BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN TỊNH MINH TRÍ

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ

CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN TỊNH MINH TRÍ

PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ

CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Kinh Tế Phát Triển

Mã Số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HAY SINH

Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất

kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn.

Trần Tịnh Minh Trí.

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT

DANH MỤC PHỤ LỤC

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1

1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ. .............................................................................................. 1

1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 4

1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .......................................................................... 4

1.3.1 Mục tiêu tổng quát: ................................................................................. 4

1.3.2 Mục tiêu cụ thể: ...................................................................................... 4

1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu: ................................................................................... 4

1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 4

1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI .......................................................................................... 5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ........ 7

2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ .................................. 7

2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) ) ........ 8

2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe. ......................................... 8

2.2.2 Công bằng và sức khỏe. ............................................................................ 14

2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân. ................................................................ 18

2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG. ............................................ 21

2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN. ............................................................... 22

2.4.1 Mô hình nghiên cứu. .................................................................................. 22

2.4.2 Công bằng trong tiếp cận dịch vụ. ............................................................ 24

2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. .................................. 25

2.5 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................ 26

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 28

3.1 KHUNG PHÂN TÍCH. .................................................................................... 28

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH. ............................................. 29

3.2.1 Sự cần thiết của việc phỏng vấn tay đôi. ................................................... 29

3.2.2 Phỏng vấn tay đôi. ..................................................................................... 29

3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG ......................................... 32

3.3.1 Mô hình hồi quy. ........................................................................................ 32

3.3.2Thiết kế khảo sát. ........................................................................................ 35

3.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................ 37

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................ 39

4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH ........................................................ 39

4.1.1 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với giới chuyên gia, bác sỹ. ................ 39

4.1.2 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với người có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. .................................................................................. 42

4.1.3 Bảng tổng hợp chung của hai đối tượng phỏng vấn là giới chuyên gia, bác sỹ với người có khả năng thực hiện quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ............................................................................................................................ 45

4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG. ................................................... 46

4.2.1 Thống kê mô tả. ......................................................................................... 46

4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Logistic. ............................................................. 56

4.3 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ................................................................................ 61

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT

KTSKĐK: Kiểm tra sức khỏe định kỳ.

BYT: Bộ y tế.

CEA: Phân tích chi phí hiệu quả.

ACER: Chỉ số hiệu quả trung bình.

QUALY: Chất lượng sống.

GSO: Tổng cục thống kê.

GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.

BV: Bệnh viên.

FFS: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí.

HMO: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe được bảo trợ.

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1 : Bảng câu hỏi dùng cho chuyên gia, bác sỹ.

Phụ lục 2: Bảng câu hỏi dùng cho người tham gia.

Phụ lục 3: Danh sách các chuyên gia.

Phụ lục 4: Bảng câu hỏi khảo sát định lượng.

Phụ lục 5: Bệnh bẩm sinh, bệnh mạn tính.

Phụ lục 6: Bảng dữ liệu khảo sát.

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ.

Vấn đề sức khỏe trở nên rất quan trọng , vì nó được xem như là một trong

những yếu tố chính trong việc hạn chế đói nghèo, phát triển bền vững của nền kinh

tế ( World Bank (1993); Smith (1999) ).

Không lâu trước đây, sức khỏe tốt được xem như là món quà của tự nhiên và

sức khỏe tồi được coi như những điều không may mắn. Tuy vậy, những thành quả y

tế hiện đại đã tạo ra niềm tin về việc con người có thể đạt tới một sức khỏe tốt khi

sử dụng chúng đúng cách. ( Peter Zweifel (2009) ).

Y tế dự phòng là một phương pháp giúp tiết kiệm chi phí cho cá nhân và toàn

xã hội hơn là phương pháp cứu chữa hiện nay. Phòng bệnh có nghĩa là phải kiểm tra

sức khỏe định kỳ, trước khi các mầm bệnh phát triển. ( Ariely, (2008) ).

Vì vậy để có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta phải luôn chắc

chắn sức khỏe của chúng ta được kiểm soát chặt chẽ. Để thực hiện được điều này,

chúng ta phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các cơ sở chăm sóc sức

khỏe.

Qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta có thể phòng ngừa được bệnh

tim mạch, tăng mỡ máu ở người lớn tuổi , đây là nguyên nhân quan trọng gây tăng

huyết áp, dẫn đến biến chứng tai biến mạch máu não, một vài căn bệnh ung thư có

thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm,…Tuy nhiên , ở Việt Nam chúng ta hiện nay

đa số người dân chỉ đến cơ sở y tế khi cơ thể đã phát bệnh, khi cảm thấy khó chịu

với các triệu chứng và đang suy yếu. Chính thói quen này làm cho cơ hội chữa khỏi

bệnh không cao, không hiệu quả về chi phí đầu tư cho sức khỏe.

Việt Nam hiện nay là quốc gia đang có sự phát triển về nhiều mặt, ý thức của

người dân về một cuộc sống khỏe mạnh cũng được thể hiện khá rõ, qua việc họ

ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa, thực phẩm, các công viên, câu lạc bộ

thể dục ngày càng đông người luyện tập. Thế nhưng việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,

một việc làm quan trọng để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe thì chưa được quan tâm.

2

Lâu nay chính sách của chúng ta chỉ tập trung vào việc kiểm tra sức khỏe định kỳ

cho những đối tượng đặc thù như: người lao động trong môi trường độc hại, các cơ

quan, công ty, thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên

của mình. Chưa có cơ chế khuyến khích toàn dân.

Hãy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều kiểm tra sức khỏe định kỳ, sẽ có bao

nhiêu bệnh nghiêm trọng có thể được phát hiện, bao nhiêu chi phí có thể được cắt

giảm và bao nhiêu người sẽ giảm nổi khốn khổ nhờ phát hiện bệnh sớm?

Với nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi của Việt Nam hiện nay, rất

nhiều yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe như: thực phẩm kém chất lượng, bụi bẩn

và ô nhiểm môi trường từ quá trình công nghệp hóa, áp lực tài chính và công việc

gia tăng…, nhất là tại các thành phố lớn. Qua đó chúng ta thấy rằng việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống là rất cần thiết. Làm

sao chúng ta có thể nâng cao ý thức của người dân về việc kiểm tra sức khỏe định

kỳ?

Để có được những định hướng đúng, những chính sách phù hợp, hiệu quả

trong việc khuyến khích người dân tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta

cần phải biết được các yếu tố nào trong xã hội Việt nam hiện nay tác động đến

quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ. Các yếu tố cơ bản trong xã hội Việt

nam hiên nay như là:

Trình độ dân trí Việt Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ

tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004

tổng số sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008

tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966

trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là

81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh( nguồn: Nguồn nhân

lực Việt nam – Bộ Giáo duc. 22/6/ 2010 ).

Thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt nam dựa trên số liệu của

Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014

tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD, tính theo

3

tỷ giá của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vào ngày 31/12/2014 là 21.400

đồng/USD.Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014 (cũng theo số

liệu do GSO công bố), GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028

USD, tương đương 169 USD/tháng.Trước đó, năm 2013, tổng sản phẩm quốc nội

của Việt Nam đạt 3.584.262 tỷ đồng tính theo giá hiện hành, theo đó GDP bình

quân đầu người đạt 1.900 USD, tăng so với mức 1.749 USD của năm 2012.Với mức

thu nhập 169 USD/ tháng tương đương với 3,380,000VND/ tháng đây là mức thu

nhập trung bình thấp so với các nước trong khu vực. ( Nguồn: Tổng cục thống kê –

2014 )

Trong 10 năm qua, số người trong độ tuổi 15-64 đã tăng lên 12,6 triệu người,

từ 46,7 triệu người năm 1999 lên 59,3 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân số từ 65

tuổi trở lên tuy cũng tăng lên nhưng không đáng kể. Sau 30 năm, tỷ trọng này chỉ

tăng được 1,6 điểm phần trăm (từ 4,8% năm 1979 lên 6,4% năm 2009). ( nguồn:

Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình 2014 ).

Tình hình cung cấp dịch vụ y tế cho người dân ở Việt nam hiện nay: Bệnh

viện Ung bứơu TP Hồ Chí Minh là tuyến cuối của người bệnh mắc bệnh ung thư

khu vực phía nam. Số giường thực kê của BV chỉ có 631 giường. Trung bình mỗi

ngày BV điều trị nội trú gần hai nghìn người bệnh, bệnh nhân ngoại trú gần 10

nghìn người. Trong khi cơ sở vật chất BV đang xuống cấp, chật hẹp, trang thiết bị

thiếu... Hằng ngày, số lượng người bệnh đến khám, điều trị luôn trong tình trạng

"vượt ngưỡng" quá tải. Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) có tới 25/26 chuyên khoa (trừ

khoa Da liễu) luôn trong tình trạng quá tải. Có những chuyên khoa thường quá tải

khoảng 200% như: Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Viện Tim mạch Quốc

gia, Khoa Thận - tiết niệu, Khoa Hô hấp, Khoa Thần kinh... Số lượng bệnh nhân nội

trú điều trị tại BV Bạch Mai liên tục tăng theo các năm. Bệnh nhân ngoại trú đến

khám tại bệnh viện cũng liên tục tăng với gần 800 nghìn bệnh nhân năm 2010, làm

cho tình trạng quá tải ngày càng căng thẳng. ( nguồn: Báo Nhân Dân, 6/1/2012 ) .

Với tất cả những yếu tố cơ bản trên, và còn thêm những yếu tố nào khác trong

xã hội Việt nam hiện nay, có tác động đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ

4

của người dân. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố thực sự tác động

đến quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân.

1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm

tra sức khỏe định kỳ của người dân.

Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Đây là địa bàn có

dân số đông nhất cả nước, đặc điểm dân số đa dạng, mức sống bình quân tương đối

cao so với cả nước, nhu cầu về sức khỏe cá nhân được thể hiện khá rõ nét. Hệ thống

chăm sóc sức khỏe nơi đây đa dạng, phong phú và hiện đại nhất cả nước. Đồng thời

đây cũng là nơi có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Với nguồn lực

và thời gian có hạn, nghiên cứu khó có thể thực hiện trên phạm vi toàn quốc.

Nghiên cứu sẽ thực hiện khảo sát ba quận cụ thể của TP Hồ Chí Minh là quận 1,

quận 10, quận Tân Bình, đây là ba quận có khả năng đại diện cho cấu trúc đa dạng

của dân cư đang sinh sống tại Tp Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu sẽ khảo sát việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân trong khoản thời gian từ năm 2010 đến 2015.

1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.3.1 Mục tiêu tổng quát:

Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của

người dân.

1.3.2 Mục tiêu cụ thể:

- Phân tích xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe

định kỳ.

- Giải thích nguyên nhân tại sao người dân thực hiện hay không thực hiện việc

kiểm tra sức khỏe định kỳ.

1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu:

- Các yếu tố nào tác động đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân?

- Chúng tác động theo xu hướng như thế nào?

1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5

Nghiên cứu được thực hiện đồng thời hai phương pháp, phương pháp định tính

và phương pháp định lượng.

Nghiên cứu dùng phương pháp định tính. Thảo luận cùng các chuyên gia, bác

sỹ, các người dân có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, để xác

định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của

người dân, đưa ra được bảng câu hỏi dùng cho khảo sát nghiên cứu định lượng.

- Nghiên cứu định tính để xác định rõ hơn các yếu tố nào tác động đến quyết

định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân và tại sao người dân lại thực hiện hay

không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Người nghiên cứu sẽ sử dụng

phương pháp phỏng vấn tay đôi với đối tượng nghiên cứu đó là giới chuyên gia sức

khỏe, bác sỹ và người có khả năng tự quyết định tham gia kiểm tra sức khỏe định

kỳ. Chi tiết về phương pháp định tính, cách thức thu nhập và phân tích dữ liệu sẽ

được đề cập chi tiết trong chương ba.

Nghiên cứu dùng phương pháp định lượng, gồm thống kê mô tả và mô hình

hồi quy logistic.

- Từ kết quả nghiên cứu định tính có được, kết hợp với các cơ sở lý thuyết, các

nghiên cứu thực nghiệm mà người nghiên cứu có được phương trình hồi quy với

các biến cần thiết, khả thi, phù hợp, có thể khảo sát, đo lường được với môi trường

Việt nam hiện nay, tác động đến việc thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ của người dân. Từ phương trình hồi quy này, người nghiên cứu sử

dụng mô hình hồi quy Logistic để biết được xu hướng ảnh hưởng của các yếu tố đến

quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, phân tích mối tương quan

của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Chi tiết về

phương pháp và mô hình sử dụng trong nghiên cứu sẽ được đề cập đến trong

chương ba.

1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI

Đề tài gồm có năm chương:

- Chương 1: Giới thiệu về sự cần thiết trong xã hội hiện nay của đề tài nghiên

cứu. Phân tích nguyên nhân tại sao chúng ta cần phải kiểm tra sức khỏe định kỳ, ở

6

độ tuổi nào chúng ta nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, dựa trên các

khuyến cáo của các tổ chức y tế có uy tín và lời khuyên của các chuyên gia. Nêu rõ

đối tượng của đề tài nghiên cứu, tại sao đề tài lại tập trung vào độ tuổi của đối tượng

nghiên cứu từ bốn mươi tuổi trở lên. Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, để trả lời

những câu hỏi nghiên cứu nào. Giới thiệu về phương pháp mà người nghiên cứu sử

dụng để làm sáng tỏ vấn đề và phạm vi mà nghiên cứu này khảo sát để nghiên cứu.

- Chương 2: Giới thiệu về cơ sở lý thuyết mà người nghiên cứu vận dụng trong

lý luận của đề tài, các nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi những người

đi trước, người nghiên cứu đã vận dụng cho nghiên cứu của mình.

- Chương 3: Giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà người nghiên cứu sử

dụng, đó là nghiên cứu định tính và định lượng trong nghiên cứu của mình. Phương

pháp phỏng vấn tay đôi, phương pháp thu nhập dữ liệu, giới thiệu về mô hình

Logistic.

- Chương 4: Giới thiệu về kết quả nghiên cứu được từ phương pháp nghiên

cứu định tính, đưa ra khung phân tích sử dụng cho việc nghiên cứu định lượng, định

hình các biến tác động, kết quả nghiên cứu từ nghiên cứu định lượng.

- Chương 5: Kết luận và kiến nghị chính sách của người nghiên cứu, dựa trên

kết quả nghiên cứu đạt được.

- Tài liệu tham khảo

- Phụ lục.

7

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ

Kiểm tra sức khỏe định kỳ tức là người dân ít nhất một lần trong năm đến

trung tâm chăm sóc sức khỏe, để được các bác sỹ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe

cho mình. Các việc cụ thể được thực hiện như sau ( Theo quy định của thông tư số

13/2007/ TT – BYT ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Bộ Y Tế. ):

- Tiếp nhận hồ sơ và hoàn thành các thủ tục hành chính: Đối tượng khám sức

khỏe có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thông tin cá nhân,

tình trạng sức khỏe hiện tại, tiền sử bệnh tật của bản thân và gia đình trong phần

tiền sử của đối tượng khám sức khỏe.

- Khám thể lực: Đo chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số BMI,

mạch, nhiệt, huyết áp và nhịp thở.

- Khám lâm sàng toàn diện theo các chuyên khoa.

- Khám cận lâm sàng.

o Cận lâm sàng bắt buộc:

 Công thức máu, đường máu.

 Xét nghiệm nước tiểu: Tổng phân tích nước tiểu ( đường, protein, tế bào.)

 Chụp X quang tim phổi thẳng, nghiêng. Thực hiện theo chỉ định của bác sỹ

lâm sàng.

o Cận lâm sàng khác: Đối tượng khám sức khỏe phải được làm thêm

các xét nghiệm cận lâm sàng khác khi có chỉ định của bác sỹ lâm sàng, hoặc yêu

cầu của đối tượng khám sức khỏe.

- Các bác sỹ khám lâm sàng phải phân loại sức khỏe, ký và ghi rõ họ tên vào

giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ và phải chịu trách nhiệm về

kết luận của mình. Người ghi các kết quả cận lâm sàng phải ký và ghi rõ họ tên vào

giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ.

8

2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) )

Để trả lời cho những câu hỏi thường gặp khi chúng ta buộc phải bỏ tiền ra để

thực hiện một việc nào đó trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, ví dụ: chúng ta có nên

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không? Chúng ta có nên tiến hành tầm

soát ung thư hay không? Chúng ta có nên tiến hành một chương trình khuyến khích

người dân ăn sáng hay không? Chúng ta có nên tiến hành chương trình giám sát thị

lực ở trường học không?...Để có cơ sở trả lời cho các câu hỏi trên, lý thuyết về kinh

tế học sức khỏe sẽ cung cấp cho ta các công cụ trả lời dưới góc độ kinh tế, công

bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe.

2.2.1.1 Tầm quan trọng của việc xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe.

“ Sự sống là vô giá” là một luận điểm phổ biến mà nhiều người sẽ đồng ý.

Nhưng những quyết định trong vấn đề cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe không

chỉ là của những cá nhân mà còn đến từ phía các nhà hoạch định chính sách. Ta có

hai vấn đề cần giải quyết: Bảo vệ hay kéo dài mạng sống của một con người – Tiêu

tốn những nguồn lực có hạn của xã hội. Ta có một quyết định mang tính đánh đổivà

đó là một quyết định quan trọng. Cho một quyết định như vậy, ta cần những phân

tích mang tính hệ thống, cân nhắc kỹ lưỡng những yếu tố liên quan. Những phân

tích kinh tế theo hướng định giá, ở một mức độ nào đó, thỏa mãn những đòi hỏi trên

vì ít nhất có ba lý do sau đây:

- Tất cả những phương án khả thi đều phải được đề cập, thế nên phân tích

đánh giá cần có tính hệ thống. Đôi khi trong lúc cân nhắc quyết định về việc đưa ra

một phương án chăm sóc sức khỏe mới, người ta không nhắc đến các phương án có

sẵn như một chọn lựa. Hoặc trong trường hợp các phương án phòng ngừa cũng có

thể được coi như phương án tốt bên cạnh các phương án điều trị, và nên được thêm

vào danh sách lựa chọn. Nên để ý rằng khi một phương án mới được đem ra so

sánh với một phương án có sẵn thì bản thân phương án có sẵn nên đạt hiệu quả về

mặt chi phí. Một phương án sẽ không hiệu quả nếu có một phương án khác cho kết

quả tương tự nhưng với chi phí thấp hơn.

9

- Những phân tích xác định giá trị kinh tế thường dựa trên quan điểm của một

nhóm người nào đó, điều này rất quan trọng. Một phương án có thể không hấp dẫn

cho một bên nào đó, nhưng lại hiệu quả trong quan điểm của những bên khác.

Trong thực tiễn quan điểm có thể khác nhau từ các phía: cá nhân bệnh nhân; các cơ

quan, định chế; nhóm mà các dịch vụ y tế nhắm đến, ngân sách của bộ y tế, ngân

sách của chính phủ và các quan điểm mang tính cộng đồng hay xã hội.

- Nếu không có những sự đo lường nghiêm túc, sự không chắc chắn trong xếp

hạng thứ tự quan trọng là rất lớn. Nếu không có nỗ lực trong việc đo lường và so

sánh những giá trị đầu ra và đầu vào, chúng ta có rất ít cơ sở để đưa ra kết luận.

2.2.1.2 Xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe là gì?

Với mọi hoạt động mà một phân tích kinh tế nhắm đến, nó có hai tính chất:

- Thứ nhất nó tính đến đầu vào và đầu ra của quá trình ( hay còn gọi là chi phí

và kết quả ).

- Thứ hai về bản chất, những phân tích kinh tế liên quan tới lựa chọn. Nguồn

lực là khan hiếm và sự thật hiển nhiên là không thể sản xuất ra một sản lượng thỏa

mãn mọi mong muốn. Vì vậy, người ta phải lựa chọn và đánh đổi. Những lựa chọn

được đưa ra trên nhiều tiêu chuẩn cơ sở, đôi khi rõ ràng, đôi khi không. Những phân

tích kinh tế sẽ xác định và làm rõ một nhóm những tiêu chuẩn có thể giúp cho việc

lựa chọn giữa các phương án.

Hai tính chất trên dẫn đến việc các phân tích xác định giá trị kinh tế được định

nghĩa như một phân tích so sánh những phương án khác nhau về mặt chi phí và kết

quả. Vì thế nhiệm vụ cơ bản của bất cứ một phân tích xác định giá trị kinh tế nào,

đều là xác định, đo lường, tính toán thành giá trị và so sánh chi phí và kết quả của

các phương án được đề ra. Phân tích kinh tế trong vấn đề sức khỏe không phải là

một ngoại lệ.

2.2.1.3 Tổng quan về những kỹ thuật xác định giá trị kinh tế.

- Phân tích hiệu quả chi phí ( CEA ): Phân tích hiệu quả chi phí là phương

pháp dùng cho việc đánh giá kết quả và chi phí của những dự án cải thiện sức khỏe.

Các nghiên cứu dạng này đã được dùng để so sánh chi phí và số năm sống thêm cho

10

những phương án y tế khác nhau. Kết quả của nghiên cứu thường được tổng kết

dưới dạng một chuỗi những tỉ số hiệu quả chi phí cho những nhóm bệnh nhân khác

nhau hoặc các phương án khác nhau.

Những phân tích dạng này đo lường sức khỏe theo thước đo “ tự nhiên” ,

thước đo này có thể là một thước đo y học, hoặc tuổi thọ. Thước đo này chỉ có ý

nghĩa trong trường hợp những phương án khác biệt trong một tác động nào đó và

không có tác dụng phụ.

Đối với những phương án độc lập với nhau, chỉ số dùng để so sánh là chỉ số

hiệu quả trung bình ( ACER ). Nếu hiệu quả được đo bằng số năm tuổi thọ, chỉ số

so sánh này có dạng:

ACER = Chi phí bằng tiền/ Kết quả tính bằng số năm tăng lên trong tuổi thọ.

Nếu những phương án có tính loại trừ, ta cần xem xét tỷ lệ mức tăng lên trong

chi phí đối với mức tăng lên trong lợi ích. Trong trường hợp này chúng ta dùng “ tỷ

số tăng hiệu quả chi phí “ ( ICER ). “ Tỷ số tăng hiệu quả chi phí” của một phương

án được định nghĩa bằng tỷ số của mức tăng trong chi phí và mức tăng trong hiệu

quả khi so sánh với phương án hiệu quả tiếp theo.

ICER = Chi phí tăng lên/ Kết quả tăng lên.

- Phân tích chi phí thỏa dụng

Đo lường mức thỏa dụng: Một vài khái niệm về mức thỏa dụng đã được phát

triển để gộp những tác động đa chiều của một phương án lại thành một tác động một

chiều. Trong số chúng, những thước đo sau đây là phổ biến nhất.

Tuổi thọ giảm đi điều chỉnh theo mức độ khuyết tật ( DALY ): Khái niệm này

được phát triển từ năm 1993 trong báo cáo phát triển Thế giới của World Bank.

DALY đo lường mức giảm xuống của tuổi thọ có tính đến mức giảm của sức khỏe

so với một mức chuẩn về tuổi thọ kỳ vọng là 80 năm cho nam giới và 82,5 năm cho

nữ giới. Trọng số bệnh tật được xác định bởi những chuyên gia và được dùng để

đánh giá những tình trạng sức khỏe thấp hơn mức hoàn toàn khỏe mạnh. Bên cạnh

đó, trọng số này áp dụng cho những tuổi đời khác nhau. Trọng số lớn nhất được gắn

cho việc mất đi một năm tuổi thọ ở mức sức khỏe của độ tuổi 25. Mức thỏa dụng từ

11

một phương án y tế được đo bằng số DALY tổn thất tránh được. DALY được sử

dụng bởi nhiều tổ chức ( như WHO ) để so sánh sức khỏe người dân ở nhiều nước

trên thế giới.

Tuổi thọ tăng thêm điều chỉnh theo chất lượng sống ( QALY ): Khái niện về

QALY dựa trên nghiên cứu của Klarman và cộng sự ( 1968 ), những người đầu tiên

đề cập cả số năm tăng lên trong tuổi thọ và sự thay đổi trong chất lượng sống đo

bằng một chỉ số. Cũng như DALY, mỗi trạng thái sức khỏe được gắn với một trọng

số bệnh tật. Tuy vậy, những người trong số này thường được xác định bằng cách

điều tra những người liên quan tới phương án sức khỏe. Số QALY của mỗi người

được tính bằng cách nhân mức tuổi thọ kỳ vọng của mỗi trạng thái sức khỏe với chỉ

số đau bệnh ( hay khỏe mạnh ) của chúng rồi cộng lại . Mức thỏa dụng của một

phương án được đo bằng số QALY tăng lên.

Số năm khỏe mạnh tương đương ( HYE ): Khái niêm này bắt nguồn từ nghiên

cứu của Mehrez và Gafni ( 1989 ), dựa vào hồ sơ diễn tiến sức khỏe. Những cá nhân

được hỏi về mức mà họ đánh giá tình trạng sức khỏe có thể đạt được với một

phương án. Cụ thể, họ được hỏi về số năm khỏe mạnh tương đương mà họ cho là

ngang bằng với hồ sơ diễn tiến sức khỏe được hỏi.

Trong khái niệm của DALY, chất lượng sống được đánh giá bởi các chuyên

gia, trong khi đối với trường hợp hai thước đo còn lại, sự đánh giá được tiến hành

bởi những bệnh nhân thực sự hay bệnh nhân tiềm năng. Hướng tiếp cận sau là đúng

đắn hơn vì những người bị tác động ( hoặc có tiềm năng bị tác động ) có khả năng

đánh giá tốt hơn về sức khỏe của chính họ, hơn nữa, họ chính là những người chi trả

cho các chi tiêu sức khỏe công cộng. Ngược lại những chuyên gia chỉ có khả năng

hơn ở mặt kỹ thuật y tế. Vậy nên khái niệm DALY dường như khó có thể thỏa mãn

như một nền tảng cho việc ra quyết định. Vì thế nó được sử dụng cho những so sánh

ở tầm đa quốc gia.

Trong các khái niệm DALY và QALY, thứ tự mà các trạng thái khác nhau

diễn ra không quan trọng. Ngược lại, Khái nệm HYE đánh giá hồ sơ của toàn bộ

diễn tiến trạng thái sức khỏe tạo ra từ một phương án y tế. Vì thế HYE về bản chất

12

sẽ được ưa dùng hơn, nhưng trong mọi tình huống nó được coi là tốn kém hơn, vì

toàn bộ hồ sơ diễn tiến sức khỏe cần một sự mô tả rất dài.

Khái niệm QALY rất đơn giản để áp dụng. Một khi trọng số thỏa dụng được

xác định, việc đánh giá một phương án là rất dễ dàng. Tuy nhiên, vì QALY được

dùng để hổ trợ việc ra quyết định phân phối nguồn lực trong lĩnh vực chăm sóc sức

khỏe, các quyết định này cần có cơ sở lý thuyết đúng đắn. Chúng ta sẽ phân tích

QALY trong lý thuyết “ mức thỏa dụng kỳ vọng”, lý thuyết phổ biến nhất cho việc

ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Dù thỏa dụng kỳ vọng không phải là

một lý thuyết hoàn hảo về hành vi với điều kiện không chắc chắn, nó có thể đóng

vai trò một hướng dẫn chuẩn cho việc ra quyết định một cách lý trí, nếu người ta

đồng ý rằng lựa chọn được đưa ra thỏa mãn những tiền đề cơ sở của lý thuyết này.

Chúng ta bắt đầu với một dạng đơn giản của các mô hình QALY, trong đó

không có việc chiết khấu và không có tính “ e ngại rủi ro” theo tuổi thọ ( hay còn

gọi là bàng quan với rủi ro theo tuổi thọ ). Để đơn giản, coi tất cả các tình trạng sức

khỏe ( vector Hh với h = 1,2,….m ) là thường xuyên ( tình trạng sức khỏe là không

đổi – giả định này chỉ được dùng để tiện cho việc biến đổi và không phải là một tính

chất của một mô hình QALY ). Sự kết hợp ( Hh , Tt ) xảy ra với xác suất πh . Lúc đó

một cá nhân phải đối diện với một sự may rủi về những tình trạng sức khỏe thường

xuyên ( πh , Hh , Th ) với h = 1,…,m. Giả định rằng sự ưa thích thỏa mãn các tiền đề

Neumann – Morgenstern. Nếu mức thỏa dụng của việc sống Th nằm trong tình trạng

thường xuyên Hh ký hiệu là u ( Hh, Th ), sự ưa thích của cá nhân được thể hiện bằng

mức thỏa dụng kỳ vọng:

h=1πhu( Hh , Th )

EU = Σm (1)

Để chuyển mức thỏa dụng kỳ vọng thành số QALY, hàm thỏa dụng phải có

dạng:

(2) u ( Hh , Th ) = v(Hh)Th

Với hai phương trình trên ta có

h=1πhThv( Hh )

EU = QALY = Σm (3)

13

Nghĩa là mức thỏa dụng kỳ vọng bằng tổng thỏa dụng của những trạng thái

sức khỏe được đánh tỷ trọng bằng độ dài thời gian và xác suất xảy ra của chúng.

Vì trong lý thuyết mức thỏa dụng kỳ vọng , hàm thỏa dụng v() là một hàm số

lượng và được xác định theo dạng positive affine transformation ( ví dụ: một dạng

hàm tăng bậc nhất đơn điệu: v(x) = ax + b với a>0 ), v() có thể được chọn mà không

làm mất đi tính tổng quát theo cách để mức thỏa dụng của tình trạng sức khỏe hoàn

hảo v(H*) là 1 và mức thỏa dụng của tình trạng chết là 0. Từ đó, mức thỏa dụng kỳ

vọng của một cá nhân có thể được giải thích bằng số năm tuổi thọ điều chỉnh theo

chất lượng sống.

Theo quan điểm lý thuyết ra quyết định, tính đơn giản của việc tính toán

QALY là dựa trên dạng của hàm thỏa dụng như trong phương trình (2). Dạng hàm

này đòi hỏi sự ưa thích đối với các trạng thái sức khỏe là ổn định trong suốt tuổi thọ

(v(Hh) không phụ thuộc vào tuổi của một cá nhân ).

Hơn nữa, hàm thỏa dụng u(Hh, Th) cần thỏa mãn những giả định căn bản. Đầu

tiên, phương trình trên ngầm định rằng các cá nhân bàng quan với rủi ro theo thời

gian ( đối với một trang thái nhất định, họ bàng quan giữa một quãng đời với những

sự chắc chắn và một quãng đời với những sự rủi ro ). Nhưng sự bàng quan với rủi ro

về thời gian cũng không hoàn toàn tạo nên dạng của hàm thỏa dụng trong phương

trình trên. Nói chung , nó chỉ ngụ ý rằng khi vắng đi sự chiết khấu, hàm thỏa dụng

có dạng sau

u ( H, T ) = g(H) + v(H)T với v(H) > 0 (4)

và phương trình như đã nói trên cần thêm điều kiện g(H) = 0 cho mọi tình

trạng sức khỏe H.

Một giải pháp đặt ra là “ điều kiện không” , tất cả trạng thái sức khỏe với độ

dài thời gian bằng không là bằng nhau ( theo nghiên cứu của Bleichrodt và cộng sự

( 1997 ), Miyamoto và Eaker ( 1988) )

Với mọi H , u ( H, 0 ) = const (5)

Nghiên cứu của Miyamoto và cộng sự (1998 ) lập luận rằng “ điều kiện

không” này hoàn toàn được chứng minh. Hệ quả từ “điều kiên không” là g(H) phải

14

là hằng số trong phương trình thỏa dụng (4). Vì hàm thỏa dụng phải là hàm số

lượng, một hằng số bất kỳ có thể được thêm vào mà không làm mất đi tính tổng

quát. Vì thế người ta có thể cho g(H) = 0 trong phương trình thỏa dụng (4) để trở

thành phương trình (2). Sự bàng quan với rủi ro về tuổi thọ và “điều kiện không”

lúc này đủ để tạo nên cơ sở để cho việc đo mức thỏa dụng bằng QALY.

Bên cạnh sự bàng quan với rủi ro về độ dài tuổi thọ, sự độc lập về thỏa dụng

và sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định cũng được cho là những giả định nền tảng cho mô

hình QALY ( Pliskin và cộng sự ( 1980) ). Giả định về sự độc lập về thỏa dụng sẽ

được thỏa mãn nếu sự ưa thích có điều kiện đối với những may rủi trong suốt một

giai đoạn tuổi thọ với một trạng thái sức khỏe cho trước, độc lập với những tính

chât sức khỏe cụ thể và ngược lại. Sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định nghĩa là phần tuổi

thọ mà cá nhân chấp nhận từ bỏ để có được một sự cải thiện trong sức khỏe là độc

lập với kỳ vọng về phần tuổi thọ còn lại.

Nghiên cứu của Bleichrodt và công sự ( 1997 ) minh họa rằng sự độc lập về

thỏa dụng và sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định là những giả định mạnh hơn “ điều kiện

không”. Xét tính đánh đổi theo tỉ lệ cố định

Với mọi H, H’ với H’ > H: tồn tại q thuộc ( 0, 1 ) sao cho u( H, T ) = u (H’, qT

) với mọi T (6)

Nghiên cứu của Plishkin và cộng sự ( 1980 ) chỉ ra rằng tính chất này được

thỏa mãn nếu ( 1 ) tồn tại sự độc lập thỏa dụng và (2) sự đánh đổi theo tỷ lệ cố định

đúng cho trạng thái sức khỏe tốt nhất và tệ nhất. Với T = 0 trong phương trình (6) ,

ta có u(H, 0) là bằng nhau cho tất cả các trạng thái sức khỏe ( điều kiện không ). Vì

vậy, không cần thiết phải đặt ra các giả định về sự đánh đổi theo tỷ lệ cố định và sự

độc lập thỏa dụng để tạo nên mô hình QALY. Chỉ cần “điều kiện không” là đủ.

2.2.2 Công bằng và sức khỏe.

Có nhiều lý thuyết khác nhau đề cập vấn đề công bằng xã hội, vì vậy quan

điểm về công bằng hiện không thống nhất. Chủ nghĩa thỏa dụng ( Utilitarianism )

nhắm tới việc tối đa hóa thỏa dụng cá nhân. Trong khi đó, chủ nghĩa Rawls (

Rawlsian ) chỉ ra hai nguyên tắc công bằng: những cá nhân nên có được mức tự do

15

tối đa tương ứng với những người khác, và mọi sự thiên lệch có chủ ý đều là không

công bằng trừ khi nó nhắm tới lợi ích cho những cá nhân kém sung túc nhất. Lý

thuyết của Rawls, không tập trung vào mức thỏa dụng xã hội mà đề ra “ những hàng

hóa xã hội căn bản” và đặt mục tiêu sao cho mọi cá nhân tiếp cận được với chúng.

Chủ nghĩa Mác ( Marxism ) nhấn mạnh về nhu cầu, gợi ra triết lý “phân phối theo

nhu cầu” . Chủ nghĩa tự do cá nhân ( Libertarianism ) tôn trọng những quyền tự

nhiên: Quyền sống và quyền sở hữu. Nếu người ta có được và chuyển nhượng

những tài sản của mình mà không làm ảnh hưởng đến người khác thì sự sở hữu đó

là công bằng.

Hai hướng tiếp cận chính về vấn đề công bằng được đề cập trong phần lớn các

nghiên cứu kinh tế sức khỏe là hướng tiếp cận theo chủ nghĩa tự do cá nhân và

hướng tiếp cận theo chủ nghĩa Mác. Nhưng nói một cách chính xác, đề xuất “ phân

phối theo nhu cầu” không hẳn đến từ chủ nghĩa Mác, mà là một phần trong chủ

nghĩa bình quân trong thế kỷ 20. Theo chủ nghĩa bình quân, việc được chăm sóc sức

khỏe là quyền của mỗi công dân và vì thế, bất chấp sự giàu nghèo hay thu nhập cao

thấp, mọi người đều phải có quyền này. Theo chủ nghĩa tự do cá nhân, sự chăm sóc

sức khỏe được đề cập đến như một hệ thống khen thưởng xã hội, thứ mà những cá

nhân nổi trội hơn về thu nhập hay sự giàu có sẽ được tiếp cận dễ dàng hơn. Một

cách khái quát, chủ nghĩa bình quân kêu gọi sự tài trợ cho việc chăm sóc sức khỏe

theo khả năng chi trả và phân phối theo nhu cầu. Ngược lại, chủ nghĩa tự do cá nhân

lại cho rằng phân phối việc chăm sóc sức khỏe phải dựa trên khả năng chi trả của

mỗi người, vì thế nguồn tài trợ phải là từ phía tư nhân, chính phủ chỉ nên có vai trò

tối thiểu.

Có một khái niệm chúng ta cần phải thảo luận trong lý thuyết công bằng sức

khỏe đó là khái niệm “ Tiếp cận”. Khái niệm này được nhắc đến nhiều trong việc

phân phối sự chăm sóc sức khỏe. Về cơ bản, “ tiếp cận” thường được hiểu dưới

dạng “ nhận được sự chăm sóc” . Điều này khá rõ trong các lập luận của Tobin (

1970 ) vốn khẳng định rằng công bằng trong chăm sóc sức khỏe là việc các cá nhân

16

được chăm sóc dựa trên dấu hiệu và triệu chứng y khoa chứ không phải khả năng

chi trả của họ.

Không đồng ý với quan điểm trên, Legrand ( 1982 ) và Mooney ( 1983, 1994

) cho rằng có sự khác biệt rạch ròi giữa “ tiếp cận” và “ được chăm sóc”. “ tiếp cận”

bao gồm những cơ hội mà các cá nhân có thể có được, còn “ được chăm sóc” hay

không, phụ thuộc vào cả việc có tồn tại các cơ hội như vậy hay không và việc các

cá nhân có khả năng được lợi từ chúng không. Với suy nghĩ đó, Legrand gắn sự “

tiếp cận” với hai yếu tố chi phí: thời gian và tiền bạc, tuy vậy điều này ngụ ý một

thứ rất khó giải thích: Khi hai người cùng đối diện với chi phí thời gian và tiền bạc

như nhau , họ sẽ có cùng mức “ tiếp cận” bất chấp sự khác biệt về thu nhập. Chính

Legrand ( 1991 ) cũng chỉ ra sự vô lý này – sẽ có sự khác biệt trong “ tiếp cận” giữa

một người không có thu nhập và một triệu phú. Olson và Rodger ( 1991 ) đưa ra

một ý tưởng khác, không lâm vào tình trạng trên, họ cho rằng, ngoài chi phí thời

gian và tiền bạc, sự tiếp cận còn bị chi phối bởi thu nhập.

Khái niệm về “ nhu cầu” Culyer ( 1976 ) và William ( 1974, 1978 ) họ cho

rằng “ nhu cầu” chính là khả năng hưởng lợi của mỗi cá nhân từ sự chăm sóc sức

khỏe. Định nghĩa này quan tâm đến chủ thể mà sự chăm sóc sức khỏe tác động tới (

sức khỏe ) hơn là thứ được cần ( chăm sóc sức khỏe ). Hãy xem xét một sự tiến bộ

trong y học, theo định nghĩa này, nhu cầu của một người đối với chăm sóc sức khỏe

là không đổi, trong khi đó nguồn lực cần thiết để chăm sóc cho anh ta lại giảm đi (

do những tiến bộ ) . Trên lý lẽ đó, Culyer và Wagstaff ( 1993 ) đưa ra định nghĩa

trong đó “ nhu cầu” là lượng nguồn lực tối thiểu cần để bù đắp đủ “ khả năng hưởng

lợi”.

Mâu thuẫn trong các nguyên tắc công bằng: Ba nguyên tắc công bằng được

nhắc tới bao gồm: công bằng trong tiếp cận, phân phối theo nhu cầu và công bằng

trong mức sức khỏe. Mooney ( 1983 ) đã nhấn Mạnh rằng sự “ tiếp cận” chỉ là một

trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc nhận được những sự chăm sóc sức khỏe. Có

những yếu tố khác cũng có vai trò tương tự, có thể kể đến như nhận thức cá nhân

hưởng lợi từ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay động cơ của người thầy thuốc.

17

Ngoài giá cả của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe , mọi yếu tố khác ảnh hưởng lên

cầu của dịch vụ này đều ảnh hưởng đến việc các cá nhân nhận được sự chăm sóc

như thế nào. Hai người có cùng mức “ tiếp cận” và có cùng “ nhu cầu” nhưng chưa

hẳn là nhận được sự chăm sóc tương đương. Người có học thức thấp thường đánh

giá thấp lợi ích của sức khỏe và không liên hệ với thầy thuốc trong khi những người

có học thức cao hơn thường làm điều ngược lại. Trái lại, hai người có mức tiếp cận

khác nhau đôi khi vẫn được sự chăm sóc như nhau. Culyer và Wagstaff ( 1993 )

phát biểu rằng: công bằng trong “ tiếp cận” sự chăm sóc sức khỏe không nhất thiết

phải dẫn tới việc phân phối theo nhu cầu và sự công bằng trong mức sức khỏe.

2.2.2.1 Nguyên tắc công bằng trong chăm sóc sức khỏe.

Nghiên cứu của Mooney cùng cộng sự ( 1991, 1992 ), và Mooney ( 1994 ) ủng

hộ mạnh mẽ nguyên tắc công bằng trong tiếp cận. những nghiên cứu này biện luận

rằng, các lý lẽ như phân phối theo nhu cầu hay tạo nên sự bình đẳng trong mức sức

khỏe đi ngược lại những nguyên tắc về sự ưa thích của người tiêu dùng, và vì thế xa

rời những luận điểm kinh tế phúc lợi Pareto.

Những lý thuyết Pareto phù hợp nhất cho những người theo chủ nghĩa tự do cá

nhân. Chủ nghĩa này cho rằng hệ thống chăm sóc sức khỏe nên được xem như một

hệ thống khen thưởng xã hội mà trong đó những cá nhân với mức thu nhập hay của

cải cao hơn có quyền có được mức sức khỏe tốt hơn. Những người theo xu hướng

này tuy chấp nhận sự có mặt của thuế khóa nhưng không có vẻ là họ chấp nhận sự

công bằng trong “ tiếp cận”.

Legrand và Mooney có nhắc tới hai chi phí: tiền bạc và thời gian. Việc đưa

vào chi phí thời giam ám chỉ rằng nên có những sự ưu ái hơn về cơ sở vật chất cho

người ở khu vực nghèo nhằm làm công bằng hơn thời gian chờ đợi và khả năng tiếp

cận. Quan điểm của Olson – Rodger thậm chí còn cổ súy cho một mức thuế cao hơn

nhằm làm giảm sự mất công bằng.

Từ những phân tích trên cho thấy, trong khi chúng ta đồng ý rằng việc được

chăm sóc sức khỏe là quan trọng, có những người vẫn luôn đủ khả năng để đạt được

điều đó nhưng lại không làm như vậy. Thế nên, mục đích chủ yếu không phải là

18

mang đến cho họ mức sức khỏe đồng đều mà là tạo cho họ cơ hội để đạt được điều

đó.

2.2.2.2 Công bằng trong tài trợ chăm sóc sức khỏe.

Có hai khái niệm được đề xuất khi nói về công bằng trong tài trợ đó là công

bằng dọc và công bằng ngang:

- Công bằng dọc: Những cá nhân hay hộ gia đình với khả năng chi trả khác

nhau sẽ trả các khoản khác nhau theo một cách hợp lý.

- Công bằng ngang: những cá nhân hay hộ gia đình có khả năng chi trả như

nhau sẽ có mức đóng góp như nhau.

2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân.

Một sức khỏe tồi sẽ hạn chế khả năng sản xuất của người bị ảnh hưởng, bao

gồm cả khả năng hưởng thụ những giá trị trong cuộc sống.

Ngoài những yếu tố di truyền và môi trường, các biến cố luôn có thể xuất hiện

và đe dọa những cố gắng của cá nhân trong việc giữ gìn hay cải thiện sức khỏe. Vì

thế, những thay đổi không mong muốn trong sức khỏe có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Khái niệm tạo ra sức khỏe: Sức khỏe có thể được coi như một nguồn vốn vô

hình, có thể được làm tăng thêm nhờ sự đầu tư, chăm sóc, phòng ngừa bệnh tật, và

phải chịu hiệu ứng hao mòn. Một lối sống tránh được việc lạm dụng sức khỏe, tăng

cường khả năng phòng ngừa bệnh tật, có thể được coi như những sự đầu tư vào sức

khỏe.

2.2.3.1 Sức khỏe – một bộ phận của vốn con người.

a) Mô hình Grossman:

Thành phần quan trọng của mô hình Grossman là phương trình thể hiện sự

thay đổi lượng vốn sức khỏe qua thời gian. Một mặt, vốn sức khỏe hao mòn với tỷ

lệ δ, khiến sức khỏe giảm xuống theo thời gian. Tỷ lệ hao mòn này không cố định

theo thời gian. Mặt khác, cá nhân này có thể tăng vốn sức khỏe bằng cách đầu tư I.

Mức đầu tư này bao gồm việc tiêu dùng cho dịch vụ y tế M và khoảng thời gian tI

dành cho những nổ lực phòng bệnh. Gộp lại ta có:

H1 = H0 (1- δ) + I( M0 , tI )

19

Với mô hình trên, Grossman cho ta thấy sức khỏe có thể tạo ra được, thông

qua việc đầu tư vào sức khỏe, trong đó có yếu tố sử dụng các dịch vụ y tế để phòng

ngừa bệnh tật.

Grossman cũng cho chúng ta thấy rằng, khi vốn sức khỏe cao hơn sẽ dẫn tới

nhu cầu cao hơn đối với các dịch vụ y tế, sự tăng lên trong mức giá của dịch vụ y tế

làm giảm lượng cầu, mức lương ban đầu cao sẽ khiến nhu cầu đối với dịch vụ y tế

cao ( với một mức giáo dục cho trước. ), một mức giáo dục cao hơn sẽ làm tăng

năng suất của sự đầu tư vào sức khỏe, thông qua hàm cầu với dịch vụ y tế ở dạng lô

ga rít như sau:

ln M = const. + lnH1 – ( 1- αM )lnp + ( 1 – αM )lnw0 – αEE

M: dịch vụ y tế

H1: Vốn sức khỏe

P: giá dịch vụ y tế

W0: mức lương ban đầu

E: mức giáo dục

b) Nhận diện các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ khám sức khỏe

của người dân từ mô hình Grossman.

Khi người dân thực hiện quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các

yếu tố có khả năng tác động đến quyết định của họ:

- Mức lương, thu nhập có tác động dương đến quyết định sử dụng dịch vụ

chăm sóc sức khỏe của người dân.

- Trình độ học vấn, hay còn gọi là mức giáo dục. Grossman cho chúng ta thấy

rằng, khi mức giáo dục cao thì năng suất đầu tư vào sức khỏe tăng, một phần trong

việc đầu tư vào sức khỏe đó là chi tiêu cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhưng

Grossman chưa chỉ rõ mối quan hệ đồng biến hay nghịch biến trong mối quan hệ

giữa trình độ học vấn với việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

- Grossman cũng chỉ ra rằng, giá của dịch vụ chăm sóc sức khỏe có tác động

nghịch biến với nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

20

- Trong mô hình nhiều giai đoạn của Grossman, cả hàm cầu sức khỏe và hàm

cầu dịch vụ y tế chỉ ra rằng: Cầu sức khỏe giảm xuống khi tuổi tác tăng lên vì tỷ lệ

hao mòn tăng lên. Tuy vậy, cầu dịch vụ y tế tăng lên theo tuổi tác để bù đắp tác

động này. Vậy tuổi tác là một yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm

sóc sức khỏe của người dân.

2.2.3.2 Sức khỏe dưới dạng của các quá trình ngẫu nhiên.

a) Khả năng bổ sung và khả năng thay thế trong sản xuất sức khỏe:

Tính quan trọng của vấn đề:

Lý thuyết hàm sản xuất đặc biệt chú trọng quan hệ giữa các đầu vào của một

quá trình sản xuất. Nếu một yếu tố sản xuất trở nên đắt đỏ hơn và buộc phải sử dụng

ít đi, liệu sự thay đổi này có dẫn tới việc sử dụng các yếu tố khác nhiều hơn hay

không? Nếu với chỉ hai yếu tố sản xuất và giả định các công ty tối đa hóa lợi nhuận,

câu trả lời là “ có” , khi đó quan hệ thay thế chiếm ưu thế. Nếu có ba hoặc hơn nữa

các yếu tố sản xuất , quan hệ bổ sung có thể xuất hiện. Có những bằng chứng chỉ ra

rằng việc tăng giá năng lượng trong các năm 1970 dẫn tới việc các ngành sản xuất

trở nên thâm dụng lao động, chậm đưa ra các công nghệ sản xuất mới và ít đầu tư

hơn. Ta có thể nói rằng sự thay thế tồn tại giữa năng lượng và lao động và sự bổ

sung tồn tại giữa năng lượng và vốn.

Vấn đề cũng tương tự trong lĩnh vực sức khỏe. Một khả năng làm giảm chi

tiêu cho chăm sóc sức khỏe là cầu dịch vụ chăm sóc sức khỏe giảm. Sự tăng lên

trong phần chi phí trong các hợp đồng bảo hiểm sức khỏe khiến giá của dịch vụ y tế

tăng lên và làm giảm cầu. Biện pháp này sẽ gặp phải những sự bất đồng, đặc biệt là

nhóm những người lớn tuổi vốn đang chiếm phần đông cử tri ở các nước công

nghiệp hóa ngày nay, sự thay thế các dịch vụ y tế bằng những nỗ lực của cá nhân

trong phòng ngừa bệnh tật cho chúng ta một giải pháp khả thi. Để các cá nhân tăng

thời gian chăm sóc sức khỏe, ta có thể khiến họ giảm thời gian lao động bằng cách

giảm lương, giảm cung lao động. Tuy nhiên, việc giảm chi phí lao động là không

thể vì nó đồng nghĩa với việc giảm xuống trong mức lương của cả lượng lao động

khổng lồ. Hơn nữa biện pháp này sẽ không hiệu quả đối với nhóm người nghỉ hưu,

21

những người sử dụng nhiều dịch vụ y tế.Để tăng sự sử dụng một yếu tố sản xuất nào

đó chúng ta cần giảm gía đồng thời tăng năng suất biên của chúng.

Khả năng thay thế trong tình trạng sức khỏe tốt và khả năng bổ sung trong tình

trạng sức khỏe yếu:

Tình trạng sức khỏe của một giai đoạn cho trước, có thể được xem như một

mẫu lấy từ một chuỗi các tình trạng sức khỏe trong suốt cuộc đời, đó là khỏe mạnh

và đau ốm. Trong các phần trước của lý thuyết có giả định rằng: năng suất biên của

các nổ lực cá nhân trong chăm sóc sức khỏe có thể được tăng lên nhờ tác động của

yếu tố giáo dục. Việc này dẫn tới sự tăng lên trong năng suất của các hoạt động

mang tính thị trường và các hoạt động không mang tính thị trường, qua đó lý thuyết

đã đưa ra các kết luận sau:

- Nếu có sự tăng lên của thời gian đầu tư vào sức khỏe, xác suất của việc đau

ốm sẽ giảm xuống và xác suất sử dụng các dịch vụ y tế trong tương lai cũng giảm.

Bên cạnh đó, thời gian khỏe mạnh sẽ được kéo dài và cũng làm nhu cầu dịch vụ y tế

giảm xuống. Nhưng việc này cũng kéo dài tuổi thọ kỳ vọng và có thể vì vậy tổng

lượng tiêu dùng các dịch vụ y tế trong suốt phần đời còn lại sẽ không giảm. Tuy

nhiên, nhu cầu dịch vụ y tế sẽ giảm xuống trong ngắn hạn và trung hạn nhờ tác

động thay thế.

- Nếu tình trạng ban đầu của cá nhân là đau ốm , một sự cải thiện trong năng

suất của mỗi cá nhân không có tác dụng. Nhưng trong quá trình chữa trị, sự chăm

sóc y tế và những nỗ lực cá nhân có thể bổ trợ cho nhau nhằm tăng cơ hội phục hồi.

b) Nhận diện các yếu tố tác động đến việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức

khỏe của người dân.

Qua đó ta thấy tình trạng ban đầu của họ là khỏe mạnh hay đau ốm, tác động

rất lớn đến nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG.

22

Lý thuyết thông tin bất cân xứng được đề cập đến vào năm 1970, trong quá

trình nghiên cứu về các yếu tố dẫn đến thất bại của thị trường. Lý thuyết thông tin

bất cân xứng được đề cao trong nền kinh tế học hiện đại vào năm 2001.

Trong lý thuyết kinh tế học tân cổ điển về thị trường đã giả định rằng, người

bán và người mua có thông tin hoàn hảo về đối tác bên kia của người giao dịch, về

chất lượng, đặc điểm của hàng hóa hay giao dịch được trao đổi và cấu trúc của thị

trường. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp một bên tham gia giao dịch không

thể biết được thông tin của đối tác, cho dù có bỏ ra bao nhiêu tiền để thu thập thông

tin.

Thông tin bất cân xứng là tình trạng trong một giao dịch, một bên có thông

tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với bên còn lại.

Tình trạng thông tin bất cân xứng hiện diện rất nhiều trong các lĩnh vực,

như : Thị trường tín dụng, nhà ở, bảo hiểm, dịch vụ khám bệnh,….. Thông tin bất

cân xứng có thể dẫn đến thất bại thị trường, vì nó gây ra sự lựa chọn bất lợi, tâm lý

ỷ lại, vấn đề người ủy quyền – người thừa hành.

Hành vi cơ hội thể hiện lợi thế của người có thông tin quan trọng so với

người không có thông tin thông qua việc che dấu thông tin, dẫn đến sự lựa chọn bất

lợi cho người ra quyết định và dẫn đến quá ít giao dịch trên thị trường. Giải pháp

cho vấn đề này là, bên ít thông tin cần phải thu thập và sàng lọc thông tin, bên nhiều

thông tin hơn, cần phải phát tín hiệu.

Giải pháp cho vấn đề tâm lý ỷ lại, chúng ta cần thiết kế hệ thống giám sát

như : Thiết lập hệ thống khuyến khích, chuyển rủi ro, chia xẻ rủi ro, kiểm tra, kiểm

soát trong quá trình hoạt động, thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, thiết lập

thể chế để có biện pháp chế tài, xử phạt.

Giải pháp cho vấn đề người ủy quyền, người ủy quyền tạo ra động cơ khuyến

khích vật chất và phi vật chất để hành vi người thừa hành luôn phù hợp với mục tiêu

của mình.

2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN.

2.4.1 Mô hình nghiên cứu.

23

Nghiên cứu của Evashwick, Rowe, Paula Diehr, and Laurence Branch (

1984)về Các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người

trung niên.

a) Nội dung và kết quả nghiên cứu:

Nghiên cứu đã sử dụng hệ thống các biến như sau: biến phụ thuộc là biến nhận

hai giá trị 0 và 1 tức là có sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và không sử dụng

dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong một năm kể từ ngày khảo sát nghiên cứu được

thực hiện trở về trước. Các biến độc lập bao gồm các biến: Tuổi, giới tính, trình độ

học vấn, tình trạng hôn nhân, sắc tộc, thu nhập, phương tiện đi lại, tình trạng bảo

hiểm, bệnh tật hiện có,…. Nghiên cứu đã cho ra được một phương trình hồi quy với

hệ thống biến như trên, các tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy trong phân tích của

mình. Qua nghiên cứu các tác giả đã đo được các mức độ tác động nhất định của

các yếu tố đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người trung niên. Qua

thống kê mô tả của nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng: 90% người da trắng có sử

dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong năm, 1% các màu da còn lại có sử dụng dịch

vụ chăm sóc sức khỏe trong năm, 61.7% người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe

là nữ giới, 38.3% người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là nam giới, độ tuổi từ

45 dến 65 tuổi tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong năm là 16.7%, trên 65

tuổi tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là 83.3%.

b) Nhận diện hình thức các biến trong mô hình hồi quy của nghiên cứu:

Nghiên cứu đã sử dụng biến phụ thuộc có giá trị là 0 và 1, các biến độc lập

hầu hết cũng có giá trị 0 và 1 cho hai trạng thái của mỗi biến. Tác giả cũng xác

định được các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của

người dân, đồng thời đo lường được mức độ tác động của chúng .

Nghiên cứu của Ware, Jr, PhD; Bayliss, MSc; William H. Rogers, PhD; Mark

Kosinski, MA; Alvin R. Tarlov,MD (1996) về Kết quả sức khỏe của người bệnh

đối với người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí ( FFS) và người sử

dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe được bảo trợ ( HMO ).

a) Nội dung kết quả nghiên cứu:

24

Qua nghiên cứu các nhà nghiên cứu đã cho chúng ta thấy, ở Mỹ người già và

người nghèo sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe HMO là 52%, ở châu Âu là 28%.

Đối với những người từ 59 tuổi trở xuống, 63% sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe

FFS. Kết quả sức khỏe khi sử dụng hai tổ chức trên là: Đối với những bệnh thuộc về

thể chất, điểm sức khỏe tăng 3 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức

khỏe FFS, tăng 2 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe HMO. Đối

với những bệnh thuộc về tinh thần, điểm sức khỏe tăng 5 điểm khi sử dụng dịch vụ

chăm sóc sức khỏe FFS, tăng 3 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức

khỏe HMO.

b) Nhận diện các yếu tố tác động:

Qua đó chúng ta thấy rằng chi phí cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe là một yếu

tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là đối với người già

và người nghèo.

2.4.2 Công bằng trong tiếp cận dịch vụ.

Nghiên cứu của Anh, Thi – Kim Le (2013) về vấn đề sức khỏe và tiếp cận

dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người di cư từ nông thôn ra thành thị và nhóm người

thành thị.

a) Nội dung và kết quả nghiên cứu.

Nghiên cứu được thực hiện qua bốn gia đoạn. Giai đoạn 1 phân tích số liệu thứ

cấp từ các cuộc điều tra dân số năm 1989, 1999, 2009 để mô tả các xu hướng di cư

từ nông thôn ra thành thị tại Việt Nam. Giai đoạn này cho thấy rằng làn sóng di cư

hiện nay thay đổi mạnh mẽ, trong đó nữ giới di cư nhiều hơn so với nam giới. Giai

đoạn 2 của dự án nhằm mục đích đánh giá tình trạng sức khỏe của người di cư

thông qua việc sử dụng bộ công cụ SF – 36, giai đoạn này còn nhằm mục đích so

sánh tình trạng sức khỏe và việc tiếp cận dịch vụ y tế giữa người di cư và không di

cư, và cho thấy rằng so với nhóm người không di cư, nhóm người di cư thường có

mức độ sức khỏe kém hơn, sức khỏe tinh thần cũng kém hơn, người di cư thường ít

sử dụng dịch vụ y tế hơn người không di cư khi có vấn đề về sức khỏe. Giai đoạn 3

dự án so sánh tình hình sức khỏe, bệnh tật giữa nam giới và nữ giới, kết quả cho

25

thấy nữ giới đối mặt với nhiều nguy cơ sức khỏe hơn nam giới, như là sức khỏe sinh

sản, nhiễm khuẩn đường sinh sản,…Giai đoạn 4 dự án phát triển đề cương can

thiệp, nhằm tăng cường việc tiếp cận dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe sinh sản cho

nữ giới. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định tính, phỏng vấn tay đôi và thảo

luận nhóm được thực hiện với việc chọn mẫu thuận tiện .

b) Nhận diện các yếu tố tác động và phương pháp nghiên cứu.

Qua nghiên cứu trên ta thấy yếu tố giới tính là một trong những yếu tố có tác

động đến quyết định sử dụng dịch vụ y tế của người dân, sự khác nhau về mức độ

tiếp cận với dịch vụ y tế của dân di cư và dân không di cư, dân di cư nguy cơ về sức

khỏe nhiều hơn dân không di cư, nhưng lại ít sử dụng dich vụ y tế chăm sóc sức

khỏe hơn dân không di cư. Nghiên cứu đã dùng phương pháp định tính để xác định

các yếu tố tác động đến tình trạng sức khỏe của đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu của M. R. Hass (2002) về lợi ích bên ngoài của chăm sóc sức

khỏe.

a) Kết quả nghiên cứu:

Nghiên cứu dùng phương pháp phỏng vấn tay đôi với 257 bệnh nhân cùng đến

khám tại một trung tâm y tế. Kết quả có được là: 49% chỉ nhận được cuộc gọi sau

khi khám và trước khi khám, 31% nhận được cuộc gọi trong suốt quá trình khám và

theo dõi bệnh, 41% chỉ nhận được cuộc gọi sau khi khám, 20% bệnh nhân nhận

được cuộc gọi nhiều hơn một lần khi đã lành bệnh, 16% bệnh nhân chỉ nhận được

cuộc gọi của y tá, 17% nhận được sự hổ trợ từ các tổ chức y tế thiện nguyện, 6%

nhận được sự trợ giúp liên tục từ các viện nghiên cứu ung thư. Trong 257 bệnh nhân

có 92% có việc làm, 8% thất nghiệp, hưởng trợ cấp xã hội.

b) Nhận diện các yếu tố tác động.

Tình trạng việc làm tác động đến việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của

người dân, mức độ thụ hưởng dịch vụ của các đối tượng cũng khác nhau, từ tình

hình thu nhập của họ.

2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Nghiên cứu của Ariely, Klaus (2008) về vấn đề của sự trì hoãn.

26

a) Kết quả của nghiên cứu:

Hầu hết chúng ta, tuy biết trước được kết quả là hữu ích của việc mình làm,

nhưng khi nó chưa phải là vấn đề mang tính cấp bách, quyết định sự thành bại hay

sống còn, chúng ta thường trì hoãn nó. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khi việc

kiểm tra sớm các mầm bệnh cũng như ngăn chặn các yếu tố nguy cơ của bệnh tật,

thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe luôn

mang lại cho chúng ta một chất lượng cuộc sống tốt hơn, nhưng chúng ta luôn trì

hoãn nó.

b) Nhận diện yếu tố tác động đến quyết định thực hiện việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ của người dân:

Qua nghiên cứu của Ariely và Klaus chúng ta thấy rằng, yếu tố tâm lý, là một

trong những yếu tố tác động đến quyết định thực hiện hay không thực hiện kiểm tra

sức khỏe định kỳ, khi đây chưa là vấn đề mang tính cấp bách. Để làm rõ hơn về

quyết định của người dân, tại sao họ thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ, ngoài vấn đề tâm lý luôn trì hoãn khi chưa cấp bách, còn có

những nguyên nhân nào khác nữa ảnh hưởng đến quyết định của họ. Người nghiên

cứu sẽ thực hiện nghiên cứu này trong phần nghiên cứu định tính, phỏng vấn sâu

các đối tượng tham gia để có câu trả lời phù hợp với môi trường Việt nam hiện nay.

2.5 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua chương 2 người nghiên cứu đã định nghĩa thế nào là kiểm tra sức khỏe

định kỳ, đưa ra được các lý thuyết về kinh tế sức khỏe, nguyên lý xác định giá trị

kinh tế của sức khỏe, thế nào là công bằng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức

khỏe, cung và cầu sức khỏe của cá nhân, mô hình Grossman, mô hình lý giải các

yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân.

Người nghiên cứu đưa ra lý thuyết về thông tin bất cân xứng trong quá trình

giao dịch, nó có thể dẫn đến thất bại thị trường vì ủy quyền của người tham gia

kiểm tra sức khỏe định kỳ cho bác sỹ.

27

Người nghiên cứu tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm liên quan của các nhà

nghiên cứu khác trên thế giới. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến mô hình

nghiên cứu, các yếu tố tác động đến quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Phương pháp thực hiện nghiên cứu về vấn đề liên quan đến sức khỏe của các nhà

nghiên cứu trên thế giới.

Lý thuyết và những phương pháp này sẽ được người nghiên cứu vận dụng

trong việc thực hiện nghiên cứu và lý giải hiện tượng trong phần nghiên cứu của

mình.

28

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Như đã đề cập ở chương 1, nghiên cứu sử dụng đồng thời hai phương pháp,

phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.

Phương pháp nghiên cứu định tính với mục đích xác định các yếu tố ảnh

hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, và giải thích

nguyên nhân tại sao họ thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định

kỳ.

Sau khi đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ của người dân từ phương pháp nghiên cứu định tính, ta xác định được các

biến phụ thuộc và các biến độc lập cần thiết cho phương trình hồi quy, phục vụ cho

nghiên cứu định lượng để tìm hiểu xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định

việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, và mối tương tác qua lại

giữa các yếu tố đó với nhau.

3.1 KHUNG PHÂN TÍCH.

Đặt vấn đề

Đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu.

Cở sở lý luận

Cơ sở lý thuyết Nghiên cứu thực nghiệm .

Phương pháp nghiên cứu.

Nghiên cứu định lượng Nghiên cứu định tính

Phỏng vấn tay đôi Mô hình hồi qui Logistic

Kết quả nghiên cứu

Bảng câu hỏi Bảng dữ liệu

Thống kê mô tả, hồi quy.

Chạy hồi qui.

Kết luận và kiến nghị

29

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH.

3.2.1 Sự cần thiết của việc phỏng vấn tay đôi.

Người nghiên cứu cần phải thực hiện phương pháp nghiên cứu định tính, qua

việc phỏng vấn tay đôi, với các chuyên gia và những người tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ, để xác định được các yếu tố thực tế tác động đến quyết định thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân trong môi trường xã hội Việt nam

hiện nay, để có được bảng câu hỏi chính xác, áp dụng cho việc khảo sát dữ liệu

phục vụ cho nghiên cứu định lượng.

3.2.2 Phỏng vấn tay đôi.

3.2.2.1 Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn.

Số lượng mẫu được chọn là 10 mẫu cho mỗi đối tượng mẫu. Đối tượng được

chọn cho phỏng vấn được chia làm hai dạng, dạng thứ nhất là các chuyên gia, bác

sỹ hoạt động tại các trung tâm y tế lớn tại Tp Hồ Chí Minh, cụ thể như là: Bệnh

viện Chợ Rẫy, bệnh viện Đại Học Y Dược, bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bệnh

viện 115, trung tâm chẩn đoán hình ảnh Hòa Hảo, bệnh viện Bình Dân, bệnh viện

Quận 10, bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng được chọn cho phỏng vấn dạng thứ hai

là những người có độ tuổi từ 40 trở lên, có khả năng tự quyết định việc có thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không. Đối tượng chuyên gia, bác sỹ được chọn

thông qua các mối quan hệ xã hội của người nghiên cứu, họ được đặt cuộc hẹn

trước, người nghiên cứu có 3o phút cho mỗi cuộc phỏng vấn tay đôi với giới chuyên

gia, bác sỹ. Đối với đối tượng thứ hai, những người có khả năng tự quyết định việc

thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu lấy

từ hai nguồn khác nhau. Nguồn thứ nhất được lấy từ danh sách của các bệnh viện và

trung tâm y tế, nguồn này là những người có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định

kỳ tại các bệnh viện và trung tâm y tế, nguồn thứ hai được chọn một cách ngẫu

nhiên theo các tiêu chí mà nghiên cứu đặt ra, từ khu dân cư của phường 15 quận 10

Tp Hồ Chí Minh, nguồn này là những người không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ. Số lượng mẫu được chọn đối với các chuyên gia, bác sỹ là 10 mẫu, số

30

lượng mẫu được chọn cho những người có khả năng tự quyết định việc thực hiện

kiểm tra sức khỏe định kỳ là 10 mẫu.

3.2.2.2 Ý nghĩa của mẫu được chọn.

Với đối tượng mẫu là giới chuyên gia, bác sỹ, người nghiên cứu chọn đối

tượng này để phỏng vấn để tìm hiểu kỹ và chi tiết hơn trong lĩnh vực chuyên môn

về việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các bệnh viện và các trung tâm y tế hiện nay

trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh. Cũng từ ý kiến của các chuyên gia và bác sỹ, người

nghiên cứu biết được đối tượng nào thường thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định

kỳ, độ tuổi của họ là bao nhiêu, họ thường hoạt động trong những lĩnh vực nào, hiệu

quả phát hiện bệnh của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là bao nhiêu, chất lượng dịch

vụ mà các bệnh viện, trung tâm y tế hiện nay cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ

như thế nào, đối tượng nào phải thường xuyên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ.

Với đối tượng mẫu là những người có khả năng quyết định có hay không việc

thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu muốn biết họ có thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không, họ thực hiện trong tình trạng sức khỏe

như thế nào, tại sao họ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao họ không

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, bao lâu rồi họ chưa đi khám bệnh, họ có

hiểu được lợi ích của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không, họ có thực hiện

kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu dịch vụ này được cung cấp miễn phí hay không, họ

có sẵn sàng đánh đổi sức khỏe để tăng thêm thu nhập hay không, thông tin về nhân

thân của họ, việc làm của họ hiện nay, mức thu nhập của họ hiện nay.

3.2.2.3 Phương pháp phỏng vấn.

Cho mỗi đối tượng phỏng vấn, người nghiên cứu chuẩn bị trước các câu hỏi

theo các nhóm mục tiêu mà người nghiên cứu muốn đạt được, thông thường đó là

những câu hỏi mở, khi thực hiện phỏng vấn các câu hỏi được đưa ra theo trình tự ý

muốn của người nghiên cứu, nhưng người nghiên cứu sẽ chủ động mở rộng các câu

hỏi khi bắt gặp những yếu tố mới trong phần trả lời của đối tượng được phỏng vấn,

người nghiên cứu sẽ giải thích cho đối tượng được phỏng vấn những khái niệm mà

31

hai bên chưa hiểu rõ ý nhau và ngược lại, tất cả quá trình phỏng vấn sẽ được ghi

nhận lại chi tiết để phục vụ cho công tác thống kê sàng lọc thông tin sau phỏng vấn.

3.2.2.4 Bảng câu hỏi cho giới chuyên gia, bác sỹ.

Hệ thống câu hỏi dùng cho chuyên gia và bác sỹ được chia thành ba nhóm câu

hỏi.

- Nhóm câu hỏi để biết được thành phần xã hội của những người tham gia

kiểm tra sức khỏe định kỳ.

- Nhóm câu hỏi để biết được quá trình thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định

kỳ, tình trạng sức khỏe, bệnh tật của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

- Nhóm câu hỏi để biết được chất lượng dịch vụ mà bệnh viện, các trung tâm y

tế cung cấp cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

3.2.2.5 Bảng câu hỏi dùng cho người tham gia, có khả năng quyết định thực hiện

hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Hệ thống câu hỏi dùng cho người tham gia, có khả năng quyết định thực hiện

hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được chia thành ba nhóm câu

hỏi sau:

- Nhóm hỏi về nhân thân của người tham gia phỏng vấn.

- Nhóm hỏi về ý thức về sức khỏe.

- Nhóm hỏi về hiểu biết về tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, có

thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao thực hiện và

tại sao không thực hiện.

3.2.2.6 Phương pháp tổng hợp thông tin từ các cuộc phỏng vấn.

Người nghiên cứu tổng hợp thông tin bằng phương pháp thống kê theo từng

tiêu chí của từng dạng mẫu phỏng vấn ( mẫu phỏng vấn có hai dạng: giới chuyên

gia, bác sỹ và các cá nhân có khả năng quyết định thực hiện hay không thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ) tính tỉ lệ phần trăm đạt được của từng tiêu chí

trong tổng thể các tiêu chí của nhóm câu hỏi của từng dạng mẫu phỏng vấn.

Đối với nhóm câu hỏi người nghiên cứu cần tìm hiểu về tình trạng sức khỏe,

bệnh tật, chất lượng dịch vụ được cung cấp từ các bệnh viện và trung tâm y tế, trạng

32

thái tâm lý của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu sẽ thực

hiện so sánh, thống kê theo nội dung trùng khớp của dạng mẫu là các chuyên gia,

bác sỹ với dạng mẫu là các cá nhân có khả năng quyết định việc thực hiện kiểm tra

sức khỏe định kỳ và được tính bằng tỉ lệ phần trăm.

Đối với những yếu tố khác biệt mang tính đặc trưng từ những cuộc phỏng vấn

đối với các dạng mẫu, người nghiên cứu sẽ đưa vào phương trình hồi quy trong

phần nghiên cứu định lượng nếu các yếu tố này có thể đo lường và khảo sát được

trong phạm vi của nghiên cứu này.

Qua đó người nghiên cứu sẽ rút ra được những kết luận cần thiết từ phương

pháp nghiên cứu định tính để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, đồng thời kết hợp với

các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, người nghiên cứu sẽ đưa ra

được phương trình hồi quy của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thực hiện việc

kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, để phục vụ cho phần nghiên cứu định

lượng, tìm ra xu hướng tác động của các yếu tố.

3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG

3.3.1 Mô hình hồi quy.

Qua các cơ sở lý luận và các nghiên cứu liên quan như trên , cùng với sự quan

sát và nhận thức của người nghiên cứu về tình hình xã hội Việt nam hiện nay.

Người nghiên cứu đưa ra mô hình hồi quy kỳ vọng như sau:

Yi = β0 + β1X1i + β2X2i +β3X3i +β4X4i +β5X5i +β6X6i + β7X7i + β8X8i + β9X9i + ε

3.3.1.1 Giải thích các biến.

Yi: là biến phụ thuộc, nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là không thực hiện

kiểm tra sức khỏe định kỳ. Giá trị 1 tức là có thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Các biến phụ thuộc nhằm giải thích các yếu tố tác động đến việc thực hiện

kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là: X1, X2, , X3 , X4 , X5 , X6 , X7 , X8 , X9

X1: Tuổi của người tham gia. Đây là một biến liên tục, được đo lường bằng số

năm.

X2: Giới tính, biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 1 tức là nam, giá trị 0 tức

là nữ.

33

X3: Tình trạng hôn nhân, biến này thể hiện người tham gia đã lập gia đình hay

còn độc thân. Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là độc thân, giá trị 1 tức là

đã lập gia đình.

X4: Tình trạng việc làm. Biến này thể hiện người tham gia là người làm việc tự

do hay là làm việc cho một cơ quan, tổ chức. Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị

0 tức là làm việc tự do, tự kinh doanh, tự làm chủ, thất nghiệp. Giá trị 1 tức là làm

việc cho một cơ quan, tổ chức nào đó.

X5: Trình độ giáo dục. Biến này được chia thành hai nhóm, được tính theo số

năm đi học, nhóm có số năm đi học < 12 năm, nhóm có số năm đi học >= 12 năm.

Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là có số năm đi học < 12 năm, giá trị 1

tức là có số năm đi học >= 12 năm.

X6: Thu nhập. Biến này được chia làm hai nhóm, nhóm có thu nhập < 10 triệu

VND/ tháng , nhóm có thu nhập >= 10 triệu VND/ tháng. Biến này nhận gia trị 0

hoặc 1. Giá trị 0 tức là có thu nhập < 10 triệu VND/ tháng, giá trị 1 tức là có thu

nhập >= 10 triệu VND/ tháng.

X7: Tiền sử bệnh. Biến này thể hiện người tham gia có bệnh mạn tính, bệnh

bẩm sinh hay không. Biến này nhận hai giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là không có

bệnh mạn tính hay bẩm sinh, giá trị 1 tức là có bệnh mạn tính hoặc bệnh bẩm sinh.

X8: Tác động của chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Không tác động nhận giá trị 0, có tác

động nhận giá trị 1.

X9: Tác động của thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Không tác động nhận giá trị 0, có tác

động nhận gia trị 1.

ε: Sai số ngẫu nhiên, thể hiện các yếu tố tác động lên biến Y mà ta không quan

sát được.

34

Các biến trong mô hình được thu thập theo những thông tin như sau:

Các biến trong mô hình thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ

Thông tin khảo sát Các biến trong mô

hình Tên Diển giải

Kiểm tra sức khỏe

định kỳ Có = 1, không = 0 Y

Tuổi Năm sinh X1

Giới tính Nam = 1, Nữ = 0 X2

Tình trạng hôn nhân Độc thân = 0, lập gia đình = 1 X3

Tự doanh, thất nghiệp = 0, làm việc cho

Tình trạng việc làm tổ chức = 1 X4

Số năm đi học < 12 = 0, số năm đi học

Trình độ giáo dục >= 12 = 1 X5

Thu nhập < 10 triệu = 0, thu nhập >= 10

Thu nhập triệu = 1 X6

Không có bệnh mạn tính, bẩm sinh = 0,

Tiền sử bệnh có = 1 X7

Tác động của chi phí

kiểm tra sức khỏe Không tác động = 0, tác động = 1 X8

Tác động của thời gian

kiểm tra sức khỏe Không tác động = 0, tác động = 1 X9

Vì biến phụ thuộc Y là biến dummy, chỉ nhận hai giá trị 0 hoặc 1. Mục tiêu

nghiên cứu trong phần định lượng là phân tích xu hướng tác động của các yếu tố,

tức là nghiên cứu sẽ thực hiện việc dự báo xác suất xảy ra việc thực hiện kiểm tra

sức khỏe định kỳ, dựa vào các thông tin từ các biến độc lập, như là độ tuổi, giới

tính, trình độ học vấn, thu nhập, tình trạng hôn nhân, tiền sử bệnh, tác động của thời

gian kiểm tra sức khỏe định kỳ,tác động giá của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,

35

phương thức thanh toán, tình trạng việc làm, và đo lường mức độ tác động của biến

độc lập lên việc thay đổi xác suất mà người dân thực hiện việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ . Vì vậy để phù hợp với dạng thức của biến phụ thuộc Y và mục tiêu nghiên

cứu phần định lượng, nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy logistic. Mô hình

này được nhà thống kê học David R. Cox phát triển vào thập niên 1970s.

3.3.2 Thiết kế khảo sát.

3.3.2.1 Số lượng mẫu.

Khảo sát về việc thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân,

được thiết kế như một khảo sát đại diện đối với người 40 tuổi trở lên, hiện đang sinh

sống tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân trong mẫu điều tra

cần phải có xác suất được chọn như nhau. Điều này cho phép sử dụng dữ liệu thu

thập được để suy luận về tổng thể đằng sau đó. Tuy nhiên khảo sát này lại áp dụng

cách chọn mẫu thuận tiện có phân tầng, khảo sát cố gắng đa dạng hóa các đặc điểm

nhân khẩu, tình trạng việc làm,trình độ học vấn, mức thu nhập trong mẫu khảo sát,

vì vậy nghiên cứu ưu tiên khảo sát trong các quận huyện sau của Tp HCM: Quận 1,

Quận 10, Quận Tân Bình. Số bảng câu hỏi khảo sát được sử dụng là 300, chia đều

cho mỗi quận. Có 44 mẫu trả lời không hợp lệ. Các mẫu bị loại do người được điều

tra không cung cấp đầy đủ thông tin hoặc trả lời cùng lúc tất cả các lựa chọn, số

mẫu khảo sát hợp lệ còn lại 256, số liệu được thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau:

Số liệu mẫu khảo sát

Khu vực Số mẫu khảo Số mẫu hợp Số mẫu Phần

khảo sát sát lệ lỗi trăm

Quận 1 100 90 10 90%

Quận 10 100 88 12 88%

Quận TB 100 78 22 78%

Tổng 300 256 44

Tỉ lệ tổng thể của khảo sát đạt 85% , đây là tỉ lệ phiếu đạt yêu cầu đáng khích

lệ đối với người nghiên cứu. Tuy mức độ phần trăm của số mẫu hợp lệ giữa các

36

quận có sự chênh lệch, nhưng không lớn lắm, mức độ chênh lệch giữa quận 1 ( là

quận có tỉ lệ phần trăm đạt cao nhất ) với quận Tân Bình ( là quận có tỉ lệ phần trăm

đạt thấp nhất ) là 12 điểm phần trăm.

3.3.2.2 Phương pháp lấy mẫu.

Với phần nghiên cứu định lượng, theo giới chuyên gia và bác sỹ, đối tượng

cần đặc biệt quan tâm đến sức khỏe, phải thường xuyên thực hiện kiểm tra sức khỏe

định kỳ là giới trung niên từ bốn mươi tuổi trở lên, vì thế đối tượng nghiên cứu của

đề tài này là giới trung niên từ bốn mươi tuổi trở lên. Mẫu được chọn theo phương

pháp thuận tiện có phân tầng. Để đáp ứng được tính đa dạng trong cấu trúc dân số

tại Tp Hồ Chí Minh, tất cả các thành phần dân cư đều được khảo sát, ba quận của

Tp Hồ Chí Minh sẽ được chọn lấy mẫu đó là: quận 1, quận 10, quận Tân Bình.

Chọn mẫu ngẫu nhiên ở những nơi đông người, siêu thị, công viên, bệnh viện, khu

dân cư tập trung ( các khu chung cư, các tòa nhà…), số lượng mẫu được lấy là 300

mẫu, phân bố đều cho mỗi quận là 100 mẫu. Với mức chi phí kiểm tra sức khỏe

định kỳ hiện nay giao động từ 1,200,000vnd đến 3,500,000vnd cho một lần kiểm tra

sức khỏe định kỳ, với mức chi phí trên, theo các chuyên gia, người có thu nhập từ

10,000,000vnd/tháng trở lên khả năng họ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều

hơn người có thu nhập dưới 10,000,000vnd/tháng, vì vậy người nghiên cứu thực

hiện khảo sát với biến thu nhập mang hai giá trị >= 10,000,000vnd và <

10,000,000vnd. Về trình độ học vấn, theo các chuyên gia, người có trình độ học vấn

từ 12 năm trở lên có khả năng hiểu về lợi ích của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ

hơn đối với người có học vấn ít hơn 12 năm, vì vậy nghiên cứu khảo sát biến học

vấn với hai giá trị, >=12 năm và < 12 năm.

Đội ngũ khảo sát viên gồm ba người, mỗi người phụ trách khảo sát mỗi quận

theo như được phân công. Người nghiên cứu sẽ là người giám sát, phân loại, đánh

giá các phiếu khảo sát được nộp về từ các khảo sát viên và xử lý dữ liệu sau khi đã

hoàn thành việc khảo sát. Việc khảo sát được thực hiện với bảng câu hỏi đã được

chuẩn bị trước, khảo sát viên có 5 phút để tiếp xúc với mẫu được chọn, giới thiệu về

mình, về chương trình và tiến hành phỏng vấn điền phiếu. Phỏng vấn viên có nhiệm

37

vụ giải thích các khái niệm cho người được phỏng vấn, nếu họ không hiểu, cần phải

giải thích rõ ràng để có được thông tin một cách chính xác nhất. Vào cuối mỗi ngày

khảo sát, các phỏng vấn viên cần ngồi lại với người nghiên cứu, để giải quyết những

vấn đề mới phát sinh trong ngày phỏng vấn, rút kinh nghiệm cho ngày phỏng vấn

tiếp theo.

Các tiêu chí, cấu trúc bảng câu hỏi phỏng vấn cho phần nghiên cứu định

lượng, có được từ kết quả của phần nghiên cứu định tính. Từ kết quả nghiên cứu

định tính, người nghiên cứu sẽ xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, từ đó người nghiên cứu sẽ

xác định tính khả thi của các yếu tố này trong thực trạng khảo sát, trong phạm vi

của nghiên cứu này, từ đó người nghiên cứu sẽ lập nên bảng câu hỏi được dùng cho

phần nghiên cứu định lượng, qua đó định hình được khung phân tích và các biến

cho phương trình hồi quy phục vụ cho việc phân tích định lượng của nghiên cứu.

3.3.2.3 Tổng hợp dữ liệu.

Các bảng khảo sát được tập trung về cho người nghiên cứu, người nghiên cứu

tiến hành phân loại các bảng khảo sát hợp lệ và không hợp lệ. Người nghiên cứu

tiến hành nhập liệu theo như những mã hóa đã được quy định.

3.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3, người nghiên cứu giải thích trình tự thực hiện đề tài bằng lược đồ.

Trình tự thực hiện đề tài từ việc chọn mẫu cho việc phỏng vấn tay đôi, người nghiên

cứu đã chọn mẫu là các chuyên gia, bác sỹ và những người có khả năng quyết định

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, nêu lên ý nghĩa của mẫu được chọn,

phương pháp phỏng vấn tay đôi, hệ thống các câu hỏi cho từng đối tượng mẫu riêng

biệt. Tổng hợp thông tin từ các cuộc phỏng vấn theo các tiêu chí có tỉ lệ trùng khớp

cao, kết quả của quá trình nghiên cứu định tính, xác định các yếu tố tác động, đưa ra

bảng câu hỏi cho việc khảo sát định lượng.

Xác định được mô hình nghiên cứu cho nghiên cứu định lượng, xác định

được trạng thái các biến trong mô hình định lượng. Lựa chọn mô hình hồi qui

Logistic dùng cho nghiên cứu định lượng. Đưa ra phương pháp lấy mẫu cho việc

38

khảo sát của nghiên cứu định lượng, phương pháp khảo sát dựa theo bảng câu hỏi

có được từ nghiên cứu định tính. Thành lập bộ dữ liệu định lượng phục vụ cho

nghiên cứu.

39

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH

4.1.1 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với giới chuyên gia, bác sỹ.

Ý kiến chuyên gia, bác sỹ Tiêuchí Yếu tố ảnh hưởng đến quyết

phỏng vấn định Số ý kiến Tỉ lệ

kiển tra sức khỏe định kỳ tán thành phần trăm

Từ 40 tuổi trở lên 7 70%

Có thu nhập khá 8 80%

Thường là nữ 6 60% Đối tượng

Trình độ giáo dục trên PTTH 6 60% tham gia

Làm việc cho các cơ quan, tổ

chức 9 90%

Bệnh phụ nữ 4 40%

Bệnh lão 4 40% Tình trạng

Bệnh mạn tính 9 90% sức khỏe

Bệnh bẩm sinh 9 90%

Thời gian chờ lâu 7 70%

Chất lượng

dịch vụ Chi phí cao 6 60%

Qua bảng tổng hợp trên ta thấy, trong nhiều yếu tố mà các chuyên gia và bác

sỹ đề cập đến, các yếu tố trên được hầu hết các chuyên gia, bác sỹ cùng đồng ý.

Như khi nói đến vấn đề độ tuổi thường tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, 70% số

chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng độ tuổi trung bình là từ 40 tuổi trở lên. Theo các

chuyên gia về sức khỏe, những người từ độ tuổi bốn mươi trở lên cần được đặc biệt

quan tâm và chăm sóc về sức khỏe. Bởi ở độ tuổi này sức đề kháng và khả năng hấp

thu dinh dưỡng đã giảm nhiều, các chức năng của cơ thể cũng không còn hoạt động

tốt như trước, do đó người ở độ tuổi này rất dễ mắc bệnh. Ở nữ giới trong độ tuổi

40

này thường mắc các bệnh như: loãng xương, ung thư vú, ung thư tử cung, cao huyết

áp, xương khớp, nhiễm khuẩn đường sinh sản, ở nam giới trong độ tuổi này thường

mắc phải các bệnh như: mỡ máu, huyết áp, dạ dày, cột sống, tiểu đường, nhồi máu

cơ tim,…Các chuyên gia về sức khỏe khuyên rằng với những người từ độ tuổi bốn

mươi trở lên nên kiểm tra sức khỏe định kỳ thường xuyên cho dù có bệnh hay

không, việc làm này không chỉ để đảm bảo cho sức khỏe hiện tại mà còn sớm phát

hiện các dấu hiệu bệnh nhằm giảm thiểu rủi ro và chi phí trong điều trị. 80%

chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng những người tự nguyện tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ đều là những người có thu nhập khá, thường từ 10 triệu VND/ tháng trở lên.

60% chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng nữ giới thường tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ nhiều hơn nam giới, vì từ độ tuổi 40 trở lên, nữ giới có xu hướng mắc bệnh

nhiều hơn nam giới. Đối với những người có trình độ giáo dục trên bậc trung học,

họ có ý thức tốt hơn về sức khỏe của mình, đồng thời họ có nhiều điều kiện hơn đối

với những người có trình độ giáo dục dưới bậc trung học về việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ, 60% chuyên gia và bác sỹ đều đề cập và đồng ý về yếu tố này. Hiện nay ở

nước ta đối tượng tự nguyện tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ còn khá ít, hầu hết

các cá nhân tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là theo yêu cầu của cơ quan tổ chức

nơi họ làm việc, 90% ý kiến của giới chuyên gia và bác sỹ được phỏng vấn đều

đồng ý về yếu tố này.

Theo như các cuộc phỏng vấn với giới chuyên gia, bác sỹ, những người có

bệnh mạn tính, bệnh bẩm sinh ( đọc thêm ở phần phục lục về bệnh mạn tính và bệnh

bẩm sinh ), họ phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ theo chỉ định của bác

sỹ, đây là một việc làm bắt buộc để theo dõi diễn tiến của bệnh, nhằm có phát đồ

điều trị thích hợp, 90% giới chuyên gia, bác sỹ đều nêu ý kiến về yếu tố này và

đồng tình với nó.

Về vấn đề chất lượng dịch vụ mà các bệnh viện, trung tâm y tế cung cấp cho

người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ tại Tp Hồ Chí Minh, qua những cuộc

khảo sát, phỏng vấn, hầu hết giới chuyên gia và bác sỹ đều cho rằng, về hiệu quả

của việc ngăn ngừa bệnh tật thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, trình độ của

41

chúng ta hiện nay ngang bằng với các nước tiên tiến trên thế giới, những người

tham gia kiểm tra sức khỏe hầu hết đều tin tưởng về kết quả mà họ nhận được từ

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Có hai yếu tố lớn hiện nay của các hệ thống bệnh

viện và các trung tâm y tế luôn làm ảnh hưởng đến quyết định tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ của người dân, đó là thời gian chờ đợi lâu, chi phí cho việc tham gia

kiểm tra sức khỏe định kỳ còn cao so với mặt bằng thu nhập chung của đa số người

dân, với yếu tố chờ đợi lâu đến 70 % chuyên gia, bác sỹ đề cập đến vấn đề này, với

yếu tố chi phí của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ còn cao so với thu nhập bình quân

của người dân có đến 60% giới chuyên gia, bác sỹ có ý kiến về vấn đề này, hai yếu

tố này tác động khá mạnh đến quyết định thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ

của người dân, vì lúc này họ chưa có triệu chứng bệnh nên tâm lý trì hoãn thực hiện

kiểm tra sức khỏe định kỳ là khá lớn, nếu không có động cơ khuyến khích hay bắt

buộc, họ thường xuyên không thực hiện cho đến khi xuất hiện triệu chứng bệnh.

Theo ý kiến của các chuyên gia,bác sỹ, để người dân chủ động trong việc kiểm

tra sức khỏe định kỳ và hiểu được các lợi ích có được từ việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ, đòi hỏi người dân cần phải có một kiến thức nhất định về các cách bảo vệ

sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống qua những hoạt động, ăn uống mỗi ngày,

hiểu được và phân biệt được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật và điều

trị bệnh tật, nếu người dân hiểu được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật,

cuộc sống của họ sẽ khỏe mạnh và hạnh phúc hơn rất nhiều, nếu người dân không

phân biệt được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật với điều trị bệnh, họ

không bao giờ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ để ngăn ngừa nguy cơ bệnh, họ

chỉ đến bệnh viện, các trung tâm y tế khi bệnh đã phát tác, biểu hiện ra bằng những

cơn đau, sức khỏe của họ lúc này đã bị giảm đi rất nhiều, và chi phí điều trị cũng

tăng lên.

42

4.1.2 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với người có khả năng quyết định việc kiểm

tra sức khỏe định kỳ.

Ý kiến người

dân

Tiêuchí Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định Sốý

phỏng vấn kiển tra sức khỏe định kỳ kiến Tỉ lệ

tán phần

thành trăm

Quan tâm nhiều đến sức khỏe 8 80% Ý thức về sức

Tập thể thao 7 70% khỏe, tìm hiểu

Không dùng chất gây hại 5 50% thông tin về

Thực hiện an toàn thực phẩm 3 30% sức khỏe,

Không đồng ý làm việc trong môi trường độc không dùng

hại 7 70% chất gây hại

Đồng ý làm việc trong môi trường độc hại 3 30%

Tự nguyện thực hiện kiểm tra sức khỏe 3 30% Hiểu, sẵn sàng

Thực hiện theo cơ quan, tổ chức 5 50% chi tiêu cho

Sẵn sàng thực hiện nếu chi phí giảm 6 60% việc thực hiện

Sẵn sàng thực hiện nếu được tài trợ 8 80% kiểm tra sức

khỏe định kỳ Sẵn sàng thực hiện nếu không chờ đợi lâu 7 70%

Không thích chờ đợi 7 70% Lý do thực

Chưa cần thiết 2 20% hiện, không

Chi phí cao 7 70% thực hiện

Sợ đề cập tới bệnh tật 2 20% kiểm tra sức

khỏe định kỳ. Thực hiện vì bắt buộc 5 50%

Qua bảng tổng hợp các tiêu chí trong cuộc phỏng vấn giữa người nghiên cứu

với những người có khả năng quyết định tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, ta

thấy rằng, hầu hết những người được hỏi đều quan tâm đến sức khỏe của mình,

43

chiếm 80% số người được hỏi, họ cũng có những hành vi duy trì và bảo vệ sức khỏe

của mình như tập thể thao chiếm 70% số người được hỏi, không dùng chất gây hại,

chất kích thích chiếm 50% số người được hỏi. Hầu hết những người luôn quan tâm

đến sức khỏe của mình, họ luôn tìm một phương thức nào đó, phù hợp với môi

trường và điều kiện của họ để đảm bảo sức khỏe cho mình, họ không còn suy nghĩ

về sức khỏe như là cái gì đó không thể kiểm soát được, do may mắn hoặc không

may mắn mà ta được khỏe mạnh hay bị ốm đau. Họ sẵn sàng từ bỏ môi trường lao

động độc hại để đảm bảo cho sức khỏe của mình, họ tin rằng họ sẽ tìm được việc

khác với môi trường làm việc tốt hơn,

Với những người có trình độ học vấn cao hơn ( trên bậc Phổ thông trung học )

, với mức thu nhập hàng tháng tốt hơn( thường là trên 10 triệu đồng/ tháng ), ngoài

những hoạt động có lợi cho sức khỏe, họ còn tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ,

họ hiểu được về việc làm thế nào để hạn chế rủi ro bệnh tật, họ nghĩ rằng họ làm

như vậy tức là họ sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Tuy nhiên hầu hết

những người này hiện nay tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ theo chương trình

của nơi họ làm việc, chiếm 50% số người được phỏng vấn.

Với những người có trình độ học vấn trên trung học, mức thu nhập từ 10 triệu

đồng/ tháng trở lên nhưng họ là những người hoạt động kinh doanh tự do, tự làm

cho riêng mình, họ luôn quan tâm đến sức khỏe của mình, họ tham gia các hoạt

động có lợi cho sức khỏe, nhưng họ chưa sẵn sàng chi trả cho việc kiểm tra sức

khỏe định kỳ, đối với họ còn nhiều yếu tố làm họ đắn đo trong quyết định của mình,

các yếu tố họ thường đề cập đến như là, hiện nay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là

chưa cần thiết đối với họ, thời gian chờ đợi cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại

các bệnh viện, trung tâm y tế làm họ tiêu tốn nhiều thời gian, chi phí cho việc kiểm

tra sức khỏe định kỳ hiện nay còn cao, với chi phí này họ chỉ sẵn sàng thực hiện khi

có dấu hiệu, triệu chứng của bệnh. Họ có ý thức về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe

định kỳ nhưng luôn trì hoãn nó mỗi khi đề cập đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,

kiểm tra sức khỏe định kỳ hiện nay chưa là vấn đề cấp thiết đối với họ. Nhưng khi

được hỏi nếu chi phí cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hiện nay giảm còn một

44

nữa, có đến 60% nói là sẽ thực hiện ngay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, nếu việc

kiểm tra sức khỏe định kỳ được tài trợ ( họ không mất chi phí khi thực hiện ) 80%

trong số họ sẽ thực hiện ngay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. 70% sẽ thực hiện việc

kiểm tra sức khỏe định kỳ, nếu họ không mất quá nhiều thời gian cho việc này. Qua

đó ta thấy yếu tố giá của việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ, yếu tố thời gian

chờ đợi tác động đến quyết định có thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức

khỏe định kỳ.

Vì dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ là một loại hình dịch vụ đặc biệt, người

sử dụng dịch vụ này sẽ không có cảm nhận trực tiếp khi sử dụng dịch vụ, nếu khi sử

dụng dịch vụ không phát hiện được bệnh vì họ không có bệnh, trạng thái tâm lý của

họ trước và sau khi sử dụng dịch vụ đều như nhau, và họ nghĩ rằng họ đã chi tiêu vô

ích cho dịch vụ này. Nếu khi sử dụng dịch vụ này bệnh của họ được phát hiện, tùy

theo mức độ nặng, nhẹ, trạng thái tâm lý của họ sẽ buồn hơn so với trước khi sử

dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ, họ có suy nghĩ tiêu tốn chi phí để tìm kiếm

những điều không may và buồn phiền. Hoàn toàn khác với việc sử dụng dịch vụ y tế

cho việc điều trị bệnh, khi họ đến với bệnh viện, trung tâm y tế khi đang bị bệnh,

triệu chứng của bệnh đã được thể hiện trên cơ thể họ, như đau đớn, khó chịu, nguy

hiểm tính mạng…họ sẵn sàng chi trả để cơ thể họ hết đớn đau, hết khó chịu, tính

mạng không còn bị nguy hiểm, hết bệnh tật, họ chi trả và cảm nhận được trực tiếp

lợi ích của dịch vụ y tế mà họ đã sử dụng. Nhưng đối với dịch vụ kiểm tra sức khỏe

định kỳ thì họ không cảm nhận được lợi ích của việc sử dụng dịch vụ một cách trực

tiếp như vậy. Họ đang trong trạng thái khỏe mạnh, họ lo lắng, sợ hải khi đề cập đến

bệnh tật trên chính bản thân họ. Đây là một rào cản mang tính tâm lý rất lớn cho

loại hình dịch vụ này.

45

4.1.3 Bảng tổng hợp chung của hai đối tượng phỏng vấn là giới chuyên gia, bác sỹ

với người có khả năng thực hiện quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Yếu tố tác động đến quyết định thực hiện Tổng hợp ý kiến

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân Chuyên người

gia,bác sỹ dân

Từ 40 tuổi trở lên 70%

Có thu nhập khá 80% 70%

Thường là nữ 60%

Trình độ giáo dục trên PTTH 60%

Làm việc cho các cơ quan, tổ chức 90% 50%

Bệnh mạn tính 90% 100%

Bệnh bẩm sinh 90% 100%

Chi phí cao 70% 70%

Thời gian chờ lâu 60% 70%

Đã có gia đình 80%

Qua bảng tổng hợp trên cho ta biết được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, được tổng hợp từ các cuộc

phỏng vấn của giới chuyên gia, bác sỹ và của người dân. Đây là những yếu tố mà

hầu hết các đối tượng phỏng vấn đề cập đến. Những yếu tố này sẽ giúp người

nghiên cứu định hình các biến trong phần nghiên cứu định lượng của mình.

46

4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG.

4.2.1 Thống kê mô tả.

Trong đó, giới tính mang giá trị 0 là nữ, giới tính mang giá trị 1 là nam.

Qua bảng phân tích trên cho ta thấy rằng: Giới tính nữ là 163 mẫu, chiếm

63,67% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 mẫu. Giới tính nam là 93 mẫu, chiếm

36,33% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 mẫu.

47

Từ bảng kết quả phân tích trên cho ta thấy rằng: độ tuổi lớn nhất trong mẫu

khảo sát sinh năm 1951 ( 64 tuổi ) có 2 mẫu khảo sát, chiếm 0,78%. Độ tuổi nhỏ

nhất trong mẫu khảo sát sinh năm 1975 ( 40 tuổi ) có một mẫu khảo sát, chiếm

0,39%. Qua đó ta thấy dữ liệu khảo sát đáp ứng với nhu cầu nghiên cứu, đối tượng

được khảo sát phải từ 40 tuổi trở lên. Nếu như phân nhóm những người sinh trong

thập niên 50 ( tức là từ 1950 đến 1959 ), những người sinh trong thập niên 60 ( tức

48

là 1960 dến 1969 ) và những người sinh trong thập niên 70 ( tức là từ 1970 đến

1979 ) ta có các số liệu sau:

Năm sinh Chỉ số khảo sát

Số mẫu khảo sát Phần trăm

Thập niên 50 34 13,27%

Thập niên 60 142 55,46%

Thập niên 70 80 31,27%

Qua bảng phân tích trên ta thấy được rằng mẫu khảo sát sinh vào thập kỷ 60

chiếm tỉ lệ cao nhất 142 mẫu, 55,46%, đây là tầng lớp trung niên của xã hội, ở độ

tuổi này ( 55 tuổi đến 46 tuổi ) hầu hết đã có cuộc sống ổn định, Vì vậy họ có nhiều

điều kiện thời gian và vật chất để quan tâm đến sức khỏe của mình. Đứng thứ nhì là

số mẫu sinh vào thập niên 70, với số mẫu là 80, chiếm 31,27%, đây cũng là độ tuổi

hầu hết có cuộc sống ổn định nên có nhiều cơ hội cho việc chăm sóc sức khỏe của

mình. Số mẫu thấp nhất là những người sinh vào thập niên 50, với số mẫu 34,

chiếm 13,27% trong tổng số mẫu quan sát.

Với biến học vấn, giá trị 0 tức là có thời gian học ít hơn 12 năm cần thiết để

hoàn thành bậc phổ thông, giá trị 1 tức là có thời gian học bằng và lớn hơn 12 năm

học ( đã hoàn thành bậc trung học hoặc hơn. ). Qua đó ta thấy, số mẫu quan sát

không có sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn trong tổng thể các mẫu quan sát,

mẫu quan sát có thời gian học < 12 năm là 115 mẫu, chiếm 44.92%, mẫu quan sát

có thời gian học >= 12 năm là 141 mẫu, chiếm 55.08%.

49

Với biến hôn nhân, giá trị 0 tức là chưa lập gia đình, giá trị 1 tức là đã lập gia

đình. Ta thấy mẫu quan sát ở tình trạng chưa kết hôn là 103 quan sát, chiếm

40.23%, mẫu quan sát ở tình trạng kết hôn là 153 quan sát, chiếm 59.77% trong

tổng thể các mẫu quan sát là 256 quan sát.

Với biến việc làm, giá trị 0 tức là kinh doanh tự do, tự làm chủ, không đi làm

cho các cơ quan tổ chức khác, giá trị 1 tức là đi làm cho các cơ quan tổ chức. Từ

bảng phân tích trên cho ta thấy số mẫu quan sát của các đối tượng kinh doanh tự do

là 112 quan sát, chiếm 43.75%, đối tượng công nhân viên chức, đi làm cho các công

ty, cơ quan, xí nghiệp là 144 quan sát, chiếm 56.25% trong tổng thể 256 mẫu quan

sát.

50

Với biến thu nhập, giá trị 0 tức là có thu nhập dưới 10 triệu VND trong một

tháng, giá trị 1 tức là có thu nhập từ 10 triệu VND trở lên trong một tháng. Qua

bảng phân tích trên ta thấy số mẫu quan sát có thu nhập ít hơn 10 triệu VND là 171

quan sát, chiếm 66.8%, số mẫu quan sát có thu nhập từ 10 triệu VND trở lên 85

quan sát, chiếm 33.2% trong tổng thể quan sát là 256 quan sát.

Với biến kiểm tra sức khỏe, đây là biến phụ thuộc Y, biến này nhận giá trị 0

tức là không thực hiên việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến này nhận giá trị 1 tức là

có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng,

đối tượng quan sát không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là 80 quan sát,

chiếm 31.25%, đối tượng quan sát có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là

176 quan sát, chiếm 68.75% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 quan sát.

51

Với biến bệnh, biến này nhận giá trị 0 tức là đối tượng quan sát không có bệnh

bẩm sinh hoặc bệnh mạn tính, biến này nhận giá trị 1 tức là đối tượng quan sát có

bệnh bẩm sinh hoặc mạn tính. Qua bảng phân tích trên cho ta thấy rằng, đối tượng

mẫu quan sát không có bệnh bẩm sinh hay mạn tính là 116 quan sát, chiếm 45.31%,

đối tượng quan sát có bệnh bẩm sinh hoặc mạn tính là 140 quan sát, chiếm 54.69%

trong tổng thể các mẫu quan sát là 256 quan sát.

Theo ý kiến của các chuyên gia của các bệnh viện lớn ở Tp HCM mà

người nghiên cứu có tham vấn, khi một người có bệnh bẩm sinh hoặc bệnh mạn tính

thì họ phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ theo sự chỉ định của các bác sỹ,

đây là một điều bắt buộc để theo dõi diễn tiến của bệnh, nhằm có phát đồ điều trị

thích hợp.

Với biến giá, biến này nhận hai giá trị 0 và 1. Biến giá nhận giá trị 0 tức là giá

của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ không tác động đến quyết định của người tham

gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến này nhận giá trị 1 tức là giá của việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ có tác động lên quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ. Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng, đối tượng được quan sát có bị tác

52

động bởi giá của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là 129 quan sát, chiếm 50.39%, đối

tượng được quan sát không bị tác động bởi giá của việc tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ là 127 quan sát, chiếm 49.61%, trong tổng thể 256 quan sát.

Biến thời gian, biến này nhận giá trị 0 và 1. Biến thời gian nhận giá trị 0 tức là

yếu tố thời gian trong quá trình chờ đợi và kiểm tra sức khỏe định kỳ không tác

động đến quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến nhận giá

trị 1 tức là yếu tố thời gian chờ đợi và kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến

quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Qua bảng phân tích trên,

ta thấy 80quan sát không bị tác động bởi yếu tố thời gian, chiếm 31.25%, số quan

sát có bị tác động bởi yếu tố thời gian khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là 176

quan sát, chiếm 68.75% trong tổng thể quan sát 256.

Qua bảng phân tích trên ta thấy: Với 171 người có thu nhập trên 10 triệu VND

trong một tháng , trong đó có đến 137 người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ

chiếm 80.12%, số còn lại không tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là 34 người,

chiếm 19.88%. Ta có thể nói, đa số người có thu nhập cao từ 10 triệu đồng/ tháng

trở lên thường là họ có tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

53

Từ bảng phân tích trên ta thấy: Với những người có số năm đi học > = 12 năm,

việc họ thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ chiếm 69.5%, vẫn còn một thành phần

không nhỏ ngưởi có số năm đi học >= 12 năm nhưng không thực hiện việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ, nó chiếm một tỷ lệ 30.5%.

Qua bảng phân tích trên, ta thấy rằng: với những người tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ, có đến 55.11% là quyết định của họ bị tác động bởi yếu tố giá của

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, số còn lại không bị tác động bởi yếu tố giá là

44.89%.

54

Từ bảng phân tích trên ta thấy rằng: Đối với những người tham gia kiểm tra

sức khỏe định kỳ thì có đến 64.77% số người bị tác động bởi thời gian chờ đợi và

thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, 35.23% còn lại là không bị tác động.

Qua đó ta thấy rằng số người bị yếu tố thời gian chờ đợi khi tham gia kiểm tra

sức khỏe định kỳ tác động nhiều hơn số người bị yếu tố giá cả của việc kiểm tra sức

khỏe định kỳ tác động.

Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng: Số người làm việc cho các công ty, cơ

quan, tổ chức thì tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn số người kinh doanh

tự do. Số người làm việc cho các cơ quan tổ chức tham gia kiểm tra sức khỏe định

kỳ chiếm đến 70.45%, số người làm việc tự do, tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ

là 29.55%.

55

Qua hai bảng phân tích trên ta thấy rằng tỷ lệ phần trăm tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ của nữ cao hơn của nam, cụ thể là tỷ lệ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ

của nữ chiếm 79.75%, trong khi đó tỷ lệ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của

nam chỉ có 49.46%.

Qua bảng phân tích trên ta thấy, 59.48% người khỏe mạnh, quan tâm đến sức khỏe

của họ và tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

56

4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Logistic.

Qua bảng phân tích trên ta thấy với độ tin cậy 10%, biến năm sinh có P >z =

0.2 vì vậy biến năm sinh không có ý nghĩa thống kê. Người nghiên cứu loại bỏ biến

thống kê năm sinh và chạy lại mô hình hồi quy như sau:

57

Bảng phân tích trên cho thấy, giá trị pseudo R2 = 0.406, cho thấy 40% quyết

định về việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân được giải thích bởi sự thay

đổi của các biến trong mô hình. Với độ tin cậy 10%, ta thấy có 8 biến tác động đến

quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân có ý nghĩa thống kê, gồm các

biến: Giới tính, học vấn, hôn nhân, việc làm, thu nhập, trình trạng bệnh tật, tác động

của giá đến quyết định của người dân, tác động của thời gian chờ đợi và thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định của người dân.

Giải thích các biến có ý nghĩa như sau:

58

Biến giới tính với p > z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu âm, có nghĩa là

biến giới tính ít có xu hướng làm tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân.

Biến học vấn với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu âm, có nghĩa là

biến học vấn ít có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ

của người dân.

Biến hôn nhân với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có

nghĩa là biến hôn nhân có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe

định kỳ của người dân.

Biến việc làm với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa

là biến việc làm có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ

của người dân.

Biến thu nhập với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa

là biến thu nhập có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ

của người dân.

Biến bệnh tật với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa

là biến bệnh tật có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ

của người dân.

Biến tác động của thời gian chờ, với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang

dấu âm, có nghĩa là biến tác động của thời gian chờ đợi cho việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ ít có xu hướng tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân.

Biến tác động của chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ, với p > Z nhỏ hơn 0.1, và

hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa là biến tác động của chi phí cho việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ có xu hướng tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân.

Để biết được tác động định lượng của các biến giải thích lên biến phụ thuộc như thế

nào, chúng ta cần biết được tác động biên và tác động trung bình của mô hình, cụ

thể như sau:

59

Qua bảng phân tích trên ta thấy:

Hệ số dy/dx của biến giới tính là -0.27, giá trị này cho chúng ta biết được

rằng xác suất người nam tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thấp hơn 0.27 so với

người nữ.

Hệ số dy/dx của biến học vấn là -0.20, giá trị này cho chúng ta biết rằng,

người có học vấn từ bậc trung học trở lên có xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ thấp hơn 0.2 so với người có học vấn thấp hơn bậc trung học. Tình trạng

này được giải thích như sau: Vì cách chọn mẫu của nghiên cứu này không đáp ứng

đúng tính ngẫu nhiên của mẫu, đồng thời số mẫu không đủ lớn để loại trừ các chênh

lệch. Vì vậy theo thống kê mô tả ta thấy: Trong 115 mẫu có học vấn dưới trung học

thì có đến 67% tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Trong 141 mẫu có học vấn từ

trung học trở lên có 69% tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tức là người có học

vấn trên trung học tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn người có học vấn

60

dưới trung học là 2 điểm phần trăm. Nhưng người có học vấn < 12 năm làm việc

cho các cơ quan chỉ chiếm 36%, trong khi người có học vấn >=12 làm việc cho các

cơ quan chiếm đến 72% và 70% người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là những

người làm việc cho các cơ quan. Qua đó ta thấy người có học vấn < 12 năm có tỉ lệ

tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn người có học vấn >= 12 năm.

Hệ số dy/dx của biến hôn nhân là 0.12 , giá trị này cho chúng ta biết rằng,

xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người lập gia đình cao hơn 0.12 so

với người chưa có gia đình.

Hệ số dy/dx của biến việc làm là 0.5 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác

suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có việc làm cao hơn 0.5 so với

người làm việc tự do hay thất nghiệp.

Hệ số dy/dx của biến thu nhập là 0.4 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác

suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có thu nhập >= 10 triệu vnđ cao

hơn 0.4 so với người có thu nhập < 10 triệu vnđ.

Hệ số dy/dx của biến bệnh là 0.2 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác suất

tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có bệnh cao hơn 0.2 so với người

không có bệnh.

Hệ số dy/dx của biến tác động giá là 0.23 , giá trị này cho chúng ta biết rằng,

xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người bị tác động của giá cao hơn

0.23 so với người không bị tác động của giá. Tình trạng này được giải thích như

sau: Vì đến 75% người quan tâm đến giá là người tham gia kiểm tra sức khỏe định

kỳ, những người không quan tâm đến giá thường là những người không tham gia

kiểm tra sức khỏe định kỳ, chiếm 62%.

Hệ số dy/dx của biến tác động của thời gian chờ là -0.21 , giá trị này cho

chúng ta biết rằng, xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người bị tác

động của thời gian chờ thấp hơn 0.21 so với người không bị tác động bởi thời gian

chờ.

61

4.3 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Từ phương pháp nghiên cứu của chương 3, chương 4 người nghiên cứu có

những kết quả nghiên cứu: Từ các cuộc phỏng vấn các chuyên gia và người tham

gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, qua thống kê và chọn lọc các tiêu chí có tỉ lệ đồng ý

cao, người nghiên cứu có được các yếu tố tác động: Giới tính, trình độ học vấn, tình

trạng hôn nhân, tình trạng việc làm, mức thu nhập, tình hình bệnh tật, tác động của

yếu tố giá kiểm tra sức khỏe định kỳ, tác động của yếu tố thời gian của việc kiểm tra

sức khỏe định kỳ. Từ những yếu tố này, người nghiên cứu có được bảng câu hỏi

khảo sát cho nghiên cứu định lượng.

Kết quả nghiên cứu định lượng đã chỉ ra được mức độ tác động của các yếu tố

đến việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, thông qua mô hình hồi

quy Logistic. Thông qua thống kê mô tả người nghiên cứu có được các tỉ lệ của các

yếu tố trong việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Xu hướng tác

động nhiều nhất đến xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là:

tình trạng việc làm, mức thu nhập, tình trạng bệnh tật.

62

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua nghiên cứu trên chúng ta thấy được rằng:

Ý thức của người dân về sức khỏe được nâng cao đáng kể, họ thường dùng

những biện pháp dân gian để bảo vệ sức khỏe của mình như là thể dục, thể thao, vệ

sinh an toàn thực phẩm…Để họ có thể sử dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ

như là một trong những công cụ giảm thiểu rủi ro sức khỏe cho họ, chúng ta cần

thay đổi nhiều thứ mà nghiên cứu này đã chỉ ra.

Theo nghiên cứu, giới tính có xu hướng tác động lên việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ, theo thống kê mô tả của nghiên cứu chỉ ra rằng : nữ tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ nhiều hơn nam, trong khi thực tế cuộc sống nam tiếp xúc với nhiều

nguy cơ bệnh tật nhiều hơn nữ, như là rượu, bia, thuốc lá, cường độ lao động

nặng…Chúng ta cần phải tăng mục tiêu tuyên truyền giáo dục sức khỏe nhằm vào

nam giới nhiều hơn nữa, chúng ta cần có những chương trình tuyên truyền cụ thể

hơn phục vụ cho nam giới.

Theo nghiên cứu, tuổi tác cũng là một vấn đề trong quyết định kiểm tra sức

khỏe định kỳ của người dân. Thường khi bước vào độ tuổi 40 trở đi, con người ta

bắt đầu có những vấn đề về sức khỏe. Ở độ tuổi hiện nay người dân tham gia kiểm

tra sức khỏe định kỳ nhiều nhất là từ 45 tuổi trở lên, nhưng hầu hết lại là các đối

tượng làm việc cho các cơ quan , đơn vị, tổ chức. Để khuyến khích các cá nhân làm

việc tự do tham gia chương trình kiểm tra sức khỏe định kỳ ta cần phải có những

chính sách hỗ trợ phù hợp, các cơ quan chính sách nhà nước phối hợp với các cơ sở

y tế công ,tư đưa ra chương trình kiểm tra sức khỏe toàn dân, kêu gọi, khuyến khích

họ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

Hai yếu tố khá quan trọng tác động đến việc ra quyết định thực hiện việc kiểm

tra sức khỏe định kỳ đó là giá cả của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ và thời gian

của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Để giảm đi tác động của hai yếu tố này trong

việc ra quyết định kiểm tra sức khỏe đinh kỳ của người dân, chúng ta cần phải tính

lại mức giá dịch vụ phù hợp với mức sống của người dân, và cần phải rút ngắn thời

63

gian chờ đợi. Hiện nay chúng ta đang có chính sách nâng cao năng lực y tế của các

tuyến y tế cơ sở, để khuyến khích người dân khám chữa bệnh tại các tuyến cở sở,

giảm tải cho các trung tâm y tế tuyến trên, đây cũng là cách giảm thời gian chờ của

người dân khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Về giá cả của dịch vụ kiểm tra

sức khỏe định kỳ, giá hiện nay của các dịch vụ này thực ra là không cao, nhưng do

mức thu nhập hiện nay của người dân còn thấp, vì vậy đây là một chính sách vĩ mô

lớn, nhằm nâng cao mức sống của người dân, đồng thời chúng ta có thể khuyến

khích các cơ sở y tế công , tư thực hiện dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân dưới sự bảo trợ của ngân hàng ( đây là một hình thức cho vay để mua dịch vụ

kiểm tra sưc khỏe định kỳ.)

Từ phần nghiên cứu định tính chúng ta thấy rằng: người dân không thực hiện

việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là vì: rất e ngại chất lượng dịch vụ khi đến các trung

tâm y tế, họ chưa sẵn sàng ưu tiên chi trả cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ để

giảm thiểu rủi ro về sức khỏe, bộ phận y tế của ta chưa làm tốt việc tư vấn tâm lý

cho người bệnh trong thời gian chữa bệnh, họ chưa ý thức được rủi ro sẽ được giảm

thiểu như thế nào khi chúng ta phát hiện sớm mầm móng của bệnh. Đối với vấn đề

tâm lý người bệnh, phải chăng chúng ta cần có những đội ngũ chuyên nghiệp,

chuyên tư vấn tâm lý cho người bệnh, hoạt động song song hoặc độc lập với đội

ngũ bác sỹ, nhằm làm cho người bệnh luôn có một tâm lý đúng đắng, vững vàng

trong quá trình điều trị hay khi phát hiện bệnh. Về ý thức giảm thiểu rủi ro bệnh tật,

chúng ta nên đưa vào chương trình giáo dục phổ thông về quá trình diễn tiến của

bệnh và các rủi ro gặp phải khi phát hiện trễ, những hiệu quả đạt được khi ta ý thức

được bệnh tật và phát hiện sớm thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, đó là một

phần bắt buộc trong suốt quá trình của cuộc sống.

Về vấn đề chất lượng dịch vụ: Hiện nay hầu hết tất cả các trung tâm y tế tuyến

trên đều quá tải về công suất, một khi công suất bị quá tải, người khám chữa bệnh

thì đông nhưng nguồn lực y tế thì không đủ để đáp ứng, như thế chúng ta không thể

nào cải thiện được chất lượng dịch vụ y tế, để giải quyết được vấn đề về dịch vụ y

tế, chúng ta cần phải giải quyết được vấn đề quá tải bệnh viện. Nếu vì nguồn lực

64

nhà nước có hạn, không thể mở rộng đầu tư, tại sao chúng ta không sử dụng nguồn

lực của toàn xã hội, nguồn lực đầu tư bên ngoài. Chúng ta chỉ cần có những cơ chế

chính sách phù hợp, dùng những công cụ cần thiết của nhà nước để điều tiết, chúng

ta cần phải xã hội hóa, tư nhân hóa mạnh hơn nữa lĩnh vực y tế. Đồng thời chúng ta

cần phải đầu tư cơ sở vật chất, chất lượng y tế cho các tuyến cơ sở. Chúng ta có thể

đưa ra chính sách, đã là bác sỹ thì không phải chỉ là bác sỹ của bệnh viện nào đó,

mà là phải luân chuyển bác sỹ liên tục giữa các tuyến với nhau, đã là bác sỹ thì

không có biên giới tỉnh thành, phải luân chuyển theo lệnh điều động nhằm cân bằng

chất lượng y tế cho các tuyến, từ trung ương đến địa phương.

Về vấn đề khó khăn trong chi trả dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người

dân, chúng ta cần huy động, kêu gọi hệ thống ngân hàng tham gia. Chúng ta cần có

chính sách phù hợp cho ngân hàng nào tham gia bảo lãnh cho người dân chi phí

kiểm tra sức khỏe định kỳ, khuyến khích, đề ra những công cụ chính sách cho các

hệ thống chăm sóc sức khỏe và hệ thống ngân hàng kết hợp với nhau . Thực thi

nghiêm túc các công cụ giám sát để tránh các tình trạng thông đồng cấu kết giữa các

đơn vị tham gia, làm tổn hại đến lợi ích chung của quốc gia.

Một khi trong mỗi người dân, ai cũng giành ra một phần thời gian, chi phí để

tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, ai cũng ý thức được rằng đây là một phần tất

yếu của cuộc sống, thì sức khỏe của toàn xã hội sẽ được nâng cao, xã hội sẽ tiết

kiệm được biết bao nhiêu chi phí trong việc điều trị bệnh, ngăn được biết bao nhiêu

gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn . Đó là một yếu tố trong rất nhiều yếu tố để đi

đến một xã hội khỏe mạnh và hạnh phúc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Tiếng Anh

1. Anh, Thi Kim Le (2013), Health and access to health services of rural-to-

urban migrant populations in Viet Nam. Basel.

2. Ariely & Wertenbroch, K. (2008), How behavioral decision research can enhance consumer welfare: From freedom of choice to paternalistic intervention.Marketing Letters, 19(3-4), 383-397.

3. Christopher Dougherty (2007), Introduction to Econometrics(third edition),

Oxford Pub.

4. Evashwick, C., Rowe, G., Diehr, P., & Branch, L. (1984), Factors explaining the use of health care services by the elderly. Health Services Research,19(3), 357.

5. Grossman, M. (1972), On the concept of health capital and the demand for

health. The Journal of Political Economy, 223-255.

6. J. Scott Long (2007), Regression Models for Categorical and Limited

Dependent Variables.A Stata Press Publication.

7. James Lubitz, M.P.H., Liming Cai, Ph.D., Ellen Kramarow, Ph.D., and Harold Lentzner, Ph.D (2003), Health, Life Epectancy, and Health Care Spending among the Elderly. The New England Journal of Medicine, September.

8. Jaana Marja Muurinen (1982), Demand for health: A generalised Grossman

model. Journal of Health Economic.

9. Mooney, G. (1998), Beyond health outcomes: the benefits of health

care.Health Care Analysis, 6(2), 99-105.

10. M. R. Haas (2002), The benefits of health care beyond health: An exploration of non-health outcomes of health care. University of Sydney.

11. Smith, J. P. (1999), Healthy bodies and thick wallets: the dual relation between health and economic status. The journal of economic perspectives: a journal of the American Economic Association, 13(2), 144.

12. Victor R. Fuchs (1996), Economic, Values, and Health Care Reform. The

American Economic Review.

13. World Bank ( 1993 ), World development report 1993, World Bank,

Washington, DC.

14. Ware, J. E., Bayliss, M. S., Rogers, W. H., Kosinski, M., & Tarlov, A. R. (1996), Differences in 4-year health outcomes for elderly and poor, chronically III patients treated in HMO and fee-for-service systems: results from the medical outcomes study. Jama, 276(13), 1039-1047.

15. World Health Organization(2007), Strengthening Health Systems to

Improve Health Outcomes. World Health Organization.

16. Woolbridge, J.M. (2005), Introductory Econometrics – A Modern

Approach. South-Western College Pub.

17. Zweifel, P., Breyer, F., & Kifmann, M. (2009), Health economics. Springer

Science & Business Media.

Tiếng Việt.

1. Báo Nhân Dân ( 2012), Quá tải bệnh viện. < http://nhandan.com.vn>

2. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo (2010), Nguồn nhân lực Việt nam

.

3. Bộ Y Tế (2007), Thông tư số 13/2007/ TT – BYT về việc hướng dẫn kiểm

tra sức khỏe định kỳ

4. Đinh Phi Hổ, PhD ( 2014), Phương pháp nghiên cứu kinh tế và viết luận

văn Thạc sĩ. NXB Phương Đông.

5. Phạm Khánh Nam, PhD (2005), Kinh tế lượng ứng dụng cho các nhà kinh

tế học y tế.

6. Tổng cục Thống kê ( 2014), Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2014

7. Tổng Cục Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình (2014), Thực trạng dân số Việt

nam.

PHỤ LỤC 1

BẢNG CÂU HỎI DÙNG CHO PHỎNG VẤN TAY ĐÔI.

CÂU HỎI DÙNG CHO GIỚI CHUYÊN GIA, BÁC SỸ.

Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.

Nhóm câu hỏi để biết được thành phần xã hội của những người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

1. Độ tuổi trung bình của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 2. Độ tuổi nào nên tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 3. Có khác nhau về giới tính nam, nữ trong các độ tuổi tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ?

4. Giới tính nào nên thường xuyên tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 5. Người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thường hoạt động ở lĩnh vực nào? 6. Họ có hiểu được tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ ? 7. Họ có thực hiện hết các quá trình theo hướng dẫn của bác sỹ của việc kiểm

tra sức khỏe định kỳ?

8. Đối tượng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thường là cá nhân hay các tổ

chức?

Nhóm câu hỏi để biết được tình trạng sức khỏe của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

1. Những căn bệnh nào thường được phát hiện khi tham gia kiểm tra sức khỏe

định kỳ?

2. Những người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, thường là vẫn còn khỏe

mạnh hay đã có triệu chứng đau bệnh?

3. Thể trạng sức khỏe như thế nào thì nên thường xuyên tham gia kiểm tra sức

khỏe định kỳ?

Nhóm câu hỏi để biết được chất lượng dịch vụ mà bệnh viện, các trung tâm y tế cung cấp cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.

1. Chi phí của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ so với mức thu nhập bình quân

của người dân hiện nay thế nào?

2. Có bao nhiêu phương thức thanh toán được thực hiện cho việc kiểm tra sức

khỏe định kỳ?

3. Thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ cho một người mất bao lâu? 4. Mức độ tin cậy của kết quả của vệc kiểm tra sức khỏe định kỳ so với kết quả

của khám chuyên khoa thế nào?

5. Bác sỹ có thường xuyên tư vấn cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định

kỳ khi phát hiện bệnh nan y ?

PHỤ LỤC 2

BẢNG CÂU HỎI DÙNG CHO PHỎNG VẤN TAY ĐÔI

CÂU HỎI DÙNG CHO NGƯỜI THAM GIA .

Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.

Nhóm câu hỏi về nhân thân người tham gia

1. Năm sinh? 2. Nghề nghiệp? 3. Trình độ học vấn? 4. Mức thu nhập? 5. Nơi thường trú?

Nhóm câu hỏi về ý thức về sức khỏe của người tham gia.

1. Anh/ chị có thường hay thức khuya ? 2. Anh/ chị có chơi môn thể thao nào không? 3. Anh/chị có thường xuyên sử dụng chất kích thích gây hại chi sức khỏe

không?

4. Anh/ chị có thường xuyên ăn, uống ngoài đường không? 5. Hiện nay môi trường làm việc của anh/chị có độc hại ? 6. Anh/ chị có đồng ý làm việc trong môi trường độc hại nếu tăng thu nhập ? Nhóm câu hỏi về hiểu biết về tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, có thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao thực hiện và tại sao không thực hiện.

1. Anh/ chị có biết thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ là như thế nào không? 2. Thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ có giúp ích gì cho mình ? 3. Theo anh/chị mình có nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ không? 4. Bao lâu rồi anh chị không thực hiện/ thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ? 5. Anh/ chị có đồng ý giành một phần chi phí để trả cho việc kiểm tra sức khỏe

định kỳ không?

6. Nếu anh/chị được ưu đãi giảm giá cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, anh

chi có thực hiện nó không?

7. Tại sao anh/chị không thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ khi biết được nó

tốt cho sức khỏe của mình?

8. Nếu nó được thực hiện tại nhà hay nơi anh/chị làm việc, anh/chị có sẵn sàng

sử dụng dịch vụ này không?

PHỤ LỤC 3

DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA

1. ThS BS Lê Bảo Huy – Trưởng khoa khám bệnh, bệnh viện Thống Nhất. 2. PGS TS BS Bùi Hữu Hoàng – Trưởng khoa gan mật bệnh viện Đại Học Y

Dược HCM

3. TS BS Võ Quang Minh – Trưởng phòng khám mắt, đa khoa Ngọc Minh. 4. ThS BS Cao Xuân Minh – Giám đốc đa khoa Ngọc Minh. 5. ThS BS Trần Minh Trí – Khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức, bệnh viện Chợ

Rẫy.

6. BS Nguyễn Trần Huân – International SOS Viêtnam. 7. ThS BS Lê Long Hải – International SOS Vietnam. 8. ThS BS Trương Công Dũng – Khoa thể thao, bệnh viên 115. 9. ThS BS Cao Xuân Thục – Phó khoa hô hấp, bệnh viên Chợ Rẫy. 10. BS Lê Xuân Việt – Chuyên khoa nội, bệnh viện tỉnh Ninh Thuận.

PHỤ LỤC 4 PHIẾU KHẢO SÁT VIỆC THỰC HIỆN KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ CỦA NGƯỜI DÂN

Họ và tên nhân viên phỏng vấn: ______________________ Ngày phỏng vấn: ___/ ___/_____ Thời gian bắt đầu: ____ Thời gian kết thúc: _____ Họ và tên người trả lời phỏng vấn: --------------------------------------- Địa chỉ: ---------------------------------------------------- Phường:__________ Quận: __________ Thành phố: ___________ Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.

Hướng dẫn điền phiếu:

-Đối với những câu hỏi/mục lựa chọn, đề nghị Ông/Bà đánh dấu vào ô tương ứng với lựa chọn thích hợp nhất.

-Đối với câu hỏi yêu cầu điền thông tin, Ông/Bà vui lòng điền thông tin vào khoảng trống.

PHẦN 1: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NGƯỜI TRẢ LỜI THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI PHIẾU KHẢO SÁT Nam 2. Nữ

1. Giới tính: 1. 2. Tuổi: ( năm sinh )____________ 3. Trình độ học vấn ? ( Tính theo số năm đi học )

Ít hơn 12 năm. Nhiều hơn 12 năm. 1. 2.

4. Tình trạng hôn nhân? Độc thân Đã lập gia đình 1. 2.

5. Tình trạng việc làm?

Kinh doanh tự do, tự làm chủ Làm việc cho công ty, cơ quan, tổ chức. 1. 2.

6. Thu nhập trung bình hàng thángcủa Ông/Bà trong năm qua?

Dưới 10triệu đồng. Từ 10 triệu đồng trở lên. 1. 2.

7. Ông/ Bà có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ? 1. 2. Có Không

8. Ông, Bà có bệnh mạn tính hay bệnh bẩm sinh ?

1. 2. Có Không

1. Có 2. Không

1. Có 9. Chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến quyết định của ông, bà? 10. Thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến quyết định của ông, bà? 2. Không

Cảm ơn Ông/Bà rất nhiều khi tham gia vào khảo sát này. Những thông tin Ông/Bà cung cấp rất quý giá đối với người nghiên cứu.Một lần nữa, chúng tôi xin cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối và không được tiết lộ cho bất kỳ ai.

PHỤ LỤC 5

Nguồn: WHO Library – World Health Organization 2007.

Bệnh bẩm sinh và bệnh mạn tính:

Bệnh bẩm sinh: Theo phân loại quốc tế bệnh ( The international classification of diseases : ICD ) ( đây là công cụ chẩn đoán tiêu chuẩn cho dịch tễ học, quản lý sức khỏe và mục đích lâm sàng, được sử dụng tại tất cả các nước thành viên WHO ) ta có các bệnh bẩm sinh, biến dạng và bất thường về nhiễm sắc thể như sau:

Dị tật bẩm sinh của hệ thần kinh trung ương (Q00-Q07)

Congenital malformations of the nervous system (Q00-Q07)

Q00 Dị tật không não và các dị tật tương tự – Anencephaly and similar malformations Q01 Thoát vị não – Encephalocele Q02 Tật đầu nhỏ – Microcephaly Q03 Não úng thủy bẩm sinh – Congenital hydrocephalus Q04 Dị tật bẩm sinh khác của não – Other congenital malformations of brain Q05 Nứt đốt sống – Spina bifida Q06 Các dị tật bẩm sinh thừng cột sống khác – Other congenital malformationsof spinal cord Q07 Dị tật bẩm sinh khác của thần kinh – Other congenital malformations of nervous system

Các dị tật bẩm sinh ở mắt , tai, mặt và cổ (Q10-Q18)

Congenital malformations of eyes, ear, face and neck (Q10-Q18)

Q10 Các dị tật bẩm sinh của mi mắt, ổ mắt và bộ máy bài tiết nước mắt – Congenital malformations of eyelid, lacrimal apparatus and orbit. Q11 Các dị tật không có mắt, mắt nhỏ và mắt to – Anophthalmos, microphthalmos and macrophthalmos. Q12 Các dị tật bẩm sinh của thuỷ tinh thể – Congenital lens malformations Q13 Các dị tật bẩm sinh phần trước của mắt – Congenital malformations of anterior segment of eye. Q14 Các dị tật bẩm sinh phần sau của mắt – Congenital malformations of posteriorsegment of eye. Q15 Các dị tật bẩm sinh khác của mắt – Other congenital malformations of eye Q16 Các dị tật ở tai gây ảnh hưởng đến thính lực – Congenital malformations of ear causing impairment of hearing.

Q17 Các dị tật bẩm sinh khác ở tai – Other congenital malformations of ear Q18 Các dị tật bẩm sinh khác của mặt và cổ – Other congenital malformations of face and neck.

Các dị tật bẩm sinh của hệ tuần hoàn (Q20-Q28)

Congenital malformations of the circulatory system (Q20-Q28)

Q20 Các dị tật bẩm sinh của buồng tim và bộ phận nối – Congenital malformations of cardiac chambers and connections. Q21 Các dị tật bẩm sinh của vách tim – Congenital malformations of cardiac septa. Q22 Các dị tật bẩm sinh của van động mạch phổi và van 3 lá – Congenital malformations of pulmonary and tricuspid valves. Q23 Các dị tật bẩm sinh của van động mạch chủ và van 2 lá – Congenital malformations of aortic and mitral valves. Q24 khác của tim – Other congenital malformations of heart. Q25 Các dị tật bẩm sinh của các động mạch lớn – Congenital malformations of great arteries. Q26 Các dị tật bẩm sinh của các tĩnh mạch lớn – Congenital malformations of great vein. Q27 Các dị tật bẩm sinh khác của của hệ thống mạch máu ngoại biên – Other congenital malformations of peripheral vascular system. Q28 Các dị tật bẩm sinh khác của của hệ thống tuần hoàn – Other congenital malformations of circulatory system.

Các dị tật bẩm sinh đường hô hấp (Q30-Q34)

Congenital malformations of the respiratory system (Q30-Q34)

Q30 Các dị tật bẩm sinh ở mũi – Congenital malformations of nose Q31 Các dị tật bẩm sinh của thanh quản – Congenital malformations of larynx Q32 Các dị tật bẩm sinh ở khí quản và phế quản – Congenital malformations of trachea and bronchus. Q33 Các dị tật bẩm sinh của phổi – Congenital malformations of lung. Q34 Các dị tật bẩm sinh khác của đường hô hấp – Other congenital malformations of respiratory system.

Khe hở môi và khe hở vòm miệng (Q35-Q37)

Cleft lip and cleft palate (Q35-Q37)

Q35 Khe hở vòm miệng – Cleft palate Q36 Khe hở môi – Cleft lip Q37 Khe hở vòm miệng vùng với khe hở môi – Cleft palate and cleft lip.

Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiêu hoá (Q38-Q45)

Other congenital malformations of the digestive system (Q38-Q45)

Q38 Các dị tật bẩm sinh khác của lưỡi, miệng và họng – Other congenital malformations of tongue, mouth and pharynx. Q39 Các dị tật bẩm sinh của thực quản – Congenital malformations of oesophagus. Q40 Các dị tật khác của đường tiêu hoá trên – Other congenital malformations of upper alimentary tract. Q41 Không có, teo và hẹp bẩm sinh tiểu tràng – Congenital absence, atresia and stenosis of small intestine. Q42 Không có, teo và hẹp bẩm sinh đại tràng – Congenital absence, atresia and stenosis of large intestine. Q43 Các dị tật bẩm sinh khác của ruột – Other congenital malformations of intestine. Q44 Các dị tật bẩm sinh của túi mật, đường mật và gan – Congenital malformations of gallbladder, bile ducts and liver. Q45 Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiêu hoá – Other congenital malformations of digestive system.

Các dị tật bẩm sinh của cơ quan sinh dục (Q50-Q56)

Congenital malformations of genital organs (Q50-Q56)

Q50 Các dị tật bẩm sinh buồng trứng, vòi trứng và dây chằng rộng – Congenital malformations of ovaries, fallopian tubes and broad ligaments Q51 Dị tật bẩm sinh của tử cung và cổ tử cung – Other congenital malformations of uterus and cervix Q52 Các dị tật khác của cơ quan sinh dục nữ – Other congenital malformations of female genitalia. Q53 Tinh hoàn lạc chỗ – Undescended testicle. Q54 Lỗ đái lệch thấp – Hypospadias Q55 Các dị tật khác của cơ quan sinh dục nam – Other congenital malformations of male genital organs. Q56 Không xác định giới tính và hội chứng giả lưỡng giới – Indeterminate sex and pseudohermaphroditism.

Các dị tật bẩm sinh của hệ tiết niệu (Q60-Q64)

Congenital malformations of the urinary system (Q60-Q64)

Q60 Không có thận và các khuyết tật khác của thận – Renal agenesis and other redution defects of kidney. Q61 Các bệnh nang thận – Cystic kidney diseases Q62Các bệnh lý khác bẩm sinh của bể thận và các dị tật bẩm sinh của

niệu quản – Congenital obstructive defects of renal pelvis and congenital malformations of ureter. Q63 Các dị tật bẩm sinh khác của thận – Other congenital malformations of kidney. Q64 Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiết niệu – Other congenital malformations ofurinary system.

Các dị tật và biến dạng bẩm sinh của hệ cơ xương (Q65-Q79)

Congenital malformations and deformations of the musculoskeletal

system (Q65-Q79)

Q65 Biến dạng bẩm sinh của khớp háng – Congenital deformities of hip Q66 Các biến dạng bẩm sinh của bàn chân – Congenital deformities of feet Q67 Các biến dạng cơ xương bẩm sinh của đầu, mặt, cột sống và ngực – Congenital musculoskeletal deformities of head, face, spine and chest. Q68 Các biến dạng cơ xương bẩm sinh khác – Other congenital musculoskeletal deformities. Q69 Tật đa ngón – Polydactyly Q70 Tật dính ngón – Syndactyly Q71 Các khuyết tật thiếu hụt của chi trên – Reduction defects of upper limb Q72 Các khuyết tật thiếu hụt của chi dưới – Reduction defects of lower limb Q73 Các khuyết tật thiếu hụt của chi không đặc hiệu – Reduction defects of unspecified limb Q74 Các dị tật bẩm sinh khác của chi – Other congenital malformations of limb(s) Q75 Các dị tật bẩm sinh khác của xương sọ và xương mặt – Other congenital malformations of skull and face bones. Q76 Các dị tật bẩm sinh của cột sống và xương lồng ngực – Congenital malformations of spine and bony thorax. Q77 Loạn sản xương sụn với các khuyết tật trưởng thành của các xương ống và cột sống – Osteochondrodysplasia with defects of growth of tubular bones and spine. Q78 Các loạn sản xương sụn khác – Other osteochondrodysplasias Q79 Các dị tật bẩm sinh của hệ cơ xương, chưa được phân loại nơi khác – Congenital malformations of musculoskeletal system, not elsewhere classified.

Các dị tật bẩm sinh khác (Q80-Q89)

Other congenital malformations (Q80-Q89)

Q80 Bệnh vẩy cá bẩm sinh – Congenital ichthyosis Q81 Bong biểu bì bọng nước – Epidermolysis bullosa Q82 Các dị tật bẩm sinh khác về da – Other congenital malformations of skin.

Q83 Các dị tật bẩm sinh của vú – Congenital malformations of breast Q84 Các dị tật bẩm sinh khác của bộ phận bao bọc – Other congenital malformations of integument. Q85 Hội chứng u thần kinh-da ngoại bì, chưa được phân loại – Phakomatoses, not elsewhere classified. Q86 Các hội chứng dị tật bẩm sinh do những nguyên nhân bên ngoài đã biết, chưa được phân loại – Congenital malformations syndromes due to known exogenous cause, not elsewhere classified. Q87 Các hội chứng dị tật bẩm sinh khác gây tổn thương nhiều hệ thống – Other specified congenital malformation syndromes affecting multiple system. Q89 Các dị tật bẩm sinh khác, chưa phân loại – Other congenital malformations, not elsewhere classified.

Các bất thường nhiễm sắc thể, chưa được phân loại (Q90-Q99)

Chromosomal abnormalities, not elsewhere classified (Q90-Q99)

Q90 Hội chứng Down – Down’s syndrome Q91 Hội chứng Edwards và hội chứng Patau – Edward’s syndrome and Patau’s syndrome. Q92 Ba nhiễm sắc thể và một phần ba nhiễm sắc thể khác của nhiễm sắc thể thường, không được phân loại nơi khác – Other trisomies and partial trosomies of the autosomes, not elsewhere classified. Q93 Đơn nhiễm sắc thể và thiếu một đoạn của nhiễm sắc thể thường, không được phân loại nơi khác – Monosomies and deletions from the autosomes, not elsewhere classified. Q95 Sắp xếp lại cân bằng và dấu ấn cấu trúc, không được phân loại nơi khác – Balanced rearrangements and structural markers, not elsewhere classified. Q96 Hội chứng Turner – Turner’s syndrome Q97 Bất thường nhiễm sắc thể giới tính khác, kiểu hình nữ, không được phân loại nơi khác – Other sex chromosome abnormalities, female phenotype, not elsewhere classified. Q98 Bất thường nhiễm sắc thể giới tính khác, kiểu hifnh nam, không được phân loại nơi khác – Other sex chromosome abnormalities, male phenotype, not elsewhere classified. Q99 Bất thường nhiễm sắc thể khác, không được phân loại nơi khác – Other chromosome abnormalities, not elsewhere classified Bệnh mạn tính: là bệnh tiến triển kéo dài hoặc hay tái phát, thời gian bệnh từ 3 tháng trở lên. Bệnh mạn tính không thể ngừa bằng vắc xin, không thể chữa khỏi hoàn toàn và cũng không tự biến mất. Bệnh mạn tính phần lớn là

bệnh không lây nhiễm, không do vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng hoặc nấm gây nên. Có các nhóm bệnh mạn tính như sau: 1.Bệnh viêm đường hô hấp mạn tính: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, viêm phế quản mạn, hen và khí phế thũng… 2. Bệnh nội tiết: béo phì, đái tháo đường… 3. Bệnh lý tâm thần kinh: sa sút trí tuệ, trầm cảm… 4. Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, suy tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh mạch máu não… 5. Bệnh tự miễn: lupus ban đỏ, xơ cứng bì, vẩy nến… 6. Bệnh xương khớp mạn tính: viêm khớp dạng thấp, viêm xương khớp, thoái hóa khớp, loãng xương… 7. Hội chứng mệt mỏi mạn tính. 8. Suy thận mạn. 9. Viêm gan mạn . 10.Ung thư.

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

GioiTinh NamSinh HocVan HonNhan ViecLam ThuNhap KiemtraSK Benh Gia ThoiGian 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1

1957 1961 1968 1972 1962 1952 1963 1961 1961 1965 1962 1965 1953 1971 1966 1961 1957 1964 1968 1959 1961 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964 1973 1955 1969 1970 1964 1957 1961 1953

1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 0 0

1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1

0 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0

1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 1 0 0 0 1

1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0

1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0

1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1

1 0 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 0 1 1 0

PHỤ LỤC 6

39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80

0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0

1962 1961 1961 1969 1972 1972 1967 1970 1966 1973 1962 1961 1951 1961 1957 1962 1974 1965 1970 1964 1973 1966 1959 1963 1972 1966 1955 1965 1961 1961 1974 1967 1970 1965 1972 1972 1965 1972 1966 1960 1970 1971

0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0

1 0 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0

1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 0 0

1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 1

1 0 0 0 1 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1 0 1 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 0 1 1 1 1

0 0 1 1 1 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0

81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122

1 0 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0

1965 1966 1972 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1969 1966 1971 1959 1965 1970 1969 1962 1959 1968 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964 1973 1955 1968 1959 1961 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964

1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1

1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 0 0 0 1 0 0 1

1 1 0 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0

1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1

0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1

0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1

1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 1

123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164

1 1 1 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0

1973 1955 1966 1954 1961 1964 1972 1965 1972 1966 1960 1970 1971 1965 1966 1972 1962 1961 1967 1970 1965 1972 1966 1965 1964 1972 1966 1954 1975 1964 1972 1964 1972 1974 1967 1970 1965 1972 1965 1964 1972 1961

0 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 0 0

0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 1 0 0 0 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1

0 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1

1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0

1 1 0 0 1 1 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 0 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1

1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 1 0

165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1

1967 1970 1965 1972 1972 1961 1967 1970 1965 1972 1972 1957 1961 1968 1972 1962 1952 1963 1961 1961 1965 1962 1965 1953 1971 1966 1961 1957 1964 1968 1959 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1969 1966 1971 1959 1965

0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1

1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1

1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1

0 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1

1 1 0 1 1 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 0 1 1

207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248

1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1

1970 1969 1962 1959 1968 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1967 1970 1966 1973 1962 1963 1951 1961 1957 1962 1974 1965 1970 1964 1973 1966 1959 1963 1972 1966 1955 1965 1960 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1972 1965

1 1 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1

1 0 1 1 0 0 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 1 1 1 1 0 0

1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1

1 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1

1 0 1 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0

1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 1 0 0 0 0 0 0

0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 0 1 0 1 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0

0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 0 1 1 1

249 250 251 252 253 254 255 256

1972 1966 1960 1970 1971 1965 1966 1972

0 0 1 0 0 1 0 1

0 1 1 0 0 1 1 0

0 1 1 0 0 1 1 0

0 1 1 1 1 1 1 0

0 1 1 1 1 0 0 1

0 1 1 1 1 0 1 0

0 0 0 0 0 0 0 0

0 1 1 1 1 0 1 0

1 1 1 1 0 1 1 1