BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
LÊ THỊ XÃ
PHÂN LẬP VÀ TUYỂN CHỌN VI KHUẨN BẢN ĐỊA
CÓ KHẢ NĂNG CỐ ĐỊNH ĐẠM VÀ TỔNG HỢP IAA
ĐỂ CANH TÁC RAU Ở SÓC TRĂNG
LUẬN ÁN NGHIÊN CỨU SINH
CHUYÊN NGÀNH CÔNG NGHỆ SINH HỌC
MÃ NGÀNH 62420201
NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
LÊ THỊ XÃ
PHÂN LẬP VÀ TUYỂN CHỌN VI KHUẨN BẢN ĐỊA
CÓ KHẢ NĂNG CỐ ĐỊNH ĐẠM VÀ TỔNG HỢP IAA
ĐỂ CANH TÁC RAU Ở SÓC TRĂNG
LUẬN ÁN NGHIÊN CỨU SINH
CHUYÊN NGÀNH CÔNG NGHỆ SINH HỌC
MÃ NGÀNH 62420201
NGƢỜI HƢỚNG DẪN
PGS.TS. NGUYỄN KHỞI NGHĨA
TS. PHẠM NGỌC TÚ
NĂM 2021
PHẦN KÝ DUYỆT
Cần Thơ, ngày tháng năm 2021
NGƢỜI HƢỚNG DẪN CHÍNH
NGHIÊN CỨU SINH
PGS.TS. NGUYỄN KHỞI NGHĨA
LÊ THỊ XÃ
LỜI CẢM TẠ
Để hoàn thành luận án tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn chân thành và sâu sắc đến tập thể và những cá nhân có tên dưới đây đã góp sức để
giúp đỡ tôi hoàn thành các nghiên cứu trong luận án này.
Đầu tiên và quan trọng nhất, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và những
người thân yêu vì sự đồng hành, chia sẻ, nhẫn nại, tình yêu và cả sự hỗ trợ về tinh
thần, tài chính trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu của tôi trong bốn năm qua.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến hai cán bộ hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Khởi
Nghĩa-Phó trưởng bộ môn Khoa học Đất, khoa Nông nghiệp, trường Đại học Cần Thơ
và TS. Phạm Ngọc Tú-Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu long. Đặc biệt là PGS.TS.
Nguyễn Khởi Nghĩa- người Thầy đã tận tình hướng dẫn, đóng góp ý kiến quý báu, hỗ
trợ phương tiện nghiên cứu, đồng thời truyền đạt kinh nghiệm và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án cũng như quá trình viết báo khoa học.
Xin gửi lời cảm ơn đến các em Nguyễn Thị Kiều Oanh, Ngô Thị Phương Thảo,
Đỗ Thành Luân, Đặng Thị Yến Nhung, Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Hoàng Kim
Nương là cán bộ nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm Vi sinh vật Đất, bộ môn Khoa
học đất, khoa Nông nghiệp, trường Đại học Cần Thơ cùng các em sinh viên ngành
Khoa học Đất khoá 41 thuộc bộ môn Khoa học Đất, khoa Nông nghiệp, trường Đại
học Cần Thơ gồm Giang Yến Anh, Thị Hạnh Nguyên, Nguyễn Thị Thuý Cầm và em
học viên cao học Quách Thị Trúc Ly ngành Sinh thái học khoá 24 thuộc bộ môn Sinh
học, khoa Khoa học tự nhiên, trường Đại học Cần Thơ đã hỗ trợ tôi thực hiện các thí
nghiệm trong nghiên cứu này.
Xin cảm ơn các em Nguyễn Thị Kiều Anh nghiên cứu viên phòng thí nghiệm vi
sinh vật đất, bộ môn Khoa học đất, khoa Nông nghiệp, trường Đại học Cần Thơ, em
Trần Hoàng Ty học viên cao học lớp Sinh thái học khoá 25 thuộc bộ môn Sinh học,
khoa Khoa học tự nhiên, trường Đại học Cần Thơ, em Lâm Thanh Tâm sinh viên
ngành khoa học đất khoá 41 bộ môn Khoa học đất, khoa Nông nghiệp, trường Đại học
Cần Thơ, cùng các em sinh viên lớp Bảo vệ Thực vật khoá 43 thuộc bộ môn Bảo vệ
thực vật, khoa Nông nghiệp, trường Đại học Cần Thơ đã hỗ trợ tôi trong các thí
nghiệm nhà lưới và ngoài đồng.
Xin cảm ơn các anh chị em nghiên cứu sinh khoá 2016-2020 thuộc viện Nghiên
cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học, trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là em nghiên
cứu sinh Trần Võ Hải Đường đã động viên, chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ tôi trong
quá trình hoàn thành quyển luận án nghiên cứu sinh cũng như các loại hồ sơ trong suốt
quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, quý Thầy/Cô thuộc viện Nghiên cứu và
Phát triển Công nghệ Sinh học đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu, động viên
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên phòng thí nghiệm Vi sinh
vật Đất và phòng thí nghiệm Hoá học Đất thuộc bộ môn Khoa học Đất, khoa Nông
nghiệp, trường Đại học Cần Thơ đã chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành các nghiên cứu trong luận án.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội Vụ tỉnh
Sóc Trăng và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tạo điều kiện để tôi được học tập và
nghiên cứu nâng cao trình độ.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Khoa Sau Đại học và Ban giám hiệu Trường
Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được học tập và nghiên cứu trong
suốt năm năm qua dưới mái trường thân yêu này.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể giảng viên và cán bộ trường Cao đẳng Sư
phạm Sóc Trăng, trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng đã động viên và tạo điều
kiện cho tôi học tập, nghiên cứu trong thời gian qua.
Xin trân trọng cảm ơn với tấm lòng thành kính nhất!
LỜI BẢN QUYỀN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân nghiên cứu sinh
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Khởi Nghĩa và TS. Phạm Ngọc Tú. Các số
liệu trình bày trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu hay luận văn nào trước đây.
Cán bộ hƣớng dẫn 1
Cán bộ hƣớng dẫn 2 Tác giả luận án
PGS.TS. Nguyễn Khởi Nghĩa TS. Phạm Ngọc Tú
Lê Thị Xã
TÓM LƢỢC
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hai chức năng cố định đạm và tổng
hợp indole-3-acetic acid (IAA) của một số hệ vi sinh vật bản địa (indigenous
microorganism-IMO) thu thập từ các hệ thống canh tác cây trồng khác nhau ở Sóc
Trăng đồng thời phân lập, tuyển chọn những dòng vi khuẩn có 2 chức năng này trong
các IMO có khả năng kích thích sinh trưởng, làm tăng năng suất rau muống và cải
xanh trồng ở Sóc Trăng. Môi trường Burks khuyết đạm đã được sử dụng để phân lập
vi khuẩn cố định đạm và phương pháp so màu phản ứng với thuốc thử phenol
nitroprusside và Salkowski lần lượt để xác định hàm lượng đạm và IAA trong môi
trường lỏng ở bước sóng 636 nm và 530 nm. Khả năng kích thích hạt nảy mầm và kích
sinh trưởng cây rau muống và cây cải xanh của các dòng vi khuẩn và IMO tuyển chọn
được đánh giá ở các điều kiện phòng thí nghiệm, nhà lưới và ngoài đồng. Kết quả
nghiên cứu đã cho thấy các hệ IMO thu thập từ các hệ thống cây trồng khác nhau ở
tỉnh Sóc Trăng có sự đa dạng vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn. Trong đó vi khuẩn là nhóm
hiện diện với mật số cao và đa dạng hơn hai nhóm còn lại. Ngoài ra, kết quả đã chỉ ra
rằng không có sự hiện diện của nhóm vi khuẩn gây bệnh đường ruột cho người như
Salmonella, Shigella, E. coli và Coliform trong các hệ IMO thu thập. Đặc biệt, tất cả
các hệ IMO khảo sát còn cho thấy chúng có chức năng tổng hợp IAA và cố định đạm
vì có sự hiện diện của nhóm vi khuẩn mang gen nifH với mật số vi khuẩn cố định đạm
dao động từ 106-108 cfu.g-1. Trong đó, Luận án đã phân lập được 44 dòng vi khuẩn có
2 chức năng cố định đạm, tổng hợp IAA và đã tuyển chọn được 10 dòng vi khuẩn tốt
nhất chúng thuộc 5 chi: Bacillus, Klebsiella, Paenibacillus, Paraburkholderia và
Pseudomonas. Kết quả đánh giá ở điều kiện phòng thí nghiệm cho thấy 5 hệ IMO
tuyển chọn và 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn gồm Paraburkholderia tropica TP-1.3,
Paenibacillus cineris TP-1.4, Bacillus megaterium MQ-2.5, Klebsiella pneumoniae
MT-16.5, và Bacillus megaterium OM-17.5, cho hiệu quả tương đương nhau trong
kích thích gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống (14-15%) và hạt cải xanh (3-5%),
cũng như làm tăng chiều cao thân, chiều dài rễ và sinh khối tươi cây rau. Kết quả thí
nghiệm nhà lưới cho thấy dòng vi khuẩn tuyển chọn cho hiệu quả kích thích sinh
trưởng tốt hơn các hệ IMO và trong đó 3 dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và MQ-2.5
giúp giảm 25% lượng phân đạm bón theo khuyến cáo nhưng vẫn cho năng suất cây rau
tương đương với nghiệm thức bón 100% NPK khuyến cáo. Đặc biệt, ở điều kiện ngoài
đồng ba dòng vi khuẩn tuyển chọn giúp tăng năng suất rau muống và cải xanh từ 10-
20% dù bón giảm 25% lượng đạm theo khuyến cáo, đồng thời còn giúp giảm lượng
nitrate lưu tồn trong rau từ 40-60% so với nghiệm thức đối chứng. Tóm lại, có thể ứng
dụng 3 dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp của chúng trong canh tác
rau sạch và rau an toàn ở tỉnh Sóc Trăng.
Từ khoá: cải xanh, kích thích sinh trưởng cây trồng, rau muống, vi khuẩn cố định đạm, vi
khuẩn tổng hợp IAA, vi sinh vật bản địa
ABSTRACT
The main objective of this study was to evaluate some of basic functions of
several indigenous microorganism (IMOs) collected from different crop farming
systems in Soc Trang as well as to isolate and select indigenous bacteria capable of
fixing nitrogen and synthesizing IAA from these IMOs for plant growth promotion,
yield enhancement of water spinach, mustard green in Soc Trang province. N-free
Burk’s medium was used to isolate nitrogen-fixing bacteria. Nitrogen and IAA
concentrations in liquid media were determined by phenol nitroprusside and
Salkowski's reagent method at a wavelength of 636 and 530 nm with the help of
spectrophotometer, respectively. The seed germination rate, growth and yield
performance testes were carried out under laboratory, greenhouse and field conditions.
The results showed that all collected IMOs had a diversity of three main microbial
groups including bacteria, fungi and actinomyces. In which, bacterial group was the
most predominant one. Moreover, there was no presence of bacterial group causing
human intestinal infections such as Salmonella, Shigella, E. coli and Coliform in all
collected IMOs. Besides, all IMOs revealed their good abilities in biological nitrogen
fixation, IAA synthesis. Especially, all IMOs were found the sequence of nifH gene
with the number of N-fixing bacteria varied 106-108 cfu.g-1. Therefore, a total of 44
bacterial strains capable of both fixing nitrogen and synthesizing IAA were isolated
and identified the most 10 outstanding bacteria, they belonged to 5 different genera
including Bacillus, Klebsiella, Paenibacillus, Paraburkholderia, and Pseudomonas.
The results of laboratory conditions test indicated that five selected IMO and the best 5
selected isolates included Paraburkholderia tropica TP-1.3, Paenibacillus cineris TP-
1.4, Bacillus megaterium MQ-2.5, Klebsiella pneumoniae MT-16.5 and Bacillus
megaterium OM-17.5, equally effective in stimulating germination of water spinach
seeds (14-15%) and mustard green seeds (3-5%), Besides, they also helped to increase
stem height, root length and fresh biomass of water spinach and mustard green. The
pot experiment showed that isolated strains were more effective than IMOs in
stimulating growth, in which 3 strains, TP-1.3, TP-1.4, and MQ-2.5 were the best
bacterial isolates identified as bio-stimulant agents in order to reduce 25% of the
recommended chemical N fertilizer formula, but the yields, growth and development
of vegetables were remained similar as 100% recommended NPK formula treatment.
Particularly, in the field, three selected bacterial strains showed their benefit in
increasing the vegetable yield by 10-20% and reducing of 25% chemical N fertilizer
and also helped to reduce from 40 to 60% of the total nitrate in fresh vegetables. In
short, these three outstanding bacterial isolates and their mixture can be exploited for
safe and clean vegetable cultuvation in Soc Trang province.
Key words: IAA synthesizing bacteria, indigenous microorganisms, mustard green,
nitrogen fixing bacteria, plant growth promotion, water spinach
MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................. .....i
DANH SÁCH BẢNG ...................................................................................................vii
DANH SÁCH HÌNH ................................................................................................. .....x
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................xii
CHƢƠNG 1 GIỚI THIỆU ...................................................................................... .....1
1.1 Đặt vấn đề ................................................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu của đề tài .................................................................................................. 2
1.3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 2
1.4 Nội dung nghiên cứu................................................................................................ 3
1.5 Tính cấp thiết của luận án ...................................................................................... 3
1.6 Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 3
1.7 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ........................................................... 4
CHƢƠNG 2 LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU ....................................................................... 6
2.1 Điều kiện địa lí và tự nhiên tỉnh Sóc Trăng .......................................................... 6
2.2 Định hƣớng phát triển cây rau ở Sóc Trăng ......................................................... 7
2.3 Tổng quan về cây rau .............................................................................................. 8
2.3.1 Giá trị dinh dưỡng .................................................................................................. 9
2.3.2 Giá trị kinh tế .......................................................................................................... 9
2.3.3 Yêu cầu về đất trồng, dinh dưỡng, phân bón và nước trong canh tác rau ............ 10
2.3.4 Nhu cầu đạm của rau ăn lá ................................................................................... 10
2.3.5 Cây rau muống ..................................................................................................... 11
2.3.6 Cây cải xanh ......................................................................................................... 11
2.4.Vai trò của vi sinh vật kích thích sinh trƣởng thực vật đối với cây trồng ....... 13
2.4.1 Vi khuẩn kích thích sinh trưởng thực vật ............................................................. 13
2.4.2 Cố định đạm ......................................................................................................... 14
2.4.2.1 Định nghĩa quá trình cố định đạm .................................................................... 14
2.4.2.2 Enzyme nitrogenase trong quá trình cố định đạm ............................................ 15
2.4.2.3 Gen nif trong cố định đạm ................................................................................. 16
2.4.2.4 Cơ chế của quá trình cố định đạm .................................................................... 18
2.4.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cố định đạm ............................................ 19
2.4.2.6 Vi sinh vật cố định đạm ..................................................................................... 19
2.4.3 Tổng hợp indole-3-acetic acid .............................................................................. 26
2.4.3.1 Vai trò sinh lý của auxin .................................................................................... 26
2.4.3.2 Vi sinh vật tổng hợp indole-3-acetic acid (IAA) ................................................ 27
2.4.3.3 Các con đường tổng hợp IAA ở vi sinh vật ....................................................... 28
2.4.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp IAA........................................... 29
2.4.4 Các nghiên cứu, ứng dụng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA trong và ngoài
nước .................................................................................................................... 31
2.4.4.1 Ngoài nước ........................................................................................................ 31
i
2.4.4.2 Trong nước ........................................................................................................ 32
2.5 Hệ vi sinh vật bản địa IMO .................................................................................. 34
2.5.1 Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................... 34
2.5.2 Vai trò và chức năng của IMO đối với cây trồng ................................................. 34
2.5.3 Các nghiên cứu và ứng dụng IMO trong và ngoài nước ...................................... 36
2.5.3.1 Nghiên cứu và ứng dụng IMO ở các nước ........................................................ 36
2.5.3.2 Nghiên cứu và ứng dụng IMO ở Việt Nam ........................................................ 38
2.6 Đa dạng vi sinh vật ................................................................................................ 39
2.6.1 Khái niệm đa dạng vi sinh vật và vai trò đa dạng vi sinh vật trong đất ............... 39
2.6.2 Phương pháp đánh giá đa dạng vi sinh vật ........................................................... 40
2.6.2.1 Phương pháp truyền thống trong đánh giá đa dạng vi vinh vật ....................... 40
2.6.2.2 Phương pháp sinh học phân tử trong đánh giá đa dạng vi sinh vật ................. 41
2.6.2.3 Phương pháp phân tích đa dạng vi sinh vật dựa vào giải trình tự acid nucleic
đoạn gen mã hóa 16S-rRNA ............................................................................... 41
2.6.2.4 Phương pháp điện di theo gradient biến tính (DGGE và TGGE) ..................... 42
CHƢƠNG 3 PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP ............................................... 45
3.1 Phƣơng tiện nghiên cứu ........................................................................................ 45
3.1.1 Thời gian và địa điểm ........................................................................................... 45
3.1.2 Vật liệu nghiên cứu............................................................................................... 45
3.1.3 Dụng cụ, thiết bị và hoá chất ................................................................................ 45
3.1.3.1 Dụng cụ.............................................................................................................. 45
3.1.3.2 Thiết bị ............................................................................................................... 45
3.1.3.3 Hoá chất ............................................................................................................ 46
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 46
3.2.1 Nội dung 1: Khảo sát sự đa dạng nhóm vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập .. 47
3.2.1.1 Thu thập nguồn vi sinh vật bản địa IMO ........................................................... 47
3.2.1.2 Khảo sát sự đa dạng của các nhóm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ
IMO bằng phương pháp PCR ............................................................................. 48
3.2.1.3 Đánh giá sự đa dạng vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập
bằng phương pháp nested-PCR kết hợp DGGE ................................................. 50
3.2.1.4 Khảo sát mật số vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập ......... 52
3.2.1.5 Khảo sát sự hiện diện của một số vi khuẩn gây bệnh (Coliform, E. coli,
Salmonella và Shigella) trong các hệ IMO thu thập .......................................... 53
3.2.2 Nội dung 2: Khảo sát và đánh giá một số chức năng kích thích sinh trưởng cây
trồng của các hệ IMO thu thập ........................................................................... 54
3.2.2.1 Khảo sát khả năng tổng hợp hormone thực vật IAA của các hệ IMO thu thập 54
3.2.2.2 Khảo sát khả năng cố định đạm của các hệ IMO thu thập ............................... 55
3.2.3 Nội dung 3: Phân lập, tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn bản địa có
chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ các hệ IMO thu thập .................... 56
ii
3.2.3.1 Phân lập các dòng vi khuẩn bản địa có khả năng cố định đạm từ các hệ IMO
thu thập ............................................................................................................... 56
3.2.3.2 Khảo sát khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn bản địa phân lập từ các
hệ IMO trong môi trường nuôi cấy lỏng ............................................................ 57
3.2.3.3 Khảo sát sự hiện diện của gen nifH đối với các dòng vi khuẩn phân lập ......... 57
3.2.3.4 Khảo sát khả năng tổng hợp IAA của các dòng vi khuẩn cố định đạm đã tuyển
chọn..................................................................................................................... 58
3.2.3.5 Giải trình tự gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn có đồng thời hai chức năng
cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn ........................................................... 58
3.2.4 Nội dung 4: Đánh giá ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng
hợp IAA tuyển chọn và các hệ IMO chứa những dòng vi khuẩn tuyển chọn lên
khả năng nảy mầm và sinh trưởng cây rau trong điều kiện phòng thí nghiệm .. 58
3.2.4.1 Ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn lên khả năng nảy mầm và
sinh trưởng cây rau muống và cây cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm ....... 59
3.2.4.2 Ảnh hưởng của một số hệ IMO tuyển chọn lên khả năng nảy mầm và sinh
trưởng cây rau muống và cây cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm .............. 60
3.2.5 Nội dung 5: Đánh giá hiệu quả của 5 dòng vi khuẩn và 5 hệ IMO chứa những
dòng vi khuẩn tuyển chọn lên khả năng sinh trưởng và năng suất rau muống và
cải xanh ở điều kiện nhà lưới ............................................................................. 60
3.2.5.1 Chuẩn bị đất thí nghiệm .................................................................................... 60
3.2.5.2 Chuẩn bị nguồn vi sinh vật ................................................................................ 61
3.2.5.3 Bố trí thí nghiệm ................................................................................................ 62
3.2.5.4 Các chỉ tiêu theo dõi .......................................................................................... 64
3.2.6 Nội dung 6: Đánh giá hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn và 2 IMO tuyển chọn lên
sinh trưởng, năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện ngoài đồng ............ 64
3.2.6.1 Chuẩn bị nguồn vi sinh vật ................................................................................ 64
3.2.6.2 Chuẩn bị đất thí nghiệm .................................................................................... 65
3.2.6.3 Bố trí thí nghiệm ................................................................................................ 65
3.2.6.4 Các chỉ tiêu theo dõi .......................................................................................... 67
3.3 Phƣơng pháp xử lý số liệu ..................................................................................... 69
CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN ..................................................................... 70
4.1 Nội dung 1: Sự đa dạng về nhóm vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập........ 70
4.1.1 Đặc điểm sinh hóa của các hệ vi sinh vật bản địa thu thập .................................. 70
4.1.2 Sự hiện diện của vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập ............ 70
4.1.3 Sự đa dạng hệ vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong IMO ......................................... 72
4.1.3.1 Đa dạng quần thể vi khuẩn ................................................................................ 72
4.1.3.2 Đa dạng quần thể nấm ...................................................................................... 74
4.1.3.3 Đa dạng quần thể xạ khuẩn ............................................................................... 75
4.1.4 Mật số vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập............................ 76
4.1.4.1 Mật số vi khuẩn ................................................................................................. 77
iii
4.1.4.2 Mật số nấm ....................................................................................................... 78
4.1.4.3 Mật số xạ khuẩn ................................................................................................ 78
4.1.5 Sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh trong hệ IMO thu thập ................................ 79
4.2 Nội dung 2: Chức năng kích thích sinh trƣởng cây trồng của các hệ IMO thu
thập..................................................................................................................... 81
4.2.1 Tổng hợp IAA ...................................................................................................... 81
4.2.2 Cố định đạm ......................................................................................................... 84
4.2.2.1 Gen chức năng nifH trong các hệ IMO ............................................................. 84
4.2.2.2 Khả năng cố định đạm sinh học của 20 hệ IMO trong môi trường Burk's lỏng85
4.3 Nội dung 3: Phân lập tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn bản địa có
chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ các hệ IMO thu thập ............. 87
4.3.1 Mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO .................................................. 87
4.3.2 Kết quả phân lập vi khuẩn cố định đạm từ các hệ IMO thu thập ......................... 88
4.3.3 Khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập ................. 90
4.3.3.1 Hàm lượng đạm tổng số (Nts) ............................................................................ 90
+) .................................................................... 91
4.3.3.2 Hàm lượng đạm hữu dụng (NH4
4.3.4 Gen nifH trong cấu trúc di truyền của một số dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển
chọn..................................................................................................................... 93
4.3.5 Khả năng tổng hợp IAA của 50 dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập được tuyển
chọn..................................................................................................................... 95
4.3.6 Kết quả giải trình tự gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn .............. 98
4.4 Nội dung 4: Ảnh hƣởng của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn và các IMO
chứa các dòng vi khuẩn này lên khả năng kích thích nảy mầm và sinh
trƣởng rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm .................. 102
4.4.1 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây rau muống của 8 dòng vi khuẩn
tuyển chọn ......................................................................................................... 102
4.4.1.1 Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên khả năng nảy mầm hạt rau muống ........ 102
4.4.1.2 Ảnh hưởng của 8 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên khả năng kích thích sinh
trưởng rau muống ............................................................................................. 104
4.4.2 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây cải xanh của 5 dòng vi khuẩn106
4.4.2.1 Ảnh hưởng của các mức mật số vi khuẩn khác nhau lên khả năng nảy mầm hạt
cải xanh ............................................................................................................. 106
4.4.2.2 Ảnh hưởng của 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm lên sinh trưởng cây cải xanh .... 107
4.4.3 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây rau muống của 5 hệ IMO tuyển
chọn................................................................................................................... 109
4.4.3.1 Ảnh hưởng của mức pha loãng lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống .................. 109
4.4.3.2 Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên khả năng sinh trưởng cây rau muống110
4.4.4 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây cải xanh của 5 hệ IMO tuyển
chọn................................................................................................................... 111
4.4.4.1 Ảnh hưởng của mức pha loãng khác nhau lên tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh .... 111
iv
4.4.4.2 Ảnh hưởng của các hệ IMO lên khả năng sinh trưởng của cây cải xanh ở điều
kiện phòng thí nghiệm ....................................................................................... 114
4.5 Nội dung 5: Hiệu quả của 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn và 5 IMO chứa các
dòng vi khuẩn tuyển chọn lên sinh trƣởng, năng suất rau muống và cải
xanh ở điều kiện nhà lƣới ............................................................................... 117
4.5.1 Sinh trưởng và năng suất rau muống trong nhà lưới .......................................... 117
4.5.1.1 Chiều cao cây rau muống ................................................................................ 117
4.5.1.2 Số lá rau muống ............................................................................................... 119
4.5.1.3 Đường kính thân .............................................................................................. 120
4.5.1.4 Hàm lượng chlorophyll tổng số trong lá ......................................................... 121
4.5.1.5 Sinh khối tươi/chậu .......................................................................................... 122
4.5.2 Sinh trưởng và năng suất cải xanh trong nhà lưới .............................................. 125
4.5.2.1 Vụ cải xanh thứ nhất ........................................................................................ 125
4.5.2.2 Vụ cải xanh thứ hai .......................................................................................... 127
4.6 Nội dung 6: Hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn và 2 IMO lên sinh
trƣởng, năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện đồng ruộng ........... 131
4.6.1 Sinh trưởng và năng suất rau muống ở điều kiện đồng ruộng ........................... 131
4.6.1.1 Vụ rau muống thứ nhất .................................................................................... 131
4.6.1.2 Vụ rau muống thứ hai ...................................................................................... 135
4.6.2 Sinh trưởng và năng suất cải xanh ở điều kiện ngoài đồng ................................ 139
4.6.2.1 Vụ cải xanh thứ nhất ....................................................................................... 139
4.6.2.2 Vụ cải xanh thứ hai .......................................................................................... 142
CHƢƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 150
5.1 Kết luận ................................................................................................................ 150
5.2 Kiến nghị .............................................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152
PHỤ LỤC ........................................................................................................................
1 Danh mục các hóa chất sử dụng và nguồn gốc ..............................................................
2 Thành phần một số môi trường nuôi cấy vi sinh vật trong luận án ................................
3 Thành phần các dung dịch sử dụng trong luận án ..........................................................
4 Thông tin chế phẩm vi sinh thương mại làm đối chứng .................................................
5 pH của các IMO theo thời gian ......................................................................................
6 Kết quả phân tích số nhóm loài vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn trong IMO ...........................
7 Hình thái khuẩn lạc và hình dạng tế bào 83 dòng vi khuẩn phân lập .............................
8 Hình dạng tế bào 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn ở độ phóng đại 100X ..........................
9 Trình tự đoạn gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn ...................................
10 Ghi nhận tổng quan 5 vụ rau thí nghiệm trong nhà lưới ..............................................
11 Tổng hợp năng suất rau muống và cải xanh trong nhà lưới .........................................
12 Kết quả đánh giá vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa trong rau qua 5 vụ rau trong
nhà lưới ...................................................................................................................
v
13 Ghi nhận tổng quan 4 vụ rau thí nghiệm ngoài đồng ...................................................
14 Tổng hợp năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện ngoài đồng ...........................
15 Tổng hợp hàm lượng nitrate trong 4 vụ rau thí nghiệm ở ngoài đồng .........................
16 Kết quả đánh giá vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa trong rau qua 4 vụ thí nghiệm
ngoài đồng ..............................................................................................................
vi
DANH SÁCH BẢNG
Tên bảng
Bảng
2.1
2.2
3.1
3.2
3.3
3.4
Trang
16
17
48
51
61
61
3.5
62
3.6
63
3.7
64
3.8
65
3.9
65
3.10
66
3.11
67
4.1
77
4.2
82
4.3
85
4.4
4.5
4.6
87
88
92
4.7
95
So sánh 2 hợp phần của enzyme nitrogenase
Vai trò của các gen nif trong quá trình cố định nitơ
Vị trí và địa điểm thu thập 19 hệ vi sinh vật bản địa IMO
Thành phần của PAGE 8% với nồng độ chất biến tính 40-60%
Một số đặc tính đất thí nghiệm nhà lưới
Thời gian bố trí các thí nghiệm rau muống và cải xanh trong nhà
lưới Bộ môn Khoa học đất, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học
Cần Thơ
Các nghiệm thức thí nghiệm cho cây rau muống được bố trí trong
nhà lưới
Các nghiệm thức thí nghiệm cho cây cải xanh được bố trí trong
nhà lưới
Lịch bón phân cho cây rau muống và cây cải xanh được bố trí
trong nhà lưới
Một số đặc tính đất trước khi bố trí thí nghiệm ngoài đồng tại xã
Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng
Thông tin về thời gian bố trí các thí nghiệm rau muống và cải
xanh ngoài đồng tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc
Trăng
Thông tin chi tiết về các nghiệm thức thí nghiệm ngoài đồng cho
cây rau muống và cây cải xanh
Lịch bón phân cho cây rau muống và cải xanh trong thí nghiệm
ngoài đồng tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc
Trăng
Mật số vi sinh vật của 20 hệ IMO thu thập trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng sau 38 ngày lên men
Nồng độ IAA (mg.L-1) trong môi trường NBRIP lỏng bổ sung
tryptophan được tổng hợp bởi 20 hệ IMO thu thập sau 6 ngày
nuôi cấy
Hàm lượng đạm tổng số tăng thêm trong môi trường Burks lỏng
sau 5 ngày nuôi cấy của các IMO thu thập
Mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO thu thập
Kết quả phân lập vi khuẩn trong 19 hệ IMO thu thập
Hàm lượng đạm tổng số và đạm hữu dụng tổng hợp bởi 83 dòng
vi khuẩn cố định đạm phân lập trong môi trường Burks lỏng
Nồng độ IAA tổng hợp bởi 50 dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển
chọn trong môi trường Burks lỏng khuyết đạm có bổ sung 100
mg.L-1 tryptophan sau 10 ngày nuôi cấy
vii
4.8
99
4.9
102
4.10
105
4.11
106
4.12
108
4.13
110
4.14
111
4.15
112
4.16
114
4.17
118
4.18
120
4.19
121
4.20
122
4.21
123
Sự tương đồng giữa 10 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA được tuyển chọn so với các dòng vi khuẩn trên cơ sở dữ liệu
NCBI
Ảnh hưởng mật số vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống sau
6 ngày thí nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của 8 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên một số chỉ tiêu
sinh trưởng cây rau muống trên môi trường agar 1% ở điều kiện
phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh
sau 6 ngày chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên một số chỉ tiêu
sinh trưởng cây cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng các mức pha loãng hệ IMO lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau
muống sau 6 ngày chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh
trưởng cây rau muống ở mức nồng độ pha loãng 1000 lần ở điều
kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của các mức pha loãng hệ IMO lên tỷ lệ nảy mầm hạt
cải xanh sau 6 ngày chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh
trưởng cây cải xanh ở nồng độ pha loãng 1000 lần ở điều kiện
phòng thí nghiệm
Chiều cao cây rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở phòng thí
nghiệm
Số lá rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở điều kiện phòng thí
nghiệm
Đường kính cây rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở điều kiện
phòng thí nghiệm
Hàm lượng chlorophyll tổng số trong lá rau muống qua 3 vụ thí
nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
Trọng lượng tươi của rau muống (g/chậu) qua 3 vụ thí nghiệm ở
điều kiện nhà lưới
4.22 Một số chỉ tiêu nông học và sinh khối cây cải xanh qua 2 vụ thí
126
nghiệm trong chậu ở trong điều kiện nhà lưới
133
4.23 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây
rau muống trong vụ thí nghiệm 1 ở ngoài đồng tại Trường Khánh,
Long Phú, Sóc Trăng sau 30 ngày gieo hạt
136
4.24 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây
rau muống trong vụ thí nghiệm 2 ở ngoài đồng tại Trường Khánh,
Long Phú, Sóc Trăng sau 26 ngày gieo hạt
viii
140
4.25 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây
cải xanh trong vụ thí nghiệm 1 ở ngoài đồng tại Trường Khánh,
Long Phú, Sóc Trăng sau 30 ngày gieo hạt
143
4.26 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây
cải xanh trong vụ thí nghiệm 2 ở ngoài đồng tại Trường Khánh,
Long Phú, Sóc Trăng sau 33 ngày gieo hạt
ix
DANH SÁCH HÌNH
Tên hình
Hình
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
Trang
14
15
18
18
21
23
29
36
42
3.1
3.2
3.3
3.4
46
47
48
66
3.5
68
4.1
4.2
70
71
4.3
73
4.4
75
4.5
76
4.6
80
4.7
82
4.8
84
4.9
89
Các chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng của vi khuẩn
Cấu tạo và cơ chế hoạt động của enzyme nitrogenase
Bản đồ gen nif của vi khuẩn Klebsiella pneumoniae
Sơ đồ giả thuyết về hai con đường của quá trình cố định N2
Các dạng vi khuẩn Burkholderia
Vi khuẩn Pseudomonas stutzeri
Các con đường tổng hợp IAA ở vi khuẩn
Các bước thu thập IMO từ môi trường đất
Các bước thực hiện phân tích đa dạng hệ vi sinh vật trong
DGGE
Sơ đồ tóm tắt các nội dung nghiên cứu của luận án
Tóm tắt quy trình thu mẫu IMO
Sơ đồ vị trí thu mẫu các hệ IMO
Sơ đồ bố trí thí nghiệm ngoài đồng tại xã Trường Khánh,
huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng
Vị trí thu mẫu để xác định năng suất rau muống và cải xanh
trên mỗi lô thí nghiệm
Hình thái bên ngoài của hệ vi sinh vật bản địa IMO
Kết quả sản phẩm PCR bằng các cặp mồi đặc hiệu để nhận diện
nhóm vi sinh vật trong hệ IMO
Kết quả phân tích đa dạng thành phần vi khuẩn trong 14 hệ
IMO thu thập
Kết quả phân tích đa dạng thành phần nấm trong 14 hệ IMO
thu thập
Kết quả phân tích đa dạng thành phần xạ khuẩn trong 14 hệ
IMO thu thập
Kết quả kiểm tra sự hiện diện nhóm vi sinh vật gây bệnh trong
các hệ IMO thu thập
Nồng độ IAA được tổng hợp cao nhất bởi 20 hệ IMO thu thập
trong môi trường NBRIP có bổ sung tryptophan (100 mg.L-1)
trong thời gian 6 ngày nuôi cấy
Kết quả PCR bằng các cặp mồi đặc hiệu polF/polR dùng để
nhận diện gen chức năng cố định đạm sinh học NifH của 20 hệ
IMO thu thập
Sự đa dạng kích thước và hình thái khuẩn lạc của một số dòng
vi khuẩn cố định đạm đại diện trên môi trường Burks sau 5
ngày nuôi cấy
x
4.10
90
4.11
94
4.12
101
4.13
104
4.14
107
4.15
113
4.16
114
4.17
128
Sự đa dạng hình thái tế bào của một số dòng vi khuẩn cố định
đạm đại diện trên môi trường Burks sau 5 ngày nuôi cấy ở độ
phóng đại 100X
Kết quả PCR với cặp mồi polF/polR chuyên biệt cho gen nifH
có chức năng cố định đạm sinh học của 22 dòng vi khuẩn cố
định đạm
Mối quan hệ di truyền giữa 10 dòng vi khuẩn cố định đạm và
tổng hợp IAA tuyển chọn dựa trên phương pháp phân tích
UPGMA
Sự khác biệt về mặt hình thái giữa nghiệm thức có chủng và
không chủng vi khuẩn ở hạt và cây rau muống mầm
Tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh ở các nghiệm thức chủng vi khuẩn
ở mật số 107cfu.mL-1 sau 2 ngày thí nghiệm ở điều kiện phòng
thí nghiệm
Tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh chủng IMO ở mức pha loãng 1.000
lần sau 2 ngày chủng
Sự xuất hiện nhiều lông hút ở rễ mầm cây cải khi được chủng
với IMO
Cây cải xanh ở các nghiệm thức thí nghiệm khác nhau ở thời
điểm 33 ngày sau khi gieo hạt của vụ cải thứ 2
xi
Viết tắt
ADN
APS
DGGE
ĐBSCL
IAA
IAM
IAN
IMO
ITS
KNF
LSB
PDA
PCR
TAM
TAE
TSB
TEMED
TSO
Acid Deoxyribonucleic
Ammonium persulfate
Denaturing Gradient Gel Electrophoresis
Đồng bằng sông Cửu Long
Indole-3-Acetic Acid
Indole-3-acetamide
Indole-3-acetonitrile
Indigenous Microorganism (hệ vi sinh vật bản địa)
Internal transcribed spacer
Korean Natural Farming
Lauryl Sulphate Broth
Potato Dextrose Agar
Polymerase Chain Reaction
Tryptamine
Tris-Acetic-EDTA
Tryptone Soya Broth
Tetramethylethylenediamine
Tryptophan side-chain oxidase
xii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Rau là thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của các gia
đình người Việt Nam vì rau cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho con người.
Trung bình mỗi người cần 400 g rau xanh/ngày (FAO/WHO, 2004). Trong đó, các loại
rau ăn lá như: rau muống, mồng tơi, cải xanh, cải ngọt, xà lách… được ưa chuộng và
tiêu thụ nhiều vì chúng dễ trồng, dễ chế biến và giàu dinh dưỡng. Tỉnh Sóc Trăng với
điều kiện thuận lợi cho việc trồng rau màu quanh năm, từ lâu đã hình thành nhiều vùng
đất chuyên canh cây rau điển hình như Thành phố Sóc Trăng, xã Đại Tâm, huyện Mỹ
Xuyên, xã Phú Tâm, Phú Tân và An Hiệp, huyện Châu Thành, thị xã Ngã Năm và thị
xã Vĩnh Châu với tổng diện tích trồng rau và màu trên toàn tỉnh hằng năm trên 50.000
ha. Các loại rau chủ lực mang lại giá trị kinh tế cao và có xu hướng phát triển ở Sóc
Trăng gồm cải xanh, cải ngọt, cải thìa, cải xà lách pháp, mồng tơi, rau muống, hẹ,
hành tím, dưa leo, ớt, bí, khổ qua… trong đó có các rau ăn lá được tiêu thụ thường
xuyên với số lượng lớn như mồng tơi, rau muống, cải xanh... Trong canh tác rau ăn lá,
để đạt năng suất tối đa, mẫu mã đẹp, dễ bán và thu được lợi nhuận cao, nông dân ở
nhiều vùng chuyên canh rau ăn lá đã lạm dụng phân hóa học đặc biệt là phân đạm và
các chất kích thích sinh trưởng (Trần Ngọc Hiếu, 2017). Thêm vào đó, rau ăn lá có
thời gian sinh trưởng ngắn, thiếu thời gian cách ly an toàn nên dễ dẫn đến việc tồn dư
các chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng, đặc biệt là dư lượng
nitrate và các chất kích thích sinh trưởng trong rau. Ngoài ra việc lạm dụng phân hóa
học, chất kích thích sinh trưởng trong canh tác rau đã và đang tác động tiêu cực lâu
dài, nghiêm trọng đến môi trường sinh thái và làm gia tăng tiến trình suy thoái, bạc
màu đất (Stinner, 2007). Do đó, nhu cầu rau sạch, rau an toàn, và rau hữu cơ ở cả nước
nói chung và ở Sóc Trăng nói riêng hiện nay là rất lớn.
Một trong những chiến lược quan trọng trong canh tác rau sạch và an toàn trong
phát triển nông nghiệp bền vững nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và tác động tiêu
cực đến sức khỏe người tiêu dùng là canh tác rau theo hướng sinh học và hữu cơ trong
đó chú trọng đến sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ sinh học hữu cơ và vi sinh có
các chức năng có lợi cho cây trồng có nguồn gốc bản địa (Alves et al., 2004;
Adesemoye et al., 2009; Hungria et al., 2010, 2013). Trong đó ứng dụng hệ vi sinh vật
bản địa (indigenous microorganisms (IMO)) có sẵn trong đất để phục vụ cho phát triển
nông nghiệp bền vững đã được nghiên cứu và phát triển từ lâu bởi Cho Han Kyu vào
những năm 1960 (Reddy, 2011). Tại một số nước, nghiên cứu và sử dụng hệ IMO đã
được chứng minh và cho thấy chúng có hiệu quả cao trong việc tăng sinh trưởng, năng
suất cây trồng và chất lượng của nông sản (Phạm Chí Thành và Y Ka Nin H’ Dok,
2002; Pham Tien Dung and Y Ka Nin H’ Dok, 2009; Chiemela et al., 2013b; Koon et
al., 2013; Mbouobda et al., 2013; Sekhar and Gopal, 2013). Ngoài ra, hệ IMO còn có
hiệu quả trong việc cải tạo, phục hồi, duy trì và bảo vệ sức khoẻ của đất (Phạm Chí
1
Thành và Y Ka Nin H’ Dok, 2002; Pham Tien Dung and Y Ka Nin H’ Dok, 2009;
Illani et al., 2012; Sumathi et al., 2012; Mbouobda et al., 2013; Kumar and Gopal,
2015). Tuy nhiên, nghiên cứu về thành phần vi sinh vật có các chức năng kích thích
sinh trưởng cây trồng của các hệ vi sinh vật bản địa ở Sóc Trăng nhằm khai thác và
ứng dụng chúng trong canh tác rau ở tỉnh Sóc Trăng giúp nâng cao năng suất và chất
lượng cây rau vẫn chưa được nghiên cứu một cách bài bảng và có hệ thống. Đặc biệt là
các nghiên cứu về phân lập và tuyển chọn những dòng vi khuẩn có 2 chức năng cố
định đạm và tổng hợp Indole-3-acetic acid (IAA) từ các hệ IMO để ứng dụng trên cây
rau nhằm giảm lượng phân đạm hóa học bón còn nhiều hạn chế ở phạm vi cả trong và
ngoài nước. Do đó nghiên cứu “Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn bản địa có khả
năng cố định đạm và tổng hợp IAA để canh tác rau ở Sóc Trăng” cần thiết được
thực hiện.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân lập và tuyển chọn một số dòng vi khuẩn bản
địa có hai chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA trong các hệ IMO thu thập từ đất
canh tác các loại cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc Trăng giúp kích thích sinh trưởng và
gia tăng năng suất cây rau muống và cây cải xanh.
Trong đó, có các mục tiêu cụ thể như sau:
- Xác định được sự đa dạng các nhóm vi sinh vật và đánh giá được chức năng
kích thích sinh trưởng cây trồng của các hệ IMO thu thập.
- Phân lập và tuyển chọn được một số dòng vi khuẩn có 2 chức năng cố định đạm
và tổng hợp IAA từ các hệ vi sinh vật bản địa IMO thu thập.
- Đánh giá được ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn lên tỷ lệ nảy
mầm và sinh trưởng của cây rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí
nghiệm.
- Đánh giá được hiệu quả của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn lên sinh trưởng
và năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện nhà lưới và ngoài đồng.
1.3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hệ vi sinh vật bản địa (IMO) và vi khuẩn
có khả năng cố định đạm và tổng hợp IAA được phân lập từ các hệ IMO này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hệ IMO thu thập ở các hệ thống canh tác
cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc Trăng và các thí nghiệm được bố trí dựa trên cơ sở ở
điều kiện phòng thí nghiệm, nhà lưới và ngoài đồng ở tỉnh Sóc Trăng.
Giới hạn nghiên cứu của đề tài là chỉ khảo sát khả năng cố định đạm và tổng hợp
IAA của hệ IMO và dựa trên cơ sở đó tiến hành phân lập các dòng dòng vi khuẩn có
hai chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA trong các hệ IMO nghiên cứu và chỉ ứng
dụng chúng trên 2 đối tượng cây rau muống và cây cải xanh tại xã Trường Khánh
huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng.
2
1.4 Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1: Khảo sát sự đa dạng các nhóm vi sinh vật trong các hệ IMO từ đất
canh tác các loại cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc Trăng.
Nội dung 2: Đánh giá khả năng kích thích sinh trưởng cây trồng gồm cố định
đạm và tổng hợp IAA của các hệ IMO thu thập.
Nội dung 3: Phân lập, tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn bản địa có hai
chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ các hệ IMO thu được.
Nội dung 4: Đánh giá ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng
hợp IAA tuyển chọn và các IMO chứa những dòng vi khuẩn này lên khả năng nảy
mầm và sinh trưởng cây rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm.
Nội dung 5: Đánh giá hiệu quả của 5 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA tuyển chọn và 5 IMO chứa những dòng vi khuẩn này lên sinh trưởng và năng suất
rau muống và cải xanh ở điều kiện nhà lưới.
Nội dung 6: Đánh giá hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA tuyển chọn và 2 IMO chứa những dòng vi khuẩn này lên sinh trưởng và năng suất
rau muống và cải xanh ở điều kiện ngoài đồng.
1.5 Tính cấp thiết của luận án
Hiện nay việc áp dụng vi sinh vật kích thích sinh trưởng thực vật trong trồng trọt
đang được quan tâm, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển mạnh trên thế giới cũng như
trong nước. Tại tỉnh Sóc Trăng phát triển cây rau theo xu hướng an toàn sinh học được
chú trọng trong đó khuyến khích sử dụng phân bón hữu cơ, các sản phẩm có nguồn
gốc hữu cơ, sinh học, hoặc vi sinh vật an toàn cho con người và môi trường sinh thái.
Đặc biệt là nhóm vi sinh vật bản địa đa chức năng có lợi cho cây trồng trong phạm vi
tỉnh Sóc Trăng vẫn chưa được khai thác và tận dụng. Do đó việc khai thác vi sinh vật
bản địa ở tỉnh để ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp trong đó có cây rau giúp giảm
thiểu việc bón các hóa chất nông nghiệp như phân bón hóa học, chất kích thích sinh
trưởng tổng hợp nhằm giảm lưu tồn hóa chất trong nông sản và giảm thiểu các tác
động làm ô nhiễm môi trường là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Mặc khác, việc
nghiên cứu các vi sinh vật có lợi ở tỉnh Sóc Trăng ứng dụng trong canh tác rau ở tỉnh
này sẽ góp phần tăng sản lượng và diện tích sản xuất rau sạch, rau an toàn cho tỉnh Sóc
Trăng nói chung và cho Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Từ đó cho thấy đề tài
"Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn bản địa có khả năng cố định đạm và tổng hợp
IAA để canh tác rau ở Sóc Trăng" là thật sự cần thiết để thực hiện.
1.6 Đóng góp mới của luận án
Hướng nghiên cứu đánh giá thành phần vi sinh vật, chức năng kích thích sinh
trưởng của IMO cũng như khai thác nhóm vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp các IAA
trong các IMO của luận án là hướng nghiên cứu mới do đó đã mang lại một số đóng
góp mới sau:
3
Luận án đã cung cấp những kết quả nghiên cứu khoa học mới về một số đặc tính
của 20 hệ vi sinh vật bản địa IMO trên các hệ thống canh tác cây trồng tại tỉnh Sóc
Trăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự đa dạng về các nhóm vi sinh vật chính bao
gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO. Tuy nhiên, không có sự hiện diện
những vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa ở người như Salmonella, Shigella,
Coliform, E. coli. Bên cạnh đó các IMO còn cho thấy chúng có các chức năng kích
thích sinh trưởng cây trồng như cố định đạm và tổng hợp IAA.
Ngoài ra các kết quả nghiên cứu về các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA phân lập trong các hệ vi sinh vật bản địa cũng như hiệu quả của chúng trong kích
thích nảy mầm, sinh trưởng và làm tăng năng suất rau, giảm nitrate tồn dư trong rau
trong khi bón giảm lượng phân đạm theo công thức khuyến cáo là những kết quả
nghiên cứu mới về các dòng vi khuẩn đa chức năng trong các hệ IMO tại Việt Nam và
là nghiên cứu đầu tiên, chính quy trong tuyển chọn các dòng vi khuẩn kích thích sinh
trưởng, làm tăng năng suất cây rau muống và cải xanh tại tỉnh Sóc Trăng. Điều này rất
có ý nghĩa trong phát triển sản xuất rau sạch, rau an toàn cho tỉnh Sóc Trăng nói riêng
và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Tính mới của luận án còn thể hiện ở kết quả so sánh hiệu quả kích thích nảy
mầm, sinh trưởng cây rau giữa hệ IMO thu thập tại Sóc Trăng với các dòng vi khuẩn
có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA được phân lập từ các hệ IMO này và đã
cho thấy rằng cả hai (IMO và dòng vi khuẩn) cho hiệu quả kích thích nảy mầm và sinh
trưởng cây rau là tương đương nhau, tuy nhiên khi so sánh về chức năng chuyên biệt
như cố định đạm thì các dòng vi khuẩn phân lập cho hiệu quả kích thích sinh trưởng
cao hơn các hệ IMO. Ngoài ra, 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn được định danh là những
dòng vi khuẩn có độ an toàn sinh học cao.
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo tốt cho các nghiên cứu tiếp
theo và làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy cho các ngành công nghệ sinh học, vi
sinh vật đất, nông nghiệp và sinh học khác.
1.7 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt ý nghĩa khoa học, các kết quả nghiên cứu của đề tài này là tài liệu tham
khảo có ý nghĩa khoa học, đáng tin cậy có thể dùng trong giảng dạy và trong nghiên
cứu khoa học về lĩnh vực nông nghiệp, vi sinh vật đất, công nghệ sinh học và sinh học.
Luận án cũng đã cung cấp kiến thức sâu rộng về vai trò và chức năng của các hệ vi
sinh vật bản địa nói chung và hệ vi sinh vật bản địa thu thập tại các hệ thống canh tác
cây trồng ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng về sự đa thành phần vi sinh vật chính có trong hệ
IMO gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn cũng như các chức năng kích thích sinh trưởng
cây trồng của chúng bao gồm cố định đạm và tổng hợp IAA. Bên cạnh đó nghiên cứu
cũng đã cho thấy sự có hiện diện của nhóm vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA
trong các hệ vi sinh vật bản địa IMO, đồng thời có sự đa dạng của nhóm vi sinh vật cố
định đạm trong các hệ IMO thu thập tại các địa điểm khác nhau trong tỉnh Sóc Trăng.
Ngoài ra kết quả so sánh hiệu quả kích thích nảy mầm và kích thích sinh trưởng của
4
các hệ vi sinh vật bản địa với các dòng thuần vi khuẩn phân lập về mặt lý thuyết là
tương đương nhau, tuy nhiên khi so sánh về chức năng chuyên biệt là cố định đạm và
tổng hợp IAA thì các dòng vi khuẩn thuần cho hiệu quả kích thích sinh trưởng cây rau
muống và cải xanh tốt hơn.
Về mặt ý nghĩa thực tiễn, luận án hỗ trợ cho ngành nông nghiệp trong việc sử
dụng phân bón vi sinh học hoặc chế phẩm vi sinh vật để trồng rau giúp tăng thu nhập
cho người nông dân, giảm ô nhiễm môi trường, tạo sản phẩm rau sạch và an toàn trong
canh tác rau. Trên cơ sở nghiên cứu về các hệ IMO cho thấy IMO là nguồn vi sinh vật
rất phong phú và có tính đa dạng cao về chức năng, trong đó có các chức năng cố định
đạm và tổng hợp hormone thực vật IAA, do đó, hoàn toàn có thể ứng dụng các hệ IMO
trong canh tác rau để góp phần thay thế, giảm thiểu lượng phân đạm hoá học. Vì vậy,
trong tương lai, đối với 3 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn hiệu
quả cao nhất sau khi hoàn thiện được quy trình sản xuất chúng sẽ có tiềm năng ứng
dụng rất cao nhằm bổ sung vào các nguồn vi sinh vật có lợi cho cây trồng phục vụ sản
xuất phân bón vi sinh vật góp phần giảm thiểu sử dụng phân đạm hoá học trong sản
xuất rau theo hướng an toàn, thân thiện và bền vững ở tỉnh Sóc Trăng và các tỉnh khác
ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long.
5
CHƢƠNG 2
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Điều kiện địa lí và tự nhiên của tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là tỉnh ven biển nằm ở phía nam cửa Sông Hậu thuộc Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) diện tích tự nhiên khoảng 3.311 km2 (chiếm 1% diện tích cả nước
và 8,3% diện tích khu vực ĐBSCL). Tỉnh được thành lập từ cuối năm 2009, hiện có 11
đơn vị hành chính trực thuộc gồm Thành phố Sóc Trăng và các huyện Châu Thành, Kế
Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị, Vĩnh Châu
và Trần Đề (UBND tỉnh Sóc Trăng, 2009).
Theo UBND tỉnh Sóc Trăng (2009) Sóc Trăng có địa hình tương đối thấp và
bằng phẳng bao gồm phần đất bằng, xen kẽ những vùng đất trũng và đất giồng cát. Khí
hậu tỉnh Sóc Trăng có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và được chia
làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
- Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm là 26,6°C (năm 2008). Nhiệt độ cao nhất
trong năm vào tháng 4 (28,2°C) và nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 (25,4°C).
- Nắng: tổng lượng bức xạ trung bình trong năm tương đối cao, đạt 140-150
kcal/cm2. Tổng giờ nắng bình quân trong năm 2.293 giờ (khoảng 6,28 giờ/ngày), cao
nhất thường vào tháng 3 là 282 giờ, thấp nhất thường vào tháng 9 là 142 giờ.
- Mưa: lượng mưa trung bình hàng năm là 1.660-2.230 mm, chênh lệch lớn theo
mùa, mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa, mùa khô rất ít, có tháng không mưa.
- Độ ẩm: độ ẩm trung bình cả năm là 84% (cao nhất 89% vào mùa mưa, thấp
nhất 75% vào mùa khô).
- Gió: nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh Sóc Trăng có các hướng
gió chính như sau: Tây, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam và gió được chia làm hai
mùa rõ rệt là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Mùa mưa chịu ảnh hưởng của
gió mùa Tây Nam là chủ yếu; còn mùa khô chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc là
chủ yếu với tốc độ gió trung bình là 1,77 m/s.
- Nguồn nước trên hệ thống sông rạch tỉnh Sóc Trăng là kết quả của sự pha trộn
giữa lượng mưa tại chỗ, nước biển và nước thượng nguồn sông Hậu đổ về. Vì vậy,
nước trên sông trong năm có thời gian bị nhiễm mặn vào mùa khô, vào mùa mưa nước
sông được ngọt hóa có thể sử dụng cho tưới tiêu nông nghiệp. Phần sông rạch giáp
biển thì bị nhiễm mặn quanh năm do đó không thể phục vụ tưới cho nông nghiệp,
nhưng bù lại nguồn nước mặn, lợ ở đây lại tạo thuận lợi trong việc nuôi trồng thủy sản.
Theo UBND tỉnh Sóc Trăng (2009) phân loại đất toàn tỉnh có 6 nhóm đất chính:
gồm đất cát, đất phù sa, đất gley, đất mặn, đất phèn và đất nhân tác.
- Đất cát: diện tích 8.491 ha chiếm 2,65% diện tích tự nhiên, phân bố theo các
giồng cát chạy dọc ven biển thuộc các huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên. Đất có thành
phần cơ giới nhẹ, sử dụng trồng rau màu.
6
- Đất phù sa: diện tích 6.372 ha, chiếm 2% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở
các huyện Kế Sách, Mỹ Tú. Đất có thành phần cơ giới từ thịt pha sét đến sét pha thịt,
thích hợp cho trồng lúa tăng vụ, cây ăn trái đặc sản.
- Đất gley: diện tích 1.076 ha chiếm 0,33% diện tích tự nhiên, phân bố ở vùng
trũng, ngập nước mùa mưa thuộc các xã phía Bắc huyện Kế Sách. Đất có thành phần
cơ giới lớp mặt là sét, lớp dưới là thịt pha sét, hiện được sử dụng để trồng lúa một vụ
và nuôi thủy sản.
- Đất mặn: diện tích 158.547 ha, chiếm 49,5% diện tích tự nhiên, phân bố ở tất cả
các huyện, trong đó tập trung với diện tích lớn ở các huyện Vĩnh Châu, Trần Đề và Mỹ
Xuyên. Đất mặn từ nhiều đến ít, thành phần cơ giới từ thịt đến thịt pha sét và thịt pha
cát, hiện đang được sử dụng trồng lúa, rau màu, cây ăn trái và chủ yếu cho nuôi trồng
thủy sản.
- Đất phèn: diện tích 75.823 ha, chiếm 23,7% diện tích đất tự nhiên, phân bố rải
rác ở các huyện, tập trung thành diện tích lớn ở các huyện Mỹ Tú, Ngã Năm, Mỹ
Xuyên và một phần ở huyện Thạnh Trị, Vĩnh Châu. Đất chua có hàm lượng mùn thấp,
thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. Hiện đất được sử dụng chủ yếu để trồng
lúa, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản.
- Đất nhân tác: diện tích 46.146 ha, chiếm 21,8% diện tích đất tự nhiên, phân bố
ở tất cả các huyện, tập trung nhiều nhất ở Kế Sách và Long Phú. Đất phát triển trên
nền đất phù sa cổ do canh tác lâu đời nên bạc màu, độ phì thấp, hiện phần lớn được sử
dụng để trồng lúa 2-3 vụ và rau màu.
2.2 Định hƣớng phát triển cây rau ở tỉnh Sóc Trăng
Là một trong những tỉnh trọng điểm sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL và
cả nước, trong những năm gần đây, Sóc Trăng đã tích cực cơ cấu lại ngành nông
nghiệp theo hướng sản xuất thân thiện với môi trường, nâng cao giá trị sản phẩm để
phát triển bền vững trong đó ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tỉnh Sóc
Trăng với điều kiện thuận lợi cho việc trồng rau màu quanh năm, từ lâu đã hình thành
nhiều vùng đất chuyên canh cây rau màu điển hình như Thành phố Sóc Trăng, xã Đại
Tâm huyện Mỹ Xuyên, xã Phú Tâm, Phú Tân và An Hiệp huyện Châu Thành, thị xã
Ngã Năm và thị xã Vĩnh Châu. Tổng diện tích trồng rau màu trên toàn tỉnh hằng năm
ước tính trên 50.000 ha (Nguyễn Phong, 2020).
Các loại rau, màu có xu hướng phát triển ở Sóc Trăng gồm các loại như: cải
xanh, cải ngọt, cải thìa, xà lách pháp, mồng tơi, rau muống, hẹ, hành tím, dưa leo, ớt,
bí, khổ qua,… Trong những năm qua, để đạt năng suất tối đa, nhiều vùng chuyên canh
rau màu sử dụng phân bón hoá học quá mức tạo điều kiện cho dịch hại phát triển ngày
càng mạnh, dư lượng phân, thuốc hoá học để lại trong nông phẩm cao. Điều đó ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sản xuất và người tiêu dùng và là hồi chuông
báo động cho toàn xã hội. Ngoài ra, tại các vùng chuyên canh rau, sự lạm dụng về
phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật làm cho đất ngày càng bị suy thoái, các
chất độc hại tích tụ ngày càng nhiều ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng cây trồng,
7
gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, từ đó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến chính cuộc sống và sức khỏe của người sản xuất và tiêu dùng (Trần Ngọc
Hiếu, 2017)
Trước nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng và mức độ an
toàn của rau, các sản phẩm rau sản xuất theo hướng an toàn, chất lượng sẽ có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm trồng thông thường. Vì thế, tổng kết ngành Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn năm 2018, Tỉnh Sóc Trăng đặt mục tiêu phát triển 60.000 ha
rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Trong sản xuất rau màu, tỉnh quy hoạch, định
hướng người dân sản xuất rau sạch theo hướng hiệu quả, an toàn và bền vững. Để đạt
được mục tiêu trên, ngành nông nghiệp tỉnh chỉ đạo mỗi địa phương phải có ít nhất
một mô hình điểm sản xuất rau an toàn trên rau màu, từ đó làm cơ sở để nhân rộng mô
hình. Mỗi huyện, thị xã, thành phố có ít nhất một điểm hoặc cửa hàng kinh doanh sản
phẩm rau sạch để phục vụ người dân trên địa bàn. Trên cơ sở đó Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Sóc Trăng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong những năm
tiếp theo cho cây rau như sau: tập trung phát triển sản xuất rau an toàn, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chuyển dần theo hướng sản xuất an toàn sinh học,
nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm và góp phần giảm phát thải khí nhà kính. Duy
trì và mở rộng mô hình sản xuất rau an toàn ở các địa phương (Sở Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Sóc Trăng, 2018). Trong quá trình cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, trong giai đoạn phát triển nông nghiệp công nghệ cao từ 2020 đến 2025, Tỉnh
Sóc Trăng chú trọng cơ cấu lại giống cây trồng, trong đó có cây rau, tỉnh sẽ mở rộng
mô hình sản xuất rau an toàn ở các địa phương, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật công
nghệ sản xuất theo quy trình GAP, VietGAP, GlobalGAP... (Sở Khoa Học và Công
Nghệ Tỉnh Sóc Trăng, 2019).
Đối với các hoạt động ứng dụng khoa học trong chăm sóc và canh tác rau, từ
năm 2017 ngành nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng đã chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật
trong phát triển rau sạch, rau an toàn trong sản xuất thông qua các hoạt động như liên
kết với trường Đại học Cần Thơ để sản xuất rau sạch chỉ sử dụng phân khoáng hữu cơ
tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách nhằm tìm ra những phương pháp sản xuất rau sạch hiệu
quả; Ứng dụng chế phẩm vi sinh từ nấm Trichoderma tự sản xuất phân hữu cơ phục vụ
rau màu tại nông hộ trên địa bàn xã An Ninh; Tỉnh chú trọng nhân rộng các mô hình
sản xuất rau an toàn, mô hình trồng rau trong nhà lưới, rau thuỷ canh, mô hình ứng
dụng các hệ thống tưới nước tiết kiệm vào sản xuất rau an toàn tại các cơ sở sản xuất
rau an toàn trong tỉnh (Hoài Thu, 2017; Trần Ngọc Hiếu, 2017). Tuy nhiên những ứng
dụng vi sinh vật kích thích sinh trưởng thực vật có nguồn gốc ở Sóc Trăng trong lĩnh
vực canh tác rau an toàn còn hạn chế cần có nhiều nghiên cứu.
2.3. Tổng quan về cây rau
Rau là cây hoặc một phần của thực vật có thể ăn được và thường là mọng nước,
ngon và bổ được sử dụng như là món ăn chính hoặc đồ phụ gia để nấu hoặc ăn sống
(Lê Thị Khánh, 2009). Rau rất đa dạng và phong phú, do vậy khi khái niệm về rau chỉ
8
có thể dựa trên công dụng của nó. Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong
bữa ăn hàng ngày của mọi người khắp nơi trên thế giới, đặc biệt khi lương thực và các
loại thức ăn giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như
một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ của con người (Lê
Thị Khánh, 2009). Giá trị của cây rau được thể hiện nhiều mặt trong cuộc sống mà
trước hết là giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế của cây rau.
2.3.1 Giá trị dinh dưỡng của cây rau
Rau là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể và bình quân hàng ngày của mỗi
người cần khoảng 250-300g rau xanh/ngày, có nghĩa là khoảng 90- 110kg/người/năm
(Lê Thị Khánh, 2009). Rau cung cấp cho cơ thể con người các chất dinh dưỡng quan
trọng như các loại vitamin, muối khoáng, acid hữu cơ, các hợp chất thơm, cũng như
protein, lipit, chất xơ... Trong rau xanh hàm lượng nước chiếm 85-95%, chỉ có 5-15%
là chất khô. Trong chất khô lượng carbon chiếm rất cao. Giá trị dinh dưỡng cao nhất ở
rau là hàm lượng đường (chủ yếu đường đơn) chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần carbon.
Nhờ khả năng hoà tan cao, chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu, tăng tính
hoạt hoá trong quá trình oxy hoá năng lượng của các mô tế bào (Lê Thị Khánh, 2009).
Bên cạnh đó, rau là nguồn cung cấp nhiều loại vitamin cho cơ thể. Trong rau có
chứa các loại vitamin A (tiền vitamin A), B1, B2, C, E và PP... Rau là nguồn cung cấp
chất khoáng cho cơ thể: Rau chứa các chất khoáng chủ yếu gồm Ca, P, Fe,.. là những
thành phần cấu tạo của xương và máu. Rau cũng là nguồn cung cấp các dinh dưỡng
khác: các acid hữu cơ, các hợp chất thơm, các vi lượng, các cellulose (chất xơ) giúp cơ
thể tiêu hoá thức ăn dễ dàng, phòng ngừa các bệnh về tim mạch và áp huyết cao.
Ngoài ra nhiều loại rau còn chứa các kháng sinh thực vật có tác dụng như dược liệu
cho cơ thể (Lê Thị Khánh, 2009).
Lượng tiêu thụ rau trung bình của mỗi người dân trong 1 năm ở Nam Triều Tiên
là 141,1 kg, Newzealands hay New Zealands là 136,7 kg, Hà Lan là 202 kg và ở
Canada là 227 kg. Ở Việt Nam, lượng rau tiêu thụ trên đầu người hàng năm vẫn còn
thấp so với các nước khác trên thế giới và được tiêu thụ nhiều chủ yếu ở các thành phố
lớn (Lê Thị Khánh, 2009).
2.3.2 Giá trị kinh tế của cây rau
Rau là một mặt hàng xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Trong những năm
gần đây thị trường xuất khẩu rau được mở rộng. Năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam là 329.972 ngàn USD cho ngành rau. Rau còn là nguyên liệu của ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm. Rau được sử dụng trong công nghiệp chế biến xuất
khẩu dưới dạng tươi, dưa muối, làm tương, sấy khô, xay bột, đồ hộp (gồm dưa chuột,
cà chua, bắp, măng tây, nấm...), bánh kẹo (gồm bí xanh, cà rốt, khoai tây, cà chua...),
nước giải khát (gồm cà chua, cà rốt...), dược liệu (gồm tỏi, hành, rau gia vị...), làm
hương liệu (gồm hạt ngò, hạt mùi, ớt, tiêu...) (Lê Thị Khánh, 2009).
9
Rau là loại cây trồng giúp tăng thu nhập so với một số loại cây trồng khác. Cây
rau có thời gian sinh trưởng ngắn và tương đối dễ trồng, cho năng suất cao, có thể gieo
trồng nhiều vụ trong năm, tận dụng được quỹ đất đai, thời tiết khí hậu, công lao động
nhàn rỗi, quay vòng đồng vốn nhanh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mang lại lợi
nhuận cao so với một số cây trồng khác. Giá trị kinh tế và lợi nhuận của 1 ha canh tác
rau cao hơn 2 – 3 lần so với canh tác lúa. Thống kê 2 năm (2002-2004) cho thấy ở
vùng chuyên canh rau khu vực Hà Nội có thu nhập bình quân 76-83 triệu
đồng/ha/năm, riêng ở nhà lưới thu nhập cao hơn và dao động 124-153 triệu
đồng/ha/năm. Nông dân trồng rau có thu nhập cao hơn so với nông dân trồng cây trồng
khác (Lê Thị Khánh, 2009).
2.3.3 Yêu cầu về đất trồng, dinh dưỡng, phân bón và nước trong canh tác rau
Đất trồng rau phải nên là nền đất chân cao, dễ tiêu thoát nước, không bị ngập
úng, nhưng phải có nguồn nước chủ động để tưới khi cần thiết vì nhu cầu về nước của
tất cả các loại rau đều rất cao. Đất trồng rau tốt nhất là đất cát pha đến thịt nhẹ hoặc đất
thịt trung bình có tầng canh tác từ 20-30 cm, độ chua từ hơi chua đến trung tính (pH 5-
7) là phù hợp cho đa số các loại rau (Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1999).
Trong rau chứa 80-95% nước nên nhu cầu nước của các loại rau là rất lớn. Nhu
cầu nước của rau diễn ra liên tục từ lúc gieo hạt đến khi thu hoạch. Thiếu nước hoặc
thừa nước đều dẫn đến năng suất và chất lượng rau bị giảm. Các loại rau khác nhau và
ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì nhu cầu nước của cây rau cũng khác nhau
(Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1999).
Rau là loại cây ngắn ngày nhưng lại cho khối lượng sản phẩm rất lớn vì năng
suất cao so với những loại cây trồng khác. Để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn như vậy,
cây rau đã lấy đi từ đất một lượng khá lớn các chất dinh dưỡng trong suốt thời gian
sinh trưởng phát triển trên đồng ruộng. Lượng các chất dinh dưỡng này chủ yếu do
phân bón đưa vào đất bao gồm cả phân hữu cơ lẫn các loại phân vô cơ và khoáng và
một phần do đất tự cung cấp. Mặt dù chất dinh dưỡng có trong phân hữu cơ tự nhiên là
rất thấp nhưng lại có một vai trò rất quan trọng vì ngoài cung cấp chất dinh dưỡng
phân hữu cơ, đặc biệt là phân chuồng còn có nhiều tác dụng khác như làm tơi xốp đất,
cải tạo dinh dưỡng đất, giữ ẩm cho đất lúc khô hạn, giữ cho các loại phân hóa học bón
vô đất không bị rửa trôi, làm tăng khả năng hòa tan khoáng chất để cây trồng sử dụng
do đó làm tăng hiệu quả sử dụng phân hóa học. Tuy nhiên, cần phải bón kết hợp phân
vô cơ với phân hữu cơ, đặc biệt là phân chuồng trong quá trình trồng rau (Nguyễn Văn
Thắng và Trần Khắc Thi, 1999).
2.3.4 Nhu cầu đạm của cây rau ăn lá
Nhìn chung trong quá trình phát triển, cây rau hấp thu 70% đạm, 20% lân và
80% kali bón vào đất trong suốt vụ trồng. Rau là loại cây trồng có hàm lượng dinh
dưỡng phong phú, thời gian sinh trưởng ngăn, tốc độ sinh trưởng nhanh và cho năng
suất cao, vì vậy chúng cần lượng dinh dưỡng cao từ đất trong quá trình sinh trưởng.
10
Các chất dinh dưỡng đa lượng cần thiết nhất cho cây rau là đạm, lân, kali và canxi, và
các chất vi lượng khác như Mn, Bo, Mg...Sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng này làm
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển và làm giảm năng suất cây rau (Tạ Thu
Cúc, 2007).
Đối với cây rau, đặc biệt là các loại rau ăn lá phân đạm là yếu tố dinh dưỡng đặc
biệt cần thiết, quyết định mạnh mẽ đến năng suất và chất lượng cây rau. Chất đạm
tham gia cấu tạo các chất hữu cơ quan trọng trong đời sống cây rau như protein, acid
nucleic, nucleo-protein, chlorophyll, alkaloid... Ngoài ra, đạm giúp cây rau tăng trưởng
nhanh và quyết định chất lượng của rau ăn lá. Dạng đạm thích hợp nhất cho cây rau là
Urê (Tạ Thu Cúc, 2007; Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019). Các loại rau khác
nhau có nhu cầu đạm cho quá trình sinh trưởng không giống nhau và tùy thuộc vào
từng loại đất. Các giai đoạn sinh trưởng của cây rau khác nhau có nhu cầu về lượng
đạm cũng sẽ khác nhau. Trong điều kiện đất ở Đồng bằng sông Cửu Long nhu cầu
lượng đạm cần cung cấp cho cây rau muống và cây cải xanh tương ứng là 100 và 70
kg/ha (Cao Ngọc Điệp và ctv., 2011; Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019).
Bón thừa và thiếu đạm trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây rau đều
ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng rau. Khi thiếu đạm, cây rau tăng trưởng kém,
lá nhỏ, màu xanh nhạt, ít chồi, cây rau còi cọc, lá già toàn thân biến vàng, toàn bộ quá
trình sinh trưởng của cây sẽ bị trì trệ do thiếu chất hình thành tế bào, các quá trình sinh
hóa cũng bị ngưng trệ, năng suất kém và giảm chất lượng rau. Tuy nhiên khi thừa phân
đạm cây rau sẽ lớn nhanh, đẻ nhánh nhiều, tế bào chứa nhiều nước, thân lá non mềm,
cây dễ bị đổ ngã, cây chậm ra hoa và khó đậu quả, tăng mức độ lây nhiễm sâu bệnh do
lá mềm, màu sắc xanh đậm của lá thu hút các loại côn trùng và nấm bệnh gây hại, khả
năng chống chịu của cây với điều kiện ngoại cảnh như hạn, mặn, phèn, nấm bệnh cũng
kém đi. Bón thừa đạm sẽ giảm độ giòn và hương vị của rau, khó vận chuyển và bảo
quản, nhanh bị thối hỏng, giảm thời gian tồn trữ của rau sau thu hoạch trong kho vựa.
Đặc biệt là khi bón thừa đạm dẫn đến sự tích lũy NO3 trong rau, hay NO2 quá ngưỡng
an toàn sẽ gây ngộ độc mãn tính hoặc gây ra các bệnh ung thư, đường tiêu hóa cho
người tiêu dùng. Do đó việc bón nhiều phân đạm dẫn đến năng suất và phẩm chất rau
bị giảm xuống (Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019).
2.3.5 Cây rau muống
Rau muống
tên khoa học
là Ipomoea aquatica
thuộc họ bìm bìm
(Convolvulaceae) và là một loại rau ăn lá. Rau muống là cây ngắn ngày, sinh trưởng
nhanh, cho năng suất cao, sống được ở nhiệt độ cao và đủ ánh sáng. Rau muống thích
hợp với nhiều loại đất như: đất sét, đất cát, đất pha cát, đất ẩm giàu mùn hoặc đất được
bón phân hữu cơ, có độ pH khoảng 5,3-6,0. Trong 100 g rau muống có 78,2 g nước;
2,70 g protein; 85,0 mg canxi; 31,5 mg photpho; 1,20 mg sắt và 20,0 mg vitamin C
(Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2009).
Ở Việt Nam, rau muống được trồng ở rất nhiều nơi. Có hai giống rau muống cơ
bản được sử dụng trong canh tác gồm giống thân tím và thân trắng. Giống rau muống
11
được thị trường ưa chuộng nhất là giống thân trắng nên được trồng khá phổ biến ở
Việt Nam. Một loại rau muống khác được trồng phổ biến và tiêu thụ ở các chợ và siêu
thị là rau muống hạt, được trồng trên đất khô không ngập nước và được bán chủ yếu
trong các siêu thị. Thời gian gieo trồng ngắn, cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao
(Tạ Thu Cúc, 2007).
Rau muống có thể trồng quanh năm và nhiệt độ thích hợp từ 25-30°C. Yêu cầu
về nước tưới của cây rau muống khá cao để cây phát triển tốt và do rễ rau muống ăn
vào đất cạn dẫn đến khả năng chịu hạn của rau muống rất kém. Tuy nhiên, trong mùa
mưa cây thường bị nhiễm bệnh nhiều hơn trong mùa khô. Trong quá trình sinh trưởng
cây rau muống cần lượng ánh sáng trung bình và thời gian chiếu sáng trong ngày ngắn,
do đó, rau muống có thể sinh trưởng tốt dưới bóng râm hoặc dưới tán cây lớn. Nhiệt
độ cao và ánh sáng mạnh làm cây rau muống bị héo, sinh trưởng kém và cằn cỗi
(Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2009).
Lượng hạt giống rau muống trồng dao động từ 80-100 kg/ha. Do là loại rau ăn
thân và lá nên rau muống cây cần nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là đạm. Đạm kích
thích sự sinh trưởng của thân, lá do đó đạm có tác dụng quyết định đến năng suất và
chất lượng rau muống. Lân và kali làm tăng chất lượng và khả năng chống chịu với
các điều kiện bất lợi của môi trường (Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019).
Rau muống là loại rau ăn thân lá và cho năng suất cao. Vì vậy loại rau này cần
nhiều chất dinh dưỡng đặc biệt là đạm. Đạm kích thích sự sinh trưởng thân, lá do đó
có tác dụng quyết định đối với năng suất và chất lượng rau muống. Ngoài ra, nguyên
tố lân và kali góp phần làm tăng chất lượng và làm tăng khả năng chống chịu của rau
với các điều kiện bất lợi của môi trường (Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2011). Theo Trung
tâm Nghiên Cứu khoa học kỹ thuật và Khuyến Nông Thành phố Hồ Chí Minh (2006)
công thức bón phân cho cây rau muống phụ thuộc vào loại đất. Trung bình lượng phân
bón cho 1000 m2 gồm phân chuồng hoai 1,5-2 tấn, super lân 10-15 kg, kali 3-4 kg, urê
15-20 kg. Tuy nhiên, lần cuối bón phân urê cho rau chậm nhất 1 tuần trước khi thu
hoạch để bảo đảm cách ly an toàn cho người tiêu dùng.
2.3.6 Cây cải xanh
Rau họ Cải (Brassicaceae) gồm bắp cải, súp lơ, su hào, củ cải, các loại cải không
cuốn… là một trong những loại rau được trồng nhiều nhất ở Việt Nam, trong đó cải
xanh (Brassica juncea L.) được trồng khá phổ biến do nhóm cải này có khả năng thích
ứng rộng và cho hiệu quả kinh tế cao. Cải xanh có khả năng chịu được nóng và mưa
to, nhóm cải này có khả năng thích nghi rộng, thường được trồng quanh năm đặc biệt
trong vụ Xuân Hè và vụ Thu Đông. Cải xanh có cuống hơi tròn, nhỏ và ngắn. Phiến lá
nhỏ và hẹp, bản lá mỏng, cây thấp, nhỏ, lá có màu xanh vàng đến xanh đậm ăn có vị
cay nên gọi là cải cay (Nguyễn Cẩm Long, 2014).
Cây cải thuộc rễ chùm, phân nhánh, bộ rễ ăn cạn trên tầng đất màu, tập trung
nhiều nhất ở tầng đất 0-20 cm. Lá cải mọc đơn và không có lá kèm. Những lá dưới
thường tập trung, bẹ lá to và lá lớn. Bộ lá khá phát triển, lá to nhưng mỏng nên chịu
12
hạn kém và dễ bị sâu bệnh tấn công. Hoa cải có dạng chùm và không có lá bắc. Hoa
nhỏ, đều và mẫu 2. Đài hoa và tràng hoa đều 4 và xếp xen kẽ nhau. Hoa có 6 nhị, trong
đó 2 nhị ngoài có chỉ nhị ngắn hơn 4 nhị bên trong. Bộ nhị gồm 2 noãn dính bầu trên,
một ô về sau có một vách ngăn giả chia bầu noãn thành 2 ô, mỗi ô có 2 hoặc nhiều
noãn. Quả thuộc loại quả giác, hạt có phôi lớn và cong, ít nội nhũ (Lê Thị Khánh,
2009).
Về yêu cầu ngoại cảnh, cây cải có nguồn gốc ôn đới nên yêu cầu ánh sáng thích
hợp với thời gian chiếu sáng ngày dài, cường độ ánh sáng yếu. Nhiệt độ cho sinh
trưởng và phát triển là từ 15-22oC. Lượng nước trong cây rất cao chiếm từ 75% đến
95% do đó cây cải cần nhiều nước để sinh trưởng phát triển. Tuy nhiên, nếu mưa kéo
dài hay đất úng nước cũng ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, phát triển của cây cải (Lê
Thị Khánh, 2009).
Cây cải thích hợp trồng trên nhiều loại đất, có thể sinh trưởng và phát triển, cho
năng suất cao ở các loại đất khác nhau, từ đất cát pha đến đất thịt nặng, nhưng thích
hợp nhất là đất giàu dinh dưỡng và khả năng giữ ẩm tốt. Cải cần nhiều đạm, lân và
kali, trong đó đạm được sử dụng nhiều nhất. Phân hữu cơ có tác dụng rất lớn trong quá
trình sinh trưởng phát triển cây cải. Tuy nhiên, do cải có thời gian sinh trưởng ngắn
nên cần các loại phân dễ tiêu, dễ phân giải, cung cấp dần những yếu tố dinh dưỡng cần
thiết cho cây (Nguyễn Cẩm Long, 2014).
2.4 Vai trò của vi sinh vật kích thích sinh trƣởng thực vật đối với cây trồng
2.4.1 Vi khuẩn kích thích sinh trưởng thực vật
Trong đất, vi sinh vật tập trung nhiều xung quanh rễ cây, rễ cây tác động lên sự
sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật và ngược lại thực vật cũng chịu tác động của
vi sinh vật vùng rễ. Theo Souza et al. (2015) vi sinh vật kích thích sinh trưởng thực vật
(Plant Growth Promoting Microorganisms (PGPMs)) là vi sinh vật trong đất, sinh sống
tự do hoặc liên kết hoặc cộng sinh hoặc sống nội sinh với thực vật trực tiếp hoặc gián
tiếp tham gia vào việc kích thích sinh trưởng và phát triển của thực vật. Cơ chế cho các
hoạt động kích thích tăng trưởng thực vật khác nhau giữa các loài và chủng vi sinh vật.
Do đó, có nhiều hoạt động và cơ chế kích thích sinh trưởng cây trồng khác nhau
(Souza et al., 2015). Theo Gupta et al. (2015) sự kích thích sinh trưởng cây trồng có
thể chia thành 2 cơ chế (Hình 2.1): (1) Kích thích sinh trưởng cây trồng trực tiếp thông
qua hoạt động cố định đạm, hòa tan lân, hòa tan kali, tiết siderophore, tổng hợp các
hormone thực vật như indole-3-acetic acid (IAA), giberellins… và (2) Kích thích sinh
trưởng cây trồng gián tiếp thông qua hoạt động tiết các enzyme thủy phân, chất kháng
sinh, các hợp chất polysaccharids…. Trong đó, chức năng cố định đạm của vi sinh vật
là một trong những chức năng quan trọng nhất trong hoạt động kích thích sinh trưởng
cây trồng (Nguyễn Lân Dũng và ctv., 2001).
13
Vi khuẩn vùng rễ kích thích sinh trưởng thực vật
(Plant Growth Promoting Rhizobacteria-PGPR)
Trực tiếp kích thích sinh
trưởng thực vật
Gián tiếp tiếp kích thích sinh
trưởng thực vật
Cố định đạm Tiết kháng sinh
Hòa tan lân Tiết enzyme thủy phân
Hòa tan kali
Tổng hợp siderophore Tổng hợp siderophore Tạo ra hệ thống kháng
Tổng hợp hormone thực vật Tiết polysaccharides ngoại bào
IAA Ethylene Cytokinins và gibberellins
Hình 2.1 Các chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng của vi khuẩn
(Gupta et al., 2015)
2.4.2 Cố định đạm
2.4.2.1 Định nghĩa quá trình cố định đạm
+/NO3
Theo Vance (1997) đạm là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho cây trồng. Sự hấp
thu và chuyển hóa đạm cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng cũng
quan trọng không kém so với quá trình quang hợp. Hầu hết sinh vật trong đó có cả
thực vật không thể sử dụng N2 trong không khí cho quá trình biến dưỡng của chúng,
thực vật chỉ có thể sử dụng nitơ dạng khử, do đó N2 trong không khí phải được cố định
-) sau đó thực vật mới có thể hấp thu (Smil,
và chuyển thành dạng liên kết (NH4
2001).
Quá trình chuyển N2 thành các dạng liên kết của nó nhờ các vi sinh vật gọi là
quá trình cố định đạm. Theo Harekrushna and Abhijita (2013) có khoảng 2,5x1011 kg
NH3 được cố định hằng năm bằng con đường sinh học và con đường này cao hơn rất
nhiều so với con đường cố định đạm bằng vật lí. Trong đó, vi sinh vật đóng vai trò chủ
yếu trong quá cố định đạm sinh học (Hubell and Kidder, 2003).
+ và NO3
Vi sinh vật cố định đạm là những vi sinh vật có khả năng cố định đạm tự do (N2)
trong không khí và trong đất để chuyển hóa N2 thành dạng đạm dễ tiêu cung cấp cho
đất và cho cây trồng thông qua hệ enzyme nitrogenase giúp khử N2 thành NH3.
-,
Ammonia (NH3) sau khi được tạo ra tiếp tục được chuyển hóa thành NH4
khi đó cây trồng hấp thu các dạng đạm này và được tham gia vào chuỗi carbon để
14
đồng hóa thành những acid amin đầu tiên cung cấp trực tiếp cho cây trồng (Nguyễn
Lân Dũng, 1984).
Trong tự nhiên quá trình cố định đạm xảy ra theo con đường vật lí dưới các điều
kiện đặc biệt như núi lửa, sấm chớp và ngày nay con người có thể tạo ra các điều kiện
vật lí tương tự nhưng rất tốn kém (nhiệt độ 1.000oC đến 4.000oC; áp suất 200-1.000
atm và những chất xúc tác đắt tiền) để phá vỡ mối liên kết bền vững trong phân tử N2.
Trong khi đó vi sinh vật dưới sự trợ giúp của enzyme nitrogenase, N2 bị phá vỡ liên
kết 3 một cách dễ dàng ngay trong điều kiện bình thường về áp suất và nhiệt độ. Phân
tử nitơ có năng lượng 9,4.105 J/mol nên quá trình khử nitơ cần tiêu tốn nhiều năng
lượng ATP ở vi sinh vật. Trong công nghiệp, nhờ các chất xúc tác nên năng lượng
dùng cho phản ứng cố định N2 được giảm nhiều, khoảng 16-20 Kcalo/M, tuy nhiên,
năng lượng này vẫn còn lớn hơn so với năng lượng trong cơ thể sinh vật. Tốc độ phản
ứng nhanh chóng trong tế bào vi sinh vật ở nhiệt độ thấp và nhờ có hệ thống enzyme
hydrogenase và nitrogenase (Nguyễn Lân Dũng, 1984). Trong quá trình cố định đạm,
vấn đề then chốt của toàn bộ quá trình là việc phá vỡ liên kết của N2 để chuyển thành
NH3 nhờ vào nguồn năng lượng ATP và phức hợp enzyme nitrogenase và enzyme
hydrogenase. Phức hệ enzyme này nằm trong tế bào chất của vi khuẩn (Yan et al.,
2008).
2.4.2.2 Enzyme nitrogenase trong quá trình cố định đạm
thermoautotrophicus (Hoffman-Findeklee et al., 2000)
Nitrogenase là phức hợp metalloenzyme đóng vai trò quan trọng trong việc khử
nitơ sinh học (Hình 2.2). Có 4 phức hệ nitrogenase chính được mô tả (Eady, 1996),
trong đó ba phức hệ có đặc điểm gần giống nhau, chỉ khác biệt bởi nguyên tử
heterometal có trong cụm kim loại (Mo, V hoặc Fe). Loại thứ tư được phân lập từ
Streptomyces
là một
nitrogenase phụ thuộc vào nguyên tố Mo. Nitrogenase phụ thuộc vào nguyên tố Mo và
là enzyme quan trọng nhất và được nghiên cứu nhiều nhất. Đây là loại enzyme phân
bố rộng rãi nhất (Burgess and Lowe, 1996).
α-Nif D Nif H
β-Nif K
Hình 2.2 Cấu tạo và cơ chế hoạt động của enzyme nitrogenase (Ahmed et al., 2014)
Enzyme nitrogenase bao gồm 2 hợp phần protein được gọi là hợp phần I và hợp
phần II (Bảng 2.1). Các protein này hòa tan trong tự nhiên. Hợp phần I còn được gọi là
15
Mo-Fe-protein hoặc dinitrogenase và hợp phần II được gọi là Fe-protein hoặc
dinitrogenase reductase (Burris, 1991).
Hợp phần I (MoFe-protein) chứa trung tâm hoạt động để khử cơ chất. Nó có
trọng lượng phân tử khoảng 250 kDa (Christiansen et al., 2001). Protein này liên kết
với hai nguyên tử Mo, 30 nguyên tử Fe không heme và 32 acid sulfide vô cơ (Rees et
al., 2005). Các protein Mo, Fe và S của hợp phần I được tổ chức thành hai nhóm kim
loại riêng gọi là cụm P (hoặc [8Fe-7S]) và Fe-Mo-cofactor (Santos et al., 2004). Sự
khử thực tế xảy ra ở trung tâm Fe-Mo (Rees et al., 2005). Thành phần của đồng phân
Fe-Mo là MoFe7S9 homocitrate và nó có mặt trong hai bản sao cho mỗi phân tử nitơ.
Một số sinh vật có nitrogenase không molibden được thay thế bằng Vanadium. Tính
đặc hiệu và hiệu quả của enzyme Fe-Mo- nitrogenase cao hơn nitrogenase thay thế
(Raymond et al., 2003). Cụm P bổ trợ làm trung gian cho sự truyền electron từ Fe
protein thành FeMo-cofactor (Hoffmann-Findeklee et al., 2000).
Bảng 2.1 So sánh 2 hợp phần của enzyme nitrogenase (Harekrushna and Abhijita,
2013)
Thành phần Hợp phần I Hợp phần II
Hợp phần II có khối lượng phân tử 55.000-65.000 Da (Christiansen et al., 2001)
Fe-Protein là một homodimer bao gồm 2 tiểu đơn vị γ (Nif H protein), chứa bốn
nguyên tử Fe không heme và bốn acid sulfide vô cơ được gọi là cụm [4Fe-4S] được
nối giữa dimer (Howard et al., 1989). Hai vị trí liên kết nucleotide (mỗi tiểu đơn vị)
cũng có trong protein Fe. Protein Fe cung cấp điện tử một lần cho thành phần I
(Hoffmann-Findeklee et al., 2000).
2.4.2.3 Gen nif trong cố định đạm
Các gen mã hóa các enzyme tham gia vào việc cố định đạm được gọi là gen nif.
Cấu trúc của gen nif đã được nghiên cứu bởi nhiều tác giả trong một số vi sinh vật
nhưng các thành phần cấu trúc gen nif của Klebsiella pneumoniae được nghiên cứu kỹ
nhất (Shamseldin, 2013). Gen nif của K. neumoniae kéo dài 24 kb và chứa khoảng 20
gen với các chức năng khác nhau (Bảng 2.2) được sắp xếp trong một số đơn vị phiên
mã (Hình 2.3).
Dinitrogenase là một protein phức tạp bao gồm tiểu đơn vị α và β. Tiểu đơn vị α
là sản phẩm của gen nif D trong khi tiểu đơn vị β là sản phẩm của gen nif K (Beringer
and Hirsch, 1984). Nif H mã hóa gen cho protein reductase dinitrogenase là một dimer
protein gồm hai tiểu đơn vị γ (Roberts et al., 1978) hay nói khác hơn phức hợp
16
Trọng lượng phân tử
Số tiểu đơn vị
Trọng lượng của tiểu đơn vị
Số nguyên tử Fe trong phân tử
Số nguyên tử S2- trong phân tử
Số nguyên tử Mo trong phân tử
Mg2+, Ca2+ 200.000-250.000 Da
4
595.000 Da và 52.000 Da
30-34
18-19
2
Có 55.000-73.000 Da
2
đều 27.500 Da
4
4
Không
Không
nitrogenase gồm có MoFe-protein được mã hóa bởi các gen nif D, nif K và Fe-protein
được mã hóa bởi gen nif H (Bullock, 2006; Ahmed et al., 2014). Bên cạnh ba gen cấu
trúc này, việc lắp ráp hoàn chỉnh nitrogenase đòi hỏi các sản phẩm của gen nif khác
cũng tham gia vào quá trình tổng hợp FeMo-co, cũng như sự hình thành các cụm FeS
và sự trưởng thành của các thành phần nitrogenase.
Bảng 2.2 Vai trò của các gen nif trong quá trình cố định nitơ (Klipp et al., 2004)
Vai trò
Gen nif
Nif H
Nif D
Nif K
Nif T
Nif Y
Nif E
Nif N
Nif X
Nif U
Nif S
Nif V
Nif W
Nif Z
Nif M
Nif F
Nif L
Nif A
Nif B
2-
Nif N
Nif Q
Nif J
17
Tổng hợp dinitrogenase reductase
Tổng hợp tiểu đơn vị α (α-subunit) của enzyme dinitrogenase, hình thành
phức hợp 4 α2β2 (α2β2 tetramer) với tiểu đơn vị β. Vị trí khử cơ chất FeMo-
cofactor được bao gọn trong chính tiểu đơn vị α này của enzyme
dinitrogenase
Tổng hợp tiểu đơn vị β (β-subunit) của enzyme dinitrogenase. Các nhóm P
(P-clusters) hiện diện tại mặt phân giới của tiểu đơn vị β.
Chưa xác định
Nif Y hỗ trợ sự chèn FeMo-cofactor vào enzyme apodinitrogenase.
Hình thành phức hợp 4 α2β2 (α2β2 tetramer) với nifN. Bắt buộc trong quá
trình tổng hợp FeMo-cofactor
Cần thiết cho quá trình tổng hợp FeMo-cofactor
Được bao gồm trong sự tổng hợp FeMo-cofactor. Tuy nhiên, vai trò cụ thể
của nó chưa được xác định
Được bao gồm trong sự huy động về nguồn sắt cho sự tổng hợp cũng như
sửa chữa nhóm Fe-S
Được bao gồm trong sự huy động về nguồn lưu huỳnh cho sự tổng hợp cũng
như sửa chữa nhóm Fe-S
Tổng hợp homocitrate, bao gồm trong sự tổng hợp FeMo-cofactor
Góp phần ổn định enzyme dinitrogenase. Chức năng dự đoán của nifW là bảo
vệ enzyme dinitrogenase khỏi bị bất hoạt bởi O2
Chưa xác định
Cần thiết cho sự hoàn thiện chức năng của nif H
Flavodoxin. Nguồn cung ứng electron sinh lý cho nifH
Nhân tố điều hòa âm tính quá trình cố định đạm
Nhân tố điều hòa dương tính quá trình cố định đạm
Cần thiết cho sự tổng hợp FeMo-cofactor. Sản phẩm chuyển hóa của nifB
còn là nguồn cung ứng Sắt và lưu huỳnh cho FeMo-cofactor
Ferredoxin là nguồn cung ứng electron cho nitrogenase
Được bao gồm trong quá trình tổng hợp FeMo-cofactor, dự đoán nifQ còn
tham gia vào giai đoạn sớm của quá trình xử lý MoO4
Pyruvate: flavodoxin (ferredoxin) oxidoreductase. Là thành phần của chuỗi
truyền electron tới enzyme nitrogenase
Hình 2.3 Bản đồ gen nif của vi khuẩn Klebsiella pneumoniae
2.4.2.4 Cơ chế của quá trình cố định đạm
Trước đây, cơ chế hóa sinh của quá trình cố định đạm chưa được sáng tỏ hoàn
toàn, nhưng đa số các nhà nghiên cứu đồng ý với giả thuyết cho rằng N là sản phẩm
đồng hóa sơ cấp của N2 và nêu ra 2 giả thuyết về 2 con đường cố định N của vi sinh
vật sống tự do trong đất. Quá trình cố định đạm sinh học được mô tả qua Hình 2.4.
Hình 2.4 Sơ đồ giả thuyết về hai con đường của quá trình cố định N2 (Nguyễn Thành Đạt
và Nguyễn Duy Thảo, 1986)
Quá trình cố định nitơ phân tử theo hai hướng cơ bản: con đường khử và con
đường oxy hóa. Con đường khử theo chuỗi biến hóa: N2HN=NHH2N-
NH2NH3NH4OH; con đường oxy hóa: N2 N2O HNO2NH4OH.
Các hợp chất khử được phát hiện khi nuôi các vi sinh vật cố định đạm bằng
phương pháp đồng vị phóng xạ. Qua đó cho thấy con đường khử có nhiều khả năng
xảy ra hơn. Nguồn hydro để khử N2 có thể là phân tử hydro (H2) (Bunden, 1966 trích
dẫn bởi Nguyễn Thành Đạt và Nguyễn Duy Thảo, 1986).
Hiện nay sơ đồ phản ứng của quá trình cố định đạm có thể tóm tắt bằng phương
trình phản ứng:
18
N2 + 8H+ + 8e- + 16 ATP = 2NH3 + 2H2 + 16ADP + 16Pi (Postgate, 1998)
Tuy nhiên việc cố định N2 của vi khuẩn nốt sần có thể xảy ra theo sơ đồ phức tạp
hơn. Trong các nốt sần có một chất có bản chất heme rất giống với hemoglobin trong
máu gọi là leghemoglobin. Chất này dễ dàng liên kết với O2 để biến thành
oxyhemoglobin. Leghemoglobin chỉ được tạo nên khi vi khuẩn sống cộng sinh với cây
họ đậu, còn khi nuôi cấy riêng các Rhizobium sẽ không tạo leghemoglobin và không
cố định được N2. Những nghiên cứu gần đây về quá trình cố định N2 cho thấy quá
trình cố định đạm này đòi hỏi có sự tham gia của nguyên tố vi lượng, tiến hành trong
điều kiện yếm khí và cần rất nhiều năng lượng (cần 16 ATP để khử 1 N2).
Trong quá trình cố định đạm, khâu then chốt của toàn bộ quá trình là sự khử liên
kết của N2 thành NH3 nhờ vào nguồn năng lượng ATP và phức hợp enzyme
nitrogenase và enzyme hydrogenase. Phức hệ enzyme này nằm trong tế bào chất của vi
khuẩn (Yan et al., 2008).
2.4.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cố định đạm
Theo Monica et al. (2013) các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình cố định đạm
sinh học là độ mặn, ẩm độ và nhiệt độ. Ảnh hưởng của nguồn carbon, lân, kali, pH,
molybden,… Abdullah and Al-Falih (2002) cho thấy các yếu tố như độ ẩm, vi sinh vật,
chất hữu cơ và kết cấu đất là các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc cố định đạm
cộng sinh của vi khuẩn Rhizobium với nhóm cây họ đậu. Tương tự, Mohammadi et al.
(2012) chứng minh cho thấy sự thay đổi về pH, hàm lượng dinh dưỡng hữu dụng,
nhiệt độ và nước là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng, tỷ lệ sống và hoạt
động trao đổi chất của vi khuẩn cố định đạm. Sự tích tụ oxy trong các vùng bị xâm
nhiễm dẫn đến ức chế enzyme nitrogenase, dẫn đến việc giảm tính thấm của nốt sần.
Theo Ngô Thế Dân và ctv. (2016) việc cố định đạm cũng có xu hướng giảm theo tuổi
cây họ đậu, chủ yếu là do sự gia tăng hàm lượng đạm trong đất. Việc thiếu canxi trong
đất ảnh hưởng đến pH đất và sự gắn kết của rhizobia với lông rễ.
2.4.2.6 Vi sinh vật cố định đạm
Theo Saharan and Nehra (2011) vi sinh vật tham gia vào tiến trình cố định đạm
bao gồm 3 nhóm chính như sau:
Nhóm cố định đạm sống cộng sinh với rễ cây họ đậu gồm: chi Rhizobium,
Bradyrhizobium, Burkholderia, Sinorhizobium và Mesorhizobium cộng sinh bắt
buộc với câu họ đậu.
Nhóm cố định đạm sống cộng sinh với rễ cây không phải họ đậu gồm
Frankia, vi khuẩn lam.
Nhóm vi khuẩn cố định đạm sống tự do chúng có thể liên kết hoặc nội sinh
vào bên trong các bộ phận của cây như: Azospirillum, Azotobacter, Acetobacter
diazotrophicus, Azoarcus, Pseudomonas, Klebsiella, Clostridium…
19
a) Cố định đạm cộng sinh:
Vai trò cố định N2 trong đất quan trọng nhất thuộc về nhóm vi sinh vật cộng sinh.
Hiện nay, có hơn 600 loài cây trong rễ có vi sinh vật sống cộng sinh và cố định N2
thuộc nhiều họ khác nhau (Saharan and Nehra, 2011). Trong nông nghiệp cây họ đậu
vẫn có giá trị nhất, chúng có thể cố định được lượng đạm từ 80-300 kg N/ha/năm. Cỏ
Linh Lăng có thể cố định 300 kg N/ha/năm, đậu cove cố định từ 80-120 kg/ha/năm. Vi
khuẩn thuộc chi Rhizobium là nhóm vi khuẩn chính sống cộng sinh trong rễ cây họ đậu
(Leguminosales). Tuy nhiên, hiện nay vi khuẩn sống cộng sinh cây họ đậu tạo nốt sần
được chia thành 2 nhóm (Saharan and Nehra, 2011):
- Nhóm sinh trưởng nhanh gồm các vi khuẩn cố định đạm, cộng sinh với rễ và
tạo nốt sần với cỏ ba lá, đậu Hòa Lan, mục túc,… thuộc chi Rhizobium. Đây là nhóm
vi sinh vật có hoạt động cố định N2 mạnh nhất.
- Nhóm sinh trưởng chậm gồm các vi khuẩn cố định đạm, cộng sinh với rễ tạo
nốt sần với cây đậu phộng, đậu nành... thuộc chi Bradyrhizobium.
* Rhizobium
Là một chi vi khuẩn Gram âm, hình que, hiếu khí sống trong đất có vai trò cố
định đạm. Rhizobium hình thành một nhóm vi khuẩn cộng sinh cố định đạm sống trong
rễ của các cây họ đậu và Parasponia. Beijerinck là người đầu tiên phân lập và nuôi
dưỡng vi sinh vật từ các nốt của cây họ đậu vào năm 1888 và loài này được định danh
là Bacillus radicicola, theo phân loại của Bergey, dòng vi khuẩn này thuộc chi
Rhizobium. Rhizobium là nhóm vi khuẩn sinh trưởng nhanh, có khả năng cố định đạm
nhờ hệ thống gen nif H, nif D và nif K trên cùng một operon (Cao Ngọc Điệp và Ngô
Thanh Phong, 2016).
Một số chủng vi khuẩn trong chi Rhizobium có khả năng xâm nhiễm rễ cây trồng
khác không phải cây họ đậu, khi đó các chủng vi khuẩn này chức năng giúp kích thích
sinh trưởng cây trồng. Việc chủng Rhizobium sp. vào trong đất giúp cây họ đậu tăng
trưởng tốt hơn và cho năng suất cũng như số lượng nốt sần cao hơn so với không
chủng Rhizobium sp. ở điều kiện đồng ruộng (Saharan and Nehra, 2011).
* Bradyrhizobium
Vi khuẩn thuộc chi Bradyrhizobium là trực khuẩn Gram âm (hình que) hay còn
gọi là vi khuẩn nốt sần rễ có sức tăng trưởng chậm. Chúng có thể hình thành các mối
quan hệ cộng sinh với các loài thực vật họ đậu và khi đó chúng sẽ cố định đạm đồng
thời trao đổi carbohydrate với các tế bào rễ cây. Giống như Rhizobium khác, chúng có
khả năng cố định đạm trong khí quyển thành dạng hữu dụng cho các sinh vật khác sử
dụng. Chúng sở hữu hệ gen nif D và nif K trên cùng 1 operon và nif H trên một operon
khác (Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016). Chúng phát triển chậm hơn so với
các loài thuộc chi Rhizobium. Trong môi trường lỏng, cần khoảng 3-5 ngày để các loài
thuộc chi Bradyrhizobium tạo sinh khối vừa đủ và cần 6-8 giờ để sinh khối tăng gấp
đôi về mật số. Chúng tăng sinh khối tốt nhất trong môi trường có bổ sung carbon từ
pentoses (Somasegaran, 1994). Một số nghiên cứu còn cho thấy việc chủng các dòng
20
vi khuẩn thuộc chi Bradyrhizobium kết hợp với một số vi khuẩn vùng rễ kích thích
sinh trưởng cây trồng khác tác động tích cực đến tiến trình cố định đạm cộng sinh
thông qua việc gia tăng số lượng và trọng lượng của nốt sần, thành phần năng suất,
năng suất hạt cây họ đậu và tăng độ phì nhiêu đất (Son et al., 2006).
* Burkholderia
Vi khuẩn thuộc chi Burkholderia (Hình 2.5) là nhóm vi khuẩn gram âm, có khả
năng cố định đạm, hình que ngắn, di chuyển nhờ các chiên mao, sống được cả trong
điều kiện hiếu khí và kỵ khí nhưng phát triển tốt trong môi trường ít oxy. Burkholderia
có khả năng cố định đạm và tạo nốt sần với cây họ đậu, đồng thời chúng cũng có khả
năng cộng sinh với các cây trồng khác không phải họ đậu như bắp, mía, lúa, khóm,
chuối… (Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016).
Hình 2.5 Các dạng vi khuẩn Burkholderia
b) Cố định đạm cộng sinh với cây không thuộc họ đậu:
Hai nhóm cố định đạm cộng sinh với cây không thuộc họ đậu được nghiên cứu
rộng rãi là Frankia và vi khuẩn lam. Frankia hình thành nốt sần với trên hơn 280 loài
cây gỗ từ 8 họ khác nhau (Schwintzer and Tjepkema, 1990). Tuy nhiên, mối quan hệ
cộng sinh của nó thì chưa được rõ. Frankia được biết là tạo ra sự cộng sinh hiệu quả
với các loài Alnus và Casuarina (Wheeler and Miller, 1990; Huss-Danell, 1990).
Một số loài có thể cải thiện dinh dưỡng thực vật bằng cách giải phóng các chất điều
hòa sinh trưởng thực vật, siderophores và hydrogen cyanide hoặc có thể làm tăng
phosphate hữu dụng (Antoun et al., 1998).
Rất nhiều loài vi khuẩn lam sống trong ruộng, trong nước đã được chứng minh là
có khả năng cố định đạm, chúng đã góp phần không nhỏ vào cân bằng nitơ trong nông
nghiệp ở nhiều nước, nhất là các nước nhiệt đới. Nhờ hoạt động cố định đạm của vi
khuẩn lam mà nitơ trong đất qua một vụ có thể tăng lên 18-33 kg ở Philippins
(Alimagno, 1977), 25-30 kg ở Ấn Độ (Venkataraman, 1979), 50-80 kg ở Mali (Traore
at al., 1978) (trích dẫn bởi Nguyễn Lân Dũng, 1984). Vi khuẩn lam cộng sinh với bèo
hoa dâu như Anabaena asollae rất có ý nghĩa trong việc làm tăng nguồn nitơ cho cây
lúa ở Việt Nam (Nguyễn Lân Dũng, 1984).
21
c) Vi khuẩn cố định đạm sống tự do:
Vi khuẩn cố định đạm tự do có vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra nguồn
đạm cho cây trồng sử dụng. Trong đó, nhóm vi khuẩn cố định đạm sống tự do có thể
tạo ra lượng chất hữu cơ đáng kể. Một hạn chế chính mà vi khuẩn nhóm này gặp phải
đó là sự thiếu hụt nguồn carbon và nguồn năng lượng cho quá trình cố định đạm vì tiến
trình cố định đạm cần nhiều năng lượng. Tuy nhiên, giới hạn này có thể được khắc
phục bằng cách một số vi khuẩn nhóm này có thể di chuyển gần rễ cây để liên kết hoặc
nội sinh bên trong rễ cây. Một số vi khuẩn cố định đạm không cộng sinh rễ cây như:
Azoarcus sp., Gluconacetobacter diazotrophicus, Herbasprillium sp., Azotobacter sp.
(Vessey, 2003; Barriuso and Solano, 2008), Acharomobacter, Acetobacter,
Arthrobacter, Azospirillum, Azomonas, Bacillus, Clostridium, Beijerinckia,
Enterobacter, Klebsiella, Pseudomonas. Corynebacterium, Derxia, Rhodosprillum,
Rhodopeudomonas, Xanthobacter (Saxena and Tilak, 1998).
* Azotobacter
Theo Saharan and Nehra (2011) họ Azotobacteriaceae gồm 2 giống là Azomonas
với 3 loài là A. agillis, A. insignis và A. macrocytogenes và giống Azotobacter gồm 6
loài là A. chroococcum. A. vinelandii, A. beijerinckii, A. nigricans, A. armeniacus và
A. paspali. Azotobacter được cho là vi khuẩn sống tự do cố định đạm hiếu khí.
Azotobacter là chi vi khuẩn hình trứng, gram âm, có khả năng sinh nha bào, hiếu khí,
khuẩn lạc trắng trong, lồi, nhày và khi già có màu vàng lục (Stanier, 2003). Ngoài ra
Azotobacter đồng hóa tốt các loại đường đơn và đường đôi, 1 g glucose có thể đồng
hóa được 8-18 g N. Ngoài ra Azotobacter còn có khả năng tiết ra một số vitamin nhóm
B như B1, B6, một số acid hữu cơ như: acid nicotinic, pantotenic, biotin và auxin giúp
tăng tỷ lệ nảy mầm và phát triển của hạt. Vì nhóm vi khuẩn này có khả năng cố định
đạm mạnh nên vào cuối thế kỷ 18 nhiều nước đã nghiên cứu sử dụng chúng làm phân
vi sinh và được gọi là phân Azobaterin (Chu Thị Thơm và ctv., 2006).
* Azospirillum
Azospirillum được Beijerinck phân lập đầu tiên vào năm 1923 trên vùng đất
nghèo dinh dưỡng và đặt tên là Spirillium lipoferum. Sau đó được đặt tên lại là
Azospirillium. Azospirillium là vi khuẩn vi hiếu khí, gram âm, hình que. Azospirillum
thuộc nhóm cố định đạm ngoại sinh hoặc nội sinh. Chúng xâm nhập lên bề mặt rễ, sau
đó nội sinh vào bên trong rễ và một số loài có thể hội sinh với những cây không thuộc
họ đậu đặc biệt là các cây ngũ cốc trong đó có cây lúa (Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh
Phong, 2016). Azospirillium có khả năng cố định từ 20-40 kg/ha/năm khi liên kết với
rễ cây (tương đương 20-40 gN/g malate trong phòng thí nghiệm). Ngoài ra chúng còn
tiết các hormone thực vật như IAA, GA, cetokinin và một số vitamin khác (Stanier,
2003). Azospirillum trực tiếp mang lại lợi ích cho cây trồng như tăng số lông hút và rễ
cây dẫn đến làm tăng khả năng hút nước và muối khoáng của rễ. Azospirillum
lipoferum cũng đã được phân lập từ cây lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (Cao Ngọc
Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016).
22
* Acetobacter
Acetobacter là vi khuẩn gram âm, có khả năng chuyển động, dạng hình que ngắn,
chúng có khả năng cố định đạm, tổng hợp IAA, hòa tan lân và các chất dinh dưỡng
khác (Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016). Acetobacter và các chế phẩm chứa
nhóm vi khuẩn này được xem như là chế phẩm quan trọng cho cây mía
(Muthukumarasamy et al., 2000). Họ Acetobacteriaceae bao gồm chi, Acetobacter,
Gluconobacter, Gluconoacetobacte và Acidomonas (Yamada et al., 1997). Dựa trên
phân tích trình tự 16S-rRNA, loài Acetobacter diazotrophicus đã được thay đổi thành
Gluconoacetobacter diazotrophicus. G. diazotrophicus là nhóm vi khuẩn gram âm
sinh trưởng tốt trong môi trường hiếu khí. Chúng có khả năng cố định đạm, tổng hợp
auxin, gibberelline, hòa tan lân… (Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016). G.
diazotrophicus phân lập từ nhiều nguồn khác nhau khi phân loại bằng hình thái và sinh
hóa thì không có nhiều biến đổi trong đa dạng di truyền. Tuy nhiên, khi phân tích bằng
dấu phân tử random amplified polymorphic ADN (RAPD) thì Suman et al. (2001)
nhận thấy rằng có sự đa dạng của các chủng phân lập G. diazotrophicus.
* Pseudomonas
Pseudomonas là vi khuẩn gram âm, hình que, có chiên mao ở cực nên, có khả
năng di chuyển và không có khả năng tạo thành bào tử. Pseudomonas sống tự do, có
thể hiếu khí hay kỵ khí và pH trung tính. Pseudomonas có ảnh hưởng quan trọng lên
sự sinh trưởng và phát triển của thực vật như tổng hợp auxin, cytokinin, hòa tan lân, cố
định đạm,…Chủng vi khuẩn Pseudomonas stutzeri (Hình 2.6) là một trong một số
chủng vi khuẩn thuộc chi Pseudomonas có khả năng cố định đạm (Cao Ngọc Điệp và
Ngô Thanh Phong, 2016). Islam et al. (2013) đã xác định 2 chủng Pseudomonas sp
phân lập từ đất trồng lúa có khả năng sinh IAA và cố định đạm với lượng ethylen sinh
ra là 35,3 nM/h/g. Tương tự, Li et al. (2017) đã phân lập được 100 dòng Pseudomonas
từ đất vùng rễ mía ở Quảng Tây, Trung Quốc, trong đó 30 dòng tuyển chọn cho thấy
các chủng Pseudomonas có khả năng sinh IAA dao động 13,12-312,07 µg/mL trong
điều kiện có bổ sung tryptophan và có khả năng sinh C2H2 là 6,16-108,30 µmol/h/mL.
Thí nghiệm của Ke et al. (2019) đã đánh giá chủng Pseudomonas stutzeri A1501 nội
sinh trên cây bắp bằng cách sử dụng đồng vị phóng xạ 15N cho thấy chúng cải thiện
đáng kể sự phát triển của cây và làm tăng hàm lượng nitơ trong cây cũng như làm thay
đổi cộng đồng vi sinh vật xung quanh rễ.
Hình 2.6 Vi khuẩn Pseudomonas stutzeri
23
* Bacillus
Chi Bacillus thuộc chi vi khuẩn Gram dương, hiếu khí và kỵ khí không bắt buộc,
catalase dương tính và hầu hết có khả năng di động, có khả năng tạo bào tử tự do hoặc
bên trong tế bào. Nhiều loài trong chi Bacillus được xác định là có khả năng cố định
đạm như Bacillus megaterium (Ding et al,, 2005; Aslam et al., 2016; Nguyễn Anh
Huy và Nguyễn Hữu Hiệp, 2018), Bacillus cereus (Ding et al., 2005). Yousuf et al.
(2017) đã phân lập phân lập từ một cửa sông nhiệt đới và ven biển. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hầu hết các loài có khả năng cố định đạm trong khu vực nghiên cứu
thuộc chi Bacillus. Các mẫu phân lập từ cửa sông cho thấy sự tương đồng cao với
Bacillus megaterium, B. cereus, B. safencis, B. licheniformis, B. aerophilus, B.
oceanisediminis, B. flexus, B. aquimaris, B. vietnamensis và B. subterraneaus, trong
khi các mẫu ven biển có tương đồng cao với B. subtilis, B. megaterium, B. circulans,
B. aerophilus, B. flexus và B. oceanisediminis. Khả năng cố định đạm cao nhất được
ghi nhận ở B. megaterium (210,05±7,0 nmol C2H4/mg protein/ngày) sau đó là B. flexus
(108,76±3,66 nmol C2H4/mg protein/ngày) và B. circulans (98,28±4,32 nmol C2H4/mg
protein/ngày). Phân tích phân tử ADN của các chủng Bacillus này cho thấy có sự hiện
diện của gen nifH trong chúng. Gần đây, một số nghiên cứu đã được công bố về phân
lập và tuyển chọn được các dòng vi khuẩn Bacillus có khả năng cố định đạm và chịu
mặn cao để ứng dụng canh tác trong điều kiện xâm nhập mặn của nước biển hiện nay
(Nguyễn Khởi Nghĩa, 2017; Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp 2018).
* Paenibacillus
Trước đây các loài Paenibacillus thuộc chi Bacillus, theo lịch sử được xác định
dựa trên các đặc điểm về mặt sinh vật học chung với các loài Bacillus subtilis, được
phân lập vào năm 1872. Chúng có dạng hình que, hiếu khí hoặc hiếu khí tuỳ ý hình
thành nội bào tử trong điều kiện khắc nghiệt. Tuy nhiên, những đặc điểm này không
phù hợp để phân nhóm các loài này thành một chi duy nhất (Zeigler, 2013). Sau đó,
một nghiên cứu khác vào năm 1988 sử dụng phân loại số dựa trên đoạn trình tự 188
nucleotic đã đề xuất tách chi Bacillus thành nhiều chi (Priest et al., 1988). Một phương
pháp chính xác hơn về mối quan hệ phát sinh gen giữa các vi khuẩn này đã được
nghiên cứu vào năm 1991, khi trình tự gen 16S-rRNA được xác định cho 51 loài sau
đó được xác định là Bacillus (Priest et al., 1988; Ash et al., 1991). Các phân tích phát
sinh gen cho thấy các trình tự này phân tách thành ít nhất năm nhóm riêng biệt, một
trong số đó là chi mới Paenibacillus được tách riêng vào 1993 (Ash et al., 1993). Tên
Paenibacillusis bắt nguồn từ trạng từ paene có nghĩa là gần như; bởi vì nó gần như
giống Bacillus (Ash et al., 1993).
Vi khuẩn thuộc chi Paenibacillus đã được phân lập từ nhiều môi trường khác.
Phần lớn trong số chúng được tìm thấy trong đất, đất vùng rễ: những vi khuẩn vùng rễ
thúc đẩy tăng trưởng thực vật và có thể được khai thác để sử dụng trong nông nghiệp.
Theo đặc điểm đa dạng của chúng, các thành viên của Paenibacillus đã được phát hiện
24
trong môi trường sống khác biệt, từ các vùng cực đến vùng nhiệt đới và từ môi trường
nước đến sa mạc khô cằn nhất (Grady et al., 2016).
+ và NO3
Chi Paenibacillus rất đa dạng, gồm ít nhất 240 loài được xác định (Dai et al.,
2019). Theo Xie et al. (2014) có hơn 20 loài Paenibacillus có thể cố định nitơ, các
chủng này bao gồm cả hai nhóm diazotrophic và non-diazotrophic (Eastman et al.,
2014; Xie et al., 2016; Puri et al., 2016). Chi Paenibacillus có nhiều loài được biết đến
để thúc đẩy sự phát triển của thực vật bao gồm bắp (Sheela and Usharani, 2013), cây
dương (Han et al., 2014) bí ngô (Fürnkranz et al., 2012), lúa (Souza et al., 2014), cỏ
kê (Ker et al., 2014) và nhiều loài khác (Grady et al., 2016). Do đó, tiềm năng sử dụng
Paenibacillus spp. cố định N2 được đề xuất làm phân bón sinh học để tăng cường sự
-) và các quá
phát triển của cây trồng thông qua việc tăng hấp thụ nitơ (NH4
trình trao đổi chất khác (Liu et al., 2019; Li et al., 2019). Giống như các vi khuẩn thúc
đẩy tăng trưởng thực vật khác, chúng thực hiện điều này thông qua nhiều phương thức
và cơ chế khác nhau. Các loài Paenibacillus kích thích trực tiếp đến sự phát triển của
thực vật bằng cách sản xuất axit indole-3-acetic (IAA) và các phytohormone khác, hòa
tan lân khó tan để cây hấp thụ một số loài cũng có thể cố định nitơ trong khí quyển.
Ngoài ra, Paenibacillus đã kiểm soát mầm bệnh thực vật bằng cách kích hoạt tính
kháng hệ thống kháng thể của cây và/hoặc sản xuất nhiều loại hợp chất diệt khuẩn.
Cụm gen nif được bảo tồn cao trong các loài Paenibacillus cố định đạm, với hầu
hết chứa 9 gen trong khoảng 10,5-12,0 kb và thể hiện hơn 80% tương đồng (Xie et al.,
2014). Hầu hết các gen nif xuất hiện đơn thể, có khả năng bắt nguồn từ chuyển gen
ngang duy nhất, sau đó là sự sao chép và mất đoạn gen ở một số dòng (Xie et al.,
2016; Fernandes et al., 2014). Ít nhất hai chủng, P. riograndensis SBR5T và P. durus
DSMZ1735, có thêm gen nif từ quá trình chuyển ngang, các nghiên cứu gần đây cho
thấy các gen này có thể không hoạt động (Fernandes et al., 2014). Nitogenase Vnf
được mã hóa trong bộ gen của P. zanthoxyli JH29 và P. azotofixans ATCC 35681,
trong khi Anf được mã hóa bởi P. sophorae S27, P. forsythia T98 và P. riograndensis
SBR5T; tất cả chúng cũng chứa nif cluster. Trong các loài Paenibacillus có các lựa
chọn thay thế cho Mo trong các hợp phần cấu trúc của enzyme nitrogenase, là vanadi
và sắt (Vnf) hoặc chỉ có sắt (Anf) (Boyd and Peters, 2013). Ngoài các gen chức năng
nif, có thêm Vnf hoặc Anf có thể mang lại lợi thế chọn lọc cho các dòng vi khuẩn trong
một số trường hợp nhất định, vì Anf cho thấy biểu hiện cao hơn trong điều kiện thiếu
molypden (Fernandes et al., 2014). Khả năng cố định nitơ của các loài Paenibacillus
cố định đạm như P. zanthoxyli DSM 18202 tạo ra hoạt động tăng gấp 140 lần so với P.
peoriae DSM 8320 (Wang et al., 2013).
* Paraburkholderia
Chi Burkholderia, được mô tả dựa trên việc chuyển 7 loài từ Pseudomonas, được
đề xuất bởi Yabuuchi et al. (1992). Về mặt hình thái học, chi Burkholderia thuộc họ
Burkholderiaceae thuộc họ Etaproteobacteria. Tuy nhiên, các nghiên cứu phát sinh
gen dựa trên 16S-rRNA và một số gen bảo tồn cho thấy chi Burkholderia chứa ít nhất
25
(Lv et al., 2016). Một số
loài
hai chi: chi Burkholderia và một chi mới Paraburkholderia (Dobritsa and Samadpour,
2016). Chi Paraburkholderia lần đầu tiên được đề xuất bởi Sawana et al. (2015) với
Paraburkholderia graminis là loài. Các thành viên của chi Paraburkholderia được đặc
trưng là Gram âm, hình que thẳng và có hàm lượng G + C trong khoảng 58,9-65,0%
(Dobritsa and Samadpour, 2016). Hiện tại, chi Paraburkholderia bao gồm 60 loài
được công nhận (Euzeby, 1997) được phân lập từ các môi trường khác nhau (đất, thực
vật và nước), bao gồm Paraburkholderia caffeinilytica (Gao et al., 2016) và
Paraburkholderia pallidirosea
thuộc chi
Paraburkholderia đã được xác nhận là có khả năng cố định đạm (Sheu et al., 2013;
Chen et al., 2006) đã chủng vi khuẩn Paraburkholderia azotifigens sp. phân lập từ đất
lúa được chứng minh là đại diện cho một loài cố định đạm mới của chi
Paraburkholderia (Choi and Im., 2018).
* Klebsiella
Klebsiella thuộc nhóm vi khuẩn gram âm, hình que, ít chuyển động, có khả năng
kết bào xác, kỵ khí không bắt buộc, sống tự do trong đất hoặc xâm nhập và nội sinh
trong cây trồng. Chủng vi khuẩn Klebsiella oxytoca phân lập từ cỏ đuôi mèo có khả
năng tổng hợp IAA và cố định đạm tốt. Sơ đồ hệ thống cấu trúc các gen nif của K.
pneumoniae được nghiên cứu kỹ (Shamseldin, 2013). Khoảng 30% loài Klebsiella
pneumonia có khả năng cố định nitơ (Nguyễn Hữu Hiệp và Cao Ngọc Điệp, 2012).
2.4.3 Tổng hợp indole-3-acetic acid
2.4.3.1 Vai trò sinh lý của auxin
Hormone thực vật là những tín hiệu hóa học do thực vật tiết ra làm tăng khả năng
phản ứng của thực vật đối với môi trường. Hormone thực vật có hiệu quả ở nồng độ rất
thấp, chúng tương tác với mô đích để tạo ra phản ứng sinh lý. Mỗi phản ứng thường là
kết quả của hai hoặc nhiều hormone hoạt động cùng nhau. Hormone thực vật có 2 tác
động chính là kích thích hoặc ức chế sự phát triển của thực vật. Có 5 nhóm hormone
thực vật chính: auxins, gibberellins, ethylene, cytokinins và abscisic acid (Saharan and
Nehra, 2011).
Indole-3-acetic acid là một thành viên được cho là quan trọng nhất trong nhóm
hormone thực vật Auxin (Ashrafuzzaman et al., 2009). Nó hoạt động như một phân tử
tín hiệu quan trọng trong việc điều hòa sự phát triển của cây trồng bao gồm: điều khiển
sự ra hoa, phản ứng hướng động, phản ứng tế bào như gia tăng kích thước và phân
chia tế bào, biệt hóa, và điều hòa gen (Ryu and Patten, 2008), gia tăng hô hấp và hình
thành rễ (Frankenberger and Arshad, 1995).
IAA kích thích sự sinh trưởng của tế bào, làm cho tế bào dài ra. Hiệu quả đặc
trưng của auxin là tác động lên sự giãn của thành tế bào; Auxin gây ra sự giảm độ pH
trong thành tế bào nên hoạt hóa các enzyme phân giải các polysacharid liên kết giữa
các sợi cellulose làm cho chúng lỏng lẻo và tạo điều kiện cho thành tế bào giãn ra dưới
tác dụng của áp suất thẩm thấu của không bào trung tâm. Ngoài ra IAA cũng kích
26
thích sự tổng hợp các cấu tử cấu trúc nên thành tế bào đặc biệt là các cellulose, pectin,
hemicellulose... Bên cạnh đó IAA còn ảnh hưởng đến sự phân chia của tế bào, tuy
nhiên ảnh hưởng của auxin lên sự giãn và sự phân chia tế bào trong mối tác động
tương hỗ với các phytohormone khác như gibberellin và cytokinin. (Cao Ngọc Điệp,
2007).
IAA gây ra tính hướng động của cây (hướng quang và hướng địa). Bằng cách sử
dụng nguyên tử đánh dấu cho thấy IAA phóng xạ được phân bố nhiều hơn ở phần
khuất ánh sáng cũng như phần dưới của bộ phận nằm ngang và gây nên sự sinh trưởng
không đều ở hai phía của cơ quan. Phía khuất ánh sáng bao giờ cũng tích điện dương,
trong khi phía chiếu sáng bao giờ cũng tích điện âm. IAA trong cây thường bị ion hóa
(IAA-) và do đó phân bố ở phía điện dương nhiều hơn và kích thích sự sinh trưởng ở
phía khuất ánh sáng mạnh hơn ở phía chiếu sáng. Kết quả làm cây uốn cong về phía
chiếu sáng (Lương Minh Châu, 2004 trích dẫn bởi Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2011).
IAA điều chỉnh hiện tượng ưu thế ngọn: Hiện tượng ưu thế ngọn là đặc tính quan
trọng và phổ biến ở thực vật. Khi chồi hoặc rễ chính sinh trưởng sẽ ức chế sự sinh
trưởng của chồi bên. Đây là một sự ức chế tương quan vì khi loại trừ ưu thế ngọn bằng
cách cắt chồi ngọn rễ chính thì chồi bên rễ bên được giải phóng khỏi ức chế và lập tức
sinh trưởng. Hiện tượng này được giải thích IAA được hình thành trong đỉnh ngọn với
hàm lượng cao hơn được vận chuyển xuống dưới, trên con đường đi xuống nó sẽ ức
chế sự sinh trưởng của các chồi bên. Nếu cắt ngọn thì làm giảm hàm lượng auxin nội
sinh và sẽ kích thích chồi sinh trưởng. (Cao Ngọc Điệp, 2007).
IAA kích thích sự hình thành rễ: Trong sự hình thành rễ, đặc biệt là rễ phụ, hiệu
quả auxin là rất đặc trưng. Sự hình thành rễ phụ có thể chia làm 3 giai đoạn: phân hóa
tế bào trước tầng phát sinh, tiếp theo là xuất hiện mầm rễ và cuối cùng là rễ sinh
trưởng thành rễ phụ chọc thủng vỏ và phát triển ra ngoài (Frankenberger and Arshad,
1995).
2.4.3.2 Vi sinh vật tổng hợp indole-3-acetic acid (IAA)
Trong quá trình sinh trưởng của thực vật, ngoài IAA nội sinh, sự tăng trưởng của
thực vật chịu tác động không nhỏ của lượng auxin bên ngoài mà một trong những
nguồn đó được tổng hợp bởi vi sinh vật. Có nhiều loài vi khuẩn có khả năng sản sinh
hormone thực vật IAA (Saharan and Nehra, 2011). Khoảng 80% vi sinh vật sống ở
vùng rễ các loài cây trồng có khả năng tổng hợp auxin (Loper and Schroth, 1986),
trong khi nghiên cứu trên đậu xanh, Joseph et al. (2007) đã cho thấy tất cả các chủng
Bacillus, Pseudomonas và Azotobacter sản xuất IAA, trong khi chỉ 85,7% Rhizobium
đã có thể sản xuất IAA. Theo Patten and Glick (1996) các dòng vi khuẩn thuộc các
giống Azospirilium, Pseudomonas, Rhizobium, Xanthomonas, Bradyrhizobium
japonicum, Gluconobacter diazotrophicus đã được xác định là có khả năng tổng hợp
IAA. Ngoài ra còn có Azotobacter vinelandii, Agrozobacter tumerfaciens, Azotobacter
chroococcum, Arthrobacter spp., Bacillus cereus, Bacillus subtilus, Nostoc rivular,
Pseudomonas spp., Rhizobium melioti… (Frankenberger and Arshad, 1995).
27
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh auxin do vi sinh vật tổng hợp có tác động tích
cực lên sự sinh trưởng của cây trồng như: gia tăng chiều dài rễ, chiều cao của chồi,
tăng khả năng hấp thu lân của cây cải dầu, đặc biệt khi chủng với dòng vi khuẩn
Pseudomonas putida GR12-2 (Lifshitz et al., 1987), giúp phát triển rễ và tăng năng
suất lúa (Malik et al., 1994), tăng chiều cao cây, tăng số nhánh, tăng đường kính thân,
tăng số trái trên 1 cây, tăng hàm lượng dầu trong hạt, tăng năng suất ở cải Brassica
juncea (Asghar et al, 2002), tác động đến đặc tính sinh trưởng và năng suất rau muống
và rau mồng tơi, gia tăng có ý nghĩa thống kê chiều cao cây, khối lượng thân lá và rễ
tươi, khối lượng chất khô của cây bắp trồng trong chậu (Đặng Thị Ngọc Thanh và ctv.,
2016).
Ảnh hưởng của IAA lên mỗi giống thực vật phụ thuộc vào nồng độ của nó, ở
nồng độ thấp có thể kích thích sinh trưởng nhưng lại có thể gây ức chế ở nồng độ cao
(Frankenberger and Arshad, 1995). Chính sự tập trung của vi khuẩn đặc hiệu xung
quanh rễ sẽ quyết định nồng độ auxin đó. Thực vật khác nhau đáp ứng khác nhau với
nồng độ auxin biến động (Sarwar and Frankenberger, 1994) và loại vi sinh vật (Ahmad
et al., 2005). Các chủng vi sinh vật tổng hợp 2 dạng auxin phổ biến là IAA và indole
acetamide (IAM) trong đất ở môi trường bình thường làm cho tốc độ tăng trưởng và
năng suất của lúa mì đạt mức tối đa (Khalid et al., 2004). Ngay cả các chủng vi sinh
vật sản xuất IAA thấp hơn nhưng liên tục và ổn định cũng sẽ giúp cải thiện năng suất
thực vật (Tsavkelova et al., 2007).
2.4.3.3 Các con đường tổng hợp IAA ở vi sinh vật
Có nhiều phương thức tổng hợp sinh học IAA ở vi khuẩn đã được xác định. Theo
Spaepen et al. (2007) tryptophan đã được xác định là tiền chất chính cho quá trình
tổng hợp IAA ở vi khuẩn. Việc xác định các chất trung gian dẫn đến có 5 con đường
tổng hợp IAA phụ thuộc tryptophan bao gồm tổng hợp từ indole-3-acetamide, indole-
pyruvate, tryptamine, tryptophan side-chain oxidase, indole-3-acetonitrile, và con
đường không phụ thuộc vào tryptophan (Hình 2.7).
Con đường tổng hợp IAA từ indole-3-acetamide (IAM) là con đường phổ biến
nhất ở vi khuẩn. Trong quá trình tổng hợp IAA theo con đường này, tryptophan được
chuyển thành IAM bởi enzyme tryptophan-2-monooxygenase (IaaM) được mã hóa bởi
gen IaaM, sau đó IAM bị phân cắt bởi enzyme IAM hydrolase (IaaH) tạo thành IAA.
enzyme IAM hydrolase được mã hóa bởi gen IaaH (Spaepen et al. 2007).
Con đường indole-3-pyruvate (IpyA) được cho là con đường chính tổng hợp IAA
ở thực vật, tuy nhiên các enzyme và gen mấu chốt cho quá trình này thì chưa xác định
được ở thực vật. Ở vi khuẩn quá trình này đã được xác định có ở: Bradyrhizobium,
Azospirillum, Rhizobium và Enterobacter cloacae và tảo lam. Con đường tổng hợp
IAA này gồm 3 giai đoạn được mô tả ở Hình 2.7 khi tryptophan được chuyển thành
IpyA, sau đó thành indole-3-acetaldehyde và cuối cùng tạo thành IAA (Spaepen et al.
2007).
28
Hình 2.7 Các con đường tổng hợp IAA ở vi khuẩn (Spaepen et al., 2007)
Con đường tryptamine (TAM) được xác định ở vi khuẩn Bacillus cereus (Perley
and Stowe, 1966) và Azospirillum (Hartmann et al., 1983). Quá trình tổng hợp theo
con đường này tương tự như quá trình IpyA nhưng được thay thế IpyA bởi tryptamine.
Con đường tryptophan side-chain oxidase (TSO) được tìm thấy ở Pseudomonas
fluoescens CHA0, quá trình tổng hợp theo con đường này được tiến hành khi
tryptophan được chuyển trực tiếp thành indole-3-acetaldehyde mà không qua sự hình
thành IpyA (Oberhansli et al., 1991).
Con đường indole-3-acetonitrile (IAN) khi ở giai đoạn cuối IAN được chuyển
thành IAA (Spaepen et al., 2007).
Một con đường không phụ thuộc tryptophan ở vi khuẩn được chứng minh là
dòng vi khuẩn Azotobacter brasilense có khả năng này. Con đường này chiếm ưu thế
trong trường hợp không cung cấp tryptophan trong môi trường nuôi cấy: 90% IAA
được tổng hợp thông qua con đường không phụ thuộc tryptophan, trong khi 0,1% được
tạo ra thông qua con đường IAM (Prinsen et al., 1993). Vì các enzyme cụ thể của con
đường này chưa được xác định, sự tồn tại của con đường này hiện đang được tiếp tục
nghiên cứu.
2.4.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp IAA
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh tổng hợp IAA của vi khuẩn có thể phân thành
2 nhóm chính là các yếu tố môi trường và các yếu tố liên quan đến di truyền.
a) Các yếu tố môi trường:
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp IAA ở các vi khuẩn có
liên quan đến các yếu tố stress môi trường bao gồm: pH acid, tính thẩm thấu và chất
nền, và sự hạn chế nguồn carbon. Ona et al. (2003 và 2005) đã chỉ ra rằng vi khuẩn
Azotobacter brasilense có khả năng gia tăng tổng hợp IAA khi thiếu hụt nguồn carbon
29
và giảm khả năng tổng hợp IAA ở điều kiện pH có tính acid. Kết quả tương tự cũng
tìm thấy trong nghiên cứu của Broek et al. (2005). Ngoài ra, trong môi trường đất, các
chất hoặc hợp chất do thực vật tiết cũng tác động đến quá trình tổng hợp IAA của vi
sinh vật (Spaepen et al., 2007).
Acid amin tryptophan là một tiền chất quan trọng và nó ảnh hưởng mạnh mẽ lên
quá trình tổng hợp IAA của vi sinh vật. Khi bổ sung tryptophan trong quá trình nuôi
cấy sẽ làm tăng có ý nghĩa lượng IAA ở nhiều vi khuẩn khác nhau (Prinsen et al.,
1993; Brandl and Lindow, 1996; Patten and Glick, 2002; Theunis et al., 2004). Ngoài
tryptophan, quá trình tổng hợp IAA còn được điều chỉnh bởi sản phẩm cuối cùng là
IAA và các chất trung gian trong quá trình tổng hợp. Đối với Pseudomonas savastanoi
pv. savastanoi hoạt động của enzyme đầu tiên IaaM trong con đường IAM nhận tín
hiệu ức chế ngược từ sản phẩm là IAM và IAA (Hutcheson and Kosuge, 1985).
Tryptophan kích thích khả năng sản xuất IAA ở vi khuẩn Azospirillum, nhưng
anthranilate, tiền thân của tryptophan, lại làm giảm khả năng tổng hợp IAA. Bởi vì cơ
chế sinh tổng hợp IAA được điều chỉnh bởi tryptophan ức chế sự hình thành
anthranilate do một quy trình điều hòa ngược ức chế tiến trình tổng hợp anthranilate,
do đó dẫn đến ức chế gián tiếp lên tiến trình tổng hợp IAA (Hartmann and Zimmer,
1994).
b) Các yếu tố di truyền:
Các yếu tố di truyền khác nhau đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến khả
năng sinh tổng hợp IAA bởi vi khuẩn. Thứ nhất, vị trí của gen sinh tổng hợp auxin
trong bộ gen, hoặc plasmid hoặc nhiễm sắc thể, đã được chứng minh là điều chỉnh khả
năng tổng hợp IAA. Plasmid thường có mặt trong nhiều bản sao khác nhau trong tế
bào vi khuẩn, nên tổng hợp IAA cao hơn so với các gen sinh tổng hợp IAA phân bố
trên nhiễm sắc thể (Brandl and Lindow, 1996; Patten and Glick, 1996). Ở loài vi khuẩn
Pseudomonas savastanoi pv. savastanoi có chứa các gen sinh tổng hợp IAA nằm trên
một plasmid, trong khi ở Pseudomonas syringae pv. syringae các gen tương đồng
được mã hóa trên nhiễm sắc thể ADN. Ở các loài này, lượng IAA tổng hợp được thấp
hơn nhiều. Khi vi khuẩn Pseudomonas có số plasmid bản sao thấp các gen mã hóa
tổng hợp IAA, thì lượng IAA tạo ra tăng gấp bốn lần (Mazzola and White, 1994), cho
thấy tầm quan trọng của vị trí gen hoặc số lượng bản sao của gen hoặc cả hai yếu tố
này ảnh hưởng mạnh đến lượng IAA tổng hợp được ở vi sinh vật. Thứ hai, các yếu tố
thuộc về loài vi khuẩn và con đường tổng hợp IAA của loài vi khuẩn đó. Hơn nữa quá
trình điều hòa phiên mã của gen còn chịu tác động của các yếu tố môi trường (Spaepen
et al., 2007).
30
2.4.4 Các nghiên cứu, ứng dụng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA trong và
ngoài nước
2.4.4.1 Ngoài nước
Smith et al. (1978) đã sử dụng Azospirillum chủng cho cây trồng để đánh giá khả
năng bổ sung nguồn đạm cho đất và cây trồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy chúng làm
tăng protein, tăng trọng lượng khô của hạt ngũ cốc và làm tăng năng suất. Azospirillum
là nhóm vi khuẩn có khả năng cố định đạm, tổng hợp IAA, hòa tan lân và các chất
khác. Nhiều nghiên cứu về vi khuẩn thuộc các chi Azospirillum trên đối tượng ngũ
cốc, cỏ (Patriquin et al., 1983) rau cải, cà chua (Bashan et al., 1989) cũng cho thấy
chúng làm tăng trọng lượng khô, tăng sự tích tụ N tổng số, tăng tỷ lệ nảy mầm hạt,
tăng chiều dài rễ,…
Trên cây bắp, các thí nghiệm trồng trong chậu của Egamberdiyeva (2007) cho
thấy hạt bắp được xử lý với hỗn hợp các chủng vi khuẩn Pseudomonas alcaligenes
PsA15, Bacillus polymyxa BcP26 và Mybacterium phlei MbP18 có các chức năng cố
định đạm, tổng hợp IAA và đối kháng nấm bệnh đã giúp cây bắp sinh trưởng tốt hơn,
kích thích rễ cây sinh trưởng tốt, tăng cường khả năng hấp thu nitơ, kali của rễ cây,
đồng thời lượng N, P, K trong đất tăng lên đáng kể. Cũng trên đối tượng cây bắp các
thí nghiệm khác tiến hành trên cả ở nhà lưới và ngoài đồng ruộng của Ferreira et al.
(2013) đã cho thấy khi xử lý hạt với dòng đơn vi khuẩn Azospirillum brasilense Ab-v5
có chức năng cố định đạm tổng hợp IAA làm gia tăng sinh trưởng của cây bắp trong
chậu khi chủng A. brasilense ở nồng độ 1011cell.mL-1. Trên đồng ruộng cho thấy sản
lượng hạt bắp đã tăng lên thêm 29% khi bón phân hóa học kết hợp chủng A. brasilense
so với nghiệm thức chỉ bón N.
Trên cây lúa mì, Díaz-Zorita and Fernández-Canigia (2009) đã báo cáo kết quả
nghiên cứu ứng dụng chủng A. brasilense INTA Az-39 có chức năng cố định đạm và
tổng hợp IAA tại 297 địa điểm thử nghiệm ở vùng Pampas của Argentina từ 2002 -
2006 cho thấy 70% các khu vực khảo nghiệm cho năng suất tăng thêm bình quân 8%
và sinh khối khô của của cây lúa mì tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó các nghiên cứu của
Gholami et al. (2009) cho thấy năng suất lúa mì tăng lên đến 30% cao hơn khi chủng
với vi khuẩn Azotobacter so với nghiệm thức đối chứng không chủng. Kết quả được
giải thích là do các chủng Azotobacter có thể ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt và sự
phát triển của cây con (Shaukat et al., 2006) và ngoài ra chúng có khả năng đồng hóa
tốt các loại đường đơn và đường đa, có khả năng tiết ra một số vitamin nhóm B như
B1, B6, …, một số acid hữu cơ như: acid nicotinic, pantotenic, biotin, auxin nâng cao tỷ
lệ nảy mầm và phát triển của mầm (Chu Thị Thơm và ctv., 2006). Tương tự năm 2010,
Hungria et al. đã tiến hành các nghiên cứu xử lý hạt giống lúa mì và bắp với các chủng
vi khuẩn có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA là Azospirillum brasilense Ab-v5
và A. brasilense Ab-v6 làm gia tăng năng suất lúa mì và bắp thêm tương ứng là 27%
và 31% so với năng suất ở nghiệm thức chỉ bón phân hóa học.
31
Một nghiên cứu khác trên cây đậu nành cho thấy khi xử lý hạt đậu nành với vi
khuẩn Bradyrhizobium japonicum (B. japonicum SEMIA 5079, B. japonicum SEMIA
5080), có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA đã làm tăng thêm 8,4% năng suất ở
điều kiện ngoài đồng. Trong khi xử lý hạt kết hợp tưới A. brasilense ở nồng độ 2,5x105
(A. brasilense Ab-v5 và A. brasilense Ab-v6) trên đồng ruộng làm năng suất tăng thêm
16,1% và chỉ xử lý hạt với hỗn hợp vi khuẩn đã làm năng suất tăng thêm 14,1% so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn (Hungria et al., 2013).
Trên cây lúa, Isawa et al. (2010) đã tiến hành nghiên cứu ở điều kiện nhà lưới và
ngoài đồng cho thấy khi sử dụng chủng Azospirillum sp. B510 có chức năng cố định
đạm và tổng hợp IAA làm tăng số nhánh và tăng năng suất hạt so với nghiệm thức
không chủng trong điều kiện ngoài đồng. Kết quả tương tự được ghi nhận trong kết
quả nghiên cứu của Bao et al., (2013).
Trên cây đậu xanh, khi xử lý từng chủng đơn lẻ hoặc kết hợp chủng 2 dòng vi
khuẩn Pseudomonas jessenii (hòa tan lân) và Mesorhizobium ciceri (cố định đạm) đều
cho thấy số nốt sần hình thành nhiều hơn, các nốt có khối lượng tươi lớn hơn trong khi
nếu chỉ dòng đơn P. jessenii kết quả đã không ảnh hưởng lên sự sinh trưởng của cây
đậu xanh. Năng suất hạt cây đậu xanh cao nhất khi tổ hợp cả 2 chủng vi khuẩn
(Valverde et al., 2006).
Trên cây mía, Govindarajan et al. (2006) đã thử nghiệm và cho thấy sinh khối
mía tăng 20% đối với nghiệm thức chỉ chủng vi khuẩn Burkholderia vietnamienis
MG43 so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Năm 2016, Rodrigues et
al. đã phân lập và tuyển chọn các dòng vi khuẩn vùng rễ và nội sinh trong cây mía có
chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA và đã tiến hành thử nghiệm cho thấy chúng
có khả năng làm tăng diện tích lá, khối lượng lá, thân cũng như chiều cao cây, khối
lượng khô của rễ và đã đề xuất 5 dòng có tiềm năng sản xuất phân bón vi sinh bao
gồm: Klebsiella sp. KFA 1.3; Klebsiella sp. KRC 2.2; Pantoea sp. KRZ5;
Enterobacter sp. KRZ6; và Enterobacter sp. KRZ23.
2.4.4.2 Trong nước
Ở Việt Nam, nghiên cứu sử dụng vi sinh vật trong nông nghiệp cũng sớm thu hút
được nhiều sự quan tâm. Phân vi sinh cố định đạm cộng sinh với rễ cây họ đậu đã
được nghiên cứu từ năm 1960, tuy nhiên, cho mãi đến năm 1987, phân Nitragin trên
nền chất mang than bùn mới được hoàn thiện. Năm 1991 đã có hơn 10 đơn vị trong
nước tập trung nghiên cứu phân vi sinh (Phạm Văn Toản, 2002). Trong những năm
gần đây, nhiều nghiên cứu theo hướng phân lập và tuyển chọn các dòng vi khuẩn hoặc
xạ khuẩn có các chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA và đồng thời đánh giá 2 khả
năng này của chúng ở điều kiện phòng thí nghiệm đã được thực hiện (Nguyễn Hữu
Hiệp và ctv. 2005; Nguyễn Hữu Hiệp và Hà Anh Đức, 2009; Nguyễn Hữu Hiệp và
Nguyễn Thị Mai Khanh, 2010; Nguyễn Thị Phương Oanh và ctv., 2013; Nguyễn Thị
Huỳnh Như và ctv., 2013; Nguyễn Thị Pha và ctv., 2014a; Nguyễn Thị Thu Hằng và
32
Nguyễn Thị Thủy, 2015; Trần Thị Xuân Phương và ctv., 2017; Nguyễn Khởi Nghĩa,
2017; Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp, 2018). Bên cạnh các nghiên cứu phân
lập tìm kiếm nguồn vi sinh vật cố định đạm, tổng hợp IAA, nhiều nghiên cứu khảo
nghiệm khả năng ứng dụng các vi sinh vật này ở nhà lưới hoặc trên đồng ruộng cũng
được tiến hành. Cao Ngọc Điệp và Bùi Thị Kiều Oanh (2006) đã sử dụng vi khuẩn
Pseudomonas spp. có khả năng cố định đạm, hòa tan lân tổng hợp IAA đã giúp cây
mía phát triển tốt trên vùng đất phèn của tỉnh Long An, tiết kiệm được 50% phân đạm
hóa học, không cần đến phân lân nhưng năng suất và lượng đường vẫn cao hơn so với
mía ở nghiệm thức chỉ bón phân hóa học theo khuyến cáo. Tương tự, trong nghiên cứu
đánh giá hiệu quả của vi khuẩn cố định đạm và hòa tan lân lên năng suất cây đậu
phộng trồng tại tỉnh Trà Vinh của Nguyễn Hữu Hiệp và Trần Thị Tuyết Linh (2009) đã
cho thấy trồng đậu phộng có chủng vi khuẩn cố định đạm và hòa tan lân giúp tiết kiệm
80 kg N và 80 kg P2O5 cho mỗi hecta.
Trần Văn Chiêu và Nguyễn Hữu Hiệp (2010a) đã tuyển chọn được 3 dòng vi
khuẩn Azospirillum lipoferum phân lập được từ rễ lúa, có khả năng tổng hợp IAA
trong môi trường không bổ sung tryptophan, những thử nghiệm trong điều kiện nhà
lưới cho thấy khi chủng các vi khuẩn này giúp tăng chiều dài rễ lúa và tăng số lượng rễ
phụ. Trong các thử nghiệm trên đồng ruộng tại Bạc Liêu cho thấy khi chủng vi khuẩn
Azospirillum lipoferum làm tăng số hạt chắc trên bông, có thể giảm được 50-75%
lượng đạm bón cho cây lúa mà năng suất vẫn tương đương với nghiệm thức bón 100N
(Trần Văn Chiêu và Nguyễn Hữu Hiệp, 2010b). Kết quả này tương tự các nghiên cứu
trong nhà lưới của Nguyễn Hữu Hiệp và ctv., (2012), cho thấy việc chủng dòng vi
khuẩn Azospirillum lipoferum R29B1và bón 50N giúp các chỉ tiêu về thành phần năng
suất tương đương với nghiệm thức chỉ bón 100N.
Trong các thí nghiệm ở nhà lưới và đồng ruộng tại Tiền Giang, Nguyễn Thị Ngọc
Trúc (2011) đã cho thấy khi sử dụng chế phẩm hỗn hợp các vi sinh vật cố định đạm và
tổng hợp IAA được phân lập và tuyển chọn tại đất trồng rau ở Tiền Giang giúp tăng
chiều dài rễ và chiều cao cây rau muống và rau mồng tơi, đồng thời giảm được 50%
lượng phân hóa học nhưng năng suất cao hơn so với thí nghiệm chỉ bón phân hóa học,
đồng thời cũng làm giảm lượng nitrate tồn dư trong rau. Lai Quốc Chí và ctv. (2012)
đã đánh giá khả năng cố định đạm của hỗn hợp ba dòng vi khuẩn cố định đạm
Rhizobium tropici, Bacillus subtilis và Rhizobium multihospitium trên hành lá (Allium
fistulosum sp.) và mồng tơi (Basella alba L.) cho thấy các dòng vi khuẩn này giúp cây
phát triển chiều cao, trọng lượng và năng suất. Trên cây lúa, Nguyễn Thị Pha và ctv.
(2014b) đã khảo sát ảnh hưởng của 2 dòng vi khuẩn cố định đạm ở điều kiện đồng
ruộng cho thấy khi chủng các dòng vi khuẩn PH27 tiết kiệm được 50% lượng phân
đạm nhưng vẫn cho năng suất lúa tương đương với bón đầy đủ 100% đạm không
chủng vi khuẩn.
Trong một đánh giá tổng hợp hiệu quả phân vi sinh gồm nhiều dòng vi khuẩn với
nhiều chức năng như cố định đạm, hòa tan lân, kali, tổng hợp IAA Cao Ngọc Điệp và
33
Ngô Thanh Phong (2016) cho thấy chúng có hiệu quả tốt trong việc làm gia tăng các
chỉ tiêu nông học, các chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất của nhiều đối tượng
cây trồng như mía, lúa, bắp, đậu, rau ăn lá, rau ăn quả, rau gia vị… tại nhiều tỉnh thành
thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đồng thời giảm được đáng kể lượng phân bón hóa
học sử dụng.
Nguyễn Khởi Nghĩa (2017) đã đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh có chứa
các vi sinh vật có khả năng chịu mặn với các chức năng cố định đạm, hòa tan lân và
tổng hợp IAA lên cây lúa trồng ở các vùng nhiễm mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long
cho thấy chế phẩm vi sinh này giúp kích thích sinh trưởng và làm tăng 13% năng suất
lúa so với công thức chỉ bón phân hóa học theo khuyến cáo đồng thời giảm được 20%
lượng phân hóa học.
2.5 Hệ vi sinh vật bản địa IMO
2.5.1 Lịch sử nghiên cứu
Thông thường các chế phẩm hoặc phân bón vi sinh thương mại dùng trong nông
nghiệp có mặt trên thị trường phải qua công đoạn phân lập, tuyển chọn vi sinh vật có
lợi cho cây trồng. Tuy nhiên, công đoạn phân lập và tuyển chọn tốn nhiều chi phí và
cần phải có phòng thí nghiệm, do vậy nông dân không thể tự sản xuất các chế phẩm vi
sinh ở quy mô nông hộ. Đây là yếu tố giới hạn làm hạn chế việc sử dụng các chế phẩm
vi sinh đặc biệt là vi sinh vật bản địa, có lợi trong nông dân. Tuy nhiên, việc tận dụng
các nguồn vi sinh vật bản địa có chức năng có lợi cho cây trồng vẫn còn hạn chế, cho
mãi đến năm 1965, Cho Han Kyu người Hàn Quốc đưa ra và đặt nền móng cho việc
nghiên cứu và ứng dụng hệ vi sinh vật bản địa (IMO-indigenous microoganism) đầu
tiên. Kết quả cho thấy việc thu thập và tận dụng nguồn vi sinh vật bản địa có sẵn trong
tự nhiên gồm vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, tuyến trùng, động vật nguyên sinh… để khai
thác tiềm năng ứng dụng của chúng nhằm giúp gia tăng phân hủy chất hữu cơ trong
đất, cải thiện năng suất cây trồng, giảm thiểu các vi sinh vật gây bệnh và tăng khả năng
phòng vệ của cây trồng (Kyu and Kyoyama, 1997).
Vi sinh vật bản địa là một nhóm các vi sinh vật tự nhiên sống trong đất và bề mặt
đất có khả năng phân hủy sinh học, cố định đạm, hòa tan lân và tổng hợp các chất tăng
trưởng thực vật, cải thiện khả năng phục hồi độ phì nhiêu đất… (Kalsom and Sariah,
2006). Theo Kyu and Koyama (1997), bằng cách thu thập và tận dụng nguồn vi sinh
vật bản địa IMO và sử dụng vào trong các nông trại tự nhiên ở Hàn Quốc (KNF-
Korean Natural Farming) giúp tăng lượng mùn, độ phì nhiêu đất để phục vụ sản xuất
nông nghiệp giúp tăng năng suất và sản lượng cây trồng mà không cần sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật và phân bón hoá học. Nông nghiệp tự nhiên đã tận dụng IMO để khai
thác tiềm năng ứng dụng của hệ vi sinh vật bản địa từ các hệ sinh thái khác nhau giúp
gia tăng phân hủy xác bã hữu cơ trong đất, cải thiện năng suất cây trồng, giảm thiểu
các vi sinh vật gây bệnh và tăng khả năng phòng vệ của cây (Kyu and Koyama 1997).
Việc sử dụng có hiệu quả vi sinh vật bản địa trong nông nghiệp có ý nghĩa thiết thực
34
trong việc cải thiện kinh tế và các lợi ích xã hội cũng như môi trường và đây là một
trong những phương pháp hiệu quả giúp bảo vệ môi trường sinh thái (Cai et al., 2013).
2.5.2 Vai trò và chức năng của IMO đối với cây trồng
Vi sinh vật bản địa IMO giúp gia tăng hàm lượng dinh dưỡng trong đất và làm
tăng năng suất cây trồng. Các nguồn chính của vi sinh vật bản địa là vi khuẩn, nấm và
xạ khuẩn với vai trò cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, làm tăng sức đề kháng với
mầm bệnh cũng như côn trùng và tăng cường khả năng chịu đựng của cây với các điều
kiện bất lợi về khí hậu và môi trường. Trong hệ sinh thái đất, enzyme do vi sinh vật
đất tiết ra cần thiết cho quá trình biến dưỡng của vi sinh vật, đồng thời gia tăng tốc độ
phân hủy chất hữu cơ, tham gia vào các chu trình dinh dưỡng cũng như sự hình thành
mùn và giúp gia tăng cấu trúc của đất. Vi sinh vật có vai trò chính trong tiến trình phân
hủy các độc chất hữu cơ thường xuyên được sử dụng trong nông nghiệp như thuốc bảo
vệ thực vật và các hoạt chất này ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổng hợp và phân huỷ
chất hữu cơ trong đất. Các enzyme trong đất có chức năng riêng biệt tham gia vào quá
trình trao đổi chất của đất (McLaren and Thornton, 1975).
Hệ vi sinh vật bản địa đã tiến hóa hàng ngàn năm để tồn tại và thích nghi với các
điều kiện môi trường sống của bản địa. Chúng có thể chịu đựng và sống sót ở các điều
kiện khí hậu và môi trường sống bất lợi của địa phương. Hơn nữa chúng có mối quan
hệ và sự sắp xếp vai trò, vị trí và nhiệm vụ giữa chúng, chúng sẽ thực hiện tốt chức
năng của mình một cách mạnh mẽ trong khi đó các vi sinh vật ngoại lai được nuôi
trong các điều kiện nhân tạo chưa thích nghi được điều kiện môi trường mới khắc
nghiệt chúng dễ dàng bị chết đi hoặc chỉ thể hiện chức năng của chúng trong thời gian
ngắn và hiệu lực thấp. Do đó, không có sự thay thế nào tốt hơn so với vi sinh vật bản
địa (Reddy, 2011). Theo Reddy (2011) IMO có rất nhiều ưu điểm và các ưu điểm này
có thể được liệt kê như sau:
- Bảo vệ sự tái sinh lâu dài của đất bằng cách duy trì hàm lượng chất hữu cơ, kích
thích hoạt động sinh học trong đất, và giúp gia tăng cấu trúc đất.
- Cung cấp dinh dưỡng gián tiếp cho cây trồng bằng cách sử dụng hòa tan các
nguồn dinh dưỡng bị cố định trong đất nhờ hoạt động của vi sinh vật trong đất.
- Cung cấp đạm cho đất và cây trồng thông qua việc cố định đạm sinh học và
phân hủy các vật liệu hữu cơ bao gồm xác thực vật và phân chuồng.
- Kiểm soát cỏ dại, bệnh tật và sâu bệnh hại cây trồng.
- Làm cho hệ thống canh tác tác động nhẹ nhàng và an toàn lên môi trường sinh
thái.
- Tác động lên các vật chất hữu cơ của đất cũng như tính chất vật lí, hóa học và
sinh học của đất, bên cạnh đó vi sinh vật bản địa còn duy trì hệ enzyme quan trọng
trong đất như: amylase, cellulase, phosphatase, protease, urease…
Theo Kyu (2003) IMO có thể được thu thập bằng nhiều cách khác nhau, trong đó
việc dùng gạo nấu chín đặt ở các ngọn đồi, núi, lá bị phân hủy, gốc tre…để mồi các vi
sinh vật bản địa chỉ mất 3-5 ngày tùy vào điều kiện nhiệt độ môi trường và thời tiết.
35
Có thể kết hợp IMO từ nhiều vị trí khác nhau. Việc nuôi cấy IMO có thể tiến hành liên
tục và bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên vào mùa mưa thì IMO thu được có
nhiều vi khuẩn hơn nấm. Có thể tóm tắt quy trình thu thập IMO tạo phân sinh học
trong canh tác nông nghiệp của Kyu theo sơ đồ thể hiện ở Hình 2.8.
Công nghệ IMO được ứng dụng trong các trang trại tự nhiên và kết quả quan sát
cho thấy có sự cải thiện đáng kể trong cấu trúc đất, sức khoẻ cây trồng. Nuôi trồng với
công nghệ IMO là một cách tiếp cận đặc biệt trong canh tác hữu cơ và nó đã được thực
hiện ở hơn 30 quốc gia ở quy mô nông hộ và quy mô thương mại (Reddy, 2011).
Hình 2.8 Các bước thu thập IMO từ môi trường đất (Reddy, 2011)
(1) Gạo nấu chín để nguội; (2) Giấy bao phủ hộp gỗ chứa cơm; (3) Đặt hộp vào đất và lấp bằng lá
mục xung quanh; (4) Sử dụng tấm cao su đậy bên trên vào mùa mưa; (5) Sau 3-5 ngày thu phần cơm
chứa mốc (IMO); (6) Trộn IMO với 1 lượng đường tương ứng; (7) Trộn đều, để nơi thoáng mát
(IMO); (8) Pha loãng 500 lần rồi trộn với cám gạo đến độ ẩm 50%-60% (IMO3)
2.5.3 Các nghiên cứu và ứng dụng IMO trong và ngoài nước
2.5.3.1 Nghiên cứu và ứng dụng IMO ở các nước
Tại Ấn Độ, Sumathi et al., (2012) đã nghiên cứu ảnh hưởng của IMO lên các đặc
tính lý, hóa và sinh học đất và các enzyme trong đất. Kết quả cho thấy khi sử dụng
IMO đã làm giảm pH của đất từ 7,2 xuống 6,8, trong khi EC đất tăng từ 0,36 lên 1,21
(µS/cm), khả năng giữ nước của đất tăng lên từ 0,36 thành 2,2 mL/g, các kết cấu và
thành phần hóa học đất như sét, lân, kali cũng tăng lên một cách đáng kể, đồng thời
hoạt động của enzyme protease và urease cũng tăng khi đất được xử lí với IMO. Khi
so sánh ảnh hưởng của IMO và phân bón hóa học lên sự tăng trưởng của lá mầm và
hàm lượng chlorophyll trong lá cây đậu bắp, đậu đũa và hạt kê, tác giả Sekhar and
Gopal (2013) đã cho thấy khi xử lí hạt với IMO giúp hạt nảy mầm sớm hơn và nhanh
hơn, đồng thời cây mầm khỏe hơn so với hạt được xử lí bằng phân hóa học và đối
chứng không xử lí với IMO. Hàm lượng chlorophyll cao nhất được xác định ở lá của
36
các cây được xử lí IMO, điều này cũng tương tự với năng suất. Các tác giả đã kết luận
rằng ở mức bón IMO với hàm lượng 50 mg/kg đất làm tăng sinh trưởng của cây/lá, hạt
nảy mầm sớm hơn, tăng năng suất hạt và tăng hàm lượng chlorophyll trong lá. Ngoài
ra tác giả còn ghi nhận số nốt sần ở rễ và kích thước rễ lớn nhất ở các cây được xử lí
với IMO.
Tại Hawai, khi áp dụng phương pháp Korea Natural Farming (KNF) trên cây đậu
nành, cây ngưu bản, cây hành tây và cây bí ngô, Koon-Hui et al. (2013) cho thấy IMO
đã cải thiện được sức khỏe và năng suất cây trồng trong đó hiệu quả tốt nhất là trên
cây đậu nành. Mặt dù cây bí ngô không có hiệu quả đáp ứng tốt khi chủng với IMO
như cây đậu nành nhưng việc chủng IMO giúp quả có màu xanh hơn. Ngoài ra, các chỉ
số về sức khỏe của đất ở lô thí nghiệm trồng đậu nành được cải thiện rất nhiều trong
khi ở các nghiệm thức còn lại chỉ số về chất lượng đất không được cải thiện, tuy nhiên,
nghiên cứu cũng cho thấy KNF không bảo vệ được cây bí ngô khỏi mầm bệnh và côn
trùng gây hại trong mùa mưa.
Tại Malaysia, Illani et al. (2012) đánh giá hiệu quả của việc sử dụng IMO kết
hợp nước lên men từ trái cây không bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng khác từ phân hóa
học trên 3 loại rau ăn lá cho thấy IMO và EM cho năng suất thấp hơn nghiệm thức bón
phân urê và phân compost đồng thời cũng không hiệu quả trong việc làm gia tăng hàm
lượng chất chống oxi hóa trong rau. Tuy nhiên các chế phẩm EM và IMO làm tăng
hàm lượng N tổng số, K và Mg trong đất.
Tại Philippines, Chiemela et al. (2013a) đã phân lập được 8 dòng vi khuẩn và 3
dòng nấm từ IMO thu ở rừng tre làm cơ sở cho các nghiên cứu tạo phân bón hữu cơ vi
sinh. Tác giả cũng cho thấy IMO có hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phân hủy nhanh
các chất thải nông nghiệp và xác thực vật tạo ra hàm lượng lớn các nguyên tố đa
lượng, vi lượng ở dạng dễ hòa tan do đó có thể sử dụng trong sản xuất phân hữu cơ
(Chiemela et al., 2013b).
Ở Cameroon, Fotso et al. (2013) cho thấy IMO có hiệu quả trong việc cải thiện
năng suất khoai môn Colocassia esculenta và cải tạo sức khỏe của đất, nhưng không
hiệu quả trong việc kiểm soát bệnh hại.
Gần đây, một nghiên cứu khác ở Hawaii đã nghiên cứu sử dụng IMO để đánh giá
chức năng kiểm soát bệnh chết nhanh cho các cây Ohia do nhiễm loài nấm gây bệnh
Ceratocystis. Kết quả cho thấy những cây chết có thể hồi phục và sống lại, các nhà
khoa học còn có kế hoạch giải cứu các khu rừng cây Ohia đang bị nhiễm loài nấm gây
bệnh này bằng cách sử dụng IMO (Board of Land and Natural Resources State of
Hawaii, 2018).
Theo Reddy (2011) những lợi ích của IMO trong nông nghiệp tự nhiên được
người Nhật áp dụng từ lâu và đến nay đã có nhiều nước áp dụng như Mỹ, Ấn Độ,
Mông Cổ, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Congo, Tanzania, Philippines, Việt
Nam,… Ngoài lĩnh vực nông trại nông nghiệp tự nhiên (Natural Farming) IMO còn
được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác như: phân bón sinh học (Bio-fertilizer); phân
37
ủ compost sinh học (Bio-composting); xử lí ô nhiễm đất với độc chất hữu cơ (Bio-
remediation); phân hủy sinh học (Bio-degradation) và mỗi lĩnh vực đều đem lại hiệu
quả rất tốt (Kumar and Gopal, 2015). Ngoài ra trước đó IMO còn được sử dụng để
phân hủy plastic (Victorio et al., 1996) và paraffins phân tử lớn trong nước thải dầu
của các động cơ xe (Daisuke et al., 2001).
2.5.3.2 Nghiên cứu và ứng dụng IMO ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu sử dụng vi sinh vật trong nông nghiệp cũng sớm thu hút
được nhiều sự quan tâm, tuy nhiên đa số các tác giả nghiên cứu theo hướng phân lập
tuyển chọn các dòng vi khuẩn hoặc nấm hoặc xạ khuẩn có đơn hoặc đa chức năng cố
định đạm, hòa tan lân, phân hủy cellulose, tiết IAA... (Phạm Thị Ngọc Lan và Lý Kim
Bảng, 2004; Hà Thanh Toàn và ctv., 2008; Phạm Thị Ngọc Lan Và Trần Thị Thanh
Nhàn, 2008; Võ Văn Phước Quệ và Cao Ngọc Điệp, 2011; Lai Quốc Chí và ctv., 2012;
Võ Thị Ngọc Cẩm và ctv., 2015) mà có rất ít có công trình nghiên cứu ứng dụng cộng
đồng vi sinh vật.
Công trình nghiên cứu ứng dụng IMO đầu tiên được thực hiện chăm sóc cây Cà
phê ở Đắk Lak của tác giả Phạm Chí Thành và Y Ka Nin H’ Dok (2002). Trong
nghiên cứu này các tác giả đã chỉ ra rằng bón phân vi sinh vật bản địa IMO giúp cải
thiện độ phì nhiêu, đặc tính lý, hóa của đất tương đương với nghiệm thức bón phân
chuồng. Ngoài ra, IMO có tác dụng cải thiện quần thể vi sinh vật trong đất, tăng số
lượng vi sinh vật và nấm hữu ích lên một cách đáng kể so với bón phân chuồng. Bên
cạnh đó IMO giúp cây cà phê sinh trưởng, phát triển tốt, tăng tốc độ ra cành, giảm tỷ
lệ rụng trái và cho năng suất cao, giảm được lượng phân khoáng hóa học nên thu được
lợi nhuận cao cho nông dân. Sau đó năm 2009, Pham Tien Dung và Y Ka Nin H’ Dok
đã nghiên cứu sử dụng IMO trong sản xuất cà phê an toàn ở Đắk Lak. Kết quả cho
thấy bên cạnh việc cải thiện đặc tính lý, hóa sinh học của đất, khi sử dụng IMO có thể
giảm 75% phân bón hóa học trên cây cà phê nhưng vẫn cho năng suất hạt và năng suất
trái tương đương với nghiệm thức bón 100% phân hóa học kết hợp với phân chuồng.
Điều này mở ra hướng mới cho sản xuất cà phê theo hướng an toàn của vùng Tây
Nguyên.
Như vậy, có thể thấy rằng việc tận dụng nguồn vi sinh vật bản địa IMO trong sản
xuất nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích cho cả con người, sinh vật và môi trường, tuy
nhiên ở nước ta cũng như các nước khác nguồn IMO ít được nghiên cứu và ứng dụng
đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Do IMO chỉ là số ít trong vô số vi sinh
vật thu được trong tự nhiên nên thành phần, bản chất, chức năng đối với đất, cây trồng
và môi trường sinh thái… chưa có nhiều nghiên cứu và cần được làm sáng tỏ. Vì vậy
nghiên cứu thành phần, chức năng của IMO là cần thiết để có thể ứng dụng vi sinh vật
bản địa vào sản xuất một cách hiệu quả và an toàn.
38
2.6 Đa dạng vi sinh vật
2.6.1 Khái niệm đa dạng vi sinh vật và vai trò đa dạng vi sinh vật trong đất
Thuật ngữ đa dạng sinh học đã được xác định theo nhiều cách khác nhau
(Garbeva et al., 2004). Theo Harpole (2010) đa dạng sinh học bao gồm đa dạng sinh
học ở cả 3 mức độ: đa dạng sinh học trong thành phần loài, đa dạng về số lượng loài
và sự đa dạng sinh thái của cộng đồng sinh vật. Thuật ngữ đa dạng thành phần loài bao
gồm 2 phần: phần thứ nhất bao gồm tổng số loài hay còn gọi là sự phong phú loài và
phần thứ hai là sự phân bố cá thể trong số các loài còn được gọi là tính đồng đều hoặc
là tính không ổn định. Tính đồng đều không được biết đến trong các cộng đồng vi
khuẩn bởi vì các tế bào riêng lẻ hiếm khi được xác định ở cấp độ loài (Fakruddin and
Mannan, 2013). Đối với vi sinh vật, đa dạng vi sinh vật mô tả số lượng các loài và sự
phong phú tương đối của chúng trong cộng đồng ở một môi trường sống nhất định.
Trong sinh học phân tử, nó có thể được định nghĩa là số lượng, thành phần và trật tự
sắp xếp khác nhau của các nucleotic trong ADN của các loài được trích từ cộng đồng
trong môi trường (Garbeva et al., 2004).
Mức độ đa dạng của vi sinh vật trong đất được xem là quan trọng đối với việc
duy trì sức khỏe và chất lượng của đất vì vi sinh vật đất tham gia nhiều chức năng
quan trọng của đất như: hình thành cấu trúc đất, phân hủy chất hữu cơ, loại bỏ độc tố,
tham gia vào các chu trình carbon, nitơ, lân và lưu huỳnh, ức chế mầm bệnh hại cây
trồng trong đất và thay đổi thảm thực vật trên mặt đất (Melaliani et al., 2012; Elsas
and Treevors, 1997; Doran et al., 1996). Hiện nay có sự quan tâm rõ rệt về sự đa dạng
của các cộng đồng vi sinh vật có chức năng sinh thái và có khả năng phục hồi các hệ
sinh thái đất. Trong đất, mối quan hệ giữa mức độ đa dạng vi sinh vật trong đất với
chất lượng của đất và chất lượng cây trồng cũng như tính bền vững của hệ sinh thái đất
luôn được quan tâm (Abawi and Widmer, 2000). Bởi vì sự đa dạng các loài vi sinh vật
trong cộng đồng vi sinh vật đất có liên quan tới mức độ ổn định của cộng đồng, đa
dạng chức năng và giúp gia tăng khả năng chống chịu của đất trước các yếu tố bất lợi
của môi trường hoặc các yếu tố khác tác động vào trong đất, giúp dự đoán tốt hơn về
chức năng của hệ sinh thái đất, lựa chọn giống cây trồng phù hợp cho từng loại đất
cũng như lựa chọn các giải pháp cải tạo đất phù hợp (Fakruddin and Mannan, 2013).
Mặc dù các nhà vi sinh học đã nghiên cứu tác động của sự đa dạng của vi sinh
vật đất đến tính ổn định của chức năng hệ sinh thái đất từ những năm 1960 (Hairston
et al., 1968), tuy nhiên hiểu biết của con người về đa dạng của vi sinh vật trong đất
còn bị giới hạn do những hạn chế về phân loại vi sinh vật và các phương pháp liên
quan đến việc nghiên cứu vi sinh vật trong đất (Kirk et al., 2004). Trước khi hiểu biết
rõ hơn về sự đa dạng vi sinh vật đất và những thay đổi trong cấu trúc cộng đồng vi
sinh vật, rất cần có các phương pháp tin cậy và chính xác để nghiên cứu vi sinh vật
đất, đặc biệt là các phương pháp nghiên cứu đa dạng vi sinh vật đất (Kirk et al., 2004).
39
2.6.2. Phương pháp đánh giá đa dạng vi sinh vật
Trong những thập kỷ qua các phương pháp sử dụng để xác định đa dạng của
cộng đồng vi sinh vật trong đất luôn thay đổi từ phương pháp phân lập và nuôi cấy đến
phương pháp nuôi cấy tổng thể cộng đồng vi sinh vật mẫu. Bên cạnh đó, những tiến bộ
trong hóa học và sinh học phân tử đã mang lại các phương pháp đầy hứa hẹn trong
việc ước lượng, đánh giá sự đa dạng vi sinh vật mà không cần phải nuôi cấy, phân lập
vi sinh vật (Giovannoni et al., 1990). Các phương pháp để đánh giá sự đa dạng vi sinh
vật trong đất có thể được phân loại thành hai nhóm như sau: nhóm các phương pháp
sinh lý - sinh hóa và nhóm các phương pháp sinh học phân tử mà trước hết phải kể đến
phương pháp truyền thống nhất để đánh giá sự đa dạng của vi sinh vật là nuôi cấy và
phân lập vi sinh vật (Fakruddin and Mannan, 2013).
2.6.2.1 Phương pháp truyền thống trong đánh giá đa dạng vi sinh vật
Phương pháp truyền thống là phương pháp tách riêng vi sinh vật từ mẫu hoặc
quần thể vi sinh vật ban đầu để thu ở dạng dòng thuần. Phần lớn các phương pháp
phân lập vi sinh vật đều dựa trên các kỹ thuật pha loãng và gồm các bước chính gồm:
chuẩn bị mẫu, tăng sinh mẫu, pha loãng mẫu, nuôi cấy mẫu lên môi trường đặc trưng,
nuôi ủ trong điều kiện thích hợp, kiểm tra và nhận dạng khuẩn lạc đặc trưng, chọn
khuẩn lạc đặc trưng để tạo dòng thuần và kiểm tra dòng thuần (Nguyễn Đức Lượng và
ctv., 2003). Trong phương pháp này, có thể kiểm tra số lượng vi sinh vật bằng các
phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo Nguyễn Đức Lượng và ctv. (2003) xác
định số lượng vi sinh vật trực tiếp bằng buồng đếm hồng cầu được áp dụng cho tế bào
vi sinh vật kích thước lớn như nấm men, nấm mốc và bào tử nấm. Đối với tế bào vi
khuẩn và xạ khuẩn có kích thước nhỏ phải sử dụng buồng đếm Petroff-Hause. Ngoài
ra, có thể xác định gián tiếp số lượng tế bào bằng cách đếm số lượng khuẩn lạc phát
triển trên môi trường thạch hoặc bằng phương pháp đo mật độ quang. Khi nghiên cứu
hình thái vi sinh vật, phần lớn các vi sinh vật không thể quan sát bằng mắt thường mà
phải nhờ đến độ phóng đại của kính hiển vi. Sử dụng kính hiển vi và làm tiêu bản tạm
thời để nghiên cứu đặc tính hình thái, sinh lí của vi sinh vật như hình dáng, kích thước,
sự di động, hình thành bào tử, sinh sản, nhuộm gram… trên môi trường chuyên biệt
(Nguyễn Đức Lượng và ctv., 2003).
Phương pháp nuôi cấy và phân lập vi sinh vật có ưu điểm là cho kết quả nhanh
chóng, dễ thực hiện và ít tốn kém, chính vì vậy mà phương pháp này được sử dụng
phổ biến để nghiên cứu quần xã vi sinh vật. Tuy nhiên, việc phân loại và nghiên cứu
đa dạng vi sinh vật dựa trên nuôi cấy và phân lập còn nhiều hạn chế vì các vi sinh vật
có kích thước nhỏ bé, dẫn đến sự khó khăn trong phân biệt hình thái của chúng; và vì
số lượng vi sinh vật nuôi cấy được là rất thấp, chỉ có khoảng 1% trong tổng số vi sinh
vật có trong đất (Amann et al., 1995, Muyzer, 1999) hoặc không quá 5% tổng số vi
sinh vật có trong đất (Borneman and Triplett, 1997). Hơn nữa, phương pháp này chỉ
phù hợp đối với các vi sinh vật có tốc độ tăng trưởng nhanh và nấm tạo bào tử. Vì thế
40
khi nghiên cứu phải nắm được đối tượng vi sinh vật để lựa chọn môi trường và phương
pháp cho phù hợp (vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm men, nấm sợi,… (Nguyễn Đức Lượng và
ctv., 2003).
2.6.2.2 Phương pháp sinh học phân tử trong đánh giá đa dạng vi sinh vật
Các phương pháp truyền thống dùng để mô tả đặc điểm của quần thể vi sinh vật
đất được dựa trên phương pháp phân tích thành phần vi sinh vật có thể nuôi cấy được.
Do đó, không thể giải quyết được trong trường hợp nghiên cứu về quần thể vi sinh vật
trong tự nhiên và cấu trúc tổng thể của cộng đồng vi sinh vật (Dokić et al., 2010). Các
nghiên cứu gần đây đã mô tả tính đa dạng của vi sinh vật dựa vào sự đa dạng di truyền
phân tử.
Nghiên cứu loài vi sinh vật bằng sinh học phân tử là một cơ sở tham chiếu nhằm
mô tả sự đa dạng vi sinh vật dựa theo trình tự của các gen có thể được sử dụng để xác
định và định danh vi sinh vật (Amann et al.,1995). Một số phương pháp phân tử đã
được phát triển để nghiên cứu sự đa dạng vi sinh vật bao gồm lai ADN-ADN và lai
mARN-ADN, nhân bản và giải trình tự ADN và các phương pháp dựa trên PCR khác
như denaturing gradient gel electrophoresis (DGGE), temperature gradient gel
electrophoresis (TGGE), phân tích Spacer Ribosomal Spacer (RISA) và phân tích tự
động spaceric spaceric space (ARISA)…(Fakruddin and Mannan, 2013).
2.6.2.3 Phương pháp phân tích đa dạng vi sinh vật dựa vào giải trình tự acid nucleic
đoạn gen mã hóa 16S-rRNA
Nghiên cứu so sánh các gen mã hóa ARN ribosom (rRNA) ở vi sinh vật nhân sơ
được xem là một công cụ để hỗ trợ phân loại và xác định mối quan hệ di truyền giữa
các chủng vi khuẩn được nhiều lựa chọn nghiên cứu hiện nay. Chuỗi trình tự 16S được
sử dụng như là một công cụ mạnh mẽ để đánh giá sự đa dạng di truyền của các vi
khuẩn ở các mẫu môi trường (Barker et al., 2003). Phương pháp này cơ bản gồm các
khâu: (1) Trích ADN tổng số của vi sinh vật; (2) Khuếch đại trình tự đoạn gen mã hóa
16S-rRNA bằng phản ứng PCR (polymerase chain reaction) với các mồi chuyên biệt
cho từng nhóm vi sinh vật (vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn) và kích thước trình tự cần
khuếch đại. (3) Kiểm tra kết quả PCR bằng điện di trên gel agarose. Điện di là kỹ thuật
bao gồm sự tách các phân tử dựa trên điện tích, kích thước và hình dạng của chúng.
Trong trường hợp này kích thước của đoạn ADN sẽ quyết định nồng độ agarose phù
hợp. So sánh kích thước sản phẩm PCR với thang chuẩn để nhận diện dòng vi khuẩn
(Khuất Hữu Khanh, 2006). (4)Tinh sạch và giải trình tự gen. Để có được độ chính xác
cao, sản phẩm PCR trước khi đem giải trình tự cần phải được tinh sạch sau đó mới tiến
hành giải trình tự. Có thể giải trình tự bằng phương pháp hóa học hoặc, phương pháp
dideoxy có đánh dấu phóng xạ hoặc phương pháp giải trình tự gen tự động. Trong đó
giải trình tự gen bằng máy giải trình tự bằng máy tự động là được chọn phổ biến bởi
tính tiện lợi của nó (Khuất Hữu Khanh, 2006). (5) Sử dụng các phần mềm phân tích
sau khi giải trình tự để phân tích kết quả.
41
Trong những năm gần đây lượng thông tin liên quan đến ADN được xác định ở
các loài sinh vật khác nhau đã được quản lí dưới dạng ngân hàng dữ liệu mà lớn nhất
là ở Châu Âu (EMBL) và ở Mỹ (NCBI). BLAST là chương trình cho phép nhà nghiên
cứu tìm kiếm ADN hoặc Protein quan tâm có tương cận với đoạn ADN hoặc Protein
của VSV nào trong ngân hàng gen hay không. Trong đó BLAST N cho phép ta so sánh
cấu trúc chuỗi nucleotide với cấu trúc nucleotide trong ngân hàng dữ liệu (Ken, 2002).
2.6.2.4 Phương pháp điện di theo gradient biến tính (DGGE) và (TGGE)
Trong những năm gần đây các phương pháp sinh học phân tử dựa trên phân tích
các acid nucleic được chiết tách từ những mẫu trong môi trường được lựa chọn và áp
dụng rộng rãi. So với việc nhân dòng và giải trình tự thì các kỹ thuật này nhanh hơn, ít
tốn công sức, thời gian, chi phí thấp nếu nhiều mẫu được phân tích cùng lúc, trong đó
có kỹ thuật phản ứng PCR kết hợp điện di có các yếu tố biến tính như chất biến tính
(DGGE-denaturant gradient gel electrophoresis) và nhiệt biến tính (TGGE-temperature
gradient gel electrophoresis) (Valášková and Baldrian, 2009). Trong điện di gel
gradient (DGGE) hoặc điện di gradient nhiệt độ (TGGE) các đoạn ADN có cùng độ
dài nhưng với thành phần chuỗi khác nhau có thể được tách ra. ADN được chiết xuất
từ các mẫu trong môi trường và khuếch đại sử dụng mồi phổ quát cho PCR nhắm vào
một phần của chuỗi 16S hoặc 18S rRNA. Sự thay đổi trình tự trong các đoạn khác
nhau sẽ di chuyển và định vị ở các vị trí khác nhau trong gel theo nồng độ của chất
biến tính (Muyzer et al., 1996) (Hình 2.9).
Trích ADN mẫu
Vi sinh vật trong
mẫu Khuếch đại bằng mồi
có gắn kẹp GC
Điện di theo gradient chất biến tính
Mỗi giếng là một hệ vi sinh vật
Vi sinh vật chung giữa
các hệ
Nồng độ chất
biến tính tăng
dần
Những vi sinh
vật riêng của hệ
Hình 2.9 Các bước thực hiện phân tích đa dạng hệ vi sinh vật trong DGGE
42
Kỹ thuật PCR cho phép khuếch đại đoạn gen mong muốn từ những cộng đồng vi
sinh vật có mật độ tế bào thấp hoặc phát hiện cả những loài vi sinh vật khó hoặc không
thể nuôi cấy được trong điều kiện in vitro (Boon et al., 2002).
DGGE là kỹ thuật sinh học phân tử được công bố lần đầu tiên bởi Fischer and
Lerman vào 1983. Phương pháp này dựa trên sự thay đổi và biến đổi về thành phần và
trật tự nucleotide trong cấu trúc mạch ADN. Các đoạn ADN giống nhau hoặc khác
nhau về kích thước nhưng khác nhau về các biến thể của trình tự (tức là sự khác nhau
về hàm lượng GC và sự phân bố) sẽ được phân tách trong sự biến tính của gradient
trong gel. Sự phân tách này dựa trên sự giảm tốc độ di chuyển của các sợi ADN đôi có
thành phần khác nhau, bị biến tính trong gel polyacrylamide với nồng độ chất biến tính
tăng dần (chất biến tính là hỗn hợp urea và formamide), qua đó chúng sẽ dừng lại tại
các điểm khác nhau trên gel. Nhằm tăng độ đặc hiệu quá trình phân tách các đoạn
ADN có trình tự khác nhau và hạn chế sự biến tính hoàn toàn ADN, đầu cuối 5’ của 1
đoạn ADN mồi được thêm vào trình tự giàu guanine và cytonine (kẹp GC) thông qua
một mồi trong phản ứng PCR, thông thường các kẹp GC có độ dài từ 30-50 nucleotide.
DGGE đã được sử dụng trong phân tích quần xã vi sinh vật, hoặc chỉ dẫn sự thay đổi
của quần thể vi sinh vật, hoặc phát hiện các trình tự ADN không tương đồng (Muyzer
et al, 1993; Muyzer, 1999; Muyzer and Smalla, 1998; Valášková and Baldrian, 2009).
Về mặt lý thuyết, các trình tự ADN có sự khác biệt chỉ trong một cặp base có thể
được phân tách bởi DGGE (Miller et al., 1999). Do đó, DGGE tỏ ra đặc biệt hiệu quả
khi sử dụng để phân tích so sánh trình tự gen 16S-rRNA của vi khuẩn. Trình tự 16S-
rRNA được sử dụng rộng rãi trong phân loại vi khuẩn. Vùng 16S-rRNA có 9 vùng
biến động (ký hiệu từ V1-V9) đã được chứng minh là có mức độ đa dạng trình tự cao
giữa các vi khuẩn khác nhau và có thể sử dụng cho phân loại các loài. Ví dụ, vùng V2
và V3 có kích thước khoảng 200 bp có khả năng phân biệt được 110 loại vi khuẩn
khác nhau tới mức độ chi. Tuy nhiên, các vùng này thường ngắn và không thể sử dụng
duy nhất một vùng biến động để phân biệt được tất cả các loại vi khuẩn (Muyzer,
1999; Chakravorty et al., 2007).
Thông thường vi khuẩn và xạ khuẩn có trình tự vùng V3-V8 được khuếch đại với
các cặp mồi chuyên dụng cho PCR-DGGE như cặp mồi 341F-GC/U758 khuếch đại
vùng V3–V4 (Phillips et al., 2008), cặp mồi 341F/907-GC khuếch đại vùng V4–V5
(Muyzer et al., 2004), cặp mồi 968F-GC/1378R khuếch đại vùng V6–V8 (Kozdrój and
Elsas, 2001), cặp mồi F984-GC/1378R khuếch đại vùng V6–V8 (Gelsomino et al.,
2006),… Đối với nấm có thể dựa vào các vùng trình tự gen 18S-rRNA, 28S-rRNA và
các vùng ITS (Valášková and Baldrian, 2009). Tuy nhiên khi so sánh giữa vùng 18S
rRNA và ITS bằng các cặp mồi chuyên dụng cho PCR_DGGE Liu et al. (2015) đã chỉ
ra rằng việc sử dụng mồi ITS1F-GC/ITS2R giúp đánh giá hiệu quả hơn các cặp mồi
NS1/GCFung và cặp mồi FF390/FR1-GC trên vùng 18S rRNA của cộng đồng nấm
trong cùng mẫu đất. Có nhiều nghiên cứu đã áp dụng cặp mồi ITS1F-GC/ITS2 để
khuếch đại và đánh giá vùng ITS (Bougoure and Cairney, 2005; Dung et al., 2016;
43
Xu-Cong et al., 2017), cặp mồi ITS1/ITS2-GC (Yao et al. (2006), cặp mồi ITS3/ITS4-
GC (Arenz et al., 2006), cặp mồi ITS1F/ITS4 nested ITS1F-GC/ITS2 (Anderson et al.,
2003) và cặp mồi ITS1/ITS4A nested ITS1/ITS2-GC (Larena et al., 1999; Yao et al.,
2006).
TGGE sử dụng nguyên tắc tương tự như DGGE nhưng trong phương pháp này
gradient là nhiệt độ thay cho hóa chất biến tính. Ưu điểm của DGGE/TGGE bao gồm
độ tin cậy cao, chính xác cao, ít tốn thời gian và chi phí thấp. Vì nhiều mẫu có thể
được phân tích đồng thời cùng một lúc và có thể theo dõi những thay đổi trong quần
thể vi sinh vật để đáp ứng với các điều kiện môi trường (Muyzer, 1999). Hạn chế của
DGGE/TGGE là bị ảnh hưởng bởi phản ứng PCR (Wintzingerode et al., 1997), cần rất
nhiều thời gian cho việc xử lý mẫu (Muyzer, 1999) và phụ thuộc vào hiệu quả trích
ADN (Theron and Cloete, 2000). Ước tính DGGE chỉ có thể phát hiện 1–2% mật số vi
khuẩn đại diện cho các loài ưu thế có trong mẫu môi trường (Mac-Naughton et al.,
1999). Ngoài ra, các đoạn ADN có các trình tự khác nhau có thể có các đặc tính di
động tương tự trong gel polyacrylamide. Do đó, một band trên gel có thể không đại
diện cho một loài (Gelsomino et al., 1999) và một loài vi khuẩn cũng có thể có nhiều
band vì trình tự 16S-rRNA có thể khác nhau giữa các cá thể (Niemi et al., 2001).
44
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG TIỆN PHƢƠNG PHÁP
3.1 Phƣơng tiện nghiên cứu
3.1.1 Thời gian và địa điểm
Đề tài được thực hiện từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 8 năm 2020 tại các Phòng
thí nghiệm Vi sinh vật Đất, Hoá học Đất, và nhà lưới thuộc Bộ môn Khoa học Đất,
Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. Các thí nghiệm đồng ruộng được thực
hiện tại ấp Trường An, xã Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.
3.1.2 Vật liệu nghiên cứu
Gạo IR50404 5% tấm, đường mía để thu thập và lên men các hệ vi sinh vật bản
địa (IMO). Các hệ vi sinh vật bản địa được thu thập từ đất trồng tre, đất ruộng lúa, đất
trồng rau xen canh, đất trồng rau muống, mồng tơi, xà lách, ớt, hành tím, dưa hấu, ngò
gai, củ lùn, bắp đất trồng màu luân canh, đất trồng bưởi, cam, ổi, mía và đất đồng
cỏ,… ở các huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Hạt rau muống được sử dụng trong thí nghiệm là hạt rau muống lá tre do công ty
Trang Nông sản xuất có độ tinh sạch >97% và tỷ lệ nảy mầm >70%, thời gian thu
hoạch 25-30 ngày. Hạt cải xanh được chọn trong thí nghiệm là hạt cải xanh mỡ do
công ty Trang Nông sản xuất có độ tinh sạch >98% và tỷ lệ nảy mầm >80%, thời gian
thu hoạch là 30-35 ngày.
3.1.3 Dụng cụ, thiết bị và hoá chất
3.1.3.1 Dụng cụ
Rổ nhựa vuông (kích thước 25x15x8 cm), vải mùng, giá đào đất, dây cột, keo
thủy tinh (loại 10 kg), chai thuỷ tinh 1 L, chai thuỷ tinh 250 mL cốc thủy tinh, ống
đong, bình định mức, micropipette ở các thể tích khác nhau, ống nghiệm, đĩa Petri, đèn
cồn, đũa thủy tinh, Eppendorf, các loại đầu pipette…
3.1.3.2 Thiết bị
Thiết bị sử dụng cho đề tài gồm: tủ cấy vô trùng (ESCO, Hoa Kỳ), nồi khử trùng
nhiệt ướt (Hirayama, Hoa kỳ), tủ sấy (Memmer, Đức), tủ ủ (Memmer, Đức), cân điện
tử (Mettle Toler, Thụy Sĩ), kính hiển vi (Olympus, Nhật Bản), tủ lạnh (Sharp, Nhật
Bản), máy đo quang phổ (Thermo Scientific Multiskan Spectrum, Hoa Kỳ), máy ly
tâm (Mikro 220R, Đức), máy lắc (GFL 3017 và GFL 3018, Thụy Sĩ), máy PCR
(Perkin Elmer 9700, Hoa Kỳ), bộ điện di đứng Dcode (BIORAD, Hoa Kỳ) máy chụp
hình gel (BIORAD UV 2000, Hoa Kỳ), máy đo quang phổ hấp thu nguyên tử iCE
3500 (Thermo Scientific, Hoa Kỳ)...
45
3.1.3.3 Hoá chất
-) trong rau được trình bày ở Phụ lục 3.
Bộ kit PowerSoil® trích ADN (MOBIO Laboratories, Inc). Các hóa chất sử dụng
trong đề tài nghiên cứu được trình bày ở Phụ lục 1. Các loại môi trường dùng trong
nuôi cấy vi sinh vật bao gồm môi trường Burks khuyết đạm dùng để nuôi cấy vi sinh
vật cố định đạm, môi trường NBRIP nuôi cấy vi sinh vật hoà tan lân, môi trường TSA
nuôi cấy vi khuẩn, môi trường PDA nuôi cấy nấm, môi trường Starch nuôi cấy xạ
khuẩn, môi trường SS agar nuôi cấy Salmonella và Shigella, môi trường LSB nuôi cấy
Coliform, môi trường EC broth nuôi cấy E. coli, thành phần các môi trường nuôi cấy
được trình bày ở Phụ lục 2. Các dung dịch đệm buffer phosphate, dung dịch vô cơ
mẫu, dung dịch xúc tác vô cơ, thuốc thử acid ascorbic ammonium molybdate, thuốc
thử nitroprusside, thuốc thử phenol-nitroprusside, thuốc thử Salkowski, dung dịch hiện
màu nitrate (NO3
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung và phương pháp nghiên cứu của luận án được tóm tắt theo sơ đồ được trình
bày ở Hình 3.1 với tổng cộng có 6 nội dung nghiên cứu.
Hình 3.1 Sơ đồ tóm tắt các nội dung nghiên cứu của luận án
46
3.2.1 Nội dung 1: Khảo sát sự đa dạng các nhóm vi sinh vật trong hệ IMO thu thập
Mục tiêu: nhằm khảo sát mức độ đa dạng về nhóm vi sinh vật gồm nấm, vi
khuẩn và xạ khuẩn, đồng thời kiểm tra sự hiện diện của một số vi khuẩn gây bệnh như
Coliform, E. coli, Salmonella, Shigella trong các hệ IMO thu thập từ các hệ thống canh
tác cây trồng như: ruộng lúa, rau màu, vườn cây ăn trái, đồng cỏ, bụi tre,…
3.2.1.1 Thu thập nguồn vi sinh vật bản địa IMO
. Việc thu thập các hệ vi sinh vật bản địa IMO được thực hiện theo phương pháp
của Kyu and Koyama (1997) (Hình 3.2) và được tóm tắt như sau: Gạo nấu chín để
nguội, cân 1.0 kg cho vào rổ nhựa vuông. Dùng vải mùng và dây buộc để bao xung
quanh bên ngoài rổ chứa cơm tránh côn trùng chui vào. Dùng leng hay xẻng đào hố
đất với chiều sâu 20-30 cm, chiều dài và chiều rộng tương ứng với kích thước của rổ.
Đặt rổ vào trong hố đất, phủ lên trên rổ cơm bằng xác lá cây hoặc đất hiện diện tại vị
trí đặt mẫu. Sau 3-4 ngày ủ, vi sinh vật phát triển khắp bề mặt cơm, tiến hành thu rổ
cơm có chứa vi sinh vật xâm nhiễm cho vào bình thủy tinh có nắp đậy và trộn đều mẫu
cơm xâm nhiễm vừa thu thập. Mẫu IMO hỗn hợp được tạo ra bằng cách cân khối
lượng bằng nhau (200 g) của tất cả các IMO vừa thu thập được trộn đều cho vào bình
thuỷ tinh và trộn đều lại với nhau. Sau đó, cho đường mía (đã đun sôi để nguội) vào
trong từng keo thủy tinh chứa mẫu IMO với tỷ lệ 1:1 (w/w) và trộn đều cho đến khi
hỗn hợp chuyển thành dạng sánh đặc và đồng nhất. Đậy nắp kín và để yên ở nơi
thoáng mát, tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu vào trong 1 tuần để lên men vi sinh
vật chứa trong mẫu cơm vừa thu thập.
Hình 3.2 Tóm tắt quy trình thu mẫu IMO
Việc thu các hệ vi sinh vật bản địa IMO trong nghiên cứu này được thực hiện ở
19 mô hình cây trồng khác nhau ở các huyện trong tỉnh Sóc Trăng. Địa điểm thu mẫu
được trình bày ở Bảng 3.1. Thu 5 điểm khác nhau ở mỗi vị trí thu mẫu cho mỗi mô
hình cây trồng. Đối với điểm thu mẫu là ruộng trồng lúa, ruộng rau, hành tím, ngò, củ
lùn, bắp, mía và vườn bưởi, cam, ổi thì 5 vị trí thu mẫu IMO được thu như mô tả trong
47
Hình 3.3A và riêng đối hệ IMO thu ở bụi tre 5 vị trí thu mẫu được thu như mô tả trong
Hình 3.3B.
A
B
Hình 3.3 Sơ đồ vị trí thu mẫu các hệ IMO (A: vị trí thu mẫu cho các hệ IMO
trong mô hình cây trồng cây ăn trái, rau màu và đồng cỏ và B: vị trí thu mẫu cho hệ
IMO trong bụi tre)
Bảng 3.1 Vị trí và địa điểm thu 19 hệ vi sinh vật bản địa IMO khu vực tỉnh Sóc Trăng
Ký hiệu mẫu
Loại đất trồng
Địa điểm thu IMO
Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất trồng hành tím
Đất trồng xà lách
Đất trồng lúa
Đất trồng dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Xã Xuân Hoà, huyện Kế Sách
Xã Xuân Hoà, huyện Kế Sách
Xã Xuân Hoà, huyện Kế Sách
Xã Đại Ân II, huyện Cù Lao Dung
Phường 8, thành phố Sóc Trăng
TP-1
Xã Phú Tâm, huyện Châu Thành
MQ-2
Phường 5, thành phố Sóc Trăng
CP-3
Phường 7, thành phố Sóc Trăng
HV-4
Xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu
Phường 3, thành phố Sóc Trăng
RP-5
Thị trấn Mỹ Xuyên, huyện Mỹ Xuyên LM-6
DL-7
Xã Trường Khánh, huyện Long Phú
CL-8
Xã Trường Khánh, huyện Long Phú
BT-9
Xã Thạnh Trị, huyện Thạnh Trị
RM-10
CK-11
BK-12
OK-13
MC-14
MP-15
MT-16
OM-17
CP-18
NM-19
IMO hỗn hợp
Xã An Ninh, huyện Mỹ Tú
Phường 7, thành phố Sóc Trăng
Xã An Ninh, huyện Mỹ Tú
Hỗn hợp của 19 hệ IMO
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 Đất trồng rau xen canh Xã Thạnh Quới, huyện Mỹ Xuyên
11 Đất trồng cam
12 Đất trồng bưởi
13 Đất trồng ổi
14 Đất trồng mía
15 Đất trồng rau muống
16 Đất trồng rau mồng tơi Xã Viên Bình, huyện Trần Đề
17 Đất trồng ớt
18 Đất trồng củ lùn
19 Đất trồng ngò gai
IMO hỗn hợp
20
3.2.1.2 Khảo sát sự đa dạng của các nhóm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ
IMO thu thập bằng phương pháp PCR
a) Trích ADN tổng số trong các hệ IMO
Việc trích DNA vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập được thực hiện theo quy
trình trích DNA của bộ kít PowerSoil® trích ADN (MOBIO Laboratories, Inc). Trước
tiên, cân 0,5 g mẫu từng hệ IMO cho vào Eppendorf 2 mL chứa hạt thủy tinh dùng để
công phá tế bào vi sinh vật, vortex thật đều trong 2 phút. Kiểm tra dung dịch C1 (nếu
C1 kết tủa thì tiến hành đun nóng ở 60oC trước khi sử dụng). Cho 60 µL dung dịch C1,
vortex nhanh trong 30 giây, đậy chặt nắp Eppendorf chứa mẫu, vortex một lần nữa ở
tốc độ cao nhất trong 10 phút. Li tâm ở 10.000 g trong 30 giây ở nhiệt độ phòng.
48
Chuyển 0,5 mL dung dịch vào Eppendorf 2 mL mới. Cho thêm 0,25 mL dung dịch C2,
vortex nhanh, ủ ở 4oC trong tủ lạnh trong 5 phút. Li tâm 10.000 g trong 1 phút ở nhiệt
độ phòng. Chuyển hết dung dịch bên trên (0,6 mL) qua Eppendorf 2 mL mới. Cho
thêm 0,2 mL dung dịch C3, vortex nhanh, ủ ở 4oC trong trong 5 phút. Li tâm 10.000 g
trong 1 phút ở nhiệt độ phòng. Chuyển 0,75 mL dung dịch vào Eppendorf 2 mL mới.
Lắc đều dung dịch C4, hút 1,2 mL C4 vào Eppendorf chứa ADN và vortex trong 5
giây. Cho 0,675 mL dung dịch chứa ADN vào spin filter, li tâm 10.000 g trong 1 phút
ở nhiệt độ phòng. Loại bỏ dung dịch đi qua spin filter, tiếp tục lặp lại các thao tác rửa
qua spin filter thêm 2 lần nữa. Cho 0,5 mL dung dịch C5 vào spin filter li tâm 10.000 g
trong 30 giây ở nhiệt độ phòng và loại bỏ nước. Li tâm 10.000 g trong 1 phút ở nhiệt
độ phòng, chuyển spin filter vào ống nhựa 2 mL mới (tránh dung dịch C5 dính vào
spin filter). Cho 100 µL C6 trực tiếp vào spin filter. Li tâm 10.000 g trong 30 giây, loại
bỏ spin filter và trữ ADN vi sinh vật ở -30oC. Hỗn hợp ADN của các hệ vi sinh vật
được bảo quản ở -30oC và sử dụng cho các phản ứng PCR tiếp theo.
b) Phản ứng PCR
Sử dụng các cặp mồi 27F/1492R cho phản ứng PCR để khuếch đại 1.500 bp
chuỗi 16S-rRNA của vi khuẩn (Lane, 1991), trình tự nucleotide của cặp mồi như sau:
27F: 5’ AGA GTT TGA TCC TGG CTC AG 3’
1492R: 5’ GGT TAC CTT GTT ACG ACT T 3’
Phản ứng PCR bao gồm (thể tích 20 µL/1 phản ứng): 10 µL Green mastermix
(2x); 1 µL mồi xuôi 27F (10 µM); 1 µL mồi ngược 1492R (10 µM); 2 µL ADN tinh
sạch được pha loãng 100 lần; 6 µL nước khử khoáng. Khuếch đại gen 16S-rRNA của
các dòng vi khuẩn với chu trình nhiệt: biến tính 95oC trong 5 phút, 30 chu kỳ gồm biến
tính ở 94oC trong 60 giây, gắn mồi ở 53oC trong 60 giây, kéo dài chuỗi polynucleotic ở
72oC trong 90 giây rồi ổn định chung trong 7 phút ở 72oC (Lane, 1991).
Ngoài ra, cặp mồi ITS1/ITS4 đã được sử dụng cho phản ứng PCR để khuếch đại
675 bp trình tự vùng gen ITS của nấm (Tao et al., 2008) với trình tự nucleotide như
sau:
ITS1: 5’-CTT GGT CAT TTA GA GGA AGT AA-3’
ITS4: 5’ -TCC TCC GCT TAT TGA TAT GC-3’
Phản ứng PCR bao gồm (thể tích 35 µL/1 phản ứng): 17,5 µL Green mastermix
(2x); 2 µL mồi xuôi ITS1 (10 µM); 2 µL mồi ngược ITS4 (10 µM); 2 µL ADN tinh
sạch được pha loãng 100 lần; 11,5 µL nước. Khuếch đại vùng gen ITS của quần thể
nấm với chu trình nhiệt biến tính 94oC trong 3 phút, 30 chu kỳ gồm biến tính ở 94oC
trong 50 giây, gắn mồi ở 56oC trong 50 giây, kéo dài chuỗi polynucleotic ở 72oC trong
60 giây rồi ổn định chung trong 10 phút ở 72oC (Tao et al., 2008).
Cặp mồi 243F/1378R đã được sử dụng cho phản ứng PCR để khuếch đại 1175 bp
chuỗi 16S-rRNA xạ khuẩn (Heuer et al., 1997) có trình tự như sau:
243F: 5’ –GGATGAGCCCGCGGCCTA- 3’
1378R: 5’-CGGTGTGTACAAGGCCCGGGAACG- 3’.
49
Phản ứng PCR bao gồm (thể tích 20 µL/1 phản ứng): 10 µL Green mastermix
(2x); 1 µL mồi xuôi 243F (10 µM); 1 µL mồi ngược 1378R (10 µM); 2 µL ADN tinh
sạch được pha loãng 100 lần; 6 µL nước khử khoáng. Khuếch đại gen 16S-rRNA của
các dòng xạ khuẩn với chu trình nhiệt gồm các giai đoạn biến tính 95oC trong 5 phút,
30 chu kỳ gồm biến tính ở 94oC trong 60 giây, gắn mồi ở 63oC trong 60 giây, kéo dài
chuỗi polynucleotic ở 72oC trong 120 giây rồi ổn định chung trong 10 phút ở 72oC
(Heuer et al., 1997).
Các đoạn gen sau khi khuếch đại được kiểm tra trên gel agarose 1,5% để kiểm tra
sản phẩm.
c) Điện di kiểm tra sản phẩm PCR
Cân 1,5 g agarose cho vào chai thuỷ tinh 250 mL, thêm 100 mL dung dịch TAE
1X. Đun nóng dung dịch trong lò vi sóng khoảng 1 phút cho agarose hòa tan hoàn
toàn. Dung dịch agarose để nguội khoảng 50oC. Sau đó, đổ nhẹ dung dịch vào khuôn
đã chuẩn bị sẵn có gắn lược, để khuôn nguội khoảng 30 phút cho gel đặc lại, sau đó,
lấy lược ra khỏi khuôn.
Đặt gel vào khay điện di chứa dung dịch đệm TAE (1X) sao cho TAE ngập bề
mặt gel. Cho 5 μL thang chuẩn và sản phẩm trích ADN của vi khuẩn vào giếng của gel
cùng với loading dye 6X (5 μL). Mở nguồn điện ở 150 V, 500 mA trong 30 phút. Sau
khi điện di, gel agarose được nhuộm với ethium bromide (nồng độ 15-20 µL ethium
bromide trong 400 mL TAE 1X) trong 20 phút. Sản phẩm PCR được kiểm tra thông
qua quan sát sự xuất hiện các band ADN trên gel dưới hệ thống chụp hình gel Logic
1500 Imaging System.
3.2.1.3 Đánh giá sự đa dạng vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập
bằng phương pháp nested-PCR kết hợp DGGE
a) Sự đa dạng thành phần vi khuẩn trong các hệ IMO
Sự đa dạng của thành phần vi khuẩn trong các hệ IMO thu thập được đánh giá
dựa trên kết quả điện di có chất biến tính trên gel polyariamine sản phẩm nested-PCR
với cặp mồi 27F/1492R và cặp mồi 341F-GC/534R nhằm vào vùng V3 trên gen 16S-
rRNA của vi khuẩn (Lane, 1991; Muyzer et al., 1993).
ADN của vi khuẩn vừa được khuếch đại (mục 3.2.1.2) được tiếp tục thực hiện
phản ứng PCR với cặp mồi 341F-GC/534R với trình tự nucleotide như sau:
341F-GC: GC-5’ CCTACGGGAGGCAGCAG-3’
534R: 5’- ATTACCGCGGCTGCTGG- 3’
Phản ứng PCR bao gồm (thể tích 35 µL/1 phản ứng): 17,5 µL Green mastermix
(5x); 1 µL mồi xuôi 341F-GC (10 µM); 1 µL mồi ngược 534R (10 µM); 2 µL ADN
tinh sạch được pha loãng 100 lần; 11,5 µL nước (không có ADN). Khuếch đại vùng
V3 của gen 16S-rRNA của các dòng vi khuẩn với chu trình nhiệt như sau: biến tính
95oC trong 5 phút, 30 chu kỳ gồm biến tính ở 94oC trong 30 giây, gắn mồi ở 53oC
trong 30 giây, kéo dài chuỗi polynucleotic ở 72oC trong 120 giây rồi ổn định chung
trong 10 phút ở 72oC. Các đoạn gen sau khi khuếch đại được kiểm tra trên gel agarose
50
1,5% ở hiệu điện thế 150 V trong 30 phút, kiểm tra sản phẩm PCR bằng cách so với
thang chuẩn 100 bp. Tiếp theo tiến hành điện di biến tính trên gel acrylamide 8% nồng
độ chất biến tính urea 40-60%, điện thế 45 V trong 16h, trên máy Biorad Dcode trong
môi trường TAE 1X, nhiệt độ 60ºC (Muyzer et al., 1993). Thành phần của PAGE 8%
được trình bày trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2. Thành phần của PAGE 8% với nồng độ chất biến tính 40-60%
Dung dịch
60%
7,2 mL
2,16 mL
2,4 mL
0,24 mL
12 mL 40%
4,8 mL
4,56 mL
2,4 mL
0,24 mL
12 mL Stacking
0 mL
3,32 mL
0,6 mL
0,08 mL
4 mL
Sự đa dạng của thành phần nấm trong các hệ IMO thu thập được đánh giá dựa
trên kết quả điện di có chất biến tính trên gel polyariamine sản phẩm nested-PCR với
cặp mồi ITS1/ITS4 và cặp mồi ITS1/ITS4-GC nhằm vào vùng ITS của nấm (Tao et
al., 2008).
ADN của nấm vừa được khuếch đại (mục 3.2.1.2) được thực hiện phản ứng
nested-PCR với cặp mồi ITS1/ITS4-GC với trình tự nucleotide như sau:
ITS1: 5’-CTTGGTCATTTAGAGGAAGTAA-3’
ITS4-GC: 5’-TCCTCCGCTTATTGATATGC-3’
Kẹp GC có trình tự như sau: CGCCCGCCGCGCGCGGCGGGCGGGGCGGGG
CACGGGTCCTCCGCTTATTGATATG
Thành phần 1 phản ứng PCR (35 µL): 17,5 µL Green mastermix (5X); 1 µL mồi
xuôi ITS1 (10 µM); 1 µL mồi ngược ITS4-GC (10 µM); 1 µL ADN tinh sạch được
51
DS 100%
Nước khử khoáng
PAGE 40%
TAE 50%
Tổng
Thêm 100 µL APS 10% (Ammonium Persulfate Solution) cho cả 2 ống 60% và
40%, Thêm 7 µL TEMED (N,N,N',N' –tetramethylenediamine) vào ống 60% trộn đều
và cho vào cột High. Thêm 7 µL TEMED vào ống 40% trộn đều và cho vào cột Low.
Bơm gel vào khuôn, cho 1 mL butanol lên bề mặt đỉnh gel. Để yên ở nhiệt độ phòng
trong 2 giờ. Tiến hành chuẩn bị dung dịch stacking (Bảng 3.2) và thêm 33 µL APS
10% và 7 µL TEMED vào 4 mL hỗn hợp stacking, trộn đều dung dịch và cho lên trên
bề mặt gel, để yên ở nhiệt độ phòng trong 30 phút. Tiến hành hút 30 µL loading dye
2X cho vào tuýp đựng mẫu ADN và trộn đều bằng pipette. Hút 60 µL hỗn hợp ADN
và loading dye cho vào giếng trên gel polyacrylamide. Tiến hành điện di trên bộ điện
di đứng Dcode (Biorad) trong dung dịch TAE 1X ở nhiệt độ 60oC, hiệu điện thế 45 V
trong 16 giờ. Sau khi điện di gel được nhuộm với ethidium bromide trong 30 phút và
được chụp hình dưới đèn UV của hệ thống chụp hình Gel Logic 1500 (Kodak). Các
sản phẩm PCR có kích thước trình tự, khác nhau bị biến tính trong quá trình điện di.
Sự hiện diện của các band ở các vị trí khác nhau thể hiện sự đa dạng của quần thể vi
khuẩn trong các hệ IMO thu thập thông qua phân tích bằng phần mềm Gel Compare II.
.b) Sự đa dạng thành phần nấm trong IMO
pha loãng 100 lần; 14,5 µL nước (không có ADN). Khuếch đại vùng gen ITS của các
dòng nấm với chu trình nhiệt như sau: biến tính 94oC trong 3 phút, 30 chu kỳ gồm biến
tính ở 94oC trong 40 giây, gắn mồi ở 57oC trong 40 giây, kéo dài chuỗi polynu ở 72oC
trong 60 giây rồi ổn định chung trong 10 phút ở 72oC. Sản phẩm PCR được điện di
trên gel agarose 1,5% để kiểm tra chất lượng ADN của các mẫu.
Sau đó sản phẩm PCR được điện di biến tính trên gel polyacrylamide 6%, nồng
độ urea 50%-70%, điện thế 45V trong 16h, trên máy Biorad Dcode trong môi trường
TAE 1X, nhiệt độ 60ºC (Muyzer et al., 1993). Sau khi điện di gel được nhuộm với
ethidium bromide trong 30 phút. Gel được chụp hình dưới đèn UV của hệ thống chụp
hình Gel Logic 1.500 (Kodak). Các sản phẩm PCR có kích thước trình tự, khác nhau
bị biến tính trong quá trình điện di. Sự hiện diện của các band ở các vị trí khác nhau
thể hiện sự đa dạng của quần thể nấm trong hệ IMO thu thập.
c) Sự đa dạng thành phần xạ khuẩn trong IMO
Sự đa dạng của thành phần xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập được đánh giá
dựa trên kết quả điện di có chất biến tính trên gel polyariamine sản phẩm nested-PCR
với cặp mồi 243F/1378R và cặp mồi 984F-GC/1378R nhằm vào vùng V6-V8 trên gen
16S-rRNA của xạ khuẩn (Heuer et al., 1997; Muyzer et al., 1997).
ADN của xạ khuẩn vừa được khuếch đại (mục 3.2.1.2) được thực hiện phản ứng
PCR tiếp tục với cặp mồi 341F-GC/534R với trình tự nucleotide như sau:
1378R: 5’-CGGTGTGTACAAGGCCCGGGAACG- 3’.
984F-GC: GC-5’-AACGCGAAGAACCTTAC- 3’
Kẹp GC có trình tự như sau: 5’-CGCCCGGGGCGCGCCCCGGGCGGGGCGG
GGGCACGGGGGG-3’
Phản ứng PCR bao gồm (thể tích 20 µL/1 phản ứng): 10 µL Green mastermix
(2x); 1 µL mồi xuôi 243F (10 µM); 1 µL mồi ngược 1378R (10 µM); 2 µL ADN tinh
sạch được pha loãng 100 lần; 6 µL nước khử khoáng. Khuếch đại vùng V6 – V8 của
gen 16S-rRNA của các dòng xạ khuẩn với chu trình nhiệt như sau: biến tính 94oC
trong 5 phút, 30 chu kỳ gồm biến tính ở 94oC trong 60 giây, gắn mồi ở 53oC trong 60
giây, kéo dài chuỗi polynu ở 72oC trong 120 giây rồi ổn định chung trong 10 phút ở
72oC. Sản phẩm PCR được điện di và kiểm tra trên gel agarose 1,5%. Sau đó, điện di
biến tính trên acrylamide gel 6%, nồng độ urea 50-70%, điện thế 45 V trong 16h, trên
máy Biorad Dcode trong môi trường TAE 1X, nhiệt độ 60ºC (Muyzer et al., 1993).
Sau khi điện di gel được nhuộm với ethidium bromide trong 30 phút. Gel được chụp
hình dưới đèn UV của hệ thống chụp hình Gel Logic 1500 (Kodak). Các sản phẩm
PCR có kích thước trình tự, khác nhau bị biến tính trong quá trình điện di. Sự hiện
diện của các band ở các vị trí thể hiện sự đa dạng của quần thể xạ khuẩn trong các mẫu
IMO thu thập.
3.2.1.4 Khảo sát mật số vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập
Cân 10 g mẫu của từng hệ IMO cho vào chai thuỷ tinh 250 mL đã khử trùng và
thêm 90 mL nước cất đã khử trùng (2 lần lặp lại cho mỗi hệ IMO tương ứng với 2 chai
52
thủy tinh). Mẫu được đặt lên trên máy lắc ngang với tốc độ 150 vòng/phút trong 1 giờ,
sau khi lắc tiến hành để yên 5 phút. Sau đó tiến hành pha loãng dãy nồng độ khác nhau
với độ hòa loãng 10 lần (100, 10-1, 10-2, 10-3, 10-4) trong tủ cấy. Hút 50 µL mẫu (ở độ
pha loãng 10-1, 10-2, 10-3, 10-4) nhỏ lên giữa đĩa thạch chứa các môi trường đã chuẩn bị
trước (PDA cho nấm có bổ sung hợp chất kháng khuẩn streptomycin (50 mg.L-1), TSA
cho vi khuẩn có bổ sung hợp chất kháng nấm nystatin (50 mg.L-1) và môi trường
Starch cho xạ khuẩn có bổ sung chất kháng nấm nystatin (50 mg.L-1). Mỗi nồng độ
pha loãng được thực hiện với 4 lần lặp lại tương ứng với 4 đĩa petri. Dùng que thủy
tinh tiệt trùng trải đều mẫu trên bề mặt môi trường. Các đĩa petri chứa mẫu được đặt
trong tủ ủ 30oC trong 3-7 ngày. Cuối cùng, đếm mật số vi sinh vật hiện diện trên từng
môi trường để xác định mật số vi sinh vật cfu.g-1 mẫu. Trên môi trường TSA xác định
số lượng khuẩn lạc vi khuẩn, trên môi trường Starch xác định số lượng khuẩn lạc xạ
khuẩn và trên môi trường PDA xác định khuẩn lạc nấm.
3.2.1.5 Khảo sát sự hiện diện của một số vi khuẩn gây bệnh (Coliform, E. coli,
Salmonella, Shigella) trong các hệ IMO thu thập
Theo Molina et al. (2015) bảo vệ sức khỏe cộng đồng là cần thiết và đã yêu cầu
đánh giá kịp thời các vi sinh vật trong thực phẩm, nước uống mà đặc biệt là phân bón
sinh học để ngăn chặn sự bùng phát các nhóm vi khuẩn gây bệnh. Trong đó tác giả
nhấn mạnh Salmonella, Shigella, Coliform, đặc biệt là Escherichia coli gây bệnh cho
con người. Do đó cần có các đánh giá về nhóm vi khuẩn Salmonella, Shigella,
Coliform và Escherichia coli trong các mẫu IMO.
Mật số vi khuẩn Coliform và E. coli tổng số trong các hệ IMO thu thập được xác
định bằng phương pháp Most Probable Number (MNP) (Trần Linh Thước, 2006).
Cách thực hiện như sau: Mười gram mẫu IMO của từng hệ được cho vào trích với 90
mL dung dịch buffer phosphate chứa trong chai thuỷ tinh 250 mL trong thời gian 1 giờ
trên máy lắc ngang với tốc độ 150 vòng/phút, sau khi trích mẫu được để yên trong 5
phút. Sau đó, tiến hành pha loãng theo dãy nồng độ khác nhau đến nồng độ 10-5. Mẫu
sau khi pha loãng đến nồng độ 10-5, hút 0,4 mL các nồng độ pha loãng cho vào ống
nghiệm 20 mL (5 lặp lại cho mỗi nồng độ), mỗi lặp lại chứa sẵn 3,6 mL môi trường
LSB có ống durham úp ngược đã qua thanh trùng và không có bọt khí. Các ống
nghiệm này được ủ ở nhiệt độ 34,5oC, trong 48 giờ, sau đó quan sát và ghi nhận sự
xuất hiện bọt khí trong ống durham và độ đục môi trường của các ống nghiệm. Mẫu
không xuất hiện bọt khí hoặc dung dịch nuôi cấy không bị đục chứng tỏ mẫu âm tính
với vi khuẩn Coliform và ngược lại mẫu có xuất hiện bọt khí chứng tỏ mẫu dương tính
với vi khuẩn Coliform.
Để định tính sự hiện vi khuẩn E. coli trong mẫu, tiến hành hút 0,4 mL các ống
nghiệm chứa mẫu thể hiện dương tính với vi khuẩn Coliform cho vào ống nghiệm mới
20 mL chứa 3,6 mL môi trường EC broth có chứa ống durham úp ngược đã được
thanh trùng và không có bọt khí. Các ống nghiệm được ủ trong tủ ủ 24 giờ ở nhiệt độ
44,5oC, quan sát và ghi nhận sự xuất hiện bọt khí trong ống durham và các ống nghiệm
53
có môi trường nuôi cấy bị đục. Các mẫu không xuất hiện bọt khí và môi trường nuôi
cấy vẫn trong suốt chứng tỏ mẫu âm tính với E. coli và ngược lại, những mẫu xuất
hiện bọt khí chứng tỏ mẫu dương tính với vi khuẩn E. coli. Ghi nhận kết quả số ống có
bọt khí, số ống nghiệm xuất hiện bọt khí của mỗi nồng độ pha loãng dùng để xác định
mật số vi khuẩn Coliform và E. coli dựa vào phần mềm MNP.
Mật số vi khuẩn Salmonella và Shigella được xác định bằng phương pháp đếm
khuẩn lạc Salmonella và Shigella trên đĩa petri chứa môi trường agar chuyên biệt cho
Salmonella và Shigella (SS agar) (Taylor and Harris, 1965). Cách thực hiện như sau:
Hút 100 µL dung dịch huyền phù vi sinh vật của các hệ IMO được chuẩn bị ở trên trải
lên bề mặt đĩa môi trường SS agar (3 lần lặp lại cho mỗi hệ IMO và tương ứng với 3
đĩa petri). Các đĩa agar chứa mẫu được ủ trong tủ cấy ở 37oC và ghi nhận sự xuất hiện
của các khuẩn lạc vi khuẩn Salmonella và Shigella sau 3 ngày ủ.
3.2.2 Nội dung 2: Khảo sát và đánh giá một số chức năng kích thích sinh trưởng
cây trồng của các hệ IMO thu thập
Mục tiêu: nhằm khảo sát, đánh giá các chức năng có lợi cây trồng gồm khả năng
tổng hợp IAA và khả năng cố định đạm của các hệ IMO thu thập.
3.2.2.1 Khảo sát khả năng tổng hợp hormone thực vật IAA của các hệ IMO
Khả năng tổng hợp IAA của các hệ IMO thu thập được xác định theo phương
pháp của Brick et al., (1991) và dựa trên nguyên lí so màu trên máy đo quang phổ ở
bước sóng 530 nm. IAA do vi sinh vật tiết ra phản ứng với thuốc thử Salkowski cho
màu hồng và lượng IAA tiết ra càng cao dẫn đến màu hồng tạo ra càng đậm.
Khả năng tổng hợp IAA của các hệ IMO thu thập được thực hiện trong môi
trường NBRIP lỏng có bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan. Cách thực hiện như sau: Hút 1
mL dung dịch huyền phù chứa IMO pha loãng 10 lần được chuẩn bị ở mục 3.2.1 cho
vào bình tam giác 100 mL chứa sẵn 30 mL môi trường NBRIP lỏng có bổ sung 100
mg.L-1 tryptophan tiệt trùng. Thí nghiệm được thực hiện với 3 lặp lại cho mỗi hệ IMO
và tương ứng với 3 bình tam giác. Mẫu được nuôi trên máy lắc tròn với tốc độ 90
vòng/phút ở điều kiện tối và nhiệt độ phòng thí nghiệm. Hàm lượng IAA tổng hợp bởi
vi sinh vật trong môi trường nuôi cấy lỏng được xác định vào các thời điểm: 0, 1, 2, 3,
5, và 6 ngày sau khi chủng.
Phương pháp xác định hàm lượng IAA tổng hợp trong môi trường nuôi cấy lỏng
bởi vi sinh vật được thực hiện như sau: Hút 1,0 mL dung dịch nuôi vi sinh vật, ly tâm
với tốc độ 14.000 vòng/phút trong 8 phút. Sau đó hút 500 µL dung dịch trong cho vào
cuvet chứa sẵn 1 mL thuốc thử Salkowski đã chuẩn bị sẵn. Để yên 20 phút trong tối
cho phản ứng xảy ra hoàn toàn. Đo màu trên máy đo quang phổ ở bước sóng 530 nm.
Tính lượng IAA có trong mẫu dựa vào đường chuẩn IAA có nồng độ xác định. Đường
chuẩn được thiết lập với nồng độ IAA tăng dần 0, 2, 4, 6, 8, 10, 20, 30, 40, 50, 60, 70,
80, 90 và 100 mg.L-1. Dựa vào đường chuẩn IAA để tính lượng IAA do vi sinh vật
tổng hợp.
54
3.2.2.2 Khảo sát khả năng cố định đạm của các hệ IMO thu thập
a) Khảo sát sự hiện diện của gen nifH có chức năng cố định đạm trong các hệ
IMO thu thập
ADN của các hệ IMO thu thập đã được ly trích (mục 3.2.1.2) được sử dụng cho
phản ứng PCR với cặp mồi polF/polR (Poly et al., 2001a và 2001b). Các primer có
trình tự nucleotide như sau:
polF: 5’ -TGC GAY CCS AAR GCB GAC TC-3’
polR: 5’- ATS GCC ATC ATY TCR CCG GA-3’
Phản ứng PCR được thực hiện với các thành phần cho 1 phản ứng có thể tích 25
µL như sau: 12,5 µL Green mastermix (2x); 1 µL primer polF (10 µM); 1 µL primer
polF (10 µM); 2 µL ADN tinh sạch; 8,5 µL nước khử khoáng và được gia nhiệt như
sau: biến tính 94oC trong 5 phút, 30 chu kỳ gồm biến tính ở 94oC trong 60 giây, gắn
mồi ở 55oC trong 60 giây, kéo dài chuỗi polynucleotic ở 72oC trong 120 giây rồi ổn
định chung trong 10 phút ở 72oC. Nhận diện đoạn trình tự gen nifH (~360 bp) được
khuếch đại ở vị trí 300-500 bp.
b) Đánh giá khả năng cố định đạm của các hệ IMO thu thập
Khả năng cố định đạm của cộng đồng vi sinh vật trong các IMO thu thập được
thực hiện trong môi trường chuyên biệt Burks lỏng tiệt trùng. Theo nguyên lý hàm
lượng nitơ tổng số trong hệ vi sinh vật được xác định bằng phương pháp vô cơ mẫu,
sau đó, cho phản ứng màu với nitroprusside tạo màu xanh sau đó so màu trên máy đo
quang phổ ở bước sóng 650 nm (Keeney and Nelson, 1982). Cách thực hiện như sau:
Hút 1 mL dung dịch IMO pha loãng 10 lần (mục 3.2.2.1) cho vào bình tam giác 100
mL chứa 50 mL dung dịch môi trường Burks lỏng tiệt trùng. Mẫu được lắc trên máy
lắc tròn với tốc độ 90 vòng/phút trong 5 ngày. Chuyển 1 mL dung dịch nuôi sang bình
tam giác chứa dung dịch môi trường Burks mới và được nuôi trên máy lắc. Lặp lại quy
trình nuôi cấy thêm một lần nữa (tổng cộng 3 lần). Đây là nguồn vi sinh vật dùng để
bố trí thí nghiệm. Hút 0,5 mL dung dịch vi sinh vật ở thế hệ thứ 3 cho vào bình tam
giác 100 mL có chứa 14,5 mL môi trường Burks lỏng (không chứa đạm). Nghiệm thức
đối chứng âm được thực hiện tương tự nhưng không bổ sung IMO vào và thí nghiệm
được thực hiện với 3 lần lặp lại tương ứng với 3 bình tam giác. Mẫu được lắc trên máy
lắc tròn với tốc độ 90 vòng/phút. Tiến hành định lượng hàm lượng đạm tổng số vào
các thời điểm 0, 1, 2, 3, 4 và 5 ngày sau khi bố trí thí nghiệm. Phương pháp xác định
đạm tổng số (Nts) trong môi trường nuôi cấy lỏng được thực hiện như sau: Cho 5 mL
H2SO4 đậm đặc và 1,5 mL dung dịch xúc tác (Phụ lục 3) vào bình tam giác chứa 15
mL dung dịch nuôi vi sinh vật. Các bình tam giác ở các thời điểm thu mẫu được nung
ở 200oC trong 3 giờ (quá trình nung kết thúc khi mẫu trong suốt và không tạo khói
trắng khi phản ứng với H2O2 30% (nhỏ vài giọt vào). Để mẫu nguội, sau đó, chuyển
sang bình định mức 50 mL và định mức lên 50 mL và để ổn định trong 24 giờ. Hút 1
mL mẫu cho vào ống nghiệm 30 mL, thêm 1 mL NaOH 3,6M vào và vortex đều mẫu.
Cho thêm 0,5 mL dung dịch A, tiếp tục cho thêm 0,5 mL dung dịch B. Tiến hành
55
+ theo phương trình x = (y – b)/a.
vortex các ống nghiệm và để ở nhiệt phòng trong khoảng thời gian từ 15-20 phút cho
phản ứng tạo màu xảy ra kết thúc hoàn toàn và tiến hành so màu trên máy đo quang
phổ ở bước sóng 650 nm. Dựa vào phương trình đường chuẩn và giá trị OD của mẫu
tính ra hàm lượng NH4
3.2.3 Nội dung 3: Phân lập, tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn bản địa có
hai chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ các hệ IMO thu thập
Mục tiêu: nhằm phân lập các dòng vi khuẩn chức năng vừa cố định đạm và vừa
tổng hợp IAA của các hệ IMO thu thập.
3.2.3.1 Phân lập các dòng vi khuẩn bản địa có khả năng cố định đạm từ các hệ IMO
thu thập
Cân 10 gam mẫu từng hệ IMO cho vào chai thuỷ tinh 250 mL có chứa sẵn 90 mL
buffer phosphate. Mẫu được lắc đều trên máy lắc ngang tốc độ 150 vòng/phút trong 1
giờ. Sau đó, để ổn định trong 5 phút và tiến hành chuẩn bị dãy nồng độ pha loãng với
hệ số hòa loãng 10-1, 10-2, 10-3 và 10-4. Hút 50 µL dịch huyền phù vi khuẩn ở mỗi nồng
độ pha loãng trải đều lên các đĩa thạch của môi trường Burks khuyết đạm. Các đĩa
petri chứa mẫu được ủ 5-7 ngày ở điều kiện phòng thí nghiệm. Tiến hành quan sát sự
xuất hiện các khuẩn lạc của vi khuẩn cố định đạm hiện diện trên bề mặt thạch và chọn
các khuẩn lạc có kích thước, hình dạng, màu sắc, độ nỗi, dạng bìa khác nhau để tiến
hành tách ròng trên cùng môi trường Burks liên tục trong 5 lần. Các dòng vi khuẩn sau
khi tách ròng tiến hành nhân mật số và bảo quản trong glycerol 30% để giữ nguồn vi
khuẩn cho các nghiên cứu tiếp theo.
Mô tả hình thái khuẩn lạc, gram và hình dạng tế bào các dòng vi khuẩn phân lập.
Khuẩn lạc của các dòng vi khuẩn phân lập được mô tả hình thái thông qua các đặc
điểm: kích thước (mm), màu sắc, hình dạng, độ nổi và dạng bìa khuẩn lạc bằng mắt
thường. Đối với những vi khuẩn có khuẩn lạc nhỏ thì việc mô tả các chỉ tiêu hình thái
khuẩn lạc được thực hiện dưới kính hiển vi soi nổi.
Phương pháp mô tả hình dạng tế bào: dùng đầu tăm tre sạch tiệt trùng lấy một
khuẩn lạc và trải mỏng lên trên Lame có sẵn giọt nước cất tiệt trùng. Mẫu được đưa
qua đèn cồn để cố định tế bào vi khuẩn. Sau đó, một giọt thuốc nhuộm Fuchsin acid
0,5% được nhỏ lên vị trí vi khuẩn cố định, dùng Lamelle đặt lên vị trí vi khuẩn và
thuốc nhuộm. Hình dạng tế bào vi khuẩn được quan sát và ghi nhận dưới kính hiển vi
quang học.
Gram của vi khuẩn được xác định theo phương pháp của Suslow et al. (1982).
Cách thực hiện như sau: nhỏ một giọt dung dịch KOH 3% lên Lame, dùng tăm tre tiệt
trùng lấy một phần khuẩn lạc của vi khuẩn, sau đó, trộn đều khuẩn lạc với dung dịch
KOH trong vài giây. Vi khuẩn được xác định là gram âm nếu khuẩn lạc vi khuẩn và
dung dịch KOH phản ứng tạo sợi chỉ khi tăm tre được đưa lên trên khỏi Lame và vi
khuẩn được xem như là gram dương nếu dịch vi khuẩn KOH và tăm tre không hình
thành sợi chỉ khi tăm tre được đưa lên khỏi Lame.
56
3.2.3.2 Khảo sát khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn bản địa phân lập từ các
hệ IMO trong môi trường nuôi cấy lỏng
a) Xác định hàm lượng đạm tổng số (Nts)
Một khuẩn lạc vi khuẩn phát triển tốt trên môi trường Burks thạch được chuyển
sang bình tam giác 100 mL chứa 50 mL môi trường Burks lỏng không chứa đạm tiệt
trùng và được nuôi cấy trong 5 ngày trên máy lắc tròn với tốc độ 90 vòng/phút. Tiến
hành hút 0,5 mL dịch huyền phù vi khuẩn này vào bình tam giác 100 mL có chứa 14,5
mL môi trường Burks lỏng khuyết đạm tiệt trùng. Mẫu đối chứng được thực hiện
tương tự nhưng không chủng vi khuẩn vào. Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần lặp
lại cho mỗi dòng vi khuẩn, tương ứng với 3 bình tam giác. Các bình tam giác chứa
mẫu được đặt trên máy lắc tròn ở tốc độ 90 vòng/phút trong tối ở điều kiện phòng thí
nghiệm trong 5 ngày. Hàm lượng Nts được xác định sau 0, 1, 2, 3, 4 và 5 ngày nuôi cấy
bằng phương pháp vô cơ mẫu và hiện màu nitroprusside được mô tả bởi Keeney and
Nelson (1982) (tham khảo ở mục 3.2.2.3).
+) trong môi trường nuôi cấy
b) Xác định hàm lượng đạm hữu dụng (NH4
Việc xác định lượng đạm hữu dụng (NH4
+) được cố định bởi các dòng vi khuẩn
phân lập được thực hiện trong môi trường chuyên biệt Burks lỏng khuyết đạm dựa
+ tạo ra được xác định bằng cách cho phản ứng màu với
theo nguyên lý hàm lượng NH4
phenol nitroprusside tạo màu xanh và sau đó được đo trên máy đo quang phổ tại bước
sóng 636 nm (Keeney and Nelson, 1982). Thí nghiệm được thực hiện như sau:
Hút 0,5 mL dịch huyền phù vi khuẩn được chuẩn bị ở mục 3.2.3.2a cho vào bình tam
giác 100 mL chứa 29,5 mL môi trường Burks lỏng (không chứa đạm). Nghiệm thức
đối chứng âm được thực hiện tương tự nhưng không bổ sung vi khuẩn. Thí nghiệm
được thực hiện với 3 lặp lại, tương ứng với 3 bình tam giác. Các bình tam giác chứa
mẫu được lắc trên máy lắc tròn với tốc độ 90 vòng/phút, trong tối và ở điều kiện phòng
+ hữu dụng do vi khuẩn cố định
thí nghiệm. Tiến hành định lượng hàm lượng NH4
trong môi trường nuôi cấy lỏng vào các thời điểm 0, 1, 2, 3, 4 và 5 ngày sau khi nuôi
+ hữu dụng trong môi trường nuôi cấy lỏng
cấy. Phương pháp định lượng nồng độ NH4
được thực hiện như sau: Hút 1,5 mL dịch vi khuẩn trong các bình tam giác cho vào các
Eppendorf 2 mL. Ly tâm 13.000 vòng/phút trong 10 phút. Hút lần lượt 1 mL dung dịch
lỏng đã ly tâm, 4 mL H2O, 5 mL buffer phosphate và 5 mL thuốc thử cho vào ống
nghiệm 30 mL. Trộn đều hỗn hợp, để yên trong 20 phút cho phản ứng xảy ra hoàn
toàn và tiến hành so màu ở bước sóng 636 nm trên máy đo quang phổ. Từ giá trị OD
+ hữu dụng do vi khuẩn cố
dựa vào phương trình đường chuẩn tính hàm lượng NH4
định đạm tạo ra theo phương trình x = (y – b)/a.
3.2.3.3 Khảo sát sự hiện diện của gen nifH đối với các dòng vi khuẩn phân lập
Chọn một số dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm thông qua hàm lượng đạm
tổng số và đạm h74u dụng cao để kiểm tra sự hiện diện của gen nifH trong cấu trúc di
truyền. ADN của từng dòng vi khuẩn phân lập được chọn đã được ly trích bằng bộ kit
57
PowerSoil MO BIO (tham khảo mục 3.2.1.2), sau đó, dùng cặp mồi polF/polR (Poly et
al., 2001a) cho phản ứng PCR để khuếch đại chuỗi mục tiêu có kích thước 360 bp của
gen nifH. Thể tích của 25 μL phản ứng PCR bao gồm 12,5 μL Green mastermix (2X),
2 μL polF (10 μM), 2 μL polR (10 μM), 2 μL ADN tinh khiết và 6,5 µL nước khử ion.
Các phản ứng được thực hiện như sau: Biến tính ADN ban đầu trong 5 phút ở 94°C,
sau đó là 35 chu kỳ biến tính 1 phút ở 94°C, gắn mồi 1 phút ủ 57oC và kéo dài 1 phút ở
72°C. Sự khuếch đại được hoàn thành bởi bước ổn định cuối cùng ở 72°C trong 10
phút.
3.2.3.4 Khảo sát khả năng tổng hợp IAA của các dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển
chọn
Các dòng vi khuẩn thể hiện khả năng cố định đạm cao ở mục 3.2.3.2 được tuyển
chọn để khảo sát khả năng tổng hợp IAA của chúng dựa vào nguyên lý và phương
pháp của Brick et al. (1991). Thí nghiệm được thực hiện như sau: Hút 1 mL dung dịch
huyền phù vi sinh vật đã được chuẩn bị giống mục 3.2.3.2 cho vào bình tam giác 100
mL chứa sẵn 49 mL môi trường Burks lỏng có bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan với 3
lặp lại cho mỗi dòng vi khuẩn, tương ứng với 3 bình tam giác. Bình tam giác chứa mẫu
được nuôi trên máy lắc tròn với tốc độ 90 vòng/phút trong tối ở điều kiện phòng thí
nghiệm. Hàm lượng IAA được tổng hợp bởi vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy lỏng
được xác định vào các thời điểm: 0, 2, 4, 6, 8 và 10 ngày nuôi cấy. Phương pháp xác
định hàm lượng IAA tổng hợp bởi vi khuẩn tham khảo mục 3.2.2.2.
3.2.3.5 Giải trình tự gen 16S-rRNA của một số dòng vi khuẩn có đồng thời hai chức
năng cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn
Các đĩa petri chứa khuẩn lạc của các dòng vi khuẩn tuyển chọn được gửi giải
trình tự tại công ty Nam Khoa (Tp. Hồ Chí Minh) bằng phương pháp giải trình tự tự
động. Sử dụng chương trình BLAST N để so sánh trình tự ADN của dòng vi khuẩn
cần định danh với trình tự ADN trong bộ gen của các loài vi khuẩn có sẵn trong trong
cơ sở dữ liệu NCBI. Kết hợp các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, hình dạng tế bào, Gram
tế bào và độ tương đồng của dòng vi khuẩn được BLAST để định danh các dòng vi
khuẩn. Xác định mối quan hệ di truyền giữa các dòng vi khuẩn đã giải trình tự theo
phương pháp UPGMA.
3.2.4 Nội dung 4: Đánh giá ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn cố định đạm và
tổng hợp IAA tuyển chọn và các hệ IMO chứa những dòng vi khuẩn tuyển chọn lên
khả năng nảy mầm và sinh trưởng cây rau trong điều kiện phòng thí nghiệm
Mục tiêu: nhằm đánh giá khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây rau
muống và cây cải xanh trong điều kiện phòng thí nghiệm của một số dòng vi khuẩn
tuyển chọn và một số hệ IMO chứa các dòng vi khuẩn tuyển chọn.
58
3.2.4.1 Ảnh hưởng của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn lên khả năng nảy mầm và
sinh trưởng cây rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm
a) Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống và cải
xanh
- Chuẩn bị nguồn vi khuẩn: Các dòng vi khuẩn tuyển chọn có 2 chức năng cố
định đạm và tổng hợp IAA được nuôi tăng sinh riêng biệt trong bình tam giác 100 mL
chứa 50 mL môi trường Tryptone Soya Broth (TSB) trong 3 ngày. Sau đó, tiến hành
thu sinh khối vi khuẩn bằng cách chuyển dung dịch vi khuẩn sang Falcon 50 mL, ly
tâm 6.000 vòng/phút trong 5 phút, loại bỏ phần nước bên trên. Tiếp tục cho 20 mL
nước khử khoáng tiệt trùng vào, tiến hành ly tâm loại bỏ phần nước bên trên, thu sinh
khối vi khuẩn bên dưới, lặp lại 3 lần để loại bỏ hoàn toàn môi trường nuôi cấy. Đối với
mỗi dòng vi khuẩn tiến hành hiệu chỉnh dung dịch vi khuẩn về mật số 105, 106, 107,
108 và 109 cfu.mL-1 bằng nước khử khoáng tiệt trùng. Sử dụng phương pháp nhỏ giọt
trên môi trường TSA để xác định mật số của vi khuẩn (Hoben and Somasegaran,
1982).
- Bố trí thí nghiệm: Trước tiên, ngâm hạt rau muống hoặc hạt cải xanh trong 30
mL dung dịch huyền phù dòng các vi khuẩn tương ứng với mật số vi khuẩn đã được
chuẩn bị trước trong 4 giờ, sau đó chuyển 30 hạt rau vào đĩa Petri chứa sẵn giấy lọc đã
tiệt trùng và được làm ướt sẵn với nước cất tiệt trùng. Nghiệm thức đối chứng được
thực hiện tương tự nhưng hạt rau chỉ được ngâm với nước cất tiệt trùng thay cho dịch
huyền phù vi khuẩn. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại cho mỗi mật
số vi khuẩn tương ứng với 3 đĩa petri. Các đĩa petri chứa hạt được để yên ở điều kiện
tối của phòng thí nghiệm. Quan sát và ghi nhận số hạt nảy mầm trong trong tổng số 30
hạt thử nghiệm trong thời gian 6 ngày thí nghiệm.
b) Đánh giá hiệu quả của các dòng vi khuẩn tuyển chọn ở mật số vi khuẩn phù
hợp nhất lên khả năng kích thích sinh trưởng mầm rau muống và cải xanh ở điều kiện
phòng thí nghiệm
- Chuẩn bị nguồn vi khuẩn: tham khảo mục 3.2.4.1a.
- Bố trí thí nghiệm: Tiến hành ngâm hạt rau muống và cải xanh trong Falcon 50
mL tiệt trùng chứa 30 mL dung dịch huyền phù các dòng vi khuẩn với mật số tối ưu
nhất (kết quả từ mục 3.2.4.1a) trong 4 giờ, sau đó, chuyển 10 hạt vào 10 ống nghiệm
30 mL tiệt trùng chứa 10 mL agar 1% không bổ sung dinh dưỡng. Các ống nghiệm
được đậy nắp không kín hoàn toàn và đặt ở vị trí thoáng mát trong điều kiện phòng thí
nghiệm trong 10 ngày. Sau đó, tiến hành ghi nhận các chỉ tiêu: chiều cao thân (được
đo từ gốc đến chóp lá cao nhất), chiều dài rễ (được đo từ gốc đến chóp rễ dài nhất) và
sinh khối tươi.
59
3.2.4.2 Ảnh hưởng của một số hệ IMO tuyển chọn lên khả năng nảy mầm và sinh
trưởng cây rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm
a) Ảnh hưởng của các nồng độ pha loãng của IMO lên tỷ lệ nảy mầm của hạt rau
muống và cải xanh
Các hệ IMO tuyển chọn tiến hành pha loãng với nước cất tiệt trùng thành dãy các
nồng độ pha loãng khác nhau gồm 50, 100, 300, 500, 700 và 1000 lần với thể tích của
từng nồng độ pha loãng là 100 mL. Ngâm hạt rau trong 50 mL dung dịch IMO ở các
nồng độ pha loãng khác nhau, sau đó chuyển 30 hạt vào đĩa Petri chứa sẵn giấy lọc đã
tiệt trùng và được làm ẩm với nước cất tiệt trùng. Nghiệm thức đối chứng được thực
hiện tương tự nhưng hạt rau chỉ được ngâm với nước cất tiệt trùng thay cho dịch IMO
pha loãng. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại cho mỗi nồng độ pha
loãng và tương ứng với 3 đĩa petri. Các đĩa petri chứa hạt rau được đặt ở điều kiện tối
trong phòng thí nghiệm. Quan sát và ghi nhận số hạt nảy mầm trong trong tổng số 30
hạt thử nghiệm trong thời gian 6 ngày thí nghiệm.
b) Đánh giá hiệu quả của các hệ IMO tuyển chọn ở nồng độ pha loãng phù hợp
nhất lên khả năng kích thích sinh trưởng mầm rau muống và cải xanh ở điều kiện
phòng thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành cùng lúc với thí nghiệm đánh giá hiệu quả của các
dòng vi khuẩn tuyển chọn ở mật số vi khuẩn phù hợp nhất lên khả năng kích thích sinh
trưởng mầm rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm ở mục 3.2.4.1b. các
bước thực hiện tham khảo tại mục 3.2.4.1b.
3.2.5 Nội dung 5: Đánh giá hiệu quả của 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn và 5 hệ IMO
chứa những dòng vi khuẩn tuyển chọn lên sinh trưởng và năng suất rau muống và
cải xanh ở điều kiện nhà lưới
Mục tiêu: nhằm đánh giá hiệu quả của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn và hệ
IMO chứa các dòng vi khuẩn tuyển chọn này lên sinh trưởng và năng suất rau muống
và cải xanh ở điều kiện nhà lưới.
3.2.5.1 Chuẩn bị đất thí nghiệm
Đất thí nghiệm được thu thập từ đất canh tác rau chuyên canh tần đất mặt (0-30
cm) tại xã Tài Văn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Thông tin về các đặc tính đất thí
nghiệm đầu vụ được trình bày trong Bảng 3.3.
-), amonium (NH4
Đất sau khi thu được trộn đều với nhau thành một mẫu lớn. Sau đó cho 6 kg đất
(khối lượng khô kiệt) vào các chậu nhựa (kích thước 30 cm (cao) x 30 cm (đường
kính). Đất được làm tơi bề mặt trước khi gieo hạt. Ngoài ra, mẫu đất cũng được phân
tích một số chỉ tiêu về lý, hóa và sinh học đất gồm pH, EC, chất hữu cơ (CHC), nitrate
+), đạm tổng số (Nts), lân tổng số (Pts), kali tổng số (Kts), mật số
(NO3
vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong đất. Kết quả phân tích cho thấy đất có thành phần
phù hợp để tiến hành các thí nghiệm trồng rau trong nhà lưới.
60
Bảng 3.3 Một số đặc tính đất thí nghiệm trong nhà lưới
Các chỉ tiêu
- (mg/kg)
+ (mg/kg)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
pH
EC (mS/cm)
CHC (%)
NO3
NH4
Nts (%)
Pts (%P2O5)
Kts (%K2O)
Vi khuẩn (106 cfu.g-1)
Nấm (102 cfu.g-1)
Xạ khuẩn (104 cfu.g-1)
Giá trị
6,12
0,195
1,81
3,01
8,84
0,105
0,098
1,21
1,53
17,0
2,33
Thời gian sinh trưởng Ngày thu hoạch Ngày gieo
Thí nghiệm nhà lưới được thực hiện liên tục qua 3 và 2 vụ trên cùng một nền
đất thí nghiệm cho lần lượt cây rau muống và cải xanh. Thông tin về thời gian bố trí
các thí nghiệm nhà lưới được trình bày trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4 Thời gian bố trí các thí nghiệm rau muống và cải xanh trong nhà lưới Bộ
môn Khoa học đất, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
Rau muống
Vụ 1
Vụ 2
Vụ 3
Cải xanh
Vụ 1
Vụ 2
3.2.5.2 Chuẩn bị nguồn vi sinh vật
a) Chuẩn bị nguồn vi khuẩn: tham khảo mục 3.2.4.1a cho chuẩn bị dung dịch
huyền phù vi khuẩn để chủng vào trong hạt giống.
b) Chuẩn bị nguồn IMO: tham khảo mục 3.2.4.2a để chuẩn bị dung dịch huyền
phù IMO để chủng vào trong hạt giống.
c) Cách chủng vi khuẩn vào xỉ than để chủng vào trong đất: Cách chủng vi
khuẩn vào trong xỉ than theo phương pháp của Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv. (2015)
được thực hiện như sau: xỉ than tổ ong (phế phẩm được nghiền nhỏ qua rây kích thước
2 x 2 mm đã tiệt trùng) được xác định ẩm độ, sau đó, 50 g xỉ than được cho vào bình
tam giác có thể tích 250 mL chứa 100 mL môi trường Burks, đồng thời, bổ sung 2 mL
dung dịch vi khuẩn đã được chuẩn bị trước (mục 3.2.4.1a), tuy nhiên hiệu chỉnh độ
đục của dung dịch chứa vi khuẩn với nước khử khoáng tiệt trùng bằng máy đo quang
phổ về OD 600 nm = 1,2 (tương đương 1011 cfu.mL-1). Bình tam giác chứa mẫu được
lắc trên máy mắc tròn với tốc độ 100 vòng/phút trong 24 giờ ở điều kiện phòng thí
nghiệm. Cuối cùng, thu xỉ than chứa vi khuẩn với mật số cuối cùng của từng dòng vi
khuẩn đạt 1011 cfu.g-1.
61
23/08/2019
11/10/2019
14/12/2019
10/02/2020
04/04/2020 26/07/2019
13/09/2019
16/11/2019
05/01/2020
04/03/2020 27 ngày
28 ngày
28 ngày
35 ngày
33 ngày
d) Cách chủng IMO vào trong xỉ than để chủng vào trong đất: thực hiện tương tự
mục 3.2.5.2c tuy nhiên cho 60 ml dung dịch IMO pha loãng 5 lần với nước
3.2.5.3 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí trong chậu tại nhà lưới (không có nóc lưới) Bộ môn Khoa
học Đất, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ theo thể thức hoàn toàn ngẫu
nhiên với 4 lần lặp lại gồm 24 nghiệm thức cho rau muống và 26 nghiệm thức cho cải
xanh. Mỗi lặp lại tương ứng với 1 chậu thí nghiệm. Mỗi chậu thí nghiệm chứa 6 kg đất
trồng rau (tính theo trọng lượng khô) đã được chuẩn bị trước. Bảy ngày trước khi gieo
hạt tiến hành chủng vi khuẩn vào trong đất qua chất mang xỉ than theo từng nghiệm
thức vào trong đất thí nghiệm để đạt mật số 106 cfu.g-1 đất khô đối với rau muống và
107 cfu.g-1 đối với cải xanh, riêng các hệ IMO được chủng vào đất với nồng độ pha
loãng 1000 lần cho cả rau muống và cải xanh. Việc chủng vi khuẩn và hệ IMO vào
trong đất qua chất mang xỉ than được thực hiện một lần duy nhất vào thời điểm 3-5
ngày trước khi gieo hạt giống vào chậu bằng cách trộn đều 50 g (khối lượng khô kiệt)
xỉ than chứa vi khuẩn theo từng nghiệm thức trên bề mặt đất (tương ứng 1% khối
lượng đất khô trong chậu). Các nghiệm thức thí nghiệm cho cả 2 loại rau gồm rau
muống và cải xanh được liệt kê và trình bày trong Bảng 3.5 và Bảng 3.6. Sau khi thu
hoạch rau, đất trong chậu được để phơi tự nhiên 1 tuần sau đó tiến hành chủng vi
khuẩn, bón phân và gieo hạt cho vụ kế tiếp.
Bảng 3.5 Các nghiệm thức thí nghiệm cho cây rau muống được bố trí trong nhà lưới
STT Nghiệm thức
Nội dung nghiệm thức
62
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24 NT1
NT2
NT5
NT6
NT7
NT8
NT9
NT10
NT11
NT12
NT13
NT14
NT15
NT16
NT17
NT18
NT19
NT20
NT21
NT22
NT23
NT24
NT25
NT26 Đối chứng âm (không bón phân và không chủng vi sinh vật)
Đối chứng 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn OM-17.5
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MT16.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp IMO
50N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn TP-1.3
50N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn TP-1.4
50N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn MQ-2.5
50N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn OM-17.5
50N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn MT16.5
50N-48P2O5-100K2O + hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn
50N-48P2O5-100K2O + IMO Củ lùn
50N-48P2O5-100K2O + IMO Mồng tơi
50N-48P2O5-100K2O + IMO Ớt
50N-48P2O5-100K2O + IMO Tre
50N-48P2O5-100K2O + hỗn hợp IMO
Bảng 3.6 Các nghiệm thức thí nghiệm cho cây cải xanh được bố trí trong nhà lưới
STT Nghiệm thức
Nội dung nghiệm thức
Hạt rau được ngâm với dung dịch huyền phù vi khuẩn với mật số 106 cfu.mL-1
cho hạt rau muống và 107 cfu.mL-1 cho hạt cải xanh. Riêng nghiệm thức chủng các hệ
IMO, hạt được ngâm trong dung dịch IMO pha loãng ở nồng độ 1.000 lần trong 4 giờ,
sau đó hạt được gieo trực tiếp vào chậu với mật độ 30 hạt/chậu. Sau khi cây con phát
triển được 5 ngày tiến hành tỉa và giữ lại còn 10 cây/chậu đối với rau muống và 5
cây/chậu đối với cải xanh. Vào các thời điểm 7, 14 và 21 ngày sau khi gieo hạt tiến
hành chủng tiếp vi khuẩn và IMO vào đất bằng cách tưới dung dịch vi khuẩn và IMO
theo nghiệm thức, mật số và nồng độ pha loãng phù hợp cho từng loại rau. Phân bón
hóa học cho cây rau muống và cải xanh được bón lần lượt theo công thức 100N-
48P2O5-24K2O và 70N-48P2O5-24K2O (Cao Ngọc Điệp và ctv., 2011; Trần Thị Ba và
Võ Thị Bích Thủy, 2019). Lịch bón phân và thành phần mỗi đợt bón cụ thể cho cây
rau muống và cải xanh được trình bày trong Bảng 3.7.
Cỏ dại và sâu hại được quản lý thường xuyên bằng phương pháp cơ học. Sử dụng
thuốc trừ sâu sinh học để phòng trị rầy mềm hại cải (Phụ lục 11). Thí nghiệm được kéo
dài trong khoảng từ 27-30 ngày cho cây rau muống và 30-35 ngày cho cây cải xanh.
Hai tuần sau khi thu hoạch rau, đất trong chậu được làm tơi xốp và chuẩn bị cho
các vụ rau tiếp theo. Cách tiến hành bố trí các vụ rau tiếp theo được thực hiện tương tự
như nội dung được trình bày ở trên.
63
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26 NT1
NT2
NT3
NT4
NT5
NT6
NT7
NT8
NT9
NT10
NT11
NT12
NT13
NT14
NT15
NT16
NT17
NT18
NT19
NT20
NT21
NT22
NT23
NT24
NT25
NT26 Đối chứng âm (không bón phân và không chủng vi sinh vật)
Đối chứng 70N-48P2O5-24K2O
Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
Đối chứng 35N-48P2O5-100K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.3
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.4
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MQ-2.5
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn OM-17.5
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MT16.5
52,5N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
52,5N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp IMO
35N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn TP-1.3
35N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn TP-1.4
35N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn MQ-2.5
35N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn OM-17.5
35N-48P2O5-100K2O + vi khuẩn MT16.5
35N-48P2O5-100K2O + hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn
35N-48P2O5-100K2O + IMO Củ lùn
35N-48P2O5-100K2O + IMO Mồng tơi
35N-48P2O5-100K2O + IMO Ớt
35N-48P2O5-100K2O + IMO Tre
35N-48P2O5-100K2O + hỗn hợp IMO
Bảng 3.7 Lịch bón phân cho cây rau muống và cây cải xanh được bố trí trong nhà lưới
Loại phân
bón Công thức
kg/ha
100/75/50
48
24 Bón lần 1
(3NTKG)
(%)
20
100
50 Bón lần 2
(10NSKG)
(%)
30
0
20 Bón lần 3
(20NSKG)
(%)
30
0
20 Bón lần 4
(25NSKG)
(%)
20
0
10
N
20
0
P2O5
10
K2O
Rau muống
N
P2O5
K2O
Cải xanh
3.2.5.4 Các chỉ tiêu theo dõi
a) Các chỉ tiêu về sinh trưởng và năng suất cây rau: Ghi nhận và phân tích các
chỉ tiêu về sinh trưởng của cây như: chiều cao cây, số lá, đường kính thân đối với cây
rau muống và chiều cao thân, số lá, chiều dài lá, chiều rộng lá đối với cây cải xanh vào
thời điểm thu hoạch rau, trọng lượng tươi/chậu vào thời điểm kết thúc thí nghiệm. ở tại
thời điểm thu mẫu, mỗi chậu thí nghiệm được chọn ra 5 cây ngẫu nhiên, và trên mỗi
cây chọn 1 lá tẻ để đo đạc các chỉ tiêu nông học). Hàm lượng chlorophyll tổng tố
tương đối trong lá rau ở thời điểm thu hoạch bằng máy đo Chlorophyll CCI 200 plus
(đơn vị CCI). Đối với chỉ tiêu chỉ tiêu về năng suất rau được tính bằng tổng khối lượng
tươi của rau trên chậu.
b) Chỉ tiêu về vi khuẩn gây bệnh đường ruột ở người có trên rau: vi khuẩn gây
bệnh E. coli, Coliform, Salmonella, Shigella trong rau cũng được kiểm tra vào thời
điểm kết thúc thí nghiệm theo phương pháp đếm mật số MNP của Trần Linh Thước
(2006) và phương pháp đếm mật số khuẩn lạc trên môi trường SS agar của Taylor and
Harriss (1965).
70/52,5/35
48
24 20
100
50 30
0
20 30
0
20
3.2.6 Nội dung 6: Đánh giá hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn và 2 hệ IMO tuyển chọn
lên sinh trưởng, năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện ngoài đồng
Mục tiêu: nhằm đánh giá hiệu quả của một số dòng vi khuẩn có hai chức năng
cố định đạm và tổng hợp IAA và hệ IMO tuyển chọn lên sinh trưởng, năng suất của
rau muống, cải xanh ở điều kiện thực tế ngoài đồng.
3.2.6.1 Chuẩn bị nguồn vi sinh vật
a) Chuẩn bị nguồn vi khuẩn: tham khảo mục 3.2.4.1a cho việc chuẩn bị dung
dịch huyền phù vi khuẩn để chủng vào trong hạt giống.
b) Chuẩn bị nguồn IMO: tham khảo mục 3.2.4.2a cho việc chuẩn bị dung dịch
huyền phù IMO để chủng vào trong hạt giống.
c) Cách chủng vi khuẩn vào xỉ than để chủng vào trong đất: tham khảo mục
3.2.5.2c cho công việc chủng vi khuẩn vào trong xỉ than để bón vào đất.
64
d) Cách chủng IMO vào trong xỉ than để chủng vào trong đất: tham khảo mục
3.2.5.2d cho công việc chủng IMO vào trong xỉ than để bón vào đất.
3.2.6.2 Chuẩn bị đất thí nghiệm
Đất được cuốc và lên luống với diện tích 7,5 m2 (1,5 m x 5 m) cho mỗi lô thí
nghiệm và chiều cao mặt liếp so với mặt đất là 30 cm, khoảng cách giữa 2 lô thí
nghiệm là 0,5 m và khoảng cách giữa 2 khối là 0,5 m. Sau đó, đất mặt được làm
nhuyễn, làm tơi xốp và làm sạch cỏ trước khi bố trí thí nghiệm.
3.2.6.3 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm ngoài đồng được tiến hành tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú,
tỉnh Sóc Trăng. Đặc tính của đất thí nghiệm được trình bày trong Bảng 3.8. Thí
nghiệm được thực hiện liên tục trong 2 vụ trên cùng 1 nền đất.
Bảng 3.8 Một số đặc tính đất trước khi bố trí thí nghiệm ngoài đồng tại xã Trường
Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng
Các chỉ tiêu
- (mg/kg)
+ (mg/kg)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Giá trị
5,88
1,45
1,90
1,96
8,12
0,101
1,68
6,47
3,10
14,2
2,84
pH
EC (mS/cm)
CHC (%)
NO3
NH4
Nts (%)
Pts (%P2O5)
Kts (%K2O)
Vi khuẩn (106 cfu.g-1)
Nấm (102 cfu.g-1)
Xạ khuẩn (104 cfu.g-1)
Ngày thu hoạch Ngày gieo
Thông tin về thời gian bố trí thí nghiệm các vụ rau muống và cải xanh được trình
bày trong Bảng 3.9. Hạt giống rau muống và cải xanh được ngâm trong dung dịch
huyền phù vi khuẩn ở mật số lần lượt 106 cfu.mL-1 và 107 cfu.mL-1 và hệ IMO với
nồng độ pha loãng 500 lần trong 4 giờ. Sau đó, hạt được giao trực tiếp vào đất với mật
độ gieo sạ 12 kg giống/1.000 m2 đối với cây rau muống và 500 g giống/1.000 m2 đối
với cải xanh.
Bảng 3.9 Thông tin về thời gian bố trí các thí nghiệm rau muống và cải xanh ngoài
đồng tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (04/2020-07/2020)
Thời gian sinh trưởng
Rau muống
Vụ 1
Vụ 2
Cải xanh
Vụ 1
Vụ 2
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối với 9 nghiệm thức và 3 lặp lại cho mỗi
nghiệm thức. Thông tin về các nghiệm thức thí nghiệm và sơ đồ bố trí thí nghiệm
ngoài đồng được trình bày lần lượt ở Bảng 3.10 và Hình 3.4.
65
27/05/2020
18/07/2020
27/05/2020
25/07/2020 27/04/2020
23/06/2020
27/04/2020
23/06/2020 30 ngày
26 ngày
30 ngày
33 ngày
Bảng 3.10 Thông tin chi tiết về các nghiệm thức thí nghiệm ngoài đồng cho cây rau
muống và cây cải xanh
STT Nghiệm thức Nội dung nghiệm thức Rau muống
1
2
3
4
5
6
7
8
9 NT1
NT2
NT3
NT4
NT5
NT6
NT7
NT8
NT9 Cải xanh
1
2
3
4
5
6
7
8
9 NT1
NT2
NT3
NT4
NT5
NT6
NT7
NT8
NT9 Đối chứng 100N- 48P2O5-24K2O
Đối chứng 75N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + chế phẩm sinh học EMpb
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
Đối chứng 70N- 48P2O5-24K2O
Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + chế phẩm sinh học EMpb
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.3
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn TP-1.4
52,5N-48P2O5-24K2O + vi khuẩn MQ-2.5
52,5N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
18 m
5,0 m
NT 3 NT5 NT2 1,5 m
NT2 NT8 NT5
NT8 NT5 NT7
NT9 NT7 NT9 20 m NT4 NT6 NT1
NT3 NT1 NT2
NT7 NT9 NT8
NT6 NT4 NT6
Lặp lại 1 Lặp lại 2 Lặp lại 3
NT1 NT3 NT4
Hình 3.4 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ngoài đồng tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú,
tỉnh Sóc Trăng (từ tháng 04 đến tháng 07 năm 2020)
Chế phẩm sinh học EMpb gốc của công ty TNHH Trung tâm Chế phẩm Sinh học
Thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng như nghiệm thức vi sinh đối chứng. Thành
phần vi sinh của chế phẩm sinh học này chứa nhóm vi khuẩn cố định đạm. Liều lượng
66
sử dụng theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất. Thông tin về chế phẩm sinh học
này được trình bày ở Phụ lục 4.
Vi khuẩn và IMO được cố định trước trong xỉ than (mục 3.2.6.1c và mục
3.2.6.1d), sau đó được chủng vào đất ở thời điểm 3 ngày trước khi bố trí thí nghiệm
với lượng 40 kg cho 1.000 m2 để đạt mật số 106 cfu.g-1 đất và 107 cfu.g-1 đất cho lần
lượt rau muống và cải xanh.
Dung dịch vi khuẩn với nồng độ 106 cfu.mL-1 đối với cây rau muống và 107
cfu.mL-1 đối với cải xanh và dung dịch IMO được pha loãng ở nồng độ 500 lần được
tưới vào đất theo từng nghiệm thức tương ứng vào các thời điểm 7, 14 và 21 ngày sau
khi gieo hạt.
Phân bón hóa học cho cây rau muống và cải xanh được bón lần lượt theo công
thức 100N-48P2O5-24K2O kg/ha và 70N-48P2O5-24K2O kg/ha (Cao Ngọc Điệp và
ctv., 2011; Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019). Lịch bón phân và thành phần
mỗi đợt bón cụ thể cho cây rau muống và cải xanh được trình bày trong Bảng 3.11.
Bảng 3.11 Lịch bón phân cho cây rau muống và cải xanh trong thí nghiệm ngoài đồng
tại xã Trường Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (04/2020-07/2020)
Loại phân
bón Công thức
kg/ha
100/75
48 Bón lần 1
(3NTKG)
(%)
0
100 Bón lần 2
(10NSKG)
(%)
50
0 Bón lần 3
(15NSKG)
(%)
30
0 Bón lần 4
(20NSKG)
(%)
20
0
24 50 20 20 10 Rau muống
N
P2O5
K2O
Cải xanh
N 70/52,5 0 50 30 20
48 100 0 0 0 P2O5
24 50 20 20 10
3.2.6.4 Chỉ tiêu theo dõi
a) Chỉ tiêu về sinh trưởng cây rau: Ghi nhận và phân tích các chỉ tiêu về sinh
trưởng của cây rau gồm chiều cao cây, số lá, đường kính thân đối với cây rau muống
và chiều cao cây, số lá, chiều dài lá, chiều rộng lá đối với cây cải xanh vào thời điểm
thu hoạch rau và hàm lượng chlorophyll tương đối trong lá rau được thu ở thời điểm
thu hoạch được xác định bằng máy đo Chlorophyll CCI 200 plus (đơn vị CCI).
b) Chỉ tiêu về năng suất rau: vào thời điểm thu hoạch, ở mỗi lô thí nghiệm tiến
hành thu hoạch 3 vị trí (Hình 3.5) và mỗi vị trí có tổng diện tích là 0,25 m2 (0,5 m x
0,5 m) thu hoạch phần rau trên mặt đất trong khung nhựa đã thiết kế tại mỗi vị trí trong
67
K2O
Quản lý cỏ dại và sâu hại trong suốt thời gian thí nghiệm bằng biện pháp cơ học
và sử dụng thuốc sâu sinh học để phòng trừ sâu và rầy mềm (tham khảo Phụ lục 11 và
Phụ lục 13 cho các loại thuốc sinh học sử dụng đề phòng trị sâu hại). Tiến hành thu
hoạch rau muống và cải xanh lần lượt sau 25-30 ngày và 30-35 ngày sau khi gieo hạt.
lô. Trước khi tiến hành thu sinh khối rau tươi tại mỗi vị trí đo đạc các chỉ tiêu nông
học của 4 cây rau theo hình vuông bên trong khung nhựa. Cân khối lượng rau tươi
(KLRT) thu được tại 3 vị trí.
Khối lượng rau tươi trung bình trong mỗi 0,25 m2 = (KLRTở vị trí 1 + KLRTở vị trí 2
+ KLRTở vị trí 3)/3
3
5 m
2
1
Hình 3.5 Vị trí thu mẫu để xác định năng suất rau muống và cải xanh trên mỗi
lô thí nghiệm
c) Chỉ tiêu về chất lượng của rau: Hàm lượng NO3
- và N tổng số trong thân lá
được phân tích vào thời điểm thu hoạch. Ngoài ra, các chỉ tiêu về vi khuẩn gây bệnh E.
coli, Coliform, Salmonella và Shigella trên rau cũng được kiểm tra và đánh giá.
- Hàm lượng nitrate (NO3
-) trong rau: được phân tích bằng phương pháp trích
với nước cất và hiện màu với dung dịch thuốc thử C (tham khảo thành phần dung dịch
tại phụ lục 3), sau đó đem so màu trên máy hấp thu quang phổ ở bước sóng 540 nm.
Quy trình thực hiện như sau: mẫu rau sau khi thu hoạch được rửa sạch dưới vòi nước
để loại bỏ đất và bụi bám trên bề mặt lá và thân cây, sau đó rửa sạch lại bằng nước khử
khoáng. Mẫu được cắt nhỏ, trộn đều mẫu và nghiền nhỏ bằng máy nghiền thực vật
tươi. Cân 10 g mẫu sau khi nghiền cho vào Falcon 50 mL, thêm nước khử khoáng đến
50 mL. Chưng cách thuỷ ở 100oC trong 10 phút và để nguội ở nhiệt độ phòng thí
nghiệm. Ly tâm loại bỏ sinh khối, dung dịch còn lại được lọc qua giấy lọc Whatman
kích thước 20 μm. Dung dịch sau khi lọc cho phản ứng qua đêm với dung dịch C (Phụ
lục 3) và sau đó đem so màu trên máy đo quang phổ ở bước sóng 540 nm.
- Hàm lượng đạm tổng số (Nts) trong sinh khối rau: được xác định bằng phương
pháp vô cơ mẫu và chưng Kjeldahl sau đó chuẩn độ bằng H3BO3 2% có chỉ thị màu.
Quy trình được thực hiện như sau: Mẫu rau sau khi thu hoạch được rửa sạch bằng
nước thường để loại bỏ đất và bụi bám trên bề mặt lá và rễ cây, sau đó rửa sạch lại
bằng nước khử khoáng. Mẫu sau khi rửa sạch được cho vào túi giấy sạch và được sấy
ở nhiệt độ 65oC trong 48 giờ trong tủ sấy. Mẫu sau khi sấy khô sẽ được nghiền mịn
bằng máy nghiền mẫu thực vật. Sau khi nghiền, mẫu được rây qua rây 1mm. Cân 0,3g
mẫu thực vật vào bình tam giác 100mL chịu nhiệt. Thêm 3,3 mL dung dịch công phá
mẫu gồm H2SO4 đậm đặc và acid salysilic và để mẫu qua đêm. Sau đó, tiến hành nung
mẫu ở nhiệt độ 180oC trong 2 giờ, để nguội và thêm 5 giọt H2O2 30% vào và tiếp tục
đun nóng từ trong 10 phút nữa cho đến khi xuất hiện khói trắng. Lặp lại tiến trình này
cho đến khi mẫu trắng hoàn toàn. Để nguội mẫu ở nhiệt độ phòng thí nghiệm và lên
định mức đến 50mL bằng nước khử khoáng và lắc đều mẫu. Dung dịch sau định mức
được dùng để xác định hàm lượng đạm tổng số bằng phương pháp chưng Kjeldahl.
68
1,5 m
- Xác định mật số vi khuẩn E. coli, Coliform, Salmonella và Shigella trên rau:
Mẫu rau sau khi được nghiền mịn được dùng để xác định mật số vi khuẩn gây bệnh
theo phương pháp MNP (Trần Linh Thước, 2006) và phương pháp đếm mật số khuẩn
lạc trên môi trường SS agar (Taylor and Harriss, 1965). Tham khảo mục 3.2.1.5 cho
phương pháp phân tích.
3.3 Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu được phân tích ANOVA bằng phần mềm MINITAB 16.2, phân tích
đa dạng vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn các hệ IMO trên gel polyarcryamide bằng phần
mềm Gel Compare II, phân tích mối liên hệ di truyền theo phương pháp UPGMA bằng
phần mềm MEGA_X_10.1.8.
69
CHƢƠNG 4
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Nội dung 1: Sự đa dạng về nhóm vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập
4.1.1 Đặc điểm sinh hóa của các hệ vi sinh vật bản địa thu thập
Tổng cộng có 20 hệ vi sinh vật bản địa đã được thu thập trong đó 19 hệ được thu
thập tại 19 địa điểm khác nhau trong tỉnh Sóc Trăng (Bảng 3.1) và 1hệ IMO hỗn hợp
được tạo ra từ hỗn hợp của các hệ vi sinh vật này. Ghi nhận chung về sự phát triển vi
sinh vật trong các mẫu cơm khi bẫy vi sinh vật ở điều kiện thực tế đồng ruộng như sau:
xung quanh vị trí đặt các rổ cơm để bẫy vi sinh vật có mùi thơm của nấm mốc, phần
cơm trong rổ sau 3 ngày đặt có nấm mốc màu trắng phủ đầy cả bên ngoài và bên trong
rổ cơm (Hình 4.1). Nhiệt độ các khối cơm ủ khá cao dao động từ 40oC đến 45oC và
khối lượng cơm giảm xuống đáng kể. Tuy nhiên, nhiệt độ của quá trình lên men tạo
IMO trong bình thủy tinh ở điều kiện phòng thí nghiệm thấp hơn, dao động khoảng
30oC đến 35oC và các mẫu IMO cuối cùng sau khi lên men có mùi thơm. Trong quá
trình lên men pH của các mẫu IMO giảm xuống nhanh chóng, sau 1 tuần lên men pH
của tất cả các mẫu dao động trong khoảng pH 3,2 đến pH 4,4 (Phụ lục 5). Những đặc
điểm này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Khalib et al, (2018) và Novia et al.
(2019) cho thấy nhiệt độ trong quá trình lên men của hệ IMO lên đến 48oC và pH của
các mẫu IMO dao động trong khoảng từ 3,83 đến 4,28.
A
B
Hình 4.1 Hình thái bên ngoài của hệ vi sinh vật bản địa IMO (A: sự phát triển của vi
sinh vật trên giá thể cơm và B: Hệ IMO sau quá trình lên men)
4.1.2 Sự hiện diện của vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập
Hai mươi hệ IMO thu thập được thực hiện phản ứng PCR để kiểm tra sự hiện
diện của 3 nhóm vi sinh vật chính bao gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn. Kết quả phản
ứng PCR bằng các cặp mồi đặc hiệu cho vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn được trình bày
70
trong Hình 4.2 cho thấy cả 3 nhóm vi sinh vật chính được phát hiện trong tất cả 20
mẫu IMO thu thập. Đối với vi khuẩn, cặp mồi 27F/1492R đã khuếch đại thành công
một đoạn ADN của gen mã hoá 16S-rRNA với chiều dài ~1.500 bp của vi khuẩn trong
20 mẫu IMO thu thập (Hình 4.2A). Kết quả này cho thấy có sự hiện diện của quần thể
vi khuẩn trong 20 hệ IMO thu thập từ 19 hệ thống cây trồng khác nhau. Tương tự, hai
mươi mẫu IMO thu thập cũng ghi nhận là có sự hiện diện kích thước của chuỗi mục
tiêu (~650 bp) khi phản ứng PCR bằng cặp mồi ITS1/ITS4 khuếch đại thành công
vùng ITS của nấm trong 20 mẫu IMO (Hình 4.2B). Do đó, quần thể nấm cũng có mặt
trong tất cả 20 mẫu IMO thu thập. Ngoài ra, cặp mồi đặc hiệu cho xạ khuẩn là
243F/1378R cũng khuếch đại thành công các chuỗi mục tiêu có kích thước ~1.100 bp
của gen 16S-rRNA của xạ khuẩn trong IMO (Hình 4.2C). Điều này đã chứng minh
rằng trong 20 mẫu IMO thu thập và khảo sát đều có sự hiện diện của xạ khuẩn.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
A
A
Kích thước
mục tiêu vi
khuẩn
(1500 bp)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
B
B
Kích thước
tiêu
mục
nấm (~650
bp)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
500 bp
C
C
Kích thước
mục tiêu xạ
khuẩn
(~1100 bp)
Hình 4.2 Kết quả sản phẩm PCR bằng các cặp mồi đặc hiệu để nhận diện nhóm vi
sinh vật trong hệ IMO (A: vi khuẩn; B: nấm và C: xạ khuẩn)
*Ghi chú: giếng 1 và giếng 16: thang chuẩn 100 bp; giếng 2: IMO tre; giếng 3: IMO luân canh; giếng
4: IMO chuối; giếng 5: IMO hành tím; giếng 6: IMO xà lách; giếng 7: IMO lúa; giếng 8: IMO dưa
hấu; giếng 9: IMO cỏ hoang; giếng 10: IMO bắp; giếng 11: IMO rau xen canh; giếng 12: IMO cam;
giếng 13: IMO bưởi; giếng 14: IMO ổi; giếng 15: IMO mía; giếng 17: IMO rau muống; giếng 18:
IMO mồng tơi; giếng 19: IMO ớt; giếng 20: IMO củ lùn; giếng 21: IMO ngò; giếng 22: IMO hỗn hợp
71
Như vậy, tóm lại, trong 20 mẫu IMO thu thập có chứa tổng cộng 3 hệ vi sinh vật
chính gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn, tuy nhiên, đề tài chưa thể nhận biết được là
chúng thuộc chi hay loài nào. Kết quả nghiên cứu này tương tự như nhận định của Kyu
and Koyama (1997), và các nghiên cứu của Kalsom and Sariah (2006) và Reddy
(2011) cho thấy các thành phần vi sinh vật chính trong các hệ IMO gồm vi khuẩn,
nấm, xạ khuẩn, tuyến trùng, nguyên sinh động vật... bởi vì các vi sinh vật trong IMO
có nguồn gốc từ thành phần các vi sinh vật trong đất. Do đó, các nghiên cứu tiếp theo
về mật số của 3 nhóm vi sinh vật chính này gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn cũng như
có hay không sự hiện diện của nhóm vi sinh vật gây bệnh trong các mẫu IMO là thật
sự cần thiết.
4.1.3 Sự đa dạng hệ vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong IMO
Do giới hạn về kích thước và số lượng giếng load mẫu trên gel polyacryamide và
để thuận tiện cho phần mềm Gel Compare II phân tích kết quả điện di nên 14 IMO thu
thập theo thứ tự từ 1 đến 14 được chọn để thực hiện đánh giá đa dạng vi sinh vật bằng
kỹ thuật sinh học phân tử DGGE. Kết quả đánh giá sự đa dạng của 3 nhóm vi sinh vật
chính trong 14 IMO thu thập bao gồm vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn bằng sinh học phân
tử với việc ứng dụng phương pháp nested-PCR kết hợp điện di DGGE và phân tích
tương quan bằng phần mềm Gelcompare II cho thấy có sự đa dạng cao về thành phần
của hệ vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong 14 mẫu IMO khảo sát.
4.1.3.1 Đa dạng quần thể vi khuẩn
Kết quả khảo sát về sự đa dạng của quần thể vi khuẩn trong các hệ IMO thu thập
được trình bày ở Hình 4.3 và Phụ lục 6A cho thấy có sự đa dạng cao về số lượng nhóm
vi khuẩn bản địa. Cụ thể, kết quả phân tích cho thấy số band trong các giếng dao động
trong khoảng từ 15-27 band và được phân bố ở nhiều vị trí khác nhau trên các giếng
trong gel polyacrylamide 8%. Chứng tỏ có ít nhất từ 15 đến 27 nhóm vi khuẩn khác
nhau trong các mẫu IMO thu thập được. Trong đó hệ IMO thu thập từ đất trồng tre tại
huyện Châu Thành (giếng 1) và IMO thu thập từ đất trồng lúa ở Mỹ Xuyên (giếng 6)
cho thấy có sự đa dạng về nhóm vi khuẩn cao nhất, với 27 band xuất hiện trong cả 2 hệ
IMO này, tuy nhiên chỉ số tương đồng về thành phần nhóm vi khuẩn của 2 hệ IMO này
chỉ đạt 46,9%, kế đến là IMO thu từ đất trồng rau màu luân canh (giếng 2) có 26 band
với chỉ số tương đồng về thành phần vi khuẩn với các hệ IMO còn lại là 25,5% và
cũng là hệ IMO có thành phần vi khuẩn khác với các hệ còn lại nhiều nhất. Các hệ
IMO còn lại có số band dao động từ 15–25 band, điều này chứng tỏ chúng có khoảng
15-25 nhóm vi khuẩn khác nhau trong các hệ IMO này. Hai hệ vi sinh vật bản địa IMO
có chỉ số tương đồng thành phần vi khuẩn cao nhất là hệ IMO thu từ đất trồng rau ở
Mỹ Xuyên (giếng 10) và hệ IMO thu từ đất trồng bắp ở Thạnh Trị (giếng 9) với chỉ số
tương đồng là 94%. Đáng chú ý là các hệ vi sinh vật bản địa thu thập ở đất trồng cam,
bưởi và ổi tại Kế Sách (giếng 11,12 và 13) cho thấy dù được thu ở các vườn lân cận
nhau nhưng có thành phần vi khuẩn khác nhau với chỉ số tương đồng của IMO bưởi và
72
IMO ổi là 75,4% và tương đồng với IMO cam là 46,9%. Tương tự, IMO của ruộng
dưa hấu và IMO đất cỏ hoang thu thập tại Long Phú có thành phần loài vi khuẩn tương
đồng nhau 56,1%.
Hình 4.3 Kết quả phân tích đa dạng thành phần vi khuẩn trong 14 hệ IMO thu thập
*Chú thích: TP-1: IMO tre; MQ-2: IMO luân canh; CP-3: IMO chuối; HV-4: IMO hành tím; RP-5:
IMO rau;LM- 6: IMO lúa; DL-7: IMO dưa hấu; CL-8: IMO cỏ hoang; BT-9: IMO bắp; RM-10: IMO
rau; CK-11: IMO cam; BK-12: IMO bưởi; OK-13: IMO ổi; MC-14: IMO mía.
Kết quả phân tích mối tương quan về thành phần vi khuẩn của các hệ IMO cho
thấy chúng thuộc 5 nhóm chính (Hình 4.3). Nhóm 1 gồm có các IMO thu thập từ đất
trồng mía tại Cù Lao Dung, cam tại Kế Sách, rau xen canh ở Mỹ Xuyên, bắp tại Thạnh
Trị và cỏ hoang lại Long Phú. Các IMO trong nhóm này có thành phần vi khuẩn tương
đồng nhau và dao động từ 68 đến 94%; Nhóm 2 gồm các hệ IMO thu thập từ đất trồng
rau xà lách Pháp tại phường 3, Thành phố Sóc Trăng, hành tím tại Vĩnh Châu và dưa
hấu tại Long Phú. Các IMO trong nhóm này cũng có thành phần vi khuẩn tương đồng
nhau với độ tương đồng dao động trong khoảng 68-78%; Nhóm 3 chỉ có IMO thu thập
từ đất trồng lúa tại Mỹ Xuyên, thành phần vi khuẩn của hệ này tương đồng về thành
phần vi khuẩn với nhóm 1 và 2 là 51%; Nhóm 4 gồm các IMO thu thập từ đất trồng ổi,
bưởi tại Kế Sách, chuối tại phường 7, Thành phố Sóc Trăng và đất trồng tre ở Châu
Thành với chỉ số tương đồng về thành phần loài vi khuẩn trong các hệ IMO này dao
động trong khoảng từ 53 đến 75% và Nhóm 5 có IMO thu thập từ đất trồng rau màu
luân canh tại phường 5, Thành phố Sóc Trăng và thành phần vi khuẩn trong hệ vi sinh
vật này rất khác biệt so với thành phần vi khuẩn của các IMO còn lại với chỉ số tương
đồng về thành phần vi khuẩn là 25,5%.
Ngoài ra, kết quả phân tích còn cho thấy mật số vi khuẩn của từng nhóm trong
một IMO cũng khác biệt nhau rõ rệt và được thể hiện qua độ đậm nhạt hay cường độ
sáng của các band xuất hiện trong gel và có trung bình có từ 2 đến 4 nhóm vi khuẩn
chiếm ưu thế trong mỗi IMO do sự hiện diện của chúng với số lượng lớn. Như vậy, có
73
thể thấy rằng các hệ vi sinh vật thu thập có chứa sự đa dạng cao về thành phần và mật
số các nhóm vi khuẩn, điều này do vị trí thu thập tại các điểm khác nhau cũng như loại
cây trồng trên đất khác nhau đã ảnh hưởng đến thành phần vi khuẩn trong các mẫu
IMO thu được.
Kết quả trong nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu nhằm đánh giá thành phần
vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập trong các hệ thống canh tác cây trồng khác nhau
trong mô hình canh tác hữu cơ ở Philippines bằng phương pháp PCR-DGGE. Kết quả
cho thấy thành phần các nhóm loài vi khuẩn và nấm không thay đổi ở các thời điểm
khảo sát gồm 0, 15 và 30 ngày sau khi lên men. Tuy nhiên, có sự thay đổi về mật số
của các nhóm vi sinh vật hiện diện trong IMO thông qua cường độ sáng của các band
ở cùng vị trí trên gel polyacryamide (http://organic.da.gov.ph).
4.1.3.2 Đa dạng quần thể nấm
Kết quả khảo sát sự đa dạng về quần thể nấm trong các hệ IMO thu thập được
trình bày trong Hình 4.4 và Phụ lục 6B cho thấy có sự đa dạng về quần thể nấm trong
các IMO và giữa các IMO có sự tương đồng khá cao về thành phần trong quần thể
nấm. Số nhóm nấm được phát hiện trong mỗi hệ vi sinh vật bản địa dao động trong
khoảng từ 10 đến 17 loài và mức độ tương đồng về thành phần loài dao động từ 39,2
đến 99,2%. Ngoại trừ hệ vi sinh vật bản địa thu thập từ đất trồng bắp, các hệ IMO còn
lại có chỉ số tương đồng về thành phần nấm khá cao và dao động từ 75,9 đến 99,2%,
trong khi hệ IMO thu từ đất trồng bắp có chỉ số tương đồng về thành phần nấm với các
hệ IMO khác là 39,2%. Trong đó 2 hệ IMO thu thập từ đất trồng tre tại Châu Thành
(giếng 1) và IMO thu thập từ đất trồng cam tại Kế Sách (giếng 11) có sự đa dạng về
thành phần nấm cao nhất và tương ứng với số band được phát hiện lần lượt là 17 và 16
band, tuy nhiên, chỉ số tương đồng thành phần nấm giữa 2 hệ này là 89,9%. Các hệ
IMO thu thập từ đất trồng bưởi, trồng ổi tại Kế Sách (giếng 13) và hệ IMO thu được từ
đất trồng mía tại Cù Lao Dung (giếng 14) có số nhóm nấm bằng nhau (10 nhóm) và có
độ tương đồng về thành phần nhóm loài khoảng 97,2%. Các IMO còn lại số nhóm nấm
dao động trong khoảng từ 11 đến 15 loài nấm với chỉ số tương đồng thành phần nấm
dao động từ 75,9 đến 97%. Tương tự như vi khuẩn, mật số nấm của từng nhóm loài
trong cùng một hệ IMO khác biệt nhau rõ rệt thể hiện qua sự xuất hiện các band có
cường độ sáng (độ đậm nhạt) khác nhau. Tuy nhiên, so với vi khuẩn thì số nhóm nấm
trong các hệ vi sinh vật bản địa thu thập được thấp hơn và giữa các IMO với nhau có
thành phần nấm tương đồng nhau cao hơn, chứng tỏ sự đa dạng về thành phần trong
quần thể nấm là ít hơn so với vi khuẩn.
74
Hình 4.4 Kết quả phân tích đa dạng thành phần nấm trong 14 hệ IMO thu thập
*Chú thích: TP-1: IMO tre; MQ-2: IMO luân canh; CP-3: IMO chuối; HV-4: IMO hành tím; RP-5:
IMO rau;LM- 6: IMO lúa; DL-7: IMO dưa hấu; CL-8: IMO cỏ hoang; BT-9: IMO bắp; RM-10: IMO
rau; CK-11: IMO cam; BK-12: IMO bưởi; OK-13: IMO ổi; MC-14: IMO mía. MIX: IMO hỗn hợp
4.1.3.3 Đa dạng quần thể xạ khuẩn
Kết quả phân tích đa dạng quần thể nấm trong các hệ IMO thu thập được trình
bày trong Hình 4.5 và Phụ lục 6C cho thấy có sự đa dạng về thành phần xạ khuẩn
trong 14 IMO thu thập với số lượng nhóm xạ khuẩn dao động từ 5 đến 14 nhóm trong
các hệ IMO và giữa các IMO có thành phần xạ khuẩn tương đồng nhau với tỷ lệ tương
đồng dao động từ 61,9 đến 95,5%. Phân tích mối quan hệ tương đồng về thành phần
nhóm xạ khuẩn có trong các hệ IMO cho thấy chúng được nhóm lại thành 4 nhóm
chính. Nhóm 1 gồm các hệ IMO thu thập từ đất trồng chuối tại Phường 7, Thành phố
Sóc Trăng (giếng 3) và rau xen canh tại xã Thạnh Quới, huyện Mỹ Xuyên (giếng 10).
Hai hệ IMO này có chỉ số tương đồng về thành phần nhóm loài đạt tỷ lệ 81,9%; Nhóm
2 gồm các hệ IMO thu thập từ đất trồng lúa tại huyện Mỹ Xuyên, bắp tại huyện Thạnh
Trị, rau xà lách Pháp tại Phường 3, Thành phố Sóc Trăng, cỏ hoang và dưa hấu tại
huyện Long Phú (giếng 5, 6, 7, 8 và 9). Các IMO trong nhóm này có thành phần xạ
khuẩn tương đồng nhau với tỷ lệ tương đồng dao động trong khoảng 86-92%; Nhóm 3
gồm các hệ IMO thu thập tại đất trồng ổi, cam tại huyện Kế Sách và mía tại huyện Cù
Lao Dung (giếng 11, 13 và 14) với chỉ số tương đồng về thành phần nhóm xạ khuẩn
trong các hệ IMO này dao động từ 86-95% và Nhóm 4 bao gồm 4 hệ IMO thu thập từ
đất trồng màu luân canh tại Phường 5, Thành phố Sóc Trăng, bưởi tại huyện Kế Sách,
tre tại huyện Châu Thành và hành tím tại huyện Vĩnh Châu (giếng 2, 12, 1 và 4).
Thành phần xạ khuẩn trong nhóm 4 này có độ tương đồng với nhóm 1 và 2 với tỷ lệ
tương đồng đạt 51%. Độ tương đồng về thành phần xạ khuẩn của 4 nhóm này dao
động trong khoảng từ 61,9-77,7%.
75
Hình 4.5 Kết quả phân tích đa dạng thành phần xạ khuẩn trong 14 hệ IMO thu thập
*Chú thích: TP-1: IMO tre; MQ-2: IMO luân canh; CP-3: IMO chuối; HV-4: IMO hành tím; RP-5:
IMO rau;LM- 6: IMO lúa; DL-7: IMO dưa hấu; CL-8: IMO cỏ hoang; BT-9: IMO bắp; RM-10: IMO
rau; CK-11: IMO cam; BK-12: IMO bưởi; OK-13: IMO ổi; MC-14: IMO mía.
Nhìn chung, hệ vi sinh vật trong các hệ IMO thu thập rất phong phú chứa các
thành phần khác nhau của các quần thể vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn, tuy nhiên chúng
chỉ là một phần nhỏ trong tổng số vi sinh vật trong đất, chúng góp phần quan trọng
trong quá trình hình thành, cải tạo đất, quá trình phân hủy hợp chất hữu cơ, chu trình
chuyển hóa các chất quan trọng trong đất, cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây trồng.
Trong các hệ IMO thu thập sự tương đồng về thành phần xạ khuẩn là khá cao với chỉ
số tương đồng về các nhóm trong quần thể xạ khuẩn giữa các hệ IMO dao động từ 61-
95,5%, trong khi vi khuẩn và nấm có thành phần nhóm trong quần thể vi khuẩn và
nấm thấp hơn và lần lượt tương ứng với 25-94% cho vi khuẩn và 39-99% cho nấm.
Tóm lại, vi sinh vật trong đất trồng trọt rất đa dạng nói chung và trong các hệ IMO thu
thập từ đất trồng nói riêng, bao gồm sự đa dạng về quần thể vi khuẩn, xạ khuẩn và
nấm. Trong các hệ IMO này có thể chứa nhiều vi sinh vật có lợi cho cây trồng có chức
năng cố định đạm, phân giải lân, tổng hợp kích thích tố tăng trưởng thực vật cho cây
trồng do đó việc khảo sát đánh giá mật số vi sinh vật và đánh giá các chức năng có lợi
của chúng trong các hệ IMO là cần thiết.
4.1.4 Mật số vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong các hệ IMO thu thập
Kết quả khảo sát mật số vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn trong 20 hệ IMO khác nhau
được trình bày trong Bảng 4.1 cho thấy mật số của 3 nhóm vi sinh vật chính trong các
hệ IMO khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) và trong cùng một hệ
IMO mật số của vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn cũng khác nhau. Nhìn chung, trong mỗi hệ
IMO, quần thể vi khuẩn có mật số cao hơn so với hai nhóm quần thể vi sinh vật còn lại
(nấm và xạ khuẩn) và là thành phần vi sinh vật chính trong các hệ IMO thu thập.
76
4.1.4.1 Mật số vi khuẩn
Kết quả khảo sát mật số trong các hệ IMO thu thập ở Bảng 4.2 cho thấy mật số vi
khuẩn trong các hệ IMO thu từ các hệ thống canh tác cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc
Trăng có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
Bảng 4.1 Mật số vi sinh vật của 20 hệ IMO thu thập trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng sau
38 ngày lên men
Mật số vi sinh vật STT Nguồn gốc hệ IMO thu
thập Nấm
(105 cfu.g-1) Xạ khuẩn
(105 cfu.g-1)
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Nhìn chung, mật số vi khuẩn trong các hệ IMO dao động trong khoảng từ 1,90 x
107 đến 2,13 x 109 cfu.g-1 IMO, trong đó hệ IMO thu thập từ đất trồng ổi có mật số vi
khuẩn cao nhất (2,13 x 109 cfu.g-1 IMO) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so
với mật số vi khuẩn của các hệ IMO còn lại. Kế đến là hệ IMO thu thập từ đất trồng ớt
với mật số đạt 5,85 x 108 cfu.g-1, cũng khác biệt có ý nghĩa so với các hệ IMO còn lại
(p<0,05). Tiếp theo, các hệ IMO thu thập từ đất trồng bắp, rau xen canh và đất trồng
mía có mật số vi khuẩn cao đứng hàng thứ 3 với mật số vi khuẩn cho cả ba hệ này đạt
3,2 x 108 cfu.g-1 IMO. Ngược lại, mật số vi khuẩn thấp nhất được tìm thấy trong hệ
IMO thu thập từ hệ thống luân canh cây trồng, đất trồng chuối, hành tím, bưởi, mồng
tơi, củ lùn và đất trồng ngò gai với số lượng vi khuẩn dao động trong khoảng từ 2,15
x107-8,45 x107 cfu.g-1 IMO, trong khi các hệ IMO còn lại có số lượng vi khuẩn cao
hơn và dao động trong khoảng từ 1,18 x 108 đến 2,84 x 108 cfu.g-1 IMO.
77
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20 Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách pháp
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò
IMO hỗn hợp
F
CV (%) Vi khuẩn
(107 cfu.g-1 )
13,3cde
3,70e
2,15e
4,75e
13,6cde
13,2cde
24,9cde
21,1cde
32,5c
32,4c
28,4cd
8,5de
212,5a
32,5c
13,5cde
1,90e
58,5b
5,55de
5,20de
11,8cde
*
381 144a
20,5cd
91,5b
27,0cd
2,05d
51,5c
140a
2,05d
3,00d
3,55d
2,65d
24,0cd
93,5b
32,5cd
1,35d
3,60d
2,60d
8,00d
1,35d
30,5cd
*
137 3,67f
2,80f
1,93f
2,93f
51,3bcd
113a
118a
61,3bc
30,0def
24,7def
2,60f
2,60f
3,27f
18,0ef
24,0def
36,7cde
6,33f
70,0b
39,3cde
24,0def
*
111
4.1.4.2 Mật số nấm
Đối với quần thể nấm kết quả khảo sát mật số trong các hệ IMO được trình bày
trong Bảng 4.2 cũng cho thấy mật số nấm trong tất cả IMO thấp hơn so với mật số vi
khuẩn và trong các hệ IMO khác nhau thì mật số nấm khác biệt nhau có ý nghĩa thống
kê (p<0,05). Mật số nấm của hệ IMO được thu thập từ đất trồng tre và dưa hấu cao
nhất với mật số nấm lần lượt đạt 1,43 x 107 và 1,40 107 cfu.g-1 IMO và khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với các hệ IMO còn lại. Kế đến là hệ IMO thu thập từ đất trồng
chuối và đất trồng ổi với mật số nấm đạt lần lượt 9,15 x 106 và 9,35 x 106 cfu.g-1 IMO.
Tiếp theo là các IMO thu thập từ đất luân canh, đất trồng hành tím, lúa, bưởi, mía có
mật số nấm dao động trong khoảng từ 2,10 x 106-5,15 x 106 cfu.g-1 IMO. Trong khi,
các IMO còn lại được thu thập từ đất trồng xà lách Pháp, rau muống, mồng tơi, củ lùn,
ngò gai, ớt, bắp, rau xen canh, vườn cam và đất đồng cỏ có mật số nấm thấp nhất với
mật số dao động từ 1,35 x 105 đến 8,00 x 105 cfu.g-1 IMO.
Như vậy, Mật số nấm trong các hệ IMO dao động từ 105 – 107 cfu.g-1 IMO, thấp
hơn rất nhiều so với mật số vi khuẩn (dao động từ 107-109 cfu.g-1 IMO).
4.1.4.3 Mật số xạ khuẩn
Mật số xạ khuẩn của 20 hệ vi sinh vật bản địa IMO thu thập được trình bày trong
Bảng 4.2. Kết quả cho thấy hai hệ IMO được thu thập từ ruộng lúa và dưa hấu có mật
số xạ khuẩn cao nhất với số lượng tương ứng là 1,13 x 107 và 1,180 x 107 cfu.g-1 IMO.
Trong khi mật số xạ khuẩn thấp nhất được tìm thấy trong hệ IMO từ tre, đất luân canh,
chuối, hành tím, cam, bưởi, ổi và ớt với mật số xạ khuẩn dao động từ 1,93 x 105 đến
6,33 x 105 cfu.g-1. Các IMO còn lại có mật số xạ khuẩn dao động trong khoảng 1,80 x
106 và 6,13 x 106 cfu.g-1
So với vi khuẩn (mật số từ 107-109 cfu.g-1) mật số xạ khuẩn thấp hơn và dao động
từ 105-107 cfu.g-1. Tuy nhiên mật số xạ khuẩn hiện diện trong các hệ IMO tương
đương với mật số nấm.
Trong nghiên cứu trước đây của Chiemela et al. (2013a) đã cho thấy hệ IMO thu
thập từ đất trồng tre có sự đa dạng về quần thể vi khuẩn với mật số 2,8 x 109 cfu.g-1,
tiếp theo là nấm ở mức 4,2 x 104 cfu.g-1. Trong nghiên cứu của chương trình hữu cơ
quốc gia Philippines năm 2017 đã chỉ ra rằng trong các hệ IMO thu thập vi khuẩn là
nhóm chiếm số lượng lớn nhất và là thành phần vi sinh vật chính trong các mẫu IMO,
trong đó chi vi khuẩn Bacillus, Sphigomonas, vi khuẩn lên men lactic hiện diện với
mật số cao, tiếp theo là các nhóm nấm men, và cuối cùng là nấm sợi
(http://organic.da.gov.ph). Tương tự, Abu-Bakar and Ibrahim (2013) đã sử dụng hệ vi
sinh vật bản địa IMO để ủ phân hữu cơ và có mật số vi khuẩn đạt 109 cfu.g-1 trong khi
số lượng nấm dao động trong khoảng từ 1,6 x 106-1,8 x108 cfu.g-1. Tổng mật số xạ
khuẩn được duy trì ở mức độ cao trong suốt quá trình ủ phân với mức 109 cfu.g-1 IMO.
Cũng theo các tác giả này có sự khác biệt lớn giữa các hệ IMO và trong cùng 1 IMO
về thành phần các nhóm vi sinh vật được cho là do nhiều yếu tố. Nghiên cứu của
78
Chiemela et al. (2013a) đã cho thấy sự phát triển của vi sinh vật trong các hệ IMO phụ
thuộc vào các yếu tố khác nhau như nguồn gốc hay địa điểm thu IMO, các yếu tố môi
trường như nhiệt độ, pH, thời gian đặt mẫu thu các IMO, độ ẩm trong đất,…cũng ảnh
hưởng đến thành phần vi sinh vật trong từng hệ IMO. Ngoài ra, Kyu and Koyama
(1997) còn cho rằng thời tiết của các mùa trong năm và loại gạo sử dụng để thu thập
IMO cũng ảnh hưởng đến số lượng và thành phần vi sinh vật thu được trong hệ vi sinh
vật bản địa. Tỷ lệ đường sử dụng để lên men tạo IMO cũng ảnh hưởng đến thành phần
vi sinh vật của hệ IMO. Cụ thể, việc sử dụng 100% molasses giúp nhóm vi khuẩn
Bacillus chiếm ưu thế hơn, trong khi việc sử dụng 20% đường molasses giúp kích
thích nhóm vi khuẩn lactic chiếm đa số. Bên cạnh đó, các giai đoạn khác nhau trong
quá trình lên men chứa các nhóm vi sinh vật khác nhau (http://organic.da.gov.ph).
Thêm vào đó nghiên cứu của Novia et al. (2019) đã cho thấy pH của hệ IMO trong
quá trình lên men IMO bị giảm xuống và pH của IMO quyết định thành phần vi sinh
vật hiện diện trong hệ IMO đó.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy có sự hiện diện số lượng lớn ba
nhóm vi sinh vật chính trong 20 hệ IMO khảo sát và do đó cả 20 hệ IMO này có thể
được coi là các nguồn vi sinh vật dồi giàu có thể sử dụng để cải tạo đất cũng như kích
thích sinh trưởng cây trồng. Tuy nhiên, việc xác định sự hiện của các nhóm vi khuẩn
gây bệnh cho người như Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella trong các hệ IMO
thu thập là cần thiết để đảm bảo an toàn trong canh tác cũng như tiêu dùng rau.
4.1.5 Sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh trong hệ IMO thu thập
Kết quả phân tích sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn gây bệnh cho người
Salmonella và Shigella trên môi trường chuyên biệt SS agar cho thấy không phát hiện
khuẩn lạc màu đen của vi khuẩn Salmonella hay màu nâu của vi khuẩn Shigella trên
môi trường SS agar trong tất cả 20 hệ IMO được phân tích (Hình 4.6A). Do đó, có thể
kết luận rằng đã không có sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh cho người nhóm
Salmonella và Shigella trong 20 hệ IMO thu thập. Điều này có thể giải thích là do
nhiệt độ và pH của các hệ IMO trong quá trình lên men để tạo ra các IMO đã ức chế sự
sinh trưởng và phát triển của các nhóm vi khuẩn gây bệnh này trong các hệ IMO thu
thập.
Tương tự, đối với nhóm vi khuẩn gây bệnh Coliform và E. coli, kết quả của thí
nghiệm khảo sát cũng cho thấy không có sự hiện diện của chúng trong tất cả 20 mẫu
IMO thu thập thông qua việc tất cả các mẫu được thử nghiệm đều không có độ đục
trong môi trường nuôi cấy lỏng và bọt khí không xuất hiện trong ống durham (Hình
4.6B). Do đó, có thể kết luận rằng nhóm vi khuẩn gây bệnh Coliform và E. coli không
tồn tại trong 20 mẫu của các hệ IMO thu thập. Điều này có thể được giải thích là do
các điều kiện môi trường lên men của các hệ IMO như nhiệt độ, pH và các yếu tố khác
trong quá trình lên men IMO không phù hợp để các nhóm vi khuẩn gây bệnh này tồn
tại và phát triển.
79
Hình 4.6 Kết quả kiểm tra sự hiện diện nhóm vi sinh vật gây bệnh trong các hệ IMO
thu thập (A: các đĩa môi trường SS agar không có sự hiện diện các khuẩn lạc
Salmonella (màu đen) và Shigella (màu nâu) sau 48 giờ nuôi cấy; B: các ống nghiệm
có môi trường LSB chứa các ống durham úp ngược không có bọt khí bên trong sau 48
giờ nuôi cấy)
Theo Molina et al. (2015) để đảm bảo an toàn thì việc kiểm tra và đánh giá sự
hiện diện các vi sinh vật gây bệnh trong chế phẩm hay phân bón vi sinh như
Salmonella, Shigella, Coliform và E. coli là cần thiết. Và kết quả phân tích trong
nghiên cứu này cho thấy mặt dù quần thể vi khuẩn trong IMO có sự đa dạng và mật số
cao trong mỗi hệ IMO, tuy nhiên, không phát hiện bất kỳ sự hiện diện của nhóm vi
khuẩn gây bệnh nào như Salmonella, Shigella, Coliform và E. coli. Điều này có thể do
nhóm vi sinh vật này không xâm nhiễm vào trong các hệ IMO hoặc do nhiệt độ được
sinh ra trong quá trình lên men IMO trong khoảng 40oC – 45oC cùng với việc pH giảm
xuống trong quá trình lên men tạo IMO (pH 3,2 - pH 4,4) đã ức chế và giết chết nhóm
vi sinh vật gây bệnh này nên không có sự hiện diện của chúng trong các hệ IMO thu
thập (mục 4.1.1). Kết quả nghiên cứu này tương tự như nghiên cứu của Khalib et al,
(2018) và tác giả đã chỉ ra nhiệt độ lên đến 48oC của khối ủ IMO đã tiêu diệt các vi
sinh vật gây bệnh. Trong khi nghiên cứu của Novia et al. (2019) cũng đã chúng minh
rằng pH trong hỗn hợp IMO dao động từ pH 3,83 đến pH 4,28 đã ức chế hoàn toàn các
vi sinh vật gây bệnh trong hệ IMO. Ngoài ra, bằng phương pháp truyền thống
Chiemmela et al. (2013a) và Desire et al. (2018) đã phân lập vi khuẩn và nấm trong
các hệ IMO đã chỉ ra rằng không có thành phần vi khuẩn và nấm gây bệnh trong các
hệ IMO khảo sát. Đáng lưu ý là bằng phương pháp hiện đại các nghiên cứu của
Tomaru et al. (2014), Kelikuli (2018) và Novia et al. (2019) đã sử dụng kỹ thuật
nested PCR kết hợp DGGE rồi tiến hành thu hồi và giải trình tự ADN vi khuẩn và nấm
trong IMO cho thấy không có sự hiện diện nhóm vi khuẩn hay nấm gây bệnh nào
trong các hệ IMO. Như vậy, kết quả nghiên cứu này cho thấy tất cả 20 hệ IMO được
khảo sát không có bất kỳ sự nhiễm vi khuẩn gây bệnh nhóm Salmonella, Shigella,
Coliform và E. coli.
Tóm lại nghiên cứu về sự đa dạng vi sinh vật trong 20 mẫu IMO thu thập ở các
hệ thống canh tác cây trồng khác nhau ở Sóc Trăng đã xác định có sự đa dạng nhóm vi
80
sinh vật trong các hệ IMO, bao gồm sự hiện diện của nhóm vi khuẩn, nấm và xạ
khuẩn. Trong đó, vi khuẩn được xem là nhóm vi sinh vật chiếm ưu thế nhất. Ngoài ra
trong từng nhóm vi sinh vật cũng cho thấy có sự đa dạng về thành phần các nhóm vi
khuẩn, nấm và xạ khuẩn. Nghiên cứu cũng đã xác định rằng sự đa dạng trong địa điểm
thu mẫu, loại cây trồng trên đất thu thập IMO khác nhau dẫn đến thành phần các nhóm
vi khuẩn, xạ khuẩn và nấm trong các hệ IMO khác nhau. Điều này có thể ảnh hưởng
đến chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng của IMO. Bên cạnh đó kết quả nghiên
cứu còn cho thấy không có sự hiện diện của nhóm vi khuẩn gây bệnh cho người như
Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella trong tất cả 20 hệ IMO thu thập nên các hệ
IMO này được xem là nguồn vi sinh vật bản địa an toàn có thể dùng trong canh tác rau.
Theo Reddy (2011) vi sinh vật bản địa IMO là nguồn vi sinh vật tốt cho canh tác do
chúng đã tồn tại và thích nghi với điều kiện chuyên biệt của địa phương và chúng được
coi là nguồn vi sinh vật bản địa giúp cải thiện đất và cây trồng an toàn, hiệu quả nhất.
Hơn nữa, giữa các nhóm vi sinh vật trong các hệ IMO có mối quan hệ rất chặt chẽ và
hỗ trợ nhau, có sự sắp xếp về vai trò, vị trí và nhiệm vụ rất rõ ràng để thực hiện tốt
chức năng của mình một cách hài hoà trong cộng đồng. Vì vậy đánh giá các chức năng
có lợi cho cây trồng như cố định đạm và tổng hợp IAA của 20 hệ IMO thu thập cũng
thật sự cần thiết.
4.2 Nội dung 2: Chức năng kích thích sinh trƣởng cây trồng của các hệ IMO thu
thập
Kết quả nghiên cứu về khả năng sinh tổng hợp IAA của 20 hệ IMO được trình
bày trong Bảng 4.2 và Hình 4.7. Kết quả cho thấy tất cả 20 hệ IMO thu thập đều có
khả năng tổng hợp IAA, khả năng tổng hợp IAA của các hệ IMO khảo sát khác biệt ý
nghĩa thống kê (p<0,01) và lượng IAA tổng hợp được thay đổi theo thời gian nuôi cấy.
Hoạt động tổng hợp IAA của các hệ IMO được xảy ra rất sớm (sau 1-2 ngày thí
nghiệm) và hàm lượng IAA tổng hợp bởi các hệ IMO dao động mạnh trong khoảng từ
từ 9,23 đến 74,0 mg.L-1 IAA. Lượng IAA cao nhất sau hai ngày chủng được tìm thấy ở
hệ IMO thu thập từ ruộng rau muống với nồng độ đạt 74,0 mg.L-1 IAA và khác biệt có
ý nghĩa so với các hệ IMO còn lại. Khả năng tổng hợp IAA cao thứ 2 thuộc về IMO
được thu thập từ đất ruộng lúa với nồng độ IAA đạt 56,6 mg.L-1. Các hệ IMO thu thập
từ đất trồng bắp, cam, mồng tơi và hỗn hợp có khả năng tổng hợp IAA khá tốt với
nồng độ IAA được ghi nhận trong môi trường NBRIP nuôi cấy lỏng dao động từ 40,6
mg.L-1 đến 44,3 mg.L-1. Khả năng tổng hợp IAA thấp nhất được tìm thấy ở 3 hệ IMO
được thu thập từ đất luân canh cây trồng, đất trồng chuối và đất trồng rau xen canh,
với lượng IAA tổng hợp lần lượt đạt 9,66 mg.L-1, 9,23 mg.L-1 và 10,7 mg.L-1. Ngoài
ra, 11 hệ IMO còn lại có khả năng tổng hợp IAA dao động trong khoảng 12,0 - 35,4
mg.L-1. Đặc biệt, hệ IMO hỗn hợp thể hiện khả năng tổng hợp IAA khá cao và ổn định
81
4.2.1 Tổng hợp IAA
trong suốt thời điểm khảo sát, với nồng độ IAA tổng hợp trong môi trường nuôi cấy
cao nhất đạt 42,6 mg.mL-1.
Hình 4.7 Nồng độ IAA được tổng hợp cao nhất bởi 20 hệ IMO thu thập trong môi
trường NBRIP có bổ sung tryptophan (100 mg.L-1) trong thời gian 6 ngày nuôi cấy
Bảng 4.2 Nồng độ IAA (mg.L-1) trong môi trường NBRIP lỏng bổ sung tryptophan
được tổng hợp bởi 20 hệ IMO thu thập sau 6 ngày nuôi cấy
Nồng độ IAA tổng hợp (mg.L-1)
*Lưu ý: trong cùng một cột các giá trị có phần chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0,01) theo phương pháp kiểm định Tukey.
82
STT Nguồn gốc IMO
Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách pháp
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò
Hỗn hợp
F
CV (%) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20 Ngày 3
27,0de
4,67jk
8,17ij
13,4ghi
33,1bc
40,3a
24,6ef
24,2ef
43,6a
0,00k
22,5ef
18,9fg
14,4gh
38,8ab
31,2cd
23,1ef
12,0hi
25,7de
12,2hi
27,2de
*
52,9 Ngày 5
27,7b
8,27ghi
2,33jk
13,4fg
34,7a
34,7a
35,9a
1,33k
23,6bcd
0,00k
36,4a
21,0cde
12,8fgh
15,5ef
20,4de
16,8ef
7,29hij
26,6bc
4,84ijk
25,1bcd
*
64,7 Ngày 6
17,5hij
4,11kl
0,70l
7,15k
29,9bc
32,8b
28,5bcd
3,63kl
23,8efg
0,00l
41,8a
23,0fgh
15,0j
17,0ij
19,9ghi
15,7ij
4,2kl
24,4def
6,33k
27,9cde
*
68,7 Ngày 1
18,6ab
6,54gh
3,07ij
17,3b
3,29ij
8,12cfg
17,3b
1,40j
2,48j
10,7def
13,6cd
11,3de
16,2bc
5,79ghi
13,6cd
15,7bc
3,45hij
20,7a
19,8def
7,86fg
*
57,7 Ngày 2
28,8ef
9,66i
9,23i
17,2gh
27,8ef
56,6a
30,5de
25,4ef
23,7f
0,00j
24,9ef
23,6f
16,0h
23,2fg
74,0a
42,2c
3,63ij
35,4d
24,9ef
42,6c
*
63,9
Về xu hướng tổng hợp IAA của các hệ vi sinh vật bản địa khảo sát cho thấy các
hệ IMO thu thập có khả năng tổng hợp IAA cao và sớm. Trong đó, lượng IAA tổng
hợp cao nhất được ghi nhận ở thời điểm 1 và 2 ngày sau khi nuôi cấy (16 hệ IMO).
Trong khi 2 hệ IMO thu từ đất trồng bắp và ớt có hàm lượng IAA tổng hợp đạt cao
nhất vào thời điểm 3 ngày sau khi nuôi cấy. Hệ IMO thu từ đất trồng dưa hấu đạt cao
nhất vào ngày 5 và hệ IMO từ đất trồng cam đạt cao nhất vào thời điểm 6 ngày thí
nghiệm. Việc tổng hợp IAA sớm có thể giúp vi sinh vật trong hệ thích nghi tốt hơn
trong môi trường nuôi cấy mới hoặc có thể do các vi sinh vật tiết chất kích thích sinh
trưởng nhằm hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhóm vi sinh vật trong quá trình sinh trưởng.
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên đánh giá chức năng tổng hợp IAA của các
hệ vi sinh vật bản địa và kết quả cho thấy 20 hệ vi sinh vật bản địa thu thập tại Sóc
Trăng có khả năng tổng hợp IAA tốt. Khi so sánh với các nghiên cứu về khả năng tổng
hợp IAA của các dòng đơn vi sinh vật được phân lập cho thấy các hệ IMO của nghiên
cứu này có khả năng tổng hợp IAA tương đương với các dòng thuần vi sinh vật phân
lập đã được nghiên cứu và công bố trước đây. Cụ thể, các kết quả nghiên cứu trước
đây của Ahmad et al. (2005) khi khảo sát khả năng tổng hợp IAA của 10 dòng
Azotobacter sp. và 11 dòng Pseudomonas sp. trong môi trường chứa tryptophan (0, 1,
2 và 5 µg/mL) đã cho thấy 7 dòng vi khuẩn Azotobacter sp. cho khả năng tổng hợp
IAA cao và dao động từ 7,3 đến 32,8 µg.mL-1 khi thêm 5 µg/mL tryptophan trong khi
các dòng Pseudomona sp. có khả năng tổng hợp IAA dao động từ 41,0 µg.mL-1 đến
53,2 µg.mL-1 IAA. Hơn nữa, Ahmad et al. (2008) đã phân lập và khảo sát vi khuẩn
vùng rễ sống tự do cho thấy khả năng tổng hợp IAA cao nhất của chúng khi môi
trường nuôi cấy được bổ sung với 500 μg.mL-1 tryptophan và lượng IAA dao động
trong khoảng từ 7,03 µg.mL-1 đến 22,0 µg.mL-1. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Phương
Oanh và ctv. (2013) đã phân lập từ đất vùng rễ lúa và đã tuyển chọn được 5 dòng vi
khuẩn có khả năng tổng hợp IAA dao động từ 28,6-42,1 µg.mL-1. Cùng thời điểm đó,
Nguyễn Thị Huỳnh Như và ctv. (2013) đã đánh giá khả năng tổng hợp IAA của 2 dòng
vi khuẩn nội sinh trong cây chuối cho thấy hàm lượng IAA tổng hợp cao nhất đạt 3,16
µg.mL-1 và 3,07 µg.mL-1. Tương tự, Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Thị Thủy
(2015) đã phân lập và tuyển chọn được 2 chủng vi khuẩn Azotobacter có khả năng
sinh tổng hợp IAA cao nhất đạt 10,1 µg.mL-1 và 12,9 µg.mL-1. Nguyễn Anh Huy và
Nguyễn Hữu Hiệp (2018) đã đánh giá các dòng vi khuẩn chịu mặn và cho thấy chúng
có khả năng tổng hợp IAA dao động trong khoảng từ 45,3 đến 46,5 µg.mL-1. Như vậy
so với các kết quả nghiên cứu trước đây, có thể thấy rằng các hệ IMO trong nghiên
cứu này có khả năng tổng hợp IAA bằng hoặc cao hơn các dòng thuần vi sinh vật phân
lập và tuyển chọn. Do đó tiềm năng sử dụng các hệ IMO trong canh tác nông nghiệp
nhằm giúp kích thích sinh trưởng cây trồng là rất lớn.
83
4.2.2 Cố định đạm
4.2.2.1 Gen chức năng nifH trong các hệ IMO
Kết quả phản ứng PCR dò tìm gen chức năng nifH trong 20 hệ IMO được trình
bày ở Hình 4.8 cho thấy cả 20 giếng đều có 1 band rõ nét ở vị trí kích thước đặc trưng
cho gen chức năng này (khoảng 360 bp). Điều này chứng tỏ trình tự mục tiêu 360 bp
của gen nifH được phát hiện có trong ADN tổng của 20 hệ IMO mặc dù không có sự
thay đổi rõ ràng về kích thước của các sản phẩm gen nifH giữa chúng. Điều này chứng
tỏ các hệ IMO có chứa các vi khuẩn mang gen nifH, hay nói cái khác là có sự hiện
diện của vi khuẩn cố định đạm trong 20 hệ IMO thu thập này.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
Kích thước
mục tiêu
(360 bp)
500 bp
Hình 4.8 Kết quả PCR bằng các cặp mồi đặc hiệu polF/polR dùng để nhận diện gen
chức năng cố định đạm sinh học NifH của 20 hệ IMO thu thập
*Ghi chú: giếng 1 và giếng 21: thang chuẩn 100 bp ; giếng 2: IMO tre; giếng 3: IMO luân canh;
giếng 4: IMO chuối; giếng 5: IMO hành tím; giếng 6: IMO xà lách; giếng 7: IMO lúa; giếng 8: IMO
dưa hấu; giếng 9: IMO cỏ hoang; giếng 10: IMO bắp; giếng 11: IMO rau xen canh; giếng 12: IMO
cam; giếng 13: IMO bưởi; giếng 14: IMO ổi; giếng 15: IMO mía. giếng 16: đối chứng âm; giếng 17:
IMO rau muống ; giếng 18: IMO mồng tơi; giếng 19: IMO ớt; giếng 20: IMO củ lùn; giếng 22: IMO
ngò; giếng 23: IMO hỗn hợp
tốt như Azospirillum brasilense, Azospirillum
Kích thước của trình tự mục tiêu của gen nifH xấp xỉ 360 bp, phù hợp với nghiên
cứu trước đây của Poly et al. (2001a và 2001b) cũng đã sử dụng cặp mồi polF/polR để
phát hiện gen chức năng nifH và cho thấy các mồi này rất nhạy với 5 dòng vi khuẩn cố
định N2
lipoferum, Rhizobium
leguminosarum, Sinorhizobium và Frankia alu. Tương tự, Nguyễn Hữu Hiệp và ctv.
(2005) đã phân lập được 20 dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm từ rễ và thân lúa
hoang, lúa trồng và một số loại cỏ ở ruộng lúa có các đặc tính giống như vi khuẩn
Azospirillum và sử dụng cặp mồi chuyên biệt polF/polR để nhận diện chúng bằng kỹ
thuật PCR. Kết quả cho thấy có 8/20 dòng có các band ADN ở vị trí 360 bp giống như
dòng vi khuẩn đối chứng Azospirillum lipoferum.
Kết quả nghiên cứu này chứng tỏ trong các hệ vi sinh vật thu thập được tại các hệ
thống canh tác cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc Trăng có chứa những vi khuẩn mang
gen tiềm năng và chức năng lớn trong cố định đạm sinh học.
84
4.2.2.2 Khả năng cố định đạm sinh học của 20 hệ IMO trong môi trường Burk's lỏng
Kết quả khảo sát về khả năng cố định đạm trong môi trường Burks lỏng theo thời
gian nuôi cấy của 20 hệ IMO khảo sát được trình bày trong Bảng 4.3 cho thấy hầu hết
các hệ IMO khảo sát đều có khả năng cố định đạm và có sự khác biệt đáng kể giữa các
hệ IMO về khả năng này.
Bảng 4.3 Hàm lượng đạm tổng số tăng thêm trong môi trường Burks lỏng sau 5 ngày
nuôi cấy của các IMO thu thập
STT Nguồn gốc IMO
thu thập Nồng độ N (mg.L-1)
Ngày 3 Ngày 2 Ngày 1 Cao nhất
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20 Ngày 5
0,00
0,00
0,00
0,09
0,00
0,00
0,00
0,28
0,00
0,00
0,00
0,25
0,00
0,00
2,72
0,86
2,01
0,00
4,33
0,00 6,26
4,09
4,62
5,42
0,98
4,12
3,12
2,88
0,10
0,00
0,55
0,90
0,31
0,93
6,57
8,13
8,09
5,33
4,33
0,03 6,26
4,09
4,62
5,42
0,98
4,12
3,12
2,45
0,00
0,00
0,40
0,16
0,31
0,43
3,97
2,67
2,48
1,69
0,00
0,00 6,21
1,41
2,92
2,99
0,01
1,34
0,36
2,88
0,10
0,00
0,28
0,90
0,19
0,93
1,78
2,85
1,30
2,57
1,91
0,00 Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò
Hỗn hợp
85
0,42
0,00
0,12
0,00
0,00
0,00
0,00
0,00
0,00
0,00
0,55
0,74
0,00
0,92
6,57
8,13
8,09
5,33
3,97
0,03
Có 12 trong tổng số 20 hệ IMO có khả năng cố định đạm thêm hơn 2 mg.L-1 N
sau 5 ngày nuôi cấy và lượng N cố định được dao động từ 0,03 đến 8,13 mg.L-1.
Lượng đạm cố định được cao nhất được tìm thấy ở hệ IMO thu thập từ đất trồng mồng
tơi sau hai ngày nuôi cấy, kế đến là hệ IMO thu thập từ đất trồng ớt với khả năng cố
định đạm cao thứ 2 và đạt 8,09 mg.L-1 N. Khả năng cố định đạm cao thứ 3 và thứ 4
thuộc về các hệ IMO thu thập trên đất trồng rau muống và đất trồng tre với lượng N cố
định tương ứng là 6,56 và 6,26 mg.L-1. Lượng N được cố định bởi các hệ IMO thu
thập từ đất luân canh, đất trồng chuối, lúa, dưa hấu, cỏ hoang, củ lùn và đất trồng ngò
gai tương đối cao với lượng đạm cố định dao động từ 2,88 đến 5,42 mg.L-1. Tám hệ
IMO còn lại có lượng đạm cố định thấp hơn 1 mg.L-1 N và thấp nhất là hệ IMO thu từ
đất xen canh. Điều này có thể giải thích là do trong 8 hệ vi sinh vật này có thể có các
nhóm vi sinh vật chuyển hoá đạm để tạo các hợp chất đạm dạng khí bay hơi NO, N2O
và N2, hoặc nhóm vi sinh vật phân huỷ hoạt động mạnh hơn nên phân giải các vi sinh
vật trong môi trường nuôi cấy để lấy nguồn đạm. Ngoài ra kết quả khảo sát cũng cho
thấy khả năng cố định đạm của các hệ IMO thu thập không chỉ khác nhau mà còn biến
động đáng kể trong thời gian bố trí thí nghiệm.
Như vậy rõ ràng các hệ IMO thu thập trong nghiên cứu này có mang gen chức
năng cố định đạm nifH và trong điều kiện môi trường sống khuyết đạm các gen này đã
hoạt động giúp vi khuẩn có thể duy trì được hoạt động sống thông qua hoạt động cố
định đạm từ không khí. Tuy nhiên, so với các nghiên cứu trước đây trên các đối tượng
là dòng/chủng vi khuẩn cố định đạm phân lập của Davis et al. (1964), Thavasi et al.
(2006) Mazumdar and Deka (2013), Smita and Goyal (2017), Nguyễn Thị Phương
Oanh và ctv. (2013), Nguyễn Thị Huỳnh Như và ctv. (2013), Nguyễn Thị Thu Hằng và
Nguyễn Thị Thủy (2015), Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp (2018) cho thấy
lượng đạm mà các hệ IMO cố định được thấp hơn nhiều so với các dòng vi sinh vật
đơn. Điều này có thể giải thích là do các nhóm vi khuẩn tiêu thụ N, đặc biệt là các
+ hoặc
nhóm khử nitơ trong mỗi hệ IMO có thể làm giảm N bằng cách chuyển NH4
- thành các dạng N khác như khí NO, N2O và N2. Điều này cũng giải thích cho sự
NO3
biến động mạnh mẽ của hàm lượng đạm tổng số trong môi trường Burks lỏng theo thời
gian nuôi cấy và sự tồn tại các hoạt động cạnh tranh của hai nhóm vi sinh vật: cố định
N và tiêu thụ N trong tất cả các hệ IMO khảo sát (Robertson and Groffman, 2015).
Mặc dù các hệ IMO khảo sát chứa nhóm sinh vật chỉ cố định một lượng nhỏ N, nhưng
chúng có thể có vai trò quan trọng trong việc duy trì các quần thể trong hệ sinh thái tự
nhiên và cung cấp đạm cho các hệ sinh thái này (Hillel, 2007).
Những kết quả đánh giá về chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng của các hệ
IMO trong nghiên cứu này đã cung cấp thêm kiến thức và thông tin mới về các hệ vi
sinh vật bản địa về 3 chức năng có lợi cho cây trồng gồm tổng hợp IAA, cố định đạm
và trong đó một số hệ IMO có những chức năng này tương đương hoặc cao hơn so với
các dòng vi sinh vật thuần được phân lập trong các nghiên cứu trước đây. Ngoài ra
chúng còn có khả năng đối kháng sinh học với nấm bệnh và phân huỷ sinh học các vật
liệu hữu cơ như rơm rạ, xác mía,… Điều này phù hợp với các nhận định của Kyu and
Koyama (1997), Jensen et al., (2006), Kalsom and Sariah (2006), Reddy (2011)
Kumar and Gopal (2015). Đặc biệt, nghiên cứu của tổ chức nông nghiệp hữu cơ quốc
gia Philiphines đã chỉ ra rõ trong các hệ IMO có 82% vi khuẩn có khả năng cố định
đạm, 8,7% vi khuẩn có khả năng hoà tan kali và 65,2% vi khuẩn có khả năng sinh tổng
hợp IAA (http://organic.da.gov.ph).
Qua kết quả đánh giá các đặc điểm về đa dạng vi sinh vật và các chức năng có lợi
cho cây trồng của các hệ IMO thu thập của nghiên cứu này cho thấy các hệ vi sinh vật
bản địa có thể là nguồn cung cấp vi sinh vật có lợi cho cây trồng tiềm năng trong canh
tác nông nghiệp. Bên cạnh việc cung cấp nguồn dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và
vi lượng cho đất và cây trồng, chúng còn cung cấp các chất kích thích sinh trưởng sinh
học an toàn cho cây trồng. Trong đó hai yếu tố cung cấp N và tổng hợp hormone thực
vật IAA là quan trọng. Do đó, vi sinh vật cố định đạm và tổng hợp IAA được quan tâm
86
đặc biệt nhằm thay thế hoặc giảm thiểu lượng phân bón hoá học và chất kích thích sinh
trưởng hoá học đang sử dụng với mức độ lạm dụng như hiện nay trên cây trồng mà
nhất là cây rau. Rõ ràng qua nghiên cứu này, bên cạnh chức năng tổng hợp IAA, các
hệ IMO còn mang gen chức năng nifH là một trong những gen chức năng quan trọng
trong quá trình cố định đạm sinh học của vi khuẩn. Do đó, tiến hành phân lập các dòng
vi khuẩn cố định đạm có thêm chức năng tổng hợp chất kích thích sinh trưởng IAA từ
20 hệ IMO trong nghiên cứu này là cần thiết.
4.3 Nội dung 3: Phân lập tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn bản địa có
chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ các hệ IMO thu thập
4.3.1 Mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO
Kết quả khảo sát mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO sau 40 ngày lên
men được trình bày ở Bảng 4.4 cho thấy các hệ IMO có mật số vi khuẩn cố định đạm
khác nhau và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
Bảng 4.4 Mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO thu thập
STT Ký hiệu Nguồn gốc IMO Mật số vk cố định đạm
(106 cfu.g-1)
Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20 TP-1
MQ-2
CP-3
HV-4
RP-5
LM-6
DL-7
CL-8
BT-9
RM-10
CK-11
BK-12
OK-13
MC-14
MP-15
MT-16
OM-17
CP-18
NM-19
IMO hỗn hợp Hỗn hợp
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Mật số vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO dao động từ 106 đến 108 cfu.g-1
IMO, trong đó hệ IMO thu thập từ đất trồng ổi có số lượng vi khuẩn cố định đạm cao
nhất và đạt 7,78 x 108 cfu.g-1 và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các hệ IMO còn
lại. Kế đến, các hệ IMO thu thập từ vườn bưởi có mật số vi khuẩn cố định đạm là 1,53
87
F
CV (%) 14,5def
3,50f
10,5def
73,5c
12,5def
29,5d
23,5cdef
27,5de
25,5de
19,5def
17,5def
152,5b
778a
69,0c
2,95f
12,5def
20,0def
15,5def
5,90ef
16,0def
*
252
x 108 cfu.g-1. Hai hệ IMO có mật số vi khuẩn cố định đạm cao thứ 3 là hệ IMO thu từ
ruộng hành tím và mía với mật số lần lượt là 7,35 x 107 và 6,95 x 107 cfu.g-1. Mật số vi
khuẩn cố định đạm thấp nhất được tìm thấy trong hệ IMO được thu thập từ hệ thống
luân canh, rau muống và ngò gai với số lượng vi khuẩn dao động từ 2,15 x106 – 5,90
x106 cfu.g-1 IMO, trong khi các hệ IMO còn lại có số lượng vi khuẩn cố định đạm cao
hơn và dao động từ 1,5 x 107 đến 2,95 x 107 cfu.g-1 IMO. Như vậy so với tổng mật số
vi khuẩn tồn tại trong các hệ IMO trung bình là 269.825.000 cfu.g-1 thì vi khuẩn cố
định đạm hiện diện trong các hệ IMO có mật số trung bình là 66,467,500 cfu.g-1 và
chiếm 24,63%. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của tổ chức nông nghiệp hữu
cơ quốc gia Philiphines cho thấy mật số vi khuẩn cố định đạm hiện diện trong các hệ
IMO chiếm 82% (http://organic.da.gov.ph).
4.3.2 Kết quả phân lập vi khuẩn cố định đạm từ các hệ IMO thu thập
Kết quả phân lập vi khuẩn cố định đạm dựa vào đặc điểm hình thái khuẩn lạc
STT Ký hiệu mẫu Nguồn gốc IMO Tỷ lệ (%)
được trình bày ở Bảng 4.5 và Phụ lục 7.
Bảng 4.5 Kết quả phân lập vi khuẩn trong 19 hệ IMO thu thập
Số dòng vi
khuẩn phân lập
8
7
7
3
6
4
6
4
3
3
5
3
6
4
1
5
5
2
1
Kết quả cho thấy, trong số 83 dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập được có 8
dòng được phân lập từ hệ IMO thu trên đất trồng tre ở huyện Châu Thành, chiếm tỷ lệ
9,64%. Hai hệ IMO thu thập trên đất luân canh ở Phường 5 và đất trồng chuối tại
Phường 7, Thành phố Sóc Trăng đã phân lập được 7 dòng vi khuẩn cố định đạm,
chiếm tỷ lệ 8,43%. Hệ IMO thu thập trên đất trồng rau tại Phường 3, Thành phố Sóc
Trăng và hệ IMO thu thập trên đất trồng ổi tại Kế Sách đã phân lập được 6 dòng vi
khuẩn cố định đạm, chiếm tỉ 7,23%. Các hệ IMO thu thập trên đất trồng cam tại Kế
Sách, mồng tơi tại Trần Đề và ớt tại Mỹ Tú đều phân lập được 5 dòng vi khuẩn cố
88
Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò TP-1
MQ-2
CP-3
HV-4
RP-5
LM-6
DL-7
CL-8
BT-9
RM-10
CK-11
BK-12
OK-13
MC-14
MP-15
MT-16
OM-17
CP-18
NM-19 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19 9,64
8,43
8,43
3,61
7,23
4,82
7,23
4,82
3,61
3,61
6,02
3,61
7,23
4,82
1,20
6,02
6,02
2,41
1,20
định đạm, chiếm tỷ lệ 6,02%. Các hệ IMO thu thập tại đất trồng lúa ở huyện Mỹ
Xuyên, đất cỏ hoang tại Long Phú và đất trồng mía ở Cù Lao Dung đã phân lập được 4
dòng vi khuẩn cố định đạm, chiếm tỷ lệ 4,82%. Các hệ IMO thu thập tại đất trồng
hành tím Vĩnh Châu, trồng bắp ở Thạnh Trị, trồng rau xen canh ở Mỹ Xuyên và trồng
bưởi ở Kế Sách đã phân lập được 3 dòng vi khuẩn cố định đạm, chiếm tỷ lệ 3,61%.
Trong khi chỉ có 2 dòng vi khuẩn cố định đạm được phân lập từ hệ IMO thu từ đất
trồng củ lùn tại Phường 7, Thành phố Sóc Trăng, chiếm tỷ lệ 2,41% và 1 dòng vi
khuẩn cố định đạm được phân lập từ hệ IMO thu tại đất trồng rau muống ở Phường 8,
Thành phố Sóc Trăng và đất trồng ngò gai ở Mỹ Tú, chiếm tỷ lệ 1,20%.
Kết quả mô tả hình thái khuẩn lạc và tế bào của 83 dòng vi khuẩn cố định đạm
phân lập cho thấy có sự đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, độ nỗi, dạng bìa
và bề mặt của khuẩn lạc cũng như hình dạng tế bào vi khuẩn (Hình 4.9 và Phụ lục 7).
Trong số đó, vi khuẩn có khuẩn lạc hình tròn, bìa nguyên, màu trắng sữa và mặt nhẵn
là chủ yếu. Kích thước của các khuẩn lạc vi khuẩn phát triển trên môi trường thạch
Burks sau 5 ngày nuôi cấy cho thấy chúng rất đa dạng và dao động từ 1 đến 7 mm,
khuẩn lạc hình tròn chiếm 75%, khuẩn lạc bề mặt bóng màu trắng sữa chiếm 56,3% và
82,5% khuẩn lạc dạng nổi trên bề mặt thạch.
Quan sát trên kính hiển vi cho thấy hình dạng tế bào vi khuẩn có 2 dạng chủ yếu
là hình que và hình cầu (Hình 4.10 và Phụ lục 8). Tổng số có 54 dòng vi khuẩn phân
lập có dạng hình que và chiếm tỷ lệ 66,3% bao gồm cả que ngắn và dài, trong khi 28
dòng vi khuẩn phân lập có dạng hình cầu và chiếm 33,7%. Trong đó gram âm và gram
dương chiếm tỷ lệ gần bằng nhau, với 39 dòng vi khuẩn phân lập là vi khuẩn gram âm
(chiếm 47%) và 44 dòng vi khuẩn phân lập là vi khuẩn gram dương (chiếm 53%).
Hình 4.9 Sự đa dạng kích thước và hình thái khuẩn lạc của một số dòng vi khuẩn cố
định đạm đại diện trên môi trường Burks sau 5 ngày nuôi cấy
89
Hình 4.10 Sự đa dạng hình thái tế bào của một số dòng vi khuẩn cố định đạm đại diện
trên môi trường Burks sau 5 ngày nuôi cấy ở độ phóng đại 100X
4.3.3 Khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập
4.3.3.1 Hàm lượng đạm tổng số (Nts)
Kết quả khảo sát hàm lượng đạm tổng số (Nts) tăng thêm cao nhất trong 5 ngày
nuôi cấy trong môi trường Burks lỏng của 83 dòng vi khuẩn phân lập được trình bày
trong Bảng 4.6 cho thấy có sự khác giữa các dòng vi khuẩn về hàm lượng đạm tổng số
tăng thêm so với nghiệm thức đối chứng chứa vi khuẩn ở ngày 0 với hàm lượng đạm
tổng số dao động từ 0,58 đến 22,55 mg.L-1 N, chứng tỏ các dòng vi khuẩn có khả năng
cố định đạm sinh học từ trong không khí để sinh trưởng và làm gia tăng đạm tổng số
của chúng trong môi trường nuôi cấy. Trong đó có 37 dòng vi khuẩn cố định đạm
được phân lập có khả năng cố định hơn 10 mg.L-1 N và lượng N cố định tối đa trong
môi trường lỏng là 22,55 mg.L-1 được ghi nhận ở dòng vi khuẩn ký hiệu TP-1.3 phân
lập từ hệ IMO tre sau hai ngày nuôi cấy, kế đến là dòng vi khuẩn MP -15.1 và TP-1.7
với lượng đạm tổng số tăng thêm cao nhất của 2 dòng vi khuẩn này lần lượt là 20,81
và 18,35 mg.L-1. Ngoài ra, ở các nghiệm thức chủng 42 dòng vi khuẩn phân lập khác
có lượng N tăng thêm dao động từ 1,02 đến 9,76 mg.L-1. Tuy nhiên, nghiệm thức
90
chủng riêng lẻ 4 dòng vi khuẩn ký hiệu CP-3.6, RP-5.1, CK-11.4 và MC-14.3 có lượng
đạm tăng thêm thấp nhất và thấp hơn 1 mg.L-1 N.
+)
4.3.3.2 Hàm lượng đạm hữu dụng (NH4
Hàm lượng NH4
+ hữu dụng cao nhất sau 3 ngày nuôi cấy (4,23 mg.L-1 NH4
+ hữu dụng trong môi trường Burks lỏng khuyết đạm được tổng
hợp bởi 83 dòng vi khuẩn phân lập trong 5 ngày nuôi cấy được trình bày trong Bảng
4.6. Không giống như đạm tổng số, hàm lượng đạm hữu dụng trong môi trường Burks
lỏng được ghi nhận là thấp hơn so với lượng đạm tổng số và có sự khác biệt ý nghĩa
thống kê giữa các dòng vi khuẩn thử nghiệm. Trong đó, 20 dòng vi khuẩn phân lập cố
định đạm trong không khí và tạo ra đạm hữu dụng cao trong môi trường nuôi cấy lỏng
+ dao động từ 1,00 đến 4,23 mg.L-1. Dòng vi khuẩn kí hiệu TP-1.4 tạo
với nồng độ NH4
+), tiếp theo là
ra lượng NH4
+ cao nhất lần lượt đạt 2,79 mg.L-1
dòng vi khuẩn TP-1.2 và RP-5.6 với nồng độ NH4
và 2,43 mg.L-1 sau 1 ngày nuôi cấy. Ngoài ra, các dòng vi khuẩn kí hiệu CP-3.1, OK-
+ với hàm lượng lên đến 1 mg.L-1.
13.2, BT-9.1 và CL-8.4 cũng đã tổng hợp được NH4
Ngoài ra, 65 dòng vi khuẩn phân lập khác cũng đã cố định được lượng đạm trong
không khí, nhưng lượng đạm hữu dụng tạo ra trong môi trường nuôi cấy lỏng thấp hơn
1 mg.L-1 và dao động trong khoảng từ 0,1 đến 0,99 mg.L-1. Tóm lại, dòng vi khuẩn
TP-1.2, TP-1.4 và RP-5.6 được xác định là ba dòng vi khuẩn cố định đạm cao nhất
trong môi trường Burks lỏng khuyết đạm sau 5 ngày nuôi cấy trong tổng số 83 dòng vi
khuẩn cố định đạm phân lập được.
So với các nghiên cứu trước đây, lượng đạm hữu dụng được tổng hợp bởi các
dòng vi khuẩn phân lập trong nghiên cứu này cho kết quả tương đương. Điển hình như
nghiên cứu của Davis et al. (1964) đã cho thấy dòng vi khuẩn Pseudomonas
methanitrificans cố định được 70 mg.L-1 NH4
+ trong hai tháng. Sau đó, Thavasi et al.
(2006) cũng cho thấy vi khuẩn Azotobacter chroococcum phân lập từ môi trường biển
+ trong 96 giờ. Mazumdar
bị nhiễm dầu thô có thể cố định được lượng 4,2 mg.L-1 NH4
and Deka (2013) đã đánh giá lượng đạm cố định bởi các dòng vi khuẩn cố định đạm
sống tự do được phân lập từ đất bị nhiễm dầu thô dao động trong khoảng từ 9,74 đến
+ trong thời gian hai tháng. Tương tự, Smita and Goyal (2017) đã
17,45 mg.L-1 NH4
cho thấy lượng đạm cố định bởi vi khuẩn cố định đạm sống tự do từ đất kiềm được tìm
thấy cao nhất sau 9-12 ngày nuôi cấy, với nồng độ đạm tổng số dao động từ 14,44 đến
18,73 mg.L-1.
So với các hệ vi sinh vật bản địa trong nghiên cứu này cho thấy hàm lượng đạm
tổng số tăng thêm của các dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập cao hơn (lượng đạm cố
định dao động trong khoảng 0,58 – 22,55 mg.L-1 N của các dòng vi khuẩn so với 0,03
– 8,13 mg.L-1 của các hệ IMO). Điều này có thể thấy do trong môi trường nuôi cấy
khuyết đạm các dòng vi khuẩn cố định đạm đã cố định đạm hiệu quả hơn. Mặt khác
trong môi trường nuôi cấy khuyết đạm của các IMO ngoài các vi sinh vật cố định đạm
còn có các nhóm vi sinh vật tiêu thụ nitơ khác hoặc nhóm vi sinh vật chuyển hoá đạm
91
thành các hợp chất đạm dạng khí bay hơi (NO, N2O và N2) nên lượng đạm tổng số
tăng thêm trong các hệ IMO thấp hơn.
Bảng 4.6 Hàm lượng đạm tổng số và đạm hữu dụng tổng hợp bởi 83 dòng vi khuẩn cố
định đạm phân lập trong môi trường Burks lỏng
+
NH4
(mg.L-1)
STT Ký hiệu STT Ký hiệu Nts
(mg.L-1) Nts
(mg.L-1)
+
NH4
(mg.L-1)
0,55
2,79
0,86
4,23
0,43
0,28
0,20
0,11
1,37
0,42
0,27
0,12
0,12
0,99
0,01
1,28
0,30
0,16
0,00
0,15
0,51
1,19
0,06
0,63
1,00
0,08
0,24
0,60
0,87
0,00
2,43
0,30
0,21
0,30
0,08
0,61
1,20
0,22
0,40
0,20
1,01
0,42
92
43 CL-8.2
44 CL-8.3
45 CL-8.4
46 BT-9.1
47 BT-9.2
48 BT-9.3
49 RM-10.1
50 RM-10.2
51 RM-10.3
52 CK-11.1
53 CK-11.2
54 CK-11.3
55 CK-11.4
56 CK-11.5
57 BK-12.1
58 BK-12.2
59 BK-12.3
60 OK-13.1
61 OK-13.2
62 OK-13.3
63 OK-13.4
64 OK-13.5
65 OK-13.6
66 MC-14.1
67 MC-14.2
68 MC-14.3
69 MC-14.4
70 MP-15.1
71 MT-16.1
72 MT-16.2
73 MT-16.3
74 MT-16.4
75 MT-16.5
76 OM-17.1
77 OM-17.2
78 OM-17.3
79 OM-17.4
80 OM-17.5
81 CP-18.1
82 CP-18.2
83 NM-19.1 2,99
12,3
8,58
16,2
8,27
4,63
6,00
14,2
5,87
10,8
8,75
9,09
0,58
6,53
8,52
10,9
10,7
7,21
14,1
13,1
12,9
7,70
16,2
9,65
12,6
0,83
17,6
20,8
7,61
10,1
9,20
3,87
4,40
8,35
12,7
5,57
8,58
15,2
9,76
12,4
17,4 1,12
0,14
1,27
1,01
0,93
0,68
0,33
0,35
1,00
0,49
0,33
0,15
0,27
1,06
0,87
0,32
0,29
0,15
1,23
0,79
0,12
0,90
0,07
0,24
0,10
0,00
0,16
0,27
0,46
0,23
0,22
1,15
1,15
0,05
1,76
1,09
0,85
1,83
0,75
0,23
0,37 11,3
9,46
22,6
14,6
16,9
2,07
18,4
16,5
9,70
10,7
15,5
8,82
8,89
3,37
9,33
5,93
8,41
4,28
9,50
12,1
5,89
2,58
2,51
4,77
3,58
0,80
10,9
8,51
8,52
1,02
10,2
9,25
10,3
10,8
11,1
15,4
13,3
14,8
9,29
10,0
2,90
11,5 TP-1.1
1
TP-1.2
2
TP-1.3
3
TP-1.4
4
TP-1.5
5
TP-1.6
6
TP-1.7
7
8
TP-1.8
9 MQ-2.1
10 MQ-2.5
11 MQ-2.3
12 MQ-2.4
13 MQ-2.2
14 MQ-2.6
15 MQ-2.7
16 CP-3.1
17 CP-3.2
18 CP-3.3
19 CP-3.4
20 CP-3.5
21 CP-3.6
22 CP-3.7
23 HV-4.1
24 HV-4.2
25 HV-4.3
26 RP-5.1
27 RP-5.2
28 RP-5.3
29 RP-5.4
30 RP-5.5
31 RP-5.6
32 LM-6.1
33 LM-6.2
34 LM-6.3
35 LM-6.4
36 DL-7.1
37 DL-7.2
38 DL-7.3
39 DL-7.4
40 DL-7.5
41 DL-7.6
42 CL-8.1
+.
Đặc biệt, kết quả trong nghiên cứu này cũng tương tự với các nghiên cứu khác ở
trong nước. Trong đó, nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Oanh và ctv. (2013) đã
phân lập từ đất vùng rễ lúa và đã tuyển chọn 5 dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm
+ cố định dao động từ 3,75 đến 4,67
và tổng hợp IAA khá cao, với hàm lượng NH4
mg.L-1. Thêm vào đó, Nguyễn Thị Huỳnh Như và ctv. (2013) đã đánh giá khả năng cố
định đạm của các dòng vi khuẩn nội sinh trong cây chuối cho thấy hàm lượng được cố
+. Tương tự, Nguyễn Thị Thu Hằng và
định dao động từ 3,16 đến 4,85 mg.L-1 NH4
Nguyễn Thị Thủy (2015) đã phân lập và tuyển chọn được 2 chủng vi khuẩn
Azotobacter với khả năng cố định đạm tương ứng là 3,36 và 3,32 mg.L-1 NH4
+.
Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp (2018) đã đánh giá 2 dòng vi khuẩn chịu mặn
và cho thấy chúng có khả năng cố định đạm lên đến 2,71 và 3,73 mg.L-1 NH4
Tóm lại cả 83 dòng vi khuẩn phân lập đều cho thấy có khả năng cố định đạm
sinh học trong quá trình sinh trưởng trong môi trường Burks lỏng khuyết đạm, trong số
đó có các dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm cao và tạo ra lượng đạm hữu dụng
trong môi trường nuôi cấy khá. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với cây trồng
khi mà các vi khuẩn này sống nội sinh hoặc sống trong đất vùng rễ của chúng. Để đảm
bảo khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn phân lập và tuyển chọn cần đánh giá,
kiểm tra có hay không sự hiện diện gen nifH trong cấu trúc di truyền của chúng.
4.3.4 Gen nifH trong cấu trúc di truyền của một số dòng vi khuẩn cố định đạm
tuyển chọn
Do giới hạn về kích thước và số giếng trên gel agarose, hai mươi hai dòng vi
khuẩn có hàm lượng đạm tổng số, đạm hữu dụng cố định được cao đã được chọn để
kiểm tra sự hiện diện của gen nifH trong cấu trúc di truyền vi khuẩn. Kết quả khuếch
đại trình tự chuỗi mục tiêu 360 bp của gen nifH có chức năng cố định đạm sinh học
của 22 dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển chọn được trình bày ở Hình 4.11 cho thấy
cặp mồi polF/polR được sử dụng trong nghiên cứu này đã thành công trong việc
khuếch đại gen chức năng nifH từ ADN của 22 dòng vi khuẩn cố định đạm được chọn
để kiểm tra và còn cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về kích thước của các sản phẩm
gen nifH giữa các dòng được thử nghiệm. Kích thước của chuỗi mục tiêu của gen nifH
tương đương 400 bp phù hợp với nghiên cứu trước đây của Poly et al. (2001a, 2001b)
và Nguyễn Hữu Hiệp và ctv. (2005). Điều này cho thấy 22 dòng vi khuẩn được chọn
để kiểm tra gen chức năng nifH cho thấy chúng có tiềm năng cố định đạm sinh học.
Kết quả này phù hợp với kết quả khảo sát gen nifH trong các hệ IMO trong nghiên cứu
này. Do đó, vi khuẩn có thể phát triển trong điều kiện môi trường nuôi cấy thiếu
nguyên tố đạm, vì các gen chức năng hoạt động để chúng có thể cố định đạm từ không
khí để sử dụng cho quá trình sinh trưởng.
93
500 bp
band mục
tiêu
Hình 4.11 Kết quả PCR với cặp mồi polF/polR chuyên biệt cho gen nifH có chức năng
cố định đạm sinh học của 22 dòng vi khuẩn cố định đạm
*Ghi chú: giếng 1, 15: thang chuẩn 100 bp; giếng 2, 17: đối chứng âm (H2O); giếng 3: TP-1.2; giếng
4: TP-1.3; giếng 5: TP-1.4; giếng 6: TP-1.5; giếng 7: MQ-2.1; giếng 8: MQ-2.5; giếng 9: CP3.1;
giếng 10: CL-8.2; giếng 11: DL-7.2; giếng 12: DL-7.3; giếng 13: OM-17.2; giếng 14: OM-17.5; giếng
16: MT-16.5; giếng 18: CK-11.1; giếng 19:RP-5.4; giếng 20: BK-12.3; giếng 21: MC-14.4; giếng 22:
CP-18.2; giếng 23: BT-9.1; giếng 24:CL-8.4; giếng 25: HV-4.3; giếng 26: MP-15.1.
Ngoài ra kết quả phân tích cũng cho thấy trong cấu trúc di truyền gen chức năng
nifH của 22 dòng vi khuẩn này có thể thấy chúng có sự đa dạng di truyền trong kích
thước gen nifH và có thể xếp thành 8 nhóm: Nhóm 1: nhóm chứa các dòng vi khuẩn
chỉ có 1 band mục tiêu với kích thước 400 bp gồm các giếng 10, 11, 12,19, 20, 21, 22
và 26 thuộc dòng các dòng vi khuẩn kí hiệu theo thứ tự CL-8.2, DL-7.2, DL-7.3, RP-
5.4; BK-12.3; MC-14.4; CP-18.2 và MP-15.1; Nhóm 2: nhóm chứa các dòng vi khuẩn
có 1 band 400 bp và 1 band kích thước 600 bp gồm giếng 16 thuộc dòng vi khuẩn MT-
16.5; Nhóm 3: nhóm chứa các dòng vi khuẩn có 1 band 400 bp và 1 band kích thước
800 bp gồm các giếng 3, 6, 7, 8, 14, 18 và 23 thuộc các dòng vi khuẩn TP-1.2, MQ-
2.1, MQ-2.5, OM-17.5, RP-5.4, CK-11.1, BT-9.1; Nhóm 4: nhóm chứa dòng vi khuẩn
có 1 band mục tiêu 400 bp, và 1 band > 1.500 bp gồm giếng 4 và 24 thuộc dòng vi
khuẩn TP-1.3 và CL8.4; Nhóm 5: nhóm chứa các dòng vi khuẩn có 1 band mục tiêu
400 bp, 1 band 900 và 1 band kích thước 1200 bp gồm giếng 25 thuộc dòng vi khuẩn
HV-4.3; Nhóm 6: nhóm chứa các dòng vi khuẩn có 1 band 400 bp, 1 band kích thước
600 bp, 1 band kích thước >1500 bp gồm giếng 13 thuộc dòng vi khuẩn OM-17.2;
Nhóm 7: nhóm chứa các dòng vi khuẩn có 1 band 400 bp và 1 band kích thước 700 bp
và 1 band > 1.500 bp gồm giếng 5 thuộc dòng vi khuẩn TP-1.4; Nhóm 8: nhóm chứa
các dòng vi khuẩn có 1 band 400 bp, 1 band kích thước 800 bp, 1 band kích thước
1200 và 1 band kích thước >1.500 pb gồm giếng 9 thuộc dòng vi khuẩn CP-3.1.
Trên cơ sở đánh giá khả năng sinh trưởng mạnh trong điều kiện môi trường nuôi
cấy khuyết đạm của các dòng vi khuẩn nhờ khả năng cố định dựa vào hàm lượng đạm
tổng số và đạm hữu dụng cao nhất đã tuyển chọn 50 dòng vi khuẩn để tiếp tục đánh
giá khả năng sinh tổng hợp IAA của chúng trong môi trường Burks khuyết đạm có bổ
sung 100 mg.L-1 tryptophan.
94
4.3.5 Khả năng tổng hợp IAA của 50 dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập được
tuyển chọn
Khả năng tổng hợp IAA của 50 dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển chọn trong môi
trường Burks khuyết đạm có bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan trình bày trong Bảng 4.6
cho thấy hàm lượng IAA được sinh ra bởi các dòng vi khuẩn khác nhau thì khác nhau
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) và có sự biến động lớn về nồng độ IAA tổng hợp ở các
thời điểm thu mẫu.
Bảng 4.7 Nồng độ IAA tổng hợp bởi 50 dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển chọn trong
môi trường Burks lỏng khuyết đạm có bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan sau 10 ngày
nuôi cấy
Nồng độ IAA (mg.L-1) STT Cao nhất
95
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34 Ký hiệu
dòng VK
TP-1.1
TP-1.2
TP-1.3
TP-1.4
TP-1.5
TP-1.7
TP-1.8
MQ-2.1
MQ-2.5
MQ-2.3
CP-3.1
CP-3.5
CP-3.7
HV-4.3
RP-5.2
RP-5.6
LM-6.2
LM-6.3
LM-6.4
DL-7.1
DL-7.2
DL-7.3
DL-7.5
DL-7.6
CL-8.1
CL-8.2
CL-8.3
CL-8.4
BT-9.1
RM-10.2
RM-10.3
CK-11.1
CK-11.5
BK-12.2 Ngày 2 Ngày 4 Ngày 6 Ngày 8 Ngày 10
-
-
27,5
21,9
23,8
12,9
-
15,1
19,0
19,8
-
-
1,99
6,58
-
-
21,4
2,84
4,30
-
-
3,25
1,70
4,50
20,3
12,9
1,90
12,7
1,52
-
9,65
3,80
1,90
- -
-
1,90
15,4
18,3
0,91
-
14,6
20,9
16,7
-
-
3,19
-
-
-
4,59
-
-
-
-
1,29
2,92
-
0,29
20,6
-
-
-
-
1,99
14,5
1,90
- 4,40
-
10,2
27,0
27,6
5,95
-
24,0
35,3
31,2
-
-
5,37
0,60
-
-
7,47
-
1,35
-
-
6,29
-
3,19
-
24,4
-
5,72
-
-
2,10
14,3
-
- 4,42
-
19,9
23,3
26,1
9,9
-
22,1
22,1
26,1
-
0,23
6,11
-
17,3
-
-
3,16
3,89
-
-
6,08
-
2,37
11,6
9,59
1,43
12,5
1,67
0,85
-
9,53
-
- -
1,75
2,19
2,78
1,61
0,18
-
8,54
7,69
7,40
-
2,05
-
1,67
0,61
-
0,94
3,51
2,75
-
-
39,3
1,40
1,90
0,94
20,8
0,29
0,53
0,35
-
-
18,2
0,35
- 4,42
1,75
27,5
27,0
27,6
12,9
0,00
24,0
35,3
31,2
0,00
2,05
6,11
6,58
17,3
0,00
21,4
3,51
4,30
0,00
0,00
39,3
2,92
4,50
20,3
24,4
1,90
12,7
5,64
0,85
9,65
18,2
3,22
0,00
Nồng độ IAA (mg.L-1) STT Cao nhất
*Ghi chú: “-” không phát hiện IAA
Tổng cộng có 44 trong số 50 dòng vi khuẩn cố định đạm khảo sát có khả năng
tổng hợp IAA trong môi trường Burks lỏng bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan, với hàm
lượng IAA tổng hợp dao động mạnh từ 0,85 đến 58,0 mg.L-1 và thời gian để đạt lượng
IAA cao nhất là rất khác nhau giữa các dòng vi khuẩn. Trong đó có 18 dòng vi khuẩn
tổng hợp được IAA cao hơn 20 mg.L-1 trong môi trường lỏng, 7 dòng vi khuẩn tổng
hợp được lượng IAA dao động từ 10 đến 20 mg.L-1, 20 dòng vi khuẩn tổng hợp IAA
với lượng thấp hơn 10 mg.L-1 IAA và 6 dòng vi khuẩn không có khả năng sản sinh
IAA trong điều kiện môi trường khuyết đạm có bổ sung 100 mg.L-1 tryptophan. Đặc
biệt, lượng IAA được tổng hợp cao nhất được ghi nhận tại thời điểm sau 2 ngày nuôi
cấy với dòng vi khuẩn MT-16.5, phân lập từ IMO mồng tơi và đạt 58,0 mg.L-1, tiếp
theo là dòng vi khuẩn OM-17.2 phân lập từ hệ IMO ớt với nồng độ IAA trong môi
trường nuôi cấy đạt 41,9 mg.L-1 cao nhất ở thời điểm 2 ngày sau nuôi cấy. Bên cạnh
đó, 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn khác ký hiệu là DL-7.3, BK-12.3 và MT-16.2 tổng
hợp được lượng IAA cao nhất lần lượt là 39,3; 31,2 và 28,9 mg.L-1. Dòng vi khuẩn
CP-18.2 được phân lập từ hệ IMO củ lùn đạt nồng độ IAA cao nhất sau 4 ngày nuôi
cấy với lượng 34,6 mg.L-1. Trong khi 4 dòng vi khuẩn cố định đạm khác ký hiệu TP-
1.4, TP-1.5, MQ-2.1 và MQ-2.5 tổng hợp được lượng IAA cao nhất sau 6 ngày nuôi
cấy với nồng độ lần lượt 27,0; 27,6; 35,3 và 31,2 mg.L-1. Hàm lượng IAA được tổng
hợp thấp nhất được tìm thấy ở các nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn ký hiệu OK-
13.2, DL-7.1 và CL-8.3 được phân lập từ các hệ IMO ổi, dưa hấu và cỏ hoang với
nồng độ IAA thấp hơn 2 mg.L-1. Đặc biệt, không phát hiện IAA trong môi trường nuôi
cấy Burks lỏng chủng các dòng vi khuẩn TP-1.8, TP-1.2, CP-3.1 RP-5.6 RM-10.2 và
BK-12.2. Tóm lại, trong số 50 dòng vi khuẩn cố định đạm tuyển chọn được khảo sát
96
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50 Ký hiệu
dòng VK
BK-12.3
OK-13.2
OK-13.3
OK-13.4
OK-13.6
MC-14.4
MC-14.5
MP-15.1
MT-16.2
MT-16.3
MT-16.5
OM-17.2
OM-17.3
OM-17.5
CP-18.2
NM-19.1 Ngày 2 Ngày 4 Ngày 6 Ngày 8 Ngày 10
22,8
-
16,0
4,21
15,6
15,8
9,42
-
16,5
20,5
25,2
30,5
24,9
20,9
20,5
7,81 20,5
-
-
-
4,30
-4,04
2,11
-
27,8
13,6
30,3
37,4
6,05
11,4
34,6
0,76 21,8
-
1,58
2,37
6,67
16,2
9,21
3,54
19,1
27,5
29,4
33,1
32,6
29,5
23,9
7,81 31,2
1,14
2,08
2,66
6,08
2,19
3,33
3,42
28,9
7,19
58,0
41,9
4,36
6,70
26,9
1,46 26,6
-
1,61
0,43
6,35
12,8
3,39
-
21,6
25,8
32,8
37,3
21,0
19,2
23,2
0,40 31,2
1,14
16,0
4,21
15,6
16,2
9,42
3,54
28,9
27,5
58,0
41,9
32,6
29,4
34,6
7,81
chỉ có dòng vi khuẩn MT-16.5 và OM-17.2 cho hoạt động tổng hợp IAA diễn ra sớm,
hàm lượng IAA cao và ổn định tại các thời điểm khảo sát.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy khả năng tổng hợp IAA của các dòng vi khuẩn
cố định đạm phân lập từ các hệ vi sinh vật bản địa IMO tương đương với các dòng vi
khuẩn Azotobacter sp., Pseudomonas sp. và Bacillus sp. trong nghiên cứu trước đây
của Ahmad et al. (2005) và Ahmad et al. (2008) hay các dòng vi khuẩn Bacillus
magisterium, Lactobacillus casei, Bacillus subtilis, Bacillus cereus và Lactobacillus
acidophilus của tác giả Mohite, (2013). So với các nghiên cứu gần đây thì các dòng vi
khuẩn của nghiên cứu này cũng cho kết quả tương tự với các dòng vi khuẩn Rhizobium
sp. với nồng độ IAA được tổng hợp cao nhất dao động từ 20,4 đến 165,6 mg.L-1 trong
nghiên cứu của Kucuk and Cevheri, (2016) và các dòng vi khuẩn cố định đạm phân
lập tại vùng rễ cây cỏ ngọt Stevia rebaudiana trong nghiên cứu của Chandra et al.
(2018) hay các dòng vi khuẩn phân lập từ đất vùng rễ cây dừa Serratia marcescens
subsp và Rhodocococus aff. qingshengii tổng hợp IAA cao nhất dao động từ 18,06 đến
64,75 mg.L-1 trong nghiên cứu của Hasuty et al. (2018) hay dòng Streptomyces fradiae
NKZ-259 tổng hợp được 42,35 mg.L-1 IAA của Myo et al. (2019) hoặc các dòng vi
khuẩn Arozobacter choococcum, Pseudomonas sp., Bacillus sp, Rheinhemera sp.,
Klebsiella sp., Agrobacter sp. và Raoultella sp. trong nghiên cứu của Wang et al.,
(2020).
So với các nghiên cứu trong nước cho thấy khả năng tổng hợp IAA của các dòng
vi khuẩn cố định đạm tuyển chọn khảo sát trong nghiên cứu này tương đương với các
dòng vi khuẩn nội sinh hoặc các dòng vi khuẩn ở vùng rễ của các cây trồng tại việt
nam đã được phân lập, đánh giá và công bố (Nguyễn Thị Phương Oanh và ctv., 2013 ;
Nguyễn Thị Huỳnh Như và ctv., 2013; Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Thị
Thủy,2015; Nguyễn Khởi Nghĩa, 2017; Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp, 2018)
Kết quả so sánh với 20 hệ IMO về khả năng tổng hợp IAA trong nghiên cứu này
cho thấy các khả năng tổng hợp IAA của các dòng vi khuẩn cố định đạm phân lập
được từ các hệ IMO thấp hơn so với các hệ IMO. Cụ thể như sau, cả 20 hệ IMO đều
tổng hợp IAA với hàm lượng IAA dao động từ 9, 23 đến 74, 01 mg.L-1, cao hơn so với
khả năng tổng hợp IAA của các dòng vi khuẩn phân lập (hàm lượng IAA tổng hợp dao
động từ 1,14 đến 58,04 mg.L-1). Nghiên cứu trước đây của Phua et al. (2012) đã phân
lập được 56 dòng vi khuẩn từ 5 hệ vi sinh vật bản địa IMO và kết quả đánh giá chức
năng kích thích sinh trưởng cây trồng của chúng đã cho thấy các dòng vi khuẩn phân
lập này có các chức năng khác nhau về khả năng hoà tan lân, tổng hợp IAA, cố định
đạm, đối kháng sinh học…cũng như sự đa chức năng của các dòng vi khuẩn trong các
mẫu IMO. Như vậy so với các kết quả nghiên cứu trước đây, có thể thấy rằng các vi
khuẩn cố định đạm được phân lập từ các hệ IMO trong nghiên cứu này có khả năng
tổng hợp IAA tương đương và phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả trước đó.
Do đó các dòng vi khuẩn này có tiềm năng ứng dụng rất cao giúp kích thích sinh
trưởng cây trồng vì theo Saharan and Nehra, (2011), quá trình sinh trưởng của thực vật
97
không những chịu sự chi phối bởi IAA nội sinh mà con chịu tác động không nhỏ của
lượng auxin bên ngoài trong đó có một phần đóng góp không nhỏ từ vi sinh vật. Có
nhiều loài vi khuẩn có khả năng tổng hợp hormone thực vật IAA. Nồng độ của IAA
ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và phát triển của thực vật. IAA ở nồng độ thấp có thể
kích thích sinh trưởng của cây trồng nhưng lại có thể gây ức chế khi ở nồng độ cao
(Frankenberger and Arshad, 1995). Mật số của vi khuẩn tổng hợp IAA xung quanh rễ
sẽ quyết định nồng độ auxin. Các cây trồng khác nhau sẽ đáp ứng khác nhau với sự
thay đổi về nồng độ auxin (Sarwar and Frankenberger, 1994) và loại vi sinh vật
(Ahmad et al., 2005). Các chủng vi sinh vật tổng hợp IAA và IAM trong đất ở điều
kiện môi trường đất bình thường và chúng giúp tăng tốc độ tăng trưởng và năng suất
của lúa mì đạt mức tối đa (Khalid et al., 2004). Tuy nhiên, các chủng vi sinh vật sản
xuất IAA thấp hơn nhưng liên tục và ổn định cũng sẽ giúp cải thiện năng suất cây
trồng (Tsavkelova et al., 2007).
Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy có 18 dòng vi khuẩn thể hiện không chỉ
có chức năng cố định đạm sinh học tốt mà còn có chức năng sản sinh IAA khá cao.
Trong số đó, 9 dòng vi khuẩn tuyển chọn thể hiện khả năng cố định đạm và sinh tổng
hợp IAA cao và ổn định gồm các dòng vi khuẩn ký hiệu TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.1, MQ-
2.5, BK-12.3, MT-16.5, OM-17.2, OM-17.5 và CP-18.2 và các dòng vi khuẩn này đã
được chọn để thực hiện giải trình tự các chuỗi 16S-rRNA. Ngoài ra dòng vi khuẩn TP-
1.2 cũng được chọn giải trình tự gen 16S-rRNA vì có khả năng cố định đạm và tạo ra
lượng đạm hữu dụng cao trong môi trường nuôi cấy. Như vậy tổng cộng có 10 dòng vi
khuẩn vừa có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA được chọn để giải trình tự gen
16S-rRNA.
4.3.6 Kết quả giải trình tự gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn
Kết quả giải trình tự gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn được trình
bày trong Phụ lục 9. Khi so sánh 1 đoạn gen mã hoá gen 16S-rRNA của 10 dòng vi
khuẩn tuyển chọn với cơ sở dữ liệu trên ngân hàng gen thế giới BLAST N
(http://blast.ncbi.nlm.nih.gov/Blast .cgi.) kết quả cho thấy chúng thuộc 5 chi khác nhau
(Bảng 4.8) gồm: Bacillus, Klebsiella, Paenibacillus, Paraburkholderia và
Pseudomonas.
Đặc biệt, kết hợp với các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, hình dạng và gram tế bào,
3 dòng vi khuẩn phân lập từ hệ IMO đất trồng tre là TP-1.2, TP-1.3 và TP-1.4 có chỉ
số tương đồng 99% lần lượt với 3 dòng vi khuẩn Pseudomonas veronii,
Paraburkholderia tropica và Paenibacillus cineris. Do đó, chúng được xác định là có
mối quan hệ gần gũi với các dòng vi khuẩn này và được định danh lần lượt như là
Pseudomonas veronii TP-1.2, Paraburkholderia tropica TP-1.3 và Paenibacillus
cineris TP-1.4. Ba dòng vi khuẩn này thuộc 3 chi vi khuẩn khác nhau cho thấy các vi
khuẩn cố định đạm phân lập từ mẫu IMO đất trồng tre có sự đa dạng cao về thành
phần loài vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA. Ngoài ra, 2 dòng vi khuẩn ký hiệu
MQ-2.5 và OM-17.5 phân lập từ hệ IMO đất luân canh và đất trồng ớt có độ tương
98
đồng di truyền 99% với dòng vi khuẩn Bacillus megaterium và do đó, chúng được xác
định là có mối quan hệ gần gũi với các dòng vi khuẩn này và được định danh lần lượt
như là Bacillus megaterium MQ-2.5 và Bacillus megaterium OM-17.5. Trong khi
dòng vi khuẩn MQ-2.1 có chỉ số tương đồng cao (99%) với loài vi khuẩn Bacillus
aryabhattai, do đó, dòng vi khuẩn MQ-2.1 có mối quan hệ gần gũi với vi khuẩn
Bacillus aryabhattai và dòng vi khuẩn này được định danh như là Bacillus aryabhattai
MQ-2.1. Dòng vi khuẩn BK-12.3 phân lập từ hệ IMO đất vườn bưởi có trình tự tương
đồng 99% với dòng vi khuẩn Bacillus cereus nên được định danh là Bacillus cereus
BK-12.3. Hai dòng vi khuẩn MT-16.5 và OM-17.2 được phân lập từ hệ IMO mồng tơi
và ớt có trình tự tương đồng cao (99%) với dòng vi khuẩn Klebsiella pneumoniae và
chúng được xác định là Klebsiella pneumoniae MT-16.5 và Klebsiella pneumoniae
OM-17.2. Dòng vi khuẩn CP-18.2 có trình tự tương đồng cao (99%) với dòng
Pseudomonas boreopolis và được định danh là Pseudomonas boreopolis CP-18.2.
Bảng 4.8 Sự tương đồng giữa 10 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA được
tuyển chọn so với các dòng vi khuẩn trên cơ sở dữ liệu NCBI
Dòng vi khuẩn trên NCBI
Định danh
Số đăng kí
Dòng vi khuẩn
Ký hiệu
dòng vi
khuẩn
MH190219.1 Pseudomonas veronii TP-1.2
Paraburkholderia tropica TP-1.3
Bacillus cereus BK-12.3
MF662488.1 Paenibacillus cineris TP-1.4
MH041178.1 Bacillus aryabhattai MQ-2.1
MK966390.1 Bacillus megaterium MQ-2.5
FJ483513.1
MN691704.1 Klebsiella pneumoniae MT-16.5
MK834722
Klebsiella pneumoniae OM-17.2
MN826385.1 Bacillus megaterium OM-17.5
TP-1.2
TP-1.3
TP-1.4
MQ-2.1
MQ-2.5
BK-12.3
MT-16.5
OM-17.2
OM-17.5
CP-18.2
Chỉ số
tương
đồng
(%)
Pseudomonas veronii
99,0
Paraburkholderia tropica MK336433
99,0
Paenibacillus cineris
99,0
Bacillus aryabhattai
99,0
Bacillus megaterium
99,0
99,0
Bacillus cereus
99,0 Klebsiella pneumoniae
99,0 Klebsiella pneumoniae
99,0
99,0
Bacillus megaterium
Pseudomonas boreopolis AJ864722.1
Pseudomonas boreopolis CP-18.2
Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA hiệu quả thuộc các chi Bacillus, Klebsiella, Paenibacillus, Paraburkholderia,
Pseudomonas,… Điển hình như nghiên cứu của Ahmad et al. (2005), Ahmad et al.
(2008) và Mohite, (2013) đã cho thấy các dòng vi khuẩn Bacillus sp., Bacillus
magisterium, Bacillus subtilis và bacillus cereus đã cố định đạm và tổng hợp IAA khá
tốt. Ngoài ra, Pankaj et al. (2012) đã phân lập và tuyển chọn được dòng vi khuẩn
Bacillus sp. BPR7 đa chức năng từ vùng rễ cây đậu, trong đó chủng BPR7 có khả năng
sinh tổng hợp IAA, siderophore, phytase, acid hữu cơ, các enzyme ACC deaminase,
cyanogens, enzyme lytic, oxalate oxyase, cellulose,…. Gần đây Wang et al., (2020) đã
báo cáo các dòng vi khuẩn Pseudomonas sp., Bacillus sp., Klebsiella sp. có tiềm năng
lớn trong cố định đạm và tổng hợp IAA. Nghiên cứu khác của Dhara et al. (2009) đã
tuyển chọn được các dòng vi khuẩn Klebsiella pneumoniae phân lập từ thân rễ của lúa
mì có khả năng tổng hợp IAA cao. Đặc biệt, Klebsiella pneumoniae K8 có thể tổng
hợp IAA tối đa ở mức 27,5 mg.L-1 trong môi trường có bổ sung tryptophan 1 mg.mL-1
sau 72 giờ nuôi cấy. Wang et al., 2020 đã cho thấy 8 dòng vi khuẩn cố định đạm
99
Klebsiella có khả năng tổng hợp IAA từ mạnh đến rất mạnh. Nghiên cứu trước đây của
Ding et al. (2005) đã phân lập vi khuẩn cố định đạm từ vùng rễ của lúa mì, ngô, lúa
mạch và liễu ở Beijing và kết quả cho thấy 2 trong số 7 dòng vi khuẩn phân lập cho
thấy khả năng cố định nitơ cao và thuộc các dòng vi khuẩn Paenibacillus sp. và 3
trong số chúng được xác định là Bacillus megaterium với chỉ số tương đồng cao là
98% và 100%. Tương tự, Rivas et al. (2005) đã phân lập được 3 dòng vi khuẩn có khả
năng cố định đạm lớn từ thân rễ của cây họ đậu (Cicer arietinum) ở Argentina. Kết
quả cho thấy cả 3 dòng vi khuẩn đều thuộc chi Paenibacillus và xác định chúng là
Paenibacillus cineris LMG 18439T với chỉ số tương đồng là 99,6%, Paenibacillus
favisporus LMG 20987T với chỉ số tương đồng là 99,4% và chỉ số tương tự cho
Paenibacillus azoreducens DSM 13822T. Tiếp theo, Liu et al. (2019) đã phân lập
được 179 dòng vi khuẩn cố định đạm trong đất vùng rễ các loại cây trồng khác nhau
trong đó có 25 dòng vi khuẩn thuộc chi Paenibacillus và 22 trong 25 dòng vi khuẩn cố
định đạm này có khả năng tổng hợp IAA và 21 trong số chúng có khả năng đối kháng
6 loại nấm gây bệnh cho cây trồng. Trong đánh giá tổng quan về chi vi khuẩn
Paenibacillus, Grady et al. (2016) đã chứng minh bằng nhiều công trình nghiên cứu
cho thấy các dòng vi khuẩn trong chi này có đa chức năng như cố định đạm, hoà tan
lân, tổng hợp IAA, hoà tan sắt, đối kháng sinh học, phân huỷ sinh học… Vì thế Tiwari
et al. (2019) đã nhận định và chỉ ra vai trò và tiềm năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực
của phát triển nông nghiệp bền vững của các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA. Ngoài ra, đối với vi khuẩn thuộc chi Paraburkholderia, nghiên cứu của Rojas-
Rojas et al.(2017) đã phân lập được dòng vi khuẩn cố định đạm sống tự do trong đất
vùng rễ cây cà chua là Paraburkholderia caballeronis TNe-841T. Nhiều dòng vi khuẩn
cố định đạm thuộc chi Paraburkholderia đã được phân lập và đánh giá bởi Choi and
Im, (2018), cùng thời gian đó Silva et al. (2018) đã phân lập và giải trình tự genome
của vi khuẩn cố định đạm Paraburkholderia tropica Ppe8. Islam et al. (2013) đã xác
định 2 dòng vi khuẩn Pseudomonas sp. và 1 dòng vi khuẩn Bacillus sp. phân lập từ đất
trồng lúa có khả năng sinh IAA và cố định đạm với lượng ethylen sinh ra là 35,3
nM/h/g. Tương tự, Li et al. (2017) đã phân lập được 100 dòng vi khuẩn Pseudomonas
từ đất vùng rễ mía ở Quảng Tây, Trung Quốc, trong đó 30 dòng tuyển chọn cho thấy
có khả năng sinh IAA dao động từ 13,12 đến 312,07 µg.mL-1 trong điều kiện có bổ
sung tryptophan và có khả năng sinh ethylen là 6,16-108,30 µmol/h/mL.
Kết quả phân tích tương quan di truyền của 10 dòng vi khuẩn này bằng phương
pháp UPGMA được trình bày ở Hình 4.12 cũng cho thấy chúng có mối quan hệ di
truyền chặt chẽ với nhau và có thể thấy chúng thuộc 2 nhóm quan hệ di truyền. Trong
nhóm thứ nhất, các dòng vi khuẩn thuộc chi Bacillus bao gồm Bacillus aryabhattai
MQ-2.1, Bacillus megaterium MQ-2.5 và Bacillus megatrium OM-17.5 có mối quan
hệ gần gũi với nhau và quan hệ gần với dòng Bacillus cereus BK-12.3 dù chúng được
thu thập ở 3 địa điểm khác nhau và tất cả chúng có mối quan hệ gần với Paenibacillus
cineris TP-1.4. Trong nhóm thứ 2, có 2 nhóm nhỏ, nhóm gồm các dòng vi khuẩn
100
Klebsiella pnemoniae OM-17.2 và dòng Klebsiella pnemoniae MT-16.5 và nhóm 2
dòng vi khuẩn Pseudomonas veronii TP-1.2 và Pseudomonas boreopolis CP-18.2 cả 2
nhóm nhỏ này có mối quan hệ gần nhau và quan hệ di truyền mật thiết với dòng
Paraburkholderia tropica TP-1.3. Nhìn chung, có sự đa dạng về di truyền của 10 dòng
vi khuẩn cố định đạm và sinh tổng hợp IAA trong các hệ IMO thu thập từ các hệ thống
cây trồng khác nhau ở tỉnh Sóc Trăng.
Bacillus arybhattai MQ-2.1
Bacillus megaterium OM-17.5
Bacillus megaterium MQ-2.5
Bacillus cereus BK-12.3
Paenibacillus cineris TP-1.4
Paraburkholderia tropica TP-1.3
Pseudomonas boreopolis CP-18.2
Pseudomonas veronii TP-1.2
Klebsiella pneumoniae OM-17.2
Klebsiella pneumoniae MT-16.5
Hình 4.12 Mối quan hệ di truyền giữa 10 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA
tuyển chọn dựa trên phương pháp phân tích UPGMA
Tóm lại, có 44 dòng vi khuẩn có cả 2 chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA
được phân lập từ 19 hệ vi sinh vật bản địa ở tỉnh Sóc Trăng. trong đó có 18 dòng vi
khuẩn cho thấy khả năng cố định đạm và tổng hợp IAA cao. Trong số các dòng vi
khuẩn này, 10 dòng vi khuẩn ký hiệu là TP-1.2, TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.1, MQ-2.5,
BK-12.3, MT-16.5, OM-17.2, OM-17.5 và CP-18.2 được xác định về mặt di truyền
thuộc các chi Paraburkholderia, Paenibacillus, Bacillus, Klebsiella và Pseudomonas.
Chúng có thể có tiềm năng lớn trong việc kích thích tăng trưởng cây trồng và do đó
chúng có thể có tiềm năng cho canh tác nông nghiệp bền vững ở tỉnh Sóc Trăng.
Nhằm tuyển chọn các dòng vi khuẩn có cả 2 chức năng cố định đạm và tổng hợp
IAA khá tốt và ổn định cũng như đảm bảo an toàn trong canh tác và tiêu dùng rau, 8
dòng vi khuẩn được tuyển chọn tiếp tục đánh giá khả năng kích thích sinh trưởng và
nảy mầm hạt rau muống và hạt cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm gồm
Paraburkholderia tropica TP-1.3, Paenibacillus cineris TP-1.4, Bacillus aryabhattai
MQ-2.1, Bacillus megaterium MQ-2.5, Klebsiella pneumoniae MT-16.5, Klebsiella
pneumoniae OM-17.2, Bacillus megaterium OM-17.5 và Pseudomonas boreopolis
CP-18.2. Trong khi, 2 dòng vi khuẩn còn lại gồm Pseudomonas veronii TP-1.2 chỉ có
chức năng cố định đạm và dòng Bacillus cereus BK-12.3 có thể sinh nội bào tử có độc
101
tố (Bottone, 2010; McDowell et al., 2020) do đó 2 dòng vi khuẩn này không được
chọn để thực hiện cho các nghiên cứu tiếp theo ở điều kiện phòng thí nghiệm.
Tám dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm và tổng hợp IAA cao ký hiệu TP-
1.3, TP-1.4, MQ-2.1, MQ-2.5, MT-16.5, OM-17.2, OM-17.5 và CP-18.2 và hỗn hợp 8
dòng vi khuẩn được tuyển chọn để bố trí thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của chúng lên
sự nảy mầm và sinh trưởng rau muống và cải xanh. Đồng thời 5 hệ IMO có khả năng
cố định đạm khá tốt, chứa 8 dòng vi khuẩn này bao gồm hệ IMO tre, củ lùn, mồng tơi,
ớt, hỗn hợp cũng được tuyển chọn để đánh giá ảnh hưởng của chúng lên sự nảy mầm
và sinh trưởng rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm và nhà lưới. đây
cũng là các IMO có khả năng cố định đạm tốt trong các đánh giá bên trên (mục 4.2.2).
4.4 Nội dung 4: Ảnh hƣởng của một số dòng vi khuẩn tuyển chọn và các IMO
chứa các dòng vi khuẩn này lên khả năng kích thích nảy mầm và sinh trƣởng cây
rau muống và cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm
Kết quả đánh giá 8 dòng vi khuẩn và 5 IMO tuyển chọn cho thấy chúng có hiệu
quả kích thích nảy mầm của hạt cũng như kích thích sinh trưởng của rau muống và cải
xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm.
4.4.1 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây rau muống của 8 dòng vi
khuẩn tuyển chọn
4.4.1.1 Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên khả năng nảy mầm hạt rau muống
Kết quả khảo sát ảnh hưởng mật số của 8 dòng vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm của
hạt rau muống sau 6 ngày thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4.9.
Bảng 4.9 Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống sau 6 ngày
thí nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
Tỷ lệ nảy mầm (%)
Nghiệm
thức
(cfu.mL-1)
TP-
1.3
TP-
1.4
MQ-
2.1
MQ-
2.5
MT-
16.5
OM-
17.2
OM-
17.5
CP-
18.2
Đối chứng
105
106
107
108
109
66,0d
75,6b
82,3a
74,8b
68,9c
75,6b
66,0f
83,7b
85,5a
72,2e
77,8c
74,5d
66,0d
72,6b
77,8a
69,6c
65,9b
65,2d
66,0e
76,7c
83,0a
78,9b
83,3a
73,3d
66,0c
64,4d
83,7a
64,4d
77,0b
63,3e
66,0c
75,6a
76,6a
72,7b
76,7a
60,7d
66,0e
67,8d
84,1a
85,6a
72,2c
77,8b
66,0c
74,8a
75,9a
75,4a
75,2a
72,2b
Hỗn hợp
8 dòng
VK
66,0d
75,6a
76,0a
74,1b
68,9c
75,6a
F
*
*
*
*
*
*
*
*
*
CV(%)
7,30
8,97
6,71
8,00
8,69
10,3
11,4
4,89
5,46
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có phần chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Kết quả cho thấy khi chủng vi khuẩn vào hạt rau muống giúp gia tăng tỷ lệ nảy
mầm của hạt rau muống cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với
102
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Mật số vi khuẩn khác nhau cũng ảnh
hưởng lên tỷ lệ nảy mầm của hạt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
Trong đó, các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.1 và MT-16.5 cho tỷ lệ nảy mầm
cao nhất ở mật số 106 cfu.mL-1 và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với
các nghiệm thức chủng các mật số còn lại trong cùng 1 dòng vi khuẩn. Trong khi đó,
các dòng vi khuẩn MQ-2.5, OM-17.2, OM-17.5 và CP-18.2 cho tỷ lệ nảy mầm hạt rau
muống khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh các nghiệm thức có mật
số vi khuẩn khác nhau của cùng 1 dòng vi khuẩn. Như vậy, mật số 106 cfu.mL-1 là mật
số vi khuẩn thích hợp nhất cho cả 8 dòng vi khuẩn thử nghiệm giúp kích thích gia tăng
tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống ở điều kiện phòng thí nghiệm.
Kết quả phân tích ảnh hưởng của 8 dòng vi khuẩn thử nghiệm ở cùng mật số
ngâm hạt là 106 cfu.mL-1 lên tỷ lệ nảy mầm của rau muống sau 6 ngày thí nghiệm cho
thấy cả 8 dòng vi khuẩn đều giúp gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống cao hơn
và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng không
chủng vi khuẩn với tỷ lệ nảy mầm cao hơn dao động từ 9,9 đến 19,5 %. Trong đó, năm
dòng vi khuẩn TP-1.4, OM-17.5, MT-16.5, MQ-2.5 và TP-1.3 cho tỷ lệ hạt nảy mầm
cao nhất, lần lượt đạt 85,5%; 84,1%; 83,7%; 83,0% và 82,3%, khác biệt thống kê
(p<0,05) khi so sánh với các dòng vi khuẩn còn lại và nghiệm thức đối chứng không
chủng vi khuẩn.
Như vậy, 5 dòng vi khuẩn hiệu quả nhất trong nghiên cứu này gồm TP-1.3, TP-
1.4, MQ-2.5, MT-16.5 và OM-17.5 giúp kích thích tăng thêm tỷ lệ nảy mầm của hạt
rau muống trung bình từ 16,3 đến 19,5% so với nghiệm thức đối chứng không chủng
vi khuẩn. Ngoài ra, khi quan sát về hình thái hạt và cây rau mầm còn cho thấy khi
chủng các dòng vi khuẩn thử nghiệm trong nghiên cứu này còn giúp hạt rau muống
nảy mầm sớm hơn (Hình 4.13A) và gia tăng số rễ bên so với nghiệm thức đối chứng
không chủng vi khuẩn (Hình 4.13B). Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Nhu
and Riddech (2016) và Trần Bảo Trâm và ctv. (2017) ). Theo Cao Ngọc Điệp và Ngô
Thanh Phong (2016) vi khuẩn đã xâm nhập lên bề mặt rễ, nội sinh vào bên trong hoặc
tiết các hormone thực vật làm tăng số rể bên, số lông hút, và chiều dài rễ dẫn đến tăng
khả năng hấp thu nước và muối khoáng của rễ (Stainer, 2003).
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy khi chủng 8 dòng vi khuẩn vào hạt rau
muống giúp gia tăng tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống so với đối chứng không chủng vi
khuẩn trung bình là 15%. Rõ ràng việc chủng 8 dòng vi khuẩn tuyển chọn trong
nghiên cứu này đã mang lại hiệu quả rất tích cực trong việc làm gia tăng tỷ lệ nảy mầm
hạt rau muống. Trong đó 5 dòng vi khuẩn kí hiệu TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, MT-16.5
và OM-17.5 cho hiệu quả tốt hơn và mật số vi khuẩn 106 cfu.mL-1 là mật số chuẩn
được chọn để thực hiện cho các thí nghiệm tiếp theo trên cây rau muống trong nghiên
cứu này.
103
Hình 4.13 Sự khác biệt về mặt hình thái giữa nghiệm thức có chủng và không chủng
vi khuẩn ở hạt và cây rau muống mầm (A: hạt nảy mầm sớm hơn ở nghiệm thức có
chủng vi khuẩn so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn và B: chiều cao
cây, chiều dài rễ và số rễ ở nghiệm thức chủng với dòng vi khuẩn TP-1.4 cao và nhiều
hơn so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn)
4.4.1.2 Ảnh hưởng của 8 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên khả năng kích thích sinh
trưởng rau muống
Kết quả đánh giá khả năng kích thích sinh trưởng cây rau muống của 8 dòng vi
khuẩn trên môi trường agar 1% ở điều kiện phòng thí nghiệm sau 10 ngày thí nghiệm
được trình bày ở Bảng 4.10. Kết quả cho thấy cả 8 dòng vi khuẩn đều có khả năng
kích thích sinh trưởng cây rau muống cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn.
Đối với chỉ tiêu chiều cao cây mầm, tất cả các nghiệm thức chủng các dòng vi
khuẩn thử nghiệm đều có chiều cao cây mầm cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Trong đó các
nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn MQ-2.5, OM-17.5 và CP-18.2 cho chiều cao
cây cao hơn, dao động từ 15,7-17,3 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các
nghiệm thức chủng vi khuẩn còn lại và nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn
(p<0,05). Các nghiệm thức còn lại có chiều cao cây dao động từ 13,3 đến 15,3 cm, cao
hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi
khuẩn (11,1 cm).
Tương tự như chiều cao cây, chiều dài rễ của tất cả nghiệm thức có chủng vi
khuẩn đều dài hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nghiệm thức
đối chứng không chủng vi khuẩn. Đặc biệt, 3 nghiệm thức chủng 3 dòng vi khuẩn TP-
1.3, MQ-2.1 và MQ-2.5 cho chiều dài rễ dài nhất và lần lượt đạt 8,06; 8,67 và 10,2 cm
so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn (5,20 cm) và các nghiệm thức
chủng các dòng vi khuẩn còn lại (nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-
104
2.1, OM-17.2, OM-17.5, MT-16.5 và CP-18.2) có chiều dài rễ dao động từ 6,75-7,79
cm.
Bảng 4.10 Ảnh hưởng của 8 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh trưởng
cây rau muống trên môi trường agar 1% ở điều kiện phòng thí nghiệm
STT Nghiệm thức Chiều cao thân
(cm) Chỉ tiêu sinh trưởng
Chiều dài rễ
(cm) Sinh khối tươi
(mg)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Đối với chỉ tiêu sinh khối tươi cây rau muống, các nghiệm thức chủng 4 dòng vi
khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5 và OM-17.5 cho kết quả sinh khối tươi cao hơn và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức chủng các dòng vi
khuẩn còn lại (là các nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn MQ-2.1, OM-17.2, MT-
16.5 và CP-18.2) với khối lượng dao động từ 927 đến 995 mg và với tỷ lệ tăng thêm
trung bình là 68% khối lượng tươi khi so sánh với nghiệm thức đối chứng không
chủng vi khuẩn (564 mg). Đặc biệt, nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 có
chiều cao thân, chiều dài rễ và sinh khối tươi của cây mầm rau muống cao nhất và
khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại trong số 8 dòng vi
khuẩn thử nghiệm. Trong khi nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.3 chỉ có hiệu
quả trong việc kích thích tăng chiều dài rễ và sinh khối tươi. Tương tự, dòng vi khuẩn
OM-17.5 chỉ có hiệu quả trong gia tăng chiều cao thân và sinh khối tươi cây mầm.
Dòng vi khuẩn TP-1.4 và MT-16.5 chỉ giúp tăng sinh khối tươi cây mầm.
Tóm lại, kết quả cho thấy trong số 8 dòng vi khuẩn thử nghiệm trên cây rau
muống thì 5 dòng vi khuẩn kí hiệu TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, OM-17.5 và MT-16.5
giúp kích thích gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống, tăng sinh trưởng và trọng
lượng tươi cây rau muống tốt hơn so với 3 dòng vi khuẩn còn lại (MQ-2.1, OM-17.2
và CP-18.2). Do đó 5 dòng vi khuẩn này được chọn để đánh giá ảnh hưởng của chúng
lên khả năng nảy mầm và kích thích sinh trưởng của hạt cải xanh ở điều kiện phòng thí
nghiệm, đồng thời cũng là cơ sở để chọn và đánh giá tiếp tục khả năng kích thích sinh
trưởng và năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện nhà lưới.
105
ĐC
TP-1.3
TP-1.4
MQ-2.1
MQ-2.5
OM-17.2
OM-17.5
MT-16.5
CP-18.2
F
CV (%) 11,1f
13,4e
15,3cd
13,9e
16,1b
13,3e
17,3a
15,0d
15,7bc
*
12,2 5,20e
8,06bc
7,58bcd
8,67b
10,21a
7,79bcd
7,25cd
6,75d
7,19cd
*
17,7 564f
995a
927b
697e
943b
705e
935b
884c
851d
*
16,7
4.4.2 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây cải xanh của 5 dòng vi
khuẩn
Năm dòng vi khuẩn tuyển chọn có ký hiệu lần lượt là TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5,
MT-16.5, OM-17.5 và hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn này được chọn để đánh giá khả năng
kích thích nảy mầm và sinh trưởng hạt cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm và kết
quả cho thấy chúng làm gia tăng đáng kể tỷ lệ nảy mầm và kích thích cây cải mầm
sinh trưởng tốt hơn.
4.4.2.1 Ảnh hưởng của các mức mật số vi khuẩn khác nhau lên khả năng nảy mầm hạt
cải xanh
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của các mức mật số vi khuẩn khác nhau của 5 dòng
vi khuẩn tuyển chọn lên tỷ lệ nảy mầm của hạt cải xanh sau 6 ngày thí nghiệm ở điều
kiện phòng thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4.11. Nhìn chung, mật số vi khuẩn khác
nhau ảnh hưởng lên tỷ lệ nảy mầm của hạt cải xanh khác nhau và khác biệt ý nghĩa
thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau. Kết quả cho thấy khi chủng vi khuẩn vào hạt
cải xanh cho tỷ lệ nảy mầm hạt cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi
so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Trong đó dòng vi khuẩn MT-
16.5 và OM-17.5 cho tỷ lệ nảy mầm cao hơn nghiệm thức đối chứng ở các nghiệm
thức chủng vi khuẩn có mật số từ 105 đến 109 cfu.mL-1 với tỷ lệ nảy mầm cao hơn 90%
cho tất cả các nồng độ. Trong khi đó, dòng vi khuẩn TP-1.3 ở các nghiệm thức chủng
vi khuẩn ở mật số 106, 107 và 108 cfu.mL-1 cho tỷ lệ nảy mầm tốt nhất với tỷ lệ nảy
mầm dao động từ 93,7 đến 95,6%. Bên cạnh đó, dòng vi khuẩn MQ-2.5 cho tỷ lệ nảy
mầm hạt cải xanh lớn hơn 90% ở các nghiệm thức chủng mật số vi khuẩn 105, 107 và
109 cfu.mL-1.
Bảng 4.11 Ảnh hưởng của mật số vi khuẩn lên tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh sau 6 ngày
chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Tỷ lệ nảy mầm (%)
TP-1.3
TP-1.4
MQ-2.5
Hỗn hợp 5
dòng VK
Nghiệm
thức
(cfu.mL-1)
Đối chứng
105
106
107
108
109
F
CV (%)
MT-16.5
88,9d
94,1b
90,7c
93,3b
96,7a
96,7a
*
3,20
OM-17.5
88,9d
94,1b
91,1c
94,4b
91,1c
98,9a
*
3,60
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1,4 và hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn thử
nghiệm ở mật số 107 cfu.mL-1 giúp kích thích tỷ lệ nảy mầm hạt cao nhất (> 90%) và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức chủng các mật số vi
106
88,9d
92,2c
86,3f
93,3b
87,1e
95,6a
*
3,80 88,9b
84,4d
81,1e
95,6a
85,6c
80,4f
*
6,20 88,9d
84,4e
95,6a
94,4b
93,7c
82,6f
*
5,70 88,9b
81,1f
87,1c
92,6a
85,6d
83,7e
*
4,40
khuẩn còn lại. Như vậy, kết quả cho thấy mật số 107 cfu/mL là mật số vi khuẩn thích
hợp chung cho cả 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm giúp tăng tỷ lệ nảy mầm tốt nhất đối
với hạt cải xanh.
Ngoài ra kết quả thí nghiệm cũng ghi nhận vào thời điểm 2 ngày sau khi chủng vi
khuẩn vào hạt, có sự khác biệt rõ rệt nhất về tỷ lệ nảy mầm của hạt ở các nghiệm thức
chủng các mức mật số vi khuẩn khác nhau. Nghiệm thức chủng vi khuẩn với mật số
107 cfu.mL-1 cho tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh cao hơn và khác biệt thống kê (p<0,05) so
với các nghiệm thức chủng các mức mật số vi khuẩn còn lại cho cả 5 dòng vi khuẩn và
hỗn hợp của 5 dòng vi khuẩn này. Kết quả phân tích thống kê ảnh hưởng của 5 dòng vi
khuẩn ở ở mật số 107 cfu.mL-1 lên tỷ lệ nảy mầm của hạt cải xanh sau 2 ngày thí
nghiệm được trình bày trong Hình 4.14 cho thấy cả 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm đều
có tỷ lệ nảy mầm của hạt cải xanh cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn, với tỷ lệ nảy mầm dao động từ 85,6
đến 92,2% (tăng thêm so với nghiệm thức đối chứng từ 16,7 đến 23,5 %).
Hình 4.14 Tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh ở các nghiệm thức chủng vi khuẩn ở mật số
107cfu.mL-1 sau 2 ngày thí nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
Đặc biệt, 2 dòng vi khuẩn TP-1.3 và OM-17.5 có tỷ lệ hạt nảy mầm hạt cao nhất,
lần lượt đạt 92,2% và 90,0%, khác biệt thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức
chủng các dòng vi khuẩn còn lại ở cùng mật số vi khuẩn và so với nghiệm thức đối
chứng không chủng vi khuẩn. Kết quả này cho thấy mật số 107 cfu.mL-1 là mật số vi
khuẩn chủng tối ưu nhất giúp 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm thể hiện khả năng kích thích
tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh và hạt cải nảy mầm sớm hơn và mật số vi khuẩn 107
cfu.mL-1 là mật số chuẩn được chọn để thực hiện cho các thí nghiệm tiếp theo trên cây
cải xanh trong nghiên cứu này.
4.4.2.2 Ảnh hưởng của 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm lên sinh trưởng cây cải xanh
Tương tự cây rau muống, sự sinh trưởng của cây cải xanh cũng cho thấy có sự
kích thích sinh trưởng tốt hơn ở các nghiệm thức khi được chủng với 5 dòng vi khuẩn
107
thử nghiệm bởi vì cả 5 dòng vi khuẩn thử nghiệm đều cho các chỉ tiêu về nông học và
sinh khối tươi cây mầm cao hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn (Bảng 4.12).
Bảng 4.12 Ảnh hưởng của 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh trưởng
cây cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm
STT Nghiệm thức Chiều cao thân
(cm) Chiều dài rễ
(cm) Sinh khối tươi
(mg)
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Đối với chiều cao cây mầm, tất cả các nghiệm thức chủng vi khuẩn đều có chiều
cao cây mầm cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng
không chủng vi khuẩn. Trong đó các nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.3 và
MT-16.5 cho chiều cao cây cao thứ nhất và thứ hai với chiều cao lần lượt là 7,51 và
7,11 cm, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức chủng các
dòng vi khuẩn còn lại và nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Các nghiệm
thức còn lại có chiều cao cây dao động từ 6,46 đến 6,67 cm, vẫn cao hơn và khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn có chiều cao
là 5,13 cm.
Tương tự như chiều cao cây, chiều dài rễ mầm của các nghiệm thức có chủng vi
khuẩn đều cho chiều dài rễ dài hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Đặc biệt nghiệm thức chủng các dòng
vi khuẩn MQ-2.5, MT-16.5 và hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn cho chiều dài rễ dài nhất
tương ứng đạt 7,30; 7,17 và 7,55 cm so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi
khuẩn có chiều dài rễ là 6,10 cm. Trong khi đó 3 nghiệm thức chủng vi khuẩn TP-1.3,
TP-1.4 và OM-17.5 có chiều dài rễ dao động từ 6,22-6,86 cm, tuy nhiên, cả 3 nghiệm
thức này có chiều dài rễ khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm
thức đối chứng và nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho chiều dài rễ thấp nhất
(6,22cm).
Đối với chỉ tiêu sinh khối tươi cây cải mầm sau 10 ngày thí nghiệm cho thấy các
nghiệm thức chủng vi khuẩn cho kết quả sinh khối tươi cao hơn và khác biệt ý nghĩa
thống kê khi so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn (p<0,05). Đặc biệt,
nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 làm gia tăng chiều cao thân và chiều dài rễ
tốt hơn dẫn đến sinh khối tươi của cây mầm ở nghiệm thức này đạt cao nhất (125 mg)
108
1
2
3
4
5
6
7 Đối chứng
TP-1.3
TP-1.4
MQ-2.5
OM-17.5
MT-16.5
Hỗn hợp VK
F
CV(%) 5,13d
7,51a
6,46c
6,53c
6,67c
7,11b
6,46c
*
10,8 6,10c
6,86abc
6,22c
7,30ab
6,73bc
7,17ab
7,55a
*
8,3 89,0e
110b
100cd
125a
108b
103c
98,7d
*
10,2
so với nghiệm thức đối chứng là 89,0 mg. Kế đến nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn
TP-1.3 do có hiệu quả cao trong việc kích thích gia tăng chiều cao thân nên tăng đáng
kể sinh khối tươi cây mầm. Trong khi nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn OM-17.5 cho
kết quả sinh khối tươi cao hơn do làm tăng khá tốt cả 2 chỉ tiêu về chiều cao và chiều
dài rễ. Tuy nhiên, nghiệm thức chủng hỗn hợp vi khuẩn chỉ kích thích chiều dài rễ nên
sinh khối cây mầm thấp hơn các nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn đơn lẽ, mặc dù
vậy nghiệm thức này vẫn cho sinh khối tươi cây mầm cao hơn 9,7 mg và khác biệt ý
nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn.
Như vậy, rõ ràng khi chủng các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, MT-16.5
và OM-17.5 vào hạt rau muống và hạt cải xanh giúp gia tăng tỷ lệ nảy mầm thêm
17,2% so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn, đồng thời cũng giúp gia
tăng chiều cao cây, chiều dài rễ và sinh khối tươi của cây rau muống và cây cải mầm,
tạo điều kiện cho cây rau sinh trưởng tốt hơn trong các giai đoạn kế tiếp. Tóm lại 5
dòng vi khuẩn kí hiệu TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, OM-17.5 và MT-16.5 có hiệu quả tốt
nhất giúp kích thích gia tăng tỷ lệ nảy mầm, sinh trưởng và làm gia tăng sinh khối tươi
cây rau muống cũng như cây cải xanh. Do đó 5 dòng vi khuẩn này được chọn để tiếp
tục đánh giá khả năng kích thích sinh trưởng và năng suất rau muống và cải xanh trong
điều kiện nhà lưới.
4.4.3 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây rau muống của 5 hệ IMO
tuyển chọn
4.4.3.1 Ảnh hưởng của mức pha loãng lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của các mức pha loãng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên
khả năng nảy mầm hạt rau muống sau 6 ngày thí nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
được trình bày trong Bảng 4.13 cho thấy giữa các nghiệm thức pha loãng khác nhau
cho tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so
sánh với nhau và cao hơn so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Bốn
hệ IMO có nguồn gốc từ đất trồng củ lùn, ớt, tre và IMO hỗn hợp có tỷ lệ nảy mầm
cao nhất ở nghiệm thức pha loãng 1000 lần và với tỷ lệ nảy mầm dao động từ 80,0 đến
86,7% tăng 15,1 đến 20,8% so với đối chứng không chủng IMO (65,9%). Trong khi
nghiệm thức chủng hệ IMO mồng tơi ở mức pha loãng 1000 lần có tỷ lệ nảy mầm thấp
hơn (71,1%) nhưng vẫn cao hơn so với đối chứng. Ngoài ra mặc dù các mức pha loãng
50, 100, 300 lần của các hệ IMO tuyển chọn cho tỷ lệ nảy mầm cao hơn so với nghiệm
thức đối chứng vào thời điểm 6 ngày thí nghiệm, tuy nhiên tỷ lệ nảy mầm hạt rau
muống ở các thời điểm 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày sau khi chủng thấp hơn so với các
nghiệm thức chủng với các mức pha loãng 500, 700, 900 và 1000 lần và với đối chứng
không chủng IMO. Điều này có nghĩa là khi được chủng ở các mức nồng độ pha loãng
thấp (tức là nồng độ IMO đậm đặc hơn) các hạt rau muống được chủng vào thể hiện
nảy mầm muộn hơn. Kết quả này tương đương thí nghiệm của Sangakara and
Attanayake (1993) và tác giả đã giải thích cho hiện tượng này là do nồng độ đường
109
hoặc các hợp chất sinh học trong hỗn hợp lên men của các hệ IMO cao làm ức chế
hoặc làm chậm quá trình nảy mầm của hạt rau muống.
Bảng 4.13 Ảnh hưởng các mức pha loãng hệ IMO lên tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống
sau 6 ngày chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Tỷ lệ hạt nảy mầm (%)
Nồng độ
pha loãng IMO Ớt
Đối chứng
50
100
300
500
700
900
1000
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Kết quả thí nghiệm và những quan sát được ghi nhận trong thí nghiệm này cho
thấy nồng độ hòa loãng IMO phù hợp đối với hạt rau muống để kích thích tỷ lệ nảy
mầm hạt ra muống là từ 500 đến 1.000 lần. Tuy nhiên để hiệu quả nảy mầm tốt nhất
nồng độ pha loãng 1.000 lần là phù hợp nhất và nồng độ pha loãng 1000 lần là nồng
độ pha loãng chuẩn được chọn để thực hiện cho các thí nghiệm tiếp theo cho các hệ
IMO tuyển chọn trên cây rau muống ở điều kiện nhà lưới.
Khi so sánh tỷ lệ nảy mầm ở nồng độ pha loãng 1.000 lần với nhau của các hệ
IMO cho thấy các hệ IMO khác nhau cho khả năng kích thích tỷ lệ nảy mầm hạt rau
muống khác nhau, đều cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức
đối chứng không chủng IMO với tỷ lệ nảy mầm của hạt dao động từ 71,1 đến 86,7%,
trong khi nghiệm thức đối chứng không chủng IMO là 65,9%. Khi so sánh khả năng
kích thích tỷ lệ nảy mầm của các dòng vi khuẩn đơn và IMO lên hạt rau muống cho
thấy chúng có tỷ lệ nảy mầm gần như tương đương nhau. Cụ thể, khi chủng 8 dòng vi
khuẩn và hỗn hợp 8 dòng vi khuẩn này giúp tăng tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống tăng
trung bình 14,6% so với nghiệm thức đối chứng trong khi 5 hệ IMO cho tỷ lệ nảy mầm
hạt rau muống cao hơn trung bình 14,4 % so với nghiệm thức đối chứng. Như vậy các
dòng vi khuẩn và các hệ IMO tuyển chọn có hiệu quả như nhau trong việc kích thích
gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống ở mật số vi khuẩn 106 cfu/mL và nồng độ
pha loãng IMO 1000 lần.
4.4.3.2 Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên khả năng sinh trưởng cây rau muống
Bảng 4.14 trình bày kết quả về ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên khả năng
sinh trưởng cây rau muống ở điều kiện phòng thí nghiệm sau 10 ngày chủng cho thấy
110
F
CV (%) IMO Củ lùn
65,9d
72,2c
75,6b
72,2c
71,1c
72,2c
76,3b
86,7a
*
7,76 IMO Mồng tơi
65,9c
70,0ab
68,9b
70,0ab
65,6cd
68,9b
64,5d
71,1a
*
3,47 IMO Tre Hỗn hợp IMO
65,9e
67,8d
73,3c
72,2c
75,6b
76,6b
76,7b
80,0a
*
6,19 65,9d
63,0e
60,7f
72,1bc
71,1c
72,6b
65,6d
82,6a
*
9,61 65,9e
64,5e
64,5e
69,2d
74,4b
72,8c
70,0d
81,2a
*
7,83
Sinh khối tươi (mg) Chiều dài rễ (cm)
cả 5 hệ IMO đều có khả năng kích thích sinh trưởng cây rau muống cao hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng không chủng IMO.
Bảng 4.14 Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh trưởng cây
rau muống ở mức nồng độ pha loãng 1000 lần ở điều kiện phòng thí nghiệm
Nghiệm thức
Đối chứng
IMO-Củ lùn
IMO-Mồng tơi
IMO-Ớt
IMO-Tre
IMO hỗn hợp
Chiều cao thân (cm)
10,3e
15,2a
13,1c
11,8d
14,9a
14,2b 510c
1.160a
1.033b
1.087ab
1.037b
1.150a 6,10c
7,53a
7,33a
6,60b
7,76a
6,50bc
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Đối với chỉ tiêu chiều cao thân, tất cả các nghiệm thức chủng các hệ IMO đều
cho chiều cao cây cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm
thức đối chứng không chủng hệ IMO ở nồng độ pha loãng 1000 lần, với chiều cao cây
dao động từ 11,8-15,2 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối
chứng (10,3 cm). Tương tự, chiều dài rễ của tất cả nghiệm thức có chủng các hệ IMO
đều cho rễ dài hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng không
chủng IMO, với chiều dài rễ dao động từ 6,50 đến 7,76 cm và ở nghiệm thức đối
chứng là 6,10 cm. Đặc biệt đối với chỉ tiêu sinh khối tươi, các nghiệm thức chủng các
hệ IMO hầu như có khối lượng tăng thêm tương đương 100% so với nghiệm thức đối
chứng. Kết quả này tương tự như kết quả khảo sát ảnh hưởng của các dòng vi khuẩn
tuyển chọn được phân lập từ 5 hệ IMO thử nghiệm này. Điều này có thể giải thích do
các hệ IMO có chứa các các vi sinh vật đặc biệt là các vi sinh vật cố định đạm và tổng
hợp IAA có khả năng tổng hợp các chất hoặc hợp chất có hoạt tính sinh học giúp kích
thích quá trình phát triển chiều cao cây mầm, chiều dài rễ cây mầm tốt dẫn đến làm
tăng khối lượng tươi của cây mầm.
F
CV (%) *
13,7 *
9,11 *
23,2
4.4.4 Khả năng kích thích nảy mầm và sinh trưởng cây cải xanh của 5 hệ IMO
tuyển chọn
4.4.4.1 Ảnh hưởng của mức pha loãng khác nhau lên tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các mức pha loãng khác nhau của 5 hệ IMO
tuyển chọn lên khả năng nảy mầm hạt cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm được
trình bày trong Bảng 4.15 cho thấy tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh của các nghiệm thức
chủng các nồng độ IMO pha loãng khác nhau thì khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05).
111
Bảng 4.15 Ảnh hưởng của các mức pha loãng hệ IMO lên tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh
sau 6 ngày chủng ở điều kiện phòng thí nghiệm
Tỷ lệ nảy mầm (%)
Hỗn hợp IMO
Nồng độ
pha loãng
(lần)
Đối chứng
50
100
300
500
700
900
1000
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Cụ thể, ở các mức pha loãng thấp (50, 100 và 300 lần) tỷ lệ hạt nảy mầm thấp hơn so
với nghiệm thức đối chứng, tuy nhiên khi tăng nồng độ pha loãng lên 500, 700, 900 và
1.000 lần tỷ lệ hạt nảy mầm tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối
chứng. Trong đó các nghiệm thức chủng với bốn hệ IMO có nguồn gốc từ đất trồng củ
lùn, mồng tơi, tre và IMO hỗn hợp có tỷ lệ nảy mầm hạt cao nhất ở nồng độ pha loãng
1.000 lần và với tỷ lệ nảy mầm hơn 93% so với nghiệm thức đối chứng chỉ 88,9%. Kế
đến, nghiệm thức chủng với hệ IMO thu từ đất trồng ớt có tỷ lệ nảy mầm hạt là 85,6%
nhưng vẫn cao hơn so với nghiệm thức đối chứng không chủng hệ IMO (Hình 4.15).
Ngược lại, ở các nghiệm thức chủng các hệ IMO có nồng độ pha loãng 50, 100 và 300
lần có tỷ lệ nảy mầm hạt thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng vào thời điểm 6 ngày
thí nghiệm, đồng thời thí nghiệm còn ghi nhận ở thời điểm 2 và 4 ngày sau khi chủng
số hạt nảy mầm của các nghiệm thức chủng các nồng độ pha loãng này thấp hơn so với
các nghiệm thức chủng nồng độ pha loãng 500, 700, 1.000 lần và so với nghiệm thức
đối chứng. Có thể giải thích cho hiện tượng này là do nồng độ đường hoặc các hợp
chất sinh học trong hỗn hợp lên men của các hệ IMO đã ức chế hoặc làm chậm quá
trình nảy mầm của hạt cải xanh. Do đó, dựa vào kết quả thí nghiệm và quan sát ghi
nhận được trong thí nghiệm cho thấy nồng độ pha loãng các hệ IMO từ 500 đến 1.000
lần là thích hợp nhất để giúp kích thích tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh. Tuy nhiên, để hạt
cải xanh đạt tỷ lệ nảy mầm cao nhất, nồng độ pha loãng của các hệ IMO 1.000 lần là
phù hợp nhất.
112
F
CV (%) IMO Củ lùn
88,9b
83,3d
86,7c
89,1b
89,9b
93,3a
93,3a
93,3a
*
5,7 IMO Mồng tơi
88,9b
78,9d
75,6e
79,9d
88,9b
84,4c
93,4a
93,3a
*
7,9 IMO Ớt
88,9e
83,3c
82,2d
84,4b
83,2c
82,2d
79,0e
85,6a
*
2,8 IMO Tre
88,9c
87,8e
88,9d
89,1d
89,9c
87,8e
93,3b
94,1a
*
5,0 88,9bc
78,9e
81,1d
84,5c
90,0b
91,1b
91,1b
94,4a
*
6,9
Hình 4.15 Tỷ lệ nảy mầm hạt cải xanh chủng IMO ở mức pha loãng 1.000 lần sau 2
ngày chủng
Khi so sánh với hiệu quả kích thích tỷ lệ nảy mầm của các hệ IMO lên hạt rau
muống và hạt cải xanh cho thấy các hệ IMO thử nghiệm giúp kích thích gia tăng tỷ lệ
nảy mầm hạt rau muống cao hơn so với hạt cải xanh với tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống
cao hơn so với nghiệm thức đối chứng trên hạt rau muống là 15% trong khi hạt cải là
3,24%. Điều này có thể do đặc thù hạt cải có tỷ lệ nảy mầm cao nên hiệu quả của các
hệ IMO lên tỷ lệ nảy mầm thể hiện chưa rõ. Kết quả này tương tự như các thí nghiệm
trên các dòng vi khuẩn đơn trong nghiên cứu này. Khi so sánh khả năng kích thích tỷ
lệ nảy mầm hạt cải xanh của các dòng vi khuẩn và IMO với nhau cho thấy các dòng vi
khuẩn đơn và IMO kích thích gia tăng tỷ lệ nảy mầm tương đương nhau. Cụ thể, trong
khi các nghiệm thức chủng 8 dòng vi khuẩn và hỗn hợp của chúng có tỷ lệ nảy mầm
hạt cải xanh cao hơn nghiệm thức đối chứng là 5,03% thì các nghiệm thức chủng 5 hệ
IMO tuyển chọn có tỷ lệ nảy mầm cao hơn so với nghiệm thức đối chứng là 3,24 %.
Như vậy các dòng vi khuẩn đơn và các hệ IMO tuyển chọn đều có hiệu quả tương
đương nhau trong việc kích thích gia tăng có ý nghĩa tỷ lệ nảy mầm của hạt cải xanh.
Ngoài ra thí nghiệm khảo sát khả năng kích thích tỷ lệ nảy mầm còn ghi nhận
được khi chủng IMO giúp hạt cải nảy mầm sớm hơn, số lông hút ở rễ mầm xuất hiện
nhiều hơn so với nghiệm thức đối chứng hạt rau muống và hạt cải chỉ ngâm với nước ở
cùng thời điểm (Hình 4.16). Kết quả nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của Nhu
and Riddech (2016). Theo Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong (2016) vi khuẩn đã
xâm nhập lên bề mặt rễ, nội sinh vào bên trong hoặc tiết các hormone thực vật
(Stainer, 2003) làm tăng số lông hút, và chiều dài rễ dẫn đến tăng khả năng hấp thu
nước và muối khoáng của rễ.
113
Hình 4.16 Sự xuất hiện nhiều lông hút ở rễ mầm cây cải khi được chủng với IMO
(A: đối chứng hạt cải ngâm nước; B: hạt cải ngâm dung dịch IMO pha loãng 500 lần)
4.4.4.2 Ảnh hưởng của các hệ IMO lên khả năng sinh trưởng của cây cải xanh ở điều
kiện phòng thí nghiệm
Bảng 4.16 trình bày kết quả ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên khả năng
sinh trưởng cây cải xanh ở điều kiện phòng thí nghiệm sau 10 ngày chủng cho thấy cả
5 hệ IMO đều thể hiện khả năng kích thích sinh trưởng cây cải xanh tốt hơn và khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau và với nghiệm thức đối chứng
không chủng IMO.
Bảng 4.16 Ảnh hưởng của 5 hệ IMO tuyển chọn lên một số chỉ tiêu sinh trưởng cây
cải xanh ở nồng độ pha loãng 1000 lần ở điều kiện phòng thí nghiệm
Nghiệm thức
Đối chứng
IMO-Củ lùn
IMO-Mồng tơi
IMO-Ớt
IMO-Tre
Hỗn hợp IMO
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Đối với chiều cao cây mầm, tất cả các nghiệm thức chủng các hệ IMO đều có
chiều cao cây mầm cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối
chứng không chủng IMO. Trong đó các nghiệm thức chủng IMO thu từ đất tre có
chiều cao cây cao nhất, đạt 5,75 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với
các nghiệm thức chủng các hệ IMO còn lại và nghiệm thức đối chứng. Các nghiệm
thức còn lại có chiều cao thân dao động từ 4,50 đến 5,33 cm, cao hơn có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng không chủng IMO (4,00 cm).
Tương tự như chiều cao cây, chiều dài rễ mầm của các nghiệm thức có chủng các
hệ IMO đều cho rễ dài hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức
đối chứng không chủng vi khuẩn. Đặc biệt ở nghiệm thức chủng hệ IMO củ lùn và
mồng tơi cho chiều dài rễ cao nhất, lần lượt đạt 7,67 và 7,50 cm so với nghiệm thức
đối chứng không chủng vi khuẩn (5,00 cm). Trong khi các nghiệm thức chủng các hệ
114
F
CV (%) Chiều cao thân (cm)
4,00d
5,30b
5,33b
4,50c
5,73a
5,33b
*
12,2 Chiều dài rễ (cm)
5,00e
7,67a
7,50a
6,50d
7,17b
6,83c
*
13,5 Sinh khối tươi (mg)
61,0e
95,0b
80,0d
89,0c
109a
82,0d
*
17,7
IMO ớt, tre và hỗn hợp IMO có chiều dài rễ dao động từ 6,50-7,17 cm, tuy nhiên, vẫn
cao hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng.
Đối với chỉ tiêu sinh khối tươi cây cải mầm sau 10 ngày chủng cho thấy các
nghiệm thức chủng với hệ IMO cho kết quả sinh khối tươi cao hơn và khác biệt ý
nghĩa thống kê khi so với nghiệm thức đối chứng không chủng IMO. Đặc biệt, nghiệm
thức chủng hệ IMO tre làm gia tăng chiều cao thân, chiều dài rễ và đường kính thân tốt
nhất, dẫn đến tăng sinh khối tươi của cây mầm cao nhất, đạt 109,0 mg và cao hơn 48
mg và tăng 78% so với nghiệm thức đối chứng là 61,0 mg. Kế đến là nghiệm thức
chủng hệ IMO củ lùn có hiệu quả trong việc kích thích tăng đáng kể sinh khối cây
mầm (95,0 mg) và cao hơn 34 mg so với nghiệm thức đối chứng. Trong khi các
nghiệm thức chủng các hệ IMO còn lại cho kết quả sinh khối tươi tốt hơn so với
nghiệm thức đối chứng với sinh khối tươi dao động từ 80,0 đến 89,0 mg và cao hơn từ
19 đến 28 mg so với nghiệm thức đối chứng, tương ứng với tỷ lệ 31-55% do các chỉ
tiêu về chiều cao thân, đường kính thân và chiều dài rễ ở các nghiệm thức này cũng
được tăng lên.
Như vậy, rõ ràng 5 hệ IMO tuyển chọn chứa 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn có khả
năng kích thích gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống và hạt cải xanh, đồng thời
cũng giúp gia tăng chiều cao thân, chiều dài rễ dẫn đến tăng sinh khối tươi cây mầm
của cây rau muống và cây cải xanh.
Một số nghiên cứu trước đây khảo sát trên các dòng vi khuẩn kích thích sinh
trưởng được tuyển chọn ở điều kiện phòng thí nghiệm cũng cho kết quả tương tự với
nghiên cứu này. Điển hình như nghiên cứu của Harrper and Lynch (1980) đã báo cáo
rằng khi ngâm hạt lúa mạch trong dung dịch vi khuẩn kích thích sinh trưởng cây trồng
trong 4 giờ giúp gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt. Đặc biệt trên hạt rau muống, Nhu and
Riddech (2016) đã tiến hành chủng 3 dòng vi khuẩn kích thích sinh trưởng vào hạt rau
muống ở điều kiện phòng thí nghiệm cho thấy chúng đã giúp tăng tỷ lệ nảy mầm, tăng
chiều cao cây mầm, tăng chiều dài rễ và tăng số lông hút của rễ. Trên cà chua và ớt,
nghiên cứu của Islam et al. (2013) cũng cho thấy khi chủng 13 dòng vi khuẩn cố định
đạm vào hạt ở đĩa Petri đã làm tăng tỷ lệ nảy mầm hạt cà chua và hạt ớt cũng như
chiều dài rễ, chiều cao cây mầm, sức sống của hạt và sinh khối khô cây mầm so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Nghiên cứu của Cruz et al. (2014) đã
cho thấy khi chủng dòng vi khuẩn Burkholderia sabiae có khả năng cố định đạm và
tổng hợp IAA đã giúp tăng tỷ lệ nảy mầm hạt ớt thêm 100% đối với giống ớt Jalapeño
và 50% đối với giống ớt Manzano ở điều kiện phòng thí nghiệm. Tương tự, nghiên
cứu của Hanapi et al. (2014) đã cho thấy khi chủng vi khuẩn Nitromonas europaea
hoặc hỗn hợp của nó với các dòng vi khuẩn khác đã thúc đẩy sự phát triển tốt nhất của
chiều dài rễ mầm. Trong khi hỗn hợp hai dòng vi khuẩn Rhodopseudomonas palustris
và Acinetobacter sp. giúp kích thích tỷ lệ nảy mầm và chiều cao cây mầm của hạt lúa
tốt nhất. Các thí nghiệm chủng dòng vi khuẩn Bacillus aoagulans và Pseudomonas
cho thấy chúng làm tăng tỷ lệ nảy mầm có ý nghĩa thống kê (p<0,05) hạt đậu que, đậu
115
đũa, đậu bắp và hạt củ dền (Kapilan and Thavaranjit, 2015). Theo các tác giả này mức
độ kích thích hay ức chế tỷ lệ nảy mầm của hạt và sự sinh trưởng cây mầm sau khi
chủng với vi khuẩn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố như loại hạt, loài
vi khuẩn chủng, mật số vi sinh vật khi chủng và các yếu tố vật lý và hoá học khác ở
bên trong hay bên ngoài hạt (Carrillo-Castanada et al., 2002; Krishnaswamy and
Seshu, 1990; Sturz and Nowak, 2000; Islam et al., 2013; Kapilan and Thavaranjit,
2015)
Đối với hỗn hợp nhiều dòng vi khuẩn hay hệ vi sinh vật hữu ích (Effective
Microorganisms (EM)) các thử nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm cũng cho kết quả
tương tự. Bakonyi et al. (2013) đã ngâm hạt với các chế phẩm vi sinh đã giúp hạt tăng
tỷ lệ nảy mầm thêm 20%, sinh khối khô của rễ mầm và thân mầm tăng thêm 7% so với
nghiệm thức đối chứng không xử lí với chế phẩm. Đặc biệt, nghiên cứu của
Sangakkara and Attanayake, (1993) đã cho thấy khi sử dụng chế phẩm EM ở dung
dịch gốc hoặc pha loãng 100 lần cho thấy chúng ức chế tỷ lệ nảy mầm của hạt lúa
nhưng ở mức pha loãng 500 lần thì tỷ lệ nảy mầm hạt lúa đạt cao nhất đồng thời cũng
ở mức pha loãng này làm tăng mạnh nhất khối lượng thân và rễ mầm cây lúa.
Ở trong nước, các nghiên cứu trong điều kiện phòng thí nghiệm về khả năng kích
thích nảy mầm và cây mầm cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Vũ Thành
Công (2009) đã báo cáo rằng khi chủng dòng vi khuẩn có khả năng cố định đạm
Azospirillum sp. phân lập từ rễ cây rau muống giúp kích thích tăng tỷ lệ nảy mầm hạt
đậu xanh, đậu đũa, đậu cove và hạt cà chua có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với
nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn và đồng thời giúp gia tăng chiều dài rễ
cây lên 1,19 lần so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Nghiên cứu của
Kiều Phương Nam và ctv. (2010) đã chỉ ra rằng khi chủng các dòng vi khuẩn
Methylobacterium ssp. kích thích sinh trưởng thực vật giúp tăng tỷ lệ nảy mầm hạt đậu
xanh, đậu đũa, đậu cove và hạt cà chua có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm
thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Ngoài ra, Trần Bảo Trâm và ctv. (2017) đã cho
thấy khi chủng dung dịch vi khuẩn tổng hợp IAA (Kluyvera cryocrescens) giúp tỷ lệ
nảy mầm của hạt dưa leo tăng mạnh, đạt 93,3% và khác biệt có ý nghĩa thống kê so
với nghiệm thức đối chứng không chủng (80%) và sau 10 ngày chủng giúp cây dưa leo
sinh trưởng nhanh và đồng đều, có chiều dài thân, chiều dài rễ và khối lượng cây mầm
cũng như số rễ phụ phát triển tốt hơn so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi
khuẩn.
Tóm lại, các kết quả đánh giá và khảo sát ở điều kiện phòng thí nghiệm cho thấy
các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn có khả năng giúp gia tăng
tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống và hạt cải xanh đồng thời kích thích hạt nảy mầm sớm
hơn, gia tăng số lông hút của rễ. Ngoài ra chủng các dòng vi khuẩn vào hạt còn cho
thấy chúng làm tăng chiều cao cây, chiều dài rễ mầm và làm tăng sinh khối tươi cây
mầm so với đối chứng không chủng vi khuẩn. Mật số 106 và 107 cfu.mL-1 là hai mật số
tối ưu nhất dùng để chủng các dòng vi khuẩn tuyển chọn lần lượt vào trong hạt rau
116
muống và hạt cải xanh giúp kích thích tỷ lệ nảy mầm hạt và sinh trưởng cây rau. Các
hệ IMO tuyển chọn cũng cho thấy có hiệu quả tốt trong việc kích thích làm tăng tỷ lệ
nảy mầm hạt rau muống và hạt cải xanh cũng như tăng sinh trưởng của 2 loại cây mầm
này. Khi so sánh hiệu quả kích thích sinh trưởng của các dòng thuần với các hệ IMO
cho thấy chúng có hiệu quả tương đương nhau ở các mật số và nồng độ pha loãng phù
hợp. Do đó 5 dòng vi khuẩn hiệu quả nhất gồm TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, MT-16.5 và
OM-17.5 và 5 hệ IMO từ đất trồng củ lùn, mồng tơi, ớt, tre và IMO hỗn hợp được
tuyển chọn để đánh giá khả năng kích thích sinh trưởng cây rau muống và cây cải xanh
trong điều kiện nhà lưới với mật số các dòng vi khuẩn áp dụng cho rau muống là 106
cfu.mL-1, cải xanh là 107 cfu.mL-1 và nồng độ IMO pha loãng cho rau muống và cải
xanh là 1000 lần.
4.5 Nội dung 5: Hiệu quả của 5 dòng vi khuẩn tuyển chọn và 5 IMO chứa các
dòng vi khuẩn tuyển chọn lên sinh trƣởng, năng suất rau muống và cải xanh ở
điều kiện nhà lƣới
4.5.1 Sinh trưởng và năng suất rau muống trong nhà lưới
Sự sinh trưởng và phát triển của cây rau muống được thể hiện qua các chỉ tiêu
như chiều cao cây rau, số lá, đường kính thân và các chỉ tiêu nông học khác từ đó góp
phần làm tăng sinh khối và tăng năng suất cây rau, là một trong những chỉ tiêu quan
trọng mà người trồng rau mong muốn đạt được. Do đó, để xác định vai trò của các
dòng vi khuẩn có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn và các hệ IMO
trong khả năng kích thích sinh trưởng và gia tăng năng suất cây rau muống cần theo
dõi các chỉ tiêu nông học của cây rau muống.
4.5.1.1 Chiều cao cây rau muống
Chiều cao cây là một trong những đặc trưng quan trọng giúp đánh giá khả năng
sinh trưởng và hình thành năng suất rau muống. Kết quả khảo sát khả năng kích thích
sự gia tăng chiều cao cây rau muống của 5 dòng vi khuẩn và 5 IMO tuyển chọn trồng
trong chậu ở nhà lưới qua ba vụ thí nghiệm được trình bày ở Bảng 4.17. Kết quả cho
thấy các nghiệm thức chủng vi sinh vật kết hợp bón giảm các mức phân đạm khác
nhau cho chiều cao thân rau muống cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
khi so sánh với nhau và so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Nhìn
chung, trong suốt 3 vụ rau thí nghiệm liên tục việc giảm phân đạm ở mức 25% và 50%
làm giảm chiều cao cây rau muống so với nghiệm thức bón 100% NPK theo khuyến
cáo, tuy nhiên ở các nghiệm thức bón 75N và 50N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các
dòng vi khuẩn hoặc hệ IMO giúp chiều cao cây rau muống vẫn duy trì ở mức bằng
hoặc cao hơn so với nghiệm thức bón đầy đủ 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo. Cụ thể
trong vụ rau muống thứ nhất, các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng
dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-2.5, MT-16.5 và OM-17.5 cho chiều cao cây cao nhất và
đạt lần lượt 43,3 và 43,1, 42,1 và 41,2 cm và khác biệt không ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng dương, bón phân 100%NPK theo khuyến cáo
117
(42,6 cm). Bên cạnh đó các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các
hệ IMO củ lùn, mồng tơi, ớt và tre dù chiều cao thân có giảm và dao động từ 38,3-39,7
cm nhưng vẫn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bón
phân 100%NPK theo khuyến cáo. Tuy nhiên trong vụ 2 chỉ có nghiệm thức bón 75N-
48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 có chiều cao cây ở mức 54,0 cm,
cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so với nghiệm thức bón 100%NPK
khuyến cáo (51,9 cm), trong khi các nghiệm thức còn lại cho chiều cao cây thấp hơn
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bón 100%NPK theo khuyến cáo.
Bảng 4.17 Chiều cao cây rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở phòng thí nghiệm
Chiều cao thân (cm) STT Nghiệm thức
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Đáng lưu ý trong vụ rau muống thứ 2 là nghiệm thức bón 50N-48P2O5-24K2O
kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho chiều cao cây đạt 48,0 cm, tuy nhiên, không
khác biệt thống kê (p<0,05) khi so sánh với nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-
24K2O theo khuyến cáo (51,9 cm). Sang vụ rau muống thứ 3 kết quả có sự khác biệt rõ
rệt hơn giữa các nghiệm thức, đặc biệt là ở các nghiệm thức bón 2 mức phân đạm là
75N và 50N-48P2O5-24K2O có chiều cao cây khác nhau và khác biệt nhau có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Cụ thể, chiều cao thân ở nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết
118
1 Đối chứng 0NPK
2 Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
4
5
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
6
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
7
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
8
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
9
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
10
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
11
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
12
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
13
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
14
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
15
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
16
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
17
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
18
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
19
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
20
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
21
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
22
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
23
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
24 F
CV(%) Vụ 1
24,5f
42,6ab
37,6bcde
43,3a
43,1a
41,2abcd
42,1abc
39,9abcd
36,7abcd
38,3abcde
39,7abcd
39,5abcd
37,9bcde
38,5abcde
38,3abcde
39,9abcd
36,9de
37,5cde
40,1abcd
34,0e
41,0abcd
37,1cde
37,1cde
36,3de
*
10,3 Vụ 2
Vụ 3
30,3e
27,6o
51,9ab
45,5b
47,7bcd
37,5fghi
54,0a
50,5a
46,9cd
38,7fg
43,3c
46,9cd
46,4cd 36,9ghijk
41,7cd
44,1cd
34,1lmn
46,9cd
38,4fgh
46,1cd
35,2klm
47,5bcd
40,8de
48,7bc
35,8ijkl
48,0bcd
37,0ghij
44,3cd
39,3ef
48,0bcd
33,3n
45,2cd
33,9mn
43,6d
33,8mn
46,4cd
44,1cd
34,7lmn
45,1cd 35,3jklm
36,8hijk
45,1cd
38,1fgh
46,2cd
37,0ghij
47,3bcd
38,7fg
47,0cd
*
*
12,0
9,42 Trung
bình (cm)
27,5b
46,7a
40,9ab
49,3a
42,9ab
43,8a
41,8ab
41,9ab
39,2ab
40,9ab
40,8ab
43,0ab
40,6ab
39,9ab
41,9ab
39,5ab
38,1ab
39,2ab
39,6ab
38,1ab
41,0ab
40,5ab
40,5ab
40,7ab
*
13,8
hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho chiều cao thân cao nhất (50,5 cm), cao hơn và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức bón 100N-48P2O5-
24K2O theo khuyến cáo và so với các nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, ở các nghiệm
thức bón 50N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 này cho chiều cao
cây tương đương hoặc cao hơn một số nghiệm thức khác bón ở mức 75N-48P2O5-
24K2O.
Kết quả phân tích qua 3 vụ rau muống cũng đã cho thấy các nghiệm thức bón
giảm phân đạm kết hợp chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA cho
chiều cao cây cao hơn các nghiệm thức bón giảm phân đạm kết hợp chủng các hệ
IMO. Trong các vụ rau thí nghiệm 1 và 2 vai trò của các dòng vi khuẩn trong kích
thích tăng chiều cao cây là chưa rõ rệt. Cụ thể, ở vụ rau thứ nhất các nghiệm thức bón
phân 75N và 50N-48P2O5-24K2O có chiều cao cây rau không khác biệt thống kê
(p<0,05) khi so sánh với nhau, tuy nhiên qua vụ rau thứ 2 bắt đầu có sự khác biệt và
khác biệt này thể hiện rõ rệt hơn trong vụ rau thứ 3. Điều này có thể giải thích do ở vụ
thứ nhất các thành phần dinh dưỡng cần thiết, đặc biệt là đạm trong đất lưu tồn nhiều
từ các vụ canh tác trước đây của nông dân trên đồng ruộng và điều này giúp cây rau ở
tất cả các nghiệm thức phát triển tốt, tuy nhiên trong các vụ rau tiếp theo các thành
phần dinh dưỡng này giảm xuống, đặc biệt là nguyên tố đạm vì vậy vai trò của các
dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA có điều kiện để thể hiện rõ vai trò hơn.
Ngoài ra do điều kiện thí nghiệm trồng trong chậu do đó lượng đất hạn chế dẫn đến
hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ trong đất bị giới hạn và cũng qua đó hiệu quả của
các dòng vi khuẩn có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA được thể hiện rõ hơn.
4.5.1.2 Số lá rau muống
Kết quả khảo sát số lá rau muống giữa các nghiệm thức trong suốt 3 vụ rau
muống được trình bày ở Bảng 4.18 cho thấy hầu hết giữa các nghiệm thức khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh giữa các nghiệm thức với nhau và với
nghiệm thức đối chứng bón phân theo khuyến cáo. Giữa các nghiệm thức chủng các
dòng vi khuẩn và hệ IMO ở cùng một mức phân bón cũng không khác biệt nhau và
tương tự cho các nghiệm thức bón hai mức phân 75N và 50N-48P2O5-24K2O cũng
không khác biệt nhau về số lá. Như vậy, việc chủng các dòng vi khuẩn tuyển chọn và
hệ IMO kết hợp bón giảm phân N (25-50% N theo khuyến cáo) đã không ảnh hưởng
đến số lá cây rau muống.
119
Bảng 4.18 Số lá rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở điều kiện phòng thí nghiệm
Số lá (lá) STT Nghiệm thức
10,6a
Đối chứng (0NPK)
Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
4.5.1.3 Đường kính thân
Kết quả khảo sát đường kính thân rau muống của 5 dòng vi khuẩn và 5 hệ IMO
tuyển chọn trồng trong chậu ở điều kiện nhà lưới qua ba vụ thí nghiệm được trình bày
ở Bảng 4.19. Nhìn chung trong cả 3 vụ rau muống thí nghiệm các nghiệm thức chủng
vi khuẩn và hệ IMO kết hợp bón giảm các mức phân đạm khác nhau (25 và 50% N
khuyến cáo) có ảnh hưởng đến đường kính thân rau muống không có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so sánh với nhau. Tuy nhiên ở các nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn
hoặc hệ IMO có hiệu quả trong việc duy trì đường kính thân ở mức bằng hoặc cao hơn
so với nghiệm thức bón đủ 100%NPK khuyến cáo. Đặc biệt, nghiệm thức chủng dòng
vi khuẩn TP-1.4 kết hợp bón 75N-48P2O5-24K2O cho đường kính thân cao hơn so với
nghiệm thức đối chứng bón 100%NPK theo khuyến cáo trong vụ 1 và vụ 3 với đường
kính thân tương ứng của nghiệm thức này lần lượt là 5,74 và 6,20 mm so với nghiệm
thức đối chứng bón 100%NPK khuyến cáo là 5,35 cm ở vụ 1 và 5,59 cm ở vụ 3. Các
nghiệm thức còn lại có đường kính thân dao động trong khoảng 4,44 đến 5,90 mm.
120
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24 F
CV(%) Vụ 2 Vụ 3
Vụ 1
7,93d
7,85d
7,53e
10,7a 10,0abc 9,50abc
9,80abc 10,1abc 9,85abc
9,80abc
10,8a 10,1abc
9,67abcd 10,4abc 10,1abc
10,5a 10,6abc 9,90abc
10,7ab 10,1abc
10,1ab
9,09abcd 10,4abc 10,0abc
10,7ab 10,0abc
9,20abcd 10,3abc
10,4a
9,80abc 10,5abc 10,1abc
10,4a
10,7ab
9,30abcd
9,40abcd 10,4abc 9,85abc
8,60bcd 10,1abc 9,60abc
9,07abcd 10,6abc
10,2ab
9,00abcd 10,3abc 9,85abc
9,67abcd
9,7abc
9,68c
9,29abcd
9,75bc 10,0abc
8,40bcd 9,85abc 9,50abc
9,20c
8,30de
8,13cd
8,35de 9,65abc
9,67abcd
9,40bc
8,65d
9,31abcd
9,25bc
8,15de
8,40bcd
9,20c
8,05de
8,01cd
*
*
*
6,20
10,6
9,70 Trung
bình (lá)
7,77e
10,1abcd
9,92abcd
10,2abc
10,1abcd
10,3a
10,3ab
9,81abcd
10,4a
10,0abcd
10,1abcd
10,1abcd
9,88abcd
9,47abcde
9,96abcd
9,72abcd
9,65abcd
9,68abcd
9,25abcde
8,54cde
9,22abced
9,12abcde
8,60bcde
8,44de
*
8,50
Bảng 4.19 Đường kính cây rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở điều kiện phòng thí
nghiệm
Đường kính thân (mm) STT Nghiệm thức Trung
bình
(cm)
Vụ 1
3,20e
5,35abc
5,11abcd
5,74a
5,11abcd Đối chứng (0NPK)
Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
4.5.1.4 Hàm lượng chlorophyll tổng số trong lá
Chlorophyll hay còn gọi là chất diệp lục hoặc diệp lục tố là thành phần quan
trọng của lá cây, chính nhờ có chlorophyll mà quá trình quang hợp được thực hiện
giúp cây sinh trưởng tốt. Do đó hàm lượng chlorophyll trong lá rau đóng vai trò quan
trọng quyết định sự sinh trưởng và năng suất của cây rau và là một trong những chỉ
tiêu đánh giá gián tiếp lượng đạm hấp thu từ đất bởi cây trồng. Bảng 4.20 trình bày kết
quả khảo sát hàm lượng chlorophyll trong lá rau muống trong 3 vụ thí nghiệm cho
thấy hàm lượng chlorophyll trong lá rau muống khác nhau giữa các nghiệm thức và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau giữa các nghiệm thức.
Trong đó nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4
cho hàm lượng chlorophyll cao nhất trong cả 3 vụ rau thí nghiệm với hàm lượng
chlorophyll dao động từ 13,5 đến 15,7 CCI so với nghiệm thức đối chứng bón
100%NPK theo khuyến cáo là 13,2 CCI đến 14,7 CCI. Các nghiệm thức còn lại ở cùng
121
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24 F
CV(%) Vụ 3
Vụ 2
3,73g
3,40e
6,58a
5,59bcd
6,43ab 5,32cdef
6,20a
6,45ab
5,35abc 5,92abcd 5,49bcde
5,61bcd
5,18abcd 5,89abcd
5,37ab 5,91abcd 5,28cdef
5,44cd 5,30cdef
4,84bcd
5,29abcd 6,12abcd
4,97ef
4,95abcd 5,93abcd 5,48bcde
4,94abcd 5,89abcd 5,27cdef
5,09abcd 5,89abcd
5,96ab
6,26abc 5,68abcd
4,81bcd
5,84abc
5,06abcd 5,77abcd
5,84abc
5,11abcd 5,84abcd
5,475cd 5,37cdef
4,86bcd
5,58bcd
5,05abcd
5,25d
5,20def
5,27abcd
5,43cd
5,39cd 5,39cdef
4,90abcd
5,58bcd
5,62bcd
4,50cd
5,24def
5,26d
5,07abcd
4,94ef
4,48d 5,71abcd
5,64bcd
4,87f
5,20def
4,49cd 5,66abcd
*
*
9,37
11,8 *
10,6 3,44b
5,84a
5,62a
6,13a
5,59a
5,56a
5,52a
5,19a
5,46a
5,45a
5,37a
5,65a
5,58a
5,56a
5,60a
5,24a
5,29a
5,30a
5,23a
5,23a
5,19a
5,04a
5,21a
5,12a
*
11,3
mức phân bón 75N-48P2O5-24K2O có hàm lượng chlorophyll dao động trong khoảng
11,3 đến 15,2 CCI, trong khi ở mức phân bón 50N-48P2O5-24K2O có hàm lượng
chlorophyll thấp hơn và dao động trong khoảng từ 9,79 đến 13,3 CCI.
Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Sekhar and Gopal (2013), khi
nghiên cứu đã so sánh ảnh hưởng của các hệ IMO và phân bón hóa học lên sự tăng
trưởng của lá mầm và hàm lượng chlorophyll trong lá đậu bắp, đậu đũa và hạt kê đã
cho thấy khi xử lý hạt với IMO giúp hàm lượng chlorophyll trong lá đạt cao nhất so
với hạt được ngâm với phân hóa học và đối chứng chỉ ngâm nước.
Bảng 4.20 Hàm lượng chlorophyll tổng số trong lá rau muống qua 3 vụ thí nghiệm ở
điều kiện phòng thí nghiệm
Hàm lượng Chlorphyll tổng
số trong lá (CCI) STT Nghiệm thức
Đối chứng (0NPK)
Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
4.5.1.5 Sinh khối tươi/chậu
Kết quả phân tích sinh khối tươi cây rau muống trồng trong chậu ở điều kiện nhà
lưới trong ba vụ thí nghiệm được trình bày trong Bảng 4.21. Kết quả cho thấy các
nghiệm thức khác nhau cho khối lượng tươi/chậu của rau muống khi thu hoạch khác
nhau và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau. Nhìn chung, trong
122
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24 F
CV(%) Vụ 1
7,43g
14,7abc
13,2abcd
15,7a
12,6abcde
15,2ab
13,2abcd
13,4abcd
11,3def
12,0bcdef
12,4abcde
11,3def
13,2abcd
9,79efg
10,3defg
11,9bcdef
10,4defg
10,5defg
12,7abcde
11,7cdef
12,0bcdef
12,1bcde
13,3abcd
10,1defg
*
17,8 Vụ 3
Vụ 2
9,3j
8,38c
13,8ab
13,2abc
13,3ab 11,5defgh
13,5a
14,5a
13,8ab 12,5abcde
14,2a 12,1cdefg
13,4ab 12,3abcde
13,6ab 12,4abcde
12,9ab 12,7abcde
13,7ab
12,7abcd
13,4ab 12,4abcde
13,2abc
14,7a
13,2ab
13,4ab
12,5ab 12,2bcdef
12,7abcd
12,9ab
11,0fgh
12,8ab
10,7hi
11,1bc
12,0ab
11,0ghi
11,5efgh
11,8ab
10,8hi
13,0ab
10,5hi
12,4ab
11,0ghi
12,4ab
13,2ab
9,8ij
12,6ab 11,6defgh
*
10,1 *
12,18 Trung
bình
(CCI)
8,4c
13,9ab
12,7ab
14,6a
13,0ab
13,8ab
13,0ab
13,1ab
12,3ab
12,8ab
12,7ab
13,1ab
13,3ab
11,5abc
12,0ab
11,9ab
10,7bc
11.2bc
12,0ab
11,8ab
11,6abc
11,8ab
12,1ab
11,4abc
*
12,2
Nghiệm thức STT
cả 3 vụ rau thí nghiệm các nghiệm thức chỉ bón phân đạm ở mức 75N và 50N-48P2O5-
24K2O làm giảm lượng sinh khối tươi rau muống một cách mạnh mẽ so với nghiệm
thức bón 100%NPK theo khuyến cáo, tuy nhiên ở các nghiệm thức bón giảm phân
đạm ở mức 75N và 50N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn hoặc hệ
IMO đều cho khối lượng tươi của rau ở mức bằng hoặc cao hơn so với nghiệm thức
bón đủ 100%NPK khuyến cáo. Cụ thể trong vụ thí nghiệm 1, bốn nghiệm thức bón
75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, OM-17.5, MT-16.5, và hệ
IMO thu thập từ đất trồng củ lùn cho sinh khối tươi rau muống lần lượt là 31,3, 28,9,
29,5 và 29,2 g so với nghiệm thức đối chứng bón phân 100% NPK theo khuyến cáo là
28,3 g. Các nghiệm thức còn lại đều cho sinh khối tươi thấp hơn và dao động từ 18,7-
26,9 g. Tuy nhiên trong vụ 2 chỉ có nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp
chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 vẫn duy trì sinh khối tươi thu được ở mức cao (52,1 g),
tương đương và khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức
bón 100%NPK khuyến cáo (52,9 g). Các nghiệm thức còn lại có sinh khối tươi/chậu
thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng chỉ bón 100N-
48P2O5-24K2O theo khuyến cáo.
Bảng 4.21 Trọng lượng tươi của rau muống (g/chậu) qua 3 vụ thí nghiệm ở nhà lưới
Trọng lượng tươi rau muống (g.chậu-1)
Vụ 1
Vụ 2
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
123
1 Đối chứng (0NPK)
2 Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
4
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
6
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
7
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
8
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
9
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
10
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
11
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
12
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
13
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
14
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
15
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
16
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
17
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
18
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
19
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
20
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
21
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
22
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
23
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
24
F
CV (%) 9,33g
28,3abc
24,3abcde
31,1a
27,6abc
28,9ab
29,5ab
16,0fg
29,2ab
20,7cdef
23,4abcdef
23,2abcdef
23,5abcdef
22,6bcdef
24,4abcde
23,5abcdef
22,6bcdef
22,2bcdef
26,9abcd
18,7ef
29,6ab
19,2def
24,6abcde
22,3bcdef
*
22,1 Vụ 3
14,3h
13,7l
52,9a
42,7b
44,6ab
34,6e
52,1a
46,2a
40,1abc
34,0ef
36,6bcde
38,2c
31,9g
41,5bc
31,7defg 37,7cd
37,1bcde 28,2hij
36,0bcdef 37,6cd
27,3j
37,7bcde
38,7bcde
36,3d
36,5bcde 32,5fg
29,4h
33,7cdefg
39,2bcd 37,2cd
23,6k
29,5efg
24,7k
25,9g
24,7k
31,6defg
24,9k
26,6fg
24,3k
28,2efg
27,2j
28,7efg
29,1i
33,8cdefg
23,5k
36,2bcdef
27,8ij
36,3bcde
*
*
23,4
25,6 Trung bình
12,4b
41,3a
34,5ab
43,1a
33,9ab
34,6ab
34,3ab
28,5ab
31,5ab
31,4ab
29,5ab
32,7ab
30,8ab
28,6ab
33,6ab
25,5ab
24,4ab
26,2ab
26,1ab
23,7ab
28,5ab
27,4ab
28,1ab
28,8ab
*
28,0
Đáng lưu ý trong vụ rau muống thí nghiệm thứ 2 này là nghiệm thức bón 50N-
48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho sinh khối tươi cao nhất (39,2
g) trong số các nghiệm thức bón 50N-48P2O5-24K2O, tương đương và khác biệt không
ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp
chủng dòng vi khuẩn TP-1.3, MQ-2.5 và MT-16.5. Sang vụ rau thí nghiệm thứ 3 kết
quả có sự khác biệt rõ rệt hơn giữa các nghiệm thức và các nghiệm thức bón 2 mức
phân đạm là 75N và 50N-48P2O5-24K2O cho sinh khối tươi rau muống khác biệt nhau
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đặc biệt trong vụ rau thứ 3 này, nghiệm thức bón 75N-
48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho sinh khối tươi đạt 46,2 g, cao
hơn nghiệm thức đối chứng bón phân 100%NPK theo khuyến cáo (42,7 g) và các
nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức bón 50N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi
khuẩn TP-1.4 cho khối lượng tươi khá tốt, tương đương hoặc cao hơn một số nghiệm
thức khác bón 75N-48P2O5-24K2O.
Như vậy sự gia tăng năng suất rau muống của nghiệm thức bón 75N-48P2O5-
24K2O kết hợp với chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 trong 3 vụ rau muống là do dòng vi
khuẩn Paembacillus cineris TP-1.4 đã cố định đạm và tạo ra lượng đạm hữu dụng cao
nhất so với các dòng vi khuẩn còn lại trong thí nghiệm này và điều này được minh
chứng thông qua kết quả về khả năng cố định đạm của các dòng vi khuẩn thử nghiệm
được trình bày ở mục 4.3.3.2. và ngoài ra trong kết quả thí nghiệm ở mục 4.3.5 cho
thấy lượng IAA được tổng hợp bởi dòng vi khuẩn TP-1.4 ổn định trong suốt thời gian
thí nghiệm. Do đó, khi chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 vào trong đất dòng vi khuẩn này
đã duy trì ổn định khả năng kích thích sinh trưởng cây rau muống tốt hơn so với các
nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát khả năng kích thích nảy mầm hạt
rau muống của dòng vi khuẩn này trình bày ở mục 4.4.1.1 cho thấy dòng vi khuẩn TP-
1.4 này đã giúp gia tăng tỷ lệ nảy mầm hạt rau muống tốt nhất, ngoài ra còn làm gia
tăng chiều dài thân và sinh khối tươi rau muống tốt hơn so với các dòng vi khuẩn còn
lại thông qua kết quả kích thích sinh trưởng được trình bày trong mục 4.4.1.2. Điều
này đã làm tăng năng suất rau muống/chậu của nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-
1.4 cao nhất ở điều kiện thí nghiệm nhà lưới.
Đối với các nghiệm thức chủng các hệ IMO, mặt dù ở điều kiện phòng thí
nghiệm các IMO cho hiệu quả kích thích sinh trưởng tương đương các dòng vi khuẩn,
tuy nhiên trong điều kiện trồng nhà lưới các hệ IMO cho hiệu quả kích thích sinh
trưởng thấp hơn dẫn đến sinh khối tươi thu được trên chậu của các nghiệm thức chủng
các hệ IMO thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức chủng các
dòng vi khuẩn đơn ở cùng 1 điều kiện thí nghiệm về mức độ phân đạm và so với
nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo.
Tóm lại, kết quả phân tích 3 vụ rau muống thí nghiệm trồng trong điều kiện nhà
lưới đã cho thấy các nghiệm thức bón giảm phân đạm kết hợp chủng các dòng vi
khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA cho sinh khối tươi cao hơn các nghiệm thức bón
124
giảm phân đạm kết hợp chủng các hệ IMO. Trong vụ rau thứ nhất vai trò của các dòng
vi khuẩn tuyển chọn trong việc giúp gia tăng sinh khối rau muống là chưa rõ rệt, tuy
nhiên qua vụ rau thí nghiệm thứ 2 bắt đầu có sự khác biệt và khác biệt này thể hiện rõ
hơn khi sang vụ rau thí nghiệm thứ 3. Nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp
chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho hiệu quả trong kích thích sinh trưởng cây rau muống
tốt nhất dẫn đến làm tăng sinh khối tươi cây rau so với nghiệm thức bón 100N-48P2O5-
24K2O khuyến cáo. Ngoài ra các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng
các dòng vi khuẩn TP-1.3, MQ-2.5, OM-17.5, MT-16.5 và hệ IMO tre cho các chỉ tiêu
sinh trưởng và sinh khối khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm
thức đối chứng bón 100% NPK khuyến cáo.
4.5.2 Sinh trưởng và năng suất cải xanh trong nhà lưới
Khả năng kích thích sinh trưởng và năng suất rau cải xanh của 5 dòng vi khuẩn
và 5 hệ IMO tuyển chọn trồng trong chậu ở điều kiện nhà lưới qua hai vụ thí nghiệm
được trình bày ở trong Bảng 4.22 cho thấy kết quả về các chỉ tiêu nông học và năng
suất của 2 vụ rau muống có xu hướng tương tự nhau.
4.5.2.1 Vụ cải xanh thứ nhất
Kết quả sinh trưởng và năng suất cải xanh ở vụ 1 trồng trong nhà lưới được trình
bày trong Bảng 4.22 cho thấy các nghiệm thức khác nhau cho các chỉ tiêu sinh trưởng
và năng suất cây cải xanh khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
Nhìn chung, các chỉ tiêu về sinh trưởng và năng suất của các nghiệm thức chủng vi
khuẩn kết hợp bón 52,5N-48P2O5-24K2O cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so với các nghiệm thức bón 35N-48P2O5-24K2O.
Đối với chiều cao thân, các nghiệm thức bón phân 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp
chủng các dòng vi khuẩn tuyển chọn cho chiều cao cây tương đương và khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng bón 70N-
48P2O5-24K2O khuyến cáo, nhưng cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
khi so với các nghiệm thức bón 35N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn.
Trong đó các nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 ở cả 2 mức phân đạm (35N và
52,5N-48P2O5-24K2O) và nghiệm thức chủng hệ IMO hỗn hợp kết hợp bón 52,5N-
48P2O5-24K2O cho chiều cao cây tương đương với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-
24K2O khuyến cáo, trong khi nghiệm thức không bón phân NPK và nghiệm thức chỉ
bón 35N-48P2O5-24K2O nhưng không chủng vi khuẩn là 2 nghiệm thức cho chiều cao
cây thấp nhất. Các nghiệm thức bón 35N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng hệ IMO hoặc
vi khuẩn cho chiều cao cây cao hơn nghiệm thức chỉ bón 35N-48P2O5-24K2O.
125
Bảng 4.22 Một số chỉ tiêu nông học và sinh khối cây cải xanh qua 2 vụ thí nghiệm trong chậu ở trong điều kiện nhà lưới
STT
Chiều cao thân (cm)
Số lá (lá)
Dài lá (cm)
Rộng lá (cm)
Sinh khối tươi
Nghiệm thức
Vụ 2
10,9m
18,3fghi 8,60abcde
Vụ 1
10,8k
17,1abc
16,6abcd
12,8j
17,7a
16,4abcdef
16,5abcde
16,7abcd
16,7abcd
16,3abcdefg
15,7bcdefg
14,9efghi
16,6abcd
17,3ab
15,6cdefgh
17,1abc
15,1defghi
14,7ghi
14,7ghi
13,6ij
14,8fghi
15,1defghi
Đối chứng (0NPK)
Khuyến cáo 70N
52,5N Khuyến cáo
35N Khuyến cáo
52,5N + TP-1.3
52,5N + TP-1.4
52,5N + MQ-2.5
52,5N + OM-17.5
52,5N + MT-16.5
52,5N + Mix 5 VK
52,5N + IMO Củ lùn
52,5N + IMO Mồng tơi
52,5N + IMO Ớt
52,5N + IMO Tre
52,5N + hỗn hợp IMO
35N + TP-1.3
35N + TP-1.4
35N + MQ-2.5
35N + OM-17.5
35N + MT 16.5
35N + Mix 5 VK
35N + IMO Củ lùn
35N + IMO Mồng tơi
35N + IMO Ớt
35N + IMO Tre
35N + hỗn hợp IMO
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
F
CV (%)
Vụ 2
Vụ 1
5,65f 7,27iklmn
9,65ab
17,3ij
8,25bcde 8,05defgh
16,0l 8,40abcde 7,75efghi
10,1a
16,7abcd 19,4 bcde 8,35abcde
9,05bc
9,30ab
21,1a
18,7defg
6,33n
9,50a
18,6defg 8,70abcde 7,48fghikl
8,15bcde 7,50fghik
18,4efgh
7,90efgh
9,00abc
19,1cdef
8,85bcd
19,6bcd
8,85abcd
8,5cde
20,4ab 8,40abcde
8,8bcd
19,0cdef 8,45abcde
8,3cdef
19,9bc
9,05abc
19,7bc 8,65abcde
7,8efghi
6,975i-n
8,05cde
18,7defg
8,15bcde 7,35ghikl
19,2cdef
7,60e
17,6hij
6,45mn
7,60e 6,70klmn
17,6hij
6,60lmn
17,2jk 8,30abcde
17,8ghij
8,05cde 6,80jklmn
16,2kl 8,58abcde 6,70klmn
7,85cde 8,20cdefg
8,15bcde 8,05defgh
8,00cde 7,70efghi
7,6fghij
7,70de
*
*
12,8
9,87
18,9cdef
14,0hij 18,5defgh
15,8bcdefg
19,5bcd
16,7abcd 18,8cdefg
*
10,5
*
9,75
Vụ 1
Vụ 2
Vụ 1
8,30j
9,30p
4,73f
15,0ab
18,3bc
8,90a
10,0cde
15,0mn
8,88a
10,2i
13,5o
6,93e
14,5bcd
17,6cde
8,60ab
15,5a
19,3a
8,98a
14,4bcd
16,3ghij
8,18abcd
8,15abcd
16,1hijk
14,4bcd
14,5bcd 15,8ijklm 7,95abcde
16,5fghi
15,2ab
8,25abcd
17,6cde 8,00abcde
14,3bcd
18,7ab 7,85abcde
13,2efg
17,4cdef 8,00abcde
13,0fg
17,8bcd 8,00abcde
14,4bcd
8,35abc
15,9hijkl
14,5bcd
7,33cde
16,2hij
13,8defg
8,15abcd
16,5ghi
15,0abc
7,33cde
14,7n
13,0fg
7,08de
11,9h
14,6n
6,93e
15,3klmn
11,7h
7,53bcde
10,3hi 15,5jklmn
7,33cde
11,9h
15,1lmn
7,18cde
11,8h 15,7jijklm
7,30cde
11,5h 15,7ijklm
8,25abcd
16,8efgh
13,0g
8,25abcd
17,2defg
14,0def
*
*
*
12,1
12,0
12,5
Hàm lượng
chlorophyll ts (CCI)
Vụ 2
10,3p
15,1a
14,5bcd
12,6jkl
14,1def
13,6fgh
13,8efgh
14,8abc
12,1lmn
12,5jkl
13,5gh
14,2de
14,0defg
14,9ab
14,4cd
14,1def
13,0ij
12,7jk
12,0mn
11,3o
11,3o
12,4klm
11,2o
11,7no
13,3hi
12,9ij
*
9,79
Vụ 1
6,03h
14,2a
13,5abcd
13,2abcdef
11,8fg
13,2abcdef
12,6bcdef
13,7abc
12,1defg
12,7abcdef
13,8ab
13,5abcd
13,0abcdef
13,4abcde
13,4abcd
13,2abcdef
12,3bcdef
11,8fg
10,7g
13,5abcd
11,8efg
12,5bcdef
12,2cdefg
12,3bcdef
13,4abcd
12,7abcdef
*
12,76
Vụ 2
5,36m
10,6a
7,33l
8,06jk
9,97bc
10,4ab
9,18defg
8,75ghi
8,98efgh
8,98efgh
9,96bc
9,94bc
9,69cd
9,38cdef
9,43cde
9,08efgh
9,40cde
8,50hijk
8,33ijk
8,19ijk
8,67ghij
7,90kl
8,67ghij
8,78fghi
9,13defg
9,03efgh
*
11,90
Vụ 1
25,3o
119c
110de
75,9n
127b
144a
114cd
106ef
98,9ghi
102fg
102fgh
103fg
105ef
106ef
125b
91,0jk
108e
86,2klm
85,3lm
82,0m
88,9kl
90,4jk
87,8kl
86,1klm
88,32kl
93,9ij
*
21,9
Vụ 2
24,3r
129i
107k
84,8q
148b
161a
140d
132h
130i
126j
129i
147c
137e
136f
134g
127j
133gh
100l
93,5n
96,5m
88,3p
87,5p
90,4o
97,5m
93,7n
97,7m
*
25,0
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
126
Tương tự, kích thước lá cải xanh gồm chiều dài và chiều rộng lá cũng khác biệt
nhau có ý nghĩa (p<0,05) giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Trong đó các nghiệm thức
bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn và hệ IMO cho chiều dài
và chiều rộng lá tương đương với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến
cáo. Đặc biệt, nghiệm thức bón 52,5N và 35N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi
khuẩn TP-1.4 cho kích thước lá lớn nhất (chiều dài lá và 15,5 cm và chiều rộng lá là
8,98 cm). Tuy nhiên số lá và hàm lượng chlorophyll trong lá của các nghiệm thức khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
Đối với năng suất cải xanh (sinh khối tươi/chậu) kết quả cho thấy nghiệm thức
chủng dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và hệ IMO hỗn hợp kết hợp bón 52,5N-48P2O5-
24K2O cho khối lượng rau tươi cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi
so sánh với các nghiệm thức còn lại, với khối lượng rau tươi lần lượt của 3 nghiệm
thức này là 127, 144 và 125 g/chậu so với nghiệm thức đối chứng bón 100%NPK theo
khuyến cáo là 119 g/chậu. Bên cạnh đó, thí nghiệm cũng ghi nhận nghiệm thức chủng
dòng vi khuẩn TP-1.4 kết hợp bón 35N-48P2O5-24K2O cho các chỉ tiêu về sinh trưởng,
năng suất và sinh khối tươi tương đương và khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05)
khi so với một số nghiệm thức bón phân 52,5N-48P2O5-24K2O.
4.5.2.2 Vụ cải xanh thứ hai
Vụ cải xanh thí nghiệm thứ 2 cũng ghi nhận kết quả tương tự như vụ cải xanh thí
nghiệm thứ 1 trồng ở điều kiện nhà lưới. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của các dòng vi
khuẩn và hệ IMO lên sinh trưởng và năng suất cải xanh thí nghiệm trong chậu ở nhà
lưới được trình bày trong Bảng 4.22 và Hình 4.17 cho thấy các nghiệm thức chủng vi
khuẩn tuyển chọn kết hợp bón 52,5N-48P2O5-24K2O cho các chỉ tiêu về sinh trưởng,
hàm lượng chlorophyll trong lá và năng suất cải xanh cao hơn và khác biệt ý nghĩa
thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức còn lại. Trong đó, nghiệm thức chủng
dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, hỗn hợp 5 dòng vi khuẩn và nghiệm thức chủng 5 IMO
kết hợp bón 52,5N-48P2O5-24K2O cho chiều cao cây cao hơn và khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng bón 70N-48P2O5-24K2O khuyến
cáo. Trong khi các chỉ tiêu về số lá, dài lá, rộng lá và hàm lượng chlorophyll của các
nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn kết hợp bón 52,5N-48P2O5-24K2O khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức chỉ bón 100%NPK theo
khuyến cáo. Đặc biệt nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi
khuẩn TP-1.4 cho các chỉ tiêu về chiều cao thân, số lá, dài lá cao nhất, dẫn đến khối
lượng cải xanh thu hoạch trên chậu cao nhất (161 g/chậu) và khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) khi so sánh với tất cả các nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, 3
nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O chủng dòng vi khuẩn TP-1.3, MQ-2.5 và hệ
IMO mồng tơi là 3 nghiệm thức cho sinh khối tươi thu hoạch lần lượt là 148, 140 và
147 g/chậu, cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so với nghiệm thức đối
chứng 100N khuyến cáo (129 g/chậu).
127
Hình 4.17 Cây cải xanh ở các nghiệm thức thí nghiệm khác nhau ở thời điểm 33 ngày
sau khi gieo hạt của vụ cải thứ 2
Tương tự rau muống, kết quả khảo sát trên cây cải xanh cũng cho thấy các hệ
IMO cho hiệu quả kích thích sinh trưởng thấp hơn so với các dòng vi khuẩn cố định
đạm và tổng hợp IAA đơn được tuyển chọn.
Như vậy năng suất cây cải xanh ở nghiệm thức bón 75N-48P2O5- 24K2O kết hợp
chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cao nhất được giải thích là do dòng vi khuẩn TP-1.4 có
chức năng cố định đạm tốt và điều này tạo ra lượng dạm hữu dụng cao nhất so với các
dòng vi khuẩn khác trong thí nghiệm này và được minh chứng thông qua kết quả thí
nghiệm được trình bày ở mục 4.3.3.2, đồng thời lượng IAA được tổng hợp bởi dòng vi
khuẩn TP-1.4 cũng ổn định trong suốt thời gian thí nghiệm và được chứng minh thông
qua kết quả thí nghiệm được trình bày ở mục 4.3.5. Do đó, khi chủng dòng vi khuẩn
TP-1.4 vào trong đất giúp bổ sung thêm nguồn đạm cũng như giúp kích thích sinh
trưởng cây cải xanh tốt hơn dẫn đến năng suất cải xanh/chậu của nghiệm thức chủng
dòng vi khuẩn này tăng cao nhất ở điều kiện thí nghiệm nhà lưới.
Qua 2 vụ cải xanh thí nghiệm ở nhà lưới cho thấy việc giảm lượng phân đạm làm
ảnh hưởng mạnh lên sự sinh trưởng của cây cải xanh, tuy nhiên khi kết hợp giảm
lượng phân đạm cùng với chủng các dòng vi khuẩn tuyển chọn hoặc các hệ IMO cho
hiệu quả kích thích sinh trưởng tốt và ổn định lên sự sinh trưởng của cây cải xanh dù
chỉ bón 52,5N-48P2O5-24K2O. Qua đó cho thấy các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4,
MQ-2.5, hệ IMO mồng tơi, ớt, tre và IMO hỗn hợp có hiệu quả cao trong việc kích
sinh trưởng cải xanh trong điều kiện bón giảm 25%N khuyến cáo thông qua hoạt động
cố định đạm từ nguồn khí trời thay thế nguồn đã đạm giảm trừ. Ngoài ra, các dòng vi
khuẩn hoặc hệ IMO còn có đặc tính tổng hợp IAA ổn định cũng là một yếu tố giúp cây
cải xanh tăng cường hấp thu dinh dưỡng và sinh trưởng tốt trong môi trường thiếu hụt
nguồn đạm.
128
Nhìn chung, kết quả 5 vụ rau thí nghiệm (3 vụ rau muống và 2 vụ cải xanh) trong
nhà lưới cho thấy cho rằng chủng vi khuẩn cố định đạm có thể giảm được đáng kể
lượng phân đạm mà vẫn cho năng suất rau bằng hoặc cao hơn so với nghiệm thức chỉ
bón phân hoá học (Phụ lục 11). Kết quả này tương tự với kết quả của một số nghiên
cứu trước đây. Trong các thí nghiệm ở nhà lưới tại Tiền Giang, nghiên cứu của
Nguyễn Thị Ngọc Trúc (2011) đã cho thấy khi sử dụng chế phẩm vi sinh tổ hợp các
dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA được phân lập và tuyển chọn từ đất trồng
rau ở Tiền Giang giúp tăng chiều dài rễ và chiều cao cây rau muống và rau mồng tơi.
Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng việc sử dụng chế phẩm vi sinh vật cố định đạm có
chức năng tổng hợp IAA không những giảm 50% lượng phân hóa học mà còn cho
năng suất rau cao hơn so với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học, đồng thời giúp giảm
lượng nitrate tồn dư trong rau. Tương tự, Nhu et al. (2018) cho thấy việc chủng dòng
vi khuẩn cố định đạm Kblepsiella oxytoca vào cây rau muống trồng trong chậu giúp
giảm được 50% lượng phân bón hoá học đồng thời làm tăng suất rau muống thêm
45,83% và các chất dinh dưỡng trong đất tuy nhiên hàm lượng chlorophyll trong lá rau
khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nghiệm thức bón NPK khuyến
cáo. Ngoài ra Khan et al. (2010) đã nghiên cứu khả năng kích thích sinh trưởng của 2
dòng vi khuẩn Azotobacter và Azosporillum và hỗn hợp của 2 dòng vi khuẩn này lên
cây cải xanh cho thấy chủng Azospirillum giúp gia tăng các chỉ tiêu sinh trưởng và
năng suất cao hơn so với chủng Azotobacter. Tuy nhiên, sự kết hợp Azotobacter và
Azospirillum cho kết quả tốt nhất trong việc kích thích sinh trưởng và gia tăng năng
suất của cây so với chủng riêng lẻ. Đặc biệt, Phua et al. (2012) đã phân lập các dòng vi
khuẩn có chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng như tổng hợp IAA, hoà tan lân,
đối kháng sinh học trong các hệ vi sinh vật bản địa IMO và đã tuyển chọn được 8 dòng
vi khuẩn để thử nghiệm lên sinh trưởng của cây bắp cải (Chinese cabbage) ở điều kiện
nhà lưới. Kết quả cho thấy cả 8 dòng vi khuẩn đều giúp gia tăng sinh khối khô cây cải
bắp so với nghiệm thức bón phân hoá học. Ngoài ra, Desiré et al. (2018) đã so sánh
hiệu quả kích thích sinh trưởng ở cùng một mức phân bón của IMO, EM và đối chứng
không chủng vi khuẩn lên cây khoai tây và kết quả cho thấy nghiệm thức bón IMO
cho sinh khối tươi cây cao hơn nghiệm thức bón EM và đối chứng chỉ bón phân hóa
học, đồng thời nghiệm thức bón IMO và EM làm tăng năng suất khoai tây và tăng mật
số vi sinh vật trong đất.
Trên các đối tượng cây trồng khác, nghiên cứu của Kiều Phương Nam và ctv.
(2010) ở điều kiện vườn ươm cho thấy khi chủng các dòng vi khuẩn Methylobacterium
spp. giúp gia tăng chiều cao cây mầm, chiều dài rễ, sinh khối tươi và sinh khối khô của
cây đậu xanh và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nghiệm thức
đối chứng không chủng vi khuẩn. Ngoài ra, nghiên cứu của Lai Quốc Chí và ctv.
(2012) cho thấy 3 dòng vi khuẩn Rhizobium tropici, Bacillus subtilis và Rhizobium
multihospitium giúp tăng chiều cao và năng suất cây hành lá và mồng tơi so với
nghiệm thức đối chứng bón phân hóa học theo khuyến cáo. Nghiên cứu của Islam et
129
al., 2013 đã cho thấy chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm giúp gia tăng hàm lượng
chlorophyll trong lá cà chua và ớt cũng như làm tăng khả năng hấp thu các nguyên tố
đa lượng và vi lượng vào trong cây. Trên cây cải bó xôi (Spinacia oleracea L.)
Jiménez-Gómez et al. (2018) đã công bố rằng chủng vi khuẩn Rhizobium giúp cây cải
tăng số lá, kích thước, trọng lượng lá, hàm lượng chlorophyll và năng suất thu hoạch
cũng như tăng hàm lượng đạm trong lá so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi
khuẩn. Tương tự, Liu et al (2019) cũng đã tiến hành thử nghiệm khả năng kích thích
sinh trưởng cây trồng của 8 dòng vi khuẩn Paenibacillus có khả năng cố định đạm và
tổng hợp IAA trên cây lúa mì, dưa leo và cây cà chua. Kết quả đã cho thấy các dòng vi
khuẩn này làm tăng chiều cao cây, chiều dài rễ, sinh khối khô và năng suất cả 3 loại
cây trồng thử nghiệm. Kết quả cũng tương tự cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu
của Malik et al., 1985; Akbari et al., 2007; Nguyễn Thị Pha và ctv., 2014b;
Chukwudozie et al., 2020).
Ngoài ra, kết quả quan sát qua 5 vụ rau thí nghiệm trong chậu ở điều kiện nhà
lưới cho thấy khi chủng vi khuẩn hoặc IMO giúp cho hạt rau muống và cải xanh nảy
mầm sớm hơn, đồng đều hơn so với các nghiệm thức không chủng vi khuẩn hoặc IMO
(Phụ lục 10). Kết quả phân tích cũng đã cho thấy chủng các hệ IMO cho hiệu quả kích
thích sinh trưởng và sinh khối tươi cây rau muống và cải xanh thấp hơn so với các
dòng vi khuẩn đơn mặc dù hiệu quả kích thích sinh trưởng và nảy mầm tương đương
nhau ở điều kiện phòng thí nghiệm. Điều này có thể giải thích do mật số vi sinh vật
đặc biệt là vi khuẩn cố định đạm trong các hệ IMO dao động từ 106–107 cfu.g-1 nên khi
pha loãng 1000 lần khi chủng vào đất trồng rau thì mật số của các dòng vi khuẩn cố
định đạm không đủ để chúng có thể thực hiện chức năng cố định lượng đạm sinh học
để tạo ra lượng đạm thay thế cho lượng đạm giảm trừ từ 25% đến 50%N trong công
thức phân bón khuyến cáo. Do đó, thí nghiệm ngoài đồng nên chọn nồng độ pha loãng
IMO là 500 lần khi chủng vào đất.
Ngoài ra kết quả đánh giá sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn gây bệnh cho
người gồm Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella của 5 vụ rau thí nghiệm trồng
trong chậu ở điều kiện nhà lưới (Phụ lục 12) cho thấy không có sự hiện diện của các
nhóm vi khuẩn gây bệnh này trong các mẫu rau của các nghiệm thức ở thời điểm thu
hoạch. Kết quả này chứng tỏ việc chủng các dòng vi khuẩn phân lập hoặc các hệ IMO
tuyển chọn không gây nhiễm vi sinh vật gây bệnh như Coliform, E. coli, Salmonella và
Shigella trên rau. Vì thế các dòng vi khuẩn phân lập và IMO tuyển chọn trong nghiên
cứu này có thể tiếp tục được tuyển chọn để đánh giá hiệu quả của chúng ở điều kiện
thực tế đồng ruộng.
Tóm lại, đối với rau muống thì dòng vi khuẩn TP-1.4 và MQ-2.5 cho hiệu quả
kích thích sinh trưởng tốt và ổn định nhất dẫn đến làm tăng năng suất rau muống trong
cả 3 vụ rau thí nghiệm và hệ IMO mồng tơi cũng cho hiệu quả kích thích sinh trưởng
cây rau muống khá tốt. Đối với cải xanh, các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và MQ-2.5
cho hiệu quả kích thích sinh trưởng và năng suất cao nhất. Đồng thời, hệ IMO tre và
130
IMO mồng tơi cho hiệu quả kích thích sinh trưởng khá tốt và ổn định trong cả 2 vụ cải
xanh thí nghiệm. Những kết quả này cũng cho thấy chúng phù hợp với kết quả đánh
giá khả năng cố định đạm bên trên của các IMO và dòng vi khuẩn (mục 4.2.3 và mục
4.3.3.2). Do đó, 3 dòng vi khuẩn có khả năng kích thích sinh trưởng hiệu quả nhất
được chọn để bố trí thí nghiệm ở thực tế đồng ruộng là 3 dòng vi khuẩn kí hiệu TP-1.3,
TP-1.4 và MQ-2.5, đồng thời 2 hệ IMO cho hiệu quả tốt là hệ IMO tre và IMO mồng
tơi được chọn để tiếp tục khảo sát ở điều kiện thực tế đồng ruộng nhưng ở nồng độ pha
loãng là 500 lần.
4.6 Nội dung 6: Hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn và 2 IMO lên sinh
trƣởng, năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện đồng ruộng
4.6.1 Sinh trưởng và năng suất rau muống ở điều kiện đồng ruộng
Kết quả khảo sát khả năng kích thích sinh trưởng và năng suất rau muống của 3
dòng vi khuẩn tuyển chọn và 2 hệ IMO trồng ở điều kiện ngoài đồng trong 2 vụ rau
muống thí nghiệm cho thấy cả 2 vụ rau muống có xu hướng tương tự nhau và các dòng
vi khuẩn cũng như hệ IMO đã cho hiệu quả kích thích sự sinh trưởng cây rau tốt hơn
so với nghiệm thức chỉ bón phân bón hóa học.
4.6.1.1 Vụ rau muống thứ nhất
Kết quả sinh trưởng và năng suất rau muống trong vụ rau thí nghiệm thứ nhất ở
ngoài đồng được trình bày trong Bảng 4.23 cho thấy các nghiệm thức chủng các dòng
vi khuẩn tuyển chọn và các hệ IMO khác nhau cho khả năng sinh trưởng và năng suất
cây rau muống cũng khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh
với nhau.
Đối với chiều cao thân cây rau muống, các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O
kết hợp chủng 3 dòng vi khuẩn hoặc 2 hệ IMO hoặc chế phẩm vi sinh thương mại đều
cho chiều cao thân cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức chỉ
bón 75N-48P2O5-24K2O và 100%NPK theo khuyến cáo. Trong đó nghiệm thức bón
phân 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn cho chiều cao cây
cao nhất, đạt 51,1 cm, kế đến là nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng
dòng vi khuẩn TP-1.4 và MQ-2.5 với chiều cao tương đương 50 cm cho hai nghiệm
thức. Ba nghiệm thức này cho chiều cao cây rau muống cao nhất và khác biệt ý nghĩa
thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức còn lại và nghiệm thức đối chứng chỉ
bón 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo và đối chứng chỉ bón 75N-48P2O5-24K2O.
Các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.3, hệ
IMO mồng tơi, tre và chế phẩm vi sinh thương mại cho chiều cao cây dao động trong
khoảng 47,1-49,3 cm, cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với
nghiệm thức bón 100%NPK theo khuyến cáo (42,7 cm) và nghiệm thức chỉ bón 75N-
48P2O5-24K2O (39,3 cm).
Đối với chỉ tiêu về số lá rau trên thân cây rau muống, các nghiệm thức cũng cho
số lá khác biệt nhau về ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong đó các nghiệm thức bón
131
75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5, hỗn
hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO mồng tơi và hệ IMO tre cho số lá tương đương nhau,
dao động từ 13-14 lá, cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) khi so với các nghiệm
thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng chế phẩm vi sinh thương mại và 2
nghiệm thức đối chứng (75N-48P2O5-24K2O và 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo
là 12 lá).
Đối với đường kính thân cây rau muống và hàm lượng chlorophyll trong lá rau,
kết quả ghi nhận tương tự, có nghĩa là ở các nghiệm thức chủng vi khuẩn TP-1.3, TP-
1.4, MQ-2.5, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO tre và IMO mồng tơi đều cho các kết
quả các chỉ tiêu này cao hơn so với hai nghiệm thức đối chứng chỉ bón phân hoá học
(75N-48P2O5-24K2O và 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo) hoặc nghiệm thức đối
chứng chủng chế phẩm vi sinh thương mại.
Đối với năng suất tươi rau muống ở thời điểm thu hoạch, kết quả cho thấy
nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 kết hợp bón 75N-48P2O5-24K2O cho năng
suất cao nhất với khối lượng rau tươi thu hoạch trung bình đạt 5,15 kg/m2, cao hơn và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức còn lại, kế tiếp là 2
nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 và chủng
hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn cho khối lượng rau đạt lần lượt là 4,57 và 4,52 kg/m2. Trong
khi các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.3, hệ
IMO mồng tơi và hệ IMO tre cho năng suất rau tươi tương đương nhau, dao động
khoảng 4-4,25 kg/m2, cao hơn so với nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-24K2O
là 3,52 kg/m2 và nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng chế phẩm vi
sinh thương mại là 3,84 kg/m2. Như vậy việc giảm 25% lượng phân bón đạm khuyến
cáo kết hợp chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA giúp gia tăng năng
suất rau muống ở điều kiện thực tế đồng ruộng so với nghiệm thức chỉ bón 100N-
48P2O5-24K2O theo khuyến cáo.
Đặc biệt trong vụ rau thứ nhất dưới điều kiện thời tiết nắng hạn kéo dài không
mưa, kết quả cho thấy ở các nghiệm thức chủng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp
IAA giúp cây rau chống chịu hạn tốt hơn và sinh trưởng tốt hơn, đặc biệt ở ba nghiệm
thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn kết hợp bón
75N-48P2O5-24K2O cho hiệu quả kích thích sinh trưởng cây rau muống tốt nhất.
Nghiệm thức chủng các hệ IMO cũng giúp cây sinh trưởng tốt hơn 2 nghiệm thức chỉ
bón phân đạm hoá học trong điều kiện nắng hạn kéo dài. Tuy nhiên, khi so sánh hiệu
quả kích thích sinh trưởng giữa các dòng vi khuẩn đơn và hệ IMO cho thấy các dòng
vi khuẩn cho hiệu quả kích thích sinh trưởng tốt hơn so với hệ IMO.
132
Bảng 4.23 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây rau muống trong vụ thí nghiệm 1 ở ngoài đồng tại Trường
Khánh, Long Phú, Sóc Trăng sau 30 ngày gieo hạt (từ 27 tháng 4 năm 2020 đến ngày 27 tháng 5 năm 2020)
Hàm lượng đạm trong thân Chỉ tiêu nông học
-
STT Nghiệm thức Năng
suất tươi
(kg/m2) Số lá
(lá) Nts
(g.kg-1) NO3
(mg.kg-1) TCVN-2008
(300 mg.kg-1) Đường
kính thân
(cm) Chlorophyll
tổng số
(CCI)
Chiều
cao
thân
(cm)
42,7d 12,7c 8,28a 18,8cd 3,52e 32,2 1.232a K đạt 1 Đối chứng 100N-48P2O5-24K2O
39,2e 12,1d 8,12a 18,3d 3,16f 31,8 1.097a K đạt
75N-48P2O5-24K2O + Chế phẩm VSTM
47,1c 12,2cd 6,41b 19,7bcd 3,84de 32,7 384bc K đạt 2 Đối chứng 75N-48P2O5-24K2O
3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
47,4c 13,3b 8,11a 20,7ab 4,08cd 31,9 363bc K đạt 4
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
50,0ab 13,5ab 8,09a 20,8ab 4,57b 31,0 245c Đạt 5
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
50,2ab 14,0a 7,89a 19,9bcd 5,15a 32,3 440b K đạt 6
29,6 K đạt 7
75N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 dòngVK
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
51,1a 13,6ab
14,0a
47,3c 7,81a
7,11ab 20,1abc
21,8a 4,52b
4,17c 31,9 481b
348bc K đạt 8
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
49,4b 13,7ab 7,09ab 19,8bcd 4,25bc 31,0 406bc K đạt 9
* * * * * ns *
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
133
F
CV (%) 7,97 5,45 9,32 5,67 13,9 4,28 61.9
Kết quả phân tích hàm lượng đạm tổng số (Nts) trong rau muống trong vụ 1 cho
thấy hàm lượng đạm tổng số trong cây rau khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so sánh giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Mặc dù việc bón giảm 25%
lượng đạm hóa học theo công thức khuyến cáo dẫn đến giảm hàm lượng đạm tổng số
trong rau, tuy nhiên đối với các nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn hiệu quả như
TP-1.4 và MQ-2.5 thì hàm lượng đạm tổng số vẫn tương đương với nghiệm thức bón
100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo với hàm lượng đạm tổng số dao động từ 29,6
đến 32,7 g.kg-1.
Đáng chú ý, kết quả phân tích hàm lượng nitrate (NO3
-) trong thân và lá rau
muống ở thời điểm thu hoạch rau trong vụ 1 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức chủng và không chủng vi khuẩn về chỉ tiêu này.
Nhìn chung, các nghiệm thức chỉ bón phân hóa học có lượng nitrate trong rau khác
biệt ý không nghĩa thống kê (p<0,05), trong khi đó, các nghiệm thức chủng các dòng
vi khuẩn, IMO và chế phẩm vi sinh thương mại đã làm giảm mạnh hàm lượng nitrate
tích lũy trong rau một cách đáng kể. Với hàm lượng nitrate dao động trong khoảng
245-481 mg.kg-1 thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức chỉ bón phân
hóa học có hàm lượng nitrate dao động trong khoảng 1.097-1.232 mg.kg-1. Như vậy
trung bình Lượng nitrate giảm đến 68% so với nghiệm thức bón phân hóa học, trong
đó nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho thấy có hiệu quả tốt nhất trong việc
làm giảm lượng nitrate tích lũy trong rau (hàm lượng nitrate trong rau chỉ còn 245
mg.kg-1 giảm được 78% lượng nitrate tích lũy trong rau). Khi so sánh các nghiệm thức
có chủng vi sinh còn lại với nhau cho thấy có hàm lượng nitrate trong rau muống thấp
hơn so với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học, dao động trong khoảng từ 348 đến 481
mg.kg-1 và tỷ lệ giảm lượng nitrate tích lũy trong rau muống dao động từ 62-71% so
với nghiệm thức bón phân hóa học. Đối với hàm lượng nitrate trong rau, chuẩn khuyến
cáo của WHO (1996) và TCVN-2008 (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn-
- đối với rau muống là 300 mg/kg.
2008), mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng NO3
Kết quả phân tích trong nghiên cứu này cho thấy hàm lượng nitrate trong các mẫu rau
muống của nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 đã được giảm xuống dưới
ngưỡng an toàn (245 mg.kg-1), các nghiệm thức chủng vi sinh vật còn lại cũng cho
thấy hàm lượng nitrate giảm mạnh so với các nghiệm thức đối chứng không chủng vi
khuẩn nhưng bón 100N theo khuyến cáo và 75N và có xu hướng giảm về ngưỡng tiêu
chuẩn cho phép tối đa (300 mg.kg-1) tuy nhiên vẫn chưa đạt. Kết quả nghiên cứu này
tương tự các kết quả nghiên cứu của Phạm Xuân Lân (2007); Nguyễn Cẩm Long
(2014); Nguyễn Lệ Phương và ctv. (2018); Don and Diep (2019) khi các tác giả chỉ ra
rằng việc chủng các dòng vi khuẩn kích thích sinh trưởng cây trồng hoặc bón phân vi
sinh hoặc chế phẩm vi sinh vật giúp giảm hàm lượng nitrate trong rau một cách hiệu
quả.
134
4.6.1.2 Vụ rau muống thứ hai
Bảng 4.24 trình bày kết quả về ảnh hưởng của 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn lên
sinh trưởng và năng suất rau muống trong vụ 2 ở điều kiện ngoài đồng cho thấy các
nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn và hệ IMO khác nhau cho khả năng kích thích
sinh trưởng và năng suất cây rau muống khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Đối với chiều cao cây rau muống, nghiệm thức bón phân 75N-48P2O5-24K2O kết
hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 và chủng hệ IMO mồng tơi cho chiều cao cây cao
nhất, lần lượt đạt 62,4 cm và 61,7 cm, cao hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê khi so
sánh với nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo, kế theo là các
nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 và hệ
IMO tre cho chiều cao cây lần lượt đạt 60,2 và 61 cm, tương đương với nghiệm thức
đối chứng bón 100N khuyến cáo (60,4 cm) và cao hơn so với nghiệm thức bón 75N là
52,4 cm. Các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-
1.3, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn và chế phẩm vi sinh thương mại cho chiều cao cây dao
động trong khoảng từ 58,4-59,5 cm, cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
khi so với nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O, tuy nhiên, thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo. Như vậy
có thể thấy trong vụ rau thí nghiệm thứ 2 này các dòng vi khuẩn đơn, hỗn hợp vi
khuẩn, chế phẩm vi sinh thương mại và các hệ IMO đều thể hiện vai trò kích thích
tăng sinh trưởng cây rau của chúng rất tốt, thông qua hoạt động cố định đạm sinh học
để thay thế 25% lượng phân đạm hoá học đã được giảm đi trong công thức phân bón.
Trong đó dòng vi khuẩn TP-1.4 cho thấy có hiệu quả cao nhất trong kích thích sinh
trưởng cây rau muống, đặc biệt là kích thích làm tăng chiều cao cây cao hơn so với
nghiệm thức bón 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo.
Đối với đường kính thân cây rau muống, kết quả cũng ghi nhận tương tự khi các
nghiệm thức chủng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5 và hệ IMO mồng tơi đều cho
đường kính thân lớn hơn so với các nghiệm thức chỉ bón phân hóa học hoặc đối chứng
chủng chế phẩm vi sinh thương mại.
Đối với số lá rau trên thân cây rau muống, trong vụ rau muống thí nghiệm thứ 2
khác biệt không ý nghĩa thống kê (p>005) nhau giữa các nghiệm thức với số lá trên
thân cây rau dao động từ 10-11 lá. Tuy nhiên hàm lượng chlorophyll trong lá rau của
nghiệm thức bón 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo trong vụ 2 này đạt giá trị cao
nhất (16,8) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức còn
lại. Nghiệm thức chỉ bón 75N-48P2O5-24K2O có hàm lượng chlorophyll trong lá rau
thấp nhất (14,7).
135
Bảng 4.24 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây rau muống trong vụ thí nghiệm 2 ở ngoài đồng tại Trường
Khánh, Long Phú, Sóc Trăng sau 26 ngày gieo hạt (từ 23 tháng 6 năm 2020 đến ngày 18 tháng 7 năm 2020)
Hàm lượng đạm trong thân Chỉ tiêu nông học
-
STT Nghiệm thức Năng
suất tươi
(kg/m2) Số lá
(lá) Nts
(g.kg-1) NO3
(mg.kg-1) TCVN-2008
(300 mg.kg-1) Chiều cao
thân
(cm) Đường
kính thân
(cm) Chlorophyll
tổng số
(CCI)
Đối chứng 100N-48P2O5-24K2O
1 60,4cd 10,8 7,60bc 16,8a 5,21cd 41,7b 2.186a K đạt
Đối chứng 75N-48P2O5-24K2O
2 52,4g 10,4 6,88d 14,7d 3,39g 32,6c 348f K đạt
75N-48P2O5-24K2O + Chế phẩm VSTM
3 58,4f 11,0 6,89d 15,7bc 4,87ef 37,5bc 1.348c K đạt
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
4 59,3e 11,0 8,22ab 16,1bc 4,84f 78,1a 1.535b K đạt
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
5 62,4a 11,4 8,23ab 14,6d 5,87a 41,5b 1.250c K đạt
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
6 61,0bc 11,2 8,00abc 16,3bc 5,71ab 42,9b 1.644b K đạt
75N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 VK
7 59,5de 11,1 7,47cd 16,5b 5,06de 36,7bc 757e K đạt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
8 61,7ab 11,4 8,40a 15,4cd 5,59b 41,0bc 1.636b K đạt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
9 60,2cde 11,1 7,43cd 15,4cd 5,31c 38,6bc 987d K đạt
F ns * * * * * *
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
136
CV (%) 4,3 4,7 7,6 7,9 13,9 6,86 3,25
Đối với năng suất rau tươi khi thu hoạch, kết quả cho thấy nghiệm thức chủng
dòng vi khuẩn TP-1.4 và MQ-2.5 kết hợp bón 75N-48P2O5-24K2O cho sinh khối rau
tươi cao nhất, đạt lần lượt 5,87 và 5,71 kg/m2, cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) khi so với các nghiệm thức còn lại. Kế đến là 3 nghiệm thức bón 75N-
48P2O5-24K2O kết hợp chủng hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO mồng tơi và IMO tre,
với khối lượng rau thu hoạch trên diện tích 1 m2 dao động từ 5,06-5,59 kg/m2. Trong
khi các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.3 và
chủng chế phẩm vi sinh thương mại cho năng suất sinh khối tươi thấp hơn và khác biệt
ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức đối chứng bón 100N-48P2O5-24K2O
khuyến cáo, tuy nhiên vẫn cao hơn so với nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O. Như
vậy khi giảm 25% lượng đạm bón cho cây rau muống thì việc chủng các dòng vi
khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA hoặc các hệ IMO giúp gia tăng năng suất rau
muống tăng thêm 14,47% so với nghiệm thức chỉ bón 100N-48P2O5-24K2O theo
khuyến cáo.
Nhìn chung ở vụ rau muống thí nghiệm thứ hai, khi so sánh giữa các nghiệm
thức chủng 3 dòng vi khuẩn với hệ IMO cho thấy các nghiệm thức chủng dòng vi
khuẩn TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn cho hiệu quả kích thích sinh
trưởng trên cây rau muống tương tự với các nghiệm thức chủng hệ IMO mồng tơi, dẫn
đến năng suất rau thu được giữa các nghiệm thức cũng tương đương nhau. Trong khi
đó, nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.3 cho hiệu quả kích thích sinh trưởng và
năng suất tương đương với nghiệm thức chủng hệ IMO tre và chế phẩm vi sinh thương
mại. Tuy nhiên khi so sánh năng suất rau giữa nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-
1.4 và dòng vi khuẩn MQ-2.5 trong 2 vụ rau muống thí nghiệm cho thấy nghiệm thức
chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 cho năng suất rau muống ổn định hơn so với nghiệm
thức chủng dòng vi khuẩn TP-4.1 và năng suất rau muống qua 2 vụ của nghiệm thức
chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 lần lượt đạt 5,15 và 5,71 kg/m2, trong khi nghiệm thức
chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 cho năng suất rau muống ở vụ 2 cao hơn so vụ 1 và lần
lượt đạt 5,87 kg/m2 ở vụ 2 so 4,57 kg/m2 ở vụ 1. Kết quả này không giống như kết quả
thí nghiệm trong nhà lưới có thể là do khả năng tồn tại và phát triển của dòng vi khuẩn
TP-1.4 để thực hiện chức năng kích thích sinh trưởng cây trồng dưới các điều kiện bất
lợi của môi trường như nắng nóng và hạn mặn trong vụ rau thứ nhất không tốt bằng
dòng vi khuẩn MQ-2.5.
Kết quả phân tích hàm lượng đạm tổng số trong thân và lá rau muống ở vụ 2 cho
thấy hàm lượng đạm tổng số trong cây rau muống khác biệt nhau ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so sánh giữa các nghiệm thức với nhau. Cụ thể, nghiệm thức bón 75N-
48P2O5-24K2O làm giảm hàm lượng Nts trong rau so với nghiệm thức bón 100N-
48P2O5-24K2O, tuy nhiên cũng ở mức bón phân này nhưng khi kết hợp chủng các
dòng vi khuẩn đơn, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO và chế phẩm vi sinh thương mại
giúp hàm lượng Nts trong thân lá cao hơn, dao động từ 36,7 đến 41,5 g.kg-1 và khác
biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức chỉ bón 75N-48P2O5-24K2O
137
Đối với hàm lượng NO3
- trong rau, kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt ý
nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức về chỉ tiêu này. Nhìn chung hàm lượng
nitrate trong rau ở nghiệm thức bón 100% NPK là cao nhất, đạt 2186 mg.kg-1 rau tươi
và các nghiệm thức bón 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn đơn,
hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO và chế phẩm vi sinh thương mại đã làm giảm mạnh
hàm lượng nitrate tích luỹ trong rau, với hàm lượng nitrate dao động trong khoảng
757-1644 mg.kg-1 rau tươi, trong đó nghiệm thức chủng hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ
IMO tre và dòng vi khuẩn TP-1.4 cho hiệu quả giảm nitrate trong rau rất tốt. Hay nói
khác hơn nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn, hệ IMO và
chế phẩm vi sinh thương mại đã làm giảm từ 24,8% đến 65,4% lượng nitrate tích lũy
trong rau so với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học và kết quả này cũng tương tự như
kết quả ở vụ rau muống thí nghiệm 1. Tuy nhiên, so với khuyến cáo TCVN-2008 (Bộ
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn-2008), mức giới hạn tối đa cho phép hàm
- đối với rau là 300 mg.kg-1, hàm lượng nitrate trong các mẫu rau của các
lượng NO3
nghiệm thức trong vụ thí nghiệm 2 này mặc dù đã đạt thấp hơn so với nghiệm thức chỉ
bón phân hóa học nhưng hàm lượng nitrate tích lũy trong thân lá vẫn còn cao hơn so
với tiêu chuẩn qui định an toàn về nitrate cho cây rau. Điều này được giải thích do
trong vụ 2 này, điều kiện thời tiết mát, mưa nhiều thuận lợi cho việc hấp thu nitrate từ
đất vào trong rau tăng lên, và hạn chế quá trình làm mất nitrate do nhiệt. Ngoài ra, thời
điểm thu hoạch rau muống là 26 ngày sau khi gieo hạt ở vụ 2, thời điểm thu hoạch này
có thời gian cách ly chỉ là 6 ngày tính từ đợt bón phân hóa học lần cuối, thay vì phải là
10 ngày của vụ 1, do đó, đã làm ảnh hưởng đến tiến trình chuyển hóa nitrate trong rau
cũng như hiệu quả chuyển hoá nitrate của các dòng vi khuẩn (Bùi Thị Khuyên và ctv,
2002; Phạm Xuân Lân, 2007; Gorenjak and Cencic, 2013; Nguyễn Cẩm Long, 2014;
Nguyễn Lệ Phương và ctv., 2018; Don and Diep 2019).
Trong vụ 2 này hàm lượng nitrate thấp nhất ở nghiệm thức chỉ bón 75%N-
-, chứng tỏ việc bón giảm 25% lượng đạm khuyến
48P2O5-24K2O, đạt 348 mg.kg-1 NO3
cáo cho rau muống giúp giảm đáng kể hàm lượng nitrate tích lũy trong rau, tuy nhiên,
hàm lượng Nts trong rau ở nghiệm thức này đã bị giảm xuống, đồng thời năng suất rau
của nghiệm thức này cũng giảm mạnh. Do đó, nghiệm thức này không phù hợp trong
canh tác rau.
Khi so sánh kết quả thí nghiệm giữa nhà lưới và ngoài đồng cho thấy cả hai điều
kiện thí nghiệm cho kết quả tương tự, phù hợp nhau và có cùng xu hướng khi cả hai
điều kiện thí nghiệm đều cho thấy dòng vi khuẩn TP-1.4 là dòng vi khuẩn có hiệu quả
kích thích sinh trưởng và năng suất rau muống tốt nhất. Đáng chú ý là các chỉ tiêu sinh
138
(348 g.kg-1 N), nhưng tương đương và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
khi so sánh với nghiệm thức bón 100N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo (41,7 g.kg-1
N). Đặc biệt trong vụ rau này nghiệm thức 75N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi
khuẩn TP-1.3 đã làm tăng hàm lượng Nts trong lá rau, đạt 78,1 g.kg-1 và tăng thêm
87% lượng đạm tổng số so với nghiệm thức bón 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo.
trưởng và năng suất cây rau muống của các nghiệm thức được chủng dòng vi khuẩn
MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn có sự khác biệt nhau giữa 2 điều kiện thí nghiệm
nhà lưới và ngoài đồng. Đối với các nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn MQ-2.5 và hỗn
hợp 3 dòng vi khuẩn kết hợp bón 75N-48P2O5-24K2O cho hiệu quả kích thích sự phát
triển của cây rau muống tốt nhất đặc biệt là trong điều kiện nắng hạn kéo dài ở trong
vụ rau thí nghiệm thứ nhất. Điều này có thể giải thích do dòng vi khuẩn MQ-2.5 này
tồn tại, chịu đựng, sinh trưởng tốt và phát huy được chức năng kích thích sinh trưởng
cả trong điều kiện nắng hạn. Đối với chỉ tiêu chlorophyll của cây rau muống, hàm
lượng chlophorphyll của cây rau muống ở điều kiện ngoài đồng cao hơn, dao động từ
18,3 đến 21,8 CCI so với ở điều kiện nhà lưới (dao động từ 9,8 đến 14,7 CCI). Có sự
khác biệt lớn này về hàm lượng chlorophyll có thể là do cường độ chiếu sáng ở điều
kiện nhà lưới thấp hơn ở điều kiện ngoài đồng, hơn nữa thời điểm bố trí vụ rau thứ
nhất ở ngoài đồng là thời gian từ 27 tháng 4 năm 2020 đến 27 tháng 5 năm 2020 là
thời điểm nắng nóng mạnh kéo dài của mùa nắng nên ảnh hưởng đến hàm lượng
chlorophyll trong lá rau và ngoài ra việc chủng 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn và hệ IMO
cũng giúp làm gia tăng hàm lượng chlorophyll trong lá rau muống.
Tóm lại đối với cây rau muống việc giảm 25% phân đạm theo khuyến cáo kết
hợp chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn hoặc hệ IMO
hoặc chế phẩm vi sinh thương mại giúp kích thích sinh trưởng cây rau tốt hơn dẫn đến
duy trì hoặc làm tăng năng suất cây rau. Đặc biệt, chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-
2.5, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và MQ-2.5 kết hợp bón 75N-48P2O5-
24K2O không những giúp tăng năng suất rau muống thêm từ 15% đến 30% so với
nghiệm thức bón 100N-48P2O5-24K2O khuyến cáo mà còn giúp giảm được hàm lượng
nitrate tích trong rau nhưng duy trì được lượng đạm tổng số trong rau.
4.6.2 Sinh trưởng và năng suất cải xanh ở điều kiện ngoài đồng
4.6.2.1 Vụ cải xanh thứ nhất
Kết quả khảo sát khả năng kích thích sinh trưởng và năng suất cây cải xanh của 3
dòng vi khuẩn và 2 hệ IMO tuyển chọn ở điều kiện ngoài đồng trong vụ 1 được trình
bày trong Bảng 4.25 cho thấy các nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp
chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA, chủng hệ IMO cho các chỉ
tiêu sinh trưởng và năng suất cây cải xanh cao hơn, khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so sánh với nhau và với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học 70N-48P2O5-
24K2O và 52,5N-48P2O5-24K2O. Nhìn chung, các chỉ tiêu về sinh trưởng và năng suất
của các nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng vi khuẩn cao hơn và
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-
24K2O kết hợp chủng các hệ IMO và chế phẩm vi sinh thương mại và 2 nghiệm thức
chỉ bón phân hoá học.
139
Bảng 4.25 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây cải xanh trong vụ thí nghiệm 1 ở ngoài đồng tại
Trường Khánh, Long Phú, Sóc Trăng sau 30 ngày gieo hạt (từ 27 tháng 4 năm 2020 đến ngày 27 tháng 5 năm 2020)
Chlorophyll
tổng số
(CCI)
Chỉ tiêu nông học Hàm lượng đạm trong
thân STT Nghiệm thức Năng
suất tươi
(kg/m2) Số lá
(lá) Nts
(g.kg-1) TCVN-2008
(500 mg.kg-1)
-
NO3
(mg.kg-
1)
2.368a
Chiều
cao thân
(cm)
16,6de Chiều
dài lá
(cm)
14,8b Chiều
rộng lá
(cm)
9,39bc 6,97 2,14bc 46,1ab K đạt 18,2b 1 Đối chứng 70N-48P2O5-24K2O
14,6f 13,1c 8,31d 6,86 1.874b 1,60f 43,0b K đạt 14,7de 2 Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + Chế phẩm VSTM
3 17,2d 15,3b 9,54bc 7,53 1.438c 2,02e 41,7b K đạt 15,3cd
52,5N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
4 19,3a 17,3a 11,0a 7,67 1.671c 2,37a 48,6a K đạt 20,1a
52,5N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
5 18,4bc 17,3a 10,9a 7,61 1.336f 2,16cd 42,5b K đạt 14,0ef
52,5N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
6 18,9ab 17,3a 10,8a 7,44 2,35ab 43,8ab 1.585cde K đạt 13,8f
52,5N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 VK
7 18,2c 15,2b 9,98b 7,36 2,30ab 41,1b 1.640cd K đạt 13,7f
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
8 16,3e 14,7b 9,23c 7,42 1,64f 43,9ab 1.473def K đạt 18,6b
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
9 K đạt 16,0c 16,7de 6,94 15,2b 9,29bc 2,05de 42,5b 1.324f
* F * ns * * * * *
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
140
14,2 CV (%) 8,28 7,23 9,25 9,09 13,4 10,3 22,6
Cụ thể, nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-
1.3, MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn cho các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều cao
cây, chiều dài lá, rộng lá, hàm lượng chlorophyll và sinh khối tươi cao nhất. Nghiệm
thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O không chủng vi sinh vật cho các chỉ tiêu nông học và
năng suất thấp nhất. Trong khi các chỉ tiêu về số lá và năng suất tươi giữa các nghiệm
thức còn lại khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Tương tự như cây rau muống, khi so sánh giữa các nghiệm thức chủng các dòng
vi khuẩn đơn với hệ IMO về sinh trưởng và năng suất cho thấy các nghiệm thức chủng
các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn cho hiệu quả
kích thích sinh trưởng cải xanh cao hơn các nghiệm thức chủng các hệ IMO tre, IMO
mồng tơi và chế phẩm vi sinh thương mại dẫn đến năng suất rau thu được của các
nghiệm thức này cũng cao hơn, trong đó, dòng vi khuẩn TP-1.3 cho hiệu quả kích
thích sinh trưởng và năng suất cải xanh tốt nhất. Trong 2 hệ IMO thử nghiệm, hệ IMO
tre cho hiệu quả kích thích sinh trưởng cao hơn so với hệ IMO mồng tơi.
Kết quả phân tích chỉ tiêu năng suất vụ cải thứ nhất cho thấy các nghiệm thức
bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết chủng các dòng vi khuẩn giúp gia tăng sinh trưởng của
cây cải xanh tốt hơn so với nghiệm thức chỉ bón phân hoá học, và giúp năng suất cải
xanh tăng lên thêm 10% so với nghiệm thức 70N-48P2O5-24K2O khuyến cáo. Trong
đó nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.3 cho hiệu quả làm tăng năng suất cao
nhất. Điều này có thể giải thích do vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA được chủng
vào giúp bổ sung vào đất nguồn đạm đã giảm trừ từ công thức phân bón hóa học, đồng
thời tổng hợp các chất kích thích sinh trưởng như IAA giúp cây sinh trưởng tốt hơn.
Kết quả phân tích hàm lượng đạm tổng số trong cây cải xanh cho thấy hàm lượng
đạm tổng số trong cây khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh giữa các
nghiệm thức với nhau. Nhìn chung, nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O làm giảm
hàm lượng đạm tổng số trong rau, tuy nhiên ở các nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-
24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-2.5 và IMO tre, mồng tơi có hàm
lượng đạm tổng số tương đương và khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so
với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo. Tuy nhiên hàm lượng đạm
tổng số ở nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.3
cho hàm lượng đạm tổng số cao hơn.
Kết quả phân tích hàm lượng nitrate (NO3
-) trong cây cải xanh cho thấy có sự
khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) về chỉ tiêu này giữa các nghiệm thức. Nhìn chung
khi giảm 25% hàm lượng đạm bón cho rau từ công thức bón phân hóa học khuyến cáo
đã dẫn đến việc giảm lượng nitrate tích lũy trong rau và việc chủng các dòng vi khuẩn,
hệ IMO và chế phẩm vi sinh thương mại đã giúp giảm mạnh hàm lượng nitrate tích lũy
trong rau hơn, với hàm lượng nitrate dao động từ 1.324 đến 1.671 mg.kg-1, trung bình
giảm từ 29,4-44,1% so với nghiệm thức bón phân 70N-48P2O5-24K2O khuyến cáo.
Trong đó, nghiệm thức chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, hệ IMO tre, giúp làm giảm lượng
nitrate tích lũy trong rau lên đến 44% so với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O
141
khuyến cáo. Các nghiệm thức chủng vi sinh còn lại kết hợp bón 52,5N-48P2O5-24K2O
có hàm lượng nitrate tích lũy trong rau dao động từ 1.473 đến 1.671 mg.kg-1, tương
ứng giảm từ 30-39% lượng nitrate tích lũy trong rau so với nghiệm thức bón 70N-
48P2O5-24K2O khuyến cáo.
Ngưỡng nitrate khuyến cáo của WHO (1996) và TCVN-2008 là 500 mg.kg-1 cho
rau cải xanh. Hàm lượng nitrate trong cải xanh của các nghiệm thức bón 52,5N-
48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn, hệ IMO và chế phẩm vi sinh thương
mại đều cao hơn so với mức khuyến cáo (500 mg.kg-1) và dao động từ 1324-1640
mg.kg-1, mặc dù thấp hơn rất nhiều so với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học (70N-
48P2O5-24K2O khuyến cáo và 52,5N-48P2O5-24K2O) không chủng vi sinh vật, lần
lượt là 2368 và 1874 mg.kg-1. Điều này có thể giải thích là do các yếu tố ảnh hưởng
- tích luỹ trong sản phẩm rau như giống rau (Tạ Thu Cúc, 2007;
lên hàm lượng NO3
Nguyễn Cẩm Long và ctv., 2012), phân bón (Hoàng Thị Thái Hòa, 2009), mật độ gieo
trồng (Cantlife, 1972, Nguyễn Cẩm Long và ctv, 2013), thời gian cách ly từ lần bón
đạm cuối đến thu hoạch (Nguyễn Cẩm Long, 2014), chế phẩm vi sinh (Phạm Xuân
Lân, 2007; Nguyễn Cẩm Long, 2014; Nguyễn Lệ Phương và ctv., 2018; Don and Diep
2019), mùa vụ gieo trồng (Bùi Thị Khuyên và ctv, 2002; Nguyễn Cẩm Long, 2014),
cường độ ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, loại đất, giai đoạn sinh trưởng của thực vật, thời
gian lưu trữ, nguồn nitơ... (Gorenjak and Cencic, 2013) đã ảnh hưởng lên quá trình
tích lũy nitrate trong rau.
4.6.2.2 Vụ cải xanh thứ hai
Bảng 4.26 trình bày kết quả về sinh trưởng và năng suất rau cải xanh trong vụ thí
nghiệm thứ 2 ở điều kiện ngoài đồng cho thấy các nghiệm thức chủng các dòng vi
khuẩn và hệ IMO tuyển chọn khác nhau cho khả năng sinh trưởng và năng suất cây cải
xanh khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh với nhau.
142
Bảng 4.26 Một số chỉ tiêu nông học, năng suất và thành phần hóa học cây cải xanh trong vụ thí nghiệm 2 ở ngoài đồng tại
Trường Khánh, Long Phú, Sóc Trăng sau 33 ngày gieo hạt (từ 23 tháng 6 năm 2020 đến ngày 25 tháng 7 năm 2020)
-
Chlorophyll
tổng số
(CCI)
Chỉ tiêu nông học Thành phần hoá học trong
thân STT Nghiệm thức Năng
suất tươi
(kg/m2) Số lá
(lá) Nts
(g.kg-1) NO3
(mg.kg-1) TCVN-2008
(500 mg.kg-1) Chiều
cao thân
(cm)
18,0c 7,57bcd Chiều
dài lá
(cm)
16,7bc Chiều
rộng lá
(cm)
7,73bc 14,4a 1,97c 40,6abc 885a K đạt 1 Đối chứng 70N-48P2O5-24K2O
17,6c 7,50bcd 16,4c 7,14d 12,5b 1,70d 36,4c 15f Đạt 2 Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + Chế phẩm VSTM
3 18,2bc 7,53bcd 16,7bc 7,47cd 12,9ab 2,13bc 42,6a 250d Đạt
52,N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
4 19,9a 7,84abc 17,6abc 8,00b 10,8c 2,35ab 43,5a 506b K đạt
52,5N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
5 19,3ab 8,16a 18,6a 8,61a 12,7b 2,32ab 43,5a 136e Đạt
52,5N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
6 20,0a 7,97ab 18,4ab 8,54a 12,4bc 2,50a 39,8abc 357c Đạt
52,5N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 VK
7 18,4bc 7,28d 17,5abc 7,44cd 12,2bc 2,01c 39,6abc 136e Đạt
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
8 12,2bc Đạt 18,8abc 7,45cd 17,2abc 8,54a 1,97c 38,1bc 169de
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
9 18,5bc 7,8abc 16,9bc 7,70bc 13,4ab 2,13bc 42,6a 591b K đạt
F * * * * * * * *
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
143
CV (%) 4,71 4,02 5,08 6,81 8,36 11,3 2,92 7,55
Đối với các chỉ tiêu chiều cao thân, số lá, chiều dài và chiều rộng lá 3 nghiệm
thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và
MQ-2.5 cho kết quả cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các
nghiệm thức còn lại. Điều này dẫn đến năng suất sinh khối tươi của cây rau của 3
nghiệm thức này đạt cao nhất và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với các
nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu về số lá, chiều dài lá và chiều rộng lá
của 3 nghiệm thức này cũng cao hơn và khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với
nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo. Trong khi nghiệm thức chỉ bón
52,5N-48P2O5-24K2O không chủng vi khuẩn cho các chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất
cải thấp nhất. Ngoài ra, các nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng hỗn
hợp 3 dòng vi khuẩn, chế phẩm vi sinh thương mại và chủng các hệ IMO cho các chỉ
tiêu sinh trưởng và năng suất rau tương đương và khác biệt không ý nghĩa thống kê
(p<0,05) khi so sánh với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo. Như
vậy có thể thấy chủng các dòng vi khuẩn TP-.3, TP-1.4 và MQ-2.5 không những giúp
tăng sinh trưởng và năng suất cây cải thêm 20% mà còn giảm được 25% lượng phân
đạm hoá học và chủng các hệ vi sinh vật bản địa giúp giảm 25% phân đạm bón cho
cây cải xanh nhưng vẫn đảm bảo duy trì năng suất tương đương và khác biệt không ý
nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo.
Kết quả phân tích hàm lượng đạm tổng số trong cây cải xanh ở vụ thí nghiệm thứ
2 cho thấy hàm lượng đạm tổng số trong cải xanh có sự khác biệt ý nghĩa thống kê khi
so sánh với nhau giữa các nghiệm thức. Nhìn chung, khi giảm 25% lượng phân đạm
theo khuyến cáo làm giảm hàm lượng đạm tổng số trong rau, tuy nhiên đối với các
nghiệm thức có kết hợp chủng các dòng vi khuẩn và hệ IMO hàm lượng đạm tổng số
vẫn được duy trì tương đương và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so
sánh với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo. Tuy nhiên hàm lượng
đạm tổng số trong các nghiệm thức bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi
khuẩn TP-1.3, TP-1.4 và hệ IMO tre có hàm lượng đạm tổng số cao hơn và khác biệt ý
nghĩa thống kê (p<0,05) khi so với nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến
cáo.
Kết quả phân tích hàm lượng nitrate (NO3
-) trong cây cải xanh ở vụ 2 cho thấy có
khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức khi so sánh với nhau về chỉ
tiêu này. Cụ thể, nghiệm thức bón 70N-48P2O5-24K2O theo khuyến cáo có hàm lượng
nitrate đạt 885 mg.kg-1, cao nhất trong các nghiệm thức và khác biệt ý nghĩa thống kê
khi so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05), trong khi các nghiệm thức còn lại có hàm
lượng nitrate trong cải xanh dao động từ 136 đến 591 mg.kg-1. Trong đó nghiệm thức
bón 52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng dòng vi khuẩn TP-1.4 và hỗn hợp 3 dòng vi
khuẩn có hàm lượng nitrate đều là 136 mg.kg-1. Trong khi đó, các nghiệm thức bón
52,5N-48P2O5-24K2O kết hợp chủng các dòng vi khuẩn còn lại (TP-1.3 và MQ-2.5) và
hệ IMO có hàm lượng nitrate trong rau thấp hơn đối chứng bón 70N, với hàm lượng
nitrate tích lũy trong cải xanh dao động từ 357 đến 591 mg.kg-1. Như vậy nghiệm thức
144
chủng dòng vi khuẩn TP-1.4, hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn và hệ IMO mồng tơi giúp giảm
lượng nitrate tích lũy trong cải xanh tốt nhất, giúp giảm lượng nitrate tích lũy trong cải
xanh với tỷ lệ dao động trong khoảng từ 80,9- 4,6% so với nghiệm thức bón 70N-
48P2O5-24K2O khuyến cáo, trong khi các nghiệm thức có chủng vi khuẩn còn lại có
hàm lượng nitrate tích luỹ giảm từ 33,3% đến 71,8%. Đặc biệt, hàm lượng nitrate tích
lũy trong cải xanh thấp nhất được tìm thấy ở nghiệm chỉ bón 52,5N-48P2O5-24K2O,
với hàm lượng nitrate tích lũy được ghi nhận là 15 mg.kg-1. Kết quả này cho thấy việc
bón giảm hàm lượng đạm trong công thức bón phân cho cải xanh giúp giảm đáng kể
hàm lượng đạm tổng số và nitrate trong rau, tuy nhiên, hàm lượng Nts trong rau đã bị
giảm đáng kể đồng thời năng suất rau của nghiệm thức này cũng giảm mạnh. Kết quả
này tương tự như kết quả phân tích hàm lượng nitrate trong vụ rau muống thí nghiệm
thứ 2. Đồng thời, so sánh hàm lượng nitrate trong cải xanh ở 2 vụ cải xanh cho thấy
hàm lượng nitrate tích lũy trong cải xanh ở vụ 2 thấp hơn đáng kể so với vụ 1. Điều
này có thể giải thích là do thời điểm thu hoạch cải xanh trong vụ 2 là 33 ngày sau khi
gieo, thời điểm thu hoạch này có thời gian cách ly là 13 ngày tính từ đợt bón phân hóa
học lần cuối, thay vì chỉ là 10 ngày của vụ 1, do đó, đã giúp cây rau chuyển hóa nitrate
trong thân cũng như hiệu quả chuyển hoá nitrate của các dòng vi khuẩn được tốt hơn
(Bùi Thị Khuyên và ctv, 2002; Phạm Xuân Lân, 2007; Gorenjak and Cencic, 2013;
Nguyễn Cẩm Long, 2014; Nguyễn Lệ Phương và ctv., 2018; Don and Diep 2019).
So sánh tổng hợp kết quả phân tích hàm lượng NO3
- trong 2 vụ rau thí nghiệm
ngoài đồng của 2 loại rau trong nghiên cứu này với nhau (Phụ lục 15) cho thấy hàm
lượng nitrate trong rau là 1 chỉ tiêu rất phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: (1) loại
rau; (2) hàm lượng phân đạm bón cho rau; (3) thời điểm thu hoạch; (4) thời gian cách
ly tính từ lúc bón phân lần cuối; (5) điều kiện thời tiết khí hậu; (6) hiệu quả chuyển
hóa của vi sinh vật chủng trong quá trình trồng rau. Mặc dù qua 2 vụ rau thí nghiệm
liên tục ở ngoài đồng cho kết quả hàm lượng nitrate trong rau ở các nghiệm thức có
chủng vi khuẩn vẫn còn ở ngưỡng cao trên mức an toàn theo quy định của TCVN 2008
(< 300 mg.kg-1 đối với rau muống và < 500 mg.kg-1 đối với cải xanh), tuy nhiên trong
cùng 1 điều kiện thí nghiệm như nhau các nghiệm thức chủng các dòng vi khuẩn tuyển
chọn hoặc IMO hoặc chế phẩm vi sinh thương mại giúp giảm mạnh hàm lượng nitrate
lưu tồn trong rau so với nghiệm thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Để hàm lượng
nitrate trong rau thấp hơn và đạt ngưỡng an toàn cần có thêm nhiều nghiên cứu khác
cho từng loại rau. Tuy nhiên, trong các thí nghiệm này lượng nitrate lưu tồn trong rau
cao hơn ngưỡng cho phép của đa số các nghiệm thức có thể giải thích một phần là do
thời gian cách ly tính từ lúc bón phân hóa học NPK lần cuối đến khi thu hoạch trong
đó có phân đạm cho cả cây rau muống và cải xanh là ngắn, chưa đủ yêu cầu về thời
gian cách ly an toàn là ít nhất 10 ngày sau khi bón phân đạm lần cuối cho rau.
So sánh hai vụ cải với nhau cho thấy hai vụ cải xanh thí nghiệm cho kết quả
tương tự nhau vì khi chủng các dòng vi khuẩn TP-1.3, TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp 3
dòng vi khuẩn này giúp tăng sinh trưởng và năng suất cải xanh thêm 10-20% so với
145
nghiệm thức bón 100% NPK khuyến cáo, đồng thời giảm được 25% lượng đạm hoá
học bón cho cây cải xanh. Trong khi các nghiệm thức chủng các hệ vi sinh vật IMO
giúp giảm 25% lượng phân đạm nhưng vẫn duy trì sinh trưởng và năng suất cây cải
xanh tương đương và khác biệt không ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nghiệm thức bón
100%NPK theo khuyến cáo không chủng vi sinh vật. Khi so sánh 2 hệ IMO với nhau
trong cùng vụ 2 cho thấy hệ IMO thu thập từ đất trồng tre cho hiệu quả kích thích sinh
trưởng và năng suất tốt hơn so với hệ IMO mồng tơi. Kết quả này tương tự và có cùng
xu hướng như các kết quả thí nghiệm trong nhà lưới. Như vậy, ở cả 2 điều kiện ngoài
đồng và trong nhà lưới đều cho thấy các dòng vi khuẩn tuyển chọn có hiệu quả kích
thích sinh trưởng tốt hơn các hệ IMO tuyển chọn.
Ngoài ra kết quả đánh giá sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn gây bệnh đường
ruột cho người gồm Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella của 4 vụ rau thí nghiệm
(2 vụ rau muống và 2 vụ cải xanh) trồng ở điều kiện ngoài đồng (Phụ lục 16) cho thấy
không có sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn gây bệnh này trong các mẫu rau của các
nghiệm thức ở thời điểm thu hoạch. Kết quả này chứng tỏ việc chủng các dòng vi
khuẩn phân lập hoặc các hệ IMO tuyển chọn không gây nhiễm vi sinh vật gây bệnh
như Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella trên rau. Kết quả này tương tự kết quả
khảo sát sự hiện diện các vi khuẩn gây bệnh Coliform, E. coli, Salmonella và Shigella
trong rau ở điều kiện nhà lưới bên trên. Vì vậy các dòng vi khuẩn phân lập và IMO
trong nghiên cứu này có thể ứng dụng trong canh tác rau.
So sánh hiệu quả của các dòng vi khuẩn tuyển chọn lên sự sinh trưởng, năng suất
giữa cây rau muống và cây cải xanh trong 4 vụ rau thí nghiệm (Phụ lục 14) cho thấy
dòng vi khuẩn TP-1.4, MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn cho hiệu quả
kích thích sinh trưởng cây rau muống tốt hơn trong khi đối với cây cải xanh, dòng vi
khuẩn TP-1.3, MQ-2.5, cho hiệu quả kích thích sinh trưởng tốt hơn. Nói cách khác,
dòng vi khuẩn TP-1.4 phù hợp cho cây rau muống và dòng vi khuẩn TP-1.3 phù hợp
cho cây cải xanh trong kích thích sinh trưởng và gia tăng năng suất, trong khi dòng vi
khuẩn MQ-2.5 và hỗn hợp 3 dòng vi khuẩn tuyển chọn phù hợp cho cả rau muống và
cải xanh. Ngoài ra do đặc điểm cây cải xanh dễ bị sâu, bệnh hại và thời tiết không
thuận lợi làm giảm sinh trưởng và năng suất (Phụ lục 10 và Phụ lục 13) nên việc chủng
các dòng vi khuẩn tuyển chọn có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho quá trình sinh trưởng của cây cải xanh.
So sánh hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA trong
nghiên cứu này với các nghiên cứu khác trước đây cho thấy chúng cũng có hiệu quả
đáng kể trong việc kích thích sinh trưởng và năng suất rau. Cụ thể, các thí nghiệm ở
nhà lưới và đồng ruộng tại Tiền Giang của Nguyễn Thị Ngọc Trúc (2011) đã cho thấy
khi sử dụng chế phẩm hỗn hợp các vi sinh vật cố định đạm và tổng hợp IAA đã làm
tăng chiều dài rễ và chiều cao cây rau muống và rau mồng tơi đồng thời giảm được
50% lượng phân hóa học nhưng năng suất vẫn cao hơn so với các nghiệm thức chỉ bón
phân hóa học đồng thời cũng làm giảm lượng nitrate tồn dư trong rau. Trên cây rau
146
muống và cải xanh, Cao Ngọc Điệp và ctv. (2011) đã cho thấy bón phân hữu cơ vi sinh
cố định đạm và hoà tan lân giúp giảm được 50% lượng phân bón hoá học và hàm
lượng nitrate trong rau nhưng vẫn cho năng suất tương đương với nghiệm thức bón
phân hoá học. Nghiên cứu của Don and Diep (2019) đã chỉ ra rằng khi chủng dòng vi
khuẩn đa chức năng trong đó có chức năng cố định đạm của dòng vi khuẩn
Acinetobacter calcoaceticus NT30 giúp tăng chiều cao cây, số lá và sinh khối và giảm
được hàm lượng nitrate trong cây cải xuống mức an toàn. Nghiên cứu của Dinesh et al.
(2011) trên cây cải xanh chủng kết hợp 2 dòng vi khuẩn cố định đạm Sinorhizobium
meliloti và Pseudomonas aeruginos không những giúp giảm được 50% lương phân
bón mà còn giúp sinh khối và năng suất cây cải duy trì tương đương với nghiệm thức
bón phân đạm 100%. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Pandey and
Maheshwari (2007).
Trên các đối tượng cây rau khác nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra chủng các dòng vi
khuẩn cố định đạm làm tăng sinh trưởng và năng suất cây rau. Nghiên cứu của
Jiménez-Gómez et al. (2018) trên cây cải bó xôi cho thấy việc chủng các dòng vi
khuẩn cố định đam giúp tăng số lá, kích thước và trọng lượng, hàm lượng chlorophyll
và hàm lượng đạm trong lá rau dẫn đến làm tăng năng suất và chất lượng của rau. Kết
quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của El-Assiouty and Abo-Sedera
(2005). Tương tự, năm 2012, Lai Quốc Chí và ctv. đã đánh giá khả năng cố định đạm
của hỗn hợp ba dòng vi khuẩn cố định đạm Rhizobium tropici, Bacillus subtilis,
Rhizobium multihospitium trên hành lá (Allium fistulosum sp.) và mồng tơi (Basella
alba L.) cho thấy các dòng vi khuẩn này giúp cây phát triển chiều cao, trọng lượng và
tăng năng suất. thêm vào đó Adissie et al. (2020) cho thấy chủng các dòng vi khuẩn cố
định đạm vào cây đậu faba cho thấy chúng làm tăng chiều cao cây, sinh khối cây và
tăng năng suất hạt. Ngoài ra, các thí nghiệm ngoài đồng khi xử lý hạt đậu nành với vi
khuẩn Bradyrhizobium japonicum SEMIA 5079, B. japonicum SEMIA 5080) có chức
năng cố định đạm và tổng hợp IAA làm tăng thêm 8,4% năng suất. Trong khi xử lý hạt
kết hợp tưới vi khuẩn trên đồng ruộng làm năng suất tăng thêm 16,1% so với đối
chứng không chủng (Hungria et al., 2013). Tương tự, trên cây đậu, tại tỉnh Trà Vinh,
Nguyễn Hữu Hiệp và Trần Thị Tuyết Linh (2009) đã cho thấy trồng đậu phộng có
chủng vi khuẩn cố định đạm và hòa tan lân giúp tiết kiệm 80 kgN và 80 kg P2O5 cho
mỗi hecta.
Trên các đối tượng cây trồng khác, Cao Ngọc Điệp và Bùi Thị Kiều Oanh (2006)
đã sử dụng vi khuẩn Pseudomonas spp. như là những vi sinh vật có khả năng cố định
đạm, hòa tan lân và tổng hợp IAA đã giúp cây mía phát triển tốt trên vùng đất phèn
của tỉnh Long An, tiết kiệm được 50% phân đạm hóa học, không cần bón thêm phân
lân nhưng năng suất vẫn cao hơn so với nghiệm thức chỉ bón phân hóa học theo
khuyến cáo. Trên cây lúa, các nghiên cứu đã cho thấy khi chủng các dòng vi khuẩn cố
định đạm và tổng hợp IAA giúp tăng năng suất lúa đồng thời có thể giảm được 20-
75% lượng phân đạm (Trần Văn Chiêu và Nguyễn Hữu Hiệp, 2010b; Isawa et al.,
147
2010; Nguyễn Hữu Hiệp và ctv., 2012); Bao et al., 2013; Nguyễn Thị Pha và ctv.,
2014b; Nguyễn Khởi Nghĩa và ctv., 2017). Trên cây lúa mì, Nghiên cứu của Díaz-
Zorita and Fernández-Canigia (2009) đã cho thấy việc chủng dòng vi khuẩn A.
brasilense INTA Az-39 có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA tại 297 địa điểm
thử nghiệm trên cây lúa mì ở vùng Pampas của Argentina từ 2002-2006 giúp năng suất
tăng thêm bình quân 8% so với nghiệm thức bón phân hóa học theo khuyến cáo và
sinh khối khô của của cây lúa mì tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó các nghiên cứu của
Gholami et al. (2009) cho thấy năng suất lúa mì tăng lên đến 30% cao hơn nghiệm
thức bón phân NPK theo khuyến cáo nhưng không chủng vi khuẩn khi chủng với vi
khuẩn Azotobacter. Bởi vì các chủng Azotobacter có thể ảnh hưởng tốt đến sự nảy
mầm của hạt và sự phát triển của cây con (Shaukat et al., 2006). Tương tự năm 2010,
Hungria et al. đã tiến hành các nghiên cứu xử lý hạt giống lúa mì và bắp với các chủng
vi khuẩn có chức năng cố định đạm và tổng hợp IAA là Azospirillum brasilense Ab-v5
và A. brasilense Ab-v6 và kết quả cho thấy hai dòng vi khuẩn này làm gia tăng năng
suất lúa mì và bắp thêm lần lượt 27% và 31% so với năng suất ở nghiệm thức chỉ bón
phân hóa học.
Đối với các nghiên cứu trên IMO, ở điều kiện đồng ruộng nhiều nghiên cứu đã
cho thấy IMO có hiệu quả trong việc kích thích sinh trưởng, gia tăng năng suất và
phẩm chất cây trồng. Khi so sánh ảnh hưởng của IMO và phân bón hóa học lên sự tăng
trưởng của lá mầm và hàm lượng chlorophyll trong lá đậu bắp, đậu đũa, và lá cây hạt
kê, tác giả Sekhar and Gopal (2013) đã chỉ ra rằng khi xử lí hạt với IMO giúp hạt nảy
mầm sớm và nhanh hơn, đồng thời cây mầm khỏe hơn so với hạt được xử lí bằng phân
hóa học và đối chứng không xử lí. Hàm lượng chlorophyll cao nhất được xác định ở lá
của các cây được xử lí với hệ IMO, điều này cũng tương tự với năng suất. Các tác giả
đã kết luận rằng ở hàm lượng bón 50 mg.kg-1 IMO vào trong đất làm tăng sinh trưởng
của cây, lá, hạt nảy mầm sớm, tăng năng suất hạt và tăng hàm lượng chlorophyll trong
lá. Ngoài ra tác giả còn ghi nhận số nốt sần ở rễ và kích thước rễ lớn nhất ở các cây
được xử lí với IMO. Tương tự, Koon-Hui et al. (2013) cho thấy IMO đã cải thiện được
sức khỏe và năng suất cây đậu nành, cây ngưu bản, cây hành tây và cây bí ngô trong
đó hiệu quả tốt nhất là trên cây đậu nành. Mặt dù cây bí ngô không hiệu quả với
phương pháp này nhưng làm quả xanh hơn. Bên cạnh đó, các chỉ số về sức khỏe của
đất trồng đậu nành được cải thiện rất nhiều trong khi đất ở các nghiệm thức không
chủng với IMO thì không được cải thiện hoặc cải thiện không đáng kể. Tương tự,
Fotso et al. (2013) cho thấy IMO có hiệu quả trong việc cải thiện năng suất khoai môn
Colocassia esculenta và cải tạo sức khỏe của đất, nhưng không hiệu quả trong việc
kiểm soát bệnh hại trên cây này. Nghiên cứu của Sanchez et al. (2018) cho thấy việc
bổ sung 1L dung dịch IMO với tần suất 4 tuần/1 lần sẽ giúp tăng đáng kể chiều cao
cây và các yếu tố cấu thành năng suất lúa basmati và dẫn đến tăng năng suất thực tế
khi thu hoạch của giống lúa này. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên
cứu trên cây lúa của Sakimin et al. (2017) và Chukwudozie et al. (2020). Đặc biệt khi
148
so sánh hiệu quả của các IMO với nhau trong việc kích thích sinh trưởng cây cải dưa
(Brassica juncea), Keli’ikuli (2018) đã báo cáo rằng IMO thu thập từ tre cho hiệu quả
kích thích sinh trưởng và cho năng suất cao nhất so với các IMO thu thập từ đất trồng
cây khác và so với đối chứng không chủng IMO.
Cải xanh và rau muống là các loại rau ăn lá được sử dụng phổ biến trong các bữa
ăn hàng ngày ở nước ta (Nguyễn Minh Chung và ctv., 2013). Các nghiên cứu cho thấy,
cả hai loại rau này đều có khả năng tích lũy nitrate cao khi được bón phân vô cơ
(Nguyễn Minh Trí và ctv., 2013; Đặng Trần Trung và ctv., 2018). Do đó trong canh tác
rau, việc làm giảm lượng phân đạm lên đến 25% lượng khuyến cáo kết hợp chủng vi
các dòng vi khuẩn cố định đạm TP-1.3, TP-1.4 và MQ-2.5 là cần thiết để giảm hàm
lượng nitrate tích lũy trong rau hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo cây rau sinh trưởng tốt,
cho năng suất cao hơn nghiệm thức bón phân hóa học theo khuyến cáo.
Tóm lại, qua 5 vụ rau trong nhà lưới và 4 vụ rau ở ngoài đồng trên hai đối tượng
là rau muống và cải xanh cho thấy việc bón giảm 25% lượng phân đạm khuyến cáo
cho hai loại rau này kết hợp chủng các dòng vi khuẩn tuyển chọn hoặc hỗn hợp các
dòng vi khuẩn tuyển chọn cho hiệu quả kích thích sinh trưởng và năng suất cây rau rất
tốt so với nghiệm thức chỉ bón phân hoá học theo khuyến cáo. Dòng vi khuẩn TP-1.4
phù hợp kích thích sinh trưởng phát triển và tăng năng suất của cây rau muống, trong
khi dòng vi khuẩn TP-1.3 phù hợp cho cây cải xanh, dòng vi khuẩn MQ-2.5 và hỗn
hợp cả 3 dòng vi khuẩn này phù hợp cho cả 2 đối tượng là rau muống và cải xanh.
Chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA tuyển chọn trong nghiên cứu
này không những giúp giảm được 25% lượng phân đạm hoá học tho khuyến cáo mà
còn làm tăng năng suất rau thêm từ 10-20% đồng thời giảm từ 40-60% lượng nitrate
tích lũy trong rau trong khi vẫn duy trì được lượng đạm tổng số trong rau khi so với
nghiệm thức bón phân NPK theo khuyến cáo. Công thức phân bón cho cây rau muống
và cây cải xanh trồng có chủng các dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA trong
nghiên cứu này lần lượt là 75N-48P2O5-24K2O và 52,5N-48P2O5-24K2O.
149
CHƢƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Có 3 nhóm vi sinh vật chính được tìm thấy trong tổng cộng 20 hệ IMO bản địa
được thu thập từ các mô hình cây trồng khác nhau trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng gồm vi
khuẩn, nấm và xạ khuẩn. Trong đó, vi khuẩn được đánh giá là nhóm vi sinh vật chiếm
ưu thế hơn về mật số và nhóm loài so với hai nhóm còn lại. Ngoài ra, không phát hiện
sự tồn tại của các vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa cho người như Salmonella,
Shigella, E. coli và Coliform trong 20 hệ IMO bản địa được thu thập. Tất cả 20 hệ
IMO trong nghiên cứu này còn có chức năng tổng hợp hormone thực vật IAA và cố
định đạm sinh học với khả năng và cường độ khác nhau và tất cả các hệ IMO này có
chứa gene chức năng nifH cố định đạm sinh học.
Tổng cộng có 44 dòng vi khuẩn phân lập được từ các hệ IMO thu thập có cả hai
chức năng là cố định đạm sinh học và sinh tổng hợp hormone thực vật IAA, trong đó
10 dòng vi khuẩn cố định đạm và tổng hợp IAA cao nhất ký hiệu TP-1.2, TP-1.3, TP-
1.4, MQ-2.1, MQ-2.5, BK-12.3, MT-16.5, OM-17.2, OM-17.5 và CP-18.2 thuộc 5 chi
Pseudomonas, Paraburkholderia, Paenibacillus, Bacillus và Klebsiella và được định
danh lần lượt là Pseudomonas veronii TP-1.2, Paraburkholderia tropica TP-1.3,
Paenibacillus cineris TP-1.4, Bacillus aryabhttai MQ-2.1, Bacillus megaterium MQ-
2.5, Bacillus cereus BK-12.3, Klebsiella pneumoniae MT-16.5, Klebsiella pneumoniae
OM-17.2, Bacillus megaterium OM-17.5 và Pseudomonas boreopolis CP-18.2 dựa
vào kết quả giải trình tự đoạn gen 16S rRNA kết hợp hình thái khuẩn lạc, hình dạng tế
bào, và Gram vi khuẩn.
Các hệ IMO thu thập và dòng vi khuẩn tuyển chọn có hiệu quả tương đương
nhau trong kích thích làm gia tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt rau muống (14%) và hạt cải
xanh (3–5%), cũng như làm gia tăng chiều cao cây mầm, chiều dài rễ và sinh khối tươi
của cây mầm ở điều kiện phòng thí nghiệm. Mật số 106 cfu.mL-1 và 107 cfu.mL-1 là
mật số tối ưu trong việc chủng vào hạt cho hiệu quả kích thích nảy mầm và sinh
trưởng cao nhất lần lượt cho cây rau muống và cải xanh, trong khi đó đối với các hệ
IMO, mức pha loãng từ 500 đến 1.000 lần là mức pha loãng phù hợp nhất giúp kích
thích tỷ lệ nảy mầm hạt và sinh trưởng cao nhất cho cả 2 loại rau.
Các dòng vi khuẩn có hai chức năng cố định đạm sinh học và tổng hợp IAA phân
lập được tuyển chọn cho hiệu quả kích thích sinh trưởng và năng suất cây rau muống
và cải xanh tốt hơn so với các hệ IMO mà chúng được phân lập ở điều kiện nhà lưới và
ngoài đồng. Hai dòng vi khuẩn TP-1.4 và TP-1.3 giúp kích thích sinh trưởng, phát
triển và gia tăng năng suất tốt nhất lần lượt cho cây rau muống và cải xanh, trong khi
dòng vi khuẩn MQ-2.5 và hỗn hợp cả 3 dòng vi khuẩn này kích thích làm tăng sinh
trưởng, phát triển và năng suất tốt nhất cho cả 2 loại rau muống và cải xanh.
150
Việc chủng 3 dòng vi khuẩn cố định đạm sinh học và tổng hợp IAA tuyển chọn
gồm TP-1.4, TP-1.3 và MQ-2.5 giúp giảm được ít nhất 25% lượng phân đạm hoá học
đồng thời giúp tăng năng suất rau thêm 10-20%, đồng thời giúp giảm từ 40-60% lượng
nitrate lưu tồn trong rau khi so sánh với nghiệm thức đối chứng chỉ bón phân NPK
theo khuyến cáo.
5.2 Kiến nghị
Có thể tiến hành khai thác các hệ vi sinh vật bản địa như là nguồn vi sinh dồi
giàu tham gia kích thích sự phát triển cây trồng và cải tạo đất.
Cần có các nghiên cứu đánh giá hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn Paraburkholderia
tropica TP-1.3, Paenibacillus cineris TP-1.4 và Bacillus megaterium MQ-2.5 trên
nhiều đối tượng cây rau ở điều kiện ngoài đồng cũng như đánh giá thêm khả năng
thích nghi và sống sót của 3 dòng vi khuẩn này ở các nhóm đất có đặc tính khác nhau
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của 3 dòng vi khuẩn Paraburkholderia tropica
TP-1.3, Paenibacillus cineris TP-1.4 và Bacillus megaterium MQ-2.5 trong việc giảm
hàm lượng nitrate tích lũy trong các loại rau góp phần tham gia vào quá trình sản xuất
rau an toàn ở tỉnh Sóc Trăng.
Nghiên cứu tạo chế phẩm sinh học hoặc phân sinh học của 3 dòng vi khuẩn tuyển
chọn giúp giảm sử dụng phân bón đạm hóa học, kích thích sinh trưởng và làm tăng
năng suất cây rau trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng, từ đó gia tăng hiệu quả kinh tế, góp
phần tham gia sản xuất nông nghiệp bền vững của tỉnh Sóc Trăng.
Có thể mở rộng đánh giá hiệu quả các dòng vi khuẩn trên các đối tượng cây trồng
khác trong tỉnh Sóc Trăng nhằm phục vụ nhu cầu trồng trọt theo xu hướng thích ứng
với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn của tỉnh Sóc Trăng.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abawi, G.S and T.L Widmer, 2000. Impact of soil health managment practices on soilborne
pathogens, nematodes and root diseases of vegetable crops.Appl. Soil Ecol. 15:37–47.
Abdullah, M.K. and Al-Falih, 2002. Factor affecting the efficiency of symbiotic nitrogen
fixation by Rhizobium. Pakistan Journal Biologycal Sciences 5(11): 1277-1293.
Abu-Bakar, N. and A. Ibrahim, 2013. Indigenous microorganism production and the effect on
283-286; Proceedings Conference 1571, process, AIP
composting
https://doi.org/10.1063/1.4858669.
Adesemoye, A.O., H.A Torbert and J.W. Kloepper, 2009. Plant growth-promoting
rhizobacteria allow reduced application rates of chemical fertilizers. Microb Ecol,
58:921-929.
Food & Agriculture, 6:
Adissie, S., E Adgo and T. Feyisa, 2020. Effect of rhizobial inoculants and micronutrients on
yield and yield components of faba bean (Vicia faba L.) on vertisol of Wereillu district,
South Wollo, Ethiopia. Cogent
1747854.
https://doi.org/10.1080/23311932.2020.1747854.
Ahmad, F., I. Ahmad and M.S. Khan, 2005. Indole acetic acid production by the indigenous
isolates of Azotobacter fluorescent and Pseudomonas in the presence and absence of
tryptophan. Turk. J. of Biol., 29(1): 29-34.
Ahmad, F., I. Ahmad and M.S. Khan, 2008. Screening of free-living rhizospheric bacteria for
their multiple plant growth promoting activities. Microbiol. Res., 163(2): 173-181.
Ahmed, A. Issa, M.H. Abd-Alla and T. Ohyama, 2014. Nitrogen Fixing Cyanobacteria:
Future Prospect in “Advances in Biology and Ecology of Nitrogen Fixation”, Edited by
Takuji Ohyama, ISBN 978-953-51-1216-7, 282 p.
Akbari, G., S.A. Sanavy and S. Yousefzadeh, 2007. Effect of auxin and salt stress (NaCl) on
seed germination of wheat cultivare (Triticum aestivum L.). Pakistan Journal of
Biological Sciences, 10(15): 2557-2561.
Alves, B.J.R., R.M. Boddey and S. Urquiaga, 2004. The success of BNF in soybean in Brazil.
Plant Soil, 252:1-9.
Amann, R.I., W. Ludwig, and K.H. Schleifer, 1995. Phylogenetic identification and in situ
detection of individual microbial cells without cultivation. Microbiol Reviews. 59(1):
143-69.
Anderson, I.C., C.D. Campbell and J.I. Prosser, 2003. Diversity of fungi in organic soils
under moorland Scots pine (Pinus sylvestris L.) gradient. Environmental Microbiology.
5: 1121–1132.
Antoun, H, C.J. Beauchamp, N. Goussard, R. Chabot and R. Lalande, 1998. Potential of
Rhizobium and Bradyrhizobium species as plant growth promoting rhizobacteria on
non-legumes: Effect on radishes (Raphanus sativus L). Plant and Soil, 204(1): 57–67.
Arenz, B.E., B.W. Held, J.A. Jurgens, R.L. Farrell and R.A. Blanchette, 2006. Fungal
diversity in soils and historic wood from the Ross Sea Region of Antarctica. Soil
Biology and Biochemistry, 38: 3057–3064.
152
Asghar, H.N., Z.A. Zahir, M. Arshad, and A. Khaliq, 2002. Relationship between in vitro
production of auxin by rhizobacteria and their growth-promoting activities in Brassica
juncea L. Biology and Fertil Soil, 35: 231-237.
Ash, C., F. Priest and M.D. Collins, 1993. Molecular identification of rRNA group 3 bacilli
(Ash, Farrow, Wallbanks and Collins) using a PCR probe test. Antonie Van
Leeuwenhoek, 64:253–60.
Ash, C., J. Farrow, S. Wallbanks and M. Collins, 1991. Phylogenetic heterogeneity of the
genus Bacillus revealed by comparative analysis of small‑subunit‑ribosomal RNA
sequences. Lett Appl Microbiol.,13: 202–206.
Ashrafuzzaman, M., F.A Hossen, M.R Ismail, M.A Hoque, M.Z Islam, S.M Shahidullah and
S. Meon, 2009. Efficiency of plant growth promoting Rhizobacteria (PGPR) for the
enhancement of rice growth. African Journal of Biotechnology, 8(7): 1247-1252.
Aslam, S., Ali Hussain, Javed Iqbal Qazi, 2016. Dual action of chromium-reducing and
nitrogen-fixing Bacillus megaterium-ASNF3 for improved agro-rehabilitation of
chromium-stressed soils. 3 Biotech, 6: 125-135.
Bakonyi, N., S. Bott, É. Gajdos, A. Szabó, A. Jakab, B. Tóth, P. Makleit, Sz. Veres, 2013.
Using Biofertilizer to improve seed germination and early development of maize. Polish
Journal of Environmental Studies. 22(6):1595-1599.
Bao, Z., K. Sasaki, T. Okubo, S. Ikeda, M. Anda, E. Hanzawa, K. Kaori, S. Tadashi, M.
Hisayuki and K. Minamisawa, 2013. Impact of Azospirillum sp. B510 inoculation on
rice-associated bacterial communities in a paddy field. Microbes Environ 28:487-490.
Barker, G.C., J.J. Smith and D.A. Cowwam, 2003. Review and re analysis of domain specific
16S primers. Journal of Microbiological Method, 55: 541-555.
Barriuso, J. and B.R. Solano, 2008. Ecology, genetic diversity and screening strategies of
plant growth promoting rhizobacteria (PGPR). Journal of Plant nutrition: 1-17.
Bashan, Y., M. Singh and H. Levanovy, 1989. Contribution of Azospirillum brasilence Cd to
growth of tomato seeding is not through nitrogen fixation, Can. J. Bot., 67: 2429-24-34.
Beringer, J.E. and P.R. Hirsch, 1984. Genetic engineering and nitrogen fixation. Biotechnol.
Gen. Engin. Rev., 1: 65-88.
Bharucha, U., U.B. Trivedi and K. Patel, 2013. Optimization of indole acetic acid production
by Pseudomonas putida UB1 and its effect as plant growth-promoting rhizobacteria on
mustard (Brassica nigra). Agric. Res., 2(3): 215–22.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2008. Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN về việc ban
hành “Quy định quản lý, sản xuất , kinh doanh rau, quả và chè an toàn.
Board of Land and Natural Resources State of Hawaii, 2018. Project issuance of right-of-
entry permit to big island resource conservation and development council for the
purpose of conducting research on the efficacy of indigenous microorganisms to confer
resistance to Ohia against rapid Ohia death on State Lands. Puna, Hawaii;.
Boon, N., W.D. Windt, W. Verstraete and E.M. Top, 2002. Evalution of nested PCR-DGGE
(denaturing gradient gel electrophoresis) with group-specific 16S-rRNA primer for
analysis of bacterial communities from different wastewater treatment plants. FEMS
Microbiol Methods 52: 389-393.
153
Borneman, J. and E.C Triplett, 1997. Molecular microbial diversity in soils from eastern
Amazonia: Evidence for unusual microorganisms and microbial population shifts
associated with deforestation. Applied and Environmental Microbiology 63(7): 2647 -
2653
Bottone, E.J., 2010. Bacillus cereus, a volatile human pathogen. Clinical Microbiol Reviews,
23(2):382–398.
Bougoure, D.S.and J.W.G. Cairney, 2005. Fungi associated with hair roots of Rhododendron
lochiae (Ericaceae) in an Australian tropical cloud forest revealed by culturing and
culture-independent molecular methods. Environmental Microbiology, 7: 1743–1754.
Boyd, E.S., J.W. Peters, 2013. New insights into the evolutionary history of bio‑logical
nitrogen fixation. Front Microbiol., 4: 201.
Brandl, M.T. and S.E. Lindow, 1996. Cloning and characterization of a locus encoding an
indolepyruvate decarboxylase involved in indole-3-acetic acid synthesis in Erwinia
herbicola. Appl Environ Microbiol 62: 4121–4128.
Brick, J.M., R.M. Bostock and S.E. Silverstone, 1991. Rapid in situ assay for indole acetic
acid production by bacteria immobilized on nitrocellulose membrane. Appl. Environ.
Microbiol., 57: 535–538.
Broek, A., P. Gysegom, O. Ona, N. Hendrickx, E. Prinsen, J. Van Impe and J. Vanderleyden,
2005. Transcriptional analysis of the Azospirillum brasilense indole-3-pyruvate
decarboxylase gene and identification of a cis-acting sequence involved in auxin
responsive expression. Mol Plant–Microbe Interact, 18: 311–323.
Bùi Thị Khuyên, Hubert Debon và Tô Thị Thu Hà, 2002. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến
năng suất và chất lượng rau cải ngọt, xây dựng đường cong hòa loãng đạm tới hạn cho
rau cải ngọt. Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ về rau quả giai đoạn 2000 -2002.
NXB Nông nghiệp, 218 -225.
Bullock, B., 2006. The role of molybdenum in nitrogenase. Literature seminar, Shelby Hall.
Burgess, B.K. and D.J. Lowe, 1996. The mechanism of molybdenum nitrogenase. Chem.
Rev., 96: 2983-3011.
Burris, R.H., 1991 Nitrogenase. J. Biol. Chem., 266: 9339-9342.
Cai M., J. Yao, H. Yang, R. Wang and K. Masakorala, 2013. Aerobic biodegradation process
of petroleum and pathway of main compounds in water flooding well of dagang oil
field. Bioresour Technol., 144:100–106.
Cantlife, D.J., 1972. Nitrate accumulation in spinach under different light intensities.
J.Am.Soc.Hortic.Sci. 97:152-154.
Cao Ngọc Điệp và Bùi Thị Kiều Oanh, 2006. Hiệu quả vi khuẩn Pseudomonas spp. trên năng
suất và trữ lượng đường trong cây mía đường (Saccharum officinarum L. giống vđnl-7)
trồng trên đất phèn huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, 6:69-76.
Cao Ngọc Điệp và Ngô Thanh Phong, 2016. Công nghệ sản xuất phân sinh học. NXB Đại học
Cần Thơ.
Cao Ngọc Điệp, 2007. Phân lập vi sinh vật tổng hợp kích thích tố tăng trưởng thực vật
(phytohormone) và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, Báo cáo khoa học, Viện nghiên
cứu và Phát triển Công nghệ sinh học, Trường Đại học Cần Thơ.
154
Cao Ngọc Điệp, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Vân Anh và Trần Thị Giang, 2011. Hiệu quả
của phân hữu cơ – vi sinh trên năng suất và chất lượng rau xanh trồng trên đất phù sa tại
tỉnh Long An. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.18b:18-28.
Carrillo-Castañeda G, J.J Muños, J.R. Peralta-Videa, E. Gomez, K.J. Tiemannb, M. Duarte-
Gardea, and J.L. Gardea-Torresdey, 2002. Alfalfa growth promotion by bacteria grown
under iron limiting conditions. Advances in Environmental Research, 6(3):391-399
Chakravorty, S., S. Chakravorty, D. Helb, M. Burday, N. Connell and D. Alland, 2007. A
detailed analysis of 16S ribosomal RNA gene segments for the diagnosis of pathogenic
bacteria. Journal Microbiol Methods. 69(2): 330-339.
Chandra, S., K. Askari and M. Kumari, 2018. Optimization of indole acetic acid production
by isolated bacteria from Stevia rebaudiana rhizosphere and its effects on plant growth.
Journal of Genetic Engineering and Biotechnology, 16: 581–586.
Chen, W.M., E.K. James, T. Coenye, J.H. Chou, E. Barrios, 2006. Burkholderia mimosarum
sp. nov., isolated from root nodules of Mimosa spp. from Taiwan and South America.
Int. J. Syst. Evol. Microbiol., 56:1847–1851.
Chiemela, F.A., L.N. Serafin, L.I. Ricardo and L.N Joseph, 2013b. Application of indigenous
microorganisms (IMO) for bio-conversion of agricultural waste. International Journal
of Science and Research (IJSR) ISSN (Online) 4(5): 2319-7064.
indigenous microorganism (IMO) from
Chiemela, F.A., L.N. Serafin, L.I. Ricardo and L.N. Joseph, 2013a. Isolation and
ifugao bamboo
Characterization of
(Phyllostachys Aurea) forest. International Journal of Science and Research (IJSR),
ISSN (Online) 4(2): 2319-7064.
Choi, G.M., and W.T. Im, 2018. Paraburkholderia azotifigens sp. nov., a nitrogen-fixing
isolated from paddy soil. International Journal of Systematic and
bacterium
Evolutionary Microbiology, 68(1):310-316.
Christiansen, J., D.R. Dean and L.C. Seefeldt, 2001. Mechanistic features of the Mo-
containing nitrogenase. Annu. Rev. Plant physiol. Plant Mol. Biol. 52: 269-295.
Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài và Nguyễn Văn Tố, 2006. Tìm hiểu về chế phẩm vi sinh vật
dùng trong nông nghiệp. NXB Lao Động Hà Nội.
Chukwudozie, O.S., A. Bruno, O. Ikechukwu, U.I. Ude, E. elom, 2020. Study on the effect of
indigenous microorganisms (IMO) and system of rice intensification (SRI) on the
growth of rice plant in nigeria, International Journal of Biology, Pharmacy and Allied
Sciences (IJBPAS), 9(4): 690-705.
Costacurta, A. and J. Vanderleyden, 1995. Synthesis of phytohormones by plant associated
bacteria. Crit. Rev. Microbiol., 21: 1-18.
Cruz, R., G.Yañez-Ocampo and A.Wong-Villarreal, 2014. Effect of nodulating bacteria on
the seed germination of Capsicum spp. African Journal of Microbiology Research, 8(7):
659-663.
Dai, X., K. Shi, X. Wang, J. Fan, R. Wang, S. Zheng, G. Wang, 2019. Paenibacillus flagellate
ssp. nov., isolated from selenium mineral soil. Int. J. Syst. Evol. Microbiol., 69:183–
188.https://doi.org/10.1099/ijsem.0.003125.
Daisuke, K., H. Fumihiko, Y. Etsuo, O. Toshiya, C. Seon-Yong and K. Motoki, 2001.
Biodegradation of long chain n-paraffins from waste oil of car engine by Acinetobacter
sp. Journal of Bioscience and Bioengineering, 91(1): 94-96.
155
Đặng Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Xuân Mỵ và Cao Ngọc Điệp, 2016. Sự sản xuất IAA và
siderophore của các dòng vi khuẩn liên hiệp thực vật và ảnh hưởng lên sự tăng trưởng
của cây bắp (Zea mays L.) trồng trong chậu. Tạp chí trường ĐH Cần Thơ, 47: 59-67.
Đặng Trần Trung, Nguyễn Quang Thạch, Đỗ Tấn Dũng, 2018. Thực trạng dư lượng nitrate
-) trong một số loại rau tại tỉnh Bắc Ninh. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt
(NO3
Nam, 16(1): 1-8.
Davis, J.B., V.T. Coty and J.P. Stanley, 1964. Atmospheric nitrogen fixation by methane
oxidizing bacteria. Journal of Bacteriology, 88: 468-472.
Desiré, T.V., M.R. Fosah, M.H. Desiré and Fotso, 2018. Effect of indigenous and effective
microorganism fertilizers on soil microorganisms and yield of Irish potato in Bambili,
Cameroon. African Journal of Microbiology Research, 12(15): 345-353.
Dhara, P.S., G.C. Hemangi, M.K. Vijay, D.D. Dilip and A.C. Balu, 2009. Isolation and
characterization of indole acetic acid (IAA) producing Klebsiella pneumoniae strains
from rhizophere of wheat (Triticum aestivum) and their effect on plant growth. Indian
Journal of Experimental Biology, 7: 993-1000.
Díaz-Zorita, M. and M.V. Fernández-Canigia, 2009. Field performance of a liquid
formulation of Azospirillum brasilense on dryland wheat productivity. Eur J Soil Biol
45:3-11.
Dinesh K. Maheshwari, S. Kumar, B. Kumar, P. Pandey, 2010, Co-inoculation of urea and
DAP tolerant Sinorhizobium meliloti and Pseudomonas aeruginosaas integrated
approach for growth enhancement of Brassica juncea. Indian J Microbiol. 50(4):425–
431. DOI 10.1007/s12088-011-0085-6.
Ding, Y., J. Wang, Y. Liu and S. Chen, 2005. Isolation and identification of nitrogen-fixing
bacilli from plant rhizospheres in Beijing region. Journal of Applied Microbiology, 99:
1271–1281
Dobritsa, A.P., M. Samadpour, 2016. Transfer of eleven species of the genus Burkholderia to
the genus Paraburkholderia and proposal of Caballeronia gen. nov. to accommodate
twelve species of the genera Burkholderia and Paraburkholderia. Int. J. Syst. Evol.
Microbiol.,66: 2836–2846.
Dokić, L., M. Savić, T. Narančić, and B. Vasiljević, 2010. Metagenomic Analysis of Soil
Microbial Communities. Archives of Biological Science-Belgrade 62(3): 559-564.
Don N.T. and C.N Diep, 2019, Effect of P-K solubilizing bacteria and nitrogen chemical
fertilizer on growth, yield and nitrate leaf of Brassica juncea L. cultivated on acid
sulphate soils. International Journal of Innovations in Engineering and Technology,
14(1):20-28.
Doran, JW, M. Sarrantonio, M.A Liebig, 1996. Soil health and sustainability, Advanced
Agronomy. 56:2–54.
Dung T.V, N. M. Dong and D. M. Vien, 2016. The effect of crop rotation on the structure of
the fungal community colonising rice straw residues in paddy rice cultured soil in the
mekong delta of vietnam. Can Tho University Journal of Science 4: 52-62.
Eady, R.R., 1996. Structure-function relationships of alternative nitrogenases. Chem. Rev. 96:
3013-3030.
156
Eastman, A.W., D.E. Heinrichs, Z.C. Yuan, 2014. Comparative and genetic analysis of the
four sequenced Paenibacillus polymyxa genomes reveals a diverse metabolism and
conservation of genes relevant to plant‑growth promotion and competitiveness. BMC
Genom.,15:851.
Egamberdiyeva, D., 2007. The effect of plant growth promoting bacteria on growth and
nutrient uptake of maize in two different soils. Appl Soil Ecol 36:184-189.
El-Assiouty F.M.M., S.A. Abo-Sedera, 2005. Effect of bio and chemical fertilizers on seed
production and quality of spinach (Spinacia oleracea L.) Int J Agric Biol 7:947–949.
Elsas, J.D.V and J.T Trevors, 1997. Modern Soil Microbiology, New York: Marcel Dekker.
Euzeby, J.P., 1997. List of bacterial names with standing in nomenclature: a folder available
on the Internet. Int. J. Syst. Bacteriol., 47:590–592.
Fakruddin, M. and S.B.K. Mannam, 2013. Methods for Analyzing Diversity of Microbial
Communities in Natural Environments. Ceylon Journal of Science (Bio. Sci.) 42(1): 19-
33.
FAO/WHO, 2004. Fruit and Vegetables for Health. Report of a joint FAO/WHO workshop 1
-3 September 2004, Kobe, Japan, pp: 7.
Fernandes, G.D.C., L.J. Trarbach, S.D. De Campos, A. Beneduzi, L.M.P. Passaglia, 2014.
Alternative nitrogenase and pseudogenes: unique features of the Paenibacillus
riograndensis nitrogen fixation system. Res. Microbiol., 165: 571–80.
Ferreira, A.S., P.R. Pires, P.Q. Rabelo, R.C. Oliveira, J.M.Q. Luz and C.H Brito, 2013.
Implications of Azospirillum brasilense inoculation and nutrient addition on maize in
soils of the Brazilian Cerrado under greenhouse and field conditions. Appl Soil Ecol
72:103-108.
Fischer, S.G and L.S. Lerman 1983. DNA fragments differing by single base-pair
substitutions are separated in denaturing gradient gels – correspondence with melting
theory. Proc Natl Acad Sci USA 80:1579–1583.
Fotso, H.D.M, Djeuani C.A., Fai K. and Omokolo N.D., 2013. Impact of effective and
indigenous microorganisms manures on Colocassia esculenta and enzymes activities.
African Journal of Agricultural Research., 8(12):1086-1092.
Frankenberger, W.T., M. Arshad, 1995. Phytohormones in soil: Marcel Dekker, Inc
Fürnkranz, M., E. Adam, H. Müller, M. Grube, H. Huss, J. Winkler, 2012. Pro‑motion of
growth, health and stress tolerance of Styrian oil pumpkins by bacterial endophytes.
Eur. J. Plant Pathol., 134: 509–19.
Gao, Z., Y. Yuan, L. Xu, R. Liu, M. Chen, 2016. Paraburkholderia caffeinilytica sp. nov.,
isolated from the soil of a tea plantation. Int. J. Syst. Evol. Microbiol., 66: 4185–4190.
Garbeva, P., J.A. van Veen, and J.D. van Elsas, 2004. Microbial diversity insoil: Selection of
implications for disease
doi: type and
Phytopathol. 42:243–70. Annu. Rev.
microbial populations by plant and soil
suppressiveness.
10.1146/annurev.phyto.42.012604.135455.
Gelsomino A., L. Badalucco, R. Ambrosoli, C. Crecchio, E. Puglisi , Salvatore M. Meli,
2006. Changes in chemical and biological soil properties as induced by anthropogenic
disturbance: A case study of an agricultural soil under recurrent flooding by
wastewaters. Soil Biology & Biochemistry 38: 2069–2080.
Gholami, A., S. Shahsavani. and S. Nezarat, 2009. The effect of Plant Growth Promoting
Rhizobacteria (PGPR) on germination, seedling growth and yield of maize.
International Journal of Biological Life Sciences, 1(1): 35-40.
Giovannoni, S.J., T.B. Britschgi, C.L Moyer and K.G Field, 1990. Genetic diversity in
157
Saragasso Sea Bacterioplankton. Nature 345: 60-62.
Gorenjak, H.A and A. Cencic, 2013. Nitrate in vegetables and their impact on human health.
A Review. Acta Alimentaria, 42 (2):158 -172.
Govindarajan, M., J. Balandreau, R. Muthukumarasamy, G. Revathi, C. Lakshminarasimhan,
2006. Improved yield of micropropagated sugarcane following inoculation by
endophytic Burkholderia vietnamiensis. Plant Soil, 280: 239–252.
Grady, E.N., MacDonald J., Liu L., Richman A. and Yuan Z.C., 2016. Current knowledge and
review. Microb Cell Fact, 15:203. DOI
perspectives of Paenibacillus: a
10.1186/s12934-016-0603-7.
Gupta G., S.S. Parihar, N.K. Ahirwar, S.K. Snehi and V. Singh, 2015. Plant growth
promoting rhizobacteria (PGPR): Current and future prospects for development of
sustainable agriculture. Journal of Microbial & Biochemical Technology, 7 (2): 96-102.
Hà Thanh Toàn, Cao Ngọc Điệp, Trần Lê Kim Ngân, Nguyễn Thu Phướng, Mai Thu Thảo và
Bùi Thế Vinh, 2008. Phân lập vi khuẩn phân giải cellulose, tinh bột và protein trong
nước rỉ từ bãi rác ở Thành phố Cần Thơ. Tạp chí trường Đại Học Cần Thơ, 10: 195 –
202.
Hairston, N.G., J.D. Allan, R.K. Colwell, D.J. Futuyma, J. Howell, M.D. Lubin, J. Mathias,
J.H. Vandermeer, 1968. The Relationship between Species Diversity and Stability: An
Experimental Approach with Protozoa and Bacteria. Ecology, 49(6):1091-1101.
Han, Z., Z. Zhang, Y. Dong, M. Yang, 2014. Effects of endophytic bacteria P22 and S16 in
Populuson the rooting and growth of the relative species plants. J. Northeast For
Univ.,42:117–21.
Hanapi, S.Z., N. Supari, S.A.Z. Alam, 2014. Microbial effects on seed germination in
Malaysian rice (Oryza sativa L.). Proceeding of the Asia-Pacific Advanced Network, 37:
42-51.
Harekrushna, S. and S. Abhijita, 2013. Nitrogen fixation and its improvement through genetic
engineering. Journal of Global Biosciences, 2(5): 98-112.
Harper S.H.T. and J.M Lynch, 1980. Microbial effects on the germination and seedling groth
of barley. New Phytol, 84: 473-481.
Harpole, W., 2010. Neutral theory of species diversity. Nature Education Knowledge. 1: 31.
Hartmann, A. and W. Zimmer, 1994. Physiology of Azospirillum. Azospirillum/Plant
Associations (Okon Y, ed). 15–39.
Hasuty, A., A. Choliq and I. Hidayat, 2018. Production of Indole Acetic Acid (IAA) by
subsp. marcescens and Rhodococcus aff. oingshengii.
Serratia marcescens
International Journal of Agricultural Technology, 14(3):299-312.
Heuer, H., M. Krsek, P. Baker, K. Smalla and E.M. Wellington, 1997. Analysis of
actinomycete communities by specific amplification of genes encoding 16S-rRNA and
gel-electrophoretic separation
in denaturing gradients. Applied environmental
microbiology, 63(8): 3233-3241.
triển sản xuất rau sạch.
(https://bnews.vn/soc-trang-quy-hoach-phat-trien-san-xuat-rau-sach/ ngày đăng
11/9/2017 ngày truy cập 20/5/2020)
158
Hillel, D., 2007. Soil in the Environment, 1st Edition crucible of terrestrial life.
Hoài Thu, 2017. Sóc Trăng quy hoạch, phát
Hoàng Thị Thái Hòa, 2009. Nghiên cứu ảnh hưởng của sử dụng các loại phân bón đến hàm
lượng nitrate trong đất và trong một số loại rau ăn lá chính trên đất phù sa huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp bộ, Đại học
Nông Lâm Huế.
Hoben, H. and Somasegaran P., 1982. Comparison of the pour, dpread, and drop plate
methods for enumeration of Rhizobium spp. in inculants made from presterilized peat.
Applied and Environmental Microbiology, 44: 1246-1247.
Hoffmann-Findeklee, C., D. Gadkari and O. Meyer, 2000. Superoxide dependent nitrogen
fixation. In nitrogen fixation: From molecules to crop productivity (ed.) F.O Pedrosa,
M. Hungaria, M.G Yates. Kluwer, W.E. Newton, Boston, 23-30.
Howard, J.B., R. Davis, B. Moldenhauer, V.L. Cash and D. Dean, 1989. FeS cluster ligands
are the only cysteines required for nitrogenase Fe-protein activities. J. Biol. Chem., 264:
11270- 11274. http://dx.doi.org/10.21172/ijiet.141.04.
Hubell, D.H and G. Kidder, 2003. Biological nitrogen fixation. Soil and Water Science
Department, Florida Cooperative Extension Servece, Institute of Food and Agriculture
Sciences, University of Florida.
Hungria, M., M.A. Nogueira and R.S. Araujo, 2013. Co-inoculation of soybeans and common
beans with rhizobia and azospirilla: Strategies to improve sustainability. Biol Fertil
Soils 49: 791-801.
Hungria, M., R.J. Campo, E.M. Souza and F.O. Pedrosa, 2010. Inoculation with selected
strains of Azospirillum brasilense and A. lipoferum improves yields of maize and wheat
in Brazil. Plant and Soil 331:413-425.
Huss-Danell, K., 1990. The physiology of actinorhizal roots. In The Biology of Frankia and
Actinorrhizal Plants. Academic press San Diego, USA. Edited by C.R Schwintzer, J.D
Tjepkema, 128–156.
Hutcheson, S.W. and T. Kosuge, 1985. Regulation of 3-indoleacetic acid production in
Pseudomonas syringae pv. savastanoi– purification and properties of tryptophan 2-
monooxygenase. J. Biol. Chem., 260: 6281–6287.
Ian, L.P; P.G. Charles, 2004. Environmental microbiology. Elsevier Academic Press
Illani, I.Z., Z. Aini and M. Faridah, 2012. Effects of IMO and EM application on soil
nutrients, microbial population and crop yeld. J. Trop. Agric. and Fd. Sc., 40(2): 257-
263.
Isawa, T., M. Yasuda, H. Awazaki, K. Minamisawa, S. Shinozaki and H. Nakashita, 2010.
Azospirillumsp. strain B510 enhances rice growth and yield. Microbes Environ 25:58-
61.
Islam, M.R., T. Sultana, M.M Joe, W. Yim, J.C. Cho and T. Sa, 2013. Nitrogen-fixing
bacteria with multiple plant growth-promoting activities enhance growth of tomato and
red pepper. J. of Basic Microbiol., 53: 1004–1015.
159
Jensen, H., L. Guilaran, R. Jaranilla and G. Garingalao, 2006. Nature farming manual a
handbook of preparations, techniques and organic amendments inspired by Nature
Farming and adapted to locally available materials and needs in the Western Visayas
region of the Philippines. Los Baños Laguna, The Philippines.
Jiménez-Gómez, A., J. David Flores-Félix, P. García-Fraile, P.F. Mateos, E. Menéndez, E.
Velázquez and R. Rivas, 2018. Probiotic activities of Rhizobium laguerreae on growth
and quality of spinach. Scientific Reports 8:295 DOI:10.1038/s41598-017-18632
Joseph, B., R.R. Patra and R. Lawrence, 2007. Characterization of plant growth promoting
rhizobacteria associated with chickpea Cicer arietium. Int. J. plant Prod., 2: 141-152.
Kalsom, U. and M. Sariah, 2006. Utilization of microbes for sustainable agriculture in
Malaysia: current status. Bio prospecting and management of microorganisms. National
Conference on Agro biodiversity conservation and sustainable utilization, pp 27–29.
Kapilan, R. and A.C. Thavaranjit, 2015. Promotion of vegetable seed germination by soil
borne bacteria. Archives of Applied Science Research, 7(8):17-20.
Ke, X., S. Feng, J. Wang, W. Lu, W. Zhang, M. Chen, M. Lin, 2019. Effect of inoculation
with nitrogen-fixing bacterium Pseudomonas Stutzeri A1501 on maize plant growth and
the microbiome indigenous to the rhizosphere. Syst. Appl. Microbiol., 42(2):248-260.
doi: 10.1016/j.syapm.2018.10.010
Keeney and Nelson, 1982. Method in applied soil microbiology and biochemistry. Edited by
Kassem Alef and Paolo Nannipieri. Harcourt brace and company, pp79.
Keli’ikuli, A., 2018. Unraveling the mystery of the natural farming system (Korean): isolation
of bacteria and determining the effects on growth. Thesis for the degree of master of
Science, the university of Hawai’i at Manoa.
Ken, W.J., 2002. BLAST-the BLAST like Alignment Tool. Genome Reseach, 12(4): 656-664.
Ker, K., P. Seguin, B.T. Driscoll, J.W. Fyles, D.L. Smith, 2014. Switchgrass establish‑ment
and seeding year production can be improved by inoculation with rhizosphere
endophytes. Biomass Bioenergy, 47: 295–301.
Khalib, S.N.B., I.A. Zakarya, T.N.T. Izhar., 2018. Composting of garden waste using
indigenous microorganisms (IMO) as organic additive. International Journal of
Integrated Engineering: Special Issue 2018: Innovations in Civil Engineering,
10(9):140-145.
Khalid, A., M. Arshad and Z.A. Zahir, 2004. Screening plant growth-promoting rhizobacteria
for improving growth and yield of wheat. Journal of Applied Microbiology, 96 (3): 473-
480.
Khamna, S., A. Yokota, J.F. Peberdy, S. Lumyong, 2010. Indole-3-acetic acid production by
Streptomyces sp. isolated from some Thai medicinal plant rhizosphere soils. Eur. Asia J.
BioSci., 4: 23-32.
Khan, I., A. Masood and A. Ahmad, 2010. Effect of nitrogen fixing bacteria on plant growth
and yield of Brassica juncea. Journal of Phytology, 2(9): 25-27.
Khuất Hữu Khanh, 2006. Cơ sở di truyền phân tử và kỹ thuật gen. NXB Khoa Học Kỹ Thuật
Hà Nội.
160
Kiều Phương Nam, Bùi Văn Lệ, Trần Minh Tuấn, Hồ Lê Trung Hiếu và Quách Việt Duy,
2010. Nghiên cứu ứng dụng vi khuẩn Methylobacterium ssp. trong việc gia tăng tỷ lệ
nảy mầm của hạt giống cây trồng. Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu khoa học đề tài
cấp Đại học Quốc gia. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
Kirk, J.L, L.A Beaudette, M. Hart, P. Moutoglis, J.N. Klironomos, H. Lee and J.T. Treevors,
2004. Method of studying soil microbial diversity. Journal of Microbiological Method
58: 169-188.
Klipp, W., B. Masepohl, O.R. Gallon and W.E Newton, 2004. Genetics and regulation of
nitrogen fixation in free living bacteria, edited by Werner symbiosis by Klipp, B
Masepohl, R. Ohn, Gallon and W.E. Newton. Kluwar Academic publishers, Dordrecht.
Koon-Hui, W., M. Duponte and K. Chang, 2013. Use of Korean natural farming for vegetable
crop production in Hawai’i. Hanai’ai/The Food Provider.
Kozdrój, J. and J.D. Elsas, 2001. Structural diversity of microbial communities in arable soils
of a heavily industrialised area determined by PCR-DGGE fingerprinting and FAME
profiling. Applied Soil Ecology, 17: 31–42.
Krishnaswamy V. and D.V Seshu, 1990. Germination after accelerated ageing and associated
characters in rice varieties. Seed Science and Technology, 18:147-15.
Kucuk, C. and C. Cevheri, 2016. Indole acetic acid production by Rhizobium sp. isolated from
pea (Pisum sativum L. ssp. arvense) Bezelye (Pisum sativum L. ssp. arvense)’den izole
edilen Rhizobium sp. Tarafından İndol Asetik Asit Üretimi. Turk. J. Life Sci., 1(1): 043-
045.
Kumar, B.L. and D.V.R Sai Gopal, 2015. Effective role of indigenous microorganism for
sustainable environment. Biotech., 5: 867-876.
Kyu, C.H. and A. Koyama, 1997. Korean nature farming. Indigenous microorganisms and
vital power of crop/livestock. Korean Nature Farming Association Publisher. 173
pages. (Special issue on Agriculture): 39-48.
Kyu, C.H., 2003. Natural farming. Janong Natural Farming Institute, Chungbuk, Republic of
Korea.
Lai Quốc Chí, Nguyễn Thị Dơn và Cao Ngọc Điệp, 2012. Tuyển chọn và nhận diện vi khuẩn
cố định đạm (có khả năng hòa tan lân và kali) phân lập từ vật liệu phong hóa của vùng
núi đá hoa cương tại núi cấm, tỉnh an giang. Tạp chí trường Đại Học Cần Thơ, 10: 605-
618.
Lane. D.J., 1991. 16S/23S rRNA sequencing. In: Nucleic acid techniques in bacterial
systematics. Editors by Stackebrandt E., Goodfellow M., . Chichester, United Kingdom:
John Wiley & Sons, 115–175.
Larena, I., O. Salazar, V. Gonzalez, M.C. Julian and V. Rubio, 1999. Design of a primer for
ribosomal DNA internal transcribed spacer with enhanced specificity for ascomycetes.
Journal of Biotechnology 75(2-3): 187-194.
rhizosphere, Front. Microbiol. (1-20). 1268 8:
Lê Thị Khánh, 2009. Giáo trình Cây rau. Trường Đại Học Nông Lâm Huế.
Li, H.B., R.K. Singh, P. Singh, Q.Q. Song, Y.X. Xing, L.T. Yang and Y.R. Li, 2017. Genetic
diversity of nitrogen-fixing and plant growth promoting Pseudomonas species isolated
doi:
sugarcane
from
10.3389/fmicb.2017.01268
161
Li, Y., Y. Li, H. Zhang, M. Wang, S. Chen, 2019. Diazotrophic Paenibacillus beijingensis
BJ-18 provides nitrogen for plant and promotes plant growth, nitrogen uptake and
metabolism. Front Microbiol 10:1119. https://doi.org/10.3389/fmicb.2019.01119.
Lifshitz, R., J.W. Kloepper, M. Kozlowski, C. Simson, J. Carlson, B. Tipping and I. Zeleska,
1987. Growth promotion of calona (rapeseed) seedling by straint of Pseudomonas
putida under gnobiotic conditions, Can J Microbiol, 33: 390-395.
Liu, J., Y. Yu, Z. Cai, M. Bartlam, Y. Wang, 2015. Comparison of ITS and 18S rDNA for
estimating fungal diversity using PCR–DGGE. World Jour Microbiol Biotechnology,
DOI 10.1007/s11274-015-1890-6.
Liu, X., Q. Li, Y. Li, G. Guan and S. Chen, 2019. Paenibacillus strains with nitrogen fixation
and multiple beneficial properties for promoting plant growth. PeerJ, DOI
10.7717/peerj.7445.
Loper, J.E. and M.N. Schroth, 1986. Influence of bacterial source of indole-3-acetic acid on
root elongation of sugar beet, Phytopathology, 76: 386-389.
Lv Y.Y., M.H. Chen, F. Xia, J. Wang, L.H. Qiu, 2016. Paraburkholderia pallidirosea sp.
nov., isolated from a monsoon evergreen broad-leaved forest soil. Int. J. Syst. Evol.
Microbiol., 66:4537–4542.
MacNaughton, S.J., J.R. Stephen, A.D. Venosa, G.A. Davis, Y.J. Chang and D.C. White,
1999. Microbial population changes during bioremediation of an experimental oil spill.
Applied and Environmental Microbiology 65: 3566–3574.
Malik, K.A., and Y. Zafar, 1985. Quantification of root associated nitrogen fixation in kallar
grass as estimated by 15N isotope dilution. Nitrogen and the Environment (Malik. M.A.,
S.H.M. Nagvi. and M.I.H Aleem. Eds). NIAB. Faisalabad, Pakistan, 21:161-171.
Malik, K.A., G. Rasul, U. Hassan, S. Mehnaz and M. Ashraf, 1994. Role of the N2-fixing and
growth hormones producing bacteria in improving growth of wheat and rice In N. A.
Hegazi; fayez, Monib (eds.), Nitrogen Fixation with non legumes. Cairo University
Press, Giza, Egypt. pp 409-420.
Mazumdar, A. and M. Deka, 2013. Isolation of free living nitrogen fixing bacteria from crude
oil contaminated soil. International Journal of Bio-Technology and Research., 3: 69-76.
Mazzola, M. and F.F. White, 1994. A mutation in the indole-3-aceticacid biosynthesis
in phaseolus vulgaris and
pathway of Pseudomonas syringae affects growth
syringomycin production. J. Bacteriol., 176: 1374–1382.
Mbouobda, H.D., Fotso, C.A. Djeuani, K. Fai1 and N.D. Omokolo, 2013. Impact of effective
and indigenous microorganisms manures on Colocassia esculenta and enzymes
activities. African Journal of Agricultural Research, 8(12): 1086-1092.
McDowell, R.H., E.M. Sands and H. Friedman, 2020. Bacillus Cereus. StatPearls Publishing
LLC.
McLaren, A.D. and J. Thornton, 1975. Enzymatic characterization of soil evidence. Journal of
Forensic Sciences, 20(4): 674-692.
Mehta, S. and C.S. Nautiyal, 2001. An efficient method for qualitative screening of
phosphate-solubilizing bacteria. Current Microbiology, 43: 51-56.
162
Meliani, A., A. Bensoltane and K. Mederbel, 2012. Microbiol diversity and abundance in soil:
related to plant and soil type. American Journal of Plant Nutrition and Fertilization
Technology 2 (1): 10-18.
Miller, K.M., T.J. Ming, A.D. Schulze and R.E. Withler, 1999. Denaturing gradient gel
electrophoresis (DGGE): a rapid and sensitive technique to screen nucleotide sequence
variation in populations. BioTechniques 27: 1016– 1030.
Mohammadi, K., Y. Sohrabi, G. Heidari, S. Khalesro and M. Majidi, 2012. Effective factors
on biological nitrogen fixation. African Journal of Agricultural Research, 7(12): 1782-
1788.
Mohite, B., 2013. Isolation and characterization of indole acetic acid (IAA) producingbacteria
from rhizospheric soil and its effect on plant growth. J Soil Sci Plant Nutr;13(3):638–
49.
Molina, F., E. López-Acedo, R. Tabla, I. Roa, A. Gómez and J.E. Rebollo, 2015. Improved
detection of Escherichia coli and Coliform bacteria by multiplex PCR. BMC
Biotechnology, 15:48, DOI 10.1186/s12896-015-0168-2 15(48): 1-9.
Monica, N., V. Roxana, P. Rodica and R. Loan, 2013. Stress factors affecting symbiosis
activity and nitrogen fixation by Rhizobium cultured in vitro. ProEnvironment, 6: 42 –
45.
Muthukumarasamy, R., G. Revathi and M. Vadivelu, 2000. Acetobacter diazotrophicus:
prospects and potentialities– an overview. In recent advances in biofertilizer technology,
society for promotion & utilization resources & technology, New Delhi. Edited by
Yadav AK, Motsara MR, Ray Chaudhury S, 126–153.
Muyzer G., T. Brinkhoff, U. Nubel, C. Santegoeds, H. Schafer and C. Wawer, 2004.
Denaturing gradient gel electrophoresis (DGGE) in microbial ecology. In: Kowalchuk
G.A., de Bruijn F.J., Head I.M., Akkermans A.D.L., van Elsas J.D. (eds): Molecular
Microbial Ecology Manual. Kluwer Academic Publishers Dordrecht, 743–769.
Muyzer, G. and K. Smalla, 1998. Application of denaturing gradient gel electrophoresis
(DGGE) and temperature gradient gel electrophoresis (TGGE) in microbial ecology.
Antonie Van Leeuwenhoek. 73(1): 127-141.
Muyzer, G., 1999. DGGE/TGGE a method for identifying genes from natural ecosystems.
Current Opinion in Microbiology. 2(3): 317-322.
Muyzer, G., E.C de Waal, A.G. Uitterlinden, 1993. Profiling of complex microbial
populations by denaturing gradient gel electrophoresis analysis of polymerase chain
reaction-amplified genes coding for 16S-rRNA. Appl Environ Microbiol. 59(3):695-
700.
Muyzer, G., S. Hottentrfiger, A. Teske and C. Wawer, 1996. Denaturant gradient gel
electrophoresis of PCR amplified l6S rDNA - A new molecular approach to analyse the
genetic diversity of mixed microbial communities. In: Molecular microbial ecology
manual. A.D.L. Akkermans, J.D. van Elsas and F.J. DeBruijn (Eds.). Dordrecht, kluwer
Academic publishers.
Myo, E.M., B. Ge, J. Ma, H. Cui, B. Liu, L. Shi, M. Jiang and K. Zhang, 2019. Indole-3-
acetic acid production by Streptomyces fradiae NKZ-259 and its formulation to enhance
plant growth. BMC Microbiology, 19:155, https://doi.org/10.1186/s12866-019-1528-1.
Ngô Thế Dân, Nguyễn Ngọc Quyên, Nguyễn Kim Vũ, 2016. Phân vi khuẩn nốt sần và cách
163
sử dụng cho cây đậu đỗ. NXB Nông nghiệp.
Nguyễn Anh Huy và Nguyễn Hữu Hiệp, 2018. Phân lập và nhận diện các dòng vi khuẩn chịu
mặn có khả năng cố định đạm và tổng hợp IAA từ đất sản xuất lúa - tôm ở Bạc Liêu,
Sóc Trăng và Kiên Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 54 (1b): 7-12.
Nguyễn Cẩm Long, 2014. Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật sản xuất cải xanh an toàn theo
hướng VietGap ở tỉnh Quảng Bình. Luận án tiến sĩ nông nghiệp. Trường Đại học Huế.
Nguyễn Cẩm Long, Nguyễn Minh Hiếu, Trần Đăng Hòa, 2012. Khảo nghiệm một số giống
cải xanh (Brassica juncea L.) phục vụ sản xuất rau tại Quảng Bình. Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, 3:141 – 146.
Nguyễn Cẩm Long, Nguyễn Minh Hiếu, Trần Đăng Hòa, 2013. Ảnh hưởng của mật độ trồng
đến sinh trưởng, năng suất và hàm lượng nitrate đối với cải xanh (Brasica juncea L.) tại
Quảng Bình, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 7:61-67.
Nguyễn Đức Lượng, Phạm Thị Huyền và Nguyễn Ánh Tuyết., 2003. Thí nghiệm vi sinh vật
học. NXB ĐH Quốc Gia TPHCM.
Nguyễn Hữu Hiệp và Cao Ngọc Điệp, 2012. Vi sinh vật học môi trường. NXB Đại học Cần
Thơ.
Nguyễn Hữu Hiệp và Hà Anh Đức, 2009. Phân lập các dòng vi khuẩn cố định đạm và hòa tan
lân cho đậu phộng trồng ở Trà Vinh. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ,
11:123-133.
Nguyễn Hữu Hiệp và Nguyễn Thị Mai Khanh, 2010. Phân lập và nhận diện một số chủng vi
khuẩn cố định nitơ trên cây bắp. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 16a:151-
156.
Nguyễn Hữu Hiệp và Trần Thị Tuyết Linh, 2009. Hiệu quả của vi khuẩn cố định đạm và hòa
tan lân lên năng suất đậu phộng trồng trên đất giồng cát tỉnh Trà Vinh. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, 11:134-145.
Nguyễn Hữu Hiệp, Ngô Ngọc Hưng và Lâm Bạch Vân, 2012. khả năng cố định đạm của
chủng vi khuẩn Azospirillum lipoferum R29b1 có kết hợp các liều lượng phân đạm khác
nhau lên sự sinh trưởng và năng suất trên cây lúa trong điều kiện nhà lưới. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ :21b 171-178.
Nguyễn Hữu Hiệp, Phạm Thị Khánh Vân, Trần Văn Chiêu, Đào Thanh Hoàng và Nguyễn
Khắc Minh Loan, 2005. Phân lập và nhận diện các dòng vi khuẩn Azospirillum bằng kỹ
thuật PCR. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 4: 119-126.
Nguyễn Khởi Nghĩa, 2017. Nghiên cứu sản xuất chế phẩm vi khuẩn chịu mặn làm tăng năng
suất lúa ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công
nghệ cấp bộ.
Nguyễn Khởi Nghĩa, Đỗ Hoàng Sang, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Nguyễn Thị Tố Quyên, Lâm
Tử Lăng và Dương Minh Viễn, 2015. Hiệu quả phân hủy sinh học hoạt chất propoxur
trong đất bởi dòng vi khuẩn phân lập Paracoccus sp. P23-7 cố định trong biochar. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 40: 90-98.
Nguyễn Lân Dũng, 1984. Vi sinh vật đất và sự chuyển hóa các hợp chất cacbon, nitơ. NXB
Khoa học và Kỹ thuật.
Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đình Quyến và Phạm Văn Ty, 2001. Vi sinh vật học. NXB Giáo
164
Dục.
Nguyễn Lệ Phương, Nguyễn Võ Châu Ngân, Nguyễn Hữu Chiếm, 2019. Khảo sát sự tích lũy
nitrate trong rau muống (Ipomoea aquatica)và cải xanh (Brassica juncea L.) khi tưới
bằng nước thải từ hầm ủ biogas. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 61(2):47-
54.
Nguyễn Minh Chung, Trần Khắc Thi, Nguyễn Khắc Thái Sơn, Hoàng Minh Châu, Nguyễn
Thị An, 2012. Xác định loại dung dịch dinh dưỡng thích hợp để trồng thủy canh một số
loại rau ăn lá. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 10(2):37-42.
Nguyễn Phong, 2020. Sóc Trăng tận dụng lợi thế phát triển nông nghiệp.
https://nhandan.org.vn (ngày đăng 8/1/2020, ngày truy cập 20/5/2020)
Nguyễn Thành Đạt và Nguyễn Duy Thảo, 1986. Vi sinh vật học. NXB Giáo Dục. Hà Nội.
Nguyễn Thị Huỳnh Như, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Minh Đời, Trần Nguyễn Nhật Khoa và
Thái Trần Phương Minh, 2013. Phân lập các dòng vi khuẩn nội sinh có khả năng tổng
hợp IAA và cố định đạm trên cây chuối. Tạp chí Trường Đại học Cần thơ, phần B Nông
nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học, 27: 24-31.
Nguyễn Minh Trí, Nguyễn Hạnh Trinh, Nguyễn Việt Thắng, Nguyễn Thị Hoàng Phương,
2013. Khảo sát tình hình sản xuất và dư lượng nitrate trên một số sản phẩm rau xanh vụ
xuân - hè tại hợp tác xã Hương Long, Thành phố Huế, Hội nghị Khoa học toàn quốc về
sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, Hà Nội.
Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2009. Khảo sát ảnh hưởng của các dòng vi khuẩn vùng rễ có khả
năng tổng hợp IAA, được phân lập từ vùng đất trồng rau tại Tiền Giang đến sinh trưởng
của cây rau muống. Báo cáo đề tài cấp trường. Trường ĐH Cần Thơ.
Nguyễn Thị Ngọc Trúc, 2011. Tuyển chọn các dòng vi khuẩn cố định đạm, hòa tan lân, tổng
hợp IAA, để làm phân bón cho rau ở Tiền Giang. Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường ĐH
Cần Thơ.
Nguyễn Thị Pha, Nguyễn Thị Phương Oanh và Nguyễn Hữu Hiệp, 2014a. Khả năng đối
kháng nấm Pyricularia oryzae của vi khuẩn sinh chitinase phân lập từ đất vùng rễ lúa.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 31: 7-11.
Nguyễn Thị Pha, Trần Đình Giỏi và Nguyễn Hữu Hiệp, 2014b. Ảnh hưởng của hai dòng vi
khuẩn vùng rễ PH27 và TN20 đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống lúa
OM10424 ở điều kiện ngoài đồng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 32: 27-
32.
Nguyễn Thị Phương Oanh, Trần Bửu Minh và Nguyễn Thị Pha, 2013. Phân lập và tuyển chọn
một số dòng vi khuẩn đất vùng rễ lúa có khả năng cố định đạm và tổng hợp IAA. Tạp
chí Trường Đại học Cần thơ, phần B Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học:
26: 82-88.
Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 1999. Sổ tay người trồng rau. NXB Nông
Nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Thị Thủy, 2015. Tuyển chọn vi khuẩn Azotobacter có khả
năng cố định nitơ và sinh tổng hợp IAA. Tập chí Khoa học và công nghệ lâm nghiệp, 4:
3-9.
Nhu, N.T.H and N. Riddech, 2016. Effects of rhizobacteria on seed germination of water
165
spinach (Ipomoea aquatica). KKU Res.J. 21(2): 280-290.
Nhu, N.T.H, N.L. Chuen and N. Riddech, 2018. The effects bio-fertilizer and liquid organic
fertilizer on the growth of vegetables in the pot experiment. Chiang Mai J. Sci. 45(3):
1257-1273.
Niemi, R. Maarit; Heiskanen, Ilse; Wallenius, Kaisa and lindström, Kristina, 2001. Extraction
and purification of DNA in rhizosphere soil samples for PCRDGGE analysis of
bacterial consortia. Journal of Microbiological Methods, 45(3):155-165.
Novia,D., A. Rakhmadi, E. Purwati, I. Juliyarsi, R. Hairani and F. Syalsafilah, 2019. The
characteristics of organic fertilizer made of cow feces using the indigenous micro-
organisms (IMO) from raw manures.
Oberhansli, T., G. Défag and D. Haas, 1991. Indole-3-acetic acid (MA) synthesis in the
biocontrol strain CHAO of Pseudomonas fluorescens: role of tryptophan side chah
oxidase. J. Gen. Microbiol., 37(1): 2273-2279.
Ona, O., I. Smets, P. Gysegom, K. Bernaerts, J. Van Impe, E. Prinsen and J. Vanderleyden,
2003. The effect of pH on indole-3-acetic acid (IAA) biosynthesis of Azospirillum
brasilense Sp7. Symbiosis, 35: 199–208.
Ona, O., J. Van Impe, E. Prinsen and J. Vanderleyden, 2005. Growth and indole-3-acetic acid
biosynthesis of Azospirillum brasilense Sp245 is environmentally controlled. FEMS
Microbiol. Lett., 246: 125–132.
Pandey, P., and D.K. Maheshwari, 2007. Commensalism between Sinorhizobium and
Burkholderia in binary-culture consortium for plant growth promotion. Curr. Sci. 92:
1137–1142.
Pankaj, K., R.C. Dubey and D.K. Maheshwari, 2012. Bacillus strains isolated from
rhizosphere showed plant growth promoting and antagonistic activity against
phytopathogens. Microbiological Research, 167(8): 493-499.
Patriquin, D.G., J. Dobereiner and D. K Jain, 1983. Sites and processes of association
between diazotrophs and grasses, Can. J. Microbiol., 29: 900-915.
Patten, C. and B.R. Glick, 1996. Bacterial biosynthesis of indole-3-acetic acid Canadian
Journal of Microbiology, 42: 207-220.
Patten, C.L. and B.R. Glick, 2002. Role of Pseudomonas putida indole acetic acid in
development of the host plant root system. Appl, Environ, Microbiol., 68: 3795–3801.
Perley, J.W. and B.B. Stowe, 1966. The ability of Taphrina deformans to produce
indoleacetic acid from tryptophan by way of tryptamine. Plant Physiol., 41: 234-237.
Phạm Chí Thành và Ka Nin H’dok, 2002. Sử dụng phân vi sinh vật bản địa trong việc trồng
và chăm sóc cà phê ở Dak Lak. Khoa học-ứng dụng. 52-52.
Phạm Thị Ngọc Lan, Lý Kim Bảng, 2004. Bước đầu tìm hiểu vi khuẩn cố định nitơ trong đất
trồng lúa ở Thừa Thiên Huế, Tạp chí sinh học, 25(1A): 164-168.
Phạm Thị Ngọc Lan, Trần Thị Thanh Nhàn, 2008. Điều kiện nuôi cấy tối ưu cho sinh trưởng
và phát triển của một số chủng nấm mốc hòa tan phosphate vô cơ. Tạp chí khoa học Đại
học Huế, 48: 103-108.
166
Pham Tien Dung and Y ka Nin H’ dok. 2009. Microbial organic fertilizer application for safe
coffee production at Daklak, Vietnam. International Society for Southeast Asian
Agricultural Sciences. 15(1): 22-31.
Phạm Văn Toản, 2002. Báo cáo kết quả đề tài KHCN.02.06: Nghiên cứu áp dụng công nghệ
mới nhằm mở rộng việc sản xuất, ứng dụng phân VSV cố định đạm và phân giải lân
phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững. Hội nghị tổng kết các chương trình khoa học
và công nghệ cấp Nhà nước giai đoạn 1996-2000. Hà Nội.
Phạm Xuân Lân, 2007. Luận Văn Thạc Sỹ. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân hữu
- của rau cải bắp và hóa tính đất trồng rau tại
cơ vi sinh tới năng suất, hàm lượng NO3
Thị xã Hà Giang. Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Phillips, L.A., J.J Germida, R.E Farrell and C.W. Greer, 2008. Hydrocarbon degradation
potential and activity of endophytic bacteria associated with prairie plants. Soil Biology
and Biochemistry, 40: 3054–3064.
Phua, C.K.H., A.N.A Wahid and K.A Rahim, 2012. Development of multifunctional
biofertilizer formulation from indigenous microorganisms and evaluation of their n2-
fixing capabilities on Chinese cabbage using 15N tracer technique. Pertanika J. Trop.
Agric. Sci., 35(3): 667 – 674.
Poly, F., L. Ranjard, S. Nazaret, F. Gourbière and L.J. Monrozier, 2001b. Comparison of nifH
gene pools in soils and soil microenvironments with contrasting properties. Applied and
Environmental Microbiology, 67(5): 2255-2262.
Poly, F., L.J. Monrozier and R. Bally, 2001a. Improvement in the RFLP procedure for
studying the diversity of nifH genes in communities of nitrogen fixers in soil. Res.
Microbial., 152: 95-103.
Postgate, J., 1998. Nitrogen fixation. 3rd Edition, Cambridge university Press, Cambridge
UK.
Priest, F.G., M. Goodfellow, C. Todd, 1988. A numerical classification of the genus Bacillus.
J, Gen, Microbiol., 134: 1847–82.
Prinsen, E., A. Costacurta, K. Michiels, J. Vanderleyden and H. Van Onckelen. 1993.
Azospirillum brasilense indole-3-acetic acid biosynthesis: evidence for a non-tryptophan
dependent pathway. Mol. Plant Microbe. Interact., 6: 609–615.
Puri, A., K.P. Padda, C.P. Chanway, 2016. Evidence of nitrogen fixation and growth
promotion in canola (Brassica napus L.) by an endophytic diazotroph Paenibacillus
polymyxa P2b-2R. Biol. Fertil. Soils 52: 119-125. https://doi.org/10.1007/s00374-015-
1051-y
Raymond, J., J.L. Siefert, C.R. Staples and R.E. Blankenship, 2003. The Natural History of
Nitrogen Fixation. Mol. Biol. Evol., 21(3): 541-554.
Reddy, R., 2011. Cho’s Global natural Farming. South Asia rural reconstruction association.
(SARRA), Karnataka, India.
Rees, D.C., F. A. Tezcan, C.A. Haynes, M.Y. Walton, S. Andrade, O. Einsle and J.B.
Howard, 2005. Structural basis of biological nitrogen fixation. Royal Soc., 1829: 971-
984.
167
Rivas, R., G. Carmen, A. Abril, P.F. Mateos, M. Eustoquio, A. Ventosa, A and V. Encarn,
2005. Paenibacillus rhizosphaerae sp. nov., isolated from the rhizosphere of Cicer
arietinum. International Journal of Systematic and Evolutionary Microbiology, 55:
1305–1309.
Roberts, G.P., T. Macneil, D. Macneil and W.J. Brill, 1978. Regulation and characterization
of protein products coded by the nif genes of Klebsiella pneumoniae. J. Bacteriol., 136:
267- 279.
Robertson, G.P. and P.M. Groffman, 2015. Nitrogen transformations. In: E. A. Paul, (Ed.).
Soil microbiology, ecology and biochemistry. Fourth edition. Academic Press,
Burlington, Massachusetts, USA. pp. 421-446.
Rodrigues, A.A., M.V. Forzani, R.S.Soares, S.T. Sibov and J.D.G. Vieira, 2016. Isolation and
selection of plant growth-promoting bacteria associated with sugarcane. Agropec. Trop.,
Goiânia, 46(2): 149-158.
Rojas-Rojas F.U., E.Y. Tapia-García, M. Maymon, E. Humm, M. Huntemann , A. Clum, M.
Pillay, K. Palaniappan, N. Varghese, N. Mikhailova, D. Stamatis , T.B.K. Reddy, V.
Markowitz, N. Ivanova, N. Kyrpides, T. Woyke, N. Shapiro, A.M. Hirsch, and P.E.-de
los Santos, 2017. Draft genome of Paraburkholderia caballeronis TNe-841T, a free-
living, nitrogen-fixing, tomato plant-associated bacterium. Standards in Genomic
Sciences 12:1-8.
Ryu, R. and C.L Patten, 2008. Aromatic amino acid-dependent expression of indole-3-
pyruvate decarboxylase is regulated by 4 TyrR in Enterobacter cloacae UW5. American
Society for Microbiology, 190 (21): 1-35.
Saharan, B.S. and V. Nehra, 2011. Plant Growth Promoting Rhizobacteria: A Critical Review.
Life Sciences and Medicine Research, 21: 1-30.
Sakimin, S.Z., N.A. Rahim, A.S. Raimi, M.A Alam and F. Aslani, 2017. Effects of
indigenous microorganism and system of rice intensification formulation on growth,
physiology, nutrient uptake and rice yield. Bangladesh J. Bot. 46(1): 433-438.
Sanchez, R. G., D.S. Barrientos and J.L. Galindez, 2018. Effect of indigenous microorganism
extended solution (IMO-ES) on basmati rice. International Journal of Agricultural
Technology, 14(7): 1871-1882.
Sangakkara, U.R. and A.M.U. Attanayake, 1993. Effect of EM on gernination and seedling
growth of rice. In J. F. Parr, S. B. Hornick, M.E. Simpson (ed) Third International
Conference on Kyusei Naturing farming. California, U.S.A. 223-227.
Santos, P.C.D., D.R. Dean, Y.L. Hu and M.W Ribbe, 2004. Formation and insertion of
nitrogenase iron-molybdenum cofactor. Chem. Rev.,104: 1159-1173.
Sarkar, A., P.K. Ghosh, K. Pramanik, S. Mitra, T. Soren, S. Pandey, M.H. Mondal and T.K.
Maiti, 2018. A halotolerant Enterobacter sp. displaying ACC deaminase activity
promotes rice seedling growth under salt stress. Research in Microbiology, 169: 20-32.
Sarwar, M. and W.T.Frankenberger, 1994. Influence of L-tryptophan and auxins applied to
the rhizosphere on the vegetative growth of Zea mays L. Plant and Soil, 160(1): 97-104.
Sawana A, Adeolu M, Gupta RS., 2015. Molecular signatures and phylogenomic analysis of
the genus Burkholderia: proposal for division of this genus into the emended genus
Burkholderia containing pathogenic organisms and a new genus Paraburkholderia gen.
nov. harboring environmental species. Frontiers in genetics 5:429
168
Saxena, A.K and K.V.B.R Tilak, 1998. Free-living nitrogen fixers: Its role in crop production.
In microbes for health, wealth and sustainable environment, malhotra publ co, New
Delhi. Edited by Verma AK, 25–64.
Schwintzer, R. and J.D. Tjepkema, 1990. The Biology of Frankia and Actinorrhizal Plants.
Academic Press Inc. San Diego, USA, 99. 39.
Sekhar, M.S., and V.R.S. Gopal, 2013. Studies on indigenous microorganisms (IMOs)
increasing growth of leaves germination, chlorophyll content and differentiation
between IMOs and chemical fertilizers in various crop plants. International Journal of
Emerging Technologies in Computational and Applied Sciences (IJETCAS) 4(3): 313-
318.
Shamseldin, 2013. The role of different genes involved in symbiotic nitrogen fixation-review.
Global Journal of Biotechnology and Biochemistry, 8(4): 84-94.
Shaukat, K., S. Afrasayab and S. Hasnain, 2006. Growth responses of Helianthus anus to
plant growth promoting rhizobacteria used as a biofertilizer. Journal of Agricultural
Research, 1(6): 573-581.
Sheela, T., P. Usharani, 2013. Influence of plant growth promoting rhizobac‑teria (PGPR) on
the growth of maize (Zea mays L.). Gold Res Thoughts, 3:629–40.
of Agronomy, Volume Journal 2012,
Shekhawat, K., S.S. Rathore, O.P. Premi, B.K. Kandpal and J.S. Chauhan, 2012. Advances in
agronomic management of indian mustard (Brassica juncea (L.) Czernj. Cosson): An
1-14.
International
Overview.
doi:10.1155/2012/408284.
Sheu, S.Y., J.H. Chou, C. Bontemps, N.Geoffrey, Elliott, E. Gross, F. B.D.R Junior, R.
Melkonian, L. Moulin, E.K. James, J.I. Sprent, J.P.W. Young and W.M Chen, 2013.
Burkholderia diazotrophic sp. nov., isolated from root nodules of Mimosa spp. Int J Syst
Evol Microbiol;63:435–441.
Silvaa, D.R.A., J. L. Simões-Araújo, M.S. Vidal, L.M. Cruz, E. M. de Souzab, J.I. Baldani,
2018. Draft genome sequence of Paraburkholderia tropica Ppe8 strain, a sugarcane
endophytic diazotrophic bacterium. Brazilian Journal of Microbiology, 49: 210–211.
Smil, V., 2001. Enriching the Earth: Fritz Haber, Carl Bosch, and the transformation of world
food production. Cambridge, MA, The MIT Press, ISBN 0-262-19449-X
Sở Khoa Học Và Công Nghệ Tỉnh Sóc Trăng, 2019. Tổng kết ngành Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn năm 2018. (https://sokhcn.soctrang.gov.vn ngày đăng ngày
13/2/2019 truy cập ngày truy cập 20/5/2020)
Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Sóc Trăng, 2018. Tổng kết ngành nông
nghiệp năm 2018, phương hướng, nhiệm vụ năm 2019.
Smita, M., and D. Goyal, 2017. Isolation and characterization of free-living nitrogen fixing
bacteria from alkaline soils. International Journal of Scientific World, 5(1): 18-22.
Smith, R.L., S,C. Schank, J.H. Bouton and K.H. Quesenberry, 1978. Yield increases of
tropical grasses after inoculation with Spirillum lipoferum, Ecological Bulletins. 26:
380-385.
Somasegaran, P., 1994. Handbook for rhizobia: methods in legume-rhizobium technology.
New York: Springer-Verlag. 1–6, 167.
169
Son, T.T.N., C.N. Diep, T.T.M. Giang, 2006. Effect of Bradyrhizobia and Phosphate
solubilizing bacteria application on soybean in rotational system in the Mekong delta.
Omonrice, 14: 48-57.
Souza, R., J. Meyer, R. Schoenfeld, P.B. da Costa, L.M.P. Passaglia. 2014. Char‑acterization
of plant growth‑promoting bacteria associated with rice cropped in iron‑stressed soils.
Ann. Microbiol., 65: 951–64.
Souza, R.D., A. Ambrosini and L.M.P. Passaglia, 2015. Plant growth-promoting bacteria as
inoculants in agricultural soils. Genetics and Molecular Biology, 38(4): 401-419.
Spaepen, S., J. Vanderleyden and R. Remans, 2007. Indole-3-acetic acid in microbial and
microorganism-plant signaling. FEMS Microbiol. Rev., 31(4): 425-448.
Sridevi M., N.C.S. Yadav, K.V. Mallaiah, 2008. Production of indole acetic acid by
Rhizobium isolates from Crolataria species. Res. J. Microbiol., 3(4): 276–81.
Stanier, R.Y., 2003. General Microbiology. Fifth edition. Replika Press.
Stinner, D.H, 2007. The science of organic farming. In William Lockeretz. Organic Farming:
An international history. Oxfordshire, UK & Cambridge, Massachusetts: CAB
International (CABI). ISBN 978-1.
Sturz, A.V., and J. Nowak, 2000. Endophytic communities of rhizobacteria and the strategies
required to create yield enhancing associations with crops. Applied Soil Ecology,
15(2):183-190.
Suman, A., A.K. Shasany, M. Singh, H.N. Shahi, A. Gaur, and S.P.S. Khanuja, 2001.
Molecular assessment of diversity among endophytic diazotrophs isolated from
subtropical Indian sugarcane. World J. Microbiol. Biotechnol., 17: 39–45.
Sumathi T., A. Janardhan, A. Srilakhmi, D.V.R Sai Gopal and Narasimha, 2012. Impact of
indigenous microoganisms on soil microbial and enzyme activities. Archives of Applied
Science Research, 4(2): 1065-1073.
Suslow, T.V., M.N. Schroth and M. Isaka, 1982. Application of rapid method for gram
differentiation of plant pathogenic and saprophytic bacteria without staining.
Phytopathology, 72: 917- 918.
Tạ Thu Cúc, 2007. Kỹ thuật trồng rau sạch- rau ăn lá. NXB Phụ nữ, Hà Nội.
Tao, G., Z.Y. Liu, K.D. Hyde, X.Z. Lui and Z.N.Yu, 2008. Whole rDNA analysis reveals
novel and endophytic fungi in Bletilla ochracea (Orchidaceae). Fungal Diversity 33:
101-122.
Taylor, W.I. and B. Harris, 1965. Isolation of Shigellae. II. Comparison of plating media and
enrichment broths. American Journal of Clinical Pathology, 44(4): 476-479.
Thavasi, R., S. Jayalaxmi, T. Balasubramanian and I.M. Banat, 2006. Biodegradation of crude
oil by nitrogen fixing marine bacteria Azotobacter chroococcum. Research journal of
microbialogy, 5: 401-40.
Theron, J. and T.E Cloete, 2000. Molecular techniques for determining microbial diversity
and community structure in natural environments. Critical Reviews in Microbiology 26:
37– 57.
Theunis, M., H. Kobayashi, W.J. Broughton and E. Prinsen, 2004. Flavonoids, NodD1,
NodD2, and nod-box NB15 modulate expression of the y4wEFG locus that is required
for indole-3-acetic acid synthesis in Rhizobium sp. strain NGR234. Mol. Plant–Microbe
Interact, 17: 1153–1161.
Tiwari, S., V. Prasad, C. Lata, 2019. Bacillus: Plant Growth Promoting Bacteria for
170
Sustainable Agriculture and Environment, Publisher: Elsevier.
Tomaru, A., M. Kawachi, M. Demura, Y. Fukuyo, 2014. Changes in microbial communities,
including both uncultured and culturable bacteria, with Mid-Ocean Ballast-Water
exchange during a Voyage from Japan to Australia. PLoS ONE 9(5): e96274.
doi:10.1371/journal.pone.0096274.
Trần Bảo Trâm, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Hương Sơn, Nguyễn Thị Thanh Mai, Võ Thu Giang
và Phạm Thế Hải, 2017. Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn sinh tổng hợp IAA (indole
acetic acid) từ đất trồng sâm Việt Nam ở Quảng Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 33(2S): 219-226.
Trần Linh Thước. 2006. Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực phẩm, mỹ phẩm.
Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
Trần Ngọc Hiếu, 2017. Ứng dụng tưới tiết kiệm nước vào sản xuất rau an toàn tại Thị xã Ngã
Năm, tỉnh Sóc Trăng. Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc
Trăng.
Trần Thị Ba và Võ Thị Bích Thủy, 2019. Giáo trình trồng rau. Khoa Nông nghiệp và Sinh học
Ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ
Trần Thị Xuân Phương, Nguyễn Thị Như Ngọc, Nguyễn Thị Thuận và Lê Xuân Diễm Ngọc,
2017. Tuyển chọn vi khuẩn Azotobacter có khả năng cố định nitơ và sinh tổng hợp IAA
trong đất trồng lúa ở tỉnh thừa thiên huế. Tạp chí Khoa Học & Công Nghệ Nông Nghiệp,
Tập 1(1): 111-118.
Trần Văn Chiêu và Nguyễn Hữu Hiệp, 2010a. Ảnh hưởng của indole acetid acid (IAA) do vi
khuẩn Azospirillum tổng hợp lên sự phát triển của rễ lúa trồng ở điều kiện nhà lưới. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 15b: 132-140.
Trần Văn Chiêu và Nguyễn Hữu Hiệp, 2010b. Ứng dụng chủng vi khuẩn Azospirillum trong
canh tác lúa cao sản (OM 4644) tại tỉnh Bạc Liêu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, 15a: 92-96.
Trung tâm Nghiên Cứu khoa học Kỹ thuật và Khuyến Nông Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006.
Cẩm nang trồng rau an toàn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sở Nông Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn Thành phố Hồ Chí Minh.
Tsavkelova, E.A, T.A. Cherdyntseva, S.Y. Klimova, A.I. Shestakov, S.G. Botina and A.I
Netrusov, 2007. Orchid-associated bacteria produce indole-3-acetic acid, promote seed
germination, and increase their microbial yield in response to exogenous auxin.
Archives of Microbiology, 188 (6): 655-664.
Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng, 2009. Quy hoạch phát triển KTXH tỉnh Sóc Trăng đến
năm 2020.
Valášková, V. and P. Baldrian, 2009. Denaturing gradient gel electrophoresis as a
fingerprinting method for the analysis of soil microbial communities. Plant Soil
environ., 55 (10): 413–423.
Valverde, A., A. Burgos, T. Fiscella, R. Rivas, E. Velázquez, C. Rodríguez-Barrueco, E.
Cervantes, M. Chamber and J-M. Igual, 2006. Differential effects of coinoculations with
Pseudomonas jessenii PS06 (a phosphate-solubilizing bacterium) and Mesorhizobium
ciceri C-2/2 strains on the growth and seed yield of chickpea under greenhouse and field
conditions. Plant and Soil 287: 43-50.
Vance, C.P., 1997. Nitrogen fixation. In biotechnology and the improvement of forage
171
legumes McKerse B.D and Brown D.C.W (eds), CAB international, UK.
Vessey, J.K., 2003. Plant growth promoting rhizobacteria as biofertilizers. Plant and Soil,
255(2): 571–586.
Victorio, L., D.G. Allen, K.A. Gilbride and S.N. Liss, 1996. Rapid monitoring of metabolic
and biodegradation activity of microbial communities in wastewater treatment systems.
Water Res. 30: 1077–1086.
Võ Thị Ngọc Cẩm, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Đỗ Hoàng Sang, Nguyễn Thị tố Quyên, Đỗ Thị
Xuân, Dương Minh Viễn và Nguyễn Khởi Nghĩa, 2015. Phân lập và tuyển chọn một số
dòng nấm bản địa phân hủy một số vật liệu hữu cơ từ nền đất thâm canh lúa tại xã
phong hòa, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Trường Đại Học Cần Thơ, 36: 1-
11.
Võ Văn Phước Quệ và Cao Ngọc Điệp, 2011. Phân lập và nhận diện vi khuẩn phân giải
cellulose. Tạp chí Khoa học, 18a: 177-184.
Vũ Thành Công, 2009. Phân lập và tuyển chọn một số dòng vi khuẩn tổng hợp indole-3-acetic
acid (IAA) cao trong rễ cây rau muống (Ipomoea aquatica) ở tỉnh Đồng Tháp. Đề tài
nghiên cứu khoa học.
Wang, J., R. Li, H. Zhang, G. Wei and Z. Li, 2020. Beneficial bacteria activate nutrients and
promote wheat growth under conditions of reduced fertilizer application. BMC
Microbiology, 20:38. https://doi.org/10.1186/s12866-020-1708-z
Wang, L.Y., J. Li, Q.X. Li, S.F. Chen, 2013. Paenibacillus beijingensis sp. nov., a
rhizosphere soil. Antonie Van from wheat isolated
nitrogen‑fixing species
Leeuwenhoek, 104: 675–83.
Wheeler, C.T. and J.M. Miller, 1990. Current and potential uses of actinorrhizal plants in
Europe. In The Biology of Frankia and Actinorrhizal Plants. Academic Press, San
Diego, USA. Edited by C.R. Schwintzer, J.D. Tjepkema: 365–389.
WHO, 1996. Toxicological evaluation of certain food additives and contaminants. Prepared
by the FortyFourth Meeting of the Joint FAO/WHO Expert Committee on Food
Additives (JECFA). Geneva, World Health Organization, International Programme on
Chemical Safety (WHO Food Additives Series 35).
Wintzingerode F.V, U.B Göbel, E.Stackebrandt, 1997. Determination of microbial diversity
in environmental samples: pitfalls of PCR-based rRNA analysis. FEMS Microbiology
Reviews, 21, 213–229. doi: 10.1111/j.1574-6976.1997.tb00351.x.
Xie, J., H. Shi, Z. Du, T. Wang, X. Liu, S. Chen, 2016. Comparative genomic and functional
analysis reveal conservation of plant growth promoting traits in Paenibacillus polymyxa
and its closely related species. Scientific Reports 6:213-29, DOI 10.1038/srep21329
Xie, J.B., Z. Du, L. Bai, C. Tian, Y. Zhang, J.Y. Xie, 2014. Comparative genomic analysis of
N2‑fixing and non‑N2‑fixing Paenibacillus spp.: organization, evolution and
expression of the nitrogen fixation genes. PLoS Genet., 10:e1004231.
172
Xu-Cong, Lc, Y.J Jiang, J. Liu, W.L Guo, Z.B Liu, W. Zhang, P.F Rao and L. Ni, 2017.
Evaluation of different PCR primers for denaturing gradient gel electrophoresis
(DGGE) analysis of fungal community structure in traditional fermentation starters used
for Hong Qu glutinous rice wine. Int J Food Microbiol. 16,255:58-65.
Yabuuchi, E., Y. Kosako, H. Oyaizu, I. Yano, H. Hotta, 1992. Proposal of Burkholderia gen.
nov. and transfer of seven species of the genus Pseudomonas homology group II to the
new genus, with the type species Burkholderia cepacia (Palleroni and Holmes 1981)
comb. nov. Microbiol Immunol, 36:1251–1275.
Yamada, Y., K. Hoshino and T. Ishikawa, 1997. The phylogeny of acetic acid bacteria based
on the partial sequences of 16S ribosomal RNA: The elevation of the subgenus
Gluconoacetobacter to generic level. Bioscience, Biotechnology, and Biochemistry,
61(8):1244–1251.
Yan, Y., J. Yang, Y. Dou, M. Chen, S. Ping, J Peng, W. Lu and W. Zhang, 2008. Nitrogen
fixation island and rhizosphere conpentence straits in the genome of root-associated
Pseudomonas stutzeri A1501. The nationnal Academy of Sciences of USA, 105:7564-
7569.
Yao S., I.A. Merwin, G.S. Abawi and J.E. Thies, 2006. Soil fumigation and compost
amendment alter soil microbial community composition but do not improve tree growth
or yield in an apple replant site. Soil Biology and Biochemistry, 38:587–599.
Yi, Y., Huang W. Ge Y., 2008. Exopolysaccharide: a novel important factor in the microbial
dissolution of tricalcium phosphate. World J Microbiol Biotechnol, 24:1059–1065 DOI
10.1007/s11274-007-9575-4.
Yousuf, J., T. Jabir, R. Mujeeb, K. Soumya, P.A. Aneesa, H. Mohamed, A. Abdulla, 2017.
Nitrogen fixing potential of various heterotrophic Bacillus strains from a tropical
estuary and adjacent coastal regions. Journal of basic microbiology, 57(11):922-932.
Zeigler, D.R., 2013. The family Pae nibacillacea. In: Strain catalog and reference. Columbus:
Bacillus Genetic Stock Center, p. 1–32.
Website tham khảo
http://www.asahi-net.or.jp (truy cập ngày 20/5/2020)
http://blast.ncbi.nlm.nih.gov/Blast .cgi (truy cập ngày 20/5/2020
http://organic.da.gov.ph (truy cập ngày 18/1/2020)
https://sokhcn.soctrang.gov.vn (truy cập ngày 20/5/2020
https://nhandan.org.vn (truy cập ngày 20/5/2020)
173
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Danh mục các hóa chất sử dụng và nguồn gốc
Hóa chất
(NH4)2SO4
EC broth
EDTA sodium
Ethanol 96o
FeCl3
FePO4
FeSO4.7H2O
Ladder 100bp
L-ascorbic acid
Loading dye
L-Tryptophan
LSB Agar
Xuất xứ
Đức
Việt Nam
Hoa Kỳ
Đức
Đức
Đức
Đức
Trung Quốc
Đức
Trung Quốc
Ấn Độ
Đức
Trung Quốc
Trung Quốc
Đức
Trung Quốc
Đức
Hoa Kỳ
Đức
Trung Quốc
Trung Quốc
Đức
Trung Quốc
Trung Quốc
Đức
Đức
Trung Quốc
Đức
Hoa Kỳ
Ấn Độ
Hoa Kỳ
Ấn Độ
Ấn Độ
Đức
Đức
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ
Việt Nam
Việt Nam
Trung Quốc
Trung Quốc STT
1
2
Agar
3
Amonium molypdate ((NH4)6Mo7O24)
4
Bacto agar
5
Ca3(PO4)2
6
CaCl2.2 H2O
7
Ca3CO3
8
CH3COOH
9
CH3COONH4
10 CuSO4.5H2O
11
12
13
14
15
16
17 Glucose
18 Green master mix 2X
19 H2MoO4.H2O
20 H2O2
21 H2SO4
22 H3BO3
23 HCl
24 K2HPO4
25 K2Sb2(C4H2O6)2
26 K2SO4
27 KCl
28 KOH
29
30
31
32
33
34 MgSO4.7H2O
35 MnCl.4H2O
36 Mồi 27F
37 Mồi 1492R
38 Mồi 341F-GC
39 Mồi 534R
40 Mồi ITS1
41 Mồi ITS4
42 Mồi ITS4-GC
43 Mồi 243F
44 Mồi 1378R
45 Mồi 984F-GC
46 Mồi polF
47 Mồi polR
48 Na2CO3
49 Na2HPO4.12H2O
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Nhật
Đức
Trung Quốc
Đức
Đức
Đức
Đức
Ấn Độ
Đức
Ấn Độ
Ấn Độ
Hoa Kỳ
Đức
Ấn Độ
Trung Quốc 50 Na2SO3
51 NaCl
52 NaClO
53 NaH2PO4.2H2O
54 NaHSO3
55 NaOH
56 NH4NO3
57
Phenol
58
Sodium citrate
59
Sodium tartrate
60
Sodium salyxylate
61
Salmonella Sighella agar
62
Sodium nitroprusside dehydrate
63
Starch
64
Sucrose
65
TEMED
66
Trisodium citrate dehydrate
67
Tryptone Soya Broth (TSB)
68
ZnSO4.7H2O
Phụ lục 2 Thành phần một số môi trường nuôi cấy vi sinh vật trong luận án
A. Môi trƣờng TSA nuôi cấy vi khuẩn
Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
15
15
5,0
15 Hóa chất
Trypton
Papaic digest of Soybean
NaCl
Agar
Điều kiện pH7,3±0,2
B. Môi trƣờng PDA nuôi cấy nấm
Hóa chất
Dextrose
Potato Extract
Agar Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
20,0
4,0
15
C. Môi trƣờng lỏng Starch nuôi cấy xạ khuẩn
Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
10,0
1,31
2,0
1,0
1,0
2,0
1 ppm
1 ppm
1 ppm Hóa chất
Starch
K2HPO4
Ca3CO3
MgSO4
NaCl
(NH4)2 SO4
FeSO4.
MnCl2
ZnSO4
Điều kiện pH7,2±0,2
Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
10,0
5,0
5,0
0,25
0,2
0,1
D. Môi trƣờng lỏng NBRIP (Mehata and Nautiyal, 2001) nuôi cấy vi sinh vật
hoà tan lân
Hóa chất
D-Glucose
Ca3(PO4)2
MgCl2.6 H2O
MgSO4.7H2O
KCl
(NH4)2 SO4
Điều kiện pH7,0
E. Môi trƣờng lỏng Burks (Mehata and Nautiyal, 2001) nuôi cấy vi khuẩn cố
định đạm
Hóa chất
Sucrose
K2HPO4.4H2O
KH2PO4
CaCl2.2 H2O
MgSO4.7H2O
FeSO4.7H2O
H3 BO3
Mo Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
10
0,41
1,05
0,1
0,1
0,015
0,0025
0.0025
F. Môi trƣờng SS Agar (Taylor and Harris, 1965) nuôi cấy Salmonella và
Shigella
Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
5,0
5,0
10
8,5
10
8,5
1,0
0,00033
0,025
15 Hóa chất
Lab-Lemco’ powder
Peptone
Lactose
Bile salts n°3
Sodium citrate
Sodium thiosulphate
Ferric citrate
Brilliant green
Neutral red
Agar
Điều kiện pH7,0±0,2
G. Môi trƣờng LSB nuôi cấy Coliform
Hóa chất
Tryptose
Lactose
NaCl
KH2PO4
K2HPO4
Sodium lauryl sulfate
Điều kiện pH6,8±0,2 Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
20,0
5,0
5,0
2,75
2,75
0,1
H. Môi trƣờng EC broth nuôi cấy E. coli
Hàm lƣợng trong 1 L (g/L)
10,0
5,0
1,5
1,5
4,0
5,0
Hóa chất
Tryptose
Lactose
Bile salts n°3
KH2PO4
K2HPO4
NaCl
Điều kiện pH7,0
31,2 g
39,3 g
1,0 L
Phụ lục 3 Thành phần các dung dịch sử dụng trong luận án
A. Sodium phosphate buffer (Martelli and Russo, 1984)
- NaH2PO4.2H2O
- Na2HPO4.12H2O
- Nước khử khoáng
B. Dung dịch vô cơ mẫu cho hiện màu đạm
Dung dịch H2SO4 đậm đặc
Dung dịch xúc tác: 1 g CuSO4 và 10 g K2SO4 trong 100 mL nước khử
+ (5 mg.L-1).
khoáng.
C. Dung dịch hiện màu đạm tổng số
Dung dịch NaOH 3,6 M
Dung dịch A: 0,05 g sodium nitroprusside dehydrate, 13 g sodium salicylate
và 10 g trisodium citrate, 10 g sodium tartrate định mức lên 100 mL bằng nước
khử khoáng. Dung dịch B: 6 g NaOH định mức lên 100 mL, sau đó thêm 2 mL NaClO. D. Dung dịch hiện màu xác định ammonium hữu dụng
Dung dịch chuẩn NH4
Thuốc thử phenol nitroprusside: Hoà tan 5 g phenol và 0,025 g nitroprusside trong nước và định mức đến 500 mL. Hypocloride buffer: Hoà tan 15 mL NaOCl thêm 5 g NaOH vào nước và
định mức đến 500 mL.
E. Dung dịch hiện màu xác định hàm lượng nitrate
- 10 ppm
Dung dịch C: Cho 200ml HCl 0.5M vào chai và cho 0.5g vanadium (III)
chloride vào. Thêm 0.2g sulfanilamide và 0.01g N-(1-naphthyl) ethylenediamine
dihydrochloride vào. Dung dịch chuẩn NO3
F. Hóa chất kiểm tra IAA (Thuốc thử R2 (Salkowski), Glickmann and Dessaux,
1995) Thuốc thử Salkowski 1 L: dung dịch H2SO4 10,8 M và 4,5 g FeCl3. G. Dung dịch xác định lân tổng số
Dung dịch P2O5 chuẩn 10 ppm
Dung dịch A: 12 g (NH4)6Mo7O24.4H2O hòa tan trong 250 mL nước khử
khoáng; 0,2098 g K2Sb2(C4H2O6)2 hòa tan trong 100 mL nước khử khoáng và 140
mL H2SO4. Dung dịch B: 1,056 g L-ascorbic acid và 200 mL dung dịch A.
Phụ lục 4 Thông tin chế phẩm vi sinh thương mại làm đối chứng
Tên chế phẩm: chế phẩm sinh học EMpb Gốc của công ty TNHH Trung tâm Chế phẩm Sinh học Thành phố Hồ Chí Minh. Công dụng:
- Phân hủy chất hữu cơ từ các nguồn than bùn, phụ phế phẩm nông nghiệp, phân gia
súc/gia cầm tạo phân bón phục vụ cây trồng.
- Dùng trong ủ phân cho trồng trọt: Rau màu, cây ăn quả, cây dược liệu…
- Giảm phát sinh ruồi nhặn.
- Ức chế vi sinh vật gây bệnh.
EM- Gốc PB: bao gồm vi sinh vật hữu ích: vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, nấm
men, xạ khuẩn và nấm sợi, vi khuẩn cố định đạm, enzyme (amylase, protease…), nước, rỉ
đường.
Thành phần trong 1 lít: Lactobacillus sp. (≥109 cfu/mL), Saccharomyces cerevisiae
(≥106 cfu/mL), Trichoderma sp. (≥108 cfu.g-1), Streptomyces spp. (≥107 cfu.g-1) Azotobacter
sp. (≥106 cfu.g-1), Pseudomonas sp. (≥106 cfu.g-1), Bacillus sp. (≥107 g), các enzyme amylase,
protease,…nước, rỉ đường vừa đủ 01 lít.
Cách sử dụng: Cần phải hoạt hóa trước khi sử dụng vì EM gốc ban đầu hệ vi sinh vật
hữu ích đang ở dạng bị ức chế. Cần phải nuôi cấy trong môi trường giàu dinh dưỡng để nhân
sinh khối và sinh hoạt tính mạnh. Cách thực hiện (Tạo EM1):
- Trộn 1 lít EM gốc + 18 lít H2O + 1 kg rỉ đường + 20g DAP + 100ml nước mắm.
- Đậy kín 3-5 ngày, sau đó mở nắp cho xì gas và đậy tiếp
- Sau 7-10 ngày đem ra sử dụng.
Chú thích: 1 lít EM gốc ủ được 20 lít EM1. Quy trình ủ tương tự ta có EM2 từ EM1, EM3 từ EM2… 1 lít E.M hoạt hóa pha vào nước phun tưới cho 1000 m2 đất canh tác.
Phụ lục 5 pH của các IMO theo thời gian
pH (ngày sau lên men) STT Nguồn gốc IMO 17 ngày 22 ngày
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20 Đất trồng tre
Đất luân canh
Đất trồng chuối
Đất hành tím
Đất xà lách pháp
Đất trồng lúa
Đất dưa hấu
Đất cỏ hoang
Đất trồng bắp
Đất rau xen canh
Đất trồng cam
Đất trồng bưởi
Đất trồng ổi
Đất trồng mía
Đất rau muống
Đất mồng tơi
Đất trồng ớt
Đất trồng củ lùn
Đất trồng ngò
IMO hỗn hợp 7 ngày
3,539
3,438
3,320
4,176
3,754
4,239
4,180
3,795
3,711
3,821
3,972
4,290
4,286
3,717
4,112
4,191
4,123
4,081
4,385
3,737 12 ngày
3,422
3,239
3,245
3,820
3,744
4,063
4,033
3,779
3,529
3,724
3,919
4,020
4,247
3,442
4,020
4,013
3,859
3,927
4,118
3,439 3,380
3,364
2,996
3,692
3,753
4,118
4,039
3,837
3,618
3,626
3,903
3,702
4,159
3,558
4,110
4,002
3,901
3,963
4,200
3,691 3,419
2,756
3,063
3,662
3,733
4,139
3,919
3,741
3,559
3,673
3,848
3,946
3,950
3,628
4,096
3,932
3,921
3,956
4,205
3,689
Phụ lục 6 Kết quả phân tích số nhóm loài vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn trong IMO
A. Vi khuẩn
*Chú thích: 1: IMO tre; 2: IMO luân canh; 3: IMO chuối; 4: IMO hành tím; 5: IMO rau; 6: IMO lúa;
7: IMO dưa hấu; 8: IMO cỏ hoang; 9: IMO bắp; 10: IMO rau; 11: IMO cam; 12: IMO bưởi; 13: IMO
ổi; 14: IMO mía.
B. Nấm
*Chú thích: 1: IMO tre; 2: IMO luân canh; 3: IMO chuối; 4: IMO hành tím; 5: IMO rau; 6: IMO lúa;
7: IMO dưa hấu; 8: IMO cỏ hoang; 9: IMO bắp; 10: IMO rau; 11: IMO cam; 12: IMO bưởi; 13: IMO
ổi; 14: IMO mía. 15: IMO hỗn hợp
C. Xạ khuẩn
*Chú thích: 1: IMO tre; 2: IMO luân canh; 3: IMO chuối; 4: IMO hành tím; 5: IMO rau; 6: IMO lúa;
7: IMO dưa hấu; 8: IMO cỏ hoang; 9: IMO bắp; 10: IMO rau; 11: IMO cam; 12: IMO bưởi; 13: IMO
ổi; 14: IMO mía.
Phụ lục 7 Hình thái khuẩn lạc và hình dạng tế bào 83 dòng vi khuẩn phân lập sau 5
ngày nuôi cấy trên môi trường Burks.
Hình thái khuẩn lạc trên môi trường Burks
Tế bào VK
STT
Ký hiệu
Hình dạng
Màu sắc
Rìa
Nổi/lài
Bề mặt
Hình dạng
Gram
Kích
thước
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que dài
1
TP-1.1
0.2
Tròn
nổi
-
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
2
TP-1.8
0.3
Tròn
nổi
-
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
3
TP-1.2
0.3
Tròn
nổi
-
TP-1.3
<0.1
Trắng sữa
nguyên
bóng trơn
cầu
4
Tròn
nổi
+
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
5
TP-1.6
0.2
tròn
nổi
+
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
6
TP-1.4
0.2
tròn
nổi
+
không đều
Trắng sữa
chia thùy
vân
que ngắn
7
TP-1.5
0.2
nổi
-
Trắng trong
nguyên
có vân
que ngắn
8
TP-1.7
0.1
tròn
nổi
+
MQ-2.1
0.15
Trắng mờ
nguyên
9
tròn
nổi
+
10
MQ-2.5
0.2
tròn
nổi
nguyên
+
Trắng sữa
lồi có
nhân
lồi có
nhân
11
MQ-2.3
0.2
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
+
Trắng sữa
Que kết
chuỗi
Que kết
chuỗi
Que kết
chuỗi
12
MQ-2.4
0.3
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
Cầu
+
13
MQ-2.2
0.3
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
Cầu
-
14
MQ-2.6
0.2
tròn
nổi
nguyên
lỏm chỏm
Que ngắn
+
15
MQ-2.7
0.1
tròn
nổi
nguyên
lỏm chỏm
Cầu
+
16
CP-3.1
0.1
tròn
nổi
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
17
tròn
nổi
bóng trơn
cầu
-
CP-3.2
<0.1
Trắng trong
nguyên
18
CP-3.3
0.1
tròn
nổi
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
cầu
-
19
CP-3.4
0.1
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
20
CP-3.5
0.2
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
Que ngắn
+
21
CP-3.6
0.2
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
Hình thái khuẩn lạc trên môi trường Burks
Tế bào VK
STT
Ký hiệu
Hình dạng
Màu sắc
Rìa
Nổi/lài
Bề mặt
Hình dạng
Gram
Kích
thước
CP-3.7
0.1
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que dài
22
tròn
nổi
-
Trắng sữa
nguyên
bóng trơn
cầu
<0.1
HV-4.1
23
tròn
nổi
+
không đều
Trắng trong
chia thùy
bóng trơn
que ngắn
<0.1
HV-4.2
24
lài
-
0.4
HV-4.3
25
lài
không đều
chia thùy
bóng trơn
que ngắn
-
0.1
RP-5.1
26
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
cầu
+
0.3
RP-5.2
27
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
Que dài
-
0.2
RP-5.3
28
nổi
không đều
chia thùy
nhám
cầu
+
0.1
RP-5.4
29
tròn
nổi
nguyên
nhám
cầu
+
0.1
RP-5.5
30
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
cầu
+
RP-5.6
<0.1
31
tròn
lài
nguyên
bóng trơn
que
+
0.1
LM-6.1
32
nổi
không đều
chia thùy
bóng trơn
cầu
-
Trắng mờ
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng trong
Trắng sữa
0.1
LM-6.2
33
nổi
không đều
chia thùy
cầu
+
Trắng sữa
Bóng
trơn
0.1
LM-6.3
34
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
0.3
LM-6.4
35
lài
không đều
chia thùy
bóng trơn
que ngắn
+
Trắng sữa
Trắng sữa
DL-7.1
<0.1
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
36
tròn
nổi
-
0.1
DL-7.2
37
tròn
nổi
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
0.1
DL-7.3
38
tròn
nổi
Trắng sữa
nguyên
bóng trơn
cầu
+
DL-7.4
<0.1
39
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
0.3
DL-7.5
40
lài
không đều
chia thùy
có vân
que ngắn
+
0.3
DL-7.6
41
lài
không đều
chia thùy
bóng trơn
que ngắn
+
0.1
CL-8.1
42
tròn
nổi
Trắng trong
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
43
tròn
nổi
+
CL-8.2
<0.1
Trắng sữa
nguyên
bóng trơn
cầu
0.2
CL-8.3
44
tròn
nổi
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
cầu
-
0.2
CL-8.4
45
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
cầu
-
0.2
BT-9.1
46
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
0.2
BT-9.2
47
lài
không đều
Trắng sữa
chia thùy
bóng trơn
+
que kết
chuỗi
0.5
BT-9.3
48
lài
không đều
Trắng sữa
chia thùy
que ngắn
-
lồi/có
nhân
0.2
RM-10.1
49
tròn
nổi
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
0.3
RM-10.2
50
tròn
nổi
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
0.1
RM-10.3
51
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
que ngắn
+
0.1
CK-11.1
52
tròn
nổi
nguyên
có vân
que ngắn
+
Trắng trong
Trắng sữa
0.1
CK-11.2
53
chia thùy
không đều
bóng trơn
que ngắn
+
Trắng sữa
lài/ có
nhân
0.4
CK-11.3
54
lài
chia thùy
không đều
gồ ghề
que ngắn
-
0.1
CK-11.4
55
lài
chia thùy
không đều
bóng trơn
que ngắn
+
Trắng sữa
Trắng sữa
0.5
CK-11.5
56
nổi
không đều
Trắng mờ
chia thùy
nhám
-
que kết
chuỗi
0.4
BK-12.1
57
tròn
nổi
Trắng trong
nguyên
cầu
+
BK-12.2
58
tròn
Trắng trong
nguyên
bóng trơn
que ngắn
-
0.1 -
0.4
0.4
BK-12.3
59
tròn
Trắng sữa
nguyên
bóng trơn
+
bằng
phẳng
nổi/ có
nhân
que kết
chuỗi
0.4
OK-13.1
60
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
cầu
-
Trắng trong
0.2
OK-13.2
61
tròn
nổi
nguyên
bóng trơn
-
Trắng trong
que kết
chuỗi
Hình thái khuẩn lạc trên môi trường Burks
Tế bào VK
STT
Ký hiệu
Hình dạng
Màu sắc
Rìa
Nổi/lài
Bề mặt
Hình dạng
Gram
Kích
thước
OK-13.3
0.3-0.4
nguyên
bóng trơn
que ngắn
62
tròn
nổi
-
OK-13.4
0.1-0.2
Trắng trong
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
63
tròn
nổi
-
Trắng mờ
nguyên
bóng trơn
que ngắn
64
OK-13.5
0.1
tròn
nổi
-
Trắng sữa
sợi tia
bóng trơn
cầu
65
OK-13.6
0.2
tròn
+
ăn xuống
agar
66
MC-14.1
0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
-
67
MC-14.2
0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
+
68
MC-14.3
0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
+
Trắng trong
Trắng sữa
Trắng sữa
không đều
chia thùy
69
MC-14.4
0.2
nổi
que ngắn
+
Trắng sữa
có nếp
nhăn
không đều
chia thùy
phẳng
bóng trơn
70
MP-15.1
0.5
cầu
-
71
MT-16.1
0.4
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
cầu
-
72
MT-16.2
0.4
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
cầu
-
73
MT-16.3
0.2
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
+
Trắng sữa
Trắng trong
Trắng trong
Trắng sữa
74
MT-16.4
<0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
+
Trắng sữa
que kết
chuỗi
75
MT-16.5
0.4
tròn
Trắng trong
nguyên
nổi
bóng trơn
cầu
-
76
OM-17.1
0.3
tròn
Trắng trong
nguyên
nổi
bóng trơn
cầu
-
77
OM-17.2
0.3
tròn
Trắng trong
nguyên
nỗi
bóng trơn
cầu
-
78
OM-17.3
0.7
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
+
Trắng sữa
que kết
chuỗi
79
OM-17.4
0.4
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
cầu
-
80
OM-17.5
0.2
không đều
chia thùy
nổi
bóng trơn
cầu
+
81
CP-18.1
<0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
-
82
CP-18.2
<0.1
tròn
nguyên
nổi
bóng trơn
que ngắn
-
83
NM-19.1
0.2
không đều
Trắng sữa
Trắng sữa
Trắng trong
Trắng trong
Trắng sữa
chia thùy
nổi
bóng trơn
que ngắn
+
Phụ lục 8 Hình dạng tế bào 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn ở độ phóng đại 100X
Pseudomonas veronii TP-1.2
Paraburkholderia tropica TP-1.3
Paenibacillus cineris TP-1.4
Bacillus aryabhattai MQ-2.1
Bacillus megaterium MQ-2.5
Bacillus cereus BK-12.3
Klebsiella pneumoniae MT-16.5
Klebsiella pneumoniae OM-17.2
Bacillus megaterium OM-17.5
Pseudomonas boreopolis CP-18.2
Phụ lục 9 Trình tự đoạn gen 16S-rRNA của 10 dòng vi khuẩn tuyển chọn
Dòng vi khuẩn Pseudomonas veronii TP-1.2
27F chiều xuôi 897 nu
CTGATCACCGTGGTACCGTCCCCCGAAGGTTAGACTAGCTACTTCTGGTGCAACC
CACTCCCATGGTGTGACGGGCGGTGTGTACAAGGCCCGGGAACGTATTCACCGCG
ACATTCTGATTCGCGATTACTAGCGATTCCGACTTCACGCAGTCGAGTTGCAGAC
TGCGATCCGGACTACGATCGGTTTTCTGGGATTAGCTCCACCTCGCGGCTTGGCA
ACCCTCTGTACCGACCATTGTAGCACGTGTGTAGCCCAGGCCGTAAGGGCCATGA
TGACTTGACGTCATCCCCACCTTCCTCCGGTTTGTCACCGGCAGTCTCCTTAGAGT
GCCCACCATTACGTGCTGGTAACTAAGGACAAGGGTTGCGCTCGTTACGGGACTT
AACCCAACATCTCACGACACGAGCTGACGACAGCCATGCAGCACCTGTCTCAATG
TTCCCGAAGGCACCAATCCATCTCTGGAAAGTTCATTGGATGTCAAGGCCTGGTA
AGGTTCTTCGCGTTGCTTCGAATTAAACCACATGCTCCACCGCTTGTGCGGGCCCC
CGTCAATTCATTTGAGTTTTAACCTTGCGGCCGTACTCCCCAGGCGGTCAACTTAA
TGCGTTAGCTGCGCCACTAAGAGCTCAAGGCTCCCAACGGCTAGTTGACATCGTT
TACGGCGTGGACTACCAGGGTATCTAATCCTGTTTGCTCCCCACGCTTTCGCACCT
CAGTGTCAGTATCAGTCCAGGTGGTCGCCTTCGCCACTGGTGTTCCTTCCTATATC
TACGCATTTCACCGCTACACAGGAAATTCCACCACCCTCTACCATACTCTAGTCA
GTCAGTTTTGAATGCAGTTCCCAGGTTGAGCCCGGGGATTCACATCCACTTAACT
AACCACCTACGC
Dòng vi khuẩn: Paraburkholderia tropica TP-1.3
27F chiều xuôi 493 nu
TGGCTCAGATTGAACGCTGGCGGCATGCCTTACACATGCAAGTCGAACGGCAGCA
CGTGCTTGCACCTGGTGGCGAGTGGCGAACGGGTGAGTAATACATCGGAACGTG
TCCTGTAGTGGGGGATAGCCCGGCGAAAGCCGGATTAATACCGCATACGATCTAC
GGATGAAAGCGGGGGATCTTCGGACCTCGCGCTATAGGGGCGGCCGATGGCGGA
TTAGCTAGTTGGTGAGGTAAAGGCTCACCAAGGCGACGATCCGTAGCTGGTCTGA
GAGGACGACCAGCCACACTGGGACTGAGACACGGCCCAGACTCCTACGGGAGGC
AGCAGTGGGGAATTTTGGACAATGGGCGAAAGCCTGATCCAGCAATGCCGCGTG
TGTGAAGAAGGCCTTCGGGTTGTAAAGCACTTTTGTCCGGAAAGAAATCCCTGGT
CCTAATATGGCCGGGGGATGACGGTACCGGAAGAATAAGCACCGGCTAACTACG
TGC
Dòng vi khuẩn: Paenibacillus cineris TP-1.4
27F chiều xuôi 911 nu
CCTGTCGGCGGCTGGCTCCTTGCGGTTACCTCACCGACTTCGGGTGTTGTAAACTC
TCGTGGTGTGACGGGCGGTGTGTACAAGACCCGGGAACGTATTCACCGCGGCATG
CTGATCCGCGATTACTAGCAATTCCGACTTCATGCAGGCGAGTTGCAGCCTGCAA
TCCGAACTGAGACCAGCTTTGATAGGATTGGCTCCACCTCGCGGCTTCGCTTCCC
GTTGTACTGGCCATTGTAGTACGTGTGTAGCCCAGGTCATAAGGGGCATGATGAT
TTGACGTCATCCCCGCCTTCCTCCGGTTTGTCACCGGCAGTCATTCTAGAGTGCCC
ACCCGAAGTGCTGGCAACTAAAATCAAGGGTTGCGCTCGTTGCGGGACTTAACCC
AACATCTCACGACACGAGCTGACGACAACCATGCACCACCTGTCTCCTCTGTCCC
GAAGGAAAGGTCTATCTCTATACCGGTCAGAGGGATGTCAAGACCTGGTAAGGTT
CTTCGCGTTGCTTCGAATTAAACCACATACTCCACTGCTTGTGCGGGTCCCCGTCA
ATTCCTTTGAGTTTCAGTCTTGCGACCGTACTCCCCAGGCGGAATGCTTAATGTGT
TAACTTCGGCACCAAGGGTATCGAAACCCCTAACACCTAGCATTCATCGTTTACG
GCGTGGACTACCAGGGTATCTAATCCTGTTTGCTCCCCACGCTTTCGCGCCTCAGC
GTCAGTTACAGCCCAGAGAGTCGCCTTCGCCACTGGTGTTCCTCCACATATCTAC
GCATTTCACCGCTACACGTGGAATTCCACTCTCCTCTTCTGCACTCAAGTCACCCA
GTTTCCAGTGCGAACCAAGGTTGAGCCTGGGCCTTAACACCAGACTAAATGACGC
CTGCCGCGCTTACGCCATATTCGGA
Dòng vi khuẩn: Bacillus aryabhattai MQ-2.1
27R chiều xuôi 789 nu
CTATCATGCAGTCGAGCGAACTGATTATAAGCTTGCTTCTATGACGTTAGCGGCG
GACGGGTGAGTAACACGTGGGCAACCTGCCTGTAAGACTGGCGATAACTTCGGG
AAACCGAAGCTAATACCGGCATAGGATCTTCTCCTTCATGGGAGATGATTGAAAG
ATGGTTTCGGCTATCACTTACAGATGGGCCCGCGGTGCATTAGCTAGTTGGTGAG
GTAACGGCTCACCAAGGCAACGATGCATAGCCGACCTGAGAGGGTGATCGGCCA
CACTGGGACTGAGACACGGCCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGCTAGGGAATC
TTCCGCAATGGACGAAAGTCTGACGGAGCAACGCCGCGTGAGTGATGAAGGCTT
TCGGGTCGTAAAACTCTGTTGTTAGGGAAGAACAAGTACGAGAGTAACTGCTCGT
ACCTTGACGGTACCTAACCAGAAAGCCACGGCTAACTACGTGCCAGCAGCCGCG
GTAATACGTAGGTGGCAAGCGTTATCCGGAATTATTGGGCGTAAAGCGCGCGCA
GGCGGTTTCTTAAGTCTGATGTGAAAGCCCACGGCTCAACCGTGGAGGGTCATTG
GAAACTGGGGAACTTGAGTGCAGAAGAGAAAAGCGGAATTCCACGTGTAGCGGT
GAAATGCGTAGAGATGTGGAGGAACACCAGTGGCGAACGCGGCTTTTTGGTCTGT
AACTGACGCTGAGGCGCGAAAGCGTGGGGAGCACACAGGATTAGATACCCTGGT
AGTCCACGCCGTAAACGATGAGTGCTA
Dòng vi khuẩn: Bacillus megaterium MQ-2.5
27f chiều xuôi 630 nu
TCGAGCGAACTGATTAGAAGCTTGCTTCTATGACGTTAGCGGCGGACGGGTGAGT
AACACGTGGGCAACCTGCCTGTAAGACTGGGATAACTTCGGGAAACCGAAGCTA
ATACCGGATAGGATCTTCTCCTTCATGGGAGATGATTGAAAGATGGTTTCGGCTA
TCACTTACAGATGGGCCCGCGGTGCATTAGCTAGTTGGTGAGGTAACGGCTCACC
AAGGCAACGATGCATAGCCGACCTGAGAGGGTGATCGGCCACACTGGGACTGAG
ACACGGCCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTAGGGAATCTTCCGCAATGGACG
AAAGTCTGACGGAGCAACGCCGCGTGAGTGATGAAGGCTTTCGGGTCGTAAAAC
TCTGTTGTTAGGGAAGAACAAGTACAAGAGTAACTGCTTGTACCTTGACGGTACC
TAACCAGAAAGCCACGGCTAACTACGTGCCAGCAGCCGCGGTAATACGTAGGTG
GCAAGCGTTATCCGGAATTATTGGGCGTAAAGCGCGCGCAGGCGGTTTCTTAAGT
CTGATGTGAAAGCCCACGGCTCAACCGTGGAGGGTCATTGGAAACTGGGGAACT
TGAGTGCAGAAGAGAAAAGCGGAATTCCACG
Dòng vi khuẩn: Bacillus cereus BK-12.3
27F chiều xuôi 836 nu
GTGCTATACATGCAAGTCGAGCGAATGGATTAAGAGCTTGCTCTTATGAAGTTAG
CGGCGGACGGGTGNNTAACACGTGGGTAACCTGCCCATAAGACTGGGATAACTC
CGGGAAACCGGGGCTAATACCGGATAACATTTTGAACTGCATGGTTCGAAATTGA
AAGGCGGCTTCGGCTGTCACTTATGGATGGACCCGCGTCGCATTAGCTAGTTGGT
GAGGTAACGGCTCACCAAGGCAACGATGCGTAGCCGACCTGAGAGGGTGATCGG
CCACACTGGGACTGAGACACGGCCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTAGGGAA
TCTTCCGCAATGGACGAAAGTCTGACGGAGCAACGCCGCGTGAGTGATGAAGGC
TTTCGGGTCGTAAAACTCTGTTGTTAGGGAAGAACAAGTGCTAGTTGAATAAGCT
GGCACCTTGACGGTACCTAACCAGAAAGCCACGGCTAACTACGTGCCAGCAGCC
GCGGTAATACGTAGGTGGCAAGCGTTATCCGGAATTATTGGGCGTAAAGCGCGC
GCAGGTGGTTTCTTAAGTCTGATGTGAAAGCCCACGGCTCAACCGTGGAGGGTCA
TTGGAAACTGGGAGACTTGAGTGCAGAAGAGGAAAGTGGAATTCCATGTGTAGC
GGTGAAATGCGTAGAGATATGGAGGAACACCAGTGGCGAAGGCGACTTTCTGGT
CTGTAACTGACACTGAGGCGCGAAAGCGTGGGGAGCAAACAGGATTAGATACCC
TGGTAGTCCACGCCGTAACGATGAGTGCTAAGTGTTAGAGGGTTCCGCCCTTTAG
TGCTGAAGTTAACGCATTAA
Dòng vi khuẩn: Klebsiella pnemoniae MT-16.5
27F chiều xuôi 840 nu
AGCCTACGATGCAAGTCGAGCGGTAGCACAGAGAGCTTGCTCTCGGGTGACGAG
CGGCGGACGGGTGCGTAATGTCTGGGAAACTGCCTGATGGAGGGGGATAACTAC
TGGAAACGGTAGCTAATACCGCATAACGTCGCAAGACCAAAGTGGGGGACCTTC
GGGCCTCATGCCATCAGATGTGCCCAGATGGGATTAGCTAGTAGGTGGGGTAACG
GCTCACCTAGGCGACGATCCCTAGCTGGTCTGAGAGGATGACCAGCCACACTGGA
ACTGAGACACGGTCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTGGGGAATATTGCACAA
TGGGCGCAAGCCTGATGCAGCCATGCCGCGTGTATGAAGAAGGCCTTCGGGTTGT
AAAGTACTTTCAGCGGGGAGGAAGGCGATAAGGTTAATAACCTTGTCGATTGAC
GTTACCCGCAGAAGAAGCACCGGCTAACTCCGTGCCAGCAGCCGCGGTAATACG
GAGGGTGCAAGCGTTAATCGGAATTACTGGGCGTAAAGCGCACGCAGGCGGTCT
GTCAAGTCGGATGTGAAATCCCCGGGCTCAACCTGGGAACTGCATTCGAAACTGG
CAGGCTAGAGTCTTGTAGAGGGGGGTAGAATTCCAGGTGTAGCGGTGAAATGCG
TAGAGATCTGGAGGAATACCGGTGGCGAAGGCGGCCCCCTGGACAAAGACTGAC
GCTCAGGTGCGAAAGCGTGGGGAGCAAACAGGATTAGATACCCTGGTAGTCCAC
GCCGTAAACGATGTCGATTTGGAGGTTGTGCCCTTGAGGCGTGGCTTCCGGAGCT
AACGCGTTAATCGACCGCCTGGGGA
Dòng vi khuẩn: Klebsiella pnemoniae OM-17.2
27F chiều xuôi 793 nu
GAACGCGCTACCATGCAAGTCGAGCGGTAGCACAGAGAGCTTGCTCTCGGGTGA
CGAGCGGCGGACGGGTGAGTAATGTCTGGGAAACTGCCTGATGGAGGGGGATAA
CTACTGGAAACGGTAGCTAATACCGCATAACGTCGCAAGACCAAAGTGGGGGAC
CTTCGGGCCTCATGCCATCAGATGTGCCCAGATGGGATTAGCTAGTAGGTGGGGT
AACGGCTCACCTAGGCGACGATCCCTAGCTGGTCTGAGAGGATGACCAGCCACA
CTGGAACTGAGACACGGTCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTGGGGAATATTG
CACAATGGGCGCAAGCCTGATGCAGCCATGCCGCGTGTATGAAGAAGGCCTTCG
GGTTGTAAAGTACTTTCAGCGGGGAGGAAGGCGATAAGGTTAATAACCTTGTCGA
TTGACGTTACCCGCAGAAGAAGCACCGGCTAACTCCGTGCCAGCAGCCGCGGTA
ATACGGAGGGTGCAAGCGTTAATCGGAATTACTGGGCGTAAAGCGCACGCAGGC
GGTCTGTCAAGTCGGATGTGAAATCCCCGGGCTCAACCTGGGAACTGCATTCGAA
ACTGGCAGGCTAGAGTCTTGTAGAGGGGGGTAGAATTCCAGGTGTAGCGGTGAA
ATGCGTAGAGATCTGGAGGAATACCGGTGGCGAAGGCGGCCCCCTGGACAAAGA
CTGACGCTCAGGTGCGAAAGCGTGGGGAGCAAACAGGATTAGATACCCTGGTAG
TCCACGCCGTAAACGATGTCGATTTGGAGGGTGT
Dòng vi khuẩn: Bacillus megaterium OM-17.5
27F chiều xuôi 777 nu
AACTGATTAGAAGCTTGCTTCTATGACGTTAGCGGCGGACGGGTGAGTAACACGT
GGGCAACCTGCCTGTAAGACTGGGATAACTTCGGGAAACCGAAGCTAATACCGG
ATAGGATCTTCTCCTTCATGGGAGATGATTGAAAGATGGTTTCGGCTATCACTTAC
AGATGGGCCCGCGGTGCATTAGCTAGTTGGTGAGGTAACGGCTCACCAAGGCAA
CGATGCATAGCCGACCTGAGAGGGTGATCGGCCACACTGGGACTGAGACACGGC
CCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTAGGGAATCTTCCGCAATGGACGAAAGTCT
GACGGAGCAACGCCGCGTGAGTGATGAAGGCTTTCGGGTCGTAAAACTCTGTTGT
TAGGGAAGAACAAGTACGAGAGTAACTGCTTGTACCTTGACGGTACCTAACCAG
AAAGCCACGGCTAACTACGTGCCAGCAGCCGCGGTAATACGTAGGTGGCAAGCG
TTATCCGGAATTATTGGGCGTAAAGCGCGCGCAGGCGGTTTCTTAAGTCTGATGT
GAAAGCCCACGGCTCAACCGTGGAGGGTCATTGGAAACTGGGGAACTTGAGTGC
AGAAGAGAAAAGCGGAATTCCACGTGTAGCGGTGAAATGCGTAGAGATGTGGAG
GAACACCAGTGGCGAAGGCGGCTTTTTGGTCTGTAACTGACGCTGAGGCGCGAA
AGCGTGGGGAGCAAACAGGATTAGATACCCTGGTAGTCCACGCCGTAACGATGA
GTGCTAAGTGTTAGAG
Dòng vi khuẩn: Pseudomonas boreopolis CP-18.2
27F chiều xuôi 880 nu
GCTACCATGCAAGTCGAACGGCAGCACAGGAGAGCTTGCTCTCTGGGTGGCGAG
TGGCGGACGGGTNNAGGAATACATCGGAATCTACCTTGTCGTGGGGGATAACGT
AGGGAAACTAACGCTAATACCGCATACGACCTACGGGTGAAAGCAGGGGACCTT
CGGGCCTTGCGCGATTAGATGAGCCGATGTCCGATTAGCTAGTTGGCGGGGTAAA
GGCCCACCAAGGCGACGATCGGTAGCTGGTCTGAGAGGATGATCAGCCACACTG
GAACTGAGACACGGTCCAGACTCCTACGGGAGGCAGCAGTGGGGAATATTGGAC
AATGGGCGCAAGCCTGATCCAGCCATGCCGCGTGGGTGAAGAAGGCCTTCGGGT
TGTAAAGCCCTTTTGTTGGGAAAGAAAAGCAATCGGTTAATACCCGGTTGTTCTG
ACGGTACCCAAAGAATAAGCACCGGCTAACTTCGTGCCAGCAGCCGCGGTAATA
CGAAGGGTGCAAGCGTTACTCGGAATTACTGGGCGTAAAGCGTGCGTAGGTGGT
GATTTAAGTCCGTTGTGAAAGCCCTGGGCTCAACCTGGGAATTGCAGTGGATACT
GGGTCACTAGAATGTGGTAGAGGGTAGCGGAATTCCTGGTGTAGCAGTGAAATG
CGTAGAGATCAGGAGGAACATCCGTGGCGAAGGCGGCTACCTGGACCAACATTG
ACACTGAGGCACGAAAGCGTGGGGAGCAAACAGGATTAGATACCCTGGTAGTCC
ACGCCCTAAACGATGCGAACTGGATGTTGGGTGCAACTTGGCACGCAGTATCGAA
GCTAACGCGTTAGTTCGCCGCCTGGGGNTTACGGTCGCAGACTGAACTCAAGGAA
TTGACGGGGCC
Phụ lục 10 Ghi nhận tổng quan 5 vụ rau thí nghiệm trong nhà lưới
Các thí nghiệm trong nhà lưới trên cây rau muống và cây cải xanh đều ghi nhận sự
khác biệt trong quá trình nảy mầm giữa các nghiệm thức có chủng vi khuẩn, IMO so với đối
chứng không chủng. Trong đó các nghiệm thức chủng vi khuẩn giúp hạt nảy mầm sớm hơn,
đồng đều hơn so với đối chứng
Hình C Sự khác biệt giữa nghiệm thức chủng vi khuẩn và đối chứng không chủng
Đối vối cây rau muống trong 3 vụ thí nghiệm cho thấy cây rau muống sinh trưởng và
phát triển tốt, ít bị sâu bệnh gây hại. Chỉ xuất hiện sâu ăn tạp/sâu keo (Spodoptera litura) ăn lá
rau từ 7 đến 15 ngày sau khi gieo và được bắt để loại trừ nên không ảnh hưởng đến năng suất,
trong vụ 3 rau muống có xuất hiện bệnh gỉ sắt trên lá nhưng không đáng kể và không xử lí
thuốc hoá học.
Hình D Sâu ăn tạp Spodoptera litura ăn lá rau được loại trừ
Đối với cây cải xanh, trong vụ cải 1 ghi nhận có xuất hiện xâu xanh hại cải và chúng
đã được loại bỏ bằng phương pháp bắt sâu, ngoài ra trên cây cải vụ này cũng có xuất hiện rầy
mềm (Aphis gossypii) hại cải thời điểm 18 ngày sau khi gieo có làm ảnh hưởng đến hình dạng
lá rau, tuyên nhiên do cây cải đã lớn nên ít ảnh hưởng đến năng suất. Tương tự vụ trong vụ cải
xanh thứ 2 cũng có xuất hiện rầy mềm hại cải ở thời điểm 7 ngày sau khi gieo và thời điểm 15
ngày sau khi gieo còn xuất hiện bọ nhảy (Phyllotrera spp.) ăn lá cải. Rầy mềm hại cải được
xử lí bằng dầu khoáng SK Enspray 99EC của công ty Cổ Phần Bảo Vệ Thực Vật Sài Gòn.
Thuốc sâu sinh học Chim Ưng 5.0WG của công ty TNHH thương mại và dịch vụ An Đô cũng
đã được sử dụng trong quá trình phòng trừ sâu, bọ hại cải. Vụ cải thứ 2 sâu và rầy hại cải đã
được phòng trừ sớm nên không ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất cải.
Hình E Rầy mềm (Aphis gossypii) hại cải ở thời điểm 20 ngày và 7 ngày sau khi gieo
Hình F Vụ cải xanh 2 ở điều kiện nhà lưới
Phụ lục 11 Tổng hợp năng suất rau muống và cải xanh trong nhà lưới
STT
Nghiệm thức
Trọng lƣợng tƣơi rau muống
(g.chậu-1)
Vụ 2
Vụ 1
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Đối chứng (0NPK)
Khuyến cáo 100N-48P2O5-24K2O
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
75N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
75N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
75N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
75N-48P2O5-24K2O + MT-16.5
75N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
75N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
75N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
75N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
75N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
75N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
50N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
50N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
50N-48P2O5-24K2O + OM-17.5
50N-48P2O5-24K2O + MT 16.5
50N-48P2O5-24K2O + hỗn hợp vk
50N-48P2O5-24K2O + IMO Củ lùn
50N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng tơi
50N-48P2O5-24K2O + IMO Ớt
50N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
50N-48P2O5-24K2O + IMO hỗn hợp
F
9,33g
28,3abc
24,3abcde
31,1a
27,6abc
28,9ab
29,5ab
16,0fg
29,2ab
20,7cdef
23,4abcdef
23,2abcdef
23,5abcdef
22,6bcdef
24,4abcde
23,5abcdef
22,6bcdef
22,2bcdef
26,9abcd
18,7ef
29,6ab
19,2def
24,6abcde
22,3bcdef
*
Vụ 3
13,7l
14,3h
42,7b
52,9a
34,6e
44,6ab
46,2a
52,1a
34,0ef
40,1abc
38,2c
36,6bcde
31,9g
41,5bc
31,7defg
37,7cd
37,1bcde 28,2hij
37,6cd
36,0bcdef
27,3j
37,7bcde
36,3d
38,7bcde
32,5fg
36,5bcde
29,4h
33,7cdefg
37,2cd
39,2bcd
23,6k
29,5efg
24,7k
25,9g
24,7k
31,6defg
24,9k
26,6fg
24,3k
28,2efg
27,2j
28,7efg
29,1i
33,8cdefg
23,5k
36,2bcdef
27,8ij
36,3bcde
*
*
Trọng lƣợng tƣơi cải
xanh (g.chậu-1)
vụ 1
TB
25,3o
12,4b
119c
41,3a
127b
34,5ab
144a
43,1a
114cd
33,9ab
106ef
34,6ab
98,9ghi
34,3ab
102fg
28,5ab
102fgh
31,5ab
103fg
31,4ab
105ef
29,5ab
106ef
32,7ab
125b
30,8ab
91,0jk
28,6ab
108e
33,6ab
25,5ab 86,2klm
85,3lm
24,4ab
82,0m
26,2ab
88,9kl
26,1ab
90,4jk
23,7ab
87,8kl
28,5ab
27,4ab 86,1klm
28,1ab 88,32kl
93,9ij
28,8ab
*
*
vụ 2 TB
24,3r 24,8
129i
124
148b
138
161a
153
140d
127
132h
119
130i
114
126j
114
129i
116
147c
120
137e
121
136f
121
134g
130
127j
109
133gh
121
100l 93,1
93,5n 89,5
96,5m 89,3
88,3p 88,6
87,5p 89,0
90,4o 89,1
97,5m 91,8
93,7n 91,0
97,7m 95,8
*
25,0
CV (%)
25,6
23,4
28,0
21,9
22,1
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Phụ lục 12 Kết quả đánh giá vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa trong rau qua 5 vụ
rau trong nhà lưới
Cải Xanh STT Vi sinh vật
1 Coliform
E. coli
2
Salmonella
3
Shigella
4 Rau Muống
Vụ 2
-
-
-
- Vụ 1
-
-
-
- Vụ 3
-
-
-
- Vụ 1
-
-
-
- Vụ 2
-
-
-
-
*Lưu ý: "-" : không phát hiện trong các mẫu rau
Phụ lục 13 Ghi nhận tổng quan 4 vụ rau thí nghiệm ngoài đồng
Ghi nhận sơ bộ tình hình thời tiết các vụ rau thí nghiệm ngoài đồng cho thấy trong vụ
rau muống và cải xanh thứ nhất (gieo hạt ngày 27.4.2020 đến 27.5.2020) là thời điểm nắng
hạn, nóng kéo dài, nước mặn xâm nhập và có xuất hiện 1 cơn mưa vào ngày 25.5.2020. Điều
kiện nắng nóng trong thời gian thí nghiệm vụ rau thứ nhất đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
và năng suất của cây rau mà nhất là cây cải xanh. Tuy nhiên trong vụ rau thứ 2 gieo hạt từ
ngày 23.6.2020 đến 25.7.2020 là thời điểm mưa nhiều nhất là giai đoạn 15 đến 25 tháng 7
năm 2020 mưa lớn liên tục. Thời tiết như thuận lợi cho sự phát triển của cây rau muống, đối
với cây cải xanh giai đoạn đầu cây rau sinh trưởng rất thuận, tuy nhiên giai đoạn 25-33 ngày
không thuận lợi vì xuất hiện hiện tượng nấm bệnh gây úng lá rau, và hiện tượng này diễn ra
nhanh và mạnh ở các lô nghiệm thức chỉ bón phân đạm hóa học nhất là nghiệm thức bón đủ
100%N.
Đối với thí nghiệm cây rau muống trong 2 vụ được ghi nhận cụ thể như sau: trong vụ
rau muống 1 do thời điểm gieo hạt 27.4.2020 nắng nóng, dù lượng hạt gieo theo khuyến cáo
của nhà sản xuất tuy nhiên tỷ lệ hạt nảy mầm có giảm không đáng kể đặc biệt là các nghiệm
thức đối chứng không chủng vi khuẩn. Ngoài ra có xuất hiện côn trùng (dế) ăn cây mầm giai
đoạn 3-7 ngày sau khi gieo và đã được xử lí bằng thuốc diệt côn trùng. Ghi nhận cũng cho
thấy ở các lô thí nghiệm chỉ bón phân hóa học cây rau có dấu hiệu còi cọc do thiếu đạm do
lượng đạm bón cho rau có thể bị mất do nắng gắt và nắng nóng. Cây rau lúc thu hoạch quan
sát cảm quan cho thấy chúng sơ cứng, ít mượt mà hơn các nghiệm thức có chủng các dòng vi
khuẩn hoặc IMO hoặc chế phẩm vi sinh thương mại.
Hình G Thu sinh khối tươi vụ rau muống 1 ở ngoài đồng
Đối với cây cải xanh vụ 1 do thời tiết nóng hạn kéo dài không thuận lợi cho cây cải
phát triển đặc biệt là giai đoạn cây trải lá kéo dài kích thước lá nhỏ, cây cải thấp, tuy nhiên
thời điểm 25 ngày sau khi gieo có xuất hiện mưa nên cây cải phát triển nhanh sau đó. Trong
vụ cải 2 điều kiện mưa liên tục nên khu vực bố trí trồng cải xanh xuất hiện ruồi đục lá
(Liriomyza sp.), và đã được phòng trị bằng thuốc NeemNim xoan xanh green 0,3 EC của công
ty GreeNeem Agri Ấn Độ. Ngoài ra thí nghiệm cũng ghi nhận xuất hiện bệnh úng và chết cây
ở cải xanh đặc biệt là các nghiệm thức chỉ bón phân hoá học và đã làm giảm năng suất của
các nghiệm thức này.
Hình H Khu thí nghiệm cải xanh vụ 2 trồng ở điều kiện ngoài đồng
Phụ lục 14 Tổng hợp năng suất rau muống và cải xanh ở điều kiện ngoài đồng
Năng suất rau (kg/m2)
Nghiệm thức
Trung
bình
2,06
1,65
2,08
2,36
2,24
2,43
2,16
1,81
Đối chứng 70N-48P2O5-24K2O
Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + CP VSTM
52,N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
52,5N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
52,5N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
52,5N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 VK
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
CX
Trung
Vụ 1
bình
4,37 2,14bc
1,60f
3,28
2,02e
4,36
2,37a
4,46
5,22 2,16cd
5,43 2,35ab
4,79 2,30ab
1,64f
4,88
4,78 2,05de
*
13,4
RM Vụ
2
5,21cd
3,39g
4,87ef
4,84f
5,87a
5,71ab
5,06de
5,59b
5,31c
*
13,9
CX Vụ
2
1,97c
1,70d
2,13bc
2,35ab
2,32ab
2,50a
2,01c
1,97c
2,13bc
*
11,3
F
CV (%)
RM
Vụ 1
3,52e
3,16f
3,84de
4,08cd
4,57b
5,15a
4,52b
4,17c
4,25bc
2,09
*
13,9
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Phụ lục 15 Tổng hợp hàm lượng nitrate trong 4 vụ rau thí nghiệm ở ngoài đồng
Nghiệm thức
STT
Đối chứng 70N-48P2O5-24K2O
Đối chứng 52,5N-48P2O5-24K2O
52,5N-48P2O5-24K2O + CP VSTM
52,N-48P2O5-24K2O + TP-1.3
52,5N-48P2O5-24K2O + TP-1.4
52,5N-48P2O5-24K2O + MQ-2.5
52,5N-48P2O5-24K2O + Hỗn hợp 3 VK
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Mồng Tơi
52,5N-48P2O5-24K2O + IMO Tre
Thời gian cách li so với thời điểm
bón phân lần cuối
1
2
3
4
5
6
7
8
9 2.368a
1.874b
1.438c
1.671c
1.336f
1.585cde
1.640cd
1.473def
1.324f
*
22,6 6 Ngày
2.186a
348f
1.348c
1.535b
1.250c
1.644b
757e
1.636b
987d
*
3,25 F
CV (%)
Hàm lượng nitrate (mg.kg1)
RM Vụ 1 RM Vụ 2 CX Vụ 1 CX Vụ 2
10 Ngày 13 Ngày
10 Ngày
885a
1.232a
15f
1.097a
250d
384bc
506b
363bc
136e
245c
357c
440b
136e
481b
169de
348bc
591b
406bc
*
*
7,55
61,9
*Lưu ý: trong cùng một cột các số có chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) theo phương pháp kiểm định Tukey.
Phụ lục 16 Kết quả đánh giá vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa trong rau qua 4 vụ
thí nghiệm ngoài đồng
Rau Muống Cải Xanh STT Vi sinh vật Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2
1 Coliform - - - -
2 E. coli - - - -
3 Salmonella - - - -
- - - 4 Shigella
-
*Lưu ý: "-" : không phát hiện trong các mẫu rau