BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1) (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)
NGUYỄN THU NGA
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO TÍN DỤNG VỚI HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Chuyªn ngµnh: Tµi chÝnh Ng©n hµng
M· sè: 62340201
LUËN ¸N TIÕN SÜ KINH TÕ
2017 Hµ Néi ---- 2017 Hµ Néi 20172017 Hµ Néi Hµ Néi
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Tài
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Tôi xin cam đoan các số liệu được sử dụng trong luận án tiến sĩ “ Phân tích
mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với hiệu quả kinh doanh của các NHTMCP
Việt Nam” hoàn toàn được thu thập từ thực tế, chính xác, đáng tin cậy, có nguồn
gốc rõ ràng, được xử lý trung thực và khách quan.
Hà Nội, tháng 08 năm 2017
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn Học viên
PGS. TS. Nguyễn Hữu Tài Nguyễn Thu Nga
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, lời cảm ơn xin được gửi đến các nhà khoa học và các chuyên gia
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là
các lãnh đạo cùng các đồng nghiệp tại Công ty Stoxplus và các ngân hàng TMCP
Việt Nam đã luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập, nghiên
cứu giúp tác giả hoàn thành Luận án tiến sĩ.
Lòng chân thành và biết ơn xin được gửi đến Viện Ngân hàng - Tài chính và
Viện Đào tạo Sau đại học, cùng các thầy cô tham gia giảng dạy chương trình nghiên
cứu sinh của trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Qua đây, tác giả đã tiếp thu được những
kiến thức, phương pháp nghiên cứu làm hành trang quan trọng giúp tác giả thực
hiện nghiên cứu.
Lời tri ân sâu sắc nhất xin được gửi đến nhà khoa học hướng dẫn là PGS.TS
Nguyễn Hữu Tài đã gắn bó cùng tác giả trong suốt 4 năm học tập, nghiên cứu. Các
định hướng đúng đắn của thầy cùng sự chỉ bảo tận tình, tâm huyết đã giúp tác giả
hoàn thành Luận án.
Cuối cùng, xin được gửi tặng kết quả cho gia đình thân yêu và các anh,
chị, các bạn đồng hành cùng tác giả trong quá trình nghiên cứu. Chính sự yêu
thương, chia sẻ và niềm tin của mọi người là động lực to lớn cho tác giả hoàn
thành Luận án.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 08 năm 2017
Tác giả Luận án
Nguyễn Thu Nga
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGÂN HÀNG ............... 5
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh ngân hàng ......................................................................................... 5
1.1.1. Ngân hàng và các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng ...................................... 5
1.1.2. Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng ........................... 6
1.1.3. Khái quát về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại ............... 10
1.2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo cách tiếp
cận truyền thống ....................................................................................... 11
1.3. Hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo cách tiếp cận đường biên hiệu quả ... 14
1.3.1. Phân loại hiệu quả kinh doanh ngân hàng .................................................... 14
1.3.2. Các cách tiếp cận trong xây dựng đường biên hiệu quả ............................... 15
1.3.3. Khái quát các cách tiếp cận về hoạt động kinh doanh ngân hàng ................. 18
1.3.4. Đo lường hiệu quả kinh doanh ngân hàng ................................................... 20
1.4. Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng ................................................................................ 30
1.4.1. Tác động của rủi ro tín dụng tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng........... 31
1.4.2. Tác động của hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tới rủi ro tín dụng........... 31
1.5. Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh
ngân hàng và rủi ro tín dụng .................................................................... 33
1.5.1. Nghiên cứu ngoài nước về hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong mối quan
hệ với rủi ro tín dụng ................................................................................... 33
1.5.2. Các nghiên cứu trong nước ......................................................................... 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 58
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 59
2.1. Khoảng trống nghiên cứu ......................................................................... 59
2.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ................................................................ 60
2.3. Khung phân tích của luận án ................................................................... 61
2.4. Nguồn dữ liệu nghiên cứu ......................................................................... 63
2.5. Phương pháp lựa chọn biến nghiên cứu .................................................. 67
2.6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 70
2.6.1. Phương pháp truyền thống .......................................................................... 70
2.6.2. Phương pháp hiện đại .................................................................................. 71
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO TÍN DỤNG VÀ
HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM ... 78
3.1. Lịch sử ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam ............. 78
3.2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam theo phương pháp truyền thống ...................................................... 80
3.2.1. Mức độ tăng trưởng tài sản và vốn .............................................................. 80
3.2.2. Mức độ tăng trưởng tín dụng ....................................................................... 84
3.2.3. Khả năng sinh lời và tỷ lệ nợ xấu ................................................................ 85
3.3. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
Việt Nam theo phương pháp tham số SFA .............................................. 97
3.3.1. Khái quát về phương pháp tham số SFA sử dụng để đánh giá hiệu quả
kinh doanh ngân hàng ................................................................................. 97
3.3.2. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt
Nam theo phương pháp tham số SFA .......................................................... 98
3.4. Phân tích mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ................................ 101
3.4.1. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi có tác động của rủi
ro tín dụng ................................................................................................. 101
3.4.2. Đánh giá sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi có tác động
của rủi ro tín dụng .................................................................................... 105
3.4.3. Lượng hóa sự ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến đến hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng TMCP Việt Nam ......................................................... 109
3.4.4. So sánh hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam giữa mô
hình 3 với phương pháp truyền thống ........................................................ 111
3.4.5. Đánh giá tác động của hiệu quả kinh doanh đối với rủi ro tín dụng của các
ngân hàng TMCP Việt Nam ...................................................................... 114
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 116
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................... 117
4.1. Phát hiện của đề tài ................................................................................. 117
4.1.1. Phát hiện về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
theo cách tiếp cận truyền thống ................................................................. 117
4.1.2. Phát hiện về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
theo cách tiếp cận hiện đại ........................................................................ 117
4.1.3. Phát hiện về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam ................................................................ 118
4.2. Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.......... 119
4.2.1. Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng ..... 119
4.2.2. Ước tính mức hiệu quả kinh doanh và rủi ro tín dụng ................................ 120
4.3. Kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ......................... 124
4.3.1. Chứng khoán hóa nợ xấu ........................................................................... 124
4.3.2. Phát triển thị trường mua bán nợ ............................................................... 125
4.4. Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo .......................... 127
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 .................................................................................. 128
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 129
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNNHNN
Từ viết tăt Diễn giải
NHLD
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng NH
Ngân hàng nhà nước NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Một thành viên MTV
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Thương mại cổ phần TMCP
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Các biến đầu vào và đầu ra theo các cách tiếp cận về hoạt động ngân
hàng .................................................................................................... 19
Bảng 1.2. Tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả kinh doanh ngân
hàng trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng ......................................... 34
Bảng 1.3. Các biến trong mô hình hoạt động của ngân hàng theo các cách tiếp
cận khác nhau trong nghiên cứu của Pasiouras (2007)......................... 39 Bảng 2.1. Tổng hợp các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu .................................. 64 Bảng 2.2. Các biến trong mô hình SFA ............................................................... 69 Lựa chọn dạng hàm để xây dựng đường biên hiệu quả ....................... 77 Bảng 2.3. Bảng 3.1. Cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn 2009-2015 ............. 79 Bảng 3.2. Qui mô tăng trưởng tài sản .................................................................. 81 Bảng 3.3. Qui mô tăng trưởng vốn điều lệ ........................................................... 82 Bảng 3.4. Qui mô tăng trưởng vốn tự có ............................................................. 82 Bảng 3.5. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ................................................................... 83 Bảng 3.6. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn ........................................... 84 Bảng 3.7. Tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi/doanh thu thuần ........................................ 86 Bảng 3.8. Tỷ lệ nợ xấu/Tổng tài sản .................................................................... 87 Bảng 3.9. Hệ số NIM của một số ngân hàng ....................................................... 88 Bảng 3.10. ROE của các ngân hàng thương mại Việt Nam ................................... 90 Bảng 3.11. ROA của các ngân hàng thương mại Việt Nam ................................... 91 Bảng 3.12. So sánh xếp hạng các NHTM Việt Nam theo ROA và ROE................ 93 Bảng 3.13. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 1 ..... 100 Bảng 3.14. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 2 ..... 102 Bảng 3.15. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 3 ..... 104
Bảng 3.16. So sánh hiệu quả kinh doanh của ngân hàng giữa mô hình 1 và mô
hình 2 ................................................................................................ 106 Bảng 3.17. So sánh hiệu quả kinh doanh ngân hàng giữa mô hình 1 và mô hình 3 .... 108 Bảng 3.18. Kiểm định các dạng hàm Cobb-Douglas ........................................... 109 Bảng 3.19. Ước lượng các hệ số hồi quy ............................................................. 110
Bảng 3.20. So sánh hiệu quả kinh doanh ngân hàng từ mô hình 3 và ROA ......... 112
Bảng 3.21. Phân tích tương quan giữa phương pháp phân tích hiện đại và
phương pháp truyền thống ................................................................ 114 Bảng 3.22. Kết quả phân tích nhân quả Granger ................................................. 114 Bảng 3.23. Kết quả phân tích hàm hồi quy .......................................................... 115
Bảng 4.1. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BID) ........................................................................ 121
Bảng 4.2. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BID) ........................................................................ 122
Bảng 4.3. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BID) khi rủi ro tín dụng thay đổi ............................. 123
DANH MỤC HÌNH
HÌNH
Hình 1.1. Hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ theo cách tiếp cận hướng về
đầu vào ............................................................................................... 16 Hình 1.2. Đường đồng lượng tuyến tính từng khúc ............................................. 17 Hình 1.3. Hiệu quả kinh doanh hướng về đầu ra ................................................. 18 Hình 2.1. Khung phân tích của luận án ............................................................... 62 Hình 3.1. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ................................................................ 85
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Rủi ro tín dụng là những tổn thất của ngân hàng khi người đi vay không hoàn
thành một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của mình (Coyle, 2000). Có thể nói
rằng, so với các rủi ro khác mà ngân hàng thương mại gặp phải, rủi ro tín dụng có
ảnh hưởng lớn nhất tới sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Do vậy, quản trị
rủi ro tín dụng vừa là hoạt động cần thiết mà mỗi ngân hàng cần thực hiện trong nội
bộ ngân hàng đồng thời hoạt động này cũng chịu sự giám sát thường xuyên của các
cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhận thức về vai trò của kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng thương mại
đã tiến hành quản trị rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, là một tổ
chức hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà quản lý ngân hàng cần
phải cân nhắc mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng
và lợi ích mang lại từ hoạt động này. Nói cách khác, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại như thế nào cần được xem xét
và đánh giá một cách cụ thể và khoa học. Như Mester (1996) đã phát biểu “hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng chỉ được đánh giá chính xác khi các yếu tố thuộc về rủi
ro được tính đến”.
Trên thế giới, việc nghiên cứu tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng thương mại đã được thực hiện từ khá lâu. Berger và DeYoung
(1997) lần đầu tiên đưa ra lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả
kinh doanh cũng như kiểm định về mối quan hệ này, sử dụng các dữ liệu từ các
ngân hàng của Mỹ. Kể từ đó, các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan cũng đã
được thực hiện trong các bối cảnh khác nhau với sự hoàn thiện của các phương
pháp tiếp cận trong đó phải kể đến sự hoàn thiện của các phương pháp đánh giá hiệu
quả kinh doanh ngân hàng.
Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả
kinh doanh ngân hàng, có thể thấy, các nghiên cứu này sử dụng các phương pháp
nghiên cứu hết sức đa dạng. Sự đa dạng này thể hiện ở việc lựa chọn biến rủi ro tín
2
dụng, cách tiếp cận hoạt động kinh doanh ngân hàng và phương pháp đánh giá hiệu
quả kinh doanh ngân hàng: phương pháp tham số và phi tham số. Tuy nhiên, mỗi cách
tiếp cận có ưu và nhược điểm cũng như điều kiện áp dụng riêng, vì thế, làm cho kết quả
nghiên cứu cũng không đồng nhất trong các bối cảnh nghiên cứu. Thêm nữa, hai câu
hỏi nghiên cứu liên quan đến mức độ rủi ro tín dụng mà một ngân hàng thương mại có
thể chấp nhận được hay mức độ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng khi rủi ro tín dụng
thay đổi là bao nhiêu hầu như còn bỏ ngỏ trong các nghiên cứu đã tiến hành.
Xuất phát từ tầm quan trọng của nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng
và hiệu quả kinh doanh ngân hàng, cùng với sự tồn tại khoảng trống nghiên cứu, tác
giả quyết định chọn mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam làm đề tài nghiên cứu của luận án này. Kết quả
nghiên cứu hi vọng có những đóng góp đối với các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu chính là đánh giá mối quan
hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ
phần (TMCP) Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam bằng
các cách tiếp cận khác nhau.
- Lượng hóa tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam.
- Đánh giá ảnh hưởng của hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
Việt Nam đối với rủi ro tín dụng.
Từ các mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận án xây dựng các câu hỏi nghiên
cứu cụ thể bao gồm:
1. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam được đánh giá
như thế nào khi sử dụng phương pháp truyền thống với các chỉ tiêu tài chính tính
toán từ các báo cáo của ngân hàng?
2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam theo cách phân
tích biên ngẫu nhiên SFA (phương pháp hiện đại) được đánh giá như thế nào?
3
3. Đánh giá mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
Việt Nam và rủi ro tín dụng của ngân hàng?
4. Các đề xuất nào đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam để nâng cao hiệu
quả kinh doanh và kiểm soát rủi ro tín dụng?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian là các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam và phạm vi nghiên cứu về thời gian là 7 năm từ 2009 đến 2015.
Đối tượng nghiên cứu: là mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng TMCP trong đó hiệu quả kinh doanh là hiệu quả kỹ thuật
được ước lượng từ các phương pháp khác nhau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp định tính và
định lượng.
- Phương pháp định tính: thống kê mô tả, so sánh, phân tích.
- Phương pháp định lượng: chủ yếu sử dụng các mô hình khác nhau thiết kế
cho phương pháp tham số để đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Ngoài ra,
luận án còn sử dụng phân tích phân tích tương quan và phân tích nhân quả Granger
để ước lượng mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu.
5. Đóng góp và kết quả mong đợi của luận án
Xuất phát từ những khoảng trống tri thức, nghiên cứu này mong muốn có
những đóng góp cả về lý thuyết và thực tiễn như sau:
Đóng góp về mặt lý thuyết
Nghiên cứu đã đánh giá sự tác động của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả kinh
doanh ngân hàng bằng cách xem xét rủi ro tín dụng như một biến đầu vào độc lập
(biến nội sinh) và biến ngoại sinh là biến ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả của các
ngân hàng TMCP Việt Nam. Từ đó, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện lý
thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng thương mại trong bối cảnh Việt Nam.
4
Đóng góp về mặt thực tiễn
Nghiên cứu tiến hành đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng theo
nhiều phương pháp khác nhau để có thể giúp các nhà quản lý ngân hàng lựa chọn
một phương pháp phù hợp để vận dụng đối với ngân hàng đó. Quan trọng hơn, mối
quan hệ giữa rủi ro tín dụng đối với hiệu quả kinh doanh ngân hàng được làm rõ
trong luận án giúp cho các ngân hàng thấy được tầm quan trọng của hoạt động quản
trị rủi ro tín dụng và xử lý nợ xấu để nâng cao hiệu quả ngân hàng. Đối với các cơ
quan quản lý như Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, kết quả luận án là một gợi ý
để các cơ quan này tăng cường hoạt động hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
6. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết về rủi ro tín dụng và
hiệu quả kinh doanh ngân hàng.
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng TMCP Việt Nam
Chương 4. Kết luận và kiến nghị
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI
RO TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh ngân hàng
1.1.1. Ngân hàng và các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng
Theo Luật Các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16/6/2010, Ngân hàng
thương mại (gọi tắt là ngân hàng trong luận án này) là một loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên
quan, như: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán tài khoản.
Theo Nguyễn Minh Kiều (2012), các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
bao gồm huy động vốn, hoạt động cấp tín dụng, hoạt động thanh toán, hoạt động
ngân quỹ, và các hoạt động khác như góp vốn mua cổ phần, tham gia thị trường tiền
tệ, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại
lý, dịch vụ tư vấn và các nghiệp vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn gồm các hoạt động: nhận tiền gửi của tổ chức, cá
nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn và các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ
có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vay vốn
ngắn hạn của ngân hàng nhà nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân
được thực hiện dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có
giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước như bao thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay
thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay dự phòng,…Trong các hoạt động
cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động thanh toán và ngân quỹ của các ngân hàng thương mại bao gồm:
cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước
6
cho khác hàng; thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ. Ngoài các hoạt động truyền
thống, các ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt động khác, bao
gồm góp vốn và mua cổ phần; tham gia thị trường tiền tệ; kinh doanh ngoại hối; ủy
thác và nhận ủy thác; cung ứng dịch vụ bảo hiểm; tư vấn tài chính; và bảo quản vật
quý giá.
1.1.2. Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng, theo định nghĩa bởi Hiệp ước Basel ra đời năm 2010 và Rose
(2002), là khả năng mà ngân hàng sẽ mất một phần hoặc toàn bộ khoản vay từ những
sự kiện đe dọa khả năng thanh toán của khách hàng. Các sự kiện không mong muốn
này bao gồm phá sản của khách hàng hoặc sự cố tình từ chối thanh toán khoản nợ của
khách hàng. Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN liên quan đến việc sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài thì rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối
với nợ của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết. Như vậy, dù cách
thể hiện khác nhau nhưng các khái niệm về rủi ro tín dụng được đưa ra đều hội tụ
chung ở một điểm là rủi ro tín dụng chính là tổn thất mà ngân hàng có thể gặp phải từ
sự không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của khách hàng.
Rủi ro tín dụng là một trong những mối lo ngại rất lớn của các ngân hàng
thương mại vì rủi ro này không những ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động và
uy tín của ngân hàng mà còn quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Rủi
ro tín dụng làm cho giá trị tài sản của ngân hàng giảm sút, làm mất vốn và sẽ ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Bessis (2002) nhấn mạnh rằng, ngân
hàng cần đặc biệt quan tâm đến rủi ro tín dụng vì chỉ cần một số lượng nhỏ các
khách hàng chính của ngân hàng mất khả năng thanh toán cũng có thể dẫn đến
những tổn thất lớn cho ngân hàng. Đặc biệt, đối với các ngân hàng còn nghèo nàn
trong việc kinh doanh dịch vụ tài chính, trong khi tín dụng được coi là nghiệp vụ
sinh lời chủ yếu thì rủi ro tín dụng lại càng được chú ý.
7
1.1.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Theo Phạm Thu Thủy & Đỗ Thị Thu Hà (2013), cách tiếp cận truyền thống
đo lường rủi ro tín dụng được thực hiện thông qua các chỉ tiêu như hệ số nợ quá
hạn, hệ số nợ xấu, hệ số rủi ro mất vốn, hệ số khả năng bù đắp rủi ro,... Trong các
chỉ tiêu này, nợ xấu là chỉ tiêu phổ biến nhất để đo lường rủi ro tín dụng. Theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN liên quan đến việc phân loại nợ thì nợ xấu
(NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Nhóm 3 là các khoản nợ dưới tiêu
chuẩn, các khoản nợ đã quá hạn từ từ 90 đến 180 ngày. Nhóm 4 gồm các khoản nợ
ghi ngờ, với thời gian quá hạn từ 181 đến 360 ngày. Trong khi đó, nợ có khả năng
mất vốn là các khoản nợ trong nhóm 5, đã quá hạn trên 360 ngày.
Sử dụng chỉ tiêu nợ xấu để đo lường rủi ro tín dụng được đánh giá là trực
quan và có thể áp dụng khá đơn giản. Chỉ tiêu này giúp ngân hàng kịp thời đánh giá
được quy mô và tỷ lệ vốn khó có thể thu hồi của một danh mục cho vay tại thời
điểm hiện tại. Chính vì vậy, có khá nhiều nghiên cứu sử dụng nợ xấu để mô tả rủi ro
tín dụng của một NHTM, tiêu biểu là nghiên cứu của Eisenbeis và cộng sự (1999);
González (2005); Cheng và Kao (2011); Ghafooria và cộng sự, (2013), trong đó, rủi
ro tín dụng đo bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chưa thực
sự gắn với khái niệm rủi ro tín dụng như một khả năng mất vốn trong tương lai. Nói
cách khác, ngân hàng khó có thể dự đoán được tại một thời điểm trong tương lai,
mức độ rủi ro của ngân hàng mình sẽ là bao nhiêu. Ngoài ra, các chỉ số liên quan
đến nợ xấu chịu ảnh hưởng lớn từ cách phân loại và nhận biết nợ xấu, một khi cách
phân loại này thay đổi thì mức độ rủi ro của ngân hàng cũng thay đổi theo. Thêm
nữa, để giảm hệ số nợ xấu, ngân hàng có thể gia tăng dư nợ tín dụng. Khi đó hệ số
nợ xấu có thể cải thiện nhưng rủi ro tín dụng không những giảm mà còn có nguy cơ
nghiêm trọng thêm (Phạm Thu Thủy & Đỗ Thị Thu Hà, 2013).
Ngoài phương pháp đo lường truyền thống, rủi ro tín dụng còn đo bằng dự
phòng rủi ro cho vay. Rủi ro tín dụng tính toán theo phương pháp này được coi là
một khoản chi phí của ngân hàng biểu hiện bằng số tiền được trích lập để dự phòng
cho những tổn thất có thể xảy ra đối với các khoản cho vay của ngân hàng. Cách
8
xác định mức dự phòng rủi ro này căn cứ vào việc phân loại nợ của ngân hàng theo
từng nhóm, trong đó không chỉ có nhóm nợ xấu nên đã làm cho việc đo lường rủi ro
trở nên toàn diện hơn. Dưới góc độ nghiên cứu, việc thu thập số liệu về rủi ro tín
dụng sử dụng chỉ tiêu dự phòng rủi ro cho vay trở nên dễ dàng hơn nhiều vì chỉ tiêu
này thể hiện trong báo cáo tài chính của ngân hàng với con số đáng tin cậy hơn so
với chỉ tiêu nợ xấu mà ngân hàng công bố.
Theo Ahmed và cộng sự (1998) và Fisher, Gueyie và Ortiz (2000), dự phòng
rủi ro cho vay có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu và vì thế dự phòng rủi ro
cho vay càng cao thì chất lượng khoản vay càng giảm và rủi ro tín dụng tăng. Từ
đó, thước đo này ngày càng được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu liên quan
đến rủi ro tín dụng (Tsolas và Charles, 2015; Sun và Chang, 2010; Chang và Chiu,
2006; Mester, 1996). Đặc biệt, Knaup và Wagner (2012) đã đồng thời đo lường rủi
ro tín dụng bằng các chỉ tiêu như dự phòng rủi ro cho vay, nợ có vấn đề, tỷ lệ nợ
trên tổng vốn chủ sở hữu, nợ không có bảo đảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro
tín dụng đo lường bằng chi phí dự phòng rủi ro cho vay có tác động đáng kể hơn cả
đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng so với các chỉ tiêu đo lường còn lại của rủi
ro tín dụng. Tuy vậy, sự lựa chọn chỉ tiêu này để mô tả rủi ro tín dụng cũng vấp phải
một số phản đối của các nhà nghiên cứu khác, chẳng hạn, Podpiera và Weill (2008)
cho rằng tỷ lệ dự phòng không hoàn toàn chính xác để mô tả rủi ro vì nó mang tính
ước tính và phụ thuộc rất nhiều vào chính sách quản trị rủi ro của ngân hàng đó.
Ngoài hai cách đo lường rủi ro tín dụng trực tiếp kể trên, Sillah và cộng sự
(2015) lại sử dụng chỉ số an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR) bằng vốn
cấp 1 trên tổng tài sản của ngân hàng trong nghiên cứu của mình để đánh giá một
cách gián tiếp về rủi ro tín dụng. Chỉ số này đánh giá khả năng các ngân hàng có thể
thích ứng với rủi ro tín dụng.
Như vậy, việc sử dụng tỷ lệ nợ xấu, chỉ số an toàn vốn hay dự phòng rủi ro
cho vay để mô tả rủi ro tín dụng đã được đồng thời sử dụng một cách đa dạng trong
các nghiên cứu có liên quan trong thời gian vừa qua. Trong bối cảnh nghiên cứu tại
Việt Nam, chỉ tiêu dự phòng rủi ro cho vay được coi là phù hợp hơn vì các thông tin
9
về nợ xấu của các ngân hàng thương mại không được công bố một cách công khai
và độ xác thực không được bảo đảm. Trong khi đó, chi phí dự phòng rủi ro cho vay
là một chỉ tiêu có thể thu được trên báo cáo tài chính ngân hàng với tỷ lệ trích lập đã
được hướng dẫn cụ thể bởi Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2.3. Quản trị rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân từ bên trong hoặc bên
ngoài mà ngân hàng không kiểm soát được. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng từ phía các ngân hàng thương mại bao gồm sự yếu kém trong các phương
pháp xếp hạng tín dụng nội bộ và cơ cấu quản trị nội bộ, hay thiếu quy trình định
giá độc lập và liên tục cũng như thiếu hệ thống cảnh báo sớm để chỉ ra dấu hiệu của
nợ xấu. Từ đó, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt
động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa
ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa rủi ro tín dụng. Quản trị rủi ro tín
dụng bao gồm các biện pháp như thiết lập chính sách tín dụng, phân tích và thẩm
định tín dụng, xếp hạng tín dụng, chấm điểm tín dụng và bảo đảm tín dụng.
Biện pháp trước tiên trong công tác quản lý rủi ro tín dụng là xác định mục
tiêu và thiết lập chính sách tín dụng của ngân hàng. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín
dụng là giảm thiểu rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất có thể được. Các ngân hàng
đều theo dõi sát sao và thường xuyên báo cáo với hội đồng quản trị về chỉ tiêu này.
Để đạt được mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng đề ra, các ngân hàng cần thiết lập cho
mình chính sách tín dụng phù hợp.
Phân tích và thẩm định tín dụng là hai khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy
trình tín dụng. Mục tiêu của phân tích tín dụng là nhằm đánh giá khả năng trả nợ
của khách hàng để quyết định cho vay, theo đó, ngân hàng chỉ cho vay khi đánh giá
được khách hàng có khả năng trả nợ. Trong khi đó, mục tiêu của thẩm định tín dụng
là đánh giá mức độ tin cậy của phương án sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư mà
khách hàng lập và nộp cho ngân hàng trong hồ sơ vay vốn, theo đó, ngân hàng cũng
chỉ cho vay khi nào thẩm định và đánh giá được phương án sản xuất kinh doanh và
dự án đầu tư của khách hàng là đáng tin cậy.
10
Xếp hạng tín dụng là kỹ thuật đánh giá rủi ro tín dụng do các tổ chức xếp
hạng thực hiện và công bố dựa trên các tiêu chí phản ánh uy tín tín dụng của người
vay nợ. Hai tổ chức xếp hạng tín dụng uy tín là Standard & Poor (S&P) và Moody’s
Investor Service and Fitch. S&P xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp cao nhất là
AAA xuống thấp nhất là C, hạng càng thấp thì rủi ro tín dụng càng cao. Xếp hạng
tín dụng chỉ áp dụng cho các khách hàng là doanh nghiệp. Đối với các khách hàng
cá nhân, đặc biệt là các khách hàng vay tiêu dùng và mua bất động sản, ngân hàng
thường áp dụng hình thức chấm điểm tín dụng.
Chấm điểm tín dụng là kỹ thuật sử dụng các dữ liệu nghiên cứu thống kê và
hoạt động để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với khách hàng. Điểm tín dụng thể
hiện ở một con số do ngân hàng xác định dựa trên cơ sở phân tích thống kê của
chuyên viên tín dụng, của phòng tín dụng hoặc công ty chuyên thực hiện dịch vụ
chấm điểm tín dụng.
Bảo đảm tín dụng (bảo đảm tiền vay) là việc tổ chức tín dụng áp dụng các
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các
khoản nợ đã cho khách hàng vay. Các hình thức bảo đảm tín dụng gồm: thế chấp tài
sản, cầm cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng
hình thức bảo lãnh.
1.1.3. Khái quát về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Trong các nghiên cứu đã tiến hành, khái niệm hiệu quả kinh doanh ngân
hàng được nhìn nhận ở hai góc độ: truyền thống và hiện đại. Theo cách tiếp cận
truyền thống, hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng được đánh giá bằng cách so
sánh lợi nhuận mà ngân hàng thu được với chi phí mà ngân hàng đã bỏ ra trong một
khoảng thời gian nhất định. Từ đó, hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đo lường
bằng các chỉ số như tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) hoặc tỷ suất sinh lời
trên tài sản (ROA), tốc độ tăng trưởng doanh thu, … Có thể thấy rằng, cách đo
lường hiệu quả này đơn giản, dễ thực hiện nhưng lại có nhược điểm lớn đó là không
phản ánh được sự thay đổi của giá đầu vào, giá đầu ra và các yếu tố khác làm cho
một ngân hàng không thể hoạt động ở mức tối ưu được.
11
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu đã sử dụng cách tiếp
cận thứ hai, dựa trên khái niệm về đường biên hiệu quả để nghiên cứu về hiệu quả
kinh doanh ngân hàng. Đây là cách tiếp cận hiện đại cho biết hiệu quả kinh doanh
của một ngân hàng được xác định dựa trên sự so sánh kết quả mà ngân hàng đạt
được so với các ngân hàng tương tự khác.
Liên quan đến cách tiếp cận hiện đại, Lovell (1992) cho rằng hiệu quả kinh
doanh của một tổ chức bất kỳ phản ánh mối quan hệ giữa lượng đầu ra và đầu vào
của một tổ chức trong sự so sánh với giá trị đầu vào tối thiểu hay đầu ra tối đa mà tổ
chức đó có thể đạt được. Nói cách khác, mối quan hệ này có thể đo lường bằng cách
so sánh đầu ra đạt được của một tổ chức với đầu ra tối đa mà tổ chức đó có thể đạt
được trên một lượng đầu vào nhất định hoặc bằng cách so sánh đầu vào mà tổ chức
đó thực tế sử dụng với đầu vào tối thiểu có thể sử dụng để thu được một lượng đầu
ra không đổi. Cách tiếp cận thứ hai này được đã phát triển khá đầy đủ, phong phú
trong đó hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đo lường dưới nhiều góc độ và
phương pháp khác nhau. Chẳng hạn, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng có thể
được phân loại thành hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí, hiệu quả lợi nhuận, …
theo các cách tiếp cận hướng về đầu vào và hướng về đầu ra.
Như vậy, có thể thấy rằng đang tồn tại hai luồng quan điểm tương đối khác
biệt về hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong các nghiên cứu học thuật và thực tiễn.
Các lý thuyết liên quan đến hai cách tiếp cận này sẽ được trình bày cụ thể trong các
phần tiếp theo của chương, trong đó, hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo cách tiếp
cận hiện đại được gọi là cách tiếp cận hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo đường
biên hiệu quả.
1.2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo cách tiếp cận
truyền thống
Việc tiếp cận và đo lường hiệu quả kinh doanh ngân hàng đã được thực hiện
đa dạng theo các cách khác nhau. Ở cách tiếp cận truyền thống, hiệu quả kinh doanh
ngân hàng được đo lường thông qua các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời; các chỉ
tiêu phản ánh thu nhập, chi phí; và các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng (Nguyễn
Việt Hùng, 2012).
12
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời: bao gồm các chỉ tiêu tính toán
trên báo cáo tài chính phản ánhtính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Các chỉ
tiêu này bao gồm: tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM), thu ngoài lãi biên ròng (NOM),
hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA) và thu
nhập ròng trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE).
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi
phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài
sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Một tỷ lệ NIM cao là
dấu hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản
và nợ. Ngược lại, NIM thấp sẽ cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc
tạo lợi nhuận. Trong khi đó, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM) đo lường mức
chênh lệch giữa nguồn thu ngoài, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các
chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu như tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành
và chi phí tổn thất tín dụng. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên được tính toán theo
công thức sau:
Hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS) phản ánh phần lợi nhuận mà ngân hàng
phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang lưu hành trên thị trường. EPS được thể
hiện như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của ngân hàng, được tính
toán bằng công thức:
Thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA) đo lường khả năng của ban quản lý
sử dụng các nguồn lực nói chung và nguồn lực tài chính của ngân hàng nói riêng để
tạo ra lợi nhuận. ROA được tính theo công thức sau:
13
Khác với ROA, ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông
của ngân hàng, thể hiện thu nhập mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân
hàng. Nếu một ngân hàng có ROE tương đối thấp so với những ngân hàng khác sẽ
làm giảm đi khả năng thu hút vốn mới cần thiết cho sự mở rộng và duy trì vị thế
cạnh tranh của ngân hàng đó trên thị trường. ROE được tính toán bằng công thức:
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí, bao gồm các chỉ tiêu:
+ Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: là một thước đo phản ánh
mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra hay nói cách khác nó phản ảnh khả năng bù đắp
chi phí trong hoạt động của ngân hàng.
+ Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/Số nhân viên làm việc đầy đủ
thời gian): phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng.
+ Tổng thu hoạt động/tổng tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu hệ
số này lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản (danh mục đầu tư) một cách hợp
lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính
Trong một nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, các nhà quản trị
ngân hàng tập trung nhiều hơn vào công việc kiểm soát và đo lường rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng, đó là: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất,
rủi ro phá sản và rủi ro thu nhập.
+ Tỷ lệ nợ xấu/tổng cho vay: chỉ tiêu phản ánh chất lượng của tín dụng, chỉ
số này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
+ Tỷ lệ cho vay/tổng tài sản: phản ánh phần tài sản có được phân bổ vào
những tài sản có tính thanh khoản kém. Tỷ lệ này cho thấy việc tăng cường sử dụng
nguồn vốn vay rất có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu như nhu cầu rút tiền của
công chúng tăng và chất lượng của các khoản cho vay giảm.
14
+ Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi
suất: khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm với lãi
suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể sẽ rơi vào tình trạng bất lợi
và thua lỗ có thể xảy ra nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi quy mô vốn nhạy cảm với
lãi suất vượt quá tài sản nhạy cảm với lãi suất, thua lỗ chắc chắn sẽ xảy ra nếu lãi
suất tăng.
+ Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (Tổng tài sản/tổng nguồn vốn chủ sở hữu): chỉ tiêu
này phản ánh bao nhiêu đồng giá trị tài sản được tạo ra trên cơ sở 1 đồng vốn chủ sở
hữu và ngân hàng phải dựa vào nguồn vay nợ là bao nhiêu.
Phương pháp tiếp cận truyền thống để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng thương mại có ưu điểm đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng. Hầu hết các chỉ
số trong phương pháp này đều được tính toán từ các thông tin trên hệ thống báo tài
chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, khó có thể đưa ra một bức tranh tổng thể về hiệu
quả kinh doanh ngân hàng khi kết hợp nhiều mặt, nhiều khía cạnh hoạt động của
ngân hàng. Khi xem xét đồng thời hoặc tổng hợp các kết quả phân tích từ các tỷ số
khác nhau có thể đưa đến nguy cơ nhầm lẫn trong việc đánh giá hoạt động của các
ngân hàng vì các chỉ số này chỉ là những chỉ số phân tích đơn.
1.3. Hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo cách tiếp cận đường biên hiệu quả
1.3.1. Phân loại hiệu quả kinh doanh ngân hàng
Như đã đề cập ở trên, theo cách tiếp cận hiện đại với việc xây dựng đường
biên hiệu quả, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được đánh giá bằng mối quan hệ
giữa đầu vào mà ngân hàng sử dụng và sản phẩm đầu ra mà ngân hàng đó tạo ra.
Trong các nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh theo phương pháp này, đáng chú ý là
nghiên cứu của Farrel (1957) vì đã lần đầu tiên làm rõ khái niệm hiệu quả kinh
doanh cũng như cách nhận dạng của từng loại hiệu quả kinh doanh, cũng như việc
mô hình hóa chúng. Farrel (1957) giới thiệu về đường biên hiệu quả trong đó một tổ
chức có thể tối đa hóa đầu ra dựa vào một lượng đầu vào nhất định. Từ đó, hiệu quả
kinh doanh của một tổ chức bao gồm hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu
quả kinh tế.
15
Khái niệm về hiệu quả kỹ thuật thật ra đã được giới thiệu trước đó bởi
Koopmans (1951) khi ông cho rằng một tổ chức được coi là có hiệu quả về kỹ thuật
nếu như tổ chức đó không thể tăng một đơn vị đầu ra mà không cần giảm ít nhất
một đơn vị đầu ra khác hoặc tăng ít nhất một đơn vị đầu vào. Hiệu quả kỹ thuật
cũng được thể hiện ở việc một tổ chức không thể giảm một đơn vị đầu vào này mà
không cần tăng một đơn vị đầu vào khác hay giảm ít nhất một đơn vị đầu ra.
Hiệu quả kỹ thuật còn được hiểu là khả năng tối đa hóa đầu ra từ một số
lượng đầu vào nhất định hay tối thiểu hóa đầu vào để thu được một lượng đầu ra
nhất định. Một tổ chức được coi là không hiệu quả về mặt kỹ thuật nếu như tổ chức
đó không thể tạo ra được đầu ra lớn nhất từ một lượng đầu vào cố định. Nói một
cách khác, tổ chức đó đang hoạt động tại điểm nằm ngoài đường biên hiệu quả.
Hiệu quả phân bổ là khả năng kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào với một
công nghệ cho trước cũng như với một mức giá cả đầu vào xác định. Một tổ chức
được coi là phi hiệu quả về mặt phân bổ nếu như tổ chức đó không thể sử dụng một
cách tiết kiệm đầu vào, hay là không tìm được các đầu vào thay thế có mức giá rẻ
hơn để sản xuất một lượng đầu ra tương tự.
Theo Farrel (1957), hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ cấu thành hiệu
quả kinh tế của tổ chức đó. Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng tích số giữa hiệu
quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật và nhận giá trị trong khoảng (0,1).
Các nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh ngân hàng cũng sử dụng các khái
niệm về hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu quả kinh tế giống như Farrel
(1957) đã đề xuất. Bên cạnh đó, khái niệm về hiệu quả kinh doanh mở rộng hơn với
hiệu quả quy mô (Fare, Grosskopf và Lowell, 1985), hiệu quả chi phí (Berger và
Mester, 1997) hay hiệu quả lợi nhuận (Berger và Mester, 1997).
1.3.2. Các cách tiếp cận trong xây dựng đường biên hiệu quả
1.3.2.1. Cách tiếp cận hướng về đầu vào
Với cách tiếp cận đầu vào, hiệu quả kinh doanh và ý tưởng về đường biên
hiệu quả được Farrell mô tả cụ thể trong hình 1.1. Trong tình huống này, Farrell
(1957) giả sử một ngân hàng sử dụng hai đầu vào (x1 và x2) để tạo ra một đầu ra duy
16
nhất là (y) trong điều kiện công nghệ sử dụng tại ngân hàng là không đổi. Giả định
ngân hàng đó có thể kết hợp các đầu vào để tạo ra một lượng đầu ra q nhất định mô
tả bằng đường biên SS’, đường SS’ là đường đồng lượng. Đường thẳng AA’ mô tả
cách kết hợp các đầu vào tương ứng với một mức tổng chi phí đầu vào nhất định, vì
vậy, đường AA’ gọi là đường đồng phí. Điểm Q’ là điểm tiếp xúc giữa đường cong
SS’ và đường AA’ là điểm hiệu quả cả về kỹ thuật và phân bổ. Nếu tổ chức đó tiến
hành sử dụng đầu vào trong sản xuất được mô tả ở điểm P thì tổ chức đó không hiệu
quả cả về kỹ thuật và phân bổ. Mức độ không hiệu quả về kỹ thuật thể hiện bằng tỷ
lệ OQ/OP. Khoảng cách PQ cho biết tổ chức đó hoàn toàn có thể giảm được lượng
đầu vào theo một tỷ lệ nào đó trong khi số lượng đầu ra không đổi.
