phúc thẩm là những bản án, quyết định của

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm do bị kháng cáo, kháng nghị hợp pháp nên chưa có

hiệu lực pháp luật. Khi XXPT - VAHS cũng là một cách để TAND cấp trên có thể

kiểm tra chất lượng xét xử và hướng dẫn TAND cấp dưới xét xử đúng PL, xây dựng

kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xét xử. Tuy nhiên, không phải tất

cả các VAHS xét xử ở TAND ở cấp sơ thẩm đều được XXPT. Mà chỉ có những

BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu PL bị KC, KN đúng theo quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự mới là đối tượng của XXPT. Vì BA, QĐ sơ thẩm mặc dù có vi phạm,

10

thiếu sót nhưng không có KC, KN thì BA, QĐ đó cũng không bị XXPT. Và khi BA,

QĐ sơ thẩm đã có hiệu lực PL mới phát hiện thấy sai lầm thì cũng không phải là đối

tượng của XXPT. Vì trong trường hợp này BA, QĐ sơ thẩm đó sẽ được xem xét

theo thủ tục GĐT, tái thẩm theo quy định của PLTTHS.

Như vậy XXPT chỉ được áp dụng khi có KC, KN đúng luật định. Vì chỉ các

KC, KN đúng quy định của pháp luật mới là căn cứ để BA, QĐ chưa có hiệu lực PL

trở thành đối tượng cần được XXPT. Hay nói cách khác, kháng cáo, kháng nghị hợp

pháp là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm.

Như vậy quyền KC là nét đặc trưng của XXPT - VAHS. Vì sau khi Tòa án

nhân dân xét xử sơ thẩm thì bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật ngay, bị

cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vẫn còn có quyền

kháng cáo yêu cầu xét xử lại một lần nữa ở Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp. Do

vậy khi căn cứ để tiến hành XXPT là Cáo trạng truy tố của VKSND; căn cứ để tiến

hành GĐT, TT là KN của những người có thẩm quyền là những căn cứ mang tính

quyền lực NN, thì XXPT có thể được phát sinh bởi KC của các chủ thể tham gia

TTHS. Với việc KC các chủ thể tham gia TTHS đã bày tỏ được sự chưa đồng ý đối

với BA, QĐ sơ thẩm và trình bày các ý kiến của bản thân đối với BA, QĐ sơ thẩm.

Và nêu ra các ý kiến, đề nghị của bản thân trong giai đoạn XXPT.

- Năm là: Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong XXPT là TAND,

VKSND cấp phúc thẩm và những chủ thể tham gia giai đoạn XXST được tuyên

quyền kháng cáo trong BA, QĐ sơ thẩm hoặc các chủ thể có liên quan đến KC, KN

hoặc các chủ thể khác tham gia ở giai đoạn XXPT được TAPT mời đến để tham gia

giai đoạn XXPT.

- Sáu là: Phiên tòa xét xử phúc thẩm VAHS có một số đặc thù (khác biệt với

phiên tòa xét xử sơ thẩm) như: Mặc dù theo Điều 354 BLTTHS 2015 quy định:

“Thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm tiến hành

như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi tiến hành xét hỏi một thành viên của Hội

đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội

dung kháng cáo, kháng nghị”. Nghĩa là việc công bố Cáo trạng của Kiểm sát viên (ở

11

cấp sơ thẩm) là chức năng và quyền hạn của Viện kiểm sát. Nhưng trong XXPT lại

được thay thế bằng việc một thành viên Hội đồng XXPT tóm tắt nội dung VAHS,

quyết định của BA sơ thẩm, nội dung KC, KN; Và việc luận tội của KSV ở phần

tranh luận (ở cấp sơ thẩm) đã được thay thế bằng việc trình bày kết luận của đại

diện VKSND.

- Bảy là: Khi tham gia phiên tòa XXPT - VAHS, các chủ thể tham gia giai

đoạn XXST có liên quan đến KC, KN có quyền bổ sung thêm nguồn chứng cứ.

Những người KC và chủ thể KN ngoài việc viện dẫn những tài liệu được thu thập

trong giai đoạn XXST ở hồ sơ VAHS mà còn được xuất trình những nguồn chứng

cứ mới chưa được xem xét tại phiên tòa XXST. BA, QĐ của TAPT phải căn cứ vào

kết quả tranh tụng khi XXPT. Khi XXPT các chủ thể tham gia XXPT đều được bảo

đảm được thực hiện những quyền, nghĩa vụ do pháp luật quy định, ... Như vậy

XXPT ngoài việc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của BA, QĐ sơ thảm còn

được quyền xét xử lại VAHS về mặt nội dung, nghĩa là xem xét tính đúng đắn của

VAHS về mặt thực chất.

Nên TTHS mới quy định các chủ thể tham gia XXST được quyền cung cấp

thêm tài liệu, chứng cứ mới để bảo vệ quyền lợi cho mình, không phải phụ thuộc

vào những tài liệu đã cung cấp trong giai đoạn XXST. Các chủ thể này đều được

quyền thay đổi lời khai, và yêu cầu mời thêm người làm chứng mới hoặc cung cấp

thâm các tài liệu, đồ vật mới. VKSND cấp phúc thẩm cũng có thể tự mình hoặc theo

yêu cầu của Hội đồng XXPT tiến hành ĐTBS, thu thập thêm những tài liệu mới để

làm sáng tỏ những vấn đề về nội dung VAHS. Tất cả các chứng cứ mới và chứng cứ

cũ đều được đưa ra xem xét trực tiếp tại phiên tòa XXPT và là căn cứ để HĐXX

phúc thẩm VAHS ban hành BA, QĐ phúc thẩm.

Bên cạnh những đặc điểm nêu trên thì khi xét xử phúc thẩm VAHS cũng cần

quan tâm đến các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng như: giữa Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm với Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm

(trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lý do kháng cáo quá hạn...);

giữa VKSND cấp sơ thẩm và VKSND cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản

12

án, quyết định sơ thẩm); Và mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm với

VKSND cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án...

1.1.2. Khái niệm phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Điều 345 BLHS Việt Nam năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018)

quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, như sau: Tòa án nhân dân cấp phúc

thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu

xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của BA, QĐ không bị KC, KN

[27].

Theo học viên, việc BLTTHS 2015 quy định như trên thì phạm vi xét xử

phúc VAHS, là giới hạn nội dung những vấn đề mà Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm

có thể xem xét, quyết định. Việc quy định phạm vi xét xử phúc VAHS có ý nghĩa

rất quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án nhân

dân cấp sơ thẩm.

Từ quy định trên, có thể thấy, khi tiến hành giai đoạn thụ lý xét xử phúc thẩm

VAHS, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm cần phải xem xét nội dung kháng cáo,

kháng nghị trước, nếu thấy cần thiết thì mới xem xét đến phần không bị kháng cáo,

kháng nghị. Tuy nhiên, việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị của Tòa án

cấp phúc thẩm không bị hạn chế bởi việc quyết định theo hướng có lợi cho người bị

kháng cáo (chấp nhận kháng cáo) hoặc theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát

(chấp nhận kháng nghị) mà có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS

về tội nhẹ hơn, giảm bồi thường, miễn hình phạt…, thậm chí tuyên bố bị cáo không

phạm tội hoặc cũng có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS về tội

nặng hơn, tăng mức bồi thường…, nếu có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó.

Nhưng Bộ luật tố tụng hình sự lại chưa quy định thế nào là trường hợp “cần thiết”

cho nên có thể vận dụng hướng dẫn tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số

01/TTLN ngày 08 tháng 12 năm 1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát

nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự:

Trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị KC, KN có điểm cần được

giảm nhẹ TNHS cho bị cáo [38]

13

Mặc dù, được xem xét hầu như toàn bộ nội dung VAHS nhưng khi quyết

định thì HĐXX phúc thẩm VAHS chỉ được quyết định theo hướng không làm xấu

đi tình trạng của người kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng

xấu đi đó. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm chỉ xem xét những phần bản án, quyết

định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng

hình sự quy định. Riêng các phần không bị KC, KN thì, TAPT chỉ xem xét đối với

những nội dung có thể dẫn đến việc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Còn việc BTTH thì

TAPT không được xem xét nếu không có KC, KN mặc dù có cơ sở để giảm mức

BTTH. Bên cạnh đó thì Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm cũng được quyền xem xét

về phần thủ tục tố tụng trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

ngay cả khi không có KC, KN.

Tóm lại PVXXPT - VAHS rất quan trọng vì chúng là cơ sở để HĐXX phúc

thẩm VAHS giải quyết các nội dung liên quan đến VAHS. Theo một cách tổng quát

thì PVXXPT - VAHS sẽ chỉ bị giới hạn bởi quy định của PL tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, tại phiên xét xử phúc thẩm VAHS, khi phát hiện có hành vi vi

phạm pháp luật và tội phạm mới, HĐXX phúc thẩm có quyền ra quyết định khởi tố

vụ án, hoặc ra các quyết định xử lý hành chính như cảnh cáo, phạt tiền đối với

những người vi phạm trật tự phiên tòa.

1.1.3. Mối quan hệ giữa phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền xét xử

của Tòa án cấp phúc thẩm

Như đã biết thì: Thẩm quyền xét xử của TAND là tổng hợp các quyền theo

quy định của PL để TAND giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc

xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của NN. Nên có thể hiểu việc pháp

luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền xét xử phúc thẩm chính là sự thể hiện

của việc Tòa án cấp phúc thẩm dùng các quyền được pháp luật quy định để áp dụng

khi thụ lý giải quyết một VAHS ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Nói như vậy để thấy

rằng, giữa phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS và thẩm quyền xét xử phúc thẩm

VAHS có mối quan hệ biện chứng qua lại chính là việc xác định giới hạn của việc

xét xử phúc thẩm một VAHS, cụ thể như sau:

14

Theo quy định của pháp luật về TTHS thì, thẩm quyền của Tòa án nhân dân

cấp phúc thẩm sẽ được chia thành hai mặt, đó là: Thẩm quyền về mặt nội dung và

thẩm quyền về mặt hình thức, trong đó:

Thẩm quyền về mặt hình thức (hay còn gọi là thẩm quyền xem xét) là việc:

TAPT xác định các VAHS, các BA, QĐ của TAST nào thuộc thẩm quyền xem xét

của TAPT và giới hạn, phạm vi, mức độ xem xét của TAPT đối với VAHS đó. Tóm

lại thẩm quyền về mặt hình thức xác định TAPT có quyền xem xét cái gì, ở mức độ,

giới hạn nào;

Còn thẩm quyền về nội dung là việc: Xác định các quyền của Tòa án nhân

dân cấp phúc thẩm trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm nhưng bị xem xét và xét xử lại ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.

Từ những phân tích nêu trên, học viên nhận thấy: Thẩm quyền về hình thức

của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm bao gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm và

phạm vi xét xử phúc thẩm; Còn thẩm quyền về nội dung (hay còn gọi là thẩm quyền

quyết định) của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm là việc thể hiện ở các quyền hạn

của Tòa án phúc thẩm khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các VAHS bị kháng cáo

hoặc kháng nghị.

Có thể thấy, phạm vi xét xử (thẩm quyền về hình thức) và quyền hạn của Toà

án cấp phúc thẩm (thẩm quyền nội dung) có quan hệ qua lại biện chứng. Về phạm

vi xét xử, Toà án cấp phúc thẩm không chỉ xem xét phần bản án bị kháng cáo,

kháng nghị, mà còn có thể xem xét toàn bộ vụ án. Tuy nhiên, về thẩm quyền nội

dung thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có quyền:

a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định

sơ thẩm;

b) Sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo (kể cả có

kháng cáo hay không có kháng cáo);

c) Sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng tăng nặng đối với bị cáo nếu

có kháng cáo của bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát theo hướng đó;

15

d) Sửa quyết định bồi thường dân sự nếu có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề

đó...

Việc quy định hạn chế thẩm quyền quyết định nêu trên là bảo đảm quan

trọng quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng, nhất là đối với bị cáo.

1.1.4. Ý nghĩa của phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

1.1.4.1. Về mặt chính trị - xã hội

Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng,

trong đó có quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS là góp phần vào việc thực

hiện những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, xác định Tòa án có vị trí trung

tâm, xét xử là trọng tâm theo tinh thần Nghị Quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cụ thể như sau: Đổi mới việc tổ

chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của chủ thể tiến

hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ,

văn minh ... [3].

Theo đó, phải đổi mới toàn bộ hệ thống Tòa án nhân dân cũng như hoạt động

thực tiễn và đội ngũ cán bộ, công chức của ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các

ngành tư pháp nói chung, trong đó có các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm

VAHS, nhằm đạt được kết quả cuối cùng là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân

nói chung và của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm luôn đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật.

Việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS thể hiện rõ sự phân định

nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với mỗi cấp xét xử đã được quy định trong

BLTTHS qua các thời kỳ (mới nhất là Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015). Việc

quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS đã đảm bảo cho bị cáo, người bị hại

và những người có quyền lời, nghĩa vụ liên quan đến VAHS bị xét xử ở cấp sơ thẩm

có quyền kháng cáo lên cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm thì những người

này vẫn còn nguyên quyền bào chữa, quyền đưa ra tài liệu chứng cứ, tạo điều kiện

được tranh tụng bình đẳng giữa người bị cáo, người bào chữa và với những người

tham gia tố tụng khác; còn VKSND được quyền bảo vệ nội dung kháng nghị. Tóm

16

lại, với việc quy định về PVXXPT - VAHS chính là cơ sở đảm bảo cho TAND xét

xử đúng người, đúng tội, đúng PL, góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội

chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân

đối với các cơ quan tư pháp, với Đảng và NN trong gian đoạn hiện nay.

1.1.4.2. Về mặt xây dựng pháp luật tố tụng hình sự

Việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, đảm bảo cho hoạt động

tố tụng hình sự được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Giai đoạn

XXPT-VAHS nối tiếp giai đoạn XXST-VAHS. Tòa án cấp trên (cấp phúc thẩm) chỉ

được xét xử phúc thẩm VAHS khi bản án, quyết định trong VAHS của Tòa án nhân

dân cấp sơ thẩm bị bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

kháng cáo hợp pháp hoặc bị VKSND cùng cấp (hoặc cấp trên) kháng nghị hợp

pháp.

Phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS còn định hướng cho hoạt động tố tụng của

các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với HĐXX

phúc thẩm VAHS trong việc thực hiện các quyền hạn của mình trong việc xem xét

và quyết định các vấn đề trong bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp sở thẩm

bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc cả các nội dung khác không bị kháng cáo, kháng

nghị. Từ đó, các chủ thể tham gia vào quá trình xét xử phúc thẩm VAHS, nhất là

đối với các thành viên trong HĐXX phúc thẩm VAHS có điều kiện thực hiện các

chức năng, nhiệm vụ của mình một cách triệt để, hiệu quả hơn, hạn chế hoặc ngăn

chặn được sự tùy tiện cũng như lạm quyền của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cũng có

thể là Luật sư (người bào chữa cho các đương sự) trong việc xét xử phúc thẩm

VAHS và tham gia xét xử phúc thẩm VAHS. Qua đó đảm bảo cho bản án, quyết

định của HĐXX phúc thẩm VAHS luôn phù hợp với sự thật khách quan của VAHS

và các quy định của pháp luật.

Từ thực tiễn quy định tại Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015 (chính thức có

hiệu lực từ ngày 01/01/2018) và từ những quy định khác của pháp luật tố tụng hình

sự Việt Nam về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, học viên thấy rất dễ dàng nhận

thấy thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm và nhận thức được Tòa án cấp

17

nào thì được xét xử phúc thẩm VAHS của các Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm, vì với

nội dung quy định tại Điều 345 BLTTHS 2015, TAPT xem xét phần nội dung của

BA, QĐ bị KC, KN. Khi xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của BA,

QĐ không bị KC, KN, thì:

Về thẩm quyền, TANDCT có thẩm quyền XXPT các BA, QĐ của TAND

cấp huyện trực thuộc bị KC, KN.

