PHÂN TÍCH NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỢI
TRONG CÁC CÔNG TY DỊCH VỤ - DU LỊCH NIÊM YẾT
VIỆT NAM
ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING PROFITABILITY IN
LISTED TOURISM – SERVICE COMPANIES IN VIETNAM
Nguyễn Thị Kim Quy
Công ty TNHH Wilo Việt Nam
Email: kimquynt012691@gmail.com
Tóm tắt: Mục đích của bài báo nhằm xác định xu hướng mức độ tác động của các yếu tố đến khả
năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết Việt Nam giai đoạn 2012 - 2021. Kết quả cho
thấy: quy công ty, vòng quay tài sản, mức độ tập trung thị trường ảnh hưởng tích c<c tới khả năng
sinh lợi trong khi đòn b=y tài chính, hiệu quả sử dụng chi phí ảnh hưởng tiêu c<c. Kết quả cũng cho thấy
tác động tích c<c của khả năng thanh toán ngắn hạn tới khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hAu. Ngoài ra,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thời gian kinh doanh, tốc độ tăng trưởng doanh thu các yếu tố (tốc
độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát) ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng sinh lợi.
Abstract: The article aims to determine the trends and impact of factors on the profitability of listed
service-tourism companies in Vietnam in 2012 - 2021. The results show that: Firm size, asset turnover,
and market concentration positively affect profitability, while financial leverage and cost efficiency have
negative effects. The results also confirm a positive impact of short-term solvency on the return on equity.
In addition, the study also shows that business time, revenue growth rate, and macro factors (GDP growth
rate, inflation rate) have negligible influence on profitability.
Từ khóa:
Công ty dịch vụ - du lịch; Khả năng sinh lợi; Nhân tố tác động; ROA; ROE.
Keywords:
Service and tourism companies; Profitability; Impact factor; ROA; ROE.
JEL Classifications: M00, M10, M49
1. Đặt vấn đề:
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam một quốc gia đang phát triển, nhiều hoạt động kinh
doanh được mở rộng ngày càng đa dạng phong phú trên các lĩnh vực tạo nên sự quan tâm rất
lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Phát triển du lịch trong bối cảnh hiện nay bị tác động rất lớn bởi quá trình hội nhập hóa, toàn cầu
hóa, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ. Bên cạnh đó, sự biến đổi khí
hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, điển hình gần đây nhất đại dịch Covid-19 đã ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển du lịch toàn cầu và du lịch Việt Nam. Trước đại dịch COVID-19,
số khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam tăng cao liên tục con số ước đạt được 18
triệu người, tương đương với nhiều quốc gia du lịch phát triển Đông Nam Á. Thời điểm đó,
du lịch quốc tế chiếm tới 80% số lượng hành khách hàng không quốc tế ra vào Việt Nam. Ngành
Du lịch đã đóng góp tới 9,2% tổng sản phẩm trong nước, tạo công ăn việc làm trực tiếp cho 2,5
triệu người gián tiếp cho khoảng 2 triệu người trong các lĩnh vực gắn kết với du lịch. Sự xuất
hiện của đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn tạm thời sự “cất cánh” của du lịch Việt Nam. Diễn
biến phức tạp, kéo dài của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện đến các hoạt
động kinh tế-xã hội, trong đó du lịch là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
Ngoài ra, Du lịch một hiện tượng đa diện liên quan đến sự di chuyển lưu lại các nơi đến
du lịch bên ngoài nơi trú thường xuyên của du khách. Du lịch hoạt động kinh tế cần nhiều
1
sự hỗ trợ liên ngành. Cũng có thể nói phát triển du lịchsự kéo theo một số ngành dịch vụ khác
phát triển. Mối quan hệ này tác động qua lại với nhau, cùng đem lại lợi ích cho các ngành. Từ đó
có thể kết luận: “Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp”. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có định
hướng phát triển du lịch cần có sự đầu tư, nghiên cứu một cách tổng thể các ngành nhằm đón đầu
cũng như nâng cao hiệu quả của các ngành dịch vụ. Do đó việc phân tích tác động của các yếu tố
đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết Việt Nam một vấn đề được
quan tâm.
2. Cơ sở lý luận
2.1 Khả năng sinh lợi
Theo Nguyễn Văn Công (2019), kh năng sinh lợi chn tiêu phản ánh lợi nhuận doanh
nghiệp thể thu được trên một đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào hay trên một đơn vị đầu ra
phản ánh kết quả kinh doanh.
Theo từ điển Kinh tế học (Nguyễn Văn Ngọc, 2012) khả năng sinh lợi (Profitability) một con
số đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của một doanh nghiệp trong thời gian dài, giả sử tất cả các
điều kiện hoạt động hiện tại nói chung không đổi. Hay Malik (2011), cho rằng khả năng sinh
lợi một trong những thước đo, mục tiêu quan trọng nhất của quản tài chính mục tiêu của
quản lý tài chính là tối đa hóa sự giàu có của chủ sở hữu và khả năng sinh lợi là yếu tố quyết định
rất quan trọng của hiệu suất, đồng thời ông cũng cho rằng khả năng sinh lợi là thước đo hiệu quả
về sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi
Để đo lường phản ánh khả năng sinh lợi, các chn tiêu sức sinh lợi thông thường được sử dụng
như sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE), sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS), sức sinh lợi
của tài sản (ROA). Ngoài ra, còn một số chn tiêu cũng thể được dùng như sức sinh lợi của
vốn đầu (ROIC), sức sinh lợi của vốn dài hạn (ROCE) hay sức sinh lợi bản của tài sản
(BEP). Tuy nhiên, ở nghiên cứu này tác giả sẽ chú trọng đến ba chn tiêu đó là ROA và ROE.
Theo Phan Đức Dũng (2008), sức sinh lợi của tài sản hay còn gọi tỷ suất sinh lợi trên tổng tài
sản (Return on Assets – ROA) là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi
đồng tài sản của doanh nghiệp. Chn tiêu ROA thể hiện tính hiệu quả của quá trình tổ chức, quản
hoạt động sản xuất kinh doanh sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Kết quả chn tiêu cho biết
bình quân cứ một đồng tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận. vậy, chn số này sẽ cho biết một doanh nghiệp sử dụng tài sản để
kiếm lời hiệu quả như thế nào (Phan Thu Hiền & Nguyễn Nhật Hà, 2020). nhiều nghiên cứu
sử dụng ROA để đo lường khả năng sinh lợi của doanh nghiệp như nghiên cứu của Tavakoli,
Wilson (2005), Yazdanfar (2013), Goddard, Malik (2011), AlGhusin (2015), Odusanya, Yinusa,
và Ilo (2018), Lê Thị Thanh Mỹ và Lê Thị Thanh Nhật (2021).
Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu hay còn gọi tỷ suất sinh lợi
trên vốn chủ sở hữu (Return on EquityROE) tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh
lợi trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Chn tiêu ROE phản ánh năng lực sử dụng
đồng vốn để sinh lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích khả năng
sinh lợi của vốn chủ sở hữu cho thấy rõ, một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng
lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc xem xét chn tiêu này một ý nghĩa quan trọng
là xác định mục tiêu kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa
hoá quy (Phan Thu Hiền & Nguyễn Nhật Hà, 2020). nhiều nghiên cứu sử dụng ROE để
đo lường khả năng sinh lợi của doanh nghiệp như nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008),
Alarussi & Alhaderi (2018), Odusanya, Yinusa & Ilo (2018).
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi và các nghiên cứu thực nghiệm
Quy doanh nghiệp: việc phân chia ra thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa doanh
nghiệp nhỏ. Quy doanh nghiệp được sử dụng rộng rãi làm đại diện cho nhiều khía cạnh tích
2
cực, bao gồm cả khả năng sinh lợi. Một số nghiên cứu như của Malik (2011), Diaz & Pandey
(2019), Peck-Ling, Nai-Chiek, & Chee-Seong (2016), Alarussi & Alhaderi (2018) Phan Thu
Hiền Nguyễn Nhật Hà (2020) đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa quy doanh nghiệp
với khả năng sinh lợi.
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp thời gian hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường.
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp cho biết kinh nghiệm kiến thức chuyên môn đạt được
trong những năm hoạt động và nó giúp cho doanh nghiệp cải thiện được trong việc quản lý doanh
nghiệp tác động tích cực đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp (Bhayani, 2010).
Nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008), Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) cho
thấy mối quan hệ tích cực giữa thời gian hoạt động của doanh nghiệp với khả năng sinh lợi. Tuy
nhiên các nghiên cứu khác như Majumdar (1997), Coad, Segarra-Blasco & Teruel (2010), Hirsch
cộng sự (2014) Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) đều cho thấy rằng với những doanh nghiệp
hoạt động càng lâu thì khả năng sinh lợi càng giảm.
Đòn bẩy tài chính phản ánh mức độ sử dụng vốn vay trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ s hữu (ROE) hay thu nhập trên một cổ
phần thường (EPS). Nghiên cứu của Malik (2011), Odusanya, Yinusa & Ilo (2018), Odusanya,
Yinusa & Ilo (2018), Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) đều kết quả nghiên cứu cho
thấy mối quan hệ tiêu cực giữa đòn bẩy tài chính với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên nghiên cứu của
Abate & Mesfin (2019) lại cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính với khả năng
sinh lợi.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu phản ánh phần trăm thay đổi doanh thu của một doanh nghiệp
trong một khoảng thời gian cụ thể được đưa ra trong một bối cảnh nhất định. Kết quả đều cho
thấy mối quan hệ tích cực giữa tố độ tăng trưởng doanh thu với khả năng sinh lợi trong các
nghiên cứu của Salman & Yazdanfar (2012), Alarussi & Alhaderi (2018), Phan Thu Hiền
Nguyễn Nhật Hà (2020).
Vòng quay tổng tài sản phản ánh s vòng quay tổng tài sản một tỷ số tài chính, thước đo
khái quát nhất hiệu quả s dụng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy
doanh thu thuần đạt được trong một thời kỳ nhất định chia cho giá trị bình quân tổng tài sản của
doanh nghiệp trong cũng kỳ đó. Nghiên cứu của Alarussi & Alhaderi (2018), Phan Thu Hiền
Nguyễn Nhật (2020) đều cho kết quả tương tự vòng quay tổng tài sản mối quan hệ tích
cực với khả năng sinh lợi.
Khả năng thanh toán ngắn hạn phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nợ quá hạn phải trả
của doanh nghiệp. Các hệ số này căn cứ để doanh nghiệp xác đinh giá trị thực tế ngay tại thời
điểm công ty xác định khả năng thanh toán. Trong nghiên cứu của Chander (2008), Abate &
Mesfin (2019), Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa
khả năng thanh toán ngắn hạn với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên (Alarussi & Alhaderi, 2018) hay
nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2021) không tìm thấy mối quan hệ giữa khả năng thanh
toán với khả năng sinh lợi.
Hiệu quả sử dụng chi phí phản ánh mức chi phí công ty bỏ ra tính trên một đơn vị doanh thu.
Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) cho rằng khả năng sinh lợi chịu ảnh hưởng đáng kể của hiệu quả
sử dụng chi phí. v.v...
Mức độ tập trung thị trường phản ánh cấu trúc thị trường, biểu thị phân phối số lượng qui
người bán trong một thị trường cụ thể. Nghiên cứu của Tan & Floros (2012), Mirzaei, Moore, &
Liu (2013), Lee (2014), Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) đều cho thấy mức độ tập
trung thị trường tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi.
Tốc độ tăng trưởng GDP phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế, được biểu thị bằng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, được điều chnnh theo lạm phát hoặc giảm phát.
Có nhiều nghiên cứu cho thấy những kết quả khác nhau như Abate & Mesfin (2019) tìm thấy mối
3
quan hệ tiêu cực giữa tốc độ tăng trưởng GDP với khả năng sinh lợi, trong khi nghiên cứu của
Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) không tìm thấy mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
GDP đối với khả năng sinh lợi thì nghiên cứu Lee (2014) Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) lại
cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tốc độ tăng trưởng GDP với khả năng sinh lợi.
Tỷ lệ lạm phát phản ánh tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. cho thấy mức độ lạm phát
của nền kinh tế. Nghiên cứu của Abate & Mesfin (2019) tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ
lạm phát với khả năng sinh lợi. Tuy nhiên Phan Thu Hiền Nguyễn Nhật (2020) không tìm
thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát đối với khả năng sinh lợi.
3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
3.1 Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu của Stierwald (2010) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô và khả năng sinh
lợi tại Hoa Kỳ các công ty không sản xuất các công ty lớn Úc. Hay Alarussi & Alhaderi
(2018) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa quy doanh nghiệp với khả năng sinh
lợi. Do đó nghiên cứu xác định giả thuyết H1 như sau:
- H1: Quy doanh nghiệp tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch
vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Chander & Aggarwal (2008) cho thấy ảnh hưởng tích cực của thời gian hoạt
động của doanh nghiệp đến khả năng sinh lợi, các doanh nghiệp thời gian hoạt động càng lâu
lợi nhuận càng lớn, khả năng sinh lợi càng lớn. Bên cạnh đó cũng một số nghiên cứu không
cùng quan điểm như Coad, Segarra-Blasco & Teruel (2010) đã tìm thấy bằng chứng về sự suy
giảm lợi nhuận khi các công ty lớn lên. Do đó nghiên cứu xác định giả thuyết H2 như sau:
- H2: Thời gian hoạt động của doanh nghiệp tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của
các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Kết quả ghiên cứu của Nizar Mohammad Alsharari Turki Raji Alhmoud (2017) đã chn ra mối
quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ nợ và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hay theo thuyết trật
tự cấu trúc vốn (Rathnasingha & Heiyanthuduwa, 2019) đòn bẩy lợi nhuận mối quan hệ
ngược chiều. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H3 như sau:
- H3: Đòn b=y tài chính có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ -
du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu của Salman & Yazdanfar (2012) cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng doanh thu
tác động tích cực đến lợi nhuận hay khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hay Alarussi &
Alhaderi (2018) cũng đã phát hiện mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa tổng doanh thu tốc độ
tăng trưởng doanh thu đến khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H4 như
sau:
- H4: Tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi
của các công ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu của Alarussi & Alhaderi (2018), ngoài việc phát hiện tổng doanh thu tốc độ
tăng trưởng doanh thu thì tác giả cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa vòng quay tổng tài sản
đến khả năng sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H5 như sau:
- H5: Vòng quay tổng tài sản tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch
vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Hiện nay nhiều nghiên cứu trong ngoài nước cho thấy khả năng thanh toán không mối
quan hệ đáng kể nào đến khả năng sinh lợi (Alarussi & Alhaderi, 2018) hay nghiên cứu của
Nguyễn Thúy Quỳnh (2021) cho thấy khả năng thanh toán không ý nghĩa thống đến khả
năng sinh lợi của các doanh nghiệp Bất động sản. Tuy nhiên bên cạnh những nghiên cứu cho thấy
khả năng thanh toán không ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi thì cũng những nghiên cứu
cho thấy rằng khả năng thanh toán ngắn hạn có tác động tích cực đến khả năng sinh lợi của doanh
4
nghiệp như trong nghiên cứu của Chander (2008). Do đó, nghiên cứu hình thành giả thuyết H6
như sau:
- H6: Khả năng thanh toán ngắn hạntác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công
ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam
Nghiên cứu trước đây về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các nhà sản xuất Croatia đã
được tìm thấy rằng hiệu quả sử dụng chi phí đóng một vai trò trung tâm. Trong những nghiên cứu
này, người ta mong đợi rằng biến hiệu quả sử dụng chi phí sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận,
tức là tăng đơn vị hiệu quả sử dụng chi phí sẽ dẫn đến khả năng sinh lợi của công ty thấp hơn. Do
đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H7 như sau:
- H7: Hiệu quả sử dụng chi phí tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty
dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Mirzaei, Moore, & Liu (2013) phân tích dữ liệu trong giai đoạn 1999–2008 thấy rằng điều kiện
cạnh tranh thấp hơn dẫn đến khả năng sinh lợi cao hơn đối với các nền kinh tế tiên tiến, Tan &
Floros (2012), Lee (2014) cũng cho thấy mức độ tập trung tác động tiêu cực với khả năng
sinh lợi. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H8 như sau:
- H8: Mức độ tập trung thị trường tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công
ty dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Lee (2014) cho thấy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ảnh hưởng
tích cực đến hiệu suất của các doanh nghiệp. Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) cũng cho thấy
tác động tích cực của tốc độ tăng trưởng GDP về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
nhân trong khu vực EU15. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H9 như sau:
- H9: Tốc độ tăng trưởng GDP tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty
dịch vụ - du lịch niêm yết ở Việt Nam.
Pervan, Pervan, & Ćurak (2019) cho rằng sự gia tăng chung về giá của hàng hóa dịch vụ
thể ảnh hưởng đến cả chi phí và doanh thu của công ty. Ngoài ra, lạm phát có thể ảnh hưởng đến
nhu cầu đối với hàng hóa của một công ty, bằng cách giảm giá trị tiền và sức mua của khách hàng
thu nhập cố định. Vătavu (2015), Odusanya, Yinusa, & Ilo (2018) chn ra rằng lạm phát
động tiêu cực đến khả năng sinh lợi. Demir (2009) đã xác nhận tác động tiêu cực của lạm phát
đối với các công ty kinh doanh hoa ly ở Thổ Nhĩ Kỳ, Pattitoni, Petracci, & Spisni (2014) cũng có
kết quả tương tự cho các công ty Châu Âu. Do đó nghiên cứu hình thành giả thuyết H10 như sau:
- H10: Tỷ lệ lạm phát có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các công ty dịch vụ - du
lịch niêm yết ở Việt Nam.
3.2 Mô hình nghiên cứu
Dựa vào nghiên cứu trước đây về các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của các doanh
nghiệp. Tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu như sau:
- ROAit = β0 + β1SZit + β2AGEit + β3FLit + β4GROit + β5ATit + β6CRit + β7LCit + β8CMit + β9GGDPit
+ β10IRit + it
- ROEit = β0 + β1SZit + β2AGEit + β3FLit + β4GROit + β5ATit + β6CRit + β7LCit + β8CMit + β9GGDPit
+ β10IRit + it
Bảng 1. Thống kê các biến trong mô hình nghiên cứu
Biến Tên gọi Cách đo lường
ROA Sức sinh lợi của tài
sản
5
ROA = Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân