1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM THẾ ANH
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG LAN TỎA CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM THẾ ANH
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG LAN TỎA CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển
Mã số: 62.31.05.01
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀI
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số liệu
thu thập và kết quả phân tích trong luận án là trung thực, và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Phạm Thế Anh
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi muốn được bày tỏ là lòng biết ơn sâu sắc nhất tới GS.TS
Nguyễn Trọng Hoài, người hướng dẫn khoa học của tôi. Nếu không có sự định hướng,
những lời nhận xét, góp ý và sự hướng dẫn tận tâm của Thầy trong quá trình nghiên
cứu thì luận án đã không thể hoàn thành. Sự động viên, giúp đỡ và dìu dắt của Thầy đã
cho tôi thêm nghị lực để vượt lên mọi khó khăn, trở ngại.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Khoa Kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh nơi tôi học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là
Thầy Nguyễn Hoàng Bảo, Thầy Phạm Khánh Nam, Cô Hoàng Thị Chỉnh, Thầy
Trương Quang Hùng, Thầy Nguyễn Hữu Dũng. Các Thầy, Cô đã đem đến cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm hết sức quý báu cho cuộc đời của tôi, và nhất là Thầy
Phạm Khánh Nam đã luôn giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu và Quý Thầy Cô Khoa Kinh tế, Trường Đại học
Nha Trang, nơi tôi đang công tác, đã chia sẻ, động viên, và giúp đỡ để tôi hoàn thành
luận án này.
Và cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến vợ, con gái, mẹ, bố mẹ vợ và
các em trong gia đình, đã ủng hộ, động viên, yêu thương và chăm sóc khích lệ tôi. Đây
là những người đã luôn đồng hành, là chỗ dựa vững chắc để tôi yên tâm học tập và
hoàn thành luận án.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2017
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Trang
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................ii
MỤC LỤC ..................................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. viii
DANH MỤC BẢNG ...................................................................................................... ix
DANH MỤC SƠ ĐỒ ..................................................................................................... xi
TÓM TẮT .....................................................................................................................xii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1
1.1 Bối cảnh nghiên cứu ................................................................................................. 1
1.1.1 Bối cảnh thế giới .................................................................................................... 1
1.1.2 Bối cảnh Việt Nam ................................................................................................ 4
1.2 Vấn đề nghiên cứu .................................................................................................... 8
1.3 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 10
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 11
1.5 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ..................................................................... 12
1.5.1 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 12
1.5.2 Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................................. 13
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu ......................................................................................... 14
1.6.1 Ý nghĩa học thuật ................................................................................................ 14
1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................. 15
1.7 Bố cục của luận án .................................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ TÁC ĐỘNG LAN TỎA .......................................................................... 17
2.1 Giới thiệu ................................................................................................................. 17
2.2 Khái niệm và phân loại FDI ................................................................................. 18
2.2.1 Khái niệm FDI ..................................................................................................... 18
iv
2.2.2 Phân loại FDI ....................................................................................................... 19
2.3 Tác động lan tỏa từ FDI ......................................................................................... 20
2.3.1 Khái niệm tác động lan tỏa ................................................................................. 20
2.3.2 Sự hiện diện của FDI ........................................................................................... 21
2.3.3 Các kênh lan tỏa từ FDI ..................................................................................... 23
2.3.3.1 Kênh lan tỏa theo chiều ngang ........................................................................ 23
2.3.2.2 Kênh lan tỏa theo chiều dọc ............................................................................ 25
2.4 Các lý thuyết về FDI và tác động lan tỏa ............................................................. 28
2.4.1 Lý thuyết tăng trưởng ......................................................................................... 28
2.4.1.1 Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển .................................................................. 28
2.4.1.2 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh ....................................................................... 29
2.4.2 Lý thuyết động cơ nhà đầu tư ............................................................................ 30
2.4.2.1 Lý thuyết chiết trung ....................................................................................... 30
2.4.2.2 Lý thuyết vòng đời sản phẩm .......................................................................... 31
2.4.2.3 Lý thuyết về quyền lợi thị trường ................................................................... 32
2.4.3 Lý thuyết sản xuất và tiến bộ công nghệ ........................................................... 33
2.4.4 Lý thuyết về khả năng hấp thụ .......................................................................... 36
2.4.5 Tổng hợp các nghiên cứu lý thuyết .................................................................... 37
2.5 Lược khảo các nghiên cứu trước .......................................................................... 39
2.5.1 Các nghiên cứu trước về lan tỏa công nghệ từ FDI ......................................... 39
2.5.2 Các nghiên cứu trước về lan tỏa xuất khẩu từ FDI ......................................... 50
2.6 Khung phân tích đề nghị cho nghiên cứu của luận án ....................................... 60
2.6.1 Khe hổng nghiên cứu .......................................................................................... 60
2.6.2 Khung phân tích đề nghị cho luận án ............................................................... 61
2.7 Tóm tắt chương ...................................................................................................... 63
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 64
3.1 Giới thiệu ................................................................................................................. 64
3.2 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu ................................................ 65
v
3.2.1 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu về lan tỏa công nghệ từ FDI ........................................................................................................................................ 65
3.2.1.1 Biến mục tiêu “Năng suất” .............................................................................. 66
3.2.1.2 Sự hiện diện của FDI và tác động lan tỏa công nghệ .................................... 67
3.2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa công nghệ từ FDI ................................. 70
3.2.1.4 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và ngành đến năng suất ................. 74
3.2.2 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu về lan tỏa xuất khẩu từ FDI ........................................................................................................................................ 78
3.2.2.1 Biến mục tiêu “Năng lực xuất khẩu” ............................................................. 78
3.2.2.2 Sự hiện diện của FDI và tác động lan tỏa xuất khẩu .................................... 79
3.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa xuất khẩu từ FDI ................................. 82
3.2.2.4 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và ngành đến năng lực xuất khẩu . 86
3.3 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm đề nghị ........................................................... 91
3.3.1 Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI ........................................ 91
3.3.1.1 Mô hình nghiên cứu đề nghị ............................................................................ 91
3.3.1.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa công nghệ ................................. 94
3.3.2 Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI ........................................ 96
3.3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề nghị ............................................................................ 96
3.3.2.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa xuất khẩu ................................. 98
3.4 Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................... 100
3.5 Kỹ thuật ước lượng mô hình ............................................................................... 103
3.5.1 Ước lượng mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI ................................................ 103
3.5.1.1 Dữ liệu bảng .................................................................................................... 103
3.5.1.2 Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model – FEM) ............................. 104
3.5.1.3 Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model – REM) ................. 105
3.5.1.4 Lựa chọn mô hình – Kiểm định Hausman ................................................... 107
3.5.2 Ước lượng mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI ................................................ 108
3.5.2.1 Mô hình chọn mẫu Heckman (Heckman Sample Selection Model) .......... 108
3.5.2.2 Các phương pháp ước lượng ........................................................................ 110
vi
3.6 Tóm tắt chương .................................................................................................... 111
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......... 114
4.1 Giới thiệu ............................................................................................................... 114
4.2 Mô tả dữ liệu nghiên cứu ..................................................................................... 114
4.2.1 Phân bố mẫu theo ngành nghề qua các năm .................................................. 114
4.2.2 Phân bố mẫu theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp ........................... 116
4.2.3 Phân bố mẫu theo ngành nghề và các thang đo FDI ..................................... 117
4.2.4 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI ...................................................................................................................................... 118
4.2.5 Phân bố mẫu theo ngành nghề và quyết định xuất khẩu .............................. 120
4.2.6 Phân bố mẫu theo loại hình doanh nghiệp và quyết định xuất khẩu ........... 121
4.2.7 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI ...................................................................................................................................... 122
4.3 Kết quả ước lượng mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI ..................................... 124
4.3.1 Các kiểm định cơ bản ....................................................................................... 124
4.3.2 Tác động lan tỏa công nghệ từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng .................... 126
4.3.3 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đến năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước .......................................................................... 130
4.3.4 Phân tích độ nhạy với ba thang đo đại diện FDI (Sensitivity Analysis) ...... 133
4.4 Kết quả ước lượng mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI ..................................... 137
4.4.1 Các kiểm định cơ bản ....................................................................................... 137
4.4.2 Tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng .................... 140
4.4.3 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ................................................................. 144
4.4.4 Phân tích độ nhạy với ba thang đo đại diện FDI (Sensitivity Analysis) ...... 148
4.5 Tóm tắt chương .................................................................................................... 153
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ......................................... 155
5.1 Kết luận ................................................................................................................. 155
5.2 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa của FDI tại Việt Nam .................... 161
vii
5.2.1 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa công nghệ từ FDI ....................... 161
5.2.1.1 Rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI .................................................................................................................. 161
5.2.1.2 Gia tăng liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn hóa cao và quy mô lớn .......................................................................... 162
5.2.1.3 Nhân rộng kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư giữa các khu vực ...... 163
5.2.2 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI ....................... 163
5.2.2.1 Tăng cường hỗ trợ khối doanh nghiệp tư nhân .......................................... 163
5.2.2.2 Thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có thâm niên hoạt động và mức độ vốn hóa cao .......................................................... 164
5.2.2.3 Tăng cường thu hút hút FDI vào khu vực phía Bắc và Trung .................. 165
5.3 Những đóng góp chính của luận án .................................................................... 165
5.3.1 Đóng góp về lý thuyết ........................................................................................ 165
5.3.2 Đóng góp về thực tiễn ....................................................................................... 166
5.4 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................. 167
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................... 169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 170
PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................. 187
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................. 194
PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................. 200
viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
FDI Foreign Direct Investment
MNEs Multinational Enterprises
WTO World Trade Organisation
IMF International Monetary Fund
FEM Fixed Effect Model
REM Random Effect Model
GMM Generalised Method of Moment
MLE Maximum Likelihood Estimator
TCTK Tổng cục Thống kê
BKHĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng Trang
Bảng 2.1 Ưu điểm và hạn chế của các thang đo đại diện FDI ..................................... 22
Bảng 2.2 Tóm tắt các nghiên cứu trước về lan tỏa công nghệ của FDI ....................... 47
Bảng 2.3 Tóm tắt các nghiên cứu trước về lan tỏa xuất khẩu của FDI ........................ 56
Bảng 3.1 Định nghĩa các biến số trong mô hình lan tỏa công nghệ ............................. 96
Bảng 3.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa xuất khẩu .................................. 99
Bảng 4.1 Phân bố mẫu theo ngành nghề qua các năm ............................................... 115
Bảng 4.2 Phân bố mẫu theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp .......................... 116
Bảng 4.3 Phân bố mẫu theo ngành nghề và các thang đo FDI ................................... 118
Bảng 4.4 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ
từ FDI .......................................................................................................................... 119
Bảng 4.5 Phân bố mẫu theo ngành nghề và quyết định xuất khẩu ............................. 120
Bảng 4.6 Phân bố mẫu theo loại hình doanh nghiệp và quyết định xuất khẩu ........... 122
Bảng 4.7 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu
từ FDI .......................................................................................................................... 123
Bảng 4.8 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến
chế tạo Việt Nam ......................................................................................................... 125
Bảng 4.9 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) cho các biến số trong mô hình lan
tỏa công nghệ từ FDI ................................................................................................... 126
Bảng 4.10 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ
x
từ FDI .......................................................................................................................... 126
Bảng 4.11 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI (Thang đo fdie) ............ 134
Bảng 4.12 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI (Thang đo fdia) ............. 135
Bảng 4.13 Kết quả ước lượng mô hình Heckman về lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam ................................................................... 138
Bảng 4.14 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) của các biến số chính trong mô
hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI ..................................................................................... 139
Bảng 4.15 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu
từ FDI .......................................................................................................................... 140
Bảng 4.16 Kết quả ước lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Thang đo fdie) .............. 149
Bảng 4.17 Kết quả ước lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Thang đo fdia) .............. 150
xi
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ Trang
Sơ đồ 2.1 Khung khái niệm từ các nghiên cứu lý thuyết ............................................ 38
Sơ đồ 2.2 Khung phân tích đề nghị cho luận án ......................................................... 62
Sơ đồ 3.1 Mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI ............................. 77
Sơ đồ 3.2 Mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI .............................. 90
xii
TÓM TẮT
Luận án này nghiên cứu một cách có hệ thống về các tác động lan tỏa của dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) tại Việt Nam, trong
đó tập trung phân tích và kiểm định hiệu ứng lan tỏa và các nhân tố quyết định đến lan
tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Tác động lan tỏa là những hiệu ứng ngoại
tác về thông tin xuất phát từ những tương tác có chủ đích hay không có chủ đích giữa
các chủ thể kinh tế theo thời gian. Thông qua khả năng rò rỉ, phát tán và chuyển giao,
chia sẻ thông tin, các doanh nghiệp FDI có thể gián tiếp tác động đến năng lực công
nghệ và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Các kênh lan tỏa từ FDI
bao gồm sự di chuyển lao động, biểu thị và bắt chước, áp lực cạnh tranh và các mối
liên kết cung ứng. Quy mô lan tỏa từ FDI không diễn ra đồng nhất đối với tất cả doanh
nghiệp trong cùng ngành hay cho toàn bộ doanh nghiệp trong nước mà rất đa dạng vì
phụ thuộc vào khả năng hấp thụ hay đặc trưng riêng của từng doanh nghiệp.
Tác động lan tỏa từ FDI là đề tài nghiên cứu khá mới và nhận được sự quan tâm
gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt là ở các quốc gia mới nổi và đang phát triển
khi dòng vốn FDI gia tăng cho thấy những tác động không mong muốn đến môi trường
và nền kinh tế trong nước. Với trường hợp Việt Nam, một số nghiên cứu về lan tỏa
công nghệ đã được thực hiện với dữ liệu từ trước năm 2011 và chỉ có hai nghiên cứu về
lan tỏa xuất khẩu sử dụng dữ liệu trước năm 2005 với cỡ mẫu khá nhỏ. Bên cạnh đó,
các nghiên cứu này chủ yếu tập trung kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa, xác
định kênh lan tỏa và sử dụng một thang đo đại diện FDI. Trong khi đó, bước nghiên
cứu tiếp theo là tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa thì vẫn chưa
được tìm hiểu sâu. Đây là những khoảng trống nghiên cứu mà luận án này đóng góp.
Dựa trên kết quả tổng quan và lược khảo lý thuyết, luận án đã xác định các khe
hổng nghiên cứu và xây dựng khung phân tích đề nghị được trình bày trong Chương 2.
Trong đó, hai nhánh nghiên cứu chính của luận án là phân tích tác động lan tỏa công
xiii
nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI thông qua việc kiểm định sự tồn tại của các hiệu ứng
lan tỏa và đặc biệt là các nhân tố quyết định lan tỏa, từ đó đề xuất các hàm ý chính sách
về tác động lan tỏa của FDI tại Việt Nam. Tiếp đến, để hiện thực hóa khung phân tích
và các mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu lựa chọn được trình bày và phân
tích trong Chương 3. Với hiệu ứng lan tỏa công nghệ, luận án sử dụng cách tiếp cận
hàm sản xuất Cobb-Douglas để xây dựng và ước lượng mô hình hàm năng suất của các
doanh nghiệp trong nước và các biến số tác động, trong đó bao gồm thang đo đại diện
cho FDI. Với hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu, mô hình chọn mẫu Heckman được áp dụng
nhằm kiểm soát vấn đề thiên lệch chọn mẫu do chỉ có một số lượng nhất định doanh
nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu.
Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ được ước lượng bằng phương pháp
ước lượng dữ liệu bảng, bao gồm mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác
động ngẫu nhiên (REM). Kiểm định Hausman được sử dụng để so sánh và xác định sự
phù hợp của mô hình FEM và mô hình REM. Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa xuất
khẩu được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại (MLE) cho hai quyết định
tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu theo mô hình chọn mẫu Heckman. Mô hình
Heckman có ưu thế vượt trội khi tính đến mối tương quan giữa hai quyết định xuất
khẩu và điều chỉnh, kiểm soát vấn đề thiên lệch lựa chọn mẫu. Kỹ thuật ước lượng
MLE cho phép ước lượng đồng thời hai phương trình xuất khẩu với sai số chuẩn mạnh
để kiểm soát vấn đề phương sai thay đổi.
Sau khi xác định khung phân tích và phương pháp nghiên cứu, luận án thực hiện
ước lượng và kiểm định tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam, sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp
trong giai đoạn 2011 – 2013. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các cuộc điều tra
toàn diện doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê thực hiện với mẫu nghiên cứu sau khi
sàng lọc bao gồm 137,419 quan sát. Các phân tích và thảo luận chi tiết kết quả nghiên
xiv
cứu thực nghiệm được trình bày trong Chương 4. Các kết quả nghiên cứu chính được
tóm tắt dưới đây:
Thứ nhất, tồn tại hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI diễn ra
không đồng nhất mà phụ thuộc vào khả năng hấp thụ hay đặc trưng riêng của doanh
nghiệp trong nước. Trong đó, các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước có mức độ
vốn hóa cao hơn, quy mô sản xuất lớn hơn sẽ càng có nhiều lợi thế và hưởng lợi nhiều
hơn từ hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI. Trong khi đó, khoảng cách công nghệ lớn
giữa doanh nghiệp trong nước so với doanh nghiệp FDI là một rào cản khiến doanh
nghiệp trong nước khó có thể hấp thụ lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI. Doanh nghiệp
ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long có khả năng hưởng lợi nhiều
hơn từ lan tỏa công nghệ của FDI.
Thứ hai, sự hiện diện của doanh nghiệp FDI có tác động lan tỏa đến quyết định
tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô
lan tỏa xuất khẩu từ FDI diễn ra không đồng nhất mà phụ thuộc vào khả năng hấp thụ
hay đặc trưng riêng của doanh nghiệp trong nước. Theo đó, các doanh nghiệp từng có
kinh nghiệm xuất khẩu; doanh nghiệp thành lập lâu năm; doanh nghiệp sở hữu tư nhân;
doanh nghiệp có mức độ vốn hóa cao hơn thì có khả năng hấp thụ tốt hơn hiệu ứng lan
tỏa xuất khẩu từ FDI. Ngoài ra, các doanh nghiệp ở khu vực miền Bắc và Trung Bộ có
điều kiện thuận lợi hơn trong hấp thụ hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Thứ ba, các đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành có ảnh hưởng đáng kể
đến năng suất lao động và năng lực xuất khẩu của của doanh nghiệp trong nước. Cụ
thể, mức độ vốn hóa và chất lượng lao động có quan hệ cùng chiều nhưng khoảng cách
công nghệ và mức độ cạnh tranh trong ngành có quan hệ ngược chiều với năng suất lao
động. Trong khi đó, kinh nghiệm xuất khẩu, độ tuổi, vị trí trong khu công nghiệp có
quan hệ cùng chiều với năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp nhưng mức độ cạnh tranh
xv
trong ngành có quan hệ ngược chiều. Các doanh nghiệp phía Bắc và Trung Bộ ít có khả
năng tham gia thị trường xuất khẩu và nếu có xuất khẩu thì tỷ trọng xuất khẩu cũng
thấp hơn so với các doanh nghiệp ở Khu vực phía Nam.
Thứ tư, luận án ước lượng mô hình lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu sử
dụng ba thang đo đại diện cho FDI, bao gồm: tỷ trọng doanh thu (fdio), tỷ trọng lao
động (fdie) và tỷ trọng tài sản (fdia) của doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả ước
lượng chính sử dụng thang đo phổ biến là tỷ trọng doanh thu (fdio). Tiếp đến, phân tích
độ nhạy được thực hiện khi ước lượng mô hình với hai thang đo còn lại là fdie và fdia.
Kết quả phân tích độ nhạy cho thấy sự tương đồng tương đối cao về chiều hướng và
mức độ ảnh hưởng của các biến số. Trong đó, kết quả kiểm định đều cho thấy sự tồn tại
của tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế
biến chế tạo Việt Nam. Một điểm đáng lưu ý là tham số ước lượng fdie có giá trị dương
nhưng không có ý nghĩa thống kê và giá trị ước lượng cũng có sự chênh lệch đáng kể
so với ước lượng fdio và fdia. Nhìn chung, các tham số ước lượng trong các mô hình sử
dụng ba thang đo có sự nhất quán khá cao về dấu và độ lớn.
Kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở để đề xuất một số gợi ý chính sách
nhằm phát huy hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt
Nam. Trong đó, hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI có thể được gia tăng thông qua việc
thúc đẩy các mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có mức
độ vốn hóa cao và quy mô lớn; chú trọng các giải pháp rút ngắn khoảng cách công
nghệ; chia sẻ và nhân rộng kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư của các doanh
nghiệp khu vực phía Nam đến các địa phương khác. Các chính sách giúp khuếch đại
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
cũng được đa ra dựa trên các kết quả ước lượng. Các giải pháp trọng tâm bao gồm: hỗ
trợ khối doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp có thâm niên hoạt động và mức độ vốn
hóa cao; tăng cường thu hút FDI vào khu vực phía Bắc và Trung.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1 Bối cảnh thế giới
Trong những thập niên gần đây, các nghiên cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm đã tập
trung tìm hiểu về vai trò và tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign
Direct Investment – FDI) đối với nước tiếp nhận. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra khá
nhiều bằng chứng ghi nhận các đóng góp và ảnh hưởng tích cực của FDI đến doanh
nghiệp và nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư (Jayachandran & Seilan, 2010). Nhìn
chung, tác động của FDI đến nước tiếp nhận diễn ra theo hai kênh: trực tiếp và gián tiếp.
Thứ nhất, thông qua việc thực hiện các hợp đồng liên doanh liên kết hay xây dựng
mới cơ sở sản xuất tại nước tiếp nhận, doanh nghiệp FDI tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến
nền kinh tế nước tiếp nhận bằng việc bổ sung cho nguồn vốn đầu tư trong nước; đóng góp
nguồn thu ngân sách; tạo ra công ăn việc làm; chuyển giao công nghệ và kỹ thuật hiện đại.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp FDI cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ hai, doanh nghiệp FDI còn tạo ra những tác động gián tiếp hay hiệu ứng lan
tỏa (spillovers/externalities) đến doanh nghiệp và kinh tế địa phương thông qua những
mối liên kết giữa hai nhóm doanh nghiệp này khi cùng hoạt động trong một khu vực
lãnh thổ xác định. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty
đa quốc gia (Multinational Enterprises – MNEs), vốn được xem là có tiềm lực tài chính
và ưu thế vượt trội về công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm quản lý và marketing so với
các doanh nghiệp bản địa ở các nước đang phát triển. Vì vậy, qua quá trình tương tác
và học hỏi từ các doanh nghiệp nước ngoài thì doanh nghiệp trong nước có thể từng
bước cải thiện, nâng cao năng suất hoạt động, năng lực công nghệ và khả năng cạnh
2
tranh trong thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu, từ đó góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Trong khi lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển (Solow, 1956; Todaro, 1997) xem
FDI là kênh cung cấp vốn quan trọng thì lý thuyết tăng trưởng nội sinh (Romer, 1986;
Lucas, 1988) nhấn mạnh vai trò và ảnh hưởng dài hạn của hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến
nền kinh tế nước tiếp nhận. Doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các công ty đa quốc gia,
thường có ưu thế vượt trội về trình độ công nghệ và kinh nghiệm tham gia thị trường
quốc tế để có thể vượt qua những rào cản khi gia nhập thị trường mới và cạnh tranh
thành công với các doanh nghiệp bản địa vốn có nhiều kiến thức và liên kết tại thị
trường trong nước (Graham & Krugman, 1995). Sự hiện diện của doanh nghiệp FDI
với nhiều lợi thế có thể gián tiếp tạo ra tác động tích cực và lâu dài đến năng lực công
nghệ và năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước thông qua quá trình tương tác
trong khu vực địa lý nhất định.
Về mặt khái niệm, tác động lan tỏa được định nghĩa là những ngoại tác động
(dynamic externalities) về thông tin xuất phát từ những tương tác có chủ đích hay
không có chủ đích giữa các chủ thể kinh tế theo thời gian (Rosenbloom & Marshallian,
1990). Tác động lan tỏa từ FDI diễn ra khi doanh nghiệp FDI gặp khó khăn để bảo vệ
những tài sản chuyên biệt của mình như công nghệ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến, bí
quyết công nghệ và quản trị, kỹ năng marketing, cơ sở dữ liệu về khách hàng, và khả
năng tiếp cận thị trường,…, và những tài sản này bị rò rỉ ra bên ngoài và từ đó doanh
nghiệp trong nước tiếp thu được (Caves, 1996). Thêm vào đó, doanh nghiệp FDI cũng
có thể chủ động chia sẻ thông tin và chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp trong
nước là khách hàng hay nhà cung ứng của mình (Görg & Greenaway, 2004). Thông
qua khả năng rò rỉ, phát tán và chia sẻ thông tin mang tính thụ động và/hoặc chủ động
này mà FDI có thể gián tiếp nâng cao trình độ công nghệ và năng suất sản xuất (tạo ra
3
tác động lan tỏa công nghệ) hay tăng cường năng lực xuất khẩu (tạo ra tác động lan tỏa
xuất khẩu) của các doanh nghiệp trong nước.
Tác động lan tỏa từ FDI đến doanh nghiệp trong nước có thể diễn ra đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành (lan tỏa chiều ngang) hay khác ngành (lan
tỏa chiều dọc) (Blomstrom & Kokko, 1998). Trong đó, lan tỏa chiều dọc xuất phát từ
các liên kết công nghiệp khi doanh nghiệp FDI trở thành khách hàng (liên kết ngược)
hoặc nhà cung ứng (liên kết xuôi) của doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp
trong nước có thể nâng cao năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu thông qua quá
trình quan sát và học hỏi kiến thức, kinh nghiệm và kỹ thuật từ doanh nghiệp FDI;
tuyển dụng lao động đã qua đào tạo tại doanh nghiệp FDI; hay tự cải tiến, đổi mới công
nghệ do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI (Blomström & Sjöholm, 1999;
Javorcik, 2004; Newman & cộng sự, 2014, 2015).
So với các tác động trực tiếp, tác động gián tiếp hay lan tỏa của FDI là hướng
nghiên cứu khá mới và nhận được sự quan tâm ngày càng gia tăng của giới học thuật,
các nhà nghiên cứu cũng như nhà hoạch định chính sách trong thời gian gần đây.
Doanh nghiệp FDI thường sở hữu những ưu thế vượt trội, đặc biệt là về công nghệ, tài
chính và kinh nghiệm tham gia thị trường quốc tế, nhờ đó có thể tạo ra chất xúc tác
mang đến những chuyển đổi tích cực cho các doanh nghiệp trong nước. Những tác
động gián tiếp hay “lan tỏa” này được kỳ vọng là diễn ra với quy mô lớn hơn nhiều so
với các tác động trực tiếp.
Khác với những tác động trực tiếp vốn mang tính ‘hữu hình’ có thể dễ dàng được
đánh giá phân tích qua các phân tích định lượng; các tác động lan tỏa lại mang tính ‘vô
hình’ nên thường khó nhận biết và đo lường hơn. Đây có thể là một lý do khiến cho đề
tài nghiên cứu này có sức hút lớn đối với các nhà nghiên cứu; mặt khác giải thích cho
những kết quả thực nghiệm đa dạng và thậm chí là trái chiều về các hiệu ứng lan tỏa.
Một số nghiên cứu đã cho thấy tác động lan tỏa tích cực từ FDI như Caves (1974);
4
Globerman (1979); Aitken và cộng sự (1997); Sun (2009). Tuy nhiên, một số tác giả
khác lại chứng minh được rằng FDI không tạo ra hiệu ứng lan tỏa, thậm chí còn tạo ra
lan tỏa tiêu cực đến doanh nghiệp và nền kinh tế trong nuớc do áp lực cạnh tranh gia
tăng và khả năng hấp thụ lan tỏa thấp của doanh nghiệp trong nước (Aitken & Harrison,
1999; Sadik & Bolbol, 2001; Ruane & Sutherland, 2005). Do vậy, các bằng chứng thực
nghiệm về lan tỏa từ FDI cần được bổ sung nhằm củng cố các lập luận của tác động lan
tỏa khi mà các kết quả nghiên cứu ban đầu chưa có xu hướng thống nhất cao.
Ngoài ý nghĩa về mặt học thuật, nghiên cứu về các tác động lan tỏa của FDI còn
mang nhiều giá trị và hàm ý về mặt chính sách. Thực tế cho thấy sự cạnh tranh gia tăng
giữa chính phủ các nước phát triển cũng như đang phát triển trong chính sách thu hút
dòng vốn FDI. Ưu đãi về tài chính (đặc biệt là thuế), thuê đất hoặc thuê mặt bằng, cải
cách hải quan, tạo môi trường pháp lý thông thoáng được xem là những chính sách phổ
biến và hiệu quả nhằm mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài. Mục tiêu cuối cùng của các
chính sách này là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh tác động trực
tiếp và gián tiếp của FDI. Do vậy, kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các tác động lan
tỏa sẽ cung cấp cơ sở để có thể đánh giá toàn diện và chính xác hơn về các chính sách
thu hút và sử dụng FDI; đồng thời gợi ý và đề xuất các giải pháp chính sách cụ thể
nhằm tối đa hóa các lan tỏa tích cực và giảm thiểu các lan tỏa tiêu cực để từ đó đóng
góp hiệu quả cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
1.1.2 Bối cảnh Việt Nam
Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với việc
ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và các luật sửa đổi bổ sung (năm 1990,
1992, 1996, 2000, 2005, 2014), Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương
đối đồng bộ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Tổng cục Thống kê (TCTK, 2016), tổng số vốn FDI đăng ký đã tăng từ 735 triệu
USD (năm 1990) lên đến 281,9 tỷ USD (năm 2015). Số dự án đăng ký cũng nhảy vọt
5
từ 211 dự án (cho cả giai đoạn 1988-1990) lên 2,120 (năm 2015)1. Việt Nam đã và
đang không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng khả năng cạnh tranh
trong thu hút FDI, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm đầu tư trên toàn thế giới do cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Khu vực FDI là khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam (Nguyễn Thị Cành & Trần
Hùng Sơn, 2009; Nguyễn Thị Thìn, 2009). Các số liệu từ Tổng cục Thống kê cũng cho
thấy đóng góp của FDI cho đầu tư phát triển xã hội tăng từ 16% giai đoạn 2001-2005
lên gần 24% giai đoạn 2006-2015 (TCTK, 2016). Ngoài ra, FDI cũng giữ vai trò quan
trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tỷ trọng nông nghiệp từ 80% (năm 1988)
xuống chỉ còn 17% (2015). Về đóng góp cho nguồn thu ngân sách, tỷ trọng của khu
vực FDI tăng từ 5.2% năm 2000 lên hơn 14% năm 2014 (TCTK, 2016). Với thị trường
lao động, các doanh nghiệp FDI đã trực tiếp tạo ra việc làm cho một lượng lớn lao
động trong nước với mức tăng từ 358,5 nghìn lao động (năm 2000) lên 4,2 triệu lao
động (năm 2015) và giúp tạo hàng triệu lao động gián tiếp khác (TCTK, 2016). Đáng
chú ý là năng suất lao động khu vực FDI cao nhất trong các khu vực kinh tế khi mà chỉ
với 4% trong tổng số lao động trong nền kinh tế nhưng khu vực này tạo ra 20% GDP.
Hơn thế nữa, khu vực FDI có vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu
của Việt Nam. Năm 1995, đóng góp của khu vực này chỉ chiếm 27% tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu cả nước (TCTK, 2016). Tuy nhiên, chỉ hai năm sau khi ký kết Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – Hoa Kỳ, khu vực FDI đã lớn mạnh nhanh chóng và
từ năm 2003 xuất khẩu từ khu vực FDI đã bắt đầu vượt qua khu vực trong nước để dần
trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu. Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp FDI
đã gia tăng từ mức bình quân 56% (giai đoạn 2005-2009) lên hơn 63% (giai đoạn
1 Xem Phụ lục 1 về các số liệu thống kê chi tiết dòng vốn FDI và đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam.
2010-2015) (TCTK, 2016). Trong đó, năm 2015 khu vực này có mức đóng góp kỷ lục
6
với hơn 70% và giữ vai trò chủ lực trong xuất khẩu một số mặt hàng như điện thoại,
máy vi tính, linh kiện điện tử, dệt may hay da giày (TCTK, 2016). Cùng với tốc độ
tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu, khu vực FDI đã góp phần cải thiện cán cân
thương mại chung của Việt Nam, từ chỗ luôn ở trong tình trạng thâm hụt khá lớn đến
nay đã trở nên cân bằng và tạo ra thặng dư từ năm 2012.
Bên cạnh những đóng góp tích cực đã được ghi nhận thì việc thu hút FDI trong
thời gian qua cũng tạo ra nhiều tác động không mong đợi (Võ Thanh Thu & Ngô Thị
Hải Xuân, 2010; Nguyễn Thị Thìn, 2009). Một số doanh nghiệp FDI trong khi theo
đuổi mục đích lợi nhuận đã bất chấp vấn đề môi trường, gây ra những hậu quả nghiêm
trọng. Hiệu quả trong chuyển giao công nghệ còn thấp khi nhiều nhà đầu tư chỉ đưa
vào Việt Nam những công nghệ lạc hậu hoặc không then chốt với mục tiêu chính là
khai thác lợi thế lao động rẻ, tài nguyên sẵn có. Thực tế, theo đánh giá tại Việt Nam thì
công nghệ FDI chỉ khoảng 5% là hiện đại, 80% là công nghệ trung bình và 15% là
công nghệ khá (BKHĐT, 2014). Bên cạnh đó, sự mất cân đối trong cơ cấu ngành, vùng
đầu tư; tỷ lệ giải ngân thấp; vấn đề chuyển giá, né tránh thuế, tỷ lệ nội địa hóa thấp...là
những tồn tại góp phần làm gia tăng sự ngờ vực về những hiệu quả thực sự và tác động
lan tỏa của FDI tại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu các tác động lan tỏa của FDI càng trở
nên cấp thiết trong bối cảnh đầu tư hiện nay tại Việt Nam.
Trong số các nghiên cứu đã được thực hiện về FDI tại Việt Nam thì đa phần tập
trung vào đánh giá các tác động trực tiếp của FDI đối với nền kinh tế. Hồ Nhật Quang
(2010) nghiên cứu quan hệ giữa FDI và các biến số kinh tế vĩ mô tại Việt Nam chủ yếu
dựa trên phương pháp định tính. Kết quả cho thấy FDI đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế Việt Nam thông qua đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giá trị sản xuất công nghiệp, tăng trưởng xuất khẩu, hình thành và tích
lũy vốn, chuyển giao công nghệ và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, FDI đồng thời tạo
ra các tác động tiêu cực như gia tăng sự mất cân đối vùng miền trong phát triển công
7
nghiệp, gia tăng sự lệ thuộc của nền kinh tế vào nước ngoài và vấn đề ô nhiễm môi
trường.
Pham Hoang Mai (2002) phân tích những nhân tố quyết định đến phân bổ FDI và
tác động của nguồn đầu tư này đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn
1988–1998. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh
tế của các vùng miền, tuy nhiên vốn FDI phân bổ không đồng đều giữa các vùng do sự
khác biệt về cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và quy mô thị trường. Tương tự,
Varamini và Vu (2007) tìm hiểu quan hệ giữa FDI và tăng trưởng trong giai đoạn
1989–2005 và cho thấy tác động đáng kể của FDI đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Một số nghiên cứu khác (Nguyễn Thị Cành và Trần Hùng Sơn, 2009; Đoàn Ngọc
Phúc, 2004; Nguyễn Tiến Dũng, 2009) sử dụng cách tiếp cận định tính để phân tích,
đánh giá thực trạng thu hút FDI, những tồn tại và các giải pháp nhằm tăng cường thu
hút FDI và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn đầu tư này trong tương lai.
Các nghiên cứu về tác động lan tỏa của FDI đến doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn
khá hạn chế. Trong các nghiên cứu này thì chiếm tỷ trọng lớn là các phân tích về hiệu
ứng lan tỏa công nghệ từ FDI (Le Thanh Thuy, 2005; Hoang Van Thanh & Pham
Thien Hoang, 2010; Le & Pomfret, 2008; Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng,
2012; Pham Thi Bich Ngoc, 2012, 2013). Bên cạnh đó, một số lượng khá ít nghiên cứu
về tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Anwar & Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào
& Phạm Thế Anh, 2012).
Dù với số lượng các nghiên cứu còn hạn chế song hầu hết đều tập trung kiểm
định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa và xác định các kênh lan tỏa từ FDI (chiều dọc,
chiều ngang). Trong khi đó, bước nghiên cứu tiếp theo là nếu tồn tại lan tỏa thì các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa là gì thì vẫn chưa được tìm hiểu sâu. Một vài
nghiên cứu trước về lan tỏa công nghệ từ FDI có phân tích nhân tố ảnh hưởng lan tỏa
khi đưa vào các biến tương tác trong mô hình dựa vào hàm sản xuất Cobb-Douglass
8
nhưng chỉ giới hạn một số nhân tố như chất lượng lao động, khoảng cách công nghệ
(Le & Pomfret, 2011) hay nguồn gốc FDI (Pham Thi Bich Ngoc, 2012). Nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh (2012) về lan tỏa xuất khẩu từ FDI rất
gần với luận án này song chỉ sử dụng dữ liệu với cỡ mẫu khá nhỏ cho giai đoạn trước
năm 2004. Bên cạnh đó, các nghiên cứu này chỉ sử dụng một thang đo đơn lẻ đại diện
cho FDI. Luận án này phát triển đóng góp thực nghiệm cho trường hợp của Việt Nam
khi nghiên cứu sự tồn tại và các yếu tố tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu
từ FDI, trong đó sử dụng dữ liệu với cỡ mẫu lớn cho giai đoạn gần đây và đưa vào
phân tích nhiều biến đặc trưng doanh nghiệp để tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng lan tỏa.
Đồng thời, luận án sử dụng các thang đo khác nhau đại diện cho FDI để so sánh và
đánh giá về các tác động lan tỏa và nhân tố ảnh hưởng.
Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay có khá nhiều nghiên cứu về FDI tại Việt Nam
nhưng nghiên cứu về tác động lan tỏa của FDI và đặc biệt là các nhân tố ảnh hưởng lan
tỏa là một đề tài còn khá mới và vẫn còn khoảng trống nghiên cứu mà luận án sẽ đóng
góp. Trong bối cảnh thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI tại Việt Nam bộc lộ nhiều mặt
trái thì việc kiểm định và đánh giá các tác động lan tỏa từ FDI càng trở nên bức thiết để
từ đó có thể gợi ý những điều chỉnh và định hướng chính sách cần thiết nhằm tối ưu
hóa lợi ích cho các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam từ kênh đầu tư quan trọng
này trong tương lai.
1.2 Vấn đề nghiên cứu
Xét đến những tác động hai mặt của FDI tại Việt Nam trong thời gian vừa qua,
việc nghiên cứu để đưa ra những bằng chứng thực nghiệm và bổ sung các gợi ý chính
sách cần thiết về huy động FDI cũng như các hiệu ứng lan tỏa của FDI sẽ cung cấp một
kênh thông tin quan trọng để đánh giá một cách toàn diện về vai trò của khu vực FDI
cũng như hiệu quả của chính sách thu hút FDI trong thời gian qua tại Việt Nam. Điều
này càng có ý nghĩa khi những nghiên cứu thực nghiệm nhằm lượng hóa các hiệu ứng
9
lan tỏa của FDI tại Việt Nam còn hạn chế và rời rạc do nhiều nguyên nhân gồm cả
phương pháp nghiên cứu và chất lượng số liệu, và đặc biệt là khoảng trống nghiên cứu
đã được luận án xác định cho lĩnh vực nghiên cứu này là nhân tố ảnh hưởng hiệu ứng
lan tỏa (Le Thanh Thuy, 2005; Le & Pomfret, 2008, 2010; Anwar & Nguyen, 2011;
Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng, 2012; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế
Anh, 2012).
Nhằm đóng góp những bằng chứng thực nghiệm về vai trò và hiệu quả của dòng
vốn FDI tại Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài luận án: “Phân tích tác động lan tỏa
của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”. Với cách tiếp cận mới về mô hình
nghiên cứu và dữ liệu cập nhật, luận án nghiên cứu một cách có hệ thống về các tác
động lan tỏa từ FDI đến doanh nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung phân tích và kiểm
định hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và lan tỏa về xuất khẩu từ FDI đến các doanh
nghiệp của Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp kiểm định sự tồn tại của các hiệu ứng lan tỏa cũng
như khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa. Luận án sẽ tập trung giải
quyết ba vấn đề nghiên cứu chính gồm: (i) Tác động của FDI đến năng lực công nghệ
(được đại diện bởi năng suất lao động) của các doanh nghiệp Việt Nam (hay sự tồn tại
của hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI); (ii) Tác động của FDI đến năng lực xuất khẩu
(được đại diện bởi khả năng tham gia và tỷ trọng xuất khẩu) của doanh nghiệp Việt
Nam (hay sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI); (iii) Vai trò của những yếu
tố đặc trưng doanh nghiệp đối với khả năng hấp thụ lan tỏa từ FDI của doanh nghiệp
Việt Nam (hay các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa từ FDI). Ngoài ra, luận án
cũng sẽ nghiên cứu một số vấn đề khác như vai trò của các đặc trưng doanh nghiệp và
đặc trưng ngành đối với năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
trong nước; sự khác biệt về hiệu ứng lan tỏa từ FDI khi sử dụng ba thang đo khác nhau
10
đại diện cho FDI (bao gồm tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng lao động, và tỷ trọng tài sản của
doanh nghiệp FDI trong ngành).
Thông qua giải quyết những vấn đề nghiên cứu này, luận án sẽ đưa ra những gợi
ý về mặt chính sách nhằm hạn chế những hiệu ứng lan tỏa tiêu cực và phát huy những
tác động lan tỏa tích cực, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp trong nước. Hơn thế nữa, kết quả nghiên cứu từ luận án này sẽ
đóng góp những bằng chứng thực nghiệm về tác động của nguồn vốn FDI đến doanh
nghiệp trong nước và nền kinh tế của Việt Nam, từ đó làm cơ sở để hoạch định chính
sách, chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI một cách hiệu quả nhất.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Luận án sẽ tập trung vào mục tiêu chính là nghiên cứu tác động lan tỏa công nghệ
và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó, năm mục tiêu
nghiên cứu cụ thể của luận án được xác định như sau:
(1) Xây dựng và ước lượng mô hình tác động lan tỏa của FDI đến năng lực công nghệ
(được đại diện bằng năng suất lao động) của doanh nghiệp Việt Nam;
(2) Xây dựng và ước lượng mô hình tác động lan tỏa của FDI đến năng lực xuất khẩu
(được đại diện bằng khả năng tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu) của doanh
nghiệp Việt Nam;
(3) Xác định các nhân tố ảnh hưởng hiệu ứng lan tỏa công nghệ và xuất khẩu từ FDI
đến doanh nghiệp Việt Nam;
(4) Phân tích và đánh giá sự khác biệt về hiệu ứng lan tỏa khi sử dụng các thang đo
khác nhau đại diện cho FDI;
(5) Gợi ý các chính sách nhằm phát huy những hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI đến
các doanh nghiệp trong nước.
11
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự tồn tại và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
ứng lan tỏa từ doanh nghiệp FDI đến năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của
các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo của Việt Nam. Luận án lựa chọn các doanh
nghiệp ngành chế biến chế tạo vì đây là nhóm ngành có hoạt động công nghệ và hoạt
động xuất khẩu nổi bật nhất cũng như thu hút nguồn đầu tư FDI lớn nhất tại Việt Nam.
Ngành chế biến chế tạo luôn dẫn đầu trong thu hút vốn FDI và đóng góp kim ngạch
xuất khẩu của cả nước khi chiếm trên 70% vốn FDI đăng ký và trên 80% giá trị xuất
khẩu (TCTK, 2016).
Ngoài ra, doanh nghiệp chế biến chế tạo cũng là nhóm ngành được lựa chọn phổ
biến trong các nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Có thể kể đến các nghiên cứu trong nước như Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt
Hùng (2012); Anwar và Nguyen (2011); Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh
(2012). Các nghiên cứu nước ngoài bao gồm Caves (1974); Aitken và cộng sự (1997);
Kokko và cộng sự (2001); Phillips và Ahmadi-Esfahani (2010); Kohpaiboon (2006).
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ
FDI đến các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo của Việt Nam trong giai đoạn 2011 –
2013. Trong đó, hiệu ứng lan tỏa từ FDI tập trung vào kênh chiều ngang giữa các
doanh nghiệp trong cùng ngành. Dữ liệu trong giai đoạn 2011-2013 được thu thập từ
các cuộc điều tra toàn diện doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê thực hiện. Các cuộc
điều tra được thực hiện thường niên với quy mô cấp quốc gia, cung cấp thông tin toàn
diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành
phần kinh tế. Ưu điểm của bộ dữ liệu là cỡ mẫu lớn với nhiều thông số quan trọng mà
12
luận án này cần để tạo lập dữ liệu bảng và các biến số trong mô hình kinh tế lượng như
thông tin nhận dạng doanh nghiệp; lao động và thu nhập của người lao động; các chỉ
tiêu về sản xuất kinh doanh; và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu (được điều tra lần đầu
năm 2000 nhưng sau đó gián đoạn đến năm 2011 mới được điều tra trở lại).
1.5 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
1.5.1 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas để làm cơ sở ước lượng
tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. Trong đó, hàm sản
xuất Cobb-Douglas được giả định hiệu suất không đổi theo quy mô nhằm chuẩn hóa sự
đa dạng hay dị biệt về quy mô của các doanh nghiệp trong cùng ngành cũng như phù
hợp với dữ liệu nghiên cứu ở cấp doanh nghiệp mà luận án này sử dụng. Quan trọng
hơn, hàm sản xuất Cobb-Douglas cho phép phân tích và kiểm định hiệu ứng lan tỏa
công nghệ từ FDI thông qua yếu tố phi truyền thống là năng suất các nhân tố tổng hợp.
Bên cạnh đó, mô hình kinh tế lượng được xây dựng dựa trên hàm sản xuất Cobb-
Douglas giúp kiểm soát tác động của các biến số khác như đặc trưng doanh nghiệp,
ngành nghề và thời gian đến năng suất của doanh nghiệp trong nước.
Để ước lượng và đánh giá tác động của FDI đến năng lực xuất khẩu của doanh
nghiệp trong nước hay hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI, luận án sử dụng mô hình
chọn mẫu của Heckman. Mô hình chọn mẫu Heckman là cách tiếp cận hiệu quả giúp
kiểm soát vấn đề thiên lệch chọn mẫu xảy ra do chỉ có một số lượng nhất định doanh
nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu. Trong đó, năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
trong nước được đại diện bởi hai biến mục tiêu gồm: (i) Có tham gia xuất khẩu hay
không; và (ii) Tỷ trọng xuất khẩu bao nhiêu. Các biến ngành nghề và đặc trưng doanh
nghiệp cũng được đưa vào mô hình nhằm phân tích những nhân tố quyết định hành vi
xuất khẩu và phạm vi lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
13
Nhằm kiểm soát vấn đề sai sót trong đo lường và sự thiên lệch kết quả ước
lượng do việc lựa chọn biến đại diện FDI, luận án này áp dụng phương pháp phân tích
độ nhạy (Sensitivity analysis). Trong đó, luận án sử dụng cả ba thang đo đại diện FDI
trong quá trình ước lượng và kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất
khẩu từ FDI. Kết quả kiểm định chính được dựa trên thang đo phổ biến (tỷ trọng doanh
thu của FDI trong ngành). Các kết quả ước lượng với hai thang đo còn lại (tỷ trọng lao
động và tỷ trọng tài sản của doanh nghiệp FDI) sẽ được sử dụng trong phân tích độ
nhạy giúp so sánh và đánh giá chính xác, toàn diện hơn về các hiệu ứng lan tỏa từ FDI
cũng như hạn chế các sai sót và thiên lệch khi chỉ dựa vào một thang đo đại diện.
Về kỹ thuật kinh tế lượng, mô hình tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp trong nước được ước lượng bằng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng, bao
gồm mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM), và lựa
chọn mô hình bằng kiểm định Hausman. Mô hình tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI
được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại (MLE) cho hai phương trình tham
gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu theo mô hình chọn mẫu Heckman.
1.5.2 Dữ liệu nghiên cứu
Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp và là dạng dữ liệu
bảng ở cấp doanh nghiệp cho giai đoạn 2011 – 2013. Sau quá trình sàng lọc và làm
sạch, bộ dữ liệu cuối cùng đưa vào phân tích là dữ liệu bảng 3 năm bao gồm 137,419
quan sát. Dữ liệu được thu thập từ các cuộc điều tra toàn diện hoạt động sản xuất –
kinh doanh của tất cả các loại hình doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê thực hiện (gọi
tắt là Điều tra doanh nghiệp – Enterprise Survey). Dữ liệu được thu thập qua 3 phương
pháp điều tra, bao gồm điều tra trực tiếp, điều tra gián tiếp và điều tra qua bảng câu hỏi
điện tử. Do quy mô điều tra lớn nên kết quả điều tra được tổng hợp và công bố thường
có độ trễ nhất định. Ngoài ra, thực tế tại Việt Nam cho thấy khả năng tiếp cận các bộ
dữ liệu thô đối với các nhà nghiên cứu cá nhân là khá hạn chế. Vì vậy, trong bối cảnh
14
hiện nay và khả năng tiếp cận dữ liệu của tác giả luận án thì đây là bộ dữ liệu cập nhật
nhất và có cỡ mẫu lớn có thể đảm bảo độ tin cậy, khả năng dự báo cũng như suy rộng
của kết quả nghiên cứu.
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu
1.6.1 Ý nghĩa học thuật
Thứ nhất, luận án xây dựng khung phân tích cho nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa
từ FDI phù hợp với bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, thay vì chỉ sử dụng một
thang đo đại diện cho FDI như các nghiên cứu trước, luận án đưa vào ba thang đo cho
sự hiện diện của FDI (bao gồm: tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng lao động và tỷ trọng tài
sản của doanh nghiệp FDI trong ngành). Việc sử dụng nhiều thang đo FDI có thể giúp
so sánh và có đánh giá toàn diện hơn về hiệu ứng lan tỏa trong khi sử dụng một thang
đo có thể dẫn đến hiện tượng thổi phồng hay đánh giá thấp hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến
doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, luận án sử dụng cách tiếp cận mới khi đưa vào mô hình các biến tương
tác với FDI để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa. Việc sử dụng các
biến tương tác giúp phát triển và phân tích sâu hơn về mối quan hệ giữa các nhân tố,
đặc biệt là vai trò của đặc trưng doanh nghiệp trong nước và mối tương quan với hiệu
ứng lan tỏa. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy hiệu ứng lan tỏa (công nghệ và
xuất khẩu) có sự khác biệt đáng kể và phụ thuộc vào đặc trưng của các doanh nghiệp
trong nước.
Thứ ba, so với các nghiên cứu được công bố hiện nay thì kết quả nghiên cứu của
luận án được ước lượng dựa trên bộ dữ liệu cập nhật hơn cho giai đoạn gần đây sẽ
đóng góp cho các nghiên cứu về tác động lan tỏa từ FDI tại Việt Nam từ đó làm cơ sở
để phát triển các nghiên cứu tiếp theo. Đóng góp này đặc biệt quan trọng với nghiên
15
cứu về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI tại Việt Nam vốn còn khá ít nghiên cứu và sử
dụng dữ liệu được điều tra từ 15 năm trước.
1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là về sự tồn tại của hiệu ứng
lan tỏa từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng, cung cấp bằng chứng thực nghiệm rất có ý
nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài, cho những
người làm công tác dự báo và cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chế biến
chế tạo trong nước.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất
khẩu từ FDI không diễn ra đồng nhất cho toàn bộ các doanh nghiệp mà phụ thuộc vào
đặc trưng riêng của các doanh nghiệp trong nước. Do đó, các chính sách thu hút FDI,
các dự báo và hướng liên kết hợp tác giữa hai khối doanh nghiệp này cần dựa trên sự
chọn lọc và ưu tiên nhất định.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở để đề xuất một số gợi ý chính
sách nhằm phát huy hiệu ứng lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI đến doanh nghiệp chế
biến chế tạo Việt Nam. Trong đó, hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI có thể được gia
tăng thông qua việc thúc đẩy các mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước có mức độ vốn hóa cao và quy mô lớn; chú trọng các giải pháp rút ngắn
khoảng cách công nghệ; chia sẻ và nhân rộng kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư
của các doanh nghiệp khu vực phía Nam đến các địa phương khác.
Thứ tư, các chính sách giúp khuếch đại hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được đa ra dựa trên các kết quả ước lượng.
Các giải pháp trọng tâm bao gồm: ưu tiên hỗ trợ khối doanh nghiệp tư nhân; doanh
nghiệp có thâm niên hoạt động và mức độ vốn hóa cao; tăng cường thu hút FDI vào
khu vực phía Bắc và Trung.
16
1.7 Bố cục của luận án
Bố cục của luận án ngoài Chương 1 sẽ trình bày tiếp bao gồm bốn chương.
Chương 2 giới thiệu tổng quan lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các tác
động lan tỏa. Nội dung chính bao gồm phân tích vai trò của FDI đối với nước tiếp
nhận, lý thuyết liên quan đến tác động lan tỏa từ FDI, lược khảo nghiên cứu thực
nghiệm trong và ngoài nước, và từ đó xây dựng khung phân tích đề nghị cho luận án.
Chương 3 xác định và phân tích phương pháp nghiên cứu của luận án. Đầu tiên,
chương này xây dựng mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu về lan tỏa công
nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. Nội dung tiếp theo
trình bày mô hình nghiên cứu đề nghị với hai mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công
nghệ và lan tỏa xuất khẩu. Đặc điểm dữ liệu nghiên cứu và các kỹ thuật ước lượng mô
hình cũng được phân tích trong chương này.
Chương 4 phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu. Trong đó, dữ liệu nghiên
cứu được mô tả chi tiết hơn với các bảng thống kê mô tả. Nội dung chính của chương
tập trung vào trình bày và thảo luận kết quả ước lượng từ hai mô hình lan tỏa công
nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
trong giai đoạn 2009-2013.
Chương 5 kết luận và đề xuất các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa của FDI
tại Việt Nam dựa vào kết quả nghiên cứu định lượng của luận án. Các đóng góp chính
của luận án về lý thuyết và thực tiễn cũng được trình bày chi tiết. Chương cuối cùng
này cũng nêu ra những hạn chế của luận án và các hướng nghiên cứu tiếp theo.
17
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀ TÁC ĐỘNG LAN TỎA
2.1 Giới thiệu
Luận án này nghiên cứu một cách có hệ thống về các tác động lan tỏa của dòng
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, trong đó tập trung phân tích và kiểm định
hiệu ứng lan tỏa và các nhân tố quyết định đến lan tỏa công nghệ và lan tỏa về xuất
khẩu từ FDI. Chương 2 tổng quan lý thuyết liên quan đến FDI và các tác động lan tỏa
là bước cần thiết và quan trọng giúp xây dựng và định hình khung phân tích chi tiết cho
luận án. Chương này được trình bày thành 5 phần chính.
Phần thứ nhất khái quát về khái niệm và phân loại FDI. Phần thứ hai phân tích
các khái niệm chính về tác động lan tỏa, đo lường sự hiện diện của FDI và các kênh lan
tỏa. Trong đó ba thang đo đại diện FDI được phân tích và so sánh ưu điểm, hạn chế. Các
kênh lan tỏa bao gồm kênh chiều dọc và chiều ngang. Phần thứ ba trình bày các lý
thuyết về FDI làm cơ sở hỗ trợ cho luận án nghiên cứu sự tồn tại và các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ và xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp Việt
Nam, bao gồm: Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển, lý thuyết tăng trưởng nội sinh, lý
thuyết về quyền lợi thị trường, lý thuyết vòng đời sản phẩm, lý thuyết sản xuất và tiến
bộ công nghệ, và lý thuyết về khả năng hấp thụ. Trong đó, lan tỏa từ FDI được xem là
yếu tố phi truyền thống có thể tác động gián tiếp giúp cải thiện năng lực công nghệ và
xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.
Phần thứ tư lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trước về lan tỏa công nghệ và
lan tỏa xuất khẩu từ FDI được thực hiện trong và ngoài nước. Các đóng góp chính cũng
như hạn chế của mỗi nghiên cứu được nêu rõ và so sánh với các nghiên cứu khác và
nghiên cứu trong luận án này. Phần cuối cùng của Chương xác định các khe hổng nghiên
cứu dựa vào kết quả lược khảo lý thuyết và đề xuất khung phân tích cho luận án.
18
2.2 Khái niệm và phân loại FDI
2.2.1 Khái niệm FDI
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (gọi là nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở
nước khác (gọi là nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Còn theo
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên
giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay
toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct investment
enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ
phần mới được công nhận là doanh nghiệp FDI.
Báo cáo đầu tư của Liên hợp quốc (UNCTAD) đưa ra khái niệm FDI là hoạt
động đầu tư gắn với một mối quan hệ dài hạn và phản ánh lợi ích và sự kiểm soát lâu
dài của một chủ thể kinh tế ở một nước (nhà đầu tư hoặc công ty mẹ) tại một doanh
nghiệp ở một nền kinh tế khác. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD),
FDI nói đến sự tồn tại của một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp (là chủ
thể kinh tế ở một quốc gia) và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (là chủ thể
kinh tế ở một quốc gia khác) đi kèm với mức ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối
với hoạt động quản lý doanh nghiệp được đầu tư. Trong đó, mức sở hữu tối thiểu của
nhà đầu tư là 10% cổ phần của doanh nghiệp.
Theo Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì: “Đầu tư trực tiếp là hình thức
đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (Khoản 2,
Điều 3, Chương 1) còn “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn
để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam” (Khoản 5, Điều 3, Chương 1). Như vậy,
có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
vào đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
19
2.2.2 Phân loại FDI
Về cơ bản, FDI có thể được phân loại từ góc độ của nhà đầu tư (hay nước chủ
đầu tư) và từ góc độ của nước tiếp nhận đầu tư (Caves, 1971; Moosa, 2002). Từ góc độ
của nhà đầu tư, FDI được chia thành 3 loại: FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI),
FDI theo chiều dọc (Vertical FDI), và FDI kết hợp (Conglomerate FDI). Trong đó, FDI
theo chiều ngang được thực hiện nhằm mục đích mở rộng sản xuất ở quốc gia khác các
hàng hóa giống hay tương tự như ở quốc gia chủ đầu tư. Theo nghĩa rộng hơn, FDI
chiều ngang có thể khai thác tối đa những lợi thế độc quyền (như bản quyền sản phẩm),
đặc biệt nếu việc mở rộng sản xuất này có thể vi phạm luật chống độc quyền ở nước
chủ đầu tư. Ngược lại, FDI theo chiều dọc được thực hiện với mục đích khai thác các
nguyên liệu thô (backward vertical FDI) hoặc để tiếp cận thị trường khách hàng thông
qua việc mua lại các đầu mối phân phối (forward vertical FDI) tại nước tiếp nhận đầu
tư. Cuối cùng, FDI kết hợp là hình thức phối hợp cả FDI theo chiều ngang và FDI theo
chiều dọc.
Từ góc độ của nước tiếp nhận đầu tư, FDI có thể được phân thành 3 loại: (i) FDI
thay thế nhập khẩu (Import-substituting FDI); (ii) FDI tăng cường xuất khẩu (Export-
increasing FDI); và (iii) FDI theo định hướng của chính phủ (Government-initiated
FDI). Theo đó, FDI thay thế nhập khẩu thúc đẩy sản xuất những hàng hóa trước đây
nước tiếp nhận đầu tư phải nhập khẩu. Loại hình FDI này thường phụ thuộc vào quy
mô thị trường tiêu dùng của nước tiếp nhận FDI, chi phí vận chuyển và các rào cản
thương mại. Ngược lại, FDI tăng cường xuất khẩu được thực hiện với mục đích tìm
kiếm và khai thác các đầu vào mới như nguyên liệu thô hay hàng hóa trung gian. Loại
hình FDI này có thể giúp nước tiếp nhận đầu tư thúc đẩy xuất khẩu các nguyên liệu thô
và hàng hóa trung gian đến nước chủ đầu tư và các thị trường khác. Loại hình FDI thứ
ba được hình thành khi chính phủ nước chủ nhà có những chương trình khuyến khích
đối với nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư ở một lĩnh vực hay khu vực nhất định.
20
2.3 Tác động lan tỏa từ FDI
2.3.1 Khái niệm tác động lan tỏa
Tác động lan tỏa là những ngoại tác động (dynamic externalities) về thông tin
xuất phát từ những tương tác có chủ đích hay không có chủ đích giữa các chủ thể kinh
tế theo thời gian (Rosenbloom & Marshallian, 1990). Những tác động lan tỏa từ FDI có
thể diễn ra khi một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI gặp khó khăn trong
việc bảo vệ những tài sản chuyên biệt của mình (ví dụ như bí quyết công nghệ và kỹ
thuật sản xuất tiên tiến, bí quyết quản trị, kỹ năng marketing, thông tin khách hàng, thị
trường) khiến chúng bị rò rỉ ra bên ngoài và các doanh nghiệp trong nước sẽ là đối
tượng tiếp thu (Caves, 1996). Thêm vào đó, doanh nghiệp FDI cũng có thể chủ động
chia sẻ thông tin và chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp trong nước là khách
hàng hay nhà cung ứng của mình (Görg & Greenaway, 2004). Thông qua khả năng rò
rỉ, phát tán và chia sẻ thông tin mang tính thụ động và/hoặc chủ động này mà doanh
nghiệp FDI có thể tạo ra các tác động gián tiếp ảnh hưởng đến năng lực sản xuất, trình
độ công nghệ, năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp địa phương thông qua một quá
trình tương tác và học hỏi.
FDI có thể tạo ra những ảnh hưởng lan tỏa khác nhau đối với các doanh nghiệp
trong nước. Trong các nghiên cứu về tác động lan tỏa từ FDI, lan tỏa công nghệ là đề
tài chính được nghiên cứu rộng rãi nhất trong khi lan tỏa xuất khẩu là đề tài tương đối
mới. Lan tỏa công nghệ xảy ra khi các doanh nghiệp trong nước có thể nâng cao hiệu
quả, năng lực sản xuất thông qua việc học hỏi, bắt chước những kỹ thuật, công nghệ
sản xuất của các doanh nghiệp FDI. Trong khi đó, lan tỏa xuất khẩu tồn tại nếu sự hiện
diện của doanh nghiệp FDI có thể thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp địa phương tiếp cận
kiến thức và thông tin về thị trường, phương thức xuất khẩu để từ đó nâng cao năng lực
và khả năng xuất khẩu.
21
Tác động lan tỏa từ FDI đến doanh nghiệp trong nước không phải luôn luôn
mang tính tích cực. Tùy thuộc vào môi trường kinh doanh và đặc trưng riêng mà doanh
nghiệp trong nước sẽ ‘phản ứng’ khác nhau và có sự thích nghi khác nhau đối với sự
hiện diện của doanh nghiệp FDI; do vậy cũng sẽ chịu ảnh hưởng ở những mức độ khác
nhau từ FDI. Ví dụ, quy mô thị trường, quy định luật pháp, quy mô và năng lực công
nghệ của doanh nghiệp trong nước sẽ tác động đến các mối liên kết giữa hai khối
doanh nghiệp cũng như mức độ lan tỏa (Blomstrom & Kokko, 1998). Do vậy, đặc
trưng riêng hay khả năng hấp thụ của mỗi doanh nghiệp trong nước đóng một vai trò
quan trọng quyết định đến việc doanh nghiệp có thể hưởng lợi hay chịu bất lợi từ các
tác động lan tỏa của FDI.
2.3.2 Sự hiện diện của FDI
Việc đo lường sự hiện diện của FDI có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến kết
quả phân tích và kiểm định các hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI
đến doanh nghiệp trong nước (Görg & Strobl, 2001; Wooster & Diebel, 2010;
Kohpaiboon, 2006; Sun, 2009). Do vậy, việc xem xét kết quả nghiên cứu với các thang
đo khác nhau là cần thiết để có được đánh giá toàn diện về hiệu ứng lan tỏa từ FDI.
Các nghiên cứu trước về hiệu ứng lan tỏa thường sử dụng một trong ba biến đại diện
cho FDI gồm: (i) tỷ trọng doanh thu; (ii) tỷ trọng lao động; và (iii) tỷ trọng tài sản của các doanh nghiệp FDI trong ngành2. Theo phân tích tổng hợp của Wooster và Diebel
(2010), trong 131 nghiên cứu thực nghiệm sử dụng các thang đo đo lường sự hiện diện
của FDI thì thang đo tỷ trọng doanh thu được sử dụng phổ biến nhất (45.8 %), tiếp đến
2 Luận án này sử dụng và so sánh ba thang đo “tỷ trọng” đo lường sự hiện diện (mang tính tương đối) của doanh nghiệp FDI. Thực tế trong nước có thể xảy ra khả năng các ngành hay địa phương có tỷ trọng FDI cao nhưng lượng vốn (mang tính tuyệt đối) thấp và ngược lại. Vì vậy, việc phát triển phân tích và so sánh thang đo “tỷ trọng” (mang tính tương đối) với thang đo “lượng” (mang tính tuyệt đối) của FDI ở cấp ngành hay cấp địa phương có thể giúp đưa ra các hàm ý sâu hơn khi dữ liệu nghiên cứu cho phép.
là tỷ trọng tài sản (35.9 %) và cuối cùng là tỷ trọng lao động (18.3 %).
22
Bảng 2.1 Ưu điểm và hạn chế của các thang đo đại diện FDI
Thang đo Ưu điểm Hạn chế Trích dẫn
Tỷ trọng Là yếu tố đầu ra thể hiện rõ Khả năng khai báo Globerman
doanh thu nhất kết quả đầu tư và đóng doanh thu không chính (1979); Le và
của FDI góp cho GDP của khối doanh xác nhằm mục đích giảm Pomfret
trong nghiệp FDI tại nước tiếp thu nhập chịu thuế của (2011);
ngành nhận; thể hiện mức độ xâm doanh nghiệp FDI (một Anwar và
chiếm thị trường của khối hình thức chuyển giá) Nguyen
doanh nghiệp FDI và có tác khiến cho thang đo bị sai (2011);
động trực tiếp đến sự hiệu lệch làm giảm vai trò Javorcik
chỉnh hoạt động của doanh thực tế của FDI (2004);
nghiệp trong nước (Wacker, 2013)
Tỷ trọng Cho thấy đóng góp của khối FDI thường có xu hướng Caves (1974);
lao động doanh nghiệp FDI về công ăn tập trung vào những Aitken và
của FDI việc làm và gắn liền với khả ngành có tỷ lệ vốn hóa Harrison
trong năng tạo ra kênh lan tỏa quan cao nên vai trò của FDI (1999); Sun
ngành trọng thông qua sự di chuyển có thể bị đánh giá thấp (2009)
lao động hơn so với thực tế
Tỷ trọng Thể hiện rõ nét về tiềm lực tài Có thể bị bóp méo bởi Kohpaiboon
tài sản của chính và khả năng đầu tư cho những quy định về (2006); Sun
FDI trong công nghệ sản xuất và gia quyền sở hữu của luật (2009); Liu
ngành nhập thị trường mới của pháp tại các nước tiếp và cộng sự
doanh nghiệp FDI nhận đầu tư (2011)
23
Bảng 2.1 thống kê ưu điểm và hạn chế của ba thang đo sự hiện diện của FDI. Về
cơ bản, ba biến đại diện trên đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định khi đo
lường tầm quan trọng hay vai trò của FDI. Những hạn chế kể trên khiến cho việc chỉ sử
dụng một thang đo đơn lẻ khó có thể đo lường được toàn diện vai trò của FDI tại nước
tiếp nhận. Đây được xem là một trong những nguyên nhân khiến cho các kết quả thực
nghiệm có nhiều sự khác biệt hay ‘nhạy cảm’ với việc lựa chọn thang đo FDI (Görg &
Strobl, 2001; Wooster & Diebel, 2010; Sun, 2009). Vì vậy, để hạn chế sự thiên lệch kết
quả ước lượng do việc lựa chọn biến đại diện FDI, luận án này sẽ sử dụng cả ba thang
đo kể trên và đưa ra các so sánh tương quan trong quá trình ước lượng và kiểm định
các hiệu ứng lan tỏa.
Trong đó, kết quả kiểm định chính được dựa trên thang đo phổ biến (tỷ trọng
doanh thu). Các kết quả ước lượng với hai thang đo còn lại (tỷ trọng lao động và tỷ
trọng tài sản) sẽ được sử dụng trong phân tích độ nhạy (Sensitivity analysis) của thang
đo đại diện FDI. Phân tích độ nhạy giúp kiểm soát vấn đề sai sót hay thiên lệch trong
lựa chọn thang đo (Levine & Renelt, 1992; Olofsdotter, 1998; Sun, 2009; Cole &
Elliot, 2006). Kết quả ước lượng các mô hình với ba thang đo sẽ giúp so sánh và đánh
giá chính xác, toàn diện hơn về hiệu ứng lan tỏa từ FDI cũng như hạn chế các sai sót và
thiên lệch khi chỉ dựa vào một thang đo đại diện.
2.3.3 Các kênh lan tỏa từ FDI
2.3.3.1 Kênh lan tỏa theo chiều ngang
Lan tỏa theo chiều ngang nói đến những hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến doanh
nghiệp trong nước hoạt động trong cùng một ngành. Theo đó, doanh nghiệp FDI với
phương thức hoạt động, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến có thể tạo ra những lan tỏa tích
cực giúp nâng cao năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp địa
phương hoạt động trong cùng một lĩnh vực ngành nghề. Hiệu ứng lan tỏa theo chiều
24
ngang này là hình thức lan tỏa nền tảng và có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là qua kênh
cạnh tranh khi doanh nghiệp FDI tạo ra áp lực cạnh tranh lên doanh nghiệp trong nước
hoạt động trong cùng ngành (Kneller & Pisu, 2007). Hiệu ứng lan tỏa theo chiều ngang
có thể diễn ra theo một số kênh sau:
Thứ nhất là thông qua sự di chuyển của đội ngũ lao động đã được đào tạo bởi
các doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước (labour mobility). Các doanh
nghiệp nước ngoài thường thực hiện việc đào tạo và tái đào tạo lao động địa phương
thông qua một loạt các chính sách như đào tạo tại chỗ (on-the-job-training) hay thậm
chí là cử đi đào tạo nước ngoài tại công ty mẹ. Những lao động này có thể thay đổi và
chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc đứng ra thành lập công ty
riêng. Những kỹ năng học hỏi có được từ quá trình được đào tạo và làm việc tại doanh
nghiệp FDI sẽ tự động lan tỏa và ứng dụng cho doanh nghiệp trong nước. Đó có thể là
những kiến thức về công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý, khả năng kết nối và thậm chí
là nguồn khách hàng ( Görg & Greenaway, 2004). Tuy nhiên, Meyer (2003) cho rằng
các doanh nghiệp FDI thường đưa ra mức lương cao hơn để thu hút các lao động chất
lượng cao nên trên thực tế kênh lan tỏa này có thể không tạo ra tác động đáng kể.
Thứ hai là thông qua hoạt động biểu thị của doanh nghiệp FDI trong ngành bằng
các ảnh hưởng điển hình và sự bắt chước, học hỏi của doanh nghiệp trong nước
(demonstration and imitation effects). Theo đó, sự hiện diện của FDI tại nước tiếp nhận
có thể tạo ra một hình mẫu để các doanh nghiệp trong nước noi theo. Thông qua quá
trình tìm hiểu và quan sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI, doanh
nghiệp trong nước có thể học hỏi và bắt chước để tiếp cận và ứng dụng những kỹ thuật,
công nghệ sản xuất tương tự để từ đó từng bước nâng cao hiệu quả và năng lực sản
xuất. Kênh lan tỏa này đòi hỏi doanh nghiệp trong nước phải có một khả năng ‘hấp
thụ’ nhất định. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước phải không quá tụt
hậu so với doanh nghiệp nước ngoài. Nếu doanh nghiệp trong nước không có động lực
25
để học hỏi và bắt chước doanh nghiệp FDI thì sự cạnh tranh gia tăng từ khối doanh
nghiệp FDI cũng sẽ tạo áp lực buộc họ phải làm điều đó. Theo Jenkins (1990) thì
doanh nghiệp địa phương có xu hướng ứng dụng những công nghệ sản xuất tương tự
như các doanh nghiệp FDI nếu là đối thủ cạnh tranh của nhau, sản xuất cùng loại sản
phẩm, có cùng quy mô và cung ứng cho cùng thị trường như nhau.
Thứ ba là thông qua sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước (competition effects). Hiệu ứng lan tỏa qua kênh cạnh tranh có thể tạo ra
những ảnh hưởng khác nhau trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự cạnh tranh
gia tăng từ doanh nghiệp FDI vốn có nhiều ưu thế vượt trội có thể khiến một số doanh
nghiệp trong nước bị buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm thị phần và doanh số
và thậm chí dẫn đến phá sản. Áp lực cạnh tranh này có thể tác động tiêu cực đến các
doanh nghiệp trong nước. Aitken và Harrison (1999) nghiên cứu trường hợp của các
doanh nghiệp Venezuela và tìm thấy ảnh hưởng lan tỏa tiêu cực từ FDI đến năng suất
của doanh nghiệp trong nước. Kênh lan tỏa này còn được gọi là hiệu ứng xâm chiếm
thị trường (market stealing effects).Tuy nhiên, về dài hạn thì áp lực cạnh tranh từ FDI
có thể mang đến ảnh hưởng tích cực khi nó thực hiện cơ chế sàng lọc và loại thải khỏi
thị trường những doanh nghiệp trong nước yếu kém và chậm thích nghi. Những doanh
nghiệp trong nước muốn trụ vững trong bối cảnh FDI xâm nhập thị trường trong nước
thì phải thực sự năng động, thích ứng với môi trường và không ngừng học hỏi, nâng
cao năng lực sản xuất để từ đó gia tăng khả năng cạnh tranh.
2.3.2.2 Kênh lan tỏa theo chiều dọc
Tác động lan tỏa theo chiều dọc xảy ra khi các doanh nghiệp trong nước ở một
ngành cũng có thể chịu tác động bởi doanh nghiệp FDI ở những ngành khác nếu tồn tại
mối liên kết cung ứng nhất định. Mối liên kết được tạo lập khi doanh nghiệp trong
nước trở thành khách hàng hay nhà cung ứng của doanh nghiệp FDI. Trong đó, liên kết
ngược/liên kết dọc về phía sau (backward linkages) và liên kết xuôi/liên kết dọc về
26
phía trước (forward linkages) được xem là hai hình thức liên kết quan trọng tạo ra hiệu
ứng lan tỏa theo chiều dọc. Nếu những mối liên kết công nghiệp này giúp cho doanh
nghiệp trong nước nâng cao trình độ công nghệ và năng lực xuất khẩu thì cho thấy sự
tồn tại của hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc.
Liên kết ngược diễn ra khi doanh nghiệp trong nước cung ứng đầu vào cho
doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp nước ngoài có thể trực tiếp chuyển giao công nghệ
hoặc hỗ trợ các giải pháp kỹ thuật cho các nhà cung ứng tại nước tiếp nhận nhằm thúc
đẩy cải tiến và nâng cao chất lượng thành phẩm của mình (UNCTAD, 2001; Moran,
2001). Doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng cao hơn
hay đòi hỏi giao hàng đúng hạn, từ đó tạo động lực để doanh nghiệp cung ứng trong
nước nâng cao công nghệ và kỹ năng quản lý sản xuất (Javorcik, 2004). Ngoài ra,
doanh nghiệp FDI có khả năng cung cấp các hỗ trợ phi kỹ thuật khác như hỗ trợ về đào
tạo, quản lý; tìm kiếm khách hàng và gia tăng tính kinh tế theo quy mô thông qua việc
mở rộng và đảm bảo thị trường cho đầu ra của doanh nghiệp trong nước (Lall, 1980;
Javorcik, 2004). Cuối cùng, sự có mặt của các khách hàng là doanh nghiệp FDI có thể
là chất xúc tác tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cung ứng tiềm năng của
nước tiếp nhận (Crespo & Fontoura, 2007).
Kênh liên kết xuôi diễn ra khi doanh nghiệp trong nước là khách hàng của
doanh nghiệp FDI. Khi doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất, gia tăng
doanh số và thị phần thì nhu cầu về các sản phẩm đầu vào sẽ gia tăng. Do vậy, doanh
nghiệp cung ứng là FDI, có nhiều khả năng chia sẻ kiến thức về kỹ thuật sản xuất, kỹ
năng quản lý hay kinh nghiệm gia nhập thị trường quốc tế cho các khách hàng của
mình (Doan, Maré & Iyer, 2015). Liên kết xuôi cũng có thể tạo ra lan tỏa tích cực khi
doanh nghiệp FDI bán các đầu vào và công nghệ sản xuất hiện đại, chất lượng cao với
giá thành hợp lý cho các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước
có thể tiết kiệm thời gian và chi phí trong nâng cao năng lực sản xuất thông qua việc
27
tiếp cận và nhân rộng các sản phẩm công nghệ kỹ thuật tiên tiến từ mối liên kết với các
bạn hàng là doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các công ty đa quốc gia (Blomstrom, 1991).
Hiệu ứng lan tỏa chiều dọc từ FDI có thể chịu tác động bởi một số nhân tố. Với
kênh liên kết ngược, doanh nghiệp FDI có thể lựa chọn nhập khẩu các đầu vào hay sử
dụng các sản phẩm dịch vụ đầu vào được cung cấp chính từ các FDI thay vì mua từ các
nhà cung ứng địa phương (Rodriguez-Clare, 1996). Việc nhập khẩu các nguyên liệu
đầu vào từ công ty mẹ có nhiều khả năng xảy ra đối với các công ty đa quốc gia với hệ
thống cung ứng rộng lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn các nhà cung
ứng tại địa phương thì hiệu ứng lan tỏa có thể bị hạn chế nếu tồn tại khoảng cách công
nghệ lớn giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (Javorcik, 2004) . Với kênh liên
kết xuôi, hiệu ứng lan tỏa có thể cao hơn khi doanh nghiệp FDI hướng đến cung ứng
đầu vào cho thị trường trong nước và doanh nghiệp trong nước có khả năng học hỏi và
ứng dụng kiến thức, công nghệ được chia sẻ, chuyển giao từ đối tác là doanh nghiệp
FDI (Driffield, 2001).
Nói tóm lại, hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến doanh nghiệp trong nước có thể diễn ra
theo kênh chiều ngang hay chiều dọc. Trong đó, kênh chiều ngang diễn ra với các
doanh nghiệp trong cùng ngành, bao gồm sự di chuyển lao động; hoạt động biểu thị và
bắt chước; và áp lực cạnh tranh. Kênh chiều dọc diễn ra khi tồn tại các liên kết cung
ứng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước hoạt động trong các ngành
khác nhau. Khác với các nghiên cứu trước cho trường hợp Việt Nam, mục tiêu của luận
án không tập trung vào kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc và
chiều ngang. Tuy vậy, nếu xét ở góc độ kênh lan tỏa ngang/dọc thì các thang đo sự
hiện diện của FDI (trình bày trong Mục 2.3.2) đo lường vai trò của FDI theo phạm vi
từng phân ngành và không đo lường các kênh liên kết cung ứng nên có thể được hiểu là
thang đo kênh lan tỏa theo chiều ngang.
28
2.4 Các lý thuyết về FDI và tác động lan tỏa
2.4.1 Lý thuyết tăng trưởng
2.4.1.1 Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển
Vai trò thúc đẩy tăng trưởng của dòng vốn FDI được nhìn nhận khác nhau dưới
các lý thuyết tăng trưởng. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển giải thích về nguyên nhân
và tác động của FDI ở các quốc gia tiếp nhận trong đó chú trọng các quốc gia đang
phát triển. Theo lý thuyết này, FDI là giải pháp bù đắp cho sự mất cân đối giữa tiết
kiệm – đầu tư trong nước, đồng thời là nguồn vốn bổ sung trực tiếp cho thâm hụt ngoại
hối và tài khóa ở các nước đang phát triển (Papanek, 1973; Mosley, 1987; Bacha,
1990; Todaro, 1997).
Trong mô hình tăng trưởng của Solow (1956), tăng trưởng kinh tế là kết quả của
tăng trưởng về chất lượng và số lượng lao động thông qua tăng trưởng dân số và quá trình
đào tạo cộng với tăng trưởng về vốn thông qua dòng vốn nước ngoài và tiến bộ công nghệ.
Rostow (1971) xây dựng mô hình giai đoạn tăng trưởng để giải thích vai trò của FDI trong
quá trình chuyển đổi kinh tế ở các quốc gia đang phát triển. Trong mô hình này, FDI
được xem như một kênh quan trọng giúp cho các nước trong giai đoạn chuyển đổi đáp
ứng được nhu cầu cấp thiết về vốn cũng như chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển là dòng lý thuyết tiên phong và có ảnh hưởng
mạnh mẽ trong giai đoạn đầu khi đưa ra những lập luận căn bản về vai trò của FDI đến
nền kinh tế nước tiếp nhận, đặc biệt là thông qua kênh cung ứng vốn. Tuy nhiên, vai trò
của FDI được phân tích chủ yếu qua kênh trực tiếp về gia tăng dòng vốn đầu tư và không
xét đến những tác động gián tiếp hay lan tỏa có thể ảnh hưởng dài hạn đến doanh nghiệp
và nền kinh tế nước tiếp nhận. Thêm vào đó, lý thuyết này cho rằng dòng vốn FDI chỉ giúp
tạo ra tăng trưởng thu nhập của nước tiếp nhận trong ngắn hạn trong khi tăng trưởng dài
hạn không thay đổi. Những giả định này có thể hạn chế việc đánh giá toàn diện và đầy đủ
vai trò của FDI tại nước tiếp nhận đầu tư (Makki & Somwaru, 2004; Nowbutsing, 2009).
29
2.4.1.2 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh giải thích vai trò của FDI đến tăng trưởng kinh tế
không chỉ là nguồn cung vốn trực tiếp mà quan trọng hơn là thông qua các kênh tác
động gián tiếp hay ảnh hưởng lan tỏa (spillovers/externalities) (Romer, 1986; Lucas,
1988; Mankiw & cộng sự, 1992; Paugel, 2007). Trong các mô hình tăng trưởng này,
nguồn vốn FDI được xem là một nhân tố quan trọng giúp cho các quốc gia tiếp nhận có
thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực công nghệ và năng suất sản
xuất thông qua các hiệu ứng lan tỏa tích cực từ các doanh nghiệp FDI đến các doanh
nghiệp trong nước. Theo đó, thông qua hoạt động đào tạo của các doanh nghiệp FDI và
khả năng trao đổi, học hỏi của các doanh nghiệp trong nước, FDI tạo ra cơ hội thuận
lợi để nước tiếp nhận nâng cao năng lực và trình độ cho đội ngũ lao động trong nước,
đặc biệt là chuyển giao về kinh nghiệm quản trị, kiến thức marketing, năng lực xuất
khẩu và hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
So với lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển, lý thuyết tăng trưởng nội sinh có khái
niệm tổng quát hơn về nguồn vốn, trong đó bao hàm không chỉ nguồn vốn vật chất hữu
hình (physical capital) mà còn có nguồn vốn con người (human capital) và nguồn vốn
xã hội (social capital). Quan trọng hơn, những phát triển mới trong lý thuyết tăng
trưởng nội sinh đã giúp luận giải một cách toàn diện hơn vai trò của FDI đối với quá
trình tăng trưởng của doanh nghiệp và kinh tế nước tiếp nhận khi đưa vào mô hình cả
kênh tác động trực tiếp và tác động lan tỏa. Đây là đóng góp nổi bật của lý thuyết này.
Tuy vậy, việc mở rộng khái niệm nguồn vốn gặp phải những lo ngại về việc đo
lường và lượng hóa những nhân tố này (Steedman, 2002). Bên cạnh đó, các mô hình
nghiên cứu lan tỏa từ FDI theo lý thuyết nội sinh cũng đưa ra giả định về toàn dụng lao
động, và giả định này có thể rất nghiêm ngặt trong thực tiễn các doanh nghiệp và nền
kinh tế nước tiếp nhận (Arestis & Sawyer, 2006). Ngoài ra, lý thuyết nội sinh cũng
chưa đưa ra những luận giải cụ thể về các kênh lan tỏa của FDI.
30
2.4.2 Lý thuyết động cơ nhà đầu tư
2.4.2.1 Lý thuyết chiết trung
Dunning (1979, 1988) phát triển lý thuyết chiết trung (The ecletic theory/ OLI
theory) được sử dụng rộng rãi các nghiên cứu về động cơ của nhà đầu tư nước ngoài
cũng như vai trò của FDI đối với nền kinh tế nước tiếp nhận. Theo đó, doanh nghiệp
hay nhà đầu tư sẽ có động cơ mạnh mẽ để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nếu
hội tụ đủ 3 yếu tố hay lợi thế, bao gồm: Sở hữu (Ownership), địa điểm (Location), và
nội bộ hóa (Internalization). Thứ nhất, lợi thế sở hữu (O) xuất phát từ đặc điểm của thị
trường không hoàn hảo khi mà doanh nghiệp FDI sở hữu những ưu thế vượt trội so với
doanh nghiệp nước sở tại. Những ưu thế sở hữu này có thể bao gồm những tài sản hữu
hình (như trang thiết bị kỹ thuật, máy móc sản xuất) hoặc tài sản vô hình (như bằng
sáng chế, bí quyết, kinh nghiệm sản xuất, kiến thức marketing, nghiên cứu và phát
triển). Đây cũng chính là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp FDI tạo ra những tác động
lan tỏa đến đến các doanh nghiệp trong nước thông qua quá trình tương tác giữa hai
nhóm doanh nghiệp này.
Thứ hai, lợi thế về địa điểm (L) cũng là nhân tố thiết yếu trong quyết định đầu
tư ra nước ngoài của chủ đầu tư. Địa điểm đầu tư có thể gắn liền với những ưu thế như
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ và dồi dào, tiềm năng tiêu thụ tại
thị trường nội địa, các chính sách ưu đãi của chính phủ hay sự ổn định về chính trị - xã
hội của nước tiếp nhận đầu tư. Thứ ba, lợi thế về nội bộ hóa (I) giải thích lý do đầu tư
ra nước ngoài để kết hợp các lợi thế về sở hữu và lợi thế địa điểm. Thông qua việc nội
bộ hóa quy trình sản xuất vượt trội tại địa điểm có nhiều ưu thế, doanh nghiệp/nhà đầu
tư FDI có thể vượt qua những rào cản về giao dịch như chi phí vận chuyển, thuế quan
hoặc các hệ quả của thị trường không hoàn hảo.
Trong các dòng lý thuyết về FDI thì lý thuyết chiết trung của Dunning được
xem là có đóng góp quan trọng và rộng rãi. Lý thuyết đưa ra cơ sở để giải thích động
31
cơ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua việc hội tụ cả ba lợi thế về sở hữu, địa điểm
và nội bộ hóa. Lý thuyết này còn cung cấp nền tảng lý thuyết để giải thích những ảnh
hưởng của FDI đến nước tiếp nhận cũng như hàm ý để gia tăng thu hút dòng vốn FDI.
Trong đó, tác động lan tỏa có thể được hình thành và lan rộng xuất phát từ lợi thế sở
hữu (O) khi doanh nghiệp FDI với nhiều ưu thế vượt trội có khả năng phát tán, chuyển
giao và chia sẻ cho các doanh nghiệp trong nước. Mặc dù có những đóng góp quan
trọng song lý thuyết chiết trung cũng nhận những ý kiến phản biện trái chiều về độ tin
cậy (Kojima, 1982; Dunning, 2001; Steedman, 2002). Chẳng hạn, giả định về sự độc
lập của ba yếu tố lợi thế OLI có thể là sai lầm trong thực tế khi sự thay đổi ở một yếu
tố này có thể tác động trực tiếp/gián tiếp đến các yếu tố còn lại. Khung lý thuyết về ba
nhân tố mang cách tiếp cận tương đối tĩnh và ở cấp vi mô nên không cho phép sự linh
hoạt trong chiến lược doanh nghiệp hay đánh giá rộng hơn ở cấp vĩ mô.
2.4.2.2 Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Lý thuyết vòng đời sản phẩm (Product life cycle theory) do Vernon (1966) xây
dựng và phát triển nhằm giải thích quá trình doanh nghiệp chuyển từ sản xuất nội địa
đến hoạt động xuất khẩu và đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo đó, lý thuyết chỉ
ra động cơ diễn ra FDI thông qua 3 giai đoạn của một sản phẩm: giai đoạn phát triển,
giai đoạn chín muồi, và giai đoạn chuẩn hóa. Lý thuyết được Vernon đưa ra dựa trên
kết quả thực nghiệm của các doanh nghiệp Mỹ.
Giai đoạn đầu, sản phẩm vừa ra đời có ưu thế độc quyền và được sản xuất phục
vụ cho nhu cầu của khách hàng trong nước với mức giá tương đối cao. Giai đoạn thứ
hai, nhu cầu cho sản phẩm phát triển mạnh mẽ ở cả trong và ngoài nước. Từ đó, một tỷ
trọng doanh số sản phẩm được xuất khẩu sang các thị trường khác. Giai đoạn thứ ba,
khi sản phẩm được sản xuất với số lượng lớn và được chuẩn hóa cao cùng với sự cạnh
tranh trong nước gia tăng, doanh nghiệp có động cơ mạnh mẽ để đầu tư trực tiếp ra
32
nước ngoài nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường quốc tế cũng như khai thác
các lợi thế về sở hữu và địa điểm của nước tiếp nhận đầu tư.
Lý thuyết của Vernon có đóng góp quan trọng khi giải thích được thời điểm
diễn ra hoạt động FDI gắn liền với sự hình thành và phát triển của một sản phẩm. Hơn
thế nữa, lý thuyết cũng có những hàm ý thiết thực về hoạt động xuất khẩu và FDI.
Doanh nghiệp FDI thường đã tích lũy được kinh nghiệm nhất định trong hoạt động
xuất khẩu và tham gia thị trường quốc tế (giai đoạn thứ hai) trước khi thực hiện các dự
án đầu tư FDI (giai đoạn thứ ba). Do vậy, doanh nghiệp FDI thường sở hữu những lợi
thế và kinh nghiệm vượt trội trong hoạt động xuất khẩu. Đây là cơ sở để giải thích cho
tiềm năng tạo ra tác động lan tỏa của FDI đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
trong nước. Tuy vậy, lý thuyết này được cho là không phù hợp để luận giải động cơ
của những nhà đầu tư FDI muốn tìm kiếm và khai thác nguồn tài nguyên của nước sở
tại (resource-based FDI), để từ đó gia tăng hoạt động xuất khẩu hay các loại hình FDI
khác như FDI liên doanh (Dunning, 2001; Sharma & Erramilli, 2004).
2.4.2.3 Lý thuyết về quyền lợi thị trường
Knickerbocker (1973) đưa ra lý thuyết giải thích cho hoạt động của FDI thông
qua sự canh tranh về quyền lợi thị trường giữa các doanh nghiệp trong môi trường độc
quyền nhóm (The Oligopolistic reactions theory). Độc quyền nhóm là thị trường có
một số lượng hạn chế các doanh nghiệp lớn chiếm giữ đa số thị phần và có đặc điểm
chính là sự phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp trong
nhóm độc quyền. Theo đó, nếu một doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm
thực hiện đầu tư FDI thì sẽ thúc đẩy FDI của các doanh nghiệp lớn khác trong ngành
nhằm đảm bảo thị phần của mình. Hơn thế nữa, Knickerbocker cho rằng hành vi bắt
chước này trong hoạt động FDI sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng của mức độ tập
trung/độc quyền trong nhóm và giảm dần cùng với mức độ đa dạng của sản phẩm.
33
Về cơ bản, lý thuyết về quyền lợi thị trường đã giúp giải thích được động cơ đầu
tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp hay tập đoàn lớn MNEs hoạt động trong các
ngành độc quyền nhóm. So với các doanh nghiệp nhỏ thì hoạt động FDI của các tập
đoàn lớn MNEs, với quy mô các dự án đầu tư lớn hơn cũng như sở hữu nhiều lợi thế
vượt trội, được kỳ vọng là tạo ra các tác động trực tiếp và lan tỏa mạnh mẽ hơn đến các
doanh nghiệp và nền kinh tế nước tiếp nhận. Tuy nhiên, lý thuyết này của
Knickerbocker có hạn chế khi chỉ tập trung và phụ thuộc vào một loại hình cấu trúc thị
trường (Dunning, 2001). Do vậy, hoạt động và ảnh hưởng của các tập đoàn MNEs ở
các cấu trúc thị trường khác không thể được giải thích bởi lý thuyết này.
2.4.3 Lý thuyết sản xuất và tiến bộ công nghệ
Xét ở cấp vi mô, tác động lan tỏa của FDI đến doanh nghiệp trong nước có thể
được phân tích thông qua lý thuyết sản xuất và thay đổi công nghệ ở cấp độ doanh
nghiệp. Mô hình tăng trưởng tân cổ điển và tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh đóng góp
của dòng vốn FDI đến nền kinh tế nước tiếp nhận ở cấp độ vĩ mô với chỉ báo trọng tâm
là tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước chính là những chủ
thể kinh tế trực tiếp tương tác với doanh nghiệp FDI, đưa ra quyết định và thực hiện
những chuyển đổi trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa từ
FDI được cho là phù hợp hơn khi xem xét ở cấp doanh nghiệp hơn là cấp ngành hay
cấp tỉnh (Aitken & Harrison,1999; Kneller & Pisu, 2007).
Về căn bản, doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất để tạo ra sản phẩm
nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất là quá trình phối
hợp và chuyển hóa các yếu tố đầu vào (hay yếu tố sản xuất) thành các yếu tố đầu ra
(hay sản phẩm hàng hóa, dịch vụ). Yếu tố đầu vào là bất kỳ hàng hóa hay dịch vụ nào
được dùng để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ khác. Theo tiêu thức chung, để nghiên cứu
một quá trình sản xuất tổng quát thì các đầu vào được chia thành hai nhóm là lao
động và vốn. Trong đó, lao động là yếu tố nền tảng trong hầu hết quy trình sản xuất.
34
Nó có thể được hiểu là thời gian, công sức bỏ ra của nhà quản lý, công nhân và nhiều
vị trí công việc khác. Các yếu tố sản xuất khác được gọi chung là vốn như nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị, nhà xưởng và năng lượng.
Công nghệ sản xuất là cách thức, phương pháp hay bí quyết để sản xuất ra hàng
hóa, dịch vụ. Theo UNCTAD (2001) thì công nghệ được định nghĩa rộng hơn là hệ
thống kiến thức để sản xuất ra một sản phẩm hay ứng dụng một quy trình cung ứng
một dịch vụ nhất định, bao gồm kiến thức về kỹ thuật sản xuất, khả năng tổ chức, kỹ
năng quản trị và bí quyết kinh doanh. Công nghệ sản xuất sẽ quyết định mối quan hệ
giữa yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Cải tiến hay đổi mới công nghệ sẽ
mang đến những phương pháp sản xuất mới hiệu quả hơn. Tiến bộ công nghệ có thể
giúp doanh nghiệp sản xuất được nhiều sản phẩm hơn hay nâng cao chất lượng sản
phẩm với cùng (hoặc thậm chí ít hơn) số lượng các yếu tố đầu vào như trước. Do vậy,
cải tiến công nghệ được xem là nhân tố then chốt để nâng cao năng suất, sức cạnh tranh
cũng như sự phát triển trong dài hạn của mỗi doanh nghiệp và nền kinh tế. So với các
doanh nghiệp trong nước (nhất là các nước đang phát triển) thì doanh nghiệp FDI, đặc
biệt là các công ty đa quốc gia, được cho là sở hữu những ưu thế vượt trội về công
nghệ sản xuất (Caves, 1996; Globerman, 1979).
Mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố đầu vào và số lượng đầu ra của quá trình
sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Theo đó, hàm sản xuất cho biết mức sản
lượng tối đa (Y) mà doanh nghiệp có thể sản xuất được bằng cách kết hợp các yếu tố
đầu vào (K, L) cho trước với quy trình công nghệ nhất định. Trong lý thuyết sản xuất,
có ba dạng hàm sản xuất thông dụng gồm: Hàm sản xuất tuyến tính, Hàm sản xuất
Leontief, và Hàm sản xuất Cobb-Douglas (Alhabeeb & Moffitt, 2013).
Hàm sản xuất tuyến tính có dạng: Y = αK + βL (α,β ≥ 0). Dạng hàm này cho
thấy khi vốn (K) hay lao động (L) tăng thêm một đơn vị thì sản lượng (Y) sẽ tăng thêm
một lượng cố định tương ứng là α (hay β) đơn vị. Do đó, năng suất biên của vốn và lao
35
động không thay đổi khi tăng thêm số lượng đầu vào. Trong trường hợp này, vốn và
lao động có thể hoàn toàn thay thế cho nhau. Doanh nghiệp có thể chỉ sử dụng vốn hay
lao động cho quá trình sản xuất tùy thuộc vào giá thành và hiệu quả sử dụng của chúng.
Hàm sản xuất Leontief có dạng: Y = min(αK, βL) (α, β ˃0). Dạng hàm này còn
được gọi là hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định, cho biết sản phẩm đầu ra bằng với
giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc. Nếu αK ˂ βL thì Y = αK và do vậy vốn là
yếu tố quyết định trong quy trình sản xuất. Ngược lại nếu αK ˃βL thì Y = βL và lao
động là yếu tố quyết định. Khi αK = βL thì cả hai yếu tố đầu vào được sử dụng tối đa.
Với dạng hàm này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất định vì chúng
không thể thay thế cho nhau. Doanh nghiệp không thể tăng thêm sản lượng nếu như
không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ lệ nhất định.
Hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng: 𝑌 = 𝐴𝐾𝛼𝐿𝛽 (A,α,β ˃0)3. Đây là dạng
hàm trung gian giữa hai dạng hàm tuyến tính và hàm Leontief nên cũng là dạng hàm
sản xuất được vận dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm. Với dạng
hàm này, hai yếu tố sản xuất K và L có thể thay thế cho nhau ở một mức độ nào đó
nhưng không hoàn toàn. Hàm sản xuất Cobb-Douglas phản ánh những đặc điểm chung
của các quá trình sản xuất trong thực tiễn. Đặc biệt, dạng hàm này còn bao gồm cả
nhân tố quan trọng là công nghệ sản xuất (A) hay còn gọi là năng suất các nhân tố tổng
hợp (Total Factor Productivity – TFP).
Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bao gồm các biến số khác ngoài các yếu
tố đầu vào truyền thống (vốn và lao động) và có ảnh hưởng quan trọng đến sản lượng
đầu ra cũng như năng suất của doanh nghiệp. Felipe (1999) xem đó là những yếu tố phi
truyền thống như kiến thức và kỹ năng quản lý, trình độ lao động, cơ cấu nguồn lực,
3 Tổng hệ số (α + β) cho biết hiệu suất của quy mô (hay tốc độ gia tăng đầu ra khi tăng đầu vào lên n lần), nếubằng 1 thìhiệu suất không đổi theo quy mô (đầu ra tăng n lần); lớn hơn 1 thì hiệu suất tăng theo quy mô (đầu ra tăng lớn hơn n lần); và nhỏ hơn 1 thì hiệu suất giảm theo quy mô (đầu ra tăng nhỏ hơn n lần).
tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển,…Những yếu tố này tác
36
động đến sự biến đổi và khả năng kết hợp của các yếu tố lao động và vốn. Chúng có
thể được hình thành và phát triển từ nguồn lực nội tại của doanh nghiệp và cũng có thể
là những ảnh hưởng lan tỏa hấp thụ được từ môi trường bên ngoài, ví dụ như hiệu ứng
lan tỏa từ các doanh nghiệp FDI vốn có nhiều ưu thế về công nghệ sản xuất. Theo đó,
qua quá trình tương tác, học hỏi từ các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước có
thể từng bước cải thiện, đổi mới công nghệ sản xuất, từ đó nâng cao năng suất hoạt
động và khả năng cạnh tranh (Caves, 1974; Kohpaipoon, 2006; Le & Pomfret, 2011).
2.4.4 Lý thuyết về khả năng hấp thụ
Theo lý thuyết của Cohen và Levinthal (1989, 1990) thì khái niệm ‘khả năng
hấp thụ’ (absorptive capacity) có thể được hiểu là khả năng của doanh nghiệp có thể
tiếp thu và chuyển hóa các kiến thức từ bên ngoài thông qua quá trình học hỏi, thích
ứng và vận dụng những kiến thức này. Trong khi đó, Zahra và George (2002) cho rằng
khả năng hấp thụ là khả năng doanh nghiệp có thể thu thập, tổng hợp, chuyển hóa và
khai thác các kiến thức từ bên ngoài để phát triển năng lực của mình. Xét ở cấp độ
doanh nghiệp thì khả năng hấp thụ các hiệu ứng lan tỏa từ FDI thường rất đa dạng và
chịu ảnh hưởng bởi các đặc trưng nội tại của doanh nghiệp trong nước (Farole & cộng
sự, 2014; 2015). Doanh nghiệp vốn khác biệt về nhiều mặt nên Görg và Greenaway
(2004) cho rằng không nên kỳ vọng hiệu ứng lan tỏa từ FDI diễn ra đồng đều với tất cả
các doanh nghiệp vì tính đặc thù hay sự khác biệt của doanh nghiệp trong nước.
Như vậy, mức độ lan tỏa từ FDI khó có thể diễn ra đồng nhất đối với tất cả
doanh nghiệp trong cùng ngành hay cho toàn bộ doanh nghiệp trong nước. Nói cách
khác, mỗi doanh nghiệp với những đặc trưng riêng (như chất lượng nhân lực, quy mô,
hình thức sở hữu, kinh nghiệm hoạt động, khoảng cách công nghệ với doanh nghiệp
FDI, hoạt động nghiên cứu và triển khai R&D, kinh nghiệm, vị trí địa lý,…) có thể có
những phản ứng khác nhau đối với sự hiện diện của FDI và có khả năng khác nhau
trong việc hấp thụ các hiệu ứng lan tỏa từ FDI (Görg & Greenaway, 2004; Smeets,
37
2008; Sun, 2009; Farole & cộng sự, 2014; Blalock & Gertler, 2009; Jordaan, 2011). Do
đó, các đặc trưng nội tại của doanh nghiệp trong nước được xem là những chỉ báo quan
trọng đại diện cho khả năng hấp thụ và ảnh hưởng quan trọng đến mức độ lan tỏa từ
doanh nghiệp FDI.
2.4.5 Tổng hợp các nghiên cứu lý thuyết
Nhìn chung, các lý thuyết về FDI tiếp cận và phân tích vai trò và tác động của
FDI đến doanh nghiệp và nền kinh tế nước tiếp nhận ở những góc độ khác nhau. Trong
đó, so với lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển thì lý thuyết tăng trưởng nội sinh nêu bật và
nhấn mạnh tầm quan trọng của các hiệu ứng lan tỏa từ FDI. Lý thuyết chiết trung và lý
thuyết về quyền lợi thị trường cho thấy những lợi thế vượt trội về sở hữu các tài sản
hữu hình và vô hình, đặc biệt là của các tập đoàn lớn MNEs, được xem là nền tảng
quan trọng để các doanh nghiệp FDI có thể khuếch tán hiệu ứng lan tỏa đến các doanh
nghiệp trong nước. Các lý thuyết này là cơ sở để luận án xây dựng và kiểm định các
giả thuyết về sự tồn tại của các hiệu ứng lan tỏa từ FDI cho trường hợp của Việt Nam.
Bên cạnh đó, lý thuyết vòng đời sản phẩm cho thấy doanh nghiệp FDI đã tích
lũy được kinh nghiệm xuất khẩu và tham gia thị trường quốc tế trước khi thực hiện
FDI. Điều này có thể lý giải về tiềm năng tạo ra lan tỏa xuất khẩu của FDI và tạo cơ sở
lý thuyết hỗ trợ cho luận án này khi xây dựng giả thuyết về sự tồn tại của hiệu ứng lan
tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, lý thuyết sản xuất và
tiến bộ công nghệ cho rằng lan tỏa từ FDI được xem là yếu tố phi truyền thống có thể
tác động gián tiếp giúp cải thiện công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Dựa trên
nhận định lý thuyết này, luận án xây dựng giả thuyết và kiểm định sự tồn tại của hiệu
ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước.
Cuối cùng, lý thuyết về khả năng hấp thụ cho rằng các hiệu ứng lan tỏa từ FDI
diễn ra không đồng nhất do sự khác biệt về khả năng hấp thụ của doanh nghiệp trong
38
nước. Doanh nghiệp với những đặc trưng riêng có thể có những phản ứng khác nhau
đối với sự hiện diện của FDI và có khả năng khác nhau trong việc hấp thụ các hiệu ứng
lan tỏa từ FDI. Dựa trên lý thuyết này, cùng với bằng chứng thực nghiệm và bối cảnh
thực tiễn trong nước, luận án này xây dựng các giả thuyết về các nhân tố ảnh hưởng lan
tỏa công nghệ và xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam.
Khung khái niệm tổng hợp từ các nghiên cứu lý thuyết được trình bày trong Sơ đồ 2.1
Tác động trực tiếp giúp bổ sung nguồn vốn
dưới đây.
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển
Lý thuyết về khả năng hấp thụ
Tác động dài hạn qua kênh lan tỏa
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Vai trò của đặc trưng doanh nghiệp
Lý thuyết
DOANH
Lợi thế vượt trội về sở hữu tài sản
chiết trung
NGHIỆP
Tác động lan tỏa
TRONG
DOANH NGHIỆP FDI
Vai trò của các tập đoàn lớn MNEs
NƯỚC
Lý thuyết về quyền lợi thị trường
Lợi thế về kinh nghiệm xuất khẩu
Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Lợi thế về tiến bộ công nghệ
Lý thuyết sản xuất và tiến bộ công nghệ
Sơ đồ 2.1: Khung khái niệm từ các nghiên cứu lý thuyết
39
2.5 Lược khảo các nghiên cứu trước
2.5.1 Các nghiên cứu trước về lan tỏa công nghệ từ FDI
Lan tỏa công nghệ từ FDI là đề tài được quan tâm nghiên cứu ở nhiều quốc gia
trên thế giới, nhất là trong vòng một thập niên trở lại đây. Một số nghiên cứu tiên
phong được thực hiện cho các quốc gia phát triển như Australia (Caves, 1974), Canada
(Globerman, 1979) và sau đó chủ yếu tập trung vào các quốc gia mới nổi và đang phát
triển như Venezuela (Aitken & Harrison, 1999); Trung Quốc (Li & cộng sự, 2001);
Thái Lan (Kohpaiboon, 2006). Với Việt Nam, qua quá trình lược khảo lý thuyết, tác
giả luận án nhận thấy dù đã có một số nghiên cứu được thực hiện về đề tài này song số
lượng còn rất hạn chế, bao gồm: Le Thanh Thuy (2005); Hoang Van Thanh và Pham
Thien Hoang (2010); Le và Pomfret (2011); Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt Hùng
(2012).
Caves (1974) và Globerman (1979) là những nghiên cứu định lượng khởi đầu về
tác động lan tỏa công nghệ từ FDI, được thực hiện lần lượt cho các ngành công nghiệp
ở Australia và Canada. Hai tác giả đều sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas làm khung
phân tích và phương pháp ước lượng OLS. Kết quả cho thấy những bằng chứng về lan
tỏa tích cực từ các doanh nghiệp FDI đến năng suất lao động (mà biến đại diện là năng
lực công nghệ) của doanh nghiệp ở cả hai quốc gia. Điểm khác biệt giữa hai nghiên
cứu này là biến đại diện cho FDI trong ngành, Caves (1974) sử dụng thang đo tỷ trọng
lao động của các doanh nghiệp FDI trong khi Globerman (1979) sử dụng thang đo tỷ
trọng doanh thu của các doanh nghiệp FDI. Ngoài ra, Globerman (1979) còn cho thấy
năng suất của doanh nghiệp trong nước có quan hệ cùng chiều với các biến số đặc
trưng doanh nghiệp như tỷ trọng vốn trong ngành, quy mô, chất lượng lao động và số
giờ làm việc bình quân.
Hai nghiên cứu trên đã bước đầu xây dựng khung phân tích và mô hình kinh tế
lượng để kiểm định tác động lan tỏa công nghệ từ FDI, tạo nền tảng cho các nghiên
40
cứu sau. Các kết quả thực nghiệm này cũng giúp đưa ra bằng chứng sát thực về tác
động lan tỏa như luận giải về vai trò FDI trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Tuy
nhiên, cả hai nghiên cứu đều chỉ sử dụng một thang đo đơn lẻ đại diện cho FDI trong
ngành, điều này có thể cho kết quả thiên lệch vì mỗi thang đo đều có hạn chế nhất định
nên khó phản ánh chính xác được quy mô tác động lan tỏa công nghệ của FDI
(Kohpaiboon, 2006; Sun, 2009). Việc ước lượng mô hình với phương pháp OLS có thể
cho kết quả không chính xác và thường thổi phồng hiệu ứng lan tỏa do không kiểm
soát được vấn đề bỏ sót biến và không xét đến các đặc điểm riêng của đối tượng bảng
và sự thay đổi của chúng theo thời gian khi sử dụng dữ liệu bảng (Wooldridge, 2009).
Ngoài ra, nghiên cứu của Globerman (1979) sử dụng dữ liệu chéo (năm 1972) có thể
hạn chế độ tin cậy của các ước lượng vì dạng dữ liệu này khó phản ánh được tính
“động” theo thời gian của hiệu ứng lan tỏa.
Trong nghiên cứu này, tác giả luận án sẽ kế thừa khung phân tích với tiếp cận
hàm sản xuất Cobb-Douglas nhưng sử dụng phương pháp ước lượng tác động cố định
(fixed effect estimation) và tác động ngẫu nhiên (random effect estimation) để kiểm
soát thiên lệch ước lượng, và điều này có khả năng thực hiện vì dữ liệu ước lượng là dữ
liệu bảng. Hơn thế nữa, thay vì chỉ sử dụng một thang đo đại diện cho FDI, nghiên cứu
luận án sẽ thực hiện phân tích độ nhạy (Sensitivity analysis) với ba thang đo đại diện
cho biến số trung tâm FDI, bao gồm: tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng lao động, và tỷ trọng
tài sản của khối doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả ước lượng sẽ giúp so sánh và
đánh giá chính xác, toàn diện hơn về hiệu ứng lan tỏa từ FDI cũng như hạn chế các sai
sót và thiên lệch khi chỉ dựa vào một thang đo đại diện.
Aitken và Harrison (1999) nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến
doanh nghiệp Venezuela, sử dụng dữ liệu cấp doanh nghiệp trong giai đoạn 1976 –
1989. Các tác giả cũng vận dụng khung phân tích hàm sản xuất Cobb-Douglas và sử
dụng phương pháp OLS để ước lượng mô hình. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại cho
41
thấy khu vực doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất của doanh nghiệp
trong nước, nhất là với doanh nghiệp quy mô nhỏ. Kết quả này được giải thích là do
hiệu ứng ‘xâm chiếm thị trường’ (market-stealing effect) và cạnh tranh gia tăng do sự
có mặt của các doanh nghiệp FDI. Lý thuyết chiết trung của Dunning (1979, 1988) đã
đưa ra nhận định về những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp
trong nước, đặc biệt là lợi thế sỡ hữu. Do vậy, mặc dù sự xuất hiện của khối doanh
nghiệp FDI có thể giúp giảm chi phí sản xuất bình quân của doanh nghiệp trong nước
nhưng lại tăng áp lực cạnh tranh, từ đó thu hẹp thị phần của doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là trong ngắn hạn.
Phân tích của Aitken và Harrison (1999) sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp
với cỡ mẫu tương đối lớn gồm 43, 010 quan sát. Đây là một trong những điểm mạnh so
với các nghiên cứu sử dụng dữ liệu chéo vì nó có thể nâng cao độ tin cậy của các ước
lượng và đo lường chính xác hơn phạm vi lan tỏa từ FDI theo cả thời gian và không
gian. Tuy nhiên, phương pháp OLS và thang đo đơn lẻ cho FDI (tỷ trọng tài sản trong
ngành) cũng là hạn chế của nghiên cứu này. Ngoài ra, có rất ít biến số đặc trưng doanh
nghiệp và ngành nghề được sử dụng trong mô hình nên có khả năng bỏ sót những biến
số quan trọng tác động đến năng suất doanh nghiệp. Nghiên cứu của luận án này cũng
sẽ sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp vì những ưu thế vượt trội của nó so với dạng
dữ liệu chéo trong kiểm định hiệu ứng lan tỏa nhưng sẽ ước lượng mô hình với ba
thang đo khác nhau đại diện cho FDI. Thêm vào đó, một tập hợp các biến số đặc trưng
doanh nghiệp và ngành nghề được đưa vào mô hình để kiểm soát tác động của chúng
đến năng suất doanh nghiệp và hơn thế nữa là để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng hiệu
ứng lan tỏa công nghệ của FDI.
Li và cộng sự (2001) nghiên cứu lan tỏa công nghệ từ FDI đến 185 doanh
nghiệp chế biến chế tạo của Trung Quốc trong năm 1995. Các tác giả sử dụng mô hình
phương trình đồng thời (Simultaneous equations) và phương pháp ước lượng 3 bước
42
(3SLS) cho ba loại hình doanh nghiệp. Kết quả ước lượng cho thấy tồn tại hiệu ứng lan
tỏa tích cực từ FDI, trong đó doanh nghiệp nhà nước hưởng lợi từ lan tỏa công nghệ
qua kênh cạnh tranh còn doanh nghiệp tư nhân và tập thể hưởng lợi từ thông qua kênh
biểu thị. So với doanh nghiệp FDI hướng đến xuất khẩu, doanh nghiệp FDI tập trung
vào thị trường trong nước tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ hơn thông qua kênh cạnh
tranh. Một số nhân tố đặc trưng doanh nghiệp cũng được tìm thấy có ảnh hưởng đến
năng suất của doanh nghiệp trong nước gồm chất lượng lao động, tỷ lệ vốn hóa và
khoảng cách công nghệ với doanh nghiệp FDI.
Nghiên cứu của Li và cộng sự (2001) đã cung cấp thêm bằng chứng thực
nghiệm cho lý thuyết nội sinh về FDI và lý thuyêt sản xuất và tiến bộ công nghệ khi
khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong
nước. Hơn thế nữa, nghiên cứu này còn tìm kiếm và kiểm định các kênh lan tỏa cho ba
nhóm loại hình sở hữu của doanh nghiệp trong nước và loại hình FDI theo thị trường
chính. Nghiên cứu cũng sử dụng hai thang đo đại diện FDI (tỷ trọng lao động và tỷ
trọng tài sản) thay vì một thang đo đơn lẻ. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu
chéo cấp ngành (với 185 quan sát) đã làm hạn chế kết quả. Phương pháp ước lượng
3SLS có thể cho kết quả thiên lệch vì rất có thể các sai số ngẫu nhiên của các phương
trình riêng lẻ sẽ có tương quan với nhau trong hệ thống (Baltagi, 2008), nhất là với cỡ
mẫu nhỏ như trong nghiên cứu này. Trong luận án này, tác giả sẽ kế thừa yếu tố loại
hình sở hữu kết hợp với các đặc trưng doanh nghiệp trong mô hình lan tỏa. Tuy nhiên,
luận án không chỉ dừng lại ở việc kiểm định có tồn tại hay không lan tỏa công nghệ mà
xa hơn là kiểm định các nhân tố ảnh hưởng hiệu ứng lan tỏa. Điểm khác biệt nữa của
luận án so với nghiên cứu này là dữ liệu bảng và phương pháp ước lượng.
Kohpaiboon (2006) nghiên cứu lan tỏa công nghệ từ FDI đến 15,624 doanh
nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến của Thái Lan trong năm 1996. Tương tự Li
và cộng sự (2001), tác giả sử dụng mô hình phương trình đồng thời nhưng chú trọng
43
kiểm định giả thuyết của Bhagwati (1973) về vai trò của chính sách thương mại đối với
hiệu ứng lan tỏa thông qua một biến số tương tác với FDI. Kết quả cho thấy lan tỏa
công nghệ có nhiều khả năng xảy ra với chính sách thúc đẩy xuất khẩu hơn là chính
sách thay thế nhập khẩu. Tuy vậy, với giá trị bình quân của mẫu nghiên cứu thì cho
thấy tương quan ngược chiều giữa FDI và năng suất của doanh nghiệp trong nước.
Điều này cho thấy với chính sách thay thế nhập khẩu thì sự gia nhập của các doanh
nghiệp FDI, đặc biệt là các tập đoàn lớn MNEs vốn có nhiều ưu thế vượt trội
(Dunning, 1979; Knickerbocker, 1973) có thể gia tăng sự cạnh tranh đối với doanh
nghiệp trong nước khi cùng sản xuất để phục vụ thị trường nội địa.
Trong phân tích của Kohpaiboon (2006), tác giả đã mở rộng mô hình khi kiểm
định nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa từ FDI. Đây là điểm rất mới so với các nghiên cứu
trước đây vốn chỉ tập trung vào kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa. Tuy nhiên,
sử dụng thang đo đơn lẻ đo lường FDI và dạng dữ liệu chéo cũng là hai hạn chế lớn
của nghiên cứu. Xuất phát từ những vấn đề này, nghiên cứu luận án này tác giả sẽ kế
thừa nhân tố mới trên nhưng phát triển ở mức cao hơn khi kiểm định đồng thời nhiều
yếu tố ảnh hưởng lan tỏa đại diện cho khả năng hấp thụ của doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, những điểm hạn chế trong nghiên cứu của Kohpaiboon sẽ được khắc phục để
làm tăng độ tin cậy của ước lượng khi luận án sử dụng dữ liệu bảng và ba thang đo đại
diện cho FDI trong ngành.
Đối với Việt Nam, nghiên cứu về lan tỏa công nghệ chỉ mới được thực hiện
trong thời gian gần đây và số nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước còn rất hạn
chế. Le Thanh Thuy (2005) nghiên cứu về các kênh lan tỏa chủ yếu và mức độ lan tỏa
từ FDI đến 29 ngành tại Việt Nam. Tác giả sử dụng khung phân tích dạng hàm sản xuất
Cobb-Douglas dựa trên dữ liệu bảng cấp ngành. Kết quả ước lượng từ mô hình tác
động cố định và mô hình tác động ngẫu nhiên đều cho thấy tồn tại lan tỏa tích cực nhưng
ước lượng chỉ có ý nghĩa thống kê cho giai đoạn 1995-1999 mà không có ý nghĩa với
44
giai đoạn 2000-2002. Kết quả này trong giai đoạn 2000-2002 được giải thích là do hiệu
ứng cạnh tranh hay “xâm chiếm thị trường” từ khối FDI gia tăng.
Nghiên cứu của Le Thanh Thuy (2005) đã bước đầu thực hiện kiểm định ảnh
hưởng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp Việt Nam và bổ sung thêm bằng
chứng thực nghiệm cho những nhận định về vai trò của tác động gián tiếp từ FDI trong
lý thuyết nội sinh (Romer, 1986; Lucas, 1988; Mankiw & cộng sự, 1992; Paugel, 2007).
Cả phương pháp ước lượng tác động cố định và ước lượng ngẫu nhiên được sử dụng
giúp kiểm soát được khả năng thiên lệch ước lượng so với phương pháp OLS. Tuy
nhiên, nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu cấp ngành với cỡ mẫu khá nhỏ đã phần nào hạn
chế kết quả ước lượng vì hiệu ứng lan tỏa thường xuất phát từ những tương tác cấp vi
mô giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Thêm vào đó, do hạn chế về dữ
liệu nên mô hình cũng chưa kiểm soát được một số biến số quan trọng có thể tác động
đến năng suất doanh nghiệp (ví dụ: chất lượng lao động, quy mô, đầu tư R&D). Trong
nghiên cứu luận án, tác giả sẽ kế thừa khung phân tích và phương pháp ước lượng, đồng
thời khắc phục những hạn chế kể trên. Đặc biệt, điểm mới của luận án là không chỉ dừng
lại ở việc kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa mà còn khám phá và kiểm định các
nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa. Đặc điểm của FDI cũng sẽ được quan tâm nghiên
cứu trong luận án khi nhiều thang đo đại diện cho FDI được sử dụng.
Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010) nghiên cứu về lan tỏa công
nghệ từ FDI tại Việt Nam cho giai đoạn 2003-2007. Sử dụng mẫu nghiên cứu gồm
28096 doanh nghiệp ở 29 ngành, kết quả ước lượng mô hình cho thấy tồn tại lan tỏa
công nghệ tích cực từ FDI, giúp nâng cao năng suất của doanh nghiệp Việt Nam. Đồng
thời, tác giả ghi nhận mối tương quan chặt chẽ giữa lan tỏa công nghệ với sự khác biệt
về công nghệ, tỷ lệ vốn hóa và chất lượng lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp trong nước. Từ đó, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải rút ngắn khoảng cách
45
công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, đồng thời nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để tối ưu hóa lợi ích từ lan tỏa công nghệ của FDI.
Nghiên cứu của Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010) khá tương
đồng với nghiên cứu của Le Thanh Thuy (2005) về khung phân tích, phương pháp ước
lượng và thang đo đại diện FDI (tỷ trọng lao động trong ngành). Tuy nhiên, nghiên cứu
của hai tác giả sử dụng dữ liệu cấp doanh nghiệp với cỡ mẫu lớn mang tính đại diện
cao hơn, từ đó khắc phục được hạn chế của ước lượng dữ liệu cấp ngành. Trong luận
án này, để nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI đến doanh nghiệp Việt Nam
tác giả cũng sẽ sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp từ các cuộc điều tra của Tổng
cục Thống kê nhưng với bộ dữ liệu cập nhật và quy mô nhất trong giai đoạn 2011 –
2013. Luận án cũng sẽ có nhiều điểm khác biệt khi khai thác thêm các nhân tố quan
trọng tác động tới năng suất doanh nghiệp và tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng lan tỏa.
Đa phần các nghiên cứu tập trung phân tích và kiểm định các kênh lan tỏa công
nghệ (chiều dọc và chiều ngang) từ FDI như Nguyen Ngoc Anh và cộng sự (2008);
Nguyen Phi Lan (2008); Le va Pomfret (2011). Trong đó, Nguyen Ngoc Anh và cộng
sự (2008) phân tích tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến các doanh nghiệp thuộc cả
ngành chế biến chế tạo và ngành dịch vụ trong giai đoạn 2000-2005. Các tác giả cũng
vận dụng cách tiếp cận hàm sản xuất Cobb-Douglas. Kết quả nghiên cứu cho thấy các
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được hưởng lợi từ lan tỏa tích cực theo kênh
liên kết ngược. Tuy nhiên, kết quả ước lượng không cho thấy bằng chứng về tác động
lan tỏa công nghệ từ FDI (theo cả chiều ngang và chiều dọc) đến các doanh nghiệp trong
nước thuộc ngành dịch vụ.
Sử dụng cách tiếp cận tương tự như Nguyen Ngoc Anh và cộng sự (2008), nghiên
cứu của Nguyen Phi Lan (2008) tập trung kiểm định các kênh lan tỏa từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam trong giai đoạn 2000-2005. Kết quả cho thấy FDI tạo
ra tác động tích cực đến năng suất của doanh nghiệp trong nước thông qua kênh chiều
46
ngang và kênh liên kết ngược. Trong khi đó, nghiên cứu của Le và Pomfret (2011) phân
tích lan tỏa cho giai đoạn 2000-2006 cũng cho thấy liên kết ngược là kênh lan tỏa quan
trọng nhất và tác động tích cực đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên,
kênh lan tỏa theo hiều ngang thì lại tạo ra lan tỏa tiêu cực và điều này được giải thích
bởi ảnh hưởng của áp lực cạnh tranh gia tăng từ khối doanh nghiệp FDI. Trong đó,
doanh nghiệp tư nhân, sản xuất phục vụ thị trường trong nước, không đầu tư cho hoạt
động R&D và doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp là những đối tượng chịu tác
động tiêu cực từ FDI. Thêm vào đó, doanh nghiệp 100% vốn FDI và doanh nghiệp FDI
hướng đến thị trường trong nước có tác động tiêu cực đến năng suất của doanh nghiệp
trong nước.
Pham Thi Bich Ngoc (2012) phân tích tác động lan tỏa (chiều ngang và chiều
dọc) của FDI đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
trong hai giai đoạn trước và sau khi gia nhập WTO, 2004-2006 và 2007-2009. Trong
đó, tác giả tập trung vào vai trò của nguồn gốc dòng vốn FDI, bao gồm 7 đối tác đầu tư
chính của Việt Nam là ASEAN, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan và Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
khu vực và thế giới thì FDI từ Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan theo kênh liên kết ngang
hoặc liên kết ngược tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực, giúp nâng cao năng suất của doanh
nghiệp trong nước. Trong khi đó, FDI từ các khu vực còn lại cũng tạo ra tác động lan
tỏa tích cực theo chiều ngang nhưng không tồn tại lan tỏa theo kênh chiều dọc đến
năng suất của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả này cho thấy vai trò của tự do hóa
thương mại đến hiệu ứng lan tỏa từ FDI khi giúp gia tăng lan tỏa theo chiều ngang và
đa dạng hóa lan tỏa theo chiều dọc.
Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt Hùng (2012) cũng thực hiện kiểm định các
kênh lan tỏa công nghệ cho 31509 doanh nghiệp chế biến của Việt Nam, giai đoạn
2000-2005. Kết quả ước cho thấy sự hiện diện của FDI tại Việt Nam có tác động tích
47
cực đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, tác giả không tìm thấy các
hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc và chiều ngang. Như vậy, nghiên cứu này cũng tìm
kiếm và kiểm định các kênh lan tỏa như một số nghiên cứu trước nhưng sử dụng hai
biến đại diện FDI (tỷ trọng doanh thu và tỷ trọng tài sản của FDI trong ngành). Tuy
nhiên, nghiên cứu lại bao gồm cả doanh nghiệp FDI trong biến phụ thuộc. Điều này có
thể làm nghiêm trọng hơn vấn đề nội sinh và tạo thiên lệch ước lượng. Trong luận án
này của tác giả, hạn chế trên sẽ được khắc phục khi chỉ ước lượng tác động của biến
lan tỏa và các biến số quan trọng khác đến năng suất của doanh nghiệp trong nước.
Trong một nghiên cứu gần đây, Newman và cộng sự (2014) phân tích tác động
lan tỏa của FDI đến năng suất của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam, trong đó
tập trung vào kênh lan tỏa theo chiều dọc. So với các nghiên cứu trước cho Việt Nam,
nghiên cứu của Newman và cộng sự (2014) sử dụng mẫu nhỏ hơn gồm 7,500 doanh
nghiệp được thu thập từ các cuộc điều tra năng lực cạnh tranh và công nghệ của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho giai đoạn 2009-2011. Nghiên cứu
có đóng góp mới khi kiểm định và tách biệt hiệu ứng lan tỏa trực tiếp (qua chuyển giao
công nghệ) và hiệu ứng lan tỏa gián tiếp của FDI. Kết quả ước lượng cho thấy tồn tại
lan tỏa tích cực từ kênh liên kết ngược trong khi kênh liên kết xuôi tạo ra lan tỏa tiêu
cực. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI với hình thức liên doanh tạo ra nhiều tác động lan tỏa
tích cực hơn so với doanh nghiệp 100% vốn FDI.
47
Bảng 2.2 Bảng tóm tắt các nghiên cứu trước về hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI
Tác giả Quốc gia Phương pháp nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu Hạn chế
Australia Caves (1974) Kết luận chính Lan tỏa tích cực từ FDI
- Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng hồi quy OLS - 23 ngành công nghiệp chế biến - Thời gian: 1962 và 1966
Canada Globerman (1979) Lan tỏa tích cực - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng hồi quy OLS - 61 ngành công nghiệp chế biến - Thời gian: 1972
Venezuela Lan tỏa tiêu cực từ FDI
- Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng hồi quy OLS Aitken và Harrison (1999) - Dữ liệu cấp doanh nghiệp gồm 43,010 quan sát - Thời gian: 1976 – 1989 (trừ năm 1980)
Trung Quốc Tồn tại hiệu ứng lan tỏa - 185 daonh nghiệp chế biến chế tạo - Thời gian: 1995 Li và cộng sự (2001) - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng OLS và Three-stage Least Squares (3SLS) cho mô hình 3 phương trình - Dữ liệu cấp ngành - Thiên lệch ước lượng OLS - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Chưa kiểm định các nhân tố tác động tới lan tỏa - Dữ liệu chéo cấp ngành - Thiên lệch ước lượng OLS - Chưa kiểm định các nhân tố ảnh hưởng lan tỏa - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Thiên lệch ước lượng OLS - Ít biến số đặc trưng doanh nghiệp và ngành nghề - Dữ liệu chéo cấp ngành - Thiên lệch ước lượng OLS - Chưa kiểm định các các nhân tố tác động tới
48
Thái Lan Kohpaiboon (2006) - 15,624 doanh nghiệp chế biến - Thời gian: 1996
- Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp Two-stage least squares (2SLS) ước lượng mô hình 2 phương trình (Two-equation model)
lan tỏa - Dữ liệu chéo cấp ngành - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Chỉ kiểm định mức độ tác động của yếu tố ngoại thương đến quy mô lan tỏa
Việt Nam
- Dữ liệu bảng gồm 29 ngành - Thời gian: 1995- 1999 và 2000-2002 Le Thanh Thuy (2005) - Dữ liệu cấp ngành - Khả năng thiên lệch do thiếu các biến quan trọng ảnh hưởng đến năng suất doanh nghiệp - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng tác động cố định (fixed effect estimation) và tác động ngẫu nhiên (random effect estimation)
Việt Nam
- Gồm 28,096 doanh nghiệp ở 29 ngành - Thời gian: 2003- 2007 - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Chưa kiểm định các nhân tố tác động tới lan tỏa Lan tỏa tích cực chỉ xảy ra khi thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, thúc đẩy xuất khẩu. - Lan tỏa tích cực trong giai đoạn 1995-1999 - Không tồn tại lan tỏa trong giai đoạn 2000- 2002 - Lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI
Việt Nam
Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010) Le và Pomfret (2011) - Gồm 8,601 doanh nghiệp ở 29 ngành - Thời gian: 2000- 2006 - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Số lượng hạn chế biến tương tác để tìm hiểu nhân tố tác động lan tỏa - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng tác động cố định (fixed effect estimation) và tác động ngẫu nhiên (random effect estimation) - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng tác động cố định (fixed effect estimation) và tác động ngẫu nhiên (random effect estimation) - Lan tỏa tích cực từ liên kết ngược - Lan tỏa tiêu cực từ liên kết ngang
49
Việt Nam
Pham Thi Bich Ngoc (2012) - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng GMM
- 33,150 doanh nghiệp chế biến chế tạo - Thời gian: 2004- 2009 - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Chưa nghiên cứu sâu các nhân tố đặc trưng doanh nghiệp ảnh hưởng đến lan tỏa
Việt Nam
- Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng bán tham số Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt Hùng (2012) - 31,509 doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo - Thời gian: 2000- 2005 - Gồm cả doanh nghiệp FDI trong biến mục tiêu - Chưa kiểm định các nhân tố tác động tới lan tỏa
Việt Nam
Newman và cộng sự (2014) - Mô hình hàm sản xuất - Phương pháp ước lượng tác động cố định
- 7,500 doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo - Thời gian: 2009- 2011
- Lan tỏa tích cực từ liên kết ngang và liên kết ngược; - Lan tỏa phụ thuộc vào nguồn gốc nước đầu tư Lan tỏa tích cực từ FDI nhưng không xác định sự tồn tại của các kênh lan tỏa - Lan tỏa tích cực từ liên kết ngược; - Liên kết xuôi tạo ra lan tỏa tiêu cực - Thang đo đơn lẻ đại diện FDI - Cỡ mẫu khá nhỏ - Chưa nghiên cứu sâu các nhân tố đặc trưng doanh nghiệp ảnh hưởng đến lan tỏa
Nguồn: Tổng hợp của tác giả luận án
50
Bảng 2.2 tóm tắt các nghiên cứu trước về hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI
được thực hiện trong và ngoài nước. Có thể thấy rằng các nghiên cứu lựa chọn cách tiếp
cận cơ bản là dựa vào hàm sản xuất Cobb-Douglas và hầu hết sử dụng dữ liệu bảng cấp
doanh nghiệp. Kết quả thực nghiệm cho thấy những kết luận trái chiều về hiệu ứng lan
tỏa công nghệ từ FDI, nhất là theo các kênh lan tỏa. Trong đó, đa phần các nghiên cứu
chỉ sử dụng một thang đo đơn lẻ đo lường sự hiện diện của FDI và không nghiên cứu sâu
các nhân tố đặc trưng doanh nghiệp ảnh hưởng đến quy mô lan tỏa công nghệ. Đây là
những khoảng trống nghiên cứu mà luận án này sẽ đóng góp bằng cách đưa vào tập hợp
các biến tương tác giữa đặc trưng doanh nghiệp và biến đại diện FDI để kiểm định các
nhân tố ảnh hưởng lan tỏa. Bên cạnh đó, luận án thực hiện phân tích độ nhạy với ba
thang đo đại diện cho FDI để có thể đưa ra những nhận định so sánh về tác động lan tỏa
công nghệ của FDI cho trường hợp doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam.
2.5.2 Các nghiên cứu trước về lan tỏa xuất khẩu từ FDI
So với lan tỏa công nghệ, các nghiên cứu về lan tỏa xuất khẩu được thực hiện khá
muộn và số lượng hạn chế hơn (Kneller & Pisu, 2007). Aitken và cộng sự (1997) đã tiên
phong kiểm định vai trò lan tỏa của FDI đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
trong nước. Nghiên cứu tìm hiểu về ngành công nghiệp chế biến của Mexico giai đoạn
1986–1990. Kết quả ước lượng mô hình Probit cho thấy khả năng tham gia xuất khẩu của
các doanh nghiệp Mexico có tương quan dương với độ gần về không gian với các công
ty đa quốc gia. Do vậy, tác giả này đề xuất chính phủ nên khuyến khích các doanh
nghiệp xuất khẩu tiềm năng xây dựng nhà máy gần các doanh nghiệp nước ngoài để có
thể học hỏi và cắt giảm chi phí gia nhập thị trường xuất khẩu. Với phương pháp nghiên
cứu tương tự, Kokko và cộng sự (2001) tìm hiểu lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh
nghiệp Uruguay. Kết quả ước lượng cho thấy sự hiện diện của doanh nghiệp FDI làm
tăng khả năng tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, chỉ có các
doanh nghiệp FDI tham gia vào thị trường này sau năm 1973 (là giai đoạn mở cửa của
Uruguay) mới tạo ra tác động lan tỏa xuất khẩu tích cực.
51
Phân tích của Aitken và cộng sự (1997) đã có đóng góp quan trọng khi lần đầu
tiên sử dụng mô hình kinh tế lượng để nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Kết quả nghiên cứu đã bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm khẳng định tác động rộng
lớn hơn của FDI thông qua kênh gián tiếp đến khả năng tham gia thị trường quốc tế của
doanh nghiệp nước sở tại (Romer, 1986; Lucas, 1988; Mankiw & cộng sự, 1992; Paugel,
2007). Lý thuyết của Vernon (1966) cũng cho rằng doanh nghiệp FDI thường sở hữu
những lợi thế và kinh nghiệm vượt trội trong hoạt động xuất khẩu, từ đó có thể lan tỏa
đến doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu của Aitken và cộng sự
(1997) và Kokko và cộng sự (2001) đều có chung điểm hạn chế là chỉ dừng lại ở việc
kiểm định lan tỏa đến quyết định ‘có tham gia xuất khẩu hay không’ của doanh nghiệp
trong nước. Trong khi đó, một quyết định quan trọng khác là ‘tỷ trọng xuất khẩu bao
nhiêu’ lại không được xét đến. Ngoài ra, cả hai nghiên cứu chỉ sử dụng một thang đo đơn
lẻ đại diện cho FDI khiến cho kết quả nghiên cứu có thể bị thiên lệch.
Greenaway và cộng sự (2004) áp dụng mô hình chọn mẫu của Heckman (1979) để
nghiên cứu về tác động lan tỏa xuất khẩu từ các công ty đa quốc gia MNEs cho các doanh
nghiệp chế biến Anh trong giai đoạn 1992–1996. Các lý thuyết về động cơ nhà đầu tư cho
rằng các tập đoàn MNEs với quy mô các dự án đầu tư lớn hơn cũng như sở hữu nhiều lợi
thế vượt trội, được kỳ vọng là tạo ra lan tỏa mạnh mẽ hơn đến các doanh nghiệp và nền
kinh tế nước tiếp nhận. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự hiện diện của lan tỏa xuất khẩu
từ các MNEs và hiệu ứng cạnh tranh gia tăng là kênh lan tỏa quan trọng nhất. Với cách tiếp
cận tương tự, Kneller và Pisu (2007) phát triển nghiên cứu này cho các doanh nghiệp Anh
nhưng tập trung vào việc kiểm định, phân tích cả các kênh lan tỏa chiều dọc và chiều ngang.
Tác giả kết luận rằng quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp Anh không chịu tác
động bởi các tương tác với các công ty đa quốc gia, trong khi quyết định về tỷ trọng xuất
khẩu chịu ảnh hưởng bởi sự hiện diện của doanh nghiệp nước ngoài trong các ngành dọc.
Hai nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp mới khi vận dụng mô hình chọn mẫu
Heckman để đo lường cả hai quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Kỹ thuật
định lượng này có thể đo lường được hai quyết định có liên quan và loại bỏ thiên lệch lựa
52
chọn mẫu do một thực tế rằng nếu không tham gia xuất khẩu thì hành vi xuất khẩu của
doanh nghiệp khó có thể quan sát được. Nếu thiên lệch lựa chọn mẫu này không được loại
bỏ thì có thể đưa đến những kết quả ước lượng thiếu chính xác (Heckman, 1979). Tuy nhiên,
hai nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa và chỉ ra
các kênh lan tỏa.
Buck và cộng sự (2007) áp dụng mô hình chọn mẫu Heckman để phân tích ảnh
hưởng lan tỏa xuất khẩu từ các công ty đa quốc gia đến doanh nghiệp Trung Quốc trong giai
đoạn 1998 – 2001. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại hiệu ứng lan tỏa tích cực thông qua
di chuyển lao động, tập trung về mặt không gian, bắt chước công nghệ và lan tỏa kinh
nghiệm xuất khẩu. Sun (2009) cũng tìm hiểu về doanh nghiệp Trung Quốc và mở rộng mô
hình nghiên cứu bằng cách đưa vào các biến tương tác giữa FDI và đặc trưng doanh nghiệp
nhằm tìm kiếm nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa xuất khẩu. Kết quả cho thấy có ảnh hưởng
lan tỏa tích cực từ FDI đến tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó,
phạm vi lan tỏa có tương quan dương với vị trí ở miền Trung và tương quan âm với tỷ lệ chi
phí trên doanh thu, hình thức sở hữu và vị trí ở miền Tây Trung Quốc. Nghiên cứu này đã
cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho lý thuyết khả năng hấp thụ (Cohen & Levinthal,
1989, 1990; Farole & cộng sự, 2014, 2015) khi cho thấy đặc trưng nội tại của doanh
nghiệp trong nước là những chỉ báo quan trọng đại diện cho khả năng hấp thụ và ảnh
hưởng quan trọng đến mức độ lan tỏa từ doanh nghiệp FDI.
Nghiên cứu của Buck và cộng sự (2007) đã thực hiện kiểm định nhiều kênh lan tỏa,
bao gồm cả lan tỏa về độ gần không gian và xem xét tính đa dạng về đặc trưng của doanh
nghiệp FDI. Đây là những đóng góp nổi bật của nghiên cứu này. Tuy nhiên, nghiên cứu này
cũng có chung điểm hạn chế với các nghiên cứu trước là mới chỉ dừng lại ở việc kiểm định
sự tồn tại của lan tỏa. Trong khi đó, Sun (2009) đã khắc phục được hạn chế này khi đưa vào
mô hình các biến tương tác để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng hiệu ứng lan tỏa. Cách tiếp
cận này sẽ được kế thừa trong nghiên cứu luận án của tác giả về lan tỏa xuất khẩu từ FDI
đến doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam.
53
Tadesse và Shukralla (2013) cũng nghiên cứu về ảnh hưởng của FDI đến hoạt
động xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu tư nhưng với cách tiếp cận khá khác biệt với các
nghiên cứu trước. Trong đó, các tác giả tập trung kiểm định và lượng hóa tác động của
FDI đến sự đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu theo chiều ngang của 131 quốc gia trong
giai đoạn 1984-2004, sử dụng phương pháp tham số và bán tham số. Thay vì đo lường
vai trò của FDI ở cấp độ ngành hay theo các kênh lan tỏa, nghiên cứu của Tadesse và
Shukralla sử dụng tổng lượng vốn FDI của mỗi quốc gia để đại diện cho tầm quan trọng
và ảnh hưởng của FDI. Kết quả nghiên cứu nhìn chung cho thấy mối tương quan cùng
chiều giữa tổng lượng vốn FDI và mức độ đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu của nước sở
tại, nhất là tại các nước đang phát triển. Khi tổng vốn FDI tăng lên 1% sẽ giúp gia tăng
mức độ đa dạng hóa xuất khẩu lên 0.023% và tác động này của FDI có sự khác biệt đáng
kể giữa các quốc gia. Nghiên cứu đã có đóng góp khi phân tích ảnh hưởng của FDI đến
một khía cạnh khác của hoạt động xuất khẩu ngoài khả năng tham gia và tỷ trọng xuất
khẩu. Tuy nhiên, do tiếp cận ở cấp vĩ mô bao gồm tổng số sản phẩm xuất khẩu của tất cả
doanh nghiệp của mỗi quốc gia nên khó đo lường tách biệt được tác động gián tiếp hay
hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.
Các nghiên cứu trên đây đều tìm thấy ảnh hưởng tích cực của FDI đến xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại có kết luận trái ngược.
Barrios và cộng sự (2001) tìm hiểu hành vi xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến Tây Ban
Nha và lan tỏa xuất khẩu từ các FDI trong giai đoạn 1990–1998. Kết quả ước lượng chỉ ra
rằng doanh nghiệp địa phương không được hưởng lợi từ lan tỏa xuất khẩu của các công ty
MNEs. Tương tự, Phillips và Ahmadi-Esfahani (2010) nghiên cứu lan tỏa xuất khẩu từ các
công ty MNEs đến các doanh nghiệp chế biến thực phẩm Australia. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy FDI không tạo ra hiệu ứng lan tỏa đến quyết định tham gia xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước. Theo các tác giả này thì nguyên nhân chính là do các doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động khá biệt lập và có chính sách bảo vệ tốt các tài sản vô hình.
Phân tích của Barrios và cộng sự (2001) không chỉ kiểm định hiệu ứng lan tỏa từ FDI
mà còn bao gồm lan tỏa từ chính các doanh nghiệp trong nước. Vai trò của các đặc trưng
54
doanh nghiệp cũng được quan tâm phân tích trong mô hình xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tuy vậy, các hạn chế chính của nghiên cứu này là tác động của thời gian và đặc trưng ngành
đến quyết định xuất khẩu chưa được kiểm soát; và chưa kiểm định được các nhân tố tác
động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu. Trong khi đó, nghiên cứu của Phillips và Ahmadi-
Esfahani (2010) chỉ mới kiểm định quyết định tham gia xuất khẩu và kết quả có thể chưa
phản ánh được tính ‘động’ theo thời gian của hiệu ứng lan tỏa do hạn chế của dữ liệu chéo.
Ruane và Sutherland (2005) áp dụng mô hình chọn mẫu Heckman để phân tích tác
động lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến ở Ireland với hai biến đại
diện FDI là tỷ trọng lao động và tỷ trọng xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI. Kết quả
nghiên cứu cho thấy quyết định gia nhập thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp Ireland
có quan hệ cùng chiều với tỷ trọng lao động của các doanh nghiệp FDI trong cùng
ngành. Tuy nhiên, cả quyết định tham gia xuất khẩu và quyết định về tỷ trọng xuất khẩu
có quan hệ ngược chiều với tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp nước ngoài. Theo tác
giả này, ảnh hưởng lan tỏa tiêu cực này chủ yếu là do tỷ trọng xuất khẩu rất cao của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của Mỹ trong các ngành công nghiệp truyền thống.
Anwar và Nguyen (2011) là nghiên cứu đầu tiên tập trung tìm hiểu về lan tỏa xuất
khẩu từ FDI ở Việt Nam, sử dụng dữ liệu chéo từ Điều tra doanh nghiệp năm 2000. Kết
quả ước lượng từ mô hình chọn mẫu Heckman cho thấy FDI có ảnh hưởng tích cực đến
năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước thông qua kênh liên
kết ngang và liên kết xuôi. Tuy nhiên, kênh liên kết ngược lại tác động tiêu cực đến
doanh nghiệp trong nước. Từ đó, các tác giả đề xuất doanh nghiệp trong nước cần tăng
cường đầu tư cho đào tạo nhân lực, lựa chọn vị trí gần nới tập trung nhiều doanh nghiệp
FDI và chủ động hơn nữa trong việc tạo lập và khai thác các mối quan hệ với khối doanh
nghiệp này. Thêm vào đó, chính phủ được khuyến nghị hỗ trợ thúc đẩy sự hợp tác giữa
doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là khối tư nhân, với doanh nghiệp nước ngoài để tăng
cường chất lượng các kênh liên kết và tác động lan tỏa.
Nghiên cứu trên đã đóng góp những kết quả định lượng bước đầu về hiệu ứng lan
tỏa xuất khẩu và các kênh lan tỏa tại Việt Nam cũng như bổ sung bằng chứng thực nghiệm
55
về tác động lan tỏa từ FDI theo lý thuyết nội sinh. Các tác giả cũng đã quan tâm phân tích
ảnh hưởng của các nhân tố đặc trưng doanh nghiệp và vị trí địa lý đến hành vi xuất khẩu
của doanh nghiệp để có những hàm ý chính sách quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ
mới dừng ở mức độ kiểm định mà chưa đi sâu tìm hiểu các yếu tố tác động đến quy mô
lan tỏa. Dữ liệu chéo và sử dụng thang đo đơn lẻ đại diện FDI là hai hạn chế khác của
nghiên cứu này khiến cho kết quả ước lượng dễ bị thiên lệch và thiếu độ tin cậy.
Nghiên cứu gần đây của Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh (2012) kiểm
định sự tồn tại và các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của FDI đến các
doanh nghiệp chế biến Việt Nam trong năm 2003 và 2004. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ
liệu bảng gồm 2,139 quan sát từ điều tra doanh nghiệp của Ngân hàng thế giới. Kết quả
nghiên cứu cho thấy đặc trưng riêng của mỗi doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong
các quyết định tham xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Quan trọng hơn, doanh
nghiệp FDI có tác động lan tỏa đến tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, hiệu ứng lan tỏa không đồng nhất và phụ thuộc vào đặc trưng riêng của doanh
nghiệp trong nước. Kết quả này khẳng định vai trò của khả năng hấp thụ khi xem xét tác
động lan tỏa của FDI (Cohen & Levinthal, 1989, 1990; Zahra & George, 2002; Farole &
cộng sự, 2014, 2015). Theo đó, độ tuổi, loại hình sở hữu tư nhân, mức lương bình quân
và tỷ trọng nhập khẩu có tác động cùng chiều đến phạm vi lan tỏa, trong khi quy mô
doanh nghiệp và áp lực cạnh tranh tại thị trường trong nước có tác động ngược chiều.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh (2012) đã có những
đóng góp mới khi đưa vào mô hình các biến tương tác để tìm kiếm các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu tại Việt Nam. Có thể thấy đây là một nghiên cứu
rất gần với luận án của tác giả về đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, hạn
chế của nghiên cứu này là cỡ mẫu khá nhỏ và cho giai đoạn trước năm 2005 nên chưa
mang tính đại diện cao và cập nhật đối với bối cảnh ngành công nghiệp chế biến chế tạo
trong nước. Thêm vào đó, các tác giả chỉ sử dụng một thang đo đơn lẻ đại diện cho FDI
nên hạn chế khả năng đánh giá toàn diện về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh
nghiệp trong nước.
56
Bảng 2.3 Tóm tắt các nghiên cứu trước về lan tỏa xuất khẩu của FDI
Tác giả Quốc gia Kết luận chính Hạn chế
Mexico Lan tỏa tích cực từ FDI Aitken và cộng sự (1997)
Dữ liệu nghiên cứu - 2104 doanh nghiệp chế biến từ 129 ngành cấp 4 - Thời gian: 1986–1990 - Chỉ nghiên cứu quyết định tham gia xuất khẩu - Chưa kiểm soát được các đăc trưng doanh nghiệp trong quyết định xuất khẩu - Sử dụng thang đo đơn lẻ đại diện FDI
Uruguay
Kokko và cộng sự (2001)
Phương pháp nghiên cứu - Mô hình Probit về quyết định tham gia xuất khẩu - Phương pháp ước lượng: Two-stage conditional maximum estimator likelihood (2SCML) - Mô hình Probit về quyết định tham gia xuất khẩu - Phương pháp ước lượng OLS Lan tỏa tích cực từ các doanh nghiệp FDI gia nhập thị trường Uruguay sau năm 1973 - Chỉ nghiên cứu quyết định tham gia xuất khẩu - Thiên lệch ước lượng OLS - Sử dụng thang đo đơn lẻ đại diện FDI
Anh Lan tỏa tích cực từ FDI Greenaway và cộng sự (2004) - Chưa kiểm định được các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu
- 1243 doanh nghiệp chế biến từ 74 ngành cấp 4 - Thời gian: 1988 - 3662 doanh nghiệp (11000 quan sát) - Thời gian: 1992–1996
Anh
Kneller và Pisu (2007) - Chưa kiểm định được các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu - 4734 doanh nghiệp (19066 quan sát) - Thời gian: 1992 – 1999 - Mô hình chọn mẫu Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu - Phương pháp ước lượng Maximum Likelihood - Mô hình chọn mẫu Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu - Phương pháp ước Maximum lượng - Không tồn tại lan tỏa từ FDI đến quyết định tham gia xuất khẩu - Lan tỏa tích cực từ FDI đến tỷ trọng
57
xuất khẩu Lan tỏa tích cực từ FDI Trung Quốc Buck và cộng sự (2007) - 7697 doanh nghiệp - Thời gian: 1998 – 2001 - Tác động của thời gian và đặc trưng ngành chưa được kiểm soát - Chưa kiểm định các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu
Tây Ban Nha Không tồn tại lan tỏa xuất khẩu từ FDI Barrios và cộng sự (2001)
- 2188 doanh nghiệp - Thời gian: 1990, 1994 và 1998
Australia
Không tồn tại lan tỏa xuất khẩu từ FDI Phillips và Ahmadi- Esfahani (2010) Likelihood - Mô hình Probit về quyết định tham gia xuất khẩu - Mô hình Tobit về quyết định tỷ trọng xuất khẩu - Mô hình Probit về quyết định tham gia xuất khẩu - Mô hình Tobit về quyết định tỷ trọng xuất khẩu - Mô hình Probit về quyết định tham gia xuất khẩu
Ireland Lan tỏa tiêu cực từ FDI Ruane và Sutherland (2005) - 2349 doanh nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống và thuốc lá - Thời gian: 2005 - 3561 doanh nghiệp chế biến - Thời gian: 1991 -1998 - Tác động của thời gian và đặc trưng ngành đến quyết định xuất khẩu chưa được kiểm soát - Chưa kiểm định được các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu - Chỉ nghiên cứu quyết định tham gia xuất khẩu - Dữ liệu chéo khó phản ánh được hiệu ứng lan tỏa - Chưa kiểm định được các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu - Chưa kiểm soát được vấn đề nội sinh - Đặc trưng doanh nghiệp FDI chưa được xét đến
Việt Nam
- Mô hình chọn mẫu Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu - Phương pháp ước lượng Maximum Likelihood - Mô hình chọn mẫu Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và tỷ Anwar và Nguyễn (2011) - 10710 doanh nghiệp chế biến - Thời gian: - Lan tỏa tích cực qua kênh liên kết ngang và liên kết - Dữ liệu chéo khó phản ánh được hiệu ứng lan tỏa - Sử dụng thang đo đơn lẻ về FDI
58
2000
- Chưa kiểm định được các nhân tố tác động đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu
Việt Nam
- 1150 doanh nghiệp chế biến - Thời gian: 2003 – 2004 - Sử dụng thang đo đơn lẻ về FDI - Mẫu nghiên cứu chưa mang tính đại diện cao
Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh (2012) trọng xuất khẩu - Phương pháp ước lượng bước hai Heckman - Mô hình chọn mẫu Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu - Phương pháp ước lượng Maximum Likelihood dọc về phía trước - Lan tỏa tiêu cực qua kênh liên kết dọc về phía sau - Không tồn tại lan tỏa đến quyết định tham gia xuất khẩu - Lan tỏa tỷ trọng xuất khẩu phụ thuộc vào trưng đặc doanh nghiệp trong nước
Nguồn: Tổng hợp của tác giả luận án
59
Bảng 2.3 tóm tắt các nghiên cứu trước về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của FDI
được thực hiện trong và ngoài nước. Kết quả ước lượng cho thấy những bằng chứng trái
chiều về lan tỏa xuất khẩu. Một số nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc kiểm định lan tỏa đến
quyết định ‘có tham gia xuất khẩu hay không’ (Aitken & cộng sự, 1997; Kokko & cộng
sự, 2001; Phillips & Ahmadi-Esfahani, 2010). Luận án khắc phục hạn chế này bằng cách
thực hiện kiểm định tác động lan tỏa từ FDI đến cả hai quyết định tham gia xuất khẩu và
tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó, đa phần các nghiên cứu
chỉ sử dụng một thang đo đơn lẻ đại diện cho. Do vậy, luận án này thực hiện phân tích độ
nhạy sử dụng ba thang đo đại diện cho FDI sẽ giúp đưa ra những đánh giá mang tính so
sánh và toàn diện về hiệu ứng lan tỏa của khối doanh nghiệp FDI tại nước tiếp nhận.
Đối với trường hợp của Việt Nam, nghiên cứu về lan tỏa xuất khẩu là chủ đề khá
mới vì số lượng nghiên cứu được công bố ít hơn rất nhiều so với các nghiên cứu về lan
tỏa công nghệ. Một trong những nguyên nhân chính là do hạn chế về dữ liệu nghiên cứu.
Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) thực hiện các cuộc điều tra toàn diện doanh nghiệp
trên quy mô toàn quốc từ năm 2000 về nhiều chỉ tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong nước và khối doanh nghiệp FDI. Đây là nguồn dữ liệu tin cậy và
được sử dụng trong đa phần các nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa ở Việt Nam. Tuy nhiên,
dữ liệu về xuất khẩu chỉ được điều tra trong năm đầu tiên và sau đó không được tiếp tục
điều tra cho đến năm 2011 mới được điều tra trở lại.
Khắc phục những hạn chế về dữ liệu của hai nghiên cứu trước về lan tỏa xuất
khẩu cho trường hợp Việt Nam (Anwar & Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào &
Phạm Thế Anh, 2012), luận án này sử dụng dữ liệu bảng cập nhật với kích thước mẫu
lớn giúp đưa ra những phân tích định lượng và kết quả có tính đại diện và độ tin cậy cao
hơn đồng thời có thể kiểm định lại các kết quả từ các nghiên cứu trước để đưa ra những
hàm ý chính sách sát thực. Quan trọng hơn, luận án có những đóng góp mới khi nghiên
cứu sâu các nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa xuất khẩu từ FDI khi đưa vào tập hợp các
biến tương tác. Luận án cũng kiểm soát thiên lệch đo lường khi thực hiện phân tích độ
nhạy với ba thang đo đại diện cho FDI.
60
2.6 Khung phân tích đề nghị cho nghiên cứu của luận án
2.6.1 Khe hổng nghiên cứu
Từ kết quả lược khảo lý thuyết và các nghiên cứu thực tiễn về tác động tác động
lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu của dòng vốn FDI đến các nước tiếp nhận trên thế
giới và Việt Nam, khe hổng nghiên cứu có thể được xác định như sau.
Thứ nhất, trong khi các nghiên cứu về tác động trực tiếp của FDI đã được thực
hiện rất phổ biến trên thế giới thì nghiên cứu về tác động lan tỏa của FDI vẫn còn là đề
tài khá mới, đặc biệt là với trường hợp của Việt Nam. Trong hơn 30 năm qua, Việt Nam
đã thực hiện nhiều chính sách nhằm thu hút FDI và đã tạo được nhiều chuyển biến tích
cực cho nền kinh tế, song thực tế còn tồn tại những tác động tiêu cực không mong muốn.
Vì vậy, việc lượng hóa các tác động lan tỏa của FDI là nghiên cứu có tính cấp thiết trong
bối cảnh đầu tư hiện nay tại Việt Nam.
Thứ hai, trong một số nghiên cứu về lan tỏa của FDI tại Việt Nam được thực hiện
gần đây thì đa phần tập trung vào lan tỏa công nghệ hay lan tỏa năng suất trong khi lan
tỏa về xuất khẩu thì số lượng rất hạn chế và được thực hiện dựa trên mẫu khảo sát doanh
nghiệp cách đây hơn 10 năm (2000, 2003 và 2004) và kích thước mẫu hạn chế. Các
nghiên cứu về lan tỏa công nghệ cũng sử dụng dữ liệu trước năm 2011. Do vậy, các kết
quả nghiên cứu này sẽ khó có thể phản ánh sát thực được những sự thay đổi mạnh mẽ
của doanh nghiệp Việt Nam và tác động lan tỏa của dòng vốn FDI tại Việt Nam trong
thời gian qua.
Thứ ba, các nghiên cứu về lan tỏa hiện nay chủ yếu tập trung kiểm định sự tồn tại
của hiệu ứng lan tỏa và xác định các kênh lan tỏa từ FDI (lan tỏa chiều dọc, lan tỏa chiều
ngang). Trong khi đó, các nhân tố quyết định quy mô hiệu ứng lan tỏa thì vẫn chưa được
chú trọng tìm hiểu.
Thứ tư, trong khi các nghiên cứu hiện nay về lan tỏa hầu như chỉ sử dụng một
thang đo đơn lẻ đại diện cho yếu tố nước ngoài FDI thì việc áp dụng phương pháp phân
tích độ nhạy (Sensitivity Analysis) với các thang đo khác nhau về FDI trong nghiên cứu
61
này sẽ giúp đưa ra những kết quả ước lượng mang tính so sánh, giúp đánh giá toàn diện
hơn về tác động lan tỏa từ FDI.
2.6.2 Khung phân tích đề nghị cho luận án
Những khe hổng nghiên cứu kể trên một lần nữa khẳng định tính cấp thiết của
việc thực hiện nghiên cứu về tác động lan tỏa của FDI tại Việt Nam. Khung phân tích
cho nghiên cứu của luận án được trình bày trong Sơ đồ 2.1. Như đã phân tích trong phần
tổng quan lý thuyết, FDI có thể tạo ra tác động trực tiếp và tác động lan tỏa đến doanh
nghiệp và nền kinh tế nước tiếp nhận. Trọng tâm nghiên cứu của luận án này là các hiệu
ứng lan tỏa từ FDI và các nhân tố tác động lan tỏa (nếu có tồn tại hiệu ứng lan tỏa). Tác
động lan tỏa có thể diễn ra theo kênh chiều ngang và chiều dọc. Trong đó, luận án tập
trung vào kênh lan tỏa chiều ngang bao gồm di chuyển lao động, quan sát và bắt chước,
áp lực cạnh tranh.
Luận án tập trung vào hai dạng lan tỏa từ FDI, bao gồm: Lan tỏa công nghệ và lan
tỏa xuất khẩu. Sự hiện diện của FDI có thể tác động đến năng lực công nghệ (đại diện
bởi năng suất lao động) và năng lực xuất khẩu (đại diện bởi khả năng tham gia xuất khẩu
và tỷ trọng xuất khẩu) để tạo ra tác động lan tỏa công nghệ và xuất khẩu. Biến trọng tâm
là sự hiện diện của FDI được đo lường bằng ba thang đo: Tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng
lao động và tỷ trọng tài sản của các doanh nghiệp FDI trong ngành. Phân tích độ nhạy
được thực hiện nhằm xem xét sự khác biệt của các kết quả ước lượng lan tỏa khi thay đổi
thang đo đại diện FDI. Ngoài ra, luận án cũng kiểm soát khả năng ảnh hưởng của các
biến số đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đến năng lực công nghệ và năng lực
xuất khẩu.
62
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
TÁC ĐỘNG LAN TỎA
LAN TỎA XUẤT KHẨU Sự hiện diện của FDI
LAN TỎA CÔNG NGHỆ Sự hiện diện của FDI
- Tỷ trọng doanh thu - Tỷ trọng lao động - Tỷ trọng tài sản
Phân tích độ nhạy
- Tỷ trọng doanh thu - Tỷ trọng lao động - Tỷ trọng tài sản
Phân tích độ nhạy
Kênh lan tỏa
Kênh lan tỏa
Nhân tố tác động lan tỏa xuất khẩu
Nhân tố tác động lan tỏa công nghệ
+ Di chuyển lao động + Biểu thị/bắt chước + Cạnh tranh
+ Di chuyển lao động + Biểu thị/bắt chước + Cạnh tranh
NĂNG LỰC XUẤT KHẨU Tham gia và tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước
NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước
Đặc trưng doanh nghiệp
Đặc trưng ngành
Đặc trưng doanh nghiệp
Đặc trưng ngành
Sơ đồ 2.2 Khung phân tích đề nghị cho luận án
63
2.7 Tóm tắt chương
Chương này tổng quan lý thuyết về FDI và tác động lan tỏa tại nước tiếp nhận. FDI
tạo ra tác động trực tiếp và tác động lan tỏa đến doanh nghiệp và nền kinh tế trong nước.
Thông qua khả năng rò rỉ, phát tán và chuyển giao, chia sẻ thông tin, các doanh nghiệp
FDI có thể gián tiếp tác động đến năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong nước. Các kênh lan tỏa từ FDI bao gồm sự di chuyển lao động, biểu thị và bắt
chước, áp lực cạnh tranh và các liên kết cung ứng. Hiệu ứng lan tỏa có thể diễn ra theo một
hay nhiều kênh khác nhau nhưng mức độ lan tỏa từ FDI không diễn ra đồng nhất đối với
tất cả doanh nghiệp trong nước.
Kết quả tổng quan lý thuyết đã phân tích các cách tiếp cận khác nhau về đánh giá
vai trò của FDI đối với kinh tế và doanh nghiệp nước tiếp nhận, trong đó nhấn mạnh tác
động lan tỏa từ FDI. Lược khảo các nghiên cứu trước cho thấy những bằng chứng trái
chiều về hiệu ứng lan tỏa công nghệ cũng như lan tỏa xuất khẩu. Các khe hổng nghiên
cứu được đúc rút từ kết quả tổng quan bao gồm: (1) Các nghiên cứu nhằm lượng hóa
hiệu ứng lan tỏa tại Việt Nam còn hạn chế; (2) Hiện chỉ có 2 nghiên cứu về lan tỏa xuất
khẩu tại Việt Nam nhưng sử dụng dữ liệu cách đây hơn 10 năm; (3) Các nhân tố quyết
định lan tỏa chưa được chú trọng phân tích; (4) Các nghiên cứu sử dụng thang đo đơn lẻ
đại diện cho FDI trong ngành.
Xuất phát từ kết quả tổng quan lý thuyết và lược khảo các nghiên cứu thực
nghiệm trong và ngoài nước, chương này đã xây dựng khung phân tích đề nghị cho luận
án. Theo đó, FDI có thể tạo ra tác động lan tỏa đến các doanh nghiệp trong nước theo
nhiều kênh khác nhau. Khung phân tích đề nghị hướng đến hoàn thành các mục tiêu của
luận án là nghiên cứu tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh
nghiệp Việt Nam. Trong đó, luận án tập trung vào các nhân tố tác động đến lan tỏa. Cuối
cùng, sự hiện diện của FDI được đo lường bằng ba thang đo trong phân tích độ nhạy nhằm
thực hiện mục tiêu so sánh và đánh giá sự khác biệt trong hiệu ứng lan tỏa công nghệ và
xuất khẩu khi sử dụng các thang đo FDI khác nhau.
64
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Giới thiệu
Chương này trình bày bước tiếp theo là xác định phương pháp nghiên cứu để hiện
thực hóa khung phân tích đề nghị. Mục 3.2 xây dựng mô hình khái niệm và các giả
thuyết nghiên cứu về lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp
trong nước. Trong đó, các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng dựa trên các lý thuyết
liên quan, kết quả nghiên cứu trước cũng như đặc thù của dòng vốn FDI và doanh nghiệp
chế biến chế tạo Việt Nam. Tiếp đến, mục 3.3 trình bày mô hình nghiên cứu đề nghị với
hai mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu.
Mục 3.4 giới thiệu về dữ liệu nghiên cứu của luận án. Nguồn dữ liệu sử dụng là
dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp được thu thập từ các cuộc điều tra toàn diện doanh nghiệp
do Tổng Cục Thống kê thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2013. Đặc điểm, cách thức thu
thập, các bước xử lý và làm sạch dữ liệu, và phần mềm xử lý cũng được trình bày cụ thể.
Ngoài ra, mục này cũng giải thích lý do lựa chọn phần mềm xử lý số liệu (Stata) phù hợp
với dữ liệu và mục tiêu nghiên cứu của luận án.
Mục 3.5 phân tích kỹ thuật ước lượng cho hai mô hình kinh tế lượng đề xuất trong
mục 3.3. Trong đó, tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước được
ước lượng bằng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng (bao gồm mô hình tác động cố
định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và lựa chọn mô hình bằng kiểm định
Hausman. Tác động lan tỏa xuất khẩu được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại
(MLE) cho hai phương trình tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu theo mô hình chọn
mẫu Heckman.
65
3.2 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu
3.2.1 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu về lan tỏa công nghệ từ FDI
Nhằm phân tích hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI đến doanh nghiệp trong
nước, mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas được vận dụng để xây dựng và ước lượng
mô hình hàm năng suất của các doanh nghiệp trong nước và các biến số tác động, bao
gồm thang đo đại diện cho sự hiện diện của FDI. Trong đó, hàm sản xuất Cobb-Douglas
được giả định hiệu suất không đổi theo quy mô nhằm chuẩn hóa sự đa dạng hay dị biệt
về quy mô của các doanh nghiệp trong cùng ngành (Griliches & Ringstad, 1971) cũng
như phù hợp với dữ liệu nghiên cứu ở cấp doanh nghiệp mà luận án này sử dụng
(Burnside, 1996; Basu & Fernald, 1997). Quan trọng hơn, hàm sản xuất Cobb-Douglas
cho phép phân tích và kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI thông qua yếu tố phi
truyền thống là năng suất các nhân tố tổng hợp. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế lượng
được xây dựng dựa trên hàm sản xuất Cobb-Douglas giúp kiểm soát tác động của các
biến số khác như đặc trưng doanh nghiệp, ngành nghề và thời gian đến năng suất của
doanh nghiệp trong nước. Đây cũng là hàm sản xuất được lựa chọn trong các nghiên cứu
thực nghiệm về lan tỏa công nghệ từ FDI ở trong và ngoài nước (Caves, 1974;
Globerman, 1979; Sinani & Meyer, 2004; Le Thanh Thuy, 2005; Kohpaiboon, 2006; Le
& Promfet, 2008).
Thông qua các liên kết và tương tác với doanh nghiệp nước sở tại, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, có thể tạo ra những
tác động gián tiếp giúp cải thiện trình độ kỹ thuật, năng lực công nghệ, từ đó nâng cao
hiệu quả hoạt động hay năng suất của doanh nghiệp trong nước. Caves (1974) và
Globerman (1979) là những tác giả tiên phong sử dụng khung phân tích này và sau đó
được kế thừa và áp dụng trong các nghiên cứu kế tiếp về lan tỏa công nghệ. Do vậy, hiệu
ứng lan tỏa công nghệ (technology spillovers) cũng còn được gọi là hiệu ứng lan tỏa về
năng suất (productivity spillovers).
66
3.2.1.1 Biến mục tiêu “Năng suất”
Biến mục tiêu “Năng suất” được đo lường bằng tỷ trọng của đầu ra trên đầu vào
(Output/Input). Trong đó, đầu ra là hàng hoá được sản xuất ra hoặc những dịch vụ được
cung cấp, được biểu hiện dưới dạng đơn vị hiện vật hoặc giá trị bằng tiền. Để có thể
thống nhất trong tính toán, khi đo năng suất thường sử dụng giá trị bằng tiền để tính đầu
ra (ví dụ: tổng giá trị sản lượng, tổng doanh thu, giá trị gia tăng). Đầu vào là các nguồn
lực được sử dụng để tạo ra hàng hoá và dịch vụ, bao gồm lao động, vốn, nguyên vật liệu,
năng lượng.... Thông thường, đầu vào về lao động được tính bằng số lượng lao động
hoặc số giờ công lao động; đầu vào về vốn, nguyên vật liệu, năng lượng được tính theo
giá trị bằng tiền. Mặc dù chỉ tiêu tổng quát nhất khi đo lường năng suất là chỉ tiêu năng
suất chung tính bằng tỷ số giữa tổng đầu ra trên tổng đầu vào thì đa phần các nghiên cứu
đều gặp khó khăn trong thu thập dữ liệu đầy đủ về các yếu tố đầu vào để có thể sử dụng
thang đo này. Do vậy, chỉ tiêu năng suất bộ phận – phản ánh sự đóng góp của từng yếu tố
đầu vào riêng biệt tạo nên tổng đầu ra – thường được sử dụng thay thế.
Trong các thang đo năng suất bộ phận thì thang đo được sử dụng phổ biến nhất
trong các nghiên cứu về lan tỏa công nghệ từ FDI là năng suất lao động (Caves, 1974;
Globerman, 1979; Kohpaiboon, 2006; Li & cộng sự, 2001; Le Thanh Thuy, 2005; Le &
Pomfret, 2011). Trong đó, biến số này thường được tính bằng tổng doanh thu hay tổng
giá trị gia tăng trên tổng số lao động. Đo lường năng suất lao động dựa vào giá trị gia
tăng có ưu điểm đo lường chính xác hơn năng suất lao động, đặc biệt là đối với trường
hợp doanh nghiệp có năng suất cao xuất phát từ việc mua các sản phẩm đầu vào có giá trị
cao thay vì lao động tạo ra nhiều giá trị tăng thêm. Tuy nhiên, do đặc điểm của dữ liệu
nghiên cứu không bao gồm chỉ tiêu về giá trị gia tăng nên luận án này sử dụng thang đo
doanh thu bình quân trên mỗi lao động (tương tự như các nghiên cứu trước cho Việt Nam
như Le Thanh Thuy (2005); Le & Pomfret (2011).
Năng suất lao động tăng thường cho thấy sự gia tăng hàm lượng vốn và trình độ
công nghệ trong sản xuất của doanh nghiệp nên được xem như một thang đo phù hợp đại
diện cho năng lực công nghệ (Li & cộng sự, 2001). Một số nghiên cứu sử dụng thang đo
67
biến mục tiêu khác đại diện cho đầu ra như tổng doanh thu hay tốc độ tăng trưởng doanh
thu có thể gặp hạn chế trong việc phản ánh chính xác hiệu ứng lan tỏa của FDI đến năng
suất hay năng lực công nghệ của doanh nghiệp trong nước (Alvarez & Molero, 2000;
Hoang Van Thanh & Pham Thien Hoang, 2010; Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt
Hùng, 2012).
3.2.1.2 Sự hiện diện của FDI và tác động lan tỏa công nghệ
Theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh (Romer, 1986; Lucas, 1988; Mankiw & cộng
sự, 1992; Paugel, 2007), sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI đóng một vai trò quan
trọng giúp doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực công nghệ và năng suất sản xuất
thông qua các hiệu ứng lan tỏa tích cực. Lý thuyết chiết trung của Dunning (1979, 1988)
và lý thuyết về quyền lợi thị trường của Knickerbocker (1973) cho rằng doanh nghiệp
FDI, đặc biệt là các tập đoàn lớn MNEs, được xem là sở hữu những thế mạnh vượt trội
về các tài sản hữu hình và vô hình (như kinh nghiệm, công nghệ sản xuất, kỹ năng quản
lý, marketing). Thông qua quá trình tương tác trong cùng một khu vực lãnh thổ, doanh
nghiệp trong nước có thể tiếp cận để quan sát, học hỏi và ứng dụng những kinh nghiệm
và kỹ năng từ doanh nghiệp FDI nhằm nâng cao trình độ công nghệ và năng suất sản
xuất của mình. Lan tỏa công nghệ tích cực cũng có khả năng xảy ra khi có sự di chuyển
lao động đã qua đào tạo từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp trong nước hoặc các mối
liên kết cung ứng giữa hai nhóm doanh nghiệp này. Trong khi đó, áp lực cạnh tranh gia
tăng từ FDI một mặt có thể tạo động lực để doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ,
mặt khác có thể khiến doanh nghiệp trong nước sụt giảm năng suất sản xuất và thậm chí
là phá sản.
Lý thuyết về sản xuất cho rằng công nghệ sản xuất quyết định mối quan hệ giữa
yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Cải tiến công nghệ được xem là nhân tố then
chốt để nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh cũng như sự phát triển trong dài hạn
của mỗi doanh nghiệp. So với các doanh nghiệp trong nước (nhất là các nước đang phát
triển) thì doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, được cho là sở hữu
những ưu thế vượt trội về công nghệ sản xuất (Caves, 1996; Globerman, 1979). Do vậy,
68
để nâng cao năng lực công nghệ, năng suất sản xuất thì doanh nghiệp trong nước có thể
tự mình tích lũy kinh nghiệm và phát triển công nghệ và/hoặc tiếp thu học hỏi từ môi
trường bên ngoài, trong đó bao gồm việc học hỏi từ các doanh nghiệp FDI.
Về thực nghiệm, các kết quả nghiên cứu đưa ra những bằng chứng trái chiều về
tác động lan tỏa công nghệ từ FDI. Caves (1974), Globerman (1979), và Li và cộng sự
(2001) cho thấy FDI có tác động lan tỏa tích cực đến năng suất lao động của doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Trong khi đó, Aitken và Harrison (1999) lại cho thấy
FDI có ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất của doanh nghiệp trong nước, nhất là với
doanh nghiệp quy mô nhỏ. Kết quả này được giải thích là do áp lực cạnh tranh gia tăng
từ các doanh nghiệp FDI. Kohpaiboon (2006) cũng nhận định rằng sự hiện diện của FDI
có thể tác động tiêu cực đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến Thái Lan khi
nước này áp dụng chính sách thay thế nhập khẩu.
Với trường hợp của doanh nghiệp Việt Nam, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm
cũng cho thấy những bằng chứng trái chiều về hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI. Hai
nghiên cứu của Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010) và Nguyễn Khắc Minh
và Nguyễn Việt Hùng (2012) đều khẳng định sự tồn tại của lan tỏa công nghệ tích cực từ
FDI, giúp nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam.
Trong khi đó, Le Thanh Thuy (2005) tìm thấy tác động lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI
nhưng ước lượng chỉ có ý nghĩa thống kê cho giai đoạn 1995-1999 mà không có ý nghĩa
với giai đoạn 2000-2002. Le và Pomfret (2011) cho rằng liên kết ngược là kênh lan tỏa
quan trọng nhất và tạo ra lan tỏa tích cực đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước trong khi kênh lan tỏa theo chiều ngang thì tạo ra tác động lan
tỏa công nghệ tiêu cực.
Bối cảnh hiện nay của dòng vốn FDI và ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt
Nam cho thấy một số điểm đáng lưu ý. Dòng vốn FDI tập trung chảy vào ngành công
nghiệp chế biến chế tạo với tổng vốn đầu tư trung bình mỗi năm trên 10 tỷ USD, chiếm
hơn 70% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước (TCTK, 2016). Thực tiễn này làm gia
tăng cơ hội tương tác, học hỏi cũng như áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp chế biến
69
chế tạo trong nước. Khả năng lan tỏa từ FDI đến năng suất của doanh nghiệp chế biến
chế tạo Việt Nam cũng được kỳ vọng xảy ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, thực tiễn đầu tư
cũng cho thấy nhiều nhà đầu tư chỉ đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu hoặc không
then chốt nhằm khai thác ưu đãi về thuế, lao động rẻ và tài nguyên. Trong đó, công nghệ
FDI chỉ khoảng 5% là hiện đại, 15% là khá và 80% là trung bình (BKHĐT, 2014). Hơn
thế nữa, doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước đa phần có quy mô vừa và nhỏ (chiếm
gần 80%), năng lực tài chính và trình độ quản lý hạn chế khiến cho khả năng học hỏi,
hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI còn khiêm tốn.
Như vậy, dựa trên cơ sở lý thuyết và thực nghiệm cũng như bối cảnh FDI và
ngành chế biến chế tạo Việt Nam thì hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước được kỳ vọng là có nhiều khả năng xảy ra. Do vậy,
giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HA1: Sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI được kỳ vọng có tác
động đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước hay tồn tại
hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Như đã phân tích trong mục 2.3.2 (Chương 2) về sự hiện diện của FDI, việc lựa
chọn thang đo đại diện FDI có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đến kết quả ước lượng và
kiểm định giả thuyết về hiệu ứng lan tỏa. Đây được xem là một nguyên nhân chính khiến
cho các kết quả thực nghiệm về lan tỏa từ FDI có sự nhiều sự khác biệt khi các nghiên
cứu sử dụng các thang đo FDI khác nhau (Görg & Strobl, 2001; Wooster & Diebel,
2010; Sun, 2009). Vấn đề này càng quan trọng hơn với các nghiên cứu thực nghiệm sử
dụng biến số trọng tâm đo lường sự hiện diện của doanh nghiệp FDI.
Do vậy, để hạn chế sai sót trong đo lường và sự thiên lệch kết quả ước lượng do
việc lựa chọn biến đại diện FDI, luận án này sẽ sử dụng cả ba thang đo trong quá trình
ước lượng và kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI. Trong đó, kết quả kiểm định
chính được dựa trên thang đo phổ biến (tỷ trọng doanh thu, fdio). Các kết quả ước lượng
với hai thang đo còn lại (fdie, fdia) sẽ được sử dụng trong phân tích độ nhạy (Sensitivity
70
analysis). Phương pháp pháp này có thể kiểm soát vấn đề sai sót hay thiên lệch trong đo
lường (Levine & Renelt, 1992; Olofsdotter, 1998; Sun, 2009; Cole & Elliot, 2006). Từ
đó, phân tích độ nhạy giúp so sánh và đánh giá chính xác, toàn diện hơn về hiệu ứng lan
tỏa công nghệ từ FDI cũng như hạn chế các sai sót và thiên lệch khi chỉ dựa vào một
thang đo đại diện.
3.2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa công nghệ từ FDI
Mức độ lan tỏa từ FDI không phải diễn ra đồng nhất đối với tất cả doanh nghiệp
trong cùng ngành hay cho toàn bộ doanh nghiệp trong nước mà có sự phân hóa phụ
thuộc vào các đặc trưng nội tại hay khả năng hấp thụ (absorptive capacity) của doanh
nghiệp trong nước. Do vậy, các đặc trưng nội tại của doanh nghiệp trong nước được xem
là những chỉ báo quan trọng đại diện cho khả năng hấp thụ và có ảnh hưởng quan trọng
đến mức độ lan tỏa từ FDI (Smeets, 2008; Sun, 2011; Farole & cộng sự, 2014; Blalock &
Gertler, 2009; Jordaan, 2011; Imbriani & cộng sự, 2014).
Theo lý thuyết sản xuất thì vốn là nhân tố trọng yếu trong quá trình sản xuất và
mức độ vốn hóa (đo lường bằng tỷ trọng vốn bình quân trên mỗi lao động) thể hiện tiềm
lực tài chính của doanh nghiệp (Robinson, 1953; Eatwell & cộng sự, 1990). Theo đó,
doanh nghiệp với mức độ vốn hóa càng cao sẽ càng có nhiều tiềm lực đầu tư cho nghiên
cứu và phát triển các công nghệ sản xuất hiện đại nhằm tăng khả năng cạnh tranh cũng
như nâng cao hiệu quả của quá trình ứng dụng kiến thức mới học hỏi được từ doanh
nghiệp FDI. Các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy mối tương quan cùng chiều giữa
mức độ vốn hóa của doanh nghiệp trong nước và quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI
(Smeets, 2008; Sun, 2011; Farole & cộng sự, 2014). Với các doanh nghiệp chế biến chế
tạo Việt Nam hiện nay, đa phần các doanh nghiệp có mức độ vốn hóa thấp làm hạn chế
năng lực tiếp cận công nghệ và kiến thức hiện đại (CIEM, 2015), bao gồm cả khả năng
hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI. Do vậy, gia tăng mức độ vốn hóa được kỳ vọng là tạo
ra tác động tích cực đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI. Giả thuyết sau được xây
dựng để kiểm định:
71
Giả thuyết HA2: Mức độ vốn hóa của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI.
Bên cạnh vốn thì nguồn nhân lực hay lao động là nhân tố đầu vào thiết yếu và tài
sản quan trọng trong quá trình sản xuất (Robinson, 1953; Becker, 1964). Chất lượng
nhân lực có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ và kiến thức
mới của doanh nghiệp (Collins & Smith, 2006). Doanh nghiệp trong nước sở hữu đội
ngũ lao động có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm, nhạy bén trong học hỏi, tiếp thu và vận
dụng nguồn kiến thức về công nghệ, kỹ thuật tiên tiến là nền tảng giúp doanh nghiệp
hưởng lợi hiệu quả từ lan tỏa công nghệ của FDI. Kết quả thực nghiệm cũng nhận định
rằng chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng tích cực đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ
FDI (Blalock & Gertler, 2009; Farole & Winkler, 2015). Hoang Van Thanh và Pham
Thien Hoang (2010) cho rằng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một giải pháp quan
trọng để doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam tối ưu hóa lợi ích từ lan tỏa công nghệ
của FDI. Do vậy, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HA3: Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp chế biến chế tạo
trong nước được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI.
Doanh nghiệp càng phát triển về quy mô thì càng có nhiều lợi thế và nguồn lực
nhằm phát hiện, học hỏi và ứng dụng các công nghệ mới từ môi trường bên ngoài
(Aitken & Harrison, 1999). Crespo và Fontoura (2007) cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp
trong nước hoạt động với quy mô lớn cho thấy vị thế cạnh tranh tốt hơn cũng như khả
năng bắt chước tốt hơn các công nghệ từ các tập đoàn nước ngoài. Về thực nghiệm, các
nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng về mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô doanh
nghiệp và hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI (Jordaan, 2011; Imbriani & cộng sự, 2014;
Zhang & cộng sự, 2010). Với trường hợp của Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước hiện nay có quy mô vừa và nhỏ (chiếm gần 80%) làm hạn chế
khả năng hấp thụ lan tỏa (CIEM, 2015). Do đó, cải thiện quy mô sản xuất có thể tác động
72
đến khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Từ đó, giả thuyết
sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HA4: Quy mô của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được kỳ
vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI.
Trong bối cảnh tiến trình cổ phần hóa và tư nhân hóa doanh nghiệp diễn ra mạnh
mẽ ở nhiều quốc gia thì doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Hình thức sở hữu thể hiện sự khác biệt về nguồn lực, quy trình hoạt động và quản
lý doanh nghiệp, từ đó tác động đến khả năng hấp thụ các hiệu ứng lan tỏa từ FDI (Li &
cộng sự, 2001; Sinani & Meyer, 2004; Sun, 2011). Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
có lợi thế về khả năng tiếp cận nguồn vốn để đầu tư cho quá trình học hỏi, ứng dụng và
phát triển công nghệ và kỹ thuật sản xuất từ FDI. Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân lại
có lợi thế về sự linh hoạt, năng động trong tiếp cận, học hỏi các thông tin từ bên ngoài,
bao gồm cả kiến thức về công nghệ từ doanh nghiệp FDI. Với Việt Nam, Le và Pomfret
(2011) cho thấy doanh nghiệp chế biến chế tạo thuộc sở hữu tư nhân chịu tác động tiêu
cực từ lan tỏa công nghệ của FDI trong cùng ngành. Do đó, hình thức sở hữu của doanh
nghiệp trong nước có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI. Giả
thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HA5: Hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI được giả thuyết là có sự khác
biệt theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Theo lý thuyết bắt kịp công nghệ (catching-up theory), khoảng cách công nghệ
lớn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI sẽ tạo động lực để doanh nghiệp
trong nước học hỏi, tiếp thu công nghệ mới cũng như tiềm năng học hỏi được từ FDI
tăng lên (Findlay 1978; Wang & Blomström 1992; Smeets, 2008). Tuy nhiên, nếu
khoảng cách này quá lớn hoặc quá nhỏ thì mức độ lan tỏa công nghệ từ FDI sẽ không
đáng kể vì hạn chế trong khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ (với khoảng cách quá
lớn) hay tiềm năng học hỏi để cải thiện công nghệ là không nhiều (với khoảng cách quá
73
nhỏ) (Kokko, 1994; Farole & cộng sự, 2014; Imbriani & cộng sự, 2014). Với trường hợp
Việt Nam, Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010) cho rằng rút ngắn khoảng
cách công nghệ giúp cho doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước hưởng lợi nhiều hơn
từ lan tỏa công nghệ của FDI. Tuy nhiên, thực tiễn đầu tư cho thấy chất lượng công nghệ
của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam là khá thấp. Điều này có thể làm hạn chế khả năng
cải thiện công nghệ của doanh nghiệp trong nước thông qua kênh lan tỏa. Như vậy,
khoảng cách công nghệ có thể tạo ra tác động hai mặt đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ
FDI. Do đó, giả thuyết sau về vai trò của khoảng cách công nghệ được xây dựng để kiểm
định:
Giả thuyết HA6: Khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp chế biến chế tạo
trong nước và doanh nghiệp FDI trong cùng ngành được giả thuyết có ảnh hưởng đến
hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI.
Lý thuyết về địa kinh tế cho rằng hầu hết các hoạt động kinh tế đều tập trung về
phương diện không gian (Krugman, 1991; Koo, 2005; Malmberg, 1996). Trong đó, các
khu vực địa lý có những đặc trưng riêng về nguồn lực cũng như khả năng liên kết, lan tỏa
thông tin giữa các doanh nghiệp theo vùng kinh tế. Vì vậy, yếu tố địa lý vùng miền được
quan tâm phân tích trong các nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI và kết
quả thực nghiệm cho thấy bằng chứng nhất định về vai trò của nhân tố này (Aitken &
Harrison, 1999; Sun, 2011; Li & cộng sự, 2001). Kinh tế Việt Nam có sự phân hóa khá
rõ nét về khu vực địa lý, trong đó khu vực phía Nam phát triển năng động nhất, thu hút
gần 50% tổng vốn đăng ký FDI và tập trung gần 50% các doanh nghiệp chế biến chế tạo
của cả nước (TCTK, 2016). Tiếp đến, khu vực phía Bắc phát triển khá mạnh mẽ, thu hút
trên 30% vốn đăng ký FDI và tập trung 36% doanh nghiệp chế biến chế tạo. Trong khi
đó, khu vực miền Trung và Tây Nguyên kém phát triển hơn, thu hút gần 20% vốn FDI và
14% doanh nghiệp chế biến chế tạo. Khu vực kinh tế với nguồn lực dồi dào (tài nguyên,
nhân lực, tài chính, ...), môi trường kinh doanh năng động, cạnh tranh cao sẽ tạo cho
doanh nghiệp trong nước nhiều cơ hội tương tác, học hỏi và tiếp thu các kiến thức về
74
công nghệ, kỹ thuật mới từ doanh nghiệp FDI trong khu vực. Do vậy, giả thuyết sau
được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HA7: Hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI được giả thuyết là có sự khác
biệt theo khu vực địa lý của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
3.2.1.4 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và ngành đến năng suất
Mức độ vốn hóa thể hiện tiềm lực tài chính của doanh nghiệp (Robinson, 1953;
Eatwell và cộng sự, 1990). Doanh nghiệp có mức độ vốn hóa cao thường có nhiều khả
năng để đầu tư cho nghiên cứu, phát triển năng lực công nghệ, kỹ thuật sản xuất và từ đó
gia tăng năng suất lao động. Kết quả thực nghiệm cho thấy mối tương quan dương giữa
mức độ vốn hóa và năng suất lao động (Caves, 1974; Globerman, 1979; Li & cộng sự,
2001). Trong một nghiên cứu cho Việt Nam, Le và Pomfret (2011) chỉ ra rằng khi tỷ lệ
vốn hóa tăng 1% thì năng suất lao động của các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước tăng 7.2%. Do vậy, mức độ vốn hóa được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến năng
suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực được xem là một tài sản vô giá và đóng
vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức. Doanh nghiệp sở hữu
đội ngũ lao động trình độ cao, sáng tạo và chuyên nghiệp là nền tảng để doanh nghiệp
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiệu quả giúp gia
tăng năng suất lao động (Globerman, 1979; Sinani & Meyer, 2004; Kohpaiboon, 2006;
Li & cộng sự, 2001). Khi nền kinh tế Việt Nam thúc đẩy hội nhập quốc tế thì áp lực cạnh
tranh gia tăng là thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước vốn có trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu và năng suất lao động tụt hậu so với các
nước trong khu vực. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem là giải pháp then
chốt giúp gia tăng năng suất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt. Do vậy, chất
lượng nguồn nhân lực được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến năng suất lao động của
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
75
Doanh nghiệp hoạt động với quy mô nhỏ có thể gặp trở ngại trong việc ứng dụng
kỹ thuật sản xuất tiên tiến nên khó đạt được năng suất tối ưu (Caves, 1974). Trong khi
đó, doanh nghiệp càng phát triển về quy mô thì càng có khả năng tiết giảm chi phí và giá
thành đơn vị từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất và năng suất lao động (Globerman, 1979;
Le & Pomfret, 2011). Đối với Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước nói chung và
doanh nghiệp chế biến chế tạo nói riêng đa phần có quy mô vừa và nhỏ làm hạn chế khả
năng đầu tư, tiếp cận công nghệ sản xuất hiện đại. Do vậy, cải thiện quy mô doanh
nghiệp được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến năng suất lao động của doanh nghiệp
chế biến chế tạo trong nước.
Hình thức sở hữu thể hiện sự khác biệt về nguồn lực, quy trình hoạt động và quản
lý doanh nghiệp (Sinani & Meyer, 2004; Sun, 2011). Đặc biệt, doanh nghiệp nhà nước
chiếm ưu thế hơn trong tiếp cận nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư nghiên cứu
và phát triển công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động (Saunders & Steffen,
2011). Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân có lợi thế về sự linh hoạt và nhạy bén hơn với
những thay đổi công nghệ và thị hiếu khách hàng trong điều chỉnh quy mô, cải tiến quy
trình sản xuất nhằm gia tăng năng suất (Li và cộng sự, 2001; Sun, 2009). Trong một
nghiên cứu cho Việt Nam, Le Thanh Thuy (2005) cho rằng doanh nghiệp chế biến chế
tạo tư nhân có năng suất lao động cao hơn doanh nghiệp nhà nước. Xét bối cảnh trong
nước hiện nay, khu vực tư nhân đang có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong
ngành chế biến chế tạo khi chiếm 88% số doanh nghiệp và gần 75% tổng doanh thu
(TCTK, 2016). Vì vậy, năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
được giả thuyết là có sự khác biệt theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp.
Khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI tạo
động lực để doanh nghiệp trong nước đầu tư để cải thiện và phát triển công nghệ, nâng
cao năng suất và tăng khả năng cạnh tranh (Kokko, 1994; Barrios, 1999). Tuy nhiên,
Kohpaiboon (2006) và Sjoholm (1999) cho rằng nếu khoảng cách công nghệ quá lớn có
thể hạn chế cơ hội tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp trong nước do thiếu khả năng
phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nhằm bắt kịp các doanh nghiệp
76
trong ngành. Các nghiên cứu thực nghiệm về Việt Nam cho thấy khoảng cách công nghệ
lớn càng lớn thì năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước càng
thấp (Le & Pomfret; 2011; Le Thanh Thuy; 2005; Hoang Van Thanh & Pham Thien
Hoang, 2010). Điều này có thể phản ánh thực tiễn về trình độ công nghệ thấp hay sự tụt
hậu về công nghệ của đa phần các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Do đó,
khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và FDI được kỳ vọng có ảnh
hưởng ngược chiều đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước.
Năng suất của doanh nghiệp trong các ngành khác nhau chịu ảnh hưởng bởi những
biến số đại diện đặc trưng ngành. Trong đó, một biến số phổ biến là mức độ cạnh tranh hay
mức độ tập trung trong mỗi ngành thường được đo lường bằng chỉ số Herfindahl index.
Mức độ canh tranh trong ngành gia tăng (hay mức độ tập trung trong ngành giảm) có thể
tạo động lực để doanh nghiệp cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất. Các kết quả thực
nghiệm trong và ngoài nước cũng đưa ra nhận định tương tự (Le & Pomfret, 2011;
Kohpaiboon, 2006; Sinani & Meyer, 2004; Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng,
2012). Do vậy, mức độ cạnh tranh trong ngành được kỳ vọng là có tác động cùng chiều
đến năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Ngoài ra, mỗi ngành nghề có những đặc trưng riêng về nguồn lực và môi trường
kinh doanh nên có thể khiến cho năng suất lao động của các doanh nghiệp giữa các ngành
có sự khác biệt nhất định. Do vậy, tác động của đặc trưng ngành đến năng suất doanh
nghiệp thường được kiểm soát bằng các biến giả ngành trong các nghiên cứu thực nghiệm
và kết quả cho thấy vai trò nhất định của đặc trưng ngành (Aitken & Harrison, 1999;
Alvarez & Molero, 2005; Sinani & Meyer, 2004). Trong luận án này, năng suất lao động
của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được giả định là có sự khác biệt theo ngành.
Dựa trên những phân tích và các giả thuyết nghiên cứu đã xây dựng cho các nhân
tố ảnh hưởng đến lan tỏa trên đây, mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI
đến doanh nghiệp trong nước có thể được tóm tắt trong Sơ đồ 3.1 như sau.
77
SỰ HIỆN DIỆN CỦA FDI (FDI)
PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY CÁC THANG ĐO FDI
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LAN TỎA CÔNG NGHỆ Biến tương tác (Z*FDI)
HA2 (+)
Mức độ vốn hóa
HA3 (+)
Chất lượng nhân lực
HA4 (+)
Quy mô
HA5 (+/-)
Hình thức sở hữu
Tỷ trọng tài sản của FDI trong ngành (fdia)
Tỷ trọng lao động của FDI trong ngành (fdio)
Tỷ trọng doanh thu của FDI trong ngành (fdio)
HA6 (+/-)
LAN TỎA CÔNG NGHỆ HA1 (+/-)
Khoảng cách công nghệ
HA7 (+/-)
Khu vực địa lý
ĐẶC TRƯNG NGÀNH
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN CHẾ TẠO TRONG NƯỚC
ĐẶC TRƯNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC (Z)
Sơ đồ 3.1 Mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI
78
3.2.2 Mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu về lan tỏa xuất khẩu từ FDI
Trong các nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của FDI đến doanh nghiệp
trong nước, cách tiếp cận nhất quán là xây dựng và ước lượng mô hình hồi quy các biến
số tác động đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước, được đại diện bởi khả
năng tham gia xuất khẩu hoặc/và tỷ trọng xuất khẩu (Aitken & cộng sự, 1997; Kokko & cộng sự, 2001; Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller & Pisu, 2007)4. Trong nhóm biến
giải thích, biến số trung tâm là biến đại diện cho sự hiện diện của doanh nghiệp FDI. Giá
trị ước lượng biến đại diện cho tầm quan trọng của FDI trong ngành sẽ phản ánh sự tồn
tại của hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.
Doanh nghiệp FDI với kinh nghiệm và tiềm lực sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu được kỳ vọng là những nhân tố xúc
tác quan trọng tạo ra những biến chuyển tích cực giúp doanh nghiệp nước sở tại tiếp cận
và gia tăng hoạt động xuất khẩu. Với nhiều quốc gia áp dụng chiến lược phát triển dựa
vào đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó có Việt Nam, thì đây là một trong những tác động lan
tỏa được kỳ vọng khi các chính phủ thực thi chính sách thu hút FDI với nhiều chế độ ưu
đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
3.2.2.1 Biến mục tiêu “Năng lực xuất khẩu”
Biến mục tiêu trong những nghiên cứu đầu tiên về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của
FDI chỉ tập trung vào quyết định có tham gia xuất khẩu hay không của doanh nghiệp
trong nước (Aitken & cộng sự, 1997; Kokko & cộng sự, 2001). Đây là biến lưỡng phân
có giá trị 1 và 0, đo lường quyết định “có (=1) hay không (=0)” gia nhập thị trường xuất
4 Lưu ý rằng, do đặc điểm của dữ liệu nghiên cứu nên hoạt động xuất khẩu trong luận này và các nghiên cứu tương tự trước đây được ngầm định mang khái niệm truyền thống (hàng hóa và dịch vụ di chuyển xuyên biên giới). Tuy vậy, khái niệm xuất khẩu có thể được hiểu rộng hơn thông qua khả năng cung ứng gián tiếp trong nền thương mại hiện đại, ví dụ như doanh nghiệp trong nước cũng có thể được coi là tham gia xuất khẩu (gián tiếp) khi cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp FDI để xuất khẩu.
khẩu, do vậy đã hạn chế kết quả nghiên cứu khi loại bỏ khỏi mô hình một nhân tố quan
79
trọng tiếp theo là tỷ trọng xuất khẩu bao nhiêu (được đo lường bằng tỷ trọng xuất khẩu
trên tổng doanh thu) nếu như doanh nghiệp quyết định tham gia.
Tham gia và tỷ trọng xuất khẩu là hai quyết định mang tính nối tiếp và thường phụ
thuộc lẫn nhau. Để giải quyết khe hổng trên, các nghiên cứu sau này đã xây dựng mô
hình gồm hai phương trình đo lường đồng thời hai quyết định xuất khẩu, sử dụng mô
hình chọn mẫu Heckman (1979) (Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller & Pisu, 2007;
Sun, 2009; Anwar & Nguyễn Phi Lân, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh,
2012). Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp có thể chịu tác động bởi nhiều nhân tố, bao
gồm đặc trưng doanh nghiệp, đặc trưng ngành và lan tỏa từ FDI.
3.2.2.2 Sự hiện diện của FDI và tác động lan tỏa xuất khẩu
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh tác động của dòng vốn FDI đến doanh
nghiệp và nền kinh tế nước tiếp nhận thông qua các kênh gián tiếp là hiệu ứng lan tỏa
(Romer, 1986; Lucas, 1988; Mankiw & cộng sự, 1992; Paugel, 2007). Bên cạnh đó, các
lý thuyết về động cơ nhà đầu tư như lý thuyết chiết trung của Dunning (1979, 1988); lý
thuyết vòng đời sản phẩm của Vernon (1966); lý thuyết về quyền lợi thị trường của
Knickerbocker (1973) cho rằng doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các tập đoàn lớn MNEs, sở
hữu nhiều ưu thế vượt trội về các tài sản chuyên biệt. Theo đó, các doanh nghiệp FDI đã
tích lũy tiềm lực và kinh nghiệm tham gia thị trường quốc tế với hoạt động xuất khẩu
mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Do vậy, những thông tin, kiến thức về cách tiếp cận thị
trường xuất khẩu và nâng cao năng lực xuất khẩu có thể được chia sẻ và lan tỏa đến các
doanh nghiệp trong nước thông qua quá trình tương tác, học hỏi giữa hai nhóm doanh
nghiệp khi hoạt động trong một khu vực lãnh thổ (Aitken & cộng sự, 1997; Kokko &
cộng sự, 2001).
Liên quan đến khả năng tham gia thị trường quốc tế của doanh nghiệp FDI, Lý
thuyết của Kojima (1991) cho rằng FDI có hai loại, bao gồm FDI tạo ra thương mại
(trade-created/pro-trade FDI) và FDI chống lại thương mại (anti-trade FDI). Trong đó,
doanh nghiệp FDI sản xuất hàng xuất khẩu thì thúc đẩy thương mại, thông qua việc tập
80
trung vào khai thác tài nguyên thiên nhiên tại các quốc gia giàu tài nguyên hay quốc gia
đang phát triển có nguồn lao động dồi dào (ví dụ điển hình là FDI từ Nhật Bản những
năm cuối 1950, 1960). Ngược lại, FDI chống lại thương mại là FDI gia nhập dưới dạng
công nghệ cao và thay thế hàng nhập khẩu, độc quyền sản xuất cho thị trường trong nước
(ví dụ điển hình là FDI từ Mỹ). Do đó, sự khác biệt giữa hai loại FDI này có thể ảnh
hưởng đến kinh nghiệm và kiến thức về thị trường xuất khẩu cũng như khả năng tạo ra
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của doanh nghiệp FDI.
Bên cạnh đó, lan tỏa xuất khẩu có khả năng xảy ra khi năng lực xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước được cải thiện nhờ tuyển dụng đội ngũ lao động đã qua đào tạo
từ doanh nghiệp FDI hoặc các mối liên kết cung ứng giữa hai nhóm doanh nghiệp này
(Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller & Pisu, 2007). Sự hiện diện của các doanh nghiệp
FDI có thể làm gia tăng áp lực cạnh tranh (về nguồn lực, về thị trường,...) từ đó tạo nên
động lực để doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực quản lý
và hiệu quả hoạt động và đây cũng là cơ sở để doanh nghiệp nâng cao khả năng tham gia
thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh từ FDI cũng có thể tạo nên lan tỏa tiêu
cực về xuất khẩu trong ngắn hạn khi các doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp
non kém, buộc phải thu hẹp sản xuất và thậm chí là phá sản (Ruane & Sutherland, 2005).
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự thiếu nhất quán trong các kết quả về hiệu ứng
lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các nước tiếp nhận. Aiken và cộng sự (1997) và Kokko và
cộng sự (2001) chỉ ra rằng sự hiện diện của FDI giúp nâng cao khả năng tham gia xuất
khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Greenaway và cộng sự (2004) và Buck và cộng
sự (2007) nhận định rằng FDI giúp tăng khả năng gia nhập thị trường xuất khẩu cũng
như tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Anh và Trung Quốc. Trong
khi đó, Phillips và Ahmadi-Esfahani (2010) và Barrios và cộng sự (2001) cho thấy không
tồn tại lan tỏa xuất khẩu đối với doanh nghiệp chế biến Australia và Tây Ban Nha. Thậm
chí, Ruane và Sutherland (2005) chỉ ra rằng FDI tạo ra tác động lan tỏa tiêu cực về xuất
khẩu đối với doanh nghiệp Ireland.
81
Với trường hợp Việt Nam, nghiên cứu của Anwar và Nguyen (2011) cho thấy FDI
ảnh hưởng tích cực đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước thông qua liên kết ngang và liên kết xuôi. Tuy nhiên, liên kết ngược tác động tiêu
cực đến các quyết định xuất khẩu. Kết quả nghiên cứu gần đây của Nguyễn Thị Hồng
Đào và Phạm Thế Anh (2012) chỉ ra rằng tồn tại hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Hơn thế nữa, hiệu ứng lan tỏa không đồng nhất
mà phụ thuộc vào đặc trưng riêng của doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, khi xét đến thế mạnh và vai trò của khu vực FDI trong thúc đẩy xuất
khẩu của Việt Nam thì hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu càng được kỳ vọng là có nhiều khả
năng xảy ra. Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp FDI đã gia tăng từ mức bình quân 56%
(giai đoạn 2005-2009) lên hơn 63% (giai đoạn 2010-2015) (TCTK, 2016). Trong đó,
năm 2015 khu vực này có mức đóng góp kỷ lục với hơn 70% và giữ vai trò chủ lực trong
xuất khẩu các mặt hàng chế tạo như điện thoại, máy vi tính, linh kiện điện tử, dệt may
hay da giày (TCTK, 2016). Khu vực kinh tế trong nước cũng có những bước phát triển
vượt bậc khi trị giá xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh từ 3.975,8 triệu đô la Mỹ (năm 1995)
lên 13.893,4 triệu đô la Mỹ (năm 2005) và 47.749,9 đô la Mỹ (năm 2015) (TCTK, 2016).
Do vậy, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB1: Sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI được kỳ vọng có tác
động đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước hay tồn tại
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI được đo lường thông qua biến số FDI trong mô
hình các nhân tố tác động đến quyết định tham gia xuất khẩu và quyết định tỷ trọng xuất
khẩu của doanh nghiệp trong nước. Tương tự như trong nghiên cứu về lan tỏa công nghệ,
cả ba biến đại diện cho FDI (tỷ trọng tài sản; tỷ trọng lao động; và tỷ trọng doanh thu của
khối doanh nghiệp FDI trong ngành) đều được sử dụng nhằm giảm thiểu kết quả thiên
lệch khi chỉ sử dụng một thang đo đại diện thông qua phân tích độ nhạy (Sensitivity
analysis). Bên cạnh đó, kết quả ước lượng dựa trên ba thang đo sẽ cung cấp thông tin
82
mang tính so sánh, giúp phản ánh toàn diện hơn hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến năng lực
xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.
3.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lan tỏa xuất khẩu từ FDI
Kinh nghiệm hay kiến thức được tích lũy trong quá khứ khi tham gia thị trường
quốc tế là cơ sở để doanh nghiệp nâng cao khả năng hấp thụ của mình với các kiến thức
mới (Cohen & Levinthal, 1990; Barkema & Vermeulen, 1998; Eriksson & Chetty, 2003).
Theo đó, doanh nghiệp trong nước đã từng tham gia xuất khẩu trước đây thường có ưu
thế trong tích lũy và ứng dụng thông tin về phương thức gia nhập cũng như các kiến thức
về thị trường nước ngoài. Do vậy, những doanh nghiệp này sẽ dễ dàng và nhanh chóng
hơn trong việc tiếp cận, học hỏi và vận dụng những kiến thức hay thông tin xuất khẩu từ
các doanh nghiệp FDI để từ đó nâng cao khả năng tiếp tục tham gia xuất khẩu. Kết quả
thực nghiệm về lan tỏa xuất khẩu cũng ủng hộ nhận định tương tự về vai trò của kinh
nghiệm xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước (Sun, 2009; Phillips & Ahmadi-
Esfahani, 2010; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Với các doanh nghiệp
chế biến chế tạo Việt Nam hiện nay, chỉ một tỷ trọng nhỏ doanh nghiệp có hoạt động
xuất khẩu (dưới 10%) nên sự thiếu hụt kinh nghiệm tham gia thị trường nước ngoài có
thể trở thành rào cản trong quá trình hấp thụ hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ khối FDI
trong ngành. Do đó, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB2: Kinh nghiệm xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Thâm niên hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với sự tích lũy và phát triển các
nguồn lực (Autio & cộng sự, 2000). Các doanh nghiệp hoạt động lâu năm thường tạo dựng
được một vị thế và thị phần trong nước vững chắc hơn nên có động lực cũng như tiềm
lực mạnh hơn để thúc đẩy hoạt động thâm nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu thông qua
nhiều kênh khác nhau, trong đó có việc học hỏi từ các doanh nghiệp FDI (Gruber, 2004).
Bên cạnh đó, so với các doanh nghiệp non trẻ thì các doanh nghiệp lâu năm thường có
nhiều thông tin và tạo lập được những mối liên kết nhất định với các doanh nghiệp FDI
83
trong cùng ngành nên sẽ có khả năng hấp thụ hiệu quả hơn các lan tỏa tích cực về xuất
khẩu từ FDI (Flatten, 2011; Sun, 2009). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm
Thế Anh (2012) cho thấy doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam có thâm niên hoạt
động càng lâu thì càng hấp thụ được nhiều hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ doanh nghiệp
FDI. Do vậy, giả thuyết sau về vai trò của độ tuổi doanh nghiệp được xây dựng để kiểm
định:
Giả thuyết HB3: Độ tuổi của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được kỳ
vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Hình thức sở hữu hàm chứa sự khác biệt về nguồn lực, quy trình hoạt động và quản
lý doanh nghiệp, từ đó tác động đến khả năng hấp thụ các hiệu ứng lan tỏa từ FDI (Li &
cộng sự, 2001; Sinani & Meyer, 2004; Sun, 2009). Mỗi loại hình sở hữu đều có những ưu
thế nhất định trong hấp thụ lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Doanh nghiệp nhà nước có lợi thế về
khả năng tiếp cận các chương trình hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cũng như
nguồn vốn dồi dào để đầu tư cho quá trình tạo lập quan hệ và học hỏi, ứng dụng và phát
triển các kiến thức về thị trường xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI. Trong khi đó, doanh
nghiệp tư nhân lại có lợi thế về sự linh hoạt, năng động trong tiếp cận, học hỏi các thông
tin từ bên ngoài, bao gồm cả kiến thức về hoạt động xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI. Với
trường hợp Việt Nam, Anwar và Nguyen (2011) chỉ ra rằng doanh nghiệp nhà nước được
hưởng lợi từ lan tỏa xuất khẩu theo chiều ngang trong khi doanh nghiệp tư nhân thì hưởng
lợi từ kênh lan tỏa chiều dọc. Giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB4: Hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI được giả thuyết là có sự khác
biệt theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất được xem là chiến lược bước
ngoặt nhằm phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia, nhất là các nền kinh tế đang phát triển
(UNIDO, 2015). Riêng tại Việt Nam, hiện có trên 300 khu công nghiệp, khu chế xuất
được hình thành với hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ (BKHĐT, 2016). Với những chính
sách ưu đãi đặc biệt (về thuế, cơ sở hạ tầng,…) tại các khu vực này thì đây đồng thời là
84
nơi thu hút tập trung nhiều doanh nghiệp FDI đến đầu tư và hoạt động sản xuất. Do vậy,
với vị trí hoạt động gần các doanh nghiệp FDI sẽ tạo cơ hội thuận lợi để doanh nghiệp
trong nước thiết lập quan hệ và học hỏi được nhiều từ kinh nghiệm xuất khẩu của doanh
nghiệp bạn, từ đó gia tăng quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Aitken & cộng sự, 1997;
Kuchiki, 2006). Do đó, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB5: Vị trí tại khu công nghiệp/khu chế xuất được kỳ vọng có ảnh
hưởng tích cực đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế
tạo trong nước.
Mức độ vốn hóa thể hiện tiềm lực tài chính của doanh nghiệp (Robinson, 1953;
Eatwell và cộng sự, 1990). Doanh nghiệp với mức độ vốn hóa cao thì càng có nhiều khả
năng tài chính để đầu tư cho quá trình tạo lập mối quan hệ và học hỏi, ứng dụng các kiến
thức về gia nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI. Về thực nghiệm,
các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan dương giữa mức độ vốn hóa và
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI (Sun, 2009; Kokko & cộng sự, 2001;
Buck & cộng sự, 2007). Với các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam hiện nay, đa
phần các doanh nghiệp có mức độ vốn hóa thấp (CIEM, 2015). Điều này cho thấy tiềm
lực tài chính hạn chế và có thể trở thành rào cản đối với khả năng hấp thụ lan tỏa xuất
khẩu từ FDI. Do vậy, giả thuyết sau về vai trò của mức độ vốn hóa được xây dựng để
kiểm định:
Giả thuyết HB6: Mức độ vốn hóa của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng thì chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố ngày
càng được coi trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức. Đặc biệt, chất lượng
nhân lực có vai trò quan trọng trong quá trình tiếp thu, học hỏi và ứng dụng kiến thức
mới (Zahra & George, 2002; Vinding, 2006). Doanh nghiệp trong nước thu hút được đội
ngũ lao động có trình độ cao sẽ có nhiều khả năng để tiếp cận, học hỏi, khai thác và phát
triển nguồn thông tin và kiến thức hữu ích về thị trường xuất khẩu từ môi trường bên
85
ngoài, bao gồm từ các doanh nghiệp FDI vốn sở hữu thế mạnh về xuất khẩu. Kết quả
thực nghiệm cũng cho thấy kết luận tương tự (Buck & cộng sự, 2007; Sun, 2009). Trong
một nghiên cứu cho Việt Nam, Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh (2012) chỉ ra
rằng doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước sở hữu nguồn nhân lực chất lượng càng
cao thì khả năng hưởng lợi từ lan tỏa xuất khẩu của FDI để gia tăng tỷ trọng xuất khẩu
càng lớn. Do đó, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB7: Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Sự tập trung về nguồn lực và khả năng lan tỏa thông tin theo không gian được
nhấn mạnh trong lý thuyết địa kinh tế (Krugman, 1991; Koo, 2005; Malmberg, 1996).
Được biết đến là nghiên cứu tiên phong về lan tỏa xuất khẩu, Aitken và cộng sự (1997)
cho thấy khả năng tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến chế tạo Mexico có
tương quan dương với độ gần về không gian với các công ty đa quốc gia. Do vậy, tác giả
đề xuất khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu tiềm năng xây dựng nhà máy gần các
doanh nghiệp nước ngoài để có thể học hỏi và cắt giảm chi phí gia nhập thị trường xuất
khẩu. Với nền kinh tế Việt Nam, khu vực phía Nam thu hút gần 50% vốn FDI vào ngành
công nghiệp chế biến chế tạo và chiếm hơn 53% tổng số doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu của cả nước trong khi khu vực miền Trung chỉ thu hút khoảng 20% vốn FDI và hơn
10% tổng số doanh nghiệp có xuất khẩu (TCTK, 2015). Một mặt, đây là cơ hội để doanh
nghiệp chế biến ở khu vực phía Nam có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận, học hỏi và
vận dụng các kiến thức hữu ích về phát triển xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI. Mặt khác,
sự tập trung cao về mật độ các doanh nghiệp FDI và hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ ở khu
vực này có thể gia tăng áp lực cạnh tranh và doanh nghiệp FDI có thể tăng cường các
biện pháp bảo mật thông tin xuất khẩu, từ đó làm hạn chế hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu. Do
vậy, giả thuyết sau được xây dựng để kiểm định:
Giả thuyết HB8: Hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI được giả thuyết là có sự khác
biệt theo khu vực địa lý của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
86
3.2.2.4 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và ngành đến năng lực xuất khẩu
Doanh nghiệp có thâm niên hoạt động cao thường có nhiều điều kiện để phát triển
các nguồn lực và tạo dựng được vị thế vững chắc (Autio & cộng sự, 2000; Gruber,
2004). Bernard và Jensen (1999) cho đây là thước đo mức độ thành công trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. So với doanh nghiệp non trẻ mới thành lập thì doanh
nghiệp có thâm niên hoạt động sẽ nhiều tiềm lực hơn để phát triển các thị trường mới,
nhất là vươn ra thị trường thế giới qua việc thúc đẩy hoạt động tham gia xuất khẩu và tỷ
trọng xuất khẩu. Các kết quả thực nghiệm trong và ngoài nước cũng cho thấy mối tương
quan dương giữa độ tuổi hay thâm niên hoạt động của doanh nghiệp với năng lực xuất
khẩu (Barrios & cộng sự, 2001; Sun, 2009; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh,
2012). Số liệu thống kê cho thấy, các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt nam có tham
gia xuất khẩu thì độ tuổi bình quân là 10 năm trong khi các doanh nghiệp không xuất
khẩu thì chỉ mới thành lập trong khoảng 5 năm (TCTK, 2015). Do đó, độ tuổi doanh
nghiệp được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
chế biến chế tạo trong nước.
Mỗi loại hình sở hữu có những ưu thế riêng biệt để giúp doanh nghiệp có thể bắt
đầu tham gia và phát triển hoạt động xuất khẩu. Doanh nghiệp tư nhân có lợi thế về sự
linh hoạt và nhạy bén trong tiếp cận thông tin cũng như sự năng động trong phương thức
quản lý và sử dụng nguồn lực. Do đó, khối doanh nghiệp này có khả năng cập nhật thông
tin về thị hiếu khách hàng và thị trường xuất khẩu tiềm năng để gia nhập thị trường xuất
khẩu (Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Trong khi đó, khối doanh nghiệp
nhà nước có nhiều tiềm lực và khả năng tiếp cận nguồn hỗ trợ tài chính để tham gia xuất
khẩu (Sun, 2009; Anwar & Nguyen, 2011). Xét về bối cảnh xuất khẩu của doanh nghiệp
chế biến chế tạo Việt Nam, khối tư nhân chiếm 93% tổng số doanh nghiệp trong nước có
tham gia xuất khẩu nhưng chỉ chiếm gần 30% tỷ trọng xuất khẩu (TCTK, 2016). Có thể
thấy rằng so với doanh nghiệp nhà nước thì doanh nghiệp tư nhân chiếm ưu thế về số
lượng tham gia xuất khẩu nhưng đóng góp về tỷ trọng xuất khẩu còn khiêm tốn. Do đó,
87
năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước được giả thuyết là có
sự khác biệt theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, các khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành với những chính
sách ưu đãi và hỗ trợ tập trung của Nhà nước và chính quyền địa phương dành cho các
doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp phục vụ xuất khẩu (Bộ Tư pháp, 2013).
Hiện cả nước có hơn 300 khu công nghiệp, khu chế xuất với hoạt động xuất khẩu mạnh
mẽ. Do vậy, việc doanh nghiệp nằm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất có thể giúp
các doanh nghiệp trong nước có bước khởi đầu thuận lợi, cắt giảm chi phí gia nhập thị
trường xuất khẩu và gia tăng tỷ trọng xuất khẩu. Số liệu thống kê cho thấy gần 30% các
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam tại các khu công nghiệp tham gia xuất khẩu
trong khi chỉ có khoảng 3.5% doanh nghiệp hoạt động bên ngoài ngoài có tham gia xuất
khẩu (TCTK, 2015). Vì vậy, vị trí tại khu công nghiệp/khu chế xuất được kỳ vọng là tác
động cùng chiều đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Gia nhập thị trường xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải phát sinh khoản chi phí cố
định hay còn gọi là chi phí chìm (sunk entry cost) như chi phí nghiên cứu thị trường,
thiết lập kênh phân phối, xin giấy phép nhập khẩu, chuẩn hóa sản phẩm theo thị trường
mới,… (Krugman, 1984; Baldwin, 1989; Dixit, 1989; Wakelin, 1998). Những chi phí
này cao sẽ là rào cản đối với doanh nghiệp có tiềm lực tài chính hạn chế. Do vậy, với
doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn hóa cao sẽ có nhiều tiềm lực tài chính mạnh
(Robinson, 1953; Eatwell & cộng sự, 1990), từ đó dễ dàng thâm nhập thị trường xuất
khẩu cũng như gia tăng thị phần. Về thực nghiệm, các nghiên cứu ở trong và ngoài nước
cũng cho thấy mối tương quan dương giữa mức độ vốn hóa và năng lực xuất khẩu
(Greenaway & cộng sự, 2004; Anwar & Nguyen, 2011; Sun, 2009; Nguyễn Thị Hồng
Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Do đó, mức độ vốn hóa được kỳ vọng là tác động cùng
chiều đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Nguồn nhân lực được xem là tài sản ngày càng quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gia tăng. Sở hữu đội ngũ nhân lực có trình
độ cao, năng động, sáng tạo là nền tảng để doanh nghiệp trong nước có thể nắm bắt được
88
nhu cầu, thị hiếu và phát triển các sản phẩm đáp ứng các thị trường xuất khẩu tiềm năng.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy vai trò quan trọng của nhân tố này
đối với năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước (Greenaway & cộng sự, 2004;
Sun, 2009; Kneller & Pisu, 2007). Trong một nghiên cứu cho Việt Nam, Anwar và
Nguyen (2011) chỉ ra rằng doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước với nguồn nhân lực
chất lượng càng cao thì khả năng tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu càng cao. Do
đó, chất lượng nhân lực được kỳ vọng là tác động cùng chiều đến năng lực xuất khẩu của
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
Các doanh nghiệp có kinh nghiệm xuất khẩu trước đây đã phát sinh các chi phí cố
định để thâm nhập thị trường (Krugman, 1984; Baldwin, 1989; Dixit, 1989; Wakelin,
1998). Chi phí này gọi là “chi phí chìm” vì doanh nghiệp không thể thu hồi lại dù ngừng
hoạt động xuất khẩu. Do vậy, các doanh nghiệp này thường có nhiều động cơ để tiếp tục
hoạt động xuất khẩu (Kneller & Pisu, 2007; Sun, 2009). Với trường hợp của Việt Nam,
Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế Anh (2012) cũng cho thấy rằng doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước đã từng xuất khẩu thì càng có nhiều khả năng tham gia xuất khẩu
trong những năm tiếp theo. Vì vậy, kinh nghiệm xuất khẩu được kỳ vọng là tác động
cùng chiều đến khả năng tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước.
Bên cạnh các đặc trưng doanh nghiệp thì mỗi ngành nghề có những đặc thù riêng
tạo nên sự khác biệt trong khả năng tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu của các
doanh nghiệp giữa các ngành. Biến tỷ trọng xuất khẩu của ngành được đưa vào mô hình
nhằm đo lường tầm quan trọng của mỗi ngành trong cấu trúc xuất khẩu của toàn ngành
(Ruane & Sutherland, 2005; Kneller & Pisu, 2007; Franco & Sasidharan, 2009). Biến này
giúp kiểm soát được giả thuyết rằng các doanh nghiệp trong các ngành có tỷ trọng xuất
khẩu cao thường có nhiều khả năng tham gia xuất khẩu hơn và xuất khẩu nhiều hơn, đồng
thời các doanh nghiệp nước ngoài thường có xu hướng lựa chọn đầu tư vào những ngành
có tỷ trọng xuất khẩu cao. Do đó, tỷ trọng xuất khẩu của ngành được kỳ vọng là có tác
động cùng chiều đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước.
89
Bên cạnh đó, biến số đại diện mức độ cạnh tranh hay mức độ tập trung trong mỗi
ngành thường được đo lường bằng chỉ số Herfindahl index cũng được sử trong các
nghiên cứu về lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Mức độ canh tranh trong ngành gia tăng (hay
mức độ tập trung trong ngành giảm) có thể tạo động lực và áp lực để doanh nghiệp tìm
kiếm, mở rộng thị trường ra nước ngoài thông qua kênh xuất khẩu. Kết quả nghiên cứu
thực nghiệm trong và ngoài nước cũng cho thấy vai trò nhất định của nhân tố này đến
năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước (Kneller & Pisu, 2007; Sun, 2009;
Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Do đó, mức độ cạnh tranh trong ngành
được kỳ vọng là có tác động cùng chiều đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước. Ngoài ra, vai trò của các đặc trưng và biến động ngành đến
quyết định xuất khẩu doanh nghiệp thường được kiểm soát bằng các biến giả ngành trong
mô hình. Tác động của yếu tố thời gian cũng được kiểm soát thông qua biến giả năm.
Dựa trên những phân tích và các giả thuyết nghiên cứu đã xây dựng cho các nhân
tố ảnh hưởng đến lan tỏa trên đây, mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI
đến doanh nghiệp trong nước được tóm tắt trong Sơ đồ 3.2.
90
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LAN TỎA XUẤT KHẨU Biến tương tác (Z’*FDI)
SỰ HIỆN DIỆN CỦA FDI (FDI)
PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY CÁC THANG ĐO FDI
HB2 (+)
Kinh nghiệm xuất khẩu
HB3 (+)
Độ tuổi
HB4(+)
Hình thức sở hữu
HB5 (+)
Khu công nghiệp
Tỷ trọng lao động của FDI trong ngành (fdio)
Tỷ trọng tài sản của FDI trong ngành (fdia)
Tỷ trọng doanh thu của FDI trong ngành (fdio)
LAN TỎA XUẤT KHẨU HB1 (+/-)
HB6 (+)
Mức độ vốn hóa
HB7(+)
Chất lượng nhân lực
HB8(+/-)
Khu vực địa lý
THAM GIA XUẤT KHẨU
ĐẶC TRƯNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC (Z’)
NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN CHẾ TẠO TRONG NƯỚC
TỶ TRỌNG XUẤT KHẨU
Sơ đồ 3.2 Mô hình khái niệm hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI
ĐẶC TRƯNG NGÀNH
91
3.3 Mô hình nghiên cứu thực nghiệm đề nghị
3.3.1 Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI
3.3.1.1 Mô hình nghiên cứu đề nghị
Cách tiếp cận hàm sản xuất Cobb-Douglas có nhiều ưu điểm cho phép phân tích
và kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI thông qua yếu tố phi truyền thống là
năng suất các nhân tố tổng hợp (Caves, 1974; Globerman, 1979; Sinani & Meyer, 2004;
Le Thanh Thuy, 2005; Kohpaiboon, 2006; Le & Promfet, 2008). Do vậy, nghiên cứu này
kế thừa trong vận dụng mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng dưới đây để kiểm
định lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp Việt Nam với giả định hiệu suất không đổi theo quy mô5:
với 0 < α < 1 (3.1)
Trong đó, Yijt, Kijt và Lijt lần lượt là sản lượng, vốn và lao động của doanh nghiệp
trong nước thứ i thuộc ngành j tại thời điểm t. Aijt là năng suất các nhân tố tổng hợp
(Total Factor Productivity – TFP) bao gồm các biến số khác ngoài các yếu tố đầu vào
truyền thống (lao động và vốn) có tác động đến kết quả đầu ra của doanh nghiệp. Chia
hai vế của phương trình (3.1) cho Lijt, ta có phương trình năng suất lao động của doanh
nghiệp thứ i thuộc ngành j tại thời điểm t được biểu diễn như sau:
(3.2)
5 Mặc dù giả định về hiệu suất không đổi theo quy mô là khá nghiêm ngặt nhưng vẫn được lựa chọn như một cách tiếp cận truyền thống nhằm chuẩn hóa sự đa dạng hay khác biệt lớn về quy mô của các doanh nghiệp trong cùng ngành (Griliches & Ringstad, 1971); và hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm ở cấp doanh nghiệp hay cấp ngành cũng cho thấy kết quả về hiệu suất không đổi theo quy mô (Burnside, 1996; Basu & Fernald, 1997; Baily, Hulten & Campbell, 1992).
Từ hàm (3.2) lấy log hai vế ta có:
92
(3.2’)
Năng suất các nhân tố tố tổng hợp Aijt (TFP) phản ánh sự đóng góp của các yếu tố
đầu vào phi truyền thống như kiến thức và kỹ năng quản lý, trình độ lao động, cơ cấu
nguồn lực, tiến bộ kỹ thuật, đổi mới và chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển
(R&D),… đến năng suất của doanh nghiệp (Felipe, 1999). Tác động của nó không trực
tiếp như năng suất bộ phận mà phải thông qua sự biến đổi và khả năng kết hợp của các
yếu tố hữu hình là lao động và vốn. Những yếu tố này có thể được hình thành và phát
triển từ nguồn lực nội tại của doanh nghiệp và cũng có thể là những ảnh hưởng lan tỏa
hấp thụ được từ môi trường bên ngoài, ví dụ như sự có mặt của các doanh nghiệp FDI.
Theo đó, tác động lan tỏa công nghệ từ sự hiện diện của FDI có thể là một nhân tố quan
trọng trong TFP giúp tạo ra những thay đổi đáng kể về năng lực công nghệ hay năng suất
lao động của doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, năng suất của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào các biến số đặc trưng
doanh nghiệp (Zijt) như mức độ vốn hóa, quy mô, loại hình sở hữu và các biến số đặc
trưng đại diện cho ngành. Trong đó, khả năng hấp thụ hiệu ứng lan tỏa từ FDI của các
doanh nghiệp trong nước phụ thuộc vào các đặc trưng riêng biệt của mỗi doanh nghiệp
nên các biến số tương tác (FDI*Zijt) được đưa vào mô hình để tìm kiếm các yếu tố quyết
định lan tỏa. Để kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ và các nhân tố ảnh hưởng đến quy
) của doanh nghiệp trong mô lan tỏa, mô hình năng suất lao động lnProductivityijt (ln
nước thứ i thuộc ngành j vào thời điểm t được viết lại như sau:
93
(3.3)
Từ mô hình (3.3), ta có thể ước lượng được các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất
lao động của doanh nghiệp trong nước bao gồm: mức độ vốn hóa (lnK_intensityijt); các
đặc trưng khác của doanh nghiệp như chất lượng nguồn nhân lực (lnL_qualityijt); quy mô
doanh nghiệp (lnScaleijt); hình thức sở hữu (Ownershipijt); khoảng cách công nghệ giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI (TechGapijt); khu vực địa lý (dRegionijt); và
mức độ cạnh tranh của thị trường theo ngành (Concentrationjt); sự khác biệt về ngành
). (dIndustryjt) và thời gian (
Biến trọng tâm là hiện diện FDI (FDIjt) và các biến tương tác giữa FDI và đặc trưng doanh nghiệp6. Trong kinh tế lượng, các biến tương tác được sử dụng nhằm phát
triển và phân tích sâu hơn về mối quan hệ giữa các biến số trong mô hình, trong đó mức
độ ảnh hưởng của một biến giải thích (đến biến phụ thuộc) chịu ảnh hưởng bởi một hoặc
một số biến giải thích khác (Aitken & cộng sự, 1991; Ramanathan, 2002; Jaccard &
Turrisi, 2003; Hayes, 2013). Do vậy, các biến đặc trưng doanh nghiệp được sử dụng
trong mô hình đại diện cho khả năng học hỏi, ‘hấp thụ’ (absorptive capacity) các lan tỏa
từ doanh nghiệp nước ngoài vì mỗi doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng từ FDI với những
mức độ khác nhau do sự khác biệt về nguồn lực và khả năng học hỏi, bắt chước công
nghệ mới (Blomstrom & Sjoholm, 1999; Sinani & Meyer, 2004; Le Thanh Thuy, 2005;
6 Liu (2008) cho rằng hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI thường có độ trễ trong tác động và sử dụng biến trễ của biến đại diện FDI có thể giúp kiểm soát hiện tượng này. Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu ngắn (3 năm) nên việc sử dụng biến trễ trong nghiên cứu này sẽ không phù hợp và không hiệu quả trong việc kiểm soát độ trễ tác động và có thể dẫn đến vấn đề nội sinh (Baltagi, 2008; Nickell, 1981). Đây là một trong các hướng nghiên cứu tiếp theo với dữ liệu có chuỗi thời gian dài hơn.
Kohpaiboon, 2006; Li & cộng sự., 2009; Le & Promfet, 2008).
94
Áp dụng cách tiếp cận của Kohpaiboon (2006), để kiểm định sự tồn tại của hiệu
ứng lan tỏa thì ta cần kiểm định mức ý nghĩa đồng thời của biến FDIjt và các biến tương
tác. Nếu kết quả kiểm định cho thấy hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI tồn tại thì ta thực
hiện bước tiếp theo là kiểm định các nhân tố quyết định hiệu ứng lan tỏa bằng cách kiểm
định mức ý nghĩa đồng thời của các biến tương tác. Nếu kết quả kiểm định có ý nghĩa thì
ta thực hiện phép đạo hàm cho phương trình (3.3) để tính được ảnh hưởng cận biên của
yếu tố nước ngoài (FDIjt) đến năng suất của doanh nghiệp Việt Nam. Phương trình cận
biên (3.4) cho phép tìm hiểu và đánh giá sâu hơn về các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô
lan tỏa công nghệ từ FDI đến các doanh nghiệp trong nước.
(3.4)
3.3.1.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa công nghệ
Tương tự các nghiên cứu trước như Caves (1974), Globerman (1979),
Kohpaiboon (2006), Li và cộng sự (2001), Le Thanh Thuy (2005), Le và Pomfret (2011),
biến mục tiêu ‘Năng suất lao động’ (Productivityijt) được sử dụng để đại diện cho năng
lực công nghệ của doanh nghiệp trong nước thứ i thuộc ngành j, được đo bằng tỷ số
doanh thu trên mỗi lao động tại thời điểm t.
Các biến số tác động đến biến năng suất doanh nghiệp trước tiên là các đặc trưng
doanh nghiệp, bao gồm: Mức độ vốn hóa (lnK_intensityijt) được đo bằng tỷ lệ tài sản cố
định trên mỗi lao động (Caves, 1974; Globerman, 1979; Le Thanh Thuy, 2005); Chất
lượng nguồn nhân lực (lnL_qualityijt) được đo bằng chi phí lao động bình quân trên mỗi
lao động (Sinani & Meyer, 2004); Quy mô doanh nghiệp (lnScaleijt) được đo bằng tỷ
trọng doanh thu của doanh nghiệp trên tỷ trọng doanh thu bình quân ngành (Le &
Pomfret, 2011).
Hình thức sở hữu (Ownershipijt) là biến giả, có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp
trong nước là sở hữu tư nhân, bằng 0 nếu là sở hữu nhà nước (Li & cộng sự, 2001);
95
Khoảng cách công nghệ (TechGapijt) được đo bằng chênh lệch giữa năng suất lao động của
doanh nghiệp trong nước i so với năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp FDI
trong cùng ngành (Kohpaiboon, 2006; Hoang Van Thanh & Pham Thien Hoang, 2010);
Biến giả vùng (dRegion) đại diện cho vùng địa lý, trong đó dRegion1 có giá trị bằng 1 nếu
doanh nghiệp thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc, dRegion2 bằng
1 nếu doanh nghiệp thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
Để đo lường mức độ tập trung hay cạnh tranh trong ngành, nghiên cứu sử dụng
chỉ số Herfindahl index. Đây là thang đo được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về
lan tỏa nhằm kiểm soát tác động cạnh tranh mang tính đặc trưng của mỗi ngành
(Globerman, 1979; Sinani & Meyer, 2004; Kohpaiboon, 2006; Hoang Van Thanh &
Pham Thien Hoang, 2010, Le & Pomfret, 2008; Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt
Hùng, 2012). Chỉ số Herfindahl được tính bằng công thức sau:
Trong đó xijt là doanh thu của doanh nghiệp trong nước i thuộc ngành j, Xjt là tổng
doanh thu của ngành j. Chỉ số Herfindahl càng cao thì mức độ tập trung càng cao và mức
độ cạnh tranh càng giảm.
Bên cạnh đó, biến giả đại diện cho các ngành (dIndustryji) cũng được đưa vào mô
hình để kiểm soát sự khác biệt về ngành đến năng suất doanh nghiệp (Sinani & Meyer ;
2004; Alvarez & Molero, 2005). Mỗi ngành nghề có những đặc trưng riêng về nguồn lực
và môi trường kinh doanh nên có thể khiến cho năng suất lao động của các doanh nghiệp
có sự khác biệt nhất định giữa các ngành. Yếu tố thời gian cũng phản ánh sự thay đổi
7 Sự khác biệt về ngành nghề và thời gian cũng có thể đóng vai trò như các nhân tố chung có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp FDI khi cùng hoạt động trong một ngành nhất định và chịu các biến động theo thời gian.
công nghệ và tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Do vậy, các biến giả năm (dYeart) được đưa vào mô hình để kiểm soát tác động này của yếu tố thời gian7.
96
Bảng 3.1 Định nghĩa các biến số trong mô hình lan tỏa công nghệ
Định nghĩa (đơn vị tính) Tỷ trọng doanh thu/lao động/tài sản của các doanh nghiệp FDI trong ngành (0 < fdio,fdie,fdia <1) Giá trị tài sản cố định trên mỗi lao động
Tên biến Hiện diện FDI (fdio/ fdie/ fdia) Mức độ vốn hóa (K_Intensity) Chất lượng nhân lực (L_quality) Quy mô (lnScale)
Sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap)
Khu vực 1 (dRegion1)
Khu vực 2 (dRegion2)
Chi phí lao động (gồm lương, thưởng, phụ cấp) bình quân mỗi lao động (triệu đồng) Tỷ trọng doanh thu của doanh nghiệp trên tỷ trọng doanh thu bình quân ngành Bằng 1 nếu sở hữu tư nhân và bằng 0 nếu sở hữu nhà nước Chênh lệch giữa năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước i so với năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp FDI trong cùng ngành (triệu đồng) Bằng 1 nếu thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc Bằng 1 nếu thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Chỉ số Herfindahl càng cao cho thấy mức độ tập trung cao (hay mức độ cạnh tranh giảm) (0 < Herfindahl < 1) Biến giả đại diện cho các ngành
Biến giả năm Mức độ cạnh tranh (Concentration) Đặc trưng ngành (dIndustry) Thời gian (dYear)
3.3.2 Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI
3.3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề nghị
Dựa trên những đề tài nghiên cứu trước đây (Greenaway & cộng sự,2004; Kneller
& Pisu, 2007; Sun, 2009, 2010; Anwar & Nguyen, 2011), tác giả sử dụng mô hình chọn
mẫu Heckman để phân tích và kiểm định tác động lan tỏa về xuất khẩu từ FDI đến các
doanh nghiệp trong nước. Mô hình nghiên cứu đề nghị bao gồm 2 phương trình như sau:
97
(1) Phương trình tham gia xuất khẩu:
(3.5)
(2) Phương trình tỷ trọng xuất khẩu:
(3.6)
Trong đó, (1) là phương trình tham gia xuất khẩu và PARTICIPATEijt là biến
lưỡng phân có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp trong nước thứ i trong ngành j xuất khẩu
vào thời điểm t, và bằng 0 nếu không xuất khẩu; (2) là phương trình tỷ trọng xuất khẩu
(INTENSITYijt) được đo bằng tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thu; và hai sai số có phân phối
chuẩn (i(0,1), i(0,)) và hệ số tương quan bằng (corr(i,i) = ). Nếu 0, kỹ
thuật hồi quy OLS cho phương trình (2) sẽ có kết quả thiên lệch. Các biến giải thích ở
hai phương trình có thể được chia thành ba nhóm: (i) đặc trưng doanh nghiệp; (ii) đặc
trưng ngành; và (iii) Sự hiện diện của FDI. Định nghĩa các biến được tóm tắt trong phần
tiếp theo.
Áp dụng cách tiếp cận của các nghiên cứu trước đây (Sun, 2009; Nguyễn Thị
Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012), để kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa thì ta
cần kiểm định mức ý nghĩa đồng thời của biến FDIjt và các biến tương tác. Nếu kết quả
kiểm định cho thấy hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI tồn tại thì ta thực hiện bước tiếp
theo là kiểm định các nhân tố quyết định hiệu ứng lan tỏa bằng cách kiểm định mức ý
nghĩa đồng thời của các biến tương tác. Nếu kết quả kiểm định có ý nghĩa thì ta thực hiện
98
phép đạo hàm cho phương trình (3.5) và (3.6) để tính được ảnh hưởng cận biên của yếu
tố nước ngoài (FDIjt) đến hai quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Các
phương trình cận biên (3.7) và (3.8) sẽ cho phép tìm hiểu và đánh giá sâu hơn về các
nhân tố ảnh hưởng đến quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước.
(3.7)
(3.8)
3.3.2.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa xuất khẩu
Các biến số tác động đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước trước
tiên là các đặc trưng doanh nghiệp, bao gồm: Kinh nghiệm xuất khẩu (Expererienceijt)
đại diện cho kinh nghiệm xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước, có giá trị bằng 1 nếu
doanh nghiệp đã tham gia xuất khẩu năm trước đó và ngược lại thì bằng 0. Biến số chỉ được
sử dụng trong mô hình quyết định tham gia xuất khẩu với mục đích nhận dạng mô hình vì
nó được cho là chỉ tác động đến việc có tiếp tục xuất khẩu hay không mà không ảnh hưởng
đến tỷ trọng xuất khẩu (Sun, 2009).
Độ tuổi (Ageijt) được đo lường bằng số năm hoạt động của doanh nghiệp; Hình
thức sở hữu (Ownershipijt) là biến giả, có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp trong nước là
sở hữu tư nhân, bằng 0 nếu là sở hữu nhà nước (Li & cộng sự, 2001); Khu công
nghiệp/Khu chế xuất (Zoneijt) bằng 1 nếu có và ngược lại thì bằng 0; Mức độ vốn hóa
(K_intensityijt) được đo bằng tỷ lệ tài sản cố định trên mỗi lao động (Caves, 1974;
Globerman, 1979; Le Thanh Thuy, 2005); Chất lượng nguồn nhân lực (L_qualityijt) được
đo bằng chi phí lao động (bao gồm lương, thưởng, phụ cấp) bình quân mỗi lao động
(Sinani & Meyer, 2004); Biến giả vùng đại diện cho các vùng địa lý trong đó dRegion1
có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi
99
phía Bắc, dRegion2 bằng 1 nếu doanh nghiệp thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung.
Biến tỷ trọng xuất khẩu của ngành (Indexintjt) được đo lường bằng tỷ trọng xuất
khẩu của ngành j trên tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành (Ruane & Sutherland, 2005;
Kneller & Pisu, 2007; Franco & Sasidharan, 2009). Tương tự trong mô hình nghiên cứu
lan tỏa công nghệ, để đo lường mức độ tập trung hay cạnh tranh trong ngành thì chỉ số
Herfindahl được sử dụng và được tính bằng công thức sau:
Trong đó xijt là doanh thu của doanh nghiệp i thuộc ngành j, Xjt là tổng doanh thu
của ngành j. Chỉ số Herfindahl càng cao thì mức độ tập trung càng cao và mức độ cạnh
tranh càng giảm. Ngoài ra, biến giả đại diện cho các ngành (dIndustryji) cũng được đưa
vào mô hình để kiểm soát sự khác biệt về ngành đến quyết định xuất khẩu của doanh
nghiệp trong nước (Sinani & Meyer ; 2004; Alvarez & Molero, 2005).
Tương tự như trong nghiên cứu về lan tỏa công nghệ, vai trò hay sự hiện diện của
doanh nghiệp FDI được đo lường thông qua ba biến đại diện, bao gồm: tỷ trọng doanh
thu (fdiojt), tỷ trọng lao động (fdiejt) và tỷ trọng tài sản (fdiajt) của các doanh nghiệp FDI
trong cùng ngành.
Bảng 3.2 Định nghĩa các biến trong mô hình lan tỏa xuất khẩu
Định nghĩa (đơn vị tính) Tên biến Tỷ trọng doanh thu/lao động/tài sản của các doanh nghiệp Hiện diện FDI (fdio/ FDI trong ngành(0 < fdio,fdie,fdia<1) fdie/ fdia) Bằng 1 nếu đã tham gia xuất khẩu năm trước đó và ngược Kinh nghiệm xuất khẩu lại thì bằng 0 (Experience) Số năm hoạt động của doanh nghiệp Độ tuổi (Age) Sở hữu(Ownership) Bằng 1 nếu sở hữu tư nhân và bằng 0 nếu sở hữu nhà nước Khu công nghiệp (Zone) Bằng 1 nếu thuộc khu công nghiệp/khu chế xuất và ngược
lại thì bằng 0 Giá trị tài sản cố định trên mỗi lao động Mức độ vốn hóa (K_Intensity)
100
Chất lượng nhân lực (L_quality) Khu vực 1 (dRegion1)
Khu vực 2 (dRegion2)
Chi phí lao động (gồm lương, thưởng, phụ cấp) bình quân mỗi lao động (triệu đồng) Bằng 1 nếu thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc Bằng 1 nếu thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Tỷ trọng xuất khẩu của ngành j trên tổng giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến (0 < Indexint < 1) Chỉ số Herfindahl càng cao cho thấy mức độ tập trung cao (hay mức độ cạnh tranh giảm) (0 < Herfindahl < 1) Biến giả đại diện cho các ngành
Biến giả năm Tỷ trọng xuất khẩu của ngành (Indexint) Mức độ cạnh tranh (Concentration) Đặc trưng ngành (dIndustry) Thời gian (dYear)
3.4 Dữ liệu nghiên cứu
Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp được
thu thập từ các cuộc điều tra toàn diện doanh nghiệp do Tổng Cục Thống kê thực hiện
trong giai đoạn 2011 – 2013 gồm 137,419 quan sát cho các doanh nghiệp thuộc ngành
chế biến chế tạo. Trong đó, số lượng doanh nghiệp tăng từ 42,181 doanh nghiệp (năm
2011) lên 45,663 doanh nghiệp (năm 2012) và 49,575 doanh nghiệp (năm 2013). Luận
án lựa chọn ngành chế biến chế tạo vì đây là nhóm ngành luôn dẫn đầu trong thu hút vốn
FDI và đóng góp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam khi chiếm trên 70% vốn FDI đăng
ký và trên 80% trị giá xuất khẩu (TCTK, 2016). Đây cũng là nhóm ngành được lựa chọn
trong các nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa từ FDI vì mức độ tập trung của dòng vốn FDI
và tầm quan trọng của hiệu ứng lan tỏa của FDI đối với ngành này nói riêng và nền kinh
tế nước tiếp nhận nói chung (Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng, 2012; Anwar &
Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012; Caves, 1974; Aitken &
cộng sự, 1997; Kokko & cộng sự, 2001; Phillips & Ahmadi-Esfahani, 2010;
Kohpaiboon, 2006).
Điều tra doanh nghiệp là các cuộc điều tra thường niên quy mô nhất ở cấp quốc
gia, cung cấp thông tin toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
thuộc tất cả các thành phần kinh tế (khu vực nhà nước, ngoài nhà nước, đầu tư nước
101
ngoài). Nội dung điều tra bao gồm: thông tin nhận dạng doanh nghiệp (loại hình doanh
nghiệp, năm thành lập, ngành hoạt động sản xuất kinh doanh,...); thông tin về lao động và
thu nhập của người lao động (số lượng lao động, thu nhập của người lao động,...); các chỉ
tiêu về sản xuất kinh doanh (tài sản và nguồn vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, thuế và các
khoản nộp ngân sách, vốn đầu tư, doanh thu bán sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, chi phí
sản xuất, ...).
Do tính chất phức tạp của nội dung điều tra và trình độ kế toán, thống kê cũng như
ứng dụng công nghệ thông tin của các đơn vị điều tra khác nhau nên Tổng cục Thống kê
áp dụng ba phương pháp điều tra:
(i) Điều tra trực tiếp: Điều tra viên trực tiếp phỏng vấn đơn vị điều tra để ghi vào
phiếu điều tra. Phương pháp này được áp dụng đối với những đơn vị điều tra chưa
thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, không có khả năng tự ghi được phiếu điều tra (ví
dụ như doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp chuẩn bị giải thể, doanh nghiệp đang bị
thanh tra,...).
(ii) Điều tra gián tiếp: Tổ chức hội nghị tập huấn cho kế toán trưởng, cán bộ kế toán
hoặc thống kê của các doanh nghiệp, hoặc điều tra viên trực tiếp hướng dẫn phương
pháp ghi phiếu điều tra và những quy định cụ thể về nơi gửi, hình thức, thời gian
gửi, để các doanh nghiệp tự ghi phiếu gửi cho cơ quan điều tra.
(iii) Điều tra số liệu qua bảng câu hỏi điện tử: Áp dụng cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp có điều kiện về công nghệ thông tin như: máy tính, kết nối internet. Doanh
nghiệp lấy phiếu điều tra điện tử từ trang Web của Tổng cục Thống kê, ghi thông
tin trực tiếp vào phiếu và gửi qua đường thư điện tử tới Cục Thống kê.
Dữ liệu nghiên cứu sử dụng trong luận án này là dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp
gồm 22 ngành cấp 2 thuộc nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo theo chuẩn Hệ
thống ngành kinh tế mới nhất của Việt Nam (Vietnam Standard Industrial Classification
2007 – VSIC 2007). Số lượng doanh nghiệp trong nhóm ngành nghiên cứu tăng dần qua
102
các năm từ 46,579 doanh nghiệp (năm 2011) lên 53,962 doanh nghiệp (năm 2012) và
57,571 doanh nghiệp (năm 2013).
Dữ liệu thô ban đầu cho mỗi năm được sàng lọc để giữ lại các doanh nghiệp trong
ngành công nghiệp chế biến chế tạo dựa trên mã ngành được báo cáo. Tiếp đó, dữ liệu
được kiểm tra, xử lý và làm sạch nhằm loại bỏ những doanh nghiệp thiếu hầu hết các dữ
liệu cơ bản (về doanh thu, chi phí, tài sản, lao động) hay có các giá trị dị biệt bất hợp lý
(như tổng số lao động, tài sản, doanh thu, chi phí, số năm hoạt động có giá trị nhỏ hơn
hoặc bằng 0). Bộ dữ liệu cuối cùng đưa vào phân tích trong luận án là dữ liệu bảng
không cân đối (unbalanced panel data) gồm 137,419 quan sát trong giai đoạn 2011 – 20138.Trong đó, số doanh nghiệp trong nước là 123,820 doanh nghiệp và 13,599 là số
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI. Theo Bảng câu hỏi điều tra thì doanh
nghiệp FDI thuộc một trong ba loại hình kinh tế, bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài; doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài; và doanh nghiệp khác liên
doanh với nước ngoài.
Nhằm kiểm soát tác động của lạm phát, tất cả các biến số được đo bằng giá trị tiền
tệ (tính bằng Đồng Việt Nam) trong bộ dữ liệu (như doanh thu, chi phí lao động, tài sản,
giá trị xuất khẩu) đều được quy đổi về mức giá cơ sở năm 2009 trước khi đưa vào xây
dựng các biến số trong mô hình. Trong đó, Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index –
CPI) do Tổng cục Thống kê công bố hàng năm được sử dụng cho việc điều chỉnh dữ liệu
về mức giá cơ sở.
Phần mềm thống kê Stata11.0 được sử dụng trong các phân tích định lượng và
ước lượng dữ liệu của nghiên cứu này. Đây là phần mềm được ứng dụng rộng rãi trong
các nghiên cứu định lượng với những công cụ hỗ trợ tích hợp và dễ dàng sử dụng. Đặc
biệt, phần mềm Stata có thể hỗ trợ quản lý và phân tích hiệu quả các bộ dữ liệu lớn như
dữ liệu bảng. Ngoài ra, công cụ ước lượng mô hình thiên lệch chọn mẫu Heckman (cho
mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI) cũng là điểm khác biệt của Stata so với các phần mềm
8 Thống kê mô tả chi tiết dữ liệu nghiên cứu được trình bày trong muc 4.2 của Chương 4.
khác như Eviews hay SPSS.
103
3.5 Kỹ thuật ước lượng mô hình
3.5.1 Ước lượng mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
3.5.1.1 Dữ liệu bảng
Nghiên cứu này kiểm định hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp
Việt Nam, sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp gồm 137,419 quan sát trong giai đoạn
2011 – 2013. Đây là bộ dữ liệu bảng không cân xứng với tổng số doanh nghiệp ở 22
ngành thuộc nhóm ngành chế biến chế tạo tăng từ 42,181 doanh nghiệp (năm 2011) lên
45,663 doanh nghiệp (năm 2012) và 49,575 doanh nghiệp (năm 2013). Theo Wooldridge
(2009) và Gujarati (2011) thì so với dữ liệu chéo và dữ liệu theo thời gian thì dữ liệu
bảng có những ưu thế vượt trội như:
(1) Có thể xem xét đến tính dị biệt hay tính không đồng nhất trong từng đơn vị
nghiên cứu (như cá nhân, doanh nghiệp, quốc gia,…) bằng cách xem xét các biến số có
tính đặc thù theo từng cá nhân;
(2) Cung cấp những dữ liệu có nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít cộng tuyến
hơn giữa các biến số, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả hơn vì kết hợp được các chuỗi
theo thời gian của các quan sát theo không gian;
(3) Phù hợp hơn để nghiên cứu tính động của thay đổi của các hiện tượng kinh tế
(như hiệu ứng lan tỏa) thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại;
(4) Có thể phát hiện và đo lường tốt hơn những ảnh hưởng mà không thể quan sát
trong dữ liệu chuỗi thời gian thuần túy hay dữ liệu chéo theo không gian thuần túy;
(5) Giúp nghiên cứu những mô hình hành vi phức tạp hơn (các hiện tượng như lợi
thế kinh tế theo qui mô và thay đổi kỹ thuật);
(6) Có thể tối thiểu hóa sự thiên lệch có thể xảy ra khi tổng hợp các cá nhân hay
các doanh nghiệp thành số liệu tổng bằng cách thu thập những số liệu có sẵn cho vài
nghìn đơn vị.
104
Tuy nhiên, các mô hình hồi quy dữ liệu bảng cũng gặp phải những hạn chế khi
ước lượng như vấn đề phương sai thay đổi, hiện tượng tự tương quan/tương quan chuỗi.
Để ước lượng dữ liệu bảng và giải quyết các vấn đề trên thì hai mô hình được sử dụng
phổ biến nhất hiện nay là Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model - FEM) và Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model - REM) (Gujarati, 2011)9. Trong đó, các
nghiên cứu về lan tỏa công nghệ từ FDI tại Việt Nam và các nước trên thế giới có sử
dụng dữ liệu bảng cũng vận dụng hai mô hình này để kiểm định hiệu ứng lan tỏa (Le
Thanh Thuy, 2005; Le & Pomfret, 2011; Hoang Van Thanh & Pham Thien Hoang, 2010;
Feinberg & Majumdar, 2001; Bwalya, 2006; Hale & Long, 2011).
3.5.1.2 Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model – FEM)
Xét quan hệ kinh tế bao gồm Y là biến phụ thuộc và X1, X2 là hai biến giải thích
quan sát được và một hoặc nhiều biến giải thích không quan sát được. Từ đó, tập dữ liệu
bảng được hình thành cho Y, X1 và X2, trong đó bao gồm bao gồm N đối tượng được
quan sát qua T thời điểm. Như vậy, tổng số quan sát có được là N*T. Mô hình hồi quy
tuyến tính cổ điển (Classical Linear Regression Model – CLRM) được xác định bởi:
𝑌𝑖𝑡 = 𝛼1𝑋𝑖𝑡1 + 𝛼2𝑋𝑖𝑡2 + 𝜂𝑖𝑡
với i = 1, 2, …, N và t = 1, 2, …, T
Trong đó, Yit là giá trị của Y cho đối tượng i tại thời điểm t; Xit1 là giá trị
của X1 cho đối tượng i tại thời điểm t ; Xit2 là giá trị của X2 cho đối tượng i tại thời điểm
t; và ηit là sai số của đối tượng i tại thời điểm t. Mô hình hồi quy tác động cố định FEM là
một dạng mở rộng của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển, được cho bởi :
𝑌𝑖𝑡 = 𝛼1𝑋𝑖𝑡1 + 𝛼2𝑋𝑖𝑡2 + 𝜓𝑖+𝜙𝑖𝑡
9 Phương pháp hồi quy Pooled Ordinary Least Square (POLS) có thể được sử dụng để ước lượng dữ liệu bảng nhưng có nhiều hạn chế như không kiểm soát được vấn đề bỏ sót biến, không xét đến các đặc điểm riêng của các đối tượng bảng và sự thay đổi của chúng theo thời gian nên dễ dẫn đến tự tương quan, phương sai thay đổi, ước lượng bị chệch và không nhất quán (Wooldridge, 2009).
với 𝜂𝑖𝑡 = 𝜓𝑖 + 𝜙𝑖𝑡
105
Có thể thấy rằng, sai số của mô hình CLRM bao gồm hai thành phần. Thành phần
𝜓𝑖 đại diện cho các yếu tố không quan sát được khác nhau giữa các đối tượng nhưng
không thay đổi theo thời gian. Trong khi đó, thành phần 𝜙𝑖𝑡 đại diện cho những yếu tố
không quan sát được khác nhau giữa các đối tượng và thay đổi theo thời gian. Giả định
rằng tất cả các tác động ròng của các yếu tố không quan sát được lên Y cho đối tượng i
không thay đổi theo thời gian (𝜓𝑖) là một tham số cố định (βi). Khi đó, mô hình tác động
cố định có thể được viết lại như sau:
𝑌𝑖𝑡 = 𝛼1𝑋𝑖𝑡1 + 𝛼2𝑋𝑖𝑡2 + 𝛽1 + 𝛽2 + ⋯ + 𝛽𝑁+𝜙𝑖𝑡
Như vậy, thành phần sai số không quan sát được βi đã được thay thế bằng một tập
hợp các tham số cố định, β1+ β2+…+ βN. Mỗi tham số ứng với một trong đối tượng.
Những tham số này được gọi là những tác động không quan sát được và thể hiện tính
không đồng nhất không quan sát được. Cụ thể, β1 đo lường tác động ròng của các yếu tố
không quan sát được và không thay đổi theo thời gian lên Y cho đối tượng 1, β2 cho đối
tượng 2 và βN cho đối tượng N. Vì vậy, trong mô hình tác động cố định mỗi đối tượng
trong mẫu đều có một hệ số cắt riêng. N hệ số cắt này kiểm soát tác động của tất cả các
yếu tố không quan sát được và không thay đổi theo thời gian lên N đối tượng khác nhau.
Để ước lượng Mô hình tác động cố định (FEM) thì có hai phương pháp, bao gồm:
(i) Ước lượng hồi quy biến giả tối thiểu LSDV (Least Squares Dummy Variable
Estimator) với mỗi biến giả là đại diện cho mỗi đối tượng quan sát của mẫu; và (ii) Ước
lượng tác động cố định FE (Fixed Effects Estimator). Lưu ý rằng nếu N lớn thì sử dụng
ước lượng LSDV sẽ cồng kềnh hoặc không khả thi nên ước lượng tác động cố định FE sẽ
thích hợp và hiệu quả hơn.
3.5.1.3 Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model – REM)
Xét quan hệ kinh tế với biến phụ thuộc (Y) và hai biến giải thích quan sát được
(X1, X2). Tương tự, chúng ta tạo lập được tập dữ liệu bảng cho Y, X1, và X2. Trong đó, dữ
liệu bảng bao gồm N đối tượng và T thời điểm, và vì vậy tổng số quan sát là N*T. Mô
hình tác động ngẫu nhiên được viết dưới dạng:
106
𝑌𝑖𝑡 = 𝛼1𝑋𝑖𝑡1 + 𝛼2𝑋𝑖𝑡2 + 𝜓𝑖 + 𝜙𝑖𝑡
với i = 1, 2, …, N và t = 1, 2, …, T
Trong đó, sai số cổ điển được chia làm 2 thành phần 𝜓𝑖và 𝜙𝑖𝑡. Thành phần 𝜓𝑖 đại
diện cho tất các các yếu tố không quan sát được và thay đổi giữa các đối tượng nhưng
không thay đổi theo thời gian. Trong khi đó, thành phần 𝜙𝑖𝑡 đại diện cho tất cả các yếu tố
không quan sát được thay đổi giữa các đối tượng và thời gian.
Giả sử rằng 𝜓𝑖 được cho bởi: 𝜓𝑖 = 𝛽0 + 𝜆𝑖 với i = 1, 2, …, N
Trong đó, 𝜓𝑖 bao gồm hai thành phần là 𝛽0 (thành phần bất định) và 𝜆𝑖 (thành
phần ngẫu nhiên). Thành phần bất định (𝛽0) được gọi là tham số cắt trung bình tổng thể.
Thành phần ngẫu nhiên (𝜆𝑖) là sự khác nhau giữa tham số cắt trung bình mẫu và tham số
cắt cho đối tượng i. Như vậy, mỗi đối tượng trong N đối tượng sẽ có 1 hệ số cắt riêng.
Tuy nhiên, trong mô hình tác động ngẫu nhiên N hệ số cắt này không phải là tham số cố
định bởi có thêm thành phần ngẫu nhiên 𝜆𝑖. Giả định rằng, 𝜆𝑖 cho mỗi đối tượng được rút
ra từ một phân phối xác suất độc lập với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai không
2 ; và 𝐶𝑜𝑣(𝜆𝑖, 𝜆𝑠) = 0
đổi:
(𝐸(𝜆𝑖) = 0; 𝑉𝑎𝑟((𝜆𝑖) = 𝜎𝜆
N biến ngẫu nhiên 𝜆𝑖 được gọi tác động ngẫu nhiên (random effects). Mô hình tác
động ngẫu nhiên (FEM) có thể được viết lại như sau:
𝑌𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛼1𝑋𝑖𝑡1 + 𝛼2𝑋𝑖𝑡2 + 𝜔𝑖𝑡
Trong đó, 𝜔𝑖𝑡 = 𝜆𝑖 + 𝜙𝑖𝑡. Lưu ý rằng, một giả định quan trọng trong mô hình tác
động ngẫu nhiên (FEM) là thành phần sai số 𝜔𝑖𝑡 không tương quan với bất kì biến giải
thích nào trong mô hình.
Về phương pháp ước lượng Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) thì ước lượng
OLS sẽ cho các tham số ước lượng không hiệu quả. Hơn nữa, phương sai của các đối
tượng thay đổi, dẫn đến thống kê t sẽ không còn chính xác và các hệ số ước lượng không
còn đúng. Sở dĩ như vậy là vì ước lượng OLS bỏ qua sự tự tương quan trong thành phần
107
sai số 𝜔𝑖𝑡. Để kết quả ước lượng không chệch và hiệu quả, chúng ta có thể sử dụng ước
lượng GLS khả thi (Feasible Generalized Least Square - FGLS) để khắc phục hiện tượng
sai số nhiễu tự tương quan. Ước lượng FGLS còn được gọi là ước lượng tác động ngẫu
nhiên (Random effects estimator).
3.5.1.4 Lựa chọn mô hình – Kiểm định Hausman
Để lựa chọn giữa Mô hình tác động cố định FEM hay Mô hình tác động ngẫu
nhiên REM thì nhiều nghiên cứu thực hiện ước lượng cho cả hai mô hình và sau đó tiến
hành kiểm định sự khác biệt trong các hệ số đối với các biến giải thích thay đổi theo thời
gian hay kiểm định xem liệu các tác động không quan sát được (𝜓𝑖) có tương quan với
một hoặc một số biến giải thích hay không (Wooldridge, 2009). Kiểm định Hausman
(1978) là kiểm định được áp dụng phổ biến nhất trong việc so sánh và xác định sự phù
hợp của Mô hình FEM hay Mô hình REM (Baltagi, 2008; Gujarati, 2004). Đối với kiểm
định Hausman, giả thuyết H0 và giả thuyết thay thế được phát biểu như sau:
(hay Mô hình REM là phù hợp); H0: 𝜓𝑖 không có tương quan với Xit
(hay Mô hình FEM là phù hợp) H1: 𝜓𝑖 có tương quan với Xit
Để kiểm định giả thuyết H0, chúng ta đối chiếu kết quả ước lượng của hai mô hình
FEM và REM. Ước lượng REM là hợp lý theo giả thuyết H0, nhưng không hợp lý đối
với giả thuyết thay thế. Ước lượng FEM là hợp lý ở giả thuyết H1 và cả giả thuyết H0 vì
mô hình FEM chỉ cho rằng các tác động không quan sát được phụ thuộc đối tượng, thể
hiện qua các hệ số cắt khác nhau, chứ không đề cập đến vấn đề tương quan
giữa 𝜓𝑖 với Xit. Tuy nhiên, trong trường hợp giả thuyết H0 bị bác bỏ thì ước lượng tác
động cố định FEM là phù hợp hơn so với ước lượng tác động ngẫu nhiên REM. Ngược
lại, chưa có đủ bằng chứng để bác bỏ H0 nghĩa là không bác bỏ được sự tương quan giữa
sai số và các biến giải thích thì ước lượng tác động cố định không còn phù hợp và ước
lượng ngẫu nhiên sẽ được lựa chọn.
108
3.5.2 Ước lượng mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
3.5.2.1 Mô hình chọn mẫu Heckman (Heckman Sample Selection Model)
Với hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu, mô hình chọn mẫu Heckman (1974, 1979) được
sử dụng nhằm kiểm soát và điều chỉnh vấn đề thiên lệch chọn mẫu do chỉ có một số
lượng nhất định doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu. Trong thực tế, vấn đề
thiên lệch trong chọn mẫu có thể xuất phát từ hai nguyên nhân chính: do khả năng tự lựa
chọn của các cá nhân hay bản chất dữ liệu nghiên cứu; và do lựa chọn chủ quan của các nhà phân tích hay xử lý dữ liệu10. Trong nghiên cứu của mình, Heckman đã phân tích
cung lao động nữ, xây dựng mối quan hệ hồi quy căn bản sau:
[1_Phương trình kết quả] 𝑦1𝑖 = 𝛽1𝑥1𝑖 + 𝑢1𝑖
Trong đó y1i là mức lương thị trường cho một lao động nữ và chỉ có thể được
quan sát một phần hay một số quan sát của y1i bị kiểm duyệt (censored). Giả định rằng y2i
là một biến giả có giá trị bằng 1 nếu quan sát được và ngược lại thì bằng 0. Vì y2i là biến
và được xác định bởi
∗ động đến biến này. Thay vào đó, một biến ẩn bổ sung khác là 𝑦2𝑖 Phương trình lựa chọn:
lưỡng phân nên mô hình hồi quy sẽ không phù hợp để kiểm định được các nhân tố tác
∗ = 𝛽2𝑥2𝑖 + 𝑢2𝑖 𝑦2𝑖
∗ có giá trị âm (hay 2x2i + u2i >0) nếu được quan sát; ngược
[2_Phương trình lựa chọn]
Trong đó, biến ẩn 𝑦2𝑖
lại thì giá trị y1i bị kiểm duyệt. Sai số của hai phương trình (u1i và u2i ) có phân phối
chuẩn với giá trị trung bình bằng 0, phương sai có hệ số tương quan () được cho bởi:
Mức lương thị trường cho một lao động nữ (y1i) phụ thuộc vào nhiều đặc trưng có
10 Năm 2000, James J. Heckman cùng với Daniel Macfadden nhận được giải Nobel Kinh tế cho những đóng góp
trong phát triển lý thuyết và phương pháp phân tích vấn đề lựa chọn mẫu.
thể quan sát được của lao động (như trình độ học vấn, độ tuổi, kinh nghiệm – được đại
109
diện bằng vector x1i). Tuy nhiên, nhiều phụ nữ có gia đình có thể không tham gia thị
trường lao động, do vậy dữ liệu về mức lương của những lao động nữ này phụ thuộc vào
vấn đề tự lựa chọn (self-selection). Do đó, mẫu nghiên cứu về mức lương quan sát bị
chệch đi lên và hàm mức lương ước lượng trên mẫu lựa chọn không phản ánh đúng hàm
lương của tổng thể.
Heckman đã xây dựng mô hình về quyết định tham gia thị trường lao động sử
dụng một mô hình mức lương thay thế (reservation wage level). Mỗi phụ nữ sẽ đặt ra
∗ chính là
một mức lương thay thế: Nếu cho rằng mức lương nhà tuyển dụng đưa ra cao hơn mức
lương thay thế thì sẽ chấp nhận và được tuyển dụng. Trong trường hợp này, 𝑦2𝑖 chênh lệch giữa mức lương thị trường và mức lương thay thế; và tập hợp các biến giải
thích (x2i) sẽ bao gồm các yếu tố của x1i cũng như một số biến bổ sung khác như tình ∗ có giá trị dương (hay y2i = 1) thì mức
∗ mang giá trị âm thì người phụ nữ này không tham
trạng hôn nhân hay số con trong gia đình. Khi 𝑦2𝑖 lương thị trường cao hơn mức lương thay thế, người phụ nữ sẽ được tuyển dụng và mức
lương được quan sát. Ngược lại, khi 𝑦2𝑖 gia làm việc và y1i bị kiểm duyệt.
Mô hình của Heckman có rất nhiều ứng dụng trong kinh tế học và trở thành một
công cụ chuẩn tắc cho các nghiên cứu thực nghiệm (Dubin & Rivers, 1989) . Trong đó, mô
hình này đã được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về lan tỏa từ FDI, đặc biệt là lan
tỏa xuất khẩu. Quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp cũng tương đồng như quyết định
tham gia thị trường lao động của nữ giới vì tồn tại vấn đề lựa chọn mẫu khi có một số
lượng doanh nghiệp không tham gia xuất khẩu nên hành vi xuất khẩu của họ không quan
sát được khiến cho mẫu bị thiên lệch và giảm khả năng dự báo của các ước lượng
(Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller & Pisu, 2007; Sun, 2009; Anwar & Nguyen, 2011).
Mô hình chọn mẫu Heckman được ứng dụng phổ biến bởi những đặc tính vượt trội
của nó so với Mô hình Tobit kiểm duyệt (Censored Tobit Model) (Tobin, 1958) và Mô
hình hai bước (Cragg, 1971). Trong khi mô hình Tobit sử dụng tất cả các thông tin sẵn có
từ các biến giải thích, nó giả định các biến độc lập có tác động như nhau đến hai quyết
110
định xuất khẩu và điều này chưa hẳn đã chính xác trong thực tế. Vấn đề này có thể dẫn
đến những sai sót trong ước lượng (Basile, 2001).
Hạn chế của mô hình Tobit có thể được giải quyết bởi kỹ thuật hai bước (two-
stage technique) của Cragg (1971), trong đó ước lượng quyết định tham gia xuất khẩu sử
dụng mô hình Probit và sau đó ước lượng quyết định về tỷ trọng xuất khẩu đối với mẫu
gồm những doanh nghiệp có tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, phương pháp của Cragg
(1971) lại giả định rằng hai quyết định này là độc lập nhau. Nếu giả định căn bản này
không chính xác thì kết quả ước lượng sẽ bị chệch không chỉ cho toàn bộ tổng thể mà cả
cho mẫu nghiên cứu (Basile, 2001) . Mô hình chọn mẫu của Heckman có thể giải quyết
các hạn chế của hai phương pháp nêu trên. Mô hình Heckman tính đến mối tương quan
giữa hai quyết định xuất khẩu và điều chỉnh, kiểm soát vấn đề thiên lệch lựa chọn mẫu.
3.5.2.2 Các phương pháp ước lượng
Ước lượng mô hình chọn mẫu Heckman bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất
thông thường (OLS) sẽ không phù hợp vì phương pháp này đòi hỏi biến phụ thuộc là
biến số liên tục trong khi quyết định tham gia xuất khẩu là biến lưỡng phân. Do vậy, sử
dụng kỹ thuật OLS có thể cho các hệ số ước lượng bị chệch và không nhất quán
(Greenawayvà cộng sự, 2004; Sun, 2009; Anwar & Nguyen, 2011). Để ước lượng mô
hình chọn mẫu Heckman thì có hai cách tiếp cận: (i) Quy trình ước lượng hai bước của
Heckman (Heckman’s two-step estimator); và (ii) Ước lượng hợp lý cực đại (Maximum
Likelihood Estimator– MLE).
Quy trình ước lượng hai bước của Heckman được ứng dụng trong một số nghiên
cứu thực nghiệm vì tương đối dễ tính toán và thực hiện khi chỉ yêu cầu ước lượng Probit
cho phương trình tham gia xuất khẩu và sau đó ước lượng OLS cho phương trình tỷ
trọng xuất khẩu với hệ số Mills nghịch đảo (Inverse Mills Ratio) được tính từ bước 1 để
điều chỉnh vấn đề thiên lệch chọn mẫu (Kneller & Pisu, 2007). Tuy nhiên, hệ số ước
lượng từ phương pháp này không thật sự hiệu quả do ba hạn chế. Thứ nhất, các ước
lượng sai số chuẩn thông thường không nhất quán vì bản thân mô hình hồi quy đã gặp
111
vấn đề phương sai thay đổi do tính thiên lệch trong chọn mẫu. Một giải pháp cho vấn đề
này là sử dụng ước lượng sai số chuẩn mạnh (Eicker-White robust standard error). Thứ
hai, phương pháp này không áp đặt điều kiện căn bản của mô hình là 1. Thứ ba, ước
lượng có được từ kỹ thuật này không hiệu quả hơn ước lượng hợp lý cực đại MLE trong
khi đặt ra các giả định ngặt như nhau.
Do những hạn chế kể trên của Quy trình ước lượng hai bước Heckman nên
phương pháp này đã dần được thay thế bởi phương pháp ước lượng MLE vốn phức tạp
hơn về kỹ thuật tính toán nhưng đã được tích hợp trong các phần mềm định lượng hiện
nay như STATA. Phương pháp MLE được áp dụng phổ biến trong các nghiên cứu về lan
tỏa xuất khẩu sử dụng mô hình chọn mẫu Heckman (Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller
& Pisu, 2007; Sun, 2009; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Kỹ thuật này
cho phép ước lượng đồng thời hai phương trình quyết định xuất khẩu với sai số chuẩn
mạnh để kiểm soát vấn đề phương sai thay đổi (Greenaway & cộng sự, 2004).
3.6 Tóm tắt chương
Chương này phân tích phương pháp nghiên cứu để hiện thực hóa khung phân tích
đề nghị trong Chương 2. Đầu tiên, mô hình khái niệm và các giả thuyết nghiên cứu được
xây dựng để phân tích, biện luận việc đưa vào các biến số nhằm nghiên cứu tác động lan
tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng dựa
vào các lý thuyết liên quan, kết quả thực nghiệm, bối cảnh dòng vốn FDI và ngành công
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Trong đó, hai giả thuyết chính được xây dựng để
hoàn thành mục tiêu nghiên cứu thứ nhất và thứ hai của luận án là (i) HA1: Sự hiện diện
của các doanh nghiệp FDI được kỳ vọng có tác động đến năng suất lao động của doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước hay tồn tại hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước và (ii) HB1: Sự hiện diện của các doanh
nghiệp FDI được kỳ vọng có tác động đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến
chế tạo trong nước hay tồn tại hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước. Kiểm định các giả thuyết HA2 – HA7 và HB2 –HB8 giúp hoàn
112
thành mục tiêu nghiên cứu thứ ba về xác định các nhân tố ảnh hưởng hiệu ứng lan tỏa
công nghệ và xuất khẩu từ FDI. Kết quả kiểm định các giả thuyết trên với các thang đo
đại diện FDI là cơ sở để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu thứ tư và thứ năm của luận án
về so sánh hiệu ứng lan tỏa giữa các thang đo và đưa ra các hàm ý chính sách.
Với hiệu ứng lan tỏa công nghệ thì luận án sử dụng cách tiếp cận dựa vào hàm sản
xuất Cobb-Douglas để xây dựng và ước lượng mô hình hàm năng suất của các doanh
nghiệp trong nước và các biến số tác động, trong đó bao gồm thang đo đại diện FDI. Với
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu, mô hình chọn mẫu Heckman được sử dụng nhằm kiểm soát
vấn đề thiên lệch chọn mẫu do chỉ có một số lượng nhất định doanh nghiệp trong nước
tham gia xuất khẩu. Trong cả hai mô hình, biến số trung tâm là biến đại diện cho tầm
quan trọng hay sự hiện diện của FDI trong ngành. Trong khi đa phần các nghiên cứu
trước chỉ sử dụng một thang đo đại diện FDI, luận án này sử dụng ba thang đo gồm: tỷ
trọng doanh thu, tỷ trọng lao động và tỷ trọng tài sản của FDI trong ngành.
Luận án sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp được thu thập từ các cuộc điều tra
toàn diện doanh nghiệp do Tổng Cục Thống kê thực hiện trong giai đoạn 2011 – 2013
gồm 137,419 quan sát cho các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến chế tạo. Đây là nhóm
ngành dẫn đầu trong thu hút vốn FDI cũng như đóng góp lớn nhất về kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Các nghiên cứu thực nghiệm trước về hiệu ứng lan tỏa từ FDI cũng
đa phần sử dụng dữ liệu ngành chế biến chế tạo vì mức độ tập trung của dòng vốn FDI
và tầm quan trọng của hiệu ứng lan tỏa của FDI đối với nhóm ngành này và nền kinh tế
nước tiếp nhận.
Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ được ước lượng bằng phương pháp
ước lượng dữ liệu bảng, bao gồm mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động
ngẫu nhiên (REM). Việc sử dụng dữ liệu bảng giúp mang lại những ưu điểm vượt trội so
với dữ liệu chéo hay dữ liệu theo thời gian. Tiếp đến, kiểm định Hausman được sử dụng
để so sánh và xác định sự phù hợp của Mô hình FEM hay Mô hình REM. Ngoài ra, cần
lưu ý rằng phương pháp hồi quy POLS có thể được sử dụng nhưng gặp phải nhiều hạn
113
chế trong thực tế như không kiểm soát được vấn đề bỏ sót biến, vấn đề tự tương quan
hay phương sai thay đổi.
Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa xuất khẩu được ước lượng bằng phương pháp
hợp lý cực đại (MLE) cho hai quyết định (tham gia xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu) theo
mô hình chọn mẫu Heckman. Vấn đề chọn mẫu có thể xảy ra khi có một số lượng doanh
nghiệp không tham gia xuất khẩu nên hành vi xuất khẩu của họ không quan sát được
khiến cho mẫu bị thiên lệch và giảm khả năng dự báo của các ước lượng. Mô hình
Heckman tính đến mối tương quan giữa hai quyết định xuất khẩu và điều chỉnh, kiểm
soát vấn đề thiên lệch lựa chọn mẫu. Kỹ thuật ước lượng MLE cho phép ước lượng đồng
thời hai phương trình xuất khẩu với sai số chuẩn mạnh để kiểm soát vấn đề phương sai
thay đổi.
114
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Giới thiệu
Chương này sẽ phân tích và thảo luận các kết quả nghiên cứu từ việc ước lượng
tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến
chế tạo Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2013. Mục 4.2 mô tả chi tiết dữ liệu nghiên cứu
của luận án, bao gồm phân bố mẫu theo ngành nghề, loại hình doanh nghiệp, quyết định
xuất khẩu, và thống kê mô tả các biến số chính trong hai mô hình lan tỏa công nghệ và
lan tỏa xuất khẩu.
Mục 4.3 và 4.4 lần lượt trình bày và phân tích kết quả ước lượng lan tỏa công
nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước giai đoạn
2011-2013. Trong đó, nội dung trung tâm là kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa
công nghệ từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa. Các kiểm định và
thống kê căn bản để đảm bảo độ tin cậy và phù hợp của mô hình được ước lượng cũng
được phân tích trong mục này. Bên cạnh đó, tác động của đặc trưng doanh nghiệp và đặc
trưng ngành nghề đến năng lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong
nước cũng được kiểm định và thảo luận.
Với cả hai mô hình tác động lan tỏa, mô hình ước lượng chính sử dụng thang đo
tỷ trọng doanh thu của doanh nghiệp FDI trong ngành. Tiếp đến, các mô hình được ước
lượng với hai thang đo đại diện khác là tỷ trọng lao động và tỷ trọng tài sản của FDI
trong ngành qua mục phân tích độ nhạy (Sensitivity analysis) (mục 4.3.5 và 4.4.5). Kết
quả ước lượng được so sánh và phân tích nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt khi sử
dụng các thang đo đại diện khác nhau.
4.2 Mô tả dữ liệu nghiên cứu
4.2.1 Phân bố mẫu theo ngành nghề qua các năm
Bảng 4.1 trình bày phân bố mẫu nghiên cứu gồm 137,419 doanh nghiệp theo
ngành nghề trong giai đoạn 2011 – 2013. Tổng số doanh nghiệp ở 22 ngành thuộc nhóm
115
ngành chế biến chế tạo tăng đều khoảng trên 8% từ 42,181 doanh nghiệp (năm 2011) lên
45,663 doanh nghiệp (năm 2012) và 49,575 doanh nghiệp (năm 2013). Trong đó, đại đa
số các ngành đều có số doanh nghiệp tăng dần qua các năm, ngoại trừ ngành Sản xuất
chế biến thực phẩm và Sản xuất sản phẩm thuốc lá có sự sụt giảm nhẹ từ năm 2011 đến
2012.
Trong mẫu nghiên cứu, nhóm 5 ngành có số lượng doanh nghiệp lớn nhất trong
toàn ngành gồm: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (22,858 doanh nghiệp – chiếm
16,63%); Sản xuất chế biến thực phẩm (14,149 doanh nghiệp – chiếm 10,30%); Sản xuất
trang phục (11,567 doanh nghiệp – chiếm 8,42%); Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ
gỗ, tre, nứa (10,690 doanh nghiệp – chiếm 7,78%); In, sao chép bản ghi các loại (10,331
doanh nghiệp –chiếm 7,52%). Nhóm ngành có số lượng doanh nghiệp thấp dưới 1000
bao gồm: Sản xuất sản phẩm thuốc lá (56 doanh nghiệp); Sản xuất than cốc, sản phẩm
dầu mỏ tinh chế (235 doanh nghiệp); Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu (924 doanh
nghiệp).
Bảng 4.1 Phân bố mẫu theo ngành nghề qua các năm
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Tổng cộng
4,799 1,636 26 1,829 3,702 1,040
4,527 1,841 14 1,904 3,740 1,052
4,823 1,917 16 1,985 4,125 1,113
14,149 5,394 56 5,718 11,567 3,205
3,451 1,634 3,107
3,541 1,742 3,307
3,698 1,830 3,917
10,690 5,206 10,331
67 1,630 277 2,754 3,013 839
78 1,834 311 3,026 3,329 903
90 2,123 336 3,306 3,447 952
235 5,587 924 9,086 9,789 2,694
Tên ngành Sản xuất chế biến thực phẩm Sản xuất đồ uống Sản xuất sản phẩm thuốc lá Dệt Sản xuất trang phục Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy In, sao chép bản ghi các loại Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại Sản xuất kim loại Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và
6,372 564
7,881 579
8,605 673
22,858 1,816
116
869
955
1,032
2,856
1,113 342 2,655
1,156 355 2,847
3,236 1,003 8,116
967 306 2,614
sản phẩm quang học Sản xuất thiết bị điện Sản xuất máy móc thiết bị khác (máy bơm, máy nén, thiết bị nâng hạ,…) Sản xuất xe có động cơ Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị Tổng cộng
989 45,663
1,229 49,575
2,903 137,419
685 42,181
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
4.2.2 Phân bố mẫu theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp
Bảng 4.2 trình bày phân bố mẫu nghiên cứu theo ngành nghề và loại hình doanh
nghiệp. Có thể nhận thấy rằng số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI
chiếm một tỷ trọng tương đối thấp trong 22 nhóm ngành cũng như toàn ngành chế biến
chế tạo. Trong tổng số 137,419 doanh nghiệp thì có 13,599 doanh nghiệp FDI (chiếm
gần 9,90%). Nếu xét theo từng nhóm ngành thì 5 ngành thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư
nước ngoài gồm: Sản xuất trang phục (1,858 trên tổng 13,599 doanh nghiệp – chiếm
13,66%); Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (1,674 doanh nghiệp – chiếm 12,31%);
Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (1,425 doanh nghiệp – chiếm 10,48%); Sản xuất
chế biến thực phẩm (1,021 doanh nghiệp – chiếm 7,51%); và Dệt (918 doanh nghiệp –
chiếm 6,75%). Nhóm 5 ngành có số lượng doanh nghiệp FDI thấp nhất trong toàn ngành
là: Sản xuất sản phẩm thuốc lá (9 doanh nghiệp); Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ
tinh chế (20 doanh nghiệp); Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị (102
doanh nghiệp); Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu (113 doanh nghiệp); và Sản xuất đồ
uống (120 doanh nghiệp).
Bảng 4.2 Phân bố mẫu theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp
DN trong nước DN FDI
Stt 1 2 3 4 5 6
13,128 5,274 47 4,800 9,709 2,436
1,021 120 9 918 1,858 769
Tổng cộng 14,149 5,394 56 5,718 11,567 3,205
Tên ngành Sản xuất chế biến thực phẩm Sản xuất đồ uống Sản xuất sản phẩm thuốc lá Dệt Sản xuất trang phục Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan
117
10,347
343
10,69
7
8 9 10 11 12 13 14 15 16
4,802 10,128 215 4,700 811 7,661 9,338 2,390 21,184
404 203 20 887 113 1,425 451 304 1,674
5,206 10,331 235 5,587 924 9,086 9,789 2,694 22,858
17
1,067
749
1,816
18 19
2,235 2,835
621 401
2,856 3,236
20 21 22
545 7,367 2,801
458 749 102
1,003 8,116 2,903
Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy In, sao chép bản ghi các loại Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại Sản xuất kim loại Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học Sản xuất thiết bị điện Sản xuất máy móc thiết bị khác (máy bơm, máy nén, thiết bị nâng hạ,…) Sản xuất xe có động cơ Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị
123,820
13,599
137,419
Tổng cộng
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
4.2.3 Phân bố mẫu theo ngành nghề và các thang đo FDI
Bảng 4.3 trình bày phân bố mẫu nghiên cứu theo các ngành nghề và thang đo đại
diện cho FDI, bao gồm tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng doanh thu (fdio), tổng
lao động (fdie) và tổng tài sản (fdia) của ngành. Nhìn chung, vai trò hay sự hiện diện của
khối FDI thể hiện rõ nhất là tỷ trọng đóng góp về tài sản khi thang đo fdia có giá trị cao
nhất ở hầu hết 22 ngành công nghiệp chế biến chế tạo, tiếp đến là thang đo fdio và thấp
nhất là thang đo fdie. Nếu sự hiện diện của FDI thấp thì đồng thời cả ba thang đo đại diện
FDI cũng có giá trị thấp. Trong đó, hai ngành mà FDI có vai trò khiêm tốn nhất là: Sửa
chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị (với ba giá trị thang đo fdio, fdie, fdia lần
lượt là 3.5%, 3.0%, 6.8%); và sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế (4.2%,
13.0%, 1.3%).
Ngược lại, các ngành có sự hiện diện FDI cao ở một thang đo cũng cho thấy vai
trò tương đồng ở hai thang đo còn lại. Trong đó, đóng góp nổi bật nhất của khu vực
118
doanh nghiệp FDI được thể hiện ở hai ngành: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và
sản phẩm quang học (với giá trị ba thang đo fdio, fdie, fdia lần lượt là 96.5%, 93.4%,
95.7%); và sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (81.6%, 73.6%, 83.7%). Thống kê
này nhấn mạnh vai trò chủ lực của khối doanh nghiệp FDI đối với hoạt động của hai
ngành chế biến chế tạo quan trọng này của Việt Nam.
Bảng 4.3 Phân bố mẫu theo ngành nghề và các thang đo FDI
Stt
Tên ngành
Sản xuất chế biến thực phẩm
SẢN XUẤT ĐỒ UỐNG
Tỷ trọng doanh thu (fdio) 0.303 0.420 0.168 0.594 0.499 0.816 0.166 0.296 0.099 0.042 0.501 0.197 0.413 0.240 0.306
Tỷ trọng lao động (fdie) 0.164 0.211 0.052 0.395 0.529 0.736 0.121 0.224 0.122 0.130 0.274 0.179 0.433 0.103 0.193
Tỷ trọng tài sản (fdia) 0.343 0.332 0.174 0.701 0.575 0.837 0.200 0.337 0.124 0.013 0.416 0.335 0.530 0.254 0.406
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
0.397
0.341
0.578
17
0.965 0.602
0.934 0.657
0.957 0.651
18 19
20 21 22
Sản xuất sản phẩm thuốc lá Dệt Sản xuất trang phục Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy In, sao chép bản ghi các loại Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại Sản xuất kim loại Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học Sản xuất thiết bị điện Sản xuất máy móc thiết bị khác (máy bơm, máy nén, thiết bị nâng hạ,…) Sản xuất xe có động cơ Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị
0.541 0.714 0.462 0.035
0.395 0.673 0.440 0.030
0.702 0.782 0.513 0.068
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
4.2.4 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
Bảng 4.4 trình bày thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình kiểm định lan
tỏa công nghệ từ FDI. Về hình thức sở hữu thì đa phần các doanh nghiệp trong nước là
119
thuộc khu vực ngoài nhà nước (Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh, Công ty
TNHH tư nhân, …), chiếm tỷ lệ 98,77% tổng số doanh nghiệp. Về khu vực địa lý thì
Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm số lượng doanh nghiệp lớn
nhất (gần 50%), tiếp đến là Khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc
(36,10%) và Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (gần 14,10%).
Bảng 4.4 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
Tên biến (Variable) lnProductivity lnK_intensity lnL_quality lnScale Ownership TechGap dRegion1 dRegion2 fdio fdie fdia Concentration
Số quan sát (Obs) 123813 111441 123813 123820 123820 123813 123820 123820 137419 137419 137419 123820
Trung bình (Mean) 4.715 3.984 3.113 0.000 0.988 7.236 0.361 0.141 0.374 0.306 0.440 0.012
Độ lệch chuẩn (Std. Dev.) 1.619 147.663 0.670 0.005 0.110 3.625 0.480 0.348 0.175 0.182 0.199 0.043
Giá trị nhỏ nhất (Min) -6.054 -507.076 -3.581 1.25e-10 0 -0.999 0 0 0.015 0.019 0.006 0.000
Giá trị lớn nhất (Max) 1.321 1.093 1.020 0.899 1 122,012 1 1 0.983 0.948 0.966 0.810
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
Kết quả thống kê cho thấy sự dị biệt khá lớn của các doanh nghiệp chế biến chế
tạo trong nước khi có sự chênh lệch lớn giữa giá trị trung bình và độ lệch chuẩn cũng
như giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các biến số. Chỉ số Herfindahl Index bình quân (biến
Concentration) đại diện cho mức độ tập trung/cạnh tranh trong ngành là 0.012 với độ
lệch chuẩn tương đối thấp (0.043) cho thấy mức độ cạnh tranh trong nước là khá gay gắt
trong hầu hết các ngành. Thêm vào đó, các doanh nghiệp trong nước đa phần có quy mô
vừa và nhỏ với giá trị trung bình biến lnScale rất thấp và khoảng cách công nghệ khá lớn
so với doanh nghiệp FDI khi giá trị trung bình biến TechGap là 7.236. Kết quả này phản
ánh bối cảnh thực tiễn của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước nói riêng và doanh
nghiệp Việt Nam nói chung với những hạn chế về quy mô sản xuất và trình độ công nghệ
lạc hậu (CIEM, 2014). Đối với các thang đo đại diện cho FDI trong ngành thì giá trị
trung bình của thang đo tỷ trọng lao động (fdie) là thấp nhất (30,61%), tiếp đến là thang
120
đo tỷ trọng doanh thu (fdio) (37,45%) và cao nhất là thang đo tỷ trọng tài sản (fdia)
(43,98%). Thống kê này cho thấy các dự án FDI tại Việt Nam thường có xu hướng tập
trung vào những ngành có tỷ lệ vốn hóa cao.
4.2.5 Phân bố mẫu theo ngành nghề và quyết định xuất khẩu
Bảng 4.5 trình bày phân bố mẫu nghiên cứu theo ngành nghề và quyết định xuất
khẩu qua các năm từ 2011 – 2013. Nhìn chung, cả 22 ngành chế biến chế tạo đều có
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong cả ba năm nhưng với số lượng và tỷ lệ khác nhau.
So với toàn ngành thì nhóm 5 ngành có số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nhiều
nhất gồm: Sản xuất chế biến thực phẩm; Sản xuất trang phục; Sản xuất sản phẩm từ cao
su và plastic; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; và Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế.
Trong phạm vi từng nhóm ngành thì 5 ngành có tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu nhiều nhất bao gồm: Sản xuất sản phẩm thuốc lá; Sản xuất trang phục; Sản xuất da
và các sản phẩm có liên quan; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang
học; Sản xuất xe có động cơ. Một điểm đáng lưu ý là mặc dù tổng số doanh nghiệp tăng
lên qua từng năm song tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu có xu hướng giảm nhẹ từ
12,99% (năm 2011) xuống 11,95% (năm 2012) và 10,21% (năm 2013). Xu hướng này có
thể phản ánh những khó khăn trong cạnh tranh tiếp cận thị trường xuất khẩu trong giai
đoạn này của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế toàn cầu nói chung.
Bảng 4.5 Phân bố mẫu theo ngành nghề và quyết định xuất khẩu
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Tên ngành
Tổng số DN 4799 1636
2011 Có xuất khẩu 791 29
16,48 1,77
Tổng số DN 4527 1841
2012 Có xuất khẩu 414 61
9,15 3,31
Tổng số DN 4823 1917
2013 Có xuất khẩu 405 65
8,40 3,39
26
12
46,15
14
6
42,86
16
6
37,50
1829
358
19,57
1904
333
17,49
1985
309
15,57
3702
855
23,10
3740
571
15,27
4125
583
14,13
1040
300
28,85
1052
256
24,33
1113
265
23,81
3451
322
9,33
3541
163
4,60
3698
125
3,38
Sản xuất chế biến thực phẩm Sản xuất đồ uống Sản xuất sản phẩm thuốc lá Dệt Sản xuất trang phục Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa
121
1634
168
10,28
1742
223
12,80
1830
207
11,31
3107
50
1,61
3307
124
3,75
3917
77
1,97
67
4
5,97
78
13
16,67
90
16
17,78
1630
243
14,91
1834
357
19,47
2123
317
14,93
277
52
18,77
311
80
25,72
336
87
25,89
2754
484
17,57
3026
633
20,92
3306
571
17,27
3013
231
7,67
3329
242
7,27
3447
208
6,03
839
85
10,13
903
146
16,17
952
134
14,08
6372
428
6,72
7881
636
8,07
8605
566
6,58
564
182
32,27
579
247
42,66
673
233
34,62
869
189
21,75
955
268
28,06
1032
262
25,39
967
90
9,31
1113
186
16,71
1156
167
14,45
306
96
31,37
342
147
42,98
355
155
43,66
2614
503
19,24
2655
310
11,68
2847
278
9,76
685
6
0,88
989
42
4,25
1229
28
2,28
Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy In, sao chép bản ghi các loại Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất Sản xuất thuốc, hóa liệu và dược liệu Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại Sản xuất kim loại Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học Sản xuất thiết bị điện Sản xuất máy móc thiết bị khác (máy bơm, máy nén, thiết bị nâng hạ,…) Sản xuất xe có động cơ Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị
42181
5478
12,99
45663
5458
11,95
49575
5064
10,21
Tổng cộng
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
4.2.6 Phân bố mẫu theo loại hình doanh nghiệp và quyết định xuất khẩu
Bảng 4.6 trình bày phân bố mẫu nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp và quyết
định xuất khẩu qua các năm từ 2011 – 2013. Đối với các doanh nghiệp chế biến chế tạo
trong nước, số lượng doanh nghiệp và tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu có xu
hướng giảm theo từng năm từ 7,05% (năm 2011) xuống 5,60% (năm 2012) và 4,03%
(năm 2013). Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI lại cho thấy
một xu hướng trái ngược trong hoạt động xuất khẩu khi số lượng doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu tăng đều qua các năm và tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu chỉ giảm sút
nhẹ từ 67,53% năm 2011 xuống 67,49% năm 2012 nhưng lại hồi phục vào năm 2013
(68,25%). Như vậy, có thể thấy xu hướng sụt giảm tỷ lệ doanh nghiệp tham gia xuất
122
khẩu trong giai đoạn này phần lớn là xuất phát từ khối doanh nghiệp trong nước vì khu
vực FDI vẫn giữ được đà tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu.
Bảng 4.6 Phân bố mẫu theo loại hình doanh nghiệp và quyết định xuất khẩu
DN FDI
Tổng cộng
DN trong nước
Năm 2011 Tổng số DN Có xuất khẩu Tỷ lệ % Năm 2012 Tổng số DN Có xuất khẩu Tỷ lệ % Năm 2013 Tổng số DN Có xuất khẩu Tỷ lệ %
38039 2681 7,05 40978 2296 5,60 44803 1807 4,03
4142 2797 67,53 4685 3162 67,49 4772 3257 68,25
42181 5478 12,99 45663 5458 11,95 49575 5064 10,21
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
4.2.7 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
Bảng 4.7 trình bày thống kê các biến số chính trong mô hình Heckman từ bộ dữ
liệu bảng trong ba năm 2011 – 2013. Kết quả từ dữ liệu nghiên cứu cho thấy trung bình
có gần 5,48% doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước có tham gia xuất khẩu. Trong số
các doanh nghiệp xuất khẩu thì tỷ trọng xuất khẩu trên tổng doanh thu cũng tương đối
thấp ở mức 0,31%. Về kinh nghiệm xuất khẩu thì có khoảng 8,85% doanh nghiệp đã
từng xuất khẩu năm trước đó. Độ tuổi trung bình của các doanh nghiệp trong nước là
5,42 năm và số doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước chiếm đa số (98,77%). Số lượng
doanh nghiệp trong nước hoạt động trong các khu công nghiệp/khu chế xuất cũng tương
đối thấp, chiếm trung bình 4,37%. Mức độ vốn hóa và mức lương bình quân trên mỗi lao
động (đại diện cho chất lượng nhân lực) lần lượt là 1,20 triệu đồng và 2,78 triệu đồng
trên mỗi lao động.
Về khu vực địa lý thì Bảng 4.7 cho thấy số doanh nghiệp ở Khu vực Đồng bằng
sông Hồng và miền núi phía Bắc chiếm 36,10%, số doanh nghiệp ở Khu vực Bắc Trung
123
Bộ và Duyên hải miền Trung chiếm gần 14,10% và gần 50% số doanh nghiệp tập trung
ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ số Herfindahl Index bình
quân đại diện cho mức độ tập trung/cạnh tranh trong ngành là với 0,012 với độ lệch
chuẩn tương đối thấp (0,043) cho thấy mức độ cạnh tranh trong nước là khá gay gắt
trong hầu hết các ngành. Tỷ trọng xuất khẩu bình quân của các ngành là 5,75%. Về các
thang đo đại diện cho FDI trong ngành thì giá trị trung bình của thang đo tỷ trọng tài sản
(fdia) là cao nhất (43,98%), tiếp đến là thang đo tỷ trọng doanh thu fdio (37,45%) và cuối
cùng là tỷ trọng lao động fdie (30,61%).
Bảng 4.7 Thống kê mô tả các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
Tên biến (Variable)
Số quan sát (Obs)
Trung bình (Mean)
Độ lệch chuẩn (Std. Dev.)
Giá trị nhỏ nhất (Min)
Giá trị lớn nhất (Max)
INTENSITY PARTICIPATE Experience Age Ownership Zone K_intensity L_quality dRegion1 dRegion2 fdio fdie fdia Concentration Indexint
123820 123820 108609 123661 123820 123820 123813 123813 123820 123820 137419 137419 137419 123820 137419
0.003 0.055 0.088 5.420 0.988 0.044 1.196 2.781 0.361 0.141 0.374 0.306 0.440 0.012 0.058
0.038 0.228 0.284 554.721 0.110 0.205 5.091 9.426 0.480 0.3480 0.175 0.182 0.199 0.043 0.057
0 0 0 1 0 0 0 0.028 0 0 0.015 0.019 0.006 0.000 0.000
1 1 1 66 1 1 56.070 27.012 1 1 0.983 0.948 0.966 0.810 0.288
Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu
124
4.3 Kết quả ước lượng mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
4.3.1 Các kiểm định cơ bản
Mô hình 2.3 về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước được ước
lượng dựa trên Phương pháp ước lượng dữ liệu bảng (Ước lượng tác động cố định FEM và Ước lượng tác động ngẫu nhiên REM)11. Ước lượng OLS sẽ không hiệu quả và có thể
gây ra thiên lệch phóng đại lan tỏa từ FDI khi mà các doanh nghiệp FDI thường có xu
hướng đầu tư vào những ngành có năng suất cao (Bwalya, 2006; Le Thanh Thuy, 2005).
Bên cạnh đó, mô hình chỉ giới hạn biến phụ thuộc gồm các doanh nghiệp trong nước mà
không bao gồm các doanh nghiệp FDI. Việc chỉ xét đến các doanh nghiệp trong nước
cho biến phụ thuộc cũng sẽ cho phép chúng ta kiểm soát được sự thiên lệch do vấn đề
nội sinh khi nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng lựa chọn những ngành hoạt động hiệu
quả và thành công hơn (Le & Pomfret, 2011). Mô hình sử dụng các biến giả ngành và
biến giả năm nhằm kiểm soát những tác động biến đổi theo ngành và theo thời gian.
Tương tự như các nghiên cứu trước đây về lan tỏa công nghệ từ FDI (Le Thanh
Thuy, 2005; Le & Pomfret, 2011; Hoang Van Thanh & Pham Thien Hoang, 2010;
Feinberg & Majumdar, 2001; Bwalya, 2006; Hale & Long, 2011), tác giả ước lượng mô
hình nghiên cứu bằng cả hai phương pháp tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu
nhiên (REM). Kiểm định Hausman (1978) được sử dụng để lựa chọn giữa hai phương
pháp này. Kết quả kiểm định Hausman cho giá trị bằng 1496.82 và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%. Như vậy, ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 và khẳng định rằng Mô hình tác động
cố định (FEM) là phù hợp cho tập dữ liệu nghiên cứu. Do vậy, Bảng 4.8 trình bày kết
quả ước lượng của mô hình tác động cố định FEM và các phân tích thảo luận tiếp theo
được dựa trên kết quả ước lượng của mô hình này. Kết quả ước lượng mô hình tác động
ngẫu nhiên REM được trình bày trong Phụ lục 2 (Bảng 2.1). Kiểm định Wald cho ý
nghĩa tổng thể của mô hình FEM có giá trị bằng 99.99 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. 11 Nếu tồn tại vấn đề nội sinh khi giả thuyết về sự không tương quan giữa biến độc lập (đại diện cho FDI) và sai số bị vi phạm thì phương pháp ước lượng Generalized Method of Moment (GMM) của Hansen (1982) được cho là hiệu quả hơn (Hayashi, 2000). Tuy nhiên, kết quả kiểm định (C-Statistics) về tính nội sinh của ba biến đại diện FDI (fdio, fdie, fdia) (với P-value lần lượt là 0.764, 0.521 và 0.493) nên đều cho phép chấp nhận giả thuyết H0: fdio,fdie,fdia là biến ngoại sinh (Xem Phụ lục 2, Bảng 2.4 -2.6). Do vậy, sử dụng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng truyền thống (FEM, REM) là phù hợp cho dữ liệu nghiên cứu trong luận án này.
125
Bảng 4.8 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế
tạo Việt Nam
Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.011 0.025 2.530 0.277 0.0003 0.387 0.416 0.772 0.027 0.066 1.973 0.683 0.000 0.227 0.334 0.595
0.474
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdio) fdio*lnK_intensity fdio*lnL_quality fdio*Scale fdio*Ownership fdio*TechGap fdio*dRegion1 fdio*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho fdio và các biến tương tác với fdio Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdio Kiểm định Hausman
Hệ số (Coef.) 0.027** 0.453*** 5.417** 0.277 0.0005*** 0.465 -0.508 2.392*** 0.059** -0.070 1.325*** -0.96 -0.003*** -0.649*** -0.277 -1.924*** Y Y 3.429*** 99.99*** 86.05*** 95.92*** 1496.82***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
Kết quả ước lượng sử dụng thang đo Tỷ trọng doanh thu của FDI trong ngành (fdio).
Vấn đề đa cộng tuyến ít có khả năng ảnh hưởng đến các giá trị ước lượng vì kết
quả cho thấy hệ số phóng đại phương sai (Variance Inflation Factor - VIF < 2) và hệ số tương quan (<0.35) của các biến số chính trong mô hình đều khá nhỏ12. Vấn đề đa cộng
tuyến được xem là nghiêm trọng khi số VIF > 10 và trị tuyệt đối hệ số tương quan giữa
hai biến > 0.7 (Dormann, 2013; Alin, 2010). Ngoài ra, nghiên cứu này sử dụng cỡ mẫu
lớn nên có thể giảm thiểu hiện tượng đa cộng tuyến (Brambor & cộng sự, 2006). So với 12 Xem thêm Phụ lục 3 kết quả VIF và ma trận tương quan khi khi sử dụng hai thang đo fdie và fdia (Bảng 3.1-3.3).
126
phương pháp hồi quy Pooled OLS thì FEM và REM ít có khả năng xảy ra tình trạng
phương sai thay đổi và tương quan chuỗi hay tự tương quan (Wooldridge, 2009). Tuy
vậy, để giúp kiểm soát được tốt hơn vấn đề tự tương quan hay tương quan chuỗi và
phương sai thay đổi, luận án ước lượng mô hình FEM và REM sử dụng sai số chuẩn
mạnh (Robust standard errors) (Stock & Watson, 2008; Petersen, 2009).
Bảng 4.9 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) cho các biến số trong mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
Biến số Fdio lnK_intensity lnL_quality Scale Ownership TechGap Concentration
Hệ số VIF 1.140 1.060 1.070 1.030 1.030 1.000 1.140
fdio
lnK _intensity
lnL _quality Scale
Own
TechGap
Concen _tration
fdio lnK_intensity lnL_quality Scale Own TechGap Concentration
1 -0.077 0.044 -0.022 0.017 -0.002 -0.326
1 0.213 0.054 -0.070 0.009 -0.012
1 0.060 -0.102 -0.006 0.046
1 -0.146 -0.001 0.093
1 0.002 -0.033
1 0.003
1
Bảng 4.10 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ từ FDI
4.3.2 Tác động lan tỏa công nghệ từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng
Để kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp
chế biến chế tạo trong nước thì ta thực hiện kiểm định mức ý nghĩa đồng thời của biến
FDI và các biến tương tác. Kết quả nghiên cứu từ Bảng 4.8 cho thấy, ước lượng tham số
fdio mang giá trị dương (2.393) và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%; kết quả kiểm định
Wald cho mức ý nghĩa đồng thời của biến fdio và các biến tương tác là 86.05 (P_value
=0.000). Như vậy, ta có thể kết luận rằng sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI có ảnh
127
hưởng lan tỏa đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc
chấp nhận giả thuyết HA1 về sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Đây là kết quả được kỳ vọng và nhất quán với đa
phần các nghiên cứu trước về lan tỏa công nghệ từ FDI cho trường hợp doanh nghiệp chế
biến chế tạo Việt Nam trong các giai đoạn trước đó từ 2000 đến 2009 (Le Thanh Thuy,
2005; Nguyen Van Thanh & Pham Thien Hoang, 2010; Nguyen Phi Lan, 2008; Pham
Thi Bich Ngoc, 2012).
Như vậy, kết quả kiểm định cho thấy sự tồn tại của lan tỏa công nghệ từ FDI. Để
biết được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đặc trưng doanh nghiệp đến hiệu ứng lan tỏa
công nghệ từ FDI hay các nhân tố quyết định lan tỏa công nghệ thì ta thực hiện kiểm định
mức ý nghĩa đồng thời của các biến tương tác giữa fdio và các đặc trưng doanh nghiệp
trong nước. Kết quả kiểm định Wald là 95.92 (P_value =0.000). Điều này cho thấy hiệu
ứng lan tỏa công nghệ từ FDI phụ thuộc vào các đặc trưng của doanh nghiệp trong nước.
Từ đó, ta có thể thực hiện phép đạo hàm đối với phương trình (3.3) để tìm hiểu tác động
cận biên của yếu tố FDI đến năng suất của doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Phương trình ảnh hưởng cận biên này cho thấy các đặc trưng nội tại của doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước bao gồm mức độ vốn hóa, quy mô, khoảng cách công
nghệ và khu vực địa lý là những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước13. Kết quả này cho thấy hiệu ứng lan tỏa tồn
tại nhưng quy mô hay độ lớn của hiệu ứng lan tỏa không đồng nhất mà phụ thuộc vào
đặc điểm của mỗi doanh nghiệp hay khả năng hấp thụ hiệu ứng lan tỏa của mỗi doanh
13 Lưu ý rằng việc phân tích và thảo luận các nhân tố này dựa trên ý nghĩa thống kê và tập trung vào chiều hướng tác động của các biến số. Việc diễn giải giá trị các hệ số ước lượng đòi hỏi diễn giải đồng thời các nhân tố song cách diễn giải này gặp nhiều khó khăn và có nhiều khả năng đưa đến các kết quả sai lệch khi mô hình có nhiều biến tương tác (Ramanathan, 2002; Jaccard & Turrisi, 2003; Hayes, 2013).
nghiệp trong nước.
128
Thứ nhất, các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước có mức độ vốn hóa
(K_intensity) cao hơn sẽ có lợi thế hơn trong hấp thu lan tỏa tích cực từ FDI để nâng cao
năng lực công nghệ và hiệu quả sản xuất. Đây là kết quả không nằm ngoài kỳ vọng khi các
doanh nghiệp có mức độ vốn hóa cao thường tiềm lực tài chính mạnh hơn để đầu tư nguồn
lực cho việc thiết lập các mối liên kết nhằm tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm và thu thập thông
tin hữu ích về các kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh hiện đại từ các doanh nghiệp FDI
(Smeets, 2008; Sun, 2009; Farole & cộng sự, 2014). Hơn thế nữa, so với các doanh nghiệp
hạn chế về năng lực tài chính thì doanh nghiệp sở hữu tiềm lực tài chính có thể nhanh chóng
hiện thực hóa việc đầu tư vào các dự án mới mua sắm các các trang thiết bị, máy móc tân
tiến để cải thiện và nâng cao năng lực sản xuất của mình. Kết quả điều tra về năng lực cạnh
tranh và công nghệ cấp doanh nghiệp do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực
hiện cho thấy hạn chế về tài chính là rào cản lớn nhất ngăn cản các doanh nghiệp chế biến
chế tạo trong nước tiếp cận và cải thiện công nghệ qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm cả
tương tác và hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI (CIEM, 2015). Do đó, nâng cao năng lực tài
chính của doanh nghiệp trong nước được xem là giải pháp quan trọng nhằm gia tăng hiệu
ứng lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI.
Thứ hai, quy mô sản xuất (lnScale) cũng có tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa
công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Theo đó, so với các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ thì doanh nghiệp có quy mô lớn hơn sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ
hiệu ứng lan tỏa tích cực về công nghệ của FDI. Doanh nghiệp càng phát triển về quy mô thì
càng tích lũy được những kinh nghiệm và công nghệ mang tính cạnh tranh trong quy trình
sản xuất, kinh doanh. Những lợi thế sẵn có này có thể giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn
trong việc tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm và sao chép các công nghệ tiên tiến của các doanh
nghiệp FDI (Jordaan, 2011; Imbriani & cộng sự, 2014; Zhang & cộng sự, 2010). Bối cảnh
ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam cho thấy tỷ trọng lớn là doanh nghiệp vừa và
nhỏ (chiếm gần 80%) có thể hạn chế hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI. Nghiên cứu của Le
và Pomfret (2011) cũng cho thấy các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam có quy mô
vừa và nhỏ chịu tác động tiêu cực từ lan tỏa công nghệ của FDI. Do vậy, cải thiện quy mô
129
sản xuất của doanh nghiệp trong nước có thể giúp nâng cao khả năng hấp thụ công nghệ và
giúp doanh nghiệp hưởng lợi nhiều hơn từ lan tỏa FDI.
Thứ ba, khoảng cách công nghệ (TechGap) là nhân tố có ảnh hưởng ngược chiều
đến quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Theo
đó, nếu khoảng cách công nghệ càng cao thì hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI càng thấp
và ngược lại với khoảng cách công nghệ được thu hẹp thì doanh nghiệp trong nước càng
dễ dàng tiếp cận, học hỏi và ứng dụng công nghệ mới phù hợp với nguồn lực của mình.
Kết quả này nhất quán với các nghiên cứu trước cho ngành chế biến chế tạo Việt Nam
như Le Thanh Thuy (2005), Hoang Van Thanh và Pham Thien Hoang (2010), Le và
Pomfret (2011) khi chỉ ra rằng khoảng cách công nghệ là một nhân tố quyết định quan
trọng đối với hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI. Thêm vào đó, theo báo cáo tổng kết của
Bộ kế hoạch và đầu tư thì mặc dù chất lượng công nghệ của doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam là khá thấp (khi sử dụng khoảng 80% công nghệ trung bình và 5-6% công nghệ cao
của thế giới) nhưng công nghệ của khối FDI vẫn cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến
đã có trong nước (BKHĐT, 2014). Do vậy, khoảng cách công nghệ lớn, đặc biệt là so với
các doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ cao, là một rào cản khiến cho những doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước có trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu khó có thể hấp
thụ hiệu quả tác động lan tỏa tích cực về công nghệ từ FDI.
Thứ tư, yếu tố khu vực địa lý (dRegion1) có tác động đáng kể đến hiệu ứng lan tỏa
công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Theo đó, so với các
doanh nghiệp ở khu vực ở Đồng bằng Sông Hồng và miền núi phía Bắc thì doanh nghiệp
ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long được hưởng lợi nhiều hơn từ
lan tỏa công nghệ của FDI. Kết quả này có thể xuất phát từ thực tế rằng một số lượng lớn
doanh nghiệp FDI lựa chọn đầu tư ở khu vực phía Nam (gần 50%) và đây cũng là khu
vực tập trung một tỷ trọng lớn các doanh nghiệp chế biến chế tạo (50%). Do đó, với mật
độ tiếp xúc, tương tác cao hơn giữa hai nhóm doanh nghiệp này thì doanh nghiệp trong
nước sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận, học hỏi và sao chép các công nghệ, quy trình sản
130
xuất hiện đại từ các doanh nghiệp FDI trong khu vực để từ đó nâng cao năng suất của
mình.
Trong khi đó, kết quả ước lượng cho thấy chất lượng lao động không phải là nhân
tố ảnh hưởng đáng kể đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI vì biến tương tác fdio*lnL_quality không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này khá thú vị vì đây là nhân tố
được kỳ vọng có ảnh hưởng tích cực tới hiệu ứng lan tỏa (Blalock & Gertler, 2009;
Farole & Winkler, 2015). Bối cảnh thị trường lao động tại Việt Nam được phản ánh là dư
thừa về số lượng nhưng thiếu về chất lượng. Đặc biệt, theo điều tra của Ngân hàng thế
giới năm 2014 thì chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3.39/10 điểm và có
khoảng cách xa với các nước trong khu vực. Ngoài ra, điều tra cũng nhận định rằng nhân
lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao động công
nghiệp. Đây có thể là những yếu tố khiến cho chất lượng lao động không có vai trò đáng
kể đến khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam. Tương tự, hiệu
ứng lan tỏa công nghệ từ FDI cũng không chịu ảnh hưởng bởi loại hình sở hữu của doanh nghiệp trong nước vì biến tương tác fdio*Ownership không có ý nghĩa thống kê.
Do đó, dù mỗi hình thức sở hữu có những ưu thế riêng (Li & cộng sự, 2001; Sinani &
Meyer, 2004; Sun, 2011) nhưng những khác biệt đó chưa tạo ra được ảnh hưởng đáng kể
đến khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước.
4.3.3 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đến năng suất lao
động của doanh nghiệp trong nước
Kết quả ước lượng từ Bảng 4.8 cho thấy các đặc trưng doanh nghiệp có ảnh
hưởng đáng kể đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Mức độ vốn hóa
(lnK_intensity) có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đến năng suất của doanh nghiệp chế
biến chế tạo Việt Nam. Ước lượng tham số lnK_intensity và tham số tương tác với biến
đại diện FDI (fdio* lnK_intensity) đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và mang giá trị
dương (lần lượt là 0.027 và 0.059). Như vậy, doanh nghiệp càng có mức độ vốn hóa cao
thì có năng suất lao động càng cao và tác động này phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài FDI
131
trong ngành. Kết quả này nhất quán với kỳ vọng ban đầu khi giả định rằng doanh nghiệp
có mức độ vốn hóa cao thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn để đầu tư phát triển năng
lực công nghệ, kỹ thuật sản xuất và từ đó gia tăng năng suất. Điều này càng khẳng định
tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực tài chính cho khu vực doanh nghiệp trong
nước trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp nhiều khó khăn trong tiếp
cận nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Chất lượng nguồn nhân lực (lnL_quality) cũng là nhân tố đóng vai trò quan trọng
và ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao năng suất của doanh nghiệp trong nước. Kết
quả ước lượng tham số lnL_quality mang giá trị dương (0.453) và có ý nghĩa thống kê ở
mức cao 1%. Bên cạnh đó, tác động tích cực này không phụ thuộc vào sự hiện diện của
doanh nghiệp FDI trong ngành khi ước lượng của biến tương tác (fdio* lnL_quality)
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này ủng hộ giả thuyết rằng doanh nghiệp trong nước
sở hữu đội ngũ lao động có trình độ cao, sáng tạo và chuyên nghiệp thì càng có nhiều
khả năng cải tiến, phát triển và ứng dụng công nghệ, từ đó giúp gia tăng năng suất lao
động.
Kết quả ước lượng cũng cho thấy quy mô doanh nghiệp (lnScale) có tác động
cùng chiều và có ý nghĩa đến năng suất của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam.
Ước lượng tham số lnScale và biến tương tác fdio*Scale đều mang giá trị dương (lần
lượt là 5.417 và 1.325) và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và 1%. Theo đó, mức độ ảnh
hưởng của quy mô đến năng suất của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự hiện diện của các
doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả này đúng như kỳ vọng ban đầu khi nhận định
rằng doanh nghiệp càng phát triển về quy mô thì càng có khả năng tiết giảm chi phí và
giá thành đơn vị từ đó nâng cao hiệu quả và năng suất hoạt động. Điều này nhấn mạnh ý
nghĩa của việc cải thiện quy mô doanh nghiệp, đặc biệt khi xét đến thực tiễn các doanh
nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp chế biến chế tạo nói riêng hiện nay đa
phần có quy mô vừa và nhỏ (chiếm trên 80%).
Khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI
(TechGap) thường tạo động lực để doanh nghiệp trong nước học hỏi, cải thiện công
132
nghệ, nâng cao năng suất nhưng nếu khoảng cách quá lớn có thể hạn chế cơ hội tiếp cận
công nghệ của doanh nghiệp trong nước (Kohpaiboon, 2006; Hoang Van Thanh và Pham
Thien Hoang, 2010). Ước lượng tham số TechGap mang giá trị dương (0.0005) và có ý
nghĩa ở mức 1% trong khi ước lượng biến tương tác (fdio*TechGap) lại có giá trị âm (-
0.0025) và có ý nghĩa 1%. Do đó, tác động của biến số Khoảng cách công nghệ đến năng
suất phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài FDI. Nếu xét ở cấp độ ngành với giá trị fdio bình
quân (0.374) thì tác động biên ròng (net marginal impact) của biến TechGap đến năng
suất doanh nghiệp có giá trị âm (-0.0004). Như vậy, ta có thể kết luận rằng khoảng cách
công nghệ càng lớn thì doanh nghiệp chế biến chế tạo càng gặp nhiều khó khăn trong
tiếp cận, cải tiến công nghệ và từ đó làm giảm năng suất của doanh nghiệp.
Trong khi đó, ước lượng biến hình thức sở hữu (Ownership) và biến tương tác với
FDI (fdio*Ownership) mang dấu ngược chiều nhưng đều không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước không có sự khác biệt giữa
loại hình sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước. Tương tự, yếu tố khu vực địa lý (dRegion)
cũng không có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất của doanh nghiệp khi ước lượng hai
biến (dRegion1, dRegion2) và biến tương tác (fdio*dRegion2) không có ý nghĩa thống
kê. Biến tương tác còn lại (fdio*dRegion1) mang giá trị âm (-0.649) và có ý nghĩa thống
kê ở mức 1% cho thấy có sự khác biệt về khả năng hấp thụ lan tỏa về công nghệ từ FDI
giữa doanh nghiệp ở Khu vực Đồng bằng Sông Hồng và miền núi phía Bắc với doanh
nghiệp ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
Kết quả ước lượng ở Bảng 4.8 cũng cho thấy các biến đặc trưng ngành có ảnh
hưởng đáng kể đến năng suất của doanh nghiệp trong nước. Trong đó, biến số đại diện
mức độ cạnh tranh hay mức độ tập trung trong ngành (Concentrationjt) được đo lường
bằng chỉ số Herfindahl index có tác động ngược chiều (–1.925) và ý nghĩa ở mức 1% đến
năng suất lao động của doanh nghiệp. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng ban đầu rằng khi
chỉ số Herfindahl index giảm đồng nghĩa với mức độ tập trung giảm (hay mức độ cạnh
tranh trong ngành tăng) thường tạo ra động lực để doanh nghiệp trong nước cải tiến công
nghệ, nâng cao năng suất. Kết quả này nhất quán với các nghiên cứu trước đây về lan tỏa
133
công nghệ ở Việt Nam và trên thế giới (Le và Pomfret, 2011; Kohpaiboon, 2006; Siani &
Meyer, 2004; Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng, 2012). Ngoài ra, vai trò của các
đặc trưng ngành đến năng suất của doanh nghiệp trong nước cũng được kiểm soát thông
qua các biến giả ngành (dIndustry) trong mô hình. Kết quả ước lượng cho thấy 18/21
biến giả ngành có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này khẳng định sự hiện diện của
những tác động đặc trưng ngành đến năng suất của doanh nghiệp Việt Nam.
4.3.4 Phân tích độ nhạy với ba thang đo đại diện FDI (Sensitivity Analysis)
Hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI được kiểm định và đo lường thông qua biến số
FDI trong mô hình các nhân tố tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp trong
nước. Do vậy, biến số FDI đo lường sự hiện diện hay mức độ quan trọng của FDI trong
ngành là biến số trọng tâm và việc sử dụng thang đo nào đại diện cho FDI đóng vai trò
quan trọng trong ước lượng mô hình và đưa ra các đánh giá, dự báo tin cậy về hiệu ứng
lan tỏa công nghệ từ FDI.
So với các nghiên cứu trước đây về lan tỏa từ FDI vốn chỉ sử dụng một thang đo
đơn lẻ cho FDI thì luận án này thực hiện Phân tích độ nhạy (Sensitivity Analysis) bằng
cách ước lượng mô hình, sử dụng ba biến đại diện để phân tích và so sánh. Ba biến đại
diện cho FDI gồm: Tỷ trọng doanh thu (fdio); Tỷ trọng lao động (fdie); và Tỷ trọng tài
sản (fdia) của doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả ước lượng sẽ giúp đưa ra những
nhận định mang tính tương quan so sánh về mức độ nhạy cảm của các ước lượng trong
mô hình cũng như nhân tố quyết định quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI. Phân tích độ
nhạy cũng giúp giảm thiểu kết quả thiên lệch khi chỉ sử dụng một thang đo đại diện FDI,
từ đó phản ánh toàn diện hơn hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến năng lực công nghệ của doanh
nghiệp trong nước.
Bảng 4.11 và 4.12 trình bày kết quả ước lượng Mô hình tác động cố định (FEM)
khi lần lượt sử dụng hai thang đo đại diện FDI là tỷ trọng lao động (fdie) và tỷ trọng tài
sản (fdia) của doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả ước lượng mô hình tác động ngẫu
nhiên (REM) được trình bày trong Phụ lục 2 (Bảng 2.2 và 2.3). Kiểm định Hausman
được sử dụng để lựa chọn giữa hai mô hình FEM và REM. Kết quả kiểm định Hausman
134
cho Mô hình sử dụng thang đo fdie và fdia có giá trị lần lượt là 1740.70 và 1562.18 và
đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (so với 1496.82 trong Mô hình sử dụng thang đo
fdio). Do vậy, ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 và do vậy mô hình tác động cố định FEM
cũng được lựa chọn trong các mô hình khi sử dụng hai thang đo đại diện fdie và fdia.
So với kết quả ước lượng sử dụng thang đo tỷ trọng doanh thu của FDI (fdio) ở
Bảng 4.8, có thể nhận thấy sự nhất quán tương đối cao với các tổng thể mô hình và các
tham số ước lượng trong hai mô hình còn lại. Kiểm định Wald cho ý nghĩa tổng thể của
Mô hình sử dụng thang đo fdie và fdia cho kết quả lần lượt là 116.45 và 102.11 (so với
99.99 trong Mô hình sử dụng thang đo fdio) và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Do
đó, ta có thể kết luận rằng Mô hình tác động cố định (FEM) phù hợp với tập dữ liệu
nghiên cứu và có sự nhất quán khi sử dụng lần lượt ba thang đo đại diện FDI.
Bảng 4.11 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI (Thang đo fdie)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.009 0.020 2.619 0.202 0.000 0.379 0.400 0.703 0.027 0.062 1.715 0.572 0.000 0.229 0.336 0.585
Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model) Hệ số (Coef.) 0.042*** 0.422*** 7.326*** 0.017 0.0002*** 0.356 0-.435 0.440 0.022 0.006 7.038*** -0.418 -0.003*** -0.423* -0.772** -2.302*** Y Y 3.911***
0.429
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdie) fdie*lnK_intensity fdie*lnL_quality fdie*Scale fdie*Ownership fdie*TechGap fdie*dRegion1 fdie*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant)
135
Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho fdie và các biến tương tác với fdie Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdie Kiểm định Hausman
116.45*** 154.55*** 176.62*** 1740.70***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
Bảng 4.12 Kết quả ước lượng về lan tỏa công nghệ từ FDI (Thang đo fdia)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.011 0.025 2.383 0.272 0.000 0.387 0.413 0.666 0.024 0.056 1.607 0.587 0.000 0.202 0.294 0.603
0.470
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdia) fdia*lnK_intensity fdia*lnL_quality fdia*Scale fdia*Ownership fdia*TechGap fdia*dRegion1 fdia*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho fdia và các biến tương tác với fdia Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdia Kiểm định Hausman
Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model) Hệ số (Coef.) 0.037*** 0.448*** 7.560*** 0.190 0.0004*** 0.576 -0.470 1.542** 0.024 -0.054 1.218*** -0.640 -0.002*** -0.386 -0.264* -2.153*** Y Y 3.498*** 102.11*** 107.79*** 106.89*** 1562.18***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
Về các nhân tố tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam, các
tham số ước lượng trong cả ba mô hình FEM cũng cho thấy sự tương đồng khá cao về
chiều hướng và mức độ ảnh hưởng. Ví dụ, biến Chất lượng nhân lực (lnL_quality) có
ước lượng dương và ý nghĩa mức 1% lần lượt là 0.422 và 0.448 trong Mô hình sử dụng
136
thang đo fdie và fdia (so với 0.453 trong Mô hình sử dụng fdio). Tương tự, các đặc trưng
doanh nghiệp khác trong mô hình cũng có tác động nhất quán đến năng suất của doanh
nghiệp trong nước với tham số ước lượng có sự chênh lệch không đáng kể khi sử dụng
thang đo fdie và fdia. Các biến đặc trưng ngành cũng có tác động tương đối nhất quán
đến năng suất doanh nghiệp. Ví dụ, biến Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) đều
có ước lượng âm có ý nghĩa lần lượt là -1.925, -2.303 và -2.154 trong ba Mô hình sử
dụng thang đo fdio, fdie và fdia.
Về hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI, kết quả ước lượng sử dụng thang đo fdie
và fdia cũng cho thấy sự tồn tại của tác động lan tỏa đến năng suất lao động của doanh
nghiệp trong nước. Kết quả kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời của biến đại diện
FDI và các biến tương tác trong hai mô hình sử dụng fdie và fdia lần lượt là 154.55
(P_value=0.000) và 107.79 (P_value =0.000) so với 86.05 (P_value =0.000) trong Mô
hình sử dụng thang đo fdio. Như vậy, dù sử dụng thang đo đại diện nào thì cũng khẳng
định sự hiện diện của hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến năng suất của doanh nghiệp trong
nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ước lượng tham số đại diện FDI ở Mô hình sử dụng tỷ
trọng lao động fdie cũng mang dấu dương nhưng không có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh
đó, giá trị ước lượng của biến fdie nhỏ hơn và chênh lệch tương đối lớn so với ước lượng
sử dụng thang đo fdio và fdia. Điều này có khả năng liên quan đến sự khác biệt về mức
độ tập trung của FDI trong ngành theo ba thang đo. Trong đó, thang đo tỷ trọng lao động
(fdie) có giá trị thấp nhất, chiếm 30.6% tổng số lao động của ngành trong khi tỷ trọng
doanh thu (fdio) và tỷ trọng tài sản (fdia) của FDI trong ngành lần lượt là 37.4% và 44%.
Về nhân tố quyết định lan tỏa công nghệ từ FDI, kết quả ước lượng trong ba mô
hình FEM cũng cho thấy sự tương đồng nhất định khi sử dụng hai thang đo tỷ trọng lao
động và tỷ trọng tài sản. Kết quả kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời của các biến
tương tác với FDI trong hai Mô hình sử dụng fdie và fdia lần lượt là 176.62 (P_value
=0.000) và 106.89 (P_value =0.000) so với 95.92 (P_value =0.000) trong Mô hình sử
dụng thang đo fdio. Do vậy, mô hình sử dụng thang đo fdie và fdia cũng khẳng định rằng
quy mô lan tỏa từ FDI phụ thuộc vào đặc trưng doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, dù
137
cũng có ước lượng dương nhưng biến Mức độ vốn hóa (K_intensity) không có tác động
đáng kể đến quy mô lan tỏa từ FDI khi sử dụng hai thang đo fdie và fdia vì các biến tương
tác không có ý nghĩa thống kê. Thêm vào đó, khu vực địa lý cũng cho thấy tác động khác
biệt với ước lượng âm có ý nghĩa của dRegion2 ở mô hình sử dụng fdie và fdia.
4.4 Kết quả ước lượng mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
4.4.1 Các kiểm định cơ bản
Mô hình chọn mẫu Heckman được ước lượng trên bộ dữ liệu bảng cấp doanh
nghiệp trong giai đoạn 2011 – 2013. Trong đó, 21 biến giả ngành và 2 biến giả năm được
đưa vào mô hình nhằm kiểm soát những tác động biến đổi theo ngành và theo thời gian.
Hai phương trình xuất khẩu của mô hình Heckman được ước lượng đồng thời bằng
phương pháp ước lượng hợp lý cực đại (Maximum Likelihood Estimator – MLE) và sử
dụng sai số chuẩn mạnh (Robust Standard Errors). Ước lượng sai số chuẩn mạnh giúp
cho ra kết quả ước lượng đúng của sai số chuẩn và kiểm soát được hiện tượng tương
quan chuỗi và phương sai thay đổi (Stock & Watson, 2008; Petersen, 2009).
Kết quả ước lượng mô hình Heckman về lan tỏa xuất khẩu sử dụng thang đo đại
diện là tỷ trọng doanh thu của doanh nghiệp FDI trong ngành (fdio) được trình bày trong
Bảng 4.13. Kết quả ước lượng sử dụng thang đo tỷ trọng lao động (fdie) và tỷ trọng tài
sản (fdia) của doanh nghiệp FDI trong ngành được trình bày trong Bảng 4.16 và 4.17
nhằm phân tích độ nhạy của các thang đo hiệu ứng lan tỏa từ FDI.
Từ Bảng 4.13, kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa tổng thể của mô hình cho thấy
các hệ số hồi quy đều đồng thời có ý nghĩa ở mức 1%. Thêm vào đó, kiểm định Wald
cho hệ số tương quan () giữa hai sai số của phương trình (2.5) và (2.6) có giá trị là 4.98
và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Kết quả này bác bỏ giả thuyết H0 về sự bất tương quan
giữa các sai số (H0: = 0) và cho thấy giả định của Cragg (1971) là không phù hợp. Nói
cách khác, kết quả này khẳng định hai phương trình quyết định xuất khẩu (2.5) và (2.6)
không phải là hai quyết định hoàn toàn độc lập mà thực tế là hai quyết định có liên quan
và phụ thuộc lẫn nhau. Ngoài ra, các hệ số athrho và lnsigma đều có ý nghĩa lần lượt ở
138
mức 5% và 1% cũng khẳng định sự tồn tại của vấn đề thiên lệch lựa chọn mẫu. Do vậy,
ta có thể kết luận rằng mô hình chọn mẫu Heckman là mô hình phù hợp cho tập dữ liệu
trong nghiên cứu này.
Bảng 4.13 Kết quả ước lượng mô hình Heckman về lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
(1) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH THAM GIA XUẤT KHẨU (PARTICIPATE)
(2) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH TỶ TRỌNG XUẤT KHẨU (INTENSITY)
Hệ số (Coef.)
Hệ số (Coef.)
Tên biến (Variable)
0.421***
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.048
N
Sai số chuẩn (Std. Err.)
0.021*** –0.829*** 1.035*** –6.04e-07 0.0001
0.002 0.097 0.059 0.000 0.000
0.001 –0.012 –0.011 4.20e-06 –0.000
0.001 0.021 0.016 5.39e-06 0.000
–0.168***
0.040
–0.026**
0.011
–0.384***
0.057
0.036*
0.020
2.277*** 0.530*** 0.032*** 0.746*** –0.061 0.0002** 5.87e-06 0.337*** 0.446*** –1.529**
0.515 0.1090 0.006 0.249 0.140 0.000 0.000 0.093 0.144 0.774
–0.281** N –0.002 0.021 0.002 –0.000 0.000 0.005 –0.077* 0.141
0.134 0.002 0.042 0.033 0.000 0.000 0.023 0.046 0.196
0.223
0.158
–0.088
0.054
Y Y –1.338***
0.224
Y Y 0.065
0.050
Kinh nghiệm xuất khẩu (Experience) Độ tuổi (Age) Hình thức sở hữu (Ownership) Khu công nghiệp (Zone) Mức độ vốn hóa (K_intensity) Chất lượng nhân lực (L_quality) Khu vực Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Khu vực Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdio) fdio*Experience fdio*Age fdio*Ownership fdio*Zone fdio*K_intensity fdio*L_quality fdio*dRegion1 fdio*dRegion2 Mức độ cạnh tranh trong ngành (Concentration) Tỷ trọng xuất khẩu ngành (Indexint) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant)
139
-17009.69 218.04***
4.98** 145.41*** 82.01***
Log pseudolikelihood Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho sự độc lập giữa phương trình (1) và (2) Kiểm định Wald cho fdio và các biến tương tác với fdio Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdio Athrho lnsigma rho sigma lambda
–0.093** –1.888*** –0.093 0.151 –0.014
0.042 0.026 0.042 0.004 0.006
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%; Y: Có trong mô hình ; N: Không có trong mô hình. Kết quả ước lượng sử dụng thang đo Tỷ trọng doanh thu của FDI trong ngành (fdio).
Kết quả từ Bảng 4.14 và 4.15 cho thấy hệ số phóng đại phương sai (Variance
Inflation Factor - VIF < 2) và hệ số tương quan (<0.35) của các biến số chính trong mô hình đều khá nhỏ14. Theo Dormann (2013) và Alin (2010) thì vấn đề đa cộng tuyến được
xem là nghiêm trọng khi hệ số VIF > 10 và trị tuyệt đối hệ số tương quan giữa hai biến >
0.7. Do đó, vấn đề đa cộng tuyến ít có khả năng ảnh hưởng đến các giá trị ước lượng của
mô hình. Ngoài ra, nghiên cứu này sử dụng cỡ mẫu lớn nên có thể giảm thiểu hiện tượng
đa cộng tuyến (Brambor & cộng sự, 2006).
Bảng 4.14 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) của các biến số chính trong mô
hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
Hệ số VIF
Biến số fdio Age Ownership Zone lnK_intensity lnL_quality Concentration Indexint
1.130 1.080 1.090 1.020 1.040 1.020 1.180 1.050
14Xem Phụ lục 3 (Bảng 3.4-3.6) kết quả hệ số VIF và ma trận tương quan khi sử dụng hai thang đo fdie và fdia.
140
fdio
Age
Own
Zone
lnK_ intensity
lnL_ quality
Concen_ tration
Ind_ exint
fdio Age Own Zone K_intensity L_quality Concentration Indexint
1 -0.006 0.016 0.023 -0.020 0.007 -0.337 0.066
1 -0.262 0.070 0.040 0.014 -0.037 0.028
1 -0.058 -0.097 -0.024 -0.029 0.010
1 0.098 0.016 -0.023 -0.003
1 0.127 0.044 -0.009
1 0.012 -0.012
1 -0.210
1
Bảng 4.15 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu từ FDI
4.4.2 Tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng
Để kiểm định giả thuyết về sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước thì ta thực hiện kiểm định mức ý nghĩa đồng
thời của biến FDI và các biến tương tác. Với mô hình (1) về quyết định tham gia xuất
khẩu thì ước lượng tham số fdio mang giá trị dương (2.277) và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%; kết quả kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời của biến fdio và các biến
tương tác là 145.41 (P_value =0.000). Với mô hình (2) về tỷ trọng xuất khẩu thì dù tham
số ước lượng biến fdio mang giá trị âm (–0.281) và có ý nghĩa ở mức 5% nhưng kết quả
kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời của biến fdio và các biến tương tác là 13.26
(P_value =0.103). Do đó, ta có thể kết luận rằng sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI
có ảnh hưởng lan tỏa đến quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước và
chấp nhận giả thuyết HB1 về sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu.
Kết quả trên đúng với kỳ vọng ban đầu của luận án và có sự tương đồng với các
nghiên cứu trước, bao gồm nghiên cứu tương tự gần đây của Nguyễn Thị Hồng Đào và
Phạm Thế Anh (2012). Lưu ý rằng, nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào và Phạm Thế
Anh (2012) trong giai đoạn 2003-2004 cho thấy FDI tác động lan tỏa đến tỷ trọng xuất
khẩu của doanh nghiệp trong nước (nghĩa là tác động đến doanh nghiệp đã xuất khẩu).
Trong khi đó, kết quả ước lượng từ luận án này cho thấy FDI có tác động lan tỏa đến
quyết định tham gia xuất khẩu (nghĩa là tác động đến cả doanh nghiệp đã và chưa xuất
141
khẩu). Đây là kết quả rất có ý nghĩa và có thể dự báo khả năng lan tỏa lớn hơn từ FDI vì
mẫu nghiên cứu cho thấy hơn 90% doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước không
tham gia xuất khẩu.
Như vậy, kết quả kiểm định cho thấy hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI có tồn tại
với quyết định tham gia xuất khẩu. Để biết được các nhân tố quyết định hiệu ứng lan tỏa
thì ta thực hiện kiểm định mức ý nghĩa đồng thời của các biến tương tác giữa fdio và các
đặc trưng doanh nghiệp trong nước. Kết quả kiểm định Wald với mô hình quyết định
tham gia xuất khẩu là 82.01 (P_value =0.000). Điều này cho thấy hiệu ứng lan tỏa xuất
khẩu từ FDI đến phụ thuộc vào các đặc trưng của doanh nghiệp trong nước. Từ đó, ta có
thể thực hiện phép đạo hàm đối với phương trình (3.5) để tìm hiểu tác động cận biên của
yếu tố FDI đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Phương trình ảnh hưởng cận biên này cho thấy các đặc trưng doanh nghiệp gồm
kinh nghiệm xuất khẩu, độ tuổi, hình thức sở hữu, mức độ vốn hóa và khu vực địa lý là
những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước15. Kết quả này cho thấy hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến quyết định xuất
khẩu của doanh nghiệp trong nước có tồn tại nhưng mức độ ảnh hưởng của FDI rất đa
dạng, phụ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp.
Thứ nhất, biến số kinh nghiệm xuất khẩu (Experience) của doanh nghiệp trong
nước có tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu. Đây là kết quả như kỳ vọng
vì kiến thức được tích lũy trong quá khứ khi tham gia thị trường quốc tế là cơ sở để
doanh nghiệp nâng cao khả năng hấp thụ của mình với các kiến thức mới (Cohen &
15 Lưu ý rằng việc phân tích và thảo luận các nhân tố này dựa trên ý nghĩa thống kê và tập trung vào chiều hướng tác động của các biến số. Việc diễn giải giá trị các hệ số ước lượng đòi hỏi diễn giải đồng thời các nhân tố song cách diễn giải này gặp nhiều khó khăn và có nhiều khả năng đưa đến các kết quả sai lệch khi mô hình có nhiều biến tương tác (Ramanathan, 2002; Jaccard & Turrisi, 2003; Hayes, 2013).
Levinthal, 1990; Eriksson & Chetty, 2003). Theo đó, các doanh nghiệp chế biến chế tạo
142
Việt Nam từng tham gia xuất khẩu trước đây đã tích lũy được những kinh nghiệm và
kiến thức nhất định về cách thức tiếp cận và nghiên cứu thông tin về các thị trường xuất
khẩu. Do vậy, các doanh nghiệp này sẽ có nhiều khả năng tiếp thu và học hỏi nhanh
chóng và hiệu quả hơn từ kinh nghiệm xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI và từ đó
nâng cao khả năng tiếp tục tham gia xuất khẩu. Kết quả này cũng nhất quán với các
nghiên cứu thực nghiệm trước đây ở trong và ngoài nước (Sun, 2009; Phillips &
Ahmadi-Esfahani, 2010; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Khi xét tới
yếu tố kinh nghiệm xuất khẩu thì đối tượng hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của
FDI chiếm tỷ trọng nhỏ khi thực tế hiện nay có trên 90% các doanh nghiệp chế biến chế
tạo trong nước không tham gia xuất khẩu (TCTK, 2015).
Thứ hai, độ tuổi doanh nghiệp (Age) là nhân tố có tác động cùng chiều đến quy
mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Kết quả này
phù hợp với giả định ban đầu về vai trò tích cực của thâm niên hoạt động đối với khả
năng hấp thụ lan tỏa từ FDI (Gruber, 2004; Flatten, 2011; Sun, 2009; Thị Hồng Đào &
Phạm Thế Anh, 2012). Theo đó, so với các doanh nghiệp non trẻ vừa thành lập thì các
doanh nghiệp thành lập lâu năm thường tạo dựng được một vị thế và thị phần trong nước
vững chắc hơn nên có động lực cũng như tiềm lực mạnh hơn để thúc đẩy hoạt động thâm
nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu thông qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm kênh lan
tỏa từ FDI. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành lập lâu năm thường có nhiều thông tin
và tạo lập được những mối liên kết nhất định với các doanh nghiệp FDI nên có khả năng
hấp thụ hiệu quả hơn các lan tỏa tích cực về xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, đặc điểm về hình thức sở hữu (Ownership) cũng có ảnh hưởng đáng kể
đến mức độ hưởng lợi của doanh nghiệp trong nước từ lan tỏa xuất khẩu của FDI. Kết
quả này nhất quán với các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về sự khác biệt
trong khả năng hấp thụ lan tỏa xuất khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp (Li & cộng sự,
2001; Sinani & Meyer, 2004; Sun, 2009; Anwar & Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng
Đào & Phạm Thế Anh, 2012). Đáng chú ý, so với các doanh nghiệp sở hữu nhà nước thì
doanh nghiệp tư nhân là đối tượng hấp thu được nhiều lan tỏa tích cực về xuất khẩu từ
143
FDI hơn. Điều này có thể được lý giải rằng so với doanh nghiệp nhà nước thì các doanh
nghiệp tư nhân thường có lợi thế về sự linh hoạt, năng động trong tiếp cận, học hỏi các
thông tin từ bên ngoài, bao gồm cả kiến thức về hoạt động xuất khẩu từ doanh nghiệp
FDI. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng khi xét đến bối cảnh khu vực doanh nghiệp tư nhân
có những đóng góp ngày càng quan trọng đối với thành tựu phát triển kinh tế của cả nước và
đang được xem là động lực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
Thứ tư, các doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn hóa (K_intensity) cao hơn sẽ có
lợi thế hơn trong hấp thu lan tỏa tích cực về xuất khẩu từ FDI. Đây là một kết quả được kỳ
vọng và phù hợp với các phát hiện trước đây (Sun, 2009; Kokko & cộng sự, 2001; Buck &
cộng sự, 2007). Tiềm lực tài chính là được xem là một nhân tố quyết định về khả năng gia
nhập và duy trì, phát triển thị trường xuất khẩu. Hơn thế nữa, doanh nghiệp có tiềm lực tài
chính mạnh cũng sẽ có nhiều khả năng đầu tư nguồn lực cho việc thiết lập các mối liên kết
nhằm tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm và thu thập thông tin hữu ích về thị trường xuất khẩu từ
các doanh nghiệp FDI trong ngành. Do vậy, nâng cao năng lực tài chính có thể giúp cho các
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam, vốn đa phần có tiềm lực tài chính hạn chế, vượt
qua được rào cản lớn để có thể hưởng lợi nhiều hơn từ hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu của FDI
và từng bước gia nhập thị trường xuất khẩu.
Thứ năm, biến số khu vực địa lý (dRegion) cũng có tác động đáng kể đến quy mô lan
tỏa xuất khẩu từ FDI. Đây là kết quả không ngoài kỳ vọng khi xét đến vai trò của yếu tố địa
lý đối với khả năng lan tỏa thông tin, bao gồm thông tin về lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến
doanh nghiệp trong nước (Krugman, 1991; Koo, 2005; Malmberg, 1996; Aitken & cộng sự,
1997; Sun, 2009). So với các doanh nghiệp ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông
Cửu Long thì các doanh nghiệp ở hai khu vực còn lại của Việt Nam hấp thụ được nhiều hiệu
ứng lan tỏa tích cực hơn từ doanh nghiệp FDI trong ngành. Đây là kết quả khá thú vị vì
doanh nghiệp ở khu vực phía Nam thường được đánh giá là năng động hơn nhưng hiệu quả
hấp thụ lan tỏa xuất khẩu từ FDI không cao. Điều này có thể xuất phát từ thực tiễn rằng khu
vực phía Nam tập trung một số lượng lớn doanh nghiệp FDI và hoạt động xuất khẩu mạnh
144
mẽ từ đó làm gia tăng mức độ cạnh tranh và doanh nghiệp FDI có thể tăng cường các biện
pháp bảo mật thông tin xuất khẩu, từ đó làm hạn chế hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu.
Trong khi đó, kết quả ước lượng ở Bảng 4.13 cho thấy hai biến tương tác
fdio*Zone và fdio*L_Quality không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, vị trí ở khu công
nghiệp và chất lượng lao động không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu ứng lan tỏa xuất
khẩu từ FDI. Đây là kết quả trái với kỳ vọng ban đầu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong
nước tham gia hoạt động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có thể đã có những năng
lực và chiến lược nhất định để gia nhập thị trường xuất khẩu. Do đó, yếu tố này ít có khả
năng ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa từ FDI liên quan đến quyết định tham gia xuất
khẩu. Ngoài ra, chất lượng lao động còn yếu và thiếu có thể giải thích cho vai trò hạn chế
của nhân tố này đến khả năng hấp thụ lan tỏa xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế
tạo trong nước.
4.4.3 Tác động của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đến quyết định
xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước
Kết quả định lượng ở Bảng 4.13 cho thấy đặc trưng của doanh nghiệp chế biến
chế tạo trong nước có ảnh hưởng đáng kể đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, chiều hướng và mức độ ảnh hưởng của từng đặc trưng này đến hai quyết định xuất
khẩu có sự khác biệt tương đối lớn. Trong đó, kinh nghiệm xuất khẩu đóng vai trò quan
trọng và tác động cùng chiều đối với quyết định có xuất khẩu hay không của doanh
nghiệp trong nước. Ước lượng tham số (Experience) và tham số tương tác với biến fdio
đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và mang giá trị dương (lần lượt là 0.421 và 0.530).
Kết quả này nhất quán với nhận định rằng các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước
từng tham gia xuất khẩu trước đây đã thực hiện đầu tư và phát sinh các chi phí cố định
nhằm thâm nhập thị trường xuất khẩu nên sẽ có nhiều tiềm lực và động lực tiếp tục hoạt
động xuất khẩu trong năm tiếp theo.
Tương tự, độ tuổi của doanh nghiệp (Age) có tác động cùng chiều đến cả hai
quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước nhưng chỉ có ý nghĩa
145
thống kê với mô hình quyết định tham gia xuất khẩu (PARTICIPATE). Ước lượng tham
số biến Age và biến tương tác với fdio đều có giá trị dương (0.021 và 0.032) và có ý
nghĩa ở mức 1%. Điều này cho thấy so với các doanh nghiệp chế biến chế tạo mới thành
lập thì các doanh nghiệp thành lập lâu năm sẽ có nhiều khả năng thâm nhập thị trường
xuất khẩu hơn. Như đã được nhận định trong các nghiên cứu trước đây về hành vi xuất
khẩu của doanh nghiệp (Bernard và Jensen, 1999; Barrios và cộng sự, 2001) thì độ tuổi
là biến số phản ánh mức độ thành công trong sản xuất kinh doanh vì những doanh nghiệp
lâu năm thường tạo dựng được một vị thế và thị phần trong nước vững chắc hơn, do vậy
thường có động lực cũng như tiềm lực mạnh hơn để phát triển các thị trường mới thông
qua hoạt động xuất khẩu.
Hình thức sở hữu (Ownership) đóng vai trò quan trọng trong cả hai quyết định
xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam song chỉ có ý nghĩa thống kê với
mô hình quyết định tham gia xuất khẩu ở mức 1% và tham số ước lượng -0.829. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng ước lượng biến tương tác fdio*Ownership có ý nghĩa thống kê và
mang giá trị dương (0.746). Do vậy, nếu xét ở cấp độ ngành với giá trị fdio bình quân
(0.3745) thì tác động biên ròng (net marginal impact) của biến Ownership vẫn có giá trị
âm (-0.550). Theo đó, so với các doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp chế biến chế tạo
thuộc khu vực nhà nước có nhiều khả năng tham gia xuất khẩu hơn. Các nghiên cứu
trước đây về lan tỏa xuất khẩu tại Việt Nam (Anwar & Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng
Đào & Phạm Thế Anh, 2012) cũng tìm thấy bằng chứng tương tự về lợi thế gia nhập thị
trường xuất khẩu của các doanh nghiệp sở hữu nhà nước. Điều này có thể được giải thích
bởi những ưu thế mà khối doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi từ việc dễ dàng tiếp
cận các nguồn vốn (được nhà nước bảo lãnh) hay các chương trình hỗ trợ xúc tiến xuất
khẩu của Chính phủ.
Việc doanh nghiệp trong nước có nằm trong các khu công nghiệp/khu chế xuất
hay không (Zone) cũng là nhân tố quan trọng có tác động tích cực đến quyết định tham
gia thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Kết quả ước lượng
cho thấy biến Khu công nghiệp (Zone) có tham số ước lượng dương và ý nghĩa ở mức 1%
146
(1.035) và tác động này không phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài FDI trong ngành (vì ước
lượng biến tương tác fdio*Zone không có ý nghĩa thống kê). Do vậy, ta có thể kết luận
rằng doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong các khu công nghiệp/khu chế xuất sẽ có
nhiều khả năng tham gia thị trường xuất khẩu hơn so với những doanh nghiệp hoạt động
riêng lẻ khác. Đây là một kết quả được kỳ vọng vì một trong những mục tiêu chính mà các
chính sách ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương hướng đến khi thành lập các
khu công nghiệp/khu chế xuất là nhằm hỗ trợ, khuyến khích và thúc đẩy các doanh
nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp trong nước) tham gia và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hai biến đặc trưng khác của doanh nghiệp là mức độ vốn hóa (K_intensity) và
chất lượng lao động (L_quality) có ảnh hưởng không đáng kể đến quyết định tham gia
xuất khẩu cũng như quyết định tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngoại trừ ước
lượng biến tương tác fdio*K_intensity thì ước lượng tham số riêng lẻ của hai biến này và
biến tương tác fdio*L_quality ở cả hai phương trình đều không có ý nghĩa thống kê.
Theo đó, mức độ vốn hóa có tác động cùng chiều và có ý nghĩa đến quyết định có xuất
khẩu hay không của doanh nghiệp (PARTICIPATE) nhưng tác động này phụ thuộc vào
yếu tố nước ngoài FDI. Như vậy, nếu xét ở cấp độ ngành với giá trị fdio bình quân thì
doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn hóa cao hơn sẽ có nhiều khả năng tham gia thị
trường xuất khẩu hơn. Tiềm lực tài chính mạnh là một nhân tố quyết định về khả năng
gia nhập và duy trì, phát triển thị trường xuất khẩu.
Vị trí địa lý (dRegion) là biến số quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến cả hai
quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp ở Khu vực Đồng
bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) ít có khả năng tham gia thị trường
xuất khẩu và nếu có xuất khẩu thì tỷ trọng xuất khẩu cũng thấp hơn so với các doanh
nghiệp ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Ước lượng tham số Khu
vực (dRegion1) ở cả hai phương trình xuất khẩu đều có giá trị âm (lần lượt là –0.168 và –
0.026) và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%). Cần lưu ý rằng, tác động này đến quyết
định tham gia xuất khẩu phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài FDI khi ước lượng biến tương
tác fdio*dRegion1 mang giá trị dương (0.337) và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Nếu xét
147
ở cấp độ ngành với giá trị fdio bình quân thì tác động biên ròng của biến dRegion1 vẫn là
tác động ngược chiều (–0.042). Tương tự, so với các doanh nghiệp ở Khu vực Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long thì doanh nghiệp ở Khu vực Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung (dRegion2) cũng ít có khả năng tham gia xuất khẩu và tỷ trọng
xuất khẩu cũng thấp hơn. Kết quả này phần nào cho thấy ưu thế của các doanh nghiệp
phía Nam trong việc năng động tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Mặc dù không phải là các biến trọng tâm trong mô hình Heckman về lan tỏa xuất
khẩu nhưng các biến đặc trưng ngành được đưa vào mô hình nghiên cứu nhằm kiểm soát
những tác động biến đổi theo ngành có thể ảnh hưởng đến quyết định xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước. Kết quả ước lượng từ Bảng 4.13 cho thấy các biến số ngành có
tác động đáng kể đến hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó, biến số
đại diện mức độ cạnh tranh hay mức độ tập trung trong mỗi ngành (Concentrationjt)
được đo lường bằng chỉ số Herfindahl index có tác động ngược chiều (–1.529) và có ý
nghĩa ở mức 5% đến quyết định có xuất khẩu hay không của doanh nghiệp trong nước.
Kết quả này phù hợp với kỳ vọng ban đầu rằng khi chỉ số Herfindahl index tăng đồng
nghĩa với mức độ tập trung gia tăng (hay mức độ cạnh tranh trong ngành giảm) thì doanh
nghiệp trong nước thường có xu hướng tập trung khai thác thị trường trong nước, khiến
cho động lực tham gia xuất khẩu giảm sút. Kết luận này cũng nhất quán với các nghiên
cứu trước đây về lan tỏa xuất khẩu của Việt Nam và các nước khác trên thế giới (Sun,
2009; Anwar & Nguyen, 2011; Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh, 2012).
Biến số tỷ trọng xuất khẩu của ngành (Indexintjt) được sử dụng nhằm đo lường
tầm quan trọng của mỗi ngành trong cấu trúc xuất khẩu của toàn ngành (Ruane &
Sutherland, 2005; Kneller & Pisu, 2007; Franco & Sasidharan, 2009). Biến này giúp kiểm
soát được giả định rằng các doanh nghiệp trong các ngành có tỷ trọng xuất cao thường có
nhiều khả năng tham gia xuất khẩu hơn và xuất khẩu nhiều hơn, đồng thời các doanh
nghiệp nước ngoài thường có xu hướng lựa chọn đầu tư vào những ngành có tỷ trọng xuất
khẩu cao. Kết quả ước lượng cho thấy doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành có
tỷ trọng xuất khẩu cao có thể có nhiều khả năng tham gia xuất khẩu hơn (0.223) nhưng lại
148
có tỷ trọng xuất khẩu thấp hơn (–0.088). Tuy nhiên, các tham số ước lượng này lại không
có ý nghĩa thống kê nên ta không có đủ độ tin cậy để đưa ra kết luận cho tác động của
biến số này trong mô hình nghiên cứu.
Ngoài ra, vai trò của các đặc trưng và biến động ngành đến quyết định xuất khẩu
của doanh nghiệp trong nước cũng được kiểm soát thông qua các biến giả ngành
(dIndustry) trong mô hình. Kết quả ước lượng cho thấy 19/21 và 18/21 biến giả ngành có
ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5% lần lượt trong mô hình quyết định tham gia xuất khẩu
và mô hình tỷ trọng xuất khẩu. Điều này khẳng định sự hiện diện của những tác động đặc
trưng ngành đến hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam.
4.4.4 Phân tích độ nhạy với ba thang đo đại diện FDI (Sensitivity Analysis)
Hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI được kiểm định và đo lường thông qua biến số
FDI trong mô hình Heckman về quyết định tham gia xuất khẩu và quyết định tỷ trọng
xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước (Greenaway & cộng sự, 2004; Kneller & Pisu,
2007). Do vậy, biến số FDI đo lường sự hiện diện hay mức độ quan trọng của FDI trong
ngành là biến số trọng tâm và việc đo lường biến số FDI như thế nào đóng vai trò quan
trọng trong ước lượng mô hình cũng như đưa ra các đánh giá, dự báo tin cậy về hiệu ứng
lan tỏa từ FDI.
So với các nghiên cứu trước đây về lan tỏa từ FDI vốn chỉ sử dụng một thang đo
đơn lẻ cho FDI thì luận án này thực hiện Phân tích độ nhạy (Sensitivity Analysis) bằng
cách ước lượng mô hình, sử ba biến đại diện để phân tích và so sánh. Ba biến đại diện
cho FDI gồm: Tỷ trọng doanh thu (fdio); Tỷ trọng lao động (fdie); và Tỷ trọng tài sản
(fdia) của doanh nghiệp FDI trong ngành. Kết quả ước lượng sẽ giúp đưa ra những nhận
định mang tính tương quan so sánh về mức độ nhạy cảm của các ước lượng trong mô
hình xuất khẩu cũng như nhân tố quyết định quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Phân tích
độ nhạy cũng giúp giảm thiểu kết quả thiên lệch khi chỉ sử dụng một thang đo đại diện
FDI, từ đó phản ánh toàn diện hơn hiệu ứng lan tỏa từ FDI đến xuất khẩu của doanh
nghiệp trong nước.
149
Bảng 4.16 và Bảng 4.17 trình bày kết quả ước lượng mô hình Heckman sử dụng
hai thang đo đại diện lần lượt là tỷ trọng lao động (fdie) và tỷ trọng tài sản (fdia) của
doanh nghiệp FDI trong ngành. So với kết quả ước lượng sử dụng thang đo tỷ trọng
doanh thu của FDI (fdio) ở Bảng 4.13, ta có thể nhận thấy sự nhất quán tương đối cao với
các tổng thể mô hình và các tham số ước lượng trong hai mô hình còn lại. Kiểm định
Wald cho ý nghĩa tổng thể của Mô hình sử dụng thang đo fdie và fdia cho kết quả lần
lượt là 216.85 và 219.23 (so với 218.04 trong Mô hình sử dụng thang đo fdio) và đều có
ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Thêm vào đó, kiểm định Wald cho hệ số tương quan ()
giữa hai sai số của phương trình xuất khẩu cho Mô hình sử dụng thang đo fdie và fdia có
giá trị lần lượt là 5.58 và 5.48 (so với 4.98 trong Mô hình sử dụng thang đo fdio) và cũng
đều ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Ngoài ra, các hệ số athrho và lnsigma ở cả Mô hình sử
dụng thang đo fdie và fdia cũng đều có ý nghĩa nên cũng cho thấy sự tồn tại của vấn đề
thiên lệch lựa chọn mẫu. Do vậy, ta có thể kết luận rằng Mô hình chọn mẫu Heckman là
phù hợp với tập dữ liệu nghiên cứu và có sự nhất quán khi sử dụng lần lượt ba thang đo
đại diện FDI là fdio, fdie và fdia.
Bảng 4.16 Kết quả ước lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Thang đo fdie)
(1) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH THAM GIA XUẤT KHẨU (PARTICIPATE)
(2) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH TỶ TRỌNG XUẤT KHẨU (INTENSITY)
Tên biến (Variable)
Hệ số (Coef.)
Hệ số (Coef.)
0.479***
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.037
N
Sai số chuẩn (Std. Err.)
0.021*** -0.743*** 1.046*** 9.72e-06 -7.68e-06
0.002 0.076 0.044 0.000 0.000
0.001* -0.003 -0.010 4.47e-06 -0.000
0.000 0.016 0.012 5.30e-06 0.000
-0.103***
0.031
-0.028***
0.009
-0.286***
0.045
0.012
0.014
Kinh nghiệm xuất khẩu (Experience) Độ tuổi (Age) Hình thức sở hữu (Ownership) Khu công nghiệp (Zone) Mức độ vốn hóa (K_intensity) Chất lượng nhân lực (L_quality) Khu vực Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Khu vực Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung
150
0.616 0.098 0.006 0.246 0.126 0.000 0.000 0.085 0.138 0.802
1.776*** 0.458*** 0.041*** 0.675*** -0.119 0.0001 0.0005 0.213** 0.235* -2.056**
0.162 N 0.001 0.037 0.026 9.96e-06 0.000 0.021 0.040 0.204
-0.403** N -0.001 0.001 -0.001 -0.00001 0.00006 0.014 -0.017 0.221
0.152
-0.105**
0.468***
0.052
Y Y 0.050
0.216
0.049
Y Y -1.286164*** -17020.83 216.85***
5.58** 130.46*** 92.54***
–0.097** –1.888*** –0.097 0.151 –0.015
0.041 0.026 0.041 0.004 0.006
(dRegion2) Hiện diện FDI (fdie) fdie*Experience fdie*Age fdie*Ownership fdie*Zone fdie*K_intensity fdie*L_quality fdie*dRegion1 fdie*dRegion2 Mức độ cạnh tranh trong ngành (Concentration) Tỷ trọng xuất khẩu ngành (Indexint) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Log pseudolikelihood Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho sự độc lập giữa phương trình (1) và (2) Kiểm định Wald cho fdie và các biến tương tác với fdie Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdie Athrho lnsigma rho sigma lambda Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%; Y: Có trong mô hình ; N: Không có trong mô hình.
Bảng 4.17 Kết quả ước lượng về lan tỏa xuất khẩu từ FDI (Thang đo fdia)
(1) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH THAM GIA XUẤT KHẨU (PARTICIPATE)
(2) MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH TỶ TRỌNG XUẤT KHẨU (INTENSITY)
Tên biến (Variable)
Hệ số (Coef.)
Hệ số (Coef.)
0.405***
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.050
N
Sai số chuẩn (Std. Err.)
Kinh nghiệm xuất khẩu
151
0.021*** -0.864*** 1.033*** 2.41e-06 0.00008
0.002 0.097 0.060 0.000 0.000
0.001 -0.018 -0.015 3.89e-06 -0.00006
0.001 0.021 0.016 5.20e-06 0.000
-0.192***
0.041
-0.025**
0.011
-0.278***
0.056
0.025
0.019
0.084 0.002 0.038 0.029 0.000 0.000 0.021 0.040 0.196
-0.037 N -0.001 0.034 0.010 -0.00002 0.0001 0.004 -0.044 0.183
2.068*** 0.489*** 0.028*** 0.741*** -0.048 0.0001** 0.00002 0.348*** 0.134* -1.640**
0.323 0.100 0.005 0.221 0.124 0.000 0.000 0.084 0.123 0.745
0.572***
0.153
-0.116**
0.052
0.050
Y Y 0.056
0.213
Y Y -1.024*** -17035.82 219.23***
5.48** 100.06*** 82.52***
(Experience) Độ tuổi (Age) Hình thức sở hữu (Ownership) Khu công nghiệp (Zone) Mức độ vốn hóa (K_intensity) Chất lượng nhân lực (L_quality) Khu vực Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Khu vực Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdia) fdia*Experience fdia*Age fdia*Ownership fdia*Zone fdia*K_intensity fdia*L_quality fdia*dRegion1 fdia*dRegion2 Mức độ cạnh tranh trong ngành (Concentration) Tỷ trọng xuất khẩu ngành (Indexint) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Log pseudolikelihood Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định Wald cho sự độc lập giữa phương trình (1) và (2) Kiểm định Wald cho fdia và các biến tương tác với fdia Kiểm định Wald cho các biến tương tác với fdia Athrho lnsigma rho sigma lambda
–.098** –1.887*** –0.10 0.151 –0.001
0.042 0.026 0.041 0.004 0.006
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%; Y: Có trong mô hình ; N: Không có trong mô hình
152
Về các nhân tố tác động đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam,
các tham số ước lượng trong cả ba mô hình Heckman cũng cho thấy sự tương đồng khá
cao về chiều hướng và mức độ ảnh hưởng. Ví dụ, biến Kinh nghiệm xuất khẩu
(Experience) có ước lượng dương và có ý nghĩa mức 1% là 0.479 và 0.405 trong Mô
hình sử dụng thang đo fdie và fdia (so với 0.421 trong Mô hình sử dụng fdio). Tương tự,
các đặc trưng doanh nghiệp khác trong mô hình cũng có tác động nhất quán đến hai
quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước với tham số ước lượng có sự chênh
lệch không đáng kể khi sử dụng thang đo fdie và fdia. Riêng với biến đặc trưng ngành
Mức độ cạnh tranh (Concentration) thì mặc dù cùng có ước lượng âm có ý nghĩa ở cả ba
mô hình Heckman nhưng có sự khác biệt về độ lớn của ước lượng ở Mô hình sử dụng
thang đo fdie (–2.056) so với hai mô hình còn lại (–1.529 và –1.640 trong Mô hình sử
dụng thang đo fdio và fdia).
Về hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI, kết quả ước lượng sử dụng thang đo fdie và
fdia cũng cho thấy sự tồn tại của tác động lan tỏa từ FDI đến quyết định tham gia xuất
khẩu của doanh nghiệp trong nước. Kết quả kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời
của biến đại diện FDI và các biến tương tác trong hai Mô hình sử dụng fdie và fdia lần lượt
là 130.46 (P_value =0.000) và 100.06 (P_value =0.000) so với 145.41 (P_value =0.000)
trong Mô hình sử dụng thang đo fdio. Như vậy, dù sử dụng thang đo đại diện FDI nào thì
cũng khẳng định sự hiện diện của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng ước lượng tham số đại diện FDI ở mô hình quyết định tham gia xuất khẩu sử dụng tỷ
trọng lao động fdie (1.776) có giá trị thấp hơn so với mô hình sử dụng hai thang đo còn lại
là tỷ trọng doanh thu fdio (2.277) và tỷ trọng tài sản fdia (2.068).
Về các nhân tố quyết định lan tỏa xuất khẩu từ FDI, kết quả ước lượng trong ba
Mô hình Heckman cũng cho thấy sự tương đồng nhất định khi sử dụng hai thang đo tỷ
trọng lao động và tỷ trọng tài sản. Kết quả kiểm định Wald cho mức ý nghĩa đồng thời
của các biến tương tác với FDI trong hai Mô hình sử dụng fdie và fdia lần lượt là 92.54
(P_value =0.000) và 82.52 (P_value =0.000) so với 82.01 (P_value =0.000) trong Mô
hình sử dụng thang đo fdio. Do vậy, mô hình sử dụng hai thang đo fdie và fdia cũng
153
khẳng định rằng quy mô hay độ lớn của lan tỏa từ FDI phụ thuộc vào các đặc trưng
doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, với mô hình sử dụng thang đo fdie thì biến mức độ
vốn hóa (K_intensity) không có tác động đáng kể đến quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
4.5 Tóm tắt chương
Chương này đã trình bày và thảo luận các kết quả phân tích thực nghiệm về tác
động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các doanh nghiệp chế biến chế
tạo Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2013. Mô tả chi tiết dữ liệu nghiên cứu cho thấy
tổng số doanh nghiệp ở 22 nhóm ngành tăng đều khoảng trên 8%. Các doanh nghiệp FDI
chiếm gần 10% mẫu nghiên cứu và nhóm 5 ngành thu hút nhiều FDI nhất bao gồm: Sản
xuất trang phục; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; Sản xuất sản phẩm từ cao su và
plastic; Sản xuất chế biến thực phẩm; và Dệt. Về hoạt động xuất khẩu, 22 ngành chế biến
chế tạo đều có doanh nghiệp tham gia xuất khẩu với nhóm 5 ngành có số lượng doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu nhiều nhất gồm: Sản xuất chế biến thực phẩm; Sản xuất trang
phục; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; và
Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế.
Tác động lan tỏa công nghệ được ước lượng bằng cả hai phương pháp FEM và
REM. Kết quả kiểm định Hausman cho thấy tác động cố định (FEM) là phù hợp cho tập
dữ liệu nghiên cứu. Để kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến
doanh nghiệp trong nước thì ta thực hiện kiểm định mức ý nghĩa đồng thời của biến đại
diện FDI và các biến tương tác. Kết quả ước lượng cho thấy FDI có ảnh hưởng lan tỏa
đến năng suất của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Tuy vậy, hiệu ứng lan tỏa
công nghệ diễn ra không đồng đều mà phụ thuộc vào các đặc trưng của doanh nghiệp
trong nước. Theo đó, mức độ vốn hóa và quy mô sản xuất có tương quan dương với mức
độ lan tỏa công nghệ từ FDI trong khi khoảng cách công nghệ và vị trí địa lý có tương
quan âm với mức độ lan tỏa công nghệ.
Tác động lan tỏa xuất khẩu được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại
MLE cho hai phương trình xuất khẩu theo mô hình chọn mẫu Heckman. Kết quả kiểm
154
định cho thấy hai quyết định xuất khẩu phụ thuộc lẫn nhau và có tồn tại vấn đề thiên lệch
chọn mẫu. Do vậy, mô hình Heckman là phù hợp cho tập dữ liệu. Kết quả ước lượng cho
thấy sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng lan tỏa đến quyết định tham
gia xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam. Quan trọng hơn, hiệu ứng
lan tỏa xuất khẩu phụ thuộc vào đặc trưng doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp tư
nhân, có thâm niên hoạt động, có mức độ vốn hóa cao và hoạt động ở khu vực miền Bắc
và Trung được hưởng lợi từ lan tỏa xuất khẩu.
155
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
5.1 Kết luận
Luận án này nghiên cứu một cách có hệ thống về các tác động lan tỏa của dòng
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, trong đó tập trung phân tích và kiểm định
hiệu ứng lan tỏa và các nhân tố quyết định đến lan tỏa công nghệ và lan tỏa về xuất khẩu
từ FDI. Tác động lan tỏa là những hiệu ứng ngoại tác về thông tin xuất phát từ những
tương tác có chủ đích hay không có chủ đích giữa các chủ thể kinh tế theo thời gian.
Thông qua khả năng rò rỉ, phát tán và chuyển giao, chia sẻ thông tin, các doanh nghiệp
FDI có thể gián tiếp tác động đến năng lực công nghệ và xuất khẩu của doanh nghiệp
trong nước. Các kênh lan tỏa từ FDI bao gồm sự di chuyển lao động, biểu thị và bắt
chước, áp lực cạnh tranh và các mối liên kết cung ứng. Quy mô lan tỏa từ FDI không
diễn ra đồng nhất đối với tất cả doanh nghiệp trong cùng ngành hay cho toàn bộ doanh
nghiệp trong nước mà đa dạng vì phụ thuộc vào khả năng hấp thụ hay đặc trưng riêng
của doanh nghiệp trong nước.
Tác động lan tỏa từ FDI là đề tài nghiên cứu khá mới và nhận được sự quan tâm
gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt là ở các quốc gia mới nổi và đang phát triển khi
dòng vốn FDI gia tăng cho thấy những tác động không mong muốn đến môi trường và
nền kinh tế trong nước. Với trường hợp của Việt Nam, một số nghiên cứu về lan tỏa
công nghệ đã được thực hiện với dữ liệu từ trước năm 2011 và chỉ có hai nghiên cứu về
lan tỏa xuất khẩu sử dụng dữ liệu trước 2005 với cỡ mẫu khá nhỏ. Bên cạnh đó, các nghiên
cứu này chủ yếu tập trung kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa, xác định các kênh lan
tỏa và sử dụng một thang đo đại diện FDI. Trong khi đó, bước nghiên cứu tiếp theo là
tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa thì vẫn chưa được tìm hiểu sâu.
Dựa trên kết quả tổng quan và lược khảo lý thuyết, luận án đã xác định các khe
hổng nghiên cứu và xây dựng khung phân tích đề nghị được trình bày trong Chương 2.
Trong đó, hai nhánh nghiên cứu chính của luận án là phân tích tác động lan tỏa công
nghệ và lan tỏa xuất khẩu thông qua việc kiểm định sự tồn tại của các hiệu ứng lan tỏa và
156
đặc biệt là các nhân tố quyết định lan tỏa, từ đó đề xuất các hàm ý chính sách về tác động
lan tỏa của FDI tại Việt Nam. Tiếp đến, để hiện thực hóa khung phân tích và các mục
tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu lựa chọn được trình bày và phân tích trong
Chương 3. Với hiệu ứng lan tỏa công nghệ, luận án sử dụng cách tiếp cận phổ biến là
dựa vào mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas để xây dựng và ước lượng mô hình hàm
năng suất của các doanh nghiệp trong nước và các biến số tác động, trong đó bao gồm
thang đo đại diện cho FDI. Với hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu, mô hình chọn mẫu Heckman
được áp dụng nhằm kiểm soát vấn đề thiên lệch chọn mẫu do chỉ có một số lượng nhất
định doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu.
Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa công nghệ được ước lượng bằng phương pháp
ước lượng dữ liệu bảng, bao gồm mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động
ngẫu nhiên (REM). Kiểm định Hausman được sử dụng để so sánh và xác định sự phù
hợp của mô hình FEM hay mô hình REM. Mô hình kinh tế lượng về lan tỏa xuất khẩu
được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại (MLE) cho hai quyết định tham gia
xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu theo mô hình chọn mẫu Heckman. Mô hình Heckman có
ưu thế vượt trội khi tính đến mối tương quan giữa hai quyết định xuất khẩu và điều
chỉnh, kiểm soát vấn đề thiên lệch lựa chọn mẫu. Kỹ thuật ước lượng MLE cho phép ước
lượng đồng thời hai phương trình xuất khẩu với sai số chuẩn mạnh để kiểm soát vấn đề
phương sai thay đổi.
Sau khi xác định khung phân tích và phương pháp nghiên cứu, luận án thực hiện
ước lượng và kiểm định tác động lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam, sử dụng dữ liệu bảng cấp doanh nghiệp trong
giai đoạn 2011 – 2013. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các cuộc điều tra toàn diện
doanh nghiệp do Tổng Cục Thống kê thực hiện với mẫu nghiên cứu sau khi sàng lọc bao
gồm 137,419 quan sát. Các phân tích và thảo luận chi tiết kết quả nghiên cứu thực
nghiệm được trình bày trong Chương 4. Các kết quả nghiên cứu chính của luận án được
tóm tắt dưới đây:
157
Tác động lan tỏa công nghệ từ FDI:
(i)
Giả thuyết về sự tồn tại hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI đến
doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam đã được luận án khẳng định.
Giả thuyết về quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI diễn ra không đồng nhất mà phụ
thuộc vào khả năng hấp thụ hay đặc trưng riêng của doanh nghiệp trong nước đã
được luận án khẳng định với các kết luận cụ thể dưới đây:
- Các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước có mức độ vốn hóa cao hơn sẽ
có lợi thế hơn trong hấp thu lan tỏa tích cực từ FDI để nâng cao năng lực công
nghệ và hiệu quả sản xuất;
- Quy mô sản xuất cũng có tác động cùng chiều đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ
FDI; hay nói cách khác doanh nghiệp có quy mô càng lớn càng hưởng lợi nhiều
hơn từ hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI;
- Khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước so với doanh nghiệp
FDI càng lớn thì doanh nghiệp trong nước càng khó có thể tiếp cận, học hỏi
hay bắt chước được các công nghệ mới từ doanh nghiệp FDI;
- Doanh nghiệp ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long có khả
năng hưởng lợi nhiều hơn từ lan tỏa công nghệ của FDI.
Giả thuyết về vai trò của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đối với năng
suất của doanh nghiệp trong nước đã được luận án khẳng định, cụ thể:
- Doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước có mức độ vốn hóa càng cao thì có
năng suất lao động càng cao, và tác động này phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài
FDI trong ngành;
- Doanh nghiệp sở hữu đội ngũ lao động có chất lượng càng cao thì càng có
nhiều khả năng gia tăng năng suất lao động, và tác động này không phụ thuộc
vào yếu tố nước ngoài FDI;
158
- Khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước và
doanh nghiệp FDI càng lớn thì năng suất lao động của doanh nghiệp trong
nước càng giảm;
- Mức độ cạnh tranh trong ngành càng tăng thì càng tạo ra động lực để doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước cải tiến công nghệ và từ đó nâng cao năng
suất lao động.
Kết quả phân tích độ nhạy sử dụng hai thang đo khác đại diện cho FDI (bao gồm,
tỷ trọng lao động (fdie) và tỷ trọng tài sản (fdia) của FDI trong ngành) cho thấy sự
tương đồng tương đối cao về chiều hướng và mức độ ảnh hưởng của các biến số;
cụ thể:
- Kiểm định Hausman cho thấy Mô hình tác động cố định (FEM) là phù hợp cho
tập dữ liệu khi ước lượng lan tỏa công nghệ từ FDI sử dụng hai thang đo fdie
và fdia;
- Kết quả kiểm định Wald cũng khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công
nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước khi sử dụng hai
thang đo này;
- Các tham số ước lượng trong cả hai mô hình sử dụng fdie và fdia có sự nhất
quán về dấu và độ lớn so với các ước lượng trong mô hình chính sử dụng
thang đo fdio;
- Một điểm đáng lưu ý là tham số ước lượng fdie có giá trị dương nhưng không
có ý nghĩa thống kê và giá trị ước lượng cũng có sự chênh lệch đáng kể so với
ước lượng fdio và fdia.
Như vậy, kết quả nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa công nghệ
từ FDI đã đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm cho trường hợp doanh nghiệp Việt
Nam và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đầu tiên của luận án về xây dựng và kiểm định
tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. Tiếp đến, luận án đã
giải quyết khoảng trống nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng lan tỏa công nghệ từ FDI
159
dựa trên kết quả kiểm định các giả thuyết HA2 – HA7 và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu
thứ ba. Các kết quả phân tích độ nhạy sử dụng ba thang đo đại diện FDI giải quyết
khoảng trống nghiên cứu đã nêu và hoàn thành mục tiêu thứ tư của luận án.
(ii) Tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI:
Giả thuyết về sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp
chế biến chế tạo Việt Nam đã được luận án khẳng định;
Giả thuyết về quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI diễn ra không đồng nhất mà phụ
thuộc vào khả năng hấp thụ hay đặc trưng riêng của doanh nghiệp trong nước đã
được luận án khẳng định, cụ thể:
- Các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước nếu từng có kinh nghiệm xuất
khẩu thì có khả năng hấp thu tốt hơn hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI;
- So với các doanh nghiệp non trẻ vừa thành lập thì các doanh nghiệp thành lập
lâu năm có tiềm lực mạnh hơn trong học hỏi và hấp thụ hiệu ứng lan tỏa xuất
khẩu tích cực từ các doanh nghiệp FDI;
- So với các doanh nghiệp chế biến chế tạo thuộc sở hữu nhà nước thì doanh
nghiệp sở hữu tư nhân là đối tượng hấp thụ được nhiều lan tỏa tích cực về xuất
khẩu từ FDI hơn;
- Các doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn hóa cao hơn sẽ có lợi thế hơn trong
hấp thu lan tỏa tích cực về xuất khẩu từ FDI;
- Các doanh nghiệp chế biến chế tạo ở khu vực miền Bắc và Trung Bộ có điều
kiện thuận lợi hơn trong hấp thụ hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI.
Giả thuyết về vai trò của đặc trưng doanh nghiệp và đặc trưng ngành đối với năng
lực xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước đã được luận án khẳng định, cụ thể:
- Các doanh nghiệp chế biến chế tạo từng xuất khẩu trước đây đã thực hiện đầu
tư và phát sinh các chi phí cố định nhằm thâm nhập thị trường xuất khẩu, do
vậy sẽ có nhiều khả năng tiếp tục hoạt động xuất khẩu trong năm tiếp theo;
160
- So với các doanh nghiệp mới thành lập thì các doanh nghiệp trong nước thành
lập lâu năm sẽ có nhiều khả năng thâm nhập thị trường xuất khẩu hơn;
- So với các doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước có
nhiều khả năng tham gia xuất khẩu hơn;
- Doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp/khu chế xuất sẽ có nhiều
khả năng tham gia thị trường xuất khẩu hơn so với những doanh nghiệp hoạt
động riêng lẻ khác;
- Các doanh nghiệp phía Bắc và Trung Bộ ít có khả năng tham gia thị trường
xuất khẩu và nếu có xuất khẩu thì tỷ trọng xuất khẩu cũng thấp hơn so với các
doanh nghiệp ở Khu vực phía Nam;
- Mức độ cạnh tranh trong ngành giảm thì doanh nghiệp trong nước thường có
xu hướng tập trung khai thác thị trường trong nước, khiến cho động lực tham
gia xuất khẩu giảm sút.
Kết quả phân tích độ nhạy sử dụng hai thang đo khác đại diện cho FDI (bao gồm,
tỷ trọng lao động (fdie) và tỷ trọng tài sản (fdia) của FDI trong ngành) cho thấy sự
tương đồng tương đối cao về chiều hướng và mức độ ảnh hưởng của các biến số;
cụ thể:
- Kiểm định Wald cho hệ số tương quan () và các hệ số athrho và lnsigma đều
cho thấy quan hệ giữa hai quyết định xuất khẩu và sự tồn tại của vấn đề chọn
mẫu, do vậy khẳng định sự phù hợp của mô hình chọn mẫu Heckman khi ước
lượng lan tỏa xuất khẩu từ FDI sử dụng hai thang đo fdie và fdia;
- Kết quả kiểm định Wald cũng khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa từ
FDI đến quyết định tham gia xuất khẩu doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước khi sử dụng hai thang đo này;
- Các tham số ước lượng trong cả hai mô hình sử dụng fdie và fdia có sự nhất
quán về dấu và độ lớn so với mô hình chính sử dụng thang đo fdio;
161
- Với mô hình sử dụng thang đo fdie, tham số ước lượng biến fdie có giá trị ước
lượng thấp hơn so với các ước lượng fdio và fdia.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu
từ FDI đã đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm cho trường hợp doanh nghiệp Việt
Nam và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu thứ hai của luận án về xây dựng và kiểm định
tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. Tiếp đến, luận án đã giải
quyết khoảng trống nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng lan tỏa xuất khẩu từ FDI dựa
trên kết quả kiểm định các giả thuyết HB2 – HB8 và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu thứ
ba. Các kết quả phân tích độ nhạy sử dụng ba thang đo đại diện FDI giúp giải quyết
khoảng trống nghiên cứu đã nêu và hoàn thành mục tiêu thứ tư của luận án. Các kết quả
nghiên cứu kể trên làm cơ sở để luận án đề xuất các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa
công nghệ và lan tỏa xuất khẩu của FDI tại Việt Nam và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu
cuối cùng.
5.2 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa của FDI tại Việt Nam
5.2.1 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa công nghệ từ FDI
5.2.1.1 Rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp FDI
Kết quả nghiên cứu từ Chương 4 cho thấy khoảng cách công nghệ có tác động
ngược chiều đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo
trong nước. Khoảng cách công nghệ càng lớn thì càng cản trở doanh nghiệp trong nước
tiếp cận và bắt chước các kỹ thuật, công nghệ mới từ FDI, từ đó làm hạn chế khả năng
hấp thụ lan tỏa công nghệ từ FDI. Mặc dù chất lượng công nghệ của doanh nghiệp FDI
tại Việt Nam là khá thấp (khi chỉ có 5-6% là công nghệ cao) nhưng mặt bằng công nghệ
chung của khối FDI vẫn cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong nước
(BKHĐT, 2014). Do đó, khoảng cách công nghệ lớn với doanh nghiệp trong nước vẫn
tồn tại và đây có thể là một rào cản quan trọng, nhất là đối với các doanh nghiệp trong
162
nước có trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, khiến cho hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ
FDI không diễn ra với quy mô lớn như mong đợi. Do vậy, để tối đa hóa hiệu ứng lan tỏa
công nghệ tích cực từ FDI thì cần chú trọng các giải pháp rút ngắn khoảng cách công
nghệ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Để có thể rút ngắn khoảng
cách công nghệ thì trước tiên doanh nghiệp trong nước cần chú trọng phát triển nội lực,
kết hợp học hỏi và ứng dụng có chọn lọc kiến thức, công nghệ từ doanh nghiệp FDI sao
cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách
ở cấp ngành liên quan cần đầu tư phát triển công tác quy hoạch và hỗ trợ (đặc biệt là về
tài chính và kỹ thuật sản xuất) hướng đến ưu tiên các doanh nghiệp, ngành nghề có nhiều
thế mạnh và tiềm năng phát triển. Phát triển từ nội lực thường bền vững hơn và đồng thời
tăng cường hấp thụ lợi thế về kiến thức từ bên ngoài.
5.2.1.2 Gia tăng liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có
mức độ vốn hóa cao và quy mô lớn
Kết quả ước lượng chỉ ra rằng mức độ vốn hóa và quy mô của doanh nghiệp chế
biến chế tạo trong nước có ảnh hưởng tích cực đến hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI.
Điều này cho thấy đây là nhóm doanh nghiệp có nhiều tiềm lực, đặc biệt là tài chính nên
có nhiều ưu thế trong việc tiếp cận, học hỏi kiến thức và hiện thực hóa các đầu tư, cải
tiến kỹ thuật từ quá trình tương tác với doanh nghiệp FDI. Theo điều tra về năng lực cạnh
tranh và công nghệ cấp doanh nghiệp tại Việt Nam (CIEM, 2015) thì hạn chế về tài chính là
rào cản lớn nhất ngăn cản các doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước tiếp cận và cải thiện
công nghệ qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm cả tương tác và hấp thụ lan tỏa công nghệ từ
FDI. Do vậy, hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI có thể được gia tăng thông qua việc thúc
đẩy các mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có mức độ vốn
hóa cao và quy mô lớn. Các mối liên kết này có thể bao gồm tăng cường hoạt động của
các hiệp hội doanh nghiệp theo quy mô; quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất;
hay tổ chức các triển lãm sản phẩm, công nghệ sản xuất. Tuy nhiên, kỳ vọng về hiệu ứng
lan tỏa công nghệ với quy mô lớn từ FDI có thể thiếu thực tế khi mà các doanh nghiệp
163
chế biến chế tạo trong nước đa phần có mức độ vốn hóa thấp cộng với quy mô vừa và
nhỏ nên hạn chế khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI.
5.2.1.3 Nhân rộng kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư giữa các khu vực
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố khu vực địa lý có ảnh hưởng đáng kể đến
quy mô lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Theo
đó, các doanh nghiệp ở khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long hấp thụ
hiệu quả hơn từ lan tỏa công nghệ của FDI. Kết quả này có thể xuất phát từ thực tiễn
rằng mật độ tập trung cao của dòng vốn FDI và doanh nghiệp chế biến chế tạo trong
nước tại khu vực phía Nam tạo ra cơ hội tiếp cận, tương tác, học hỏi và sao chép kỹ thuật
công nghệ hiện đại từ doanh nghiệp FDI trong khu vực, từ đó gia tăng hiệu ứng lan tỏa
công nghệ của FDI. Do vậy, các kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư ở khu vực này
nên được chia sẻ và nhân rộng cho các địa phương khác. Đặc biệt, những kinh nghiệm về
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; quy hoạch và quản lý các khu công nghiệp, khu
chế xuất; cải cách thủ tục hành chính của các tỉnh thành trọng điểm thu hút FDI (như
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) có thể giúp doanh
nghiệp và chính quyền ở các tỉnh thành khác tăng khả năng thu hút, quản lý FDI và tạo
điều kiện cho doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi nhiều hơn từ hiệu ứng lan tỏa
công nghệ của FDI.
5.2.2 Các hàm ý chính sách về tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI
5.2.2.1 Tăng cường hỗ trợ khối doanh nghiệp tư nhân
Kết quả từ mô hình kinh tế lượng cho thấy hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI có
sự khác biệt theo loại hình sở hữu của doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước. Đáng
chú ý, so với khu vực doanh nghiệp nhà nước thì khu vực doanh nghiệp tư nhân có khả
năng tốt hơn trong việc hấp thụ hiệu quả tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI để từ đó gia
nhập thị trường xuất khẩu. Kết quả này cho thấy những ưu thế của doanh nghiệp tư nhân
về sự linh hoạt, năng động trong tiếp cận, học hỏi và vận dụng các thông tin từ bên
ngoài, bao gồm cả kiến thức về hoạt động xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI. Báo cáo thống
164
kê giai đoạn 2006-2015 cho thấy khu vực tư nhân có đóng góp ngày càng quan trọng cho
nền kinh tế Việt Nam khi chiếm khoảng 40% GDP, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, 30%
giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa và đạt tốc độ
tăng trưởng doanh thu bình quân 21,35%, cao vượt trội so với mức 8,51% của doanh
nghiệp nhà nước (TCTK, 2016).
Xét đến vai trò của khu vực tư nhân và ưu thế trong hấp thụ lan tỏa từ FDI thì hiệu
ứng lan tỏa xuất khẩu có thể được gia tăng thông qua các chính sách tích cực thúc đẩy
liên kết giữa khối doanh nghiệp tư nhân với khối doanh nghiệp FDI. Các bộ ngành liên
quan cần tích cực tổ chức các diễn đàn, hội chợ về xuất khẩu, đồng thời khuyến khích sự
tham gia của hai nhóm doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác, chia sẻ
kinh nghiệm xuất khẩu có thể được gia tăng qua mối liên kết giữa Hội doanh nhân tư
nhân Việt Nam và Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Những kênh thông tin này sẽ
giúp cho doanh nghiệp tư nhân trong nước từng bước tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm để bắt
đầu xuất khẩu. Ngoài ra, các hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn vay cần được tăng cường vì đây
là một trong những rào cản chính đối với các doanh nghiệp tư nhân hiện nay. Cung cấp
thông tin về cơ hội và thách thức của các hiệp định thương mại song và đa phương; hỗ
trợ xây dựng thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng là các giải pháp có thể giúp
doanh nghiệp tư nhân tháo gỡ khó khăn để phát triển và gia nhập thị trường xuất khẩu.
5.2.2.2 Thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước có
thâm niên hoạt động và mức độ vốn hóa cao
Kết quả ước lượng từ Chương 4 chỉ ra rằng độ tuổi và mức độ vốn hóa của doanh
nghiệp trong nước có tương quan cùng chiều với quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Điều
này cho thấy các doanh nghiệp có thâm niên hoạt động và tiềm lực tài chính là nhóm
doanh nghiệp chiếm ưu thế vượt trội về khả năng kết nối, học hỏi, tiếp thu và vận dụng
các thông tin kiến thức, kinh nghiệm hữu ích về xuất khẩu từ doanh nghiệp FDI để gia
tăng cơ hội gia nhập thị trường xuất khẩu. Do đó, hàm ý chính sách nhằm khuếch đại
hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu cần chú trọng xây dựng các giải pháp hỗ trợ xúc tiến xuất
165
khẩu hướng đến các doanh nghiệp trong nước có thâm niên hoạt động và mức độ vốn
hóa cao. Các chính sách hỗ trợ có thể bao gồm: tư vấn về thị trường xuất khẩu, hợp đồng
ngoại thương; thủ tục hải quan; phát triển dịch vụ cảng và logistic. Tuy nhiên, hiệu ứng
lan tỏa xuất khẩu từ FDI khó có thể diễn ra ở quy mô lớn khi đa phần các doanh nghiệp
chế biến chế tạo trong nước khá non trẻ (gần 60% thành lập dưới 5 năm) và khả năng tài
chính hạn chế (CIEM, 2015).
5.2.2.3 Tăng cường thu hút hút FDI vào khu vực phía Bắc và Trung
Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng quy mô lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo trong nước có sự khác biệt theo khu vực địa lý. Theo đó, các
doanh nghiệp trong nước ở khu vực phía Bắc và Trung được hưởng lợi nhiều hơn từ lan
tỏa xuất khẩu của FDI để gia nhập thị trường xuất khẩu. Kết quả này khẳng định tầm
quan trọng của yếu tố địa lý đối với khả năng lan tỏa thông tin, bao gồm thông tin về lan tỏa
xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước. Vì thế, các chính sách nhằm tăng cường thu
hút hút FDI vào khu vực phía Bắc và Trung có thể giúp khuếch đại lan tỏa xuất khẩu.
Điều này xuất phát từ kết quả nghiên cứu rằng lan tỏa xuất khẩu diễn ra mạnh mẽ hơn ở
khu vực có số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn ít (miền Bắc (26%) và miền
Trung (14%)). Đa số doanh nghiệp trong nước có xuất khẩu tập trung ở khu vực phía
Nam (chiếm 60%). Do vậy, FDI có thể không tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến quyết định
tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ở khu vực này. Hơn nữa, mức độ cạnh
tranh cao ở khu vực phía Nam có thể là rào cản khiến cho doanh nghiệp trong nước gặp
khó khăn trong tiếp cận, học hỏi thông tin từ doanh nghiệp FDI để nâng cao khả năng
tham gia xuất khẩu.
5.3 Những đóng góp chính của luận án
5.3.1 Đóng góp về lý thuyết
Thứ nhất, luận án xây dựng khung phân tích cho nghiên cứu về hiệu ứng lan tỏa từ
FDI đến doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, thay vì chỉ sử dụng một thang đo đại diện
cho FDI như các nghiên cứu trước, luận án đưa vào ba thang đo cho sự hiện diện của
166
FDI (bao gồm: tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng lao động và tỷ trọng tài sản của doanh nghiệp
FDI trong ngành). Việc sử dụng nhiều thang đo FDI có thể giúp so sánh và có đánh giá
toàn diện hơn về hiệu ứng lan tỏa.
Thứ hai, luận án sử dụng cách tiếp cận mới khi đưa vào mô hình các biến tương tác
với FDI để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu ứng lan tỏa. Việc sử dụng các biến
tương tác giúp phát triển và phân tích sâu hơn về mối quan hệ giữa các nhân tố, đặc biệt
là vai trò của đặc trưng doanh nghiệp trong nước và mối tương quan với hiệu ứng lan tỏa.
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan tỏa xuất khẩu
có sự khác biệt đáng kể và phụ thuộc vào đặc trưng của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu cập nhật với cỡ mẫu lớn cho giai
đoạn gần đây sẽ đóng góp cho các nghiên cứu về tác động lan tỏa từ FDI tại Việt Nam,
đặc biệt là lan tỏa xuất khẩu (vốn còn khá ít nghiên cứu và sử dụng dữ liệu trước năm
2005), từ đó làm cơ sở để phát triển các nghiên cứu tiếp theo.
5.3.2 Đóng góp về thực tiễn
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là về sự tồn tại của hiệu ứng
lan tỏa từ FDI và các nhân tố ảnh hưởng, cung cấp bằng chứng thực tiễn rất có ý nghĩa
cho các nhà hoạch định chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài, cho những người làm
công tác dự báo và cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chế biến chế tạo
trong nước. Đáng chú ý, kết quả nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của hiệu ứng lan tỏa
công nghệ và lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng hiệu ứng lan tỏa công nghệ và lan
tỏa xuất khẩu từ FDI không diễn ra đồng nhất cho toàn bộ các doanh nghiệp mà phụ
thuộc vào đặc trưng riêng của các doanh nghiệp trong nước. Do đó, các chính sách thu
hút FDI, các dự báo và hướng liên kết hợp tác giữa hai khối doanh nghiệp này cần dựa
trên sự chọn lọc và ưu tiên nhất định.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở để đề xuất một số gợi ý chính
sách nhằm phát huy hiệu ứng lan tỏa công nghệ tích cực từ FDI đến doanh nghiệp chế
167
biến chế tạo Việt Nam. Trong đó, hiệu ứng lan tỏa công nghệ từ FDI có thể được gia
tăng thông qua việc thúc đẩy các mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước có mức độ vốn hóa cao và quy mô lớn; chú trọng các giải pháp rút ngắn
khoảng cách công nghệ; chia sẻ và nhân rộng kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư của
các doanh nghiệp khu vực phía Nam đến các địa phương khác.
Thứ tư, các chính sách giúp khuếch đại hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu từ FDI đến các
doanh nghiệp chế biến chế tạo trong nước cũng được đưa ra dựa trên các kết quả ước
lượng. Các giải pháp trọng tâm bao gồm: ưu tiên hỗ trợ khối doanh nghiệp tư nhân;
doanh nghiệp có thâm niên hoạt động và mức độ vốn hóa cao; tăng cường thu hút FDI
vào khu vực phía Bắc và Trung.
5.4 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Dù tác giả đã nỗ lực hết sức trong quá trình thực hiện luận án nhằm đạt các mục
tiêu đề ra nhưng nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Các nghiên
cứu về sau có thể kế thừa và mở rộng nghiên cứu này bằng cách khắc phục một số hạn
chế sau:
Thứ nhất, do hạn chế về dữ liệu nên mô hình kinh tế lượng trong luận án này chưa
kiểm soát tác động của các yếu tố vĩ mô (như tỷ giá, tăng trưởng, lạm phát,…) đến năng
lực công nghệ và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
cũng như mức độ ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến quy mô lan tỏa công nghệ và lan
tỏa xuất khẩu từ FDI.
Thứ hai, do đặc điểm bộ dữ liệu ngắn trong 3 năm không cho phép đưa vào các
biến trễ để kiểm soát được độ trễ trong tác động lan tỏa từ FDI đến năng lực công nghệ
và xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Các nghiên cứu kế tiếp có thể tiếp cận và sử
dụng bộ dữ liệu bảng dài hơn để kiểm soát được tác động trễ và đưa ra những đánh giá
toàn diện hơn về hiệu ứng lan tỏa từ FDI.
Thứ ba, tuy mô hình FEM/REM có nhiều ưu điểm trong ước lượng dữ liệu bảng,
đặc biệt là trong các nghiên cứu thực nghiệm về lan tỏa công nghệ từ FDI, song gặp hạn
168
chế trong khắc phục toàn diện hiện tượng nội sinh. Do vậy, các nghiên cứu kế tiếp có thể
vận dụng thêm các phương pháp với biến công cụ như GMM hay 3SLS để kiểm soát
hiệu quả hơn khả năng xảy ra vấn đề nội sinh khi ước lượng mô hình.
Thứ tư, luận án sử dụng bộ dữ liệu cho giai đoan 2011–2013 trước khi Việt Nam
ký kết một số thỏa thuận thương mại tự do quan trọng với các đối tác chiến lược như
Liên minh hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan (15/12/2014), Hàn Quốc (5/5/2015), Liên
minh Châu Âu (2/12/2015) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (04/02/2016).
Các nghiên cứu kế tiếp có thể sử dụng bộ dữ liệu cập nhật hơn cho giai đoạn sau khi thực
hiện các thỏa thuận tự do hóa thương mại này để có đánh giá so sánh về tác động lan tỏa
công nghệ và lan tỏa xuất khẩu của FDI đến các doanh nghiệp trong nước.
169
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Phạm Thế Anh & Nguyễn Trọng Hoài (2017). Vai trò của FDI và đặc trưng doanh
nghiệp đối với xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh
tế 28(1), 05-23.
2. Nguyễn Trọng Hoài & Phạm Thế Anh (2016). Lan tỏa công nghệ từ FDI và các
nhân tố quyết định: Trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Phát triển
Kinh tế 27(8), 02-20.
3. Phạm Thế Anh & Nguyễn Thị Hồng Đào (2013). Quản trị Nguồn nhân lực và sự
gắn kết của người lao động với doanh nghiệp, Tạp chí Khoa học – Đại học Quốc
gia Hà Nội (4), 24-34.
4. Phạm Thế Anh, Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Tiến Lâm (2013). Ứng dụng mô
hình Probit trong phân tích quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp tại Việt Nam,
Tạp chí Thông tin Kinh tế và Dự báo Kinh tế - Xã hội (94),15-22.
5. Phạm Thế Anh & Nguyễn Thị Hồng Đào (2013). Bounds Testing Approach to
Cointegration: A Re-examination of FDI and Growth in Vietnam, Journal of
Economic Development (218), 94-113.
6. Nguyễn Thị Hồng Đào & Phạm Thế Anh (2012). Hiệu ứng lan tỏa FDI trong ngành
công nghiệp chế biến tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế (263), 11-19.
7. Nguyễn Thành Cường & Phạm Thế Anh (2010). Đánh giá rủi ro phá sản của các
doanh nghiệp chế biến thủy sản đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản (2), 27-33.
170
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Anh Đức (2012). 25 năm thu hút FDI còn nhiều việc phải làm.
http://kinhtevadubao.vn/p0c303n14723/25-nam-thu-hut-fdi-con-nhieu-viec-phai-
lam.htm
2. Bộ kế hoạch và đầu tư (BKHĐT) (2014). Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Vam: 25 năm thu hút và phát triển. Kỷ yếu Hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
3. Bộ kế hoạch và đầu tư (BKHĐT) (2016). Tình hình thành lập và phát triển khu
công nghiệp, khu kinh tế.
4. Bộ Tư pháp (2013). Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Truy xuất từ
http://moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID
=11620.
5. Đặng Đức Thành (2012), Huy động vốn đầu tư nước ngoài: Thực trạng và một số
kiến nghị, http://tapchikinhtedubao.mpi.gov.vn/p0c303n15089/huy-dong-von-
dau-tu-nuoc-ngoai-thuc-trang-va-mot-so-kien-nghi.htm, truy xuất ngày 2/2/2013.
6. Đoàn Ngọc Phúc (2004). Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam–Thực trạng,
những vấn đề đặt ra và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 315.
7. Hồ Nhật Quang (2010). Quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô và đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế - Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Lê Duy Bình (2017). Phát triển bền vững doanh nghiệp tư nhân từ góc nhìn ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo. Báo Nhân dân.
9. Nguyễn Thị Thìn (2009). FDI ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề và giải pháp chính
sách, Tạp chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, 161, 74-81.
171
10. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Trần Toàn Thắng, Nguyễn Mạnh
Hải (2006). Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam.
11. Nguyễn Tiến Dũng (2009). Thách thức đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO và giải pháp, Tạp chí Kinh
tế và Dự báo, 20, 11-13.
12. Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng (2012). FDI những cơ hội và thách thức
cho các doanh nghiệp trong nước. Tạp chí Kinh tế và phát triển, 33-41.
13. Nguyễn Mại (2012). 25 năm thu hút FDI thành công và vấp váp,
http://www.baomoi.com/25-nam-thu-hut-FDI-thanh-cong-va-vap-
vap/45/7764515.epi
14. Nguyễn Thị Cành &Trần Hùng Sơn (2009). Vai trò của đầu tư trực tiếp nước
ngoài dối với phát triển và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh
tế, 07, 2-7.
15. Tổng cục thống kê (TCTK) (2016). Số liệu thống kê về đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Truy xuất từ http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=716
16. Trần Quang Thắng (2012), Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong đầu tư trực
tiếp nước ngoài của một số nước châu Á và bài học cho Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
17. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) (2015). Điều tra năng lực
cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam.
18. Võ Thanh Thu & Ngô Thị Hải Xuân (2010). Sự mất cân đối trong hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài và những giải pháp khắc phục. Tạp chí Phát triển Kinh tế,
232, 7-12.
172
TIẾNG ANH
1. Aitken, B.J. , H. Görg & E. Strobl (1997). Spillovers, Foreign Investment, and
Export Behavior. Journal of International Economics, 43, 103–32
2. Aitken, B.J. & Harrison, A.E. (1999). Do Domestic Firms Benefit from Direct
Foreign Investment? Evidence from Venezuela. American Economic Review 89,
605–618.
3. Aitken, L. S., West, S. G., & Reno, R. R. (1991). Multiple Regression: Testing
and Interpreting Interactions. Sage.
4. Alhabeeb, M. J., & Moffitt, L. J. (2013). Managerial Economics: A Mathematical
Approach (Vol. 1). Hoboken, New Jersey: Wiley.
5. Alin, A. (2010). Multicollinearity. Wiley Interdisciplinary Reviews:
Computational Statistics, 2(3), 370-374.
6. Alvarez, I. & J. Molero (2005), Technology and the Generation of International
Knowledge Spillovers: An Application to Spanish Manufacturing Firms,
Research Policy, 34, 1440-1452.
7. Anwar, S. & Nguyen, L. P. (2011). Foreign Direct Investment and Export
Spillovers: Evidence from Vietnam. International Business Review 20,177–193.
8. Arestis, P., & Sawyer, M. (2006). Endogenous Growth Theory: A Partial
Critique. Edward Elgar Publishing
9. Athukorala, P. (2003). The Impacts of Foreign Direct Investment and Economic
Growth: A Case Study in Sri Lanka, Achievements and Policy Option in W.D
Lakshman (eds) Dilemmas of Development, 386-421.
10. Autio, E., Sapienza, H. J., & Almeida, J. G. (2000). Effects of Age at Entry,
Knowledge Intensity, and Imitability on International Growth. Academy of
Management Journal, 43(5), 909-924.
173
11. Bacha, E. L., 1990. A Three-gap Model of Foreign Transfers and the GDP
Growth Rate in Developing Dountries. Journal of Development Economics, 32(2),
279-296.
12. Baily, M. N., Hulten, C., Campbell, D., Bresnahan, T., & Caves, R. E. (1992).
Productivity Dynamics in Manufacturing Plants. Brookings papers on economic
activity. Microeconomics, 1992, 187-267.
13. Baldwin, R. E. (1989). Sunk-Cost Hysteresis, Working Paper No. 291.
Cambridge: National Bureau of Economic Research.
14. Baltagi, B. (2008). Econometric Analysis of Panel Data. John Wiley & Sons.
15. Barrios, S., Görg, H. & Strobl, E. (2001). Explaining Firm’s Export Behavior:
The Role of R&D and Spillovers, GEP Research Paper 01/27. Nottingham:
University of Nottingham.
16. Barrios, S., Görg, H. & Strobl, E. (2003). Explaining Firms’ Export Behavior:
R&D, Spillovers and the Destination Market. Oxford Bulletin of Economics and
Statistics 65(4), 475–496.
17. Basile, R. (2001). Export Behaviour of Italian Manufacturing Frms over the
Nineties: The Role of Innovation. Research Policy, 30 1185–1201.
18. Basu, S., & Fernald, J. G. (1997). Returns to Scale in US Production: Estimates
and Implications. Journal of Political Economy, 105(2), 249-283.
19. Becker, G. S. (1964). Human Capital Theory. Columbia, New York.
20. Barkema, H. G., & Vermeulen, F. (1998). International Expansion through Start-
up or Acquisition: A Learning Perspective. Academy of Management Journal,
41(1), 7–26.
21. Bhagwati, J. (1973), The Theory of Immiserizing Growth: Further Applications,
in M. B. Connolly, & A. K. Swoboda (Eds.), International Trade and Money,
University of Toronto Press, Toronto.
174
22. Blalock G., Gertler P. (2009). How Firm Capabilities Affect Who Benefits from
Foreign Technology. Journal of Development Economics, 90(2), 192–99.
23. Blomström, M. (1986). Foreign Investment and Productive Efficiency: The Case
of Mexico. Journal of Industrial Economics, 15, 97-110.
24. Blomström, M., & Sjöholm, F. (1999). Technology Transfer and Spillovers: Does
Local Participation with Multinationals Matter?. European Economic Review,
43(4), 915-923
25. Bloomstrom, M. (1991). Host Country Benefits of Foreign Investment, in D.G.
McFetridge (ed.), Foreign Investment, Technology and Economic Growth,
Toronto and London, Toronto University Press.
26. Blomström, M. & Kokko, A. (1998). Multinational Corporations and Spillovers.
Journal of Economic Survey 12(2), 247–277.
27. Brambor, T., Clark, W. R., & Golder, M. (2006). Understanding Interaction
Models: Improving Empirical Analyses. Political analysis, 63-82.
28. Buckley, P.J., J. Clegg, & C. Wang (2002). The Impact of Inward FDI on the
Performance of Chinese Manufacturing Firms. Journal of International Business
Studies, 33(4), 637-655.
29. Blomstrom, M. & Kokko, A. (1998). Multinational Corporations and Spillovers.
Journal of Economic Survey 12(2), 247–277.
30. Blomstrom, M. & Persson, H. (1983). Foreign Investment and Spillover
Efficiency in an underdeveloped Economy: Evidence from the Mexican
Manufacturing Industry. World Development, 11, 493-510.
31. Blomstrom, M. & Kokko, A. (1997). Regional Intergration and Foreign Direct
investment, NBER Working Paper, no.6019, National Bureau of Eocnomic
Research, US: Mass.
175
32. Blomstrom, M. & Wolff, E.N. (1997). Multinational Corporations and
Productivity Convergence in Mexico, in William Baumol, Richard Nelson, and
Edward.
33. Bloomstrom, M. (1991). Host Country Benefits of Foreign Investment, in D.G.
McFetridge (ed.), Foreign Investment, Technology and Economic Growth,
Toronto and London, Toronto University Press.
34. Branstetter, L. (2006). Is Foreign Direct Investment a Channel of Knowledge
Spillovers? Evidence from Japan's FDI in the United States. Journal of
International Economics, 68(2), 325-344.
35. Buck, T., Liu, X., Wei, Y. & Liu, X. (2007). The Trade Development Path and
Export Spillovers in China: A Missing Link?. Management International Review,
47(5), 683–706.
36. Burnside, C. (1996). Production Function Regressions, Returns to Scale, and
Externalities. Journal of Monetary Economics, 37(2), 177-201.
37. Caves, R.E. (1971). International Corporations: The Industrial Economics of
Foreign Investment, Economica, 38(149), 1-27.
38. Caves, R.E. (1974). Multinational Firms, Competition, and Productivity in Host-
country Markets, Economica, 41(162), 176-193.
39. Caves, R.E. (1996). Multinational Enterprise and Economic Analysis. Cambridge:
Cambridge University Press.
40. Cohen, W. M., & Levinthal, D. A. (1989). Innovation and Learning: The Two
Faces of R & D. The Economic Journal, 99(397), 569-596.
41. Cohen, W. M., & Levinthal, D. A. (1990). Absorptive Capacity: A New
Perspective on Learning and Innovation. Administrative Science Quarterly, 128-
152.
176
42. Cole, M. A., Elliott, R. J., & Fredriksson, P. G. (2006). Endogenous Pollution
Havens: Does FDI Influence Environmental Regulations?. The Scandinavian
Journal of Economics, 108(1), 157-178
43. Collins, C. J., & Smith, K. G. (2006). Knowledge Exchange and Combination:
The role of Human Resource Practices in the Performance of High-technology
firms. Academy of Management Journal, 49(3), 544-560.
44. Constant, N. g. B. Z. S., & Yue, Y. X. (2010). The Relationship between Foreign
Direct Investment, Trade Openness and Growth in Cote d’Ivoire, International
Journal of Business and Management, 5(7), 99-107.
45. Cragg, J. (1971). Some Statistical Models for Limited Dependent Cambridge
Variables with Application to the Demand for Durable Goods. Econometrica, 39,
829–844.
46. Crespo, N., & Fontoura, M.P. (2007). Determinant Factors of FDI Spillovers:
What do We Really Know? World Development, 35(3), 410-425.
47. Dixit, A. (1989). Entry and Exit Decisions Under Uncertainty, Journal of Political
Economy, 97 (3), 620–38.
48. Doan, T., Maré, D., & Iyer, K. (2015). Productivity Spillovers from Foreign
Direct Investment in New Zealand. New Zealand Economic Papers, 49(3), 249-
275.
49. Dormann, C. F., Elith, J., Bacher, S., Buchmann, C., Carl, G., Carré, G., &
Münkemüller, T. (2013). Collinearity: A Review of Methods to Deal with it and a
Simulation Study Evaluating their Performance. Ecography, 36(1), 27-46.
50. Driffield, N. L. (2001). The Impact on Domestic Productivity of Inward
Investment in the UK. The Manchester School, 69(1), 103-19.
177
51. Dritsaki, M., Dritsaki, C. & Adamopoulos, A. (2004). A Causal Relationship
between Trade, Foreign Direct Investment and Economic Growth for Greece.
American Journal ofApplied Sciences 1(3), 230-235.
52. Dubin, J. A., & Rivers, D. (1989). Selection Bias in Linear Regression, Logit and
Probit Models. Sociological Methods and Research, 18(2), 360–390.
53. Dunning, J. H. (1977). Trade, Location of Economic Activity and the MNE: A
Search for an Eclectic Approach. In The international allocation of economic
activity (pp. 395-418). Palgrave Macmillan, London.
54. Dunning, J. H. (1979). Explaining Changing Patterns of International Production:
In Defence of the Eclectic Theory. Oxford bulletin of economics and statistics,
41(4), 269-295
55. Dunning, J. (1988). The Eclectic Paradigm of International Production: A
Restatement and Some Possible Extensions. Journal of International Business
Studies, 19(1), 1-31.
56. Dunning, J. H. (2001). The eclectic (OLI) paradigm of international production:
past, present and future. International journal of the economics of business, 8(2),
173-190
57. Eatwell, J., Milgate, M., & Newman, P. (Eds.). (1990). Capital Theory. Springer.
58. Eriksson, K., & Chetty, S. (2003). The Effect of Experience and Absorptive
Capacity on Foreign Market Knowledge. International Business Review, 12(6),
673-695.
59. Faras, R. Y., & Ghali, K. H. (2009). Foreign Direct Investment and Economic
Growth: The Case of the GCC Countries. International Research Journal of
Finance and Economics (29), 134-145.
60. Farole, T., Winkler, D., & World, B. (2014). Making Foreign Direct Investment
Work for Sub-Saharan Africa: Local spillovers and Competitiveness in Global
Value Chains. Washington, DC: The World Bank.
178
61.
Farole, T. & Winkler, D. (2015). The Role of Foreign Firm Characteristics,
Absorptive Capacity and the Institutional Framework for FDI Spillovers. Journal
of Banking and Financial Economics, (1 (3), 77-112.
62. Felipe, J. (1999). Total Factor Productivity Growth in East Asia: A Critical
Survey. Journal of Development Studies, 35 (4), 1-41.
63. Fosu, O.-A. E., & Magnus, F. J. (2006). Bounds Testing Approach to
Cointegration: An Examination of Foreign Direct Investment Trade and Growth
Relationships. American Journal of Applied Sciences, 3(11), 2079-2085.
64. Franco, C., & Sasidharan, S. (2009). FDI, Export Spillover and Firm
Heterogeneity: An Application to the Indian Manufacturing Case. Asian Business
and Economics Research Unit Discussion Paper, (6).
65. Fu, X (2010). Processing-trade-cum-FDI, Firm Heterogeneity and Exports of
Indigenous Firms: Firm-level Evidence from Technology-intensive Industries in
China, TMD Working Paper Series No. 038. Oxford: University of Oxford.
66. Globerman, S. (1979). Foreign Direct Investment and Spillover Efficiency
Benefits in Canadian Manufacturing Industries. Canadian Journal of Economics,
12(4), 42-56.
67. Görg, H. & E. Strobl (2001). Multinational Companies and Productivity
Spillovers: A Meta-analysis. The Economic Journal, 111, F723-F739.
68. Görg, H., & Greenaway, D. (2004). Much Ado about Nothing? Do Domestic
Firms Really Benefit from Foreign Direct Investment?. The World Bank Research
Observer, 19(2), 171-197.
69. Graham, E. M., & Krugman, P. R. (1995). Foreign Direct Investment in the
United States. Washington, DC.
70. Granger, C.W.J. (1969). Investigating Causal Relationship by Econometric
Models and Cross Spectral Methods. Econometrica, 111-120.
179
71. Greenaway, D., Sousa, N. & Wakelin, K. (2004). Do Domestic Firms Learn to
Export from Multinationals?. European Journal of Political Economy 20(4),
1027–1043.
72. Griliches, Z., & Ringstad, V. (1971). Economies of Scale and the Form of the
Production Function: An Econometric Study of Norwegian Manufacturing
Establishment Data. Amsterdam and London: North-Holland.
73. Gruber, M. (2004). Marketing in New Ventures: Theory and Empirical Evidence.
Schmalenbach Business Review, 56, 164–199
74. Gujarati, D. (2011). Econometrics by Example. Palgrave Macmilan: London.
75. Hansen, L. P. (1982). Large Sample Properties of Generalized Method of
Moments Estimators. Econometrica: Journal of the Econometric Society, 1029-
1054.
76. Hayashi, F. (2000). Econometrics. Princeton, NJ: Princeton University Press.
77. Hayes, A. F. (2013). Introduction to Mediation, Moderation, and Conditional
Process Analysis: A Regression-based Approach. Guilford Press.
78. Hirschberg, J.G. & Lloyd, P.J., (2000). An Application of Post-DEA Bootstrap
Regression Analysis to the Spillover of the Technology of Foreign-Invested
Enterprises in China, Department of Economics - Working Papers Series 732, The
University of Melbourne.
79. Hoang Van Thanh & Pham Thien Hoang (2010). Productivity Spillovers from
Foreign Direct Investment: The Case of Vietnam, in Hahn, C. H. and D. Narjoko
(eds.), Causes and Consequences of Globalization in East Asia: What Do the
Micro Data Analyses Show?.ERIA Research Project Report 2009-2, Jakarta:
ERIA. pp.228-246.
80. Hsiao, C., & Shen, Y. (2003). Foreign Direct Investment and Economic Growth:
The Importance of Institutions and Urbanization. Economic Development &
Cultural Change, 51(4), 883–896.
180
81.
Imbriani, C., Pittiglio, R., Reganati, F., & Sica, E. (2014). How Much do
Technological Gap, Firm Size, and Regional Characteristics Matter for the
Absorptive Capacity of Italian Enterprises?. International Advances in Economic
Research, 20(1), 57-72.
82. Jaccard, J., & Turrisi, R. (2003). Interaction Effects in Multiple Regression. Sage.
83. Javorcik, B. S. (2004). Does Foreign Direct Investment Increase the Productivity
of Domestic Firms? In Search of Spillovers through Backward Linkages.
American Economic Review, 94, 605-627.
84. Jayachandran, G. & Seilan, A. (2010). A Causal Relationship between Trade,
Foreign Direct Investment and Economic Growth for India. International
Research Journal of Finance and Economics, 42, 74-88.
85. Jenkins, R. (1990). Comparing Foreign Subsidiaries and Local Firms in LDCs:
Theoretical Issues and Empirical Evidence. Journal of Development Studies, 26,
205-228.
86. Johansen, S. (1988). Statistical Analysis of Cointegration Vectors. Journal of
Economic Dynamics and Control, 12, 231-54.
87. Jordaan J. (2011). Local Sourcing and Technology Spillovers to Mexican
Suppliers: How Important are FDI and Supplier Characteristics?. Growth and
Change, 42(3), 287–319.
88. Karimi, M. S., & Yusop, Z. (2009). FDI and Economic Growth in Malaysia,
Unpublished MPRA Paper No. 14999. University Putra, Malaysia.
89. Kneller, R., & Pisu, M. (2007). Industrial linkages and export spillovers from
FDI. The World Economy, 30(1), 105-134.
90. Knickerbocker, F.T. (1973). Oligopolistic Reaction and Multinational Enterprise.
The International Executive, 15(2), 7-9.
181
91. Kohpaiboon, A. (2006). Foreign Direct Investment and Technology Spillover: A
Cross-industry Analysis of Thai Manufacturing. World Development, 34(3), 541-556.
92. Kojima, K. (1982). Macroeconomic versus international business approach to direct
foreign investment. Hitotsubashi Journal of Economics, 1-19.
93. Kojima, K. (1991). Trade‐oriented Direct Foreign Investment Reconsidered. Asian
Economic Journal, 5(2), 159-174.
94. Koo, J. (2005). Agglomeration and Spillovers in a Simultaneous Framework. The
Annals of Regional Science, 39(1), 35-47.
95. Kokko, A. , M. Zejan & R. Tansini (2001). Trade Regimes and Spillover Effects
of FDI: Evidence from Uruguay. Review of World Economics, 137, 124–49.
96. Krugman, P. R. (1984). Import Protection as Export Promotion: International
Competition in the Presence of Oligopoly and Economies of Scale in H. Kierzkowski
(eds.), Monopolistic Competition and International Trade (Oxford: Oxford University
Press).
97. Krugman, P. R. (1991). Increasing Returns and Economic Geography. Journal of
Political Economy, 99(3), 483-499.
98. Kuchiki, A. (2006). Agglomeration of Exporting Frms in Industrial Zones in
Northern Vietnam: Players and Institutions. Industrial Agglomeration and New
Technologies: a Global Perspective, 97.
99. Lall, S. (1980), Vertical Interfirm Linkage in LDCs: An Empirical Study, Oxford
Bulletin of Economics and Statistics, vol.42, pp.203-226.
100. Le, H. Q., & Pomfret, R. (2011). Technology Spillovers from Foreign Direct
Investment in Vietnam: Horizontal or Vertical Spillovers?. Journal of the Asia
Pacific Economy, 16(2), 183-201.
182
101. Le, H. Q. & Pomfret, R. (2010). Foreign Direct Investment and Wage Spillovers in
Vietnam Evidence from Firm Level Data. ASEAN Economic Bulletin, 27(2), 159–
172.
102. Le Thanh Thuy (2005), Technological Spillovers from Foreign Direct Investment:
The Case of Vietnam, imeo, Graduate School of Economics, University of Tokyo.
103. Levine, R., & Renelt, D. (1992). A Sensitivity Analysis of Cross-country Growth
Regressions. The American Economic Review, 942-963.
104. Li, X., X. Liu, & D. Parker (2001), Foreign Direct Investment and Productivity
Spillovers in the Chinese Manufacturing Sector. Economic System, 25, 305-321.
105. Liu, Z. (2008). Foreign Direct Investment and Technology Spillovers: Theory and
Evidence. Journal of Development Economics, 85, 176-193.
106. Lucas, R. E., 1988. On the Mechanics of Economic Development. Journal of
Monetary Economics, 22(1), 3-42.
107. Lund Vinding, A. (2006). Absorptive Capacity and Innovative Performance: A
Human Capital Approach. Economics of Innovation and New Technology, 15(45),
507-517.
108. Malmberg, A. (1996). Industrial geography: agglomeration and local
milieu. Progress in Human Geography, 20(3), 392-403.
109. Makki, S. S., & Somwaru, A. (2004). Impact of foreign direct investment and
trade on economic growth: Evidence from developing countries. American
Journal of Agricultural Economics, 86(3), 795-801.
110. Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. (1992). A Contribution to the Empirics
of.The Quarterly Journal of Economics.
111. Meyer, K. E. (2003). FDI Spillovers in Emerging Markets: A Literature Review
and New Perspectives. Copenhagen Business School (Mimographed.).
183
112. Moosa, I. A. (2002). Foreign Direct Investment: Theory, Evidence and Practice
(Vol. Revis). New York, Gordonsville: Palgrave Macmillan
113. Moran, T. (2001). Parental Supervision: The New Paradigm for Foreign Direct
Investment and Development. Washington, DC: Institute for International
Economics.
114. Mosley, P., 1987. Overseas Aid: Its Defence and Reform. Wheatsheaf Books.
115. Newman, C., Rand, J., Talbot, T., & Tarp, F. (2014). Technology Transfers, Foreign
Investment and Productivity Spillovers: Evidence from Vietnam. Institute for
International Integration Studies, Trinity College Dublin. Mimeo.
http://www.ciem.org.vn/portals/1/ciem/indepthstudy/tcs12_technology_transfer_final.pdf
116. Newman, C., Rand, J., Talbot, T., & Tarp, F. (2015). Technology Transfers,
Foreign Investment and Productivity Spillovers. European Economic Review, 76,
168-187. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.euroecorev.2015.02.005.
117. Nguyen Ngoc Anh & cộng sự (2008). Foreign Direct Investment in Vietnam: Is
There any Evidence of Technological Spillover Effects. Retreived from
Development and Policies Research Center (Depocen), http://depocenwp.org.
118. Nguyen Phi Lan (2008). Productivity Spillovers from Foreign Direct Investment:
Evidence from Vietnamese Firm Data. Retreived from School of Commerce,
University of South Australia, http://papers.ssrn.com.
119. Nickell, S. (1981). Biases in Dynamic Models with Fixed Effects. Econometrica:
Journal of the Econometric Society, 1417-1426.
120. Nowbutsing, B. (2009, October). FDI, domestic investment and economic growth:
a theoretical framework. Georgia Institute of Technology.
121. Olofsdotter, K. (1998). Foreign Direct Investment, Country Capabilities and
Economic Growth. Review of World Economics, 134(3), 534-547.
184
122. Omisakin, O., Adeniyi, O., & Omojolaibi, A. (2009). Foreign Direct Investment,
Trade Openness and Growth in Nigeria. Journal of Economic Theory, 3(2), 13-18.
123. Papanek, G. F. (1973). Aid, Foreign Private Investment, Savings, and Growth in
Less Developed Countries. The Journal of Political Economy, 120-130.
124. Paugel, A. T. (2007). International Economics. McGraw-Hill Irwin: New York,
USA.
125. Petersen, M. A. (2009). Estimating Standard Errors in Finance Panel Data Sets:
Comparing Approaches. Review of Financial Studies, 22(1), 435-480.
126. Pham Hoang Mai (2002). Regional Economic Development and Foreign Direct
Investment Flows in Vietnam, 1988-1998. Journal of the Asia Pacific Economy,
7(2), 182-202.
127. Pham Thi Bich Ngoc (2012). Trade Liberalization and Productivity Spillover
from Different Foreign Direct Investment Sourcing Origins. Journal of
International Business Research, 11(3), 71-88.
128. Pham Thi Bich Ngoc (2013). Foreign Direct Investment, Trade Liberalization,
and Labor Market: Evidence from Vietnamese Manufacturing. Doctoral
Dissertation, Christian-Albrechts Universität Kiel.
129. Phillips, S., & Ahmadi-Esfahani, F. Z. (2010). Export Market Participation,
Spillovers, and Foreign Direct Investment in Australian Food Manufacturing.
Agribusiness, 26(3), 329–347.
130. Ramanathan, R. (2002). Introductory Econometrics with Applications. Harcourt
Brace College Publishers.
131. Robinson, J. (1953). The Production Function and the Theory of Capital. The
Review of Economic Studies, 21(2), 81-106.
132. Rodriguez-Clare, A. (1996). Multinationals, Linkages and Economic
Development. American Economic Review, 86(4), 852-73.
185
133. Romer, P. M., 1986. Increasing returns and long-run growth. The journal of
Political Economy, 1002-1037.
134. Rosenbloom, D. P. & J. Marshallian (1990). Factor Market Externalities and the
Dynamics of Industrial Location. Journal of Urban Economics, 28(3), 349–70.
135. Ruane, F., & Sutherland, J. (2005). Foreign Direct Investment and Export
Spillovers: How do Export Platforms Fare? Paper presented at the IIIS
Discussion Paper No. 58 Dublin.
136. Sadik, A.T. & A.A. Bolbol (2001). Capital flows, FDI, and technology spillovers:
evidence from Arab countries. World Development, 29(12), 2111-2125.
137. Saunders, A. and Steffen, S. (2011). The Costs of Being Private: Evidence from
the Loan Market. Review of Financial Studies, 24, 4091-4122.
138. Sharma, V. M., & Erramilli, M. K. (2004). Resource-based explanation of entry
mode choice. Journal of Marketing theory and Practice, 12(1), 1-18.
139. Shimul, S. N., Abdullah, S. M. & Siddiqua, S. (2009). An examination of FDI and
growth nexus in Bangladesh: Engle Granger and bound testing cointegration
approach. BRAC University Journal, 1(1), 69-76.
140. Sinani, E. & Meyer K. (2004) Spillovers of technology transfer form FDI: The
case of Estonia. Journal of Comparative Economics, 32(3), pp. 455-466.
141. Smeets R., (2008). Collecting the pieces of the FDI knowledge spillovers puzzle.
World Bank Research Observer, 23(2), 107–38.
142. Solow, R. M., 1956. A Contribution to the Theory of Economic Growth. The
Quarterly Journal of Economics, 65-94.
143. Steedman, I. (2002). On'measuring'knowledge in new (endogenous) growth
theory. Manchester Metropolitan University.
144. Stock, J. H., & Watson, M. W. (2008). Heteroskedasticity‐robust Standard Errors
for Fixed Effects Panel Data Regression. Econometrica, 76(1), 155-174.
186
145. Sun, S. (2009). How does FDI Affect Domestic Frms’ exports? Industrial
Evidence. The World Economy, 32, 1203–1222.
146. Sun, S. (2011). Foreign Direct Investment and Technology Spillovers in China's
Manufacturing Sector. Chinese Economy, 44(2), pages 25-42.
147. Todaro M.P., 1997. Economic Developmet. Longman.
148. UNCTAD (United Nations Conference on Trade and Development) (2001). Draft
international code of conduct on the transfer of technology. Retrieved from
URL:http://stdev.unctad.org/compendium/themes/capacitybldg.htm
149. United Nations Industrial Development Organization) (UNIDO) (2015).
Economic zones in ASEAN. Retreived from
https://www.unido.org/fileadmin/user_media_upgrade/Resources/Publications/UC
O_Viet_Nam_Study_FINAL.pdf
150. Varamini, H., & Vu, A. (2007). Foreign direct investment in Vietnam and its
impact on economic growth. International Journal of Business Research, 7(6),
132-139.
151. Vernon, R. (1966). International Investment and International Trade in the
Product Cycle. The Quarterly Journal of Economics, 190-207.
152. Wacker, K. M. (2013). On the Measurement of Foreign Direct Investment and its
Relationship to Activities of Multinational Corporations. ECB Working Paper
1614. Frankfurt/Main: European Central Bank.
153. Wooldridge, J.M. (2009). Introductory Econometrics: A Modern Approach.
Thomson South-Western: Mason.
154. Wooster, R. B., & Diebel, D. S. (2010). Productivity Spillovers from Foreign
Direct Investment in Developing Countries: A Meta-regression Analysis. Review
of Development Economics, 14(3), 640-655.
155. Zahra, S. A., & George, G. (2002). Absorptive Capacity: A Review,
Reconceptualization, and Extension. Academy of Management Review, 27(2), 185-203.
187
PHỤ LỤC 1
Bảng 1.1 Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2015
Số dự án Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ)
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Tổng số 1988-1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 21.392,0 211,0 152,0 196,0 274,0 372,0 415,0 372,0 349,0 285,0 327,0 391,0 555,0 808,0 791,0 811,0 970,0 987,0 1.544,0 1.171,0 1.208,0 1.237,0 1.186,0 1.287,0 1.530,0 1.843,0 2.120,0 Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) 314.707,7 1.603,5 1.284,4 2.077,6 2.829,8 4.262,1 7.925,2 9.635,3 5.955,6 4.873,4 2.282,5 2.762,8 3.265,7 2.993,4 3.172,7 4.534,3 6.840,0 12.004,5 21.348,8 71.726,8 23.107,5 19.886,8 15.598,1 16.348,0 22.352,2 21.921,7 24.115,0 138.692,9 .. 428,5 574,9 1.117,5 2.240,6 2.792,0 2.938,2 3.277,1 2.372,4 2.528,3 2.398,7 2.225,6 2.884,7 2.723,3 2.708,4 3.300,5 4.100,4 8.034,1 11.500,2 10.000,5 11.000,3 11.000,1 10.046,6 11.500,0 12.500,0 14.500,0
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
188
Bảng 1.2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép phân theo ngành kinh tế (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2015)
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) 281.882,5 3.654,9 4.448,3 162.772,7 20.069,0 521,0 97,0 10.764,0
109,0 12.567,5
43,0 1.264,0 1.352,7 10.893,8
4.602,2 3.829,3 11.950,3 4.223,7 1.333,5 50.896,4 2.103,0 412,6 710,3 1.767,3 3.622,0 742,0 1.735,0 505,0 445,0 1.263,0 82,0 500,0 1.926,0 170,0 240,0 111,0 143,0 151,0 Tổng số Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Khai khoáng Công nghiệp chế biến, chế tạo Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải Xây dựng Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Vận tải, kho bãi Dịch vụ lưu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Giáo dục và đào tạo Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Hoạt động dịch vụ khác (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
189
Bảng 1.3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư
chủ yếu (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2015)
Số dự án Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)
45.191,1 38.973,6 35.148,5 30.997,4 19.275,3 15.546,8 13.420,1 11.301,8 10.174,2 8.264,5 7.727,9 6.392,3 5.771,7 5.252,7 4.739,3 3.423,0 2.080,1 2.045,1 1.904,5 1.857,4 1.652,7 1.393,7 1.148,2 966,6 729,2 681,9 551,7 439,7 418,1 397,0 357,3 325,1 324,2 321,0 4.970,0 2.914,0 1.544,0 2.478,0 623,0 975,0 523,0 781,0 1.296,0 255,0 419,0 67,0 150,0 147,0 241,0 448,0 113,0 111,0 187,0 40,0 357,0 260,0 11,0 13,0 13,0 118,0 63,0 118,0 41,0 46,0 69,0 43,0 72,0 14,0
Hàn Quốc Nhật Bản Xin-ga-po Đài Loan Quần đảo Virgin thuộc Anh Hồng Công (TQ) Ma-lai-xi-a Hoa Kỳ CHND Trung Hoa Hà Lan Thái Lan Quần đảo Cay men Xa-moa Ca-na-đa Vương quốc Anh Pháp Liên bang Nga Thụy Sỹ Bru-nây Lúc-xăm-bua Ô-xtrây-li-a CHLB Đức Tây Ấn thuộc Anh Síp Thổ Nhĩ Kỳ Đan Mạch Bỉ Ấn Độ CH Xây-sen In-đô-nê-xi-a I-ta-li-a Ma-ri-ti-us Phi-li-pin Phần Lan (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
190
Bảng 1.4 Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép phân theo địa phương
(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2015)
Số dự án
6.186,0 3.467,0 268,0 721,0 111,0 376,0 513,0 372,0 61,0 165,0 81,0 51,0 617,0 7,0 24,0 6,0 6,0 30,0 22,0 100,0 36,0 229,0 101,0 3,0 9,0 44,0 Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)(*) 72.257,9 25.490,9 3.781,5 11.328,3 5.380,7 7.385,2 11.651,3 3.443,5 472,5 1.438,5 679,0 1.206,5 13.369,0 1.029,0 51,2 14,3 164,5 838,6 207,4 7.116,5 207,0 2.459,0 632,8 4,0 134,1 510,6
Đồng bằng sông Hồng Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Quảng Ninh Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình Trung du và miền núi phía Bắc Hà Giang Cao Bằng Bắc Kạn Tuyên Quang Lào Cai Yên Bái Thái Nguyên Lạng Sơn Bắc Giang Phú Thọ Lai Châu Sơn La Hoà Bình Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Thanh Hoá Nghệ An Hà Tĩnh Quảng Bình Quảng Trị Thừa Thiên Huế Đà Nẵng Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Định 1.236,0 71,0 69,0 64,0 12,0 21,0 86,0 373,0 136,0 47,0 59,0 53.278,0 10.409,1 1.640,6 11.265,0 109,1 85,6 2.591,2 4.023,5 5.525,8 4.274,5 1.761,8
191
4.764,9 2.349,4 949,6 3.527,9 781,7 70,2 9,7 200,3 19,6 481,9 122.544,5 1.213,1 3.146,3 24.026,0 24.025,9 27.766,4 42.366,8 16.867,7 5.406,0 1.532,5 591,1 2.684,1 234,2 105,5 204,0 2.957,6 799,2 1.351,2 118,6 94,2 789,5 2.783,7 52,0 95,0 34,0 117,0 131,0 2,0 5,0 13,0 6,0 105,0 10.686,0 160,0 237,0 2.731,0 1.350,0 322,0 5.886,0 1.162,0 760,0 78,0 55,0 27,0 27,0 17,0 27,0 38,0 74,0 20,0 13,0 17,0 9,0 51,0
Phú Yên Khánh Hoà Ninh Thuận Bình Thuận Tây Nguyên Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Đông Nam Bộ Bình Phước Tây Ninh Bình Dương Đồng Nai Bà Rịa - Vũng Tàu TP.Hồ Chí Minh Đồng bằng sông Cửu Long Long An Tiền Giang Bến Tre Trà Vinh Vĩnh Long Đồng Tháp An Giang Kiên Giang Cần Thơ Hậu Giang Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau Dầu khí (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
Bảng 1.5 Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện phân theo thành phần kinh tế
Năm Tổng số
1995 1996 1997 1998 72.447,0 87.394,0 108.370,0 117.134,0 Kinh tế Nhà nước 30.447,0 42.894,0 53.570,0 65.034,0 Kinh tế ngoài nhà nước 20.000,0 21.800,0 24.500,0 27.800,0 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 22.000,0 22.700,0 30.300,0 24.300,0
192
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 76.958,0 131.171,0 89.417,0 151.183,0 101.973,0 170.496,0 114.738,0 200.145,0 126.558,0 239.246,0 139.831,0 290.927,0 161.635,0 343.135,0 185.102,0 404.712,0 197.989,0 532.093,0 209.031,0 616.735,0 287.534,0 708.826,0 316.285,0 830.278,0 924.495,0 341.555,0 1.010.114,0 406.514,0 1.094.542,0 441.924,0 1.220.704,0 486.804,0 1.367.205,0 519.505,0 22.671,0 27.172,0 30.011,0 34.795,0 38.300,0 41.342,0 51.102,0 65.604,0 129.399,0 190.670,0 181.183,0 214.506,0 226.891,0 218.573,0 240.112,0 265.400,0 318.100,0 31.542,0 34.594,0 38.512,0 50.612,0 74.388,0 109.754,0 130.398,0 154.006,0 204.705,0 217.034,0 240.109,0 299.487,0 356.049,0 385.027,0 412.506,0 468.500,0 529.600,0
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
Bảng 1.6 Đóng góp thu ngân sách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Thu ngân sách (Tỷ đồng)
Năm 2000 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 4.735,00 7.276,00 9.942,00 15.109,00 19.081,00 25.838,00 31.388,00 43.953,00 50.785,00 64.915,00 77.076,00 82.546,00 111.241,00 123.802,00 Cơ cấu (%) 5,22 5,87 6,53 7,91 8,36 9,25 9,94 10,21 11,17 11,03 10,68 11,23 13,43 14,11
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
193
Bảng 1.7 Đóng góp về xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Trị giá (Triệu đô la Mỹ) Cơ cấu (%)
27,0 29,7 35,0 34,3 40,6 47,0 45,2 47,1 50,4 54,7 57,2 57,9 57,2 55,1 53,2 54,2 56,9 63,1 66,8 67,4 70,5 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 1.473,1 2.155,0 3.213,0 3.215,0 4.682,0 6.810,3 6.798,3 7.871,8 10.161,2 14.487,7 18.553,7 23.061,3 27.774,6 34.522,8 30.372,3 39.152,4 55.124,3 72.252,0 88.150,2 101.179,8 114.266,8
Nguồn: Tổng cục thống kê (2016)
194
PHỤ LỤC 2
Bảng 2.1 Kết quả ước lượng mô hình REM về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam (Thang đo fdio)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.007 0.016 1,165 0.085 0.000 0.024 0.037 0.337 0.016 0.041 8,632 0.213 0.000 0.061 0.098 0.362
0.134
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdio) fdio*lnK_intensity fdio*lnL_quality fdio*Scale fdio*Ownership fdio*TechGap fdio*dRegion1 fdio*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình
Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model) Hệ số (Coef.) 0.081*** 0.704*** -1,639 -0.384*** 0.000*** 0.026 -0.158*** 1.896*** 0.064*** -0.213*** 2.791*** 0.163 -0.001*** -0.053 -0.103 -1.817*** Y Y 2.551*** 26493.23***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
195
Bảng 2.2 Kết quả ước lượng mô hình REM về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam (Thang đo fdie)
Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model) Hệ số (Coef.) 0.111*** 0.670*** -8.700*** -0.571*** 0.000***
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.006 0.013 1,597 0.069 5.99e-06
-0.019
0.021
-0.134***
0.0288
0.400 0.016 0.039 1,074 0.211 0.000 0.060 0.094 0.363
0.119
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdie) fdie*lnK_intensity fdie*lnL_quality fdie*Scale fdie*Ownership fdie*TechGap fdie*dRegion1 fdie*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình
0.285 -0.016 -0.148*** 2.346*** 0.503** -0.002*** 0.095 -0.239** -2.268.603*** Y Y 2.926.546*** 27529.93***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
196
Bảng 2.3 Kết quả ước lượng mô hình REM về lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh
nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam (Thang đo fdia)
Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.007 0.016 1,094 0.086 0.000
Hệ số (Coef.) 0.093*** 0.718*** 1,212 -0.476*** 0.000***
0.010
0.025
0.036 0.269 0.014 0.035 7,504 0.192 0.000 0.052 0.081 0.365
0.135
Biến phụ thuộc: Năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước (lnProductivity) Tên biến (Variable) Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Đồng bằng S.Hồng và miền núi phía Bắc (dRegion1) Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (dRegion2) Hiện diện FDI (fdia) fdia*lnK_intensity fdia*lnL_quality fdia*Scale fdia*Ownership fdia*TechGap fdia*dRegion1 fdia*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Hằng số (Constant) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình
-0.120*** 0.785*** 0.026* -0.220*** 2.633*** 0.402** -0.001*** -0.007 -0.183*** -2.018*** Y Y 2.616*** 26224.38***
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình
197
Bảng 2.4 Kết quả ước lượng mô hình GMM về tác động lan tỏa công nghệ từ FDI
(Thang đo fdio)
Tên biến (Variable)
Hệ số (Coef.)
Sai số chuẩn (Std. Err.)
Giá trị P (P_value)
0.032 0.517** 9.704 2.552 0.001*** 10.627 0.045 -0.245 105.976 -7.433 -0.003*** -1.107 -0.752 -2.249
0.024 0.217 15.170 7.608 0.000 27.519 0.058 0.595 98.493 21.631 0.001 1.550 1.610 1.523
0.176 0.017 0.522 0.737 0.003 0.699 0.445 0.680 0.282 0.731 0.000 0.475 0.641 0.140
Y Y Y 48.36***(0.000)
0.091 ( 0.764)
Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Lan tỏa từ FDI (fdio) fdio*lnK_intensity fdio*lnL_quality fdio*Scale fdio*Ownership fdio*TechGap fdio*dRegion1 fdio*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả vùng (dRegion*) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định về tính nội sinh (fdio)
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình; Giá trị P- value của các kiểm định được ghi trong ngoặc.
198
Bảng 2.5 Kết quả ước lượng mô hình GMM về tác động lan tỏa công nghệ từ FDI
(Thang đo fdie)
Tên biến (Variable)
Hệ số (Coef.)
Sai số chuẩn (Std. Err.)
Giá trị P (P_value)
0.071 0.626* 21.926 5.218 0.000*** 32.161 -0.072 -0.726 -12.031 -20.204 -0.003*** -2.534 -2.776 -5.202
0.049 0.340 24.352 8.601 0.000 52.368 0.159 1.212 142.023 32.808 0.000 3.535 3.335 4.888
0.144 0.066 0.368 0.544 0.000 0.539 0.651 0.549 0.932 0.538 0.000 0.473 0.405 0.287
Y Y Y 43.60*** (0.000)
0.091 (0.521)
Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Lan tỏa từ FDI (fdie) fdie*lnK_intensity fdie*lnL_quality fdie*Scale fdie*Ownership fdie*TechGap fdie*dRegion1 fdie*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả vùng (dRegion*) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định về tính nội sinh (fdie)
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình; Giá trị P- value của các kiểm định được ghi trong ngoặc.
199
Bảng 2.6 Kết quả ước lượng mô hình GMM về tác động lan tỏa công nghệ từ FDI
(Thang đo fdia)
Tên biến (Variable)
Sai số chuẩn (Std. Err.) 0.057 0.724 57.814 25.876 0.000 82.992 0.107 1.734 291.008 64.582 0.000 4.412 4.552 9.161
Giá trị P (P_value) 0.940 0.992 0.650 0.552 0.000 0.558 0.421 0.564 0.316 0.553 0.000 0.598 0.584 0.707
Hệ số (Coef.) 0.004 0.007 -26.201 -15.403 0.000*** -48.634 0.086 0.999 292.022 38.272 -0.002*** 2.325 2.494 3.440
Y Y Y
38.10*** (0.000)
0.470 (0.493)
Mức độ vốn hóa (lnK_intensity) Chất lượng nhân lực (lnL_quality) Quy mô (lnScale) Hình thức sở hữu (Ownership) Khoảng cách công nghệ (TechGap) Lan tỏa từ FDI (fdia) fdia*lnK_intensity fdia*lnL_quality fdia*Scale fdia*Ownership fdia*TechGap fdia*dRegion1 fdia*dRegion2 Mức độ cạnh tranh ngành (Concentration) Biến giả vùng (dRegion*) Biến giả ngành (dIndustry*) Biến giả năm (dYear*) Kiểm định Wald cho ý nghĩa của tổng thể mô hình Kiểm định về tính nội sinh (fdia)
Lưu ý: ***, ** và * lần lượt ký hiệu các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%; Y: Có bao gồm trong mô hình; Giá trị P- value của các kiểm định được ghi trong ngoặc.
200
PHỤ LỤC 3
Bảng 3.1 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) cho các biến số chính trong mô hình lan tỏa công nghệ (Thang đo fdie và fdia)
Thang đo fdie Biến số fdie lnK_intensity lnL_quality Scale Ownership TechGap Concentration
Hệ số VIF 1.110 1.080 1.080 1.030 1.030 1.000 1.090
Thang đo fdia Biến số fdia lnK_intensity lnL_quality Scale Ownership TechGap Concentration
Hệ số VIF 1.150 1.060 1.070 1.030 1.030 1.000 1.150
Bảng 3.2 Ma trận tương quan của các biến số trong mô hình lan tỏa công nghệ
fdie
lnK _intensity
lnL _quality Scale
Own
TechGap
Concen _tration
fdie lnK_intensity lnL_quality Scale Own TechGap Concentration
1 -0.117 0.092 -0.018 0.026 -0.007 -0.256
1 0.213 0.054 -0.070 0.009 -0.012
1 -0.146 -0.001 0.093
1 0.002 -0.033
1 0.003
1
1 0.060 -0.10 -0.006 0.046
(Thang đo fdie)
201
Bảng 3.3 Ma trận tương quan của các biến số trong mô hình lan tỏa công nghệ
fdia
lnK _intensity
lnL _quality Scale
Own
TechGap
Concen _tration
fdia lnK_intensity lnL_quality Scale Own TechGap Concentration
1 -0.07 0.075 -0.025 0.028 -0.004 -0.335
1 0.213 0.054 -0.070 0.009 -0.012
1 -0.146 -0.001 0.093
1 0.002 -0.033
1 0.003
1
1 0.060 -0.102 -0.006 0.046
(Thang đo fdia)
Bảng 3.4 Kết quả hệ số phóng đại phương sai (VIF) cho các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu (Thang đo fdie và fdia)
Thang đo fdie Biến số fdie Age Ownership Zone lnK_intensity lnL_quality Concentration Indexint
Hệ số VIF 1.080 1.080 1.090 1.020 1.040 1.020 1.130 1.050
Thang đo fdia Biến số fdia Age Ownership Zone lnK_intensity lnL_quality Concentration Indexint
Hệ số VIF 1.140 1.080 1.090 1.020 1.040 1.020 1.190 1.050
202
fdio
Age
Own
Zone
lnK_ intensity
lnL_ quality
Concen_ tration
Ind_ exint
fdie Age Own Zone K_intensity L_quality Concentration Indexint
1 -0.041 0.025 0.001 -0.035 0.011 -0.266 0.035
1 -0.262 0.067 0.040 0.014 -0.037 0.028
1 -0.058 -0.097 -0.024 -0.029 0.009
1 0.098 0.016 -0.023 -0.003
1 0.127 0.044 -0.009
1 0.012 -0.012
1 -0.210
1
Bảng 3.5 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu (Thang đo fdie)
fdio
Age
Own
Zone
lnK_ intensity
lnL_ quality
Concen_ tration
Ind_ exint
fdia Age Own Zone K_intensity L_quality Concentration Indexint
1 -0.018 0.027 0.020 -0.025 0.010 -0.346 0.036
1 -0.262 0.070 0.040 0.014 -0.037 0.028
1 -0.058 -0.097 -0.024 -0.029 0.009
1 0.098 0.016 -0.023 -0.003
1 0.127 0.044 -0.009
1 0.012 -0.012
1 -0.210
1
Bảng 3.6 Ma trận tương quan của các biến số chính trong mô hình lan tỏa xuất khẩu (Thang đo fdia)