
1
A. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Bối cảnh
Tại Việt nam, tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ độ tuổi mãn kinh là
30%, cao gấp từ 2 đến 3 lần tỷ lệ loãng xương ở nam giới[1]. Loãng
xương là một bệnh lý âm thầm, có thể không có các biểu hiện trên
lâm sàng nhưng lại gây ra hậu quả nặng nề do làm tăng các nguy cơ
gãy xương. Theo công bố của tổ chức loãng xương Quốc tế (IOF), số
năm sống điều chỉnh theo bệnh tật do các gãy xương liên quan đến
gãy xương chiếm tới 2.000.000 DALYs, chỉ đứng thứ hai về gánh
nặng bệnh tật sau các bệnh phổi, và cao hơn cả gánh nặng bệnh tật
do ung thư vú và ung thư tử cung, hai trong số những bệnh lý đáng lo
ngại nhất đối với phụ nữ. Hai loại gãy xương thường gặp và quan
trọng nhất đối với bệnh lý loãng xương là gãy xương đùi và gãy
xương cột sống [3]. Trong một nghiên cứu trên 7 quốc gia ASEAN,
người Việt Nam có tốc độ giảm mật độ xương nhanh nhất[2]. Loãng
xương làm tăng gánh nặng bệnh tật và gánh nặng kinh tế của xã hội.
Năm 2013, thuốc điều trị loãng xương nằm trong danh mục các
thuốc có mức chi tiêu tiền thuốc lớn nhất của Bảo hiểm Y tế Việt
Nam. Sau đó, Bộ Y tế đã có những thay đổi trong chính sách chi trả.
Bắt đầu từ TT40/2014/TT-BYT, các thuốc alendronate và zoledronic
acid chỉ được thanh toán tại các khoa cơ xương khớp bệnh viện hạng
1 và hạng đặc biệt. Chính sách này giúp giảm chi tiêu tiền thuốc của
quỹ BHYT nhưng lại dẫn đến việc hạn chế tiếp cận thuốc đối với
bệnh nhân loãng xương. Không được điều trị có thể dẫn tới tăng
nguy cơ gãy xương, và tăng các chi phí để điều trị gãy xương do
loãng xương. Vì vậy, việc phân tích tính chi phí-hiệu quả của các
thuốc điều trị loãng xương sẽ là những bằng chứng quan trọng giúp
cho việc quản lý và điều chỉnh chính sách chi trả BHYT cho các
thuốc trong tương lai.
Trong khi ở các quốc gia khác, việc ứng dụng các bằng
chứng đánh giá kinh tế dược được sử dụng rộng rãi trong ra các