Hiệu quả phân bổ được đo bằng tỷ lệ OR/OQ, tỷ lệ này cho biết khả năng tiết
kiệm chi phí mà tổ chức còn có thể thực hiện được để tạo ra lượng đầu ra không đổi
Từ đó mức độ hiệu quả kinh tế (EE) của tổ chức hoạt động tại điểm P là sự kết hợp
giữa hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ được xác định bằng các công thức:
(1.1)
P
(1.2)
X2/y
S
A
Q
R
Q’
S’
A’
X1/y
0
Hình 1.1. Hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ theo cách tiếp cận hướng về đầu vào
Nguồn: Farrell (1957)
17
Theo hình 1.1, tổ chức hoạt động tại điểm Q được coi là có hiệu quả về kỹ
thuật nhưng không có hiệu quả phân bổ. Tổ chức hoạt động tại điểm R có hiệu quả
về mặt phân bổ nhưng không có hiệu quả về mặt kỹ thuật.
Từ công thức 1.1 có thể thấy, tỷ lệ EE luôn nằm trong khoảng (0,1) trong đó
nếu tổ chức nào có tỷ lệ này nhận giá trị cao nhất bằng 1 nghĩa là tổ chức đó có hiệu
quả về mặt kinh tế (kỹ thuật và phân bổ) theo quan điểm của Farrel (1957).
Trong thực tế, có thể không thể ước lượng được đường đồng lượng SS’ như
thể hiện trong hình 1.1, đường đồng lượng có thể được ước lượng từ một số liệu
mẫu (Coelli, 1996). Lúc này, đường cong SS’ trở thành đường đồng lượng lồi tuyến
tính từng khúc phi tham số như trong hình 1.2 dưới đây.
X2/y
S
S’
X1/y
0
Hình 1.2. Đường đồng lượng tuyến tính từng khúc
Nguồn: Coelli (1996)
1.3.2.2. Cách tiếp cận hướng về đầu ra
Trong cách tiếp cận hướng về đầu vào, hiệu quả kinh doanh được đánh giá
bằng cách trả lời câu hỏi ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí được nữa hay không và
bằng bao nhiêu nếu như lượng đầu ra tạo được vẫn không thay đổi. Ngược lại, trong
cách tiếp cận hướng về đầu ra, hiệu quả kinh doanh ngân hàng liên quan đến khả
năng ngân hàng có thể tăng được lượng đầu ra hay không nếu như lượng đầu vào sử
dụng là không đổi. Lý giải về cách tiếp cận này trong đánh giá hiệu quả kinh doanh
ngân hàng được mô tả trong hình 1.3.
Trong hình 1.3, sự phi hiệu quả kỹ thuật được thể hiện bằng khoảng cách
AB, được hiểu là lượng đầu ra mà ngân hàng có thể gia tăng mà không cần phải bỏ
18
thêm các chi phí đầu vào. Vì thế hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận này được tính
bằng công thức:
(1.3)
Nếu như cho biết các thông tin về giá các đầu vào thì đường đẳng thu DD’ được
xác định và khi đó, hiệu quả phân bổ được xác định là lượng đầu ra có thể gia tăng khi
chi phí đầu vào không đổi. Hiệu quả phân bổ được xác định dựa trên công thức:
(1.4)
Từ đó, hiệu quả kinh tế được xây dựng bằng công thức:
(1.5)
2
y /x
D
C
Z B B’
A
D’
O y1/x Z’
Hình 1.3. Hiệu quả kinh doanh hướng về đầu ra
Nguồn: Farrell (1957)
1.3.3. Khái quát các cách tiếp cận về hoạt động kinh doanh ngân hàng
Việc xác định các biến đầu vào và đầu ra để xây dựng đường biên hiệu quả
phụ thuộc vào cách tiếp cận hoạt động kinh doanh ngân hàng. Vì ngân hàng là một
chủ thể kinh doanh tương đối đặc biệt, nên tồn tại một số cách tiếp cận khác nhau
như cách tiếp cận “sản xuất”, cách tiếp cận “trung gian tài chính”, cách tiếp cận
“hướng về lợi nhuận” và cách tiếp cận “giá trị tăng thêm”. Liên quan đến các cách
tiếp cận này, Sufian (2011) cho rằng kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân
hàng phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn các biến mô tả hoạt động ngân hàng.
19
Cách tiếp cận “sản xuất” đưa ra bởi Benston (1965) được coi là cách tiếp cận
truyền thống khi ngân hàng được coi là một chủ thể tạo ra các dịch vụ cho người
gửi tiền hay nói cách khác hoạt động của ngân hàng nhằm biến đổi các khoản tiền
gửi thành các khoản cho vay. Theo quan điểm này, đầu vào của quá trình sản xuất
đó là nhân viên ngân hàng và các tài sản hữu hình trong khi đầu ra là các tài khoản
cho vay. Tuy nhiên, cách tiếp cận này dường như bỏ qua một hoạt động quan trọng
của ngân hàng là hoạt động đầu tư (Berger and Humphrey, 1997).
Ngược lại, cách tiếp cận “trung gian” lại cho rằng ngân hàng đóng vai trò là
một trung gian giữa người cho vay và đi vay. Chính vì vậy, đầu ra của hoạt động
ngân hàng chính là tổng số tiền cho vay và các khoản đầu tư chứng khoán trong khi
đầu vào của quá trình đó là các khoản tiền gửi, nguồn nhân lực và các khoản tài sản
hữu hình (Sealey and Lindley, 1977). Cách tiếp cận trung gian tài chính còn được
phát triển thành cách tiếp cận “giá trị gia tăng”, trong đó, các tài khoản như tiền gửi
và cho vay đều được coi là đầu ra vì các khoản mục này có ý nghĩa tạo ra giá trị
tăng thêm.
Cách tiếp cận “hướng về lợi nhuận” thì cho rằng ngân hàng cũng như một
thực thể kinh doanh với mục tiêu cuối cùng là tạo ra thu nhập từ các khoản chi phí
đã bỏ ra cho hoạt động kinh doanh đó (Drake và cộng sự (2006)). Vì vậy, đầu ra của
hoạt động ngân hàng chính là tổng thu nhập (thu nhập từ lãi và ngoài lãi) và đầu vào
là tổng chi phí (chi phí lãi và chi phí ngoài lãi). Tổng hợp cách phân loại các biến
đầu vào và đầu ra được thể hiện trong bảng 1.1 dưới đây.
Bảng 1.1. Các biến đầu vào và đầu ra theo các cách tiếp cận về hoạt động ngân hàng
Cách tiếp cận
Biến đầu vào
Biến đầu ra
Cách tiếp cận “sản xuất”
Nhân viên, vốn cố định
Cho vay
Cách tiếp cận trung gian
Tiền gửi, nhân lực, vốn cố định Cho vay, Các khoản đầu tư
Cách tiếp cận hướng về
Chi phí lãi, chi phí nhân lực
Thu nhập từ lãi và thu nhập
lợi nhuận
ngoài lãi
Cách tiếp cận giá trị tăng
Chi phí lao động, vốn cố
Tiền gửi, cho vay, và các
thêm
định, chi phí lãi
khoản đầu tư.
Nguồn: Tổng kết của tác giả
20
1.3.4. Đo lường hiệu quả kinh doanh ngân hàng
Hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đo lường bằng hai phương pháp
phương pháp tham số và phương pháp phi tham số. Cả hai phương pháp này đều sử
dụng các vectơ đầu vào và đầu ra trong xác định đường biên hiệu quả. Sự khác nhau
cơ bản của hai phương pháp này là ở chỗ phương pháp phi tham số không đòi hỏi
một phương trình cụ thể cho việc xây dựng đường biên hiệu quả, trong khi đó,
phương pháp tham số lại yêu cầu phải xác định một hàm số cụ thể cho các đầu vào
và đầu ra đối với đường biên hiệu quả. Trong đó, đường biên được hiểu là giới hạn
có thể đạt được, nghĩa là giá trị tối ưu trong một hoạt động kinh tế nào đó của một
tổ chức. Chính vì thế, tổ chức nào đó hoạt động trên đường biên thì tổ chức đó được
coi là hiệu quả nhất so với các tổ chức khác trong một ngành nào đó.
1.3.4.1. Phương pháp phi tham số
a. Giới thiệu về phương pháp phi tham số
Phương pháp phi tham số là phương pháp không đòi hỏi xác định một hàm
số cụ thể mô tả mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào trong việc xây dựng đường biên
hiệu quả. Ý tưởng về cách tiếp cận phi tham số lần đầu tiên được xuất hiện trong
nghiên cứu của Farrell (1957) tuy nhiên trong suốt hai thập kỷ, cách tiếp cận này
chưa thu hút nhiều sự quan tâm từ các học giả cho đến khi nghiên cứu của Charnes
và cộng sự (1978) được công bố.
Charnes và cộng sự (1978) đã đề xuất một chương trình thuật toán, có tên gọi
phân tích đường bao dữ liệu (Data envelopment analysis – DEA) để đánh giá năng lực
của một số tổ chức có nhiều điểm đồng nhất với nhau trong việc sử dụng đầu vào để
tạo ra một số đầu ra nhất định. Đường bao dữ liệu đóng vai trò như một đường biên
hiệu quả để từ đó hiệu quả của từng tổ chức trong mẫu nghiên cứu được tính toán. Kể
từ nghiên cứu đầu tiên đó, rất nhiều nghiên cứu sau này đã phát triển và hoàn thiện
phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng dựa vào đường bao dữ liệu
để khẳng định vai trò của phương pháp này trong đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Phương pháp đường bao dữ liệu (DEA) sử dụng một chương trình tuyến tính
để xây dựng một đường biên hiệu quả cho các đơn vị trong mẫu nghiên cứu từ các
21
kết hợp đầu vào và đầu ra của các đơn vị đó. Mỗi đơn vị trong mẫu hay mỗi ngân
hàng được gọi là một đơn vị tạo quyết định (Decision Making Units – DMUs). Từ
đó, hiệu quả của mỗi DMU sẽ được tính toán bằng một điểm số căn cứ vào khoảng
cách giữa đường biên hiệu quả này với thực tế hoạt động của ngân hàng. Điểm hiệu
quả của mỗi ngân hàng nằm trong khoảng (0,1), ngân hàng có điểm hiệu quả bằng 1
là ngân hàng hoạt động trên đường biên hiệu quả và cũng là ngân hàng kinh doanh
hiệu quả nhất trong mẫu.
Liên quan đến cách tiếp cận đường bao dữ liệu, Charnes và cộng sự (1978)
giới thiệu mô hình CCR với giả thiết là hiệu quả không đổi theo quy mô. Sau đó,
Banker, Charnes và Cooper (1984) lại giới thiệu một mô hình DEA mới tên là mô
hình BCC với giả thiết là lợi nhuận thay đổi theo quy mô (VRS).
Hiệu quả kỹ thuật được tách thành hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy
mô (Fare, Grosskopf và Lowell, 1985). Nói cách khác, sự phi hiệu quả về kỹ thuật
xuất phát từ hai nguồn: sự phi hiệu quả về quy mô (SE) do các yếu tố phản ánh quy
mô hoạt động của ngân hàng và sự phi hiệu quả kỹ thuật thuần túy (PTE), chẳng
hạn trình độ quản lý ngân hàng. Liên quan đến hiệu quả quy mô, có hai trường hợp
có thể xảy ra: hiệu quả không đổi theo quy mô (CRS) và hiệu quả biến đổi theo quy
mô (VRS).
Việc tính toán hiệu quả quy mô được thực hiện theo một số bước như sau.
Trước hết, hiệu quả kỹ thuật được xác định từ hai mô hình: mô hình hiệu quả không
đổi theo quy mô (CRS) để có được hiệu quả kỹ thuật không đổi theo quy mô
TECRS, mô hình hiệu quả biến đổi theo quy mô (VRS) để có được hiệu quả kỹ
thuật thay đổi theo quy mô TEVRS. Nếu tồn tại sự chênh lệch giữa hai loại hiệu quả
này nghĩa là có sự phi hiệu quả về quy mô. Hiệu quả quy mô, từ đó, được tính toán
theo công thức:
Hai mô hình CCR gắn với hiệu quả không đổi theo quy mô CRS và mô hình
mô hình BCC gắn với hiệu quả thay đổi theo quy mô VRS được trình bày cụ thể
dưới đây.
22
b. Mô hình CCR
Mô hình hiệu quả không đổi theo quy mô (CRS) gắn với giả thiết các ngân
hàng đang hoạt động ở quy mô tối ưu. Mô hình CCR tính toán điểm hiệu quả của
mỗi DMU bằng cách tính toán tỷ lệ giữa đầu ra và đầu vào có tính toán đến trọng
số. DMU nào có tỷ lệ này lớn nhất thì được coi là có hiệu quả và bằng 1. Chính vì
thế, điểm hiệu quả của các DMU còn lại sẽ nhỏ hơn hoặc bằng 1.
Giả sử trong mẫu nghiên cứu có n DMU và mỗi DMU sử dụng K đầu vào
khác nhau với các lượng khác nhau và tạo ra M đầu ra khác nhau. Chẳng hạn,
DMUj sử dụng vector xij đầu với m chiều vào và tạo ra yrj đầu ra với s chiều, mô
hình hiệu quả không đổi theo quy mô CRS được xác định như sau:
Với các ràng buộc:
Trong đó:
Xij là lượng đầu vào thứ i của DMU thứ j (xij> 0, i =1,2,…, m và j = 1,2,…,n).
Yrj là lượng đầu ra thứ r của DMU thứ j (yrj> 0, r =1,2,…,s và j = 1,2,…,n).
m là số chiều của vector đầu vào
n là số chiều của vector đầu ra
ur là trọng số đối với mỗi đầu ra
vi là trọng số đối với mỗi đầu vào
Đường biên hiệu quả được xác định từ tập hợp điểm hiệu quả tối đa của các
DMU nên vấn đề đặt ra là phải xác định các trọng số ur và vi là bao nhiêu để tối đa
hóa hiệu quả của các DMU. Chính vì vậy, bài toán tối ưu trên phải được giải quyết để tìm ra bộ trọng số đó cho từng DMU. Tuy nhiên, nếu bộ trọng số (u*, v*) được
23
xác định là nghiệm của bài toán thì tổng số nghiệm của bài toán này có thể là vô hạn
vì bất kỳ một bộ trọng số (αu*, αv* với mọi α>0) cũng có thể là nghiệm của bài toán.
Chính vì vậy, Charnes và Cooper (1978) cho rằng, một điều kiện về bộ trọng số (u,v)
phải được đặt ra để chuyển bài toán trên thành một mô hình tuyến tính.
Từ điều kiện này, bài toán với các ràng buộc trên đây sẽ được viết lại như sau:
Với các ràng buộc:
Từ mô hình cơ bản trên đây, hai mô hình tương ứng với hiệu quả từ việc tối
thiểu hóa đầu vào và tối đa hóa đầu ra được xây dựng. Đối với mô hình hiệu quả
đầu vào tức là hiệu quả đạt được do việc tối thiểu hóa đầu vào cho việc tạo ra một
lượng đầu ra nhất định, gọi là chỉ số hiệu quả hay là điểm hiệu quả của DMU thứ i
và λ vector trọng số. Khi đó, điểm hiệu quả sẽ có giá trị từ 0 đến 1, điểm hiệu quả
bằng 1 chỉ DMU nằm trên đường biên hiệu quả, xác định trong mô hình:
, Min
Với các ràng buộc,
24
Tương tự đối với hiệu quả đầu ra được hiểu là hiệu quả có được do tối đa hóa
đầu ra mà không cần phải sử dụng thêm bất kỳ đơn vị đầu vào, điểm hiệu quả của mỗi
DMU được ký hiệu bằng , là vector trọng số tương ứng với mô hình dưới đây.
Max ,
Với các ràng buộc,
Từ khái niệm về hiệu quả kỹ thuật, có thể thấy hai mô hình trên đây đều
dùng để đo lường hiệu quả kỹ thuật của các DMU. Do các trọng số và đều nhận
giá trị dương, các ràng buộc trên cho biết các DMU này hiệu quả không đổi theo
quy mô. Các điểm hiệu quả và đều nhận giá trị trong khoảng (0,1), với ý nghĩa
DMU có điểm nhỏ hơn 1 sẽ phi hiệu quả về kỹ thuật, còn DMU nào có điểm hiệu
quả bằng 1 sẽ nằm trên đường biên hiệu quả.
c. Mô hình BCC
Mô hình CCR đưa ra bởi Charnes, Cooper và Rhodes (1978) được thiết lập
dựa trên giả thiết là hiệu quả không đổi theo quy mô. Tuy nhiên, giả thiết này chỉ
phù hợp khi các ngân hàng đang hoạt động ở quy mô tối ưu mà điều này khó xảy ra
trong thực tế vì ngân hàng có thể gặp phải một số trở ngại trong môi trường kinh
doanh của mình như quy định của Nhà nước hay sự không hoàn hảo của thị trường.
Vì thế, mô hình CCR trở nên không hoàn toàn phù hợp để đánh giá hiệu quả của
các tổ chức hoạt động trong các môi trường khác nhau. Chính vì vậy, sau này
Banker, Charnes and Cooper (1984) đã bỏ giả thiết hiệu quả không đổi theo quy
mô, và đề xuất một mô hình đánh giá hiệu quả của các DMU với giả thiết hiệu quả
thay đổi theo quy mô. Mô hình này được đặt theo tên viết tắt của các nhà nghiên
cứu và có tên là mô hình VRS.
Mô hình BBC được xây dựng dựa trên nguyên tắc của mô hình CCR nhưng
kèm theo ràng buộc (đối với hiệu quả từ tối thiểu hóa đầu vào) và
25
(đối với hiệu quả từ tối đa hóa đầu ra) để bảo đảm khi tính toán hiệu quả,
các DMU cùng quy mô sẽ được so sánh với nhau. Từ đó, mô hình CCR có thể được
viết lại như sau:
Mô hình CCR đối với hiệu quả từ tối thiểu hóa đầu vào
Min ,
Với các ràng buộc,
Mô hình CCR đối với hiệu quả từ tối đa hóa đầu ra
Max ,
Với các ràng buộc,
d. Ưu, nhược điểm của phương pháp phi tham số
Phương pháp phi tham số (Phương pháp phân tích đường bao dữ liệu DEA)
tìm ra ngân hàng nào có tỷ lệ đầu ra trên đầu vào tốt nhất, nghĩa là ngân hàng tạo ra
được một lượng đầu ra nhất định với chi phí bỏ ra là thấp nhất trong mẫu nghiên
cứu. Giả sử các đầu vào của các ngân hàng trong mẫu đều có cùng mức giá đầu vào
thì hiệu quả của các ngân hàng còn lại trong mẫu được đo bằng cách so sánh chi phí
của ngân hàng đó với ngân hàng tốt nhất trong việc cùng tạo ra một đầu ra nhất
định. Ưu điểm của phương pháp này xuất phát từ việc phương pháp phi tham số
26
không đòi hỏi phải xác định một hàm số cho việc ước lượng đường biên hiệu quả.
Thêm nữa, phương pháp phi tham số cũng không bao gồm các giả thiết về phân
phối thống kê đối với các sai số. Chính vì vậy, bất kỳ một ngân hàng nào hoạt động
ngoài đường biên hiệu quả thì đều coi là phi hiệu quả về mặt kỹ thuật. Ngoài ra,
phương pháp này cũng được coi là thích hợp với các mẫu nghiên cứu có quy mô
nhỏ. Tuy nhiên, một nhược điểm lớn của cách tiếp cận này là không tính đến các sai
số có thể có trong dữ liệu nghiên cứu nghĩa là không tính đến sự tác động của các
biến ngẫu nhiên đối với hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1.3.4.2. Phương pháp tham số
Phương pháp tham số là phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân
hàng sử dụng một hàm số mô tả mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong kinh
doanh ngân hàng với những kỹ thuật phân tích thích hợp. Nội dung của phương
pháp tham số được mô tả trong các phần tiếp theo sau đây.
a. Các hàm số mô tả mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong kinh
doanh ngân hàng
Khi sử dụng phương pháp tham số để đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng, cần phải ước lượng được dạng hàm số mô tả mối quan hệ giữa đầu vào mà
ngân hàng sử dụng để tạo ra các đầu ra trong một thời kỳ nhất định. Các dạng hàm
số được dùng phổ biến bao gồm hàm sản xuất Cobb-Douglas và hàm loga siêu việt.
(1) Hàm sản xuất Cobb-Douglas
Hàm Cobb-Douglas là hàm sản xuất được sử dụng phổ biến để mô tả mối quan
hệ giữa đầu vào và đầu ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của một tổ chức bất kì,
được đưa ra bởi Cobb và Douglas (1928). Hàm Cobb-Douglas có dạng cơ bản là:
Trong đó, K và L là vốn và lao động được xem là các yếu tố đầu vào cơ bản
sử dụng để tạo ra lượng đầu ra Q là hằng số còn α và β là các hệ số co giãn của Q
theo K và L. Hàm Cobb-Douglas khi được logarit hóa có dạng:
27
Khi áp dụng trong tính toán hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, hàm Cobb-
Douglas được mô tả đối với hai trường hợp: tính toán hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
chi phí.
- Đối với hiệu quả kỹ thuật, hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng:
Hàm số này được áp dụng đối với ngân hàng thứ i, sử dụng n đầu ra X để tạo
ra m đầu vào Y.
- Đối với hiệu quả chi phí, hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng:
Trong công thức này, TC là tổng chi phí của ngân hàng, là đầu ra thứ i còn
là giá của đầu vào thứ j, , , là những tham số ước lượng được, thể hiện độ
co giãn của hàm sản xuất.
(2) Hàm sản xuất Loga siêu việt
Hàm Loga siêu việt giới thiệu bởi Christensen và cộng sự (1973) được coi là
một bước phát triển quan trọng kể từ khi hàm Cobb-Douglas được ra đời. Murray &
White (1983) là các tác giả lần đầu tiên áp dụng hàm số này để tính toán hiệu quả
của ngân hàng và từ đó đến nay, hàm loga siêu việt đã trở thành một công cụ được
sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo.
Khi dùng để tính toán hiệu quả kỹ thuật ngân hàng, hàm Loga siêu việt có
dạng như sau:
Trong công thức này, ngân hàng thứ i sử dụng N đầu vào để tạo ra M đầu ra
với các hệ số co dãn tương ứng.
Khi dùng để tính toán hiệu quả chi phí, hàm Loga siêu việt bổ sung các thông
tin về giá cả các đầu vào và có dạng:
28
Trong công thức này, TC là tổng chi phí của ngân hàng, là đầu ra thứ i còn
là giá của đầu vào thứ j với sai số thống kê là .
b. Kỹ thuật phân tích đường biên hiệu quả
Các hàm sản xuất mô tả ở phần trên được sử dụng để xây dựng đường biên
hiệu quả và được phân tích bằng nhiều kỹ thuật khác nhau. Các kỹ thuật phân tích
bao gồm phân tích biên ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Analysis -SFA), phương
pháp tiếp cận tự do (Distribution Free Approach – DFA) và phương pháp phân tích
biên dày (Thick Frontier Analysis - TFA).
(1) Kỹ thuật phân tích biên ngẫu nhiên (SFA)
Kỹ thuật biên phân tích biên ngẫu nhiên được đề xuất bởi Aigner và cộng sự
(1977), Battese và Corra (1977), Meeusen và van Den Broeck (1977), dựa trên quan
điểm một tổ chức hoạt động bên ngoài đường biên hiệu quả có thể do các yếu tố mà
tổ chức đó không thể kiểm soát được. Chính vì vậy, kỹ thuật SFA cho phép sự có
mặt của các sai số trong các hàm sản xuất khi xây dựng đường biên hiệu quả. Sai số
này được chia thành hai phần, một phần mô tả nhiễu thống kê tuân theo một phân
phối mang tính chất đối xứng, phần còn lại gọi là sai số phi hiệu quả, tuân theo phân
phối không mang tính chất đối xứng.
Minh họa cho kỹ thuật phân tích này, sử dụng hàm sản xuất có dạng:
Trong công thức này, là tổng chi phí, là vector đầu ra và là vector giá
đầu vào. Sai số được chia thành hai phần và . Phần thứ nhất, biểu thị phần
nhiễu thống kê đối xứng trong khi biểu thị sự phi hiệu quả của ngân hàng là sự
chênh lệch trong hoạt động của ngân hàng so với đường biên hiệu quả. Phần nhiễu
thống kê được coi là có phân phối chuẩn trong khi sự phi hiệu quả của ngân hàng lại
được giả thiết là có phân phối bán chuẩn.
29
(2) Phương pháp tiếp cận tự do (Distribution Free Approach – DFA)
Phương pháp tiếp cận tự do DFA được đưa ra lần đầu tiên bởi Schmidt và
Sickles (1984); Berger (1993) trong đó không sử dụng bất kỳ giả thiết nào liên quan
đến đặc điểm phân phối của sai số thống kê. DFA cũng sử dụng một dạng hàm cụ
thể cho đường biên hiệu quả giống như SFA nhưng lại dùng phương pháp khác để
xác định yếu tố phi hiệu quả ra khỏi sai số này. Phương pháp ước lượng các yếu tố
phi hiệu quả được dựa trên một giả thiết là các yếu tố phi hiệu quả này tồn tại tương
đối ổn định trong suốt khoảng thời gian nghiên cứu trong khi nhiễu ngẫu nhiên sẽ bị
triệt tiêu theo thời gian.
Chính vì vậy, một hàm sản xuất sẽ được ước lượng trong từng giai đoạn ngay
cả đối với nghiên cứu sử dụng dữ liệu mảng cho nhiều giai đoạn khác nhau bằng
các kỹ thuật hồi quy. Phần dư được ước lượng trong mỗi giai đoạn bao gồm yếu tố
phi hiệu quả và sai số ngẫu nhiên. Bởi vì sai số ngẫu nhiên của ngân hàng được coi
là bị triệt tiêu theo thời gian nên phần dư trung bình ước lượng được trong tất cả các
giai đoạn nghiên cứu trở thành yếu tố phi hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, và
được xác định bằng công thức:
Trong đó, là phần dư trung bình trong cả giai đoạn nghiên cứu còn
là giá trị nhỏ nhất của sai số trung bình của tất cả các tổ chức trong mẫu
nghiên cứu.
Phương pháp DFA được đánh giá là phương pháp dễ áp dụng hơn SFA do
phương pháp này không đòi hỏi những giả thiết về phân phối của sai số thống kê, và
vì thế, không cần sử dụng phương pháp hợp lý cực đại (Maximum likelihood
methods để ước lượng hàm sản xuất). Thay vào đó, có thể sử dụng nhiều phương
pháp ước lượng, chẳng hạn phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS)
như trong nghiên cứu của Schmidt và Sickles (1984) và phương pháp bình quân nhỏ
nhất (OLS) như trong nghiên cứu của Berger (1993).
Bên cạnh ưu điểm kể trên, DFA có nhược điểm là kết quả tính toán hiệu quả
có thể khó chính xác nếu như thời gian nghiên cứu quá dài. Ngoài ra, giả thiết các
yếu tố phi hiệu quả là không đổi theo thời gian và sẽ bị vi phạm nếu thời gian chưa
30
đủ để có thể triệt tiêu sai số thống kê. Như vậy, tính chính xác của hiệu quả đo
lường được sẽ phụ thuộc vào số năm nghiên cứu. De Young (1997b) cho rằng nếu
sử dụng 6 năm nghiên cứu thì mô hình này trở nên hợp lý hơn.
(3) Phương pháp phân tích biên dày (Thick Frontier Analysis - TFA).
Phương pháp phân tích biên dày TFA được đưa ra bởi Berger and Humphrey
(1991, 1992) cũng xác định dạng hàm sản xuất để xây dựng đường biên hiệu quả
như các phương pháp tham số khác. Tuy nhiên, phương pháp này ước lượng đường
biên dày hơn để tính toán hiệu quả của các tổ chức trong mẫu nghiên cứu.
Khi sử dụng để tính hiệu quả chi phí, trước hết, phương pháp này ước lượng
hàm chi phí cho 25% ngân hàng sử dụng chi phí thấp hơn mức trung bình và 25%
ngân hàng sử dụng chi phí nhiều hơn mức trung bình. Những ngân hàng có chi phí
thấp này được coi có mức hiệu quả cao hơn trung bình và được sử dụng để xác định
đường biên hiệu quả dày. Tương tự, ngân hàng có chi phí cao hơn mức trung bình
được coi có hiệu quả thấp hơn mức trung bình. Hai nhóm ngân hàng này được sử
dụng để xây dựng hai đường biên khác nhau và khoảng cách giữa hai đường biên đó
chính là sự phi hiệu quả của ngân hàng trong khi các sai số trong mỗi đường biên
được bắt nguồn từ các yếu tố khác quan như may mắn và nhiễu ngẫu nhiên.
Xuất phát từ việc tính toán khoảng cách chênh lệch giữa hai nhóm ngân hàng có
hiệu quả cao và thấp, phương pháp phân tích biên dày TFA không thể tiến hành xác
định hiệu quả kinh doanh cho từng ngân hàng cụ thể mà chỉ có thể ước lượng hiệu quả
toàn bộ của mẫu. Chính vì vậy, tính chính xác của hiệu quả trong phương pháp này
không đáng tin cậy nếu như các giả thiết không được bảo đảm. Tuy nhiên, phương
pháp phân tích biên dày TFA cũng có nhiều giá trị khi nhà nghiên cứu chỉ muốn xem
xét độ lớn của sự phi hiệu quả kinh doanh của ngân hàng (Berger và Humphrey, 1991).
1.4. Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng
Nghiên cứu rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đặc biệt
chú ý vì giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh ngân hàng có mối quan hệ hai
chiều: rủi ro tín dụng có tác động đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong khi hiệu
quả kinh doanh ngân hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Mối
quan hệ giữa rủi ro tín dụng của ngân hàng với hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
31
lần đầu tiên được đưa ra bởi Berger và DeYoung (1997), gắn liền với các giả thuyết
có tên: thuyết “không may mắn” (bad luck management), thuyết “quản trị kém”
(bad management) và thuyết “tiết kiệm chi phí” (skimping hypothesis).
1.4.1. Tác động của rủi ro tín dụng tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
Theo Berger và DeYoung (1997), khi rủi ro tín dụng tăng lên (các khoản nợ
xấu tăng), ngân hàng phải bỏ thêm nhiều khoản chi phí liên quan đến việc giải quyết
các khoản nợ xấu này. Các chi phí tăng thêm bao gồm: chi phí để tăng cường giám
sát những khách hàng vay quá hạn và các tài sản thế chấp của họ; chi phí phân tích
và dàn xếp (thỏa thuận) với khách hàng về các khoản vay này; chi phí duy trì và xử
lý tài sản đảm bảo; chi phí liên quan đến việc bảo vệ danh tiếng và sự an toàn của
ngân hàng đối với các cơ quan quản lý và thị trường tài chính; chi phí tăng thêm để
đảm bảo chất lượng của các khoản cho vay khác. Việc gia tăng các chi phí này làm
cho rủi ro tín dụng có thể trở thành một nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng.
Ở một khía cạnh khác, khi rủi ro tín dụng tăng lên do các điều kiện kinh tế
bất lợi nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải bỏ thêm
chi phí để khắc phục những hậu quả do các khoản nợ đó mang lại. Như vậy, rủi ro
tín dụng làm tăng chi phí và từ đó làm giảm hiệu quả của ngân hàng, như đã được
đề cập trong thuyết “không may mắn” (bad luck management).
1.4.2. Tác động của hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tới rủi ro tín dụng
Đánh giá về tác động của hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được đề cập
trong lý thuyết “quản trị kém” (bad management) của Berger và DeYoung (1997).
Trong lý thuyết này, một ngân hàng có hiệu quả kinh doanh (đặc biệt là hiệu quả chi
phí) thấp có thể là một dấu hiệu của hoạt động quản trị ngân hàng yếu kém trong đó
có việc quản trị hoạt động tín dụng. Liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng, các ngân
hàng này có thể không thực hiện đúng và đủ các hoạt động cần thiết để kiểm soát
các khoản cho vay: thiếu kỹ năng trong việc chấm điểm tín dụng đối với khách hàng
xin vay, xác định giá trị các tài sản bảo đảm kém chính xác, hay gặp nhiều khó khăn
trong việc kiểm soát việc thu nợ khách hàng sau khi cho vay. Tất cả những yếu kém
này có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng cao và vì vậy rủi ro
tín dụng sẽ tăng. Như vậy, theo thuyết “quản trị yếu kém”, hiệu quả kinh doanh của
32
ngân hàng thấp chính là nguyên nhân có trước và dẫn đến rủi ro tín dụng của của
ngân hàng cao.
Berger và DeYoung (1997) cũng đưa ra một giả thuyết khác về mối quan hệ
cùng chiều giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng khi một ngân
hàng nào đó không giành nhiều nguồn lực để đánh giá các khoản vay nhằm phát
hiện những điều bất thường trong các hồ sơ xin vay. Khi đó, chi phí ngân hàng bỏ
ra là nhỏ và vì thế ngân hàng đó sẽ có hiệu quả kinh doanh cao trong ngắn hạn vì
chi phí giảm nhưng sẽ có nhiều khả năng nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng. Hay nói
một cách khác hiệu quả kinh doanh tăng trong ngắn hạn thì rủi ro tín dụng cũng
tăng. Berger và DeYoung (1997) gọi đây là thuyết “tiết kiệm chi phí” (skimping
hypothesis).
Trong thuyết “tiết kiệm chi phí”, Berger và DeYoung (1997) cho rằng có sự
đánh đổi giữa việc tiết kiệm chi phí trong ngắn hạn và tình trạng nợ xấu trong tương
lai của ngân hàng. Một ngân hàng có thể lựa chọn việc tối đa hóa lợi nhuận trong
hiện tại nhờ việc tiết kiệm các chi phí quản trị rủi ro tín dụng và có thể đạt được
hiệu quả chi phí trong ngắn hạn nhưng sẽ phải đối mặt với các vấn đề về nợ xấu kéo
theo các chi phí để giải quyết các khoản nợ xấu đó trong tương lai. Như vậy, theo
giả thuyết này, rủi ro tín dụng của ngân hàng có thể bắt nguồn từ hiệu quả chi phí
cao của ngân hàng hay hiệu quả chi phí cao cũng có thể là nguyên nhân của rủi ro
tín dụng cao.
Để kiểm định cho các lập luận của mình, Berger và DeYoung (1997) đã thu
thập dữ liệu của các ngân hàng thương mại Mỹ trong giai đoạn 1985 đến 1994 và
đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả thông qua việc phân tích hệ
số tương quan Pearson. Kết quả nghiên cứu ủng hộ cho thuyết không may mắn (bad
luck), nghĩa là sự gia tăng của nợ xấu kéo theo sự suy giảm trong hiệu quả của ngân
hàng vì các ngân hàng có các khoản nợ xấu cao sẽ phải gia tăng chi phí trong việc
xử lý các khoản nợ này và chi phí cho việc kiểm soát các khoản vay hiện tại. Xét
trong phạm vi tổng thể các ngân hàng, thì kết quả nghiên cứu nghiêng về thuyết
quản trị kém (bad management) hơn là thuyết tiết kiệm chi phí (skimping). Tuy
nhiên, xét trong phạm vi một số nhóm ngân hàng đang hoạt động hiệu quả thì sự
tăng lên của hiệu quả do giảm chi phí lại làm tăng rủi ro tín dụng. Hay nói cách
33
khác, có một sự đánh đổi giữa chi phí trong ngắn hạn và chất lượng các khoản vay
trong dài hạn.
Williams (2004) tiếp tục phát triển kết quả nghiên cứu của Berger và
DeYoung (1997) về mối quan hệ nhân quả giữa hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
và rủi ro tín dụng (đo lường rủi ro này bằng tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên tổng
nợ) đối với các ngân hàng châu Âu trong giai đoạn 1990 - 1998. Kết quả nghiên cứu
của Williams (2004) cho thấy một sự sụt giảm trong hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi
nhuận sẽ làm tăng rủi ro tín dụng, như đã được trình bày trong thuyết “quản trị
kém” (bad management hypothesis) của Berger và DeYoung (1997).
Cùng chung mục tiêu nghiên cứu với Williams (2004), Rossi, Schwaiger, và
Winkler (2005) cũng sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên tổng nợ để
đo lường rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi
nhuận, chỉ khác là dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 278 ngân hàng ở các nước
có nền kinh tế đang chuyển đổi trong giai đoạn 1995-2002. Kết quả nghiên cứu ủng
hộ cho thuyết “không may mắn” (bad luck hypothesis), nghĩa là rủi ro tín dụng tăng
có sẽ làm cho hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi nhuận giảm.
1.5. Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh ngân
hàng và rủi ro tín dụng
1.5.1. Nghiên cứu ngoài nước về hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong mối quan
hệ với rủi ro tín dụng
1.5.1.1. Khái quát các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng
và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến đánh giá hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng với sự tác động của biến rủi ro tín dụng đã được thực hiện rộng rãi ở các
bối cảnh khác nhau trong nhiều thập kỉ vừa qua. Các nghiên cứu đã thực hiện khá
đa dạng về cách tiếp cận hoạt động của ngân hàng, cách đo lường rủi ro tín dụng, kỹ
thuật phân tích và từ đó làm cho kết quả nghiên cứu không hoàn toàn đồng nhất.
Trước hết, có hai phương pháp tiếp cận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu. Ở
cách tiếp cận thứ nhất, biến rủi ro tín dụng được xem xét như một biến ngoại sinh có
tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và ngược lại, hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng cũng tác động đến rủi ro tín dụng. Nói cách khác, các nghiên cứu với cách
34
tiếp cận này, phân tích mối quan hệ nhân quả giữa hiệu quả kinh doanh và rủi ro tín
dụng. Ở cách tiếp cận thứ hai, biến rủi ro tín dụng được coi là một biến nội sinh đưa
vào mô hình để đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Về kỹ thuật đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, có hai kỹ thuật
phân tích là kỹ thuật phân tích tham số (SFA) và kỹ thuật phân tích phi tham số
DEA. Hai kỹ thuật phân tích này có những ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng
riêng. Điểm khác nhau cơ bản là kỹ thuật phân tích tham số đòi hỏi tồn tại một hàm
số xác định mối quan hệ giữa các biến đầu vào và đầu ra trong khi kỹ thuật phân
tích phi tham số không đòi hỏi xác định một hàm số cụ thể khi đánh giá hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng.
Cuối cùng, khi xét đến rủi ro tín dụng như là một yếu tố tác động đến hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng, biến số này cũng được thể hiện ở các biểu hiện khác
nhau, chẳng hạn, tỷ lệ nợ xấu hay tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay. Tổng kết một số
nghiên cứu tiêu biểu đã tiến hành thuộc chủ đề liên quan được thể hiện trong bảng
1.2 dưới đây.
Bảng 1.2. Tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng
Tác giả
Chang và Chiu (2006)
Cách tiếp cận hoạt động ngân hàng Trung gian tài chính
Đo lường rủi ro tín dụng Tỷ lệ nợ xấu
Pasiouras (2008)
Trung gian tài chính
Chen and Kao (2011)
Hướng về lợi nhuận
Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay Tỷ lệ nợ xấu
Said (2013)
Trung gian tài chính
Tỷ lệ nợ xấu
Trung gian tài chính
Kỹ thuật phân tích hiệu quả Phi tham số và hồi quy Tobit Phi tham số và hồi quy Tobit Phi tham số và chỉ số Malmquist Phân tích phi tham số ba giai đoạn Phân tích phi tham số ba giai đoạn Phân tích tham số
Tsolas và Charles (2015) Sun và Chang (2010)
Trung gian tài chính
Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay Tỷ lệ nợ xấu
Trung gian tài chính
Phân tích tham số
Altunbas và cộng sự (2000) Fan và Shaffer (2004)
Hướng về lợi nhuận
Phân tích tham số
Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay
Nguồn: Tổng kết của tác giả
35
1.5.1.2. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phi tham số trong đánh giá hiệu quả kinh
doanh ngân hàng
Các nghiên cứu với phương pháp phi tham số chủ yếu sử dụng kỹ thuật phân
tích đường bao dữ liệu (DEA) được đưa ra bởi Charnes và cộng sự (1978). DEA
dùng để xây dựng đường biên hiệu quả dựa trên kết quả hoạt động của các đơn vị
mà không đòi hỏi phải tồn tại một phương trình cụ thể cho vệc xây dựng đường
biên. Những đơn vị được coi là có hiệu quả kinh doanh khi chúng hoạt động trên
đường biên này.
Trong các nghiên cứu này, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được đánh giá
trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng như một biến đầu vào hoặc đầu ra. Việc lựa
chọn các biến đầu vào, đầu ra trong mô hình cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn
cách tiếp cận về hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, biến rủi ro tín dụng cũng được lựa
chọn không đồng nhất trong tất cả các nghiên cứu.
Nghiên cứu của Chang và Chiu (2006) đánh giá hiệu quả của các ngân hàng
Đài Loan và tác động của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả của các ngân hàng này.
Phương pháp được sử dụng là phương pháp phân tích đường bao dữ liệu DEA kết
hợp với phân tích hồi quy Tobit nhằm so sánh hiệu quả của ngân hàng trong trường
hợp bỏ qua các rủi ro của ngân hàng và trường hợp rủi ro được đưa vào mô hình.
Chang và Chiu (2006) cho rằng có hai cách tiếp cận trong đánh giá hiệu quả của
ngân hàng trong sự tác động của rủi ro. Cách tiếp cận thứ nhất, coi rủi ro như một
biến ngoại sinh được thể hiện trong nghiên cứu của Berger và DeYoung (1997), mà
tại đó phân tích nhân quả giữa rủi ro và hiệu quả được tiến hành. Berger và
DeYoung (1997) sử dụng hai phương trình: phương trình thứ nhất với rủi ro tín
dụng là biến phụ thuộc và hiệu quả là biến độc lập, phương trình thứ hai với hiệu
quả là biến phụ thuộc còn rủi ro tín dụng là biến độc lập. Trong cách tiếp cận thứ
hai, rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình như một yếu tố không thể thiếu trong quá
trình tạo ra các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng để xác định hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng. Chang và Chiu (2006) viện dẫn nghiên cứu của Mester (1996) là
người sử dụng cách tiếp cận thứ hai khi xây dựng một đường biên chi phí trong đó
36
rủi ro tín dụng là một biến nội sinh để cho biết các ngân hàng ở Mỹ có hoạt động
hiệu quả về chi phí hay không.
Đối với dữ liệu tài chính từ 26 ngân hàng Đài Loan trong giai đoạn 1996 –
2000, Chang và Chiu (2006) áp dụng phương pháp phi tham số DEA ở giai đoạn
thứ nhất để đánh giá ba loại hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là hiệu quả chi phí,
hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật. Trong đó, hiệu quả chi phí được gọi là hiệu
quả tổng thể, chính là sự chênh lệch giữa chi phí ngân hàng thực tế và chi phí tối
thiểu. Khoảng chênh lệch này càng thấp thì ngân hàng càng hoạt động hiệu quả.
Hiệu quả phân bổ liên quan tới khả năng ngân hàng kết hợp được các đầu vào một
cách ít tốn kém nhất trong khi hiệu quả kỹ thuật mô tả việc ngân hàng nằm ngoài
đường biên sản xuất như trong mô tả của Farrell (1957). Khi vận dụng phương pháp
DEA, Chang và Chiu (2006) sử dụng kỹ thuật phân tích cặp Wilcoxon nhằm tìm ra
sự khác biệt đáng kể về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong các trường hợp:
không có rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường, có rủi ro tín dụng nhưng không có rủi
ro thị trường, có rủi ro thị trường nhưng không có rủi ro tín dụng, có cả rủi ro tín
dụng và rủi ro thị trường.
Các biến đầu vào và đầu ra trong xác định hiệu quả kinh doanh được Chang
và Chiu (2006) lựa chọn như sau: tổng tiền cho vay và các khoản đầu tư là các biến
đầu ra trong khi chi phí nhân công, chi phí tiền gửi và chi phí tài sản cố định cùng
với biến rủi ro tín dụng là các biến đầu vào trong mô hình. Như vậy, cách tiếp cận
của Chang và Chiu (2006) là cách tiếp cận ngân hàng như một trung gian tài chính,
như đã tổng hợp ở bảng 1.2. Cũng giống như nghiên cứu của Berger và DeYoung
(1997), Chang và Chiu (2006) lựa chọn tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên)
làm biểu hiện cho biến rủi ro tín dụng.
Ở giai đoạn thứ hai, Chang và Chiu (2006) sử dụng kỹ thuật phân tích hồi
quy Tobit nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đối với hiệu quả chi phí, hiệu quả kỹ
thuật và hiệu quả phân bổ của ngân hàng. Mô hình phân tích hồi quy Tobit của
Chang và Chiu (2006) có dạng:
37
Trong đó, T là chỉ số hiệu quả chi phí của ngân hàng trong trường hợp phân
tích hiệu quả chi phí, là chỉ số hiệu quả phân bổ trong trường hợp phân tích hiệu quả
phân bổ và chỉ số hiệu quả kỹ thuật trong phân tích hiệu quả kỹ thuật. Các chỉ số
hiệu quả này được đặt trong mối quan hệ với (tỷ lệ giữa vốn cấp 1, cấp 2 và
cấp 3 trên tài sản có rủi ro), (tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản),
(thị phần cho vay của ngân hàng), (số lượng chi nhánh ngân
hàng mỗi năm), (sở hữu nhà nước của ngân hàng), (ngân hàng thành lập
sau năm 1992 thì nhận giá trị 1 và ngược lại, nhận giá trị 0), (số năm hoạt
động của ngân hàng), và (ngân hàng thuộc một tập đoàn kinh tế thì nhận
giá trị 1, nhận giá trị 0 trong trường hợp ngược lại).
Bằng cách tính toán các chỉ số hiệu quả chi phí - CE, hiệu quả kỹ thuật - TE
và hiệu quả phân bổ - AE của các ngân hàng trong trường hợp có rủi ro tín dụng (đo
lường bằng tỷ lệ nợ xấu), Chang và Chiu (2006) đã phát hiện rằng với các ngân
hàng có rủi ro tín dụng cao thì hiệu quả sẽ giảm đi khi rủi ro tín dụng được đưa vào
mô hình. Tuy nhiên, các ngân hàng có rủi ro tín dụng thấp thì hiệu quả lại tăng lên
khi có tính đến ảnh hưởng của rủi ro tín dụng. Phân tích khác biệt theo cặp
Wilcoxon cho thấy sự khác biệt về hiệu quả của các ngân hàng trong trường hợp bỏ
qua rủi ro tín dụng và trường hợp có rủi ro tín dụng này là đáng kể với mức ý nghĩa
là 10%. Như vậy, Chang và Chiu (2006) kết luận là rủi ro tín dụng thực sự có ảnh
hưởng đến hiệu quả của ngân hàng với chiều hướng còn tùy thuộc vào mức độ rủi
ro của ngân hàng đó.
Nghiên cứu của Chang và Chiu (2006) đã áp dụng phương pháp phân tích
hai giai đoạn, kết hợp giữa phân tích đường bao DEA, phân tích cặp Wilcoxon và
phân tích hồi quy Tobit. Nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của rủi ro tín
dụng như một biến số đầu vào không thể thiếu được trong việc tính toán hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng.
Cũng giống như Chang và Chiu (2006), Pasiouras (2007) sử dụng phương
pháp đường bao dữ liệu DEA để đánh giá hiệu quả của các ngân hàng Hy Lạp trong
giai đoạn 2000 – 2004 dưới sự tác động của rủi ro tín dụng, với mẫu nghiên cứu bao
gồm từ 12 đến 18 ngân hàng trong một năm hay 78 quan sát trong tất cả các năm.
38
Pasiouras (2007) cho rằng trong các phương pháp đo lường hiệu quả, phương pháp
đường bao dữ liệu là phù hợp hơn cả vì nó cho phép áp dụng trên các cỡ mẫu nhỏ.
Tuy nhiên, Pasiouras (2007) cũng công nhận rằng phương pháp này không tính đến
các sai số ngẫu nhiên và rất nhạy cảm đối với việc chọn lựa các quan sát.
Lý giải cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng có tính đến vai trò
của rủi ro tín dụng, Pasiouras (2007) trích lời khẳng định của Mester (1996) “hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng chỉ được đánh giá chính xác khi các yếu tố thuộc về
rủi ro được tính đến”. Khác với Berger và DeYoung (1997), Chang và Chiu (2006),
Pasiouras (2007) lựa chọn dự phòng rủi ro cho vay để biểu hiện rủi ro tín dụng, như
đã từng được dùng trong nghiên cứu của Charnes và cộng sự (1990), Drake (2001),
Drake và Hall (2006). Để đánh giá được vai trò của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả
kinh doanh ngân hàng, hiệu quả kinh doanh ngân hàng được so sánh trong hai
trường hợp có rủi ro tín dụng và không có rủi ro tín dụng.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng phụ thuộc vào các cách tiếp
cận về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, như đã được đề cập trong các nghiên
cứu trước đó. Pasiouras (2007) cũng đưa ra bình luận về hai cách tiếp cận về đầu
vào và đầu ra trong hoạt động của ngân hàng như đã đề cập trong nghiên cứu của
Berger và Humphrey (1997). Đó là phương pháp tiếp cận ngân hàng như một đơn vị
“sản xuất” và cách tiếp cận ngân hàng như một định chế tài chính. Phương pháp tiếp
cận ngân hàng như một đơn vị “sản xuất”cho rằng, ngân hàng tạo ra các khoản cho
vay và các dịch vụ liên quan đến các tài khoản tiền gửi từ việc sử dụng các đầu vào
là lao động và vốn. Phương pháp tiếp cận ngân hàng như một định chế tài chính cho
rằng ngân hàng chỉ có vai trò tập hợp vốn và sử dụng lao động để biến các khoản
vốn này thành các khoản cho vay và các tài sản khác.
Berger và Humphrey (1997) cũng nhận định rằng vì ngân hàng vừa là một trung
gian tài chính vừa là cung cấp các dịch vụ liên quan đến tiền gửi hay thanh toán nên từng
cách tiếp cận này chưa phản ánh hết được bản chất của nó cho dù cách tiếp cận “sản
xuất” thì có vẻ hợp lý hơn cách tiếp cận còn lại. Gần đây, Drake và cộng sự (2006) đưa
ra cách tiếp cận hướng về lợi nhuận (profit-oriented approach) khi xác định đường biên
ngẫu nhiên trong phân tích hiệu quảkinh doanh của ngân hàng.
39
Pasiouras (2007) cho rằng dù cho phương pháp tiếp cận ngân hàng như là
một định chế tài chính được sử dụng phổ biến hiện nay, Pasiouras (2007) vẫn lựa
chọn phương pháp tiếp cận của Drake và cộng sự (2006) để so sánh với phương
phương pháp tiếp cận “trung gian tài chính” trong nghiên cứu của ông vì phương
pháp tiếp cận “trung gian tài chính” dường như chỉ tập trung vào việc đánh giá hiệu
quả kỹ thuật – hiệu quả trong việc kết hợp đầu vào và đầu ra mà không tính đến các
chi phí đầu vào (Drake và cộng sự, 2006). Nếu như trong các nghiên cứu khác, việc
mô tả về các cách tiếp cận về ngân hàng chỉ thể hiện ở góc độ lý thuyết, thì ở trong
nghiên cứu của mình, Pasiouras (2007) đã tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm
trong đó hai mô hình tương ứng với cách tiếp cận “trung gian tài chính” và cách tiếp
cận “hướng về lợi nhuận” được xây dựng và kiểm định. Việc lựa chọn các biến
trong mô hình được tóm tắt trong bảng 1.3 dưới đây.
Bảng 1.3. Các biến trong mô hình hoạt động của ngân hàng theo các cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu của Pasiouras (2007)
Theo cách tiếp cận “trung gian tài chính”
Mô hình 1
Mô hình 2
Mô hình 3 Mô hình 4
Cách tiếp cận hướng về lợi nhuận Mô hình 5
1.TSCĐ
1. TSCĐ
1. TSCĐ
1. TSCĐ
Đầu vào
1. Chi phí tiền lương 2. Chi phí ngoài lãi
lượng
lượng
2. Tiền gửi của KH 3. Số nhân viên
2. Tiền gửi của KH 3. Số nhân viên
2. Tiền gửi của KH 3. Số lượng nhân viên
3. Dự phòng rủi ro cho vay
4. Dự phòng rủi ro cho vay
2. Tiền gửi của KH 3. Số lượng nhân viên 4. Dự phòng rủi ro cho vay
Đầu ra
1. Lợi nhuận sau lãi
2. Lợi nhuận sau hoa hồng phí
1. Số tiền cho vay 2. TS sinh lời khác
3. Lợi nhuận khác
1. Số tiền cho vay 2. TS sinh lời khác 3. Khoản mục ngoại bảng
Khoản ngoại
Khoản ngoại
1. Số tiền cho vay 2. TS sinh lời khác 3. mục bảng
1. Số tiền cho vay 2. TS sinh lời khác 3. mục bảng
Nguồn: Tổng kết của tác giả
40
Mô hình từ 1 đến 4 được xây dựng dựa trên cách tiếp cận “trung gian tài
chính” trong khi mô hình 5 được xây dựng theo cách tiếp cận hướng về lợi nhuận
của Drake và cộng sự (2006). Điểm khác nhau cơ bản là ở cách tiếp cận thứ nhất,
ngân hàng được coi như trung gian trong việc tiếp nhận tiền gửi và để cho vay
trong khi ở cách tiếp cận thứ hai, ngân hàng giống như một tổ chức sử dụng các
chi phí đầu vào như chi phí lương, chi phí ngoài lãi để với mục tiêu là tối đa hóa
đầu ra thể hiện bằng các chỉ tiêu về lợi nhuận. Vì thế đầu vào của mô hình chủ
yếu là tiền gửi, tài sản cố định và số lượng nhân viên ngân hàng. Từ mô hình 3,
để đo lường ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả của ngân hàng, biến
dự phòng rủi ro cho vay được đưa vào như là một biến đầu vào trong mô hình.
Ngoài ra, để đo lường ảnh hưởng của các khoản mục ngoại bảng, mô hình 4 đã
thêm các khoản mục ngoại bảng như là một biến đầu ra của ngân hàng. Đáng chú
ý là khác với nghiên cứu của Chang và Chiu (2006) với rủi ro tín dụng được đo
lường bằng tỷ lệ nợ xấu, trong nghiên cứu này rủi ro tín dụng được đo bằng chi
phí dự phòng rủi ro tín dụng.
Mô hình 5 được xây dựng là mô hình sử dụng cách tiếp cận hướng về lợi
nhuận của Drake và cộng sự (2006) trong đó các biến đầu vào bao gồm chi phí
lương, chi phí ngoài lãi và chi phí dự phòng cho vay, các biến đầu ra bao gồm các
loại thu nhập của doanh nghiệp như lợi nhuận sau trả lãi, lợi nhuận sau hoa hồng
phí và lợi nhuận khác.
Bên cạnh kỹ thuật phân tích đường bao ngẫu nhiên DEA được áp dụng lần
lượt cho các mô hình, cũng giống như Chang và Chiu (2006), Pasiouras (2008)
cũng kiểm định hồi quy Tobit để tìm ra sự ảnh hưởng của hai nhóm biến đối với
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nhóm biến thứ nhất bao gồm EQUAS (tỷ lệ
vốn chủ sở hữu/tổng tài sản), ROAA (thu nhập trên trung bình tài sản), LOANS (cho
vay trên tổng tài sản) và POWER (thị phần cho vay). Nhóm thứ hai liên quan đến
các yếu tố như ATMs (số lượng máy ATM), BRANCH (số lượng chi nhánh), biến
giả SUBABR (nhận giá trị 1 nếu ngân hàng triển khai các hoạt động ở nước ngoài
thông qua công ty con) và biến giả BRABR (nhận giá trị 1 nếu ngân hàng triển khai
các hoạt động ở nước ngoài thông qua chi nhánh ngân hàng).
41
Sử dụng dữ liệu từ các ngân hàng Hy Lạp trong giai đoạn 5 năm từ 2000-
2004, kết quả phân tích cho thấy việc đưa các khoản mục ngoại bảng không làm
thay đổi các chỉ số hiệu quả trong khi rủi ro tín dụng lại làm cho các chỉ số hiệu quả
này tăng lên. Ngoài ra việc so sánh các tính toán về các loại hiệu quả được thực hiện
theo từng năm cho thấy kết quả không thực sự đồng nhất. Tuy nhiên, xét về trung
bình thì hiệu quả tính toán theo cách tiếp cận hướng vào lợi nhuận của Drake và
cộng sự (2006) cho ra kết quả nhỏ hơn. Tuy nhiên sự chênh lệch này không đáng kể
so với kết quả nghiên cứu đã thực hiện của Drake và cộng sự (2006).
Cùng chung mục đích nghiên cứu về rủi ro tín dụng và hiệu quả của ngân
hàng, Chen and Kao (2011) đã kết hợp phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA với
chỉ số năng suất tổng hợp Malmquist (gọi là chỉ số năng suất tổng hợp Malmquist)
để nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với hiệu quả và sự thay đổi trong
năng suất của ngân hàng. Nghiên cứu của Chen và Kao (2011) sử dụng các chỉ số
tài chính để đánh giá rủi ro tín dụng của 34 ngân hàng thương mại tại Đài Loan
trong giai đoạn 2005 – 2008 trong đó sử dụng chỉ số Malmquist để đánh giá sự thay
đổi về năng suất được dựa trên chỉ số hiệu quả tính toán từ phương pháp DEA. Chỉ
số Malmquist được coi là một chỉ tiêu thích hợp khi dữ liệu nghiên cứu là dữ liệu
chéo hay dữ liệu mảng (Coelli, 1996). Chỉ số này ban đầu được đưa ra bởi
Malmquist (1953) với ý nghĩa là lượng đầu vào mà một tổ chức có thể giảm bớt mà
vẫn tạo ra một lượng không đổi đầu ra và sau đó được sử dụng lần đầu tiên trong
nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận phi tham số của Nishimizu và Page (1982). Trong
lĩnh vực nghiên cứu này, chỉ số Malmquist cho biết sự thay đổi trong việc sử dụng
nguồn lực mà có thể làm thay đổi hiệu quả của ngân hàng.
Giả sử một DMU (đơn vị tạo quyết định) trong mẫu nghiên cứu sử dụng trong giai đoạn t, t = 1,2,…, T. để tạo ra vector đầu ra vector đầu vào
Fare và cộng sự (1994) biểu thị chỉ số năng suất tổng hợp Malmquist như sau:
42
Trên phương diện tiếp cận hiệu quả về đầu ra, chỉ số trên cho biết sự thay đổi
về năng suất khi ngân hàng hoạt động ở điểm (xt+1, yt+1) so với điểm (xt, yt). Khi chỉ
số này lớn hơn 1, ngân hàng có những cải tiến trong hoạt động của mình, nghĩa là
tạo ra được nhiều đầu ra hơn với một lượng đầu vào như ở giai đoạn trước đó, thể
hiện hiệu quả của ngân hàng tăng lên. Tương tự, khi chỉ số này bằng 1, nghĩa là hiệu
quả của ngân hàng không đổi theo thời gian. Trong khi đó, khi chỉ số này nhỏ hơn
1, nghĩa là ngân hàng tạo ra được một lượng đầu ra ít hơn với cùng một lượng chi
phí mà ngân hàng đã sử dụng ở giai đoạn trước đó, đồng nghĩa với việc hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng giảm dần. Sự thay đổi của hiệu quả kỹ thuật phản ánh
trong chỉ số Malmquist được chia thành hai phần: chỉ số kỹ thuật thuần (Pure
Technical Efficiency - PTE) và hiệu quả về quy mô (Scale Efficiency – SE).
Một đóng góp của Chen and Kao (2011) là việc xây dựng mô hình để đánh
giá tính hiệu quả của việc quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng qua các năm. Mô
hình đưa ra bởi các tác giả này sử dụng cách tiếp cận của hướng về lợi nhuận của
Drake và cộng sự (2006). Các biến đầu ra bao gồm tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ
sở hữu, lợi nhuận trên tổng tài sản, lợi nhuận trên một đồng vốn và thu nhập trên
mỗi cổ phiếu. Điều đặc biệt trong nghiên cứu của Cheng và Kao (2011) ở chỗ, các
biến đầu vào duy nhất được đưa vào mô hình là biến rủi ro tín dụng mặc dù biến
này được thể hiện ở ba chỉ số khác nhau là tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ dự
trữ trên tổng tiền gửi, tỷ lệ tổng nợ quá hạn trên tổng nợ. Việc lựa chọn các biến
như vậy có thể đánh giá được một cách trực tiếp mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và
kết quả hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, kết quả phân tích chỉ số Malmquist qua
các năm sẽ giúp các ngân hàng thấy được sự cải tiến trong việc kiểm soát rủi ro tín
dụng của mình. Từ đó, kết quả nghiên cứu có thể giúp đưa ra đề xuất cho từng
nhóm ngân hàng về các chiến lược quản trị rủi ro thích hợp.
Tuy nhiên, có thể thấy trong nghiên cứu của Chen và Kao (2011) vẫn còn
một số hạn chế. Thứ nhất, các chỉ số được lựa chọn thể hiện rủi ro tín dụng để làm
biến đầu vào trong mô hình chưa thực sự phản ánh chính xác thông tin về rủi ro tín
dụng của ngân hàng. Thứ hai, việc lựa chọn biến cho vay trên tổng tài sản làm biến
đầu vào cũng chưa thực sự phản ánh đúng bản chất trong hoạt động của ngân hàng.
43
Cùng ý tưởng về sử dụng cách tiếp cận phi tham số, Said (2013) nghiên cứu
mối quan hệ giữa rủi ro và hiệu quả của các ngân hàng hồi giáo sử dụng phân tích
ba giai đoạn. Ở giai đoạn thứ nhất, mô hình DEA được sử dụng để đo lường hiệu
quả của các ngân hàng trong khi đó, ở giai đoạn thứ hai, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt
động và rủi ro thanh khoản được phân tích sử dụng các chỉ số tài chính liên quan.
Giai đoạn ba được tiến hành bằng cách áp dụng chỉ số Pearson để nghiên cứu mối
quan hệ giữa ba loại rủi ro: tín dụng, hoạt động và thanh khoản với hiệu quả của các
ngân hàng trong giai đoạn từ 2006 đến 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả ba
loại rủi ro này đều có mối quan hệ ngược chiều với hiệu quả của ngân hàng.
Khi đánh giá hiệu quả của ngân hàng sử dụng mô hình DEA, Said (2013) sử
dụng các biến đầu vào (input) là chi phí lao động, tài sản cố định và tổng tiền gửi,
biến đầu ra (output) là tổng các khoản cho vay, các tài sản ngắn hạn và thu nhập của
ngân hàng. Có thể thấy, việc lựa chọn các biến để đưa vào mô hình này chưa có
nhiều cơ sở lý thuyết, thực tiễn và có thể không phù hợp với các ngân hàng thương
mại nói chung vì sự khác biệt trong mục tiêu kinh doanh của các ngân hàng hồi
giáo. Tuy vậy, việc sử dụng phân tích hệ số tương quan Pearson để kiểm nghiệm
các giả thuyết thống kê về mối tương quan giữa rủi ro với hiệu quả của ngân hàng
lại có giá trị khi mà các kiểm nghiệm trước đây của Berger và DeYoung (1997) đã
được thực hiện tương đối lâu.
Cũng sử dụng phương pháp DEA, Ghafoorian và cộng sự (2013) giới thiệu
cách tiếp cận DEA hai giai đoạn. Theo đó, kỹ thuật phân tích DEA được chia thành
hai giai đoạn trong đó đầu ra của giai đoạn 1 lại là đầu vào của giai đoạn hai. Điều
đáng chú ý là nghiên cứu này xác định tỷ lệ nợ xấu là đầu ra của giai đoạn 1 và đầu
vào của giai đoạn 2. Ghafoorian và cộng sự (2013) phát triển mô hình một giai đoạn
(mô hình 1) của Berger và DeYoung (1997) với n là số DMU trong mẫu nghiên
(1)
và
(2)
cứu, DMUj (j = 1,2,…,n), m yếu tố đầu vào xij (i = 1,2,…,m) thành mô hình 2.
44
Max
(3)
Khi đó hiệu quả được xác định như bằng mô hình 3.
Nghiên cứu Ghafooria và cộng sự (2013) có ưu điểm so với các nghiên cứu
liên quan ở chỗ đã phát triển mô hình DEA hai giai đoạn trong đó tính đến cả các
yếu tố đầu vào của giai đoạn 1 có ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng sau đó
mới xét đến ảnh hưởng của tỷ lệ nợ này đến hiệu quả của ngân hàng. Tuy nhiên,
nghiên cứu mới dừng lại ở việc đề xuất mô hình mà chưa có nghiên cứu thực
nghiệm để chứng minh mô hình đó. Hơn nữa việc xác định rõ các biến đầu vào đầu
ra đầy đủ cho cả hai giai đoạn cũng chưa được đề cập đến trong nghiên cứu.
Trong các nghiên cứu về hiệu quả của ngân hàng sử dụng rủi ro tín dụng như
là một chi phí đầu vào của hoạt động ngân hàng với phương pháp phi tham số,
nghiên cứu của Tsolas và Charles (2015) có nhiều đóng góp mới về cách tiếp cận
rủi ro cũng như việc xây dựng mô hình so với các nghiên cứu trước đó. Trước hết,
Tsolas và Charles (2015) đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng theo hai khía cạnh:
thứ nhất là dự phòng rủi ro cho vay như là một biến số mà ngân hàng có thể có khả
năng kiểm soát, thứ hai là tổn thất do sự mất giá của trái phiếu ngân hàng, được coi
là biến mà ngân hàng không có khả năng kiểm soát. Sau đó, Tsolas và Charles
(2015) sử dụng mô hình DEA tối ưu (satisficing DEA) còn gọi là mô hình P trong
đó sử dụng mô phỏng Monte Carlo để tìm ra xác suất để một DMU có thể đạt được
hiệu quả. Tsolas và Charles (2015) cho rằng thay vì tính toán hiệu quả của các
DMU trong khoảng (0,1) với DMU hiệu quả nhất nhận giá trị bằng 1, việc xác định
xác suất trở nên hiệu quả có ý nghĩa nhiều hơn đối với các ngân hàng để có những
cải tiến cần thiết để đạt được mức hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tsolas và Charles (2015) đưa ra một nhận định trong việc xác định các biến
số trong mô hình là kết quả của phân tích DEA rất nhạy cảm trong việc lựa chọn
các biến số, số lượng các biến số càng nhỏ thì khả năng xếp loại các ngân hàng từ
hiệu quả của chúng ngày càng tăng. Chính vì vậy, nghiên cứu sử dụng một số lượng
đầu vào và đầu ra hạn chế. Các biến đầu vào bao gồm 3 biến: tổng chi phí kinh
doanh của ngân hàng, chi phí dự phòng rủi ro cho vay và tổn thất từ mất giá trái
45
phiếu trong khi biến đầu ra duy nhất của ngân hàng là tổng các khoản cho vay của
ngân hàng được lấy từ bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Nghiên cứu Tsolas và Charles (2015) tỏ rõ ưu thế tính mới về cách tiếp cận
rủi ro tín dụng cũng như phương pháp phân tích phi tham số hiện đại so với phương
pháp phân tích phi tham số truyền thống đã được xây dựng từ năm 1978. Tuy nhiên,
khả năng áp dụng của nghiên cứu này không dễ dàng ở các bối cảnh nghiên cứu khác
nhau và có vẻ phù hợp với các ngân hàng Hy Lạp trong lúc các ngân hàng này gặp
những khủng hoảng về tín dụng trong thời gian vừa qua. Việc lựa chọn các biến số
trong mô hình cũng chưa phù hợp với hoạt động của một ngân hàng hiện đại khi các
sản phẩm đầu ra của ngân hàng không chỉ bó hẹp ở các sản phẩm cho vay. Chính vì
vậy, nghiên cứu của Tsolas và Charles (2015) mang tính gợi mở cho nhiều nghiên cứu
tiếp theo để khẳng định những ưu việt trong những phát hiện của nghiên cứu này.
1.5.1.3. Nghiên cứu sử dụng phương pháp tham số trong đánh giá hiệu quả kinh
doanh ngân hàng
Bên cạnh các nghiên cứu sử dụng phương pháp phi tham số với kỹ thuật
phân tích DEA, phương pháp tham số cũng được sử dụng phổ biến trong việc xác
định hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Khác với phương pháp phi tham số, phương
pháp tham số đòi hỏi có việc xác định một hàm số để thể hiện mối quan hệ giữa đầu
vào và đầu ra gắn với hoạt động của ngân hàng.
Phương pháp tham số sử dụng các kỹ thuật phân tích là kỹ thuật phân tích
biên ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Analysis -SFA), phương pháp tiếp cận tự do
(Distribution Free Approach – DFA) và phương pháp phân tích biên dày (Thick
Frontier Analysis - TFA). Các kỹ thuật phân tích này đều tính đến các sai số ngẫu
nhiên trong xây dựng đường biên hiệu quả và xây dựng một hàm số cho chi phí, lợi
nhuận hay nói cách khác là một hàm số mô tả mối quan hệ giữa lượng đầu ra, đầu
vào và các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh khác.
Sun và Chang (2010) đã bình luận hai cách tiếp cận trong phương pháp
đường biên ngẫu nhiên tham số SFA để đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng, đó là cách tiếp cận truyền thống và cách tiếp cận hiện đại. Phương pháp
46
truyền thống, đưa ra bởi Aigner và cộng sự (1977), có sự tồn tại của hai loại sai số
khi đánh giá hiệu quả của ngân hàng: sai số tác động 1 chiều còn gọi là yếu tố tác
động phi hiệu quả và sai số ngẫu nhiên mà các tổ chức hay đơn vị tạo quyết định
DMU không thể kiểm soát được. Trong khi đó, các nghiên cứu hiện đại sau này đã
mở rộng mô hình SFA bằng việc tìm ra các nhân tố quyết định đến các yếu tố phi
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và giả định rằng các yếu tố phi hiệu quả sẽ là
một hàm số của một số biến tác động nào đó (Battese và Coelli, 1995).
Sun và Chang (2010) phát hiện ra rằng nghiên cứu của Wang (2002) đã kết
hợp cả hai cách tiếp cận truyền thống và hiện đại. Wang (2002) đã xây dựng một
) của ngân hàng, thể hiện tương quan giữa đầu công thức xác định tổng chi phí (
, với
ra và đầu vào
Trong đó, sai số ngẫu nhiên tuân theo phân phối chuẩn còn sai số phi hiệu
quả có trung bình là và phương sai thay đổi và phân theo phân phối nón cụt.
Điểm đặc biệt trong nghiên cứu của Wang (2002) là trung bình và phương sai
sẽ chịu ảnh hưởng của một số yếu tố hay nói cách khác chúng là một hàm số của
các biến độc lập Zit một cách không đơn điệu. Điều này có nghĩa là, ở các mô hình
SFA truyền thống, các biến độc lập chỉ có thể tác động tăng hoặc giảm đến sai số
phi hiệu quả , trong khi đó, nghiên cứu của Wang (2002) cho rằng các yếu tố này
có thể tác động cùng chiều đến sai số phi hiệu quả trong một khoảng nào đó nhưng
lại có thể có tác động ngược chiều với sai số phi hiệu quả trong một khoảng khác.
Sử dụng cách tiếp cận ngân hàng như một trung gian tài chính, Sun và Chang
(2010) xây dựng mô hình bao gồm bốn biến đầu ra và hai biến giá chi phí đầu vào.
Các biến đầu ra bao gồm tổng tiền cho vay (TL), các tài sản sinh lời khác (OEA),
tổng tiền gửi (TD) và các tài sản có tính thanh khoản cao (LA), đây là các biến đầu
ra đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trước đây của Berger và cộng sự
47
(2009) cũng như Bonin và cộng sự (2005). Liên quan đến giá của chi phí đầu vào, Sun
và Chang (2010) đã sử dụng biến lãi suất (PF) tính bằng tỷ số giữa chi phí lãi trên tổng
tiền gửi làm chi phí huy động vốn, biến chi phí vốn (PC) được đo lường bằng tỷ số
giữa chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản cố định. Tổng chi phí (TC) được xác định là một
hàm số logarit theo PF để đảm bảo tính đồng nhất giữa các giá chi phí đầu vào của
ngân hàng. Để đánh giá sự ảnh hưởng của biến rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng, biến rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình bên cạnh hai biến chi phí
đầu vào là lãi suất (PF) và chi phí vốn (PC), biến này được ký hiệu là LLR, được xác
định bằng tỷ lệ giữa dự phòng rủi ro cho vay trên tổng tiền cho vay.
Điểm mới trong nghiên cứu của Sun và Chang (2010) đó là sự phát hiện mối
quan hệ không chỉ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả chi phí mà còn chỉ ra mối quan
hệ giữa rủi ro tín dụng với sai số phi hiệu quả được thể hiện trong một hàm số với
biến độc lập là tổng chi phí. Bằng sự hỗ trợ của phần mềm Stata 9.0, các câu hỏi
nghiên cứu này lần lượt được trả lời.
Câu trả lời cho câu hỏi về mối quan hệ giữa hiệu quả chi phí của ngân hàng
với rủi ro tín dụng là rủi ro tín dụng có mối quan hệ cùng chiều với các sai số phi
hiệu quả, từ đó cho thấy, ngân hàng có rủi ro tín dụng lớn sẽ có hiệu quả chi phí nhỏ
và biến động nhiều. Điều này được giải thích bằng việc một ngân hàng có tỷ lệ dự
phòng rủi ro cho vay cao thì khả năng tồn tại các khoản nợ xấu cũng tăng, từ đó
hiệu quả về chi phí giảm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tác động giữa rủi ro tín dụng và sai số phi hiệu
quả là quan hệ tuyến tính. Khi mà rủi ro càng cao thì các sai số này càng biến động
nhiều, từ đó hiệu quả chi phí cũng biến động nhiều.
Cũng sử dụng phương pháp tham số trong nghiên cứu hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng, Fan và Shaffer (2004) đã có
nhiều đóng góp trong việc xây dựng hàm hiệu quả về lợi nhuận (loại hiệu quả chưa
được tiếp cận nhiều trong các nghiên cứu truyền thống) cũng như việc so sánh các
kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nếu sử dụng các dạng hàm số
khác nhau.
48
Fan và Shaffer (2004) cho rằng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nên được
tiếp cận ở góc độ hiệu quả về lợi nhuận bởi vì hiện nay các ngân hàng có xu hướng sử
dụng các đầu vào có chi phí cao nhưng mang lại lợi nhuận cao. Sử dụng phương pháp
tham số trong đánh giá hiệu quả về lợi nhuận của ngân hàng, Fan và Shaffer (2004)
tiến hành xây dựng một hàm số biên thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận của ngân
hàng với các biến đầu vào trong quá trình kinh doanh của ngân hàng. Hàm số này đo
lường lợi nhuận tối đa ngân hàng có thể đạt được từ các đầu ra và đầu vào cùng với
giá đầu vào và đầu ra nhất định. Hàm số lợi nhuận biên có thể được xây dựng theo
hai phương pháp: hàm lợi nhuận biên tiêu chuẩn và lợi nhuận biên thay thế.
Hàm lợi nhuận biên tiêu chuẩn có dạng như sau:
Trong đó: là lợi nhuận của ngân hàng, là vector các biến đầu vào và đầu
là vector các đầu vào và đầu ra cố định của ngân hàng và là các biến ra biến đổi,
số thuộc về môi trường liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. là
sai số tổng hợp trong mô hình và được mô tả như sau:
Để xác định chính xác dạng của hàm lợi nhuận tiêu chuẩn như đã nói ở trên,
một số dạng hàm đã được đề xuất và đã sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu
khác nhau như: hàm logarit tuyến tính Cobb – Douglas và hàm translog và sau đó là
hàm Fourier đưa ra bởi Gallant (1980). Trong dạng hàm translog, sai số phi hiệu
quả được tách ra khỏi sai số thống kê ngẫu nhiên trong hàm Cobb – Douglas và
được coi là một hàm số phụ thuộc vào các biến đầu vào và đầu ra trong mô hình.
Fan và Shaffer (2004) sử dụng cách tiếp cận ngân hàng như một trung gian
tài chính, nghĩa là đầu vào của ngân hàng là các loại tiền gửi khác nhau trong khi
đầu ra là các khoản cho vay khác nhau trong việc xác định các biến của mô hình. Từ
đó, các biến đầu vào của ngân hàng bao gồm:
- Biến phụ thuộc: lợi nhuận sau thuế
- Biến độc lập bao gồm:
+ P1: chi phí lãi tiền gửi
49
+ P2: chi phí lãi khác
+ P3: Chi phí lương
+ P4: Lãi cho vay cá nhân
+ P5: Lãi cho vay khác
+ P6: lãi từ hoạt động đầu tư
+ Z1: tài sản cố định
+ Z2: vốn chủ sở hữu
+ V: nợ xấu (được đo lường bằng nợ quá hạn 30 ngày và nợ không đòi được).
Nghiên cứu được thực hiện với dữ liệu thu thập từ 866 ngân hàng nội địa của
Hoa Kỳ có tổng tài sản lớn hơn 300 triệu USD trong năm 1998. Kết quả so sánh cho
thấy, hiệu quả về lợi nhuận trung bình của các ngân hàng sử dụng hàm Cobb –
Douglas là 68% trong khi nếu sử dụng dạng hàm Translog thì con số này là 72%.
Fan và Shaffer (2004) cho rằng, kết quả trên có được là vì hàm Translog được coi là
hàm số linh hoạt hơn và vì thế sẽ có thể thu được một hàm sản xuất biên ngẫu nhiên
phù hợp hơn với dữ liệu thu thập. Sai số trong việc xây dựng hàm cũng nhỏ hơn từ
đó, hiệu quả đo lường được cũng cao hơn.
Bên cạnh đó, Fan và Shaffer (2004) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng với một số rủi ro của ngân hàng như rủi ro tín dụng
và rủi ro thanh khoản. Ngoài ra, liên quan đến quy mô tài sản của ngân hàng, nghiên
cứu cũng cho thấy, các ngân hàng có quy mô tài sản ở mức trung bình từ 500 triệu
USD đến 1 tỷ USD được coi là có hiệu quả kinh doanh cao hơn các ngân hàng có
quy mô nhỏ hơn hoặc lớn hơn trong mẫu nghiên cứu.
Altunbas và cộng sự (2000) sử dụng dữ liệu nghiên cứu từ các ngân hàng
thương mại Nhật Bản trong giai đoạn 1993-1996 để đo lường sự tác động của rủi ro
đến chi phí ngân hàng bằng cách sử dụng phương pháp đường biên ngẫu nhiên để
đo lường hiệu quả quy mô, hiệu quả X và hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng này.
Trong đó, khái niệm hiệu quả X được hiểu là hiệu quả chi phí, nghiên cứu về hiệu
quả X gắn liền với đường biên hiệu quả tối ưu, là đường chi phí tối thiểu cho một
lượng đầu vào nhất định gắn với một giá cả đầu vào biết trước. Hiệu quả X, từ đó
50
được đo lường bằng khoảng cách giữa chi phí thực tế của ngân hàng với đường biên
hiệu quả tối ưu.
Hiệu quả chi phí (hiệu quả X) được xác định từ một hàm số của các đầu vào
và đầu ra của ngân hàng, được xác định với công thức sau:
Trong đó TC là tổng chi phí thực tế, là các vector đầu ra trong khi là các
vector giá cả đầu vào. là sai số trong mô hình và được tính toán bằng công thức
dưới đây, với có phân phối bán chuẩn và là biểu hiện của hiệu quả kỹ thuật trong
khi là nhiễu thống kê có phân phối chuẩn với trung bình bằng 0.
Từ hàm số ban đầu, Altunbas và cộng sự (2000) cụ thể hóa bằng việc sử
dụng ba phương pháp: Cobb – Douglas, Translog và phương pháp Fourier để thể
hiện mối quan hệ giữa tổng chi phí, đầu vào và đầu ra trong kinh doanh ngân hàng
áp dụng để ước lượng hiệu quả của các ngân hàng. Các biến số đầu vào và đầu ra
được tóm tắt như sau:
Biến giá cả các yếu tố đầu vào:
- P1: giá cả lao động, đo lường bằng tổng chi phí lương trên tổng tài sản (%).
- P2: chi phí vốn, đo bằng tổng chi phí lãi trên tổng nguồn vốn (%).
- P3: chi phí tài sản cố định, đo bằng tổng chi phí khấu hao Tài sản cố định
trên tổng tài sản cố định (%).
Các biến đầu ra bao gồm:
- Q1: tổng tiền cho vay (tỷ JPY).
- Q2: tổng đầu tư chứng khoán (tỷ JPY).
- Q3: các khoản mục ngoại bảng (tỷ JPY).
- NPL/L: biến rủi ro tín dụng, đo bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng tiền cho vay (%).
Để đánh giá tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng, hai hàm chi phí được xây dựng: hàm thứ nhất có biến rủi ro tín dụng NPL/L
như là một biến kiểm soát trong khi hàm thứ hai không bao gồm biến rủi ro tín dụng
NPL/L. Hiệu quả X trong nghiên cứu của Altunbas và cộng sự (2000) được coi là
phần trăm thay đổi của tổng chi phí ngân hàng (phần trăm chi phí tiết kiệm được)
51
nếu chi phí của ngân hàng tiến tới đường biên chi phí. Kết quả phân tích cho thấy
việc có hay không có sự xuất hiện của yếu tố rủi ro không có tác động đáng kể đến
hiệu quả X của các ngân hàng trong mẫu bằng việc so sánh hiệu quả X từ hai mô
hình chi phí.
Để đánh giá hiệu quả về quy mô trong sự so sánh với hiệu quả X, Altunbas
và cộng sự (2000) đã biến đổi tính kinh tế nhờ quy mô (Scale Economies – SC:
phần trăm thay đổi của chi phí khi quy mô tài sản tăng 1 phần trăm) thành tính hiệu
quả nhờ quy mô (Scale Efficiency – SE: phần trăm thay đổi của chi phí khi ngân
hàng có quy mô hiệu quả tối thiểu) theo phương pháp chuyển đổi được giới thiệu
trong nghiên cứu của Evanoff và Israilevich (1995). Để làm được điều này, 139
ngân hàng trong mẫu được chia thành 7 nhóm tương ứng với quy mô tài sản từ 1 –
500 nghìn tỷ, 500 – 1.000 nghìn tỷ, 1.000 – 2.000 nghìn tỷ, 2.000 – 3.000 nghìn tỷ,
3.000 – 5.000 nghìn tỷ, 5.000 – 10.000 nghìn tỷ, và trên 10.000 nghìn tỷ.
Kết quả nghiên cứu hiệu quả về quy mô cho thấy, các ngân hàng lớn nhất và
nhỏ nhất lại là các ngân hàng phi hiệu quả về quy mô lớn nhất trong trường hợp có tính
đến tác động của rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu không tính đến rủi ro tín dụng thì các
các ngân hàng có hiệu quả về quy mô nhất lại là các ngân hàng có tổng tài sản trong
khoảng 5.000 đến 10.000 nghìn tỷ JPY. Từ đó, có thể thấy rằng quy mô tối ưu của
ngân hàng cũng bị thổi phồng khi không tính đến rủi ro tín dụng. Điều này có nghĩa
rằng, các ngân hàng Nhật Bản đang có quy mô lớn (trên 5.000 nghìn tỷ JPY giá trị tổng
tài sản) nên giảm quy mô tài sản của mình đáng kể để bằng với quy mô tối ưu. Ngoài
ra, các ngân hàng có quy mô nhỏ cũng nên nghĩ tới việc tăng quy mô tài sản của mình
gần với quy mô tài sản tối ưu. So sánh giữa hiệu quả về quy mô và hiệu quả X,
Altunbas và cộng sự (2000) kết luận rằng sự phi hiệu quả về quy mô của các ngân hàng
Nhật Bản đang lớn hơn nhiều sự phi hiệu quả X, điều này cũng ngược với kết quả
nghiên cứu của Berger và Humphrey (1997) hay Mester (1996) trước đó.
Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả X của các ngân hàng trong
mẫu nghiên cứu, mô hình hồi quy logistic đưa ra bởi Mester (1993 và 1996) đã
được sử dụng. Hiệu quả X từ đó được phân tích hồi quy logistic theo các yếu tố:
52
tổng tài sản (TASSET), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (CRATIO), tỷ lệ tài
sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản (L/TA), và cuối cùng là tỷ lệ nợ xấu
trên tổng tài sản (NPL/L). Liên quan đến yếu tố tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản
(NPL/L), kết quả hồi quy cho thấy tỷ lệ nợ xấu có quan hệ ngược chiều với hiệu quả
X của ngân hàng. Nhận định này phù hợp với lý thuyết đưa ra bởi Berger và
DeYoung (1997) khi lý thuyết này cho rằng các ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ
đánh giá và kiểm soát nợ xấu hay rủi ro tín dụng tốt hơn.
Nghiên cứu của Altunbas và cộng sự (2000) là một ví dụ điển hình trong việc
áp dụng mô hình phân tích biên ngẫu nhiên để đánh giá hiệu quả X trong nghiên
cứu về mối quan hệ giữa rủi ro và hiệu quả của các ngân hàng thương mại Nhật bản
trong giai đoạn 1993 đến 1996. Thay vì dùng chỉ tiêu dự phòng rủi ro cho vay như
trong nghiên cứu của Sun và Chang (2010) thì Attunbas và cộng sự (2000) lại sử
dụng chỉ tiêu nợ xấu để phản ánh rủi ro tín dụng trong mô hình xác định hiệu quả
chi phí của ngân hàng. Điểm đáng chú ý trong nghiên cứu của Altunbas và cộng sự
(2000) là 139 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu được phân loại dựa vào quy mô tài
sản của ngân hàng để kiểm định tính hiệu quả nhờ quy mô đối với các hoạt động
của ngân hàng.
Trong khi xây dựng mô hình nghiên cứu, Altunbas và cộng sự (2000) mang
đến một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro và hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng khi xây dựng hai mô hình, một mô hình không có các
biến mô tả rủi ro tín dụng, gọi là mô hình tiêu chuẩn (Standard cost function – CF)
và mô hình có các biến mô tả rủi ro tín dụng (Risk and Quality variables Cost
Function- RQCF), gọi là mô hình mở rộng. Sau đó kiểm định F được tiến hành
nhằm kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác nhau giữa hai mô hình.
Nghiên cứu của Altunbas và cộng sự (2000) có ý nghĩa rất lớn trong việc
phát triển các nghiên cứu thực nghiệm cùng chủ đề vì mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu
quả được gắn với tính kinh tế nhờ quy mô, với một quy mô tài sản tối ưu cho các
ngân hàng thương mại. Từ đó, một kết quả nghiên cứu quan trọng được rút ra là nếu
các yếu tố liên quan đến rủi ro tín dụng không được xem xét thì quy mô tài sản của
53
ngân hàng bị đánh giá cao. Điều đó có nghĩa là, quy mô ngân hàng tối ưu sẽ nhỏ
hơn nếu rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình nghiên cứu.
1.5.2. Các nghiên cứu trong nước
Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014) nghiên cứu mối quan hệ giữa nợ xấu và hiệu
quả chi phí của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007 đến năm
2013. Nghiên cứu tiến hành theo hai giai đoạn: (i) đo lường hiệu quả chi phí của
ngân hàng bằng phương pháp phân tích phi tham số bao dữ liệu; và (ii) sử dụng mô
hình Tobit để xác định tác động hai chiều của nợ xấu đối với hiệu quả chi phí của
ngân hàng.
Việc chọn biến đầu vào và đầu ra của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014) được
dựa trên quan điểm ngân hàng là định chế tài chính trung gian nên tiền gửi được xử lý
như là đầu vào trong quá trình kinh doanh tạo ra đầu ra là thu nhập. Hai biến đầu ra
trong nghiên cứu là thu nhập từ lãi (Y1), thu nhập ngoài lãi (Y2), đầu vào được chọn
là chi phí lao động (X1), tài sản cố định (X2), và tiền gửi khách hàng (X3). Kết quả
nghiên cứu cho thấy hiệu quả chi phí của các ngân hàng thương mại Việt Nam là
52,6%, chứng tỏ các ngân hàng đã không sử dụng tối đa nguồn lực đầu vào của mình.
Với lập luận về khả năng tồn tại mối quan hệ giữa hiệu quả chi phí và nợ xấu
là mối quan hệ hai chiều: hiệu quả chi phí thấp phản ánh hoạt động nghèo nàn và
thực tiễn quản lý danh mục cho vay yếu kém do đó nợ xấu tăng, hay nợ xấu tăng
cũng làm tăng chi phí ngân hàng và làm giảm hiệu quả kinh doanh. Chính vì vậy,
Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014) sử dụng hai mô hình để kiểm định và đánh giá mối
quan hệ này:
Mô hình 1:
Mô hình 2:
Các biến giải thích trong hai mô hình là NPL, STATE, ASSET, và AGE. Biến
là tỷ lệ nợ xấu trên tổng dự nợ của ngân hàng i năm t. Các biến dùng để kiểm
soát các yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tại năm t
bao gồm: STATE là biến giả sẽ nhận giá trị 1 nếu là ngân hàng thương mại nhà
nước và nhận giá trị 0 nếu là ngân hàng thương mại cổ phần, ASSET là logarit tự
54
nhiên của tổng tài sản, AGE là số năm hoạt động hay kinh nghiệm của ngân hàng.
Kết quả hồi quy mô hình Tobit cho thấy hệ số hồi quy của nợ xấu với biến phụ
thuộc là hiệu quả cùng chiều, có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, đồng thời hệ số hồi
quy của hiệu quả khi biến phụ thuộc là nợ xấu cũng cho kết quả cùng chiều với mức
ý nghĩa thống kê 5%. Như vậy, khi hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tăng lên thì
cũng làm gia tăng nợ xấu và ngược lại. Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014) cũng đưa ra
các chứng cứ khoa học về mặt lý thuyết để giải thích cho phát hiện đó bằng dẫn
chứng lý thuyết gọi là “Quản lý tránh rủi ro” của Koutsomanoli và cộng sự (2009).
Đó là, khi các nhà quản trị nhận thấy có sự gia tăng rủi ro tín dụng, họ thường có xu
hướng tăng chi phí giám sát chất lượng các khoản vay và kiểm soát nợ xấu. Sự bất
ổn gia tăng khi nợ xấu gia tăng báo hiệu sự khởi đầu của thời kỳ tài chính bất ổn,
dẫn đến các nhà quản trị phải phân bổ thêm nguồn lực để giám sát các khoản vay,
khiến cho hiệu quả kinh doanh của ngân hàng giảm nhưng điều này cũng làm cho tỷ
lệ nợ xấu giảm.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014) có ý nghĩa đánh giá mối
quan hệ giữa rủi ro tín dụng đo lường bằng tỷ lệ nợ xấu và hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng. Tuy nhiên, với cỡ mẫu tương đối nhỏ, kết quả kiểm định hồi quy là chưa
thực sự thuyết phục. Ngoài ra, kỹ thuật phân tích hiệu quả mới chỉ dừng lại ở
phương pháp phi tham số DEA nên kết luận đưa ra chưa được kiểm chứng nếu sử
dụng kỹ thuật phân tích khác.
Cùng mục tiêu nghiên cứu với Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014), Nguyễn Minh
Sáng (2013) phân tích sự tác động của các nhân tố đến hiệu quả sử dụng nguồn lực
tại các NHTM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo 2 giai đoạn: giai đoạn 1
phân tích hiệu quả sử dụng nguồn lực của các NHTM theo phương pháp phân tích
phi tham số với sự trợ giúp của phần mềm DEAP 2.1; giai đoạn 2 sử dụng kết quả
phân tích hiệu quả từ giai đoạn1 tiến hành phân tích sự tác động của các các nhân tố
đến hiệu quả sử dụng nguồn lực của các NHTM theo mô hình hồi quy Tobit duới sự
trợ giúp của phần mềm STATA11.0.
Nguyễn Minh Sáng (2013) cũng đồng ý với quan điểm xem các ngân hàng
như các trung gian tài chính trong lựa chọn các biến của mô hình, đó là 3 biến đầu
55
vào: chi phí nhân viên (X1), tài sản cố định (X2); tiền gửi (X3); và các biến đầu ra
bao gồm: thu nhập từ lãi (Y1); thu ngoài lãi (Y2) bao gồm thu nhập từ hoạt động
dịch vụ, thu nhập từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh, đầu tư và thu
nhập từ hoạt động khác. Mô hình này được sử dụng để đo lường mức độ hiệu quả
sử dụng các nguồn lực đầu vào của 17 NHTM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả cho thấy hiệu quả kinh tế và hiệu quả kỹ thuật bình quân của các NHTM
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt thấp nhất là 0,62 và 0,75 vào năm 2008.
Nguyễn Minh Sáng (2013) cho rằng những bất ổn kinh tế thế giới toàn cầu nói
chung là những nguyên nhân chính khiến hiệu quả kinh tế suy giảm của các NHTM
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều
vào xuất khẩu năm này. Trong khi đó, hiệu quả phân bổ thấp nhất trong năm 2010
và chỉ đạt 0,71. Trung bình cả giai đoạn 2007 - 2011 hiệu quả kỹ thuật đạt 0,85,
hiệu quả phân bổ đạt 0,8 và hiệu quả kinh tế đạt mức trung bình thấp nhất 0,68.
Mô hình hồi quy Tobit được xây dựng với CE (hiệu quả kinh tế) là biến phụ
thuộc trong khi các biến độc lập bao gồm E/A (tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản), NPL (Nợ xấu/Tổng dư nợ tín dụng), ROE (Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở
hữu bình quân), LN(A) là Logarit tự nhiên của tổng tài sản. Kết quả phân tích cho
thấy chỉ có 2 biến trong mô hình là E/A và NPL là có ý nghĩa ở mức 10%. Hai biến
ROE và LN(A) không có ý nghĩa, điều này cho thấy chỉ có 2 nhân tố tác động đến
hiệu quả kinh tế toàn phần của các NHTM trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là
các biến thể hiện quy mô của vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản và tỷ lệ nợ xấu.
Tuy nhiên, kết quả hồi quy cũng cho thấy có sự khác biệt với ý nghĩa kinh tế và dấu
kỳ vọng của biến NPL, khi tỷ lệ nợ xấu càng cao thì hiệu quả kinh tế toàn phần của
các NHTM trong mẫu nghiên cứu càng tăng. Ðiều này có thể lý giải là do việc công
bố thông tin nợ xấu của các NHTM Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng chưa chuẩn xác làm cho kết quả mô hình bị sai lệch. Hơn
nữa, hiệu quả kinh tế toàn phần của các NHTM Việt Nam còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố kinh tế vi mô khác nữa nên kết quả mô hình hồi quy Tobit không đúng như
kỳ vọng. Bên cạnh đó, biến E/A thể hiện mối quan hệ giữa năng lực tài chính và
hiệu quả kinh tế toàn phần của các NHTM cũng có dấu ngược với kỳ vọng, khi
56
năng lực tài chính của NHTM càng cao thì hiệu quả kinh tế toàn phần của các
NHTM càng giảm do hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu của các NHTM trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh không cao nên làm giảm hiệu quả kinh tế toàn phần của các
ngân hàng.
Phan Thị Diệu Thảo, Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh (2013) xây dựng mô hình để
đánh giá hiệu quả của ngân hàng với các biến đầu vào là nguồn nhân lực, quy mô
tiền gửi được lượng hóa bằng chi phí sử dụng trong quá trình hoạt động, gồm: chi
phí kinh doanh (Co), Chi phí trả lãi và các khoản tương tự (i), Chi phí khác (c). Các
biến đầu ra thể hiện thu nhập, lợi nhuận tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, gồm: thu nhập từ lãi và các khoản tương tự (R1), thu nhập khác từ
hoạt động kinh doanh (R2).
Sử dụng phương pháp tiếp cận đường bao dữ liệu DEA, các tác giả đo lường
hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào mà không làm giảm
sút yếu tố đầu ra bằng việc sử dụng hai mô hình: mô hình hiệu quả không đổi theo
quy mô (DEACRS) và mô hình hiệu quả thay đổi theo quy mô (DEAVSR). Trong đó,
mô hình hiệu quả thay đổi theo quy mô lại được chia nhỏ thành mô hình hiệu quả
giảm theo quy mô và mô hình hiệu quả tăng theo quy mô.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả kỹ thuật theo mô hình DEAVSR cao
hơn hiệu quả kỹ thuật theo mô hình DEACRS. Sự phi hiệu quả về mặt kỹ thuật xuất
phát từ hai nguồn: sự không hiệu quả về quy mô (SE) do các nhân tố phản ánh quy
mô hoạt động của ngân hàng như trình độ công nghệ, quy mô,…và sự không hiệu
quả về kỹ thuật thuần túy (PE) chẳng hạn trình độ quản lý của các nhà quản trị.
Hiệu quả quy mô SE bằng hiệu quả theo mô hình DEACRS/ hiệu quả kỹ thuật theo
mô hình DEAVSR (SE = TE/PE). Kết quả nghiên cứu cho thấy, các NHTM nếu tiếp
tục tăng quy mô hoạt động sẽ góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên,
điều này không đúng với các ngân hàng TMCP Nhà nước, khi hiệu quả của các
ngân hàng này đều giảm hay không đổi theo quy mô. Lê Phan Thị Diệu Thảo,
Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh (2013) cho rằng các ngân hàng có hiệu quả hoạt động
theo mô hình DEAVSR nhỏ hơn 1, nghĩa là, các ngân hàng chưa đạt đến điểm hiệu
57
quả tối ưu thì hoàn toàn có khả năng cắt giảm lãng phí các nguồn lực trong điều
kiện vẫn giữ nguyên hoặc thậm chí còn làm tăng các kết quả đầu ra.
Một điểm đáng chú ý trong nghiên cứu này là việc đánh giá chỉ số
Malmquist TFP. Chỉ số này dùng để đo lường thay đổi năng suất và phân tách sự
thay đổi năng suất này thành thay đổi kỹ thuật và thay đổi hiệu quả kỹ thuật. Cụ thể,
chỉ số sẽ phản ánh sự thay đổi của hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần túy,
hiệu quả quy mô và năng suất nhân tố tổng hợp. Tăng năng suất sẽ biểu thị bằng chỉ
số Malmquist lớn hơn 1. Năng suất giảm sẽ dẫn tới việc chỉ số Malmquist nhỏ hơn
1. Năng suất nhân tố tổng hợp TFP (Total Factor Productivity) là chỉ tiêu phản ánh
kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng các đầu vào (các nhân tố
hữu hình), nhờ tác động của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lý hóa
sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của nhân viên,… (gọi chung là
nhân tố tổng hợp). Kết quả phân tích cho thấy các chỉ số Malmquist: chỉ số thay đổi
hiệu quả kỹ thuật (EFFCH), chỉ số thay đổi tiến bộ công nghệ (TECHCH), chỉ số
thay đổi hiệu quả thuần (PECH), chỉ số thay đổi hiệu quả quy mô (SECH), chỉ số
thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp TFPCH của các giai đoạn đều nhỏ hơn hoặc
xấp xỉ 1. Trong đó, nguyên nhân chính cho sự suy giảm chỉ số năng suất tổng hợp là
do yếu tố phi hiệu quả kỹ thuật mặc dù các ngân hàng cũng đã chú ý đến việc ứng
dụng tiến bộ công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả
kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua cho thấy các nghiên cứu này đã phát triển
trên nhiều góc độ cả về phương pháp tiếp cận, kỹ thuật phân tích và việc lựa chọn
biểu hiện của rủi ro tín dụng. Các phương pháp tiếp cận hoạt động ngân hàng bao
gồm cách tiếp cận “trung gian”, “giá trị tăng thêm”, “hướng về lợi nhuận” và “sản
xuất” dẫn đến việc lựa chọn các biến khác nhau trong mô hình nghiên cứu. Hiệu
quả kinh doanh ngân hàng cũng được đánh giá ở các khía cạnh hiệu quả kỹ thuật,
hiệu quả chi phí, hiệu quả lợi nhuận, … trong khi rủi ro tín dụng cũng được đo
lường bằng cả hai chỉ tiêu nợ xấu và dự phòng rủi ro cho vay. Đặc biệt cả hai
phương pháp đánh giá hiệu quả tham số và phi tham số cũng được sử dụng hết sức
linh hoạt trong các nghiên cứu. Sự đa dạng đó làm cho kết quả phân tích trở nên
không đồng nhất và tồn tại tranh luận về các kết quả này.
59
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khoảng trống nghiên cứu
Kết quả tổng quan các nghiên cứu đã thực hiện trong và ngoài nước, có thể
rút ra một số nhận xét như sau:
- Các nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh ngân hàng
và rủi ro tín dụng được phát triển khá đa dạng trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu đối với hoạt động quản trị của ngân
hàng còn hạn chế. Chẳng hạn, các câu hỏi nghiên cứu như mức rủi ro tín dụng mà
một ngân hàng có thể chấp nhận dựa vào yêu cầu về hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng đó là gì? Hay: với sự thay đổi của rủi ro tín dụng thì sẽ dẫn đến sự thay đổi
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng như thế nào? Các câu hỏi đó còn bỏ ngỏ trong
hầu hết các nghiên cứu.
- Có 2 phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng đang tồn
tại: truyền thống và hiện đại (gắn với việc xây dựng đường biên hiệu quả). Tuy
nhiên, việc so sánh mối tương quan giữa kết quả đánh giá từ hai phương pháp này
vẫn còn thể hiện hạn chế.
- Các nghiên cứu ngoài nước về hiệu quả kinh doanh trong mối quan hệ với
rủi ro tín dụng đã thực hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau và trong một khoảng
thời gian dài. Chính vì vậy, các phương pháp nghiên cứu được hoàn thiện và kết
quả nghiên cứu mang lại nhiều phát hiện có giá trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã
tiến hành còn chưa đồng nhất trong việc lựa chọn các cách tiếp cận hoạt động ngân
hàng (trung gian tài chính, lợi nhuận, hay giá trị tăng thêm,...). Phương pháp đánh
giá hiệu quả kinh doanh tham số và phi tham số cũng được sử dụng đa dạng. Chính
vì vậy, kết quả về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh ngân
hàng cũng không đồng nhất trong từng nghiên cứu.
- Các nghiên cứu trong nước có liên quan hầu hết mới được tiến hành để
đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Các nghiên cứu này hầu như mới chỉ
60
dừng lại ở cách tiếp cận phi tham số DEA còn cách tiếp cận tham số SFA thì hầu
như còn vắng bóng. Các nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh
và rủi ro tín dụng ngân hàng chưa được thực hiện nhiều, nếu có thì vai trò của rủi ro
tín dụng còn chưa được thể hiện như là một nhân tố quan trọng tác động đến hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng.
Khoảng trống tri thức nói trên đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tiến hành một
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
cổ phần thương mại Việt Nam trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng theo các cách
tiếp cận khác nhau và phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh khác nhau. Cụ
thể là, kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng từ phương pháp truyền
thống và phương pháp hiện đại sẽ được so sánh để có thể tư vấn các nhà quản trị
ngân hàng trong việc lựa chọn phương pháp đánh giá hiệu quả thích hợp.
2.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu chính là đánh giá mối quan
hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ
phần (TMCP) Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam bằng
các cách tiếp cận khác nhau.
- Lượng hóa mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp đối với các nhà quản trị ngân hàng để nâng cao hiệu
quả kinh doanh và kiểm soát rủi ro tín dụng.
Từ các mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận án xây dựng các câu hỏi nghiên
cứu cụ thể bao gồm:
1. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam được đánh giá
như thế nào khi sử dụng phương pháp truyền thống với các chỉ tiêu tài chính tính
toán từ các báo cáo của ngân hàng?
2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam theo cách phân
tích biên ngẫu nhiên SFA (phương pháp hiện đại) được đánh giá như thế nào?
61
3. Đánh giá mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh và rủi ro tín dụng của các
ngân hàng TMCP Việt Nam?
4. Các đề xuất nào đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam để nâng cao hiệu
quả kinh doanh và kiểm soát rủi ro tín dụng?
2.3. Khung phân tích của luận án
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu, luận án lựa chọn các biến nghiên cứu
ứng với các cách tiếp cận khác nhau, kết hợp giữa định tính và định lượng. Với đối
tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam, sơ đồ 2.1 mô tả cách thức đo lường các
biến nghiên cứu và trình tự tiến hành các bước nghiên cứu. Theo sơ đồ 2.1, rủi ro
tín dụng của các ngân hàng TMCP Việt Nam được đo bằng dự phòng rủi ro cho
vay. Trong các nghiên cứu liên quan, rủi ro tín dụng thường được đo lường bằng tỷ
lệ nợ xấu hoặc tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay của ngân hàng. Luận án lựa chọn tỷ lệ
dự phòng rủi ro cho vay do sự sẵn có của chỉ tiêu này trong khi nợ xấu của hệ thống
ngân hàng Việt Nam vẫn chưa được công bố chính xác và khó tiếp cận.
Luận án sử dụng cách tiếp cận “trung gian tài chính” trong xác định các biến
đầu vào và đầu ra để xây dựng đường biên hiệu quả trong phương pháp tham số
SFA. Cách tiếp cận này bắt nguồn từ nghiên cứu của Sealey and Lindley (1977) khi
ông cho rằng đầu ra của hoạt động ngân hàng chính là tổng số tiền cho vay và các
khoản đầu tư chứng khoán trong khi đầu vào của quá trình đó là các khoản tiền gửi,
nguồn nhân lực và các khoản tài sản hữu hình. Quan điểm này trở nên phổ biến và
được áp dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu sau này như nghiên cứu của Altunbas
và cộng sự (2000); Chang và Chiu (2006); Pasiouras (2008); Sun và Chang (2010);
Said (2013); Tsolas và Charles (2015).
BIẾN ĐẦU VÀO
KHẢ NĂNG SINH LỜI
KHẢ NĂNG QUẢN TRỊ RR
BIẾN PHI HQ
62
PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG RỦI RO HIỆU QUẢ
KINH DOANH
QH NHÂN QUẢ
HÀM COBB-DOUGLAS
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
HÀM LOGA SIÊU VIỆT
PHƯƠNG PHÁP THAM SỐ SFA
TIẾP CẬN TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
DỰ PHÒNG RỦI RO CHO VAY
BIẾN ĐẦU RA BIẾN ĐẦU VÀO
Hình 2.1. Khung phân tích của luận án
Nguồn: Thiết kế bởi tác giả
63
Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam được đánh giá
bằng hai phương pháp chính là phương pháp truyền thống bằng việc đánh giá các
chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến khả năng sinh lời và năng lực quản trị rủi ro của ngân
hàng; và phương pháp hiện đại là phương pháp xây dựng đường biên hiệu quả SFA.
Trong phương pháp tham số, hai hàm số mô tả mối quan hệ giữa các biến đầu vào
và đầu ra trong quá trình kinh doanh của ngân hàng là hàm Cobb-Douglas tuyến
tính đưa ra bởi Cobb và Douglas (1928) và hàm Loga siêu việt giới thiệu bởi
Christensen và cộng sự (1973). Sau đó, luận án tiến hành các kiểm định cần thiết để
lựa chọn được dạng hàm phù hợp. Kết quả kiểm định dạng hàm sẽ được trình bày
cụ thể trong các phần tiếp theo của chương này.
Khi đánh giá tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh ngân
hàng, rủi ro tín dụng được xem xét với hai vai trò: là một biến đầu vào trong quá
trình kinh doanh ngân hàng và là một yếu tố phi hiệu quả, yếu tố làm suy giảm hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng. Trong khi đó, sự tác động trở lại của hiệu quả kinh
doanh tới rủi ro tín dụng được đo lường bằng kiểm định mối quan hệ nhân quả
Granger giữa hai biến số này. Các phương pháp nghiên cứu của luận án sẽ được
trình bày chi tiết trong các phần tiếp theo.
2.4. Nguồn dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu không chỉ tập trung vào một vài ngân hàng thương mại nhà nước
như ở các nghiên cứu trước đây, phạm vi nghiên cứu của luận án được mở rộng
phân tích cho các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, đây là các ngân hàng
có vốn sở hữu Nhà nước, các ngân hàng tư nhân và không bao gồm các ngân hàng
thương mại nước ngoài. Nếu phân chia theo cơ cấu sở hữu, các ngân hàng trong mẫu
nghiên cứu được chia thành hai nhóm NHTMCP không có sở hữu Nhà nước và các
NHTMCP NN chiếm cổ phần đáng kể. Tuy nhiên, các ngân hàng này đều được đồng
thời đưa vào mô hình để xác định đường biên hiệu quả cho tất cả các ngân hàng. Sự
lựa chọn này xuất phát từ các lý do sau:
- Thứ nhất, các ngân hàng TMCP có sở hữu của Nhà nước (NHTMCPNN)
thường có lợi thế về vốn, thị trường và quan hệ khách hàng tuy nhiên các ngân hàng
64
TMCP có sở hữu tư nhân lại chịu nhiều áp lực về quản trị tài chính cũng như đề cao
việc tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận nên các ngân hàng TMCPNN chưa chắc đã kinh
doanh hiệu quả hơn các ngân hàng này.
- Thứ hai, Việc xem xét các ngân hàng TMCPNN vào mẫu nghiên cứu có thể
giúp cho việc so sánh hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo các nhóm khác nhau mà
không làm thay đổi nhiều đến thứ tự xếp hạng hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Ảnh
hưởng của sở hữu Nhà nước tới hiệu quả kinh doanh ngân hàng có thể được đánh giá
hợp lý hơn bằng các phân tích hồi quy sau khi tính toán hiệu quả ngân hàng.
- Thứ ba, số lượng các ngân hàng TMCPNN là quá nhỏ để tiến hành các kiểm
định thống kê và kết luận về vai trò của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng trong khi đây là mục tiêu chính của đề tài.
Theo số liệu thu thập được từ Báo cáo tài chính năm đã qua kiểm toán của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính đến ngày 31/12/2016 có tổng 31 ngân hàng
TMCP trong nước. Tuy nhiên, ngân hàng TMCP Bảo Việt (Baoviet bank) do mới
thành lập năm 2008 nên số liệu 2009 tác giả thu thập chưa được đầy đủ và không có
độ tin cậy, độ chính xác cao nên tác giả đã loại ra khỏi mẫu nghiên cứu. Vậy, mẫu
nghiên cứu bao gồm 30 ngân hàng TMCP. Danh sách các ngân hàng trong mẫu
nghiên cứu được tổng hợp trong bảng 2.1 sau đây.
Bảng 2.1. Tổng hợp các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu
STT Ngân hàng Mã CP
1 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín STB
2 Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
3 Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam PVF
4 Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội SHB
5 Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam VCB
6 Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam CTG
7 Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam EIB
8 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam TCB
9 Ngân hàng TMCP Sài Gòn SCB
10 Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt LVB
65
Ngân hàng Mã CP STT
11 Ngân hàng TMCP Phát Triển TPHCM HDB
12 Ngân hàng TMCP Phương Đông OCB
13 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương SGB
14 Ngân hàng TMCP An Bình ABB
15 Ngân hàng TMCP Tiên Phong TPB
16 Ngân hàng TMCP Kiên Long KLB
17 Ngân hàng TMCP Việt Á VAB
18 Ngân hàng TMCP Quốc Dân NVB
19 Ngân hàng TMCP Nam Á NAB
20 Ngân hàng TMCP Bản Việt GDB
21 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng VPB
22 Ngân hàng TMCP Quân đội MBB
23 Ngân hàng TMCP Hàng Hải MSB
24 Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam VIB
25 Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BID
26 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín VTTB
27 Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex PGB
28 Ngân hàng TMCP Bắc Á NASB
29 Ngân hàng TMCP Đông Nam Á SEAB
30 Ngân hàng TMCP Đông Á EAB
Nguồn: thu thập bởi tác giả
Trong số 30 ngân hàng mà tác giả chọn thu thập số liệu nghiên cứu có một số
ngân hàng đã trải qua sáp nhập trong giai đoạn 2009 - 2015. Vì vậy, số liệu những
ngân hàng này trong giai đoạn trước và sau khi thành lập hoặc sáp nhập được tác
giả thu thập như sau:
- Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) sáp nhập với ngân hàng TMCP
Nhà Hà Nội (Habubank) năm 2012 nên giai đoạn 2009-2011 là số liệu của Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) cũ hay trước khi sáp nhập, còn giai đoạn 2012-2015
là số liệu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) sau khi đã sáp nhập.
- Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcombank) được thành lập trên
cơ sở hợp nhất giữa Tổng công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam(PVFC) và ngân
66
hàng TMCP Phương Tây (WesternBank) vào năm 2013 nên giai đoạn 2009-2012 là
số liệu của Tổng công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam (PVFC) giai đoạn trước khi
sáp nhập, còn số liệu giai đoạn 2013-2015 là số liệu của Ngân hàng TMCP Đại
chúng Việt Nam (PVcombank) sau khi đã thành lập hay sáp nhập.
- Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) được thành lập năm 2011 trên cơ sở hợp
nhất tự nguyện 3 ngân hàng: Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), Ngân hàng TMCP
Đệ Nhất (Ficombank) và Ngân hàng TMCP Tín Nghĩa (TinNghiaBank) nên giai
đoạn 2009-2010 là số liệu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) trước khi hợp
nhất, còn giai đoạn 2011 - 2015 là số liệu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) sau
khi thành lập (hợp nhất).
Dữ liệu về các biến trong các mô hình được thu thập từ báo cáo tài chính
năm đã qua kiểm toán của các ngân hàng trong 7 năm từ năm 2009 đến 2015. Các
báo cáo Tài chính được tác giả thu thập từ công ty Cổ phần Stoxplus. Khoảng thời
gian 7 năm tuy không quá dài nhưng cũng đủ để thấy được sự phát triển của các
ngân hàng nói chung và sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh nói riêng. Như vậy, dữ
liệu thu thập được là dữ liệu chéo, bao gồm 210 quan sát.
Luận án lựa chọn phạm vi nghiên cứu này vì đây là thời kỳ hệ thống ngân
hàng Việt Nam trải qua 3 giai đoạn phục hồi, suy giảm, tăng trưởng, đặc biệt là việc
thực hiện đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-
2015”. Trước khi thực hiện đề án 254 là thời kỳ các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân
hàng đang dần phục hồi sau khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, NHNN
điều hành nới lỏng chính sách tiền tệ nên tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng rất
thấp, dưới 3%. Năm 2012 là năm bản lề quan trọng thực hiện chủ trương của Đảng,
Chính Phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh xã
hội đi đôi với tăng trưởng và cơ cấu lại ngân hàng theo đề án 254, diễn biến nền
kinh tế phức tạp, rủi ro gia tăng, NHNN đã thắt chặt chính sách tiền tệ, tỷ lệ nợ xấu
tăng nhanh lên đến trên 13%, thậm chí có ngân hàng lên đến trên 30 - 40%. Năm
2013 -2015 là giai đoạn then chốt của đề án 254, kinh tế phục hồi và tích cực phát
triển, nợ xấu cũng giảm xuống (2015: 2,55%), năm 2015 là năm bắt đầu hệ thống
67
ngân hàng đi vào ổn định sau một thời gian thực hiện đề án 254, hệ thống ngân
hàng phuc hồi tích cực phát triển.
Hơn nữa, nguồn số liệu của thời kỳ nghiên cứu này bảo đảm tính đồng bộ
hơn, đẩy đủ hơn, có độ tin cậy cao hơn, và phản ánh tốt việc đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
2.5. Phương pháp lựa chọn biến nghiên cứu
Vì ngân hàng là một chủ thể kinh doanh tương đối đặc biệt, nên tồn tại một
số cách tiếp cận khác nhau về hoạt động của ngân hàng khi đánh giá hiệu quả kinh
doanh. Các cách tiếp cận đó là: cách tiếp cận “sản xuất”, cách tiếp cận “trung gian
tài chính”, cách tiếp cận “hướng về lợi nhuận”, cách tiếp cận “giá trị tăng thêm”, và
cách tiếp cận “chi phí sử dụng”.
Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận “trung gian” để đánh giá hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng vì đây là cách tiếp cận phổ biến và phù hợp với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được cụ thể hóa bằng hiệu
quả kỹ thuật, đánh giá mối quan hệ giữa các đầu vào và đầu ra của ngân hàng.
Cách tiếp cận trung gian cho rằng ngân hàng đóng vai trò là trung gian giữa
người cho vay và đi vay. Chính vì vậy, đầu ra của hoạt động ngân hàng chính là
tổng số tiền cho vay và các khoản đầu tư chứng khoán trong khi đầu vào của quá
trình đó là các khoản tiền gửi, nguồn nhân lực và các tài sản hữu hình (Sealey and
Lindley, 1977). Cách tiếp cận “trung gian tài chính” còn được phát triển thành cách
tiếp cận “giá trị gia tăng”, trong đó, các tài khoản như tiền gửi và cho vay đều được
coi là đầu ra vì các khoản mục này có ý nghĩa tạo ra giá trị tăng thêm.
Trong luận án này, rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của một ngân
hàng thương mại được định nghĩa là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của
ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết. Biến mô tả rủi ro tín dụng được
lựa chọn là biến dự phòng rủi ro cho vay, là số tiền được trích lập và hạch toán vào
chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của các
ngân hàng. Dự phòng rủi ro cho vay được xác định dựa trên cơ sở Thông tư số
68
02/2013/TT-NHNN “Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích
lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Trong đó, dự phòng rủi ro cho vay
được tính toán bằng tỷ lệ nhất định của các nhóm nợ, cụ thể là:
- Nhóm 1: 0%; bao gồm: Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2: 5%; Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nhóm 3: 20%; Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất.
- Nhóm 4: 50%; Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả năng tổn
thất cao.
- Nhóm 5: 100%. Các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không còn khả
năng thu hồi, mất vốn.
Ngoài dự phòng cho vay cụ thể trên ngân hàng thương mại phải trích số tiền
dự phòng chung bằng 75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trừ các
khoản sau:
- Tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán) tại các tổ chức tín dụng trong nước, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật và tiền gửi
tại tổ chức tín dụng nước ngoài.
- Khoản cho vay, mua có kỳ hạn giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài khác tại Việt Nam.
Dự phòng rủi ro cho vay có liên quan mật thiết với nợ xấu của ngân hàng.
Tuy nhiên, thay vì chỉ tiêu nợ xấu, dự phòng rủi ro cho vay được lựa chọn để đại
diện cho rủi ro tín dụng vì các lý do sau:
- Rủi ro tín dụng với khái niệm là khả năng xảy ra tổn thất của ngân hàng do
sự không hoàn trả đầy đủ của khách hàng nên phải tính toán đến rủi ro cho tất cả
các khoản cho vay (nhóm 2,3,4,5) chứ không chỉ đối với các khoản nợ xấu của ngân
hàng (nhóm 3,4,5).
69
- Dự phòng rủi ro cho vay chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định so với nợ xấu của
ngân hàng mà không bao gồm toàn bộ số nợ xấu của ngân hàng, cũng phù hợp hơn
với định nghĩa về “khả năng xảy ra tổn thất” của ngân hàng.
- Các số liệu về nợ xấu của các ngân hàng TMCP Việt Nam còn mập mờ và
có độ tin cậy không cao.
Kết quả của một số nghiên cứu đã tiến hành (Knaup và Wagner, 2012) khi đồng
thời đo lường rủi ro tín dụng bằng các chỉ tiêu như dự phòng rủi ro cho vay, nợ có vấn
đề, tỷ lệ nợ trên tổng vốn chủ sở hữu, nợ không có bảo đảm cho thấy rủi ro tín dụng đo
lường bằng chi phí dự phòng rủi ro cho vay có tác động đáng kể hơn cả đến hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng so với các chỉ tiêu đo lường còn lại của rủi ro tín dụng.
Nhằm đánh giá được vai trò của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng TMCP Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp tham số SFA
trong xây dựng đường biên hiệu quả. Trong phương pháp này, có ba mô hình khác
nhau được xây dựng. Các mô hình này đều bao gồm các biến đầu ra và đầu vào
trong quá trình kinh doanh của ngân hàng và khác nhau ở sự xuất hiện của biến rủi
ro tín dụng đóng vai trò là một biến đầu vào (mô hình 2) và đóng vai trò như một
yếu tố phi hiệu quả của mô hình (mô hình 3) trong khi mô hình 1 được coi là mô
hình gốc khi không chứa biến rủi ro tín dụng. Cách xây dựng ba mô hình như thế
này có thể giúp tác giả đưa ra các so sánh hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng
trong những trường hợp khác nhau.
Bảng 2.2. Các biến trong mô hình SFA
Mô hình 1
Mô hình 2,3
Đầu vào
1. Tài sản cố định
1. Tài sản cố định
2. Tiền gửi của khách hàng
2. Tiền gửi của khách hàng
3. Lao động
3. Lao động
4. Rủi ro tín dụng
Đầu ra
1. Cho vay khách hàng
1. Cho vay khách hàng
2. Tài sản sinh lời khác
2. Tài sản sinh lời khác
Nguồn: Thiết kế bởi tác giả
70
2.6. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, luận án sử dụng hai phương pháp chính để
đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là phương pháp truyền thống và
phương pháp hiện đại, kết hợp với phân tích hồi quy để lượng hóa các mối quan hệ
giữa các biến số. Phương pháp truyền thống là phương pháp đánh giá hiệu quả kinh
doanh ngân hàng bằng các chỉ số tài chính trong khi phương pháp hiện đại là
phương pháp xây dựng đường biên hiệu quả để từ đó xác định hiệu quả của mỗi
ngân hàng trong mẫu.
2.6.1. Phương pháp truyền thống
Trong phương pháp truyền thống để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam, luận án sử dụng các chỉ tiêu liên quan đến khả năng
sinh lời, chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí và chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của
ngân hàng. Các chỉ tiêu được phân tích bao gồm:
- Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi
phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài
sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Một tỷ lệ NIM cao là
dấu hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản
và nợ. Ngược lại, NIM thấp sẽ cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc
tạo lợi nhuận.
- Thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA)
Thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA) đo lường khả năng của ban quản lý sử
dụng các nguồn lực nói chung và nguồn lực tài chính của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận.
- Thu nhập ròng trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng,
71
thể hiện thu nhập mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Nếu một
ngân hàng có ROE tương đối thấp so với những ngân hàng khác sẽ làm giảm đi khả
năng thu hút vốn mới cần thiết cho sự mở rộng và duy trì vị thế cạnh tranh của ngân
hàng đó trên thị trường.
- Tỷ lệ nợ xấu/Tổng tài sản: là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của tín dụng, chỉ
số này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
2.6.2. Phương pháp hiện đại
Phương pháp hiện đại là phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân
hàng gắn với việc xác định đường biên hiệu quả, sử dụng cách tiếp cận định lượng
để chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra trong hoạt động của ngân
hàng. Trong đó, đường biên hiệu quả được hiểu là giới hạn có thể đạt được, nghĩa là
giá trị tối ưu trong một hoạt động kinh tế nào đó của một tổ chức. Một tổ chức nào
đó hoạt động càng gần với đường biên thì càng hiệu quả. Tổ chức nào hoạt động
trên đường biên thì tổ chức đó được coi là hiệu quả nhất so với các tổ chức khác
trong một ngành hay tổ chức đó có hiệu quả bằng 1.
Trong phương pháp tham số, đường biên hiệu quả được xây dựng nhờ một
hàm số mô tả mối quan hệ giữa các biến đầu vào và đầu ra trong quá trình kinh
doanh của ngân hàng. Trong phương pháp này, có ba cách tiếp cận được sử dụng:
kỹ thuật phân tích đường biên ngẫu nhiên (SFA), phương pháp tiếp cận tự do DFA,
và phương pháp phân tích biên dày (TFA).
Từ ba kỹ thuật phân tích SFA, DFA và TFA, cách tiếp cận SFA được lựa
chọn vì sự phổ biến và những ưu điểm của kỹ thuật này trong đánh giá hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng. Kỹ thuật phân tích đường biên ngẫu nhiên SFA còn
được gọi là phân tích biên về mặt kinh tế là phương pháp tách rời sai số ngẫu nhiên
và sai số phi hiệu quả kèm theo các giả thiết về phân phối của chúng. Sai số phi
hiệu quả tuân theo phân phối bất cân xứng (bán chuẩn) bởi vì các sai số phi hiệu
quả được coi là không nhận giá trị âm trong khi sai số ngẫu nhiên tuân theo phân
phối cân xứng, và thường là phân phối chuẩn. Cả hai loại sai số này đều không
tương quan với đầu vào hay đầu ra của ngân hàng.
72
Như vậy, có thể thấy kỹ thuật phân tích SFA tính đến nhiễu thống kê có thể
tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và không phụ thuộc nhiều vào số
lượng ngân hàng trong mẫu cũng như tổng số đầu vào, đầu ra sử dụng. Tuy nhiên,
kết quả từ phân tích SFA lại phụ thuộc nhiều độ chính xác của dạng hàm và giả
thiết phân phối chuẩn của nhiễu.
Khi xây dựng đường biên hiệu quả sử dụng phân tích SFA, luận án sử dụng
hai hàm số mô tả quá trình kinh doanh của ngân hàng: hàm Cobb-Douglas tuyến
tính và hàm Loga siêu việt. Mỗi hàm số này đều được thiết kế gắn với các mô hình
sử dụng các biến số khác nhau, và được mô tả trong phần tiếp sau đây.
Khi xây dựng một đường biên hiệu quả dựa trên một hàm số mô tả mối quan
hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, thì rủi ro tín dụng có
thể được bổ sung vào hàm số theo hai cách. Ở cách thứ nhất, rủi ro tín dụng có thể
trở thành một biến đầu vào độc lập với các biến khác trong mô hình, ở cách thứ hai,
rủi ro tín dụng có thể trở thành một biến kiểm soát, ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả
của ngân hàng, nói cách khác, rủi ro tín dụng có thể là một yếu tố làm cho ngân
hàng hoạt động ngoài đường biên hiệu quả.
2.6.2.1. Các mô hình sử dụng hàm Cobb-Douglas tuyến tính
(2.1)
Trong đó, Qi biểu thị các biến đầu ra còn Xi là các biến đầu vào trong quá
trình kinh doanh ngân hàng. Ui là yếu tố phi hiệu quả của ngân hàng còn vi là các
nhiễu thống kê. Trong phương pháp xác định đường biên hiệu quả sử dụng hàm
Cobb-Douglas tuyến tính, các mô hình được xác định như sau:
- Mô hình 1: mô hình không chứa biến rủi ro tín dụng. Mô hình là mô hình
gốc, có dạng:
Trong đó, là đầu ra của hoạt động ngân hàng, bao gồm các khoản cho vay
khách hàng (Q1) và các tài sản sinh lời khác (Q2). Trong đó Q1 là số tiền cho các
khách hàng cá nhân và tổ chức vay còn Q2 gồm số tiền cho các tổ chức tín dụng khác
vay, chứng khoán đầu tư và chứng khoán kinh doanh. Các đầu vào được lựa chọn bao
gồm Tài sản cố định (X1), Tiền gửi của khách hàng (X2), và Lao động (X3).
73
- Mô hình 2 là mô hình có rủi ro tín dụng như một biến đầu vào. Hàm số
trong mô hình được mô tả bằng công thức.
So với mô hình 1, mô hình 2 bổ sung biến rủi ro tín dụng như một biến đầu
vào độc lập với các biến Tài sản cố định (X1), Tiền gửi của khách hàng (X2), và Lao
động (X3) để tạo ra các biến đầu ra Q1 và Q2 của ngân hàng. Các biến còn lại của
mô hình cũng được xác định tương tự các biến trong mô hình 1. Biến rủi ro tín dụng
được đo lường bằng dự phòng rủi ro cho vay của ngân hàng.
Các biến số đầu vào và đầu ra trong các mô hình được tính toán từ báo cáo
tài chính năm của ngân hàng đã qua kiểm toán và mô tả cụ thể như sau:
- Tài sản cố định (X1): sử dụng giá trị tài sản cố định ròng, bằng nguyên giá
tài sản cố định trừ hao mòn lũy kế.
- Tiền gửi của khách hàng (X2): tổng tiền gửi của khách hàng và các tổ chức
tín dụng khác.
- Lao động (X3): tổng chi phí lương (bằng tổng tiền lương nhân viên chia cho
tổng số nhân viên)
- Rủi ro tín dụng (X4): đo lường bằng dự phòng rủi ro cho vay.
- Cho vay khách hàng (Q1): tổng số tiền cho cá nhân và tổ chức vay.
- Tài sản sinh lời khác (Q2) : tổng tiền cho vay các tổ chức tín dụng khác,
chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và các khoản đầu tư dài hạn.
- Mô hình 3 là mô hình có rủi ro tín dụng như một biến ảnh hưởng đến sự
phi hiệu quả của ngân hàng.
Mô hình 3 cũng bổ sung biến rủi ro tín dụng vào hàm số mô tả mối quan hệ
giữa đầu vào và đầu ra của ngân hàng. Tuy nhiên, khác với mô hình 2, trong mô
hình 3 này, biến rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình như một biến số ảnh hưởng
đến sự phi hiệu quả ui của ngân hàng, nói cách khác đây là một yếu tố giải thích cho
sự tách rời đường biên hiệu quả trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
74
2.6.2.2. Các mô hình sử dụng hàm Loga siêu việt
Ngoài hàm Cobb-Douglas, luận án còn sử dụng hàm Loga siêu việt để xây
dựng đường biên hiệu quả trong đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Tương tự như đối với hàm Cobb-Douglas, có 3 mô hình khác nhau cũng được thiết
kế nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu.
Mô hình 4: mô hình không bao gồm rủi ro tín dụng. Đây cũng là mô hình
gốc sử dụng hàm Loga siêu việt để có thể so sánh với các mô hình khác. Mô hình
này có dạng:
Mô hình 4 được xây dựng dựa trên các biến đầu vào và đầu ra như mô hình 1
sử dụng hàm Cobb-Douglas. Đó là các biến cho vay khách hàng (Q1) và các tài sản sinh lời khác (Q2). Các đầu vào được lựa chọn bao gồm Tài sản cố định (X1), Tiền gửi của khách hàng (X2), và Lao động (X3).
Mô hình 5: mô hình gồm biến rủi ro tín dụng như một biến đầu vào. Hàm
Loga siêu việt trong mô hình này như sau:
Như vậy, mô hình bổ sung biến rủi ro tín dụng X4, được coi như một biến đầu vào bên cạnh các biến Tài sản cố định (X1), Tiền gửi của khách hàng (X2), và Lao động (X3).
Mô hình 6: mô hình gồm biến rủi ro tín dụng như một biến ảnh hưởng đến
sự phi hiệu quả của ngân hàng. Hàm Loga siêu việt trong mô hình này như sau:
75
Mô hình 6 cũng bổ sung biến rủi ro tín dụng, đo lường bằng dự phòng rủi ro
cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, khác với mô hình 5, rủi ro tín dụng được coi như
một yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả của ngân hàng.
2.6.2.3. Lựa chọn dạng hàm trong phương pháp tham số
a. Các giả thuyết thống kê
Do luận án sử dụng nhiều hơn một phương pháp để đánh giá hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng, để lựa chọn được phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng một cách phù hợp, bảo đảm độ tin cậy cho kết quả nghiên cứu,
các kiểm định thống kê được tiến hành.
- Kiểm định liên quan đến lựa chọn hàm Cobb-Douglas tuyến tính hay Loga
siêu việt để xây dựng đường biên hiệu quả
Trong phương pháp tham số, các mô hình 1 và 4; 2 và 5; 3 và 6 sử dụng cùng
hệ thống biến đầu vào và đầu ra giống nhau nhưng khác nhau về dạng hàm mô tả
mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong quá trình kinh doanh ngân hàng. Vì thế,
để lựa chọn mô hình có tính tin cậy hơn, luận án tiến hành kiểm định giả thuyết
thống kê như sau:
H0: Hàm Loga siêu việt là dạng hàm không phù hợp cho dữ liệu nghiên cứu. Từ giả thuyết thống kê này, các giả thuyết cụ thể khác được xây dựng như sau:
H01: Mô hình 4 (hàm loga siêu việt) không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu Giả thuyết này tương ứng với lựa chọn mô hình 1 hay mô hình 4 để đánh giá
= = = =0
hiệu quả kinh doanh củangân hàng khi không có rủi ro tín dụng.
H01:
H02: Mô hình 5 (hàm loga siêu việt) không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu Giả thuyết này tương ứng với lựa chọn mô hình 2 hay mô hình 5 để đánh giá
hiệu quả kinh doanh củangân hàng khi rủi ro tín dụng như một biến đầu vào.
= = = =0 H02:
H03: Mô hình 6 (hàm loga siêu việt) không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu Giả thuyết này tương ứng với lựa chọn mô hình 3 hay mô hình 6 để đánh giá
hiệu quả kinh doanh củangân hàng khi rủi ro tín dụng được coi là một yếu tố phi
= =0
hiệu quả.
H03:
76
- Kiểm định sự phù hợp của đường biên hiệu quả
Kiểm định này được tiến hành nhằm kiểm định sự tồn tại của yếu tố phi hiệu
quả ( và sai số thống kê ( . Nếu các yếu tố phi hiệu quả và sai số không tồn tại
thì một hàm hồi quy tuyến tính (OLS) sẽ phù hợp hơn để đánh giá hiệu quả kinh
doanh củangân hàng. Giả thuyết thống kê sẽ có dạng:
=0; =0 H0:
- Kiểm định giả thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa các phương pháp
đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
H0: không có mối tương quan giữa hiệu quả kinh doanh của ngân hàng đánh
giá từ phương pháp truyền thống và hiện đại
b. Kết quả lựa chọn dạng mô hình tham số để đánh giá hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
Trong phương pháp tham số để tính toán hiệu quả kinh doanh củangân hàng,
luận án sử dụng hai hàm số để xây dựng đường biên hiệu quả là hàm Cobb-Douglas
tuyến tính và hàm Loga siêu việt. Hai hàm số này đưa ra các kết quả đánh giá hiệu
quả kinh doanh tương đối khác nhau đối với các ngân hàng. Như vậy, trước hết,
luận án sẽ tiến hành một số kiểm định cần thiết để lựa chọn dạng hàm hợp lý sử
dụng cho phương pháp tham số trong đánh giá hiệu quả kinh doanh củangân hàng.
Kiểm định dạng hàm phù hợp để xây dựng đường biên hiệu quả gắn với việc
kiểm định giả thuyết thống kê H0: Hàm loga siêu việt là dạng hàm không phù hợp
cho dữ liệu nghiên cứu. Đối với mỗi dạng hàm (Cobb-Douglas tuyến tính và hàm
loga siêu việt), luận án xây dựng 3 mô hình (mô hình từ 1 đến 3 đối với hàm Cobb-
Douglas tuyến tính, mô hình 4 đến 6 đối với hàm loga siêu việt) tương ứng với các
giả thiết khác nhau. Các cặp mô hình 1 và 4; 2 và 5; 3 và 6 cùng sử dụng dữ liệu
như nhau. Chính vì vậy, kiểm định dạng hàm phù hợp được cụ thể hóa thành 3
trường hợp kiểm định cụ thể sau:
- Kiểm định nhằm lựa chọn dạng hàm phù hợp để đánh giá hiệu quả kinh
doanh củangân hàng trong mô hình 1 và mô hình 4. Hai mô hình này sử dụng 2 biến
đầu ra (cho vay và đầu tư) và 3 biến đầu vào (tài sản cố định, tiền gửi khách hàng và
lao động). Giả thuyết thống kê H0: Hàm loga siêu việt trong mô hình 4 không phù
hợp với dữ liệu nghiên cứu.
77
- Kiểm định để lựa chọn dạng hàm phù hợp để đánh giá hiệu quả kinh doanh
củangân hàng trong mô hình bổ sung biến rủi ro tín dụng như một biến đầu vào độc
lập (mô hình 2 và mô hình 5). Giả thuyết thống kê H0: Hàm loga siêu việt trong mô
hình 5 không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu.
- Kiểm định để lựa chọn dạng hàm phù hợp để đánh giá hiệu quả kinh doanh
củangân hàng trong mô hình bổ sung biến rủi ro tín dụng như một biến ảnh hưởng
đến sự phi hiệu quả (mô hình 3 và mô hình 6). Giả thuyết thống kê H0: Hàm loga
siêu việt trong mô hình 6 không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu.
Bảng 2.3 cho biết kết quả các kiểm định thống kê trên bằng cách so sánh giá
trị kiểm định với giá trị tới hạn ứng với độ tin cậy 95% trong kiểm định bình
phương. Nếu giá trị kiểm định lớn hơn giá trị tới hạn thì giả thuyết H0 bị bác bỏ, nếu
giá trị kiểm định nhỏ hơn giá trị tới hạn thì giả thuyết H0 không bị bác bỏ.
Bảng 2.3. Lựa chọn dạng hàm để xây dựng đường biên hiệu quả
Df
Kết luận
Hệ số log likelihood
Giá trị tới hạn (5%)
Giá trị kiểm định
= = = =0
132,19 144,96
5,991
5
Không bác bỏ H0
1. Lựa chọn mô hình 1 hay mô hình 4 H0: Mô hình 1 -25,54 Mô hình 4 2. Lựa chọn mô hình 2 hay mô hình 5
= = =
=0
H0: 188,80 237,05
16,92
9
Không bác bỏ H0
Mô hình 2 Mô hình 5 -184,17 3. Lựa chọn mô hình 3 hay mô hình 6 = =0 H0: Mô hình 3 Mô hình 6
123,3374 1,40E+02
-34,06
7,851
3
Không bác bỏ H0
Nguồn: Kết quả kiểm định từ các ước lượng
Kết quả trên bảng 2.3 cho thấy, các giá trị kiểm định đều nhỏ hơn giá trị tới
hạn nên giả thuyết H0 không bị bác bỏ trong 3 kiểm định. Như vậy, hàm Loga siêu
việt không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu hay hàm Cobb-Douglas tuyến tính mới
là dạng hàm phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh
ngân hàng sử dụng hàm Loga siêu việt được trình bày trong phụ lục từ 01 đến 03,
tương ứng với 3 mô hình 4,5,6.
78
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ
KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
3.1. Lịch sử ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam có thể được đánh dấu từ sự ra
đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vào ngày 06/05/1951. Tuy nhiên,
trước 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống một cấp, không có sự tách
biệt giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh. NHNN vừa đóng vai trò
Ngân hàng Trung ương vừa là Ngân hàng thương mại. Đến năm 1990, do nhu cầu
chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có
sựđiều tiết của nhà nước trong chủ trương phát triển nền kinh tếđa thành phần, ngày
23/05/1990, Hội đồng Nhà Nước ban hành pháp lệnh về NHNN và pháp lệnh về các
tổ chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ hệ thống một cấp sang hệ thống hai cấp. Từ đó, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã được tổ chức tương tự như hệ thống ngân hàng các
nước có nền kinh tế thị trường: chức năng của NHNN được thu hẹp lại, chỉ còn
giám sát chính sách tiền tệ, phát hành tiền, quản lý hệ thống tín dụng, giám sát các
ngân hàng thương mại, quản lý dự trữ ngoại hối với mục tiêu hàng đầu là bình ổn
tiền tệ và kiểm soát lạm phát, trong khi chức năng trung gian tài chính (huy động và
phân bổ vốn) được chuyển sang cho các ngân hàng thương mại.
Cải cách hệ thống ngân hàng năm 1990 đã xoá bỏ được tính chất độc quyền
nhà nước, góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng về mặt hình thức sở hữu cũng
như về số lượng ngân hàng. Cụ thể, số lượng ngân hàng TMCP (NHTMCP) đã tăng
lên nhanh chóng. Từ năm 1991-1993, số lượng NHTMCP nhảy vọt từ 4 ngân hàng
lên đến 41 ngân hàng và đạt đỉnh điểm là 51 ngân hàng vào năm 1997. Sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, một số NHTMCP do kinh doanh không hiệu
quả, bị phá sản hoặc rút giấy phép hoạt động nên con số này đã giảm. Giai đoạn
2000 - 2007, là giai đoạn đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu lại toàn diện hệ thống ngân
79
hàng nhằm củng cố và phát triển theo hướng tăng cường năng lực quản lý về tài
chính, đồng thời giải thể, sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các NHTMCP yếu kém về
hiệu quả kinh doanh. Do đó, thời kỳ này số lượng các ngân hàng TMCP đã giảm
xuống đôi chút so với những năm cuối của thập kỷ 1990. Ngoài ra, số lượng các chi
nhánh và đại diện của các ngân hàng nước ngoài có xu hướng gia tăng theo các cam
kết đã ký, trước hết là hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hiệp định khung về thương
mại dịch vụ (AFAS) của ASEAN. Kết quả là, tỷ trọng về số lượng NHTMCP giảm
xuống so với toàn hệ thống ngân hàng thương mại, từ đỉnh cao 73% ở năm 1993
xuống còn 40% vào năm 2007. Đến năm 2008 và 2009, do hai ngân hàng thương
mại nhà nước (NHTMNN) là ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Công thương
lần lượt chuyển đổi sang hình thức cổ phần nên tỷ lệ này đã tăng lên chiếm khoảng
42% năm 2008 và 43% năm 2009 so với toàn ngành.
Số lượng các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn tương đối ổn định, từ bốn
NHTMNN được thành lập ban đầu tăng lên 7 ngân hàng trong năm 2015. Trong số
các NHTMNN, có bốn ngân hàng lớn nhất hệ thống: NHTMCP Ngoại thương
(VCB), NHTMCP Công thương (CTG), NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV), NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank). Các ngân hàng còn
lại bao gồm Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (GP Bank), Ngân hàng
TNHH MTV Đại Dương và Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng. Số lượng các ngân
hàng được chia thành các nhóm ngân hàng nhà nước (NHNN), ngân hàng thương
mại cổ phần (NHTMCP), chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNN) và ngân
hàng liên doanh (NHLD) được thể hiện cụ thể tại bảng 3.1.
Bảng 3.1. Cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn 2009-2015
2009 2010
2011 2012 2013 2014 2015
NHTMNN
3
5
5
5
5
7
5
NHTMCP
40
37
34
33
33
28
35
CNNHNN
41
48
49
53
47
50
50
NHLD
5
5
4
4
4
3
4
Nguồn: Thống kê của NHNN
80
3.2. Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
theo phương pháp truyền thống
Sau gần 3 thập kỷ, các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam nói riêng và
hệ thống ngân hàng nói chung đã đạt được những tăng trưởng ấn tượng, góp phần
quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước. Hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng TMCP Việt Nam được đánh giá thông qua mức độ tăng trưởng tài sản và vốn,
tăng trưởng huy động và tín dụng và các chỉ tiêu liên quan đến khả năng sinh lời và
mức độ an toàn vốn. Do hạn chế trong việc tiếp cận dữ liệu của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, nên chỉ tiêu Mức độ tăng trưởng tài sản và vốn để đánh giá hiệu
quả kinh doanh của các NHTMCP Việt Nam theo phương pháp truyền thống chỉ xét
trong giai đoạn 2012-2015.
3.2.1. Mức độ tăng trưởng tài sản và vốn
Quy mô tài sản của hệ thống ngân hàng có sự tăng trưởng đáng kể đi kèm
với sự gia tăng về số lượng ngân hàng. Theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế, tổng
tài sản khu vực ngân hàng tăng hơn gấp hai lần từ năm 2007 đến năm 2010, tăng từ
1.097 nghìn tỷ VND (tương đương 52,4 tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ VND (tương
đương 128,7 tỷ USD).
Bảng 3.2 thống kê sự tăng trưởng tài sản của hệ thống ngân hàng từ năm
2012 đến năm 2015. Ngoại trừ quy mô tài sản tương đối ổn định trong hai năm
2013-2014, các nhóm ngân hàng đều có sự gia tăng tài sản đáng kể trong những
năm còn lại. Giai đoạn 2014-2015 thể hiện sự tăng trưởng tài sản mạnh mẽ của các
NHTMNN (do số lượng NHTMNN tăng) và của các NHTMCP. Trong khi đó, tài
sản của các chi nhánh NHNN và ngân hàng liên doanh tăng mạnh trong giai đoạn
2012-2013. Trong nhóm các NHTMNN, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(CTG) có tỷ lệ tăng trưởng tài sản cao nhất trong khi đó, ở nhóm NHTMCP, Ngân
hàng TMCP Á Châu (ACB) tăng trưởng tài sản thấp nhất còn Ngân hàng TMCP Sài
Gòn – Hà Nội (SHB) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPB) là hai
ngân hàng mức độ tăng trưởng tài sản cao nhất.
81
Bảng 3.2. Qui mô tăng trưởng tài sản
2012
2013
2014
2.069.193
2.504.871
2.525.580
3.303.995
ĐVT: tỷ đồng 2015
2.102.518
2.463.445
2.461.845
2.928.146
NHTMNN
521.848
704.908
736.290
755.581
NHTMCP
Nguồn: Thống kê của NHNN
CNNHNN & NHLD
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng tài sản, kết quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng Việt Nam nói chung và các ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng còn được
đánh giá bằng các chỉ số liên quan đến vốn như mức vốn điều lệ, vốn tự có, các chỉ
số liên quan đến sự an toàn của vốn như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và tỷ lệ vốn ngắn
hạn cho vay trung và dài hạn.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua ba lần thay đổi quy định về vốn
điều lệ qua việc ban hành Quyết định 67/QĐ-NH5 (ngày 27/03/1996), Nghị định
82/1998/NĐ-CP (ngày 03/10/1998), và Nghị định 141/2006/NĐ-CP (ngày
22/11/2006). Bắt đầu từ năm 1996, quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu để thành
lập một NHTMCP khá thấp và thay đổi phụ thuộc tùy thuộc vào nhiều yếu tố như
ngân hàng được thành lập ở khu vực thành thị hay nông thôn, mở thêm hay không
mở thêm chi nhánh. Do những yêu cầu về vốn thấp, khả năng sinh lời tương đối tốt
và tính ổn định của ngành ngân hàng thời bấy giờ, đã có một làn sóng mạnh mẽ
thành lập các NHTMCP cỡ nhỏ. Tuy nhiên, không phải tất cả các ngân hàng nhỏ
này đều hoạt động hiệu quả như mong đợi. Đối với một vài ngân hàng, sự thiếu
kiểm soát và kinh nghiệm, hoạt động cho vay nghèo nàn cùng sự cạnh tranh dữ dội
đã đưa họ đến tình trạng thiếu thanh khoản, mất khả năng thanh toán và âm vốn chủ
sở hữu. Nền tảng vốn mỏng không đủ khả năng hấp thụ thua lỗ do hoạt động yếu
kém đã khiến các ngân hàng này không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phá
sản hoặc bị mua lại bởi những ngân hàng mạnh hơn. Đối với những ngân hàng nhỏ
còn sống sót, họ ý thức rõ được sự cần thiết trong việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (CAR) và tích cực gia tăng vốn điều lệ.
82
Tính đến nay, tất cả các ngân hàng thương mại đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về
vốn điều lệ. Tổng số vốn đăng ký của 35 ngân hàng (NHTMNN và NHTMCP) là
331.070 tỷ VND (bảng 3.3). Bảng 3.3 cũng cho biết các ngân hàng thương mại cổ
phần có tổng số vốn điều lệ lớn nhất so với hai nhóm còn lại trong hệ thống ngân
hàng và tương đối ổn định trong giai đoạn 2012-2015.
Bảng 3.3. Qui mô tăng trưởng vốn điều lệ
ĐVT: tỷ đồng
2012
2013
2014
2015
NHTMNN
111.372
128.094
130.611
137.093
NHTMCP
172.854
193.536
194.814
193.977
CNNHNN & NHLD
75.384
81.529
81.584
93.948
Nguồn: Thống kê của NHNN
Xét về mức độ gia tăng vốn tự có, bảng 3.4 cho biết mức vốn tự có của các
nhóm ngân hàng trong giai đoạn 2012-2015. Nhìn chung, mức vốn tự có của các
ngân hàng trong hệ thống có xu hướng tăng, ngoại trừ giai đoạn 2013-2014. Các
NHTMCP hiện nay đang có mức vốn tự có cao nhất trong cả 3 nhóm ngân hàng với
số vốn tự có bằng 236.342 tỷ đồng trong năm 2015.
Bảng 3.4. Qui mô tăng trưởng vốn tự có
ĐVT: tỷ đồng
2012
2013
2014
2015
NHTMNN
133.749
166.58
166.094
203.328
NHTMCP
176.865
195.123
193.034
236.342
CNNHNN & NHLD
91.273
100.233
104.817
117.164
Nguồn: Thống kê của NHNN
Ngoài những thống kê về mức vốn điều lệ và vốn tự có, sự an toàn trong hoạt
động của ngân hàng còn được đánh giá bằng các thước đo như tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) là một thước đo độ an toàn vốn của ngân
hàng, được tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài
83
sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) thấp phản
ánh mức độ sử dụng vốn cao, và ngược lại. Tỷ lệ này còn cho biết khả năng của
ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro
khác như rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành. Hiện nay, có 10 ngân hàng được
NHNN chọn thí điểm áp dụng quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II, trong đó yêu
cầu tỷ lệ CAR phải trên 8%.
Thống kê về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) trong 4 năm gần đây của
NHNN cho thấy, các NHTMCP có tỷ lệ này đều lớn hơn 10% cả giai đoạn trong khi
các NHTMNN có tỷ lệ CAR bằng 9,42 trong năm 2015. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến
cho rằng, tỷ lệ an toàn vốn ở Việt Nam vẫn chưa phản ánh trung thực tình hình của
các ngân hàng do tình trạng giấu giếm nợ xấu và chưa tuân thủ chặt chẽ về trích lập
dự phòng. Một số ngân hàng kinh doanh kém hơn những năm trước nhưng tỷ lệ
CAR lại tăng do tài sản giảm. Vì thế chỉ dựa vào chỉ số này để đánh giá độ an toàn
của một ngân hàng thì chưa hoàn toàn chính xác.
Bảng 3.5. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
ĐVT: %
2012
2013
2014
2015
NHTMNN
10,54
10,91
10,84
9,42
NHTMCP
13,95
12,56
12,12
12,74
CNNHNN & NHLD
35,42
26,53
29,36
33,80
Nguồn: Thống kê của NHNN
Một chỉ tiêu quan trọng nữa liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của các
ngân hàng là tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, đây là một chỉ tiêu nhằm
đánh giá sự cân đối giữa nguồn vốn ngắn hạn và trung, dài hạn của ngân hàng. Nếu
như ngân hàng không kiểm soát được việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay các khoản
đầu tư dài hạn thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất cân đối và khả năng rủi ro
thanh khoản cao. Cuối năm 2014, NHNN đã ban hành Thông tư 36/2014/TT-
NHNN nhằm điều chỉnh tăng mạnh tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung,
dài hạn từ 30% lên 60%. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2017, tỷ lệ tối đa sử dụng
84
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn đối với các ngân hàng thương mại
giảm từ 60% xuống 50%. Bảng 3.6 cho biết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài
hạn trong tất cả các năm của ba nhóm ngân hàng đều nhỏ hơn mức khống chế do
NHNN đặt ra. Các NHTMCP và NHTMNN có sự tăng vọt doanh số cho vay trung
dài hạn từ vốn ngắn hạn trong năm 2015 so với năm 2014.
Bảng 3.6. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn
ĐVT: %
2012
2013
2014
2015
NHTMNN
10,28
10,91
9,4
33,36
NHTMCP
14,01
12,56
14,4
36,90
CNNHNN & NHLD
27,63
26,53
30,78
-
13,75
13,25
12,75
31,00
Toàn hệ thống
Nguồn: Thống kê của NHNN
3.2.2. Mức độ tăng trưởng tín dụng
Khu vực ngân hàng Việt Nam đã thể hiện sự tăng trưởng ấn tượng về tín
dụng nhưng có những diễn biến bất thường từ năm 2000. Trong giai đoạn từ năm
2000 đến 2012, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng là 28,28%. Tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất diễn ra vào giai đoạn từ năm 2002 đến 2007, khi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng
bằng 35,8%. Sự tăng trưởng này đạt đỉnh vào năm 2007 ở mức 51,49% đối với huy
động và 53,89% với tín dụng (Hình 3.1) chủ yếu do luồng vốn vào lớn sau khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong một khoảng thời gian
kéo dài, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp bốn lần tốc độ tăng trưởng
GDP. Nói một cách khác, tín dụng đã tăng trưởng quá nóng.
Vào cuối năm 2008, tín dụng và hoạt động kinh tế đã chậm lại do tác động
của khủng hoảng toàn cầu, buộc các cơ quan chức năng phải ứng phó. Việc nới lỏng
chính sách tài khóa và tiền tệ đã gây ra một đợt bùng nổ tín dụng khác vào năm
2009 và 2010, dẫn đến một đợt thắt chặt chính sách và tín dụng giảm mạnh trong
năm 2011. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011 – 2014 đã giảm đáng kể.
Thị trường đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng thấp nhất kể từ
85
thập niên 90’. Qui mô tín dụng được cung cấp bởi ngành ngân hàng so với GDP
tăng hàng năm, kể từ năm 2001 tới nay, và đạt đỉnh cao nhất vào năm 2010, trước
khi quay trở lại mức thấp hơn vào các năm 2011 - 2014, đây là thời kỳ mà nợ xấu là
bước cản trở tín dụng của hệ thống ngân hàng ra bên ngoài nền kinh tế (Hình 3.1).
Hình 3.1. Tốc độ tăng trưởng tín dụng
Nguồn: Thống kê của NHNN
3.2.3. Khả năng sinh lời và tỷ lệ nợ xấu
3.2.3.1. Tỷ lệ tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi/doanh thu thuần, tỷ lệ nợ xấu
Kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam được đánh giá thông qua tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi/doanh thu thuần, ROA,
ROE, hệ số NIM, tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản. Các chỉ số này liên quan đến khả
năng sinh lời và sự an toàn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng trong thời
gian qua.
Bảng 3.7 cho biết tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi trên doanh thu thuần của một số
ngân hàng trong giai đoạn 2009-2015. Tỷ lệ này cho biết sự phụ thuộc của nguồn
thu của ngân hàng vào hoạt động tín dụng. Bảng này cho biết thu nhập từ lãi chiếm
phần lớn thu nhập của ngân hàng, tỷ lệ này có thể lên tới gần 99% đối với một số
ngân hàng trong thời kỳ này (Ngân hàng TMCP Quân đội năm 2011). Một số ngân
hàng cũng có nhiều nỗ lực trong việc giảm tỷ lệ này xuống dưới 50% (STB, SHB
86
năm 2009) nhưng nhìn chung tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi trên doanh thu thuần bình
quân của các ngân hàng đều cao xấp xỉ 80%.
Tỷ trọng thu nhập từ lãi cao trong tổng số doanh thu thuần của ngân hàng
cho thấy nguồn thu từ hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng là rất khiêm tốn.
Thực tế này xuất phát từ nguyên nhân mảng dịch vụ phi tín dụng tại các ngân hàng
thương mại tại Việt Nam còn đơn điệu về hình thức, chất lượng chưa cao, quy mô
dịch vụ nhỏ, sức cạnh tranh còn hạn chế; trình độ công nghệ và nguồn nhân lực chất
lượng cao để phát triển các dịch vụ phi tín dụng ứng dụng công nghệ cao còn chưa
được phát huy tối đa để đem lại hiệu quả tương xứng với năng lực và lợi thế của các
ngân hàng.
Bảng 3.7. Tỷ lệ thu nhập thuần từ lãi/doanh thu thuần
ĐVT: %
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
CTG
82,7
82
80,7
87,7
82,5
82,5
80,8
BID
78,0
69,9
76,9
79,4
79,7
72,6
76,9
VCB
78,9
71,3
72,2
86,3
71,6
68,2
64,1
MBB
75,3
69
98,9
93,1
83,5
78,5
75,5
STB
46,4
56,2
82,5
75,7
86,0
84,1
75,7
ACB
64,4
57,7
77,3
85,8
116,0
75,9
75,9
SHB
33,7
74,8
82,4
84,1
63,3
86,0
81,8
EIB
69,8
76,7
77,7
84,3
88,0
84,1
84,8
Nguồn: Thống kê của NHNN
Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể tách rời
việc xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng, thể hiện bằng tỷ lệ nợ xấu/tổng tài
sản. Bảng 3.8 cho thấy một số ngân hàng TMCP trong giai đoạn 2009-2015 một số
ngân hàng TMCP thuộc sở hữu nhà nước như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BID) và ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) có tỷ lệ
tỷ lệ nợ xấu/tổng tài sản khá cao, hầu như cao hơn tỷ lệ của cả ngành ngân hàng.
Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu/tổng tài sản thấp so với bình quân của cả ngành
87
như Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (CTG), Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín (STB), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB). Trong khi đó, một số ngân
hàng như Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) lại có tỷ lệ nợ xấu/tổng tài
sản biến động lớn trong cả giai đoạn, nếu như năm 2009 tỷ lệ nợ xấu chỉ bằng
0,82% thì tời năm 2013 con số này đã lên tới 4,3%.
Bảng 3.8. Tỷ lệ nợ xấu/Tổng tài sản
ĐVT: %
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
CTG
1,77
0,41
0,42
0,48
0,97
0,65
0,74
BID
1,73
1,91
2,23
2
1,89
1,61
1,39
VCB
2,34
1,37
1,67
1,16
1,4
1,59
1,29
MBB
0,65
0,68
0,56
0,68
0,78
1,19
1,37
STB
0,3
0,37
0,29
0,33
1,3
1,00
0,8
ACB
0,29
0,07
0,14
0,33
1,46
1,95
1,41
SHB
0,82
1,3
0,67
0,92
4,3
2,16
1,25
EIB
2,07
1,08
0,68
0,66
0,68
0,97
1,33
Ngành
1,26
1,02
0,95
0,9
1,83
1,55
1,25
Nguồn: Thống kê của NHNN
Như vậy, ngoài các những tăng trưởng ấn tượng, sự biến động của các chỉ
tiêu phân tích ở trên cho thấy kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào chu kỳ kinh tế và chính sách tiền tệ.
3.2.3.2. NIM, ROA và ROE
Kết quả hoạt động của các ngân hàng còn được đánh giá bằng hệ số NIM (hệ
số thu nhập lãi cận biên), được tổng hợp trên bảng 3.9. Hệ số thu nhập lãi cận biên
được xác định bằng tổng doanh thu từ lãi trừ tổng chi phí trả lãi (thu nhập lãi thuần)
trên tổng tài sản sinh lời bình quân. Thông qua tỷ lệ này, ngân hàng có thể kiểm soát
tài sản sinh lời và đánh giá nguồn vốn nào có chi phí thấp nhất.
Bảng 3.9 cho biết chỉ số NIM của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam trong giai đoạn 2009-2015. Một số ngân hàng có tỷ lệ NIM thấp, dưới 3% bao
gồm các ngân hàng: Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF), Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
88
(EIB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), Ngân hàng TMCP Phát Triển TPHCM
(HDB), Ngân hàng TMCP Việt Á (VAB), Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NVB),
Ngân hàng TMCP Nam Á (NAB), Ngân hàng TMCP Hàng Hải (MSB), Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID), Ngân hàng TMCP Bắc Á (NASB),
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SEAB). Các ngân hàng có tỷ lệ NIM quá cao, lớn
hơn 5% gồm ngân hàng: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (SGB) ( 2013 -
2015) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VTTB) (2013 - 2015; 2009 -
2015). Tỷ lệ NIM tăng cho thấy dấu hiệu của quản trị tốt tài sản Nợ - Có trong khi
NIM có xu hướng thấp và bị thu hẹp thì cho thấy lợi nhuận ngân hàng đang bị co
hẹp lại.
Hệ số NIM toàn ngành, từ bảng 3.9 cho thấy rằng bất kỳ khi nào nền kinh tế
tăng trưởng mạnh, kèm với lạm phát cao đều dẫn tới hệ số NIM cao, giai đoạn năm
2009, 2011, 2012 và 2013, hệ số NIM cao hơn các năm liền trước và kề sau rất
nhiều, và đây cũng là các năm mà NHNN thực hiện việc thắt chặt chính sách tiền tệ.
Hệ số NIM biến động như trên cho thấy các ngân hàng không chủ động trong việc
nâng hệ số NIM mà phụ thuộc vào biến động của nền kinh tế. Trong điều kiện nền
kinh tế tăng trưởng nóng, và NHNN thực hiện Chính sách tiền tệ thắt chặt hệ số
NIM tăng nhanh trong năm 2009 và 2011, cho thấy sự tác động mạnh của Chính
sách vĩ mô tới ngành Ngân hàng.
Bảng 3.9. Hệ số NIM của một số ngân hàng
ĐVT: %
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Ngân hàng STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB
2009-2010 1,94 2,13 0,67 1,73 2,76 3,48 2,88 2,84 2,08 4,85 1,21 2011-2012 2013-2015 2009-2015 3,86 3,28 -0,9 1,61 2,34 3,16 2,28 3,06 1,49 2,98 1,62 2,57 2,62 0,42 1,37 2,51 3,19 2,21 3,13 1,74 4,09 1,42 3,34 2,19 0,16 2,53 3,03 3,82 2,54 2,53 1,01 3,58 2,21
89
STT 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Ngân hàng OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB
Trung bình
Nguồn: Thống kê của NHNN
2009-2010 3,16 3,55 2,3 3,6 3,78 2,07 1,74 1,78 3,44 3,15 2,93 2,11 2,18 2,44 1,47 2,53 1,98 2,62 2,52 3,41 2011-2012 2013-2015 2009-2015 3,54 5,39 2,97 1,86 4,62 1,2 2,51 2,31 2,15 3,07 3,51 1,48 3,72 2,66 14,1 3,82 1,97 1,22 2,65 3,32 2,66 3,52 2,11 3,54 3,86 1,52 1,79 1,77 2,48 3,37 3,23 1,68 2,6 2,56 7,11 2,39 1,86 1,89 2,07 3,26 3,36 4,45 3,84 0,2 4,44 2,21 2,87 1,91 2,41 2,14 3,49 1,51 3,04 2,81 2,96 4,7 2,01 1,44 3,14 3,87
Bảng 3.10 cho biết chỉ số ROE của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam trong giai đoạn 2009-2015. Một số ngân hàng có mức ROE cao hơn chỉ số
trung bình ngành như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB), Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(CTG), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (TCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Công thương (SGB), Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB), Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BID). Các ngân hàng có mức ROE nhỏ hơn nhiều so với
mức trung bình ngành bao gồm Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF),
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB),
Ngân hàng TMCP Việt Á (VAB), Ngân hàng TMCP Nam Á (NAB).
90
Bảng 3.10. ROE của các ngân hàng thương mại Việt Nam
ĐVT: %
STT Ngân hàng
2009-2010
2011-2012
2013-2015
2009-2015
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB Trung bình
0,141 0,251 0,041 0,109 0,209 0,175 0,070 0,221 0,118 0,135 0,072 0,065 0,109 0,041 0,064 0,059 0,086 0,088 0,025 0,027 0,100 0,159 0,193 0,115 0,154 0,030 0,112 0,054 0,082 0,147 0,108
0,138 0,237 0,069 0,124 0,177 0,204 0,160 0,236 0,030 0,157 0,117 0,089 0,159 0,086 -0,039 0,087 0,074 0,065 0,068 0,054 0,115 0,207 0,133 0,099 0,143 0,063 0,136 0,043 0,066 0,142 0,115
0,109 0,068 0,009 0,053 0,105 0,131 0,061 0,059 0,005 0,086 0,047 0,059 0,062 0,042 0,088 0,081 0,025 0,003 0,051 0,048 0,123 0,160 0,025 0,043 0,133 0,124 0,042 0,045 0,017 0,052 0,065
0,126 0,169 0,035 0,089 0,155 0,165 0,092 0,156 0,044 0,120 0,074 0,069 0,103 0,054 0,045 0,077 0,056 0,045 0,048 0,044 0,114 0,173 0,104 0,080 0,142 0,080 0,089 0,047 0,050 0,105 0,092 Nguồn: Tính toán từ báo cáo tài chính của các ngân hàng
ROA là hệ số sinh lời trên tài sản, cho biết một đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ số này được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng với nguyên tắc ROA càng cao thì ngân hàng hoạt động càng hiệu quả. Bảng 3.11
91
cho biết thu thập trên tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn
2009-2015. Nhằm mục đích đánh giá độ chính xác sự biến động của hiệu quả kinh
doanh ngân hàng trong khoảng thời gian nghiên cứu, hệ số này được tính toán theo 3
giai đoạn: từ 2009 đến 2010, từ 2011 đến 2012 và từ 2013 đến 2015.
Bảng 3.11. ROA của các ngân hàng thương mại Việt Nam ĐVT: %
STT Ngân hàng
2009-2010
2011-2012
2013-2015
2009-2015
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB
0,013 0,011 0,006 0,010 0,013 0,011 0,015 0,016 0,004 0,018 0,009 0,014 0,034 0,010 -0,003 0,019 0,011 0,008 0,011 0,011 0,009 0,015 0,009 0,008 0,009 0,012 0,019 0,005 0,006 0,013 0,012
0,015 0,017 0,004 0,013 0,013 0,010 0,016 0,019 0,009 0,045 0,008 0,011 0,016 0,008 0,016 0,012 0,010 0,006 0,003 0,009 0,011 0,016 0,011 0,007 0,009 0,005 0,014 0,009 0,015 0,015 0,012
0,011 0,005 0,001 0,004 0,009 0,010 0,006 0,005 0,000 0,008 0,004 0,007 0,014 0,004 0,010 0,014 0,003 0,000 0,007 0,007 0,007 0,013 0,002 0,005 0,007 0,014 0,006 0,003 0,001 0,004 0,006
0,013 0,010 0,003 0,008 0,011 0,011 0,011 0,012 0,004 0,022 0,007 0,010 0,020 0,007 0,008 0,015 0,008 0,004 0,007 0,009 0,009 0,014 0,006 0,006 0,008 0,011 0,012 0,005 0,007 0,010 0,010
Ngành
Nguồn: Tính toán từ báo cáo tài chính của các ngân hàng
92
Bảng 3.11 cho thấy, nhóm các ngân hàng dẫn đầu về hiệu quả kinh doanh xét
theo hệ số ROA bao gồm Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) với 1 đồng tài sản của ngân hàng
có thể tạo ra hơn 0,02 đồng lợi nhuận. Ngân hàng đứng cuối cùng trong bảng hiệu
quả kinh doanh là Ngân hàng TMCP Nam Á (NAB) khi 1 đồng tài sản của ngân
hàng chỉ có thể tạo ra 0,008 đồng lợi nhuận. Hiệu quả của các ngân hàng này đặc
biệt tăng nhanh qua từng giai đoạn.
Xét về mức độ biến động của chỉ tiêu ROA trong cả giai đoạn, nhìn chung
hầu hết các ngân hàng có hiệu quả kinh doanh tăng qua các giai đoạn khác nhau.
Một số ngân hàng có sự cải thiện hiệu quả rõ rệt như Ngân hàng TMCP Đông Nam
Á (SEAB), Ngân hàng TMCP An Bình (ABB), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt
Nam (VIB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Bưu
Điện Liên Việt (LVB) và Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB). Tuy nhiên, cũng có
một số ngân hàng có hiệu quả kinh doanh biến động giảm theo thời gian. Một số
ngân hàng có mức độ hiệu quả kinh doanh biến động theo các chiều hướng khác
nhau trong suốt giai đoạn nghiên cứu như Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam
(PVF), Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Sài Gòn Công thương (SGB)
và Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (EIB).
93
Bảng 3.12. So sánh xếp hạng các NHTM Việt Nam theo ROA và ROE
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Năm
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ACB
LVB VCB
LVB
SGB
SGB ACB
PGB
CTG
SGB MBB VTTB MBB VTTB
1
TCB ACB
TCB
TCB
TCB
LVB
TCB KLB MBB KLB VPB KLB BID MBB
2
VCB
TPB
ACB
SGB VCB MBB MBB VTTB EIB MBB STB
STB
VPB
STB
3
4 MSB TCB MSB EIB
ACB KLB CTG
SGB
BID
LVB VTTB MBB VTTB SGB
5
SCB MBB CTG
PGB MBB OCB
EIB
TCB VTTB EIB
BID
TPB
TPB
TPB
6 MBB EAB
PGB GDB CTG VCB
PGB
LVB
LVB
PGB
CTG
SGB
STB
CTG
EAB
EIB
BID
OCB MSB EIB
EAB
EIB
VCB CTG
TPB
CTG VCB VCB
7
BID
SEAB MBB STB
LVB
TCB
LVB GDB KLB VTTB VCB VCB CTG VPB
8
CTG
SGB
STB MBB BID
PGB VCB MBB VPB NAB KLB VPB ACB KLB
9
10
LVB
STB
VIB
VCB
EIB
ABB
STB
EAB
EAB VCB
SHB OCB
SHB
BID
11
STB
SHB
LVB
SEAB STB
STB
VPB
STB
SGB GDB LVB BID
TCB VIB
12
SGB KLB
EAB
EAB
EAB
EAB BID
CTG ABB ABB ACB
LVB NASB GDB
94
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Năm
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
13
SHB
SCB
SHB VAB VIB
SEAB SHB NAB
PGB OCB OCB
SHB
LVB
TCB
14
VPB VCB VAB ACB
SHB ACB HDB OCB
STB
EAB NASB ACB VIB
OCB
15
SEAB VPB NVB KLB HDB VAB KLB VCB GDB VIB
EAB NAB NAB ACB
16
VIB
PGB VPB MSB
SEAB BID
VTTB ACB VIB
TPB
SGB GDB OCB
PGB
17
PGB MSB
SGB
TPB
ABB MSB
SGB VAB ACB BID
TCB
EAB HDB NAB
18
EIB
CTG HDB ABB
PGB
SHB MSB
SHB HDB VAB EIB
TCB KLB NASB
19
NVB BID
OCB
SHB OCB NAB GDB VPB OCB
STB
NAB EIB
SGB HDB
20
TPB
NASB PVF
VPB VPB
CTG OCB HDB TCB VPB MSB NASB GDB
SHB
21
NASB VAB EIB
CTG VAB VIB
VIB
BID
NAB HDB GDB MSB
PGB
LVB
22
VAB OCB
SEAB HDB NVB VPB NAB ABB VAB ACB
SEAB HDB ABB ABB
23
OCB HDB KLB NASB PVF
NVB VAB NVB TPB
TCB HDB ABB
PVF
PVF
24
HDB NVB TPB
BID
NAB HDB
PVF MSB MSB MSB ABB VAB
SEAB MSB
25
KLB VIB
SCB
PVF
KLB
TPB
ABB VIB
NASB NASB VAB
SEAB MSB VAB
95
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Năm
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
ROE
ROA
26
VTTB VTTB ABB VIB
SCB
PVF
NVB NASB SEAB SEAB PGB
PGB VAB
SEAB
27
ABB ABB NASB NVB TPB
GDB NASB PVF
PVF
PVF
VIB
VIB
SCB
SCB
28
NAB NAB GDB
SCB NASB NASB SEAB SCB
SCB
SCB NVB NVB EAB
EIB
29
GDB GDB NAB VTTB GDB
SCB
SCB
SEAB SHB
SHB
SCB
PVF
EIB
EAB
30
PVF
PVF
VTTB NAB VTTB VTTB TPB
TPB
NVB NVB
PVF
SCB NVB NVB
Nguồn: tính toán của tác giả
96
Hai chỉ tiêu quan trọng và phổ biến để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam là ROA và ROE. Để trả lời cho câu hỏi một ngân hàng
có hiệu quả kinh doanh cao xét ở chỉ tiêu ROA thì có đạt hiệu quả kinh doanh cao
xét ở chỉ tiêu ROE, luận án lập bảng so sánh trực quan xếp hạng ROA và ROE của
30 ngân hàng trong giai đoạn 2009-2015. Kết quả so sánh cho thấy:
Các ngân hàng ở cuối bảng xếp hạng về ROA thì cũng đứng cuối bảng đối
với ROE. Các ngân hàng đó bao gồm: ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín
(VTTB), Ngân hàng TMCP An Bình (ABB), ngân hàng TMCP Nam Á (NAB),
ngân hàng TMCP Bản Việt (GDB) năm 2009; ngân hàng TMCP Đại chúng Việt
Nam (PVF) năm 2009, 2013, ngân hàng TMCP Bắc Á (NASB) năm 2011, 2012; và
ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) 2011, 2013, 2015.
Ngoại trừ ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (SGB) đứng đầu cả về
ROA và ROE năm 2011 thì các ngân hàng hầu như không giống nhau về thứ hạng
ROA và ROE. Một số ngân hàng có sự khác nhau đáng kể xếp hạng ROA và ROE.
Chẳng hạn, ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LVB) đứng đầu về ROA nhưng
đứng thứ 10 về ROE, ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB) đứng thứ 3 về ROA
nhưng đứng thứ 20 về ROE, ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (CTG) đứng
thứ 9 về ROE nhưng lại đứng thứ 18 về ROA trong năm 2009. Trong năm 2010,
ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) đứng đầu về ROE nhưng lại
đứng thứ 10 về ROA, ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LVB) đứng thứ nhất
về ROA nhưng lại đứng thứ 11 về ROE. Trong năm 2012, ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam (CTG) xếp thứ 4 về ROE nhưng lại xếp thứ 12 về ROA. Gần đây,
năm 2015, ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) đứng thứ 10 về ROE nhưng
lại đứng thứ 20 về ROA.
Như vậy, kết quả so sánh cho thấy, sử dụng các chỉ tiêu truyền thống (ROA
và ROE) khó đưa ra được một đánh giá đồng nhất về hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng. Lý do của kết quả này là các chỉ số tài chính trong phương pháp này được
tính toán một cách đơn lẻ, phản ánh những khía cạnh khác nhau trong hoạt động của
ngân hàng.
97
3.3. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt
Nam theo phương pháp tham số SFA
3.3.1. Khái quát về phương pháp tham số SFA sử dụng để đánh giá hiệu quả
kinh doanh ngân hàng
Trong phương pháp truyền thống, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được
đánh giá bằng các chỉ số tài chính thu thập trên báo cáo tài chính năm của ngân
hàng và theo đó, các chỉ số này tính toán được càng cao thì hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng cũng càng cao. Tuy nhiên, trong cách tiếp cận hiện đại, phương pháp
định lượng được sử dụng để xây dựng một đường biên hiệu quả mà một ngân hàng
được đánh giá là hiệu quả khi ngân hàng đó hoạt động trên đường biên này.
Phần này của luận án trình bày kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng sử dụng phương pháp tham số (SFA) để xây dựng đường biên ngẫu
nhiên (đường biên hiệu quả). Đường biên này được xác định bằng một hàm số
nhằm mô tả mối quan hệ giữa các đầu vào mà ngân hàng sử dụng với các đầu ra
là kết quả của quá trình kinh doanh ngân hàng. Hai hàm số thông dụng trong
cách tiếp cận này là hàm Cobb-Douglas tuyến tính và hàm Loga siêu việt. Kết
quả phân tích trong chương 2 cho thấy, hàm Cobb-Douglas tuyến tính là hàm
số thích hợp đối với dữ liệu nghiên cứu của luận án. Chính vì vậy, hàm Cobb-
Douglas tuyến tính sẽ là hàm số được lựa chọn để xây dựng đường biên hiệu
quả cho các ngân hàng trong luận án này. Hiệu quả kinh doanh của từng ngân
hàng sẽ được đánh giá dựa vào sự so sánh giữa kết quả hoạt động của từng
ngân hàng đối với đường biên hiệu quả.
Hàm Cobb-Douglas tuyến tính có dạng:
(3.1)
là đầu ra của hoạt động ngân hàng, bao gồm các khoản cho Trong đó,
vay khách hàng (Q1) và các tài sản sinh lời khác (Q2). Q1 là số tiền cho các khách
hàng cá nhân và tổ chức vay còn Q2 gồm số tiền cho các tổ chức tín dụng khác
vay, chứng khoán đầu tư và chứng khoán kinh doanh. Các đầu vào được lựa
98
chọn bao gồm Tài sản cố định (X1), Tiền gửi của khách hàng (X2), và Chi phí lao
động (X3).
Mô hình có các biến như công thức 3.1 được coi là mô hình gốc (mô hình 1)
chỉ bao gồm các biến đầu vào và đầu ra cơ bản trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Từ mô hình gốc này, các biến có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
củangân hàng đặc biệt là biến mô tả rủi ro tín dụng có thể được bổ sung để tạo ra
các mô hình mới.
- Mô hình có rủi ro tín dụng như 1 biến đầu vào độc lập (mô hình 2).
- Mô hình có rủi ro tín dụng như một biến ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả của
ngân hàng (mô hình 3).
Bên cạnh những biến đầu vào và đầu ra của ngân hàng, các đặc điểm về quy
mô, cơ cấu sở hữu, tuổi của ngân hàng cũng được thu thập, và thể hiện trên các phụ
lục 04, 05, 06.
3.3.2. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
theo phương pháp tham số SFA
Bằng sự hỗ trợ của phần mềm FRONTIER 4.1, hiệu quả kinh doanh của mỗi
ngân hàng thương mại được tính toán trong 7 năm được thể hiện trong bảng 3.13.
Trong bảng này, các biến đầu ra và đầu vào trong hàm Cobb-Douglas tuyến tính
như được xác định trong mô hình gốc (mô hình 1). Hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng được sắp xếp theo chiều giảm dần để dễ dàng phân loại được các nhóm
ngân hàng có mức độ hiệu quả khác nhau.
Các ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao nhất trong 30 ngân hàng là
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID), Ngân hàng TMCP
Đại chúng Việt Nam (PVF), và Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(CTG) với mức độ hiệu quả lớn hơn 90%. Các ngân hàng này đều có quy mô
lớn với tổng tài sản lớn hơn 45.000 tỷ đồng và có thời gian hoạt động dài trên
10 năm tính đến thời điểm hiện tại. Trong ba ngân hàng này, Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng TMCP Công thương Việt
99
Nam là các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước còn Ngân hàng TMCP
Đại chúng Việt Nam chỉ có sở hữu của Nhà nước trong cơ cấu vốn. Xét về cấu trúc vốn
của ngân hàng, đo bằng tỷ lệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu thì các ngân hàng này
đều có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) lớn hơn 10.
Các ngân hàng có mức độ hiệu quả kinh doanh thấp nhất (nhỏ hơn 70%) bao
gồm 7 ngân hàng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (GDB), Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương Tín (VTTB), Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Nam Á (NAB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á
(SEAB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải (MSB), Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Bưu Điện Liên Việt (LVB) và Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Tiên Phong (TPB). Nhóm các ngân hàng này có cả quy mô lớn và quy mô
nhỏ và trung bình, tuy nhiên các ngân hàng này đều không phải là các ngân
hàng thương mại cổ phần nhà nước. Một số ngân hàng đã hoạt động hơn 20
năm như (NAB, SEAB, MSB), một số ngân hàng có tuổi đời chưa lâu với thời
gian hoạt động dưới 10 năm (VTTB, LVB, TPB). Điều đáng chú ý là các ngân
hàng này có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) tương đối nhỏ, các tỷ lệ tính
toán được hầu hết nhỏ hơn 10.
Xét về sự thay đổi qua các năm, có thể nhận thấy hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng có sự tăng dần đều qua các năm. Tuy nhiên, sự gia tăng này không quá
lớn, hầu như đều nhỏ hơn 10%.
100
Bảng 3.13. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 1
STT
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Bình quân
Ngân hàng
0,965
0,964
0,964
0,965 0,965 0,966 0,966 0,967
BID
1
0,962
0,961
0,961
0,962 0,962 0,963 0,963 0,964
PVF
2
0,944
0,942
0,943
0,944 0,944 0,945 0,946 0,947
CTG
3
0,883
0,878
0,880
0,881 0,883 0,885 0,886 0,888
VCB
4
0,827
0,820
0,822
0,825 0,827 0,830 0,832 0,834
NASB
5
0,824
0,816
0,819
0,821 0,824 0,826 0,829 0,831
STB
6
0,814
0,807
0,809
0,812 0,814 0,817 0,820 0,822
ACB
7
0,803
0,794
0,797
0,800 0,803 0,805 0,808 0,811
EAB
8
0,790
0,781
0,784
0,787 0,790 0,793 0,796 0,799
VIB
9
0,783
0,774
0,777
0,780 0,783 0,786 0,789 0,792
EIB
10
0,774
0,765
0,768
0,771 0,774 0,777 0,780 0,783
OCB
11
0,774
0,764
0,768
0,771 0,774 0,777 0,780 0,783
SCB
12
0,769
0,760
0,763
0,766 0,769 0,772 0,775 0,779
VPB
13
0,752
0,742
0,746
0,749 0,752 0,756 0,759 0,762
VAB
14
0,749
0,739
0,743
0,746 0,749 0,753 0,756 0,759
TCB
15
0,747
0,737
0,740
0,744 0,747 0,751 0,754 0,757
MBB
16
0,745
0,734
0,738
0,741 0,745 0,748 0,751 0,755
SGB
17
0,740
0,730
0,734
0,737 0,741 0,744 0,747 0,751
PGB
18
0,736
0,726
0,729
0,733 0,736 0,740 0,743 0,747
KLB
19
0,734
0,724
0,727
0,731 0,734 0,738 0,741 0,745
NVB
20
0,725
0,714
0,718
0,722 0,725 0,729 0,733 0,736
HDB
21
0,709
0,698
0,702
0,705 0,709 0,713 0,717 0,720
SHB
22
0,707
0,696
0,700
0,704 0,707 0,711 0,715 0,719
ABB
23
0,686
0,673
0,677
0,682 0,686 0,690 0,694 0,697
GDB
24
0,682
VTTB
0,670
0,674
0,678 0,682 0,686 0,690 0,694
25
0,655
NAB
0,642
0,647
0,651 0,655 0,660 0,664 0,668
26
0,651
SEAB
0,638
0,643
0,647 0,651 0,656 0,660 0,664
27
0,651
MSB
0,638
0,642
0,647 0,651 0,655 0,660 0,664
28
0,648
LVB
0,635
0,640
0,644 0,649 0,653 0,657 0,661
29
0,597
TPB
0,583
0,588
0,593 0,597 0,602 0,607 0,612
30
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
101
3.4. Phân tích mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
3.4.1. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi có tác động của rủi
ro tín dụng
Tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
TMCP Việt Nam được đánh giá bằng cách tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng
trong phương pháp tham số với sự có mặt của biến rủi ro tín dụng để xây dựng
đường biên hiệu quả. Từ đó, xem xét hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng có
thay đổi trong hai trường hợp có rủi ro tín dụng và không có rủi ro tín dụng hay
không. Từ mô hình gốc (mô hình 1), mô hình 2 và mô hình 3 được xây dựng. Mô
hình 2 là mô hình có chứa rủi ro tín dụng như một biến đầu vào, có vai trò song
song với các biến đầu vào khác (Tài sản cố định, Tiền gửi và Lao động) trong việc
xây dựng đường biên hiệu quả. Mô hình 3 là mô hình có rủi ro tín dụng như một
biến kiểm soát, biến có ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả kinh doanh củangân hàng
(ui). Trong mô hình 3 này, rủi ro tín dụng được coi là biến số có thể làm cho một ngân hàng hoạt động ngoài đường biên hiệu quả.
Sử dụng hàm Cobb-Douglas tuyến tính, từ hàm số 3.1, hàm số mới có biến
rủi ro tín dụng như một biến đầu vào (3.2) và hàm số có biến rủi ro tín dụng như
một biến kiểm soát, hay biến phi hiệu quả (3.3) được mô tả như sau:
(3.2)
(3.3)
Trong hai hàm số trên, biến X4 là biến rủi ro tín dụng, đo lường bằng dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Các biến đầu vào và đầu ra khác được xác
định như trong mô hình gốc (mô hình 1). Kết quả tính toán hiệu quả của tất cả ngân
hàng trong mẫu nghiên cứu theo mô hình 2 và mô hình 3 được thể hiện trên bảng
3.14 và bảng 3.15.
Theo kết quả tính toán trên bảng 3.14, hai ngân hàng có hiệu quả kinh doanh
gần 98% cũng là hai ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao nhất trong mô hình 1,
đó là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID), Ngân hàng TMCP
102
Đại chúng Việt Nam (PVF). Các ngân hàng có mức độ hiệu quả thấp bao gồm 5
ngân hàng: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á (NAB), Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Đông Nam Á (SEAB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải
(MSB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu Điện Liên Việt (LVB) và Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPB).
Bảng 3.14. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 2
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015 Bình quân
STT
0,975 0,973 0,884 0,874 0,862 0,829 0,808 0,803 0,800 0,800 0,778 0,772 0,770 0,761 0,760 0,760 0,753 0,749 0,748 0,747 0,730 0,729 0,729 0,718 0,700 0,692 0,686 0,665 0,639 0,613
Ngân hàng BID PVF CTG VCB NASB STB ACB EAB VIB EIB OCB SCB VPB VAB TCB MBB SGB PGB KLB NVB HDB SHB ABB GDB VTTB NAB SEAB MSB LVB TPB
0,973 0,971 0,874 0,863 0,851 0,816 0,794 0,787 0,785 0,785 0,761 0,754 0,752 0,744 0,742 0,742 0,734 0,730 0,729 0,728 0,710 0,710 0,709 0,697 0,679 0,670 0,664 0,642 0,614 0,588
0,974 0,971 0,878 0,867 0,854 0,821 0,799 0,793 0,790 0,790 0,767 0,760 0,758 0,750 0,748 0,748 0,740 0,737 0,736 0,735 0,717 0,716 0,716 0,704 0,686 0,677 0,672 0,650 0,622 0,596
0,975 0,972 0,881 0,870 0,858 0,825 0,804 0,798 0,795 0,795 0,773 0,766 0,764 0,756 0,754 0,754 0,747 0,743 0,742 0,741 0,724 0,723 0,723 0,711 0,693 0,685 0,679 0,657 0,631 0,605
0,976 0,974 0,887 0,877 0,865 0,834 0,813 0,808 0,805 0,805 0,784 0,778 0,776 0,768 0,766 0,766 0,759 0,755 0,754 0,753 0,737 0,736 0,736 0,725 0,708 0,699 0,694 0,673 0,647 0,622
0,977 0,974 0,890 0,880 0,869 0,838 0,818 0,813 0,810 0,810 0,789 0,783 0,781 0,773 0,772 0,772 0,765 0,761 0,760 0,759 0,743 0,743 0,742 0,731 0,714 0,706 0,701 0,680 0,655 0,630
0,977 0,975 0,893 0,884 0,872 0,842 0,823 0,817 0,815 0,815 0,795 0,788 0,787 0,779 0,777 0,777 0,770 0,767 0,766 0,765 0,749 0,749 0,748 0,738 0,721 0,713 0,708 0,688 0,663 0,638
0,975 0,973 0,884 0,874 0,862 0,830 0,809 0,803 0,800 0,800 0,779 0,772 0,770 0,762 0,760 0,760 0,753 0,749 0,748 0,747 0,730 0,730 0,729 0,718 0,701 0,692 0,687 0,665 0,639 0,614
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
103
Bảng 3.15 cho biết hiệu quả kinh doanh của ngân hàng khi biến rủi ro tín
dụng được đưa vào mô hình như một biến số có thể ảnh hưởng đến sự phi hiệu
quả của ngân hàng. Theo bảng này, ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao nhất
là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) với hiệu quả trung
bình hơn 90%. Hai ngân hàng có hiệu quả kinh doanh trên 80% là Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) và Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam (CTG).
Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF) có mức hiệu quả kinh
doanh trên 90% trong mô hình 1 nhưng chỉ có mức hiệu quả kinh doanh trên
75% trong mô hình 3. Ngoài ra, ngân hàng PVF, Ngân hàng TMCP Á Châu
(ACB) cũng có sự sụt giảm mạnh về hiệu quả kinh doanh so với kết quả trong
mô hình 2.
Các ngân hàng có mức hiệu quả kinh doanh thấp nhất được tính toán dưới
50% là các ngân hàng Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (SGB), Ngân
hàng TMCP Kiên Long (KLB), Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LVB),
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VTTB), Ngân hàng TMCP Bản
Việt (GDB), Ngân hàng TMCP Nam Á (NAB) và Ngân hàng TMCP Tiên
Phong (TPB).
Hiệu quả kinh doanh ngân hàng tính toán theo mô hình 3 biến động khá đa
dạng, theo các chiều hướng khác nhau. Đa số các ngân hàng có hiệu quả kinh doanh
tăng trong giai đoạn từ 2010 đến 2012. Tuy nhiên, một số ngân hàng có hiệu quả
kinh doanh giảm mạnh, điển hình là ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF)
có hiệu quảkinh doanh bằng 1 trong năm 2009 nhưng giảm nhanh chóng xuống tới
mức gần 60% năm 2015. Một số ngân hàng mặc dù có mức hiệu quả kinh doanh
trung bình chưa cao nhưng hiệu quả có xu hướng cải thiện trong giai đoạn nghiên
cứu là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPB) và Ngân hàng TMCP
Bản Việt (GDB).
104
Bảng 3.15. Kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng theo mô hình 3
STT
2009
2010
2011 2012
2013 2014
2015 Bình quân
Ngân hàng
0,908
BID
0,840
0,892 0,884 0,937 0,936 0,948 0,919
1
0,883
CTG
0,805
0,840 0,913 0,912 0,892 0,906 0,911
2
0,822
VCB
0,727
0,769 0,811 0,852 0,856 0,854 0,882
3
0,762
PVF
1,000
0,724 0,939 0,795 0,668 0,617 0,591
4
0,703
ACB
0,590
0,706 0,743 0,737 0,732 0,707 0,709
5
0,686
STB
0,584
0,702 0,738 0,722 0,684 0,679 0,697
6
0,656
EIB
0,573
0,659 0,696 0,695 0,657 0,657 0,657
7
0,635
TCB
0,571
0,630 0,640 0,640 0,630 0,660 0,675
8
0,632
MBB
0,509
0,607 0,645 0,625 0,660 0,677 0,699
9
0,627
VIB
0,563
0,593 0,685 0,681 0,627 0,618 0,624
10
0,620
SCB
0,573
0,606 0,584 0,627 0,661 0,605 0,682
11
0,607
VPB
0,517
0,543 0,622 0,619 0,591 0,655 0,703
12
0,601
EAB
0,571
0,564 0,638 0,637 0,606 0,590 0,599
13
0,592
NASB
0,589
0,583 0,595 0,585 0,552 0,602 0,636
14
0,569
SHB
0,428
0,480 0,562 0,572 0,602 0,661 0,677
15
0,542
HDB
0,511
0,482 0,529 0,504 0,549 0,612 0,606
16
0,539
OCB
0,453
0,514 0,550 0,561 0,565 0,564 0,564
17
0,531
ABB
0,488
0,517 0,555 0,566 0,522 0,541 0,527
18
0,529
MSB
0,481
0,568 0,561 0,600 0,516 0,506 0,472
19
0,520
VAB
0,456
0,516 0,558 0,550 0,521 0,516 0,520
20
0,517
NVB
0,462
0,539 0,532 0,534 0,581 0,485 0,482
21
0,509
PGB
0,394
0,482 0,525 0,524 0,549 0,540 0,549
22
0,509
SEAB
0,480
0,470 0,583 0,466 0,470 0,504 0,588
23
0,494
SGB
0,477
0,480 0,507 0,519 0,490 0,493 0,490
24
0,491
KLB
0,448
0,484 0,508 0,489 0,504 0,507 0,497
25
0,490
LVB
0,436
0,457 0,473 0,443 0,510 0,533 0,579
26
0,470
VTTB
0,454
0,437 0,472 0,487 0,477 0,480 0,483
27
0,456
GDB
0,357
0,437 0,469 0,459 0,481 0,476 0,511
28
0,453
NAB
0,405
0,444 0,428 0,435 0,458 0,499 0,505
29
0,428
TPB
0,232
0,398 0,418 0,351 0,505 0,537 0,557
30
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
105
3.4.2. Đánh giá sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi có tác động
của rủi ro tín dụng
Sau khi tính toán được hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam khi có
sự xuất hiện của rủi ro tín dụng, luận án tiếp tục đánh giá sự thay đổi của hiệu quả
kinh doanh ngân hàng so với hiệu quả kinh doanh thu được từ mô hình gốc.
Bảng 3.16 so sánh kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong mô
hình 1 và kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh khi có rủi ro tín dụng như một biến
đầu vào độc lập trong mô hình (mô hình 2). Bảng 3.17 so sánh kết quả tính toán
hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi không có rủi ro tín dụng (mô hình 1) và các yếu
tố kiểm soát ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả, kết quả tính toán hiệu quả kinh doanh
khi rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình (mô hình 3).
Sự chênh lệch về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP trong mẫu
nghiên cứu trong bảng 3.16 được tính toán bằng cách lấy hiệu quả kinh doanh trong
mô hình 2 trừ đi kết quả trong mô hình 1. Bảng 3.16 cho biết có 19/30 ngân hàng có
hiệu quả kinh doanh tăng khi rủi ro tín dụng được tính đến trong mô hình tham số
trong khi có 10 ngân hàng có hiệu quả kinh doanh giảm trong mô hình 2 so với mô
hình 1. Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) ngân hàng duy nhất có hiệu quả kinh
doanh gần như không đổi giữa hai mô hình.
Trung bình sự chênh lệch hiệu quả kinh doanh trong giai đoạn 2009-2010
giữa mô hình 1 và mô hình 2 là 0,3%, trong giai đoạn 2011-2012 là 0,8% và 1,4%
trong giai đoạn 2013-2015. Xét trong cả giai đoạn 2009-2015, mức chênh lệch hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng giữa hai mô hình trung bình là 0,9%. Như vậy,
có thể nhận xét rằng, sự chênh lệch hiệu quả kinh doanh giữa mô hình gốc và mô
hình có rủi ro tín dụng được bổ sung như một biến đầu vào trong xây dựng đường
biên hiệu quả kinh doanh là có xu hướng dương nhưng không đáng kể. Thêm nữa,
mức chênh lệch hiệu quả kinh doanh so sánh giữa các ngân hàng trong mỗi ngân
hàng cũng không nhiều. Đặc biệt, ngân hàng Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam (CTG) là ngân hàng có mức hiệu quả kinh doanh thay đổi nhiều nhất (thay đổi
giảm) khi so sánh kết quả tính toán được trong mô hình 2 so với mô hình 1.
106
Bảng 3.16. So sánh hiệu quả kinh doanh của ngân hàng giữa mô hình 1 và mô hình 2
STT Ngân hàng 2009-2010
2011-2012
2013-2015
2009-2015
-0,054
STB
-0,062
1
-0,055
-0,047
-0,014
ACB
-0,020
2
-0,015
-0,009
0,011
PVF
0,010
3
0,011
0,011
0,039
SHB
0,033
4
0,038
0,044
-0,021
VCB
-0,026
5
-0,022
-0,018
-0,071
CTG
-0,077
6
-0,072
-0,066
0,019
EIB
0,014
7
0,018
0,023
-0,020
TCB
-0,028
8
-0,021
-0,014
0,056
SCB
0,052
9
0,055
0,058
0,016
LVB
0,008
10
0,015
0,023
0,036
HDB
0,030
11
0,035
0,041
0,005
OCB
-0,002
12
0,003
0,009
0,015
SGB
0,009
13
0,014
0,020
-0,007
ABB
-0,015
14
-0,008
-0,001
0,016
TPB
0,007
15
0,014
0,023
0,016
KLB
0,010
16
0,015
0,021
0,048
VAB
0,044
17
0,047
0,051
0,025
NVB
0,019
18
0,024
0,030
0,037
NAB
0,029
19
0,035
0,042
0,032
GDB
0,025
20
0,031
0,038
-0,020
VPB
-0,028
21
-0,022
-0,014
0,000
MBB
-0,007
22
-0,002
0,005
-0,012
MSB
-0,022
23
-0,014
-0,005
-0,018
VIB
-0,025
24
-0,019
-0,013
0,010
BID
0,009
25
0,010
0,010
0,048
VTTB
0,041
26
0,047
0,053
-0,011
PGB
-0,019
27
-0,013
-0,005
0,057
NASB
0,055
28
0,056
0,058
0,035
SEAB
0,028
29
0,034
0,041
0,006
EAB
0,001
30
0,005
0,010
0,003
0,008
0,014
0,009
Trung bình
Nguồn: Tính toán của tác giả
107
Trong bảng 3.17, hiệu quả kinh doanh ngân hàng tính toán trong mô hình 1
và mô hình 3 được so sánh dựa trên trung bình hiệu quả kinh doanh của các giai
đoạn 2009 -2010, 2011-2012 và 2013-2015. Số liệu trên bảng được tính toán bằng
cách lấy hiệu quả kinh doanh từ mô hình 3 trừ hiệu quả kinh doanh thu được từ mô
hình 1. Có thể thấy rằng, khi bổ sung biến rủi ro tín dụng như một yếu tố ảnh hưởng
đến sự phi hiệu quả kinh doanh củangân hàng thì hiệu quả kinh doanh đều giảm đối
với tất cả các ngân hàng trong tất cả các giai đoạn. Trung bình trong giai đoạn 2009-
2010 hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng trong mẫu giảm 20,1%, trong giai
đoạn 2011-2012 và giai đoạn 2013-2015, hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
trong mẫu đều giảm 15,1%. Xét trong cả giai đoạn 2009-2015, hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng giảm hơn 14%.
