BỘ NỘI VỤ
…./….
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………../…………..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ DIỆP LAN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9.34.04.03
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2020
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH
2. PGS.TS. TRƯƠNG QUỐC CHÍNH
Phản biện 1:……………………………………………………
………………………………………………………………….
Phản biện 2:……………………………………………………
…………………………………………………………………..
Phản biện 3:……………………………………………………
…………………………………………………………………..
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ, Phòng họp ………., Nhà - Học viện
Hành chính Quốc gia, Số 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2020
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam hoặc thư viện của Học
viện Hành chính Quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới, giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong các cấp học, GDPT bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp) là giai đoạn cực kỳ quan trọng góp phần cung cấp, định hướng năng lực và nhân cách người học. Cùng với GDPT, QLNN đối với GDPT luôn luôn là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm bởi vì quản lý giáo dục từ bình diện quốc gia đến các cấp quản lý giáo dục ở địa phương và các cơ sở giáo dục đều có ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách GDPT và nâng cao chất lượng GDPT.
Giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và cung cấp nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, do sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN nên các cơ chế, chính sách hiện hành về quản lý nhà nước về giáo dục nói chung, quản lý nhà nước về GDPT nói riêng đang còn nhiều hạn chế, bất cập; sự phân cấp quản lý đối với GDPT chưa rõ ràng, chưa hợp lý; quyền hạn chưa đi đôi với trách nhiệm. Để nâng cao hiệu quả QLNN về GDPT cần thực hiện nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp để phát triển GDPT ở nước ta là phải cải cách mạnh mẽ hệ thống thể chế và phương thức quản lý nhà nước về GDPT theo hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, nhu cầu về đời sống tinh thần cao, có điều kiện để tiếp thu nhanh chóng nền văn minh tiên tiến của nhân loại. Trong những năm qua, giáo dục phổ thông của Thủ đô đã đạt được những kết quả quan trọng, hệ thống các trường phổ thông phát triển đa dạng với nhiều loại hình trường, lớp; cơ sở vật chất của các trường được xây dựng khang trang hơn trước; nhiều trường đạt chuẩn quốc gia.
1
Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng chất lượng GDPT ở nước ta nói chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng GDPT là do phân cấp quản lý nhà nước về GDPT còn có nhiều hạn chế. Mô hình tổ chức quản lý nhà nước theo ngành kết hợp theo lãnh thổ dẫn đến cùng một đối tượng quản lý là các cơ sở giáo dục phổ thông nhưng chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nhau như Bộ, Sở, Phòng Giáo dục đào tạo quản lý theo chiều dọc về chuyên môn; Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý theo chiều ngang về nhân sự,
hành chính.. Sự chồng chéo về chức năng, việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn chưa phù hợp dẫn đến chưa phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục; từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục phổ thông trên địa bàn.Quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về GDPT vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn và còn nhiều hạn chế, bất hợp lý; phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán, cục bộ, chưa chú trọng việc thanh tra, kiểm tra đối với những chức năng, nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; chưa xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân đối với những nhiệm vụ đã được phân cấp; phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đảm tương ứng các điều kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực có liên quan, chưa tạo điều kiện cho địa phương chủ động cân đối các nguồn lực.
Đặc biệt với đặc thù là thủ đô của cả nước, bên cạnh các văn bản pháp luật chuyên ngành về giáo dục, Hà Nội chịu sự điều chỉnh của Luật Thủ đô với những cơ chế quản lý được áp dụng riêng trên địa bàn. Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về GDPT của các cơ quan quản lý phải có những điểm đặc thù để đáp ứng được các thách thức và nhu cầu thay đổi nhanh chóng trong bối cảnh mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa đòi hỏi hệ thống GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội; để thực hiện mục tiêu giáo dục là tạo ra những công dân kiểu mới. Cải cách giáo dục phải đẩy mạnh phân cấp quản lý, trao quyền nhiều hơn cho cấp dưới, huy động các nguồn lực của địa phương và tạo ra cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân.
Mặt khác, dưới góc độ khoa học quản lý công cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Việc giải mã những vấn đề lý luận của phân cấp quản lý về GDPT cũng như đánh giá thực tiễn phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó xác định phương hướng và giải pháp phù hợp để tăng cường, đảm bảo phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên việc lựa chọn đề tài: “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công là hoàn toàn cấp thiết về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Muc đích nghiên cứu
2
Mục đích nghiên cứu của luận án là luận giải, cung cấp những luận cứ khoa học về lý luận và thực tiễn để tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố hướng tới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT.
2.2. Nhiêm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, nội dung phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng như kinh nghiệm phân cấp QLNN về GDPT một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, tìm hiểu những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới và đẩy mạnh phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT.
3.2. Phạm vi nghiêncứu
- Về không gian: thành phố Hà Nội - Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT công lập tại các cấp quản lý theo ngành (Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở Giáo dục và Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo) và phân cấp quản lý theo lãnh thổ trên địa bàn Thành phố Hà Nội (UBND các cấp) ở 3 lĩnh vực chủ chốt: (i)bộ máy, nhân sự; (ii) cơ sở vật chất và tài chính; (iii) chuyên môn (bao gồm lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông)
- Về thời gian: từ năm 2010 đến nay .
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận
Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý nhà nước, phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được kết hợp nhất quán để nghiên cứu và phân tích thực trạng quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 4.2. Phương pháp nghiên cứu
3
Để thực hiện các mục đích nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp nghiên cứu lý luận; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp điều tra xã hội học. 5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu 5.1. Giả thuyết khoa học
(1) Phân cấp QLNN về GDPT có ảnh hưởng lớn đến hoạt động QLNN về GDPT
cũng như đời sống kinh tế - xã hội.
(2). Phân cấp QLNN về GDPT ở nước ta nói chung, trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng tuy đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập....
(3). Tăng cường phân cấp QLNN về GDPT tại địa bàn Hà Nội trên cơ sở phân định cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp quản lý nhà nước về GDPT, khắc phục chồng chéo và mẫu thuẫn giữa các cấp, các ngành góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu qủa QLNN về GDPT từ đó đẩy mạnh chất lượng GDPT đáp ứng yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập. 5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là gì? Có tác động như thế nào? - Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay như thế nào? Những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố?
- Cần phải làm gì để đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên
địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới? 6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận Qua tham khảo các tài liệu về phân cấp quản lý và GD trong và ngoài nước, nghiên cứu các xu hướng, mô hình phân cấp QLGD ở một số nước trên thế giới, luận án góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng ở nước ta.
Về mặt thực tiễn Nghiên cứu, nhận xét thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPTtrên địa bàn Thành phố, đánh giá những ưu điểm và những mặt hạn chế, xác định những nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để chính quyền Thành phố Hà Nội đổi mới quản lý đối với các trường phổ thông trên tinh thần đẩy mạnh phân cấp quản lý, giáo quyền hợp lý cho các trường để xây dựng nền giáo dục của Thành phố Hà Nội ngày càng phát triển. 7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án kết
4
cấu thành 4 chương.
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước 1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Võ Kim Sơn (2004): “Phân cấp quản lý nhà nước – lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước của Viện nghiên cứu Khoa học tổ chức, Bộ Nội vụ: “Tình hình phân cấp giữa Trung ương và địa phương”, năm 2004. Phạm Hồng Thái (2011): “Một số vấn đề nhận thức lý luận về tập quyền, tản quyền, phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước”, bài trong cuốn “Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Hoàng Mai: tham luận: “Thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương trong phát triển bền vững - kết quả của quá trình phân cấp quản lý ở Việt Nam” được trình bày tại Hội thảo quốc tế về quản trị địa phương (tháng 3/2009 trong chương trình Đại hội khối Pháp ngữ năm 2009 tổ chức tại Hà Nội. Hoàng Thị Ngân (2010): “Thực trạng và xu hướng phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam”, bài tham gia hội thảo của Khoa Luật, Đại học Quốc gia. Bích Hiên: “Bàn về phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 9/2005; Hoàng Thị Ngân: “Đẩy mạnh công tác phân cấp Trung ương và địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 2+3/2009; Trần Anh Tuấn: “Đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập toàn cầu”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 10/2014; Nguyễn Minh Phương: “Để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền địa phương hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính, Số 1/2007; Vũ Thư: “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 4/2009; Trần Thị Diệu Oanh: “Mối quan hệ giữa phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính Quốc gia, Số 4/ 2010; 1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
5
- Ngân hàng thế giới (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa - Thông tin. Báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới: “What is Desentralization”, năm 2002. Báo cáo phân tích khái niệm và đặc điểm của phân cấp, phân quyền. Tài liệu nghiên cứu của Liên hiệp quốc (UNDP): “Desentralization –Sampling of defination” (Phân cấp - Sự thử nghiệm về phạm trù), năm 1999. Osborne và Gaebler (2000): “Sáng tạo lại chính phủ”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. J. M. Cohen, S. B. Peterson (2002): “Phân cấp quản lý hành chính - Chiến lược cho các nước đang phát triển”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục 1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Đề tài khoa học cấp Bộ B98-52-22 “Nghiên cứu tập trung và phân quyền trong hệ thống quản lý ngành GDPT Việt nam” do TS. Nguyễn Tiến Hùng làm chủ nhiệm. Đề tài khoa học tập trung nghiên cứu các kiểu tập trung và phân cấp trong quản lý .Năm 2003, các tác giả Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp và Đào Vân Vy đã cho công bố công trình nghiên cứu: “Phân cấp quản lý giáo dục Việt Nam: Thực trạng và xu hướng”. Trần Hồng Hạnh (2011): “Một số nhìn nhận về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”, bài trong cuốn “Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Đinh Thị Minh Tuyết (2007): “Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 142 (11-2007). Trần Hồng Thắm: “Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số tháng 2/2012. Đinh Minh Dũng: “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 195 (4-2012). 1.2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
6
- Rondineli D. và Nellis J. (1996): “Assessing decentralization policies in Developing countries: the case for cautious optimism” (Chính sách phân cấp sự định ở các nước đang phát triển: Trường hợp về chủ nghĩa lạc quan cẩn trọng), Delelopment Policy Review 4. Lockheed, Marlaine (2004): “Decentralization of education: Eight lessons for school effectiveness and improvement” (Phân cấp giáo dục: Tám bài học của sự tiến triển và ấn tượng trường học), The word Bank, Washington, D.C. Elizabeth M. King và Susana Corderio Guerra (2005): “Những cuộc cải cách giáo dục ở Đông Á: chính sách, quá trình và tác động” trong cuốn sách “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Winkler R, Donald R. and Gershberg (2003): Effects on Quality of Schooling (Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy học), Word Bank, Washington D.C. Sách chuyên khảo của Alfred de Grazia: “Decentralization - The element of Political Science” (Phân cấp - yếu tố của khoa học chính trị), New Jersey, 1999. Công trình nghiên cứu của FAO: “A history of Decentralization” (Lịch sử của phân cấp), năm 2001.Meemnakshi Sundaram: “Decentralization in Developing countries” (Phân cấp ở các nước đang phát triển), năm 1998.
1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.3.1. Những nội dung đã được nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về phân cấp quản lý dựa trên quan điểm của các học giả, so sánh, phân biệt phân cấp với phân quyền, ủy quyền, tản quyền. Các nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của phân cấp quản lý trên thế giới cũng cho thấy các đặc điểm của của hoạt động phân cấp ở mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển của mỗi quốc gia.Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cấp đến các đặc điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý, từ đó đề xuất quy trình và mô hình phân cấp quản lý phù hợp với đặc điểm của các quốc gia trên thế giới.Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý đối với giáo dục đã phân tích vai trò của phân cấp quản lý từ nhiều góc nhìn; lợi thế và rủi ro của phân cấp quản lý; các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện phân cấp, các kiểu tập trung và phân cấp quản lý đối với giáo dục. 1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động phân cấp, nhất là phân cấp phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT: Đặc điểm, mục tiêu, các nguyên tắc phân cấp quản lý; các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT; các kiểu tập trung và phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT; những vấn đề đặt ra khi thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT ở nước ta hiện nay.
Hai là, nghiên cứu hệ thống hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động phân cấp
quản lý và phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT ở Việt Nam.
Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
7
Bốn là, nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới. Luận án cũng đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong bối cảnh phân cấp quản lý đối với GDPT.
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
2.1. Quản lý và quản lý nhà nước giáo dục phổ thông 2.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước
Quản lý là sự tác động có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. 2.1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông là một lĩnh vực của quản lý nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, thực hiện sự tác động và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu duy trì kỷ luật, kỷ cương, phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. 2.2. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông 2.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước
Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. 2.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là quá trình thiết kế lại hệ thống quy trình trách nhiệm, quyền hạn và tính chịu trách nhiệm (theo các chức năng hoặc thành phần, của chức năng quản lý nhà nước về GDPT) theo hướng dịch chuyển từ cấp trên xuống cấp dưới, cũng như quy trình quan hệ công việc giữa các bên liên quan (trong và ngoài hệ thống quản lý đối với GDPT), nhằm sử dụng tối đa các nguồn lực đạt tới mục tiêu đề ra.
Từ khái niệm trên, có thể xem xét các đặc điểm của phân cấp QLNN về GDPT
như sau:
8
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT liên quan chặt chẽ với quản lý nhà nước về GDPT. Về bản chất thì phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một hình thức cải cách trong quản lý nhà nước về GDPT theo hướng dịch chuyển quyền ra quyết định
cho các cấp thấp hơn để phù hợp với điều kiện thực tế và đảm bảo sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn, đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó, chủ yếu và chuyển giao một số thẩm quyền từ Chính phủ, các bộ (trong đó phần lớn là nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và đào tạo), cho chính quyền địa phương hay cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới bằng các văn bản luật, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo... của các cơ quan, đơn vị hành chính cấp dưới, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam dựa trên nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Ở địa phương, Sở Giáo dục và Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh (Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh), vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Phòng Giáo dục và Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa phương cấp huyện vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo. Phân cấp quản lý còn được thực hiện đối với những chức năng quản lý GDPT khác nhau của ngành. Ví dụ, ngành giáo dục - đào tạo thực hiện quản lý chuyên môn, nghiệp vụ, song tuỳ theo từng địa phương mà ngành có thể chịu trách nhiệm các vấn đề khác như quản lý ngân sách, đội ngũ giáo viên, nhân viên, tổ chức bộ máy, biên chế, xây dựng trường học. Đối với một số địa phương, Sở Giáo đục và Đào tạo chỉ quản lý các hoạt động liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ. Các vấn đề về ngân sách, tổ chức bộ máy, biên chế chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực khác.
Các mối quan hệ trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được chia thành hai loại khác chính: 1) Mối quan hệ theo chiều dọc là mối quan hệ theo hệ thống thứ bậc, cấp dưới phục tùng cấp trên, chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên. Mối quan hệ này bao gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở Giáo dục và Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo; 2) Mối quan hệ theo chiều ngang là mối quan hệ phối hợp của các cơ quan trong cùng một cấp quản lý. Mối quan hệ này bao gồm: Ở cấp tỉnh: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở KH-ĐT...; Ở cấp huyện: Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ, Phòng Tài chính…
9
Khi xét đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT người ta thường coi nó nhự một yêu cầu để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong GDPT. Qua đó, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tính đến phạm vi quản lý của các cấp quản lý khác nhau của GDPT, bao hàm các nhiệm vụ quản lý, đối tượng quản lý, điều kiện quản lý. Khi xét thấy phạm vi quản lý đó vượt quá khả năng của một tổ chức thì thực hiện phân cấp, thường là sự phân cấp giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới. Xu thế tổ chức và quản lý trong GDPT ngày càng được coi trọng là phân cấp và phân quyền mạnh xuống cấp dưới, đặc biệt là xuống cấp cơ sở, kết hợp với việc tăng cường trách nhiệm của cấp dưới.
Bên cạnh những đặc điểm trên khi nghiên cứu phân cấp QLNN về giáo dục phổ thông cần phân định sự khác biệt giữa phân cấp QLNN về GDPT của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Sự khác biệt này xuất phát từ sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn dẫn đến tổ chức và hoạt động cũng như phương thức quản lý của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn khác nhau và cuối cùng là tác động trực tiếp đến việc phân cấp cấp QLNN về GDPT của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. 2.2.3. Tác động của phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo ra cơ hội để có một chính phủ có trách nhiệm hơn, công khai và minh bạch hơn. Hai là, phân cấp quản lý tạo điều kiện cho chính quyền địa phương các cấp phát huy tính năng động, sáng tạo. Ba là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp việc cung ứng các dịch vụ GDPT có hiệu quả hơn. Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo điều kiện cho người dân có tiếng nói nhiều hơn về dịch vụ GDPT do đó nâng cao phúc lợi cho họ. Năm là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp cấp dưới phân bổ ngân sách phù hợp với các yếu tố đầu vào. Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tăng cường tinh thần trách nhiệm của các cấp, tăng tính chủ động, sáng tạo, vì vậy cải thiện chất lượng GDPT.
Bên cạnh những tác động tích cực, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng
có những tiêu cực như sau:
Thứ nhất, phân cấp quản lý đối với GDPT có thể gây khó khăn trong cung ứng dịch vụ GDPT vì cấp trung ương và cấp chính quyền địa phương không có chung một mục đích.
Thứ hai, phân cấp quản lý đối với GDPT làm mất đi tính hiệu quả và làm giảm
hiệu quả kiểm soát đối với nguồn lực tài chính của chính quyền trung ương.
Thứ ba, trong phân cấp quản lý, trách nhiệm hành chính được chuyển cho cấp địa phương mà không kèm theo nguồn tài chính dễ làm cho chính quyền địa phương khó cung ứng đầy đủ dịch vụ GDPT cho người dân.
Thứ tư, phân cấp quản lý đối với GDPT ảnh hưởng tiêu cực đến việc đảm bảo sự công bằng trong giáo dục, gia tăng sự chênh lệch về kết kết quả học tập ở đô thị và nông thôn.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT, sự không tin tưởng lẫn nhau giữa các trường công và các trường tư có thể làm xấu đi sự hợp tác ở cấp địa phương. 2.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông qua các thời kỳ
10
- Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950) - Cải cách giáo dục sau giải phóng miền Nam - Giai đoạn hiện nay
2.3. Nội dung, điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông 2.3.1. Nội dung phân cấp quản lý đối với giáo dục phổ thông
Một là, phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự Về tổ chức bộ máy, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm quyền của từng cấp trong các nội dung như: ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình trường
Về quản lý nhân sự, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm quyền của từng cấp trong các nội dung như: xác định cấp có thẩm quyền quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chính sách đối với đội ngũ công chức, viên chức và người lao động tại các cơ sở giáo dục…
Hai là, phân cấp về chuyên môn Chuyên môn được hiểu là nhưng công việc liên quan đến lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông. Ví dụ như việc quy định việc tổ chức biên soạn, thẩm định, phê duyệt được phép sử dụng và hướng dẫn lựa chọn tài liệu học tập, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong các cơ sở giáo dục phổ thông; ban hành quy chế thi cử thuộc thẩm quyền của cấp trung ương hay địa phương.Có hai xu hướng chính: một là thống nhất về chuyên môn trên phạm vi toàn quốc gia, hai là phân quyền mạnh về chuyên môn, có nghĩa là địa phương sẽ xây dựng chương trình, nội dung giáo dục theo điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Ba là, phân cấp trong chức năng quản lý cơ sở vật chất, tài chính Quản lý cơ sở vật chất là một trong những nội dung quan trọng phải phân cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp địa phương với nhau. Bởi lẽ, để chính quyền địa phương thực hiện được các nhiệm vụ, quyền hạn trong QLNN về GDPT, điều kiện tiên quyết là phải có tài chính. Vì thế nắm bắt được công cụ tài chính sẽ chi phối hay kiểm soát được việc thực hiện các nhiệm vu, quyền hạn khác.
11
Ngân sách cho giáo dục thông thường bao gồm 2 thành tố chính: chi thường xuyên và chi đầu tư cơ bản. Chi thường xuyên bao gồm chi lương và chi ngoài lương. Chi ngoài lương bao gồm các khoản chi hành chính, mua tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập, chi cho các dịch vụ và bảo dưỡng. Chi đầu tư cơ bản bao gồm chi phí xây dựng trường mới và nâng cấp trường hiện có.
Xem xét phân cấp trong việc quản lý cơ sở vật chất tài chinh về giáo dục ở bình diện rộng cần phải xác định xem chính quyền trung ương quản lý ngân sách những cấp học nào? Địa phương quản lý ngân sách cấp học nào? Ngoài ra, chi tiết hơn có thể xem xét như mức độ, tính chất của dự án. Ở Việt Nam, chính quyền trung ương quản lý ngân sách chi cho giáo dục đại học, một số giáo dục nghề và cao đẳng. Khoảng hai phần ba ngân sách trung ương nằm dưới quyền điều hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phần còn lại do các Bộ, ngành có trường quản lý. Ngân sách trung ương cũng bao gồm kinh phí cho các chương trình mục tiêu. Tuy nhiên, kinh phí chi cho các chương trình mục tiêu được cấp thông qua ngân sách trung ương nhưng lại do chính quyền địa phương thay mặt trung ương thực hiện.
Chính quyền địa phương quản lý ngân sách chi cho các bậc học mầm non, phổ thông, dạy nghề và cao đẳng. Trong hệ thống chính quyền địa phương thì chính quyền cấp tỉnh quản lý ngân sách chi cho các trường THPT, THCN, cao đẳng và dạy nghề. Chính quyền cấp huyện quản lý ngân sách chi cho các trường THCS, tiểu học và mầm non. 2.3.2. Điều kiện phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
- Đối với cơ quan nhà nước cấp dưới phải hội tụ 2 điều kiện: Thứ nhất, đủ năng lực thực thi các chức năng, nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. Đây là điều kiện để đảm bảo cân đối giữa nhiệm vụ được giao với năng lực thực hiện nhiệm vụ đó. Cơ quan nhà nước cấp dưới không có được điều kiện này thì không thể chuyển giao chức năng, nhiệm vụ cho cấp đó.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức của cấp dưới. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp dưới phải tuyệt đối tin tưởng, trung thành với quốc gia mà đại diện là các cơ quan nhà nước trung ương; phải luôn luôn đặt lợi ích, chủ quyền quốc gia lên trên hết. Trên thực tế, điều kiện này khó xác định, định lượng, mà phải được trải nghiệm qua thời gian, thực tiễn mới được sáng tỏ.
- Đối với cơ quan nhà nước cấp trên, phải hội đủ 3 điều kiện: Thứ nhất, phải có được các hệ thống kiểm soát hữu hiệu việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước; kiểm soát việc thực hiện những thẩm quyền đã trao cho cấp dưới. Các hệ thống kiểm soát phải gắn với các cơ quan nhà nước giao quyền. Ngoài ra cần có các hệ thống kiểm soát độc lập, kiểm soát của các cơ quan tư pháp, tòa án, viện kiểm sát.
12
Thứ hai, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện hoạt động kiểm soát trong các hệ thống kiểm soát việc thực hiện thẩm quyền được giao của các cơ quan nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức kiểm soát phải có đủ trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao; phải tuyệt đối trung thành với nhà nước, đặt lợi ích của nhà nước, của quốc gia lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ.
Thứ ba, cần có hệ thống các chế tài cụ thể, nghiêm minh để xử lý các vi phạm của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, nhất là các chế tài xử lý người đứng đầu các cơ quan nhà nước. 2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý đối với giáo dục phổ thông
Yếu tố thứ nhất: Tài chính công của chính phủ Yêu tố thứ hai: Bối cảnh chính trị Yếu tố thứ 3: Các cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ Yếu tố thứ tư: Bối cảnh lịch sử và văn hoá
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông và giá trị tham khảo cho Việt Nam 2.4.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Thứ nhất, phân cấp về tổ chức bộ máy nhân sự nhà trường Tuyển dụng và thăng tiến giáo viên: các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên chủ yếu do chính phủ đặt ra (Hoa Kỳ do chính quyền bang), nhưng các tiêu chuẩn đặt ra để kiểm định giáo viên thường là các tiêu chuẩn quá cao không phù hợp với thực tiễn, vì vậv tại nhiều địa phương, chính quyền địa phương đề các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên riêng cho địa phương mình.
Thực tiễn về tuyển dụng và thăng tiến cho giáo viên phổ thông khác nhau rất lớn giữa các nước. Ở quốc gia thực hiện cơ chế tập trung cao như Cameroon, Bộ Giáo dục không tuyển dụng, phân bổ, bổ nhiệm, thăng tiến và thuyên chuyển giáo viên, mà những việc này do Bộ Dịch vụ công thực hiện. Ở quốc gia thực hiện phân cấp mạnh như Brazil, cộng đồng dân cư tự tuyển dụng giáo viên, còn thăng tiến là quyền của thị trưởng.
Thứ hai, phân cấp về chuyên môn Thi cử và giám sát có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong số các nước trước đây là thuộc địa của Anh (các nước ở Tây Ấn và lân cận), các kỳ thi được tổ chức và xếp hạng tại Anh. Phần lớn các nước Mỹ La tinh không có chuẩn hay các kỳ thi quốc gia mà các tiêu chuẩn để xét lên lớp do cấp trường quy định nên đã thường có sự khác nhau rất lớn giữa các trường ngay trong cùng một địa phương.
13
Về chương trình và phương pháp giảng dạy: cơ quan của Chính phủ thường quy định về các chuẩn chương trình hoặc chương trình khung (phần cứng); còn việc phát triển và thực hiện chương trình (phần mềm) thì phân cấp cho cấp dưới và nhà trường thực hiện. Việc đào tạo ban đầu cho giáo viên THPT thường do Bộ giáo dục chịu trách nhiệm; còn bồi dưỡng giáo viên chủ yếu do chính quyền địa phương thực hiện.
Thứ ba, phân cấp trong quản lý tài chính Trong các nước có hệ thống tập trung cao, chính phủ trung ương cung cấp trực tiếp tài chính và các đầu vào cho GDPT, không có đóng góp của chính quyền địa phương. Ở các nước có hệ thống phân cấp mạnh, cộng đồng địa phương cấp tài chính và cung cấp đầu vào cho GDPT, thông qua việc thu thuế ở địa phương (Mỹ, Brazil, Chilê…) hoặc thông qua đóng góp tự nguyện (Peru, Kenya…). Ở các nước có hệ thống kết hợp, chính phủ trung ương cấp tài chính và cung cấp một số đầu vào cho GDPT thông qua các tài trợ (trọn gói hoặc qua dự án), còn việc kiểm soát sử dụng nguồn tài chính này do cộng đồng địa phương thực hiện (Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Nigieria…). 2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Một là, kết hợp tập trung và phân cấp trong quản lý nhà nước đối với GDPT. Hai là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đi đôi với việc củng cố và xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng buông lỏng, vô tổ chức và không thể kiểm soát được.
Ba là, để phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành công cần nâng cao năng
lực cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp quản lý GDPT
14
Bốn là, , kinh nghiệm phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tại các nước trên thế giới đã chứng minh rằng, yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại của các cải cách trong phân cấp quản lý là các quan hệ về tính chịu trách nhiệm phải được xây dựng và thực hiện trong các mô hình phân cấp quản lý.
Chương 3 THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội 3.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt trước đây. Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số. Tổng dân số của thành phố Hà Nội tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 8.053.663 người 3.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Hà Nội hiện có 2.669 trường học và các cơ sở giáo dục, 52.839 nhóm lớp,
1.814.651 học sinh, 104.605 giáo viên các cấp học 3.2. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội 3.2.1. Khái quát tình hình phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội
Một là, thực trạng phân cấp về bộ máy, nhân sự Theo quy định, quản lý nhân sự trong GDPT hiện nay như sau: Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý nhân sự khối các trường THPT, UBND các quận, huyện quản lý nhân sự khối các trường THCS, Tiểu học. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch của Phòng Giáo dục và Đào tạo và các trường trực thuộc, Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch biên chế cho tẩt cả các cấp học, chi tiết tới từng loại giáo viên và cùng với Sở Nội vụ tham mưu cho UBND Thành phố phê duyệt. Trong thực tiễn, tại một số trường do sự phối hợp không tốt giữa cơ quan Nội vụ và cơ quan quản lý giáo dục trong xây dựng chỉ tiêu biên chế nên gây ra rất nhiều khó khăn cho GDPT trong xây dựng kế hoạch phát triển GDPT. Ở các quận, huyện, thực tế quản lý nhân sự GDPT rất khác nhau: có nơi UBND các quận, huyện quản lý trực tiếp, có nơi quản lý nhân sự thông qua tham mưu của Phòng Nội vụ, có nơi quản lý nhân sự thông qua ủy quyền cho Phòng Giáo dục và Đào tạo.
15
Hai là, thực trạng phân cấp trong quản lý tài chính Quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách giáo dục:Cơ quan quản lý giáo dục phối hợp với cơ quan kế hoạch và tài chính xây dựng dự thảo kế hoạch ngân sách, sau đó trình UBND các cấp phê duyệt. Quy trình này gây khó khăn cho ngành giáo dục vì
nó phụ thuộc vào mức độ phối hợp hay mối quan hệ của ngành giáo dục với các ngành chức năng. Đơn vị nào có quan hệ tốt các ngành chức năng thì có lợi, còn không thì ngược lại. Việc phân bổ ngân sách giáo dục trên địa bàn Hà Nội do UBND Thành phố quyết định.
Ba là, thực trạng phân cấp về chuyên môn Việc lập kế hoạch phát triển GDPT được thực hiện theo từng bước từ cấp thấp đến cấp cao (Trường - Phòng-Sở GD&ĐT). Bước đầu tiên, từng trường phổ thông xây dựng kế hoạch dựa trên cơ sở đánh giá việc thực hiện kế hoạch phát triển GDPT của năm trước và mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho năm kế hoạch mới. Bước tiếp theo, Phòng và Sở GD&ĐT là các đơn vị tổng hợp, xem xét điều chỉnh kế hoạch để hoàn thiện và bước cuối cùng, các ngành chức năng (Sở Nội vụ, Sở Kế hoạch-Đầu tư và Sở Tài chính) xem xét, điều chỉnh kế hoạch và tham mưu trình UBND Thành phố phê duyệt. 3.2.2. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội 3.2.2.1. Những kết quả đạt được
Nhìn chung, các quy định về phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đã kế thừa có chọn lọc các quy định phân cấp quản lý của các bậc học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, do đó phân cấp phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT về cơ abnr đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về giáo dục của địa phương.
Phân cấp phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đã kết hợpcác nội dung về phân cấp trong quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự, quản lý tài chính. Các quy trình công việc đã được thực hiện đúng nguyên tắc, đảm bảo hoạt động quản lý giáo dục được diễn ra đúng kế hoạch, đáp ứng được nhu cầu quản lý.
Việc thực hiện các quy định về phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước, cải cách giáo dục, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.
Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT bước đầu đã phát huy tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục và các trường phổ thong, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị giáo dục. 3.2.2.2. Những hạn chế
Một là, những bất cập trong phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý nhà
nước đối với giáo dục phổ thông
16
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa đi đôi với quyền hạn. Các cơ quan quản lý giáo dục địa phương phải gánh trọng trách nặng nề trong việc triển khai các chính sách, chương trình giáo dục
trên địa bàn. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ này một cách hiệu quả các cơ quan quản lý giáo dục địa phương phải phải có các quyền hạn nhất địnhtrong việc huy động, bố trí sử dụng nhân sự, cũng như trong việc huy động, phân bổ các nguồn tài chính kịp thời và phù hợp với mục đích công việc triển khai. Kết quả điều tra cho thấy, các cơ quan quản lýgiáo dục địa phương chưa được trao quyền hạn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, nhất là các quyền hạn trong vấn đề nhân sự và tài chính.
Hai là, những hạn chế về phân cấp chuyên môn Thực tế GDPT trên địa bàn Thành phố cho thấy chương trình GDPT hiện nay quá nặng, không thiết thực. Học sinh phải học nhiều kiến thức hàn lâm, xa rời thực tế, không thật cần thiết. Tuy vậy, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng như các trường phổ thông trên địa bàn không thể thay đổi chương trình vì chương trình GDPT hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định. Cán bộ quản lý GDPT và giáo viên chưa được tham gia nhiều vào quá trình xây dựng chương trình. Rõ ràng việc áp dụng chung một chương trình GDPT cho đối tượng học sinh ở Thủ đô cũng giống như học sinh các tỉnh miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa là không phù hợp. Bởi lẽ học sinh Thủ đô có điều kiện để tiếp cận nhiều tri thức mới, hội nhập quốc tế, về cơ bản trình độ ngoại ngữ và tin học khá tốt, nhu cầu, mong muốn và định hướng học tập cũng khác học sinh các tỉnh thành khác.
Ba là, những hạn chế trong phân cấp về quản lý cơ sở vật chất, tài chính Trong công tác quản lý tài chính, quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách GDPT cũng gây nhiều khó khăn cho ngành giáo dục. Phân bổ ngân sách, cấp phát tài chính phụ thuộc nhiều vào mức độ phối hợp hay mối quan hệ của ngành giáo dục với các ngành chức năng. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chồng chéo với các cơ quan chức năng khác. Những chồng chéo trách nhiệm có thể thấy qua quản lý ngân sách và tài chính của ngành giáo dục. Về quản lý tài chính, vai trò quyết định về phân bổ và quản lý tài chính đối với GDPTchủ yếu thuộc về Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý giáo dục tuy có tham gia song chủ yếu với vai trò đề xuất, kiến nghị, ít có tác dụng. Chính vì thế nhiều quận, huyện Phòng Tài chính không phối hợp chặt chẽ với Phòng Giáo dục và đào tạo dẫn đến việc cấp phát kinh phí không kịp thời, gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục.
3.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
17
Thứ nhất, nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và chính quyền địa phương các cấp chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu sự nhất quán. Thứ hai, tư duy về quản lý GDPT của ngành giáo dục và các Bộ, ngành, chính quyền địa phương chậm đổi mới trong điều kiện đã được Nhà nước phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT. Thứ ba, những hạn
18
chế trong thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông. Thứ tư, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đòi hỏi các cơ quan quản lý GDPT và các trường phổ thông phải có đội ngũ cán bộ, giảng viên có năng lực để có thể chủ động, sáng tạo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp. Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp chưa kịp thời, một vài cơ sở GDPT lợi dụng những chức năng, nhiệm vụ được phân cấp vi phạm các quy định của pháp luật.
Chương 4 QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 4.1. Quan điểm và định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông 4.1.1. Quan điểm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
19
Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong từng giai đoạn, đặc thù, điều kiện và khả năng phát triển của từng địa phương; với từng loại hình đô thị, nông thôn, với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Trong thời gian tới, Hà Nội sẽ thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND cấp phường trong nhiệm kỳ 2021-2026 với 177 phường thuộc 12 quận và thị xã Sơn Tây. Hai là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT phải đảm bảo quan điểm hiệu quả. Hiệu quả quản lý nhà nước đối với GDPT là hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả xã hội. Quan điểm này nhấn mạnh, cấp nào giải quyết kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT tốt hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền địa phương.Ba là, tuân thủ quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với GDPT của các sở, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương đối với GDPT trên địa bàn. Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT cũng phải đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.Năm là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với GDPT; chính quyền địa phương các cấp phải chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, đồng thời phát huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia vào sự nghiệp phát triển GDPT.Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT phải đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất. Phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế, các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý; đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường phổ thông. Bảy là, đối với những nội dung đã được phân cấp, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các Sở Giáo dục và
Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn, giám sát và kiểm tra. Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc trái với quy hoạch, kế hoạch phát triển GDPT đã được phê duyệt thì xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên xem xét giải quyết. 4.1.2. Định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Một là, kết hợp tập trung và phân cấp, cũng như các kiểu phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT, như phi tập trung hoá, uỷ quyền, trao quyền và xã hội hóa, đảm bảo quyền hạn đi đôi với trách nhiệm thực hiện và nâng cao quyền tự chủ cho các trường phổ thông. Cụ thể nên áp dụng mô hình phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương quản lý các trường phổ thông, trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung vào chức năng ban hành các văn bản quy phạm định hướng, hỗ trợ phát triển và kiểm soát hệ thống GDPT; cấp sở Giáo dục và Đào tạo được trao quyền quản lý các trường THPT, thực hiện các chức năng hỗ trợ phát triển, kiểm soát hệ thống và đảm bảo chất lượng GDPT ở địa địa phương; cấp Phòng Giáo dục và Đào tạo quản lý các trường Tiểu học, THCS và cấp trường phổ thông được tự chủ trong xây dựng kế hoạch, quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên và ngân sách của nhà trường phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình.
Hai là, phân cấp quyền ra quyết định cho cấp thực hiện đi đôi với việc củng cố và xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra. Để xây dựng một hệ thống chịu trách nhiệm cần tăng cường các mối quan hệ về tính chịu trách nhiệm giữa nhà quản lý, nhà trường với gia đình và xã hội. Để tăng cường trách nhiệm cần công khai, minh bạch thông tin, dùng các công cụ pháp lý và kinh tế để người dân có thể biểu đạt ý kiến và nguyện vọng của mình vối các cấp quản lý GDPT, khuyến khích cha mẹ học sinh và cộng đồng cùng chia sẻ công việc quản lý các trường phổ thông thông qua mô hình hội đồng trường phổ thông. Hệ thống chịu trách nhiệm cũng đòi hỏi sự phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của các bên có liên quan, thông tin về kết quả giáo dục và chi tiêu tài chính của từng cấp quản lý GDPT và trường phổ thông phải công khai, minh bạch.
Ba là, phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT đi đôi với nâng cao năng lực của cán bộ quản lý GDPT và các trường phổ thông. Để phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT thành công, một mặt cần không ngừng nâng cao cơ sở vật chất cho các trường phổ thông, mặt khác cần nâng cao năng lực cán bộ của cán bộ quản lý GDPT các cấp, nhất là hiệu trưởng các trường phổ thông trong lập kế hoạch chiến lược, quản lý nhân sự, tài chính phù hợp với bối cảnh phân cấp quản lý. 4.2. Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội 4.2.1. Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
20
Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT cần phải: 1) Phân cấp phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, đặc điểm,
điều kiện và khả năng của từng địa phương; 2) Cấp nào giải quyết kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT tốt hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện; 3) Phân cấp quản lý phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp; 4) Phân cấp quản lý phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với GDPT; 5) Phân cấp quản lý phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế, các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường phổ thông. 4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Thứ nhất, tăng cường phân cấp về tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự Trên cơ sở các quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước đối với GDPT, Thành phố Hà Nội xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với GDPT thống nhất trên địa bàn, có tính tới đặc thù của các quận, huyện.
UBND Thành phố ủy quyền cho Sở Nội vụ và Sở Giáo dục và Đào tạo xác định biên chế cán bộ, giáo viên cho các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các trường phổ thông trên cơ sở có tính đến các đặc thù của các quận, huyện nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước đối với GDPT và chất lượng GDPT của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố.
Thứ hai, tăng cường phân cấp về tài chính và quản lý tài chính đối với cơ sở
giáo dục phố thông
Việc quản lý chuyên môn – nhân sự- cơ sở vật chất là ba mảng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Với quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, chú trọng đầu tư cho giáo dục, để nâng cao chất lượng giáo dục , không chỉ trao thẩm quyền về chuyên môn, cần phân cấp việc tham mưu, quản lý về nhân sự và tài chính. Cách thức cung cấp tài chính GDPT có hiệu quả hiện nay là Sở GD&ĐT phải được quyền phân bổ chỉ tiêu tài chính sau khi được UBND Thành phố phê duyệt cho GDPT và các trường phổ thông có quyền quyết định sử dụng các chỉ tiêu trên theo nhu cầu thực tế của nhà trường, các tài trợ và ngân sách cần được cấp trực tiếp từ kho bạc tới trường phổ thông.
21
Thứ ba, tăng cường phân cấp về chuyên môn Như đã đánh giá ở trên, việc lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông do Thành phố tiến hành trên cơ sở chuẩn chung về nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra. Chính vì “mặc chung một cái áo” nên việc đào tạo, giáo dục học sinh phổ thông không có sự khác biệt giữa các vùng,miền,
thành phố. Với đặc thù là trung tâm giáo dục của cả nước, trình độ dân trí cao, điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc giáo dục, tập trung các trường chất lượng cao, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, năng lực. Vì vậy, việc lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cần bám sát điều kiện kinh tế- văn hoá – xã hội và tình hình giáo dục phổ thông của thủ đô. Đã đến lúc Bộ Giáo dục và đào tạo cần mạnh mẽ trao quyền tự chủ cho các địa phương trong việc xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phổ thông cũng như các tiêu chí kiểm định đánh giá chất lượng phổ thông. Bộ với tư cách “người gác cửa” sẽ kiểm tra, giám sát việc đảm bảo chất lượng GDPT của địa phương.Đơn cử việc học ngoại ngữ Hà Nội có thể không chỉ tiếng Anh mà còn đẩy mạnh các ngoại ngữ khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... theo nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ. Còn các địa phương miền núi khác bên cạnh học Tiếng Anh có thể giảng dạy thêm tiếng dân tộc trong các trường phổ thông. Có như thế mới tạo sự đa dạng và thích ứng của mỗi địa phương. 4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo dục phổ thông
Nâng cao năng lực về mọi mặt của cán bộ quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố và các trường phổ thông giúp họ sẵn sàng đảm nhận và thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Cần đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của những người đứng đầu Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo, hiệu trưởng các trường phổ thông. Họ phải nắm bắt được các kiến thức quản lý giáo dục khoa học, biết khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ, giáo viên phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Cán bộ quản lý GDPT không nâng cao năng lực của mình thì không thể thực hiện phân cấp và cũng không thể tự chủ.
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức quản lý GDPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức các khóa bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt của các Sở Giáo dục và đào tạo và nhất là cho cán bộ quản lý các trường phổ thông về lập kế hoạch, quản lý nhân sự, tài chính, thanh tra và thông tin GDPT trong bối cảnh phân cấp quản lý.
Hầu hết công chức, viên chức quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay đều chưa được đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức quản lý, nhất là các kiến thức về phân cấp quản lý nên tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý là một giải pháp quan trọng đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đổi với GDPT hiện nay. Cán bộ quản lý GDPT cần được bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng chủ yếu sau đây:
22
- Kiến thức, kỹ năng lập kế hoạch phát triển GDPT, trong đó cần chú trọng lập kế hoạch phát triển nhà trường, kế hoạch học tập cho học sinh, hợp tác giữa nhà trường với cha mẹ học sinh và cộng đồng, xây dựng các mục tiêu phát triển và các
giải pháp để đạt được mục tiêu, xây dựng khung năng lực và chế độ trách nhiệm của cán bộ quản lý GDPT.
- Kiến thức, kỹ năng xây dựng chương trình và tài liệu dạy học phát triển phần
mềm của chương trình đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố.
- Năng lực quản lý khoa học, linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu và chịu trách
nhiệm với cấp trên và người hưởng dịch vụ GDPT.
- Năng lực tư duy sáng tạo, trung thực, khách quan, đề cao tinh thần trách
nhiệm; làm việc nhóm và giao tiếp hiệu quả.
- Năng lực tự học, liên tục cập nhật kiến thức và các kinh nghiệm quản lý, phấn
đấu học tập suốt đời bằng các hình thức khác nhau. 4.2.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Thanh tra, kiểm tra đối với GDPT phải bao quát tất cả các nội dung quản lý, từ xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển GDPT đến thực hiện chương trình giáo dục; cấp phát, chi tiêu tài chính; huy động và sử dụng các nguồn lực xã hội; tuyển chọn, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, luân chuyển, đề bạt cán bộ, giáo viên; đánh giá kết quả học tập; việc dạy thêm, học thêm; thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao của chính quyền địa phương, các trường phổ thông, hạn chế được việc tùy tiện trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp hoặc lợi dụng các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp để vi phạm. 4.2.5. Các giải pháp bổ trợ
Thứ nhất, Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông. Xã hội hóa giáo dục trong GDPT cần thực hiện các nội dung hoạt động: 1) Huy động toàn xã hội tham gia phát triển quy mô GDPT, thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội học tập; 2) Đa dạng hóa các hình thức học tập và loại hình nhà trường phổ thông; 3) Đa dạng hóa các loại hình nhà trường tham gia vào quá trình GDPT; tham gia xây dựng các yếu tố, điều kiện phát triển GDPT.
23
Thứ hai, trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông. Cụ thể: tạo sự đồng thuận về nhận thức đối với một số nội dung quan trọng của tự chủ; hoàn thiện các quy định pháp lý về tự chủ trường phổ thông; thể chế hóa chủ trương tách quản lý nhà nước với quản trị các trường phổ thông; nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý ở cả cấp hệ thống và cấp trường phổ thông.
KẾT LUẬN
1. Luận án đã tập trung nghiên cứu các công trình nghiên cứu ở trong nước và trên thế giới về phân cấp quản lý, phân cấp quản lý đối với giáo dục và đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Trong chương này nghiên cứu sinh đã chỉ rõ những nội dung đã được các tác giả trong nước và quốc tế nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục; những nội dung tác giải luận án cần nghiên cứu, bổ sung.
2. Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với GDPT, luận án khẳng định xu hướng phi tập trung (decentralization) là xu hướng chung trong quản lý nhà nước đối với GDPT trên thế giới hiện nay. Nghiên cứu sinh phân tích làm rõ khái niệm phân cấp quản lý, mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc phân cấp quản lý; các loại hình phân cấp hành chính; khái niệm, ưu điểm, hạn chế phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT; nội dung, điều kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT; cơ sở pháp lý của phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT. Trong chương này, nghiên cứu sinh trình bày kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT theo chức năng và kinh nghiệm phân cấp cho chính quyền cấp dưới và cho nhà trường và rút ra các giá trị tham khảo cho Việt Nam.
3. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra sự chuyển biến bước đầu trong công tác quản lý nhà nước đối với GDPT, nhưng phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Các hạn chế này bao gồm những hạn chế trong lập kế hoạch phát triển GDPT, xây dựng nội dung chương trình; trong phân cấp quản lý nhân sự; quản lý tài chính; trong công tác thanh tra, kiểm tra và trong phân cấp quản lý thông tin.
24
4. Luận án đã trình bày quan điểm, định hướng phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT. Trên cơ sở các quan điểm và định hướng này luận án đã đề xuất các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp quản lý đối với GDPT trên địa bàn Thành phố trong những năm tới. Các giải pháp đó là: 1) Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông; 2) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách về phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông; 3) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phổ thông; 4) Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông; 5) Giải pháp bổ trợ khác: Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông và Trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Ngô Thị Diệp Lan, Cách tiếp cận đổi mới quản lý giáo dục phổ thông và quản lý các trường phổ thông hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước 258 tháng 7/2017. 2. Ngô Thị Diệp Lan, Giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội – thực
trạng và giải pháp, Tạp chí quản lý nhà nước 270 tháng 7/2018.