BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------
VŨ THỊ BÁCH KHOA
PHÂN TÍCH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG DI ĐỘNG VIỆT NAM VÀ NHỮNG HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển Mã số
: 60.31.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN CHƠN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014
-i-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
TP. Hồ Chí Minh, ngày.....tháng..... năm 2014
Tác giả luận văn
Vũ Thị Bách Khoa
-ii-
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ. Trước
hết xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy Vũ Thành Tự Anh trong quá trình tìm hiểu, định
hướng đề tài; thầy Lê Văn Chơn, thầy Huỳnh Thế Du trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn, đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giải đáp những vướng mắc khoa học nảy
sinh.
Xin được cảm ơn các thầy cô giáo và các anh chị, các bạn trong Chương trình giảng
dạy Fulbright, đã hỗ trợ tài liệu, thông tin và các thủ tục cần thiết trong quá trình làm luận
văn. Cuối cùng, không thể thiếu, tác giả xin được cảm ơn gia đình, nguồn động viên và hỗ
trợ to lớn, cả về vật chất lẫn tinh thần giúp tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Vũ Thị Bách Khoa
Bachkhoavu.vn@gmail.com
-iii-
TÓM TẮT
Trong bức tranh có nhiều biến động thăng trầm của các ngành công nghiệp khác ở Việt
Nam trong hai mươi năm trở lại đây, ngành Viễn thông di động (VTDĐ) là một điểm sáng
với những bước phát triển mạnh mẽ. Từ một thị trường mang tính độc quyền đã trở thành
một thị trường cạnh tranh được thế giới ghi nhận, với tốc độ phát triển nhanh, trong đó
người dùng và nhà nước đều được hưởng lợi từ giá cả dịch vụ di động thấp và chất lượng
dịch vụ được nâng cao. Hiện nay, nhà nước ta vẫn chủ trương lấy doanh nghiệp nhà nước
làm chủ đạo, dù đã từng có nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, điển
hình như Vinashin, Vinalines… thất bại ở môi trường kinh doanh mới cạnh tranh khốc liệt,
thì hiện tượng thị trường VTDĐ Việt Nam với hai doanh nghiệp hiện 100% vốn nhà nước
là Viettel và VNPT dẫn đầu một thị trường phát triển là một vấn đề đáng lưu ý. Đặc biệt
trong giai đoạn này, khi các doanh nghiệp viễn thông đang thực hiện tái cấu trúc, trong bối
cảnh công nghệ kỹ thuật trên thế giới vẫn liên tục phát triển nhanh chóng sẽ tác động lớn
đến ngành VTDĐ của Việt Nam, việc phân tích những yếu tố tạo nên sự phát triển của thị
trường lại càng cần thiết.
Có khá nhiều nghiên cứu của thế giới về sự phát triển của thị trường viễn thông các
nước, tuy nhiên các nghiên cứu về sự phát triển của thị trường viễn thông Việt Nam liên hệ
với chính sách công không nhiều. Điểm chung, thống nhất của các nghiên cứu này là cạnh
tranh đã giúp thị trường viễn thông di động phát triển.
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng một lần nữa khẳng định vai trò của cạnh tranh. Bên
cạnh đó, dựa trên khung lý thuyết về lợi thế kinh tế theo quy mô kết hợp với việc phân tích
logic các tác động của môi trường, thể chế & con người, tác giả còn chỉ ra các điểm mấu
chốt tạo nên sự phát triển của thị trường VTDĐ và phân tích tại sao đó chính là các điểm
nút quan trọng.
Có bốn (4) sự việc tạo nên điểm nút phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam từ 1992
đến 2012, đó là
i) Năm 1995: điểm khởi đầu cạnh tranh về mặt lý thuyết (ngoài VNPT có thêm hai (2)
công ty viễn thông khác là SPT và Viettel nhưng thị trường VTDĐ năm 1995 vẫn độc
chiếm bởi VNPT với tổng số thuê bao di động MobiFone và các mạng nội vùng của VNPT
là 23500 thuê bao (ITU- International Telecommunication Union, 2013),
-iv-
ii) Cuối năm 2004: bắt đầu cạnh tranh với sự tham gia mạng VTDĐ của Viettel (với số
thuê bao di động còn ít ỏi, chỉ gần bằng 1/15 số thuê bao của mỗi mạng Vinaphone và
MobiFone (Số thuê bao: Viettel: 145 nghìn, Vinaphone: 2.5 triệu, MobiFone: 2 triệu),
Viettel sử dụng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp mới của nhà nước tạo nên lợi thế về giá
cho mình để cạnh tranh (các doanh nghiệp lớn không được giảm giá khi chưa được nhà
nước cho phép, trong khi doanh nghiệp mới thì được tự do điều chỉnh giá cước),
iii) Đầu năm 2005: bắt đầu cạnh tranh mạnh mẽ khi Viettel phát triển cơ sở hạ tầng
mạng lưới di động tương đương VNPT (từ số trạm thu phát sóng chỉ gần bằng 1/10 số trạm
của VNPT năm 2004 (Viettel: 200 trạm, VNPT (MobiFone+VinaPhone): 1700 trạm), năm
2005, số trạm của Viettel đã tương đương với MobiFone và VinaPhone (Viettel: 1200
trạm, VNPT (MobiFone +VinaPhone): 2400 trạm; Số thuê bao di động của Viettel cũng đã
gần bằng 1/3 số thuê bao mỗi mạng VinaPhone và MobiFone (Viettel: gần 1 triệu,
MobiFone: 2.7 triệu, VinaPhone: 2.7 triệu),
và iv) Cuối năm 2005 trở đi: thực sự xóa bỏ thế độc quyền của VNPT và thị trường VTDĐ
VN bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. (năm 2006 số thuê bao di động của Viettel đã
tương đương với MobiFone và VinaPhone, với con số gần 4 triệu thuê bao, số thuê bao di
động của Viettel đã bằng 1/2 tổng số thuê bao di động của VNPT, và đến cuối năm 2006,
sang 2007, Viettel đã chính thức trở thành nhà cung cấp có số thuê bao chiếm thị phần
khống chế, ngang hàng với MobiFone và VinaPhone)
(Nguồn số liệu: Phụ lục 2. Chú thích nguồn của phần Tóm tắt nội dung luận văn)
Từ việc phân tích nguyên nhân hình thành các điểm nút đó, tác giả rút ra kết luận: thị
trường VTDĐ Việt Nam đạt được sự phát triển như vừa qua là do hội tụ được cả hai yếu tố
i) yếu tố hỗ trợ cạnh tranh của thể chế và ii) bản thân nội lực của doanh nghiệp trong đó vai
trò và chủ trương của người lãnh đạo có tính chất quyết định.
Từ những kết quả phân tích được, tác giả đưa ra những khuyến nghị. Đó là, tạo tính
cạnh tranh trong các thị trường khác, và giữ tính cạnh tranh trong thị trường VTDĐ bằng
cách: i) Phát triển cơ chế lựa chọn cán bộ lãnh đạo cấp cao với các doanh nghiệp nhà nước,
và với các bộ chủ quản, trong đó tiêu chí cần để chọn đội ngũ lãnh đạo chủ chốt là có tầm
nhìn, trách nhiệm, bản lĩnh dám nghĩ dám làm, thực sự cầu thị, tự đổi mới để có thể dẫn
dắt doanh nghiệp, và với doanh nghiệp thì đặc biệt cần thêm khả năng kinh doanh. Dựa
vào các tiêu chí đó có thể tuyển chọn qua hình thức tổ chức thi tuyển để chọn được người
-v-
phù hợp. ii) Phải luôn luôn duy trì đường lối chống độc quyền, ủng hộ cạnh tranh lành
mạnh trong thị trường VTDĐ.
-vi-
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii
TÓM TẮT ............................................................................................................................ iii
MỤC LỤC ............................................................................................................................ vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT .............................................................. viii
DANH MỤC CÁC HÌNH ..................................................................................................... ix
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................................... x
Chương 1. GIỚI THIỆU .................................................................................................... 1
1.1. Bối cảnh nghiên cứu: .............................................................................................. 1
1.2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 4
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4
1.4. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 4
Chương 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH .......................................... 6
2.1. Kinh tế vi mô về ngành có lợi thế theo quy mô ...................................................... 6
2.2. Các nghiên cứu liên quan ...................................................................................... 10
Chương 3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG DI
ĐỘNG VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ CẠNH TRANH VIETTEL ............ 11
3.1. Các điểm nút phát triển của thị trường Viễn thông di động Việt Nam ................. 12
3.2. Phân tích các yếu tố hình thành các điểm nút phát triển của thị trường VTDĐ
Việt Nam .......................................................................................................................... 31
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ....................................... 37
4.1. Kết luận ................................................................................................................. 37
4.2. Khuyến nghị chính sách ........................................................................................ 38
-vii-
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 39
Tiếng Việt ........................................................................................................................ 39
Tiếng Anh ........................................................................................................................ 44
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 46
1. Tóm tắt về Cơ quan quản lý và Các mạng viễn thông di động Việt Nam ....................... 46
2. Chú thích nguồn của phần Tóm tắt nội dung luận văn .................................................... 77
-viii-
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Bưu chính viễn thông
Từ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
BCVT
Công nghệ thông tin
CNTT
Saigon Posts And
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu
SPT
Telecommunications Service
chính Viễn thông Sài Gòn
Joint-Stock Corporation
Viễn thông di động
VTDĐ
Vietnam Posts and
(Tổng công ty/tập đoàn)
VNPT
Telecommunications Groups
Bưu chính Viễn thông Việt Nam
-ix-
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1-1: Tăng trưởng và Lạm phát ở Việt Nam, từ 1995-2012 .......................................... 2
Hình 1-2 : Sự phát triển của số thuê bao điện thoại di động trên 100 dân của Việt Nam so
với khối các nước phát triển, đang phát triển và của thế giới ................................................ 3
Hình 2-1: Lợi thế kinh tế theo quy mô bên trong và đường nhận thức ................................. 7
Hình 2-2: Tính kinh tế theo quy mô: sự giảm giá và tăng lợi nhuận .................................... 8
Hình 2-3: Chi phí trung bình của ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô ............................... 9
Hình 2-4: Sự giảm giá sản phẩm khi tăng cạnh tranh ........................................................... 9
Hình 3-1: Sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam trong những năm 1992-2012 ..... 11
Hình 3-2: Cước và thay đổi giá cước VTDĐ từ 2000-2003 ............................................... 15
Hình 3-3: Biểu đồ thời gian về một số mốc trong thay đổi cấu trúc của VNPT, cơ sở pháp
luật của viễn thông và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ........................................ 17
Hình 3-4: Thay đổi giá cước của ba nhà mạng Vinaphone-MobiFone, và Viettel từ 2004-
2010 (Đơn vị: VND/phút) .................................................................................................... 21
Hình 3-5: LỊCH TRÌNH TĂNG SỐ TRẠM THU PHÁT SÓNG của ba nhà mạng lớn nhất
Việt Nam .............................................................................................................................. 22
Hình 3-6: Sự giảm cước và tăng số trạm thu phát sóng của Viettel và VNPT ................... 23
Hình 3-7: Sự phát triển số thuê bao và sự giảm giá cước di động của Việt Nam ............... 26
Hình 3-8 : Giá trị hiệu dụng trung bình một phút điện thoại ở một số nước châu Á (đơn vị:
USD) .................................................................................................................................... 28
Hình 3-9 : Thị phần thuê bao các mạng di động của Việt Nam từ 2008 đến 2012 ............. 29
Hình 3-10 : Sự tăng doanh thu di động và sự giảm giá cước di động của Việt Nam.......... 30
Hình 3-11 : Sự tăng doanh thu và sự giảm giá cước di động của Việt Nam (2004-2012) .. 30
Hình 3-12: Sự tăng lợi nhuận và sự giảm giá cước di động của Việt Nam (2004-2012) ... 31
-x-
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3-1: Ví dụ về SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC GÓI CƯỚC và các chương trình khuyến
mại của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động tại Việt Nam ................................... 27
Bảng 3-2: Thị phần thuê bao các mạng di động của Việt Nam từ 2008 đến 2012.............. 29
-1-
Chương 1.
GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu:
Trong những năm sau 2008 cho đến nay, kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh bởi sự
bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu,
hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước bị sụt giảm. Trong khi nhiều
ngành công-nông-lâm nghiệp và kinh doanh dịch vụ doanh thu sụt giảm đáng kể, thì ngành
viễn thông di động (VTDĐ) vẫn tăng trưởng, hơn nữa sự tăng trưởng đó lại có đóng góp
chủ yếu của hai tập đoàn kinh tế nhà nước là Viettel và VNPT: Năm 2013, VNPT ước đạt
tổng doanh thu 119,000 tỷ đồng, bằng 102.53% so với năm 2012; nộp ngân sách nhà nước
đạt 7,894 tỷ đồng, bằng 100.47% so với năm 2012; tổng lợi nhuận toàn Tập đoàn ước đạt
9.265 tỷ đồng, bằng 179,09% so với năm 2012. Viettel ước đạt tổng doanh thu 162,886 tỷ
đồng, tăng 15.2% so với năm 2012. Lợi nhuận sau thuế ước đạt 26,413 tỷ đồng, tăng
25.2% so với năm 2012; nộp ngân sách Nhà nước ước thực hiện 17,586 tỷ đồng, tăng
19.4%. (theo bộ CNTT & TT trong (Việt Hà, 2014)).
Không chỉ tồn tại và vượt qua khủng hoảng kinh tế, điều đáng kể là ngành VTDĐ đã
có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt kể từ khi Viettel tham gia vào thị trường này
năm 2004: tính cạnh tranh trong thị trường nâng lên đáng kể, vùng phủ sóng mở rộng
nhanh chóng ra toàn quốc, giá cước giảm mạnh, số người dùng tăng nhanh và chất lượng
dịch vụ ngày một cải thiện.
Từ một thị trường mang tính độc quyền chi phối bởi VNPT - nắm giữ hai mạng di
động là MobiFone và Vinaphone, khách hàng phải chịu giá cước cuộc gọi đắt đỏ trong khi
chất lượng dịch vụ hạn chế, hiện nay đang có năm (5) nhà mạng đang cung cấp dịch vụ di
động trên thị trường với giá cước thấp hơn nhiều và chất lượng dịch vụ được cải thiện đáng
Chẳng hạn, năm 2000, dịch vụ VTDĐ vẫn chia làm ba vùng cước với mức cước cao:
kể.
nội vùng là 3500 đồng/phút, liên vùng: 6000 đồng/phút và cách vùng là 8000 đồng/phút
với giá thuê bao là 200 nghìn đồng/tháng. Đến tháng 10/2004 khi mạng di động Viettel phá
vỡ thành công thế độc quyền trên thị trường viễn thông, người sử dụng mới vỡ lẽ khi giá
cước cuộc gọi liên tục giảm mạnh, chất lượng liên tục được nâng cao. Đến năm 2012, giá
một phút di động chỉ còn xấp xỉ 1000 đồng và phí thuê bao chỉ còn 49000 đồng/tháng, bất
-2-
kể tình hình kinh tế trong nước biến động với tốc độ tăng trưởng GDP những năm gần đây
sụt giảm và lạm phát ở mức cao.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách, (Tuyết Ân, 2013)
Hình 1-1: Tăng trưởng và Lạm phát ở Việt Nam, từ 1995-2012
Số thuê bao ĐTDĐ của Việt Nam cũng tăng lên vượt bậc. Năm 2001 mới chỉ có là 1.5
thuê bao trên 100 dân, trong khi của thế giới lúc đó trung bình là 15.5, của các nước phát
triển là 47.1, thì đến năm 2005, con số này đã tăng lên 10 lần với 11.3 thuê bao trên 100
dân; và cho đến năm 2012 tiếp tục tăng gấp hơn 10 lần với 147.7 thuê bao, vượt qua mức
trung bình của thế giới là 91.2 thuê bao trên 100 dân, và cũng vượt qua con số 123.6 - là số
thuê bao trung bình của các nước đã phát triển.
-3-
Hình 1-2 : Sự phát triển của số thuê bao điện thoại di động trên 100 dân của Việt
Nam so với khối các nước phát triển, đang phát triển và của thế giới
160
140
120
100
80
60
Số thuê bao di động trên 100 dân 2001-2013
n â d 0 0 1 n ê r T
40
20
0
The developed/developing country classifications are based on the UN M49, see: http://www.itu.int/ITU-D/ict/definitions/regions/index.html
Các nước phát triển
Thế giới
Các nước đang phát triển
Việt Nam
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ (ITU- International Telecommunication Union, 2013)
Trên đồ thị có thể thấy rõ sự gia tăng số thuê bao ĐTDĐ của VN bắt đầu khởi sắc từ cuối
năm 2004, đầu năm 2005, và gia tăng đột biến vào khoảng năm 2006,2007 đến năm 2009
(đường dốc lớn) và cắt qua các đường trung bình của thế giới, và giảm đi 1 chút từ 2010-
2012 (độ dốc nhỏ hơn)
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, nhà nước Việt Nam vẫn
chủ trương lấy doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo, mặc dù nhiều doanh nghiệp nhà nước
hoạt động không hiệu quả, những mô hình như Vinashin, Vinalines… thất bại ở môi
trường kinh doanh mới cạnh tranh khốc liệt hơn, thì thị trường VTDĐ Việt Nam với hiện
tượng hai doanh nghiệp hiện nay 100% vốn nhà nước Viettel và VNPT phát triển như nêu
trên quả là một vấn đề đáng lưu ý, đặc biệt là trong giai đoạn này khi các doanh nghiệp
viễn thông đang thực hiện tái cấu trúc, thì việc phân tích những yếu tố có lợi cho sự phát
triển của thị trường lại càng cần thiết.
-4-
Bên cạnh đó, công nghệ và kỹ thuật trên thế giới vẫn liên tục phát triển nhanh chóng,
sẽ tác động lớn đến ngành VTDĐ của Việt Nam. Đã xuất hiện những công nghệ mới ảnh
hưởng lớn đến doanh thu của ngành VTDĐ, như các dịch vụ cung cấp nội dung trên nền
mạng viễn thông (OTT - Over-the-top) giúp nhắn tin, nói chuyện miễn phí trên di động…,
hay xa hơn nữa là những hạ tầng công nghệ mới tốc độ cao như Google Fiber, Siemens
5G, hay các ý tưởng táo bạo phủ sóng toàn cầu của các tập đoàn công nghệ lớn như
Google, Facebook, cho phép truyền nhận miễn phí (hoặc phí cực thấp) tín hiệu truy cập
vào Internet từ trên vệ tinh hoặc trên khinh khí cầu hay máy bay không người lái (Project
Loon (http://www.google.com/loon/), và dự án Internet cho tất cả mọi người
(http://internet.org). Khi những dự án này thành công, thì khách hàng cá nhân sẽ không còn
nhu cầu sử dụng dịch vụ của VNPT hay Viettel nữa,… nếu họ không cạnh tranh được với
các dự án này.
Phân tích sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam để nhìn nhận nguyên nhân cốt
lõi giúp cho thị trường phát triển và cạnh tranh được như vậy, từ đó đưa ra những khuyến
nghị chính sách trong bối cảnh đã nêu ở trên là mục đích mà tác giả muốn đạt được trong
luận văn này.
1.2. Câu hỏi nghiên cứu
1. Thị trường viễn thông di dộng Việt Nam trong giai đoạn 1992-2012 đã có sự biến
chuyển như thế nào và sự thành công của Viettel đã tác động thế nào tới cấu trúc của thị
trường?
2. Tại sao Viettel thành công trong bối cảnh cạnh tranh với VNPT trong thị trường
viễn thông di động?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là thị trường viễn thông di dộng Việt Nam
trong giai đoạn 1992-2012.
1.4. Cấu trúc của luận văn
Luận văn có 05 chương, bao gồm:
-5-
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
Chương 3: Sự phát triển của thị trường viễn thông di động Việt Nam và đóng góp của
Viettel.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị chính sách.
-6-
Chương 2.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH
2.1. Kinh tế vi mô về ngành có lợi thế theo quy mô
Viễn thông di động là một ngành có lợi thế theo quy mô. Theo định nghĩa những ngành
sản xuất càng hiệu quả với quy mô càng lớn gọi là ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô.