Một số ngân hàng có hiệu quả kinh doanh giảm khá nhiều khi tính toán đến
rủi ro tín dụng trong xây dựng đường biên hiệu quả, sự chênh lệch lên tới hơn 30%
(PVF-Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam), hơn 20% (KLB - Ngân hàng TMCP
Kiên Long, NVB - Ngân hàng TMCP Quốc Dân). Các ngân hàng có sự chênh lệch
hiệu quả lớn giữa hai mô hình thường là các ngân hàng trong nhóm các ngân hàng
có hiệu quả kinh doanh thấp trong mẫu nghiên cứu. Ngược lại, hầu hết các ngân
hàng trong nhóm có mức hiệu quả kinh doanh cao lại không có nhiều thay đổi về
hiệu quả kinh doanh nếu tính đến tác động của rủi ro tín dụng. Chẳng hạn, Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) có hiệu quả giảm 0,1%, Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam (CTG) có hiệu quả giảm 3,3%, Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) có hiệu quả giảm 4,7%.
108
Bảng 3.17. So sánh hiệu quả kinh doanh ngân hàng giữa mô hình 1 và mô hình 3
STT Ngân hàng
2009-2010
2011-2012
2013-2015
2009-2015
STB
-0,174
1
-0,092
-0,137
-0,126
ACB
-0,160
2
-0,073
-0,098
-0,105
PVF
-0,099
3
-0,095
-0,337
-0,371
SHB
-0,246
4
-0,141
-0,062
-0,032
VCB
-0,131
5
-0,050
-0,019
-0,001
CTG
-0,119
6
-0,031
-0,041
-0,033
EIB
-0,160
7
-0,086
-0,126
-0,126
TCB
-0,141
8
-0,108
-0,094
-0,074
SCB
-0,177
9
-0,167
-0,124
-0,092
LVB
-0,191
10
-0,189
-0,108
-0,070
HDB
-0,220
11
-0,207
-0,137
-0,120
OCB
-0,283
12
-0,217
-0,209
-0,210
SGB
-0,257
13
-0,230
-0,254
-0,255
ABB
-0,195
14
-0,145
-0,177
-0,180
TPB
-0,271
15
-0,210
-0,064
-0,040
KLB
-0,261
16
-0,236
-0,233
-0,239
VAB
-0,258
17
-0,197
-0,233
-0,232
NVB
-0,225
18
-0,199
-0,218
-0,252
NAB
-0,220
19
-0,222
-0,168
-0,151
GDB
-0,279
20
-0,220
-0,196
-0,175
VPB
-0,232
21
-0,147
-0,120
-0,067
MBB
-0,181
22
-0,110
-0,069
-0,048
MSB
-0,116
23
-0,068
-0,153
-0,179
-0,205
24
-0,106
-0,167
-0,166
VIB
BID
-0,098
25
-0,055
-0,031
-0,047
VTTB
-0,227
26
-0,201
-0,202
-0,199
PGB
-0,294
27
-0,214
-0,195
-0,192
NASB
-0,235
28
-0,236
-0,230
-0,191
SEAB
-0,165
29
-0,125
-0,130
-0,063
EAB
-0,228
30
-0,163
-0,204
-0,204
-0,201
-0,151
-0,151
-0,141
Trung bình
Nguồn: Tính toán của tác giả
109
3.4.3. Lượng hóa sự ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến đến hiệu quả kinh doanh
của các ngân hàng TMCP Việt Nam
3.4.3.1. Lựa chọn mô hình phù hợp để đánh giá tác động của rủi ro tín dụng
Phân tích trong phần 3.4.2 cho biết sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh ngân
hàng khi bổ sung rủi ro tín dụng như một biến số trong mô hình tham số SFA. Biến
rủi ro tín dụng có thể đóng vai trò là biến đầu vào (mô hình 2) và biến kiểm soát
(mô hình 3). Kết quả so sánh cho biết hiệu quả kinh doanh củangân hàng có xu
hướng tăng với biên độ rất nhỏ khi so sánh mô hình gốc với mô hình 2 và hiệu quả
kinh doanh ngân hàng cơ bản có xu hướng giảm với biên độ khá lớn khi so sánh mô
hình gốc với mô hình 3. Như vậy, một vấn đề cần giải quyết là rủi ro tín dụng nên là
một biến số đầu vào hay một biến phi hiệu quả khi xây dựng đường biên hiệu quả hay
nói cách khác mô hình 2 hay mô hình 3 mới là mô hình phù hợp đối với dữ liệu trong
mẫu nghiên cứu của luận án. Để đánh giá mức độ phù hợp của việc bổ sung các biến và
phương pháp bổ sung biến trong các mô hình, luận án tiến hành các kiểm định cần thiết
giữa mô hình gốc và mô hình 2, mô hình 3, được gọi là các kiểm định dạng hàm Cobb-
Douglas tuyến tính. Kết quả kiểm định được thể hiện trên bảng 3.18.
Bảng 3.18. Kiểm định các dạng hàm Cobb-Douglas
Hệ số log likelihood Kết luận Hệ số kiểm định Giá trị tới hạn
=0 và = = và =0 1. Kiểm định sự phù hợp của mô hình 2 H0:
11,07 132,19 188,80 -113,22 Không bác bỏ
Mô hình 1 Mô hình 2 2. Kiểm định sự phù hợp của mô hình 3 H0: =0
132,19 123,34 37,04 3,841 Bác bỏ Mô hình 1 Mô hình 3
Nguồn: Kết quả kiểm định từ các ước lượng
Kết quả kiểm định trên bảng 3.18 cho thấy, giả thuyết bằng 0 của hệ số của
biến bổ sung trong mô hình 2 so với mô hình gốc không bị bác bỏ trong khi giả
thuyết bằng 0 của hệ số trong mô hình bị bác bỏ. Như vậy, có thể thấy mô hình 2
không phù hợp bằng mô hình 3. Mô hình 3 trong đó chỉ định biến rủi ro tín dụng
110
như một biến phi hiệu quả phù hợp với dữ liệu nghiên cứu trong luận án. Chính vì
vậy, có thể khẳng định, biến rủi ro tín dụng có ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân
hàng ( ≠ 0). Biến này nên được bổ sung vào mô hình không phải dưới dạng một
biến đầu vào độc lập mà như một yếu tố ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả của ngân
hàng, biến số có thể làm cho ngân hàng hoạt động ngoài đường biên hiệu quả.
3.4.3.2. Lượng hóa tác động của rủi ro tín dụng đối với hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam
Bảng 3.19 cho biết hệ số hồi quy của các biến đầu vào và các biến ảnh hưởng
đến sự thay đổi vị trí của ngân hàng so với đường biên hiệu quả. Các hệ số hồi quy
này được trình bày dựa vào sự có mặt của các biến trong hai mô hình 1 và mô hình 3.
Đây là hai mô hình tham số phù hợp với dữ liệu thu thập được trong nghiên cứu này.
Kết quả tính toán cho thấy, trong mô hình 1, biến đầu vào (FC – X1) mô tả vốn cố định tỷ lệ nghịch với đầu ra của ngân hàng là tổng cho vay và đầu tư khác.
Với hệ số = -0,148 nghĩa là khi vốn cố định tăng 1% thì cho vay và đầu tư khác
giảm 0,148%. Hai biến đầu vào khác là tổng tiền gửi (TD – X2) và lao động (TLC – X3) có hệ số tương quan là dương đối với lượng đầu ra mà các ngân hàng tạo ra. Chẳng hạn, nếu lượng tiền gửi tăng 1% thì cho vay và đầu tư tăng 0,119%. Vai trò
của ba biến đầu vào cơ bản này đối với lượng đầu ra của ngân hàng cũng thể hiện
tương tự trong mô hình tiếp theo (mô hình 3).
Mô hình 3 bổ sung biến rủi ro tín dụng (CR) như một yếu tố có thể ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh củangân hàng. Mô hình này cho thấy, rủi ro tín
dụng có thể làm giảm đầu ra của ngân hàng, cụ thể là, khi rủi ro tín dụng tăng 1%
thì đầu ra của ngân hàng giảm 0,586%.
Bảng 3.19. Ước lượng các hệ số hồi quy
Mô hình 3 Hệ số tương quan Mô hình 1
1,853
0,4989
Ln(FC)
-0,148
-0,245
Ln(TD)
0,119
0,099
Ln(TLC)
0,912
0,812
CR
-0,586 Nguồn: Kết quả tính toán trên FRONTIER 4.1.
Biến Hằng số
111
3.4.4. So sánh hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam giữa mô
hình 3 với phương pháp truyền thống
Phần 3.4.2 cho biết hiệu quả kinh doanh ngân hàng tính toán từ phương pháp
tham số (đường biên ngẫu nhiên) có sự thay đổi đáng kể khi rủi ro tín dụng được
đưa vào mô hình (mô hình 3). Phần này cho biết sự thay đổi của hiệu quả kinh
doanh ngân hàng tính toán được từ mô hình 3 so với hiệu quả kinh doanh ngân hàng
đánh giá từ phương pháp truyền thống, sử dụng chỉ tiêu ROA. Để có thể so sánh
được hai giá trị có đơn vị tính khác nhau này, tác giả sẽ so sánh thứ tự xếp hạng về
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thu được từ hai cách tiếp cận nói trên. Đồng
thời, để làm rõ sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi có sự tác động
của rủi ro tín dụng, phân tích tương quan cũng được thực hiện.
Kết quả so sánh trên bảng 3.20 cho thấy, xếp loại hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng khi xác định bằng đường biên hiệu quả gần như thay đổi toàn bộ so với
xếp hạng hiệu quả kinh doanh bằng cách tính toán chỉ tiêu ROA qua các năm
(phương pháp truyền thống). Trong tất cả 7 năm nghiên cứu, các ngân hàng BID,
CTG, VCB, PVF là các ngân hàng trong nhóm 3 ngân hàng có hiệu quả kinh doanh
cao nhất trong tổng số các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu khi tính toán từ phương
pháp tham số với rủi ro tín dụng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
ngân hàng (mô hình 3). Tuy nhiên, các ngân hàng này lại có kết quả xếp hạng về
ROA theo cách tiếp cận truyền thống hết sức thay đổi. Trong năm 2009, ngân hàng
TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF) đứng thứ nhất về hiệu quả kinh doanh theo mô
hình 3 lại xếp thứ 9 về độ lớn của chỉ số ROA so với các ngân hàng còn lại. Tương
tự trong năm 2011, ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVF) xếp thứ 29, nằm
trong nhóm các ngân hàng có chỉ số ROA thấp nhất trong 30 ngân hàng. Tương tự,
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) là ngân hàng dẫn đầu về
hiệu quả kinh doanh khi sử dụng phương pháp tham số có tính đến tác động của rủi
ro tín dụng trong 6 năm từ 2010 đến 2015 lại xếp thứ 15 về ROA trong năm 2009,
thứ 27 trong 2010 và xếp trong nhóm có hiệu quả trong nhóm ROA thấp nhất.
112
Bảng 3.20. So sánh hiệu quả kinh doanh ngân hàng từ mô hình 3 và ROA
TT
Năm 1
Năm 2
Năm 3
Năm 4
Năm 5
Năm 6
Năm7
MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA
PVF
TCB
BID
GDB
PVF
SHB
BID
NAB BID
TPB
BID
SEAB BID
CTG
1
BID
ACB
CTG VPB
CTG
PGB
CTG
SCB
CTG VAB
PVF
STB
CTG
SHB
2
CTG
EAB VCB MSB BID
VCB VCB GDB VCB
SEAB CTG ACB VCB
STB
3
VCB
SHB
PVF
ABB VCB
SEAB PVF
NVB ACB NASB VCB
PVF
ACB VIB
4
ACB
STB
ACB KLB ACB NASB ACB VPB
STB
EAB NASB SHB
VPB
NVB
5
NASB CTG
STB
SGB
STB
CTG
STB
VIB
PVF
LVB
STB
CTG MBB
PGB
6
STB MBB EIB
STB
EIB
VTTB EIB
SHB
SCB
HDB ACB
EAB
STB
VAB
7
EIB
SCB
TCB
TPB
VIB
EIB
VIB
KLB MBB MBB EAB VPB
SCB
BID
8
SCB
PVF MBB MBB MBB NAB
TCB
VAB
EIB
VPB
VIB
EIB
SHB
ACB
9
EAB
EIB
SCB
SCB
TCB
GDB
EAB
LVB
TCB
NVB
EIB
VCB
TCB
VCB
10
TCB MSB VIB
VAB
EAB
BID
SCB
ABB VIB
VIB
OCB GDB
EIB
EIB
11
VIB
HDB NASB LVB VPB
TCB MBB
PVF
EAB
SCB
SCB
ABB NASB VTTB
12
VPB
LVB MSB
PGB
NASB VPB
VPB
STB
SHB MSB VPB
SGB
VIB
NAB
13
HDB
SEAB EAB ACB
SCB
EAB MSB BID
VPB
VTTB VAB NAB HDB
PVF
14
15 MBB BID
VPB
PVF
SEAB OCB NASB VTTB NVB ACB
TCB
KLB
EAB HDB
113
TT
Năm 1
Năm 2
Năm 3
Năm 4
Năm 5
Năm 6
Năm7
MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA MH3
ROA
16
ABB VIB
NVB
EIB
SHB
ABB
SHB
TPB
OCB
PGB MBB MBB
PVF
NASB
17 MSB KLB ABB HDB MSB MBB ABB
CTG NASB STB
SGB
BID
SEAB LVB
SEAB VAB VAB
TCB
VAB
SGB
OCB HDB HDB
PVF
PGB
VIB
LVB
SGB
18
SGB
VCB OCB
CTG ABB MSB VAB
SGB
PGB
KLB KLB
TCB
OCB
SCB
19
NVB
PGB
KLB
SHB
OCB
SCB
NVB MBB ABB GDB NVB MSB
TPB
OCB
20
VAB ABB HDB OCB NVB NVB
PGB
VCB VAB BID
HDB
TPB
PGB
KLB
21
VTTB NVB
PGB
VCB HDB HDB
SGB MSB MSB
TCB
SHB
NVB ABB
SEAB
22
OCB
SGB
SGB
VTTB PGB
TPB
HDB
PGB
LVB
SGB
ABB
PGB
VAB
TPB
23
KLB NASB SHB
NASB KLB VIB
KLB
EAB
TPB
OCB GDB OCB GDB MBB
24
LVB OCB
SEAB SEAB SGB
VAB VTTB ACB KLB NAB VTTB VTTB NAB
TCB
25
SHB
VPB
LVB VIB
LVB
LVB
SEAB EIB
SGB
EIB
NAB NASB KLB GDB
26
NAB NAB NAB BID
VTTB KLB GDB NASB GDB ABB
SEAB LVB
SGB MSB
27
PGB
GDB GDB NVB GDB
STB
LVB
TCB
VTTB VCB MSB
SCB
VTTB ABB
28
GDB VTTB VTTB EAB NAB
PVF
NAB
SEAB SEAB CTG
LVB HDB NVB VPB
29
TPB
TPB
TPB
NAB
TPB
ACB
TPB
OCB NAB
SHB
TPB
VAB MSB
EAB
30
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả
114
Để so sánh kết quả thu được từ hai phương pháp định lượng hiện đại với
phương pháp truyền thống, luận án xác định mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh
tính toán từ mô hình 1 và 3 với hiệu quả kinh doanh theo phương pháp truyền thống
(ROA, ROE). Mối quan hệ này được xác định qua phân tích hồi quy tương quan với
hệ số tương quan Pearson. Hệ số này càng lớn thì mối tương quan giữa hai biến
càng chặt. Kết quả phân tích tương quan này được thể hiện trong bảng 3.21.
Bảng 3.21. Phân tích tương quan giữa phương pháp phân tích hiện đại và
phương pháp truyền thống
Mô hình 1
Mô hình 3
0,027
0,003
ROA
0,252**
0,386**
ROE
** Có ý nghĩa với mức ý nghĩa 1% Nguồn: kết quả phân tích trên SPSS 20.0
Kết quả phân tích trên bảng 3.21 cho thấy chỉ số ROA tính toán được hầu
như không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với hiệu quả kinh doanh ngân hàng từ
các mô hình trong phương pháp tham số. Tuy nhiên, chỉ tiêu ROE có quan hệ cùng
chiều và có ý nghĩa đối với hiệu quả kinh doanh từ cách tiếp cận tham số. Khi hiệu
quả kinh doanh tăng thì ROE cũng có xu hướng tăng.
3.4.5. Đánh giá tác động của hiệu quả kinh doanh đối với rủi ro tín dụng của các
ngân hàng TMCP Việt Nam
Để đánh giá tác động của hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
Việt Nam, phân tích nhân quả Granger được tiến hành trên Eviews 6.0. Kết quả
phân tích nhân quả được thể hiện trong bảng 3.22.
Bảng 3.22. Kết quả phân tích nhân quả Granger
Thống kê F Xác suất 0,00022 8,75832
2,42908 0,03068 Giả thuyết thống kê H0: Rủi ro tín dụng không phải là nguyên nhân của sự thay đổi hiệu quả kinh doanh của ngân hàng H0: Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng không phải là nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Nguồn: Kết quả phân tích trên Eviews 6.0
115
Kết quả trên bảng 3.22 cho thấy với độ tin cậy 95%, xác suất thống kê đều
nhỏ hơn 5%, nghĩa là giả thuyết H0 bị bác bỏ hay nói cách khác rủi ro tín dụng là
nguyên nhân của hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam và hiệu
quả kinh doanh ngân hàng cũng là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Bên cạnh phân tích nhân quả Granger, phân tích hồi quy được tiến hành trên
phần mềm EVIEWS 6.0 được thực hiện để đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro tín
dụng (CR) và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam.
Bảng 3.23. Kết quả phân tích hàm hồi quy
Biến
Hệ số tương quan Độ lệch tiêu chuẩn Thống kê z
Xác suất
EFF -1,246569 0,003443 -0,095906 0,0000
Hằng số -0,355965 0,002092 6,513909 0,0000
Nguồn: Kết quả phân tích trên Eviews 6.0
Trong hàm hồi quy trên bảng 3.23, rủi ro tín dụng (CR) là biến phụ thuộc
còn biến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam là biến độc lập.
Để thu được kết quả hồi quy thích hợp, biến rủi ro tín dụng được tính toán lại và
biểu hiện bằng tỷ lệ giữa chi phí dự phòng rủi ro cho vay trên tổng số tiền cho vay.
Kết quả phân tích cho thấy, với độ tin cậy bằng 95%, biến hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam cũng có ý nghĩa thống kê trong mô hình và có tác
động ngược chiều đối với rủi ro tín dụng. Khi hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng TMCP tăng 1% thì rủi ro tín dụng giảm 1,246569%. Kết quả kiểm định và độ
tin cậy của mô hình được thể hiện trong phụ lục 08.
116
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 trình bày kết quả phân tích hiệu quả kinh doanh ngân hàng sử
dụng các tiếp cận “trung gian” đối với hoạt động ngân hàng bằng nhiều phương
pháp khác nhau. Để đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh ngân hàng, hiệu quả kinh doanh của từng ngân hàng trong giai đoạn nghiên
cứu được so sánh trong cả hai trường hợp: có rủi ro tín dụng và không có rủi ro tín
dụng. Ngoài ra, mối quan hệ này cũng được lượng hóa bằng hệ số tương quan của
rủi ro tín dụng với hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong các mô hình tham số.
Khi sử dụng phương pháp tham số trong đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân
hàng, luận án sử dụng hai hàm số là hàm Cobb-Douglas tuyến tính và hàm Loga
siêu việt. Một số kiểm định cần thiết đã thực hiện cho thấy hàm Cobb-Douglas
tuyến tính là phù hợp với dữ liệu nghiên cứu trong luận án. Kết quả nghiên cứu cho
thấy rủi ro đã làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Bên cạnh đó, hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam cũng là nguyên nhân dẫn đến
sự thay đổi của rủi ro tín dụng trong ngân hàng.
117
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Phát hiện của đề tài
4.1.1. Phát hiện về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
theo cách tiếp cận truyền thống
Trong cách tiếp cận truyền thống, luận án đánh giá hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam thông qua các chỉ tiêu tài chính liên quan đến khả
năng sinh lời, doanh thu, chi phí và quản lý rủi ro của các ngân hàng. Về cơ bản,
trong khoảng thời gian nghiên cứu, các ngân hàng TMCP Việt Nam đã trải quả
nhiều biến động và đã từng đạt được những bước tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên,
kết quả ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào chu kỳ
kinh tế và chính sách tiền tệ.
Luận án đặc biệt chú ý đến hai hệ số thường được sử dụng để đo lường hiệu quả
kinh doanh ngân hàng là ROA và ROE. Từ đó, luận án lập bảng so sánh trực quan xếp
hạng ROA và ROE của 30 ngân hàng trong giai đoạn 2009-2015. Để trả lời cho câu
hỏi một ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao xét ở chỉ tiêu ROA thì có đạt hiệu quả
kinh doanh cao xét ở chỉ tiêu ROE không?, luận án tiến hành so sánh xếp hạng của
ROA so với xếp hạng ROE của các ngân hàng TMCP Việt Nam. Kết quả so sánh cho
thấy, hầu hết các ngân hàng hầu như không giống nhau về thứ hạng ROA và ROE. Một
ngân hàng có ROE cao thường có ROA thấp và ngược lại. Như vậy, kết quả so sánh
cho thấy, sử dụng các chỉ tiêu truyền thống (ROA và ROE) khó đưa ra được một đánh
giá đồng nhất về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Lý do của nhận định này là
vì các chỉ số tài chính trong phương pháp truyền thống được tính toán một cách đơn
lẻ, phản ánh những khía cạnh khác nhau trong hoạt động của ngân hàng.
4.1.2. Phát hiện về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam
theo cách tiếp cận hiện đại
Luận án tiến hành đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
Việt Nam theo cách tiếp cận hiện đại bằng cách xây dựng đường biên hiệu hiệu quả,
118
còn gọi là đường biên ngẫu nhiên SFA. Đường biên này được xác định bằng một
hàm số nhằm mô tả mối quan hệ giữa các đầu vào mà ngân hàng sử dụng với các
đầu ra là kết quả của quá trình kinh doanh ngân hàng. Hai hàm số thông dụng trong
cách tiếp cận này là hàm Cobb-Douglas tuyến tính và hàm Loga siêu việt. Kết quả
phân tích cho thấy, hàm Cobb-Douglas tuyến tính là hàm số thích hợp đối với dữ
liệu nghiên cứu của luận án.
Kết quả phân tích cho thấy các ngân hàng có hiệu quả kinh doanh cao nhất
trong 30 ngân hàng là các ngân hàng có mức độ hiệu quả lớn hơn 90%. Các ngân
hàng này đều có quy mô lớn với tổng tài sản lớn hơn 45.000 tỷ đồng và có thời gian
hoạt động dài trên 10 năm tính đến thời điểm hiện tại. Xét về cấu trúc vốn của ngân
hàng, đo bằng tỷ lệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu thì các ngân hàng này đều có
tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E) lớn hơn 10.
Các ngân hàng có mức độ hiệu quả kinh doanh thấp nhất là các ngân hàng có
hiệu quả nhỏ hơn 70%. Nhóm các ngân hàng này có cả quy mô lớn và quy mô nhỏ
và trung bình, tuy nhiên các ngân hàng này đều không phải là các ngân hàng thương
mại cổ phần nhà nước. Một số ngân hàng đã hoạt động hơn 20 năm như (NAB,
SEAB, MSB), một số ngân hàng có tuổi đời chưa lâu với thời gian hoạt động dưới
10 năm (VTTB, LVB, TPB). Ngoài ra, các ngân hàng này có tỷ lệ nợ trên vốn chủ
sở hữu (D/E) tương đối nhỏ (nhỏ hơn 10).
Khi so sánh hiệu quả ngân hàng đo lường bằng cách xây dựng đường biên
hiệu quả và các chỉ số tài chính theo phương pháp truyền thống, có thể thấy, mối
quan hệ giữa hai kết quả này tương đối lỏng lẻo, đặc biệt đối với chỉ số ROA. Chính
vì vậy, một số NHTMNN có mức hiệu quả cao xác định từ cách tiếp cận tham số lại
có mức ROA và ROE thấp và ngược lại.
4.1.3. Phát hiện về mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của
các ngân hàng TMCP Việt Nam
Kết quả phân tích cho thấy sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng khi bổ sung rủi ro tín dụng như một biến số trong mô hình tham số SFA: biến
rủi ro tín dụng có thể đóng vai trò là biến đầu vào (mô hình 2) và biến phi hiệu quả
119
hay biến kiểm soát (mô hình 3). Để đánh giá mức độ phù hợp của việc bổ sung các
biến và phương pháp bổ sung biến trong các mô hình, luận án tiến hành các kiểm
định dạng hàm Cobb-Douglas tuyến tính.
Kết quả kiểm định cho thấy, mô hình 2 không phù hợp bằng mô hình 3 do
giả thuyết bằng không của các hệ số tương quan đối với các biến trong mô hình
không bị bác bỏ. Chính vì vậy, có thể khẳng định, biến rủi ro tín dụng thực sự có
≠ 0). Biến này nên được bổ sung vào mô ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng (
hình không phải dưới dạng một biến đầu vào độc lập mà như một yếu tố ảnh hưởng
đến sự phi hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, là biến số có thể làm cho ngân hàng
hoạt động ngoài đường biên hiệu quả của nó. Kết quả lượng hóa sự ảnh hưởng của
rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng cho thấy khi rủi ro tín
dụng tăng 1% thì đầu ra của ngân hàng giảm 0,586%.
Phân tích nhân quả Granger cho thấy hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
TMCP Việt Nam là nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Kết quả phân tích hồi quy cho
thấy, với độ tin cậy bằng bằng 95%, biến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
TMCP Việt Nam cũng có ý nghĩa thống kê trong mô hình và có tác động ngược
chiều đối với rủi ro tín dụng. Khi hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP
tăng 1% thì rủi ro tín dụng giảm 1,246569%, trong đó rủi ro tín dụng được biểu hiện
bằng tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên tổng số tiền cho vay của ngân hàng.
4.2. Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
4.2.1. Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam không đồng nhất khi sử dụng các phương pháp đánh giá
khác nhau. Sự khác biệt này lại càng lớn khi sử dụng chỉ tiêu kế toán (phương pháp
truyền thống) trong sự so sánh với các phương pháp định lượng (phương pháp hiện
đại) để đánh giá hiệu quả. Như vậy, các ngân hàng thương mại không nên chỉ dựa
vào các con số thống kê trên báo cáo tài chính để đánh giá hiệu quả trong hoạt động
kinh doanh của mình mà phải xây dựng một phương pháp đánh giá hiệu quả kinh
doanh một cách khoa học và phù hợp.
120
Phương pháp đánh giá hiệu quả mà ngân hàng xây dựng cần phải có sự
chuẩn bị về con người, thông tin, và công cụ hỗ trợ.
- Về con người: trước hết lãnh đạo ngân hàng phải đổi mới tư duy trong việc
đánh giá trung thực và khách quan về hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Bên cạnh đó, cần có các cộng sự có khả năng hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện
phương pháp đánh giá. Ngân hàng có thể hỗ trợ bộ phận công nghệ thông tin được
tập huấn về các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh ngân hàng.
- Về thông tin:
Mỗi ngân hàng thương mại có thể lựa chọn mô hình đánh giá hiệu quả kinh
doanh phù hợp với hoạt động ngân hàng của mình. Các biến đầu ra và đầu vào được
có thể thay đổi sao cho phù hợp nhất với hoạt động ngân hàng. Từ đó, chuẩn bị các
thông tin cho các biến hoạt động đó một cách trung thực.
- Về công cụ: ngân hàng có thể cập nhật những phần mềm cần thiết phục vụ
cho hoạt động đánh giá hiệu quả kinh doanh củangân hàng.
Hoạt động đánh giá hiệu quả kinh doanh có thể được thực hiện ở cuối mỗi
niên độ kế toán để giúp lãnh đạo ngân hàng có thể thấy được mối quan hệ giữa
nguồn lực mà ngân hàng sử dụng và kết quả đạt được bên cạnh các kết quả trên báo
cáo tài chính. Ngoài ra, việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng còn giúp
cho việc lập chiến lược kinh doanh trong tương lai của ngân hàng. Chẳng hạn, trước
khi đưa ra các quyết định lớn về đầu tư, cho vay, ngân hàng có thể sử dụng mô hình
đánh giá để thấy được sử ảnh hưởng của các quyết định này đến hiệu quả của ngân
hàng. Bên cạnh đó, mô hình cũng giúp xây dựng các chỉ tiêu hoạt động trong tương
lai dựa trên một mức hiệu quả của ngân hàng.
4.2.2. Ước tính mức hiệu quả kinh doanh và rủi ro tín dụng
Một trong những phát hiện quan trọng của luận án là lượng hóa được mối
quan hệ giữa rủi ro tín dụng tới hiệu quảkinh doanh của ngân hàng, cụ thể là kết quả
phân tích đã cho biết một sự thay đổi của rủi ro tín dụng có thể ảnh hưởng như thế
nào đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng và ngược lại. Trên góc độ nhà quản trị ngân
hàng, nếu ngân hàng đặt ra một mức hiệu quả kinh doanh cần đạt được thì mức rủi
121
ro tín dụng cho phép sẽ là bao nhiêu? Ngược lại, với mức độ rủi ro tín dụng được
dự báo trong tương lai thì hiệu quả kinh doanh ngân hàng sẽ là bao nhiêu với các
ước tính khác về các yếu tố đầu ra và đầu vào của ngân hàng.
4.2.2.1. Ước tính mức độ rủi ro tín dụng chấp nhận được
Với một mức hiệu quả kinh doanh đặt ra bởi ngân hàng, các kịch bản về sự
thay đổi các yếu tố đầu ra và đầu vào và rủi ro tín dụng trong tương lai có thể được
xây dựng. Từ đó, ngân hàng có thể xác định được mức rủi ro tín dụng tối đa có thể
chấp nhận được. Cần lưu ý rằng, các yếu tố để xác định hiệu quả kinh doanh ngân
hàng đều có mối quan hệ với nhau. Chẳng hạn, sự tăng trưởng tín dụng (đầu ra của
hoạt động ngân hàng) sẽ gắn với sự gia tăng rủi ro tín dụng. Đồng thời sự tăng
trưởng tín dụng cũng tương thích với sự tăng trưởng vốn huy động. Các kịch bản
phải được xây dựng dựa trên các ước tính về mức độ tăng trưởng và các điều kiện
của ngân hàng trong những năm tiếp theo. Luận án sẽ sử dụng số liệu của ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) để minh họa cho kiến nghị này.
Bảng 4.1. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID)
ĐVT: triệu đồng
2016 2017 Tỷ lệ
Đầu vào
1. Tài sản cố định
9.721.971,00
11.958.063,9
0,230
2. Tiền gửi của khách hàng
27.618.075,00
33.453.371,07
0,211
3. Lao động
4.272.562,47
6.133.787,69
0,436
1. Cho vay khách hàng
723.697.407
858.380.593
0,186
2. Tài sản sinh lời khác
144.192.808
166.791.235,1
0,157
10.015.849
10.894.819,25
0,088
Đầu ra
Rủi ro tín dụng
Nguồn: BCTC của ngân hàng và tính toán của tác giả
122
Trong bảng 4.1, số liệu về 3 đầu vào là tài sản cố định, tiền gửi của khách hàng,
lao động và 2 đầu ra là cho vay khách hàng, tài sản sinh lời khác và biến kiểm soát rủi
ro tín dụng, đo lường bằng dự phòng rủi ro cho vay, được thu thập từ báo cáo tài chính
đã được kiểm toán của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2016. Số
liệu của các khoản mục tương tự trong năm 2017 của ngân hàng này được ước tính dựa
vào tốc độ tăng trưởng bình quân trong cả giai đoạn, từ 2009 đến 2015. Tính toán cụ
thể về tốc độ gia tăng các khoản mục này được thể hiện trong phụ lục 09.
Với các thông tin về đầu ra và đầu vào ước tính được trong năm 2017, hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng được tính toán bằng cách sử dụng phần mềm
FRONTIER 4.0. Kết quả cho thấy, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng ước tính
được bằng 0,942% . Tuy nhiên, do hiệu quả kinh doanh mà ngân hàng chấp nhận
được chỉ là 92% nên ngân hàng có thể chịu đựng được mức rủi ro tín dụng cao hơn.
Giả sử, ngân hàng quyết định nâng cao tỷ lệ tăng trưởng tín dụng lên tới 19% (bằng
với mức khống chế của NHNN) thay vì mức 18,6% như ước tính ban đầu, giả sử tỷ
lệ dự phòng rủi ro vay bằng 0,02 số tiền cho vay (theo số trung bình của cả giai
đoạn) thì mức độ hiệu quả mới tính toán được là 0,920. Mức hiệu quả này phù hợp
với mục tiêu của ngân hàng. Từ đó, sự thay đổi các khoản mục đầu ra, đầu vào và
rủi ro tín dụng được thể hiện trong bảng 4.2.
Bảng 4.2. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID)
ĐVT: triệu đồng
2016
2017
Tỷ lệ
Đầu vào
1. Tài sản cố định
9.721.971,00
11.958.063,9
0,230
2. Tiền gửi của khách hàng
27.618.075,00
33.453.371,07
0,211
3. Lao động
4.272.562,47
6.133.787,69
0,436
Đầu ra
1. Cho vay khách hàng
723.697,407
858.380.593
0,186
2. Tài sản sinh lời khác
144.192,808
166.791.235,1
0,157
10.015.849
17.223.998,29
0,020
Rủi ro tín dụng
Nguồn: BCTC của ngân hàng và tính toán của tác giả
123
Với các số liệu được cung cấp bởi bảng 4.2 thì hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng ước tính được sẽ bằng 0,920 hay 92%, mức hiệu quả này phù hợp với chiến
lược kinh doanh của ngân hàng. Trong thực tế, ngân hàng có thể đưa ra các ước tính
chính xác hơn về các đầu vào và đầu ra trong mô hình và có thể xây dựng được các
kịch bản thích hợp liên quan đến rủi ro tín dụng.
4.2.2.2. Ước tính hiệu quả kinh doanh ngân hàng từ các mức độ rủi ro tín dụng
Từ kết quả ước lượng mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng tới hiệu quả kinh
doanh ngân hàng có thể thấy rủi ro tín dụng có thể làm giảm đầu ra của ngân hàng,
cụ thể là, khi rủi ro tín dụng tăng 1% thì đầu ra của ngân hàng giảm -0,586%. Như
vậy, rủi ro tín dụng tăng làm giảm tốc độ luân chuyển vốn của ngân hàng, từ đó làm
giảm đầu ra của ngân hàng. Khi ngân hàng chấp nhận một mức rủi ro cao hơn nào
đó, ngân hàng cần đánh giá sự mạo hiểm đó có ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả
kinh doanh ngân hàng. Nếu sự suy giảm hiệu quả kinh doanh ngân hàng đó có thể
chấp nhận được thì ngân hàng có thể thực hiện các dự án mạo hiểm hơn để có thể
thu được lợi nhuận cao hơn.
Bảng 4.3. Dự báo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) khi rủi ro tín dụng thay đổi
ĐVT: triệu đồng
2016 2017 Tỷ lệ
Đầu vào
1. Tài sản cố định
2. Tiền gửi của khách hàng
9.721.971,00 9.721.971,00 0,230
3. Lao động
27.618.075,00 27.618.075,00 0,211
4.272.562,47 4.272.562,47 0,436
1. Cho vay khách hàng
Đầu ra
2. Tài sản sinh lời khác
723.697,407 719.456.540,2 -0,59%
144.192,808 143.347.838,1 -0,59%
Rủi ro tín dụng
10.015.849 10.894.819,25 0,01
Nguồn: BCTC của ngân hàng và tính toán của tác giả
124
Bảng 4.3 trình bày ước tính về các biến đầu ra và đầu vào của ngân hàng
trong năm 2017 từ các số liệu thực tế năm 2016. Khác với bảng 4.2, rủi ro tín dụng
được ước tính tăng 1%, kèm theo sự suy giảm đầu ra -0,59%. Giả sử các yếu tố
khác không thay đổi, hiệu quả kinh doanh của TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BID) (BID) ước tính trong năm 2017 bằng 0,938%.
4.3. Kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy rủi ro tín dụng đo lường bằng một
tỷ lệ nhất định của nợ xấu có ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh củangân
hàng. Trong điều kiện nợ xấu là một vấn đề tồn đọng trong các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số kiến nghị đối với các cơ
quan quản lý trong việc hỗ trợ giải quyết nợ xấu, từ đó, có thể giúp nâng cao hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng.
4.3.1. Chứng khoán hóa nợ xấu
Một trong những giải pháp có thể giúp các ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu
là chứng khoán hóa nợ xấu. Chứng khoán hóa nợ xấu là một phương án xử lý nợ
xấu đã thực hiện đầu tiên ở Mỹ và sau đó đã được hiều quốc gia khác áp dụng.
Chứng khoán hóa là quá trình chuyển các khoản cho vay thành các chứng khoán có
thể giao dịch trên thị trường. Hoạt động chứng khoán hóa có thể biến các tài sản
không có tính chất giao dịch thành các công cụ có tính thanh khoản cao trên thị
trường thứ cấp.
Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu về cơ bản bao gồm 2 bước chính. Trong
bước thứ nhất, các ngân hàng tập hợp các khoản cho vay của mình, trong đó có nợ
xấu mà ngân hàng muốn đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán của mình thành một danh
mục tài sản. Danh mục tài sản này sau đó sẽ được bán cho một tổ chức phát hành.
Trong bước thứ hai, tổ chức mua danh mục tài sản từ các ngân hàng sẽ phát hành
các chứng khoán mang lãi suất và có thể giao dịch để bán cho các nhà đầu tư trên
thị trường. Với phương án này, trách nhiệm của Nhà nước được thực hiện thông qua
việc tiến hành chứng khoán hóa nợ xấu thành trái phiếu chính phủ. Số lượng trái
phiếu chính phủ được phát hành căn cứ vào tổng giá trị nợ xấu, sẽ được đưa ra giao
125
dịch trên thị trường chứng khoán và cả trên thị trường liên ngân hàng. Trách nhiệm
của doanh nghiệp có nợ xấu là phải phát hành phiếu nợ chuyển đổi làm tài sản đối
ứng với lượng trái phiếu chính phủ trên. Trách nhiệm của các ngân hàng là tham gia
nhận trái phiếu chính phủ (và cũng có thể chấp nhận cả phiếu nợ chuyển đổi của
doanh nghiệp - coi như đã nhận được khoản thanh toán nợ xấu). Để thu hồi tiền từ
xử lý nợ xấu, các ngân hàng thương mại cổ phần có thể bán trái phiếu chính phủ
trên thị trường cho nhà đầu tư trong và ngoài nước theo nhu cầu sử dụng vốn của
ngân hàng.
Để hỗ trợ cho chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, cần phải có các giải pháp như
- Xây dựng lộ trình phù hợp cho việc chứng khoán hóa nợ xấu
Trước hết, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần lựa chọn được mô hình
chứng khoán hóa nợ xấu trên cơ sở cân nhắc các vấn đề về lợi ích cũng như rủi ro từ
hoạt động này có thể mang lại đối với nền kinh tế. Trong mô hình này, các bước
tiến hành, chủ thể tham gia, phương pháp, thời gian tiến hành và vai trò của cơ quan
quản lý cần được xác định rõ ràng.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan định giá tài sản và tài sản bảo đảm
Chứng khoán hóa nợ xấu gắn với hoạt động phân loại, định giá tài sản để xây
dựng danh mục tài sản gồm các khoản cho vay trước khi biến các danh mục này
thành các loại chứng khoán có khả năng chuyển đổi. Vì vậy, cần có cơ sở pháp lý
đầy đủ và chặt chẽ cho hoạt động định giá tài sản. Ngoài ra, do các chứng khoán
4.3.2. Phát triển thị trường mua bán nợ
Phát triển thị trường mua bán nợ là một trong những giải pháp quan trọng có
thể giúp các ngân hàng xử lý các khoản nợ xấu một cách triệt để. Các giải pháp phát
triển thị trường mua bán nợ liên quan đến việc phát triển thị trường chứng khoán và
hỗ trợ hoạt động của các công ty mua bán nợ.
- Quy định chặt chẽ về việc xử lý nợ xấu
Ngân hàng Nhà nước cần đưa bổ sung các quy định chặt chẽ đối với các
ngân hàng thương mại trong việc trích lập dự phòng rủi ro cho vay và xử lý nợ xấu.
Từ đó, giúp các ngân hàng có những động thái mạnh mẽ và khẩn trương để xử lý nợ
126
xấu, tạo ra nguồn cung cho thị trường mua bán nợ. Đây là giải pháp mà một số quốc
gia đã thực hiện thành công. Chẳng hạn, các ngân hàng thương mại ở Mỹ yêu cầu
các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày phải được đánh giá lại. Nếu như giá trị thị trường
của tài sản bảo đảm và các chi phí có liên quan không đủ để bù đắp khoản nợ này
thì ngân hàng buộc phải xử lý khoản nợ ra khỏi bảng cân đối kế toán. Tại Nhật Bản,
các ngân hàng thương mại buộc phải đưa khoản nợ xấu đã được ghi nhận trong thời
gian 3 năm ra khỏi bảng cân đối kế toán. Tại Braxin, các khoản nợ xấu phải được
ghi chép ngoại bảng và xử lý sau 6 tháng ghi nhận. Đối với các khoản nợ này, ngân
hàng phải trích lập dự phòng 100%.
- Tăng cường hoạt động giám sát các ngân hàng thương mại
Tăng cường hoạt động giám sát việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
cho vay của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng cũng cần được yêu cầu báo
cáo công khai và thường xuyên về tiến trình xử lý nợ xấu của mình.
- Khuyến khích chuyển đổi nợ thành vốn cổ phần
Việc các ngân hàng tham gia vào quá trình cấu trúc lại nợ như chuyển đổi nợ
thành vốn cổ phần giúp cho việc tăng tính thanh khoản cho các khoản nợ và và cải
thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Có thể tham khảo một số kinh nghiệm
liên quan đến việc khuyến khích chuyển đổi nợ thành cổ phần ở một số quốc gia.
Chẳng hạn, luật pháp Mỹ cho phép các ngân hàng được quyền chủ động về phương
án chuyển đổi các khoản cho vay thành vốn cổ phần. Đặc biệt, nếu giám đốc hay bất
kỳ cổ đông của doanh nghiệp đang vay ngân hàng sẽ chịu những hình thức phạt nếu
phản đối kế hoạch chuyển đổi do ngân hàng (chủ nợ) đề xuất.
- Hỗ trợ hoạt động của công ty mua bán nợ
Ngày 09/7/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức thành lập
công ty Công ty khai thác và quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) nhằm hỗ trợ cho
quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Để hỗ trợ cho hoạt động của
VAMC, một số giải pháp được đưa ra như sau:
- Thứ nhất, tăng vốn điều lệ cho Công ty khai thác và quản lý tài sản Việt
Nam (VAMC)
127
Với lượng vốn hạn chế, VAMC khó có thể xử lý được các khoản nợ của các
ngân hàng một cách triệt để và hiệu quả. Vì vậy, công ty cần được tăng vốn theo đề
xuất của công ty trong giai đoạn mới.
- Thứ hai, tạo ra các cơ chế hỗ trợ cho VAMC
Trong thời gian vừa qua, số lượng nợ xấu mà công ty VAMC đã xử lý mới
chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng số nợ đã mua từ các ngân hàng. Vì vậy, để tạo cho
hoạt động xử lý nợ của công ty, VAMC cần những hỗ trợ về mặt pháp lý từ Quốc
hội và các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư để có được khung pháp lý cho hoạt động bán nợ cho các nhà đầu tư, nhất
là các nhà đầu tư nước ngoài.
4.4. Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo
Kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp các cách tiếp cận trong đánh giá
hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong mối quan hệ với biến rủi ro tín dụng. Từ đó
thấy được vai trò của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng đến việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, do những giới hạn về thời gian nghiên cứu
cũng như khả năng thu thập dữ liệu nên kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế.
Trong tương lai, luận án mở ra một số hướng nghiên cứu mới bằng cách hoàn thiện
phương pháp nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, các biến đầu vào và đầu ra trong mô hình có thể bổ sung thêm để
phản ánh đầy đủ các hoạt động của một ngân hàng hiện đại.
Thứ hai, các cách tiếp cận về hoạt động kinh doanh có thể được mở rộng,
không chỉ sử dụng phương pháp “trung gian” như trong luận án này mà có thể sử
dụng đồng thời các cách tiếp cận khác (cách tiếp cận “hướng về lợi nhuận”, “giá trị
gia tăng”).
Thứ ba, bên cạnh hiệu quả kỹ thuật, có thể đánh giá thêm các loại hiệu quả
kinh doanh khác như hiệu quả quy mô, hiệu quả chi phí để làm phong phú thêm các
phát hiện của đề tài.
128
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương 4 tổng kết các kết quả nghiên cứu của luận án để từ đó xây dựng các
đề xuất có liên quan tới các ngân hàng TMCP Việt Nam. Trong đó, hai phát hiện
quan trọng của đề tài liên quan đến kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam và mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, rất khó đưa ra được đánh giá đồng nhất về hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng khi sử dụng các chỉ tiêu truyền thống (ROA và
ROE) vì các chỉ tiêu này được tính toán một cách đơn lẻ. Nhược điểm đó được khắc
phục khi sử dụng phương pháp xây dựng đường biên hiệu quả SFA để đánh giá hiệu
quả kinh doanh ngân hàng. Kết quả phân tích SFA cho thấy các ngân hàng có hiệu
quả kinh doanh cao nhất trong 30 ngân hàng thường là các ngân hàng quy mô lớn
và thời gian hoạt động dài trên 10 năm.
Liên quan đến mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng, có thể thấy, biến rủi ro tín dụng thực sự có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng. Biến này nên được bổ sung vào mô hình không phải dưới
dạng một biến đầu vào độc lập mà như một yếu tố ảnh hưởng đến sự phi hiệu quả
của ngân hàng, là biến số có thể làm cho ngân hàng hoạt động ngoài đường biên
hiệu quả của ngân hàng đó. Khi rủi ro tín dụng tăng 1% thì đầu ra của ngân hàng
giảm 0,586%. Phân tích nhân quả Granger cho thấy hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng TMCP Việt Nam cũng là nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Khi hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng TMCP tăng 1% thì rủi ro tín dụng giảm 1,246569%.
Kết quả nghiên cứu giúp cho các ngân hàng TMCP có thể ước tính hiệu quả
kinh doanh ngân hàng ở các mức rủi ro khác nhau hoặc xác định được mức rủi ro
tín dụng chấp nhận được với một mức hiệu quả kinh doanh yêu cầu của ngân hàng.
Các ước tính này dựa trên các dự báo về các biến đầu vào và đầu ra trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng trong tương lai.
129
KẾT LUẬN
Luận án được tiến hành để đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam. Rủi ro tín dụng được lựa chọn
là dự phòng rủi ro cho vay của các ngân hàng được tính toán theo tỷ lệ với các
khoản nợ được phân loại của ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được
đánh giá bằng phương pháp xây dựng đường biên hiệu quả với kỹ thuật phân tích
biên ngẫu nhiên (SFA).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng là một yếu tố phi hiệu quả của
ngân hàng, làm cho một ngân hàng thương mại hoạt động xa dần với đường biên
hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng giảm mạnh khi bổ sung rủi ro tín
dụng vào các mô hình tính toán. Kết quả phân tích tham số cho thấy, rủi ro tín dụng
tăng 1% thì đầu ra của ngân hàng giảm 0,586%. Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng cũng chính là nguyên nhân cho những thay đổi của rủi ro tín dụng theo
kết quả phân tích nhân quả Granger.
Từ những phát hiện của đề tài, luận án đưa ra những đề xuất liên quan đến
việc dự báo các mức hiệu quả kinh doanh ngân hàng với các ước tính về rủi ro tín
dụng hay phương pháp xác định rủi ro tín dung từ một mức hiệu quả. Ngoài ra, luận
án cũng đưa ra các gợi ý chính sách đối với các cơ quan quản lý Nhà nước để hỗ trợ
hoạt động xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. Bài viết đăng trong Tạp chí khoa học
1. Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thị Minh Huệ (2016) “Mối quan hệ giữa hiệu quả
kinh doanh và rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí
Phát triển kinh tế, Số 1 (năm thứ 27) tháng 01/2016, trang 29-44.
2. Nguyễn Thu Nga (2016) “ Sử dụng phương pháp tham số trong đánh giá hiệu quả
ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, số
481, tháng 11/2016, trang 40-42.
II. Bài viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học chuyên ngành
1. Nguyễn Thu Nga, Vũ Thị Loan (2015) “Banking efficiency and the relationship
with credit risk”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “Proceedings of international
conference on emerging challenges: managing to success – ICECH 2015”, Quý IV/
2015, trang 264-270, Bach Khoa Publishing House.
2. Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Hữu Tài, Trần Thanh Hải (2017) “Đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam theo phương pháp
hiện đại”; Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia: "Hoàn thiện thể chế tài chính cho
phát triển bền vững thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm Việt Nam", tháng
4/2017; trang 199-227, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
III. Đề tài khoa học
1. Nguyễn Thu Nga, Ngô Thị Nhung (2015) “Phân tích tác động của rủi ro tín
dụng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam”. Đề tài cấp cơ sở . Mã số: CS2015 - BF - 009. Nghiệm thu
tháng 5/2016. Kết quả: Tốt. Chủ nhiệm đề tài
2. Nguyễn Thu Nga, Trần Thanh Hài (2016) "Ứng dụng phương pháp tham số trong
đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam”.
Đề tài cấp cơ sở . Mã số: CS2016 - BF - 39. Nghiệm thu tháng 2/2017. Kết quả: Tốt.
Chủ nhiệm đề tài
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ahmed, A.S., Takeda, C., and Shawn, T. (1998), ‘Bank Loan Loss provision: 1.
A reexamination of capital management, Earnings Management and
Signaling Effects’, Working paper, Department of Accounting, Syracuse
University, pp.1-37.
Aigner, D.J., Lovell, C.A.K., and Schmidt, P. (1977),‘Formulation and 2.
Estimation of Stochastic Frontier Production Function Models’, Journal of
Econometrics, 6: 21-37.
Altunbas, Y., Liu, M., Molyneux, P., Seth, R. (2000), ‘Efficiency and risk in 3.
Japanese banking’, Journal of Banking and Finance, 24(10), pp. 1605-1628.
Ariff, M., Can, L. (2008), ‘Cost and Profit Efficiency of Chinese Banks: A Non-
Banker, R. D., Charnes, A., and Cooper, W, W (1984). “Some Models for 4. 5.
Estimating Technical and Scale Inefficiencies in Data Envelopment
Analysis”. Management Science, 30(9), pp. 1079-1092
Banks’, Journal of Comparative Economics, vol. 25, no. 2, pp. 196-219.
Battese, G.E. and G.S. Corra. (1977), ‘Estimation of a Production Frontier 6. 7.
Model with Application to the Pastoral Zone of Eastern Australia’,
Australian Journal of Agricultural Economics, 21, pp. 169-179.
Benston, G.J. (1965), ‘Branch banking and economies of scale’, Journal of 8.
Finance, 20(2), pp. 312-331.
Berger, A.N. & Humphrey, D.B. 1991, "The Dominance of Inefficiencies 9.
over Scale and Product Mix Economies in Banking", Journal of Monetary
Economics, vol. 28, no. 1, pp. 117-148
10. Berger, A.N. & Humphrey, D.B. 1992, "Measurement and Efficiency Issues
in Commercial Banking" in Output Measurement in the Service Sectors, ed.
Z. Griliches, University of Chicago Press, Chicago and London, pp. 245-279 11. Berger, A.N. 1993, "'Distribution Free' Estimates of Efficiency of the U.S.
Banking Industry and Tests of the Standard Distributional Assumptions",
Journal of Productivity Analysis, vol. 4, no. 3, pp. 261-292.
12. Berger, A. N., De Young, R. (1997), ‘Problem loans and cost efficiency in
commercial Banks’, Journal of Banking And Finance, (21)6, pp. 849-870.
13. Berger, A., & Humphrey, D. (1997), ‘Efficiency of Financial Institutions:
International Surveyand Directions for Future Research’, European Journal
of Operational Research, 98, pp. 175-212.
14. Berger, A.N., Hasan, I., Zhou, M. ( 2009), ‘Bank ownership and efficiency in
China: what will happen in the world’s largest nation?’ Journal of Banking
and Finance, 33, pp.113-130.
15. Berger AN, D Hancock and DB Humphrey (1993). “Bank Efficiency
Derived from the Profit Function.” J Banking and Finance 17: 317-347 16. Berger, A.N. and Mester L.J.(1997), ‘Inside the Black Box: What Explains
Differences in the Efficiencies of Financial Institutions?, Journal of Banking
and Finance, 21: 895-947
17. Bessis, J., (2002), Risk Management in Banking, Wiley; 2nd edition 18. Bhattacharyya, A., Bhattacharyya, A. & Kumbhakar, S.C. (1997a), ‘Changes in 19. Bonin, J.P., Hasan, I., Wachtel, P. (2005), ‘Bank performance, efficiency and
ownership in a transition countries’, Journal of Banking and Finance, 29,
pp.31-53.
20. Chang, T.C., and Chiu, Y.H. (2006), ‘Affecting Factors on Risk-Adjusted
Efficiency in Taiwan’s Banking Industry’, Contemporary Economic Policy,
24(4), pp. 634-648.
21. Charnes, A., Cooper, W. and Rhodes, E. (1978), ‘Measuring efficiency of
decision making units’, European journal of operations research, 6(3), pp.
429-444.
22. Chen .X, Skully, M., and Brown. K, (2005), ‘Banking Efficiency in China:
An Application of DEA to Pre- and Post Deregulation Era: 1993-2000’,
China Economic Review,Vol. 16, No. 3, pp. 229-245.
23. Chen, K.C., and Kao, C.H. (2011), ‘Measurement of credit risk efficiency
and productivity change for commercial banks in Taiwan’, The journal of
American Academy of Business, 16(2), pp. 279-286.
24. Christensen, L.R., Jorgenson, D.W. & Lau, L.J. 1973, "Transcendental
Logarithmic Production Frontiers", The review of economics and statistics, vol. 55, no. 1, pp. 28-45
25. Clarke, G.R.G., Cull, R. & Shirley, M.M. (2005), ‘Bank Privatization in
Developing Countries: A Summary of Lessons and Findings’, Journal of
Banking & Finance, vol. 29, no. 8-9, pp. 1905-1930.
26. Coelli, T. (1996), “A guide to DEAP version 2.1: a data envelopment
analysis (computer) program”, CEPA Working Paper 1996/08, Available at:
http://www.une.edu.au/econometrics/cepa.htm.
27. Coyle, B. (2000), “Framework for Credit Risk Management”, Chartered
Institute of Bankers, United Kingdom
28. Cobb, C.W. & Douglas, P.H. 1928, "A Theory of Production", American
Economic Review, vol. 18, pp. 139-162.
29. Công ty Cổ phần Stoxplus. http://www.stoxplus.com 30. Dong, Y., and Hamilton, R., and Tippett, Mark J., ‘Cost Efficiency of the
Chinese Banking Sector: A Comparison of Stochastic Frontier Analysis and
Data Envelopment Analysis’, Available at SSRN:
https://ssrn.com/abstract=2341056 or http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2341056
31. Drake, L., & Hall, M.J.B., Simper, R. (2006), ‘The impact of
macroeconomic and regulatory factors on bank efficiency: anon-parametric
analysis of Hong Kong’s banking system’, Journal of Banking and Finance,
30, pp. 1443–1466.
Economic Regime and Productivity Growth: A Study of Indian Public Sector
32. 33. Evanoff, D.D., Israilevich, P.R. (1995), ‘Scale elasticity versus scale eciency
in banking’, Southern Journal of Economics, 61, pp. 1036-1047.
Eisenbeis, R.A., Ferrier, G.D., Kwan, S.H. (1999), ‘The Informativeness of 34.
Stochastic Frontier and Programming Frontier Efficiency Scores: Cost
Efficiency and Other Measures of Bank Holding Company Performance’
Federal Reserve Bank of Atlanta Working Paper, 99–23.
35. Fan, L., Shaffer, S. (2004), ‘Efficiency versus risk in large domestic US
banks’, Managerial Finance, 30(9), pp.1-19.
Farrell, M.J. (1957), ‘The measurement of productive efficiency’, Journal of 36.
the Royal Statistical Society, 120, pp.253-281.
Fare, R., Grosskopf, S. and Lovell, C. A. K. (1985), The Measurement of 37.
Efficiency of Production, KluwerNijhoff, Boston.
Fischer, K.P., Gueyie, J.P. and Ortiz, E. (2000), ‘Risk-taking and Charter 38.
Value of Commercial Banks’ From the NAFTA Countries’, paper presented
at the 1st International Banking and Finance Conference, Nikko Hotel,
Kuala Lumpur, Malaysia.
39. Ghafoorian, H., Anuar, A., Abubakar, N. (2013), ‘Eficiency considering
credit risk in banking industry, using two-stage DEA’, Journal of Social and
Development Sciences, 4(8), pp. 356-360.
40. González, F., ( 2005), ‘Bank regulation and risk-taking incentives: an
internationalcomparison of bank risk’, Journal of Banking and Finance, 29,
1153–1184.
41. Knaup, M., & Wagner W. B. (2012), ‘A market-based measure of credit
quality and bank performance during the subprime crisis’, Management
Science, 58(8), pp.1423-1437.
42. Koopmans, T. C. (1951), ‘An analysis of production as an efficient
combination of activities’, in Koopmans, T. C. (Ed.): Activity Analysis of
Production and Allocation, Proceeding of a Conference, pp.33-97, John
Wiley and Sons Inc., London.
43. Koutsomanoli-Filippaki, A., Margaritis, D., & Staikouras, C. (2009),
‘Efficiency and productivity growth in the banking industry of Central and
Eastern Europe’, Journal of Banking & Finance, 33(3), 557–567
Leightner, J.E. and Lovell, C.A.K. (1998), ‘The impact of financial 44.
liberalization on the performance of Thai banks’, Journal of Economics and
Business, 50(2), pp. 115-31.
Lovell, C. and Thore, SA., (1992). “Productive Efficiency under Capitalism 45.
and State Socialism: the Chance-Constrained Programming Approach.”
Publique Finance, 47: 109-121
46. Malmquist, S (1953). Index Number and Indifference Surfaces Trabajos de
Estadistica, 4(2), 209-242
47. Mester, L. (1993), "Efficiency in the saving and loan industry", Journal of
Banking and Finance 17, pp. 267-286.
48. Mester, L.J. (1996), ‘A study of bank efficiency taking into account risk-
preferences’, Journal of Banking & Finance, 20, pp.1025-1045
49. Meeusen, W. & van Den Broeck, J. (1977), ‘Efficiency Estimation from
Cobb-DouglasProduction Functions with Composed Error’, International
Economic Review, vol.18, no. 2, pp. 435-444.
50. Murray, J.D. & White, R.W. 1983, "Economies of Scale and Economies of
Scope in Multiproduct Financial Institutions: A Study of British Columbia Credit Unions", Journal of Finance, vol. 38, no. 3, pp. 887-902
51. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
52. Ngân hàng TMCP Á Châu (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
53. Ngân hàng TMCP An Bình (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
54. Ngân hàng TMCP Bản Việt (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
55. Ngân hàng TMCP Bắc Á (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, tỉnh Nghệ An
56. Ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,
2015), Báo cáo tài chính, Hậu Giang
57. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
58. Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (2013, 2014, 2015), Báo cáo tài
chính, TP.Hà Nội.
59. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012,
2013, 2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
60. Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,
2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
61. Ngân hàng TMCP Đông Á (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
62. Ngân hàng TMCP Hàng Hải (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
63. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
64. Ngân hàng TMCP Kiên Long (2009, 2010, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, tỉnh Kiên Giang.
65. Ngân hàng TMCP Nam Á (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
66. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
67. Ngân hàng TMCP Phát Triển TP. Hồ Chí Minh (2009, 2010, 2011, 2012,
2013, 2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
68. Ngân hàng TMCP Phương Đông (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,
2015), Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh..
69. Ngân hàng TMCP Quân đội (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
70. Ngân hàng TMCP Quốc Dân (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội
71. Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,
2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
72. Ngân hàng TMCP Sài Gòn (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
73. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
74. Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,
2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
75. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
76. Ngân hàng TMCP Tiên Phong (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015),
Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
77. Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
78. Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hồ Chí Minh.
79. Ngân hàng TMCP Việt Á (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo tài chính, TP. Hà Nội.
80. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
81. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015), Báo cáo tài chính, tỉnh Sóc Trăng.
82. Nguyễn Minh Kiều (2012), Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, NXB Lao động
xã hội.
83. Nguyễn Minh Sáng (2013), ‘Phân tích nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng
nguồn lực của các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP.HCM’, Tạp chí
Phát triển và hội nhập, số 11(21), tr.10-15.
84. Nguyễn Thị Hồng Vinh (2014), ‘Nợ xấu và hiệu quả chi phí của các ngân hàng
thương mại Việt Nam’, Tạp chí Phát triển kinh tế, 289(11/2014), tr.58-73. 85. Nguyễn Việt Hùng ( chủ biên) (2012) , Tiếp cận phân tích định lượng: Hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam, NXB Đại học KTQD 86. Nishimizu, M. and Page, J.M. (1982), ‘Total Factor Productivity Growth,
Technological Progress and Technical Efficiency Change: Dimensions of
Productivity Change in Yugoslavia, 1965-78’, Economic Journal, 92, pp.
920-936.
Parametric Analysis’, China Economic Review, Vol. 19, No. 2, pp. 260-273.
Pasiouras, F. (2008), ‘Estimating the technical and scale efficiency of Greek 87. 88.
commercial banks: The impact of credit risk, off-balance sheet activities, and
international operations’, Research in International Business and Finance,
22, pp.301-318
Phan Thị Diệu Thảo, Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh (2013), ‘Ứng dụng phương 89.
pháp DEA trong đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam’, Tạp chí ngân hàng, (số 21 tháng 11), tr.12-17.
Phạm Thị Thu Thủy, Đỗ Thị Thu Hà (2013), ‘Đổi mới cách thức đo lường 90.
rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam trong quá trình tái cấu trúc hệ
thống”, truy cập ngày 1/12/2016, http://bank.hvnh.edu.vn/4980/news-
detail/813297/nam-hoc-2012-2013/doi-moi-cach-thuc-do-luong-rui-ro-tin-
dung-tai-cac-nhtm-viet-nam-trong-qua-trinh-tai-cau-truc-he-thong-ths-pham-
thu-thuy-do-thi-thu.html.
Podpiera, J., Weill, L. (2008), ‘Bad luck or bad management? Emerging 91.
banking market experience’, Journal of Finance, 4, pp. 135-148.
92. Rose, P. (2002), Commercial Bank Management, 5th edition, Mc Graw-
Hill/Irwin, USA
93. Rossi, S., Schwaiger, M., and Winlker, G. (2005), ‘Managerial Behaviour
and Cost/Profit Efficiency in the Banking Sectors of Central and Eastern
European Countries’, Working Paper, No. 96, Austrian National Bank.
Said, A. (2013), ‘Risks and efficiency in the Islamic banking systems: The 94.
case of selected Islamic banks in MENA region’, International journal of
Economics and Financial Issues, 3(1), pp.66-73.
Schmidt, P. & Sickles, R.C., (1984), ‘Production Frontiers and Panel Data’, 95.
Journal of Business & Economic Statistics, vol. 2, no. 4, pp. 367-374.
Sillah, M. S. & 1, Khokhar, Imran., Khan, N.M. (2015) Journal of Applied 96.
Finance & Banking, vol. 5, no. 2, 2015, 109-122 ISSN: 1792-6580 (print
version), 1792-6599 (online) Scienpress Ltd.
Sun,L. and Chang, T.P. (2010), “A comprehensive analysis of the effects of 97.
risk measures on bank efficiency:Evidence from emerging Asian countries”,
Journal of Banking & Finance, 35, 727-1735
Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (2009, 2010, 2011, 98.
2012), Báo cáo tài chính, TP. Hà Nội.
Tsolas, I. E., & Charles (2015), V.Q,Incorporating risk into bank efficiency: 99.
A satisficing DEA approach to assess the Greek bankingcrisis. Expert
Systems with Applications. http://dx.doi.org/10.1016/j.eswa.2014.12.033 100. Thủ tướng Chính phủ, Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn
2011 - 2015, TP. Hà Nội
101. Williams, J., ( 2004), ‘Determining management behaviour in European
Banking’ Journal of Banking and Finance 28, 2427-2460.
.
.
.
..
.
PHỤ LỤC
Phụ lục 01. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng theo mô hình 4
STT
2009
2010
2011 2012
2013 2014
2015 Bình quân
0,978 0,968 0,875 0,871 0,849 0,841 0,811 0,811 0,803 0,797 0,785 0,775 0,761 0,761 0,756 0,748 0,748 0,741 0,741 0,737 0,735 0,731 0,723 0,716 0,705 0,685 0,667 0,660 0,650 0,567
0,976 0,966 0,866 0,862 0,838 0,830 0,798 0,798 0,789 0,783 0,770 0,760 0,745 0,745 0,739 0,731 0,731 0,724 0,723 0,719 0,717 0,713 0,704 0,697 0,686 0,664 0,646 0,638 0,628 0,542
0,976 0,977 0,978 0,978 0,979 0,979 0,967 0,967 0,968 0,969 0,970 0,971 0,869 0,872 0,875 0,878 0,881 0,884 0,865 0,868 0,872 0,875 0,878 0,880 0,841 0,845 0,849 0,852 0,856 0,859 0,834 0,838 0,842 0,845 0,849 0,852 0,803 0,807 0,812 0,816 0,820 0,824 0,802 0,807 0,811 0,816 0,820 0,824 0,794 0,798 0,803 0,807 0,812 0,816 0,788 0,793 0,798 0,802 0,807 0,811 0,775 0,780 0,785 0,790 0,794 0,799 0,765 0,770 0,776 0,781 0,786 0,790 0,750 0,756 0,761 0,767 0,772 0,777 0,750 0,756 0,761 0,766 0,772 0,777 0,745 0,751 0,756 0,762 0,767 0,772 0,737 0,743 0,749 0,754 0,760 0,765 0,736 0,742 0,748 0,753 0,759 0,764 0,730 0,735 0,741 0,747 0,753 0,758 0,729 0,735 0,741 0,747 0,752 0,758 0,726 0,731 0,737 0,743 0,749 0,754 0,723 0,729 0,735 0,741 0,746 0,752 0,719 0,725 0,731 0,737 0,743 0,748 0,711 0,717 0,723 0,729 0,735 0,741 0,703 0,710 0,716 0,722 0,728 0,734 0,692 0,699 0,705 0,712 0,718 0,724 0,671 0,678 0,685 0,691 0,698 0,704 0,653 0,660 0,667 0,674 0,681 0,688 0,646 0,653 0,660 0,667 0,674 0,681 0,636 0,643 0,650 0,658 0,665 0,672 0,550 0,559 0,567 0,575 0,584 0,592
Ngân hàng BID PVF VCB CTG SCB NASB ACB EAB VAB EIB OCB VIB HDB VPB MBB TCB NVB KLB VTTB SHB PGB SGB STB GDB ABB NAB LVB SEAB MSB TPB
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
Phụ lục 02. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng theo mô hình 5
STT
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015 Bình quân
Ngân hàng BID PVF NASB SCB CTG ACB EAB EIB VCB VPB OCB HDB VIB VAB TCB SHB STB NVB VTTB MBB PGB KLB SGB NAB LVB GDB ABB MSB SEAB TPB
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
0,969 0,968 0,921 0,910 0,893 0,884 0,876 0,860 0,857 0,848 0,844 0,840 0,832 0,830 0,812 0,806 0,805 0,803 0,800 0,799 0,795 0,792 0,787 0,764 0,763 0,760 0,758 0,727 0,713 0,682
0,969 0,969 0,968 0,968 0,968 0,968 0,968 0,968 0,968 0,967 0,967 0,967 0,920 0,920 0,919 0,918 0,917 0,917 0,909 0,908 0,907 0,906 0,906 0,905 0,892 0,891 0,890 0,890 0,889 0,888 0,883 0,882 0,881 0,880 0,879 0,878 0,875 0,874 0,872 0,871 0,870 0,869 0,858 0,857 0,856 0,855 0,854 0,852 0,856 0,855 0,854 0,853 0,851 0,850 0,847 0,846 0,844 0,843 0,842 0,840 0,843 0,842 0,840 0,839 0,838 0,836 0,838 0,837 0,836 0,834 0,833 0,831 0,831 0,829 0,828 0,826 0,825 0,823 0,829 0,827 0,826 0,825 0,823 0,822 0,811 0,809 0,808 0,806 0,804 0,803 0,804 0,803 0,801 0,800 0,798 0,796 0,804 0,802 0,800 0,799 0,797 0,796 0,801 0,799 0,798 0,796 0,794 0,793 0,798 0,796 0,795 0,793 0,791 0,790 0,798 0,796 0,794 0,793 0,791 0,789 0,794 0,792 0,790 0,789 0,787 0,785 0,790 0,788 0,786 0,785 0,783 0,781 0,785 0,784 0,782 0,780 0,778 0,776 0,762 0,760 0,758 0,756 0,754 0,752 0,761 0,759 0,758 0,756 0,754 0,752 0,758 0,756 0,755 0,753 0,751 0,749 0,757 0,755 0,753 0,751 0,749 0,747 0,724 0,722 0,720 0,718 0,716 0,714 0,711 0,709 0,706 0,704 0,702 0,700 0,680 0,677 0,675 0,673 0,670 0,668
0,968 0,968 0,919 0,907 0,890 0,881 0,872 0,856 0,854 0,844 0,840 0,836 0,828 0,826 0,808 0,801 0,800 0,798 0,795 0,794 0,790 0,786 0,782 0,758 0,758 0,755 0,753 0,720 0,706 0,675
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
Phụ lục 03. Kết quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng theo mô hình 6
STT
2009
2010
2011 2012
2013 2014
2015 Bình quân
Ngân hàng
0,935
0,934 0,934 0,909 0,902 0,951 0,906
0,924
NASB
1
0,938
0,942 0,920 0,928 0,781 0,910 0,902
0,903
BID
2
0,948
0,905 0,852 0,953 0,902 0,872 0,886
0,902
PVF
3
0,878
0,891 0,906 0,903 0,886 0,904 0,900
0,895
VIB
4
0,882
0,922 0,892 0,908 0,907 0,877 0,861
0,893
VAB
5
0,859
0,883 0,881 0,879 0,958 0,837 0,909
0,886
SCB
6
0,851
0,898 0,885 0,911 0,895 0,889 0,867
0,885
OCB
7
0,922
0,899 0,888 0,893 0,892 0,775 0,896
0,881
VCB
8
0,898
0,897 0,885 0,843 0,814 0,891 0,866
0,871
KLB
9
0,902
0,893 0,761 0,902 0,893 0,885 0,859
0,871
EAB
10
0,869
0,853 0,867 0,890 0,888 0,830 0,889
0,869
NVB
11
0,870
0,887 0,890 0,743 0,896 0,890 0,831
0,858
VPB
12
0,776
0,841 0,888 0,841 0,870 0,887 0,901
0,858
PGB
13
0,846
0,845 0,834 0,833 0,863 0,891 0,887
0,857
HDB
14
0,894
0,858 0,915 0,782 0,756 0,891 0,898
0,856
CTG
15
0,900
0,862 0,850 0,901 0,853 0,815 0,796
0,854
MSB
16
0,890
0,950 0,846 0,789 0,786 0,830 0,812
0,843
TCB
17
0,862
0,913 0,601 0,869 0,889 0,881 0,879
0,842
18
ACB
0,817
0,822 0,840 0,853 0,850 0,852 0,853
0,841
19
SGB
0,861
0,943 0,663 0,822 0,840 0,860 0,838
0,832
EIB
20
0,787
0,815 0,713 0,830 0,843 0,877 0,921
0,827
SHB
21
0,832 0,824 0,837 0,795 0,861 0,837
0,823
STB
22
0,777
0,861
0,874 0,874 0,850 0,612 0,808 0,877
0,822
MBB
23
0,758
0,745 0,884 0,816 0,813 0,840 0,883
0,820
SEAB
24
0,844
0,835 0,823 0,725 0,772 0,818 0,906
0,817
NAB
25
0,917
0,770 0,734 0,770 0,840 0,819 0,866
0,816
LVB
26
0,792
0,829 0,853 0,854 0,829 0,724 0,821
0,815
ABB
27
0,947
0,842 0,815 0,843 0,838 0,841 0,559
0,812
VTTB
28
0,790
0,888 0,869 0,823 0,520 0,816 0,899
0,801
GDB
29
0,617
0,826 0,818 0,665 0,826 0,879 0,891
0,789
TPB
30
Nguồn: Kết quả phân tích trên FRONTIER 4.1.
Phụ lục 04. Số năm hoạt động của các ngân hàng trong mẫu
2011 20 18 11 18 48 23 22 18 19 3 21 15 18 18 3 16 8 16 19 20 18 17 20 15 54 4 18 17 17 19
NH STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB
2009 18 16 9 16 46 21 20 16 17 1 19 13 16 16 1 14 6 14 17 18 16 15 18 13 52 2 16 15 15 17 2010 19 17 10 17 47 22 21 17 18 2 20 14 17 17 2 15 7 15 18 19 17 16 19 14 53 3 17 16 16 18 2012 21 19 12 19 49 24 23 19 20 4 22 16 19 19 4 17 9 17 20 21 19 18 21 16 55 5 19 18 18 20 2013 22 20 13 20 50 25 24 20 21 5 23 17 20 20 5 18 10 18 21 22 20 19 22 17 56 6 20 19 19 21 2014 23 21 14 21 51 26 25 21 22 6 24 18 21 21 6 19 11 19 22 23 21 20 23 18 57 7 21 20 20 22 2015 24 22 15 22 52 27 26 22 23 7 25 19 22 22 7 20 12 20 23 24 22 21 24 19 58 8 22 21 21 23
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Nguồn: Thu thập bởi tác giả
STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB
Phụ lục 05. Quy mô tài sản của các ngân hàng trong mẫu NH 2014 2011 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 0 1 1 1 1 2009 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 2013 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 2010 1 1 1 0 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 0 0 0 0 0 2012 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 0 1 1 2015 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 1 0 0 0 0 0 1 1 1 1 1 0 0 1 1 1
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Nguồn: Thu thập bởi tác giả
Phụ lục 06. Cơ cấu sở hữu của các ngân hàng trong mẫu
STT
NH
STB
1
0
ACB
0
0
2
0
0
0
1
1
PVF
1
1
3
1
1
1
1
1
SHB
1
1
4
1
1
1
1
1
VCB
1
1
5
1
1
1
1
1
CTG
1
1
6
1
1
1
1
1
EIB
1
1
7
1
1
1
1
1
TCB
1
1
8
1
1
1
0
0
SCB
0
0
9
0
0
0
1
1
LVB
1
1
10
1
1
1
1
1
HDB
1
1
11
1
1
1
1
1
OCB
1
1
12
1
1
1
1
1
SGB
1
1
13
1
1
1
1
1
ABB
1
1
14
1
1
1
1
1
TPB
1
1
15
1
1
1
0
0
KLB
1
1
16
0
0
0
1
1
VAB
1
1
17
1
1
1
1
1
NVB
1
1
18
1
1
1
0
0
NAB
0
0
19
0
0
0
0
0
GDB
1
1
20
0
0
0
0
0
VPB
0
0
21
0
0
0
1
1
MBB
1
1
22
1
1
1
1
1
MSB
1
1
23
1
1
1
0
0
VIB
0
0
24
0
0
0
1
1
BID
1
1
25
1
1
1
0
0
VTTB
0
0
26
0
0
0
1
1
PGB
1
1
27
1
1
1
0
0
NASB
0
0
28
0
0
0
1
1
SEAB
1
1
29
1
1
1
1
1
EAB
1
1
30
1
1
1
0
2009 0 2010 0 2011 0 2012 0 2013 0 2014 0 2015 0
Nguồn: Thu thập bởi tác giả
Phụ lục 07. Chỉ số ROA của các ngân hàng trong mẫu
2011 0,01 0,01 0,00 0,01 0,03 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 NH STB ACB PVF SHB VCB CTG EIB TCB SCB LVB HDB OCB SGB ABB TPB KLB VAB NVB NAB GDB VPB MBB MSB VIB BID VTTB PGB NASB SEAB EAB 2009 0,01 0,01 0,02 0,00 0,04 0,02 0,02 0,01 0,01 0,00 0,01 0,01 0,01 0,01 0,00 0,01 0,01 0,00 0,01 0,00 0,01 0,02 0,01 0,01 0,03 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 2010 0,01 0,01 0,02 0,01 0,03 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,03 0,00 0,01 0,00 0,02 0,01 2012 0,01 0,01 0,01 0,01 0,03 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,02 0,02 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,02 0,02 0,01 0,02 0,01 0,02 0,02 2013 0,02 0,01 0,02 0,02 0,02 0,01 0,01 0,02 0,01 0,02 0,01 0,02 0,01 0,02 0,02 0,01 0,02 0,02 0,01 0,01 0,01 0,02 0,03 0,02 0,02 0,01 0,02 0,01 0,03 0,02 2014 0,01 0,01 0,03 0,02 0,02 0,01 0,01 0,02 0,01 0,02 0,02 0,01 0,01 0,03 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,02 0,03 0,03 0,02 0,01 0,01 0,01 0,02 0,02 2015 0,01 0,01 0,02 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,02 0,02 0,01 0,01 0,01 0,01 0,02 0,02 STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
Nguồn: Thu thập bởi tác giả
Biến phụ thuộc: rủi ro tín dụng
Phụ lục 08. Kết quả kiểm định mô hình hồi quy
Biến
Hệ số
Độ lệch
Thống kê
Xác suất
tương quan
tiêu chuẩn
Hiệu quả kinh doanh
-1,246569
0,054798
22,74840
0,0000
Hằng số
-0,355965
0,041992
-8,477028
0,0000
R-squared
0,713297 Mean dependent var
0,592673
Adjusted R-squared
0,711919 S.D. dependent var
0,133104
S.E. of regression
0,071441 Akaike info criterion
-2,430401
Sum squared resid
1,061605 Schwarz criterion
-2,398524
Log likelihood
257,1921 F-statistic
517,4896
Durbin-Watson stat
1,639273 Prob(F-statistic)
0,000000
Nguồn: Kết quả kiểm định trên Eviews 6.0
Phụ lục 09. Tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào và đầu ra
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Trung
bình
/2009
/2010
/2011
/2012
/2013
/2014
Đầu vào
1. Tài sản cố định
0,15
0,52
0,04
0,16
0,23
0,28
0,23
2. Tiền gửi của khách hàng
0,17
0,35
0,01
0,24
0,13
0,36
0,21
3. Lao động
0,44
0,43
0,5
0,30
0,74
0,20
0,43
Đầu ra
1. Cho vay khách hàng
0,28
0,23
0,16
0,16
0,15
0,14
0,18
2. Tài sản sinh lời khác
0,15
0,22
0,01
0,18
0,09
0,27
0,16
3. Rủi ro tín dụng
0,31
0,02
0,11
0,01
0,04
0,08
0,08
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả