BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
TRẦN TỊNH MINH TRÍ
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
TRẦN TỊNH MINH TRÍ
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Kinh Tế Phát Triển
Mã Số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HAY SINH
Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn.
Trần Tịnh Minh Trí.
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
DANH MỤC PHỤ LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ. .............................................................................................. 1
1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 4
1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .......................................................................... 4
1.3.1 Mục tiêu tổng quát: ................................................................................. 4
1.3.2 Mục tiêu cụ thể: ...................................................................................... 4
1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu: ................................................................................... 4
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 4
1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ........ 7
2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ .................................. 7
2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) ) ........ 8
2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe. ......................................... 8
2.2.2 Công bằng và sức khỏe. ............................................................................ 14
2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân. ................................................................ 18
2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG. ............................................ 21
2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN. ............................................................... 22
2.4.1 Mô hình nghiên cứu. .................................................................................. 22
2.4.2 Công bằng trong tiếp cận dịch vụ. ............................................................ 24
2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. .................................. 25
2.5 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................ 26
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 28
3.1 KHUNG PHÂN TÍCH. .................................................................................... 28
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH. ............................................. 29
3.2.1 Sự cần thiết của việc phỏng vấn tay đôi. ................................................... 29
3.2.2 Phỏng vấn tay đôi. ..................................................................................... 29
3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG ......................................... 32
3.3.1 Mô hình hồi quy. ........................................................................................ 32
3.3.2Thiết kế khảo sát. ........................................................................................ 35
3.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................ 37
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................ 39
4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH ........................................................ 39
4.1.1 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với giới chuyên gia, bác sỹ. ................ 39
4.1.2 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với người có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. .................................................................................. 42
4.1.3 Bảng tổng hợp chung của hai đối tượng phỏng vấn là giới chuyên gia, bác sỹ với người có khả năng thực hiện quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ............................................................................................................................ 45
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG. ................................................... 46
4.2.1 Thống kê mô tả. ......................................................................................... 46
4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Logistic. ............................................................. 56
4.3 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ................................................................................ 61
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
KTSKĐK: Kiểm tra sức khỏe định kỳ.
BYT: Bộ y tế.
CEA: Phân tích chi phí hiệu quả.
ACER: Chỉ số hiệu quả trung bình.
QUALY: Chất lượng sống.
GSO: Tổng cục thống kê.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.
BV: Bệnh viên.
FFS: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí.
HMO: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe được bảo trợ.
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Bảng câu hỏi dùng cho chuyên gia, bác sỹ.
Phụ lục 2: Bảng câu hỏi dùng cho người tham gia.
Phụ lục 3: Danh sách các chuyên gia.
Phụ lục 4: Bảng câu hỏi khảo sát định lượng.
Phụ lục 5: Bệnh bẩm sinh, bệnh mạn tính.
Phụ lục 6: Bảng dữ liệu khảo sát.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ.
Vấn đề sức khỏe trở nên rất quan trọng , vì nó được xem như là một trong
những yếu tố chính trong việc hạn chế đói nghèo, phát triển bền vững của nền kinh
tế ( World Bank (1993); Smith (1999) ).
Không lâu trước đây, sức khỏe tốt được xem như là món quà của tự nhiên và
sức khỏe tồi được coi như những điều không may mắn. Tuy vậy, những thành quả y
tế hiện đại đã tạo ra niềm tin về việc con người có thể đạt tới một sức khỏe tốt khi
sử dụng chúng đúng cách. ( Peter Zweifel (2009) ).
Y tế dự phòng là một phương pháp giúp tiết kiệm chi phí cho cá nhân và toàn
xã hội hơn là phương pháp cứu chữa hiện nay. Phòng bệnh có nghĩa là phải kiểm tra
sức khỏe định kỳ, trước khi các mầm bệnh phát triển. ( Ariely, (2008) ).
Vì vậy để có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta phải luôn chắc
chắn sức khỏe của chúng ta được kiểm soát chặt chẽ. Để thực hiện được điều này,
chúng ta phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các cơ sở chăm sóc sức
khỏe.
Qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta có thể phòng ngừa được bệnh
tim mạch, tăng mỡ máu ở người lớn tuổi , đây là nguyên nhân quan trọng gây tăng
huyết áp, dẫn đến biến chứng tai biến mạch máu não, một vài căn bệnh ung thư có
thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm,…Tuy nhiên , ở Việt Nam chúng ta hiện nay
đa số người dân chỉ đến cơ sở y tế khi cơ thể đã phát bệnh, khi cảm thấy khó chịu
với các triệu chứng và đang suy yếu. Chính thói quen này làm cho cơ hội chữa khỏi
bệnh không cao, không hiệu quả về chi phí đầu tư cho sức khỏe.
Việt Nam hiện nay là quốc gia đang có sự phát triển về nhiều mặt, ý thức của
người dân về một cuộc sống khỏe mạnh cũng được thể hiện khá rõ, qua việc họ
ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa, thực phẩm, các công viên, câu lạc bộ
thể dục ngày càng đông người luyện tập. Thế nhưng việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,
một việc làm quan trọng để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe thì chưa được quan tâm.
2
Lâu nay chính sách của chúng ta chỉ tập trung vào việc kiểm tra sức khỏe định kỳ
cho những đối tượng đặc thù như: người lao động trong môi trường độc hại, các cơ
quan, công ty, thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên
của mình. Chưa có cơ chế khuyến khích toàn dân.
Hãy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều kiểm tra sức khỏe định kỳ, sẽ có bao
nhiêu bệnh nghiêm trọng có thể được phát hiện, bao nhiêu chi phí có thể được cắt
giảm và bao nhiêu người sẽ giảm nổi khốn khổ nhờ phát hiện bệnh sớm?
Với nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi của Việt Nam hiện nay, rất
nhiều yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe như: thực phẩm kém chất lượng, bụi bẩn
và ô nhiểm môi trường từ quá trình công nghệp hóa, áp lực tài chính và công việc
gia tăng…, nhất là tại các thành phố lớn. Qua đó chúng ta thấy rằng việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống là rất cần thiết. Làm
sao chúng ta có thể nâng cao ý thức của người dân về việc kiểm tra sức khỏe định
kỳ?
Để có được những định hướng đúng, những chính sách phù hợp, hiệu quả
trong việc khuyến khích người dân tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta
cần phải biết được các yếu tố nào trong xã hội Việt nam hiện nay tác động đến
quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ. Các yếu tố cơ bản trong xã hội Việt
nam hiên nay như là:
Trình độ dân trí Việt Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ
tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004
tổng số sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008
tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966
trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là
81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh( nguồn: Nguồn nhân
lực Việt nam – Bộ Giáo duc. 22/6/ 2010 ).
Thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt nam dựa trên số liệu của
Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014
tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD, tính theo
3
tỷ giá của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vào ngày 31/12/2014 là 21.400
đồng/USD.Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014 (cũng theo số
liệu do GSO công bố), GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028
USD, tương đương 169 USD/tháng.Trước đó, năm 2013, tổng sản phẩm quốc nội
của Việt Nam đạt 3.584.262 tỷ đồng tính theo giá hiện hành, theo đó GDP bình
quân đầu người đạt 1.900 USD, tăng so với mức 1.749 USD của năm 2012.Với mức
thu nhập 169 USD/ tháng tương đương với 3,380,000VND/ tháng đây là mức thu
nhập trung bình thấp so với các nước trong khu vực. ( Nguồn: Tổng cục thống kê –
2014 )
Trong 10 năm qua, số người trong độ tuổi 15-64 đã tăng lên 12,6 triệu người,
từ 46,7 triệu người năm 1999 lên 59,3 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân số từ 65
tuổi trở lên tuy cũng tăng lên nhưng không đáng kể. Sau 30 năm, tỷ trọng này chỉ
tăng được 1,6 điểm phần trăm (từ 4,8% năm 1979 lên 6,4% năm 2009). ( nguồn:
Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình 2014 ).
Tình hình cung cấp dịch vụ y tế cho người dân ở Việt nam hiện nay: Bệnh
viện Ung bứơu TP Hồ Chí Minh là tuyến cuối của người bệnh mắc bệnh ung thư
khu vực phía nam. Số giường thực kê của BV chỉ có 631 giường. Trung bình mỗi
ngày BV điều trị nội trú gần hai nghìn người bệnh, bệnh nhân ngoại trú gần 10
nghìn người. Trong khi cơ sở vật chất BV đang xuống cấp, chật hẹp, trang thiết bị
thiếu... Hằng ngày, số lượng người bệnh đến khám, điều trị luôn trong tình trạng
"vượt ngưỡng" quá tải. Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) có tới 25/26 chuyên khoa (trừ
khoa Da liễu) luôn trong tình trạng quá tải. Có những chuyên khoa thường quá tải
khoảng 200% như: Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Viện Tim mạch Quốc
gia, Khoa Thận - tiết niệu, Khoa Hô hấp, Khoa Thần kinh... Số lượng bệnh nhân nội
trú điều trị tại BV Bạch Mai liên tục tăng theo các năm. Bệnh nhân ngoại trú đến
khám tại bệnh viện cũng liên tục tăng với gần 800 nghìn bệnh nhân năm 2010, làm
cho tình trạng quá tải ngày càng căng thẳng. ( nguồn: Báo Nhân Dân, 6/1/2012 ) .
Với tất cả những yếu tố cơ bản trên, và còn thêm những yếu tố nào khác trong
xã hội Việt nam hiện nay, có tác động đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
4
của người dân. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố thực sự tác động
đến quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân.
1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm
tra sức khỏe định kỳ của người dân.
Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Đây là địa bàn có
dân số đông nhất cả nước, đặc điểm dân số đa dạng, mức sống bình quân tương đối
cao so với cả nước, nhu cầu về sức khỏe cá nhân được thể hiện khá rõ nét. Hệ thống
chăm sóc sức khỏe nơi đây đa dạng, phong phú và hiện đại nhất cả nước. Đồng thời
đây cũng là nơi có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Với nguồn lực
và thời gian có hạn, nghiên cứu khó có thể thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
Nghiên cứu sẽ thực hiện khảo sát ba quận cụ thể của TP Hồ Chí Minh là quận 1,
quận 10, quận Tân Bình, đây là ba quận có khả năng đại diện cho cấu trúc đa dạng
của dân cư đang sinh sống tại Tp Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu sẽ khảo sát việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân trong khoản thời gian từ năm 2010 đến 2015.
1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.3.1 Mục tiêu tổng quát:
Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của
người dân.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe
định kỳ.
- Giải thích nguyên nhân tại sao người dân thực hiện hay không thực hiện việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ.
1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu:
- Các yếu tố nào tác động đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân?
- Chúng tác động theo xu hướng như thế nào?
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5
Nghiên cứu được thực hiện đồng thời hai phương pháp, phương pháp định tính
và phương pháp định lượng.
Nghiên cứu dùng phương pháp định tính. Thảo luận cùng các chuyên gia, bác
sỹ, các người dân có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, để xác
định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của
người dân, đưa ra được bảng câu hỏi dùng cho khảo sát nghiên cứu định lượng.
- Nghiên cứu định tính để xác định rõ hơn các yếu tố nào tác động đến quyết
định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân và tại sao người dân lại thực hiện hay
không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Người nghiên cứu sẽ sử dụng
phương pháp phỏng vấn tay đôi với đối tượng nghiên cứu đó là giới chuyên gia sức
khỏe, bác sỹ và người có khả năng tự quyết định tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ. Chi tiết về phương pháp định tính, cách thức thu nhập và phân tích dữ liệu sẽ
được đề cập chi tiết trong chương ba.
Nghiên cứu dùng phương pháp định lượng, gồm thống kê mô tả và mô hình
hồi quy logistic.
- Từ kết quả nghiên cứu định tính có được, kết hợp với các cơ sở lý thuyết, các
nghiên cứu thực nghiệm mà người nghiên cứu có được phương trình hồi quy với
các biến cần thiết, khả thi, phù hợp, có thể khảo sát, đo lường được với môi trường
Việt nam hiện nay, tác động đến việc thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ của người dân. Từ phương trình hồi quy này, người nghiên cứu sử
dụng mô hình hồi quy Logistic để biết được xu hướng ảnh hưởng của các yếu tố đến
quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, phân tích mối tương quan
của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Chi tiết về
phương pháp và mô hình sử dụng trong nghiên cứu sẽ được đề cập đến trong
chương ba.
1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Đề tài gồm có năm chương:
- Chương 1: Giới thiệu về sự cần thiết trong xã hội hiện nay của đề tài nghiên
cứu. Phân tích nguyên nhân tại sao chúng ta cần phải kiểm tra sức khỏe định kỳ, ở
6
độ tuổi nào chúng ta nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, dựa trên các
khuyến cáo của các tổ chức y tế có uy tín và lời khuyên của các chuyên gia. Nêu rõ
đối tượng của đề tài nghiên cứu, tại sao đề tài lại tập trung vào độ tuổi của đối tượng
nghiên cứu từ bốn mươi tuổi trở lên. Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, để trả lời
những câu hỏi nghiên cứu nào. Giới thiệu về phương pháp mà người nghiên cứu sử
dụng để làm sáng tỏ vấn đề và phạm vi mà nghiên cứu này khảo sát để nghiên cứu.
- Chương 2: Giới thiệu về cơ sở lý thuyết mà người nghiên cứu vận dụng trong
lý luận của đề tài, các nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi những người
đi trước, người nghiên cứu đã vận dụng cho nghiên cứu của mình.
- Chương 3: Giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà người nghiên cứu sử
dụng, đó là nghiên cứu định tính và định lượng trong nghiên cứu của mình. Phương
pháp phỏng vấn tay đôi, phương pháp thu nhập dữ liệu, giới thiệu về mô hình
Logistic.
- Chương 4: Giới thiệu về kết quả nghiên cứu được từ phương pháp nghiên
cứu định tính, đưa ra khung phân tích sử dụng cho việc nghiên cứu định lượng, định
hình các biến tác động, kết quả nghiên cứu từ nghiên cứu định lượng.
- Chương 5: Kết luận và kiến nghị chính sách của người nghiên cứu, dựa trên
kết quả nghiên cứu đạt được.
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục.
7
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ
Kiểm tra sức khỏe định kỳ tức là người dân ít nhất một lần trong năm đến
trung tâm chăm sóc sức khỏe, để được các bác sỹ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
cho mình. Các việc cụ thể được thực hiện như sau ( Theo quy định của thông tư số
13/2007/ TT – BYT ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Bộ Y Tế. ):
- Tiếp nhận hồ sơ và hoàn thành các thủ tục hành chính: Đối tượng khám sức
khỏe có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thông tin cá nhân,
tình trạng sức khỏe hiện tại, tiền sử bệnh tật của bản thân và gia đình trong phần
tiền sử của đối tượng khám sức khỏe.
- Khám thể lực: Đo chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số BMI,
mạch, nhiệt, huyết áp và nhịp thở.
- Khám lâm sàng toàn diện theo các chuyên khoa.
- Khám cận lâm sàng.
o Cận lâm sàng bắt buộc:
Công thức máu, đường máu.
Xét nghiệm nước tiểu: Tổng phân tích nước tiểu ( đường, protein, tế bào.)
Chụp X quang tim phổi thẳng, nghiêng. Thực hiện theo chỉ định của bác sỹ
lâm sàng.
o Cận lâm sàng khác: Đối tượng khám sức khỏe phải được làm thêm
các xét nghiệm cận lâm sàng khác khi có chỉ định của bác sỹ lâm sàng, hoặc yêu
cầu của đối tượng khám sức khỏe.
- Các bác sỹ khám lâm sàng phải phân loại sức khỏe, ký và ghi rõ họ tên vào
giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ và phải chịu trách nhiệm về
kết luận của mình. Người ghi các kết quả cận lâm sàng phải ký và ghi rõ họ tên vào
giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ.
8
2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) )
Để trả lời cho những câu hỏi thường gặp khi chúng ta buộc phải bỏ tiền ra để
thực hiện một việc nào đó trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, ví dụ: chúng ta có nên
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không? Chúng ta có nên tiến hành tầm
soát ung thư hay không? Chúng ta có nên tiến hành một chương trình khuyến khích
người dân ăn sáng hay không? Chúng ta có nên tiến hành chương trình giám sát thị
lực ở trường học không?...Để có cơ sở trả lời cho các câu hỏi trên, lý thuyết về kinh
tế học sức khỏe sẽ cung cấp cho ta các công cụ trả lời dưới góc độ kinh tế, công
bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe.
2.2.1.1 Tầm quan trọng của việc xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe.
“ Sự sống là vô giá” là một luận điểm phổ biến mà nhiều người sẽ đồng ý.
Nhưng những quyết định trong vấn đề cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe không
chỉ là của những cá nhân mà còn đến từ phía các nhà hoạch định chính sách. Ta có
hai vấn đề cần giải quyết: Bảo vệ hay kéo dài mạng sống của một con người – Tiêu
tốn những nguồn lực có hạn của xã hội. Ta có một quyết định mang tính đánh đổivà
đó là một quyết định quan trọng. Cho một quyết định như vậy, ta cần những phân
tích mang tính hệ thống, cân nhắc kỹ lưỡng những yếu tố liên quan. Những phân
tích kinh tế theo hướng định giá, ở một mức độ nào đó, thỏa mãn những đòi hỏi trên
vì ít nhất có ba lý do sau đây:
- Tất cả những phương án khả thi đều phải được đề cập, thế nên phân tích
đánh giá cần có tính hệ thống. Đôi khi trong lúc cân nhắc quyết định về việc đưa ra
một phương án chăm sóc sức khỏe mới, người ta không nhắc đến các phương án có
sẵn như một chọn lựa. Hoặc trong trường hợp các phương án phòng ngừa cũng có
thể được coi như phương án tốt bên cạnh các phương án điều trị, và nên được thêm
vào danh sách lựa chọn. Nên để ý rằng khi một phương án mới được đem ra so
sánh với một phương án có sẵn thì bản thân phương án có sẵn nên đạt hiệu quả về
mặt chi phí. Một phương án sẽ không hiệu quả nếu có một phương án khác cho kết
quả tương tự nhưng với chi phí thấp hơn.
9
- Những phân tích xác định giá trị kinh tế thường dựa trên quan điểm của một
nhóm người nào đó, điều này rất quan trọng. Một phương án có thể không hấp dẫn
cho một bên nào đó, nhưng lại hiệu quả trong quan điểm của những bên khác.
Trong thực tiễn quan điểm có thể khác nhau từ các phía: cá nhân bệnh nhân; các cơ
quan, định chế; nhóm mà các dịch vụ y tế nhắm đến, ngân sách của bộ y tế, ngân
sách của chính phủ và các quan điểm mang tính cộng đồng hay xã hội.
- Nếu không có những sự đo lường nghiêm túc, sự không chắc chắn trong xếp
hạng thứ tự quan trọng là rất lớn. Nếu không có nỗ lực trong việc đo lường và so
sánh những giá trị đầu ra và đầu vào, chúng ta có rất ít cơ sở để đưa ra kết luận.
2.2.1.2 Xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe là gì?
Với mọi hoạt động mà một phân tích kinh tế nhắm đến, nó có hai tính chất:
- Thứ nhất nó tính đến đầu vào và đầu ra của quá trình ( hay còn gọi là chi phí
và kết quả ).
- Thứ hai về bản chất, những phân tích kinh tế liên quan tới lựa chọn. Nguồn
lực là khan hiếm và sự thật hiển nhiên là không thể sản xuất ra một sản lượng thỏa
mãn mọi mong muốn. Vì vậy, người ta phải lựa chọn và đánh đổi. Những lựa chọn
được đưa ra trên nhiều tiêu chuẩn cơ sở, đôi khi rõ ràng, đôi khi không. Những phân
tích kinh tế sẽ xác định và làm rõ một nhóm những tiêu chuẩn có thể giúp cho việc
lựa chọn giữa các phương án.
Hai tính chất trên dẫn đến việc các phân tích xác định giá trị kinh tế được định
nghĩa như một phân tích so sánh những phương án khác nhau về mặt chi phí và kết
quả. Vì thế nhiệm vụ cơ bản của bất cứ một phân tích xác định giá trị kinh tế nào,
đều là xác định, đo lường, tính toán thành giá trị và so sánh chi phí và kết quả của
các phương án được đề ra. Phân tích kinh tế trong vấn đề sức khỏe không phải là
một ngoại lệ.
2.2.1.3 Tổng quan về những kỹ thuật xác định giá trị kinh tế.
- Phân tích hiệu quả chi phí ( CEA ): Phân tích hiệu quả chi phí là phương
pháp dùng cho việc đánh giá kết quả và chi phí của những dự án cải thiện sức khỏe.
Các nghiên cứu dạng này đã được dùng để so sánh chi phí và số năm sống thêm cho
10
những phương án y tế khác nhau. Kết quả của nghiên cứu thường được tổng kết
dưới dạng một chuỗi những tỉ số hiệu quả chi phí cho những nhóm bệnh nhân khác
nhau hoặc các phương án khác nhau.
Những phân tích dạng này đo lường sức khỏe theo thước đo “ tự nhiên” ,
thước đo này có thể là một thước đo y học, hoặc tuổi thọ. Thước đo này chỉ có ý
nghĩa trong trường hợp những phương án khác biệt trong một tác động nào đó và
không có tác dụng phụ.
Đối với những phương án độc lập với nhau, chỉ số dùng để so sánh là chỉ số
hiệu quả trung bình ( ACER ). Nếu hiệu quả được đo bằng số năm tuổi thọ, chỉ số
so sánh này có dạng:
ACER = Chi phí bằng tiền/ Kết quả tính bằng số năm tăng lên trong tuổi thọ.
Nếu những phương án có tính loại trừ, ta cần xem xét tỷ lệ mức tăng lên trong
chi phí đối với mức tăng lên trong lợi ích. Trong trường hợp này chúng ta dùng “ tỷ
số tăng hiệu quả chi phí “ ( ICER ). “ Tỷ số tăng hiệu quả chi phí” của một phương
án được định nghĩa bằng tỷ số của mức tăng trong chi phí và mức tăng trong hiệu
quả khi so sánh với phương án hiệu quả tiếp theo.
ICER = Chi phí tăng lên/ Kết quả tăng lên.
- Phân tích chi phí thỏa dụng
Đo lường mức thỏa dụng: Một vài khái niệm về mức thỏa dụng đã được phát
triển để gộp những tác động đa chiều của một phương án lại thành một tác động một
chiều. Trong số chúng, những thước đo sau đây là phổ biến nhất.
Tuổi thọ giảm đi điều chỉnh theo mức độ khuyết tật ( DALY ): Khái niệm này
được phát triển từ năm 1993 trong báo cáo phát triển Thế giới của World Bank.
DALY đo lường mức giảm xuống của tuổi thọ có tính đến mức giảm của sức khỏe
so với một mức chuẩn về tuổi thọ kỳ vọng là 80 năm cho nam giới và 82,5 năm cho
nữ giới. Trọng số bệnh tật được xác định bởi những chuyên gia và được dùng để
đánh giá những tình trạng sức khỏe thấp hơn mức hoàn toàn khỏe mạnh. Bên cạnh
đó, trọng số này áp dụng cho những tuổi đời khác nhau. Trọng số lớn nhất được gắn
cho việc mất đi một năm tuổi thọ ở mức sức khỏe của độ tuổi 25. Mức thỏa dụng từ
11
một phương án y tế được đo bằng số DALY tổn thất tránh được. DALY được sử
dụng bởi nhiều tổ chức ( như WHO ) để so sánh sức khỏe người dân ở nhiều nước
trên thế giới.
Tuổi thọ tăng thêm điều chỉnh theo chất lượng sống ( QALY ): Khái niện về
QALY dựa trên nghiên cứu của Klarman và cộng sự ( 1968 ), những người đầu tiên
đề cập cả số năm tăng lên trong tuổi thọ và sự thay đổi trong chất lượng sống đo
bằng một chỉ số. Cũng như DALY, mỗi trạng thái sức khỏe được gắn với một trọng
số bệnh tật. Tuy vậy, những người trong số này thường được xác định bằng cách
điều tra những người liên quan tới phương án sức khỏe. Số QALY của mỗi người
được tính bằng cách nhân mức tuổi thọ kỳ vọng của mỗi trạng thái sức khỏe với chỉ
số đau bệnh ( hay khỏe mạnh ) của chúng rồi cộng lại . Mức thỏa dụng của một
phương án được đo bằng số QALY tăng lên.
Số năm khỏe mạnh tương đương ( HYE ): Khái niêm này bắt nguồn từ nghiên
cứu của Mehrez và Gafni ( 1989 ), dựa vào hồ sơ diễn tiến sức khỏe. Những cá nhân
được hỏi về mức mà họ đánh giá tình trạng sức khỏe có thể đạt được với một
phương án. Cụ thể, họ được hỏi về số năm khỏe mạnh tương đương mà họ cho là
ngang bằng với hồ sơ diễn tiến sức khỏe được hỏi.
Trong khái niệm của DALY, chất lượng sống được đánh giá bởi các chuyên
gia, trong khi đối với trường hợp hai thước đo còn lại, sự đánh giá được tiến hành
bởi những bệnh nhân thực sự hay bệnh nhân tiềm năng. Hướng tiếp cận sau là đúng
đắn hơn vì những người bị tác động ( hoặc có tiềm năng bị tác động ) có khả năng
đánh giá tốt hơn về sức khỏe của chính họ, hơn nữa, họ chính là những người chi trả
cho các chi tiêu sức khỏe công cộng. Ngược lại những chuyên gia chỉ có khả năng
hơn ở mặt kỹ thuật y tế. Vậy nên khái niệm DALY dường như khó có thể thỏa mãn
như một nền tảng cho việc ra quyết định. Vì thế nó được sử dụng cho những so sánh
ở tầm đa quốc gia.
Trong các khái niệm DALY và QALY, thứ tự mà các trạng thái khác nhau
diễn ra không quan trọng. Ngược lại, Khái nệm HYE đánh giá hồ sơ của toàn bộ
diễn tiến trạng thái sức khỏe tạo ra từ một phương án y tế. Vì thế HYE về bản chất
12
sẽ được ưa dùng hơn, nhưng trong mọi tình huống nó được coi là tốn kém hơn, vì
toàn bộ hồ sơ diễn tiến sức khỏe cần một sự mô tả rất dài.
Khái niệm QALY rất đơn giản để áp dụng. Một khi trọng số thỏa dụng được
xác định, việc đánh giá một phương án là rất dễ dàng. Tuy nhiên, vì QALY được
dùng để hổ trợ việc ra quyết định phân phối nguồn lực trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe, các quyết định này cần có cơ sở lý thuyết đúng đắn. Chúng ta sẽ phân tích
QALY trong lý thuyết “ mức thỏa dụng kỳ vọng”, lý thuyết phổ biến nhất cho việc
ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Dù thỏa dụng kỳ vọng không phải là
một lý thuyết hoàn hảo về hành vi với điều kiện không chắc chắn, nó có thể đóng
vai trò một hướng dẫn chuẩn cho việc ra quyết định một cách lý trí, nếu người ta
đồng ý rằng lựa chọn được đưa ra thỏa mãn những tiền đề cơ sở của lý thuyết này.
Chúng ta bắt đầu với một dạng đơn giản của các mô hình QALY, trong đó
không có việc chiết khấu và không có tính “ e ngại rủi ro” theo tuổi thọ ( hay còn
gọi là bàng quan với rủi ro theo tuổi thọ ). Để đơn giản, coi tất cả các tình trạng sức
khỏe ( vector Hh với h = 1,2,….m ) là thường xuyên ( tình trạng sức khỏe là không
đổi – giả định này chỉ được dùng để tiện cho việc biến đổi và không phải là một tính
chất của một mô hình QALY ). Sự kết hợp ( Hh , Tt ) xảy ra với xác suất πh . Lúc đó
một cá nhân phải đối diện với một sự may rủi về những tình trạng sức khỏe thường
xuyên ( πh , Hh , Th ) với h = 1,…,m. Giả định rằng sự ưa thích thỏa mãn các tiền đề
Neumann – Morgenstern. Nếu mức thỏa dụng của việc sống Th nằm trong tình trạng
thường xuyên Hh ký hiệu là u ( Hh, Th ), sự ưa thích của cá nhân được thể hiện bằng
mức thỏa dụng kỳ vọng:
h=1πhu( Hh , Th )
EU = Σm (1)
Để chuyển mức thỏa dụng kỳ vọng thành số QALY, hàm thỏa dụng phải có
dạng:
(2) u ( Hh , Th ) = v(Hh)Th
Với hai phương trình trên ta có
h=1πhThv( Hh )
EU = QALY = Σm (3)
13
Nghĩa là mức thỏa dụng kỳ vọng bằng tổng thỏa dụng của những trạng thái
sức khỏe được đánh tỷ trọng bằng độ dài thời gian và xác suất xảy ra của chúng.
Vì trong lý thuyết mức thỏa dụng kỳ vọng , hàm thỏa dụng v() là một hàm số
lượng và được xác định theo dạng positive affine transformation ( ví dụ: một dạng
hàm tăng bậc nhất đơn điệu: v(x) = ax + b với a>0 ), v() có thể được chọn mà không
làm mất đi tính tổng quát theo cách để mức thỏa dụng của tình trạng sức khỏe hoàn
hảo v(H*) là 1 và mức thỏa dụng của tình trạng chết là 0. Từ đó, mức thỏa dụng kỳ
vọng của một cá nhân có thể được giải thích bằng số năm tuổi thọ điều chỉnh theo
chất lượng sống.
Theo quan điểm lý thuyết ra quyết định, tính đơn giản của việc tính toán
QALY là dựa trên dạng của hàm thỏa dụng như trong phương trình (2). Dạng hàm
này đòi hỏi sự ưa thích đối với các trạng thái sức khỏe là ổn định trong suốt tuổi thọ
(v(Hh) không phụ thuộc vào tuổi của một cá nhân ).
Hơn nữa, hàm thỏa dụng u(Hh, Th) cần thỏa mãn những giả định căn bản. Đầu
tiên, phương trình trên ngầm định rằng các cá nhân bàng quan với rủi ro theo thời
gian ( đối với một trang thái nhất định, họ bàng quan giữa một quãng đời với những
sự chắc chắn và một quãng đời với những sự rủi ro ). Nhưng sự bàng quan với rủi ro
về thời gian cũng không hoàn toàn tạo nên dạng của hàm thỏa dụng trong phương
trình trên. Nói chung , nó chỉ ngụ ý rằng khi vắng đi sự chiết khấu, hàm thỏa dụng
có dạng sau
u ( H, T ) = g(H) + v(H)T với v(H) > 0 (4)
và phương trình như đã nói trên cần thêm điều kiện g(H) = 0 cho mọi tình
trạng sức khỏe H.
Một giải pháp đặt ra là “ điều kiện không” , tất cả trạng thái sức khỏe với độ
dài thời gian bằng không là bằng nhau ( theo nghiên cứu của Bleichrodt và cộng sự
( 1997 ), Miyamoto và Eaker ( 1988) )
Với mọi H , u ( H, 0 ) = const (5)
Nghiên cứu của Miyamoto và cộng sự (1998 ) lập luận rằng “ điều kiện
không” này hoàn toàn được chứng minh. Hệ quả từ “điều kiên không” là g(H) phải
14
là hằng số trong phương trình thỏa dụng (4). Vì hàm thỏa dụng phải là hàm số
lượng, một hằng số bất kỳ có thể được thêm vào mà không làm mất đi tính tổng
quát. Vì thế người ta có thể cho g(H) = 0 trong phương trình thỏa dụng (4) để trở
thành phương trình (2). Sự bàng quan với rủi ro về tuổi thọ và “điều kiện không”
lúc này đủ để tạo nên cơ sở để cho việc đo mức thỏa dụng bằng QALY.
Bên cạnh sự bàng quan với rủi ro về độ dài tuổi thọ, sự độc lập về thỏa dụng
và sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định cũng được cho là những giả định nền tảng cho mô
hình QALY ( Pliskin và cộng sự ( 1980) ). Giả định về sự độc lập về thỏa dụng sẽ
được thỏa mãn nếu sự ưa thích có điều kiện đối với những may rủi trong suốt một
giai đoạn tuổi thọ với một trạng thái sức khỏe cho trước, độc lập với những tính
chât sức khỏe cụ thể và ngược lại. Sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định nghĩa là phần tuổi
thọ mà cá nhân chấp nhận từ bỏ để có được một sự cải thiện trong sức khỏe là độc
lập với kỳ vọng về phần tuổi thọ còn lại.
Nghiên cứu của Bleichrodt và công sự ( 1997 ) minh họa rằng sự độc lập về
thỏa dụng và sự đánh đổi theo tỉ lệ cố định là những giả định mạnh hơn “ điều kiện
không”. Xét tính đánh đổi theo tỉ lệ cố định
Với mọi H, H’ với H’ > H: tồn tại q thuộc ( 0, 1 ) sao cho u( H, T ) = u (H’, qT
) với mọi T (6)
Nghiên cứu của Plishkin và cộng sự ( 1980 ) chỉ ra rằng tính chất này được
thỏa mãn nếu ( 1 ) tồn tại sự độc lập thỏa dụng và (2) sự đánh đổi theo tỷ lệ cố định
đúng cho trạng thái sức khỏe tốt nhất và tệ nhất. Với T = 0 trong phương trình (6) ,
ta có u(H, 0) là bằng nhau cho tất cả các trạng thái sức khỏe ( điều kiện không ). Vì
vậy, không cần thiết phải đặt ra các giả định về sự đánh đổi theo tỷ lệ cố định và sự
độc lập thỏa dụng để tạo nên mô hình QALY. Chỉ cần “điều kiện không” là đủ.
2.2.2 Công bằng và sức khỏe.
Có nhiều lý thuyết khác nhau đề cập vấn đề công bằng xã hội, vì vậy quan
điểm về công bằng hiện không thống nhất. Chủ nghĩa thỏa dụng ( Utilitarianism )
nhắm tới việc tối đa hóa thỏa dụng cá nhân. Trong khi đó, chủ nghĩa Rawls (
Rawlsian ) chỉ ra hai nguyên tắc công bằng: những cá nhân nên có được mức tự do
15
tối đa tương ứng với những người khác, và mọi sự thiên lệch có chủ ý đều là không
công bằng trừ khi nó nhắm tới lợi ích cho những cá nhân kém sung túc nhất. Lý
thuyết của Rawls, không tập trung vào mức thỏa dụng xã hội mà đề ra “ những hàng
hóa xã hội căn bản” và đặt mục tiêu sao cho mọi cá nhân tiếp cận được với chúng.
Chủ nghĩa Mác ( Marxism ) nhấn mạnh về nhu cầu, gợi ra triết lý “phân phối theo
nhu cầu” . Chủ nghĩa tự do cá nhân ( Libertarianism ) tôn trọng những quyền tự
nhiên: Quyền sống và quyền sở hữu. Nếu người ta có được và chuyển nhượng
những tài sản của mình mà không làm ảnh hưởng đến người khác thì sự sở hữu đó
là công bằng.
Hai hướng tiếp cận chính về vấn đề công bằng được đề cập trong phần lớn các
nghiên cứu kinh tế sức khỏe là hướng tiếp cận theo chủ nghĩa tự do cá nhân và
hướng tiếp cận theo chủ nghĩa Mác. Nhưng nói một cách chính xác, đề xuất “ phân
phối theo nhu cầu” không hẳn đến từ chủ nghĩa Mác, mà là một phần trong chủ
nghĩa bình quân trong thế kỷ 20. Theo chủ nghĩa bình quân, việc được chăm sóc sức
khỏe là quyền của mỗi công dân và vì thế, bất chấp sự giàu nghèo hay thu nhập cao
thấp, mọi người đều phải có quyền này. Theo chủ nghĩa tự do cá nhân, sự chăm sóc
sức khỏe được đề cập đến như một hệ thống khen thưởng xã hội, thứ mà những cá
nhân nổi trội hơn về thu nhập hay sự giàu có sẽ được tiếp cận dễ dàng hơn. Một
cách khái quát, chủ nghĩa bình quân kêu gọi sự tài trợ cho việc chăm sóc sức khỏe
theo khả năng chi trả và phân phối theo nhu cầu. Ngược lại, chủ nghĩa tự do cá nhân
lại cho rằng phân phối việc chăm sóc sức khỏe phải dựa trên khả năng chi trả của
mỗi người, vì thế nguồn tài trợ phải là từ phía tư nhân, chính phủ chỉ nên có vai trò
tối thiểu.
Có một khái niệm chúng ta cần phải thảo luận trong lý thuyết công bằng sức
khỏe đó là khái niệm “ Tiếp cận”. Khái niệm này được nhắc đến nhiều trong việc
phân phối sự chăm sóc sức khỏe. Về cơ bản, “ tiếp cận” thường được hiểu dưới
dạng “ nhận được sự chăm sóc” . Điều này khá rõ trong các lập luận của Tobin (
1970 ) vốn khẳng định rằng công bằng trong chăm sóc sức khỏe là việc các cá nhân
16
được chăm sóc dựa trên dấu hiệu và triệu chứng y khoa chứ không phải khả năng
chi trả của họ.
Không đồng ý với quan điểm trên, Legrand ( 1982 ) và Mooney ( 1983, 1994
) cho rằng có sự khác biệt rạch ròi giữa “ tiếp cận” và “ được chăm sóc”. “ tiếp cận”
bao gồm những cơ hội mà các cá nhân có thể có được, còn “ được chăm sóc” hay
không, phụ thuộc vào cả việc có tồn tại các cơ hội như vậy hay không và việc các
cá nhân có khả năng được lợi từ chúng không. Với suy nghĩ đó, Legrand gắn sự “
tiếp cận” với hai yếu tố chi phí: thời gian và tiền bạc, tuy vậy điều này ngụ ý một
thứ rất khó giải thích: Khi hai người cùng đối diện với chi phí thời gian và tiền bạc
như nhau , họ sẽ có cùng mức “ tiếp cận” bất chấp sự khác biệt về thu nhập. Chính
Legrand ( 1991 ) cũng chỉ ra sự vô lý này – sẽ có sự khác biệt trong “ tiếp cận” giữa
một người không có thu nhập và một triệu phú. Olson và Rodger ( 1991 ) đưa ra
một ý tưởng khác, không lâm vào tình trạng trên, họ cho rằng, ngoài chi phí thời
gian và tiền bạc, sự tiếp cận còn bị chi phối bởi thu nhập.
Khái niệm về “ nhu cầu” Culyer ( 1976 ) và William ( 1974, 1978 ) họ cho
rằng “ nhu cầu” chính là khả năng hưởng lợi của mỗi cá nhân từ sự chăm sóc sức
khỏe. Định nghĩa này quan tâm đến chủ thể mà sự chăm sóc sức khỏe tác động tới (
sức khỏe ) hơn là thứ được cần ( chăm sóc sức khỏe ). Hãy xem xét một sự tiến bộ
trong y học, theo định nghĩa này, nhu cầu của một người đối với chăm sóc sức khỏe
là không đổi, trong khi đó nguồn lực cần thiết để chăm sóc cho anh ta lại giảm đi (
do những tiến bộ ) . Trên lý lẽ đó, Culyer và Wagstaff ( 1993 ) đưa ra định nghĩa
trong đó “ nhu cầu” là lượng nguồn lực tối thiểu cần để bù đắp đủ “ khả năng hưởng
lợi”.
Mâu thuẫn trong các nguyên tắc công bằng: Ba nguyên tắc công bằng được
nhắc tới bao gồm: công bằng trong tiếp cận, phân phối theo nhu cầu và công bằng
trong mức sức khỏe. Mooney ( 1983 ) đã nhấn Mạnh rằng sự “ tiếp cận” chỉ là một
trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc nhận được những sự chăm sóc sức khỏe. Có
những yếu tố khác cũng có vai trò tương tự, có thể kể đến như nhận thức cá nhân
hưởng lợi từ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay động cơ của người thầy thuốc.
17
Ngoài giá cả của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe , mọi yếu tố khác ảnh hưởng lên
cầu của dịch vụ này đều ảnh hưởng đến việc các cá nhân nhận được sự chăm sóc
như thế nào. Hai người có cùng mức “ tiếp cận” và có cùng “ nhu cầu” nhưng chưa
hẳn là nhận được sự chăm sóc tương đương. Người có học thức thấp thường đánh
giá thấp lợi ích của sức khỏe và không liên hệ với thầy thuốc trong khi những người
có học thức cao hơn thường làm điều ngược lại. Trái lại, hai người có mức tiếp cận
khác nhau đôi khi vẫn được sự chăm sóc như nhau. Culyer và Wagstaff ( 1993 )
phát biểu rằng: công bằng trong “ tiếp cận” sự chăm sóc sức khỏe không nhất thiết
phải dẫn tới việc phân phối theo nhu cầu và sự công bằng trong mức sức khỏe.
2.2.2.1 Nguyên tắc công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Nghiên cứu của Mooney cùng cộng sự ( 1991, 1992 ), và Mooney ( 1994 ) ủng
hộ mạnh mẽ nguyên tắc công bằng trong tiếp cận. những nghiên cứu này biện luận
rằng, các lý lẽ như phân phối theo nhu cầu hay tạo nên sự bình đẳng trong mức sức
khỏe đi ngược lại những nguyên tắc về sự ưa thích của người tiêu dùng, và vì thế xa
rời những luận điểm kinh tế phúc lợi Pareto.
Những lý thuyết Pareto phù hợp nhất cho những người theo chủ nghĩa tự do cá
nhân. Chủ nghĩa này cho rằng hệ thống chăm sóc sức khỏe nên được xem như một
hệ thống khen thưởng xã hội mà trong đó những cá nhân với mức thu nhập hay của
cải cao hơn có quyền có được mức sức khỏe tốt hơn. Những người theo xu hướng
này tuy chấp nhận sự có mặt của thuế khóa nhưng không có vẻ là họ chấp nhận sự
công bằng trong “ tiếp cận”.
Legrand và Mooney có nhắc tới hai chi phí: tiền bạc và thời gian. Việc đưa
vào chi phí thời giam ám chỉ rằng nên có những sự ưu ái hơn về cơ sở vật chất cho
người ở khu vực nghèo nhằm làm công bằng hơn thời gian chờ đợi và khả năng tiếp
cận. Quan điểm của Olson – Rodger thậm chí còn cổ súy cho một mức thuế cao hơn
nhằm làm giảm sự mất công bằng.
Từ những phân tích trên cho thấy, trong khi chúng ta đồng ý rằng việc được
chăm sóc sức khỏe là quan trọng, có những người vẫn luôn đủ khả năng để đạt được
điều đó nhưng lại không làm như vậy. Thế nên, mục đích chủ yếu không phải là
18
mang đến cho họ mức sức khỏe đồng đều mà là tạo cho họ cơ hội để đạt được điều
đó.
2.2.2.2 Công bằng trong tài trợ chăm sóc sức khỏe.
Có hai khái niệm được đề xuất khi nói về công bằng trong tài trợ đó là công
bằng dọc và công bằng ngang:
- Công bằng dọc: Những cá nhân hay hộ gia đình với khả năng chi trả khác
nhau sẽ trả các khoản khác nhau theo một cách hợp lý.
- Công bằng ngang: những cá nhân hay hộ gia đình có khả năng chi trả như
nhau sẽ có mức đóng góp như nhau.
2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân.
Một sức khỏe tồi sẽ hạn chế khả năng sản xuất của người bị ảnh hưởng, bao
gồm cả khả năng hưởng thụ những giá trị trong cuộc sống.
Ngoài những yếu tố di truyền và môi trường, các biến cố luôn có thể xuất hiện
và đe dọa những cố gắng của cá nhân trong việc giữ gìn hay cải thiện sức khỏe. Vì
thế, những thay đổi không mong muốn trong sức khỏe có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Khái niệm tạo ra sức khỏe: Sức khỏe có thể được coi như một nguồn vốn vô
hình, có thể được làm tăng thêm nhờ sự đầu tư, chăm sóc, phòng ngừa bệnh tật, và
phải chịu hiệu ứng hao mòn. Một lối sống tránh được việc lạm dụng sức khỏe, tăng
cường khả năng phòng ngừa bệnh tật, có thể được coi như những sự đầu tư vào sức
khỏe.
2.2.3.1 Sức khỏe – một bộ phận của vốn con người.
a) Mô hình Grossman:
Thành phần quan trọng của mô hình Grossman là phương trình thể hiện sự
thay đổi lượng vốn sức khỏe qua thời gian. Một mặt, vốn sức khỏe hao mòn với tỷ
lệ δ, khiến sức khỏe giảm xuống theo thời gian. Tỷ lệ hao mòn này không cố định
theo thời gian. Mặt khác, cá nhân này có thể tăng vốn sức khỏe bằng cách đầu tư I.
Mức đầu tư này bao gồm việc tiêu dùng cho dịch vụ y tế M và khoảng thời gian tI
dành cho những nổ lực phòng bệnh. Gộp lại ta có:
H1 = H0 (1- δ) + I( M0 , tI )
19
Với mô hình trên, Grossman cho ta thấy sức khỏe có thể tạo ra được, thông
qua việc đầu tư vào sức khỏe, trong đó có yếu tố sử dụng các dịch vụ y tế để phòng
ngừa bệnh tật.
Grossman cũng cho chúng ta thấy rằng, khi vốn sức khỏe cao hơn sẽ dẫn tới
nhu cầu cao hơn đối với các dịch vụ y tế, sự tăng lên trong mức giá của dịch vụ y tế
làm giảm lượng cầu, mức lương ban đầu cao sẽ khiến nhu cầu đối với dịch vụ y tế
cao ( với một mức giáo dục cho trước. ), một mức giáo dục cao hơn sẽ làm tăng
năng suất của sự đầu tư vào sức khỏe, thông qua hàm cầu với dịch vụ y tế ở dạng lô
ga rít như sau:
ln M = const. + lnH1 – ( 1- αM )lnp + ( 1 – αM )lnw0 – αEE
M: dịch vụ y tế
H1: Vốn sức khỏe
P: giá dịch vụ y tế
W0: mức lương ban đầu
E: mức giáo dục
b) Nhận diện các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ khám sức khỏe
của người dân từ mô hình Grossman.
Khi người dân thực hiện quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các
yếu tố có khả năng tác động đến quyết định của họ:
- Mức lương, thu nhập có tác động dương đến quyết định sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của người dân.
- Trình độ học vấn, hay còn gọi là mức giáo dục. Grossman cho chúng ta thấy
rằng, khi mức giáo dục cao thì năng suất đầu tư vào sức khỏe tăng, một phần trong
việc đầu tư vào sức khỏe đó là chi tiêu cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhưng
Grossman chưa chỉ rõ mối quan hệ đồng biến hay nghịch biến trong mối quan hệ
giữa trình độ học vấn với việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
- Grossman cũng chỉ ra rằng, giá của dịch vụ chăm sóc sức khỏe có tác động
nghịch biến với nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
20
- Trong mô hình nhiều giai đoạn của Grossman, cả hàm cầu sức khỏe và hàm
cầu dịch vụ y tế chỉ ra rằng: Cầu sức khỏe giảm xuống khi tuổi tác tăng lên vì tỷ lệ
hao mòn tăng lên. Tuy vậy, cầu dịch vụ y tế tăng lên theo tuổi tác để bù đắp tác
động này. Vậy tuổi tác là một yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm
sóc sức khỏe của người dân.
2.2.3.2 Sức khỏe dưới dạng của các quá trình ngẫu nhiên.
a) Khả năng bổ sung và khả năng thay thế trong sản xuất sức khỏe:
Tính quan trọng của vấn đề:
Lý thuyết hàm sản xuất đặc biệt chú trọng quan hệ giữa các đầu vào của một
quá trình sản xuất. Nếu một yếu tố sản xuất trở nên đắt đỏ hơn và buộc phải sử dụng
ít đi, liệu sự thay đổi này có dẫn tới việc sử dụng các yếu tố khác nhiều hơn hay
không? Nếu với chỉ hai yếu tố sản xuất và giả định các công ty tối đa hóa lợi nhuận,
câu trả lời là “ có” , khi đó quan hệ thay thế chiếm ưu thế. Nếu có ba hoặc hơn nữa
các yếu tố sản xuất , quan hệ bổ sung có thể xuất hiện. Có những bằng chứng chỉ ra
rằng việc tăng giá năng lượng trong các năm 1970 dẫn tới việc các ngành sản xuất
trở nên thâm dụng lao động, chậm đưa ra các công nghệ sản xuất mới và ít đầu tư
hơn. Ta có thể nói rằng sự thay thế tồn tại giữa năng lượng và lao động và sự bổ
sung tồn tại giữa năng lượng và vốn.
Vấn đề cũng tương tự trong lĩnh vực sức khỏe. Một khả năng làm giảm chi
tiêu cho chăm sóc sức khỏe là cầu dịch vụ chăm sóc sức khỏe giảm. Sự tăng lên
trong phần chi phí trong các hợp đồng bảo hiểm sức khỏe khiến giá của dịch vụ y tế
tăng lên và làm giảm cầu. Biện pháp này sẽ gặp phải những sự bất đồng, đặc biệt là
nhóm những người lớn tuổi vốn đang chiếm phần đông cử tri ở các nước công
nghiệp hóa ngày nay, sự thay thế các dịch vụ y tế bằng những nỗ lực của cá nhân
trong phòng ngừa bệnh tật cho chúng ta một giải pháp khả thi. Để các cá nhân tăng
thời gian chăm sóc sức khỏe, ta có thể khiến họ giảm thời gian lao động bằng cách
giảm lương, giảm cung lao động. Tuy nhiên, việc giảm chi phí lao động là không
thể vì nó đồng nghĩa với việc giảm xuống trong mức lương của cả lượng lao động
khổng lồ. Hơn nữa biện pháp này sẽ không hiệu quả đối với nhóm người nghỉ hưu,
21
những người sử dụng nhiều dịch vụ y tế.Để tăng sự sử dụng một yếu tố sản xuất nào
đó chúng ta cần giảm gía đồng thời tăng năng suất biên của chúng.
Khả năng thay thế trong tình trạng sức khỏe tốt và khả năng bổ sung trong tình
trạng sức khỏe yếu:
Tình trạng sức khỏe của một giai đoạn cho trước, có thể được xem như một
mẫu lấy từ một chuỗi các tình trạng sức khỏe trong suốt cuộc đời, đó là khỏe mạnh
và đau ốm. Trong các phần trước của lý thuyết có giả định rằng: năng suất biên của
các nổ lực cá nhân trong chăm sóc sức khỏe có thể được tăng lên nhờ tác động của
yếu tố giáo dục. Việc này dẫn tới sự tăng lên trong năng suất của các hoạt động
mang tính thị trường và các hoạt động không mang tính thị trường, qua đó lý thuyết
đã đưa ra các kết luận sau:
- Nếu có sự tăng lên của thời gian đầu tư vào sức khỏe, xác suất của việc đau
ốm sẽ giảm xuống và xác suất sử dụng các dịch vụ y tế trong tương lai cũng giảm.
Bên cạnh đó, thời gian khỏe mạnh sẽ được kéo dài và cũng làm nhu cầu dịch vụ y tế
giảm xuống. Nhưng việc này cũng kéo dài tuổi thọ kỳ vọng và có thể vì vậy tổng
lượng tiêu dùng các dịch vụ y tế trong suốt phần đời còn lại sẽ không giảm. Tuy
nhiên, nhu cầu dịch vụ y tế sẽ giảm xuống trong ngắn hạn và trung hạn nhờ tác
động thay thế.
- Nếu tình trạng ban đầu của cá nhân là đau ốm , một sự cải thiện trong năng
suất của mỗi cá nhân không có tác dụng. Nhưng trong quá trình chữa trị, sự chăm
sóc y tế và những nỗ lực cá nhân có thể bổ trợ cho nhau nhằm tăng cơ hội phục hồi.
b) Nhận diện các yếu tố tác động đến việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của người dân.
Qua đó ta thấy tình trạng ban đầu của họ là khỏe mạnh hay đau ốm, tác động
rất lớn đến nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG.
22
Lý thuyết thông tin bất cân xứng được đề cập đến vào năm 1970, trong quá
trình nghiên cứu về các yếu tố dẫn đến thất bại của thị trường. Lý thuyết thông tin
bất cân xứng được đề cao trong nền kinh tế học hiện đại vào năm 2001.
Trong lý thuyết kinh tế học tân cổ điển về thị trường đã giả định rằng, người
bán và người mua có thông tin hoàn hảo về đối tác bên kia của người giao dịch, về
chất lượng, đặc điểm của hàng hóa hay giao dịch được trao đổi và cấu trúc của thị
trường. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp một bên tham gia giao dịch không
thể biết được thông tin của đối tác, cho dù có bỏ ra bao nhiêu tiền để thu thập thông
tin.
Thông tin bất cân xứng là tình trạng trong một giao dịch, một bên có thông
tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với bên còn lại.
Tình trạng thông tin bất cân xứng hiện diện rất nhiều trong các lĩnh vực,
như : Thị trường tín dụng, nhà ở, bảo hiểm, dịch vụ khám bệnh,….. Thông tin bất
cân xứng có thể dẫn đến thất bại thị trường, vì nó gây ra sự lựa chọn bất lợi, tâm lý
ỷ lại, vấn đề người ủy quyền – người thừa hành.
Hành vi cơ hội thể hiện lợi thế của người có thông tin quan trọng so với
người không có thông tin thông qua việc che dấu thông tin, dẫn đến sự lựa chọn bất
lợi cho người ra quyết định và dẫn đến quá ít giao dịch trên thị trường. Giải pháp
cho vấn đề này là, bên ít thông tin cần phải thu thập và sàng lọc thông tin, bên nhiều
thông tin hơn, cần phải phát tín hiệu.
Giải pháp cho vấn đề tâm lý ỷ lại, chúng ta cần thiết kế hệ thống giám sát
như : Thiết lập hệ thống khuyến khích, chuyển rủi ro, chia xẻ rủi ro, kiểm tra, kiểm
soát trong quá trình hoạt động, thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, thiết lập
thể chế để có biện pháp chế tài, xử phạt.
Giải pháp cho vấn đề người ủy quyền, người ủy quyền tạo ra động cơ khuyến
khích vật chất và phi vật chất để hành vi người thừa hành luôn phù hợp với mục tiêu
của mình.
2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN.
2.4.1 Mô hình nghiên cứu.
23
Nghiên cứu của Evashwick, Rowe, Paula Diehr, and Laurence Branch (
1984)về Các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người
trung niên.
a) Nội dung và kết quả nghiên cứu:
Nghiên cứu đã sử dụng hệ thống các biến như sau: biến phụ thuộc là biến nhận
hai giá trị 0 và 1 tức là có sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và không sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong một năm kể từ ngày khảo sát nghiên cứu được
thực hiện trở về trước. Các biến độc lập bao gồm các biến: Tuổi, giới tính, trình độ
học vấn, tình trạng hôn nhân, sắc tộc, thu nhập, phương tiện đi lại, tình trạng bảo
hiểm, bệnh tật hiện có,…. Nghiên cứu đã cho ra được một phương trình hồi quy với
hệ thống biến như trên, các tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy trong phân tích của
mình. Qua nghiên cứu các tác giả đã đo được các mức độ tác động nhất định của
các yếu tố đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người trung niên. Qua
thống kê mô tả của nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng: 90% người da trắng có sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong năm, 1% các màu da còn lại có sử dụng dịch
vụ chăm sóc sức khỏe trong năm, 61.7% người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
là nữ giới, 38.3% người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là nam giới, độ tuổi từ
45 dến 65 tuổi tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong năm là 16.7%, trên 65
tuổi tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là 83.3%.
b) Nhận diện hình thức các biến trong mô hình hồi quy của nghiên cứu:
Nghiên cứu đã sử dụng biến phụ thuộc có giá trị là 0 và 1, các biến độc lập
hầu hết cũng có giá trị 0 và 1 cho hai trạng thái của mỗi biến. Tác giả cũng xác
định được các yếu tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của
người dân, đồng thời đo lường được mức độ tác động của chúng .
Nghiên cứu của Ware, Jr, PhD; Bayliss, MSc; William H. Rogers, PhD; Mark
Kosinski, MA; Alvin R. Tarlov,MD (1996) về Kết quả sức khỏe của người bệnh
đối với người sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí ( FFS) và người sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe được bảo trợ ( HMO ).
a) Nội dung kết quả nghiên cứu:
24
Qua nghiên cứu các nhà nghiên cứu đã cho chúng ta thấy, ở Mỹ người già và
người nghèo sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe HMO là 52%, ở châu Âu là 28%.
Đối với những người từ 59 tuổi trở xuống, 63% sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
FFS. Kết quả sức khỏe khi sử dụng hai tổ chức trên là: Đối với những bệnh thuộc về
thể chất, điểm sức khỏe tăng 3 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe FFS, tăng 2 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe HMO. Đối
với những bệnh thuộc về tinh thần, điểm sức khỏe tăng 5 điểm khi sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe FFS, tăng 3 điểm sức khỏe khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe HMO.
b) Nhận diện các yếu tố tác động:
Qua đó chúng ta thấy rằng chi phí cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe là một yếu
tố tác động đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là đối với người già
và người nghèo.
2.4.2 Công bằng trong tiếp cận dịch vụ.
Nghiên cứu của Anh, Thi – Kim Le (2013) về vấn đề sức khỏe và tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người di cư từ nông thôn ra thành thị và nhóm người
thành thị.
a) Nội dung và kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện qua bốn gia đoạn. Giai đoạn 1 phân tích số liệu thứ
cấp từ các cuộc điều tra dân số năm 1989, 1999, 2009 để mô tả các xu hướng di cư
từ nông thôn ra thành thị tại Việt Nam. Giai đoạn này cho thấy rằng làn sóng di cư
hiện nay thay đổi mạnh mẽ, trong đó nữ giới di cư nhiều hơn so với nam giới. Giai
đoạn 2 của dự án nhằm mục đích đánh giá tình trạng sức khỏe của người di cư
thông qua việc sử dụng bộ công cụ SF – 36, giai đoạn này còn nhằm mục đích so
sánh tình trạng sức khỏe và việc tiếp cận dịch vụ y tế giữa người di cư và không di
cư, và cho thấy rằng so với nhóm người không di cư, nhóm người di cư thường có
mức độ sức khỏe kém hơn, sức khỏe tinh thần cũng kém hơn, người di cư thường ít
sử dụng dịch vụ y tế hơn người không di cư khi có vấn đề về sức khỏe. Giai đoạn 3
dự án so sánh tình hình sức khỏe, bệnh tật giữa nam giới và nữ giới, kết quả cho
25
thấy nữ giới đối mặt với nhiều nguy cơ sức khỏe hơn nam giới, như là sức khỏe sinh
sản, nhiễm khuẩn đường sinh sản,…Giai đoạn 4 dự án phát triển đề cương can
thiệp, nhằm tăng cường việc tiếp cận dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe sinh sản cho
nữ giới. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định tính, phỏng vấn tay đôi và thảo
luận nhóm được thực hiện với việc chọn mẫu thuận tiện .
b) Nhận diện các yếu tố tác động và phương pháp nghiên cứu.
Qua nghiên cứu trên ta thấy yếu tố giới tính là một trong những yếu tố có tác
động đến quyết định sử dụng dịch vụ y tế của người dân, sự khác nhau về mức độ
tiếp cận với dịch vụ y tế của dân di cư và dân không di cư, dân di cư nguy cơ về sức
khỏe nhiều hơn dân không di cư, nhưng lại ít sử dụng dich vụ y tế chăm sóc sức
khỏe hơn dân không di cư. Nghiên cứu đã dùng phương pháp định tính để xác định
các yếu tố tác động đến tình trạng sức khỏe của đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu của M. R. Hass (2002) về lợi ích bên ngoài của chăm sóc sức
khỏe.
a) Kết quả nghiên cứu:
Nghiên cứu dùng phương pháp phỏng vấn tay đôi với 257 bệnh nhân cùng đến
khám tại một trung tâm y tế. Kết quả có được là: 49% chỉ nhận được cuộc gọi sau
khi khám và trước khi khám, 31% nhận được cuộc gọi trong suốt quá trình khám và
theo dõi bệnh, 41% chỉ nhận được cuộc gọi sau khi khám, 20% bệnh nhân nhận
được cuộc gọi nhiều hơn một lần khi đã lành bệnh, 16% bệnh nhân chỉ nhận được
cuộc gọi của y tá, 17% nhận được sự hổ trợ từ các tổ chức y tế thiện nguyện, 6%
nhận được sự trợ giúp liên tục từ các viện nghiên cứu ung thư. Trong 257 bệnh nhân
có 92% có việc làm, 8% thất nghiệp, hưởng trợ cấp xã hội.
b) Nhận diện các yếu tố tác động.
Tình trạng việc làm tác động đến việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của
người dân, mức độ thụ hưởng dịch vụ của các đối tượng cũng khác nhau, từ tình
hình thu nhập của họ.
2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Nghiên cứu của Ariely, Klaus (2008) về vấn đề của sự trì hoãn.
26
a) Kết quả của nghiên cứu:
Hầu hết chúng ta, tuy biết trước được kết quả là hữu ích của việc mình làm,
nhưng khi nó chưa phải là vấn đề mang tính cấp bách, quyết định sự thành bại hay
sống còn, chúng ta thường trì hoãn nó. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khi việc
kiểm tra sớm các mầm bệnh cũng như ngăn chặn các yếu tố nguy cơ của bệnh tật,
thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe luôn
mang lại cho chúng ta một chất lượng cuộc sống tốt hơn, nhưng chúng ta luôn trì
hoãn nó.
b) Nhận diện yếu tố tác động đến quyết định thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ của người dân:
Qua nghiên cứu của Ariely và Klaus chúng ta thấy rằng, yếu tố tâm lý, là một
trong những yếu tố tác động đến quyết định thực hiện hay không thực hiện kiểm tra
sức khỏe định kỳ, khi đây chưa là vấn đề mang tính cấp bách. Để làm rõ hơn về
quyết định của người dân, tại sao họ thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ, ngoài vấn đề tâm lý luôn trì hoãn khi chưa cấp bách, còn có
những nguyên nhân nào khác nữa ảnh hưởng đến quyết định của họ. Người nghiên
cứu sẽ thực hiện nghiên cứu này trong phần nghiên cứu định tính, phỏng vấn sâu
các đối tượng tham gia để có câu trả lời phù hợp với môi trường Việt nam hiện nay.
2.5 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Qua chương 2 người nghiên cứu đã định nghĩa thế nào là kiểm tra sức khỏe
định kỳ, đưa ra được các lý thuyết về kinh tế sức khỏe, nguyên lý xác định giá trị
kinh tế của sức khỏe, thế nào là công bằng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, cung và cầu sức khỏe của cá nhân, mô hình Grossman, mô hình lý giải các
yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân.
Người nghiên cứu đưa ra lý thuyết về thông tin bất cân xứng trong quá trình
giao dịch, nó có thể dẫn đến thất bại thị trường vì ủy quyền của người tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ cho bác sỹ.
27
Người nghiên cứu tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm liên quan của các nhà
nghiên cứu khác trên thế giới. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến mô hình
nghiên cứu, các yếu tố tác động đến quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Phương pháp thực hiện nghiên cứu về vấn đề liên quan đến sức khỏe của các nhà
nghiên cứu trên thế giới.
Lý thuyết và những phương pháp này sẽ được người nghiên cứu vận dụng
trong việc thực hiện nghiên cứu và lý giải hiện tượng trong phần nghiên cứu của
mình.
28
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Như đã đề cập ở chương 1, nghiên cứu sử dụng đồng thời hai phương pháp,
phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
Phương pháp nghiên cứu định tính với mục đích xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, và giải thích
nguyên nhân tại sao họ thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định
kỳ.
Sau khi đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ của người dân từ phương pháp nghiên cứu định tính, ta xác định được các
biến phụ thuộc và các biến độc lập cần thiết cho phương trình hồi quy, phục vụ cho
nghiên cứu định lượng để tìm hiểu xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định
việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, và mối tương tác qua lại
giữa các yếu tố đó với nhau.
3.1 KHUNG PHÂN TÍCH.
Đặt vấn đề
Đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu.
Cở sở lý luận
Cơ sở lý thuyết Nghiên cứu thực nghiệm .
Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu định lượng Nghiên cứu định tính
Phỏng vấn tay đôi Mô hình hồi qui Logistic
Kết quả nghiên cứu
Bảng câu hỏi Bảng dữ liệu
Thống kê mô tả, hồi quy.
Chạy hồi qui.
Kết luận và kiến nghị
29
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH.
3.2.1 Sự cần thiết của việc phỏng vấn tay đôi.
Người nghiên cứu cần phải thực hiện phương pháp nghiên cứu định tính, qua
việc phỏng vấn tay đôi, với các chuyên gia và những người tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ, để xác định được các yếu tố thực tế tác động đến quyết định thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân trong môi trường xã hội Việt nam
hiện nay, để có được bảng câu hỏi chính xác, áp dụng cho việc khảo sát dữ liệu
phục vụ cho nghiên cứu định lượng.
3.2.2 Phỏng vấn tay đôi.
3.2.2.1 Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn.
Số lượng mẫu được chọn là 10 mẫu cho mỗi đối tượng mẫu. Đối tượng được
chọn cho phỏng vấn được chia làm hai dạng, dạng thứ nhất là các chuyên gia, bác
sỹ hoạt động tại các trung tâm y tế lớn tại Tp Hồ Chí Minh, cụ thể như là: Bệnh
viện Chợ Rẫy, bệnh viện Đại Học Y Dược, bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bệnh
viện 115, trung tâm chẩn đoán hình ảnh Hòa Hảo, bệnh viện Bình Dân, bệnh viện
Quận 10, bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng được chọn cho phỏng vấn dạng thứ hai
là những người có độ tuổi từ 40 trở lên, có khả năng tự quyết định việc có thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không. Đối tượng chuyên gia, bác sỹ được chọn
thông qua các mối quan hệ xã hội của người nghiên cứu, họ được đặt cuộc hẹn
trước, người nghiên cứu có 3o phút cho mỗi cuộc phỏng vấn tay đôi với giới chuyên
gia, bác sỹ. Đối với đối tượng thứ hai, những người có khả năng tự quyết định việc
thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu lấy
từ hai nguồn khác nhau. Nguồn thứ nhất được lấy từ danh sách của các bệnh viện và
trung tâm y tế, nguồn này là những người có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định
kỳ tại các bệnh viện và trung tâm y tế, nguồn thứ hai được chọn một cách ngẫu
nhiên theo các tiêu chí mà nghiên cứu đặt ra, từ khu dân cư của phường 15 quận 10
Tp Hồ Chí Minh, nguồn này là những người không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ. Số lượng mẫu được chọn đối với các chuyên gia, bác sỹ là 10 mẫu, số
30
lượng mẫu được chọn cho những người có khả năng tự quyết định việc thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ là 10 mẫu.
3.2.2.2 Ý nghĩa của mẫu được chọn.
Với đối tượng mẫu là giới chuyên gia, bác sỹ, người nghiên cứu chọn đối
tượng này để phỏng vấn để tìm hiểu kỹ và chi tiết hơn trong lĩnh vực chuyên môn
về việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các bệnh viện và các trung tâm y tế hiện nay
trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh. Cũng từ ý kiến của các chuyên gia và bác sỹ, người
nghiên cứu biết được đối tượng nào thường thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định
kỳ, độ tuổi của họ là bao nhiêu, họ thường hoạt động trong những lĩnh vực nào, hiệu
quả phát hiện bệnh của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là bao nhiêu, chất lượng dịch
vụ mà các bệnh viện, trung tâm y tế hiện nay cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ
như thế nào, đối tượng nào phải thường xuyên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ.
Với đối tượng mẫu là những người có khả năng quyết định có hay không việc
thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu muốn biết họ có thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không, họ thực hiện trong tình trạng sức khỏe
như thế nào, tại sao họ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao họ không
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, bao lâu rồi họ chưa đi khám bệnh, họ có
hiểu được lợi ích của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không, họ có thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu dịch vụ này được cung cấp miễn phí hay không, họ
có sẵn sàng đánh đổi sức khỏe để tăng thêm thu nhập hay không, thông tin về nhân
thân của họ, việc làm của họ hiện nay, mức thu nhập của họ hiện nay.
3.2.2.3 Phương pháp phỏng vấn.
Cho mỗi đối tượng phỏng vấn, người nghiên cứu chuẩn bị trước các câu hỏi
theo các nhóm mục tiêu mà người nghiên cứu muốn đạt được, thông thường đó là
những câu hỏi mở, khi thực hiện phỏng vấn các câu hỏi được đưa ra theo trình tự ý
muốn của người nghiên cứu, nhưng người nghiên cứu sẽ chủ động mở rộng các câu
hỏi khi bắt gặp những yếu tố mới trong phần trả lời của đối tượng được phỏng vấn,
người nghiên cứu sẽ giải thích cho đối tượng được phỏng vấn những khái niệm mà
31
hai bên chưa hiểu rõ ý nhau và ngược lại, tất cả quá trình phỏng vấn sẽ được ghi
nhận lại chi tiết để phục vụ cho công tác thống kê sàng lọc thông tin sau phỏng vấn.
3.2.2.4 Bảng câu hỏi cho giới chuyên gia, bác sỹ.
Hệ thống câu hỏi dùng cho chuyên gia và bác sỹ được chia thành ba nhóm câu
hỏi.
- Nhóm câu hỏi để biết được thành phần xã hội của những người tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ.
- Nhóm câu hỏi để biết được quá trình thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định
kỳ, tình trạng sức khỏe, bệnh tật của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
- Nhóm câu hỏi để biết được chất lượng dịch vụ mà bệnh viện, các trung tâm y
tế cung cấp cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
3.2.2.5 Bảng câu hỏi dùng cho người tham gia, có khả năng quyết định thực hiện
hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Hệ thống câu hỏi dùng cho người tham gia, có khả năng quyết định thực hiện
hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được chia thành ba nhóm câu
hỏi sau:
- Nhóm hỏi về nhân thân của người tham gia phỏng vấn.
- Nhóm hỏi về ý thức về sức khỏe.
- Nhóm hỏi về hiểu biết về tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, có
thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao thực hiện và
tại sao không thực hiện.
3.2.2.6 Phương pháp tổng hợp thông tin từ các cuộc phỏng vấn.
Người nghiên cứu tổng hợp thông tin bằng phương pháp thống kê theo từng
tiêu chí của từng dạng mẫu phỏng vấn ( mẫu phỏng vấn có hai dạng: giới chuyên
gia, bác sỹ và các cá nhân có khả năng quyết định thực hiện hay không thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ) tính tỉ lệ phần trăm đạt được của từng tiêu chí
trong tổng thể các tiêu chí của nhóm câu hỏi của từng dạng mẫu phỏng vấn.
Đối với nhóm câu hỏi người nghiên cứu cần tìm hiểu về tình trạng sức khỏe,
bệnh tật, chất lượng dịch vụ được cung cấp từ các bệnh viện và trung tâm y tế, trạng
32
thái tâm lý của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người nghiên cứu sẽ thực
hiện so sánh, thống kê theo nội dung trùng khớp của dạng mẫu là các chuyên gia,
bác sỹ với dạng mẫu là các cá nhân có khả năng quyết định việc thực hiện kiểm tra
sức khỏe định kỳ và được tính bằng tỉ lệ phần trăm.
Đối với những yếu tố khác biệt mang tính đặc trưng từ những cuộc phỏng vấn
đối với các dạng mẫu, người nghiên cứu sẽ đưa vào phương trình hồi quy trong
phần nghiên cứu định lượng nếu các yếu tố này có thể đo lường và khảo sát được
trong phạm vi của nghiên cứu này.
Qua đó người nghiên cứu sẽ rút ra được những kết luận cần thiết từ phương
pháp nghiên cứu định tính để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, đồng thời kết hợp với
các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, người nghiên cứu sẽ đưa ra
được phương trình hồi quy của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thực hiện việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, để phục vụ cho phần nghiên cứu định
lượng, tìm ra xu hướng tác động của các yếu tố.
3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG
3.3.1 Mô hình hồi quy.
Qua các cơ sở lý luận và các nghiên cứu liên quan như trên , cùng với sự quan
sát và nhận thức của người nghiên cứu về tình hình xã hội Việt nam hiện nay.
Người nghiên cứu đưa ra mô hình hồi quy kỳ vọng như sau:
Yi = β0 + β1X1i + β2X2i +β3X3i +β4X4i +β5X5i +β6X6i + β7X7i + β8X8i + β9X9i + ε
3.3.1.1 Giải thích các biến.
Yi: là biến phụ thuộc, nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là không thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ. Giá trị 1 tức là có thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Các biến phụ thuộc nhằm giải thích các yếu tố tác động đến việc thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là: X1, X2, , X3 , X4 , X5 , X6 , X7 , X8 , X9
X1: Tuổi của người tham gia. Đây là một biến liên tục, được đo lường bằng số
năm.
X2: Giới tính, biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 1 tức là nam, giá trị 0 tức
là nữ.
33
X3: Tình trạng hôn nhân, biến này thể hiện người tham gia đã lập gia đình hay
còn độc thân. Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là độc thân, giá trị 1 tức là
đã lập gia đình.
X4: Tình trạng việc làm. Biến này thể hiện người tham gia là người làm việc tự
do hay là làm việc cho một cơ quan, tổ chức. Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị
0 tức là làm việc tự do, tự kinh doanh, tự làm chủ, thất nghiệp. Giá trị 1 tức là làm
việc cho một cơ quan, tổ chức nào đó.
X5: Trình độ giáo dục. Biến này được chia thành hai nhóm, được tính theo số
năm đi học, nhóm có số năm đi học < 12 năm, nhóm có số năm đi học >= 12 năm.
Biến này nhận giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là có số năm đi học < 12 năm, giá trị 1
tức là có số năm đi học >= 12 năm.
X6: Thu nhập. Biến này được chia làm hai nhóm, nhóm có thu nhập < 10 triệu
VND/ tháng , nhóm có thu nhập >= 10 triệu VND/ tháng. Biến này nhận gia trị 0
hoặc 1. Giá trị 0 tức là có thu nhập < 10 triệu VND/ tháng, giá trị 1 tức là có thu
nhập >= 10 triệu VND/ tháng.
X7: Tiền sử bệnh. Biến này thể hiện người tham gia có bệnh mạn tính, bệnh
bẩm sinh hay không. Biến này nhận hai giá trị 0 hoặc 1. Giá trị 0 tức là không có
bệnh mạn tính hay bẩm sinh, giá trị 1 tức là có bệnh mạn tính hoặc bệnh bẩm sinh.
X8: Tác động của chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Không tác động nhận giá trị 0, có tác
động nhận giá trị 1.
X9: Tác động của thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Không tác động nhận giá trị 0, có tác
động nhận gia trị 1.
ε: Sai số ngẫu nhiên, thể hiện các yếu tố tác động lên biến Y mà ta không quan
sát được.
34
Các biến trong mô hình được thu thập theo những thông tin như sau:
Các biến trong mô hình thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ
Thông tin khảo sát Các biến trong mô
hình Tên Diển giải
Kiểm tra sức khỏe
định kỳ Có = 1, không = 0 Y
Tuổi Năm sinh X1
Giới tính Nam = 1, Nữ = 0 X2
Tình trạng hôn nhân Độc thân = 0, lập gia đình = 1 X3
Tự doanh, thất nghiệp = 0, làm việc cho
Tình trạng việc làm tổ chức = 1 X4
Số năm đi học < 12 = 0, số năm đi học
Trình độ giáo dục >= 12 = 1 X5
Thu nhập < 10 triệu = 0, thu nhập >= 10
Thu nhập triệu = 1 X6
Không có bệnh mạn tính, bẩm sinh = 0,
Tiền sử bệnh có = 1 X7
Tác động của chi phí
kiểm tra sức khỏe Không tác động = 0, tác động = 1 X8
Tác động của thời gian
kiểm tra sức khỏe Không tác động = 0, tác động = 1 X9
Vì biến phụ thuộc Y là biến dummy, chỉ nhận hai giá trị 0 hoặc 1. Mục tiêu
nghiên cứu trong phần định lượng là phân tích xu hướng tác động của các yếu tố,
tức là nghiên cứu sẽ thực hiện việc dự báo xác suất xảy ra việc thực hiện kiểm tra
sức khỏe định kỳ, dựa vào các thông tin từ các biến độc lập, như là độ tuổi, giới
tính, trình độ học vấn, thu nhập, tình trạng hôn nhân, tiền sử bệnh, tác động của thời
gian kiểm tra sức khỏe định kỳ,tác động giá của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,
35
phương thức thanh toán, tình trạng việc làm, và đo lường mức độ tác động của biến
độc lập lên việc thay đổi xác suất mà người dân thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ . Vì vậy để phù hợp với dạng thức của biến phụ thuộc Y và mục tiêu nghiên
cứu phần định lượng, nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy logistic. Mô hình
này được nhà thống kê học David R. Cox phát triển vào thập niên 1970s.
3.3.2 Thiết kế khảo sát.
3.3.2.1 Số lượng mẫu.
Khảo sát về việc thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân,
được thiết kế như một khảo sát đại diện đối với người 40 tuổi trở lên, hiện đang sinh
sống tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân trong mẫu điều tra
cần phải có xác suất được chọn như nhau. Điều này cho phép sử dụng dữ liệu thu
thập được để suy luận về tổng thể đằng sau đó. Tuy nhiên khảo sát này lại áp dụng
cách chọn mẫu thuận tiện có phân tầng, khảo sát cố gắng đa dạng hóa các đặc điểm
nhân khẩu, tình trạng việc làm,trình độ học vấn, mức thu nhập trong mẫu khảo sát,
vì vậy nghiên cứu ưu tiên khảo sát trong các quận huyện sau của Tp HCM: Quận 1,
Quận 10, Quận Tân Bình. Số bảng câu hỏi khảo sát được sử dụng là 300, chia đều
cho mỗi quận. Có 44 mẫu trả lời không hợp lệ. Các mẫu bị loại do người được điều
tra không cung cấp đầy đủ thông tin hoặc trả lời cùng lúc tất cả các lựa chọn, số
mẫu khảo sát hợp lệ còn lại 256, số liệu được thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau:
Số liệu mẫu khảo sát
Khu vực Số mẫu khảo Số mẫu hợp Số mẫu Phần
khảo sát sát lệ lỗi trăm
Quận 1 100 90 10 90%
Quận 10 100 88 12 88%
Quận TB 100 78 22 78%
Tổng 300 256 44
Tỉ lệ tổng thể của khảo sát đạt 85% , đây là tỉ lệ phiếu đạt yêu cầu đáng khích
lệ đối với người nghiên cứu. Tuy mức độ phần trăm của số mẫu hợp lệ giữa các
36
quận có sự chênh lệch, nhưng không lớn lắm, mức độ chênh lệch giữa quận 1 ( là
quận có tỉ lệ phần trăm đạt cao nhất ) với quận Tân Bình ( là quận có tỉ lệ phần trăm
đạt thấp nhất ) là 12 điểm phần trăm.
3.3.2.2 Phương pháp lấy mẫu.
Với phần nghiên cứu định lượng, theo giới chuyên gia và bác sỹ, đối tượng
cần đặc biệt quan tâm đến sức khỏe, phải thường xuyên thực hiện kiểm tra sức khỏe
định kỳ là giới trung niên từ bốn mươi tuổi trở lên, vì thế đối tượng nghiên cứu của
đề tài này là giới trung niên từ bốn mươi tuổi trở lên. Mẫu được chọn theo phương
pháp thuận tiện có phân tầng. Để đáp ứng được tính đa dạng trong cấu trúc dân số
tại Tp Hồ Chí Minh, tất cả các thành phần dân cư đều được khảo sát, ba quận của
Tp Hồ Chí Minh sẽ được chọn lấy mẫu đó là: quận 1, quận 10, quận Tân Bình.
Chọn mẫu ngẫu nhiên ở những nơi đông người, siêu thị, công viên, bệnh viện, khu
dân cư tập trung ( các khu chung cư, các tòa nhà…), số lượng mẫu được lấy là 300
mẫu, phân bố đều cho mỗi quận là 100 mẫu. Với mức chi phí kiểm tra sức khỏe
định kỳ hiện nay giao động từ 1,200,000vnd đến 3,500,000vnd cho một lần kiểm tra
sức khỏe định kỳ, với mức chi phí trên, theo các chuyên gia, người có thu nhập từ
10,000,000vnd/tháng trở lên khả năng họ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều
hơn người có thu nhập dưới 10,000,000vnd/tháng, vì vậy người nghiên cứu thực
hiện khảo sát với biến thu nhập mang hai giá trị >= 10,000,000vnd và <
10,000,000vnd. Về trình độ học vấn, theo các chuyên gia, người có trình độ học vấn
từ 12 năm trở lên có khả năng hiểu về lợi ích của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ
hơn đối với người có học vấn ít hơn 12 năm, vì vậy nghiên cứu khảo sát biến học
vấn với hai giá trị, >=12 năm và < 12 năm.
Đội ngũ khảo sát viên gồm ba người, mỗi người phụ trách khảo sát mỗi quận
theo như được phân công. Người nghiên cứu sẽ là người giám sát, phân loại, đánh
giá các phiếu khảo sát được nộp về từ các khảo sát viên và xử lý dữ liệu sau khi đã
hoàn thành việc khảo sát. Việc khảo sát được thực hiện với bảng câu hỏi đã được
chuẩn bị trước, khảo sát viên có 5 phút để tiếp xúc với mẫu được chọn, giới thiệu về
mình, về chương trình và tiến hành phỏng vấn điền phiếu. Phỏng vấn viên có nhiệm
37
vụ giải thích các khái niệm cho người được phỏng vấn, nếu họ không hiểu, cần phải
giải thích rõ ràng để có được thông tin một cách chính xác nhất. Vào cuối mỗi ngày
khảo sát, các phỏng vấn viên cần ngồi lại với người nghiên cứu, để giải quyết những
vấn đề mới phát sinh trong ngày phỏng vấn, rút kinh nghiệm cho ngày phỏng vấn
tiếp theo.
Các tiêu chí, cấu trúc bảng câu hỏi phỏng vấn cho phần nghiên cứu định
lượng, có được từ kết quả của phần nghiên cứu định tính. Từ kết quả nghiên cứu
định tính, người nghiên cứu sẽ xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, từ đó người nghiên cứu sẽ
xác định tính khả thi của các yếu tố này trong thực trạng khảo sát, trong phạm vi
của nghiên cứu này, từ đó người nghiên cứu sẽ lập nên bảng câu hỏi được dùng cho
phần nghiên cứu định lượng, qua đó định hình được khung phân tích và các biến
cho phương trình hồi quy phục vụ cho việc phân tích định lượng của nghiên cứu.
3.3.2.3 Tổng hợp dữ liệu.
Các bảng khảo sát được tập trung về cho người nghiên cứu, người nghiên cứu
tiến hành phân loại các bảng khảo sát hợp lệ và không hợp lệ. Người nghiên cứu
tiến hành nhập liệu theo như những mã hóa đã được quy định.
3.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3, người nghiên cứu giải thích trình tự thực hiện đề tài bằng lược đồ.
Trình tự thực hiện đề tài từ việc chọn mẫu cho việc phỏng vấn tay đôi, người nghiên
cứu đã chọn mẫu là các chuyên gia, bác sỹ và những người có khả năng quyết định
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, nêu lên ý nghĩa của mẫu được chọn,
phương pháp phỏng vấn tay đôi, hệ thống các câu hỏi cho từng đối tượng mẫu riêng
biệt. Tổng hợp thông tin từ các cuộc phỏng vấn theo các tiêu chí có tỉ lệ trùng khớp
cao, kết quả của quá trình nghiên cứu định tính, xác định các yếu tố tác động, đưa ra
bảng câu hỏi cho việc khảo sát định lượng.
Xác định được mô hình nghiên cứu cho nghiên cứu định lượng, xác định
được trạng thái các biến trong mô hình định lượng. Lựa chọn mô hình hồi qui
Logistic dùng cho nghiên cứu định lượng. Đưa ra phương pháp lấy mẫu cho việc
38
khảo sát của nghiên cứu định lượng, phương pháp khảo sát dựa theo bảng câu hỏi
có được từ nghiên cứu định tính. Thành lập bộ dữ liệu định lượng phục vụ cho
nghiên cứu.
39
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH
4.1.1 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với giới chuyên gia, bác sỹ.
Ý kiến chuyên gia, bác sỹ Tiêuchí Yếu tố ảnh hưởng đến quyết
phỏng vấn định Số ý kiến Tỉ lệ
kiển tra sức khỏe định kỳ tán thành phần trăm
Từ 40 tuổi trở lên 7 70%
Có thu nhập khá 8 80%
Thường là nữ 6 60% Đối tượng
Trình độ giáo dục trên PTTH 6 60% tham gia
Làm việc cho các cơ quan, tổ
chức 9 90%
Bệnh phụ nữ 4 40%
Bệnh lão 4 40% Tình trạng
Bệnh mạn tính 9 90% sức khỏe
Bệnh bẩm sinh 9 90%
Thời gian chờ lâu 7 70%
Chất lượng
dịch vụ Chi phí cao 6 60%
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy, trong nhiều yếu tố mà các chuyên gia và bác
sỹ đề cập đến, các yếu tố trên được hầu hết các chuyên gia, bác sỹ cùng đồng ý.
Như khi nói đến vấn đề độ tuổi thường tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, 70% số
chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng độ tuổi trung bình là từ 40 tuổi trở lên. Theo các
chuyên gia về sức khỏe, những người từ độ tuổi bốn mươi trở lên cần được đặc biệt
quan tâm và chăm sóc về sức khỏe. Bởi ở độ tuổi này sức đề kháng và khả năng hấp
thu dinh dưỡng đã giảm nhiều, các chức năng của cơ thể cũng không còn hoạt động
tốt như trước, do đó người ở độ tuổi này rất dễ mắc bệnh. Ở nữ giới trong độ tuổi
40
này thường mắc các bệnh như: loãng xương, ung thư vú, ung thư tử cung, cao huyết
áp, xương khớp, nhiễm khuẩn đường sinh sản, ở nam giới trong độ tuổi này thường
mắc phải các bệnh như: mỡ máu, huyết áp, dạ dày, cột sống, tiểu đường, nhồi máu
cơ tim,…Các chuyên gia về sức khỏe khuyên rằng với những người từ độ tuổi bốn
mươi trở lên nên kiểm tra sức khỏe định kỳ thường xuyên cho dù có bệnh hay
không, việc làm này không chỉ để đảm bảo cho sức khỏe hiện tại mà còn sớm phát
hiện các dấu hiệu bệnh nhằm giảm thiểu rủi ro và chi phí trong điều trị. 80%
chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng những người tự nguyện tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ đều là những người có thu nhập khá, thường từ 10 triệu VND/ tháng trở lên.
60% chuyên gia, bác sỹ đồng ý rằng nữ giới thường tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ nhiều hơn nam giới, vì từ độ tuổi 40 trở lên, nữ giới có xu hướng mắc bệnh
nhiều hơn nam giới. Đối với những người có trình độ giáo dục trên bậc trung học,
họ có ý thức tốt hơn về sức khỏe của mình, đồng thời họ có nhiều điều kiện hơn đối
với những người có trình độ giáo dục dưới bậc trung học về việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ, 60% chuyên gia và bác sỹ đều đề cập và đồng ý về yếu tố này. Hiện nay ở
nước ta đối tượng tự nguyện tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ còn khá ít, hầu hết
các cá nhân tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là theo yêu cầu của cơ quan tổ chức
nơi họ làm việc, 90% ý kiến của giới chuyên gia và bác sỹ được phỏng vấn đều
đồng ý về yếu tố này.
Theo như các cuộc phỏng vấn với giới chuyên gia, bác sỹ, những người có
bệnh mạn tính, bệnh bẩm sinh ( đọc thêm ở phần phục lục về bệnh mạn tính và bệnh
bẩm sinh ), họ phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ theo chỉ định của bác
sỹ, đây là một việc làm bắt buộc để theo dõi diễn tiến của bệnh, nhằm có phát đồ
điều trị thích hợp, 90% giới chuyên gia, bác sỹ đều nêu ý kiến về yếu tố này và
đồng tình với nó.
Về vấn đề chất lượng dịch vụ mà các bệnh viện, trung tâm y tế cung cấp cho
người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ tại Tp Hồ Chí Minh, qua những cuộc
khảo sát, phỏng vấn, hầu hết giới chuyên gia và bác sỹ đều cho rằng, về hiệu quả
của việc ngăn ngừa bệnh tật thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, trình độ của
41
chúng ta hiện nay ngang bằng với các nước tiên tiến trên thế giới, những người
tham gia kiểm tra sức khỏe hầu hết đều tin tưởng về kết quả mà họ nhận được từ
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Có hai yếu tố lớn hiện nay của các hệ thống bệnh
viện và các trung tâm y tế luôn làm ảnh hưởng đến quyết định tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ của người dân, đó là thời gian chờ đợi lâu, chi phí cho việc tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ còn cao so với mặt bằng thu nhập chung của đa số người
dân, với yếu tố chờ đợi lâu đến 70 % chuyên gia, bác sỹ đề cập đến vấn đề này, với
yếu tố chi phí của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ còn cao so với thu nhập bình quân
của người dân có đến 60% giới chuyên gia, bác sỹ có ý kiến về vấn đề này, hai yếu
tố này tác động khá mạnh đến quyết định thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân, vì lúc này họ chưa có triệu chứng bệnh nên tâm lý trì hoãn thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ là khá lớn, nếu không có động cơ khuyến khích hay bắt
buộc, họ thường xuyên không thực hiện cho đến khi xuất hiện triệu chứng bệnh.
Theo ý kiến của các chuyên gia,bác sỹ, để người dân chủ động trong việc kiểm
tra sức khỏe định kỳ và hiểu được các lợi ích có được từ việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ, đòi hỏi người dân cần phải có một kiến thức nhất định về các cách bảo vệ
sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống qua những hoạt động, ăn uống mỗi ngày,
hiểu được và phân biệt được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật và điều
trị bệnh tật, nếu người dân hiểu được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật,
cuộc sống của họ sẽ khỏe mạnh và hạnh phúc hơn rất nhiều, nếu người dân không
phân biệt được hiệu quả của việc ngăn ngừa nguy cơ bệnh tật với điều trị bệnh, họ
không bao giờ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ để ngăn ngừa nguy cơ bệnh, họ
chỉ đến bệnh viện, các trung tâm y tế khi bệnh đã phát tác, biểu hiện ra bằng những
cơn đau, sức khỏe của họ lúc này đã bị giảm đi rất nhiều, và chi phí điều trị cũng
tăng lên.
42
4.1.2 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với người có khả năng quyết định việc kiểm
tra sức khỏe định kỳ.
Ý kiến người
dân
Tiêuchí Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định Sốý
phỏng vấn kiển tra sức khỏe định kỳ kiến Tỉ lệ
tán phần
thành trăm
Quan tâm nhiều đến sức khỏe 8 80% Ý thức về sức
Tập thể thao 7 70% khỏe, tìm hiểu
Không dùng chất gây hại 5 50% thông tin về
Thực hiện an toàn thực phẩm 3 30% sức khỏe,
Không đồng ý làm việc trong môi trường độc không dùng
hại 7 70% chất gây hại
Đồng ý làm việc trong môi trường độc hại 3 30%
Tự nguyện thực hiện kiểm tra sức khỏe 3 30% Hiểu, sẵn sàng
Thực hiện theo cơ quan, tổ chức 5 50% chi tiêu cho
Sẵn sàng thực hiện nếu chi phí giảm 6 60% việc thực hiện
Sẵn sàng thực hiện nếu được tài trợ 8 80% kiểm tra sức
khỏe định kỳ Sẵn sàng thực hiện nếu không chờ đợi lâu 7 70%
Không thích chờ đợi 7 70% Lý do thực
Chưa cần thiết 2 20% hiện, không
Chi phí cao 7 70% thực hiện
Sợ đề cập tới bệnh tật 2 20% kiểm tra sức
khỏe định kỳ. Thực hiện vì bắt buộc 5 50%
Qua bảng tổng hợp các tiêu chí trong cuộc phỏng vấn giữa người nghiên cứu
với những người có khả năng quyết định tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, ta
thấy rằng, hầu hết những người được hỏi đều quan tâm đến sức khỏe của mình,
43
chiếm 80% số người được hỏi, họ cũng có những hành vi duy trì và bảo vệ sức khỏe
của mình như tập thể thao chiếm 70% số người được hỏi, không dùng chất gây hại,
chất kích thích chiếm 50% số người được hỏi. Hầu hết những người luôn quan tâm
đến sức khỏe của mình, họ luôn tìm một phương thức nào đó, phù hợp với môi
trường và điều kiện của họ để đảm bảo sức khỏe cho mình, họ không còn suy nghĩ
về sức khỏe như là cái gì đó không thể kiểm soát được, do may mắn hoặc không
may mắn mà ta được khỏe mạnh hay bị ốm đau. Họ sẵn sàng từ bỏ môi trường lao
động độc hại để đảm bảo cho sức khỏe của mình, họ tin rằng họ sẽ tìm được việc
khác với môi trường làm việc tốt hơn,
Với những người có trình độ học vấn cao hơn ( trên bậc Phổ thông trung học )
, với mức thu nhập hàng tháng tốt hơn( thường là trên 10 triệu đồng/ tháng ), ngoài
những hoạt động có lợi cho sức khỏe, họ còn tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ,
họ hiểu được về việc làm thế nào để hạn chế rủi ro bệnh tật, họ nghĩ rằng họ làm
như vậy tức là họ sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Tuy nhiên hầu hết
những người này hiện nay tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ theo chương trình
của nơi họ làm việc, chiếm 50% số người được phỏng vấn.
Với những người có trình độ học vấn trên trung học, mức thu nhập từ 10 triệu
đồng/ tháng trở lên nhưng họ là những người hoạt động kinh doanh tự do, tự làm
cho riêng mình, họ luôn quan tâm đến sức khỏe của mình, họ tham gia các hoạt
động có lợi cho sức khỏe, nhưng họ chưa sẵn sàng chi trả cho việc kiểm tra sức
khỏe định kỳ, đối với họ còn nhiều yếu tố làm họ đắn đo trong quyết định của mình,
các yếu tố họ thường đề cập đến như là, hiện nay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là
chưa cần thiết đối với họ, thời gian chờ đợi cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ tại
các bệnh viện, trung tâm y tế làm họ tiêu tốn nhiều thời gian, chi phí cho việc kiểm
tra sức khỏe định kỳ hiện nay còn cao, với chi phí này họ chỉ sẵn sàng thực hiện khi
có dấu hiệu, triệu chứng của bệnh. Họ có ý thức về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe
định kỳ nhưng luôn trì hoãn nó mỗi khi đề cập đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ,
kiểm tra sức khỏe định kỳ hiện nay chưa là vấn đề cấp thiết đối với họ. Nhưng khi
được hỏi nếu chi phí cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hiện nay giảm còn một
44
nữa, có đến 60% nói là sẽ thực hiện ngay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, nếu việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ được tài trợ ( họ không mất chi phí khi thực hiện ) 80%
trong số họ sẽ thực hiện ngay việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. 70% sẽ thực hiện việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ, nếu họ không mất quá nhiều thời gian cho việc này. Qua
đó ta thấy yếu tố giá của việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ, yếu tố thời gian
chờ đợi tác động đến quyết định có thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức
khỏe định kỳ.
Vì dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ là một loại hình dịch vụ đặc biệt, người
sử dụng dịch vụ này sẽ không có cảm nhận trực tiếp khi sử dụng dịch vụ, nếu khi sử
dụng dịch vụ không phát hiện được bệnh vì họ không có bệnh, trạng thái tâm lý của
họ trước và sau khi sử dụng dịch vụ đều như nhau, và họ nghĩ rằng họ đã chi tiêu vô
ích cho dịch vụ này. Nếu khi sử dụng dịch vụ này bệnh của họ được phát hiện, tùy
theo mức độ nặng, nhẹ, trạng thái tâm lý của họ sẽ buồn hơn so với trước khi sử
dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ, họ có suy nghĩ tiêu tốn chi phí để tìm kiếm
những điều không may và buồn phiền. Hoàn toàn khác với việc sử dụng dịch vụ y tế
cho việc điều trị bệnh, khi họ đến với bệnh viện, trung tâm y tế khi đang bị bệnh,
triệu chứng của bệnh đã được thể hiện trên cơ thể họ, như đau đớn, khó chịu, nguy
hiểm tính mạng…họ sẵn sàng chi trả để cơ thể họ hết đớn đau, hết khó chịu, tính
mạng không còn bị nguy hiểm, hết bệnh tật, họ chi trả và cảm nhận được trực tiếp
lợi ích của dịch vụ y tế mà họ đã sử dụng. Nhưng đối với dịch vụ kiểm tra sức khỏe
định kỳ thì họ không cảm nhận được lợi ích của việc sử dụng dịch vụ một cách trực
tiếp như vậy. Họ đang trong trạng thái khỏe mạnh, họ lo lắng, sợ hải khi đề cập đến
bệnh tật trên chính bản thân họ. Đây là một rào cản mang tính tâm lý rất lớn cho
loại hình dịch vụ này.
45
4.1.3 Bảng tổng hợp chung của hai đối tượng phỏng vấn là giới chuyên gia, bác sỹ
với người có khả năng thực hiện quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Yếu tố tác động đến quyết định thực hiện Tổng hợp ý kiến
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân Chuyên người
gia,bác sỹ dân
Từ 40 tuổi trở lên 70%
Có thu nhập khá 80% 70%
Thường là nữ 60%
Trình độ giáo dục trên PTTH 60%
Làm việc cho các cơ quan, tổ chức 90% 50%
Bệnh mạn tính 90% 100%
Bệnh bẩm sinh 90% 100%
Chi phí cao 70% 70%
Thời gian chờ lâu 60% 70%
Đã có gia đình 80%
Qua bảng tổng hợp trên cho ta biết được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, được tổng hợp từ các cuộc
phỏng vấn của giới chuyên gia, bác sỹ và của người dân. Đây là những yếu tố mà
hầu hết các đối tượng phỏng vấn đề cập đến. Những yếu tố này sẽ giúp người
nghiên cứu định hình các biến trong phần nghiên cứu định lượng của mình.
46
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG.
4.2.1 Thống kê mô tả.
Trong đó, giới tính mang giá trị 0 là nữ, giới tính mang giá trị 1 là nam.
Qua bảng phân tích trên cho ta thấy rằng: Giới tính nữ là 163 mẫu, chiếm
63,67% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 mẫu. Giới tính nam là 93 mẫu, chiếm
36,33% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 mẫu.
47
Từ bảng kết quả phân tích trên cho ta thấy rằng: độ tuổi lớn nhất trong mẫu
khảo sát sinh năm 1951 ( 64 tuổi ) có 2 mẫu khảo sát, chiếm 0,78%. Độ tuổi nhỏ
nhất trong mẫu khảo sát sinh năm 1975 ( 40 tuổi ) có một mẫu khảo sát, chiếm
0,39%. Qua đó ta thấy dữ liệu khảo sát đáp ứng với nhu cầu nghiên cứu, đối tượng
được khảo sát phải từ 40 tuổi trở lên. Nếu như phân nhóm những người sinh trong
thập niên 50 ( tức là từ 1950 đến 1959 ), những người sinh trong thập niên 60 ( tức
48
là 1960 dến 1969 ) và những người sinh trong thập niên 70 ( tức là từ 1970 đến
1979 ) ta có các số liệu sau:
Năm sinh Chỉ số khảo sát
Số mẫu khảo sát Phần trăm
Thập niên 50 34 13,27%
Thập niên 60 142 55,46%
Thập niên 70 80 31,27%
Qua bảng phân tích trên ta thấy được rằng mẫu khảo sát sinh vào thập kỷ 60
chiếm tỉ lệ cao nhất 142 mẫu, 55,46%, đây là tầng lớp trung niên của xã hội, ở độ
tuổi này ( 55 tuổi đến 46 tuổi ) hầu hết đã có cuộc sống ổn định, Vì vậy họ có nhiều
điều kiện thời gian và vật chất để quan tâm đến sức khỏe của mình. Đứng thứ nhì là
số mẫu sinh vào thập niên 70, với số mẫu là 80, chiếm 31,27%, đây cũng là độ tuổi
hầu hết có cuộc sống ổn định nên có nhiều cơ hội cho việc chăm sóc sức khỏe của
mình. Số mẫu thấp nhất là những người sinh vào thập niên 50, với số mẫu 34,
chiếm 13,27% trong tổng số mẫu quan sát.
Với biến học vấn, giá trị 0 tức là có thời gian học ít hơn 12 năm cần thiết để
hoàn thành bậc phổ thông, giá trị 1 tức là có thời gian học bằng và lớn hơn 12 năm
học ( đã hoàn thành bậc trung học hoặc hơn. ). Qua đó ta thấy, số mẫu quan sát
không có sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn trong tổng thể các mẫu quan sát,
mẫu quan sát có thời gian học < 12 năm là 115 mẫu, chiếm 44.92%, mẫu quan sát
có thời gian học >= 12 năm là 141 mẫu, chiếm 55.08%.
49
Với biến hôn nhân, giá trị 0 tức là chưa lập gia đình, giá trị 1 tức là đã lập gia
đình. Ta thấy mẫu quan sát ở tình trạng chưa kết hôn là 103 quan sát, chiếm
40.23%, mẫu quan sát ở tình trạng kết hôn là 153 quan sát, chiếm 59.77% trong
tổng thể các mẫu quan sát là 256 quan sát.
Với biến việc làm, giá trị 0 tức là kinh doanh tự do, tự làm chủ, không đi làm
cho các cơ quan tổ chức khác, giá trị 1 tức là đi làm cho các cơ quan tổ chức. Từ
bảng phân tích trên cho ta thấy số mẫu quan sát của các đối tượng kinh doanh tự do
là 112 quan sát, chiếm 43.75%, đối tượng công nhân viên chức, đi làm cho các công
ty, cơ quan, xí nghiệp là 144 quan sát, chiếm 56.25% trong tổng thể 256 mẫu quan
sát.
50
Với biến thu nhập, giá trị 0 tức là có thu nhập dưới 10 triệu VND trong một
tháng, giá trị 1 tức là có thu nhập từ 10 triệu VND trở lên trong một tháng. Qua
bảng phân tích trên ta thấy số mẫu quan sát có thu nhập ít hơn 10 triệu VND là 171
quan sát, chiếm 66.8%, số mẫu quan sát có thu nhập từ 10 triệu VND trở lên 85
quan sát, chiếm 33.2% trong tổng thể quan sát là 256 quan sát.
Với biến kiểm tra sức khỏe, đây là biến phụ thuộc Y, biến này nhận giá trị 0
tức là không thực hiên việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến này nhận giá trị 1 tức là
có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng,
đối tượng quan sát không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là 80 quan sát,
chiếm 31.25%, đối tượng quan sát có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là
176 quan sát, chiếm 68.75% trong tổng thể mẫu quan sát là 256 quan sát.
51
Với biến bệnh, biến này nhận giá trị 0 tức là đối tượng quan sát không có bệnh
bẩm sinh hoặc bệnh mạn tính, biến này nhận giá trị 1 tức là đối tượng quan sát có
bệnh bẩm sinh hoặc mạn tính. Qua bảng phân tích trên cho ta thấy rằng, đối tượng
mẫu quan sát không có bệnh bẩm sinh hay mạn tính là 116 quan sát, chiếm 45.31%,
đối tượng quan sát có bệnh bẩm sinh hoặc mạn tính là 140 quan sát, chiếm 54.69%
trong tổng thể các mẫu quan sát là 256 quan sát.
Theo ý kiến của các chuyên gia của các bệnh viện lớn ở Tp HCM mà
người nghiên cứu có tham vấn, khi một người có bệnh bẩm sinh hoặc bệnh mạn tính
thì họ phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ theo sự chỉ định của các bác sỹ,
đây là một điều bắt buộc để theo dõi diễn tiến của bệnh, nhằm có phát đồ điều trị
thích hợp.
Với biến giá, biến này nhận hai giá trị 0 và 1. Biến giá nhận giá trị 0 tức là giá
của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ không tác động đến quyết định của người tham
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến này nhận giá trị 1 tức là giá của việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ có tác động lên quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ. Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng, đối tượng được quan sát có bị tác
52
động bởi giá của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là 129 quan sát, chiếm 50.39%, đối
tượng được quan sát không bị tác động bởi giá của việc tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ là 127 quan sát, chiếm 49.61%, trong tổng thể 256 quan sát.
Biến thời gian, biến này nhận giá trị 0 và 1. Biến thời gian nhận giá trị 0 tức là
yếu tố thời gian trong quá trình chờ đợi và kiểm tra sức khỏe định kỳ không tác
động đến quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, biến nhận giá
trị 1 tức là yếu tố thời gian chờ đợi và kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến
quyết định của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Qua bảng phân tích trên,
ta thấy 80quan sát không bị tác động bởi yếu tố thời gian, chiếm 31.25%, số quan
sát có bị tác động bởi yếu tố thời gian khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là 176
quan sát, chiếm 68.75% trong tổng thể quan sát 256.
Qua bảng phân tích trên ta thấy: Với 171 người có thu nhập trên 10 triệu VND
trong một tháng , trong đó có đến 137 người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
chiếm 80.12%, số còn lại không tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là 34 người,
chiếm 19.88%. Ta có thể nói, đa số người có thu nhập cao từ 10 triệu đồng/ tháng
trở lên thường là họ có tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
53
Từ bảng phân tích trên ta thấy: Với những người có số năm đi học > = 12 năm,
việc họ thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ chiếm 69.5%, vẫn còn một thành phần
không nhỏ ngưởi có số năm đi học >= 12 năm nhưng không thực hiện việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ, nó chiếm một tỷ lệ 30.5%.
Qua bảng phân tích trên, ta thấy rằng: với những người tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ, có đến 55.11% là quyết định của họ bị tác động bởi yếu tố giá của
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, số còn lại không bị tác động bởi yếu tố giá là
44.89%.
54
Từ bảng phân tích trên ta thấy rằng: Đối với những người tham gia kiểm tra
sức khỏe định kỳ thì có đến 64.77% số người bị tác động bởi thời gian chờ đợi và
thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, 35.23% còn lại là không bị tác động.
Qua đó ta thấy rằng số người bị yếu tố thời gian chờ đợi khi tham gia kiểm tra
sức khỏe định kỳ tác động nhiều hơn số người bị yếu tố giá cả của việc kiểm tra sức
khỏe định kỳ tác động.
Qua bảng phân tích trên ta thấy rằng: Số người làm việc cho các công ty, cơ
quan, tổ chức thì tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn số người kinh doanh
tự do. Số người làm việc cho các cơ quan tổ chức tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ chiếm đến 70.45%, số người làm việc tự do, tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
là 29.55%.
55
Qua hai bảng phân tích trên ta thấy rằng tỷ lệ phần trăm tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ của nữ cao hơn của nam, cụ thể là tỷ lệ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
của nữ chiếm 79.75%, trong khi đó tỷ lệ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của
nam chỉ có 49.46%.
Qua bảng phân tích trên ta thấy, 59.48% người khỏe mạnh, quan tâm đến sức khỏe
của họ và tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
56
4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Logistic.
Qua bảng phân tích trên ta thấy với độ tin cậy 10%, biến năm sinh có P >z =
0.2 vì vậy biến năm sinh không có ý nghĩa thống kê. Người nghiên cứu loại bỏ biến
thống kê năm sinh và chạy lại mô hình hồi quy như sau:
57
Bảng phân tích trên cho thấy, giá trị pseudo R2 = 0.406, cho thấy 40% quyết
định về việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân được giải thích bởi sự thay
đổi của các biến trong mô hình. Với độ tin cậy 10%, ta thấy có 8 biến tác động đến
quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân có ý nghĩa thống kê, gồm các
biến: Giới tính, học vấn, hôn nhân, việc làm, thu nhập, trình trạng bệnh tật, tác động
của giá đến quyết định của người dân, tác động của thời gian chờ đợi và thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ đến quyết định của người dân.
Giải thích các biến có ý nghĩa như sau:
58
Biến giới tính với p > z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu âm, có nghĩa là
biến giới tính ít có xu hướng làm tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân.
Biến học vấn với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu âm, có nghĩa là
biến học vấn ít có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân.
Biến hôn nhân với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có
nghĩa là biến hôn nhân có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe
định kỳ của người dân.
Biến việc làm với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa
là biến việc làm có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân.
Biến thu nhập với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa
là biến thu nhập có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân.
Biến bệnh tật với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa
là biến bệnh tật có xu hướng làm tăng xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân.
Biến tác động của thời gian chờ, với p > Z nhỏ hơn 0.1, và hệ số Coef mang
dấu âm, có nghĩa là biến tác động của thời gian chờ đợi cho việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ ít có xu hướng tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân.
Biến tác động của chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ, với p > Z nhỏ hơn 0.1, và
hệ số Coef mang dấu dương, có nghĩa là biến tác động của chi phí cho việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ có xu hướng tăng xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân.
Để biết được tác động định lượng của các biến giải thích lên biến phụ thuộc như thế
nào, chúng ta cần biết được tác động biên và tác động trung bình của mô hình, cụ
thể như sau:
59
Qua bảng phân tích trên ta thấy:
Hệ số dy/dx của biến giới tính là -0.27, giá trị này cho chúng ta biết được
rằng xác suất người nam tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thấp hơn 0.27 so với
người nữ.
Hệ số dy/dx của biến học vấn là -0.20, giá trị này cho chúng ta biết rằng,
người có học vấn từ bậc trung học trở lên có xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ thấp hơn 0.2 so với người có học vấn thấp hơn bậc trung học. Tình trạng
này được giải thích như sau: Vì cách chọn mẫu của nghiên cứu này không đáp ứng
đúng tính ngẫu nhiên của mẫu, đồng thời số mẫu không đủ lớn để loại trừ các chênh
lệch. Vì vậy theo thống kê mô tả ta thấy: Trong 115 mẫu có học vấn dưới trung học
thì có đến 67% tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Trong 141 mẫu có học vấn từ
trung học trở lên có 69% tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tức là người có học
vấn trên trung học tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn người có học vấn
60
dưới trung học là 2 điểm phần trăm. Nhưng người có học vấn < 12 năm làm việc
cho các cơ quan chỉ chiếm 36%, trong khi người có học vấn >=12 làm việc cho các
cơ quan chiếm đến 72% và 70% người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là những
người làm việc cho các cơ quan. Qua đó ta thấy người có học vấn < 12 năm có tỉ lệ
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ nhiều hơn người có học vấn >= 12 năm.
Hệ số dy/dx của biến hôn nhân là 0.12 , giá trị này cho chúng ta biết rằng,
xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người lập gia đình cao hơn 0.12 so
với người chưa có gia đình.
Hệ số dy/dx của biến việc làm là 0.5 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác
suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có việc làm cao hơn 0.5 so với
người làm việc tự do hay thất nghiệp.
Hệ số dy/dx của biến thu nhập là 0.4 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác
suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có thu nhập >= 10 triệu vnđ cao
hơn 0.4 so với người có thu nhập < 10 triệu vnđ.
Hệ số dy/dx của biến bệnh là 0.2 , giá trị này cho chúng ta biết rằng, xác suất
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người có bệnh cao hơn 0.2 so với người
không có bệnh.
Hệ số dy/dx của biến tác động giá là 0.23 , giá trị này cho chúng ta biết rằng,
xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người bị tác động của giá cao hơn
0.23 so với người không bị tác động của giá. Tình trạng này được giải thích như
sau: Vì đến 75% người quan tâm đến giá là người tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ, những người không quan tâm đến giá thường là những người không tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ, chiếm 62%.
Hệ số dy/dx của biến tác động của thời gian chờ là -0.21 , giá trị này cho
chúng ta biết rằng, xác suất tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người bị tác
động của thời gian chờ thấp hơn 0.21 so với người không bị tác động bởi thời gian
chờ.
61
4.3 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Từ phương pháp nghiên cứu của chương 3, chương 4 người nghiên cứu có
những kết quả nghiên cứu: Từ các cuộc phỏng vấn các chuyên gia và người tham
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, qua thống kê và chọn lọc các tiêu chí có tỉ lệ đồng ý
cao, người nghiên cứu có được các yếu tố tác động: Giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, tình trạng việc làm, mức thu nhập, tình hình bệnh tật, tác động của
yếu tố giá kiểm tra sức khỏe định kỳ, tác động của yếu tố thời gian của việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ. Từ những yếu tố này, người nghiên cứu có được bảng câu hỏi
khảo sát cho nghiên cứu định lượng.
Kết quả nghiên cứu định lượng đã chỉ ra được mức độ tác động của các yếu tố
đến việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, thông qua mô hình hồi
quy Logistic. Thông qua thống kê mô tả người nghiên cứu có được các tỉ lệ của các
yếu tố trong việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Xu hướng tác
động nhiều nhất đến xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là:
tình trạng việc làm, mức thu nhập, tình trạng bệnh tật.
62
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu trên chúng ta thấy được rằng:
Ý thức của người dân về sức khỏe được nâng cao đáng kể, họ thường dùng
những biện pháp dân gian để bảo vệ sức khỏe của mình như là thể dục, thể thao, vệ
sinh an toàn thực phẩm…Để họ có thể sử dụng dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ
như là một trong những công cụ giảm thiểu rủi ro sức khỏe cho họ, chúng ta cần
thay đổi nhiều thứ mà nghiên cứu này đã chỉ ra.
Theo nghiên cứu, giới tính có xu hướng tác động lên việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ, theo thống kê mô tả của nghiên cứu chỉ ra rằng : nữ tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ nhiều hơn nam, trong khi thực tế cuộc sống nam tiếp xúc với nhiều
nguy cơ bệnh tật nhiều hơn nữ, như là rượu, bia, thuốc lá, cường độ lao động
nặng…Chúng ta cần phải tăng mục tiêu tuyên truyền giáo dục sức khỏe nhằm vào
nam giới nhiều hơn nữa, chúng ta cần có những chương trình tuyên truyền cụ thể
hơn phục vụ cho nam giới.
Theo nghiên cứu, tuổi tác cũng là một vấn đề trong quyết định kiểm tra sức
khỏe định kỳ của người dân. Thường khi bước vào độ tuổi 40 trở đi, con người ta
bắt đầu có những vấn đề về sức khỏe. Ở độ tuổi hiện nay người dân tham gia kiểm
tra sức khỏe định kỳ nhiều nhất là từ 45 tuổi trở lên, nhưng hầu hết lại là các đối
tượng làm việc cho các cơ quan , đơn vị, tổ chức. Để khuyến khích các cá nhân làm
việc tự do tham gia chương trình kiểm tra sức khỏe định kỳ ta cần phải có những
chính sách hỗ trợ phù hợp, các cơ quan chính sách nhà nước phối hợp với các cơ sở
y tế công ,tư đưa ra chương trình kiểm tra sức khỏe toàn dân, kêu gọi, khuyến khích
họ tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Hai yếu tố khá quan trọng tác động đến việc ra quyết định thực hiện việc kiểm
tra sức khỏe định kỳ đó là giá cả của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ và thời gian
của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Để giảm đi tác động của hai yếu tố này trong
việc ra quyết định kiểm tra sức khỏe đinh kỳ của người dân, chúng ta cần phải tính
lại mức giá dịch vụ phù hợp với mức sống của người dân, và cần phải rút ngắn thời
63
gian chờ đợi. Hiện nay chúng ta đang có chính sách nâng cao năng lực y tế của các
tuyến y tế cơ sở, để khuyến khích người dân khám chữa bệnh tại các tuyến cở sở,
giảm tải cho các trung tâm y tế tuyến trên, đây cũng là cách giảm thời gian chờ của
người dân khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Về giá cả của dịch vụ kiểm tra
sức khỏe định kỳ, giá hiện nay của các dịch vụ này thực ra là không cao, nhưng do
mức thu nhập hiện nay của người dân còn thấp, vì vậy đây là một chính sách vĩ mô
lớn, nhằm nâng cao mức sống của người dân, đồng thời chúng ta có thể khuyến
khích các cơ sở y tế công , tư thực hiện dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân dưới sự bảo trợ của ngân hàng ( đây là một hình thức cho vay để mua dịch vụ
kiểm tra sưc khỏe định kỳ.)
Từ phần nghiên cứu định tính chúng ta thấy rằng: người dân không thực hiện
việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là vì: rất e ngại chất lượng dịch vụ khi đến các trung
tâm y tế, họ chưa sẵn sàng ưu tiên chi trả cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ để
giảm thiểu rủi ro về sức khỏe, bộ phận y tế của ta chưa làm tốt việc tư vấn tâm lý
cho người bệnh trong thời gian chữa bệnh, họ chưa ý thức được rủi ro sẽ được giảm
thiểu như thế nào khi chúng ta phát hiện sớm mầm móng của bệnh. Đối với vấn đề
tâm lý người bệnh, phải chăng chúng ta cần có những đội ngũ chuyên nghiệp,
chuyên tư vấn tâm lý cho người bệnh, hoạt động song song hoặc độc lập với đội
ngũ bác sỹ, nhằm làm cho người bệnh luôn có một tâm lý đúng đắng, vững vàng
trong quá trình điều trị hay khi phát hiện bệnh. Về ý thức giảm thiểu rủi ro bệnh tật,
chúng ta nên đưa vào chương trình giáo dục phổ thông về quá trình diễn tiến của
bệnh và các rủi ro gặp phải khi phát hiện trễ, những hiệu quả đạt được khi ta ý thức
được bệnh tật và phát hiện sớm thông qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, đó là một
phần bắt buộc trong suốt quá trình của cuộc sống.
Về vấn đề chất lượng dịch vụ: Hiện nay hầu hết tất cả các trung tâm y tế tuyến
trên đều quá tải về công suất, một khi công suất bị quá tải, người khám chữa bệnh
thì đông nhưng nguồn lực y tế thì không đủ để đáp ứng, như thế chúng ta không thể
nào cải thiện được chất lượng dịch vụ y tế, để giải quyết được vấn đề về dịch vụ y
tế, chúng ta cần phải giải quyết được vấn đề quá tải bệnh viện. Nếu vì nguồn lực
64
nhà nước có hạn, không thể mở rộng đầu tư, tại sao chúng ta không sử dụng nguồn
lực của toàn xã hội, nguồn lực đầu tư bên ngoài. Chúng ta chỉ cần có những cơ chế
chính sách phù hợp, dùng những công cụ cần thiết của nhà nước để điều tiết, chúng
ta cần phải xã hội hóa, tư nhân hóa mạnh hơn nữa lĩnh vực y tế. Đồng thời chúng ta
cần phải đầu tư cơ sở vật chất, chất lượng y tế cho các tuyến cơ sở. Chúng ta có thể
đưa ra chính sách, đã là bác sỹ thì không phải chỉ là bác sỹ của bệnh viện nào đó,
mà là phải luân chuyển bác sỹ liên tục giữa các tuyến với nhau, đã là bác sỹ thì
không có biên giới tỉnh thành, phải luân chuyển theo lệnh điều động nhằm cân bằng
chất lượng y tế cho các tuyến, từ trung ương đến địa phương.
Về vấn đề khó khăn trong chi trả dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân, chúng ta cần huy động, kêu gọi hệ thống ngân hàng tham gia. Chúng ta cần có
chính sách phù hợp cho ngân hàng nào tham gia bảo lãnh cho người dân chi phí
kiểm tra sức khỏe định kỳ, khuyến khích, đề ra những công cụ chính sách cho các
hệ thống chăm sóc sức khỏe và hệ thống ngân hàng kết hợp với nhau . Thực thi
nghiêm túc các công cụ giám sát để tránh các tình trạng thông đồng cấu kết giữa các
đơn vị tham gia, làm tổn hại đến lợi ích chung của quốc gia.
Một khi trong mỗi người dân, ai cũng giành ra một phần thời gian, chi phí để
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, ai cũng ý thức được rằng đây là một phần tất
yếu của cuộc sống, thì sức khỏe của toàn xã hội sẽ được nâng cao, xã hội sẽ tiết
kiệm được biết bao nhiêu chi phí trong việc điều trị bệnh, ngăn được biết bao nhiêu
gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn . Đó là một yếu tố trong rất nhiều yếu tố để đi
đến một xã hội khỏe mạnh và hạnh phúc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Tiếng Anh
1. Anh, Thi Kim Le (2013), Health and access to health services of rural-to-
urban migrant populations in Viet Nam. Basel.
2. Ariely & Wertenbroch, K. (2008), How behavioral decision research can enhance consumer welfare: From freedom of choice to paternalistic intervention.Marketing Letters, 19(3-4), 383-397.
3. Christopher Dougherty (2007), Introduction to Econometrics(third edition),
Oxford Pub.
4. Evashwick, C., Rowe, G., Diehr, P., & Branch, L. (1984), Factors explaining the use of health care services by the elderly. Health Services Research,19(3), 357.
5. Grossman, M. (1972), On the concept of health capital and the demand for
health. The Journal of Political Economy, 223-255.
6. J. Scott Long (2007), Regression Models for Categorical and Limited
Dependent Variables.A Stata Press Publication.
7. James Lubitz, M.P.H., Liming Cai, Ph.D., Ellen Kramarow, Ph.D., and Harold Lentzner, Ph.D (2003), Health, Life Epectancy, and Health Care Spending among the Elderly. The New England Journal of Medicine, September.
8. Jaana Marja Muurinen (1982), Demand for health: A generalised Grossman
model. Journal of Health Economic.
9. Mooney, G. (1998), Beyond health outcomes: the benefits of health
care.Health Care Analysis, 6(2), 99-105.
10. M. R. Haas (2002), The benefits of health care beyond health: An exploration of non-health outcomes of health care. University of Sydney.
11. Smith, J. P. (1999), Healthy bodies and thick wallets: the dual relation between health and economic status. The journal of economic perspectives: a journal of the American Economic Association, 13(2), 144.
12. Victor R. Fuchs (1996), Economic, Values, and Health Care Reform. The
American Economic Review.
13. World Bank ( 1993 ), World development report 1993, World Bank,
Washington, DC.
14. Ware, J. E., Bayliss, M. S., Rogers, W. H., Kosinski, M., & Tarlov, A. R. (1996), Differences in 4-year health outcomes for elderly and poor, chronically III patients treated in HMO and fee-for-service systems: results from the medical outcomes study. Jama, 276(13), 1039-1047.
15. World Health Organization(2007), Strengthening Health Systems to
Improve Health Outcomes. World Health Organization.
16. Woolbridge, J.M. (2005), Introductory Econometrics – A Modern
Approach. South-Western College Pub.
17. Zweifel, P., Breyer, F., & Kifmann, M. (2009), Health economics. Springer
Science & Business Media.
Tiếng Việt.
1. Báo Nhân Dân ( 2012), Quá tải bệnh viện. < http://nhandan.com.vn>
2. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo (2010), Nguồn nhân lực Việt nam
3. Bộ Y Tế (2007), Thông tư số 13/2007/ TT – BYT về việc hướng dẫn kiểm
tra sức khỏe định kỳ
4. Đinh Phi Hổ, PhD ( 2014), Phương pháp nghiên cứu kinh tế và viết luận
văn Thạc sĩ. NXB Phương Đông.
5. Phạm Khánh Nam, PhD (2005), Kinh tế lượng ứng dụng cho các nhà kinh
tế học y tế.
6. Tổng cục Thống kê ( 2014), Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2014
7. Tổng Cục Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình (2014), Thực trạng dân số Việt
nam.
PHỤ LỤC 1
BẢNG CÂU HỎI DÙNG CHO PHỎNG VẤN TAY ĐÔI.
CÂU HỎI DÙNG CHO GIỚI CHUYÊN GIA, BÁC SỸ.
Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.
Nhóm câu hỏi để biết được thành phần xã hội của những người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
1. Độ tuổi trung bình của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 2. Độ tuổi nào nên tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 3. Có khác nhau về giới tính nam, nữ trong các độ tuổi tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ?
4. Giới tính nào nên thường xuyên tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ? 5. Người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thường hoạt động ở lĩnh vực nào? 6. Họ có hiểu được tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ ? 7. Họ có thực hiện hết các quá trình theo hướng dẫn của bác sỹ của việc kiểm
tra sức khỏe định kỳ?
8. Đối tượng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thường là cá nhân hay các tổ
chức?
Nhóm câu hỏi để biết được tình trạng sức khỏe của người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
1. Những căn bệnh nào thường được phát hiện khi tham gia kiểm tra sức khỏe
định kỳ?
2. Những người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, thường là vẫn còn khỏe
mạnh hay đã có triệu chứng đau bệnh?
3. Thể trạng sức khỏe như thế nào thì nên thường xuyên tham gia kiểm tra sức
khỏe định kỳ?
Nhóm câu hỏi để biết được chất lượng dịch vụ mà bệnh viện, các trung tâm y tế cung cấp cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
1. Chi phí của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ so với mức thu nhập bình quân
của người dân hiện nay thế nào?
2. Có bao nhiêu phương thức thanh toán được thực hiện cho việc kiểm tra sức
khỏe định kỳ?
3. Thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ cho một người mất bao lâu? 4. Mức độ tin cậy của kết quả của vệc kiểm tra sức khỏe định kỳ so với kết quả
của khám chuyên khoa thế nào?
5. Bác sỹ có thường xuyên tư vấn cho người tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ khi phát hiện bệnh nan y ?
PHỤ LỤC 2
BẢNG CÂU HỎI DÙNG CHO PHỎNG VẤN TAY ĐÔI
CÂU HỎI DÙNG CHO NGƯỜI THAM GIA .
Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.
Nhóm câu hỏi về nhân thân người tham gia
1. Năm sinh? 2. Nghề nghiệp? 3. Trình độ học vấn? 4. Mức thu nhập? 5. Nơi thường trú?
Nhóm câu hỏi về ý thức về sức khỏe của người tham gia.
1. Anh/ chị có thường hay thức khuya ? 2. Anh/ chị có chơi môn thể thao nào không? 3. Anh/chị có thường xuyên sử dụng chất kích thích gây hại chi sức khỏe
không?
4. Anh/ chị có thường xuyên ăn, uống ngoài đường không? 5. Hiện nay môi trường làm việc của anh/chị có độc hại ? 6. Anh/ chị có đồng ý làm việc trong môi trường độc hại nếu tăng thu nhập ? Nhóm câu hỏi về hiểu biết về tác dụng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, có thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, tại sao thực hiện và tại sao không thực hiện.
1. Anh/ chị có biết thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ là như thế nào không? 2. Thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ có giúp ích gì cho mình ? 3. Theo anh/chị mình có nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ không? 4. Bao lâu rồi anh chị không thực hiện/ thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ? 5. Anh/ chị có đồng ý giành một phần chi phí để trả cho việc kiểm tra sức khỏe
định kỳ không?
6. Nếu anh/chị được ưu đãi giảm giá cho việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, anh
chi có thực hiện nó không?
7. Tại sao anh/chị không thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ khi biết được nó
tốt cho sức khỏe của mình?
8. Nếu nó được thực hiện tại nhà hay nơi anh/chị làm việc, anh/chị có sẵn sàng
sử dụng dịch vụ này không?
PHỤ LỤC 3
DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA
1. ThS BS Lê Bảo Huy – Trưởng khoa khám bệnh, bệnh viện Thống Nhất. 2. PGS TS BS Bùi Hữu Hoàng – Trưởng khoa gan mật bệnh viện Đại Học Y
Dược HCM
3. TS BS Võ Quang Minh – Trưởng phòng khám mắt, đa khoa Ngọc Minh. 4. ThS BS Cao Xuân Minh – Giám đốc đa khoa Ngọc Minh. 5. ThS BS Trần Minh Trí – Khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức, bệnh viện Chợ
Rẫy.
6. BS Nguyễn Trần Huân – International SOS Viêtnam. 7. ThS BS Lê Long Hải – International SOS Vietnam. 8. ThS BS Trương Công Dũng – Khoa thể thao, bệnh viên 115. 9. ThS BS Cao Xuân Thục – Phó khoa hô hấp, bệnh viên Chợ Rẫy. 10. BS Lê Xuân Việt – Chuyên khoa nội, bệnh viện tỉnh Ninh Thuận.
PHỤ LỤC 4 PHIẾU KHẢO SÁT VIỆC THỰC HIỆN KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ CỦA NGƯỜI DÂN
Họ và tên nhân viên phỏng vấn: ______________________ Ngày phỏng vấn: ___/ ___/_____ Thời gian bắt đầu: ____ Thời gian kết thúc: _____ Họ và tên người trả lời phỏng vấn: --------------------------------------- Địa chỉ: ---------------------------------------------------- Phường:__________ Quận: __________ Thành phố: ___________ Xin chào Ông/Bà. Hiện chúng tôi đang thực hiện Đề tài nghiên cứu khoa học theo chương trình đào tạo Thạc sỹ Kinh tế Sức khỏe của trường Đại học Kinh tế Tp HCM. Khảo sát về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Khảo sát này chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu và chúng tôi cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi hi vọng Ông/Bà giúp trả lời câu hỏi, trung thực và khách quan nhất.
Hướng dẫn điền phiếu:
-Đối với những câu hỏi/mục lựa chọn, đề nghị Ông/Bà đánh dấu vào ô tương ứng với lựa chọn thích hợp nhất.
-Đối với câu hỏi yêu cầu điền thông tin, Ông/Bà vui lòng điền thông tin vào khoảng trống.
PHẦN 1: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NGƯỜI TRẢ LỜI THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI PHIẾU KHẢO SÁT Nam 2. Nữ
1. Giới tính: 1. 2. Tuổi: ( năm sinh )____________ 3. Trình độ học vấn ? ( Tính theo số năm đi học )
Ít hơn 12 năm. Nhiều hơn 12 năm. 1. 2.
4. Tình trạng hôn nhân? Độc thân Đã lập gia đình 1. 2.
5. Tình trạng việc làm?
Kinh doanh tự do, tự làm chủ Làm việc cho công ty, cơ quan, tổ chức. 1. 2.
6. Thu nhập trung bình hàng thángcủa Ông/Bà trong năm qua?
Dưới 10triệu đồng. Từ 10 triệu đồng trở lên. 1. 2.
7. Ông/ Bà có thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ? 1. 2. Có Không
8. Ông, Bà có bệnh mạn tính hay bệnh bẩm sinh ?
1. 2. Có Không
1. Có 2. Không
1. Có 9. Chi phí kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến quyết định của ông, bà? 10. Thời gian kiểm tra sức khỏe định kỳ có tác động đến quyết định của ông, bà? 2. Không
Cảm ơn Ông/Bà rất nhiều khi tham gia vào khảo sát này. Những thông tin Ông/Bà cung cấp rất quý giá đối với người nghiên cứu.Một lần nữa, chúng tôi xin cam đoan rằng các câu trả lời của Ông/Bà sẽ được giữ bí mật tuyệt đối và không được tiết lộ cho bất kỳ ai.
PHỤ LỤC 5
Nguồn: WHO Library – World Health Organization 2007.
Bệnh bẩm sinh và bệnh mạn tính:
Bệnh bẩm sinh: Theo phân loại quốc tế bệnh ( The international classification of diseases : ICD ) ( đây là công cụ chẩn đoán tiêu chuẩn cho dịch tễ học, quản lý sức khỏe và mục đích lâm sàng, được sử dụng tại tất cả các nước thành viên WHO ) ta có các bệnh bẩm sinh, biến dạng và bất thường về nhiễm sắc thể như sau:
Dị tật bẩm sinh của hệ thần kinh trung ương (Q00-Q07)
Congenital malformations of the nervous system (Q00-Q07)
Q00 Dị tật không não và các dị tật tương tự – Anencephaly and similar malformations Q01 Thoát vị não – Encephalocele Q02 Tật đầu nhỏ – Microcephaly Q03 Não úng thủy bẩm sinh – Congenital hydrocephalus Q04 Dị tật bẩm sinh khác của não – Other congenital malformations of brain Q05 Nứt đốt sống – Spina bifida Q06 Các dị tật bẩm sinh thừng cột sống khác – Other congenital malformationsof spinal cord Q07 Dị tật bẩm sinh khác của thần kinh – Other congenital malformations of nervous system
Các dị tật bẩm sinh ở mắt , tai, mặt và cổ (Q10-Q18)
Congenital malformations of eyes, ear, face and neck (Q10-Q18)
Q10 Các dị tật bẩm sinh của mi mắt, ổ mắt và bộ máy bài tiết nước mắt – Congenital malformations of eyelid, lacrimal apparatus and orbit. Q11 Các dị tật không có mắt, mắt nhỏ và mắt to – Anophthalmos, microphthalmos and macrophthalmos. Q12 Các dị tật bẩm sinh của thuỷ tinh thể – Congenital lens malformations Q13 Các dị tật bẩm sinh phần trước của mắt – Congenital malformations of anterior segment of eye. Q14 Các dị tật bẩm sinh phần sau của mắt – Congenital malformations of posteriorsegment of eye. Q15 Các dị tật bẩm sinh khác của mắt – Other congenital malformations of eye Q16 Các dị tật ở tai gây ảnh hưởng đến thính lực – Congenital malformations of ear causing impairment of hearing.
Q17 Các dị tật bẩm sinh khác ở tai – Other congenital malformations of ear Q18 Các dị tật bẩm sinh khác của mặt và cổ – Other congenital malformations of face and neck.
Các dị tật bẩm sinh của hệ tuần hoàn (Q20-Q28)
Congenital malformations of the circulatory system (Q20-Q28)
Q20 Các dị tật bẩm sinh của buồng tim và bộ phận nối – Congenital malformations of cardiac chambers and connections. Q21 Các dị tật bẩm sinh của vách tim – Congenital malformations of cardiac septa. Q22 Các dị tật bẩm sinh của van động mạch phổi và van 3 lá – Congenital malformations of pulmonary and tricuspid valves. Q23 Các dị tật bẩm sinh của van động mạch chủ và van 2 lá – Congenital malformations of aortic and mitral valves. Q24 khác của tim – Other congenital malformations of heart. Q25 Các dị tật bẩm sinh của các động mạch lớn – Congenital malformations of great arteries. Q26 Các dị tật bẩm sinh của các tĩnh mạch lớn – Congenital malformations of great vein. Q27 Các dị tật bẩm sinh khác của của hệ thống mạch máu ngoại biên – Other congenital malformations of peripheral vascular system. Q28 Các dị tật bẩm sinh khác của của hệ thống tuần hoàn – Other congenital malformations of circulatory system.
Các dị tật bẩm sinh đường hô hấp (Q30-Q34)
Congenital malformations of the respiratory system (Q30-Q34)
Q30 Các dị tật bẩm sinh ở mũi – Congenital malformations of nose Q31 Các dị tật bẩm sinh của thanh quản – Congenital malformations of larynx Q32 Các dị tật bẩm sinh ở khí quản và phế quản – Congenital malformations of trachea and bronchus. Q33 Các dị tật bẩm sinh của phổi – Congenital malformations of lung. Q34 Các dị tật bẩm sinh khác của đường hô hấp – Other congenital malformations of respiratory system.
Khe hở môi và khe hở vòm miệng (Q35-Q37)
Cleft lip and cleft palate (Q35-Q37)
Q35 Khe hở vòm miệng – Cleft palate Q36 Khe hở môi – Cleft lip Q37 Khe hở vòm miệng vùng với khe hở môi – Cleft palate and cleft lip.
Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiêu hoá (Q38-Q45)
Other congenital malformations of the digestive system (Q38-Q45)
Q38 Các dị tật bẩm sinh khác của lưỡi, miệng và họng – Other congenital malformations of tongue, mouth and pharynx. Q39 Các dị tật bẩm sinh của thực quản – Congenital malformations of oesophagus. Q40 Các dị tật khác của đường tiêu hoá trên – Other congenital malformations of upper alimentary tract. Q41 Không có, teo và hẹp bẩm sinh tiểu tràng – Congenital absence, atresia and stenosis of small intestine. Q42 Không có, teo và hẹp bẩm sinh đại tràng – Congenital absence, atresia and stenosis of large intestine. Q43 Các dị tật bẩm sinh khác của ruột – Other congenital malformations of intestine. Q44 Các dị tật bẩm sinh của túi mật, đường mật và gan – Congenital malformations of gallbladder, bile ducts and liver. Q45 Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiêu hoá – Other congenital malformations of digestive system.
Các dị tật bẩm sinh của cơ quan sinh dục (Q50-Q56)
Congenital malformations of genital organs (Q50-Q56)
Q50 Các dị tật bẩm sinh buồng trứng, vòi trứng và dây chằng rộng – Congenital malformations of ovaries, fallopian tubes and broad ligaments Q51 Dị tật bẩm sinh của tử cung và cổ tử cung – Other congenital malformations of uterus and cervix Q52 Các dị tật khác của cơ quan sinh dục nữ – Other congenital malformations of female genitalia. Q53 Tinh hoàn lạc chỗ – Undescended testicle. Q54 Lỗ đái lệch thấp – Hypospadias Q55 Các dị tật khác của cơ quan sinh dục nam – Other congenital malformations of male genital organs. Q56 Không xác định giới tính và hội chứng giả lưỡng giới – Indeterminate sex and pseudohermaphroditism.
Các dị tật bẩm sinh của hệ tiết niệu (Q60-Q64)
Congenital malformations of the urinary system (Q60-Q64)
Q60 Không có thận và các khuyết tật khác của thận – Renal agenesis and other redution defects of kidney. Q61 Các bệnh nang thận – Cystic kidney diseases Q62Các bệnh lý khác bẩm sinh của bể thận và các dị tật bẩm sinh của
niệu quản – Congenital obstructive defects of renal pelvis and congenital malformations of ureter. Q63 Các dị tật bẩm sinh khác của thận – Other congenital malformations of kidney. Q64 Các dị tật bẩm sinh khác của hệ tiết niệu – Other congenital malformations ofurinary system.
Các dị tật và biến dạng bẩm sinh của hệ cơ xương (Q65-Q79)
Congenital malformations and deformations of the musculoskeletal
system (Q65-Q79)
Q65 Biến dạng bẩm sinh của khớp háng – Congenital deformities of hip Q66 Các biến dạng bẩm sinh của bàn chân – Congenital deformities of feet Q67 Các biến dạng cơ xương bẩm sinh của đầu, mặt, cột sống và ngực – Congenital musculoskeletal deformities of head, face, spine and chest. Q68 Các biến dạng cơ xương bẩm sinh khác – Other congenital musculoskeletal deformities. Q69 Tật đa ngón – Polydactyly Q70 Tật dính ngón – Syndactyly Q71 Các khuyết tật thiếu hụt của chi trên – Reduction defects of upper limb Q72 Các khuyết tật thiếu hụt của chi dưới – Reduction defects of lower limb Q73 Các khuyết tật thiếu hụt của chi không đặc hiệu – Reduction defects of unspecified limb Q74 Các dị tật bẩm sinh khác của chi – Other congenital malformations of limb(s) Q75 Các dị tật bẩm sinh khác của xương sọ và xương mặt – Other congenital malformations of skull and face bones. Q76 Các dị tật bẩm sinh của cột sống và xương lồng ngực – Congenital malformations of spine and bony thorax. Q77 Loạn sản xương sụn với các khuyết tật trưởng thành của các xương ống và cột sống – Osteochondrodysplasia with defects of growth of tubular bones and spine. Q78 Các loạn sản xương sụn khác – Other osteochondrodysplasias Q79 Các dị tật bẩm sinh của hệ cơ xương, chưa được phân loại nơi khác – Congenital malformations of musculoskeletal system, not elsewhere classified.
Các dị tật bẩm sinh khác (Q80-Q89)
Other congenital malformations (Q80-Q89)
Q80 Bệnh vẩy cá bẩm sinh – Congenital ichthyosis Q81 Bong biểu bì bọng nước – Epidermolysis bullosa Q82 Các dị tật bẩm sinh khác về da – Other congenital malformations of skin.
Q83 Các dị tật bẩm sinh của vú – Congenital malformations of breast Q84 Các dị tật bẩm sinh khác của bộ phận bao bọc – Other congenital malformations of integument. Q85 Hội chứng u thần kinh-da ngoại bì, chưa được phân loại – Phakomatoses, not elsewhere classified. Q86 Các hội chứng dị tật bẩm sinh do những nguyên nhân bên ngoài đã biết, chưa được phân loại – Congenital malformations syndromes due to known exogenous cause, not elsewhere classified. Q87 Các hội chứng dị tật bẩm sinh khác gây tổn thương nhiều hệ thống – Other specified congenital malformation syndromes affecting multiple system. Q89 Các dị tật bẩm sinh khác, chưa phân loại – Other congenital malformations, not elsewhere classified.
Các bất thường nhiễm sắc thể, chưa được phân loại (Q90-Q99)
Chromosomal abnormalities, not elsewhere classified (Q90-Q99)
Q90 Hội chứng Down – Down’s syndrome Q91 Hội chứng Edwards và hội chứng Patau – Edward’s syndrome and Patau’s syndrome. Q92 Ba nhiễm sắc thể và một phần ba nhiễm sắc thể khác của nhiễm sắc thể thường, không được phân loại nơi khác – Other trisomies and partial trosomies of the autosomes, not elsewhere classified. Q93 Đơn nhiễm sắc thể và thiếu một đoạn của nhiễm sắc thể thường, không được phân loại nơi khác – Monosomies and deletions from the autosomes, not elsewhere classified. Q95 Sắp xếp lại cân bằng và dấu ấn cấu trúc, không được phân loại nơi khác – Balanced rearrangements and structural markers, not elsewhere classified. Q96 Hội chứng Turner – Turner’s syndrome Q97 Bất thường nhiễm sắc thể giới tính khác, kiểu hình nữ, không được phân loại nơi khác – Other sex chromosome abnormalities, female phenotype, not elsewhere classified. Q98 Bất thường nhiễm sắc thể giới tính khác, kiểu hifnh nam, không được phân loại nơi khác – Other sex chromosome abnormalities, male phenotype, not elsewhere classified. Q99 Bất thường nhiễm sắc thể khác, không được phân loại nơi khác – Other chromosome abnormalities, not elsewhere classified Bệnh mạn tính: là bệnh tiến triển kéo dài hoặc hay tái phát, thời gian bệnh từ 3 tháng trở lên. Bệnh mạn tính không thể ngừa bằng vắc xin, không thể chữa khỏi hoàn toàn và cũng không tự biến mất. Bệnh mạn tính phần lớn là
bệnh không lây nhiễm, không do vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng hoặc nấm gây nên. Có các nhóm bệnh mạn tính như sau: 1.Bệnh viêm đường hô hấp mạn tính: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, viêm phế quản mạn, hen và khí phế thũng… 2. Bệnh nội tiết: béo phì, đái tháo đường… 3. Bệnh lý tâm thần kinh: sa sút trí tuệ, trầm cảm… 4. Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, suy tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh mạch máu não… 5. Bệnh tự miễn: lupus ban đỏ, xơ cứng bì, vẩy nến… 6. Bệnh xương khớp mạn tính: viêm khớp dạng thấp, viêm xương khớp, thoái hóa khớp, loãng xương… 7. Hội chứng mệt mỏi mạn tính. 8. Suy thận mạn. 9. Viêm gan mạn . 10.Ung thư.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
GioiTinh NamSinh HocVan HonNhan ViecLam ThuNhap KiemtraSK Benh Gia ThoiGian 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1
1957 1961 1968 1972 1962 1952 1963 1961 1961 1965 1962 1965 1953 1971 1966 1961 1957 1964 1968 1959 1961 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964 1973 1955 1969 1970 1964 1957 1961 1953
1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 0 0
1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1
0 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0
1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 1 0 0 0 1
1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0
1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0
1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1
1 0 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 0 1 1 0
PHỤ LỤC 6
39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80
0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0
1962 1961 1961 1969 1972 1972 1967 1970 1966 1973 1962 1961 1951 1961 1957 1962 1974 1965 1970 1964 1973 1966 1959 1963 1972 1966 1955 1965 1961 1961 1974 1967 1970 1965 1972 1972 1965 1972 1966 1960 1970 1971
0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0
1 0 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0
1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 0 0
1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 1
1 0 0 0 1 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1 0 1 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 0 1 1 1 1
0 0 1 1 1 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0
81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122
1 0 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0
1965 1966 1972 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1969 1966 1971 1959 1965 1970 1969 1962 1959 1968 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964 1973 1955 1968 1959 1961 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1963 1972 1964
1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1
1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 0 0 0 1 0 0 1
1 1 0 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 0
1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 1 0 1
0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1
0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 1 1
1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 1
123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164
1 1 1 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0
1973 1955 1966 1954 1961 1964 1972 1965 1972 1966 1960 1970 1971 1965 1966 1972 1962 1961 1967 1970 1965 1972 1966 1965 1964 1972 1966 1954 1975 1964 1972 1964 1972 1974 1967 1970 1965 1972 1965 1964 1972 1961
0 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 0 0
0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 1 0 0 0 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1
0 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1
1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0
1 1 0 0 1 1 0 0 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 0 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1
1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 1 0
165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1
1967 1970 1965 1972 1972 1961 1967 1970 1965 1972 1972 1957 1961 1968 1972 1962 1952 1963 1961 1961 1965 1962 1965 1953 1971 1966 1961 1957 1964 1968 1959 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1969 1966 1971 1959 1965
0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1
1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 0 1 0 1 1
1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1
0 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 1 1 1 0 1 0 1 1 0 0 1 0 1 1 1 1 1
1 1 0 1 1 0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 1 1 0 0 1 1 1 0 0 1 1 0 1 0 1 0 1 1
207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248
1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1
1970 1969 1962 1959 1968 1973 1964 1972 1963 1959 1966 1967 1970 1966 1973 1962 1963 1951 1961 1957 1962 1974 1965 1970 1964 1973 1966 1959 1963 1972 1966 1955 1965 1960 1962 1974 1967 1970 1965 1972 1972 1965
1 1 0 0 0 0 1 0 1 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 1
1 0 1 1 0 0 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 1 1 1 1 0 0
1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 0 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1
1 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 1 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 1
1 0 1 1 0 1 1 1 1 0 1 0 1 1 1 0 1 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0
1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 0 1 1 1 0 0 1 0 0 0 0 0 0
0 0 1 0 1 1 0 1 0 1 0 0 0 1 0 1 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 0 1 0 0 0
0 1 1 1 0 1 1 1 0 0 1 0 1 1 0 1 0 0 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 0 1 1 1
249 250 251 252 253 254 255 256
1972 1966 1960 1970 1971 1965 1966 1972
0 0 1 0 0 1 0 1
0 1 1 0 0 1 1 0
0 1 1 0 0 1 1 0
0 1 1 1 1 1 1 0
0 1 1 1 1 0 0 1
0 1 1 1 1 0 1 0
0 0 0 0 0 0 0 0
0 1 1 1 1 0 1 0
1 1 1 1 0 1 1 1