TANDCC có thẩm quyền XXPT BA, QĐ của TANDCT thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ bị KC, KN…

1.1.4.3. Về mặt thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Thứ nhất, phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS là quy định về giới hạn quá trình

xét xử lại VAHS có kháng cáo, kháng nghị, TAPT kiểm tra tính hợp pháp, tính có

căn cứ của bản án nhằm phát hiện có hay không những sai lầm, những vi phạm PL

trong quá trình giải quyết VAHS ở TAST, nếu có thì khắc phục và sửa chữa những

sai lầm, thiếu sót đó trong phạm vi thẩm quyền của mình.

Tóm lại, bằng nhiệm vụ và thẩm quyền của mình TAPT ngăn chặn việc đưa

ra thi hành các BA, QĐ có vi phạm PL, góp phần bảo vệ lợi ích của NN, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

Thứ 2, XXPT là một trong những quy định thể hiện rõ bản chất dân chủ và

tiến bộ của BTTHS Việt Nam. Quy định này buộc các TAND sơ thẩm phải thận

trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và có căn cứ khi ra

BA, QĐ về VAHS. Nó không cho phép chủ thể đã KC, VKSND đã KN được bổ

sung, thay đổi KC theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo; không cho phép

TAPT sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu

không có KC của người bị hại hoặc KN của VKSND theo hướng đó.

Thứ 3, khi có KC, KN đối với BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực PL, TAPT

đưa vụ án ra XXPT trong thời hạn luật định. Cho nên XXPT còn là một trong các

phương tiện hữu ích để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của NN, của xã hội,

các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của các chủ thể tham gia

giai đoạn XXST.

18

Thứ 4, thông qua việc thực hiện chức năng giám đốc việc xét xử, TAPT

hướng dẫn TAND cấp dưới giải thích và vận dụng đúng đắn PL. Các Bản án phúc

thẩm là một hình thức mẫu để TAND cấp dưới học tập, rút kinh nghiệm cho việc

xét xử. Do đó XXPT có ý nghĩa trong việc bảo đảm ADPL đúng quy định.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc

thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi xét

xử phúc thẩm vụ án hình sự từ năm 1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015

Sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

ra đời, ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 33C

thành lập các Tòa án quân sự. Đây cũng là dấu hiệu phá bỏ hoàn toàn bộ máy tư

pháp của chế độ thực dân, phong kiến. Về mặt lập pháp, do những ngày đầu chính

quyền dân chủ nhân dân chưa kịp ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có

pháp luật về tố tụng, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt

Nam dân chủ cộng hoà ra Sắc lệnh số 47 về tạm thời giữ nguyên các luật lệ hiện

hành của chế độ cũ nếu không trái với chính thể mới và không phương hại đến nền

độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó Chương IV và Chương V

Sắc lệnh có các quy định liên quan đến pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Ít lâu

sau, Sắc lệnh số 13 ngày 21/4/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán

được ban hành. Đây là văn bản pháp lý hoàn chỉnh nhất trong thời kỳ đầu của chính

quyền dân chủ nhân dân về tổ chức và hoạt động của Tòa án. Hệ thống Tòa án lúc

này gồm có Toà thượng thẩm, Toà đệ nhị cấp và Toà sơ cấp. Toà thượng thẩm đặt

tại 3 kỳ (Hà Nội, Huế, Sài Gòn) và làm nhiệm vụ xét xử phúc thẩm hình sự.

Tại HP 1946 đã ghi rõ ngành Tòa án của nước ta thời điểm đó gồm 4 cấp là:

Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Ngoài Tòa

án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp cũng có quyền xét xử phúc thẩm đối với quyết

định bản án của Tòa án sơ cấp. Năm 1950, cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất diễn

ra theo Sắc lệnh số 85-SL của Chủ tịch nước. Tòa án sơ cấp đổi thành Tòa án nhân

dân cấp huyện, Tòa án đệ nhị cấp đổi thành Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng

19

phúc án đổi thành Toà phúc thẩm.

Như vậy, mặc dù chưa được pháp luật quy định trực tiếp như hiện nay,

nhưng qua cách thức quy định tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp có thể thấy

nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử và phạm vi xét xử phúc thẩm hình sự đã

được ghi nhận trong thể chế tư pháp của Nhà nước dân chủ nhân dân từ những ngày

đầu tiên khi Việt Nam độc lập.

Theo Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, hệ

thống Tòa án ở Việt Nam bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp

tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, các Tòa án quân sự. Ngoài ra còn có Tòa án của

hai khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc, và khi cần có thể lập Tòa án đặc biệt. Nguyên

tắc hai cấp xét xử được ghi nhận chính thức và trực tiếp trong Luật Tổ chức Tòa án

nhân dân năm 1960 (nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Sắc luật số

01/SL/76 năm 1976 về hệ thống Tòa án của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng

hoà miền Nam Việt Nam). Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống

nhất về mặt nhà nước và pháp luật, Hiến pháp năm 1980 được ban hành. Luật Tổ

chức TAND 1981 không quy định nguyên tắc hai cấp xét xử của TAND. Tiếp đó,

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 cũng không quy định nguyên tắc này.

Năm 1988, BLTTHS đầu tiên được ban hành, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các

năm 1990, 1992 và 2000, tuy không ghi nhận nguyên tắc hai cấp xét xử nhưng đã

quy định tương đối toàn diện các quy định về phạm vi phúc thẩm hình sự, từ định

nghĩa khái niệm đến kháng cáo, kháng nghị, từ thẩm quyền xét xử đến các quy định

cụ thể tại phiên toà cũng như nhiều vấn đề khác có liên quan. Việc không quy định

trực tiếp nguyên tắc hai cấp xét xử đã gây ra những tranh luận không cần thiết trong

một khoảng thời gian dài trong giới nghiên cứu cũng như trong thực tiễn, và chỉ

được giải quyết dứt điểm khi có Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Tuy nhiên,

trên thực tế căn cứ vào các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân, có thể thấy rằng tuy pháp luật không quy định trực tiếp, nhưng tinh

thần và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử, thủ tục xét xử phúc thẩm vẫn được

thể hiện qua các quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động của TAND.

20

Thực tiễn thực hiện thủ tục phúc thẩm hình sự theo BLTTHS 1988 cho thấy

đã có nhiều vướng mắc và bất hợp lý cần khắc phục như thời hạn xét xử bị chậm,

xác định sai chủ thể có quyền KC hoặc xác định sai nội dung KC, KN; thực hiện

không đúng PVXXPT; thực hiện không đúng và không đầy đủ các quy định về thủ

tục tố tụng tại phiên toà; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng...

Đối với tính chất của phúc thẩm trong TTHS, trước đây có nhiều ý kiến khác

nhau. Tuy nhiên kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự 2003 có hiệu lực thi hành đã thể

hiện rõ XXPT là 1 cấp xét xử tức là thừa nhận nguyên tắc 2 cấp xét xử (lưỡng cấp

tài phán). Những người làm luật cho rằng việc xét xử lại các VAHS có KC, KN sẽ

hạn chế và khắc phục được những sai sót trong xét xử của TAST buộc chính các

TAND cấp trên phải thận trọng hơn.

Trong đó tại Điều 241 BLTTHS 2003, quy định về PVXXPT – VAHS thì:

TAPT xem xét nội dung KC, KN. Khi thấy cần thiết thì TAPT có thể xem xét phần

khác không bị KC, KN của BA, QĐ sơ thẩm.

Như vậy, theo BLTTHS 2003, về nguyên tắc, Tòa án nhân dân cấp phúc

thẩm chỉ xét xử lại VAHS trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Những

nội dung còn lại của BA, QĐ sơ thẩm không bị KC, KN sẽ có hiệu lực PL ngay khi

hết hạn KC, KN. Nhưng khi XXPT nếu thấy cần thiết TAPT được quyền xem xét cả

những phần khác của BA, QĐ sơ thẩm không bị KC, KN. Tuy nhiên nếu chủ thể

tham gia TTHS rút toàn bộ KC, KN tại phiên toà thì việc XXPT phải được đình chỉ.

1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về phạm vi xét xử

phúc thẩm vụ án hình sự

Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa 13 của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thay thế cho Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong đó tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự quy

định về PVXXPT, TAPT xem xét nội dung KC, KN. Khi thấy cần thiết thì TAPT

có thể xem xét phần khác không bị KC, KN của BA, QĐ sơ thẩm.

Như vậy theo quy định của BLTTHS 2015 thì phạm vi xét xử phúc thẩm của

Tòa án cấp phúc thẩm phụ thuộc vào phạm vi kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp.

21

Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ

án được khách quan, toàn diện thì TAPT có thể xem xét các phần khác của bản án,

quyết định không bị KC, KN.

Song song với việc quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS thì

BLTTHS 2015 cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của TAPT như sau:

1.2.2.1. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có nhiệm vụ và quyền hạn trong

việc xem xét đối với kháng cáo quá hạn

Điều 333 BLTTHS 2015 quy định thời hạn kháng cáo đối với bản án hình sự

sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; còn thời hạn kháng cáo đối với quyết định

sơ thẩm hình sự là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết

định. Như vậy, về nguyên tắc thì đối với những kháng cáo thực hiện ngoài thời hạn

luật định được gọi là kháng cáo quá hạn sẽ không được chấp nhận. Nhưng để đảm

bảo tính ổn định của BA, QĐ sơ thẩm, nếu có lý do chính đáng thì TAPT vẫn có thể

xem xét chấp nhận KC quá hạn đó nhằm bảo đảm quyền lợi của người KC, vì lý do

của việc KC quá hạn đó không phải do lỗi của họ. Các lý do đó có thể là do thiên

tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị,… khiến cho các chủ thể tham

gia giai đoạn XXST dù muốn cũng không thể KC trong thời hạn quy định được

(Điều 345 BLTTHS 2015 quy định về Kháng cáo quá hạn). Việc xét lý do KC quá

hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, không phụ thuộc vào

việc ngoài BC, đương sự KC quá hạn, trong VAHS còn có KC của các bị cáo hoặc

đương sự khác trong thời hạn quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 [27].

Còn về kháng nghị của VKSND, Điều 337 BLTTHS 2015 quy định: Thời

hạn kháng nghị của VKSND cùng cấp đối với bản án của Tòa án nhân dân cấp sơ

thẩm là 15 ngày, của VKSND cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày Tòa án cấp

sơ thẩm tuyên án; Thời hạn kháng nghị của VKSND cùng cấp đối với quyết định

của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKSND cấp trên trực tiếp là 15

ngày, kể từ ngày Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định. Riêng đối với trách nhiệm thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, thì kháng nghị của VKSND quá hạn với bất

22

kỳ lý do gì cũng không được xem xét (Luật tố tụng không quy định về kháng nghị

quá hạn giống như Điều 335 BLTTHS 2015 quy định về kháng cáo quá hạn) [27].

Vậy nên, kháng nghị quá hạn sẽ không làm phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm,

cũng đồng nghĩa với việc không làm phát sinh phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS.

1.2.2.2. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền xem xét đối với quyết định

của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm

Tại Điều 361 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã ghi rõ:

1. Hội đồng phúc thẩm có quyền:

a) Không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên quyết định của TAST khi xét

thấy các quyết định của TAST có căn cứ và đúng PLt;

b) Sửa quyết định của TAST;

c) Hủy quyết định của TAST và chuyển hồ sơ VAHS cho TAST sơ thẩm để

tiếp tục giải quyết VAHS;

2. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định”

[27].

1.2.2.3. Quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án của Toà án cấp

sơ thẩm

Tại Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ghi rõ:

1…

a) Không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm;

b) Sửa bản án sơ thẩm;

c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ VAHS để điều tra lại hoặc xét xử lại;

d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;

đ) Đình chỉ việc XXPT.

2. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án” [27].

Theo quy định nêu trên tại các Điều 355 và Điều 361 BLHS 2015, học viên

nhận thấy phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS đối với bản án, quyết định của Tòa án

nhân dân cấp sơ thẩm sẽ là việc tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm

sẽ xem xét và đưa ra các quyết định gồm:

23

Một là, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng

có lợi cho bị cáo.

Khoản 1 Điều 357 BLTTHS 2015 quy định:

“Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất,

mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:

a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng

hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;

b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;

c) Giảm hình phạt cho bị cáo;

d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;

đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;

e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.” [27]

Tóm lại, khi có căn cứ xác định BA, QĐ sơ thẩm đã tuyên không đúng với

tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết

mới thì Hội đồng XXPT mới có quyền được sửa BA, QĐ sơ thẩm. Việc sửa BA,

QĐ trong trường hợp này thường theo hướng có lợi cho bị cáo. Cụ thể như sau:

- Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố là

có tội và áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt, nếu có căn cứ “do chuyển biến

của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho

xã hội nữa”;

- Miễn hình phạt cho bị cáo, nếu có căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2

Điều 59 BLHS 2015 ghi rõ: Phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản

1, khoản 2 Điều 54 BLHS 2015, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến

mức được miễn TNHS;

- Áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn hoặc khung hình phạt nhẹ hơn

đối với bị cáo. Trong trường hợp áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn,

Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm nhẹ hình phạt hoặc không giảm hình phạt cho bị

cáo;

24

- Giảm hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung, hủy một trong các loại hình

phạt mà TAST đã áp dụng đối với bị cáo;

- Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (từ hình phạt tù sang

CTKGG hoặc phạt tiền, cảnh cáo); giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án

treo;

- TAPT chỉ xem xét phần dân sự của BA, QĐ sơ thẩm khi có KC, KN đối

với phần đó. Nếu thấy mức BTTH mà TAST quyết định cao hơn mức thiệt hại thực

tế do tội phạm gây ra, thì TAPT có thể giảm mức BTTH đối với bị cáo hoặc bị đơn

dân sự.

Nếu VAHS có nhiều bị cáo, qua việc XXPT – VAHS, khi có căn cứ thì

TAPT có quyền sửa bản án sơ thẩm: áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn;

giảm mức hình phạt hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn; giảm mức

BTTH, cho hưởng án treo hoặc giảm thời gian thử thách của án treo... đối với cả

những người không có KC, KN. Trường hợp này được ghi rõ tại khoản 3 Điều 357

BLTTHS 2015: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng XXPT có thể sửa bản án sơ thẩm

theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không KC hoặc không bị KC,

KN” [27].

Hai là, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa BA, QĐ thẩm theo hướng

tăng nặng đối với bị cáo.

Khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 quy định:

“Trường hợp VKS kháng nghị hoặc bị hại KC yêu cầu thì Hội đồng XXPT có

thể:

a) Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn; áp dụng

hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;

b) Tăng mức BTTH;

c) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;

d) Không cho bị cáo hưởng án treo” [27].

Theo đó, TAPT chỉ có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng đối

với bị cáo trong trường hợp VKS - KN hoặc người bị hại KC theo hướng đó. Nếu

25

VKS - KN hoặc người bị hại KC yêu cầu tăng hình phạt mà không yêu cầu áp dụng

điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn đối với bị cáo, thì TAPT chỉ có

quyền tăng mức hình phạt trong khung hình phạt mà TAST đã áp dụng đối với bị

cáo mà không có quyền áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và

chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn.

Tuy nhiên, nếu có căn cứ thì HĐXX vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều,

khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại

nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức BTTH.

Ba là, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để

điều tra lại.

Khoản 1, Điều 358, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:

“Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các

trường hợp:

a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để

khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;

b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ

sung được;

c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố”

[27].

Tóm lại TAPT sẽ được quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi việc

điểu tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.

Việc điều tra ở cấp sơ thẩm bao gồm cả việc điều tra ở giai đoạn điều tra, giai

đoạn truy tố và khi XXST. Việc điều tra bị coi là không đầy đủ nếu CQĐT, VKS và

TAST không làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với VAHS …,

và TAST cũng sẽ được quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp

nếu VKS cấp phúc thẩm không thể ĐTBS được và khi XXPT cũng không thể làm

sáng tỏ được. Nếu việc điều tra ở cấp sơ thẩm tuy là không đầy đủ, nhưng có thể

ĐTBS được ở cấp phúc thẩm, thì TAPT không hủy bản án sơ thẩm mà yêu cầu

VKS cấp phúc thẩm ĐTBS hoặc tự mình yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân

26

cung cấp thêm những nguồn chứng cứ khác.

Trong trường hợp cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi

tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm, hay có vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố thì HĐXX cấp phúc

thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, vì trong trường hợp này, bản án có thể

phản ánh không đầy đủ hoặc sai lệch so với sự việc đã diễn ra, các phán quyết của

tòa sơ thẩm không hợp lý.

Bốn là, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm

để xét xử lại.

Khi rơi vào các trường hợp đã được quy định tại khoản 2 Điều 358 BLTTHS

2015 thì HĐXX cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Cụ thể:

“Hội đồng XXPT hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành

phần HĐXX mới trong các trường hợp:

a) Hội đồng XXST không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;

b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;

c) Người được TAST tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó

đã phạm tội;

d) Miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị

cáo không có căn cứ;

đ) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc ADPL nhưng không

thuộc trường hợp Hội đồng XXPT sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ

luật này” [27].

Như vậy, HĐXX sơ thẩm phải đúng theo sự quy định của pháp luật. Tại Điều

254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi rõ: “Hội đồng XXST gồm 1 TP và 2

HTND. Trường hợp VAHS có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng XXST

có thể gồm 2 TP và 3 Hội thẩm. Đối với VAHS có bị cáo về tội mà BLHS quy định

mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng XXST

thẩm gồm 2 TP và 3 HTND [27]. Như vậy, khi rơi vào trường hợp thành phần của

HĐXX cấp sơ thẩm không đúng thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét

27

xử lại.

- Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định có thể là một những

trường hợp sau:

+ HĐXX không đủ 05 thành viên khi xét xử bị cáo về tội theo khung hình

phạt có mức cao nhất là tử hình;

+ Trong thành phần HĐXX không có HTND là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

thanh niên khi xét xử bị cáo là NCTN;

+ TP hoặc HTND hết nhiệm kỳ nhưng chưa được tái bổ nhiệm;

+ Người không được bầu là HTND tham gia Hội đồng xét xử - VAHS;

+ Thành viên của HĐXX không phải là TP hoặc HTND của TAST.

- Vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể là một trong những

trường hợp sau đây:

+ Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án không đúng thẩm quyền (như Tòa án cấp

huyện xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử cùa Tòa án cấp tỉnh; Tòa án nhân dân

xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự...);

+ Vi phạm nghiêm trọng quyền bào chữa của bị cáo như TAST không yêu

cầu Đoàn luật sư cử NBC cho bị cáo là NCTN hoặc là người có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất; bị cáo bị xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất quy định đến

tử hình...

+ Xử vắng mặt bị cáo hoặc NBC cho bị cáo trong những trường hợp pháp

luật không cho phép...

- Có căn cứ cho rằng bị cáo (được TAST tuyên bố không có tội) đã phạm tội,

nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Bị cáo phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng Tòa án

cấp sơ thẩm xác định bị cáo phòng vệ chính đáng;

+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,

nên đã xác định hành vi của bị cáo đã quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

nên bị cáo không có tội;

+ TTAST đã tính nhầm thời hạn xóa án tích hoặc thời hạn bị xử phạt hành

28

chính nên cho rằng hành vi của bị cáo không đủ yếu tố CTTP.

Ngoài ra, trong hai trường hợp bao gồm: miễn trách nhiệm hình sự, miễn

hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ hoặc bản

án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không

thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của

BLTTHS 2015 thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ

thẩm với thành phần HĐXX mới.

1.3. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét xử phúc thẩm

1.3.1. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm trong pháp luật tố tụng

hình sự Liên bang Nga

Bộ luật tố tụng hình sự Nga năm 2001, quy định phạm vi KC, KN phúc

thẩm và PVXXPT được xác định lại với những thay đổi rất cơ bản. Về bản chất, khi

XXPT, TAPT chỉ giải quyết VAHS trong phần bị KC, KN và chỉ đối với những

người bị kết án đề cập trong KC, KN (Điều 360).

So với Điều 345 BLTTHS Việt Nam 2015, thì luật tố tụng hình sự nước ta

tuy xét về bản chất thì phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS cũng vẫn là bản án, quyết

định sơ thẩm VAHS bị kháng cáo, kháng nghị nhưng trong khi BLTTHS của nước

Nga quy định rõ là việc chỉ giải quyết vụ án trong phần bị kháng cáo, kháng nghị và

chỉ đối với những người bị kết án đề cập trong kháng cáo, kháng nghị. Thì

BLTTHS Việt Nam lại quy định nếu xét thấy có căn cứ thì Tòa án cấp phúc thẩm

vẫn có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng

nghị [27].

Ở nước Nga, thì nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong XXPT

phải được tuân thủ một cách tối đa trong mọi trường hợp để bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp của bị cáo. Chỉ có TAST mới có thẩm quyền ra bản án để kết tội bị

cáo; xác định bị cáo phạm một tội khác nặng hơn hay áp dụng hình phạt nặng hơn

cũng như xác định hay bác bỏ các tình tiết mới, các chứng cứ mới về vụ án. Vì vậy,

các quy định PL của Nga hạn chế các quyền hạn của TAPT trong việc sửa hoặc hủy

bản án sơ thẩm mà chúng có thể làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, đồng thời không

29

hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho họ, nếu có căn cứ.

Ngoài ra khi XXPT, TAPT có thể giảm nhẹ hình phạt mà án sơ thẩm đã

quyết định đối với bị cáo hoặc áp dụng luật về tội nhẹ hơn nhưng không được tăng

nặng hình phạt hoặc ADPL về tội nặng hơn. Bản án sơ thẩm chỉ có thể bị hủy vì lý

do cần áp dụng luật về tội nặng hơn hoặc vì hình phạt nhẹ trong trường hợp có

kháng nghị của Viện Công tố hoặc kháng cáo của người bị hại yêu cầu (Điều 383).

TAPT chỉ có thể hủy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo vô tội trong trường hợp có KN

của Viện Công tố hoặc KC của người bị hại hay KC của người được tuyên vô tội

(Điều 385). Nếu TAST áp dụng không đúng BLHS hoặc hình phạt không tương

xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm và nhân thân người bị kết án, TAPT có

thể sửa bản án theo quy định tại Điều 387 Bộ luật này nhưng không được sửa hình

phạt nặng hơn cũng như ADPL về tội nặng hơn. Ngoài ra, Bộ luật này còn quy định

rất cụ thể các căn cứ mà theo đó TAPT sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm (các Điều 379

- 383).

1.3.2. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Bộ luật

tụng hình sự nước Cộng hòa Pháp

Bộ luật tố tụng hình sự nước Pháp, xác định PVXXPT dựa vào tư cách KC,

KN khi XXPT có thẩm quyền:

1) Bác KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2) Sửa bản án sơ thẩm;

3) Hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại vụ án;

4) Hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

Cũng giống BLTTHS của nước ta và một số nước khác, luật tố tụng hình sự

của nước Pháp đã áp dụng triệt để nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị

cáo. Theo quy định của Bộ luật này, TAPT có quyền trực tiếp sửa bản án theo hướng

làm xấu hơn tình trạng của bị cáo: “Nếu có KN của Viện công tố, thì TAPT giữ

nguyên hoặc sửa toàn bộ hay một phần bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc không

có lợi cho bị cáo. Nếu chỉ có KC của của bị cáo hoặc đương sự, thì Tòa án không thể

quyết định theo hướng tăng nặng hình phạt đối với người KC” (Điều 515).

30

Khi xét thấy hành vi của bị cáo không cấu thành trọng tội, không tội, tội vi

cảnh, hoặc sự việc không xác định được hoặc không thể quy sự việc được cho bị

cáo thì tuyên bố đình chỉ việc truy tố đối với bị cáo (Điều 516). Trường hợp nếu bị

cáo được miễn hình phạt theo quy định của PL, thì TAPT sửa án sơ thẩm và miễn

hình phạt cho các bị cáo (Điều 514).

Nếu sự việc chỉ cấu thành tội vi cảnh, thì TAPT hủy bản án sơ thẩm tuyên

hình phạt và quyết định về việc bồi thường, nếu có yêu cầu (Điều 518).

Nếu sự việc mang tính chất một trọng tội thì hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố vô

thẩm quyền và ra quyết định yêu cầu Viện công tố đưa vụ việc ra trước Tòa án có

thẩm quyền xét xử (Điều 519).

Nếu thấy cấp dưới vi phạm hoặc bỏ qua các hình thức mà PL quy định thì

hủy bản án sơ thẩm và TAPT có quyền xét xử và ra quyết định về nội dung (Điều

520).

1.3.3. Quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật

tố tụng của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Bộ luật tố tụng hình sự của Trung Quốc, quy định về thẩm quyền xem xét

của TAPT rất rộng, TAPT có quyền xem xét toàn bộ vụ án không phụ thuộc vào

giới hạn và phạm vi KC, KN.

Điều 186 của Bộ luật tố tụng tố tụng hình sư Trung Quốc quy định: “TAPT

phải tiến hành xem xét toàn diện các tình tiết và áp dụng PL trong bản án sơ thẩm

và không được giới hạn phạm vi KC, KN. Nếu chỉ có một số bị cáo trong VAHS

đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn bộ VAHS”. Khi xét xử phúc

thẩm, thì HĐXX phúc thẩm có các quyền quyết định những vấn đề như sau:

“TAPT có thể quyết định bác KC, KN hoặc huỷ bỏ hoặc sửa đổi quyết định

sơ thẩm theo các quy định của Điều 189, 190 hoặc 192 của Luật này” (Điều 193).

Tùy từng trường hợp cụ thể mà TAPT có thể quyết định các vấn đề như sau:

- Nếu phán quyết ban đầu là đúng trong việc quyết định các tình tiết và áp

dụng PL và phù hợp với hình phạt, Toà án phải bác KC, KN và giữ nguyên bản án

ban đầu;

31

- Nếu phán quyết ban đầu không có sai xót trong việc xác định các tình tiết

nhưng áp dụng pháp luật không chính xác hoặc hình phạt không phù hợp, Toà án

phải sửa bản án.

- Nếu những tình tiết trong phán quyết ban đầu không rõ ràng hoặc chứng cứ

không đầy đủ, Toà án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ sự việc, hoặc có thể

huỷ bản án ban đầu và trả lại vụ án cho Toà án đã XXST để xét xử lại (Điều 189).

Trường hợp HĐXX hủy bản án sơ thẩm và trả vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử

lại chỉ khi có căn cứ cho rằng TAST đã vi phạm trình tự tố tụng quy định trong luật,

cụ thể:

- Vi phạm những quy định của Luật này liên quan đến việc xét xử công khai;

- Vi phạm các quy định về rút truy tố;

- Tước bỏ các quyền hợp pháp của các bên đương sự được quy định trong

Luật hoặc hạn chế những quyền này mà có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của

việc xét xử;

- Thành lập HĐXX không đúng theo quy định của pháp luật; hoặc có những

vi phạm thủ tục tố tụng khác do pháp luật quy định có thể ảnh hưởng đến tính khách

quan của việc xét xử (Điều 191).

Như vậy, nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự một số nước về phạm vi xét

xử phúc thẩm cho thấy: so với BLTTHS Việt Nam 2015 và một số BLTTHS của

nước Pháp, nước Nga thì BLTTHS nước Trung Hoa cũng áp dụng triệt để nguyên

tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo khi xét xử phúc thẩm bằng việc quy

định “Khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc của người đại diện theo

pháp luật, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích của họ, Toà án cấp phúc thẩm

có thể không tăng hình phạt đối với bị cáo. Những hạn chế quy định tại khoản trên

sẽ không được áp dụng đối với những vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân

dân hoặc kháng cáo của tư tố viên” (Điều 190). Và cũng với việc luật tố tụng hình

sự Trung Hoa quy định: Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét toàn bộ vụ án

không phụ thuộc vào giới hạn và phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Học viên nhận

thấy phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS theo pháp luật tố tụng hình sự nước Trung

32

Hoa là rộng lớn nhất trong số các luật tố tụng hình sự của các nước như học viên đã

trình bày và phân tích ở trong luận văn này (Việt Nam, Nga, Pháp).

Tiểu kết Chương 1

Để làm rõ cơ sở lý luận về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, Chương 1 của

luận văn, học viên đã tìm hiểu, phân tích nội dung một số khái niệm liên quan: Khái

niệm xét xử phúc thẩm VAHS; khái niệm phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS; Cũng

như việc làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của phạm vi xét xử phúc thẩm

VAHS; đưa ra được những so sánh đánh giá mức độ tương đương và những điểm

khác biệt về quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của tố tụng hình sự Việt

Nam với luật tố tụng hình sự của một số nước như Nga, Pháp, Trung Quốc.

Chương 1 của Luận văn, học viên cũng đã nêu và phân tích được quá trình

hình thành và phát triển các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của luật

tố tụng hình sự Việt Nam qua các thường kỳ. Đó chính là tiền đề lý luận cho việc

nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn ở Chương 2 của Luận văn.

33

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM

VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019

2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (hay còn gọi là Tòa án nhân dân cấp

cao 2) là một trong 03 Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam, có thẩm quyền theo

lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam gồm:

Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên - Huế, tỉnh

Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh

Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk.

TANDCC 2 thành lập trên cơ sở Tòa phúc thẩm TANDTC cao tại Đà Nẵng,

chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-6-2015, tính đến ngày 30/11/2019, Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có 79 cán bộ, công chức và người lao động, gồm: 23

Thẩm phán cao cấp, 01 Thẩm tra viên chính, 07 Thẩm tra viên, 29 Thư ký Tòa án,

02 chuyên viên chính, 04 chuyên viên và 13 người lao động theo diện Hợp đồng 68.

Ủy ban Thẩm phán gồm 12 Thẩm phán cao cấp. Lãnh đạo cơ quan gồm: Chánh án

và 02 Phó Chánh án; 05 tòa chuyên trách (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao

động); 02 phòng Giám đốc, kiểm tra; Văn phòng gồm các phòng: Phòng Hành

chính tư pháp; phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng; phòng Kế

toán - Quản trị; phòng Lưu trữ hồ sơ [33].

34

2.2. Kết quả thụ lý giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ 2015 - 2019

2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019

Bảng 2.1. Thống kê tổng số thụ lý, giải quyết xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019

Tổng số thụ lý Đã xét xử Ghi Năm chú Vụ Bị cáo Bị cáo Vụ

2015 393 692 355 608

2016 328 620 320 605

2017 289 587 271 556

2018 384 730 339 630

2019 436 892 420 832

Cộng tổng 1.830 3.521 1.705 3.231

Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng [33]

Qua bảng số liệu thống kê, học viên thấy số lượng án hình sự được Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thụ lý xét xử phúc thẩm trong 05 năm qua là tương

đối lớn (tổng số thụ lý là 1.830 vụ/3521 bị cáo), tính trung bình mỗi năm 01 thẩm

phán cao cấp tại Tòa án nhân dân cấp cao 2 phải thụ lý tổng số 16 vụ án hình sự

phúc thẩm (tại mục 2.1 của Luận văn thì Tòa nhân dân dân cấp cao tại Đà Nẵng có

23 Thẩm phán cao cấp). Tuy nhiên hàng năm thì số lượng án hình sự được thụ lý,

xét xử phúc thẩm tăng giảm không đồng đều.

Trong đó: Thấp nhất là năm 2017, tổng số vụ án hình sự phúc thẩm do Tòa

án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng thụ lý là 289 vụ/587 bị cáo; Còn cao

nhất là năm 2019, với tổng số thụ lý là 436 vụ/892 bị cáo. Việc tăng giảm số lượng

án hình sự phúc thẩm một phần là những nguyên nhân, lý do khác nhau như việc

năm 2017, Quốc hội Nước ta phải đẩy lùi thời hạn có hiệu lực của các Bộ luật như:

BLHS 2015, BLTTHS 2015 …

Cũng thông qua Bảng 2.1 nêu trên, học viên thấy kết quả xét xử phúc thẩm

35

vụ án hình sự của TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng là tương đối cao, vì tính

bình quân mỗi năm TAND cấp cao 2 thụ lý 366 vụ/704 bị cáo, đã xét xử xử được

341vụ/646 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 93,1% số vụ/91,7% số bị cáo. Về kết quả xét

xử cụ thể học viên sẽ phân tích thông qua Bảng 2.2 của luận văn.

2.2.2. Kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân cấp

cao tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ 2015-2019

Bảng 2.2. Thống kê kết quả xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân

dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019

Kết quả xét xử

Giảm

Chuyển

Hủy

Tổng

hình

án treo,

để

số bị

Ghi

Tăng

Hủy,

Sửa

Năm

phạt,

RKC,

cải tạo

điều

cáo đã

chú

Y án

hình

đình

dân

miễn

RKN

không

tra,

xét xử

phạt

chỉ

sự

hình

giam

xét

phạt

giữ

xử lại

2015 608 398 15 126 36 16 5 12

2016 605 347 15 93 99 36 15

2017 556 337 13 76 70 29 3 28

2018 630 403 51 91 41 17 4 22

2019 832 557 11 32 54 32 80 66

Cộng 3.231 2.042 105 418 300 130 88 4 143 tổng

Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng [33]

Thông qua Bảng 2.2 của luận văn, học viên nhận thấy kết quả xét xử sơ thẩm

VAHS của các Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại 12 Tòa án nhân dân tỉnh và thành phố

trực thuộc Trung ương (Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị,

tỉnh Thừa Thiên - Huế, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú

Yên, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk), đạt tỷ lệ xét xử

đúng quy định pháp luật và mang tính ổn định rất cao. Vì trong tổng số 3.231 bị cáo

được xét xử phúc thẩm VAHS thì số lượng được TAND cấp cao 2 xét xử phúc thẩm

36

phần lớn là y án, với 2042 bị cáo, chiếm 63,2%; sửa án sơ thẩm là 657 bị cáo, chiếm

20,3% (trong đó sửa án sơ thẩm để giảm hoặc miễn hình phạt là 418 bị cáo =

63,6%, Sửa án chuyển từ hình phạt tù sang cho hưởng án treo hoặc cải tạo, không

giam giữ là 130 bị cáo = 19,7%; sửa án tăng nặng hình phạt là 105 bị cáo = 16%,

....); rút kháng cáo, kháng nghị là 300 bị cáo, chiếm 9,3%; hủy án để điều, xét xử tra

lại là 143 bị cáo, chiếm 4,42% và hủy, đình chỉ điều tra là 88 vụ, chiếm 2,72%. Số

liệu trên cho thấy việc XXST của Tòa án cấp dưới đã đáp ứng yêu cầu về chất

lượng, về việc tuân theo quy định của PL về luật nội dung cũng như các quy định về

pháp luật TTHS. Do đó khi xét xử, HĐXX phúc thẩm VAHS tuyên y án là chiếm đa

số các VAHS đưa ra xét xử, chỉ một số là sửa BA, QĐ sơ thẩm, rất ít việc hủy án để

điều tra lại hoặc xét xử lại. Tuy số lượng được hủy, đình chỉ chiếm 2,72% nhưng đó

là do sự chuyển biến của tình hình với việc thực hiện Nghị quyết số 41/2017 ngày

20/6/2017 của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về việc thi

hành BLHS số 100/2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số

12/2017/QH14 và hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật tổ chức

cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số

94/2015/QH13.

Cũng thông qua Bảng số liệu 2.2 của luận văn, học viên nhận thấy số lượng

các bị cáo được HĐXX Tòa án nhân dân cấp cao 2 xét xử theo hướng giảm nhẹ

luôn chiếm số lượng lớn gấp nhiều lần số bị cáo bị tăng nặng: 548 bị cáo được

tuyên giảm (trong đó số bị cáo được giảm hoặc miễn hình phạt là 418; số được

chuyển từ phạt tù sang cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ là 130); còn

số bị cáo bị tăng hình phạt chỉ là 105 bị cáo. Điều đó đồng nghĩa với việc trong 05

năm qua (2015-2019) số lượng các kháng cáo, kháng nghị xin giảm nhẹ cũng nhiều

hơn số lượng kháng cáo, kháng nghị tăng nghị, cụ thể như sau:

37

Bảng 2.3. Thống kê số lượng kháng cáo, kháng nghị, kết quả xét xử phúc thẩm

VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015-2019

Số kháng cáo, kháng Số kháng cáo, kháng Số không có Năm nghị tăng nặng nghị giảm nhẹ kháng cáo, kháng

158 450 nghị nhưng vẫn

được giảm nhẹ 2015 Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ

143 15 308 138 04

134 471

Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2016

119 15 342 124 05

161 395

Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2017

148 13 280 101 03

178 452

Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2018

127 51 344 102 06

109 723

Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ 2019

98 11 659 62 02

Y án Tăng nặng Y án Giảm nhẹ Tổng số

635 105 1943 528 20

Nguồn: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng [33]

Trước tiên nhìn vào bảng số liệu 2.2 và 2.3 của luận văn, học viên xin giải

thích việc số liệu “y án” không trùng nhau giữa 02 bảng số liệu vì tại bảng số liệu

2.2 học viên nêu lên để phân tích hoạt động thụ lý giải quyết các vụ án hình sự phúc

thẩm tại TAND cấp cao 2; Còn tại bảng số liệu 2.3, mục đích học viên nêu số liệu là

để phân tích và đánh giá kết quả xét xử đối với kháng cáo, kháng nghị tăng nặng và

giảm nhẹ, cụ thể học viên phân tích bảng số liệu 2.3 như sau:

38

Tại bảng 2.3 thể hiện trong tổng số 3.231 bị cáo được thụ lý xét xử phúc

thẩm vụ án hình sự do có kháng cáo, kháng nghị, số lượng kháng cáo, kháng nghị

tăng nặng là 740 bị cáo = 22,9%; còn kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ là 2491 bị

cáo = 77,12% (tức là số lượng bị cáo kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ luôn gần gấp

5 lần số kháng cáo, kháng nghị tăng nặng). Song song với đó là kết quả xét xử cũng

tỷ lệ thuận theo: Trong số 740 bị cáo kháng cáo, kháng nghị tăng nặng thì HĐXX

chỉ áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

để tăng nặng đối với 105 bị cáo; còn trong 2491 bị cáo kháng cáo, kháng nghị giảm

nhẹ thì HĐXX đã áp dụng các quy định của pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm

vụ án hình sự để giảm nhẹ cho 528 bị cáo. Ngoài ra, HĐXX phúc thẩm của Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cũng đã tập trung nghiên cứu hồ sơ vụ án, các bản án

sơ thẩm và vận dụng triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các

chính sách pháp luật nhân đạo của Đảng và Nhà nước để giảm nhẹ cho 20 bị cáo

không có kháng cáo, kháng nghị xin giảm nhẹ (nghĩa là 20 bị cáo đã chấp nhận bản

án sơ thẩm).

2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình

sự tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

2.3.1. Những kết quả đạt được

Qua phân tích số liệu tại hai bảng số liệu: Bảng 2.1 và Bảng 2.2 ở mục 2.2

của luận văn, học viên nhận thấy công tác xét xử phúc thẩm VAHS tại TAND cấp

cao 2 trong thời gian qua (2015-2019) luôn bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật. Tòa án đã áp dụng và thực hiện đúng quy định tại Điều 241 BLTTHS

năm 2003 và Điều 345 BLTTHS 2015 về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS, các

phán quyết của Tòa phúc thẩm đều căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên

tòa và trên cơ sở xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án.

Trong đó có một số VAHS lớn đặc biệt nghiêm trọng về an ninh quốc gia, ma túy,

giết người, cướp tài sản... nhất là các vụ án về tội tham nhũng, những vụ án lớn,

trọng điểm, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham

nhũng theo dõi, chỉ đạo đã được TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng đưa ra xét

39

xử kịp thời, nghiêm minh, không để xảy ra việc xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm,

đáp ứng yêu cầu chính trị và đấu tranh phòng, chống tội phạm của các địa phương

thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ 12 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung

ương (Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên -

Huế, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên, tỉnh Khánh

Hòa, tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Lắk) nói riêng cũng như cả nước nói

chung.

Học viên xin nêu ra một số vụ án điển hình mà TAND cấp cao 2 đã tuyên

hủy án sơ thẩm của Tòa án cấp dưới để khắc phục vi phạm, sai lầm. Cụ thể như:

Vụ án Trương Phan Thị Thảo “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”: Trương Thị

Phan Thảo và Đinh Văn Cường là vợ chồng và là chủ sở hữu hợp pháp nhà đất tại

số 185 Phạm Như Xương, thành phố Đà Nẵng. Ngày 09/7/2011, vợ chồng Thảo thế

chấp tài sản nêu trên cho Ngân hàng Nam Việt - Chi nhánh Đà Nẵng vay

1.500.000.000đ, thời hạn vay 36 tháng. Mặc dù đã thế chấp nhà đất cho Ngân hàng

nhưng ngày 06/9/2011 vợ chồng Thảo vẫn lừa dối, viết giấy bán nhà đất tại số 185

Phạm Như Xương cho bà Lê Thị Hương với giá 1.500.000.000đ và cam kết giao tài

sản, giấy tờ và làm thủ tục sang tên cho bà Hương trong thời hạn 60 ngày. Với thủ

đoạn nêu trên, các bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này.

Cũng trong thời gian này, vợ chồng Thảo ký giấy cam kết bán nhà đất tại 154

Trường Chinh, Đà Nẵng cho bà Hương với giá 600.000.000đ. Nhưng sau đó vợ

chồng Thảo lại bội tín mang nhà đất tại 154 Trường Chinh bán cho vợ chồng ông

Đặng Non, bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết với giá 500.000.000đ theo hợp đồng chuyển

nhượng được công chứng ngày 12/01/2012; các bị cáo chiếm đoạt của bà Hương

600.000.000đ.

Như vậy, hành vi của các bị cáo trong việc bán nhà tại 185 Phạm Như Xương

chiếm đoạt của bà Hương 1.500.000.000đ cấu thành tôi “Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản” và hành vi bán nhà đất tại 154 Trường Chinh chiếm đoạt của bà Hương

600.000.000đ cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đọat tài sản”, Đinh Văn

Cường đồng phạm với vai trò giúp sức. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử

40

sơ thẩm tuyên bố bị cáo Thảo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và

bị cáo Cường không phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản” là chưa đánh giá hết tính chất của vụ án, bỏ lọt tội phạm

và người phạm tội. Do đó, tại bản số 36/2015/HS-PT ngày 17/12/2015 của TAND

cấp cao 2 đã xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo

hướng Thảo và Cường phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản”

Sau khi phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nêu trên kết thúc, TAND

cấp cao tại Đà Nẵng đã ra thông báo hướng dẫn và rút kinh nghiệm về việc Tòa án

cấp dưới có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm (hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ nhưng cấp

sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội).

Việc bản án số 36/2015/HS-PT ngày 17/12/2015 của TAND cấp cao tại Đà

Nẵng tuyên hủy bản án sơ thẩm nêu trên là để các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp

dưới tiến hành điều tra thu thập thập đủ tài liệu chứng cứ, có đủ căn cứ vững chắc

để kết tội các bị cáo. Qua đó tránh việc bỏ lọt tội phạm [33].

Vụ án Nguyễn Tấn Cự phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt sản”: Năm 2007, vợ

chồng Nguyễn Tấn Cự, Nguyễn Thị Nở mở cửa hàng kinh doanh mua bán điện

thoại di động Trường Thiên. Đến năm 2012, Cự không tham gia cùng Nở mua bán

điện thoại mà đã lợi dụng sự quen biết và tín nhiệm của nhiều người dân địa phương

để vay tiền và hốt tiền biêu hụi để làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng, cho người khác

vay lại hưởng lãi xuất chênh lệch. Trong thời gian đầu, Cự thực hiện việc trả lãi và

gốc sòng phẳng nhưng đến đầu tháng 6/2003 Cự đã chiếm tổng số tiền

5.470.200.000đ của những người bị hại và bỏ trốn khỏi địa phương.

Quá trình điều tra xác định được 05 người hiện nay còn nợ tiền Cự với tổng

cộng số tiền 5.315.000.000đ (Các trường hợp này đều có Giấy vay tiền của Cự). Tại

Cơ quan điều tra, những người này cam kết trở nợ dần cho vợ chồng Cự.

Tại Bản án sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 26/9/2014 của TAND tỉnh

Quảng Ngãi đã tuyên xử: Bị cáo Cự phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140, điểm b, p khoản 1 Điều 46 BLHS 1999

41

(sửa đổi, bổ sung 2009), xử phạt Cự 13 năm tù. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về

phần dân sự và án phí. Cự kháng cáo kêu oan, vì cho rằng không bỏ trốn, người bị

hại kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đàng Nẵng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Qua kết

quả điều tra và tại Bản án sơ thẩm đều xác định Cự đã vay tiền của nhiều người và

hốt tiền biêu với mục đích làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng và cho người khác vay

lại để hưởng lãi xuất chênh lệch; kết quả điều tra cho thấy số tiền vay, hốt biêu Cự

đã cho nhiều người khác vay lại, có 05 người còn nợ Cự với số tiền là

5.315.000.000đ và đều có cam kết trả nợ, chưa có chứng cứ nào cho thấy Cự dùng

tiền vay và hốt biêu nói trên để mua sắm tài sản sử dụng cho gia đình và cá nhân

hoặc sử dụng vào mục đích bất hợp pháp (đánh bạc…). Lời khai của những người

còn nợ Cự và các tài liệu liên quan thể hiện rõ điều này.

Xét việc Cự đi khỏi địa phương, qua tài liệu thu thập được cho thấy Sổ văn

thư và Sổ theo dõi tiếp công dân của Đội điều tra Công an huyện Tư Nghĩa thể hiện

ngày 11/7/2013 có Đơn của Cự xin tạm vắng khỏi địa phương để đi tìm người đang

trốn nợ, nhưng đơn này đã bị thất lạc, nay Công an huyện Tư Nghĩa không tìm thấy;

còn Công an thị trấn Sông Vệ xác nhận khoảng tháng 7/2013 cha vợ Cự có đến nộp

Đơn xin tạm vắng cho Cự, nhưng cảnh sát khu vực không nhận. Tại Biên bản xác

minh ngày 15/01/2014 cho thấy Cự vào trú tại huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình

Thuận có đăng ký tạm trú và chấp hành tốt pháp luật.

Xét Đơn của Cự đã nộp tại Công an huyện Tư Nghĩa không còn nên không

có cơ sở khẳng định được nội dung Cự đã viết như thế nào. Tuy nhiên, từ ngày Cự

có Đơn xin tạm vắng khỏi địa phương cho đến ngày Cự bị bắt, qua các chứng cứ, tài

liệu thu thập được cho thấy: Ngày 21/8/2013 chỉ cách 01 tháng 10 ngày sau khi có

Đơn xin tạm vắng vợ chồng Cự đã trở về địa phương và đến UBND thị trấn Sông

Vệ chứng thực hợp đồng chuyển nhượng đất để giải quyết khoản nợ Cự vay trước

đây tại Ngân hàng BIDV và đã được Chủ tịch UBND thị trấn Sông Vệ chứng thực.

Sau đó thì 3 tháng 6 ngày sau, vợ chồng Cự tiếp tục về địa phương và đến Văn

phòng công chứng để công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

42

nhằm giải quyết số nợ vợ chồng Cự đã vay của Ngân hành nông nghiệp và phát

triển nông thôn Việt Nam trước đó.

Từ những nhận xét trên, TANDCC tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm, nhận thấy

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Cự đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại với

tổng số tiền là 5.470.200.000đ và có hành vi bỏ trốn là chưa có căn cứ vững chắc;

đồng thời cần làm rõ thêm số tiền của những người nợ Cự là có thật hay không, theo

như yêu cầu của bị hại tại phiên tòa. Những vấn đề này Tòa án cấp phúc thẩm

không thể khắc phục được. Do đó, hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho

VKSND tỉnh Quảng Ngãi để điều tra, truy tố và xét xử lại theo thủ tục chung.

Việc TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên hủy bản án sơ thẩm số

18/2014/HSST ngày 26/9/2014 của Tòa án sơ thẩm nêu trên, nguyên nhân chủ yếu

là do việc điều tra chưa đầy đủ, chưa đủ căn cứ vững chắc để kết tội bị cáo. Do vậy

việc hủy án sơ thẩm để điều tra lại nhằm tránh làm oan người vô tội [33].

Vụ án Lâm Quang Trung phạm tội “Sử dụng mạng Internet để thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản”: Khoảng tháng 7/2012, Trung thường đến các quán

Internet trên địa bàn thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị để chơi các trò chơi điện tử

qua mạng (game online) và truy cập vào các trang Web, Yahoo, Facebook để

“chat”. Thấy bạn mình thường xuyên có tiền chi tiêu, mua sắm nên Trung hỏi và

biết đó là tiền lừa được của một số người trên mạng. Trung nảy sinh ý định chiếm

đoạt tài sản thông qua mạng Internet. Từ tháng 8/2012 đến tháng 12/2013, Trung đã

sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại tổng số

tiền là 214.790.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2014/HSST ngày 17/9/2014 của TAND

tỉnh Quảng Trị xử phạt: Bị cáo Lâm Quang Trung 24 tháng tù, về tội “Sử dụng

mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, ngoài ra còn tuyên về phần

trách nhiệm bồi thường dân sự, quyền kháng cáo và thi hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/9/2014, vợ chồng bà Yến, ông Thắng (là bố,

mẹ của bị cáo Trung) có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và

xin được hưởng án treo cho bị cáo Trung; đồng thời xin xem xét lại phần truy thu số

43

tiền 137.790.000đ.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Bị cáo

Lâm Quang Trung, sinh ngày 22/12/1996. Ngày 17/9/2014, TAND tỉnh Quảng Trị

đưa vụ án ra xét xử thì bị cáo Trung chưa đủ 18 tuổi, thế nhưng Tòa án sơ thẩm

không đưa cha, mẹ bị cáo là ông Lâm Quang Thắng và bà Nguyễn Thị Yến tham

gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị cáo mà chỉ đưa ông Thắng,

bà Yến tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do

vậy việc ông Thắng bà Yến không được quyền kháng cáo với tư cách là người đại

điện hợp pháp cho bị cáo Trung về phần hình phạt là vi phạm Điều 231, khoản 3

Điều 306 BLTTHS (2003). Do bản án số 32/2014/HSST ngày 17/9/2014 của

TAND tỉnh Quảng Trị vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án cấp phúc

thẩm không thể khắc phục được nên đã hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét

xử lại theo đúng quy định của pháp luật [33].

2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân

2.3.2.1. Những hạn chế

Qua nghiên cứu hồ sơ và các bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao 2

trong giai đoạn 2015 - 2019, học viên nhận thấy bên cạnh những kết quả đạt được,

thì việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Tóa án nhân dân cấp

cao tại Đà Nẵng vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, cụ như sau:

Một là, HĐXX phúc thẩm hình sự TAND cấp cao 2 chưa thường xuyên

trong việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm ngoài nội dung kháng cáo, kháng

nghị. Trong số 1.705 vụ án hình sự phúc thẩm được xét xử (học viên đã nêu ở bảng

2.1 và bảng 2.3, mục 2.2 của luận văn) thì chỉ có khoảng 20 vụ án được cấp phúc

thẩm xem xét áp dụng ngoài nội dung kháng cáo, kháng nghị (chỉ chiếm 1,17%), và

chỉ áp dụng pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự để giảm nhẹ cho

các bị cáo; còn lại chỉ xét các nội dung có kháng cáo, kháng nghị mà không xem xét

đến các phần khác của bản án sơ thẩm. Điều đó đồng nghĩa với việc thiếu hiệu quả

trong công tác khắc phục những sai lầm, thiếu sót cho Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm

áp dụng thống nhất pháp luật.

44

Hai là, HĐXX phúc thẩm vụ án hình sự TAND cấp cao tại Đà Nẵng vẫn còn

hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

dẫn đến việc ra bản án hình sự phúc thẩm gây nhiều mâu thuẫn, thắc mắc trong dư

luận, bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm và được Hội đồng thẩm phán

TAND tối cao tuyên hủy bản án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại

Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại. Điển hình như vụ án: Nguyễn Kích cùng đồng

bọn phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Nội dung vụ án: Ngày 26/10/2012, Nguyễn Kích - là Giám đốc Trung tâm

phát triển quỹ đất (PTQĐ) huyện Đông Hòa được ủy quyền làm chủ đầu tư thực

hiện tiểu dự án giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Phú Yên thuộc dự án Hầm

đường bộ qua Đèo Cả, trong đó có hạng mục di dời hệ thống viễn thông ra khỏi

phạm vi giải phóng mặt bằng. Lê Quốc Toản - Giám đốc công ty cổ phần xây lắp

(CPXL) Minh Thuận Khánh biết Công ty không đủ năng lực theo tiêu chí mời thầu

nên đã sửa chữa, thay thế giá trị hợp đồng (HĐ) kinh tế, lập khống HĐ lao động để

chuyển hồ sơ cho Trung tâm PTQĐ huyện Đông Hòa xét duyệt. Ngày 13/9/2013,

Kích ký HĐ kinh tế với Lê Quốc Toản để thi công công trình trên với giá trị

2.618.069.589 đồng mà không tổ chức thẩm định năng lực của công ty. Cùng ngày,

Nguyễn Kích ký Hợp đồng với Công ty TNHH Tín Phước phân công Phan Trí

Hùng làm Giám sát trưởng công trình.

Khi tổ chức thi công, lợi dụng sự thiếu kiểm tra, giám sát của chủ đầu tư và

đơn vị giám sát thi công, Toản đã có hành vi gian dối, không đào 718,5m chiều dài

tuyến để thu hồi sợi cáp quang loại 8Fo, không đào lắp đặt hệ thống tiếp địa và thi

công các khối lượng công việc khác không đúng với hồ sơ thiết kế được duyệt. Tuy

nhiên, khi làm hồ sơ nghiệm thu, thanh toán khối lượng thi công hoàn thành lần 01,

Toản đã chỉ đạo Lương Cành (nhân viên kỹ thuật) kê khống khối lượng thi công

hoàn thành lần 01 theo như thiết kế được duyệt để trình cho đơn vị tư vấn giám sát

và chủ đầu tư ký nghiệm thu công trình, thanh toán giá trị là 2.327.453.864 đồng.

Khối lượng công việc còn lại được gia hạn thời hạn thi công. Tin tưởng theo hồ sơ

Công ty CPXD Minh Thuận Khánh lập mà không tổ chức nghiệm thu khối lượng

45

thi công hoàn thành lần 01 theo đúng quy định của pháp luật, chủ đầu tư đã lập

chứng từ thanh toán chuyển Kho bạc huyện Đông Hòa giải ngân thanh toán cho

Công ty bằng 03 ủy nhiệm chi với tổng số tiền 2.327.453.000 đồng. Sau khi bị phát

hiện việc thi công gian dối và lập khống hồ sơ đưa vào nghiệm thu, thanh toán

chiếm đoạt tiền của Nhà nước, Toản có hành vi đối phó bằng cách chỉ đạo Cành

đem hộp cáp quang và hệ thống tiếp địa vào công trình, thuê xe đào, nhân công đào

lắp đặt và thu hồi phi tang sợi cáp quang 8Fo cũ.

Kết quả trưng cầu Giám định viên Trung tâm tư vấn xây dựng - trường Đại

học xây dựng miền Trung kết luận: Giá trị khối lượng đưa vào nghiệm thu, thanh

toán khống 21 hạng mục gây thiệt hại tài sản Nhà nước 512.569.039 đồng và xác

định trách nhiệm liên quan đến sai phạm gồm Đơn vị thi công, Đơn vị tư vấn giám

sát thi công và Chủ đầu tư công trình.

Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Yên tuyên phạt Lê Quốc Toản

09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Nguyễn Kích 06 tháng tù và Phan

Trí Hùng 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đều về tội “Thiếu trách nhiệm gây

hậu quả nghiêm trọng”.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án hình

sự sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Yên để điều tra lại.

Chánh án TAND tối cao Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản

án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, đề nghị Hội đồng thẩm phán

TAND tối cao xem xét giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên giao

hồ sơ cho TAND cấp cao Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại.

Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhận định: Thủ đoạn gian dối của Lê

Quốc Toản thể hiện ở việc Toản đã làm giả giấy tờ, tài liệu để hợp thức hóa hồ sơ

năng lực nhằm được chỉ định thầu; lợi dụng sự tin tưởng của chủ đầu tư và giám sát

công trình đã bỏ qua không thi công 21 mục công việc như thiết kế được duyệt

nhưng vẫn lập khống đưa vào nghiệm thu, thanh toán. Việc tiếp tục thi công sau khi

bị phát hiện là nhằm đối phó và che giấu hành vi phạm tội. Tòa án sơ thẩm kết án

Lê Quốc Toản về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ. Tòa án phúc thẩm cho

46

rằng cần phải giám định tư pháp để kết luận về khối lượng thực tế mà Công ty

CPXD Minh Thuận Khánh đã thi công khi thực hiện hợp đồng là không cần thiết.

Lời khai của các bị cáo không có cơ sở xác định giữa Toản, Kích, Hùng có

sự thông đồng, cấu kết nhau để Công ty CPXD Minh Thuận Phát được thanh toán

không đúng khối lượng đã thi công nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Tòa án

sơ thẩm kết án Nguyễn Kích, Phan Trí Hùng về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả

nghiêm trọng” là có căn cứ. Tòa án phúc thẩm cho rằng cần điều tra lại để làm rõ

động cơ, mục đích của Nguyễn Kích và Phan Trí Hùng là không cần thiết.

Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án đã triệu tập Phạm Thị Tiền (vợ của Toản) và

Phạm Văn Sinh (em vợ Toản) là hai cổ đông còn lại của Công ty CPXD Minh

Thuận Khánh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan. Do đó, không nhất thiết phải đưa Công ty CPXD Minh Thuận Khánh vào

tham gia tố tụng [33].

Ba là, HĐXX phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không kịp

thời phát hiện vi phạm, thiếu sót của một số Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xác định

chưa đúng tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng dẫn đến việc bản án sơ thẩm

chưa áp dụng đúng những quy định của pháp luật tố tụng về xử lý vật chứng của vụ

án bị Viện kiểm sát kháng nghị. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm HĐXX lại không áp

dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự để sửa bản án sơ thẩm hình sự. Sau

khi phiên tòa phúc thẩm kết thúc, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã yêu cầu

TAND cấp cao tại Đà Nẵng phải tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với

HĐXX phúc thẩm, điển hình sư vụ án Phạm Thị Ngọc Anh, phạm tội Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản.

Nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Ngọc Ánh, ngụ 208/6 ấp 3, xã A, thành phố B,

tỉnh N giới thiệu bà Lê Thị Tươi ký hợp đồng mua đất diện tích 2.928,8m2 của ông

Nguyễn Văn Minh với giá 1,2 tỷ đồng, điều kiện thể hiện trong hợp đồng là sau 02

tháng bà Tươi mới có quyền thực hiện thủ tục sang tên chứng nhận quyền sử dụng

diện tích đất trên và bà Tươi được giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất. Sau đó, Ánh đã tự ý phân lô diện tích đất trên của bà Lê Thị Tươi và bán, làm

47

thủ tục sang tên cho 22 người khác để thu tiền hưởng lợi.

Không chỉ thế, thông qua hình thức kinh doanh trái phép này, bà Phạm Thị

Ngọc Ánh còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người, trong

đó 02 nhóm bị hại chính là những người chủ có diện tích đất cần bán và người mua

đất được phân lô bán lại. Thủ đoạn của bà Phạm Thị Ngọc Ánh thể hiện qua 03 hình

thức sau: Cùng một diện đất nhưng bà Ánh vừa thế chấp vay vốn vừa phân lô bán

lại cho người khác, cùng một lô đất nhưng bị cáo lập hợp đồng chuyển nhượng cho

nhiều người, hoặc sau khi đã nhận tiền của những người mua đất được phân lô

nhưng bà Ánh không thanh toán cho chủ đất với mục đích chiếm đoạt.

Bằng thủ đoạn nêu trên, từ năm 2010 - 2011, Ánh đã chiếm đoạt tài sản của

của 51 người với tổng số tiền là 5.227.550.000đ để tiêu xài cá nhân sau.

Ngày 28/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh N đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và

tuyên bị cáo Phạm Thị Ngọc Ánh mức án tù chung thân về tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản theo qui định tại Điều 139 BLHS 1999. Phần xử lý vật chứng thì tuyên trả lại

cho bà Lê Thị Tươi một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc (sổ đỏ) do ông

Nguyễn Văn Minh đứng tên và hai bản hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

(bản chính gốc) từ Nguyễn Văn Minh và Võ Thị Mộng Lan chuyển nhượng cho bà

Lê Thị Tươi, có kèm theo lời chứng thực (bản chính) của UBND xã D chứng thực.

Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với quy

định của pháp luật, VKSND tỉnh N nhận thấy Bản án sơ thẩm nêu trên có vi phạm,

sai sót nghiêm trọng như Tòa án nhân dân tỉnh N không đưa bà Lê Thị Tươi, sinh

năm 1964, ĐKTT: ấp Đông, xã K, huyện C, tỉnh N vào tham gia tố tụng với tư cách

là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, trong phần thủ tục Kiểm sát

viên tham gia phiên tòa đề nghị đưa bà Lê Thị Tươi vào tham gia với tư cách là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không được HĐXX chấp nhận, nhưng

trong bản án phần xử lý vật chứng thì tuyên trả lại cho bà Lê Thị Tươi. Như vậy bản

án đã vi phạm Điều 191 BLTTHS 2003. Chính vì vậy, Viện trưởng VKSND tỉnh N

đã ban hành Quyết định Kháng nghị phúc thẩm Bản án số 37/2017/HSST ngày

28/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh N; đề nghị TAND cấp cao đưa vụ án ra xét xử

48

phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, trong đó có phần nội dung liên quan đến

việc tuyên xử lý vật chứng đối với bà Lê Thị Tươi.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX vẫn không sửa bản án sơ thẩm có

phần nội dung liên quan đến việc tuyên xử lý vật chứng đối với bà Tươi theo như đề

nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh N.

Qua nghiên cứu đơn khiếu nại của bà Lê Thị Tươi về việc đề nghị xem xét

theo thủ tục Giám đốc thẩm đối với bản án hình sự phúc thẩm nói trên, Tòa án nhân

dân tối cao nhận định Tòa án nhân dân cấp cao không xem xét đến phần kháng nghị

của Viện trưởng VKSND tỉnh N là không đúng. Tòa án nhân dân tối cao đề nghị

Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với

HĐXX phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nêu trên để tránh những sai lầm

tương tự về sau [33].

Bốn là, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Tòa án nhân dân cấp cao

tại Đà Nẵng có sai lầm, thiếu sót trong việc áp dụng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ

án hình sự khi không chấp nhận KC, KN và giữ nguyên bản án sơ thẩm dẫn đến

trong một số ít trường hợp KC, KN là có căn cứ, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm

không phát hiện được sự vi phạm về thủ tục tố tụng, chưa phát hiện được sai lầm,

thiếu sót của cấp sơ thẩm trong việc ADPL, như: Chưa hiểu đúng quy định của Bộ

luật hình sự, chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

TNHS hoặc chưa xem xét toàn diện tại phiên tòa các chứng cứ cũ, chứng cứ mới,

tài liệu, đồ vật mới bổ sung sau khi xét xử sơ thẩm, cho nên vẫn quyết định không

chấp nhận KC, KN và giữ BA, QĐ sơ thẩm. Hậu quả của những vi phạm, sai lầm

này dẫn đến việc có thể bỏ lọt tội phạm và người phạm tội như vụ án Nguyễn Thị B,

phạm tội “Giết người”:

Nội dung vụ án: Ngày 31/3/2018, do có mâu thuẫn trong việc nợ tiền và tài

sản, Nguyễn Văn C đã nhiều lần gọi điện thoại đòi nợ, đe dọa và hẹn đến ngày

03/6/2016 C sẽ đến nhà Nguyễn Văn A để thu nợ. Do không có tiền và tài sản để trả

nợ nên A đã kể lại sự việc cho Nguyễn Thị B (53 tuổi là mẹ đẻ của A) và Nguyễn

49

Thị D (là vợ của A). Nghe A kể xong, B đã bức xúc và nói nếu đúng ngày

03/6/2016 C mà đến đòi nợ A thì B sẽ không để C làm vậy và sẽ giết C nếu C dám

đe dọa A, đồng thời B, D còn nói thêm “mẹ sẽ bảo vệ con”, “vợ sẽ phải bảo vệ

chồng”. Sau đó B bảo D đi tìm và báo với Nguyễn Văn E (là anh trai của A) về sự

việc A bị C đe dọa đòi nợ. E đến nhà A thì được C phân công là rủ thêm một vài

người nữa để phục kích quanh nhà A. Nếu khi đến đòi nợ C có hành vi đe dọa A là

tất cả cùng xông vào đánh giết C luôn.

Khoảng 10h ngày 03/4/2018, như đã hẹn không thấy A trả nợ, C đã cầm 01

con dao đến nhà A, đặt tại bàn uống nước nhà A để đòi nợ. Tại đây, sau khi phát

sinh mâu thuẫn chửi bới, giằng co, khi C vừa dùng tay trái cầm con dao (C là người

thuận tay phải) lên thì bị B dùng 01 con dao nhọn đâm thẳng vào vùng bụng và

ngực 02 nhát, còn D dùng nồi cơm điện đánh vào đầu C, A vung chân đạp vào phần

mông của C, E khiến C bị choáng ngã ra nền nhà. Thấy vậy E và một người tên Q

cũng xông vào dùng gậy đánh vào đầu và chân tay của C. Kết quả C bị tử vong tại

nhà C. Kết luận giám định pháp y xác định C bị tử vong do đa chấn thương, trong

đó có vết thương ở vùng ngực làm thủng tim do vật sắc nhọn là nguyên nhân dẫn

đến tử vong; ngoài ra còn có các vết thương ở vùng đầu, tay chân, lưng và vùng

mông bị bầm dập do vật tày cứng gây ra.

Ngày 02/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử sơ thẩm tuyên phạt Nguyễn

Thị B 12 năm tù về tội “Giết người”, theo quy định điểm n khoản 1 Điều 123; điểm

s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Những người còn lại gồm A, D, E và Q (đã đi khỏi

địa phương), do kết quả điều tra không chứng minh được tội phạm nên Tòa án cấp

sở thẩm không xem xét giải quyết.

Ngày 10/11/2018, đại điện hợp pháp của C đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ

thẩm hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh H, vì cho rằng bản án còn bỏ lọt tội phạm.

Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng xét xử không chấp nhận kháng cáo

của người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn C và giữ nguyên quyết định của bản

án hình sự sơ thẩm đối với Nguyễn Thị B.

Qua vụ án xét thấy: Vụ án có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm vì tại phiên Tòa xét xử

50

phúc thẩm VAHS đại diện VKSND cấp cao 2 cũng đã đề nghị HĐXX hủy toàn bộ

bản án để điều tra, xét xử lại.

Gia đình và người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn C đang đề nghị Viện

trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND cấp cao 2 kháng nghị giám đốc

thẩm theo hướng hủy toàn bộ bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm;

giao hồ sơ vụ án cho VKSND và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh H để điều

tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật [33].

Ngoài ra, qua nghiên cứu hồ sơ và bút ký phiên tòa, học viên nhận thấy phần

lớn các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX cấp phúc thẩm chỉ xét

các nội dung chính liên quan đến kháng cáo, kháng nghị mà không xét cho các đồng

phạm khác trong cùng một vụ án. Nhất là đối với các vụ án được kháng cáo với nội

xin giảm nhẹ hình phạt, nên tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX thường xuyên

đặt và ghi câu hỏi, câu trả lời của bị cáo: “Nội dung vụ án đúng như bản án sơ thẩm

đã tóm tắt không? Bị cáo kháng cáo xin nhẹ hình phạt có xuất trình thêm tình tiết

giảm nhẹ nào mới không?, và thông thường các bị cáo thường trả lời “có” hoặc

“không”. HĐXX phúc thẩm thường hay vận dụng các tình tiết mới như việc trước

khi mở phiên tòa phúc thẩm các bị cáo bị Tòa sơ thẩm tuyên phải bồi thường tiền,

tài sản, vật chất hoặc công khai xin lỗi bị hại thì đến trước khi mở phiên tòa phúc

thẩm bị cáo đã đến gặp và bồi thường cho bị hại một số tiền, tài sản, vật chất, công

khai xin lỗi; hay như đối với các bị cáo bị Tòa sơ thẩm tuyên nộp phạt tiền để sung

công quỹ nhà nước thì các bị cáo cũng đã nộp ngay khi làm thủ tục kháng cáo xin

giảm nhẹ để làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở giai đoạn xét xử phúc

thẩm. Điều này thể hiện tính nhân dân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và

Nhà nước nhưng đôi khi cũng chưa thật sự mang lại hiệu quả thực thi pháp luật,

điển hình như một số vụ án về tội “cố ý gây tích”, “giết người”, nói chung là tội

phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, thì trong

những vụ án này cấp phúc thẩm thường tuyên ngoài phần hình phạt tù là hình phạt

chính thì các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền khoảng 50

triệu đến vài trăm triệu đồng trở lên nhưng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các bị cáo

51

nhiều khi cố ý không thực hiện phần nghĩa vụ dân sự này và tính toán để kháng cáo

phúc thẩm, chờ đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới bồi thường cho bị hại số tiền

rất ít khoảng 5 triệu đồng nhưng cũng vẫn được HĐXX phúc thẩm áp dụng làm tình

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới hoặc như trong một số vụ án như “Đánh

bạc”, “Tổ chức đánh bạc” ... nói chung là các vụ án liên quan đến hoạt động kinh tế

gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức thường bị Tòa cấp sơ thẩm

ngoài việc tuyên hình phạt tù là hình phạt chính, còn tuyên hình phạt bổ sung là

“tiền” để sung công quy Nhà nước với số tiền tương đối lớn hàng trăm triệu đồng

hoặc hàng tỷ đồng, nhưng trước khi mở phiên tòa phúc thẩm các bị cáo hoặc đại

diện gia đình các bị cáo đã đến cơ quan thi hành án dân sự xin nộp trước số tiền rất

ít khoảng 5 triệu đồng hoặc 10 triệu đồng, thì đã được HĐXX phúc thẩm áp dụng là

tình tiết giảm nhẹ mới ... [33]

2.3.2.2. Những vướng mắc

- Vướng mắc trong xác định tư cách tham gia TTHS của bị cáo không có

kháng cáo:

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 không quy định về việc xác định tư

cách tham gia TTHS phiên tòa XXPT bị cáo không có KC, KN. Theo mục 1 Phần

III Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/7/2004 của TANDTC, hướng dẫn đối với

bị cáo KC quá hạn không được TAND nếu cần thiết thì triệu tập họ đến phiên tòa

với tư cách là NLC. Thực tiễn xét xử hiện nay vẫn xác định bị cáo không KC và

không bị KC, KN khi được triệu tập tham gia phiên tòa XXPT cũng là NLC. Tuy

nhiên, xét về quyền và nghĩa vụ của NLC theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

2015 thì vẫn còn có một số bất cập. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật tố

tụng hình sự 2015 thì NLC có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà

mình biết về VAHS, nếu khai báo gian dối thì phải chịu TNHS về tội khai báo gian

dối. Tuy nhiên, việc truy cứu TNHS đối với họ là không hợp lý bởi họ là người

cùng với bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội và với tư cách là bị cáo thì pháp

luật TTHS không bắt buộc họ phải khai báo trung thực hành vi phạm tội của mình

và đồng phạm. Do đó, việc xác định bị cáo không có KC, không bị KN là NLC là

52

chưa đảm bảo.

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 thì cơ sở để Tòa án cấp

phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của

BLHS về tội nặng hơn, tăng mức bồi thường thiệt hại, không cho bị cáo được

hưởng án treo chỉ khi có yêu cầu trong kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng

cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự. Theo đó, nếu đại diện hợp pháp của người

bị hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có kháng cáo

yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không có lợi cho bị cáo thì

không được chấp nhận. Trên thực tế, không phải người bị hại nào, nguyên đơn dân

sự nào cũng có khả năng thực hiện việc kháng cáo (người bị hại đang phải nằm

trong bệnh viện trong tình trạng bất tỉnh, người bị hại chưa thành niên). Như vậy,

hiệu lực của kháng cáo quy định cho những người này tại BLTTHS 2015 chưa đầy

đủ và chưa đảm bảo quyền kháng cáo cho những người tham gia tố tụng.

2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

Thứ nhất, Do phúc thẩm các vụ án do Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, nên

các vụ án phúc thẩm của Toà án cấp cao là về những tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc

phức tạp.

Thứ hai, Quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử phúc thẩm còn những bất

cập: các trường hợp sửa tăng nặng hay giảm nhẹ cụ thể còn chưa đầy đủ, thiếu rõ

ràng...

Thứ ba, Do TAND cấp cao 2 là TAND có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với

12 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Do vậy số lượng VAHS nhiều, trong

khi xét về tính chất của các vụ án ngày càng phức tạp, biên chế Thẩm phán và Thư

ký còn thiếu (tính trung bình mỗi năm thì một Thẩm phán cao cấp phải thụ lý, xét

xử hơn 16 vụ án hình sự phúc thẩm, ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng

giải quyết án. Bên cạnh đó, các thành viên Ủy ban Thẩm phán ngoài công tác xét

XXPT còn tham gia xét xử GĐT, tái thẩm nên có dấu hiệu quá tải.

Thứ tư, Một số vướng mắc về nghiệp vụ chuyên môn chưa được hướng dẫn

kịp thời, nên việc ADPL vào thực tiễn xét xử gặp nhiều khó khăn, nhiều trường hợp

53

khi giải quyết những vấn đề cụ thể bị lúng túng, hoặc nhận thức khác nhau cho nên

kết quả giải quyết không đồng nhất, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.

Thứ năm, Về phía chủ thể tham gia tố tụng thường cố ý kéo dài thời hạn xét

xử bằng việc nộp đơn xin hoãn phiên tòa lần đầu, có nhiều trường hợp không chịu

nhận các giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Bên cạnh đó, việc chuyển giao, tống đạt

các lệnh, quyết định đến bị cáo, đương sự qua Bưu điện còn chậm trễ, không đảm

bảo các quy định về thủ tục tống đạt dẫn đến phiên tòa bị hoãn.

Thứ sáu, Việc quy kết trách nhiệm của người tiến hành tố tụng khi sai phạm

do án bị cải sửa, bị hủy đã giúp cho TP nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công

tác xét xử nói chung và trong XXPT các VAHS nói riêng, nhưng điều này đôi khi

cũng tạo tâm lý thận trọng quá mức trong đấu tranh xử lý tội phạm do việc phải

BTTH cho người bị oan, sai hoặc điều kiện tái bổ nhiệm lại nhiệm kỳ TP nên để có

sự “an toàn”, có một số trường hợp Hội đồng XXPT đã tìm lý do để hủy án sơ

thẩm, THSĐTBS sung mặc dù lý do hủy án, THSĐTBS là không cần thiết.

Thứ bảy, Nhận thức chưa đúng về án treo, coi án treo như là một loại hình

phạt nhẹ hơn hình phạt tù, do đó vì muốn cho hưởng án treo, nên đáng lẽ phải xử

mức án cao thì lại xử phạt mức án thấp để tạo điều kiện cho hưởng án treo. Hoặc,

khi không cho hưởng án treo được thì giảm hình phạt tù một cách thiếu căn cứ.

Thứ tám, Chế độ kinh phí, tài chính đối với hoạt động xét xử còn nhiều bất

hợp lý và chưa tương xứng với tính chất đặc thù của công tác và đòi hỏi yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ TAND.

Tiểu kết Chương 2

Trong Chương 2 của luận văn, học viên đã nêu khái quát về sự hình thành và

phát triển của TAND cấp cao tại thành phố Đà Nẵng; đã nêu được thực trạng thụ lý,

xét xử phúc thẩm các VAHS của Tòa án nhân dân cấp cao 2 trong giai đoạn từ

2015-2019, trong đó tập trung nghiên cứu và phân tích những thuận lợi, những khó

khăn, vướng mắc của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đưa ra được những ví dụ

cụ thể để minh chứng cho những lập luận và phân tích đã nêu trong luận văn.

54

Toàn bộ nội dung của Chương 2 của luận văn sẽ là cơ sở thực tiễn để

Chương 3 của luận văn, học viên sẽ đưa ra một số đề xuất và giải pháp nhằm đảm

bảo thực hiện ngày càng tốt hơn những quy định của pháp luật về phạm vi xét xử

phúc thẩm VAHS tại Tòa án nhân dân cấp cao.

55

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

ĐÚNG PHẠM VI XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án

hình sự

3.1.1. Yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử

Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định một VAHS có thể được xét xử qua 2

cấp là một bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc xét xử của TAND được chính xác và

đúng đắn. Bởi vì qua hai cấp xét xử như vậy những vấn đề thuộc nội dung VAHS

một lần nữa được xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng, đầy đủ hơn. Trên cơ sở đó,

các phán quyết của TAND đưa ra đảm bảo độ chính xác cao hơn. Việc quy định và

thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử trong tố tụng hình sự tạo cơ sở pháp lý quan trọng

để VKS và các chủ thể tham gia tố tụng như: Bị cáo, người tham gia tố tụng khác có

quyền và lợi ích liên quan đến vụ án thể hiện thái độ không đồng tình với việc xét

xử của TAND theo quy định của PL tố tụng hình sự để VAHS được TAPT xét xử

lại. Thông qua đó, chủ thể của quyền KC, KN bảo vệ quyền, lợi ích của mình và

trong nhiều trường hợp thì lợi ích của NN và xã hội cũng được đảm bảo.

Việc quy định về nguyên tắc 2 cấp xét xử cũng như quy định về việc BA,

QĐ sở thẩm có thể bị sửa, bị hủy tại TAPT sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc

các hành vi vi phạm PL mà TAST mắc phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của

HĐXX sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa

ra phán quyết của mình. Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc

thẩm kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, tự

mình sửa chữa sai lầm, khắc phục thiếu sót hay đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm sửa

chữa những sai lầm của mình. Đây cũng chính là một hình thức hướng dẫn áp dụng

pháp luật có hiệu quả to lớn giữa Tòa án cấp phúc thẩm với Tòa án cấp sơ thẩm,

nhờ đó mà chất lượng xét xử tại các cấp ngày càng được nâng cao.

Việc xét xử lại vụ án mà cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân

56

dẫn đến sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của các

cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng. Từ đó, giúp tìm ra các giải

pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về lập pháp cũng như về hướng dẫn áp dụng

pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án,

đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và yêu cầu cải cách tư pháp.

Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS đáp ứng

các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với việc bảo đảm các quyền và lợi ích

chính đáng của công dân, đảm bảo dân chủ, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội,

áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là sự

thể hiện nhận thức khoa học về hoạt động xét xử của Tòa án phù hợp với nguyên lý

của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nhận thức thế giới. Đó là nhận thức luôn có sự vận

động và phát triển, không phải trong mọi trường hợp nhận thức của con người về

một sự vật hiện tượng đã đúng đắn ngay từ lần nhận thức đầu tiên. Việc quy định

một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai cấp xét xử khác nhau là phù hợp với quy

luật của nhận thức nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khách quan của hoạt động xét xử.

Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước trong

việc đưa ra các phán xét về số phận pháp lý, sinh mạng chính trị, quyền lợi của

người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và những người có liên quan

là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà

nước của dân, do dân và vì dân. Trong đó, vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền và

lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân là một nội dung quan trọng của Nhà

nước pháp quyền. Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của nhà nước,

trong phạm vi hoạt động của mình phải xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng

pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân “Hơn bất kỳ một

hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản

chất của Nhà nước, sai lầm của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án chính là sai

lầm của Nhà nước. Cho nên, đòi hỏi công tác XXPT phải chính xác, công minh, thể

hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân”. Cho nên cũng là một hình thức thực

hiện PL có hiệu quả chức năng giám đốc xét xử của TAND cấp trên đối với TAND

57

cấp dưới.

Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS thể hiện sự

tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả các quyền con người trong

lĩnh vực tư pháp, một lĩnh vực mà từ xưa đến nay bất kỳ một quốc gia nào cũng

phải thực hiện là vô cùng quan trọng, đã tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố

tụng có thể trực tiếp bảo vệ quyền lợi của mình nhiều lần tại các phiên tòa xét xử

khác nhau. Đồng thời với việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia tham gia tố

tụng, việc xét xử ở 2 cấp cũng giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong

VAHS để có thái độ hợp tác tích cực với cơ quan NN có thẩm quyền trong việc

thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình. Việc quy định nguyên tắc 2 cấp xét xử

trong tố tụng hình sự với nội dung cơ bản là 1 VAHS có thể được xét xử và chỉ có

thể xét xử ở 2 cấp là XXST và XXPT, giúp tránh được tình trạng VAHS bị xử ở quá

nhiều cấp làm cho quá trình tố tụng kéo dài ảnh hưởng tới hiệu lực của BA, QĐ,

nhất là các BA, QĐ đã có hiệu lực PL.

Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS góp phần

rất lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp

luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt

động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung và Tòa án nói riêng. Bởi lẽ, việc xét xử phải nhắm đến mục đích cao nhất là

đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, tránh oan sai, đảm bảo quyền bình

đẳng của mọi công dân trong TTHS. Do vậy, sẽ là không công bằng nếu như tước

bỏ quyền được bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo, người tham gia tố tụng có quyền

và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án một lần nữa tại một phiên tòa xét xử khác,

nếu như chưa thể có các điều kiện thực tế để khẳng định hay bảo đảm rằng phán

quyết của lần xét xử đầu tiên là hoàn toàn chính xác. Với việc quy định và thực hiện

nguyên tắc xét xử công khai ở cả 02 cấp XXST và XXPT, giúp cho người dân có

điều kiện biết rõ về hoạt động xét xử. Mặt khác, khi biết được kết quả XXPT, thấy

được sự đánh giá về tính đúng đắn hay không đúng đắn của cấp XXST, người dân

mới thực hiện triệt để quyền giám sát hoạt động xét xử của TAND các cấp. Qua đó

58

mới có thái độ chính xác nhất về tính khách quan của hoạt động này trong việc bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, lợi ích chung của xã hội,

cộng đồng và lợi ích của NN.

3.1.2. Yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp

Công tác tư pháp là hoạt động hướng tới việc bảo vệ PL, bảo đảm cho PL

được tôn trọng và nghiêm chỉnh thực thi trong thực tiễn cuộc sống. NN Cộng hòa

XHCN Việt Nam với mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước là mục tiêu cao

nhất. Hoạt động tư pháp suy cho cùng là vì con người, bảo đảm ngày càng tốt hơn

QCN, tránh các hành vi xâm hại từ các cá nhân, tổ chức kể cả những cơ quan NN có

thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ gây ra. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn

còn những bất cập, hạn chế nhất định. Trong hoạt động của cơ quan tư pháp vẫn còn

có trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người không có hành vi phạm tội, gây ảnh

hưởng đến việc thực hiện quyền tự do, dân chủ của công dân, thậm chí xâm hại đến

QCN, QCD, gây dư luận không tốt trong xã hội.

Nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác tư pháp nói chung, nhằm xây

dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân, BCT đã ban hành các nghị quyết định hướng về công tác cải cách

tư pháp: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ

trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới [4]. Trên cơ sở định

hướng của Đảng, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL và hoạt động ADPL

phải trên tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ QCN, hướng đến mục tiêu xây dựng NN

pháp quyền XHCN.

Cho nên, giải pháp quan trọng để đảm bảo đạt được mục tiêu trên là: Hoàn

thiện chính sách, PL hình sự, PL dân sự và thủ tục TTHS. Trọng tâm của giải pháp

này là sớm hoàn thiện hệ thống PL liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu

của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống PL. Coi trọng việc hoàn thiện PL

hình sự và thủ tục TTHS, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong

việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình

59

phạt cải tạo không giam giữ, chuyển từ hình phạt tù sang cho hưởng án treo đối với

một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng

đối với 1 số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tử

hình đối với 1 số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ quan hệ

dân sự làm oan và và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi

nguy hiểm cho XH mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - XH hội, khoa

học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Quy định TNHS nghiêm khắc hơn đối với

những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi PL, những người lợi dụng

chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ,

quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm minh để làm gương cho kẻ khác.

Muốn TAND là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm, theo tinh thần cải

cách tư pháp, thì bên cạnh các giải pháp căn cơ về nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí

của TAND trong hoạt động TTHS, đảm bảo thực sự “là cơ quan thực hiện quyền tư

pháp” theo HP 2013 [28] thì việc nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng hình phạt

là một trong những nội dung chính hướng đến việc cụ thể hóa mục tiêu “đề cao hiệu

quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” vào đời sống

xã hội, để kết quả áp dụng hình phạt thực sự đảm bảo ý nghĩa bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người. Yêu cầu này đặt ra cho mỗi TP, HTND sự quyết tâm cao trong

nhận thức, nghiên cứu quy định của PL, nhất là các quy định mới của Bộ luật hình

sự Bộ luật tố tụng hình sự mới, liên quan đến những thay đổi có lợi cho người phạm

tội, thể hiện tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội (so với quy định cũ).

3.1.3. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người

QCN là 1 trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc gia trên thế giới

đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ QCN cũng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển

bền vững của một quốc gia. Mỗi đất nước đều có hệ thống PL riêng, dựa trên các

điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và các giá trị truyền thống của quốc gia để bảo

đảm các QCN được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất.

Phòng, chống tội phạm là một công tác quan trọng, thường xuyên, liên tục và

lâu dài đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn

60

dân, trong đó, chú trọng công tác phòng ngừa khi tội phạm bị phát hiện và được

đưa ra xét xử thì áp dụng hình phạt phải đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội

phạm. Khi áp dụng hình phạt quá nặng sẽ dẫn đến việc xử lý tội phạm chỉ mang tính

chất trừng trị và thiếu tính giáo dục, còn khi áp dụng hình phạt quá nhẹ sẽ dung

dưỡng, làm cho tội phạm coi thường PL, từ đó không đáp ứng được yêu cầu phòng,

chống tội phạm nói chung.

3.1.4. Yêu cầu phòng ngừa tội phạm

Ngành Tòa án nói chung và Tòa nhân dân cấp cao nói riêng cần nghiêm

chỉnh thực hiện Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 17/11/2019 của Quốc hội nước

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam [31] về công tác phòng chống tội phạm và

vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành

án, mà cụ thể đối với Tòa án nhân dân tối cao:

Có giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các loại án. Giảm thiểu đến mức

thấp nhất tỷ lệ các BA, QĐ bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan. Bảo đảm xét xử

các VAHS nghiêm minh đúng PL không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Đẩy

nhanh tiến độ xét xử các VAHS tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, các

VAHS trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm... có đóng góp tích cực vào công

tác đấu tranh, phòng chống vi phạm và tội phạm. Để thực hiện được điều đó, việc

thực hiện đúng các quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử của TAPT có ý nghĩa

rất quan trọng.

3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm vụ

án hình sự

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật

3.2.1.1. Hoàn thiện quy định của BLTTHS về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án

hình sự và thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Một là, Đảng và NN ta đang tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ

thống các cơ quan tư pháp. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của công

cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, XXPT các VAHS là một trong

những hình thức giám đốc xét xử của TAND cấp trên đối với các VAHS mà BA,

61

QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực PL bị KC, KN nhằm khắc phục các sai sót của TAST,

bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, bảo vệ kịp thời các quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là một bộ phận, một nội dung quan trọng của

hoạt động tư pháp. Cho nên cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

không thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả về thẩm quyền của Hội đồng XXPT

các VAHS.

Hai là, Trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp ở

nước ta hiện nay là nâng cao hơn nữa tính tranh tụng tại phiên toà theo tinh

thần chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW của BCT về Chiến lược cải cách tư pháp

nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động XXPT ở nước ta. Việc XXPT các

VAHS ở nước ta đều được tiến hành tại phiên toà, do đó việc nâng cao tính tranh

tụng tại các phiên toà hình sự nói chung và phiên toà XXPT hình sự nói riêng không

thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả của XXPT các VAHS;

Ba là, Tình hình tội phạm ở nước ta những năm gần đây diễn biến ngày càng

phức tạp, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Cuộc đấu tranh

chống và phòng ngừa tội phạm đòi hỏi một mặt phải xử lý kiên quyết, nghiêm minh

đối với tội phạm, nhưng mặt khác phải tôn trọng và bảo vệ ngày càng có hiệu quả

hơn các quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân, không bỏ lọt tội phạm,

đồng thời không làm oan người vô tội. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải nâng cao

chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử nói chung và hoạt động XXPT các VAHS

nói riêng.

3.2.1.2. Việc hoàn thiện quy định của BLTTHS về thẩm quyền của HĐXX

phúc thẩm cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định sau:

- Theo Điều 330 BLTTHS 2015 thì tính chất của xét xử phúc thẩm VAHS là

việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại những BA, QĐ sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật bị KC, KN. Do vậy cần thể hiện chính xác hơn bản chất pháp lý của

XXPT, vì theo quy định BLTTHS hiện tại thì VKS, bị cáo và các đương sự khác có

quyền KN, KC các BA, QĐ định sơ thẩm trong một thời hạn nhất định để XXPT.

Do bị KC, KN nên BA, QĐ đó chưa có hiệu lực PL. Hay nói cách khác BA, QĐ sơ

62

thẩm chưa có hiệu lực PL là do bị KC, KN trong thời hạn luật định chứ không vì bất

kỳ lý do nào khác. LTHS chưa quy định thời điểm nào BA, QĐ sơ thẩm có hiệu lực

PL mà tuỳ thuộc vào việc KC, KN. Nhưng, không phải toàn bộ BA, QĐ sơ thẩm cứ

bị KC, KN là chưa có hiệu lực PL; theo quy định của Luật tố tụng hình sự thì chỉ

phần của bản án bị KN, KC mới chưa được đưa ra thi hành. Vì thế phần bản án

không bị KN, KC sẽ có hiệu lực PL và thi hành bình thường.

Nhưng tại tại 3 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự thì HĐXX phúc thẩm

có quyền sửa BA, QĐ cho những bị cáo không KC, KN hoặc không bị KC, KN. Tại

Điều 330 Bộ luật tố tụng hình 2015 đã bổ sung nội dung này nhưng vẫn chưa đầy

đủ. Nên cần bổ sung thêm tính chất của XXPT, cụ thể: “XXPT là việc Tòa án cấp

trên trực tiếp xét xử lại toàn bộ hay một phần VAHS mà Ba, QĐ sơ thẩm chưa có

hiệu lực PL do bị KC, KN trong thời hạn PL quy định và những phần của BA, QĐ

sơ thẩm đã có hiệu lực PL trong trường hợp mà pháp luật đã quy định” [27].

- Theo Điều 345 BLTTHS 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các

phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án nếu xét thấy cần thiết. Song

“cần thiết” là trường hợp nào thì chưa được quy định cụ thể trong BLTTHS 2015.

Vì thế, cụm từ “nếu xét thấy cần thiết” là không rõ ràng, chưa chặt chẽ mà cần phải

được quy định cụ thể. Cần phải quy định theo hướng ghi rõ trường hợp nào thì Tòa

án cấp phúc thẩm được quyền xét xử các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị

của bản án, quyết định sơ thẩm.

Do đó phạm vi xét xử phúc thẩm cần quy định như sau: “Tòa án cấp

phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu TAPT thấy có căn cứ để

sửa hoặc hủy BA, QĐ theo hướng có lợi cho bị cáo không có KC, KN nhưng có liên

quan đến KC, KN đang được giải quyết thì có quyền xem xét toàn bộ VAHS không

phụ thuộc vào giới hạn và phạm vi KC, KN”. Giống như BLTTHS của nước Pháp.

- Theo Khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì cơ sở để Hội đồng

XXPT tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nặng hơn; áp dụng

hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; tăng mức BTTH; chuyển sang hình

phạt khác thuộc loại nặng hơn; không cho bị cáo hưởng án treo trong trường hợp

63

VKS - KN hoặc bị hại KC yêu cầu. Như vậy, nếu đại diện hợp pháp của người bị

hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có KCo yêu cầu

TAPT giải quyết thì không được chấp nhận. Cho nên hiệu lực của KC quy định cho

những chủ thể này tại Bộ luật tố tụng hình sự là chưa đầy đủ và chưa bảo đảm

quyền KC cho các chủ thể tham gia tố tụng. Do vậy cần bổ sung khoản 2 Điều 357

theo hướng ngoài trường hợp VKS - KN hoặc bị hại KC yêu cầu, cần thêm đại diện

hợp pháp của người bị hại hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại,

nguyên đơn dân sự là NCTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất

3.2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật (hướng dẫn, tổng kết xét xử

phúc thẩm, xây dựng án lệ)

Một là, Về tư cách tham gia tố tụng của bị cáo không KC hoặc không bị KC,

KN nhưng Hội đồng XXPT xét thấy cần thiết triệu tập họ đến phiên tòa XXPT thì

chưa được quy định rõ ràng; Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay vẫn chưa khắc phục

được vấn đề này. Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, cần có văn bản chính

thức của cơ quan có thẩm quyền về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị

cáo không KC hoặc không bị KC, KN và những người tham gia tố tụng khác ở giai

đoạn XXPT.

Hai là, theo Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng XXPT có

thể sửa BA, QĐ sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Luật

hình sự về tội nặng hơn, tăng mức BTTH trong trường hợp VKS - KN hoặc bị hại

KC có yêu cầu. Theo đó, nếu đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ

quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự có KC yêu cầu TAPT giải quyết theo

hướng không có lợi cho bị cáo thì không được chấp nhận. Nhưng thực tiễn XXPT

thì không phải người bị hại nào, nguyên đơn dân sự nào cũng có khả năng làm KC

(trường hợp người bị hại đang phải nằm trong bệnh viện trong tình trạng bất tỉnh,

người bị hại CTN). Như vậy, hiệu lực của kháng cáo quy định cho những người này

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chưa đầy đủ và chưa đảm bảo quyền

kháng cáo những người tham gia tố tụng. Vì thế, cần có văn bản hướng dẫn Hội

đồng XXPT có quyền sửa BA, QĐ theo hướng tăng nặng TNHS sự và trách nhiệm

64

dân sự đối với bị cáo bị KC của người đại diện hợp pháp của người bị hại; cần

hướng dẫn bổ sung thêm cơ sở để Hội đồng XXPT tăng mức BTTH khi có KC của

nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ hoặc người bảo vệ quyền và lợi

ích của đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân sự là NCTN, có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất.

Ba là, Theo Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng XXPT có thể sửa

BA, QĐ theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội

nặng hơn nếu có KC, KN yêu cầu chuyển khung hình phạt khác nặng hơn khung

hình phạt mà TAST đã áp dụng trong điều luật, hoặc chuyển sang tội danh khác

nặng hơn tội danh mà TAST đã xét xử. Cho nên, có thể vi phạm đến quyền được

bào chữa của bị cáo, quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 hoặc vi

phạm về thành phần Hội đồng xét xử trong trường hợp khung hình phạt nặng hơn

đó hoặc tội danh nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của TAST. Cụ thể

như việc Hội đồng XXPT tăng nặng hình phạt đối với bị cáo đến 20 năm tù, tù

chung thân hoặc tử hình, hoặc thay đổi tội danh từ “Cưỡng đoạt tài sản” sang tội

“Cướp tài sản”. Thì Hội đồng XXPT có quyền sửa BA, QĐ trường hợp này không,

nếu Hội đồng XXPT không được quyền sửa BA, QĐ thì Hội đồng XXPT quyết

định như thế nào trong trường hợp này. Hiện nay vấn đề này vẫn chưa được hướng

dẫn cụ thể, rõ ràng. Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn về trường hợp này để áp

dụng thống nhất.

3.2.3. Giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống Toà án nhân dân

Như đã biết trong những năm qua, Đảng và NN đã ban hành và lãnh đạo, chỉ

đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức

bộ máy của hệ thống chính trị, cải cách tư pháp, nên đã được được một số mặt tích

cực. Thi hành Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản

quy phạm pháp luật có liên quan, Tòa án nhân dân các cấp đã từng bước được kiện

toàn về tổ chức bộ máy và ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động; đội ngũ Thẩm

phán, Hội thẩm, cán bộ, công chức Tòa án được củng cố, tăng cường cả về số lượng

và chất lượng; cơ sở vật chất đã có bước cải thiện nhất định, tạo điều kiện để các

65

Tòa án hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự

an toàn xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu và nhiệm vụ chính trị đặt ra

đối với công tác Tòa án.

Tuy nhiên, với nhận định: “tổ chức bộ máy của TAND vẫn còn bộc lộ một số

hạn chế; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số đơn vị chưa rõ ràng,

còn chồng chéo, trùng lắp… ; công tác kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với tinh giản

biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm đạt kết

quả thấp; cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức giữa TAND các cấp và trong từng

đơn vị, Tòa án chưa hợp lý; năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức không đồng đều, tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối văn

phòng; năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số đơn

vị, Tòa án còn hạn chế; công tác hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ thông tin

trong quản lý điều hành chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách tiền lương còn bất

cập”… tại buổi Hội thảo về Đề án tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của

TAND bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương

6 khóa XII của Đảng, nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới do

Tòa án nhân dân tối cao tổ chức ngày 05/8/2019, đồng chí Bí thư Trung ương Đảng,

Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình chủ trì Hội thảo đã kết luận và đưa ra

phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống Toà án nhân dân trong thời

gian tới, cụ thể như sau:

3.2.3.1. Về đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy Toà án nhân dân cấp cao

Về số lượng TANDCC: Có thể thành lập thêm TANDCC tại Cần Thơ và tại

Thái Nguyên; từ đó bố trí lại địa giới đảm nhận của các TANDCC. Đồng thời xem

xét lại cơ cấu tổ chức, bộ máy của TANDCC bao gồm: Ủy ban Thẩm phán, các Tòa

chuyên trách và bộ máy giúp việc.

Trong đó, bộ máy giúp việc được sửa đổi, bổ sung như sau:

+ Văn phòng: Là đơn vị cấp vụ loại II; thực hiện nhiệm vụ giúp Chánh án

Tòa án nhân dân cấp cao về công tác cán bộ, công tác hành chính tư pháp và bảo

66

đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp cao.

+ Bộ phận giúp việc cho Ủy ban Thẩm phán TANDCC trong công tác xét xử

giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật: Thành lập Vụ Giám đốc thẩm,

tái thẩm (trên cơ sở gộp 3 Phòng Giám đốc, kiểm tra hiện nay) để giúp việc cho Ủy

ban Thẩm phán trong công tác xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các loại vụ, việc

thuộc thẩm quyền của TANDCC (không tổ chức cấp phòng trong Vụ).

3.2.3.2. Những nhiệm vụ, giải pháp lâu dài

Về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án nhân dân: Đề

nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 21 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định:

“Cơ cấu tổ chức của TANDTC gồm: Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Bộ máy giúp

việc; Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và các đơn vị sự nghiệp công lập khác”.

Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 37, Điều 39 Luật Tổ chức TAND 2014 theo

hướng: Giao cho Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh có thẩm quyền GĐT, tái thẩm

đối với BA, QĐ về một số loại vụ việc của TAND cấp huyện có hiệu lực PL.

Về đội ngũ cán bộ: Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 66 Luật Tổ chức TAND

năm 2014 theo hướng tại TANDTC có Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán cao cấp,

Thẩm phán trung cấp; tại TANDCC có Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp.

Đề nghị sửa đổi điểm a các khoản 1, 2, 4 Điều 68; điểm a khoản 1 Điều 69

Luật Tổ chức TAND năm 2014 theo hướng rút ngắn thời gian giữ ngạch Thẩm phán

cũ còn 03 năm (thay vì 05 năm như hiện nay) nhằm tạo nguồn cán bộ trẻ cho các

chức danh lãnh đạo, quản lý.

Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014

theo hướng: Trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo TANDCC, TAND cấp tỉnh, TAND

cấp huyện có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán

trung cấp, Thẩm phán cao cấp (trước mắt không cần có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ

xét xử và sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để được đào tạo nghiệp vụ xét xử sớm

nhất…).

67

Đề nghị UBTVQH xem xét: Quy định về cơ cấu, số lượng thành viên Hội

đồng Thẩm phán TANDTC từ nguồn nhân sự bên ngoài TAND (quy định tại khoản

2 Điều 69) theo hướng không quá 02 người từ các đối tượng là Kiểm sát viên, Luật

sư; quy định cơ chế bảo đảm an toàn cho Thẩm phán và cán bộ Tòa án trong quá

trình thực thi công vụ.

Các điều kiện đảm bảo cho hoạt động Tòa án như: Đề nghị Nhà nước có

chính sách ưu tiên về trụ sở, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động; tăng cường ứng

dụng công nghệ thông tin trong công tác Tòa án; cải cách chế độ tiền lương và

chính sách ưu đãi cho cán bộ Tòa án [36].

3.2.4. Các giải pháp khác

Kết quả của công tác XXPT các VAHS phụ thuộc rất lớn vào các chủ thể

tiến hành tố tụng, nhất là đối với TP của TAPT. Thực tế cho thấy trình độ chuyên

môn và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ TP ở nước ta nói chung và của TP -

XXPT các VAHS nói riêng còn nhiều bất cập, không đồng đều, kỹ năng nghiệp vụ

chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên toà trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, xây dựng đội ngũ TP nói chung và đội

ngũ TP - XXPT các VAHS nói riêng có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên

môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi là một yêu cầu cấp thiết. Một số giải pháp có ý

nghĩa rất quan trọng để nâng cao năng lực của TP – XXPT, gồm:

- Tập trung nâng cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ

Thực hiện Chỉ thị 05 của BCT Trung ương về “đẩy mạnh việc học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương bốn về

tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,

chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong

nội bộ. Cần thiết phát triển phong trào thi đua thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chi

Minh với ggành TAND “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, gắn với phương

châm “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” với việc học tập và làm theo tấm

gương đạo đức của Người trong hệ thống Tòa án nhân dân với chủ đề “Nâng cao bản

lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ TP, cán bộ, công chức ngành

68

TAND”. Mỗi người TP phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống và tự

xây dựng kế hoạch hành động cho cá nhân; phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình

và phê bình; tích cực phát hiện và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu,

lãng phí, tiêu cực; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với

cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý và thực hiện công tác cán bộ.

- Thực hiện tốt công tác thi tuyển và bổ nhiệm thẩm phán:

Phải làm tốt công tác thi tuyển và bổ nhiệm các chức danh Thẩm phán

TAND, phải lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng

vững vàng, bảo đảm đúng các tiêu chuẩn theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật

tổ chức TAND 2014. Lựa chọn các TP xuất sắc ở TAST để bổ nhiệm TP ở TAPT.

Việc tái bổ nhiệm TP phải căn cứ vào chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của TP trong

nhiệm kỳ, kiên quyết không đề nghị tái bổ nhiệm những người hoàn thành nhiệm

vụ, nhưng còn hạn chế về năng lực.

- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn

và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ TP nói chung và Thẩm phán TAPT nói riêng:

TANDTC cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng (ngắn hạn) cho

đội ngũ TP cấp phúc thẩm về kỹ năng xét xử phúc thẩm, kỹ năng tranh tụng tại các

phiên toà phúc thẩm, cũng như các kỹ năng đặc thù nghiệp vụ xét xử và cập nhật

thường xuyên các kiến thức pháp luật. Do vậy sẽ là 1 trong những giải pháp quan

trọng và nhất thiết phải triển khai trong thời gian tới, để sớm trang bị kỹ năng nghề

nghiệp cho đội ngũ TP nói chung và các Thẩm phán TAPT nói riêng, để có thể đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài trong chiến lược cải cách tư

pháp ở nước ta.

- Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của

TP- XXPT:

Việc sắp xếp, bố trí và phân công nhiệm vụ đối với TP nói chung và TP -

TAPT nói riêng phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực tế

của họ. Cần kịp thời chuyển những TP hạn chế về trình độ chuyên môn hoặc kỹ

năng nghiệp vụ sang làm công việc khác phù hợp hơn.

69

- Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với Thẩm

phán:

Khi chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ được nâng nên sẽ tạo động giúp

Thẩm phán và Thư ký tòa án làm việc có chất lượng và hiệu quả, yên tâm, phấn

khởi, tập trung thời gian, trí tuệ vào nghiên cứu hồ sơ để hoàn thành nhiệm vụ

XXPT. Do vậy đây cũng được coi như là giải pháp hữu hiệu để hạn chế, ngăn chặn

sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường hành hóa ngày nay. Những năm gần đây,

Đảng và NN ta đã quan tâm và có nhiều cố gắng áp dụng những biện pháp cần thiết

để cải cách chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp

nói chung và đối với Thẩm phán nói riêng. Tuy nhiên, chế độ, chính sách đãi ngộ

đối với cán bộ, công chức và Thẩm phán hiện nay còn chưa phù hợp với đặc thù

công tác Toà án, còn nhiều bất hợp lý, chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp

và chế độ trách nhiệm pháp lý, chưa thực sự tạo được động lực khuyến khích đội

ngũ cán bộ, công chức đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất

đạo đức, năng lực công tác. Vì vậy, tiếp tục cải cách chính sách tiền lương và các

chế độ đãi ngộ khác để phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù, là một yêu cầu

cấp thiết và cũng một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt

động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử phúc thẩm nói riêng.

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở lý luận và pháp luật về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở

Chương 1 và Thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của TAND cấp

cao tại Đà Nẵng trong giai đoạn 2015-2019 ở Chương 2. Tại Chương 3 của luận

văn, học viên đã nêu và phân tích các yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng phạm vi xét

xử phúc thẩm, gồm: Yêu cầu về việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, yêu cầu

về chiến lược cải cách tư pháp, yêu cầu về bảo vệ quyền con người và yêu cầu về

phòng, chống tội phạm; Học viên cũng đã đưa ra được một số giải pháp nhằm bảo

đảm thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS có giá trị thực tiễn cũng như

khoa học pháp lý.

70

KẾT LUẬN

Cải cách tư pháp là quá trình đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống tư pháp mà

trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Trong đó, chú trọng việc bảo

đảm nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS là yêu tố vô cùng quan trọng. Với mục

đích đi sâu tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam quy

định về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở TAND cấp cao tại Đà Nẵng giai đoạn

2015 - 2019, ở luận văn này, học viên đã nêu và phân tích làm sáng tỏ khái niệm,

đặc điểm, ý nghĩa, cũng như quá trình hình thành và phát triển của những quy định

của LTTHS Việt Nam về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS. Sau khi nêu được nội

dung những quy định của LTTHS Việt Nam hiện nay quy định về phạm vi xét xử

phúc thẩm VAHS, học viên đã nêu phân tích và so sánh những quy định này với

Luật tố tụng hình sự của một số quốc gia như: Nga, Pháp và Trung Quốc.

Với thực tiễn thực hiện phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS của TAND cấp cao

2 giai đoạn 2015-2019, luận văn đưa ra những giải pháp đảm bảo thực hiện đúng

những nội dung quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về phạm vi xét xử

phúc thẩm VAHS. Những giải pháp nêu trên có cơ sở thuyết phục, có ý nghĩa quan

trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Việc thực hiện đầy đủ các giải pháp này sẽ

đảm bảo thực hiện đúng phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS ở Tòa án cấp phúc thẩm

nói chung và ở TAND cấp cao 2 nói riêng; góp phần to lớn trong công tác khởi tố,

điều tra, xét xử tội phạm xảy ra trên địa bàn 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương, gồm: Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam,

Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.

Luận văn này là tài liệu dùng để tham khảo trong quá trình thực hiện nguyên

tắc hai cấp xét xử trong TTHS nói chung và về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS tại

TAND cấp cao nói riêng. Do phạm vi của đề tài cũng như trình độ nhận thức của

học viên có những hạn chế, thiếu sót nên học viên mong sự đóng góp ý kiến của

các nhà khoa học.

Xin chân thành cảm ơn./.

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thành An (2018), Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình

sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ luật

học, Học viện Khoa học xã hội.

2. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trương Thi, Sài Gòn, tr 136;

3. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới tổ

chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan Điều tra theo Nghị

quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Nghị

quyết Đại hội đại biểu lần IX, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị

quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị

quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005,

Hà Nội.

7. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị

quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành

ngày 02/6/2005, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2013), Ban chỉ đạo Đề án IV “Đấu tranh phòng, chống tội phạm

xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”, Hà Nội.

10. Trương Phạm Huyền Châu (2018), Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự

theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao

tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã

hội.

11. Chính Phủ (2012), Quyết định số 41/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về chế

độ dưỡng bồi người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự,

ban hành ngày 05/10/2012, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb tổng hợp Đồng Nai, tr 254-258.

13. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND,

Hà Nội.

14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luậst hình sự Việt Nam (phần các

tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo luật tố

tụng hình sự, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc

sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm

sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số

05/2005/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư

“Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 08/12/2005, Hà

Nội.

18. Vũ Gia Lâm (2008), Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam,

Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Ngô Hà Nam (2017), Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ

luật học, Học viện Khoa học xã hội.

20. Nguyễn Thị Hồng Phương (2012), Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội.

21. Nguyễn Xuân Quang (2017), Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm

tính mạng, sức khỏe của con người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

22. Đinh Văn Quế (1998), Về hình thức và thủ tục xét xử của phiên tòa hình sự,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 37-40.

23. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

24. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.

25. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.

26. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

27. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.

29. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002.

30. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.

31. Quốc hội (2019), Nghị quyết 96/2019/QH14, về công tác phòng chống tội

phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân

dân và công tác thi hành án.

32. Quốc hội, Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Tòa án nhân

dân cấp cao, ban hành ngày 28/8/2015, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Các báo cáo tổng kết công tác 2015 -

2019 và hồ sơ vụ án hình sự, Đà Nẵng.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 99/TANDTC về việc triển khai

thực hiện việc tổ chức Tòa án gia đình và người chưa thành niên, ban hành

ngày 14/4/2016, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: “Thực

trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động xét xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà

Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Hội nghị, hội thảo về “Chiến lược cải cách tư

pháp trong ngành Tòa án nhân dân định hướng đến năm 2030”.

37. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 hướng

dẫn hoạt động xét xử.

38. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1988), Thông tư liên

tịch số 01/TANDTC-VKSNDTC/TTLT hướng dẫn thi hành một số quy định

trong Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 08/12/1988, Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư

pháp, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Thông tư liên tịch số

01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành

một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là

người chưa thành niên, ban hành ngày 12/7/2011, Hà Nội.

40. Nguyễn Anh Thư (2015), Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con

người trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn

tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nxb Tư

pháp, Hà nội.

42. Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2014), Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo

luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở nghiên

cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Vũ Thị Uyên (2016), Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản

án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện

Khoa học xã hội.

44. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

45. Viện ngôn ngữ (2006), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr

790