Một cách đơn giản, nếu các đầu vào tăng gấp đôi thì sản lượng của hãng tăng gấp hơn hai
lần, và khi sản lượng sản xuất ra càng nhiều thì chi phí trung bình trên một đơn vị sản
phấm càng thấp. Với VTDĐ cần chi phí ban đầu rất lớn để đầu tư về mặt hạ tầng kỹ thuật,
nhưng sau khi đã có hạ tầng kỹ thuật, với mỗi thuê bao mới đăng nhập vào hệ thống, chi
phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra rất ít, gần như bằng không, phần lớn chi phí thu được từ
người dùng được tính vào lợi nhuận của công ty.
Sự phát triển của thị trường viễn thông di động Việt Nam (giá cước giảm, số người sử
dụng dịch vụ tăng cao) có thể giải thích thông qua ba yếu tố, đó là hiệu ứng kết hợp giữa
những thay đổi về mặt kỹ thuật – công nghệ, hiệu ứng thị trường của nền kinh tế theo quy
mô và sự gia tăng thương mại và cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế . Việt
Nam là một thị trường mà nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông di động lớn: dân số Việt
Nam hiện nay đã vượt 90 triệu người, số người đi làm xa nhà ngày càng nhiều, các thiết bị
di động cá nhân ngày càng rẻ khiến nhu cầu sử dụng dịch vụ VTDĐ ngày càng tăng. Với
các mặt khác không thay đổi, việc cầu tăng thường dẫn tới giá cả thị trường tăng nhưng
ngành VTDĐ là một ngành tăng cung có tác động lớn đến giá cả hơn là tăng cầu:
1/ Lợi thế kinh tế theo quy mô bên trong: Khi ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô
phát triển, các hãng có thể lợi dụng lợi thế kinh tế theo quy mô - hạ giá thành đơn vị sản
phẩm. Lợi thế kinh tế theo quy mô gây ra sự dịch chuyển đi xuống của đường cong chi phí
trung bình dài hạn (long-run average cost - LRAC). Lợi thế kinh tế theo quy mô bên ngoài
sẽ mang đến sự dịch chuyển xuống phía dưới của chi phí sản xuất một sản phẩm trong dài
hạn cho mỗi mức đầu ra. Sự cải thiện chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng lên nhờ
việc tích luỹ các kinh nghiệm của ngành (do vậy còn được gọi là đường nhận thức hay
đường học tập) cũng có hiệu ứng tương tự.
-7-
Hình 2-1: Lợi thế kinh tế theo quy mô bên trong và đường nhận thức
Nguồn: (Robert S.Pindyck, Daniel L.Rubinfeld, 1999) trang 255, (Riley, 2012)
2/ Những tiến bộ trong kỹ thuật và công nghệ: các quá trình và thiết bị kỹ thuật phát
triển cung cấp cơ hội cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông có thể cung cấp sản lượng,
dịch vụ nhanh hơn, với giá thấp hơn và chất lượng tốt hơn.
3/ Xem xét đồ thị sau (Hình 2-2):
- Kinh tế theo quy mô cho phép nhà cung cấp dịch chuyển từ đường chi phí trung bình
SRAC1 đến SRAC2
- Một nhà sản xuất tối đa hoá lợi nhuận sẽ sản xuất ra sản lượng ở mức Q2 và bán ra
với mức giá P2 thấp hơn nhưng vẫn có lợi lớn hơn nhiều (so sánh 2 hình chữ nhật kẻ sọc
trên hình)
-8-
Nguồn: (Riley, Long-run costs - economies & diseconomies of scale, 2012)
Hình 2-2: Tính kinh tế theo quy mô: sự giảm giá và tăng lợi nhuận
Do đó, để cạnh tranh được trong lĩnh vực có lợi thế về quy mô thì chính sách giá đóng
vai trò quan trọng, các doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường sẽ không thể tồn tại nếu giá
sản phẩm của các doanh nghiệp đang chiếm vị trí thống lĩnh không được chính phủ quản
lý, vì khi đó các doanh nghiệp này có thể hạ giá xuống thấp mà vẫn có lãi và “đè bẹp”
được các doanh nghiệp mới. Như trên Hình 2-3, doanh nghiệp đang ở vị trí thống lĩnh thị
trường ở điểm M, do lợi thế về quy mô nên chi phí sản xuất trung bình trên một đơn vị sản
phẩm sẽ thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp mới gia nhập thị trường có chi phí ở điểm (1)
AC1. Do vậy doanh nghiệp thống lĩnh có thể bán sản phẩm ra với giá P* cao hơn chi phí
AC0 nhiều mà vẫn có thể giữ P* nhỏ hơn chi phí AC1 của doanh nghiệp mới nếu như
không bị chính phủ kiểm soát giá. Chỉ khi doanh nghiệp mới đạt được quy mô Q2 lớn hơn
hoặc tương đương với Q0 của doanh nghiệp đang thống lĩnh, doanh nghiệp mới mới không
cần chính phủ bảo hộ về giá, vì lúc này chi phí AC2 cạnh tranh được với AC0 (AC2
<=AC0) và khi đó giá sẽ không còn do một doanh nghiệp thống lĩnh quyết định như trước
được nữa.
-9-
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 2-3: Chi phí trung bình của ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô
Sự tham gia của các doanh nghiệp mới vào thị trường - kết quả của việc mở cửa thị
trường, xóa bỏ độc quyền và cho phép cạnh tranh cũng sẽ dẫn tới một bước dịch chuyển về
phía ngoài (outward shift) của đường cung thị trường. Cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà
cung cấp dịch vụ sẽ giữ cho giá thấp xuống.
Nguồn: (Riley, 2012)
Hình 2-4: Sự giảm giá sản phẩm khi tăng cạnh tranh
-10-
Những nhân tố trên kết hợp lại với nhau sẽ giải thích tại sao Viettel cạnh tranh được
với VNPT, và giá dịch vụ VTDĐ giảm, số lượng thuê bao tăng, đặc biệt là khi thị trường
có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ.
Luận văn sử dụng khung lý thuyết trên của kinh tế vi mô để nhận ra các điểm nút tạo
nên sự phát triển của thị trường VTDĐ. Bên cạnh đó, tác giả kết hợp với việc phân tích
logic các tác động của môi trường, thể chế & con người tạo nên điểm nút để phân tích
nguyên nhân sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam những năm vừa qua.
2.2. Các nghiên cứu liên quan
Có khá nhiều nghiên cứu của thế giới về sự phát triển của thị trường viễn thông các
nước, chẳng hạn như các nghiên cứu của (ZENG Jianqiu, 2005), (Li, 2008), (Fang Chen,
2009), (Yanan Fu, 2010).
Tuy nhiên, các nghiên cứu về sự phát triển của thị trường viễn thông Việt Nam liên hệ
với chính sách công không nhiều. Nghiên cứu sát với chủ đề này nhất có lẽ là nghiên cứu
của tác giả Trần Nhật Lệ (Trần Nhật Lệ, 2007) từ cách đây hơn 6 năm. Ngoài ra còn có
nghiên cứu nhỏ của Johannah Branson về Chính sách cạnh tranh: “Competition policy in
Asean: Case studies” năm 2008, trong đó Việt Nam được nêu ra như một ví dụ để xem xét.
Điểm chung, thống nhất của các nghiên cứu này là cạnh tranh đã giúp thị trường viễn
thông di động phát triển.
-11-
Chương 3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
VIỄN THÔNG DI ĐỘNG VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ
CẠNH TRANH VIETTEL
Thị trường VTDĐ Việt Nam bắt đầu từ năm 1992 khi Tổng công ty bưu chính Viễn
thông Việt Nam (VNPT) triển khai mạng điện thoại di động đầu tiên Callink tại thành phố
Hồ Chí Minh (xem thêm thông tin chi tiết ở Phụ lục 1 – Tóm tắt về cơ quan quản lý và các
mạng VTDĐ Việt Nam). Từ đó cho đến năm 2012 sự phát triển của thị trường VTDĐ VN
có thể chia thành 4 điểm nút tạo nên bước ngoặt của thị trường:
i) Điểm nút thứ nhất là năm 1995: điểm khởi đầu cạnh tranh về mặt lý thuyết.
ii) Điểm nút thứ hai – năm 2004: bắt đầu cạnh tranh với sự tham gia mạng VTDĐ của
Viettel.
iii) Điểm nút thứ ba – năm 2005: bắt đầu cạnh tranh mạnh mẽ khi Viettel phát triển cơ
sở hạ tầng mạng lưới di động tương đương VNPT
iv) Điểm nút thứ bốn – từ cuối năm 2005 trở đi: thực sự xóa bỏ thế độc quyền của
VNPT và thị trường VTDĐ VN bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ.
Hình 3-1: Sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam trong những năm 1992-2012
Telecommunication Union, 2013)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các nguồn như trong phụ lục 1 và (ITU- International
-12-
3.1. Các điểm nút phát triển của thị trường Viễn thông di động Việt Nam
Thị trường VTDĐ VN giai đoạn 1992-1994:
Đây là thời kỳ mở đầu của thị trường di động Việt Nam, hoàn toàn độc quyền quản lý
và kinh doanh bởi Tổng công ty bưu chính viễn thông VNPT.
Có thể nói do đây là ngành thuộc công nghệ mới thời đó và mang đặc điểm của tính
kinh tế theo quy mô với chi phí thiết lập cơ sở hạ tầng kỹ thuật cao nên cơ quan quản lý
viễn thông của Việt Nam lúc đó lựa chọn cách hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý; dựa trên Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban
hành từ cuối năm 1987.
Với sự ra đời của mạng di động Callink năm 1992 – mạng di động dùng tín hiệu tương
tự (analog) này là sản phẩm hợp tác kinh doanh thử nghiệm giữa Bưu điện thành phố Hồ
Chí Minh – đơn vị trực thuộc VNPT với STI Singapore, Việt Nam lần đầu tiên có dịch vụ
thông tin di động, tuy với giá rất cao. Những chiếc điện thoại Callink không có sim và mới
chỉ có chức năng đàm thoại thông thường, không nhắn tin hay đàm thoại tay ba, chuyển
cuộc gọi hay quay số tắt,… và giá máy điện thoại cho mạng này rẻ nhất là 300USD (3 triệu
đồng tại thời điểm 1992) và cao nhất là 25 triệu/chiếc. Thời điểm này, giá cước trung bình
mỗi tháng của thuê bao cá nhân là 1 triệu đồng, của thuê bao doanh nghiệp là từ vài chục
đến hàng trăm triệu (Báo bưu điện Việt Nam, 2008). Thống kê của ITU (ITU- International
Telecommunication Union, 2013) Việt Nam năm 1992 chỉ có 800 thuê bao di động.
Năm 1993 MobiFone ra đời, trở thành mạng thứ hai khai thác dịch vụ VTDĐ (sau
mạng Callink), nhưng là mạng đầu tiên sử dụng công nghệ hiện đại GSM ở Việt Nam.
Doanh nghiệp khai thác MobiFone là Công ty thông tin di động (VMS), lúc mới thành lập
(1993) công ty trực thuộc Tổng cục Bưu điện và nằm ngoài VNPT. Khi thành lập các Tổng
công ty 91 (năm 1995), Tổng cục Bưu điện chủ trương đưa MobiFone vào VNPT cùng với
các công ty trong khối công nghiệp.
Đến năm 1994, số thuê bao di động của Việt Nam mới chỉ đạt 12,500 thuê bao, tức là
trung bình khoảng 100 dân thì có 0.02 thuê bao (ITU- International Telecommunication
Union, 2013).
-13-
1992-1994 cũng là giai đoạn đánh dấu những bước tiến trong quá trình hội nhập khu
vực của Việt Nam: tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) – năm
1992, trở thành Quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hàng năm
và cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN,
- bước chuẩn bị cho việc chính thức trở thành thành viên của ASEAN vào ngày 28/7/1995.
Qua quá trình hội nhập này Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm các nước, để phát
triển được đất nước thì phải thực hiện cạnh tranh trên các thị trường. Năm 1993, được sự
tư vấn của các chuyên gia nước ngoài về việc phát triển cơ sở hạ tầng đường sá, viễn
thông, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chủ trương lấy cạnh tranh làm cơ sở của sự phát triển
cho viễn thông. Một công ty viễn thông dân sự đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh đã
được chính ông trực tiếp đề xuất và đã gặp phải rào cản phản đối với lý do “an ninh quốc
phòng”. Điều này đã dẫn tới việc ông vận động chính những người trong quân đội và chính
phủ lúc đó bao gồm: Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh, Tư lệnh thông tin Nguyễn
Chiến, Ủy viên Bộ chính trị Đào Duy Tùng, và ông Nguyễn Mạnh Hùng, người sau này trở
thành Tổng giám đốc Viettel. (Viettel, 2009). Chính bước đi hợp lý này của Thủ tướng đã
giúp gạt bỏ những quan ngại lớn nhất tới sự ra đời của một công ty viễn thông thứ 2.
Viettel chính thức ra đời sau đó vào năm 1995, tiếp đến là sự ra đời của Saigon Postel năm
1996. Sự việc trên đã chính thức đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển của thị
trường VTDĐ VN mà ta sẽ xét ở phần tiếp theo.
Như vậy, tóm lại, giai đoạn 1992-1994 là thời kỳ mở đầu của thị trường di động Việt
Nam, hoàn toàn độc quyền quản lý và kinh doanh bởi Tổng công ty bưu chính viễn thông
VNPT. Tuy nhiên với sự tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, các nhà lãnh đạo của Việt
Nam đã ý thức được vai trò của cạnh tranh và đã hình thành chủ trương thiết lập cạnh
tranh cho thị trường VTDĐ Việt Nam. Điều này dẫn đến điểm nút đáng lưu ý đầu tiên
trong sự phát triển của thị trường này, năm 1995: - điểm khởi đầu cạnh tranh về mặt lý
thuyết của thị trường VTDĐ Việt Nam.
Thị trường VTDĐ VN giai đoạn 1995 - 2003:
Giai đoạn này có thể gọi là cạnh tranh về mặt lý thuyết hay tiền cạnh tranh bởi vì tuy
đã có hai doanh nghiệp ngoài VNPT hoạt động trong lĩnh vực viễn thông là Viettel và SPT
nhưng thực tế VNPT vẫn nắm gần như 100% thị trường viễn thông di động.
-14-
SPT và Viettel đều được phép khai thác dịch vụ viễn thông di động từ năm 1995 nhưng
do rào cản gia nhập thị trường lớn - cơ sở hạ tầng trang thiết bị và công nghệ ban đầu đòi
hỏi phải có nguồn vốn lớn, nên gần 10 năm này (1995-2003) cả SPT và Viettel đều chưa
thâm nhập được thị trường VTDĐ. Viettel ra đời năm 1995 (Phụ lục 1), đăng ký giấy phép
cung cấp dịch vụ viễn thông di động với cam kết không phụ thuộc vào nguồn tài chính của
chính phủ để phát triển loại hình dịch vụ này. Năm 1999, vốn của Viettel chỉ có 2.3 tỷ
đồng do Bộ quốc phòng cấp và nhân sự là 100 người (Viettel-Nội san, 2014). Với SPT,
vốn ban đầu là khoảng 50 tỷ đồng (SPT, 2013). Trong tương quan, tổng doanh thu Viettel
năm 2000 là 54 tỷ VND (Viettel, 2012) còn của VNPT là 15000 tỷ VND (VNPT, 2013),
có thể thấy nguồn lực của Viettel tại thời điểm này là không đáng kể.
Năm 1996, mạng GSM thứ hai, Vinaphone ra đời, nhưng không có sự khác biệt đáng
kể so với MobiFone: cả hai mạng đều cùng thuộc VNPT, có cùng dịch vụ, cùng giá cước
được quyết định bởi VNPT và Chính phủ. Thị trường VTDĐ vẫn hoàn toàn độc quyền.
Khi độc quyền, một công ty có thể quyết định giá và giá này có thể cao hơn chi phí
trung bình rất nhiều. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trên thế giới mà giá cước
VTDĐ giảm dần, giá cước ở Việt Nam cũng giảm nhưng do độc quyền nên giảm chậm và
vẫn ở mức cao, chất lượng dịch vụ không có gì thay đổi…( Hình 3-2: Cước và thay đổi
giá cước VTDĐ từ 2000-2003). Do giá cao hơn chi phí trung bình nên VNPT có lãi rất
lớn, lợi nhuận năm 2003 lên tới 6.000 tỉ đồng (tăng 2.000 tỉ đồng so với dự kiến)” (Bộ
trưởng Bộ bưu chính viễn thông Đỗ Trung Tá trong (Hoàng Ly, 2004))
-15-
Hình 3-2: Cước và thay đổi giá cước VTDĐ từ 2000-2003
Đơn vị: VND/phút
Trong 4 năm từ 2000 đến 2003 có ba lần thay đổi cước, với mức cước nội vùng từ 3500
VND/phút xuống còn 3000 VND/phút (với thuê bao trả trước) và 1800 VND/phút với thuê
Nguồn: số liệu từ phụ lục 1 trong (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012)
bao trả sau
Như vậy giai đoạn này thực chất vẫn là độc quyền VNPT, tuy nhiên từ quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam và chủ chương ủng hộ cạnh tranh trong lĩnh vực VTDĐ của
thủ tướng, thời kỳ này cũng đã bắt đầu hình thành những yếu tố thể chế tạo điều kiện cho
cạnh tranh thực sự trên thị trường VTDĐ Việt Nam sau này:
- Với chủ trương mở cửa, nước ta tham gia vào nhiều khu vực tự do thương mại -
VTDĐ là một lĩnh vực thường được đặt lên bàn đàm phán bởi các nhà đầu tư nước ngoài
rất để ý đến tiềm năng của thị trường VTDĐ ở nước ta. Trong các cuộc thương thuyết giữa
Việt Nam và Mỹ để đi đến ký kết hiệp đinh thương mại song phương Việt - Mỹ (1995-
2000), và giữa Việt Nam với các nước trong quá trình đàm phán gia nhập WTO (1995-
2007): việc mở cửa thị trường VTDĐ luôn là một trong những điểm quan trọng được đưa
ra thảo luận và Việt Nam buộc phải cam kết sẽ dần dần tự do hóa thị trường này, cho phép
nhiều thành phần tham gia vào thị trường.
-16-
Theo chủ trương hội nhập đó, năm 1995 MobiFone hợp tác với Công ty Comvik
Vietnam AB thuộc tập đoàn Kinnevik (Thụy Điển) theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract – BCC1), trong mười năm – từ 1995-2005. Những
năm hợp tác này đã giúp MobiFone tận dụng được thêm nguồn vốn và học hỏi thêm được
kinh nghiệm quản lý và vận hành của đối tác nước ngoài.
Năm 2003, cũng từ sự hợp tác với nước ngoài – BCC giữa Công ty dịch vụ Bưu chính
viễn thông Sài Gòn SPT với SLD Telecom (Hàn Quốc), mạng di động đầu tiên phá thế độc
quyền VTDĐ của VNPT là S-Fone ra đời.
1 BCC là một dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó đối tác nước ngoài đầu tư vào các công ty Việt Nam thông qua việc đầu tư vốn, chuyển giao kỹ thuật, các kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực. Hai bên thống nhất những hoạt động kinh doanh dựa trên bản hợp đồng kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới, lợi nhuận sẽ được hai bên phân chia theo tỷ lệ thoả thuận trong hợp đồng. Bên phía Việt Nam chịu trách nhiệm toàn bộ việc quản lý và vận hành kinh doanh và được hưởng toàn bộ tài sản sau khi hợp đồng BCC chấm dứt. Như vậy BCC thoả mãn yêu cầu tăng vốn dài hạn (độ dài của hợp đồng BCC thường là 6-15 năm để đủ thời gian hoàn vốn và thu lãi), thu nhận được các kỹ thuật mới, học được các kỹ năng quản lý, kiểm soát được luồng tài chính của đối tác nước ngoài.
-17-
Hình 3-3: Biểu đồ thời gian về một số mốc trong thay đổi cấu trúc của VNPT, cơ sở
Nguồn: Tác giả tổng hợp
pháp luật của viễn thông và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
-18-
- Năm 1995 cũng đánh dấu sự thay đổi trong quản lý ngành viễn thông khi Tổng công
ty Bưu chính viễn thông Việt Nam chính thức tách khỏi chức năng quản lý nhà nước, và
trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh, quản lý khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu
chính, viễn thông theo mô hình Tổng Công ty 91, trực thuộc Chính phủ và Tổng cục Bưu
điện với tên giao dịch quốc tế viết tắt là VNPT.
- Cuối giai đoạn này, năm 2002, Bộ bưu chính viễn thông được thành lập, thay thế
Tổng cục Bưu điện, chịu trách nhiệm quản lý mảng viễn thông; Pháp lệnh Bưu chính viễn
thông được thông qua cũng năm đó (Số hiệu 43/2002/PL-UBTVQH10, ban hành ngày
25/05/2002),… là những thay đổi thể chế quan trọng tạo nên điều kiện thuận lợi giúp
Viettel và S-Fone có thể cạnh tranh trên thị trường VTDĐ sau này.
Điều này dễ hiểu vì, với ngành có lợi thế theo quy mô như VTDĐ, việc tổ chức một
hãng lớn sẽ có lợi thế kinh tế hơn là nhiều hãng nhỏ, do vậy hãng đang ở vị trí độc quyền
thống lĩnh thị trường có khả năng kiểm soát giá cả mà nó đặt ra; và do đó nếu không bị
chính phủ điều tiết giá thì hãng có thể dễ dàng hạ giá xuống rất thấp để có thể “đè bẹp” các
hãng mới gia nhập thị trường. Để có thể phá thể độc quyền và cạnh tranh được, thì doanh
nghiệp mới gia nhập ngành cần được chính phủ hỗ trợ, ít nhất là có chính sách kiểm soát
giá của những doanh nghiệp đang thống lĩnh thị trường, cho đến khi doanh nghiệp đạt
được một mức sản lượng nhất định để chi phí trung bình đủ thấp, đạt mức tương đối so với
các doanh nghiệp đang thống lĩnh kia, thì doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh trên thị
trường sản phẩm.
Pháp lệnh viễn thông ra đời đã đạt được điều đó:
Có thể thấy trong Pháp lệnh viễn thông, điều 44, quy định, giá cước dịch vụ viễn
thông của doanh nghiệp có thị phần khống chế thì phải thông qua sự phê duyệt của cơ quan
quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông, trong khi các doanh nghiệp mới gia nhập thị
trường thì không phải qua phê duyệt mỗi lần thay đổi giá. Chính vì thế Viettel và SPT và
sau này là Beeline,... đã có thể tiếp cận khách hàng nhanh chóng theo chiến lược giá để
cạnh tranh với các đối thủ đang thống lĩnh thị trường, và tạo nên cạnh tranh về giá.
Bên cạnh đó, pháp lệnh Viễn thông còn có những quy định giúp bảo vệ các doanh
nghiệp viễn thông mới ra đời khỏi sự chèn ép của các doanh nghiệp đang thống lĩnh.
-19-
Chẳng hạn, điều 39, các doanh nghiệp đang thống lĩnh thị trường bị ràng buộc: “Không
được sử dụng các ưu thế của mình để hạn chế hoặc gây khó khăn cho hoạt động cung cấp
dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông khác;” “Chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về thị phần, chất lượng và giá cước đối với dịch vụ viễn
thông chiếm thị phần khống chế.” Hay điều 43, về kết nối các mạng viễn thông cũng quy
định rõ: “Doanh nghiệp viễn thông có quyền kết nối mạng viễn thông của mình với mạng
hoặc dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp khác, đồng thời có nghĩa vụ cho các doanh
nghiệp viễn thông khác kết nối vào mạng hoặc dịch vụ viễn thông của mình với điều kiện
công bằng và hợp lý trên cơ sở sử dụng hiệu quả tài nguyên thông tin, sử dụng chung vị trí
kết nối và cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua thoả thuận kết nối giữa các bên”; “Doanh
nghiệp viễn thông nắm giữ các phương tiện thiết yếu có vai trò quyết định trong việc kết
nối và cung cấp dịch vụ viễn thông không được từ chối yêu cầu kết nối của các chủ mạng
viễn thông dùng riêng và các doanh nghiệp viễn thông khác, đồng thời phải tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đàm phán và thực hiện kết nối, nếu yêu cầu đưa ra hợp lý và khả thi về
kinh tế, kỹ thuật;”…Những căn cứ như vậy là cơ sở giúp các doanh nghiệp mới gia nhập
có cơ sở để có thể kiện lên cơ quan chức năng khi bị doanh nghiệp đang chiếm thị phần chi
phối chèn ép hoặc không cho kết nối mạng – điều thường xảy ra trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt của các thị trường của ngành có lợi thế quy mô.
Không như SPT có được 230 triệu USD đầu tư ban đầu qua hợp đồng hợp tác kinh
doanh BCC với SLD để thiết lập mạng S-Fone, những năm cuối giai đoạn 1995-2003, từ
2000 đến 2003, Viettel nhờ kinh doanh dịch vụ gọi điện thoại đường dài IP (VOip) 178
mới có được số vốn 15 triệu USD ( BizLIVE.vn, 2014) để có thể bắt đầu tham gia vào thị
trường VTDĐ. Tuy nhiên, cho đến giờ nhìn nhận lại, chính sự tham gia của Viettel vào thị
trường VTDĐ năm 2004 đã tạo một điểm nút quan trọng cho sự phát triển, kết thúc giai
đoạn cạnh tranh chỉ mang tính lý thuyết 1995-2003 của thị trường VTDĐ Việt Nam.
Tóm lại, giai đoạn 1995-2003 có thể gọi là thời kỳ cạnh tranh lý thuyết hay tiền cạnh
tranh bởi vì VNPT vẫn nắm gần như 100% thị trường viễn thông di động, tuy nhiên đã có
hai doanh nghiệp ngoài VNPT hoạt động trong lĩnh vực viễn thông là Viettel và SPT, và sự
hội nhập quốc tế của Việt Nam, nhất là sự thay đổi thể chế đã sẵn sàng cho Viettel gia
-20-
nhập thị trường VTDĐ năm 2004 – tạo điểm nút thứ hai cho sự phát triển của thị trường
VTDĐ VN.
Thị trường VTDĐ VN giai đoạn 2004 - đầu 2005:
Đây là giai đoạn thị trường VTDĐ Việt Nam bắt đầu cạnh tranh thực sự với sự tham
gia mạng VTDĐ của Viettel.
Với số vốn 15 triệu USD tiền lãi từ kinh doanh dịch vụ VoIP, Viettel đi mua 150 trạm
BTS ( BizLIVE.vn, 2014) , triển khai và chính thức khai trương mạng di động vào ngày 15
tháng 10 năm 2004 và tạo nên cuộc đua giá cước, giá cước VTDĐ giảm nhanh chóng so
với trước kia.
Để khai thác tính lợi thế theo quy mô – cần phải chiếm lĩnh được khách hàng, tăng số
thuê bao càng nhanh càng tốt và Viettel đã làm được điều này. Khác với S-Fone vào thời
điểm khai trương, vùng phủ sóng chỉ là 12 tỉnh (đến năm 2005 nâng lên 37 tỉnh), Viettel
bắt đầu với 52 tỉnh rồi mở rộng ngay trên phạm vi toàn quốc chỉ 6 tháng sau đó. Bên cạnh
đó, mạng di động 098 của Viettel sử dụng công nghệ GSM – cùng công nghệ với các mạng
MobiFone và Vinaphone của VNPT (khác với S-Fone sử dụng công nghệ CDMA) khiến
các thuê bao của hai mạng VNPT này có thể dễ dàng chuyển sang mạng mới. Do vậy, tuy
S-Fone tiên phong trong việc giảm giá dịch vụ VTDĐ với việc tính cước theo block 10
giây cho khách hàng, cước phí chỉ còn một vùng và nhiều gói cước khác nhau ngay khi S-
Fone ra đời vào tháng 7/2003 nhưng không thực sự tạo nên cuộc đua về giá; còn Viettel
với vùng phủ sóng rộng, có các chính sách thu hút các thuê bao mới (ví dụ: cho các thuê
bao mới chọn số trong gần một năm sau khi khai trương (trừ số đẹp được bán đấu giá)), và
đặc biệt là mức cước thấp (thấp hơn khoảng 30% so với MobiFone và VinaPhone, đồng
thời áp dụng phương pháp tính cước đột phá theo block 6 giây),… đã đe dọa trực tiếp đến
thị phần VTDĐ của MobiFone và VinaPhone, khiến cho hai nhà mạng của VNPT này
buộc phải bỏ “thói quen” độc quyền giữ mức giá cao trước kia, nhanh chóng xin phép Bộ
chủ quản cho phép được giảm giá (không được tự do giảm giá như các nhà mạng mới, do
ràng buộc của Pháp lệnh viễn thông năm 2002 về quản lý giá cước dịch vụ của các doanh
nghiệp viễn thông đang thống lĩnh thị trường). Tuy nhiên sau gần sáu tháng Viettel gia
nhập thị trường với mức cước dịch vụ thấp hơn nhiều so với VNPT, ngày 01/02/2005,
VNPT mới được Bộ phê duyệt và giảm giá cước nhằm giúp doanh nghiệp mới có thể thâm
nhập thị trường, không bị doanh nghiệp cũ dùng chính sách giá để “đè bẹp”.
-21-
Đến cuối năm 2004, số thuê bao di động của Việt Nam tăng lên thành gần 5 triệu thuê
bao, tức là có khoảng 6 thuê bao trên 100 dân, so với khoảng 2,7 triệu thuê bao năm 2003
với hơn 3 thuê bao trên 100 dân.
Thị trường đã có sự cạnh tranh thực sự, tuy VNPT vẫn chiếm tới 90% thị phần mạng
viễn thông (VinaPhone 50% , MobiFone: 40%, Viettel 4% và 6% của S-phone
(VietNamNet, 2004)), nhưng sự độc quyền quyết định giá của VNPT lần đầu tiên đã bị
thay đổi. Như Hình 3-4: Thay đổi giá cước của ba nhà mạng Vinaphone-MobiFone, và
Viettel từ 2004-2010 cho thấy, Viettel luôn giảm giá cước trước, sau đó Vinaphone &
MobiFone mới giảm giá và thời gian cách lần giảm giá của Viettel giảm dần từ vài ba
tháng xuống còn vài ba ngày (ví dụ, năm 2010, ngày 26/07 Viettel giảm giá thì 4 ngày sau
VNPT cũng giảm giá với mức cước thấp hơn mức cước tương ứng của Viettel là 10
đồng)…
Hình 3-4: Thay đổi giá cước của ba nhà mạng Vinaphone-MobiFone, và Viettel từ
Nguồn: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), phụ lục 1.
2004-2010 (Đơn vị: VND/phút)
-22-
Tóm lại, cuối năm 2004, với sự ra đời mạng viễn thông di động Viettel, thị trường
VTDĐ Việt Nam bắt đầu cạnh tranh thực sự, sự độc quyền quyết định giá của VNPT trên
đã bước đầu bị xóa bỏ bởi sự cạnh tranh của thị trường.
Thị trường VTDĐ VN giai đoạn nửa đầu năm 2005:
Có thể coi nửa đầu năm 2005 là một giai đoạn của thị trường VTDĐ, bởi thời kỳ này
đánh dấu việc Vietttel mở rộng mạng lưới mạnh mẽ và đây là lúc Viettel vượt lên được
ngang bằng với VNPT về số trạm thu phát sóng di động, như vậy Viettel và VNPT đạt
mức gần như tương đương về hạ tầng trạm - lợi thế theo quy mô của VNPT bị cạnh tranh.
Năm 2004 Viettel mới có khoảng 200 trạm thu phát sóng, trong khi MobiFone có
khoảng 1000 và Vinaphone là 700. Đến cuối quý một năm 2005, số trạm của Viettel đã
tăng lên gấp sáu lần, đạt 1200 trạm, đã xấp xỉ số trạm của MobiFone (1300 trạm) và
Vinaphone (1100 trạm) Nhờ đó Viettel triển khai được ồ ạt, sử dụng được triệt để chiến
lược về giá để thu hút các thuê bao (VNPT - gồm MobiFone và Viettel năm 2004 tổng
cộng cũng chỉ mới có gần 2000 trạm thu phát sóng trên cả nước). (Viettel-Nội san, 2014)
Hình 3-5: LỊCH TRÌNH TĂNG SỐ TRẠM THU PHÁT SÓNG của ba nhà mạng lớn
nhất Việt Nam
Số trạm thu phát sóng 2G:
-23-
Nguồn: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), phụ lục 2.
Số trạm thu phát sóng 3G
Cùng với việc cơ sở hạ tầng được mở rộng, nhờ tận dụng được chiến lược về giá như
vậy, sau hơn 1 năm triển khai, Viettel đã có gần 2,5 triệu thuê bao và trở thành mạng di
động có tốc độ phát triển nhanh nhất năm 2005.
Trên Hình 3-6 có thể thấy tốc độ tăng trạm thu phát sóng của Viettel tương đương với
VNPT.
Hình 3-6: Sự giảm cước và tăng số trạm thu phát sóng của Viettel và VNPT
(Ghi chú: cước phí ở đây lấy cước nội mạng làm đại diện)
tổng hợp từ các nguồn: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), và thông báo của Viettel,
VNPT trên báo chí: (Viettel, 2014), (Hồ Quang Phương, 2013), (Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2013),
(DNSG, 2011), (Vinaphone, 2014), (Huyền My, 2012), (Vinaphone-Tin tức, 2012), (MobiFone,
2013).
Nguồn: Giá cước (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), phụ lục 1; số trạm thu phát tác giả
-24-
Tóm lại, sang năm 2005, với sự thành công trong việc nhanh chóng mở rộng quy mô
trạm thu phát sóng và tiếp tục chiến lược cạnh tranh về giá, Viettel đã đạt được mức cạnh
tranh với các nhà mạng VNPT về quy mô cơ sở hạ tầng, bước tiến mới để Viettel tồn tại
được trong cuộc cạnh tranh trong ngành có tính kinh tế theo quy mô là VTDĐ.
Thị trường VTDĐ VN giai đoạn từ cuối 2005 trở đi:
Có thể đánh dấu điểm nút khởi đầu giai đoạn này là sự kiện Viettel thắng VNPT trong
vụ kiện về kết nối liên mạng, mở đầu thời kỳ thực sự xóa bỏ thế độc quyền của VNPT, thị
trường VTDĐ Việt Nam bước vào giai đoạn cạnh tranh gay gắt và phát triển mạnh mẽ.
Trong ngành VTDĐ thì việc kết nối mạng di động với mạng khác, đặc biệt là giữa
mạng di động của một doanh nghiệp mới gia nhập thị trường với mạng đang thống lĩnh thị
trường là một vấn đề hết sức quan trọng. Năm 2004, hai mạng MobiFone và Vinaphone
của VNPT chiếm tới hơn 90% tổng số thuê bao di động của toàn quốc (lúc đó là khoảng
năm triệu thuê bao), do vậy việc có kết nối di động được với các mạng lớn này hay không
là một vấn đề sống còn với sự phát triển của các mạng di động mới vì đối với khách hàng
nó phản ánh chất lượng của mạng. Như Viettel, do sự cố kết nối với VNPT trở nên nặng nề
vào đầu năm 2005 mà từ công ty số một thị trường về phát triển thuê bao mới với trên
6000 thuê bao/ngày, chỉ sau một tháng, con số này chỉ còn 3000 thuê bao, có ngày chỉ trên
2000 thuê bao; đi kèm với nó là khiếu nại gia tăng đột biến của khách hàng về nghẽn
mạng, tạo nên nguy cơ phá sản Viettel. (theo Báo Thanh Niên, 2005).
Vốn là nhà mạng lâu năm và thống lĩnh thị trường, VNPT đã luôn viện lý do kỹ thuật
gây khó khăn mỗi khi các mạng mới muốn thiết lập kết nối di động với mạng này. S-Fone
từ khi ra đời năm 2003 cũng phải chật vật cho đến tận 2005 mới kết nối được trực tiếp với
VNPT. Mạng E-mobile của công ty viễn thông điện lực EVN Telecom ra đời tháng 12
năm 2005 cũng phải kiên nhẫn khiếu nại lên bộ chủ quản gần một năm, đến cuối năm 2006
mới giải quyết được vướng mắc trong việc thực hiện kết nối di động với các mạng của
VNPT.
Viettel là nhà mạng đầu tiên thắng VNPT trong “cuộc chiến” kết nối liên mạng với
mạng này. Đứng trước nguy cơ phá sản do mất uy tín với khách hàng, nghẽn mạng khi các
thuê bao thực hiện kết nối với các thuê bao di động và cố định của mạng viễn thông thống
lĩnh thị trường là VNPT, sau nhiều lần gửi công văn sang VNPT đề nghị phối hợp giải
quyết không được, ngày 25/06/2005, Bộ quốc phòng đã soạn một công văn khẩn gửi Thủ
-25-
tướng Chính phủ báo cáo tình trạng nguy cấp của mạng di động Viettel và đề nghị Chính
phủ can thiệp khẩn cấp. Ngay sau đó 4 ngày, ngày 29/06, Bộ Bưu chính viễn thông đã
phân xử buộc VNPT phải cho phép Viettel kết nối trực tiếp, tuy nhiên Viettel nhận thấy
vấn đề cơ bản vẫn chưa được xử lý nên tiếp tục báo cáo lên Văn phòng chính phủ. Kết quả
là, ngay sau đó, Bộ Bưu chính viễn thông nhận được chỉ đạo cần nghiêm túc kiểm điểm để
rút kinh nghiệm và phải có trách nhiệm chỉ đạo VNPT thực hiện kết nối mạng cho Viettel
cũng như các doanh nghiệp khác theo chính sách hiện hành và báo cáo đúng thời hạn lên
Thủ tướng, đồng thời phải tiến hành rà soát lại những cơ chế, chính sách hiện hành liên
quan đến việc kết nối viễn thông, để sửa đổi bổ sung những quy định bất hợp lý, thiếu khả
thi. Sau chỉ đạo sát sao của Chính phủ như vậy, Viettel và các mạng khác đã thực hiện
được kết nối với VNPT, và sau đó, ngày 26/4/2006, quyết định số 12/2006/QĐ-BBCVT
của Bộ Bưu chính viễn thông đã ra đời quy định chi tiết về thực hiện kết nối giữa các mạng
viễn thông công cộng, không phân biệt đối xử giữa kết nối nội bộ và kết nối liên mạng.
Việc giải quyết được vấn đề kết nối liên mạng với VNPT đã cứu Viettel khỏi nguy cơ
phá sản trong buổi ban đầu mới tham gia thị trường VTDĐ, môi trường cạnh tranh cũng
được cải thiện hơn, các hoạt động chèn ép mạng nhỏ của các mạng lớn bị hạn chế, thị
trường VTDĐ từ đây phát triển mạnh mẽ chưa từng có, cấu trúc thị trường độc quyền bị
xóa bỏ hoàn toàn. Có thể thấy trong hình Hình 3-7, từ năm 2006, đường phát triển số thuê
bao di động trở nên dốc đứng hơn, đặc biệt là sự phát triển của Viettel và cả VNPT. Chỉ
sau hơn hai năm, đến năm 2007, với hơn 13 triệu thuê bao di động đăng ký, chiếm trên
30% thị phần, Viettel đã được xếp vào hàng doanh nghiệp thống lĩnh thị trường giống như
MobiFone và Vinaphone (Thông báo của Bộ bưu chính viễn thông (TTX, 2007)).
-26-
Hình 3-7: Sự phát triển số thuê bao và sự giảm giá cước di động của Việt Nam
(2004-2012)
Ghi chú: Số thuê bao di động của VNPT được tính là tổng số thuê bao của hai mạng di động
Vinaphone và MobiFone. Cước phí lấy cước gọi nội mạng làm đại diện.
Nguồn: Cước phí: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), Số thuê bao: (ITU-
International Telecommunication Union, 2013)
Thị trường VTDĐ Việt Nam không còn bị độc quyền bởi một doanh nghiệp thống lĩnh,
cùng với việc trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2007, các chính sách dần
được sửa đổi để đảm bảo thị trường VTDĐ mở rộng và cạnh tranh lành mạnh hơn. Năm
2009, Luật viễn thông ra đời cho phép mọi thành phần kinh tế được tham gia vào thị
trường viễn thông di động. Những năm 2009, 2010 có tới bảy nhà mạng hoạt động trên thị
trường là Vinaphone, MobiFone, Viettel, Beeline, EVN Telecom, S-Fone, Vietnamobile,
với nhiều chính sách khuyến mại và các gói cước đa dạng như có thể thấy một vài ví dụ
trong Bảng 3-1.
-27-
Bảng 3-1: Ví dụ về SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC GÓI CƯỚC và các chương trình
Nguồn: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), phụ lục 3.
khuyến mại của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động tại Việt Nam
Giá cước điện thoại của Việt Nam giảm nhanh không chỉ so với thời gian thị trường
còn ở thế độc quyền trước kia mà còn có tốc độ giảm nhanh so với nhiều nước khác trên
thế giới. Hình 3-8 dưới đây cho thấy tương quan giá cước dịch vụ di động của Việt Nam
so với một số nước châu Á trong những năm qua.
-28-
Hình 3-8 : Giá trị hiệu dụng trung bình một phút điện thoại ở một số nước châu Á
(đơn vị: USD)
Ghi chú: Giá này được tính bằng tổng doanh thu thoại từ tất cả các khách hàng chia cho tổng số
phút gọi của tất cả các khách hàng.
Nguồn: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), phụ lục 7.
Số thuê bao di động của Việt Nam năm 2004 mới có gần 5 triệu thuê bao, thì đến năm
2012 con số này là xấp xỉ 135 triệu, tức là tăng gấp 27 lần trong vòng 8 năm.
Tuy nhiên dưới sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường của ngành có tính lợi thế theo
quy mô, khi giá dịch vụ VTDĐ đã ở mức thấp, những hãng đã đạt được thị phần và quy
mô phát triển như Viettel thì tồn tại và phát triển mạnh, còn một số hãng khác đã không
cạnh tranh được và buộc phải rời khỏi thị trường do lỗ nặng, ví dụ như E-mobile của EVN
Telecom, cuối năm 2012 đã phải chuyển giao cho Viettel, S-Fone hiện cũng đã ngừng hoạt
động, Beeline rút khỏi thị trường năm 2012 và Gtel thay thương hiệu Beeline bằng
Gmobile nhưng mạng này hiện cũng hoạt động mờ nhạt trên thị trường. Bảng 3-2 và Hình
3-9 cho thấy trong thị phần thuê bao các mạng di động Việt Nam từ 2008-2012 thì Viettel
và VNPT (với hai mạng MobiFone và Vinaphone) chiếm chủ đạo, ngoài ra có mạng nhỏ
Vietnamobile là còn duy trì tăng trưởng về thị phần thuê bao tuy với mức thấp, còn các
mạng khác thị phần thuê bao đều có xu hướng giảm dần.
-29-
Nguồn: (Bộ Thông tin và truyền thông, 2013)
Bảng 3-2: Thị phần thuê bao các mạng di động của Việt Nam từ 2008 đến 2012
Nguồn: (Bộ Thông tin và truyền thông, 2013)
Hình 3-9 : Thị phần thuê bao các mạng di động của Việt Nam từ 2008 đến 2012
Đạt được quy mô mạng lưới cạnh tranh với VNPT, hoạt động kinh doanh hiệu quả,
năm 2012, Viettel đã vươn lên chính thức giữ vị trí số một trên thị trường viễn thông và là
một tập đoàn kinh tế nhà nước hàng đầu về cả doanh thu, lợi nhuận cũng như đóng góp vào
ngân sách.
Như vậy nhờ quá trình cạnh tranh, thị trường VTDĐ Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ,
người dùng được hưởng lợi từ giá cả cạnh tranh, chất lượng dịch vụ tốt lên; còn những nhà
mạng cũng phát triển theo quy mô người dùng mà tăng doanh thu và lợi nhuận. Từ Hình
3-10, Hình 3-11, Hình 3-12 có thể thấy doanh thu và lợi nhuận của nhà mạng tăng nhanh
tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển thuê bao ở Hình 3-7 trong khi giá cước thì giảm dần. Cả
người dùng và nhà mạng đều được hưởng lợi từ sự phát triển này.
-30-
Hình 3-10 : Sự tăng doanh thu di động và sự giảm giá cước di động của Việt Nam
tự tổng hợp từ các nguồn: (Viettel, 2008), (MobiFone, 2013), (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng
Phương, 2012), (Báo điện tử chính phủ, 2014), (Nguyễn Sơn, 2013), (Bộ Thông tin và truyền
thông, 2013)
Nguồn: Cước phí: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), Doanh thu di động: Tác giả
Hình 3-11 : Sự tăng doanh thu và sự giảm giá cước di động của Việt Nam (2004-2012)
tổng hợp từ các nguồn: (Viettel, 2012), (Viettel, 2014), (VNPT, 2013), và công bố của các nhà
mạng, cơ quan chức năng trên các bài báo (Hải Sơn, 2013), (Hoàng Oanh, 2011), (Trần Bình,
2012), (Hữu Tuấn, 2013), (Nguyễn Sơn, 2013), (Anh Quân, 2014).
Nguồn: Cước phí: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), Doanh thu (tổng): Tác giả tự
-31-
Hình 3-12: Sự tăng lợi nhuận và sự giảm giá cước di động của Việt Nam (2004-2012)
Ghi chú: Lợi nhuận là trước thuế, Lợi nhuận của VMS-MobiFone cũng được tính trong lợi nhuận
của VNPT
Nguồn: Cước phí: (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012), Lợi nhuận: Tác giả tự tổng hợp
từ các nguồn: (MobiFone), (Viettel-Nội san, 2014), (Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương, 2012),
và công bố của các nhà mạng, cơ quan chức năng trên các bài báo ( Baocongthuong.com.vn,
2011), (Huy Phong, 2012), (Nguyễn Sơn, 2013), (Bạch Hoàn, 2013), (Khôi Linh, 2013), (Hải Sơn,
2013), (Anh Quân, 2014)
Tóm lại, thị trường VTDĐ Việt Nam giai đoạn từ cuối 2005 với sự kiện Viettel thắng
VNPT trong vụ kiện về kết nối liên mạng đã bước sang thời kỳ thực sự không còn độc
quyền, mà bước vào giai đoạn cạnh tranh gay gắt và phát triển mạnh mẽ, mang lại lợi ích
cả cho người tiêu dùng và ngành VTDĐ: người tiêu dùng được hưởng giá cước giảm, dịch
vụ đa dạng, các nhà mạng tồn tại được trong cạnh tranh thì đạt được doanh thu và lợi
nhuận tăng cao nhờ quy mô mở rộng và thu hút được nhiều người dùng.
3.2. Phân tích các yếu tố hình thành các điểm nút phát triển của thị trường VTDĐ
Việt Nam
Nhìn lại bốn điểm nút tạo nên sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam ta sẽ thấy,
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa” chính là những yếu tố giúp cho thị trường VTDĐ Việt Nam
phát triển, trong đó yếu tố con người, nhất là những người nắm vai trò chủ chốt trong
Chính phủ và doanh nghiệp là yếu tố chủ quan mang tính quyết định: bởi chỉ những con
-32-
người có tầm nhìn, có năng lực và dám làm và dám chịu, mới nhìn nhận được “thiên thời”,
khai thác được “địa lợi” và có được “nhân hòa” để dẫn dắt thị trường và doanh nghiệp phát
triển.
Điểm nút thứ nhất, năm 1995: Khởi đầu là tư tưởng chủ đạo: hội nhập quốc tế và tạo
điều kiện cho cạnh tranh phát triển, từ nhận thức được nhu cầu cần phải có cạnh tranh thì
mới phát triển được cơ sở hạ tầng, chính người đứng đầu Chính phủ là thủ tướng đã đích
thân đôn đốc thành lập SPT và Viettel năm 1995 để tạo ra đối tượng cạnh tranh với VNPT
trong lĩnh vực viễn thông, sau này đã thực sự là đối thủ của VNPT trên thị trường viễn
thông di động.
Điểm nút thứ 2, năm 2004: Mạng di động Viettel ra đời tạo điểm nút phát triển thị
trường VTDĐ nhờ sự kết hợp giữa tầm nhìn lãnh đạo & khả năng kinh doanh của Viettel
kết hợp với thể chế và các chính sách hỗ trợ cạnh tranh của nhà nước.
Một trong những lý do quan trọng Viettel có thể bước chân vào thị trường VTDĐ lúc
đó là vốn. Viettel thành lập năm 1995 để cạnh tranh với VNPT và đã được phép kinh
doanh dịch vụ VTDĐ từ lúc đó, nhưng mãi gần mười năm sau, mới triển khai được mạng
di động do trước đó không đủ vốn.
Nguồn vốn để kinh doanh VTDĐ của Viettel đã chỉ được hình thành sau khi Viettel
chọn được người lãnh đạo có năng lực. Năm 2000, Hoàng Anh Xuân lên nắm quyền mới
đồng ý cho Nguyễn Mạnh Hùng làm dịch vụ VoIP 178 - cái mà giúp cho công ty có lưng
vốn 15 triệu USD để đầu tư cho thông tin di động sau này. Trước đó, ông Nguyễn Mạnh
Hùng từng tư vấn cho các lãnh đạo làm dịch vụ gọi điện thoại đường dài IP (VOiP) nhưng
không ai quyết định, bởi trong bối cảnh viễn thông ở thời kỳ độc quyền tuyệt đối, việc một
công ty nhỏ xíu đề xuất cung cấp dịch vụ cạnh tranh với người khổng lồ VNPT, là một
quyết định không dễ dàng đưa ra cũng như rất khó thực hiện thành công (Nguyễn Mạnh
Hùng thuật lại trong (Hoàng Ly, 4 câu chuyện đặc biệt về bộ đôi quyền lực nhất Viettel,
2014)).
Việc lựa chọn công nghệ phù hợp, GSM, không e ngại đó là công nghệ “người khổng
lồ” trên thị trường VTDĐ là VNPT lúc đó đã triển khai cũng là một lựa chọn táo bạo và
đúng đắn của Viettel. Ngoài những phân tích ưu thế kỹ thuật của công nghệ này, về kinh
tế, công nghệ này không đòi hỏi thiết bị đầu cuối đặc biệt đắt tiền như công nghệ CDMA
mà S-Fone sử dụng để triển khai mạng di động lúc đó, dễ dàng kết nối với mạng lưới di
động đã tồn tại của Vinaphone và MobiFone. Cùng công nghệ GSM có nghĩa là một mặt
-33-
thì phải cạnh tranh trực tiếp với “người khổng lồ” VNPT, nhưng mặt khác có nghĩa là dễ
lôi kéo các khách hàng của VNPT do cùng công nghệ. Quyết định giảm thuế nhập khẩu
điện thoại di động từ 10% xuống còn 5% có hiệu lực từ tháng 11/2004 của Chính phủ cũng
tạo điều kiện cho nhà mạng GSM nhanh chóng tăng lượng khách hàng.
Để cạnh tranh được trong lĩnh vực có lợi thế về quy mô thì chính sách giá là rất quan
trọng, các doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường sẽ không thể tồn tại nếu giá cước của
các nhà mạng đang chiếm vị trí thống lĩnh không được chính phủ quản lý, vì khi đó các
doanh nghiệp này có thể hạ giá xuống thấp mà vẫn có lãi và “đè bẹp” được các doanh
nghiệp mới. Pháp lệnh Viễn thông ra đời trước đó hai năm (2002) với chính sách để các
doanh nghiệp mới định giá tự do còn các doanh nghiệp đang thống lĩnh thị trường khi
muốn thay đổi giá thì phải được cơ quan chức năng phê duyệt. Sau đó khi Viettel thực hiện
giảm giá cước viễn thông và VNPT xin giảm giá thì cũng phải một thời gian, khi Viettel đã
chiếm lĩnh được mức thị trường nhất định, - sau gần sáu tháng VNPT mới được giảm cước
dịch vụ VTDĐ xuống mức cạnh tranh với Viettel. Điều này đã giúp Viettel sử dụng được
lợi thế về giá để có tốc độ phát triển nhanh chóng. Đầu năm 2007, Viettel đã trở thành một
trong ba nhà mạng có thị phần thuê bao di động trên 30% cùng với MobiFone và
Vinaphone. Tháng 6/2007, Bộ Bưu chính Viễn thông - (nay là Bộ Thông tin và Truyền
thông) đã thông báo thả nổi giá cước dịch vụ di động. Năm 2009, mạng Beeline của Công
ty cố phần viễn thông di động toàn cầu Gtel ra đời, là mạng mới ở Việt Nam nhưng đối tác
đầu tư là đối tác nước ngoài tập đoàn Vinpelcom của Nga đã có từ lâu năm và có nguồn
vốn nên mạng có khả năng áp dụng chính sách giá để xây dựng thương hiệu tại Việt Nam.
Beeline cũng đã nhanh chóng chiếm được thị trường với các gói cước khuyến mại khủng:
tháng 7/2009 xuất hiện tại thị trường Việt Nam với gói cước BigZero (Bảng 3-1), chỉ sau
ba tháng mạng này đã đạt một triệu thuê bao, và sau đó là nhiều gói cước khuyến mại hấp
dẫn khác khiến Beeline cũng đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.
Như vậy có thể nói, tầm nhìn lãnh đạo, khả năng kinh doanh của Viettel và thể chế nhà
nước hỗ trợ doanh nghiệp mới gia nhập ngành đã tạo nên điểm mốc này.
Điểm nút thứ 3: năm 2005 - bắt đầu cạnh tranh mạnh mẽ khi Viettel phát triển cơ sở
hạ tầng mạng lưới di động tương đương VNPT – tạo nên điểm nút này chính bởi “thiên
thời, địa lợi & nhân hòa”.
-34-
Năm 2004 đứng trước nguy cơ “chết yểu” do mới triển khai được 150 trạm thì hết tiền
– quy mô quá nhỏ so với VNPT lúc bấy giờ đã có hơn 1500 trạm, nhờ chịu khó đi học hỏi
kinh nghiệm mà lãnh đạo Viettel lúc đó nắm bắt được thiên thời là khủng hoảng viễn thông
trên thế giới khiến cho các công ty thiết bị viễn thông không bán được hàng, nhờ đó Viettel
mua chịu được tới 4000 trạm thu phát sóng trong khi vào thời điểm đó VinaPhone chỉ có
khoảng 650 trạm, và mỗi nhà mạng tại Việt Nam trung bình chỉ mua khoảng 30 trạm/năm,
và sau đó huy động được nhân lực của mình nhanh chóng triển khai đạt được quy mô cạnh
tranh, để có thể tạo nên lợi thế về quy mô ngang hàng, phá vỡ thế độc quyền của các nhà
mạng VNPT ( BizLIVE.vn, 2014) Nhờ đó Viettel triển khai được ồ ạt (VNPT - gồm
MobiFone và Viettel năm 2004 tổng cộng cũng chỉ mới có gần 2000 trạm thu phát sóng
trên cả nước).
Vậy có thể nói nhờ chịu khó học hỏi và nhanh chóng nắm được “thiên thời” mà những
người lãnh đạo Viettel nắm được cơ hội không những cứu được Viettel khỏi nguy cơ không
phát triển được mà còn đưa Viettel lên vị trí cạnh tranh được với nhà mạng lớn VNPT.
Điểm nút thứ 4: Điểm nút thứ bốn từ cuối năm 2005 trở đi: thực sự xóa bỏ thế độc
quyền của VNPT và thị trường VTDĐ VN bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đánh
dấu bởi sự kiện Viettel thắng VNPT – tạo nên điểm nút này chính là sự quyết liệt của
Viettel và sự chỉ đạo xử lý vấn đề kịp thời của Thủ tướng chính phủ.
Sau nhiều lần thương thuyết với VNPT không được Viettel chọn giải pháp quyết liệt là
trình lên Thủ tướng, nhờ đó sự việc mới được giải quyết triệt để. Cũng có thể nghĩ vì
Viettel là doanh nghiệp quân đội nên mới kiện được lên Thủ tướng, nhưng như thế tức là
nếu Thủ tướng là người quyết liệt bảo vệ cạnh tranh thì các doanh nghiệp khác không phải
cần đến vị thế như Viettel cũng có thể kiện lên Thủ tướng được.
Như vậy thể chế để đảm bảo cho cạnh tranh lành mạnh cũng như sự quyết liệt bảo vệ
quyền lợi cạnh tranh của doanh nghiệp là điều kiện để tạo nên điểm nút này.
Sau khi tháo được điểm nút đó, VNPT không còn có thể độc quyền trên thị trường
VTDĐ, các kết nối liên mạng giữa các nhà mạng với VNPT đều được thông suốt nhanh
hơn, thị trường VTDĐ đã phát triển mạnh mẽ như đã thấy.
Riêng Viettel, với chiến lược kinh doanh phù hợp, mở rộng quy mô và hướng đến từng
đối tượng khách hàng (theo khẩu hiệu mà Viettel đã xác định “Hãy nói theo cách của
bạn”), khác với vị trí mà các nhà mạng thời kỳ độc quyền trước dành cho khách hàng, đến
-35-
năm 2012, Viettel đạt mức tổng doanh thu hơn 141 ngàn tỷ đồng (tương đương 7 tỷ USD),
và chính thức trở thành doanh nghiệp lớn nhất trong ngành viễn thông và CNTT Việt Nam
((Viettel_Nội san, 2013), trang 7). Từ khi có bộ máy lãnh đạo mới là Hoàng Anh Xuân -
giám đốc, Nguyễn Mạnh Hùng – phó giám đốc,… từ năm 2000 đến năm 2012, doanh thu
của Viettel đã tăng 3 nghìn lần (từ 53,7 tỷ lên hơn163 nghìn tỷ đồng); lợi nhuận trước thuế
tăng 28 nghìn lần (từ 1,25 tỷ đã lên hơn 35 nghìn tỷ đồng); tổng giá trị tài sản tăng 51
nghìn lần (từ 2,3 tỷ đồng lên hơn 117 nghìn tỷ đồng); vốn chủ sở hữu tăng 13 nghìn lần (từ
6,6 tỷ đồng lên hơn 86 nghìn tỷ đồng) ( (Viettel-Nội san, 2014) , trang 18).
Các nhà mạng khác cùng thời với Viettel đã không thành công được như vậy bởi hạn
chế trong yếu tố “nhân hòa” để nắm bắt được “thiên thời”, “địa lợi”:
S-Fone là doanh nghiệp đầu tiên tưởng như phá thế độc quyền VNPT và đã từng được
người tiêu dùng đặt nhiều kỳ vọng, nhưng thực sự đã không tạo nên được sự biến đổi mạnh
mẽ trên thị trường, và nguyên nhân được nhiều chuyên gia phân tích, trong đó tiêu biểu có
người trong cuộc - Ông Hoàng Ngọc Diệp ( người nguyên là Tổng giám đốc Qualcomm
khu vực Đông Dương, đã có nhiều năm làm tư vấn về công nghệ cho ngành viễn thông)
nhận định, “cái chết” của S-Fone, không phải đến từ công nghệ (CDMA), mà là từ quản
trị. - tầm nhìn, chiến lược kinh doanh và quản lý của đội ngũ lãnh đạo, họ thiếu kinh
nghiệm trong điều phối, trong kỹ thuật và ngay cả trong kinh doanh. (Mạnh Chung, 2012),
(Hoàng Ngọc Diệp, 2013).
Ra đời cùng thời với S-Fone và Viettel, không vướng phải vấn đề phối hợp với đối tác
nước ngoài trong BCC của đội ngũ lãnh đạo như với S-Fone, E-mobile là một mạng hoàn
toàn của nhà nước, có được “thiên thời” như các mạng VTDĐ thời đó, và “địa lợi” có thể
sánh với Viettel, nhưng E-mobile của Tập đoàn Viễn thông điện lực vẫn không thành công
mà thua lỗ nặng, để rồi phải chuyển giao cho Viettel, nguyên nhân chỉ có thể kết luận là do
không có yếu tố “nhân hòa”, thiếu nhân tài lãnh đạo quản lý.
EVN Telecom có một số lợi thế hơn các đối tác khác như: sử dụng cáp quang trên
đường dây điện lực, mạng lưới kinh doanh rộng, đặc biệt là lợi thế dựa vào thương hiệu
lớn là tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN. EVN Telecom ngay từ đầu đã được tập đoàn
EVN 100%, vốn, số vốn đầu tư tính đến 31/12/2010 lên tới 2,442 tỷ đồng. Có những lợi
-36-
thế như vậy, nhưng khi thị trường VTDĐ bước vào thời kỳ cạnh tranh khốc liệt thì doanh
thu và lợi nhuận của EVN Telecom lại giảm dần: năm 2008 lợi nhuận đạt được 93,8 tỷ
đồng thì 2009 giảm còn 8,3 tỷ đồng, chuyển thành lỗ trên 1,050 tỷ đồng năm 2010, và phải
nhận quyết định chuyển giao toàn bộ EVN Telecom cho Tập đoàn Viễn thông Quân đội
(Viettel) cuối năm 2011 (số liệu trong Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 tại
Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) do Kiểm toán Nhà nước thực hiện, có đăng trên
(H.M.A, 2011)).
Tóm lại, sự phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam gắn liền với sự phát triển các
yếu tố hỗ trợ cạnh tranh của thể chế và bản thân nội lực của doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh. Sự mạnh dạn hội nhập quốc tế, mạnh dạn xóa bỏ độc quyền trong ngành
VTDĐ của các lãnh đạo nhà nước cùng việc xây dựng các thể chế hỗ trợ cạnh tranh lành
mạnh như một môi trường thuận lợi tạo điều kiện để thị trường phát triển. Tuy nhiên, để có
thể phá vỡ thế độc quyền trong ngành công nghệ có lợi thế về quy mô, ngoài môi trường
còn cần có các doanh nghiệp mới có đội ngũ lãnh đạo có tầm nhìn, khả năng kinh doanh và
sự dám nghĩ dám làm, để nhìn nhận và chớp được “thiên thời”, nắm được “địa lợi”, để dẫn
dắt doanh nghiệp đạt được quy mô tương đương với doanh nghiệp đang nắm thế chủ đạo,
từ đó chiếm được thế tương đương về cạnh tranh, tạo nên sự cạnh tranh và phát triển thực
sự trong thị trường.
-37-
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
4.1. Kết luận
Sự phát triển vượt bậc của thị trường viễn thông di dộng Việt Nam trong những năm
qua là một điểm sáng trong sự phát triển của cả ngành công nghệ và kinh tế Việt Nam.
Trong bức tranh có nhiều ảm đạm và bất cập của nhiều ngành công nghiệp khác, sự
cạnh tranh có sự thôi thúc bởi nhu cầu của những bên tham gia: nhu cầu mở cửa hội nhập
quốc tế, nhu cầu tạo môi trường cạnh tranh để cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển, nhu cầu
thâm nhập thị trường viễn thông di động – một thị trường có lợi thế về quy mô lớn của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực này đã dẫn đến một kết quả tích cực cho nền kinh tế và người
Việt Nam nói chung: số thuê bao di động trên đầu người ở mức cao, giá cước di động
không còn bị người dân phàn nàn nhiều, có nhiều gói cước và dịch vụ đa dạng,..; doanh thu
và lợi nhuận của các hãng di động trụ được trong thị trường cạnh tranh tăng cao.
Mỗi điểm mốc tạo nên bước ngoặt phát triển của thị trường VTDĐ Việt Nam gắn liền
với sự phát triển các yếu tố hỗ trợ cạnh tranh của thể chế và bản thân nội lực của doanh
nghiệp. Thị trường VTDĐ Việt Nam đạt được sự phát triển như vừa qua là do hội tụ được
cả hai yếu tố này. Sự mạnh dạn hội nhập quốc tế, mạnh dạn xóa bỏ độc quyền trong ngành
VTDĐ của các lãnh đạo nhà nước cùng việc xây dựng các thể chế hỗ trợ các doanh nghiệp
non trẻ mới gia nhập ngành đã giúp cho các doanh nghiệp mới có chỗ đứng trên thị trường.
Trong ngành kinh tế có lợi thế về quy mô, để các doanh nghiệp mới có thể đứng vững và
phát triển lên mức có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp cũ vốn thống lĩnh thị trường thì
ngoài sự hỗ trợ của thể chế đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, không cho phép doanh nghiệp
lớn “bắt nạt” doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt cần đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp có tầm nhìn,
có khả năng lãnh đạo, khả năng kinh doanh, vì ngành này lãi thì lãi rất lớn nhưng lỗ thì
cũng rất lớn vì rào cản rời khỏi ngành lớn dễ khiến các doanh nghiệp “đâm lao thì phải
theo lao” dẫn đến lỗ nặng.
Bốn rào cản gia nhập thị trường VTDĐ Việt Nam đã lần lượt được phá bỏ nhờ sự kết
hợp các yếu tố đó: năm 1995 Thủ tướng thành lập hai doanh nghiệp đầu tiên với mục đích
phá bỏ thế độc quyền để tạo cạnh tranh trên thị trường viễn thông, năm 2004 rào cản về
vốn bước đầu phá bỏ nhờ nỗ lực của Viettel nắm bắt “thiên thời” và khai thác những thuận
-38-
lợi của thể chế, cạnh tranh về giá trong VTDĐ thực sự bắt đầu, năm 2005, rào cản quy mô
cơ sở hạ tầng phá bỏ khi đã có doanh nghiệp đạt được quy mô mạng lưới trạm thu phát
sóng tương đương với doanh nghiệp đang thống lĩnh thị trường (doanh nghiệp này lại là
Viettel) - cạnh tranh tiến thêm một bước, cuối 2005 rào cản kết nối liên mạng “ma cũ bắt
nạt ma mới” bị phá bỏ (cũng lại Viettel khởi đầu), các mạng lao vào cuộc đua chiếm lĩnh
thị trường, cấu trúc thị trường độc quyền hoàn toàn bị xóa bỏ, doanh nghiệp tham gia vào
thị trường VTDĐ nhiều lên, và cũng có cả những doanh nghiệp không trụ được, bị thua lỗ
nặng.
Trong việc phá vỡ thế độc quyền trong ngành VTDĐ, Viettel là một doanh nghiệp đã
góp một vai trò quan trọng. Đạt được thành công, trở thành đối thủ ngang hàng với doanh
nghiệp từng chiếm thế độc quyền VNPT là nhờ Viettel đã tận dụng được môi trường thể
chế, đặc biệt, Viettel có đội ngũ lãnh đạo có tầm nhìn, khả năng kinh doanh, ý chí dám
nghĩ dám làm, để nhìn nhận và chớp được “thiên thời”, nắm được “địa lợi”, dẫn dắt doanh
nghiệp cạnh tranh thành công.
4.2. Khuyến nghị chính sách
Từ những kết quả phân tích trên, tác giả có những khuyến nghị sau:
Mở rộng cạnh tranh trong các thị trường khác để tạo nên sự phát triển.
Giữ tính cạnh tranh trong thị trường VTDĐ bằng cách:
- Với các doanh nghiệp nhà nước, xác định cụ thể các tiêu chí chọn đội ngũ lãnh đạo
chủ chốt có tầm nhìn, trách nhiệm, bản lĩnh dám nghĩ dám làm, thực sự cầu thị, tự đổi mới
để có thể dẫn dắt doanh nghiệp. Dựa vào các tiêu chí đó có thể tuyển chọn qua hình thức tổ
chức thi tuyển để chọn được người phù hợp.
Khi chọn được những lãnh đạo như vậy họ sẽ chủ động tìm được hướng đi phù hợp cho
doanh nghiệp, chủ động cạnh tranh với doanh nghiệp khác để khẳng định mình. Hình thức
tổ chức thi tuyển giúp đánh giá được một cách tương đối khách quan những tố chất cần
thiết cho lãnh đạo của người dự tuyển.
- Với các bộ chủ quản cũng cần chọn đội ngũ lãnh đạo chủ chốt có tầm nhìn, trách
nhiệm, bản lĩnh dám nghĩ dám làm và cầu thị, ham học hỏi.
- Luôn duy trì đường lối chống độc quyền, ủng hộ cạnh tranh lành mạnh trong thị
trường VTDĐ.
-39-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương (2012), Nghiên cứu tình huống: Thị trường
điện thoại di động ở Việt Nam.
2. Tuyết Ân (2013), “Việt Nam tiếp tục đứng trước thách thức cải cách thực sự”,
vietstock.vn, truy cập ngày 17/5/2014 tại địa chỉ:
http://vietstock.vn/2013/04/viet-nam-tiep-tuc-dung-truoc-thach-thuc-cai-cach-thuc-
su-761-293308.htm.
3. H. M. A (2011), “EVN Telecom lỗ trên 1.000 tỷ đồng”, Lao động, truy cập ngày
13/4/2014 tại địa chỉ:
http://laodong.com.vn/kinh-doanh/evn-telecom-lo-tren-1000-ty-dong-19284.bld.
4. Trần Bình (2012), “Doanh thu năm 2011 của VNPT và Viettel đạt gần 237.000 tỷ
đồng”, Sài Gòn giải phóng Online, truy cập ngày 5/1/2013 tại địa chỉ:
http://sggp.org.vn/dientutinhoc/2012/1/278146/.
5. BizLIVE.vn (2014), "Ông Nguyễn Mạnh Hùng và những bài học kinh doanh của
Viettel", BizLIVE.vn, truy cập ngày 11/5/2014 tại địa chỉ:
http://bizlive.vn/nhan-vat/ong-nguyen-manh-hung-va-nhung-bai-hoc-kinh-doanh-
cua-viettel-100668.html.
6. Báo bưu điện Việt Nam (2008), "Call-link tự hào sứ mệnh mở đường", Báo điện tử
của Bộ công nghệ thông tin và truyền thông, truy cập ngày 11/4/2013 tại địa chỉ:
http://m.ictnews.vn/vien-thong/call-link-tu-hao-su-menh-mo-duong-11646.ict.
7. Báo Công thương (2011), "Viettel muốn nâng thị phần dịch vụ di động lên 48%",
Baocongthuong.com.vn, truy cập ngày 5/1/2013 tại địa chỉ:
http://baocongthuong.com.vn/san-pham-moi/6019/viettel-muon-nang-thi-phan-
dich-vu-di-dong-len-48.htm#.U2IyQ62SygQ
8. Báo Đầu tư (2013), "Vì đâu Beeline 'ngã ngựa'", news.zing.vn, truy cập ngày
11/4/2013 tại địa chỉ:
http://news.zing.vn/Vi-dau-Beeline-nga-ngua-post347278.html.
9. Báo điện tử chính phủ (2014), "VinaPhone đạt doanh thu 30.000 tỷ đồng"
baodientu.chinhphu.vn, truy cập ngày 9/1/2014 tại địa chỉ:
-40-
http://baodientu.chinhphu.vn/Thi-truong/VinaPhone-dat-doanh-thu-30000-ty-
dong/190455.vgp.
10. Bộ Thông tin và truyền thông (2013), Sách trắng Công nghệ thông tin (các năm từ
2009 đến 2013), NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
11. Mạnh Chung (2012), “Cái chết của S-Fone không đến từ công nghệ!”,
vneconomy.vn, truy cập ngày 12/4/2013 tại địa chỉ:
http://vneconomy.vn/20120316060638661P0C16/cai-chet-cua-sfone-khong-den-tu-
cong-nghe.htm.
12. DNSG (2011), "Thị trường viễn thông: Phân cực và chia nhánh", DNSG, truy cập
2013, Công Thương, truy cập ngày 17/3/2014 tại địa chỉ:
http://baocongthuong.com.vn/thi-truong-sang-toi/5326/thi-truong-vien-thong-phan-
cuc-va-chia-nhanh.htm#.U74ZG_mSxyx.
13. Hoàng Ngọc Diệp (2013), "Thất bại của S-Fone – Một sự bắt đầu không lành
mạnh!", iTEK Media, truy cập ngày 14/3/2014 tại địa chỉ:
http://itek.zizu.vn/bai-cua-s-fone-mot-su-bat-dau-khong-lanh-manh/.
14. Việt Hà (2014), "Thị trường viễn thông sẽ đột phá sau tái cơ cấu VNPT", Giáo dục
Việt Nam, truy cập ngày 11/4/2014 tại địa chỉ:
http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/BT-Nguyen-Bac-Son-Tai-co-cau-VNPT-thi-truong-
vien-thong-se-dot-pha-post139227.gd.
15. Bạch Hoàn (2013), "Vô tư tăng giá, bỏ mặc người dùng", Tuoitre.vn, truy cập ngày
5/1/2014 tại địa chỉ:
http://tuoitre.vn/Kinh-te/585725/vo-tu-tang-gia-bo-mac-nguoi-dung.html.
16. Khôi Linh (2013), "Năm 2013, lợi nhuận Viettel gấp 4 lần VNPT", Fica.vn, truy
cập ngày 3/1/2014, tại địa chỉ:
http://fica.vn/doanh-nghiep/nam-2013-loi-nhuan-viettel-gap-4-lan-vnpt-1-
7862.html.
17. Hoàng Ly (2004), "Bộ trưởng Đỗ Trung Tá nói về những sai phạm trong ngành
bưu chính viễn thông", Vietbao.vn, truy cập ngày 10/4/2014 tại địa chỉ:
http://vietbao.vn/Kinh-te/Bo-truong-Do-Trung-Ta-noi-ve-nhung-sai-pham-trong-
nganh-buu-chinh-vien-thong/45116466/87/.
18. Hoàng Ly (2014), "4 câu chuyện đặc biệt về bộ đôi quyền lực nhất Viettel",
news.zing.vn, truy cập ngày 19/04/2014 tại địa chỉ:
-41-
http://news.zing.vn/: http://news.zing.vn/4-cau-chuyen-dac-biet-ve-bo-doi-quyen-
luc-nhat-Viettel-post394350.html.
19. MobiFone (2013), "Lịch sử phát triển MobiFone, mobifone.com, truy cập ngày
12/4/2014 tại địa chỉ:
https://www.mobifone.com.vn/portal/vn/services/home/mobifone_history.jsp.
20. Huyền My (2012), "3G - Cuộc đua ngự “Ngôi vương”", vietnamnet.vn, truy cập
ngày 20/3/2013 tại địa chỉ:
http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/77875/3g---cuoc-dua-ngu-
-ngoi-vuong-.html.
21. Nội san Viettel (2013), "Nội san Người Viettel số Tết 2013", viettel.com.vn, truy
cập ngày 25/10/2013 tại địa chỉ:
http://viettel.com.vn/cmsmedia/Upload/1/2013/02/Noi%20san%20Nguoi%20Viettt
el%20Tet%20Quy%20Ty.pdf.
22. Nội san Viettel (2014), "Nội san Người Viettel số Tết 2014", viettel.com.vn, truy
cập ngày 11/3/2014 tại địa chỉ:
http://viettel.com.vn/cmsmedia/Upload//2014/03/Noi%20San%20Nguoi%20Viettel
%20So%20Tet%202013.pdf.
23. Hoàng Oanh (2011), "Doanh thu 2010 của VNPT vượt 100.000 tỷ đồng"
Doanhnhan.vneconomy.vn, truy cập ngày 5/1/2013 tại địa chỉ:
http://doanhnhan.vneconomy.vn/20110116033615628P0C5/doanh-thu-2010-cua-
vnpt-vuot-100000-ty-dong.htm.
24. Huy Phong (2012), "Viettel đã 'vượt mặt' VNPT thế nào?", Vietnamnet.vn, truy cập
ngày 5/1/2013 tại địa chỉ:
http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/102572/viettel-da--vuot-
mat--vnpt-the-nao-.html.
25. Hồ Quang Phương (2013), "Viettel – ‘Phên giậu mềm’ của Quốc gia", Tiền Phong,
truy cập ngày 17/5/2014 tại địa chỉ:
http://www.tienphong.vn/Kinh-Te/viettel-phen-giau-mem-cua-quoc-gia-
653303.tpo.
26. Pindyck, Robert S., và Rubinfeld, Daniel L. (1999), Kinh tế học Vi mô, NXB
Thống kê, Hà Nội.
-42-
27. Anh Quân (2014), "Hành trình 10 năm níu giữ Mobifone của VNPT",
VnExpress.net, truy cập ngày 2/5/2014 tại địa chỉ:
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/hanh-trinh-10-nam-niu-giu-
mobifone-cua-vnpt-2980830.html.
28. Hải Sơn. (2013), "VNPT, Viettel thu lợi nhuận khủng bằng cách nào?",
Kienthuc.net, truy cập ngày 17/5/2014 tại địa chỉ:
http://kienthuc.net.vn/thi-truong/vnpt-viettel-thu-loi-nhuan-khung-bang-cach-nao-
296360.html.
29. Nguyễn Sơn (2013), "Ba nhà mạng đại gia có doanh thu năm 2012 tới 207,797 tỷ
đồng". Chuyên trang Người đồng hành của Tạp chí điện tử Nhịp Sống Số, truy cập
ngày 29/1/2013 tại địa chỉ:
http://ndh.vn/3-dai-gia-di-dong-co-doanh-thu-nam-2012-toi-207-797-ty-dong-
4935514p4c147.news.
30. SPT (2013), "Lịch sử phát triển của SPT", Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính
Viễn thông Sài Gòn (SPT), truy cập ngày 11/4/2014 tại địa chỉ:
http://www.spt.vn/vn/gioi-thieu/lich-su-phat-trien/.
31. Theo Báo Thanh Niên (2005), "Viettel khiếu nại về việc không đủ dung lượng kết
nối", vietnamnet.vn, truy cập ngày 22/3/2014 tại địa chỉ:
http://vnn.vietnamnet.vn/kinhte/2005/06/462909/.
32. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2013), "Viettel: trên 50% doanh thu trong năm 2012 tới
từ 3G", Thông tin công nghệ, truy cập ngày 17/5/2013 tại địa chỉ:
http://www.thongtincongnghe.com/article/45205.
33. TTX (2007), "Viettel là DN chiếm thị phần khống chế dịch vụ điện thoại di động",
Baomoi.com, truy cập ngày 21/5/2013 tại địa chỉ:
http://www.baomoi.com/Viettel-la-DN-chiem-thi-phan-khong-che-dich-vu-dien-
thoai-di-dong/45/3286990.epi.
34. Hữu Tuấn (2013), "Hé lộ cách kiếm tỷ đô của VNPT, Viettel", Baodautu.vn, Truy
truy cập ngày 21/3/2014 tại địa chỉ:
http://baodautu.vn/he-lo-cach-kiem-ty-do-cua-vnpt-viettel.html
35. VietNamNet (2004), "BT Đỗ Trung Tá: "Chưa hạ giá cước để ưu đãi DN mới"",
vietnamnet.vn, truy cập ngày 8/6/2013 tại địa chỉ:
http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2004/11/351108/.
-43-
36. Viettel (2008), "Doanh thu dịch vụ di động 2004-2008", viettel.com.vn, truy cập
ngày 17/9/2013 tại địa chỉ:
http://viettel.com.vn/3-30-1-575-Doanh-thu-dich-vu-di-dong.html.
37. Viettel (2009), "“Cuộc Cách mạng” Viettel", viettel.com.vn, truy cập ngày
24/6/2013 tại địa chỉ:
http://www.viettel.com.vn/print-3-0-1-377-Cuoc-Cach-mang--Viettel-print.html.
38. Viettel (2012), "Doanh thu Viettel giai đoạn 2000-2012", viettel.com.vn, truy cập
ngày 23/8/ 2013 tại địa chỉ:
http://www.viettel.com.vn/3-30-1-2187-Doanh-thu-Viettel-giai-doan-
20002012.html.
39. Viettel (2014), "Viettel đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân
dân", viettel.com.vn, truy cập ngày 20/12/2013 tại địa chỉ:
http://viettel.com.vn/3-32-1-2367-Viettel-don-nhan-danh-hieu-Anh-hung-luc-
luong-vu-trang-Nhan-dan.html.
40. Vinaphone (2014), "Vinaphone đón nhận huân chương lao động hạng nhất",
vinaphone.com.vn, truy cập ngày 22/9/2013 tại địa chỉ:
http://vinaphone.com.vn/news/25740/vinaphone-don-nhan-huan-chuong-lao-dong-
hang-nhat.
41. Vinaphone (2012), "Tăng cường trạm thu phát chống nghẽn mạng ngày TẾT",
vinaphone.com.vn, truy cập ngày 28/10/2013 tại địa chỉ:
http://vinaphone.com.vn/news/21740/tang-cuong-tram-thu-phat-chong-nghen-
mang-ngay-tet.
42. VNPT (2013), "10 Sự kiện nổi bật mỗi năm của Tập đoàn BCVT (từ 1997 đến
2013)", vnpt.vn, truy cập ngày 22/12/2013 tại địa chỉ:
http://www.vnpt.vn/Default.aspx?tabid=766&catid=1344.
-44-
Tiếng Anh
43. Fang Chen, J. H. (2009), "The study of dynamic process of the triopoly games in
chinese 3G telecommunication market", KMUTT Libaray Network, truy cập ngày
22/12/2013 tại địa chỉ:
http://www.lib.kmutt.ac.th/ipad/AcademicPaper/Feb2010/Advance/TheStudyOfDy
namicProcessOfTheTrioPolyGamesInChinese3GTelecommunicationMarket.pdf.
44. ITU- International Telecommunication Union (2013), "ICT Data and Statistics
(IDS)", International Telecommunication Union, truy cập ngày 18/9/2013 tại địa
chỉ: http://www.itu.int/ITU-D/ict/statistics/explorer/.
45. Trần Nhật Lệ (2007), "Examining the Impact of Public Policy on the Development
of Mobile Market - the Case of Vietnam", DSpace at Waseda University, truy cập
ngày 11/11/2013 tại địa chỉ:
http://dspace.wul.waseda.ac.jp/dspace/bitstream/2065/28815/3/Honbun-4588.pdf.
46. Li, G. (2008), "The Recent PRC Telco Reform and Its Implications to The PRC
Telco Market", Macquarie Journal of Business Law, (No. 5).
47. Riley, G. (2012), "Long-run costs - economies & diseconomies of scale",
Tutor2u.net, truy cập ngày 18/9/2013 tại địa chỉ:
http://tutor2u.net/economics/revision-notes/a2-micro-economies-diseconomies-of-
scale.html.
48. Riley, G. (2012), "Unit 3 Micro: Revision on Scale Economies, Technology and
Prices", Tutor2u.net, truy cập ngày 12/4/2014 tại địa chỉ:
http://www.tutor2u.net/:
http://www.tutor2u.net/blog/index.php/economics/print/unit-3-micro-revision-on-
scale-economies-technology-and-prices.
49. Yanan Fu, Z. J. (2010), "Game analysis and strategy research of price war in China
mobile communication industry based on 3G technology application", KMUTT
Libaray Network, truy cập ngày 26/7/2013 tại địa chỉ:
http://www.lib.kmutt.ac.th/ipad/AcademicPaper/Feb2010/Advance/GameAnalysisa
ndStrategyResearchofPriceWarinChinaMobile.pdf.
-45-
50. ZENG Jianqiu, F. H. (2005), "China’s Telecommunications Market and Game
Theory", International Teletraffic Congress, truy cập ngày 18/5/2013 tại địa chỉ:
http://www.i-teletraffic.org/fileadmin/ITCBibDatabase/2005/zhengfan05.pdf.
-46-
PHỤ LỤC
CƠ QUAN QUẢN LÝ VIỄN THÔNG
1.Tóm tắt về Cơ quan quản lý và Các mạng viễn thông di động Việt Nam
Cơ quan quản lý viễn thông
trực thuộc:
(1945-1954)
(1945-1954)
Bộ giao thông công chính
Nha bưu điện Trung ương - thực hiện chức năng
quản lý hành chính sự nghiệp.
(Bộ trưởng 1945-1055: Trần Đăng Khoa, sinh
ngày 4 tháng 5 năm 1907, quê ở thị xã Hương
(Sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Chính
Trà tỉnh Thừa Thiên Huế.
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ nguyên bộ
máy cũ của Bưu điện Đông Dương có: Nha Tổng giám
Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công
đốc Bưu điện và 2 Nha giám đốc Bưu điện ở 2 miền.
chính Hà nội (1925 – 1928) ông tiếp tục học
hàm thụ Trường Kỹ sư Eyrolles, Paris và thi
Từ đó đến năm 1954 có những thay đổi cho phù hợp
đậu tham sự bậc trên (1928), sau đó (1932) thi
với hoàn cảnh.
đậu kỹ sư công chính.)
Đến năm 1954, đứng đầu ngành là Nha bưu điện -
(thêm phần) Vô tuyến điện Trung ương - thực hiện
chức năng quản lý)
(1955-1961)
(1955-1962)
Bộ giao thông và Bưu điện.
Tổng cục bưu điện - hoạt động của ngành từ quản lý
hành chính sự nghiệp chuyển sang hoạt động có
Ngày 19/9/1955, Hội đồng Chính phủ ra Nghị
Kinh doanh.
quyết tách Bộ Giao thông công chính thành 2
Bộ: Bộ Giao thông và Bưu điện (Bộ GTBĐ)
Ngày 8/3/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
và Bộ Thuỷ lợi và Kiến trúc. Tổng cục Bưu
định số 480-TTg đổi tên Nha Bưu điện-VTĐ thành
điện trực thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện.
Tổng cục Bưu điện. Hoạt động của Ngành từ quản lý
hành chính sự nghiệp chuyển sang hoạt động có kinh
doanh
-47-
(1961)
Hội đồng Chính phủ
Ngày 21/2/1961, Thường vụ Quốc hội đã phê
chuẩn Nghị quyết của Hội đồng chính phủ đặt
Tổng cục bưu điện là cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ: Ngày 13/5/1961, Hội đồng
Chính phủ ra Quyết định số 63/CP thực hiện
nghị quyết này.
(1962-1968)
Tổng cục Bưu điện và Truyền thanh - thêm nhiệm
vụ quản lý phát triển mạng lưới truyền thanh
Ngày 9/2/1962, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết
định giao cho Tổng cục bưu điện nhiệm vụ quản lý phát
triển mạng lưới truyền thanh và đổi tên TCBĐ thành
TCBĐ và Truyền thanh
(1968-1975)
Tổng cục Bưu điện - bỏ chức năng quản lý truyền
thanh
Ngày 24/1/1968, HĐCP ban hành Nghị định đổi tên
Tổng cục BĐ và Truyền thanh thành Tổng cục Bưu
điện, theo đó, chức năng quản lý truyền thanh chuyển
về Đài tiếng nói Việt Nam.
-48-
(1975 - Thống nhất)
Tổng cục Bưu điện
Ngày 8/4/1975, HĐCP ký Nghị định số 68/CP ban
hành kèm theo Điều lệ về tổ chức hoạt động của
TCBĐ, giao cho TCBĐ ''Thống nhất quản lý Nhà nước
về công tác thông tin liên lạc trong cả nước''. Nghị định
68/CP quy định cơ cấu tổ chức của Tổng cục Bưu điện
gồm có:
+ Các tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm: Cục Bưu
chính - Phát hành Bưu chính; Cục điện chính; Cục
BĐTW; Cục vật tư; Viện Thiết kế BĐ; Công ty Công-
trình BĐ; BĐ TP Hà Nội và các BĐ tỉnh, thành phố
trực thuộc TW.
+ Các tổ chức nghiên cứu đào tạo tại: Viện Kinh tế và
Quy hoạch BĐ; Viện Khoa học kỹ thuật BĐ; Trường
đại học BĐ và các trường đào tạo.
+ Các cơ quan chức năng của Tổng cục: Văn phòng;
Vụ kế hoạch; Vụ kế toán thống kê; Vụ kỹ thuật; Vụ cán
bộ đào tạo; Vụ lao động tiền lương; Vụ hợp tác quốc tế;
Cục quản lý xây dựng cơ bản; Ban thanh tra; Ban quân
sự và các đơn vị thuộc diện quản lý của Tổng cục.
(1990)
(1990)
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam Ngày
Bộ giao thông vận tải
07/4/1990, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số
115/CP chuyển Tổng cục BĐ thành Tổng công ty Bưu
chính Viễn thông Việt Nam chịu sự quản lý trực tiếp
của Bộ Giao thông vận tải và BĐ.
-49-
(1992-nay)
(1992-2002)
Chính phủ
Tổng cục bưu điện
Ngày 26/10/1992, Chính phủ ra Nghị định số 03/CP về
thành lập lại Tổng cục BĐ và quy định Tổng cục BĐ là
cơ quan trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý
Nhà nước ngành BĐ trong phạm vi cả nước.
(Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông trở thành đơn
vị sản xuất kinh doanh trực thuộc Tổng cục bưu
điện.
Các đơn vị trực thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn
thông là: VDC, VMS, VTN, VTI, VPS và các Bưu điện
tỉnh, thành phố.
Đến năm 1994,1995 Tổng công ty Bưu chính viễn
thông chính thức được thành lập theo mô hình Tổng
công ty 91, chính thức tách khỏi chức năng quản lý
nhà nước )
1995-1997 Đặng Văn Thân - Tổng cục trưởng Tổng
cục Bưu điện
1997-2002: Mai Liêm Trực, Tổng cục trưởng Tổng cục
Bưu điện
(2002-2007)
Bộ Bưu chính - Viễn thông
- là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về bưu chính, viễn thông và công nghệ thông
tin; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại
diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn nhà nước trong lĩnh vực bưu chính, viễn
thông và công nghệ thông tin theo quy định của pháp
luật.
(Nghị định 90/2002/NĐ-CP, có hiệu lực ngày
11/11/2002, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Bưu chính, Viễn thông)
Bộ trưởng: Đỗ Trung Tá
-50-
(2007 - nay)
Bộ Thông tin và Truyền thông,
là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển
phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần
số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử; phát
thanh và truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin truyền
thông quốc gia; quản lý nhà nước các dịch vụ công
trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ.
(Nghị định 187/2007/NĐ-CP Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông
tin và Truyền thông, ban hành ngày 25/12/2007)
Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan của Chính
phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí;
xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện;
công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền
hình; thông tấn; thông tin đối ngoại; thông tin cơ sở và
hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia; quản lý
nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
(Nghị định 132/2013/NĐ-CP Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông
tin và Truyền thông, ban hành ngày 16/10/2013)
Bộ trưởng:
(2007-2011) Lê Doãn Hợp
(2011-nay) Nguyễn Bắc Son
-51-
Nguồn:
- Bộ Thông tin và Truyền thông. (2013). Giới thiệu Bộ Thông tin và Truyền thông. Truy cập
2013, từ Trang thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông:
http://mic.gov.vn/gioithieu/Trang/Gi%E1%BB%9Bithi%E1%BB%87u.aspx
- VNPT. (2011, 01 28). Sự hình thành và phát triển của thông tin. Truy cập từ Trang web
của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam:
http://www.vnpt.vn/Intro/Truyen_thong_lich_su/View/tabid/767/newsid/13723/seo/Su-
hinh-thanh-va-phat-trien-cua-thong-tin/Default.aspx
-52-
VNPT (1995-Nay)
Tháng 4/1995 (29/04/1995),Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam chính
1995 –
thức được thành lập theo mô hình Tổng Công ty 91, trực thuộc Chính phủ và Tổng
2006
cục Bưu điện với tên giao dịch quốc tế viết tắt là VNPT, chính thức tách khỏi chức
năng quản lý nhà nước và trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh, quản lý khai thác
và cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông.
Ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ ra QĐ số 91/TTg chuyển Tổng Công ty BC- VT
thành Tổng công ty kinh doanh của Nhà nước (gọi tắt là Tổng công ty 91). Ngày
29/4/1995, Thủ tướng Chính phủ ra QĐ số 249/TTg về việc thành lập Tổng công ty
BC- VT VN trực thuộc Chính phủ có Hội đồng quản trị trên cơ sở sắp xếp lại các
đơn vị sản xuất, dịch vụ, lưu thông, sự nghiệp về bưu chính - viễn thông thuộc Tổng
cục BĐ
Ngày 30/5/1995, Thủ tướng Chính phủ ra QĐ số 33/TTg bổ nhiệm lãnh đạo Hội
đồng Quản trị Tcty gồm các đ/c:
+ Đ/c Đỗ Trung Tá - Chủ tịch HĐ.
+ Đ/c Nguyễn Hữu Bản - Phó chủ tịch HĐ.
+ Đ/c Mai Liêm Trực - UVHĐ kiêm Tổng giám đốc Tcty.
+ Đ/c Hoàng Xuân Nguyên – Uỷ viên HĐ.
+ Đ/c Vũ Ngọc Nhật - UVHĐ.
+ Đ/c Trần Du Lịch - UVHĐ.
Các đ/c Đặng Đình Lâm, Đoàn Ngọc Chung, Vũ Văn Luân (6/1995) giữ chức Phó
Tổng giám đốc Tcty BC-VTVN.
VNPT chuyển đổi sang mô hình Tập đoàn
2006-nay
Ngày 26/3/2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã chính thức
ra mắt và đi vào hoạt động theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ chuyển đổi mô
hình từ Tổng công ty. Theo đó, VNPT là Tập đoàn kinh tế chủ đạo của Nhà nước
trong lĩnh vực BCVT & CNTT, kinh doanh đa ngành cả trong nước và quốc tế, có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế; làm nòng cốt để BCVT và CNTT Việt Nam
phát triển và hội nhập quốc tế.
(
Ngày 23/03/2005, thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 06/2006/QĐ-TTg
-53-
về việc phê duyệt đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính viễn thông (BCVT)
Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại Tổng công ty BCVT Việt Nam.
Ngày 09/01/2006, thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 06/2006/QĐ-TTg
-
về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam
Ngày 21/02/2006, thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 349/QĐ-TTg về
-
việc bổ nhiệm thành viên Hội đồng quản trị Tập đoàn BCVT Việt Nam.
Ngày 17/11/2006, thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 265/2006/QĐ-TTg
-
phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn BCVT Việt Nam.)
-
Nguồn:
- VNPT. (2011, 01 28). Sự hình thành và phát triển của thông tin. Truy cập từ Trang web
của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam:
http://www.vnpt.vn/Intro/Truyen_thong_lich_su/View/tabid/767/newsid/13723/seo/Su-
hinh-thanh-va-phat-trien-cua-thong-tin/Default.aspx
-54-
Mạng Vinaphone (GSM: 1996)
Đầu số: 091, 094, 0123, 0124, 0125, 0127, 0129
Công ty trực tiếp quản lý: Công ty Dịch vụ Viễn thông (Vinaphone) thành lập năm 1997, là tổ
chức kinh tế - đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Tổng công ty BCVT Việt Nam (nay là Tập
đoàn BCVT Việt Nam)
Ngày 26/06/1996, mạng điện thoại di động Việt Nam (Vinaphone) thuộc Tổng công
ty BCVT Việt Nam VNPT (nay là Tập đoàn BCVT Việt Nam) chính thức hoạt động.
1996
Thành lập Công ty dịch vụ Viễn thông (VinaPhone) theo quyết định số 331/QĐ-
TCCB của Tổng cục trưởng Tổng cục bưu điện ngày 14/06/1997, là tổ chức kinh tế -
1997
đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc VNPT, theo điều lệ tổ chức và hoạt động của
VNPT, hoạt động kinh doanh và phục vụ trong lĩnh vực thông tin di động, nhắn tin
và điện thoại dùng thẻ toàn quốc (mạng điện thoại thẻ sau này ngừng hoạt động vào
tháng 9/2004 do không còn phù hợp với thị trường); cùng các đơn vị thành viên khác
trong dây chuyền công nghệ BCVT liên hoàn, thống nhất, có mỗi liên hệ mật thiết
với nhau về tổ chức mạng lưới, lợi ích kinh tế, tài chính, phát triển dịch vụ bưu chính
– viễn thông, để thực hiện những mục tiêu, kế hoạch Nhà nước do VNPT giao.
Năm 1999, VinaPhone là mạng đầu tiên phủ sóng 100% các tỉnh, thành phố
1999
Thay đổi Logo GPC (G=GSM, P=Paging (nhắn tin), C=CardPhone (Điện thoại thẻ))
thành VinaPhone, công bố hệ thống nhận diện thương hiệu mới.
2006
- Tháng 06/2006, VinaPhone là mạng di động đầu tiên thực hiện phủ sóng 100% số
huyện trên địa bàn cả nước, kể cả các huyện miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Ngày 12/10/2009, VinaPhone trở thành nhà mạng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp
2009
dịch vụ 3G.
Nguồn:
- Vinaphone. (2013). Bước phát triển VinaPhone. Truy cập từ Trang web của VinaPhone:
http://vinaphone.com.vn/aboutus/buoc-phat-trien
- VNPT Hà Nội. (2013). Lịch sử phát triển Viễn thông Hà Nội. Truy cập từ VNPT Hà Nội:
http://www.vnpt-hanoi.com.vn/web/gioithieu_lichsuphattrienVI.asp
-55-
Mạng MobiFone (GSM: 1993 - nay)
Đầu số: 090, 093, 0120, 0121, 0122, 0126, 0128
Công ty quản lý: Công ty Thông tin di động (VMS) thành lập năm 1993, là doanh nghiệp nhà
nước trực thuộc VNPT.
1995-2005: Hợp tác với Kinnevik/Comvik (Thuỵ Điển) theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh
doanh (Business Cooperation Contract - BCC)
Được thành lập vào ngày 16 tháng 04 năm 1993, VMS đã trở thành doanh nghiệp
đầu tiên khai thác dịch vụ thông tin di động GMS 900/1800 với thương hiệu
MobiFone, đánh dấu cho sự khởi đầu của ngành thông tin di động Việt Nam.
Lĩnh vực hoạt động của MobiFone là tổ chức thiết kế xây dựng, phát triển mạng lưới
và triển khai cung cấp dịch vụ mới về thông tin di động. Giám đốc công ty Ông Đinh
1993
Văn Phước
(lúc mới thành lập, MobiFone trực thuộc Tổng cục Bưu điện và nằm ngoài VNPT.
Khi thành lập các Tổng công ty 91 (năm 1995), Tổng cục Bưu điện chủ trương đưa
MobiFone vào VNPT cùng với các công ty trong khối công nghiệp.)
Mobifone hợp tác với Công ty Comvik Vietnam AB thuộc Tập đoàn Kennevik theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract - BCC) để tư
1995
vấn phát triển cho Mobifone.
Công ty Thông tin di động ký thanh lý Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với Tập
đoàn Kinnevik/Comvik.
2005
Nhà nước và Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) có
quyết định chính thức về việc cổ phần hoá Công ty Thông tin di động.
15/12/2009, VMS - MobiFone chính thức cung cấp dịch vụ 3G
2009
Tháng 7/2010, do quá trình cổ phần hóa của Công ty không hoàn thành đúng thời
2010
hạn, nên Chính phủ đã quyết định chuyển đổi mô hình Công ty từ doanh nghiệp nhà
nước thành Công ty TNHH Một Thành Viên do nhà nước làm chủ sở hữu.
MobiFone chính thức được Chính phủ đồng ý cho tách ra khỏi VNPT để cổ phần hoá
2014
theo đề nghị của Bộ Thông tin và Truyền thông. (Thông báo 142/TB-VPCP, ngày
07/04/2014 của Văn phòng Chính phủ).
-56-
Nguồn:
- MobiFone. (2013). Lịch sử phát triển MobiFone. Truy cập 2013, từ
www.mobifone.com.vn:
https://www.mobifone.com.vn/portal/vn/services/home/mobifone_history.jsp
- Văn phòng Chính phủ. (2014, 04 07). Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại
cuộc họp Thường trực Chính phủ về tái cơ cấu Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
(VNPT). Truy cập từ http://baodientu.chinhphu.vn/:
http://baodientu.chinhphu.vn/Uploaded/nguyenminhdiem/2014_04_07/142.signed.pdf
- VIETNAMPlus. (2013, 04 16). Chuyện “thời tiền sử” của ngành di động Việt Nam. Truy
cập từ VietnamPlus, TTXVN: http://www.vietnamplus.vn/chuyen-thoi-tien-su-cua-nganh-
di-dong-viet-nam/197154.vnp
- VNPT. (2013). Các mốc Lịch sử VNPT. Truy cập từ Trang web của VNPT:
http://www.vnpt.vn/Default.aspx?tabid=784&catid=1420&temidclicked=1420
-57-
Mạng Viettel (GSM: 2004 - nay)
Đầu số: 096, 097, 098, 0162, 0163, 0164, 0165, 0166, 0167, 0168, 0169
Công ty quản lý: Công ty Viettel (1989, 1995), thuộc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel –
doanh nghiệp kinh tế quốc phòng 100% vốn nhà nước, do Bộ quốc phòng thực hiện quyền chủ sở
hữu.
Thành lập Công ty Ðiện tử thiết bị thông tin, tiền thân của Tổng Công ty Viễn thông
1989
Quân đội (Viettel).
Đổi tên Công ty Ðiện tử thiết bị thông tin thành Công ty Ðiện tử Viễn thông Quân
đội (tên giao dịch là Viettel) chính thức trở thành nhà cung cấp dịch vụ viễn thông
1995
thứ hai tại Việt Nam.
Viettel được cấp giấy phép cung cấp thử nghiệm dịch vụ điện thoại đường dài sử
dụng công nghệ VoIP tuyến Hà Nội – Hồ Chí Minh với thương hiệu 178 và đã triển
2000
khai thành công.
Viettel bắt đầu đầu tư vào những dịch vụ viễn thông cơ bản, lắp đặt tổng đài đưa dịch
vụ điện thoại cố định vào hoạt động kinh doanh trên thị trường, Viettel cũng thực
2003
hiện phổ cập điện thoại cố định tới tất cả các vùng miền trong cả nước.
Ngày 15 tháng 10 năm 2004, mạng di động 098 chính thức đi vào hoạt động
đánh dấu một bước ngoặc trong sự phát triển của Viettel Mobile và Viettel
Dịch vụ di động của Viettel sử dụng công nghệ GSM với vùng phủ sóng rộng, bắt
đầu với 52 tỉnh rồi mở rộng ngay trên phạm vi toàn quốc chỉ 6 tháng sau đó, với mức
2004
cước thấp hơn khoảng 30% so với MobiFone và VinaPhone, đồng thời áp dụng
phương pháp tính cước đột phá theo block 6 giây. Để thu hút các thuê bao mới,
Viettel còn cho các thuê bao mới chọn số trong gần một năm sau khi khai trương (trừ
số đẹp được bán đấu giá).
Ngày 02/03/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải phê duyệt Đề án thành lập Tổng Công
2005
ty Viễn thông quân đội (43/2005/QĐ-TTg)
Ngày 06/04/2005, Bộ Quốc phòng có quyết định số 45/2005/BQP thành lập Tổng
-58-
Công ty Viễn thông quân đội.
Viettel bắt đầu rót vốn đầu tư ra nước ngoài từ năm 2006 và Campuchia là điển đến
đầu tiên, trong khi các hoạt động kinh doanh ở trong nước của Viettel vẫn còn gặp
nhiều khó khăn.
“Tháng 5-2006, Viettel đầu tư 100% vốn thành lập Viettel Cambodia. Cũng giống
như khi bắt đầu gia nhập thị trường Viễn thông ở Việt Nam, dịch vụ đầu tiên mà
Viettel lựa chọn khi đầu tư vào Campuchia là dịch vụ VoIP, đây là dịch vụ vẫn còn
độc quyền ở đất nước này (do đó khi Viettel dầu tư vào sẽ nhận được sự hỗ trợ rất
lớn của Chính phủ Campuchia). Hơn nữa đây là dịch vụ ít phải đầu tư cơ sở hạ tầng
nhất và khả năng thu lời cũng cao nhất.
Sau đúng hai tháng nhận được giấy phép, (ngày 10/08/2006, bộ Kế hoạch Đầu tư cho
phép Viettel thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ VoIP tại Campuchia), Viettel đã
2006
chiếm tới gần 20% thị trường điện thoại quốc tế tại Campuchia, một thị trường có tới
gần 10 giấy phép VoIP.
Trên cơ sở những kinh nghiệm từ khi triển khai dịch vụ VoIP, Viettel lại tiếp tục
nghiên cứu thị trường và quyết định đầu tư thêm hai dịch vụ nữa là di động (sử dụng
công nghệ GSM) và Internet.
Đến ngày 29-11-2006, bộ Bưu chính Viễn thông Campuchia đã cấp phép cho Viettel
cung cấp dịch vụ di động trong thời hạn 30 năm và cung cấp dịch vụ kết nối Internet
(IXP) và dịch vụ truy cập Internet (ISP) trong thời hạn 35 năm.”
(Đến tháng 02/2009, mạng di động MetFone (đầu tư khoảng 30 triệu USD) của
Viettel Cambodia chính thức được khai trương. Năm2013, Viettel là doanh nghiệp
đứng đầu về mạng truyền dẫn quang tại thị trường Campuchia.)
Ngày 05 tháng 4 năm 2007 Công ty Viễn thông Viettel (Viettel Telecom) trực thuộc
Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel được thành lập , trên cở sở sát nhập các
2007
Công ty Internet Viettel, Điện thoại cố định Viettel và Điện thoại di động Viettel.
Thành lập Công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel (Viettel Global) theo Giấy
2008
CNĐKKD số 0102409426 ngày 24/10/2007 do Sở kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội
cấp. Vốn điều lệ ban đầu 960 tỷ đồng.
Viettel Global:
Tháng 1/2008: tiếp nhận dự án đầu tư tại Campuchia của Tập đoàn Viễn Thông Quân
đội, để thực hiện đầu tư.
Tháng 2/2008: ký hợp đồng liên doanh với Công ty Lao Asian Telecom (LAT),
thành lập Công ty Star Telecom Co., Ltd. với tỷ lệ sở hữu là 49% vốn điều lệ, chính
thức thực hiện đầu tư sang Lào.
- Viettel Global:
Tháng 2/2009: chính thức khai trương mạng viễn thông tại Campuchia, bắt đầu triển
khai kinh doanh, cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông tại đây.
Tháng 10/2009: khai trương dịch vụ viễn thông tại thị trường Lào.
-59-
2009
- Ngày 14/12/2009, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định 2097/2009/QĐ-TTg, thành
lập Tập đoàn Viễn thông Quân đội, là doanh nghiệp kinh tế quốc phòng 100% vốn
nhà nước với số vốn điều lệ 50,000 tỷ đồng, có tư cách pháp nhân, có con dấu, biểu
tượng và điều lệ tổ chức riêng.
- Ngày 25/03/2010, Viettel đồng loạt khai trương 3G tại 63 tỉnh, thành phố.
- Viettel Global:
Tháng 2/2010: thành lập Công ty TNHH Viettel Overseas để thực hiện Dự án hợp tác
2010
đầu tư mở rộng mạng viễn thông tại Cộng hòa Haiti.
Tháng 11/2010: thắng thầu dự án hợp tác đầu tư mạng viễn thông tại Cộng hòa
Mozambique.
Viettel Global:
2011
Tháng 9/2011: chính thức khai trương và cung cấp dịch vụ viễn thông tại Haiti.
Viettel Global:
Tháng 5/2012: chính thức khai trương và cung cấp dịch vụ viễn thông tại
2012
Mozambique.
Tháng 7/2012: thắng thầu, nhận giấy phép đầu tư tại Đông Timor.
Tháng 12/2012: thắng thầu, nhận giấy phép di động thứ 3 tại Cameroon.
Viettel Global:
2013
Tháng 3/2013: Khai trương dịch vụ di động tại Thị trường Đông Timor.
Tháng 8/2013: Đại hội đồng Cổ đông bất thường quyết định 3 nội dung lớn:
Đổi tên Công ty từ: “Công ty Cổ phần đầu tư Quốc tế Viettel” thành “Tổng Công ty
Cổ phần Đầu tư Quốc tế Viettel”;
Tăng vốn điều lệ từ 6.219.052.000.000 đồng lên 12.438.112.000.000 đồng;
Bổ sung ngành nghề "Cho thuê máy móc, thiết bị và đồ dùng hữu hình khác" vào
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Tổng Công ty.
Viettel Global:
-60-
2014
Tháng 2/2014: Nhận giấy phép đầu tư tại Cộng hòa Burundi.
Nguồn:
- Báo Kiến thức. (2013, 01 23). Viettel đã “đổ” bao nhiêu tiền ra nước ngoài? Truy cập từ
kienthuc.net.v: http://kienthuc.net.vn/doanh-nghiep/viettel-da-do-bao-nhieu-tien-ra-nuoc-
ngoai-185110.html
- Viettel. (2007). Viettel - Chặng đường phát triển. Truy cập từ vienthongviettel.net:
http://vienthongviettel.net/bvct/cap-quang-viettel/67/tong-quan-cac-dich-vu-viettel.html
- Viettel. (2008, 10 27). Lịch sử phát triển. Truy cập 2013, từ vietteltelecom.vn:
http://www.vietteltelecom.vn/tin-tuc/tu-lieu-bao-chi/lich-su-phat-trien.html
- Viettel. (2010, 3 25). Viettel đồng loạt khai trương 3G tại 63 tỉnh, thành phố. Truy cập
2013, từ 3g.vietteltelecom.vn: http://3g.vietteltelecom.vn/Tin-tuc/Viettel-dong-loat-khai-
truong-3G-tai-63-tinh-thanh-pho.html
- Viettel. (2013). Giới thiệu chung về Viettel. Truy cập từ viettel.com.vn:
http://www.viettel.com.vn/Viettel.html
- Viettel Global. (2014). Các cột mốc phát triển Viettel Global. Truy cập từ viettelglobal.vn:
http://www.viettelglobal.vn/gioi-thieu/cac-cot-moc-phat-trien.html
-61-
S-Fone (CDMA: 2003 – (2012))
Đầu số: 095
Công ty: Công ty Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (Saigon Postel Corp. - SPT) thành lập
năm 1995, là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực BCVT ở Việt Nam.
2003-2009: Hợp tác với SLD Telecom (Hàn Quốc) theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(Business Cooperation Contract - BCC) cho ra đời mạng S-Fone.
(27/12/1995, Công ty Dịch vụ BCVT Sài Gòn - SPT được thành lập theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ với vốn điều lệ là 50 tỷ đồng, là công ty cổ phần đầu tiên hoạt
1995
động trong lĩnh vực BCVT ở Việt Nam.)
(SPT bắt đầu triển khai kinh doanh dịch vụ thiết bị viễn thông và chính thức cung
cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát bưu phầm trong nước và quốc tế với thương hiệu
1996
Saigon Post (SGP))
(SPT cung cấp dịch vụ Internet với thương hiệu Saigon Net, trở thành một trong bốn
1997
nhà cung cấp dich vụ Internet (ISP) đầu tiên ở Việt Nam.)
(SPT cung cấp dịch vụ Internet với thương hiệu SaigonNet, trở thành một trong bốn
1999
nhà cung cấp dich vụ Internet (ISP) đầu tiên tại Việt Nam.)
Ngày 1/7/2003, S-Fone - mạng di động đầu tiên phá thế độc quyền ra đời theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa SPT và SLD Telecom (SLD
Telecom là liên doanh giữa SK Telecom – mạng di động lớn nhất Hàn Quốc với hơn
50% thị phần tại nước này, LG Electronics và Dong A Telecom – Hàn Quốc, trong
2003
đó SK Telecom chiếm phần lớn vốn) trong thời hạn 15 năm, sử dụng công nghệ
CDMA với tổng số vốn đầu tư 230 triệu USD.
Vùng phủ sóng năm 2003 chỉ gồm 12 tỉnh (đến năm 2005 nâng lên 37 tỉnh)
S-Fone phủ sóng toàn quốc.
2006
Tháng 05/2007, các bên hợp danh đã tuyên bố nâng tổng vốn đầu tư hạ tầng cho S-
2008
Fone lên 543 triệu USD.
- Tháng 08/2009, SK Telecom thông báo chấm dứt hợp tác đầu tư vào S-Fone.
2009
- Ngày 20/11/2009, SKTV và SPT đã ký nguyên tắc chuyển đổi mô hình kinh doanh
từ BCC sang Liên doanh.
08/2010, Thủ tướng phê duyệt Chủ chương chuyển đổi mô hình kinh doanh của
-62-
2010
Trung tâm S-Telecom (-là đơn vị quản lý mạng di động S-Fone) từ BCC sang Công
ty liên doanh.
12/2011, S-Telecom được cấp giấy phép chuyển đổi sang hình thức Công ty liên
doanh, trong đó SPT giữ cổ phần chi phối.
2011
(Năm 2011, số lượng các thuê bao của S-Fone còn rất ít, để tránh bị thua lỗ nặng, S-
Fone bắt đầu cắt các trạm BTS của mình trên toàn quốc. Vùng phủ sóng dần bị thu
hẹp lại, chỉ còn ở các thành phố lớn và miền nam Việt Nam.)
Dưới sức ép cạnh tranh lớn, S-Fone sau thời gian không thành công với công nghệ
CDMA thì đối tác Hàn Quốc đã chính thức rút khỏi hợp đồng kinh doanh và giao lại
toàn bộ cho đối tác Việt Nam.
Tháng 03/2012, S-Fone được bộ Thông tin và Truyền thông đồng ý chuyển đổi mạng
2012
thông tin di động từ công nghệ CDMA sang UMTS 850 (3G).
Tháng 07/2012, S-Fone đã ngừng hợp đồng với tất cả nhân viên. Tất cả các điểm
giao dịch đều đóng cửa. Website chính thức của S-Fone ngừng hoạt động. S-Fone
gần như đã chấm dứt sự tồn tại của mình trên thị trường.
Nguồn:
- Minh Phương. (2014, 03 17). S-Fone lừng danh sắp thành dĩ vãng? Truy cập 2014, từ
kienthuc.net.vn: http://kienthuc.net.vn/tieu-dung/sfone-lung-danh-sap-thanh-di-vang-
320848.html
- Nguyễn Đông, Xuân Ngọc. (2012, 07 19). S-Fone ngừng hợp đồng với toàn bộ nhân viên.
Truy cập 2013, từ vnexpress.net: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/s-fone-
ngung-hop-dong-voi-toan-bo-nhan-vien-2721231.html
- SPT. (2012). Lịch sử phát triển SPT. Truy cập 2012, từ spt.vn: http://www.spt.vn/vn/gioi-
thieu/lich-su-phat-trien/
- Thái Khang. (2012, 02 10). S-Fone muốn “khai tử” CDMA chuyển sang 3G. Truy cập
2013, từ Chuyên trang về CNTT của Báo điện tử Infonet.: http://ictnews.vn/vien-thong/s-
fone-muon-khai-tu-cdma-chuyen-sang-3g-100326.ict
-63-
- Thu Hạ. (2012, 07 20). Những chặng đường "vang bóng một thời" của S-Fone. Truy cập
2013, từ dantri.com.vn: http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nhung-chang-duong-vang-bong-
mot-thoi-cua-sfone-620830.htm
-64-
1) HT-Mobile (CDMA: 2007 - 2008) Đầu số: 092
2) Vietnamobile (eGSM: 2009 – nay)
Đầu số: 092, 0186, 0188
Công ty: Công ty Cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi telecom - HTC) thành lập năm 2001, hoạt
động trong lĩnh vựcViễn thông – Công nghệ thông tin.
2004 –(2020) : Hợp tác với Tập đoàn Hutchison (Hồng Kông) theo hình thức Hợp đồng hợp tác
kinh doanh (Business Cooperation Contract - BCC)
Thành lập Công ty Cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi telecom).
2001
Thành lập Chi nhánh HTC tại TpHCM.
2002
- Được cấp phép cung cấp dịch vụ Internet (ISP, IXP, OSP).
- Được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ VOIP trong nước và quốc tế.
2003
- Được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất.
- Chính thức cung cấp dịch vụ VoIP ra thị trường.
Ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Hutchison Telecom về dịch vụ thiết lập mạng
2004
2G.
HTC và Hutchison Telecom được cấp phép đầu tư xây dựng, phát triển, kinh doanh
2005
mạng di động với tổng vốn đầu tư FDI cho viễn thông lớn nhất Việt Nam, có vốn
đăng ký 655,9 triệu USD.
Được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ cố định toàn quốc.
2006
Ngày 15/01/2007, tại Hà Nội, Công ty Cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
đã tổ chức Lễ khai trương mạng thông tin di động HT Mobile (092) với mạng
2007
CDMA2000 1X EV-DO.
Được cấp phép thiết lập mạng hạ tầng viễn thông quốc gia và cổng quốc tế.
06/2008: Hanoi Telecom và Hutchison đã ký hợp đồng với Ericsson và Huawei để có
thể quản lý, vận hành và thiết kế mạng cho mạng di động mới trong 3 năm, đồng thời
-65-
2008
chịu trách nhiệm chuyển đổi toàn hệ thống mạng từ công nghệ CDMA sang
GSM/EDGE.
15/12/2008, Hanoi Telecom gửi đơn xin điều chỉnh và đề nghị chuyển đổi công nghệ
của mạng HT Mobile từ CDMA sang eGSM. Sau đó, Hanoi Telecom bắt đầu chuyển
đổi thuê bao HT Mobile sang mạng S-Fone.
Vào ngày 08/04/2009, Hanoi Telecom đã ra mắt mạng di động mới của mình với tên
Vietnamobile, vẫn giữ nguyên đầu số 092 và đổi máy mới sang công nghệ GSM cho
thuê bao 092 hiện có.
2009
Vietnamobile áp dụng cách tính cước bloc 1 giây (26,67 đồng/giây cho cả các cuộc
gọi nội mạng, ngoại mạng) ngay từ giây đầu tiên đối với gói cước cơ bản duy nhất
VM One.
Cũng trong ngày ra mắt, Vietnammobile tung ra dịch vụ kèm VM24 với 5.000 đồng
một ngày có thể nhắn tin miễn phí và gọi nội mạng miễn phí 6 tiếng.
Năm 2011, Vietnamobile chính thức nâng cấp thành công dịch vụ 3G với tốc độ
2011
nhanh nhất lên tới 21.6 Mbps.
Nguồn:
- Bộ Thông tin và Truyền thông. (2007, 01 17). Lễ khai trương mạng thông tin di động HT
Mobile . Truy cập 2013, từ Mic.gov.vn:
http://mic.gov.vn/tintucsukien/tinhoatdongcuabo/Trang/lekhaitruongmangthongtindidongh
tmobile.aspx
- HanoiTelecom. (2013). Giới thiệu HTC. Truy cập 2013, từ hanoitelecom.net:
http://hanoitelecom.net/gioi-thieu-dich-vu-hanoi-telecom.pdf
- HanoiTelecom. (2013). Vài nét về Hanoi Telecom. Truy cập 2013, từ
http://hanoitelecom.com/: http://hanoitelecom.com/categories/?router=service&sid=1
- TH. (2012, 04 10). Vietnamobile tuyên bố có hơn 10 triệu thuê bao. Truy cập 2013, từ
ictnews.vn: http://m.ictnews.vn/vien-thong/vietnamobile-tuyen-bo-co-hon-10-trieu-thue-
bao-101818.ict
- TK. (2012, 02 10). Việt Nam sắp “tuyệt chủng” công nghệ CDMA. Truy cập 2013, từ
ictnews.vn: http://m.ictnews.vn/vien-thong/viet-nam-sap-tuyet-chung-cong-nghe-cdma-
100327.ict
-66-
1) Beeline (GSM: 2009 - 2012) Đầu số: 099, 0199
2) GMobile (GSM: 2012 – nay)
Đầu số: 099, 0199
Công ty: Công ty cổ phần Viễn thông di động toàn cầu (Gtel Mobile) thành lập năm 2008, hiện
là công ty thành viên của Tổng công ty Viễn thông toàn cầu (Global Telecommunication
Corporation – Gtel) (Gtel thành lập năm 2007 theo mô hình công ty TNHH một thành viên do Bộ
Công an làm chủ sở hữu).
2008- 2012: Hợp tác với Tập đoàn Vimpelcom (Nga) theo hình thức Liên doanh.
Tổng công ty Viễn thông toàn cầu (Global Telecommunication Corporation – Gtel)
thành lập năm 2007 theo mô hình công ty TNHH một thành viên do Bộ Công an làm
chủ sở hữu, trên cơ sở kế thừa và phát huy các nguồn lực trong lĩnh vực CNTT và
2007
Viễn thông của Tổng cục Hậu cần kỹ thuật – Bộ Công An.
Tổng công ty Gtel hợp tác với Tập đoàn Vimpelcom (tiếng Nga: ВымпелКом) –
hãng viễn thông lớn thứ hai tại Nga, có trụ sở tại Moskva, để thành lập Công ty Cổ
2008
phần Viễn thông di động toàn cầu (Gtel Mobile JSC) vào ngày 08/07/2008, nhằm
cung cấp dịch vụ thông tin di động công nghệ GSM với thương hiệu Beeline.
(Beeline (tiếng Nga: Билайн) là nhãn hiệu của VimpelCom)
Ngày 20/07/2009, Beeline chính thức khai trương tại Việt Nam cùng sản phẩm đầu
tiên là gói cước BigZero, miễn phí cước nội mạng từ phút 2 đến 20.
2009
Ngày 10/10/2009, tức chỉ sau 2 tháng 20 ngày từ khi gia nhập làng di động Việt
Nam, mạng di dộng Beeline đã tạo lập kỷ lục hơn 2 triệu sim đã được phân phối ra
thị trường, trong đó có hơn 1 triệu sim đã kích hoạt.
Ngày 08/03/2010, Beeline chính thức công bố hai gói cước mới Big&Kool và
2010
Bonus+ với nhiều chương trình ưu đãi cho khách hàng.
Tháng 04/2011, Vimpel Com cam kết đầu tư thêm 500 triệu USD cho Gtel Mobile để
2011
phát triển Beeline từ thời điểm đó đến hết năm 2013.
Tháng 08/2011, Beeline toàn cầu được sử dụng hình ảnh “Quỷ đỏ” Manchester
United trong chiến dịch khuếch trương thương hiệu tại Việt Nam, Lào và
Campuchia.
Sau đó Beeline ra gói cước có tên Tỷ Phú. Với sản phẩm này, khách hàng được
hưởng quyền lợi gọi nội mạng một tỷ đồng trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, chỉ hơn
một tháng sau đó, gói cước này bị Bộ thông tin và Truyền thông tuýt còi vì nguy cơ
phá giá thị trường viễn thông. Theo đó, Beeline đã đệ đơn xin cấp phép gói Tỷ phú 2
với quy định: mỗi thuê bao sử dụng 1,350 đồng cho gọi và nhắn tin nội mạng sẽ kích
hoạt 270,000 đồng từ tài khoản Tỷ phú. Ngày 09/12/2011, bộ Thông tin và Truyền
thông cấp phép gói cước Tỷ phú 2.
Sau 3 năm kinh doanh thua lỗ, Vimpel Com bán hết cổ phần của mình cho Gtel.
-67-
Từ 23/04/2012, Gtel Mobile đã thay đổi cơ cấu sở hữu vốn và trở thành Công ty
cổ phần 100% vốn nhà nước.
2012
17/09/2012, công ty cổ phần GTel Mobile đã chính thức đổi tên nhà mạng
Beeline của mình thành Gmobile, đồng thời giới thiệu gói cước “Tỷ phú 3” mới
(với mức giá 35,000 đồng, khách hàng sẽ nhận được một sim Gmobile và tài khoản 1
tỷ đồng có giá trị trong vòng 10 năm)
Nguồn:
- Gtel. (2013). Tổng quan về Gtel. Truy cập 2013, từ gtel.com.vn: http://gtel.com.vn/vi-
VN/tongquanvegtel/6/20/Default.aspx
- Quỳnh Anh. (2009, 10 14). Beeline đạt 1 triệu thuê bao sau hơn 2 tháng. Truy cập 2013,
từ http://vneconomy.vn/: http://vneconomy.vn/20091014015159647P0C16/beeline-dat-1-
trieu-thue-bao-sau-hon-2-thang.htm
- Vũ Hoàng. (2010, 03 08). Beeline ra mắt Big&Kool. Truy cập 2013, từ www.baomoi.com:
http://www.baomoi.com/Beeline-ra-mat-BigKool/76/3952053.epi
- Xuân Ngọc. (2012, 04 26). Hành trình của Beeline tại Việt Nam. Truy cập 2013, từ
vnexpress.net: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/hanh-trinh-cua-beeline-tai-
viet-nam-2719552.html
-68-
E-Mobile (CDMA: 2005 – 2012)
Đầu số: 096
Công ty: Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực (EVN Telecom) thành lập năm 1995, là thành
viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam - EVN .
Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực là thành viên hạch toán độc lập trực thuộc
Tổng công ty Điện lực Việt Nam – EVN, được thành lập theo quyết định số
380/NL/TCCBLĐ ngày 08/07/1995 của Bộ năng lượng trên cơ sở cơ cấu lại trung
tâm Thông tin của Công ty điện lực I, tên giao dịch quốc tế: VP Telecom.
Khi mới thành lập, chức năng nhiệm vụ chính của công ty là tổ chức, thiết lập, quản
lý vận hành và khai thác mạng thông tin viễn thông điện lực, đảm bảo vận hành ổn
1995
định, an toàn, liên tục, chất lượng phục vụ cao cho công tác chỉ đạo, điều hành sản
xuất, vận hành hệ thống điện và kinh doanh của EVN.
Ban đầu công ty có số vốn là 16,371,500,000 trong đó: Vốn cố định: 15,571,500,000;
Vốn lưu động: 800,000,000 đồng.
Năm 2001, VP Telecom là một trong ba nhà cung cấp được Chính phủ cho phép kinh
doanh tất cả các dịch vụ viễn thông.
2001
VP Telecom sử dụng công nghệ: CDMA2000 1X và CDMA2000 1xEV-DO; băng
tần: 450 MHz; Tốc độ thoại: 9.6 Kbps; Tốc độ dữ liệu 1X: 153.6 Kbps; Tốc độ dữ
liệu EV-DO: 2.4 Mbps.
Tháng 12/2005, Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực đổi tên giao dịch quốc tế từ
VP Telecom thành EVN Telecom, chính thức tham gia thị trường Viễn thông quốc
2005
gia với một số dịch vụ viễn thông cơ bản như: điện thoại cố định không dây, điện
thoại di động, dịch vụ VoIP trong nước và quốc tế, lắp đặt mạng...
Đầu năm 2007, EVN được Thủ tướng Chính phủ chính thức cấp phép cho EVN
2007
Telecom triển khai hệ thống thông tin di động 3G.
-69-
Sau khi thua lỗ chồng chất, EVN Telecom được chuyển giao toàn bộ cho Viettel,
đồng nghĩa với việc khai tử công nghệ CDMA của mạng này để chuyển toàn bộ
2011
khách hàng sang mạng Viettel trong quý 1/2012.
Viettel bắt đầu nhận bàn giao EVN Telecom từ 01/01/2012
2012
Nguồn:
- Báo Thanh niên. (2005, 08 05). VP Telecom tham gia triển lãm “Vietnam Industry Expo”.
Truy cập 2013, từ http://vietbao.vn/: http://vietbao.vn/Vi-tinh-Vien-thong/VP-Telecom-
tham-gia-trien-lam-Vietnam-Industry-Expo/45163679/217/
- Hoàng Lan. (2011, 11 20). 'Chuyển giao toàn bộ EVN Telecom cho Viettel'. Truy cập 2013,
từ vnexpress.net: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/chuyen-giao-toan-bo-evn-
telecom-cho-viettel-2716570.html
-70-
Callink (AMPS: 1992 – 2004)
- Hợp tác kinh doanh thử nghiệm giữa Bưu điện Tp.HCM (đơn vị trực thuộc VNPT) với STI
Singapore
Năm 1992, mạng di động đầu tiên sử dụng công nghệ analog ra đời với tên gọi
Callink, dựa trên sự thoả thuận hợp tác kinh doanh thử nghiệm giữa Bưu điện
1992
Tp.HCM với STI Singapore.
Callink đã đạt khoảng 40.000 thuê bao.
Vươn ra Vũng Tàu, Biên Hoà, Sông Bé (Bình Dương ngày nay).”
1993
Khi MobiFone, VinaPhone ra đời, Callink bắt đầu “tuột dốc” và còn khoảng 14,500
1999
thuê bao vào năm 1999.
Ngày 01/08/2004, mạng thông tin di động Callink chính thức ngừng cung cấp dịch
2004
vụ.
Nguồn:
- Báo Bưu điện Việt Nam. (2008, 08 15). Call-link tự hào sứ mệnh mở đường. Truy cập
2013, từ ictnews.vn: http://m.ictnews.vn/vien-thong/call-link-tu-hao-su-menh-mo-duong-
11646.ict
-71-
CityPhone (Công nghệ IPAS/PHS: 2002 – 2010)
- mạng điện thoại di động nội vùng do VNPT phối hợp với UTStarcom Hoa Kỳ triển khai từ năm
2002 tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp.HCM
19/12/2002, mạng di động nội vùng CityPhone chính thức cung cấp trên địa bàn Hà
nội với tổng dung lượng hệ thống đạt 100,000 số.
Ban đầu dịch vụ này có lợi thế về giá cước so với dịch vụ điện thoại di động toàn
2002
quốc.
27/02/2003, mạng CityPhone Tp.HCM bắt đầu hoạt động. Dịch vụ này có hai hình
thức: CityPhone di động (trả trước & trả sau) và CityPhone cố định không dây.
CityPhone cũng cung cấp các dịch vụ gia tăng giá trị cho khách hàng như nhắn tin
ngắn, truy cập Internet,...
Theo số liệu của Phòng viễn thông Bưu điện Tp.HCM, đến sáng 24/02, mạng
CityPhone đã lắp đặt xong 1,027 trạm thu phát sóng. Trong giai đoạn 1, số trạm nói
trên chỉ phủ sóng cho 12 quận nội thành là: 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Gò
Vấp, Tân Bình và Phú Nhuận.
Mạng Cityphone sử dụng loại máy đặc chủng, không dùng sim, khách hàng hòa
2003
mạng sẽ được lập trình thẳng vào máy. Phí đấu nối là 450.000 đồng/lần, phí thuê bao
45.000 đồng/máy/tháng, cước điện đàm nội vùng TP HCM là 454 đồng/phút (cho
thuê bao Cityphone gọi với nhau, giữa Cityphone với điện thoại cố định, điện thoại
vô tuyến cố định, các mạng nhắn tin và ngược lại).
Trong thời gian thử nghiệm đến 20/6, mức cước được giảm 30%. Ngoài ra, các loại
cước khác dao động từ 1.636 đồng/phút đến 3.727 đồng/phút. Riêng từ máy
Cityphone gọi cho các số máy khẩn cấp khác như: 113, 114, 115, 119, 142, 143...
được miễn cước.”
Tháng 07/2005, UTStarcom phối hợp với Mitsubishi triển khai lắp đặt cột thu phát
1W sử dụng cho mạng CityPhone. Đây là cột thu phát sóng có khả năng phủ sóng
rộng gấp 1.4 lần so với cột thu phát sóng 500 mW đang dùng cho mạng CityPhone
tại Hà Nội và Tp.HCM, khắc phục được điểm yếu của cột 500 mW trước đây là
ngoài trời sóng tốt, nhưng vào trong nhà lại yếu; đồng thời giúp nhà khai thác khắc
phục được nhược điểm có vùng lõm (vùng không có sóng) nằm giữa hai cột thu phát
sóng, tăng chất lượng dịch vụ cho khách hàng sử dụng dịch vụ CityPhone khi đang di
chuyển trên đường...
Ngày 09/09/2005, UTStarcom chính thức giới thiệu hai model điện thoại CityPhone
-72-
2005
mới, sử dụng sim gồm: UT228 và UT611, hai model mới này cho phép người dùng
mạng CityPhone dễ dàng thay đổi model điện thoại mà không phụ thuộc vào nhà
cung cấp dịch vụ.
Năm 2005, khi các mạng di động MobiFone, VinaPhone và Viettel tung ra chương
trình khuyến mại, giảm giá cũng là lúc nhiều thuê bao CityPhone rời mạng. Theo
đánh giá của nhiều chuyên gia, nền tảng hạ tầng cho mạng dịch vụ CityPhone đã bị
khai thác quá sớm, trước khi hoàn thiện đầy đủ để sẵn sàng phục vụ một dung lượng
khoảng 200,000 thuê bao trong nội thành.
http://vietstock.vn/PrintView.aspx?ArticleID=17222
27/04/2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam quyết định giảm cước thuê
bao dịch vụ CityPhone xuống ngang bằng cước điện thoại cố định (còn 30,000
đồng/tháng) và áp dụng từ ngày 01/05. Cước hoà mạng dịch vụ di động CityPhone là
50,000 đồng/lần.
Cước cuộc gọi nội vùng là 36 đồng/block 6 giây và được áp dụng theo phương thức
2006
block 6+6. Cước trong giờ giảm giá là 25 đồng/block 6 giây. Từ phút 101 trở lên,
cước cuộc gọi sẽ giảm 30%.
Theo thống kê, tổng số thuê bao CityPhone và mạng vô tuyến nội tỉnh sử dụng công
nghệ CDMA đang hoạt động trên mạng của VNPT là 240.316 thuê bao. Trong đó,
khu vực Hà Nội có 85.400 thêu bao và TP HCM có 122.600 thuê bao.
Với sự bùng nổ của thị trường di động, giá cước ngày một rẻ, lợi thế của CityPhone
cũng mất đi. Đến năm 2010, CityPhone đã thua lỗ nặng, tiền thu được từ khách hàng
không đủ chi phí, thậm chí là chi phí thuê đặt trạm thu phát sóng CS.
VNPT Hà Nội còn khoảng 4,000 thuê bao hợp đồng còn giá trị, tuy nhiên cũng chỉ
có khoảng 50% số thuê bao đó phát sinh cước. Nhiều khách hàng đã đến thời kỳ
-73-
2010
hỏng máy nhưng không có máy để thay. Thậm chí một số khách hàng sử dụng
CityPhone cố định khi bị hỏng máy nhưng muốn giữ số cũng không được. Vì lý do
này VNPT đã thông qua kế hoạch cho khai tử mạng di động nội vùng này và bắt đầu
tại Tp.HCM
Bưu điện Tp.HCM thông báo ngừng cung cấp dịch vụ điện thoại di động CityPhone
từ 15/11/2010.
Nguồn :
- B.D Vietnamnet. (2005, 12 22). 3 năm CityPhone: Bình mới, rượu có mới? Truy cập 2013,
từ vietbao.vn: http://vietbao.vn/Vi-tinh-Vien-thong/3-nam-CityPhone-Binh-moi-ruou-co-
moi/20525114/219/
- Báo Người lao động. (2003, 02 25). Mạng Cityphone TP HCM bắt đầu hoạt động vào
27/2. Truy cập 2013, từ vietbao.vn: http://vietbao.vn/Kinh-te/Mang-Cityphone-TP-HCM-
bat-dau-hoat-dong-vao-272/10808323/87/
- Báo Tuổi trẻ. (2005, 10 18). Thuê bao CityPhone lũ lượt rời mạng. Truy cập 2013, từ
vietstock.vn: http://vietstock.vn/PrintView.aspx?ArticleID=17222
- Hồng Anh. (2006, 04 27). Cuớc thuê bao CityPhone còn 30.000 đồng/tháng. Truy cập
2013, từ vnexpress.ne: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/cuoc-thue-bao-
cityphone-con-30-000-dongthang-2684296.html
- Hồng Anh. (2010, 08 13). CityPhone bị khai tử. Truy cập 2013, từ vnexpress.net:
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/cityphone-bi-khai-tu-2706912.html
- Hồng Anh. (2010, 11 15). CityPhone bị khai tử. Truy cập 2013, từ vnexpress.net:
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/cityphone-bi-khai-tu-2706912.html
- N.Minh. (2005, 07 05). UTStarcom phối hợp Mitsubishi “tăng lực” cho mạng Cityphone.
Truy cập 2013, từ http://nld.com.vn/: http://nld.com.vn/kinh-te/utstarcom-phoi-hop-
mitsubishi-tang-luc-cho-mang-cityphone-121856.htm
-74-
- Thái Khang. (2010, 03 01). CityPhone chuẩn bị “hạ cánh an toàn”. Truy cập 2013, từ
ictnews.vn: http://ictnews.vn/vien-thong/cityphone-chuan-bi-ha-canh-an-toan-25215.ict
- TNO - Báo Thanh niên. (2005, 09 09). Điện thoại Cityphone đã dùng Sim. Truy cập 2013,
từ vietbao.vn: http://vietbao.vn/Vi-tinh-Vien-thong/Dien-thoai-Cityphone-da-dung-
Sim/45167554/217/
- VnMedia. (2005, 04 04). Việt Nam sắp có máy điện thoại Cityphone dùng SIM. Truy cập
2013, từ http://vietbao.vn/: http://vietbao.vn/Vi-tinh-Vien-thong/Viet-Nam-sap-co-may-
dien-thoai-Cityphone-dung-SIM/55059021/219/
-75-
CDMA nội vùng Hải Dương: 2000-2007 (VNPT giao cho Bưu điện Hải Dương triển khai năm
2000. Mạng di động này là quà tặng của Tập đoàn LG (Hàn Quốc))
Nghệ An: NanPhone: 2003-2008 (VNPT giao cho Bưu điện Nghệ An triển khai năm 2003. Mạng
di động này là quà tặng của Tập đoàn ZTE (Trung Quốc))
Đà Nẵng: DaPhone: 2003-2008 (VNPT giao cho Bưu điện Đà Nẵng triển khai năm 2003. Mạng di
động này là quà tặng của Tập đoàn Huawei (Trung Quốc))
Mạng CDMA của VNPT giao cho Bưu điện Hải Dương triển khai vào năm 2000.
Mạng di động này là quà tặng của Tập đoàn LG (Hàn Quốc). Thế nhưng khi các
mạng di động khác phát triển mạnh thì nhiều khách hàng đã không còn mặn mà với
mạng CDMA nội vùng.
Ngoài việc gặp khó khăn về máy đầu cuối vì không thông dụng, mạng di động này
có cùng tần số 450 MHz với EVN Telecom nên bị can nhiễu rất nặng, không đảm
bảo được chất lượng dịch vụ. Trước những khó khăn đó, Viễn thông Hải Dương đã
2000
dừng khai thác mạng di động CDMA đầu tiên của Việt Nam vào giữa năm 2007.
Vào thời cực thịnh, Bưu điện Hải Dương đã phát triển được 500 thuê bao CDMA,
nhưng vào thời điểm ngừng hoạt động thì chỉ còn khoảng 200 thuê bao, những khách
hàng này được chuyển sang sử dụng dịch vụ GPhone hoặc tặng cước thuê bao, miễn
phí hoà mạng để họ sử dụng mạng GSM.
- NanPhone: “Ra đời từ cuối năm 2003, sau 3 năm triển khai, mạng điện thoại di
động nội vùng NanPhone chưa đạt được con số 1.000 thuê bao. Trong khi đó, cùng
với sự phát triển như vũ bão của thị trường di động, thiết bị công nghệ của dịch vụ
CDMA nội vùng ngày càng trở nên đắt đỏ và lạc hậu. Trong khi các mạng di động
toàn quốc đua nhau giảm giá và áp dụng cách tính cước theo block 6 giây + 1 thì
NanPhone vẫn giữ mức 400 đồng cho block 30 giây. Cước thuê bao là 50.000 đồng.”
2003
“Ông Đỗ Duy Dũng, giám đốc Viễn thông Nghệ An cho biết, vào thời điểm cao nhất,
mạng di động nội thị này có khoảng 3,000 thuê bao. Nhưng đến thời điểm chính thức
dừng cung cấp dịch vụ, mạng di động này chỉ còn có khoảng 200 thuê bao, trong đó
có tới một nửa là thuê bao nghiệp vụ”
- DaPhone: Được khai trương vào cùng năm với mạng NanPhone và là quà tặng của
ZTE, DaPhone ở Đà Nẵng vào thời điểm sung sức nhất thu hút được tới 3,300 thuê
bao. Đây cũng là số thuê bao lớn nhất trong ba mạng di động nội vùng của VNPT.
-76-
2007
Giữa năm 2007, mạng CDMA nội vùng Hải Dương chấm dứt hoạt động.
01/04/2008, mạng DaPhone chấm dứt hoạt động.
2008
01/11/2008, mạng NanPhone chấm dứt hoạt động.
Nguồn:
- Hồng Anh. (2008, 11 15). VNPT khai tử mạng CDMA nội vùng. Truy cập 2013, từ
vnexpress.net: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/vnpt-khai-tu-mang-cdma-noi-
vung-2693810.html
- Thái Khang. (2008, 11 18). VNPT hết thời CDMA nội vùng. Truy cập 2013, từ ctnews.vn:
http://m.ictnews.vn/vien-thong/vnpt-het-thoi-cdma-noi-vung-13913.ict
-77-
2. Chú thích nguồn của phần Tóm tắt nội dung luận văn
Số thuê bao di động:
- của Việt Nam năm 1995:
ITU- International Telecommunication Union. (2013). ICT Data and Statistics (IDS). Truy
cập 2013, từ International Telecommunication Union: http://www.itu.int/ITU-
D/ict/statistics/explorer/
- của Viettel:
Viettel. (2008). Thuê bao điện thoại di động giai đoạn 2004-2008. Truy cập 2013, từ
www.viettel.com.vn: http://viettel.com.vn/3-30-1-578-Thue-bao-dien-thoai-di-dong.html
- của MobiFone:
MobiFone. (2013). Lịch sử phát triển MobiFone. Truy cập 2013, từ
www.mobifone.com.vn:
https://www.mobifone.com.vn/portal/vn/services/home/mobifone_history.jsp
- của VinaPhone và VNPT:
VNPT. (2013). 10 Sự kiện nổi bật mỗi năm của Tập đoàn BCVT (năm 2004, 2005). Truy
cập 2014, từ www.vnpt.vn: http://www.vnpt.vn/Default.aspx?tabid=766&catid=1344
Số trạm thu phát sóng di động của Viettel và VNPT (MobiFone + VinaPhone):
Vũ Thành Tự Anh, Đỗ Hoàng Phương. (2012, 11 29). Nghiên cứu tình huống: Thị trường
điện thoại di động ở Việt Nam. FETP CV12-11-73.0, phụ lục 2