BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------ NGUYỄN THỊ PHƯƠNG NHI
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
THỰC LÊN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------ NGUYỄN THỊ PHƯƠNG NHI
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
THỰC LÊN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CÁN
CÂN THƯƠNG MẠI ................................................................................ 4
1.1 Tỷ giá hối đoái ............................................................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái ...................................................................................... 4
1.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ................................................................................... 4
1.1.3 Tỷ giá hối đoái thực .............................................................................................. 5
1.2 Cán cân thương mại .................................................................................................... 10
1.2.1 Khái niệm ............................................................................................................ 10
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại ............................................... 12
1.3 Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại .............................................................. 13
1.3.1 Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại ................................................... 13
1.3.2 Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall-Lerner ............................ 17
1.4 Một số mô hình hồi quy liên quan đến tỷ giá, xuất nhập khẩu và lạm phát .............. 18
1.4.1 Mô hình hồi quy tỷ giá theo chênh lệch lạm phát .............................................. 18
1.4.2 Mô hình mối liên hệ giữa phần trăm thay đổi trong trong xuất khẩu và phần
trăm thay đổi trong giá trị đồng tiền .................................................................. 19
1.4.3 Mô hình tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực ....... 19
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC LÊN CÁN
CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM ...................................................... 21
2.1 Phân tích định tính ....................................................................................................... 21
2.1.1 Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2012 ................................... 21
2.1.2 GDP bình quân của các đối tác thương mại với Việt Nam giai đoạn 2005 –
2012 .................................................................................................................... 30
2.1.3 GDP Việt Nam giai đoạn 2005 - 2012 ................................................................... 39
2.1.4 Tỷ giá hối đoái thực ............................................................................................ 47
2.2 Phân tích định lượng ................................................................................................... 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý NHẰM MỤC TIÊU CẢI THIỆN CÁN CÂN
THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM ..................................................... 66
3.1 Hoàn thiện chính sách tỷ giá với mục tiêu ngang giá sức mua trong rổ tiền tệ ..... 66
3.1.1 Giảm bớt sự lệ thuộc của tiền Đồng vào Đô la Mỹ ...................................... 66
3.1.2 Sử dụng tỷ giá thực đa phương để đo lường các chỉ số tài chính ................. 66
3.1.3. Không tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ ................................................... 68
3.2 Hoàn thiện cơ chế tỷ giá tại Việt Nam .................................................................... 70
3.2.1 Có nên tiếp tục kiểm soát tỷ giá ở Việt Nam? ................................................ 70
3.2.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý và thúc đẩy hoạt động của thị trường phái sinh tiền
tệ ..................................................................................................................... 71
3.3 Cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, xúc tiến thương mại và cải thiện môi trường đầu
tư trong nước .......................................................................................................... 72
3.3.1 Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu ......................... 72
3.3.2 Cải thiện môi trường đầu tư trong nước đồng thời đưa ra định hướng đầu tư
thiên về chất lượng thay vì số lượng .............................................................. 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : Ngân hàng Phát triển châu Á
AUD : Đôla Australia
BQLNH :Bình quân liên ngân hàng
BRICS : Các nền kinh tế mới nổi
CNY : Nhân dân tệ Trung Quốc
CPI : Chỉ số giá
EUR : Euro
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII : Đầu tư gián tiếp nước ngoài
GDP : Tổng thu nhập quốc dân
HKD : Đôla HongKong
IMF : Quĩ Tiền tệ quốc tế
JPY : Yên Nhật
KRW : Won Hàn Quốc
NEER : Tỷ giá danh nghĩa đa phương
NER : Tỷ giá danh nghĩa song phương
NHNN :Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
REER : Tỷ giá thực đa phương
RER : Tỷ giá thực song phương
SGD : Đôla Singapore
THB : Bath Thái Lan
USD : Đôla Mỹ
VND : Đồng Việt Nam
WB : Ngân hàng Thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Hiệu ứng đường cong J
Hình 2.1: Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu thời kỳ 2001 – 2010
Hình 2.2: Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với 10 thị trường lớn nhất
năm 2010
Hình 2.3: Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2012, dự báo 2013
Hình 2.4: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2013
Hình 2.5: Tốc độ tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 2005 - 2012 (%)
Hình 2.6: Chỉ số giá tiêu dùng, giá USD và giá vàng năm 2005 (Tháng 12/2004 =
100)
Hình 2.7: Tốc độ tăng – giảm tỷ giá VND/USD trong năm 2012 (%)
Hình 2.8: Các biện pháp điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2012
Hình 2.9: Đồ thị tỷ giá thực đa phương
Hình 2.10: Sơ đồ các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại của Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2012
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế, cán cân thương mại vốn là một yếu tố
vĩ mô quan trọng không chỉ bởi nó trực tiếp tham gia và đóng góp vào sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của đất nước, mà còn bởi cán cân thương mại có những tác động và liên
hệ hết sức mật thiết với nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Tình trạng của cán cân thương
mại không chỉ thể hiện tương quan giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu mà qua đó
còn phần nào thể hiện trạng thái của nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác như cung
cầu tiền tệ; khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của hàng hoá, dịch vụ; tình trạng
nợ nước ngoài và cán cân tài khoản vãng lai; khả năng tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực
tế..., và cuối cùng là thể hiện trạng thái chung của nền kinh tế.
Giữa các yếu tố tác động lên cán cân thương mại như lạm phát, thu nhập quốc dân,
tỷ giá hối đoái thì tỷ giá hối đoái được coi là một yếu tố vô cùng quan trọng bởi những
ảnh hưởng nhanh và mạnh của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
Trong giai đoạn từ năm 2005 – 2012, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi
đáng kể trong đó tỷ giá và cán cân thương mại cũng có nhiều biến động. Tuy nhiên, cho
đến hiện nay chưa có cơ quan nào của Việt Nam công bố tỷ giá thực, những biến động
của tỷ giá và tác động của nó đến cán cân thương mại hoàn toàn được đo lường bởi tỷ giá
danh nghĩa.
Do đó, việc tính toán tỷ giá thực và đánh giá những tác động của tỷ giá đến cán cân
thương mại của Việt Nam là cần thiết. Từ đó có thể đưa ra một số gợi ý để có chính sách
tỷ giá phù hợp hơn với thực tế nhằm đảm bảo các mục tiêu chung.
2. Mục tiêu của đề tài
Nhằm thể hiện một quan điểm với tỷ giá và biến động tỷ giá, tác giả đã tính toán tỷ
giá thực và đánh giá tác động của nó lên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Cụ thể:
2
Tính toán tỷ giá thực đa phương, phân tích, đánh giá mức độ tin cậy của tỷ giá thực đa
phương trong việc xác định tiền đồng có bị định giá cao hoặc thấp hay không và mức độ
tác động của nó đối với khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Từ đó đưa ra một số gợi ý trong việc điều hành tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương
mại của Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Tỷ giá tiền đồng so với một số đồng tiền của các đối tác thương mại lớn với Việt
Nam.
Chỉ số CPI, giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại lớn nói
trên. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nối (GDP) của Việt Nam và các đối tác
thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tỷ giá của đồng tiền một số nước và vùng lãnh thổ
với VND và với USD. Đồng tiền của các nước và vùng lãnh thổ này được chọn tham gia
rổ tiền tệ để tính tỷ giá thực theo năm. Trong rổ tiền này có 10 đồng tiền được chọn, đó là:
SGD (Singapore), THB (Thái Lan), HKD (Hồng Kông), KRW (Hàn Quốc), JPY (Nhật
Bản), CNY (Trung Quốc), EUR (Đức và Pháp), USD (Mỹ), AUD (Úc).
Số liệu xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại, chỉ số CPI của
Việt Nam và các đối tác, tỷ giá của Việt Nam đồng với các đối tác được thu thập trong
khoảng thời gian từ quý 1/2005 đến quý 4/2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, mô tả, so sánh, phân tích định lượng và
hồi quy. Với nguồn dữ liệu được thu thập từ Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính, Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các
3
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… được công bố trong khoảng thời gian từ năm 2005
đến 2013.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại.
Chương 2: Phân tích tác động của tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương mại của
Việt Nam.
Chương 3: Một số gợi ý nhằm mục tiêu cải thiên cán cân thương mại của Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ
CÁN CÂN THƢƠNG MẠI
1.1 Tỷ giá hối đoái
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa hai nƣớc là mức giá tại đó đồng tiền của một nƣớc có thể
biểu hiện qua đồng tiền của nƣớc khác.
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối
đoái một mặt nó phản ánh sức mua của đồng nội tệ, mặt khác nó thể hiện quan hệ cung
cầu ngoại hối.
1.1.2 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được sử dụng hàng ngày trong giao dịch trên thị trường
ngoại hối, nó chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác mà chưa
đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng.
• Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương là giá cả của một đồng tiền so với một
đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước.
• Tỷ giá danh nghĩa đa phương (NEER-Nominal Efective Exchange rate)
NEER không phải là tỷ giá, nó là một chỉ số được tính bằng cách chọn ra một số loại
ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính tỷ giá trung bình các tỷ giá danh nghĩa của các đồng
tiền có tham gia vào rổ tiền tệ với tỷ trọng tỷ giá tương ứng.
Tỷ trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của nước có
đồng nội tệ đem tính NEER so các nước có đồng tiền trong rổ được chọn.
Gọi t = 0 là kỳ gốc, (t = 0,1,2, …i) là các thời kỳ nghiên cứu.
1, E0
2, … E0
n, là tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n
E0
trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = 0 (kỳ gốc).
5
1, Ei
2, … Ei
n, tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ
Ei
tiền tệ tại thời điểm t = i.
w1, w2, …. wn là tỷ trọng thương mại của đồng tiền các nước.
Nếu so sánh tỷ giá danh nghĩa so với kỳ gốc, ta có:
- Tại thời kỳ t=0: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với ngoại tệ thứ n là
n = E0/ E0
n.
e0
- Tại thời kỳ t=i: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với ngoại tệ thứ n là
n = Ei/ Ei
n.
ei
∑
1.1.3 Tỷ giá hối đoái thực
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong
nước và nước ngoài. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải đồng nghĩa
với sự gia tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Như vậy, tỷ giá hối đoái thực
là một phạm trù kinh tế đặc thù và việc phân tích tỷ giá hối đoái thực sẽ là một vấn đề cần
được quan tâm.
1.1.3.1 Tỷ giá thực song phƣơng (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo
mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là chỉ số thể hiện sức mua của đồng nội tệ so
với đồng ngoại tệ. Vì thế có thể xem tỷ giá thực là thước đo sức cạnh tranh trong mậu dịch
quốc tế của một quốc gia so với một quốc gia khác.
+ Tỷ giá thực song phương ở trạng thái tĩnh
Tỷ giá thực song phương được xét tại một thời điểm. Ta có công thức tính như sau:
6
Trong đó:
° E: Tỷ giá danh nghĩa tính bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ.
° Ph: Mức giá trong nước.
° Pf: Mức giá nước ngoài.
Trong công thức trên, tử số là giá cả hàng hóa được quy về đồng nội tệ và đem chia
cho mẫu số là giá hàng hóa trong nước (cũng được tính bằng nội tệ). Vì thế tỷ giá thực là
một chỉ số so sánh mức giá nước ngoài so với mức giá trong nước.
- Nếu Er = 1, ta nói rằng đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ có ngang giá sức mua.
- Nếu Er >1, đồng nội tệ được định giá thấp. Khi đồng nội tệ định giá thấp, về lý
thuyết sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
- Nếu Er <1, đồng nội tệ được định giá cao, giá hàng hóa trong nước sẽ cao hơn giá
hàng hóa ở nước ngoài. Do đó, ngược lại với trường hợp trên, đồng nội tệ định giá cao sẽ
hạn chế xuất khẩu và tăng nhập khẩu.
+ Tỷ giá thực song phương ở trạng thái động
Hiện nay không có quốc gia nào công bố giá của một rổ hàng hóa, cho nên tỷ giá thực ở
trạng thái tĩnh chỉ mang ý nghĩa lý thuyết. Vì vậy, người ta sử dụng tỷ giá ở trạng thái động
để tính toán sự vận động của tỷ giá thực từ thời kỳ này sang thời kỳ khác thông qua việc
điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa với chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia có đồng tiền đem
so sánh.
Tại thời điểm t:
7
= Et/E0 là chỉ số tỷ giá danh nghĩa thời điểm t so với thời điểm 0. - et 0
= Er - et 0r
t/ Er
0 là chỉ số tỷ giá thực thời điểm t so với thời điểm 0
ft là chỉ số giá ở nước ngoài thời điểm t.
Trong đó:
ht là chỉ số giá ở trong nước thời điểm t.
- CPI0
- CPI0
1.1.3.2 Mối quan hệ giữa tỷ giá thực và tỷ giá có ngang giá sức mua
Tỷ giá có ngang giá sức mua chính là tỷ giá thực (Er) có trị số bằng 1. Do tỷ giá danh
nghĩa được giao dịch trên thị trường ngoại hối thường lệch khỏi ngang giá sức mua nên tỷ
giá thực có thể lớn hơn, nhỏ hơn 1. Lúc này đồng tiền có thể được định giá thấp hay cao so
với ngang giá sức mua. Vì vậy, khi tỷ giá danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải
đồng nghĩa với sự gia tăng hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế, các nhà quản lý
nghiên cứu và dự báo ngang giá sức mua để cố gắng kéo tỷ giá về vùng ngang giá sức mua
nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế hay phục vụ cho các mục tiêu ổn định kinh tế
vĩ mô.
Theo lý thuyết, ngang giá sức mua giữa hai đồng tiền chính là cơ sở để hình thành tỷ
giá giao dịch trên thị trường. Do đó, dự báo ngang giá sức mua để điều chỉnh tỷ giá sao cho
trong quan hệ mậu dịch quốc tế không có quốc gia nào bị thiệt khi có chêch lệch lạm phát
giữa các quốc gia. Nếu có ngang giá sức mua, tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền một nước
so với tất cả các đồng tiền khác sẽ biến động ngang với chênh lệch lạm phát của nước đó
so với lạm phát của các nước khác.
Người ta dùng ngang giá sức mua để đánh giá biến động của đồng tiền trong tương lai.
Giá trị mới của tỷ giá giao ngay của một đồng tiền nào đó (St+1) sẽ là một hàm của tỷ giá giao
ngay ban đầu (St )và chênh lệch lạm phát:
8
là tỷ lệ lạm phát nước ngoài.
Trong đó: Ih là tỷ lệ lạm phát trong nước và If
Công thức tính gần đúng:
St+1 = St [1+ (Ih - If )]
+ Phương pháp tính tỷ giá có ngang giá sức mua vào thời điểm năm thứ n so với năm
gốc
Vào cuối năm thứ n, tỷ giá sẽ phải tăng hay giảm một tỷ lệ nào đó so với năm cơ
sở được chọn trước để đáp ứng ngang giá sức mua. Căn cứ vào chỉ số giá công bố hàng
f lần lượt là chỉ số lạm phát trong nước và nước ngoài năm t.
năm so với năm trước, chúng ta có thể tính được tỷ giá có ngang giá sức mua ở năm thứ n.
h, CPIt
Gọi CPIt
E0, Et lần lượt là tỷ giá năm 0 (thường chọn làm năm cơ sở) và tỷ giá năm t.
f (1)
+ Năm 0: tỷ giá là E0 được cho trước.
h/ CPI1
f (2)
+ Năm 1: Tỷ giá E1 = E0 x CPI1
h/ CPI2
+ Năm 2: Tỷ giá E2 = E1 x CPI2
Thế (1) vào (2) ta có:
h/ CPI1
f x CPI2
f h/ CPI2 = E0 x CPI1
h CPI2
h / CPI1
f f CPI2
E2 = E0 x CPI1
+ Năm thứ n tỷ giá (theo thuyết ngang giá sức mua) sẽ là
1.1.3.3 Tỷ giá thực đa phƣơng hay tỷ giá thực hiệu lực (REER)
Tỷ giá thực song phương chỉ cho chúng ta biết được sự lên giá hay xuống giá của đồng
nội tệ so với một đồng ngoại tệ. Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một
nước có quan hệ buôn bán với rất nhiều nước trên thế giới. Vấn đề được đặt ra là tại một
thời điểm nhất định làm sao có thể biết được đồng nội tệ lên giá hay giảm giá so với các
9
đồng tiền của các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, hay nói cách khác là làm sao để có
thể biết được tương quan sức mua hàng hóa của đồng nội tệ với các đồng ngoại tệ để làm cơ
sở đánh giá tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại của quốc gia? Để có cái nhìn toàn
diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác
người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình).
Tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc
gia và là cơ sở để đánh giá đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp. Chỉ số này rất hữu ích
cho việc đạt được mục tiêu thích hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa linh hoạt và cố
định. Vì vậy, nó được nhìn nhận như là dữ liệu cơ bản cho quá trình thực thi chính sách.
Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra giá trị thực của đồng nội tệ so với
các ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội
so với lạm phát các đối tác tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng
ngoại tệ. Sau đó xác định quyền số (mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ
trọng thương mại của từng đối tác với quốc gia có đồng tiền tính REER).
Gọi t = 0 là kỳ gốc, (t =0,1,2, …i) là các thời kỳ nghiên cứu.
1, E0
2, … E0
n, là tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n
Gọi E0
trong rổ tiền tệ tại thời điểm t = 0 (kỳ gốc).
1, Ei
2, … Ei
n, tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với đồng ngoại tệ thứ n trong rổ
Ei
tiền tệ tại thời điểm t = i.
- Tại thời kỳ t=i, so với kỳ gốc: Chỉ số tỷ giá danh nghĩa của đồng nội tệ với ngoại tệ
n = Ei
n / E0
n.
t là chỉ số giá của đối tác n thời điểm t so với thời điểm 0.
thứ n là ei
CPIn
CPIt là chỉ số giá ở trong nước thời điểm t so với thời điểm 0.
- Tính tỷ trọng thương mại:
10
n là kim ngạch nhập khẩu của nước có đồng tiền được tính tỷ giá thực đa
Gọi It
phương với đối tác thương mại thứ n.
n là kim ngạch xuất khẩu của nước có đồng tiền được tính tỷ giá thực đa phương
Et
với đối tác thương mại thứ n.
∑
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước trong “rổ tiền” (Wt)
w1, w2, …. wn là tỷ trọng thương mại của các đối tác.
∑
Tỷ trọng thương mại của đối tác thứ n:
∑
- Chỉ số giá tiêu dùng bình quân:
∑
- Tỷ giá thực đa phương:
Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định thấp, ngược lại REER nhỏ hơn
100 bị định giá cao, REER bằng 100 đồng nội tệ có ngang giá sức mua so với “rổ
tiền tệ”
1.2 Cán cân thương mại
1.2.1 Khái niệm
11
Cán cân thương mại là một thành phần chủ yếu trong cán cân vãng lai (bao gồm cán
cân thương mại, cán cân dịch vụ và chuyển nhượng đơn phương). Cán cân thương mại đôi
khi còn được gọi là cán cân hiển thị (visible), bởi vì nó phản ánh chênh lệch giữa thu nhập
từ xuất khẩu hàng hóa cà chi phí cho nhập khẩu hàng hóa, mà các hàng hóa này lại có thể
quan sát được khi di chuyển qua biên giới. Thu nhập từ hoạt động xuất khẩu được ghi có (+)
và chi phí cho nhập khẩu được ghi nợ (-). Thặng dư trong cán cân thương mại của một quốc
gia có nghĩa là thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa lớn hơn chi phí cho nhập khẩu hàng hóa của
quốc gia này. Ngược lại, thâm hụt cán cân thương mại có nghĩa là chi phí cho nhập khẩu
hàng hóa lớn hơn thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa.
Ta có: TB = X - M
Trong đó: TB là cán cân thương mại.
X là giá trị xuất khẩu.
M là giá trị nhập khẩu.
Cán cân thương mại thăng dư khi (X - M) > 0; ngược lại, cán cân thương mại thâm
hụt khi (X - M) < 0.
Vì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai và xuất
khẩu ròng bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản
vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này. Vì vậy, sự thặng dư hay thâm hụt tài khoản
vãng lai có quan hệ chặt chẽ với thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi xuất khẩu ròng, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư.
Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn.
Khi mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn một quốc gia sẽ phải tìm nguồn tài trợ cho mức
thâm hụt này, có thể là vay mượn nước ngoài để bù đắp làm tăng thêm số nợ ròng nước
ngoài. Hoặc quốc gia cũng có thể bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai bằng cách sử dụng
của cải nước ngoài đã được tích lũy từ các năm trước.
12
Một nước có tài khoản vãng lai thâm hụt là nước nhập khẩu tiêu dùng hiện tại và
phải xuất khẩu tiêu dùng trong tương lai (nước đi vay sẽ phải trả nợ); ngược lại quốc gia
có thặng dư tài khoản vãng lai là nước xuất khẩu tiêu dùng hiện tại và nhập khẩu tiêu dùng
trong tương lai (vị thế nước cho vay sẽ thu hồi nợ sau)
Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hơn 5%
GDP, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hƣởng đến cán cân thƣơng mại
Khi phân tích các yếu tố tác động đến cán cân thương mại, chúng ta dựa trên nguyên
tắc cetaris paribus. Nghĩa là, khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì ta cố định các
nhân tố khác. Các nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất đến cán cân thương mại là:
Lạm phát
Thu nhập quốc dân
Tỷ giá hối đoái
Các biện pháp hạn chế của chính phủ.
Ảnh hưởng của lạm phát: Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc
gia khác có quan hệ mậu dịch, thì cán cân thương mại của quốc gia này sẽ giảm nếu các
yếu tố khác bằng nhau. Bởi vì người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước hầu như
sẽ mua hàng nhiều hơn từ nước ngoài (do lạm phát trong nước cao), trong khi xuất khẩu
sang các nước khác sẽ sụt giảm.
Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân (GDP): Nếu mức thu nhập quốc dân tăng theo
một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác, cán cân thương mại của quốc gia đó sẽ
giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm
phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng. Một tỷ lệ gia tăng trong tiêu thụ hầu như sẽ
phản ánh một mức cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài.
Ảnh hưỏng của tỷ giá hối đoái: Nếu các yếu tố không đổi, một sự gia tăng trong
13
giá trị đồng nội tệ có thể làm cán cân thương mại xấu đi. Đồng nội tệ tăng giá làm giá
hàng hóa trong nước rở nên đắt tương đối so với hàng nước ngoài, điều này gây bất lợi
cho hoạt động xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng
giảm.
Đồng nội tệ mất giá (đồng nội tệ được định giá thấp) có thể giúp cải thiện cán cân
thương mại. Đứng trên khía cạnh của nhà xuất khẩu, đồng nội tệ giảm giá làm hàng nội rẻ
tương đối so với hàng ngoại. Ngược lại, đối với nhà nhập khẩu, nội tệ giảm giá làm giá cả
hàng hóa nhập khẩu đắt tương đối so với hàng nội. Điều này gây khó khăn cho hàng hoá
nước ngoài trên thị trường nội địa và là lợi thế cho hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới,
dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng tăng. Từ những lý lẽ trên, chúng ta thấy rằng tỷ giá
hối đoái (đã được điều chỉnh theo chênh lệnh lạm phát giữa hai quốc gia) có mối quan hệ
nghịch biến với cán cân thương mại, hay nói cách khác xuất khẩu ròng là một hàm của tỷ
giá hối đoái thực.
Ảnh hưởng các biện pháp hạn chế của chính phủ: Chính phủ có nhiều biện pháp
tác động nhằm điều chỉnh cán cân thương mại theo hướng mong muốn như: đánh thuế trên
hàng nhập khẩu (làm giá của hàng nước ngoài đối với người tiêu dùng trong nước tăng trên
thực tế), hoặc áp dụng hạn ngạch cho hàng hóa nhập khẩu (hay giới hạn tối đa có thể nhập
khẩu)… Việc hạn chế mậu dịch có thể làm lợi cho một vài ngành công nghiệp nhưng đồng
thời có thể gây bất lợi cho các ngành khác khi các quốc gia khác trả đũa bằng cách áp dụng
các biện pháp hạn chế mậu dịch của họ. Trong trường hợp này, nhập khẩu của cả hai quốc
gia có thể sụt giảm làm cho csn cân thanh toán không chênh lệch nhiều so với mức trước
khi áp dụng các biện pháp hạn chế mậu dịch.
1.3 Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại
1.3.1 Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thƣơng mại
Nhân tố tỷ giá chỉ tác động đến cán cân thương mại và dịch vụ, các bộ phận còn lại
của cán cân thanh toán không chịu ảnh hưởng của những thay đổi của tỷ giá. Ngoài ra, do
14
phạm vi nghiên cứu là tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại nên sau đây tác giả
chỉ trình bày nội dung tác động của phá giá đối với cán cân thương mại mà thôi.
Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ
làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ hơn khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu
đắt hơn khi tính bằng nội tệ, điều này là nguyên nhân làm cho cán cân thương mại trở nên
xấu hơn được gọi là hiệu ứng giá cả.
Sau khi phá giá, giá xuất khẩu trở nên rẻ hơn đã kích thích tăng khối lượng xuất
khẩu và khi nhập khẩu trở nên đắt hơn đã kích thích hạn chế khối lượng nhập khẩu, điều
này giúp cải thiện cán cân thương mại và được gọi là hiệu ứng khối lượng. Cán cân thương
mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào
trội hơn.
Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối
cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng
xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa huy động đủ
nguồn lực để sẳn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng
nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng
nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng nội hay
trong nước chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu hàng nhập khẩu chưa
thể giảm ngay.
Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số
lượng hàng nhập cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội
hơn hiệu ứng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi.
15
Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu
dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với
hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực
để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng có tính
trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong
ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình
chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường
cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 -1987, thì ban đầu cán cân
vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện.
Hình 1.1: Hiệu ứng đường cong J
Cán cân thương mại Tuyến J
Thặng dư (+)
0
Thời gian
Thâm hụt (-)
Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tính trội
hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài, hiệu ứng số
lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý
thuyết hiệu ứng đường cong J:
16
Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế đang phát
triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này không thể
sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có
thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể
lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả.
Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Đối với các nước phát triển tỷ lệ hàng
hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời gian tác động
lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển tỷ trọng loại
hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm
hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở
các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các
nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển.
Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước. Nếu tỷ trọng
này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng
giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá
tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu.
Mức độ linh hoạt của tiền lương. Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng
tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng
chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền
tệ.
Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước. Nếu
người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập
và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục
sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất
khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước
ngoài.
17
1.3.2 Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall-Lerner
Phương pháp hệ số co giãn do 2 tác giả Alfred Marshall và Abba Lerner sử dụng và
được Joan Robinson (1973), Fritz Machlup (1955) mở rộng. Phương pháp này dựa
trên một số giả thiết: Cung và cầu hàng hóa có hệ số co giãn hoàn hảo, nghĩa là ứng với
mỗi mức giá nhất định thì nhu cầu hàng hóa xuất nhập khẩu luôn luôn được thỏa mãn. Nội
dung của phương pháp này chủ yếu phân tích những tác động của phá giá lên cán cân vãng
lai.
Hệ số co giãn xuất khẩu : thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá thay
đổi 1%.
⁄ ⁄
Hệ số co giãn nhập khẩu : thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá
thay đổi 1%.
⁄ ⁄
Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, nếu trạng thái xuất phát của cán cân vãng
lai là cân bằng, thì khi phá giá nội tệ dẫn đến:
- Cải thiện cái cân vãng lai, chỉ khi tổng số của “hệ số co giãn xuất khẩu” và “hệ số co
giãn nhập khẩu” lớn hơn 1, nghĩa là chỉ khi: ( x + m>1).
- Thâm hụt cán cân vãng lai, chỉ khi tổng số của “hệ số co giãn xuất khẩu” và “hệ số
co giãn nhập khẩu” nhỏ hơn 1, nghĩa là ( x + m<1).
Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn cho thấy rằng trong dài hạn (từ hai đến
ba năm) tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1, tức phá giá có tác động đến
xuất nhập khẩu. Theo khảo sát thực nghiệm của Goldstein và Kahn (1985) thì tổng hệ số co
giãn trong dài hạn (dài hơn hai năm) luôn lớn hơn 1, trong khi trong ngắn hạn (dưới 6 tháng)
18
nó có xu hướng tiến gần đến 1. Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ số
co giãn xuất khẩu và hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong dài hạn. Vì
vậy, điều kiện Marshall-Lerner chỉ có thể được duy trì trong dài hạn (TS. Nguyễn Văn
Tiến (2005), “Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở”, xuất bản lần thứ tư, nhà
xuất bản Thống Kê).
Có quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào hàng
nhập khẩu nên độ co giãn giá của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập khẩu sẽ
không giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường xuất khẩu tương
đối có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu có thể lớn hơn (tức giá trị xuất
khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý rằng phá giá ở các nước phát triển sẽ
có tác động cải thiện cán cân thương mại mạnh hơn so với các nước đang phát triển hay nói
cách khác, việc phá giá là một giải pháp có thể cải thiện thâm hụt thương mại ở quốc gia
này nhưng có thể sẽ không có tác động ở quốc gia khác. Nó cũng khuyến cáo các quốc
gia đang phát triển nên thận trọng khi sử dụng biện pháp phá giá mạnh đồng nội tệ của
mình nhằm kích thích xuất khẩu.
1.4 Một số mô hình hồi quy liên quan đến tỷ giá, xuất nhập khẩu và lạm phát
1.4.1 Mô hình hồi quy tỷ giá theo chênh lệch lạm phát
St = α + µPt + µ*P*t + εt
Trong đó:
St: tỷ giá
P*t: chỉ số giá tiêu dùng nước ngoài.
Pt : chỉ số giá tiêu dùng trong nước.
µ, µ*: hệ số hồi quy.
εt: sai số.
19
1.4.2 Mô hình mối liên hệ giữa phần trăm thay đổi trong trong xuất khẩu và phần
trăm thay đổi trong giá trị đồng tiền
CEXP = b0 + b1(CDM t-1) + b2(PCGNPt-1) + ut
CEXP: % thay đổi của xuất khẩu trong kỳ quan sát
CDM t-1: % thay đổi của tỷ giá trong kỳ (độ trễ 1 kỳ)
(PCGNPt-1): % thay đổi của tổng sản phẩm quốc dân (độ trễ 1 kỳ) b0, b1, b2: hệ số hồi
quy.
u t: sai số.
Mô hình này có thể thêm bất kỳ biến độc lập nào khác nếu các biến đó có thể có các
tác động đến giá trị xuất khẩu.
1.4.3 Mô hình tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu sự tác động của tỷ giá thực
Mô hình hồi quy của Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong (2001)
Ln(X/M)t = α0 + α1lnY t + α2lnY t * + α3lnRER t + α4D + εt
Trong đó Ln là logarit tự nhiên.
X/M là tỷ trong thương mại.
Y là chỉ số thu nhập quốc dân (GDP) trong nước
Y* là chỉ số thu nhập quốc dân (GDP) của nước ngoài
RER chỉ số tỷ giá thực.
Thực tế, đây là mô hình thường được sử dụng trong các công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước về tác động của tỷ giá thực lên cán cân thương mại, do đó, trong
phạm vi đề tài này, tác giả cũng sẽ dựa vào mô hình này để tính toán cho trường hợp của
Việt Nam trong giai đoạn từ 2005 - 2012
20
Kết luận chƣơng 1
Tỷ giá danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác,
nó là tỷ giá được giao dịch hàng ngày trên thị trường ngoại hối.
Tỷ giá thực song phương (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức
chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá thực đa phương (REER) hay còn gọi là tỷ giá
thực hiệu lực được điều chỉnh theo lạm phát so với các đối tác thương mại có tính đến
trọng số thương mại của các đối tác. Tỷ giá thực có thể được xem là thước đo sức cạnh
tranh về giá cả trong mậu dịch quốc tế của một quốc gia.
Trong ngắn hạn, phá giá làm giá xuất khẩu rẻ, giá nhập khẩu tăng làm cán cân
thương mại tạm thời bị xấu đi được gọi là hiệu ứng giá cả. Trong dài hạn, xuất khẩu rẻ, giá
nhập khẩu tăng hơn làm tăng khối lượng xuất khẩu, hạn chế khối lượng nhập khẩu, từ đó làm
cán cân thương mại được gọi là hiệu ứng khối lượng.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong
ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn.
Điều kiện Marshall-Lerner: để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán
cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo giá cả của xuất khẩu và độ
co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1, (| x + m|>1).
21
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THỰC LÊN
CÁN CÂN THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
2.1 Phân tích định tính
Như đã nói ở chương 1, do điều kiện thực tế ở Việt Nam và qua tham khảo một số
công trình nghiên cứu trước đây về tác động của tỷ giá hối đoái thực lên cán cân thương
mại, trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu tác động của một số nhân tố có
thể tác động mạnh lên cán cân thương mại của Việt Nam, đó là GDP bình quân của các đối
tác thương mại với Việt Nam, GDP Việt Nam và tỷ giá hối đoái thực.
2.1.1 Cán cân thƣơng mại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2012
Giai đoạn 2005 – 2012 ghi nhận những bước tiến đáng kể trong cán cân thương mại
của Việt Nam, mặc dù vẫn còn nhập siêu nhưng vẫn có những chỉ số đáng mừng, cụ thể
như sau:
Xuất nhập khẩu liên tục tăng trưởng với tốc độ cao
Theo kết quả thống kê, trong giai đoạn 10 năm gần đây 2001 - 2010, qui mô ngoại
thương của Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ tương đối cao. Sau 10 năm, kể từ năm
2001 đến năm 2010, qui mô ngoại thương của Việt Nam đã tăng hơn 5 lần, từ mức 31,2 tỷ
USD năm 2001 lên gần 157 tỷ USD năm 2010, tăng trưởng bình quân 18,7%/năm trong cả
giai đoạn. Trong đó, qui mô xuất khẩu tăng 5 lần, từ mức hơn 15 tỷ USD năm 2001 lên hơn
72 tỷ USD vào năm 2010, tăng trưởng bình quân 18,1%/năm trong cả giai đoạn; qui mô
nhập khẩu tăng 5,2 lần, từ mức 16,2 tỷ USD năm 2001 lên mức 84,8 tỷ USD năm 2010,
tăng trưởng bình quân 19,3%/năm trong cả giai đoạn.
Xem xét diễn biến tình hình xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam
trong thời kỳ này cho thấy, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu có xu hướng tăng và lên tới
đỉnh điểm vào năm 2007. Sau đó cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu năm
2008 đã tác động làm suy giảm cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Cả kim ngạch xuất
22
khẩu và nhập khẩu đều bị sụt giảm vào năm 2009, nhưng sau đó lại có chiều hướng tăng lên
vào năm 2010 khi nền kinh tế thế giới và nền kinh tế trong nước hồi phục. Tổng xuất khẩu
hàng hóa của nước ta đã tăng từ 14,5 tỷ USD năm 2000, lên 39,8 tỷ USD năm 2006. Tính
chung trong giai đoạn 2000-2006, xuất khẩu đã tăng hơn 2,7 lần, tương đương với mức
tăng bình quân khoảng 18,4%/năm. Từ sau 2007, xuất khẩu đã có những biến động mạnh
hơn. Tăng trưởng xuất khẩu đạt tới 22% năm 2007, và 29% năm 2008. Tuy nhiên, xuất
khẩu năm 2009 đã giảm 8,9% so với mức năm 2008, trước khi tăng trở lại khoảng 25,5%
vào năm 2010. Tính chung trong giai đoạn 2007 - 2010, xuất khẩu đã tăng khoảng 1,8 lần,
từ 39,8 tỷ USD lên 72,2 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân tương ứng đạt
15,8%/năm.
Về nhập khẩu, từ sau 2007, nhập khẩu đã có những biến động mạnh hơn. Tăng trưởng
nhập khẩu đạt tới 40% năm 2007, và 28,6% năm 2008. Tuy nhiên, nhập khẩu sau đó đã
giảm 13,3% năm 2009, và tăng trở lại ở mức 20% trong năm 2010. Tính chung trong giai
đoạn 2007 - 2010, nhập khẩu đã tăng khoảng 1,9 lần, từ 44,9 tỷ USD lên 84 tỷ USD. Tốc
độ tăng nhập khẩu trung bình ở mức 17%/năm.
Đến năm 2012, thứ hạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng 13 bậc và xếp ở vị trí
37 (năm 2007 xếp thứ 50) trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.
23
100000,0
%
80000,0
60000,0
40000,0
20000,0
,0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
-20000,0
-40000,0
Cán cân thương mại
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Hình 2.1: Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu thời kỳ 2001 – 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Cán cân thương mại thâm hụt
Với diễn biến xuất nhập khẩu như trên, cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn
2005 - 2008 liên tục ở tình trạng thâm hụt và có xu hướng tăng. Nhập siêu hàng hóa mới
chỉ ở mức 1,2 tỷ USD vào năm 2001, song đã tăng mạnh và đạt gần 5,1 tỷ USD vào năm
2006. Sau khi gia nhập WTO, nhập siêu của Việt Nam còn tăng nhanh hơn, lần lượt đạt tới
14,2 tỷ USD và 18,0 tỷ USD trong các năm 2007 và 2008. Trong những năm sau đó, cùng
với tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và các chính sách kiềm chế nhập siêu, nhập siêu
giảm xuống còn 12,9 tỷ USD vào năm 2009 và 12,4 tỷ USD năm 2010. Tốc độ tăng nhập
siêu bình quân ở mức gần 30,0%/năm trong giai đoạn 2000 - 2006, đã tăng tới 88,7%/năm
trong các năm 2006 - 2008, sau đó giảm còn 17,1%/năm giai đoạn 2008 - 2010.
Tốc độ nhập siêu về cơ bản tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Xem xét tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu cũng cho thấy những diễn biến
tương tự. Tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã tăng lên 25,3% vào năm 2003 so với mức
7,9% năm 2001, nhưng sau đó cũng giảm xuống còn 12,7% vào năm 2006. Đến năm 2007,
tỷ lệ này tăng mạnh lên 29,2%. Trong các năm sau đó, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu
24
nhập siêu lại giảm dần, và chỉ còn 17,3% vào năm 2010. Như vậy, nhập siêu nhìn chung đã
tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của xuất khẩu. Điều này cho thấy đánh đổi từ việc chấp
nhận nhập siêu kéo dài cũng chưa mang lại hiệu quả đáng kể về thúc đẩy tăng trưởng xuất
khẩu.
Thị trường xuất nhập khẩu liên tục được mở rộng nhưng cơ cấu chuyển biến chưa
thực sự mạnh mẽ và theo hướng giảm dần lệ thuộc vào khu vực thị trường châu Á, tăng
vai trò của khu vực thị trường châu Mỹ. Thời gian qua, thị trường xuất khẩu của Việt
Nam đã được mở rộng mạnh mẽ cả về qui mô và số lượng các thị trường mới. Thị trường
nhập khẩu được đa dạng hoá nhưng sự phụ thuộc vào một số thị trường còn lớn. Chỉ trong
giai đoạn 10 năm 2001 - 2010, số lượng thị trường xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần, từ
160 thị trường năm 2001 lên trên 230 thị trường vào năm 2010. Đây là thực tế rất khả quan
trong công tác phát triển ngoại thương của Việt Nam thời gian qua. Qui mô các thị trường
không ngừng được gia tăng, nhiều thị trường đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục qua nhiều
năm…, đã tạo ra cơ hội và điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu tiếp tục được mở rộng và phát
triển. Tuy nhiên, trong nhập khẩu, các thị trường chủ yếu vẫn không có nhiều thay đổi.
Nhập khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào một số thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Hoa Kỳ, Ấn Độ…
Cơ cấu thị trường nhập khẩu cũng không có chuyển biến lớn, mức độ tập trung về
thị trường nhập khẩu rất cao và hầu hết các thị trường nhập khẩu chính cũng là các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Xét theo khu vực thị trường, Việt Nam có thâm
hụt thương mại duy nhất với châu Á và thặng dư thương mại với tất cả các châu lục còn lại.
Trong số 10 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam (gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia, Thuỵ Sỹ, Đức, Singapore, Malaysia) thì có tới 6 thị
trường cũng là thị trường nằm trong số 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đó
là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia. Tổng kim ngạch của
10 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2010 đã chiếm tới 78,2% tổng kim
25
ngạch nhập khẩu. Điều này cho thấy mức độ tập trung về thị trường nhập khẩu của Việt
Nam là rất cao.
Trong các thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, Trung Quốc là thị trường
quan trọng nhất với qui mô và tốc độ tăng trưởng đều ở mức rất cao (năm 2010, nhập khẩu
của Việt Nam từ thị trường này là hơn 20 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn
2001 - 2010 là 31,9%/năm, chỉ thấp hơn tốc độ của thị trường Hoa Kỳ là 33,3%).
Các thị trường có qui mô thương mại hai chiều lớn nhất với Việt Nam thì đa phần
lại là các thị trường mà Việt Nam có nhập siêu. Theo số liệu thống kê và xem xét Đồ thị
2.16 cho thấy, đến năm 2010, mười thị trường có qui mô thương mại hai chiều lớn nhất với
Việt Nam vẫn là các thị trường quen thuộc gồm: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Australia và Đức.
Hình 2.2: Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với 10 thị trường lớn nhất
,
30000,0
0 6 7 2 3 7 2
,
25000,0
,
,
0 8 8 1 0 0 2
,
0 5 0 0 8 1
20000,0
0 8 3 4 7 6 1
,
0 1 8 3 2 4 1
,
0 5 3 5 8 2 1
,
15000,0
,
,
,
,
0 3 1 6 7 9
,
0 1 6 1 0 9
,
,
0 7 9 1 4 8
,
0 7 7 2 7 7
0 8 8 0 3 7
,
0 9 6 7 9 6
,
,
,
,
10000,0
0 1 5 8 7 6
,
0 4 2 2 2 6
0 3 2 0 6 5
0 5 6 0 5 5
,
,
,
,
,
,
,
0 1 1 0 1 4
,
0 4 3 1 4 3
0 6 7 4 1 4
0 1 5 1 1 4
0 9 6 6 7 3
0 2 2 9 0 3
0 4 0 7 2
0 7 2 7 3 2
0 3 1 2 1 2
0 4 2 4 7 1
5000,0
0 1 3 9 0 2
0 8 2 4 4 1
0 6 3 4 4 1
0 8 2 8 1 1
,0
Tổng kim ngạch XNK
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
năm 2010
Nguồn: Tổng cục Hải quan
26
Trong số 10 thị trường này thì đã có tới hơn 2/3 thị trường là Việt Nam nhập siêu, chỉ
có 3 thị trường mà Việt Nam có mức thặng dư thương mại là Hoa Kỳ, Australia và Đức
nhưng cũng chỉ chiếm 15,7% kim ngạch của 10 thị trường có thặng dự thương mại của Việt
Nam.
Mức độ phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu của Việt Nam cao hơn khá nhiều mức
độ phù thuộc vào thị trường xuất khẩu. Xem xét các thị trường có qui mô xuất siêu và
nhập siêu lớn nhất của Việt Nam cho thấy, mức độ phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu của
Việt Nam cao hơn khá nhiều mức độ phù thuộc vào thị trường xuất khẩu. Tỷ trọng kim
ngạch của 10 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam đã chiếm tới 78,2% tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2010. Trong khi đó, tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất chỉ chiếm 63,7% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy, cũng có thể nói rằng khả năng đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu của Việt Nam là cao hơn so với khả năng đa dạng hoá thị trường nhập khẩu.
Với những khía cạnh được xem xét trên về thực trạng xuất nhập khẩu và tình hình
cán cân thương mại của Việt Nam thời gian qua, có thể đưa ra một số đánh giá có tính
tổng kết về hoạt động xuất nhập khẩu và tình trạng cán cân thương mại của Việt Nam
thời gian qua như sau:
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đạt liên tục đạt mức cao, qua đó qui mô thương
mại quốc tế đã được mở rộng đáng kể.
Cán cân thương mại thường xuyên trong trạng thái thâm hụt và về cơ bản có xu
hướng gia tăng. Tốc độ tăng nhập siêu nhìn chung nhanh hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều cho thấy chưa hợp lý và chưa có
những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực hơn. Xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung
vào các mặt hàng sơ chế, thâm dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên, tỷ trọng các
mặt hàng chế biến sâu, áp dụng công nghệ cao còn hạn chế. Nhập khẩu vẫn chủ yếu tập
27
trung vào nhóm hàng nguyên - nhiên - vật liệu và máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng…
và chưa thấy có xu hướng giảm.
Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu mặc dù được mở rộng nhưng mức độ phụ thuộc
vào một số ít thị trường nhất định còn cao, đặc biệt là trong nhập khẩu. Tình trạng nhập siêu
diễn ra chủ yếu ở khu vực châu Á và ở những đối tác có đầu tư nhiều vào Việt Nam.
Theo kết quả thống kê chính thức, cán cân thương mại của Việt Nam năm 2011 và
năm 2012 đã chuyển biến khá đột biến theo hướng giảm mạnh mức độ nhập siêu và đã bắt
đầu có xuất siêu. Cụ thể là, năm 2011 với tổng kim ngạch xuất khẩu là 96,906 tỷ USD và
nhập khẩu là 106,750 tỷ USD, cán cân thương mại của Việt Nam ở mức thâm hụt 9,844 tỷ
USD và bằng 10,1% so với kim ngạch xuất khẩu. Đây là mức thâm hụt cán cân thương mại
giảm mạnh nhất kể từ năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO (tỷ lệ nhập
siêu/kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 là 29,1%, năm 2008 là 28,8%, năm
2009 22,5% và năm 2010 là 17,5%). Năm 2012, lần đầu tiên sau rất nhiều năm, cán cân
thương mại Việt Nam đã ở trạng thái thặng dư với mức thặng dư là 781 triệu USD (với kim
ngạch xuất khẩu đạt 114,573 tỷ USD và nhập khẩu 113,792 tỷ USD).
Trở lại phân tích nguyên nhân của kết quả nêu trên có thể thấy một số vấn đề rất đáng
lưu ý như sau:
Thứ nhất, năm 2008 được đánh dấu là năm kinh tế thế giới bắt đầu bước vào suy
thoái khá nghiêm trọng, bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát tại Hoa Kỳ và lan
rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị
trường chứng khoán khuynh đảo. Trong bối cảnh đó, diễn biến cán cân thương mại của Việt
Nam năm 2009 - 2010, là thời kỳ tác động của khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới diễn
ra mạnh mẽ nhất, lại cho thấy có sự "cải thiện". Cụ thể là sau mức độ thâm hụt cán cân
thương mại có xu hướng liên tục tăng kể từ năm 2001, thì đến năm 2009 và năm 2010, xu
hướng này lại bắt đầu có dấu hiệu giảm bớt: Năm 2009, thâm hụt cán cân thương mại ở
mức 12,853 tỷ USD, bằng 22,5% so với kim ngạch xuất khẩu, năm 2010 thâm hụt cán cân
28
thương mại ở mức 12,609 tỷ USD, bằng 17,5% so với kim ngạch xuất khẩu (so với mức
thâm hụt cán cân thương mại năm 2008 là 18,029 tỷ USD, bằng 28,76% so với kim ngạch
xuất khẩu và năm 2007 là 14,204 tỷ USD, bằng 29,25% so với kim ngạch xuất khẩu). Quan
sát diễn biến trên thực tế cũng cho thấy là trong những thời kỳ kinh tế thế giới gặp suy thoái
thì lại là thời kỳ mà mức độ thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam cũng giảm hơn. Lý
giải bản chất của hiện tượng này có thể bởi hai lý do cơ bản là: (i) Khi nền kinh tế thế giới
suy thoái, nhu cầu nhập khẩu các hàng hóa của các nước, trong đó bao gồm những nước là
thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng hóa của Việt Nam, sẽ giảm. Khi đó, tác động sẽ tạo ra
đối với cả xuất khẩu và nhập khẩu (vốn chủ yếu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu) của
Việt Nam cũng sẽ giảm. (ii) Trong khi đó, đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam nói chung và
xuất nhập khẩu nói riêng cho thấy, cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam chủ yếu là các
mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như nông, lâm, thủy sản, may mặc..., là những mặt hàng có
tính co giãn thấp khi kinh tế suy thoái (nghĩa là, khi kinh tế thế giới suy thoái thì sự sụt
giảm trong tiêu dùng các mặt hàng này cũng không nhiều). Trong khi đó, cơ cấu mặt hàng
nhập khẩu của Việt Nam lại chủ yếu là các loại máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu để phục
vụ sản xuất và xuất khẩu, là những mặt hàng có độ co giãn cao hơn, phản ứng mạnh hơn
khi thị trường sụt giảm. Chính vì vậy, như đã trình bày ở các phần trên về thực trạng xuất
nhập khẩu của Việt Nam, tốc độ tăng/giảm nhập khẩu của Việt Nam thường xuyên ở biên
độ lớn hơn, mạnh hơn so với tốc độ tăng giảm của xuất khẩu. Đây chính là lý do cho thấy
hầu như trong các giai đoạn mà kinh tế thế giới suy thoái thì cũng là những giai đoạn mà
cán cân thương mại của Việt Nam được cải thiện hơn.
Thứ hai, giai đoạn 2011 - 2012 là một giai đoạn khá đặc biệt của nền kinh tế Việt
Nam. Nền kinh tế trong nước gặp rất nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế suy giảm, sản
xuất đình đốn, hàng tồn kho tăng cao, nợ xấu tăng mạnh và hàng chục nghìn doanh nghiệp
phá sản, ngừng hoạt động... Bên cạnh đó, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều diễn
biến phức tạp, nợ công lan rộng tại châu Âu, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm và bất
ổn tiếp tục gia tăng. Mặc dù cán cân thương mại được cải thiện và bắt đầu có xuất siêu
29
nhưng Chính phủ và nhiều chuyên gia kinh tế trong nước đã bắt đầu lo ngại về tình trạng
xuất siêu của Việt Nam và cho rằng Việt Nam ở thời điểm này cần thiết nhập siêu hơn là
xuất siêu. Lý do của lo ngại này cũng xuất phát từ chính đặc điểm nêu trên của nền kinh tế
Việt Nam, đó là nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu để phục vụ sản xuất và xuất khẩu (nhóm
hàng hóa nhập khẩu để phục vụ nhu cầu này chiếm khoảng trên 80% tổng nhập khẩu của
Việt Nam). Một khi nhập khẩu sụt giảm cũng đồng nghĩa với việc năng lực sản xuất hàng
hóa để phục vụ xuất khẩu cũng sẽ sụt giảm và như vậy sẽ ảnh hưởng tới những cân đối lớn
của nền kinh tế.
Thứ ba, mặc dù trung tâm của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính thế giới diễn ra
trong năm 2008 nhưng cần phải thừa nhận rằng tới thời điểm này, thế giới vẫn chưa thực sự
thoát ra được khỏi cuộc khủng hoảng này. Những vấn đề cơ bản của cuộc khủng hoảng vẫn
chưa được giải quyết một cách triệt để và các nền kinh tế lớn trên thế giới như Hoa Kỳ và
EU vẫn đang phải tiếp tục vật lộn để tìm các giải pháp để giải quyết. Nguy cơ bị kéo trở lại
cuộc khủng hoảng là hoàn toàn hiện hữu. Do vậy, với những phân tích, nhận định như nêu
trên, chúng ta vẫn có thể tiếp tục nhận thấy rằng, nếu không có những thay đổi, cải cách
mạnh mẽ thì tình trạng cán cân thương mại của Việt Nam vẫn nhiều khả năng sẽ diễn biến
theo xu hướng "được cải thiện". Theo dõi tình hình xuất nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2013
cũng cho thấy điều này. Hai tháng đầu năm 2013, xuất khẩu của Việt Nam đạt 18,69 tỷ
USD, nhập khẩu 17,91 tỷ USD và cán cân thương mại ở mức thặng dư 782 triệu USD.
Với những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, nếu nhìn vào thực chất của tình
trạng cán cân thương mại của Việt Nam được cải thiện trong năm 2001 - 2012 và những
tháng đầu năm 2013, thì rõ ràng đây chưa phải là sự chuyển biến thực sự về chất lượng
trong hoạt động xuất nhập khẩu, mà sâu xa hơn nữa là chất lượng trong đổi mới, nâng cao
năng lực, hiệu của nền sản xuất trong nước (mặc dù không thể phủ nhận tác dụng của các
biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu mà Chính phủ và các Bộ, ngành đang
nỗ lực triển khai áp dụng). Vì vậy, có thể nhận định rằng, tình trạng xuất siêu của Việt Nam
30
trong hai năm 2011 - 2012 vừa qua chỉ mang tính hiện tượng, chưa tạo ra sự chuyển đổi căn
bản trong xu hướng vận động chính của cán cân thương mại trong dài hạn.
2.1.2 GDP bình quân của các đối tác thƣơng mại với Việt Nam giai đoạn 2005 –
2012
Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng, thị trường và thị phần xuất nhập khẩu của
Việt Nam liên tục tăng lên, do đó tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của các đối tác
thương mại với Việt Nam cũng gần tương đồng với xu thế chung của thế giới. Có thể sơ
lược một số nét đáng chú ý về GDP thế giới trong giai đoạn 2005 – 2012 như sau:
2005 – 2007: Giai đoạn phát triển cao của kinh tế thế giới. Năm 2005, theo IMF,
kinh tế thế giới tăng trưởng 4,5%, dẫn đầu là Trung Quốc (9,3%), Ấn Độ (7,6%), Nga
(5,9%). Kết quả tăng trưởng này có được chủ yếu là do sự tăng trưởng của các nền kinh tế
lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Đức và đặc biệt là Hoa Kỳ với sự tăng trưởng mạnh
trở lại (3,5%). Các nước đang phát triển có kết quả tăng trưởng khác nhau, một vài nước
còn phải đương đầu với việc gia tăng dân số, sụt giảm tăng trưởng và chậm phát triển
kinh tế.
Nếu như năm 2004, nền kinh tế thế giới được các chuyên gia coi là năm đỉnh cao
của sự tăng trưởng trong vòng 30 năm qua thì trong năm 2006, sự tăng trưởng này tiếp tục
được duy trì với mức 5,4%. Trong bối cảnh giá dầu không ổn định và đã được dự báo có
khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu, song sự tăng trưởng kinh tế
diễn ra ở hầu hết các châu lục, đặc biệt tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hai nền
kinh tế Trung Quốc và ấn Độ có những bước phát triển đột phá. Điều này cho thấy có sự
thay đổi cán cân sức mạnh kinh tế.
Nếu như trước đây khi nhắc tới sự phát triển của nền kinh tế thế giới là nhắc đến
Mỹ và Tây Âu thì nay không thể không nhắc đến Trung Quốc. Tăng trưởng GDP của
Trung Quốc trong vài năm qua liên tục giữ ở mức trên dưới 10% và trong năm 2006, con
số này vẫn không thay đổi. Bên cạnh đó, Ấn Độ và Nga cũng liên tục theo sát Trung
31
Quốc. Ấn Độ được đánh giá là nước có mô hình tăng trưởng khá mới lạ. Lĩnh vực xuất
khẩu dịch vụ đóng vai trò then chốt và tập trung vào phát triển công nghệ cao cùng đội
ngũ nhân viên lành nghề. Các nền kinh tế mới nổi này chiếm tới 70% tổng dự trữ ngoại tệ
thế giới và chiếm tới 80% dân số thế giới, tạo động lực mạnh mẽ đẩy con tàu kinh tế thế
giới lao nhanh về phía trước.
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu công bố tháng 10-2007, IMF đánh giá
kinh tế thế giới năm 2007 tăng trưởng 5,2%. Năm 2007 là năm thứ năm liên tiếp kinh tế
toàn cầu tăng trưởng cao, tạo nên một "giai đoạn tăng trưởng toàn cầu mạnh nhất kể từ
đầu những năm 1970".
Sự giảm tốc mạnh của nền kinh tế Mỹ (1,9% so với 2,9% năm 2006) là nhân tố
chính làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2007. Suy thoái của thị trường
nhà đất Mỹ và những rối loạn trên thị trường tài chính đã kìm hãm tổng cầu nội địa, nhất
là đầu tư, tại Mỹ. Theo OECD, năm 2007, tổng cầu nội địa Mỹ chỉ tăng 1,6%, đầu tư vốn
cố định tại Mỹ giảm 2,1%. Tăng trưởng trong Khu vực đồng Euro và Nhật Bản cũng
chậm lại, song mức giảm nhẹ hơn so với Mỹ. Tốc độ tăng trưởng ở Khu vực đồng Euro
năm 2007 là 3,0% (năm 2006 là 3,2%), một mức tăng trưởng khá cao so với mức tăng
trưởng của sáu năm qua. Nền kinh tế Nhật Bản năm 2007, với mức tăng trưởng 2,0%
(năm 2006 là 2,2%), tiếp tục góp phần tạo nên sự tăng trưởng kinh tế dài nhất của nước
này kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tăng trưởng của châu Âu và Nhật Bản cũng
đã bắt đầu dựa nhiều hơn vào sự gia tăng của tổng cầu trong nước; do đó đã phần nào làm
giảm bớt phụ thuộc về thương mại của các nền kinh tế này đối với Mỹ.
Trong khi đó, các nền kinh tế thị trường đang nổi lên và các nước đang phát triển
vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao tương đương năm 2006 (8,1% trong cả hai năm
2006-2007). Tăng trưởng nhanh tại các nền kinh tế này đã đối trọng sự tăng trưởng yếu đi
ở Mỹ, giúp kinh tế toàn cầu tăng trưởng cao. Các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á có
tốc độ tăng trưởng 9,8% (cao hơn nhiều so với mức 5,9% của Trung Ðông, 5,8% của
32
Trung và Ðông Âu, 5,7% của châu Phi và 5,0% của Mỹ la-tinh) tiếp tục là động lực chính
của tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2007. Ðặc biệt, ba nước Trung Quốc, Ấn Ðộ và Nga
đóng góp một phần hai tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2007. Kinh tế Trung Quốc tăng
trưởng 11,5%, lần đầu vượt Mỹ, trở thành nước đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng toàn
cầu xét theo cả hai tiêu chí là giá thị trường và ngang giá sức mua (PPP). Tăng trưởng
kinh tế của Ấn Ðộ và Nga trong năm qua cũng ở mức cao, tương ứng là 8,9% và 7,0%.
Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2007 chịu tác động của một loạt các nhân tố, cả
những nhân tố thuận lợi lẫn các nhân tố bất lợi. Ðiều đó giải thích tại sao kinh tế thế giới
tăng trưởng chậm lại, nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao. Những yếu tố bất lợi lớn nhất
là: (1) Sự tăng cao và bất ổn định của giá dầu mỏ, nông sản và nhiều mặt hàng nguyên
liệu cơ bản; (2) "Bong bóng" nhà đất Mỹ bùng nổ, kèm theo đó là những rối loạn tài chính
ở nhiều nước phát triển, cùng với sự xấu đi về điều kiện tiền tệ và sự chao đảo của các thị
trường chứng khoán chủ chốt; (3) Sự giảm sút tốc độ tăng trưởng của hầu hết các nước
phát triển, đặc biệt là của nền kinh tế Mỹ; (4) Sự trượt giá của đồng USD; (5) Sự trì trệ
của Vòng đàm phán Doha về tự do hóa thương mại toàn cầu...
Bên cạnh đó, có nhiều nhân tố tích cực giúp tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm
2007 duy trì ở mức cao, trước hết là: (1) Ðã có nhiều nước có nền kinh tế trở nên năng
động và mềm dẻo hơn. (2) Các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển giờ đây đã
chiếm một tỷ phần quan trọng trong tăng trưởng toàn cầu. Sự năng động của các nước này
đã đóng góp cho sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. (3) Tại các nền kinh tế phát
triển, tỷ lệ thất nghiệp đã được cải thiện, góp phần thúc đẩy thu nhập và tiêu dùng. Cán
cân tài sản vững mạnh đã giúp các công ty có thêm năng lực đầu tư cũng như kháng cự tốt
hơn trước các mất mát tài chính và sự thắt chặt tín dụng. Sau nhiều năm tăng trưởng cao,
các thiết chế và nền tài chính của nhiều nước đã được cải thiện đáng kể, góp phần làm
tăng tính ổn định của tăng trưởng.
33
2008 – 2009: Giai đoạn khủng hoảng tồi tệ nhất. Năm 2008 chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ thời đại suy thoái năm 1929 – 1930. Quỹ tiền tệ
Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
và các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên thế giới đều thống nhất nhận định, năm 2008 kinh
tế thế giới suy giảm mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất kể từ sau cuộc chiến
của Mỹ ở Irac. Theo IMF, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thế giới chỉ đạt
3,7% (con số của WB là 2,5%). Tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế lớn trên thế giới
đều giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và ảnh hưởng lan tỏa của nó.
IMF cho rằng: Tăng trưởng kinh tế chậm lại đáng kể ở hầu hết các nền kinh tế và những
đầu tàu, không chỉ là Mỹ, Nhật Bản và khu vực đồng tiền chung châu Âu nữa mà còn là
Trung Quốc, Ấn Độ và các nền kinh tế mới nổi khác.
Năm 2009, khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến mọi mặt của xã hội, dẫn đến
những hậu quả khó lường về chính trị, an ninh và ổn định xã hội. Đầu năm 2009, thế giới
lần lượt chứng kiến sự sụp đổ của Chính phủ Iceland, của Thủ tướng Geir Haarde và của
chính phủ liên minh 4 đảng trung hữu của Latvia, dưới tác động của khủng hoảng tài
chính. Vào tháng cuối năm 2009, cụm từ “nhà nước phá sản” lại được nhắc đến khi ám
chỉ một thành viên nữa của EU là Hy Lạp, khi mà chính phủ HY Lạp không kiềm chế
được mức độ gia tăng của món nợ công đã lên tới 12,7%, cao hơn gấp 4 lần mức độ giới
hạn cho phép của EU.
Khủng hoảng kinh tế là một trong những nguyên nhân của các cuộc biểu tình phản
đối và bạo động ở một loạt nước châu Âu, như Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Litva và
Latvia. Từ khủng hoảng kinh tế đến khủng hoảng việc làm, khủng hoảng an ninh xã hội,
khủng hoảng lòng tin không là bao xa.
Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực đồng euro cao nhất trong 12 năm qua với
9,8% tính đến tháng 10/2009. Tại Mỹ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) ngày
34
24/11 khẳng định tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 10,2% trong tháng 10/2009 với thêm
190.000 việc làm bị mất. Đây là mức thất nghiệp cao nhất kể từ năm 1983.
Để vực dậy nền kinh tế quốc gia, các chính phủ đã áp dụng một loạt các biện pháp
kích thích kinh tế, trong đó những gói cứu trợ hàng nghìn tỉ USD đã được tung ra, phục
hồi khả năng vay bằng cách cắt giảm lãi suất, cứu các ngân hàng, các quỹ trong thị trường
tiền tệ và các thể chế tài chính bằng các khoản tiền cho vay khẩn cấp...
Sang quí 3/2009, các biện pháp kích thích kinh tế đã có hiệu quả. Các nền kinh tế
lớn như Pháp, Đức, Nhật Bản và Mỹ đều đã tăng trưởng trở lại, chưa kể sự bật dậy mạnh
mẽ của một số nước châu Á và các nền kinh tế đang nổi lên khác. Liên minh châu Âu
(EU) ngày 13/11 công bố số liệu cho thấy kinh tế một loạt nước thuộc khu vực này đã trở
lại quỹ đạo tăng trưởng dương sau 15 tháng giảm liên tục. Cụ thể, Đức đạt mức tăng
trưởng 0,7%, Pháp tăng 0,3%, Italy tăng 0,6%, Litva tăng 6%...
Châu Á được đánh giá là khu vực đưa nền kinh tế thế giới thoát khỏi cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, khi các nước tuyên bố mức tăng trưởng không những dương mà
còn tương đối cao. Số liệu từ IMF cho thấy, kinh tế thế giới năm 2009 chỉ tăng 1.1%, thấp
hơn nhiều so với các năm trước.
2010: kinh tế thế giới phục hồi nhưng chưa bền vững. So với 2 năm suy thoái
trầm trọng trước đó, nền kinh tế toàn cầu bước vào năm 2010 với tốc độ tăng trưởng 2
quý đầu năm khá ngoạn mục, tăng trưởng trung bình đạt 5,25%. Tuy nhiên, tốc độ này
giảm xuống chỉ còn 3,75% vào hai quý cuối năm. Cũng từ giữa năm 2010, xuất hiện sự
phân hóa rõ rệt trong tăng trưởng giữa nhóm các nước phương Tây phát triển và nhóm các
nước phương Đông đang phát triển. Trong khi các nước phương Đông, đặc biệt là Trung
Quốc, tiếp tục lấy lại đà phát triển kinh tế thì các nước phương Tây bắt đầu chững lại khi
các gói kích cầu và hỗ trợ gần hết hiệu lực. Bên cạnh tăng trưởng thấp, các nước phương
Tây còn phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao và kéo dài, các trục trặc trong hệ thống tài
chính ngân hàng, và đặc biệt là sức ép nợ công và thâm hụt ngân sách.
35
Nợ công cao và thâm hụt ngân sách trầm trọng đã đẩy Liên minh kinh tế châu Ấu
vào một cuộc khủng hoảng mới và đe dọa sự tồn tại của đồng tiền chung Euro. Lần lượt
các quốc gia ở ngoại vi châu Âu như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland và Ý đã
thực sự rơi vào hoặc ngấp nghứ trước bờ vực của cuộc khủng hoảng. Khủng hoảng nợ
công châu Âu bùng phát đầu tiên ở Hy Lạp vào tháng 5/2010, tạm dịu đi khi quỹ cứu trợ
750 tỷ Euro của EU/IMF được thiết lập cùng với phản ứng thích hợp của Ngân hàng
Trung ương châu Âu ECB, nhưng lại tái phát tại Ireland vào cuối năm. Lần này, mức độ
trở nên nghiêm trọng hơn vì có thể đẩy nền kinh tế lớn thứ tư EU là Tây Ban Nha vào
khủng hoảng. Khủng hoảng nợ công châu Âu vẫn tiếp tục là yếu tố quan trọng quyết định
quỹ đạo của kinh tế toàn cầu trong những năm sau.
Tuy ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng ở châu Âu, kinh tế Mỹ phục
hồi khá chậm trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao gần 10% trong suốt năm 2010.
Ngoài ra, do cũng phải đối mặt với nợ công cao và thâm hụt ngân sách trầm trọng, chính
phủ Mỹ không có khả năng đưa ra một gói kích cầu mới có ý nghĩa. Đây làn nguyên nhân
chính khiến cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) buộc phải tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ
nới lỏng để vực nền kinh tế và đối phó với tình trạng thất nghiệp cao.
Chính sách tiền tệ nới lỏng định lượng quá mức và lãi suất gần bằng không tại các
nền kinh tế chủ chốt đã khiến dòng vốn rẻ tràn ngập thị trường tài chính thế giới, đặc biệt
là tới các nền kinh tế mới nổi, nơi có lãi suất và lợi nhuận cao. Ngân hàng Trung ương
các nước như Hàn Quốc, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ đã phải chật vật đối phó can thiệp
thị trường để kiềm chế đồng nội tệ tăng giá nhằm bảo vệ xuất khẩu cũng như hạn chế bất
ổn trong thị trường tài chính của nước mình do nguồn tiền nóng có thể gây ra. Nhiều
người lo ngại các nước sẽ lao vào cuộc chiến đua nhau phá giá đồng tiền của mình để
nâng sức cạnh tranh. Các chuyên gia IMF đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ chiến tranh Tiền
tệ sẽ châm ngòi cho Chiến tranh thương mại và đẩy kinh tế thế giới vào vết xe đổ thời kỳ
36
đại khủng hoảng 1929 – 1933. Rất may, cuộc đua phá giá đã không nghiêm trọng như lo
ngại.
Năm 2011, kinh tế thế giới tăng trưởng thấp. Mặc dù đã có nhiều biện pháp kích
thích kinh tế bất thường nhưng nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng không đủ đạt
mức cần thiết để phục hồi tài chính và giảm thất nghiệp, từ đó gây ra những biến động xã
hội. Dường như thế giới đang chuyển từ khủng hoàng tài chính sang khủng hoảng tăng
trưởng. Theo báo cáo của WB, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi, vốn được
coi là động lực cho quá trình phục hồi của nền kinh tế cũng đã bắt đầu chậm lại. Các nền
kinh tế năng động nhất như Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ cũng phải thực hiện chính sách
thắt chặt để đối phó với lạm phát. Các nền kinh tế năng động ở Mỹ Latinh cũng đang siết
chặt chính sách tiền tệ nhằm giảm nguy cơ phát triển quá nóng.
Mặc dù có tín hiệu phục hồi, nhưng kinh tế toàn cầu năm 2012 vẫn tăng thấp
hơn so với những năm trước, chỉ tăng 3,3%. Nguyên nhân là do tăng trưởng thấp tại Mỹ
và châu Âu và hai khu vực kinh tế này vẫn gặp khó khăn trong việc tái cân bằng thu chi
tài chính. Nhìn chung, tình hình tại các nước công nghiệp phát triển không mấy sáng sủa,
nên kinh tế tiếp tục suy giảm và chỉ tăng 1,4% trong năm nay, sau khi trượt dốc xuống
3,0% vào năm 2010 và xuống 1,6% trong năm 2011, mặc dù có thể nhích lên và tăng
1,6% vào năm 2013.
Tăng trưởng thấp và bất ổn tại các nước phát triển đang tác động đến các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển thông qua các hoạt động thương mại và đầu tư. Đáng chú ý,
do nhu cầu nhập khẩu yếu ớt tại các nước phát triển, thương mại toàn cầu năm 2012 chỉ
tăng 3,2%, trong khi năm 2011 tăng 5,8% và năm 2010 tăng 12,6%. Tại các nền kinh tế
mới nổi BRICS, tăng trưởng cũng giảm từ 6,2% năm 2011 xuống 5,3% trong năm nay.
Dẫn đầu nhóm BRICS là Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng năm 2012 là 8,0% và có thể
vẫn tăng 7,5% vào năm 2013. Triển vọng kinh tế Ấn Độ không rõ ràng và chỉ tăng dưới
6%, mức thấp nhất trong 9 năm qua, kỳ vọng năm 2013 sẽ phục hồi và tăng trên 6%.
37
Tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi, các nước nhập khẩu dầu mỏ tiếp tục đối mặt
với bất ổn kinh tế và chính trị, dự kiến chỉ tăng 1,25% trong năm 2012 trước khi phục hồi
vào năm sau. Riêng các nước xuất khẩu dầu mỏ vẫn tăng khá và đạt 6,25% trong năm
2012 nhờ giá dầu tăng cao và sự phục hồi sản lượng dầu khai thác tại Arập Xêút và Libya,
nhưng sau đó sẽ giảm tốc và chỉ tăng 3,75% trong năm 2013.
Tại khu vực Mỹ latinh và Caribê, GDP tăng 3,7% vào nửa cuối năm 2012 và 4,7%
trong nửa cuối năm 2013. Các nước trung Âu sẽ tăng 4% vào cuối năm 2013, cộng đồng
các quốc gia độc lập tăng 4% vào cuối năm 2013, trong đó CHLB Nga tăng 3,7%. Các
nước cận Sahara tăng trung bình 5%, riêng Nam Phi vẫn trì trệ do có mối liên hệ chặt chẽ
với châu Âu.
Nhiều nhà đầu tư và phân tích tài chính cho rằng, kinh tế thế giới năm 2012 đã
chạm đáy và sẽ phục hồi mạnh từ nửa cuối năm 2013, chủ yếu bắt nguồn từ các chỉ số
kinh tế vĩ mô tươi sáng tại Mỹ, nổi bật là tỉ lệ thất nghiệp trong tháng 11 đã giảm xuống
7,7%, mặc dù còn cao hơn con số 6,5% vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng tài
chính năm 2008. Đáng chú ý, mục tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống 6,0-6,5% vào cuối
năm 2015 do NHTW Mỹ đưa ra cũng tạo tâm lý phấn khích cho các nhà đầu tư.
Hình 2.3: Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2012, dự báo 2013
Quốc gia, khu vực Năm 2012 Năm 2013
Toàn cầu 3,3 3,6
Các nước phát triển 1,3-1,4 1,6
Các nước EU -0,3 0,4
Khu vực euro -0,4 0,1
38
Châu Á – Thái Bình Dương 5,6 -
Các nước ASEAN 5,2 5,5
Châu Phi 4,5 4,8
Trung Đông – Bắc Phi 5,1 3,7
Các nước Mỹ latinh và Caribê 3,7 4,7
Các nước trung Âu 1,9 2,9
Cộng đồng các quốc gia độc lập CIS 4,2 4,1
Mỹ 1,5 2,3-3,0
Nhật Bản 2,2 1,0
Trung Quốc 8,0 7,5
Ấn Độ 5,7-5,9 6,3
CHLB Nga 3,5-4,0 3,9
CH Nam Phi 2,7 3,6
Nguồn: IMF
Từ diễn biến trên đây, ta có thể khái quát tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới giai
đoạn 2007 – 2013 như sau:
39
Hình 2.4: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2013
Như vậy, trong thời gian qua, GDP bình quân của thế giới có nhiều biến động trái
chiều, cụ thể là tăng trong giai đoạn 2005 – 2007, giảm mạnh trong giai đoạn 2008 – 2009,
và dần phục hồi giai đoạn 2010 – 2012. Theo lý thuyết, GDP thế giới tăng sẽ làm tăng nhu
cầu của người nước ngoài đối với hàng hóa trong nước, từ đó kích thích xuất khẩu và tác
động tích cực lên cán cân thương mại của Việt Nam. Trong khi, trên thực tế cán cân thương
mại của Việt Nam liên tục thâm hụt trong thời gian qua, như vậy, khó có thể kết luận tác
động của GDP bình quân thế giới lên cán cân thương mại của Việt Nam nếu chỉ đánh giá
định tính, bởi có thể nó có tác động nhưng tác động yếu, hay có tác động nhưng ít hơn hoặc
bị chi phối quá nhiều bởi tác động của GDP Việt Nam và tỷ giá hối đoái.
Do khó khăn về mặt tìm số liệu và đảm bảo ít sai số trong thống kê, trong phạm vi đề
tài này, tác giả đã tính GDP bình quân bằng cách lấy GDP của 10 quốc gia có kim ngạch
xuất nhập khẩu lớn với Việt Nam để tính toán và so sánh.
2.1.3 GDP Việt Nam giai đoạn 2005 - 2012
GDP Việt Nam, tăng liên tục qua các năm.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2005 tăng 8,4% so với năm 2004, trong đó khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% và
40
khu vực dịch vụ tăng 8,5%. Trong 8,4% tăng trưởng chung, công nghiệp và xây dựng
đóng góp 4,2 điểm phần trăm; dịch vụ 3,4 điểm phần trăm và nông lâm nghiệp thuỷ sản
0,8 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2005 đạt mức tăng thấp hơn so với con
số ước tính, chủ yếu do sản lượng lúa mùa ở các tỉnh miền Bắc giảm (ảnh hưởng trực tiếp
của bão số 7, bão số 8) và thiệt hại do dịch cúm gia cầm. Thuỷ sản tăng mạnh, do cầu
trong nước tăng (bù vào thịt gia cầm và sản phẩm chế biến từ gia cầm) và xuất khẩu tăng
so với năm trước. Lâm nghiệp tăng nhẹ, chủ yếu do tăng sản lượng gỗ khai thác.
Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng trưởng 10,6%, trong đó giá trị
tăng thêm của khu vực công nghiệp chế biến tăng 13,1%, giá trị tăng thêm của công
nghiệp khai thác năm 2005 chỉ tăng 0,9%, chủ yếu do dầu thô khai thác trong suốt cả 4
quí đều thấp hơn sản lượng cùng quí tương ứng của năm 2004 và sản lượng dầu thô khai
thác cả năm cũng chỉ đạt mức 92,3% sản lượng năm 2004. Công nghiệp điện, ga, nước
tăng 12,2%; xây dựng tăng 10,8%.
Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 8,5%, cao hơn hẳn mức tăng trưởng 7,3%
của năm 2004. Trong khu vực này, các ngành có tỷ trọng lớn và thuộc lĩnh vực dịch vụ
kinh doanh như thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện, du lịch; tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức tăng của từng ngành trong năm
trước: Thương nghiệp năm nay tăng 8,3% (năm 2004 tăng 7,8%); Khách sạn nhà hàng
tăng 17% (2004 tăng 8,1%); Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6% (2004 tăng 8,1%)...
Do khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng cao hơn mức tăng
chung và tăng nhanh hơn các khu vực khác nên cơ cấu kinh tế ngành tiếp tục chuyển dịch
theo chiều hướng tăng ở khu vực công nghiệp, xây dựng và giảm ở khu vực nông, lâm
nghiệp, thuỷ sản. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 38,13% năm 2001 lên
41,03% năm 2005, dịch vụ tăng từ 36,63% lên 38,08% và nông lâm nghiệp thuỷ sản giảm
từ 23,24 xuống còn 20,89%.
41
Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng
trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu
vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng
góp 3,34 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm
2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng
của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp
hơn mức tăng của năm ngoái do sản xuất công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu
tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga
cũng giảm so với mức tăng trưởng năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng
trưởng chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được mức độ
tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch; khách sạn, nhà hàng;
tài chính ngân hàng, bảo hiểm.
Bước vào năm 2007 chúng ta có thuận lợi cơ bản là sau hơn 20 năm đổi mới thế và
lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành
nền kinh tế đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn
và rộng hơn vào kinh tế thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách
thức: trong khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và sức cạnh tranh thấp thì giá của nhiều loại vật tư nguyên liệu đầu vào
quan trọng phải nhập khẩu tăng cao.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
8,48% so với năm 2006, gồm có khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,41% (kế
hoạch 3,5-3,8%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% đạt kế hoạch đề ra (10,5-
42
10,7%); khu vực dịch vụ tăng 8,68% vượt kế hoạch đề ra (8,0-8,5%). Tăng trưởng kinh tế
năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong
khu vực (Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB thì năm 2007 kinh tế
Trung Quốc tăng 11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-po tăng 7,5%; Phi-li-pin tăng
6,6%; In-đô-nê-xi-a tăng 6,2%; Ma-lai-xi-a tăng 5,6%; Thái Lan tăng 4%).
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong
nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu,
hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự
tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước
trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái,
kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp
trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng
trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm
phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9
điểm phần trăm.
Xét theo ngành kinh tế, mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm
2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa,
sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007. Tăng trưởng khu vực công
nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu do sản
xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm
giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm
công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm
2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm
43
2007 ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với
khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng
8,7% của năm trước.
GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và tăng giá khác
nhau ở ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản và giảm ở khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, xu hướng này chỉ là tạm thời
trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự tăng chậm lại của khu vực công nghiệp, xây
dựng và giá nông lâm thuỷ sản tăng cao. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
chiếm 21,99% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ
chiếm 38,1%.
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới
vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta.
Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc
độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%.
Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu
vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một
số nhận xét, đánh giá như sau:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18%
của năm 2008, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng
44
trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên
là một thành công lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn
tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc độ
tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của
quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng
trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề
ra, được triển khai phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2009 theo giá so sánh
1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước; đến 6 tháng cuối năm
đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6 tháng cuối năm 2008. Do vậy, tính chung
cả năm 2009 đạt 219,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp
đạt 160,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2%; lâm nghiệp đạt 7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8%; thuỷ sản
đạt 52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%.
Kinh tế thế giới năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn định và còn tiềm ẩn
nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Trong bối cảnh đó, Việt Nam được đánh
giá là một trong những nước sớm vượt qua giai đoạn khó khăn và phục hồi nhanh sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 ước tính
tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng
7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 5,32% của năm
2009. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng tăng 7,7%, đóng góp
3,20 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm.
Bước vào năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định; kinh tế-xã hội
45
phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm phát tăng cao và suy
thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế
thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá hàng hóa, giá dầu mỏ và
giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm
phát và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) năm 2011 ước tính tăng 5,89% so với năm 2010, tuy thấp hơn mức
tăng 6,78% của năm 2010 nhưng trong điều kiện tình hình sản xuất rất khó khăn và cả
nước tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng trưởng trên
là khá cao và hợp lý. Tổng sản phẩm trong nước tăng đều trong cả ba khu vực và một lần
nữa lại thể hiện rõ tính trụ đỡ của khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. So với
cùng kỳ năm trước, tổng sản phẩm trong nước quý I tăng 5,57%; quý II tăng 5,68%; quý
III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%. Trong 5,89% tăng chung của nền kinh tế, khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,53%, đóng góp 2,32 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng
6,99%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm.
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2012 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế
thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải
quyết. Suy thoái trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng
thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Hoạt động sản
xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Tăng
trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự sụt giảm của các nền kinh tế
khác. Một số nước và khối nước lớn có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại với
nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức nên tăng
trưởng chậm. Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị
46
thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức
đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất,
dừng hoạt động hoặc giải thể.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
5,03% so với năm 2011, trong đó quý I tăng 4,64%; quý II tăng 4,80%; quý III tăng
5,05%; quý IV tăng 5,44%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của
năm 2011 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn, cả nước tập trung thực
hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là
hợp lý và thể hiện xu hướng cải thiện qua từng quý, khẳng định tính kịp thời, đúng đắn và
hiệu quả của các biện pháp và giải pháp thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và
Chính phủ. Trong 5,03% tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng
chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm; khu
vực dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,7 điểm phần trăm.
Hình 2.5: Tốc độ tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 2005 - 2012 (%)
Năm GDP (%)
2005 8,4
2006 8,17
2007 8,48
2008 6,23
2009 5,32
2010 6,78
47
Năm GDP (%)
2011 5,89
2012 5,03
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Việc GDP Việt Nam tăng liên tục qua các năm khá phù hợp với sự thâm hụt cán cân
thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2012. Bởi khi thu nhập quốc dân của
Việt Nam tăng lên sẽ đồng nghĩa với việc nhu cầu của người dân trong nước đối với hàng
hóa nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu, làm xấu đi cán cân thương mại.
2.1.4 Tỷ giá hối đoái thực
2.1.4.1 Sơ lƣợc diễn biến tỷ giá giai đoạn 2005 – 2012:
Ngày 8/12/2004 NHNN ban hành quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về điều
chỉnh giao dịch hối đoái của các TCTD có hiệu lực thi hành thay thế những quy định
được ban hành từ năm 1998. Nội dung quyết định trên đã mở rộng quyền giao dịch
ngoại tệ; nới lỏng quy định về kiểm soát, cung cấp thêm cho thị trường công cụ
phòng ngừa rủi ro Option; làm thị trường ngoại tệ diễn biến linh hoạt và tỷ giá phản
ánh cung cầu ngoại tệ đúng đắn hơn.
Năm 2005 là một năm khá ổn định của tỷ giá VNĐ/USD. Tỷ giá trên thị trường tự
do và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng chênh lệch không đáng kể. NHNN mua được
một lượng ngoại tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ ngoại tệ. Qua các
tháng trong năm 2005, tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD tăng dần, song chỉ ở mức 0,9% cho
cả năm 2005, so với 0,4% của năm 2004. Điểm đáng lưu ý là trong năm 2005, mức mất
giá danh nghĩa của VNĐ thấp, còn tỷ lệ lạm phát cao. Điều này ít nhiều gây ra những lo
ngại về tác động xấu của tỷ giá đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam,
nhất là đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến có hàm lượng lao động cao, đặc biệt
48
khi tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ yếu là do NHNN vẫn chủ trương
dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Sau khi NHNN công khai duy trì tỷ giá biến
động không quá 1% làm ảnh hưởng đến tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá. IMF đã xếp
Việt Nam trở lại nhóm các nước có cơ chế cố định truyền thống từ năm 2005
Hình 2.6: Chỉ số giá tiêu dùng, giá USD và giá vàng năm 2005 (Tháng 12/2004 =
100)
Nguồn: Theo số liệu từ các “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội" tháng 1-12/ 2004 của
TCTK.
Ngày 1/6/2006 chính phủ ban hành Pháp lệnh ngoại hối theo hướng tự do hoá các
mức lãi suất trong nghiệp vụ Option, không kiểm tra chứng từ giao dịch ngoại tệ, bỏ
mức khống chế trần tỷ giá giao dịch kỳ hạn….các quy định này phù hợp với thông lệ
quốc tế theo hướng tự do hoá, giúp Việt Nam tiến sát đến việc gia nhập WTO. Năm 2006,
nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt kỷ lục cả về lượng vốn đăng ký (10,2 tỷ
USD, gồm đăng ký mới và bổ sung), cả về lượng vốn thực hiện (4,1 tỷ USD); nguồn vốn
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đạt kỷ lục về lượng vốn cam kết (4,45 tỷ USD)
và là năm thứ hai liên tục thực hiện vượt mức kế hoạch (1,81 tỷ USD); nguồn kiều hối
(bao gồm của Việt kiều và số tiền do lao động xuất khẩu) gửi về nước đạt mức kỷ lục
(khoảng 4,7 tỷ USD); chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam cũng đạt kỷ lục (đạt trên
2,8 tỷ USD); kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục (trên 39,6 tỷ USD); lượng vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán cũng đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm
49
khoảng 28,6% tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán của Việt Nam làm tỷ giá bán
và tỷ giá mua công bố bằng nhau ở ngân hàng. Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do
cũng cơ bản ổn định và chỉ cao hơn không đáng kể so với tỷ giá do các ngân hàng thương
mại bán ra. Ngày 31/12/2006, NHNN ban hành quyết định 2554/QĐ-NHNN nới lỏng biên
độ dao động tỷ giá USD/VND từ ±0,25% lên ±0,5%.
Đầu năm 2007, trạng thái cung ngoại tệ lớn hơn cầu nên tỷ giá mua bán
USD/VND của NHTM luôn ở mức sát sàn. Khủng hoảng tín dụng Mỹ bắt nguồn từ
thị trường cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn làm USD mất giá mạnh trên thị trường quốc tế,
FED liên tục cắt giảm lãi suất USD, vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối tăng mạnh, tỷ giá
USD/VND ổn định, chênh lệch cao giữa lãi suất USD và VND đã khuyến khích dân
chúng bán USD gửi VND. Các công cụ của chính sách tiền tệ đã được sử dụng để điều tiết
có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng, hạn chế sức ép tăng giá VND. Cụ thể:
+ NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã trung hoà lượng tiền cung
ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ, từ 01/03/2007 NHNN bỏ quy định về trần lãi suất
tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, đảm
bảo ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất. Đầu tháng 8/2007 tỷ giá USD/VND có chiều
hướng tăng do Cục dự trữ liên bang Mỹ và NHTW các nước triển khai các biện pháp
khôi phục tài chính, nhà đầu tư Mỹ rút vốn về nước để cân đối tài chính; nhu cầu
mua ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu tăng. NHNN bán ngoại tệ can thiệp thị
trường, bán cho các NHTM có trạng thái ngoại tệ giảm xuống âm -5% thay vì -10%
như trước kia.
+ Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 2 lần so với năm 2006, hạn chế tăng
trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm
cố giấy tờ có giá, cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín
dụng, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm giảm sức ép lạm phát cuối năm.
Từ tháng 9/2007 đến tháng 3/2008 tái diễn tình trạng dư cung ngoại tệ do
50
USD liên tục mất giá, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD tăng, vốn ngắn hạn
nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng cao. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
khiến tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, chỉ số giá tiêu
dùng, lãi suất huy động và cho vay VND tăng cao có thời điểm 21%/năm. NHNN
điều chỉnh giảm mạnh tỷ giá BQLNH, mở rộng biên độ tỷ giá từ ±0,5% lên ±0,75%
từ 24/12/2007, điều chỉnh lên ±1% từ 10/3/2008, doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó
khăn khi bán ngoại tệ vì NHTM không muốn mua. NHNN thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ, phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, kiểm soát chặt việc
cho vay đầu tư chứng khoán, bất động sản; tuy nhiên thông qua công cụ tái cấp vốn NHNN
hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khó khăn về thanh khoản. Điều chỉnh tăng lãi
suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 7,5%/năm lên
15%/năm. Siết chặt kiểm soát các đại lý thu đổi ngoại tệ, kiểm soát vay ngoại tệ. Đến
tháng 10/2008, NHNN thực hiện CSTT nới lỏng thận trọng, điều chỉnh giảm lãi suất
cơ bản từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 7%/năm,
lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống 5%/năm, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc VND
từ 11% xuống 3%, hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM. NHNN đã
can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối làm giảm dự trữ ngoại tệ nhưng đây chỉ là
giải pháp tình thế.
Để ổn định thị trường ngoại hối trong nước theo tín hiệu thị trường, ngày
07/11/2008 NHNN điều chỉnh biên độ tỷ giá USD/VND từ ±2% lên mức ±3%, điều chỉnh
tăng tỷ giá BQLNH ngày 24/12/2008 tăng 3% lên mức 16.977 VND/1USD, tích cực bán
ngoại tệ có chọn lọc nhằm hỗ trợ thanh khoản cho thị trường.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tâm lý găm
giữ ngoại tệ, các doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ mà chỉ muốn
vay hỗ trợ lãi suất thấp bằng VND theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Giá cả
trên thị trường thế giới và lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, gấp
51
hai lần so với cùng kỳ năm trước. Đến quý IV/2008 và quý I/2009 suy thoái kinh tế
toàn cầu kéo theo sự giảm giá các mặt hàng chủ chốt, lạm phát giảm. Sang quý
II/2009, nhờ vào các biện pháp giải cứu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), ngân hàng trung ương các nước
thực hiện các biện pháp giải cứu, ổn định thị trường tài chính nên kinh tế thế giới
được cải thiện đẩy giá cả các mặt hàng có xu hướng tăng trở lại. Chính phủ các nước
thực hiện mua lại cổ phiếu, nợ xấu của các ngân hàng, tăng số tiền được bảo hiểm
tiền gửi, cơ cấu lại tài chính và hỗ trợ gói giải pháp 12.500 tỷ USD năm 2008.
Cục dự trữ liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất mục tiêu từ 5,25% xuống còn 0% -
0,25%, nhiều nước Châu Âu cũng cắt giảm lãi suất để thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ
bơm tiền ra lưu thông. Quyết định 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009 thực hiện cơ chế hỗ trợ
lãi suất 4%/năm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn, giảm giá
thành sản xuất.
Sang năm 2009, các NHTM niêm yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán, sát mức trần được
phép vì tỷ giá thị trường tự do tăng mạnh. Xu hướng chung của năm 2009 là sự mất giá danh
nghĩa của VND so với USD. NHNN đã điều chỉnh biên độ tỷ giá từ ±3% lên ±5% từ ngày
24/03/2009 đồng thời hỗ trợ cung cầu ngoại tệ tạo thanh khoản trên thị trường, điều chỉnh
tăng tỷ giá BQLNH lên mức 17.941VND/1USD, duy trì lãi suất VND hợp lý. Từ ngày
1/6/2009 giảm lãi suất USD xuống thấp từ 3-3,5%/năm. Ngày 26/11/2009, NHNN đã
chính thức phá giá VND 5.4% để chống đầu cơ tiền tệ và giảm áp lực thị trường, đồng
thời, tu hẹp biên độ giao động xuống còn +3%. Cho đến cuối năm 2009, tỷ giá chính thức
VND/USD đã tăng 5.6% so với nửa cuối năm 2008.
Năm 2010, NHNN điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%;
thực hiện các biện pháp ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế bằng
1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho
52
vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và không khuyến khích. Tín dụng ngoại tệ năm
2010 tăng nhanh hơn năm 2009, do nguyên nhân chủ yếu là chênh lệch lãi suất giữa VND
với USD và mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ. Xu hướng này ngược với năm 2009 khi
mà thực hiện chính sách hỗ trợ 4%/năm lãi suất vay vốn ngân hàng làm cho dư nợ tín
dụng bằng VND tăng mạnh (43,5%). Năm 2010 huy động vốn VND tăng với tốc độ gần
bằng năm 2009, tuy nhiên vốn huy động bằng ngoại tệ tăng rất chậm.
Năm 2010, tỷ giá niêm yết vẫn sát trần biên độ của tỷ giá chính thức trong hầu hết
các tháng trong năm và khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do tăng
cao vào cuối năm 2010. Ngày 11/02/2010, NHNN tăng tỷ giá chính thức USD/VND từ
17.941 lên 18.544, thực hiện các biện pháp hành chính nhằm giảm áp lực lên thị trường
ngoại hối như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho
vay ngoại tệ, chấm dứt việc giao dịch vàng trên các tài khoản nước ngoài của các NHTM
và các TCTD, đóng cửa các sàn vàng và tăng lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Kiều hối và các
khoản giải ngân FDI, ODA, FII đều tăng lên góp phần răng cung và giảm cầu ngoại tệ.
Ngày 17/08/2010, NHNN tăng tỷ giá USD/VND thêm 2.1% lên 18.932.
Trong những tháng cuố năm 2010, thị trường ngoại hối chứng kiến sự tăng lên
nhanh chóng của cầu về ngoại tệ do: nhu cầu mua ngoại tệ để trả các khoản vay đáo hạn
của các doanh nghiệp; nhu cầu nhập khẩu thường tăng cao vào cuối năm; NHNN thắt chặt
tín dụng ngoại tệ; tỷ giá thị trường tự do bắt đầu tăng 20.500 VND/USD vào giữa tháng
10 và lên 21.500 VND/USD vào cuối tháng 11.
Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định nâng tỷ giá liên ngân
hàng từ 18.932 VND/1USD lên 20.693 VND/1USD, đồng thời thu hẹp biên độ giao
động từ 3% xuống còn 1%. Với sự nâng tỷ giá này, tỷ giá trần USD/VND được
phép giao dịch tăng lên tới 21.314 VND/1USD. Trong vài năm trở lại đây, đợt điều chỉnh
này là mạnh nhất với tỷ giá liên ngân hàng được điều chỉnh tăng tới 9,3%. Tỷ giá thị
trường tự do tăng vọt lên trên 22.100 VND/USD trong vòng vài ngày kể từ sau lần phá giá
53
này. Vào tháng 3 năm 2011, NHNN đã siết chặt các hoạt động trên thị trường tự do, mua
thêm được 3 tỷ USD cho dự trữ ngoại hối, nhờ đó, cả tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá
NHTM đều giảm xuống từ tháng 4 năm 2011, và có lúc còn thấp hơn tỷ giá chính thức.
Năm 2012, tiếp tục là một năm ổn định của tỷ giá VND/USD với biến động không
quá +/-1% theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng và với chiều hướng giảm từ 21.030
VND/USD xuống còn khoảng 20.850 VND/USD vào cuối năm. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê thì trong 6 tháng đầu năm tỷ giá có xu hướng tăng nhẹ, còn 6 tháng cuối
năm giảm, tính chung cả năm tỷ giá giảm gần 0.88%. Nhìn chung, diễn biến tỷ giá
VND/USD trong năm 2012 có thể chia thành 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Từ tháng 1 – 6/2012, tỷ giá tăng nhẹ khoảng 0.55%. Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng tiếp tục được duy trì ổn định ở mức 20.828VND/USD. Tỷ giá giao dịch
của NHTM sau một thời gian duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng điều
chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 – 20.920 VND/USD vào thời điểm cuối tháng 6/2012.
Đáng chú ý, trong quý I/2012, từ ngày 13/02/2012 tỷ giá mua vào của Sở Giao dịch
NHNN được điều chỉnh cao hơn tỷ gái mua vào của các NHTM, điều này nhằm khuyến
khích các NHTM bán lại cho NHNN ngoại tệ mua được từ các doanh nghiệp và dân cư,
tạo điều kiện cho NHNN thực hiện mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối quốc gia.
Hình 2.7: Tốc độ tăng – giảm tỷ giá VND/USD trong năm 2012 (%)
54
Giai đoạn 2: Từ tháng 07- 12 /2012, tỷ giá giảm dần. Xu hướng biến động tỷ giá
VND/USD duy trì ở mức độ ổn định và giảm dần. Những diễn biến khả quan của cung -
cầu ngoại tệ trong nền kinh tế, góp phần tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể trong nửa
đầu năm 2012 và tiếp tục duy trì xu thế ổn định vào cuối năm.
Trong năm 2012, khác với quy luật trong các năm trước, tỷ giá thời điểm cuối năm
không có biến động mạnh và không có sự chênh lệch lớn giữa thị trường chính thức và thị
trường tự do. Có được kết quả này, không thể không kể đến những chinh sách linh hoạt
của NHNN để ổn định thị truờng, cụ thể như sau:
Hình 2.8: Các biện pháp điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2012
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
55
Tóm lại, có thể nhận thấy, mặc dù tỷ giá được xem là không biến động nhiều trong
năm tài chính khi mà Chính phủ có nhiều động thái và chính sách tích cực nhằm ổn định
tỷ giá, nhưng tỷ giá năm sau luôn cao hơn năm trước, chứng tỏ VND vẫn liên tục bị mất
giá so với ngoại tệ khác, điều này về lý thuyết sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại,
khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Đó là về tỷ giá danh nghĩa, đối với tác
động của tỷ giá thực lên cán cân thương mại, chúng ta sẽ tính toán tỷ giá thực đa phương,
chi tiết như sau.
2.1.4.2 Tỷ giá thực đa phƣơng
Như đã nói trong chương 1, khi tính toán tỷ giá thực, chúng ta có thể nghiên cứu tỷ
giá thực song phương và đa phương, tuy nhiên tỷ giá thực song phương chỉ cho thấy
những góc nhìn riêng lẻ về giá trị tiền đồng so với từng đồng tiền, nên rất khó để có thể
đánh giá tổng hợp về mức độ định giá cao hay thấp của tiền đồng so với các đồng tiền
trong rổ. Để có cái nhìn tổng quát về mức độ định giá của tiền đồng so với rổ tiền, tác giả
tiến hành tính tỷ giá thực đa phương. Sau đây, tác giả trình bày phương pháp để tính tỷ
giá thực đa phương.
Chọn năm gốc: Vấn đề chọn năm gốc (năm cơ sở) rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng
đến kết quả tính tỷ giá thực. Năm gốc có thể chọn một trong các năm 1992, 1999, 2000,
2001, 2005. Lý do được đưa ra ở đây là vì tính từ năm 1986 trở lại đây, năm 1992 là năm
có thặng dư mậu dịch, việc xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung đạt nhiều tiến bộ, giá cả
nhiều mặt hàng đã theo cơ chế thị trường cạnh tranh, nền kinh tế ổn định; các năm 1999,
2000, 2001 có tỷ lệ thâm hụt mậu dịch là thấp nhất, tỷ lệ xuất khẩu trên nhập khẩu lần lượt
là 98,3%, 92,6%, 92,7%, chỉ số giá cả các năm này được xem khá ổn định. Tuy nhiên, tác
giả không chọn các năm này là năm gốc vì việc nghiên cứu tỷ giá trong một thời gian quá dài
là không sát với thực tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi,
cấu trúc nền kinh tế thay đổi nhanh và phức tạp, các biến số vĩ mô thay đổi lớn sẽ khó đánh
giá biến động của tỷ giá cũng như tác động của nó đến cán cân thương mại.
56
Năm 2005 là năm đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam, chuẩn bị tiền đề
cho Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 khi nhiều Luật, quy định được ra đời, sửa đổi
trong năm này như Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… Đồng thời, 2005 cũng là
năm Việt Nam đã thành công trong các bàn đàm phán song phương và đa phương, giúp gỡ bỏ
nhiều hàng rào thuế quan, bãi bỏ một số hạn ngạch đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
sang một số thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu…
Ngoài ra trong thời gian gần đây, các tổ chức tài chính quốc tế khi công bố số liệu
thường chọn năm cơ sở là năm 2005, điều này giúp hạn chế sai sót trong quá trình tính
toán nên tác giả đã chọn 2005 là năm cơ sở trong phạm vi đề tài này.
Chọn rổ tiền tệ đặc trưng: Căn cứ vào tỷ trọng thương mại của Việt Nam và đối tác
thương mại, tác giả chọn ra các đồng tiền tham gia “rổ tiền” để tính tỷ giá thực đa phương
(REER) theo nguyên tắc ưu tiên chọn đồng tiền của các đối tác có tỷ trọng thương mại lớn
với Việt Nam. Ngoài ra, các đối tác có sự cạnh tranh trong xuất khẩu với Việt Nam, các
đồng tiền mạnh, các đối tác tiềm năng... cũng được xem xét trong việc lựa chọn đồng tiền
nào tham gia “rổ tiền”.
Đô la Mỹ (USD) là đồng tiền hiển nhiên có mặt trong rổ tiền do đồng tiền này là
đồng tiền mạnh nhất thế giới cho tới thời điểm hiện nay.
Đồng Euro (EUR) cũng là đồng tiền không thể thiếu trong rổ tiền vì nó là một trong
những đồng tiền mạnh trên thế giới và vì khu vực sử dụng đồng Euro có giao thương rất
lớn với Việt Nam, hai quốc gia châu Âu được chọn làm đại diện là Pháp và Đức.
Kế đến là đồng Yen Nhật (JPY) cũng là một lựa chọn không tranh cãi, do đây là
đồng tiền của một quốc gia có nền kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới và Nhật cũng là một
trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc (CNY) cũng là một đồng tiền được lựa chọn bởi
ngoài việc là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, trao đổi thương mại song phương của Việt Nam
57
với Trung Quốc có tỷ trọng lớn nhất và Việt Nam luôn chịu tình cảnh nhập siêu lớn nhất
với họ. Từ năm 2001 đến 2012 Việt Nam liên tục nhập siêu với Trung Quốc cứ năm sau
lớn hơn năm trước.
Đồng tiền của các nước ASEAN như Thái Lan (THB), Singapore (SGD) được chọn do
các nước này là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trong giao thương
quốc tế.
Tương tự, đồng tiền của Hồng Kông (HKD) và Hàn Quốc (KRW) đại diện cho các
nước phát triển ở châu Á được chọn do kim ngạch xuất nhập khẩu của họ với Việt Nam là
rất lớn.
Đồng AUD của Australia được đưa vào rổ tiền do AUD là đồng tiền mạnh. Ngoài ra,
kim ngạch xuất nhập khẩu trong thời gian nghiên cứu của Australia khá ổn định, và liên
tục tăng qua các năm.
Chọn quyền số là tỷ trọng thương mại của các đối tác với Việt Nam trong mậu dịch
quốc tế (tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác thương mại có đồng tiền
tham gia vào “rổ tiền”).
Thu nhập dữ liệu
+ Tỷ giá danh nghĩa: Thu thập tỷ giá giữa Việt Nam đồng và các đồng tiền trong “rổ
tiền” vào cuối mối tháng và tính trung bình cho quý. Riêng đối với hai nước châu Âu là
Pháp, Đức ta chọn tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Euro (Nguồn số liệu được thu thập
từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam)
+ Chỉ số lạm phát: lấy chỉ số giá tiêu dùng của từng quý so với cùng kỳ năm trước
(Nguồn số liệu được thu thập từ website của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình
Dương APEC và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD).
+ Kim ngạch xuất nhập khẩu: lấy theo từng quý giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam
với các đối tác thương mại. Giá trị xuất nhập khẩu được quy đổi thành đơn vị là triệu USD
58
thống nhất cho các đối tác có giao dịch với Việt Nam (Nguồn số liệu được lấy từ Tổng cục
thống kê).
Các bước tính REER
+ Tính tỷ trọng thương mại. Trước tiên, cộng tất cả các giá trị xuất nhập khẩu của Việt
Nam và các đối tác ở từng quý. Lấy giá trị xuất nhập khẩu của từng đối tác chia cho
tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của tất cả các đối tác ta được tỷ trọng thương mại
của từng đối tác.
+ Điều chỉnh chỉ số tiêu dùng CPI về kỳ gốc. Chọn kỳ gốc là quý 1/ 2005, kỳ gốc có
chỉ số CPI là 100. CPI điều chỉnh của quý 1/2006 bằng CPI quý 1/2005 (bằng 100) nhân
với CPI của quý 1/2006 chia cho 100. Lập bảng tính excel ta sẽ tính được các chỉ số CPI
điều chỉnh của các đối tác thương mại.
+ Tính chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương của 10 đồng tiền trong rổ tiền với Việt
Nam đồng. Kỳ gốc là quý 1/2005, ta lấy tỷ giá ở thời điểm t chia cho kỳ gốc rồi nhân lại với
100.
+ Tính tỷ giá thực song phương của Việt Nam đồng với từng đồng tiền trong “rổ tiền”.
Lấy chỉ số tỷ giá danh nghĩa nhân với CPI của từng nước tương ứng chia cho CPI của Việt
Nam ta được tỷ giá thực song phương của tiền đồng so với đồng tiền của từng đối tác.
∑
+ Cuối cùng ta có chỉ số REER theo công thức tính như sau:
59
Đánh giá tỷ giá thực đa phƣơng:
Hình 2.9: Đồ thị tỷ giá thực đa phương
REER
REER
120,000 100,000 80,000 60,000 40,000 20,000 -
5 0 0 2 - 2 Q
5 0 0 2 - 4 Q
6 0 0 2 - 2 Q
6 0 0 2 - 4 Q
7 0 0 2 - 2 Q
7 0 0 2 - 4 Q
8 0 0 2 - 2 Q
8 0 0 2 - 4 Q
9 0 0 2 - 2 Q
9 0 0 2 - 4 Q
0 1 0 2 - 2 Q
0 1 0 2 - 4 Q
1 1 0 2 - 2 Q
1 1 0 2 - 4 Q
2 1 0 2 - 2 Q
2 1 0 2 - 4 Q
Nguồn: APEC, OECD, NHNN, và tính toán của tác giá.
Nhìn vào hình 2.9 có thể thấy, chỉ có tại quý 1/2005 và quý 3/2005, tỷ giá thực đa
phương mới lớn hơn 100, còn lại tỷ giá thực đa phương đều nhỏ hơn 100, điều này có
nghĩa là trong gần như toàn bộ thời gian, đồng Việt Nam bị định giá cao. Theo lý thuyết,
khi VND được định giá cao thì sẽ khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
Theo số liệu tại phụ lục thì diễn biến trên đây của tỷ giá thực đa phương khá phù
hợp với tình trạng thâm hụt của cán cân thương mại Việt Nam, khi Việt Nam liên tục
nhập siêu trong những năm qua.
Tóm lại, từ diễn biến của tỷ giá thực đa phương, GDP bình quân và GDP Việt Nam,
cũng như của cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2012, ta có:
60
Hình 2.10: Sơ đồ các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn
250
200
150
100
50
0
1 1 0 2 - 2 Q
2 1 0 2 - 3 Q
5 0 0 2 - 1 Q
5 0 0 2 - 2 Q
5 0 0 2 - 3 Q
5 0 0 2 - 4 Q
6 0 0 2 - 1 Q
6 0 0 2 - 2 Q
6 0 0 2 - 3 Q
6 0 0 2 - 4 Q
7 0 0 2 - 1 Q
7 0 0 2 - 2 Q
7 0 0 2 - 3 Q
7 0 0 2 - 4 Q
8 0 0 2 - 1 Q
8 0 0 2 - 2 Q
8 0 0 2 - 3 Q
8 0 0 2 - 4 Q
9 0 0 2 - 1 Q
9 0 0 2 - 2 Q
9 0 0 2 - 3 Q
9 0 0 2 - 4 Q
0 1 0 2 - 1 Q
0 1 0 2 - 2 Q
0 1 0 2 - 3 Q
0 1 0 2 - 4 Q
1 1 0 2 - 1 Q
1 1 0 2 - 3 Q
1 1 0 2 - 4 Q
2 1 0 2 - 1 Q
2 1 0 2 - 2 Q
2 1 0 2 - 4 Q
EXM
GDP bình quân
GDP Việt Nam
REER
2005 - 2012
Nguồn: OECD, APEC, NHNN, Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả
GDP bình quân chưa thể hiện tác động rõ nét lên cán cân thương mại Việt Nam
trong giai đoạn nghiên cứu.
GDP Việt Nam tác động thuận chiều lên cán cân thương mại của Việt Nam.
Tỷ giá hối đoái thực đa phương REER tác động thuận chiều lên cán cân thương mại
của Việt Nam.
Nhằm xác định cụ thể mức độ tác động của từng nhân tố trên lên cán cân thương
mại của Việt Nam, tác giả tiến hành kiểm định mô hình hồi quy như sau.
2.2 Phân tích định lượng
Từ mô hình hồi quy của Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong
(2001)
Ln(X/M)t = α0 + α1lnY t + α2lnY t * + α3lnRER t + α4D + εt
Ta có mô hình hồi quy tác động của tỷ giá thực đa phương đối với tỷ số xuất khẩu
61
trên nhập khẩu áp dụng trong bài như sau:
Ln(EXM)t = α0 + α1lnGDPbq t + α2lnGDPvn t + α3lnREER t + ε
Trong đó Ln là logarit tự nhiên.
EXM: là tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu.
GDPbq là chỉ số tăng GDP trung bình của các nước có đồng tiền tham gia trong rổ tiền
tệ
GDPvn là chỉ số là chỉ số tăng GDP của Việt Nam.
REER: chỉ số tỷ giá thực đa phương.
Với kỳ vọng như sau:
GDPbq và REER sẽ tác động thuận chiều lên tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu.
GDPvn sẽ tác động ngược chiều lên tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu.
Dữ liệu được thu thập theo quý từ quý 1/2005 đến quý 4/2012 được trình bày tại phần
phụ lục.
Với tất cả 32 quan sát, ta có:
Trước hết, tác giả tiến hành phân tích tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến giải
thích, kết quả phân tích như sau:
62
Biến LnGDPbq và LnREER có tương quan cùng chiều với biến phụ thuộc LnEXM;
Biến LnGDPvn có tương quan ngược chiều với biến phụ thuộc LnEXM.
Kết quả tương quan trên phù hợp với lý thuyết và phù hợp với kỳ vọng của tác giả
trong giai đoạn nghiên cứu này.
Tiếp theo, ta tiến hành kiểm định các giả thuyết hồi quy:
Kiểm định phương sai của sai số không đổi (không bị hiện tượng phương sai thay
đổi):
Kiểm định White, với giả thuyết H0: không có hiện tượng phương sai thay đổi.
Kết quả như sau:
Với mức ý nghĩa alpha = 5%, kiểm định White cho kết quả là: P-value = 0.0076
Vậy, P-value < 0.05 nên bác bỏ giả thuyết H0 Có hiện tượng phương sai thay đổi.
Kiểm định giữa các sai số không có mối quan hệ tương quan với nhau (không bị
hiện tượng tự tương quan)
Với giả thuyết H0: không có sự tự tương quan bậc nhất.
63
Với mức ý nghĩa alpha = 5%, kiểm định cho kết quả là: P-value = 0.2285
Vậy, P-value > 0.05 nên chấp nhận giả thuyết H0 không có sự tự tương quan bậc
nhất.
Kiểm định không có sự tự tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình
(không bị hiện tượng đa cộng tuyến)
Đa cộng tuyến là hiện tượng các biến độc lập trong mô hình tương quan tuyến tính
với nhau. Nghiên cứu tiến hành kiểm định giả thuyết không bị hiện tượng đa cộng tuyến
bằng cách dùng chỉ tiêu VIF.
VIF của tất cả các biến độc lập đều nhỏ hơn 10 nên hiện tượng đa cộng tuyến
trong mô hình được đánh giá là không nghiệm trọng.
Tổng hợp kết quả kiểm định:
Qua kết quả kiểm định từng phần ở trên, ta thấy: mô hình nghiên cứu có hiện tượng
phương sai thay đổi, không có sự tự tương quan và hiện tượng đa cộng tuyến được đánh
giá là không nghiêm trọng.
Kết quả kiểm định độ phù hợp của các biến giải thích:
64
Sử dụng phương pháp ước lượng Robust:
Kết luận:
Biến LnGDPbq tác động cùng chiều mạnh nhất (3.789) đến LnEXM với mức ý
nghĩa 5%.
Biến LnREER tác động cùng chiều (3.231) đến LnEXM với mức ý nghĩa 5.
Biến LnGDPvn tác động ngược chiều (-1.817) đến LnEXM với mức ý nghĩa 10%.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình: mô hình có mức ý nghĩa là F = 0.0168 < 5%
nên ta bác bỏ giả thiết H0 (H0: hệ số hồi quy của các biến độc lập bằng 0).
Chỉ tiêu R-squared = 0.6723 thể hiện mức độ giải thích của các biến độc lập trong
mô hình là 67.23%.
Vậy, có thể kết luận mô hình rất có ý nghĩa trong việc ước lượng ảnh hưởng của các
yếu tố đến LnEXM.
Như vậy, tại Việt Nam, trong giai đoạn 2005 – 2012, cán cân thương mại mà đại
diện là tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu chịu tác động rất lớn bởi GDP bình quân của các
đối tác thương mại lớn với Việt Nam, GDP Việt Nam và tỷ giá thực đa phương.
Điều này có thể được giải thích như sau: khi cố định các yếu tố khác, thì:
65
Đối với GDP nước ngoài, khi GDP của các đối tác tăng sẽ làm tăng nhu cầu của
người nước ngoài đối với hàng hóa trong nước, từ đó kích thích xuất khẩu của Việt Nam,
giúp cải thiện cán cân thương mại.
Đối với GDP trong nước, khi GDP trong nước tăng sẽ làm tăng mức tiêu thụ hàng
hóa, việc này sẽ phản ánh một mức cầu tăng đối với hàng hóa nước ngoài, đồng nghĩa với
việc kích thích nhập khẩu, làm cán cân thương mại có thể bị xấu đi.
Đối với tỷ giá thực, một sự gia tăng trong giá trị đồng nội tệ có thể làm cán cân
thương mại xấu đi. Đồng nội tệ tăng giá (tỷ giá giảm) làm giá hàng hóa trong nước trở
nên đắt tương đối so với hàng nước ngoài, điều này gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu
và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Và ngược lại. khi tỷ giá
tăng tức là đồng nội tệ giảm giá, hàng hóa trong nước trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng
nước ngoài, giúp kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
66
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý NHẰM MỤC TIÊU CẢI THIỆN CÁN CÂN
THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
3.1 Hoàn thiện chính sách tỷ giá với mục tiêu ngang giá sức mua trong rổ tiền tệ
3.1.1 Giảm bớt sự lệ thuộc của tiền Đồng vào Đô la Mỹ
Thực tế hiện nay, USD là một ngoại tệ đang được sử dụng tương đối rộng rãi tại
Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa ở mức 20%, cao hơn tỷ lệ 10% của một số nước
trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Malaysia.
Việc này gây ra không ít tác động tiêu cực. Nền kinh tế trở nên nhạy cảm và dễ bị
tổn thương bởi những dao động bắt nguồn từ những thay đổi trong nền kinh tế Mỹ, việc
này gây khó khăn trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách
tiền tệ nói riêng, trong đó có vấn đề về tỷ giá. Hay nói rõ hơn, việc xây dựng, điều hành
chính sách tiền tệ, từ khâu thống kê các tổng lượng tiền, xác định mục tiêu cũng như sử
dụng các công cụ chinh sách tiền tệ để truyền tải tác động nhằm đạt mục tiêu cuối cùng
sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi đô la hóa cao.
Để giải quyết vấn đề này, một số giải pháp được đưa ra như:
Về phía các cơ quan quản lý, cần có những đánh giá về tình hình thực hiện các quy
định của pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó có những
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với mục tiêu hạn chế tình trạng
đô la hóa trong nền kinh tế.
Điều hành chính sách tỷ giá, tiền tệ cần theo hướng tăng lợi ích nắm giữ VND ở
mức hợp lý để khuyến khiách sử dụng đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại tệ. Có thể áp
dụng một số biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, thu hẹp quy mô
tín dụng ngoại tệ.
3.1.2 Sử dụng tỷ giá thực đa phƣơng để đo lƣờng các chỉ số tài chính
Qua kết quả tính toán, có thể thấy, VND đang được định giá quá cao, điều này đã
67
tác động tiêu cực đến cán cân thương mại, đặc biệt khi tỷ giá có tác động khá lớn đến cán
cân thương mại của Việt Nam (qua kết quả tính toán ở mô hình). Tuy nhiên, việc định giá
cao này chỉ được thấy rõ khi chúng ta tính toán tỷ giá thực đa phương, còn thông thường,
khi dùng tỷ giá danh nghĩa để tính toán và so sánh, chúng ta rất khó nhìn thấy VND đang
được định giá cao hay thấp. Điều này cho thấy ở một chừng mực nào đó, REER nên được
chọn làm thước đo mức độ đáp ứng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.
REER nên được sử dụng để xem xét tỷ giá danh nghĩa hiện tại có ngang giá sức mua
hay không. REER được coi như là một đại lượng dùng đo lường giá trị của đồng nội tệ.
Dựa vào chỉ số REER có thể “chẩn đoán” xem giá trị thị trường hiện tại của tiền đồng là
đang bị định giá cao hay thấp. Từ đó, NHNN có thể đưa ra quyết định là có can thiệp hay
không và nên sử dụng biện pháp nào trước các hiện tượng nóng sốt của thị trường. Nói
chung, chúng ta có thể chọn REER làm tỷ giá mục tiêu và dựa vào chỉ số này để điều chỉnh
tỷ giá hướng về vùng có ngang giá sức mua hay mức tỷ giá cân bằng dài hạn nhằm duy
trì sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, sự không chắc chắc và mơ hồ của chỉ số REER nhắc nhở một sự thận trọng
đáng kể trong khi sử dụng chỉ số này. Trong quá trình vận dụng chỉ số này NHNN nên dò
tìm, thử đi, thử lại nhiều lần… đồng thời kết hợp với các nhân tố khác để ra quyết định chọn
mức REER thích hợp. Cũng có thể đưa ra mức REER và dùng “thuốc thử” thị trường thẩm
định nó.
Bên cạnh đó, thực tế rất khó xác định tỷ giá đã lệch khỏi cân bằng dài hạn là bao
nhiêu để can thiệp và cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào khẳng định
tính đúng đắn của tỷ giá cân bằng dài hạn nên việc vận dụng nó chỉ mang tính tương đối.
Với quan điểm trên, điều quan trọng không phải ở mức tỷ giá nào là hợp lý mà là nếu tiền
đồng bị phá giá ở những mức nào đó có thể thỏa mãn kỳ vọng hợp lý của thị trường và góp
phần tạo dựng niềm tin vào chính sách tiền tệ, hiệu quả về mặt ổn định tâm lý, thì nó sẽ tạo
cho thị trường cái cảm giác là tiền đồng đã đạt mức câng bằng, từ đó ổn định thị trường
68
ngoại hối, hạ nhiệt tình hình căng thẳng ngoại tệ. (tất nhiên là phải diễn dịch hợp lý kết quả
REER tính toán được và công bố công khai kết quả đó).
Nói chung với “khả năng” có hạn, REER chỉ có thể trợ giúp xác định vùng lân cận
của tỷ giá mục tiêu mà thôi. Việc xác định chính xác hơn tỷ giá mục tiêu cần nhiều nghiên
cứu khác. Do đó để tỷ giá có thể hướng về mức cân bằng dài hạn, chúng ta nhất thiết
phải nhờ đến quyền năng của thị trường. Đây là một trong những lý do chính để thả nổi thêm
tỷ giá, mở rộng biên độ dải băng tỷ giá.
3.1.3. Không tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ
Mặc dù về lý thuyết chính sách đồng nội tệ yếu có thể tác động nâng cao năng lực
cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Song, chính sách tỷ giá không thể chỉ thiên vị và chủ
yếu hướng về mục tiêu xuất khẩu, nó phải đảm bảo lợi ích tổng thể của nền kinh tế trong đó
doanh nghiệp sản xuất cung cấp hàng trong nước cũng phải được hỗ trợ như doanh nghiệp
xuất khẩu. Suy cho cùng, chính sách tỷ giá dù có thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu hay phục vụ cho mục tiêu chống lạm phát đều phải đảm
bảo được rằng nó không làm phương hại cho các mục tiêu kinh tế khác. Khi phá giá mạnh
đồng nội tệ có thể sẽ có tác động rất xấu đến sự ổn định của sản xuất trong nước nhất là
những doanh nghiệp có nhập khẩu nguyên liệu đầu vào chi phí sẽ tăng. Phá giá mạnh cũng
đẩy rủi ro và gánh nặng tỷ giá cho các doanh nghiệp có vay bằng ngoại tệ, gánh nặng nợ
nần nước ngoài của chính phủ cũng tăng lên…
Do sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam rất kém trên thị trường thế giới, cho nên
một sự phá giá đồng nội tệ không thể hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất
khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Hơn nữa, hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam chủ yếu
là hàng thô chưa qua chế biến, hàng hóa sản xuất theo dây chuyền, hàng gia công… các
hàng hóa này có hàm lượng nguyên vật liệu đầu vào nhập từ nước ngoài rất lớn (theo tổng
cục thống kê, trong cơ cấu hàng nhập khẩu có tới hơn 90% là tư liệu sản xuất), chi phí
lao động trong nước thấp (chiếm dưới 10% tổng chi phí sản xuất). Tình cảnh của các mặt
69
hàng xuất khẩu có giá trị lớn của Việt Nam (trừ dầu thô) giống như câu nói của ông bà ta
là đang “mượn đầu heo nấu cháo”. Nếu tiền đồng bị làm cho mất giá, giá hàng xuất khẩu có
thể rẻ hơn tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu, nhưng đồng thời chi phí cho nguyên vật liệu
nhập khẩu cũng tăng theo. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu có nguyên liệu đầu vào nhập
khẩu, việc giá nguyên liệu nhập tăng lên làm tăng giá thành sản phẩm và rất có thể họ phải
tăng giá bán ra. Điều này cho thấy hiệu quả ròng của việc phá giá đối với xuất khẩu là không
rõ ràng. Đồng thời, việc tăng giá hàng nhập khẩu có thể thúc đẩy lạm phát trong nước tăng
lên. Vì vậy, cần hết sức thận trọng khi quyết định phá giá mạnh, bởi vì như đã phân tích ở
trên, không thể đánh giá chính xác hiệu quả ròng của việc phá giá, trong khi phá giá mạnh
có thể làm tăng chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp trong nước. Do đó, phá giá mạnh có khi
làm cho hàng hóa Việt Nam không được lợi thế bao nhiêu trên sân khách, nhưng nguy cơ
thua ngay trên sân nhà lại rất lớn!
Phá giá tiền đồng làm giá hàng nhập khẩu tăng cao, giá hàng hóa trong nước có thể
sẽ tăng theo giá hàng ngoại. Khi giá trong nước đã tăng cao ít khi nó chịu xuống thang,
ngay cả khi giá thế giới có điều chỉnh giảm. Một số doanh nghiệp thường “té nước theo
mưa” găm hàng, đầu cơ và nâng giá vô tội vạ với cái cớ là tỷ giá tăng cao! Trong thời gian
qua, các công ty sữa liên tục nâng giá bán dù rằng giá sữa nguyên liệu nhập khẩu giảm
mạnh. Một trong những lý do được đưa ra để tăng giá bán sữa là do tỷ giá tăng! Theo một số
hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, sữa bán lẻ tại Việt Nam thuộc loại có giá cao nhất thế
giới, gấp 2 lần so với Thái Lan. Tất nhiên, giá cao ngất như thế không phải do tỷ giá tăng
mà là do hiện nay các công cụ của cơ chế thị trường ở Việt Nam chưa phát triển đầy đủ.
Mặt khác, hành động phá giá làm giá hàng nhập tăng người tiêu dùng có thể sẽ
chuyển sang dùng hàng thay thế trong nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số hàng hóa
nhập khẩu không có hàng hóa thay thế hay nếu trong nước sản xuất được thì có giá cao hơn
hay chất lượng thấp hơn. Do đó, người tiêu dùng có thể sẽ tiếp tục chọn hàng ngoại. Vì
vậy, khi tiền đồng giảm giá mạnh, Việt Nam có thể sẽ phải “nhập khẩu” lạm phát.
70
Tỷ giá tăng sẽ làm mất lòng tin của người dân đối với tiền đồng, sẽ xảy ra tình trạng
chuyển đổi từ tiền đồng sang USD và các ngoại tệ mạnh khác hay vàng làm trầm trọng
thêm tình trạng đô la hóa. Vì vậy, phá giá là phá niềm tin vào tiền đồng. Đây cũng là một
trong những lý do quan trọng để không tiến hành phá giá mạnh.
3.2 Hoàn thiện cơ chế tỷ giá tại Việt Nam
3.2.1 Có nên tiếp tục kiểm soát tỷ giá ở Việt Nam?
Để chính sách tỷ giá có thể hỗ trợ mục tiêu duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hóa,
hay bất cứ mục tiêu nào khác, nhất thiết phải có một cơ chế tỷ giá thích hợp và một môi
trường thuận lợi để tỷ giá vận động theo các quy luật kinh tế để nó có thể phản ánh các tín
hiệu của thị trường.
Hiện tại, thị trường ngoại hối Việt Nam còn thô sơ, thiếu các giao dịch mua bán, trao
đổi tiền tệ chính thức và chuyên nghiệp, thông tin thị trường chưa minh bạch gây khó khăn
cho các thành viên tham gia. Do đó, nếu chính phủ không can thiệp vào thị trường ngoại
hối, một mặt cung cầu tiền tệ sẽ không gặp nhau, mặt khác thị trường không chính thức có
thể thao túng làm tỷ giá biến động mạnh.
Bên cạnh đó, thị trường có những chu kỳ khủng hoảng của nó, nếu không có sự kiểm
tra, giám sát, điều tiết của chính phủ, thị trường có thể phát triển quá đà theo hướng tiêu cực
và khủng hoảng xảy ra càng mạnh, nhất là tại thị trường Việt Nam, nền kinh tế thị trường
chưa ổn định và tồn tại nhiều bất cập.
Thực tế, Ngân hàng Nhà nước nên giảm bớt dần việc kiểm soát và để tỷ giá tự vận
hành theo sát thị trường vì một số lý do sau:
Cố định tỷ giá làm tăng nguy cơ khủng hoảng tiền tệ. Ổn định tỷ giá không phải
lúc nào cũng đồng nghĩa với ổn định kinh tế. Đồng nội tệ bị “ổn định” quá lâu, trong khi
lạm phát trong nước tăng cao hơn đã làm cho tiền đồng ngày càng bị định giá cao, tỷ giá
không phản ánh các quan điểm của thị trường. Đến một lúc nào đó, nó có thể bị tấn công
71
toàn diện bởi hoạt động đầu cơ. Do đó, cố định tỷ giá càng quá lâu nguy cơ rủi ro càng lớn
khi xảy ra khủng hoảng. Tỷ giá khi đó không được miễn dịch tốt nên sức đề kháng yếu ớt,
khi cơn khủng hoảng lan tràn, tình hình có thể trở nên không thể kiểm soát nổi. Cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á cho một bài học kinh nghiệm quý giá về việc cố định tỷ giá.
Do nền tài chính của Việt Nam cũng có những bước phát triển nhất định trong thời gian qua,
quá trình hội nhập quốc tế diễn ra nhanh và mạnh mẽ, cho nên chúng ta phải có những bước
cải cách cơ bản cơ chế quản lý tỷ giá thích hợp để có thể thích nghi với quá trình hội nhập
và không gây ra khủng hoảng và bước đi thích hợp nhất là nâng dần mức độ thả nổi tỷ giá
lên.
Thả nổi thêm tỷ giá chính là để cho thị trường tham gia vào quá trình hình thành
tỷ giá mục tiêu, và cái neo “quản lý của NHNN” với sợi dây buộc dài hơn giúp cho tỷ giá
linh hoạt dao động nhiều hơn nhưng không thể chệch khỏi quá xa tỷ giá trung tâm. Quản lý
tỷ giá là nhằm bình ổn tỷ giá, tạo ra không gian rộng rãi hơn cho tỷ giá có dịp thể hiện
đúng bản chất và hoạt động theo các quy luật kinh tế vốn có của nó và không can thiệp thô
bạo vào các quy luật vận động của thị trường.
Vì vậy, vẫn cần sự quản lý tỷ giá ở Việt Nam, tuy nhiên, nồng độ kiểm soát như thế
nào thì cần xem xét kỹ, nên chăng, Ngân hàng Nhà nước có thể nới lỏng biên độ, để tỷ giá
biến động phù hợp hơn với thực tế.
3.2.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý và thúc đẩy hoạt động của thị trƣờng phái sinh
tiền tệ
Có thể khẳng định rằng, chính thị trường ngoại hối còn sơ khai, các công cụ ngoại
hối còn chưa phát triển của Việt Nam là một nguyên nhân khiến nền kinh tế Việt Nam
chưa phát triển đúng với tiềm năng.
Hiện nay, thị trường ngoại hối Việt Nam đang tồn tại một bất hợp lý là doanh nghiệp
không có công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá nên chính phủ phải ra sức bảo vệ rủi ro tỷ giá
cho doanh nghiệp, ngược lại, doanh nghiệp được bảo vệ kỹ quá sinh tâm lý ỷ lại, hoặc
72
cũng do có quá ít công cụ để tự bảo vệ nên các doanh nghiệp hoặc là chờ chính phủ bảo
vệ, hoặc là tự găm giữ ngoại tệ để bảo vệ mình. Vòng luẩn quẩn này đã kìm kẹp thị
trường và không ít lần gây sóng gió cho thị trường ngoại hối Việt Nam.
Do đó, chính phủ cần hòan thiện thị trường với đầy đủ các nhà tạo lập thị trường,
nhà môi giới, nhà bảo hiểm rủi ro tỷ giá, nhà kinh doanh chênh lệch giá, nhà đầu cơ…
giúp thị trường phát triển đúng hướng, phản ánh đúng và đầy đủ giá cả và thông tin trên
thị trường.
Đồng thời, chính phủ cần chú ý phát triển đồng bộ các loại thị trường: thị trường
ngoại hối, thị trường tiền tệ liên ngân hàng… để các thị trường này hỗ trợ, thúc đẩy phát
triển. Có thể xây dựng trung tâm hỗ trợ giao dịch ngoại hối và tiền tệ tại trung tâm kinh tế
lớn của đất nước là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trung tâm này vừa giúp điều tiết thị
trường, vừa hỗ trợ cho các nhà đầu tư, các nhà đầu cơ, các ngân hàng, doanh nghiệp…
trong hoạt động mua bán, kinh doanh ngoại hối, tiền tệ. Trung tâm này vừa vận hành, vừa
sửa đổi hoàn thiện, đồng thời, giúp chính phủ phát hiện các bất cập, từ đó hoàn thiện hành
lang phát lý và hình thành hệ thống kiểm tra giám sát hợp lý, an toàn, hiệu quả.
Bên cạnh đó, cũng cân hoàn thiện các sản phẩm phái sinh tiền tệ như: quyền chọn,
hoán đổi, kỳ hạn, tương lai… Cần hướng dẫn đầy đủ và có những quy định cụ thể với
từng sản phẩm, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp và các ngân hàng trong bước đầu thực hiện
các sản phẩm phái sinh. Có chính sách khuyến khích các ngân hàng cung cấp các dịch vụ
phái sinh đến khách hàng, cũng như tích cực thực hiện các giao dịch phái sinh trên thị
trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế. Hạn chế việc kiểm sóat giá cả trong hoạt
động phái sinh tiền tệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp và giữa các ngân hàng, giúp hình
thành nên một thị trường phái sinh đủ mạnh và phản ánh đúng thực tế thị trường, phát huy
tác dụng ngăn ngừa rủi ro tỷ giá.
3.3 Cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư trong nước
3.3.1 Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và thị trƣờng xuất khẩu
73
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đang sử dụng lợi thế so sánh giá
nhân công rẻ, chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, sơ chế... Chính vì vậy mà hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, lợi ích thu được từ xuất khẩu không cao. Vì
vậy, nhằm tăng giá trị hàng xuất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hạn chế sự phát triển hoạt
động xuât khẩu theo chiều rộng khi lợi thế giá nhân công rẻ dần mất đi, cần thực hiện một
số biện pháp như sau:
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất:
- Đối với nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản: Giảm khối lượng xuất khẩu
khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng cơ hội thuận lợi
về thị trường và giá cả để tăng giá trị nhóm hàng khai khoáng.
- Nhóm hàng nông, lâm thủy sản: Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để
gia tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; hướng mạnh vào phát
triển sản phẩm sạch, giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh và vượt được rào cản thương
mại của các nước nhập khẩu.
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo và thủ công mỹ nghệ: khai thác, sử dụng
hiệu quả nguồn nguyên liệu đa dạng, nguồn lao động dồi dào để phát triển công nghiệp
chế biến và chế tạo sản phẩm thù công mỹ nghệ chất lượng cao, có tỷ lệ giá trị gia tăng
cao phục vụ xuất khẩu.
Điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất khẩu: tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất chiếm 63,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam, nên chăng chính phủ cần có những chiến lược củng cố và mở rộng thị trường,
thị phần của hàng hóa Việt Nam, tránh việc tập trung xuất khẩu vào một số thị trường lớn,
dẫn đến sự phụ thuộc và bị động. Đặc biệt lưu ý việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang
các nước EU, Bắc Mỹ, mở rộng thị phần tại Nga, Đông Âu, Mỹ La Tinh, Tây Á, Châu
Phi… Đồng thời, tiếp tục mở rộng và củng cố thị phần tại một số quốc gia châu Á – Thái
74
Bình Dương nhằm tận dụng lợi thế về khoảng cách địa lý và nhiều nét tương đồng về văn
hóa.
3.3.2 Cải thiện môi trƣờng đầu tƣ trong nƣớc đồng thời đƣa ra định hƣớng đầu
tƣ thiên về chất lƣợng thay vì số lƣợng
Môi trường đầu tư trong nước được cải thiện, nhằm thu hút nhiều hơn đầu tư trực
tiếp và gián tiếp nước ngoài, hướng vào một số ngành nghề cụ thể, không chỉ giúp điều
chỉnh cơ cấu hàng nhập khẩu và còn giúp chuyển dịch và nâng cao chất lượng, giá trị và
số lượng hàng xuất. Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam là nguồn cung ngoại
tệ dồi dào, giúp Việt Nam có thể tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá trong trường hợp
cầu tăng đột biến, nhất là dịp cuối năm.
Vì vậy, nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tiếp tục thu hút và củng cố dòng vốn FDI,
Việt Nam cần có các biện pháp khuyến khích đầu tư như ưu đãi thuế; hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ; xây
dựng một cách hợp lý và nhanh chóng các cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông, điện;
thực hiện cơ chế một cửa, giải đáp thắc mắc, thủ tục cấp phép nhanh chóng…
Thực tế, khu vực FDI gia tăng có xu hướng tác động làm tăng nhập siêu của Việt
Nam. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ cấu FDI vào các ngành, các lĩnh vực chưa
hợp lý - theo nghĩa là chưa tập trung nhiều vào những ngành, lĩnh vực tạo ra hàm lượng giá
trị gia tăng cao, chứa đựng hàm lượng công nghệ cao, sự tham gia của các yếu tố trong
nước vào khu vực này trong hàng hoá xuất khẩu còn thấp do sự yếu kém của công nghiệp
hỗ trợ… khiến cho giá trị gia tăng của hàng hoá xuất khẩu từ khu vực này không cao. Cùng
với đó, sự gia tăng trong các hoạt động nhập khẩu của khu vực này là rất mạnh mẽ - cũng
với những nguyên nhân như nêu trên - khiến cho tình trạng nhập siêu từ khu vực này là rất
đáng kể.
Với thực tế như vậy, hướng giải pháp được đề xuất ở đây là cần có sự chuyển đổi
trong chiến lược thu hút FDI để bảo đảm có được một cơ cấu FDI hợp lý vào các ngành,
75
các lĩnh vực chứa đựng nhiều hàm lượng công nghệ, hàm lượng giá trị gia tăng… hơn và từ
đó tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trong hoạt động xuất khẩu. Đồng thời cũng qua đó giảm
bớt khối lượng nhập khẩu và cải thiện tình trạng cán cân thương mại. Thu hút FDI trong
giai đoạn tới phải ưu tiên các ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, tạo ra đột phá về công
nghệ và sức cạnh tranh của Việt Nam. Vì vậy, cần chọn lọc để hướng đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào những lĩnh vực quan trọng như công nghiệp hỗ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng và
phát triển nguồn nhân lực; các ngành chế biến nông sản, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, các
ngành sản xuất tiết kiệm năng lượng và các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn.
76
KẾT LUẬN
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là tính toán tỷ giá thực đa phương và đánh giá
tác động của nó đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Sử dụng tỷ giá thực đa phương như là
một đại lượng đo lường mức độ định giá tiền đồng, tác giả tiến hành xác định xem tỷ giá
danh nghĩa hiện tại bị định giá cao hay thấp so với rổ tiền đã chọn. Kết quả tính toán cho
thấy hầu hết trong giai đoạn từ 2005 – 2012 tiền đồng đã bị định giá cao so với rổ tiền. Vì
vậy, hàng hóa Việt Nam có khả năng giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Từ mô hình hồi quy tỷ số xuất khẩu trên nhập khẩu theo tỷ giá thực đa phương, tác
giả nhận thấy tỷ giá thực đa phương đã có tác động khá lớn đến tỷ số xuất khẩu trên
nhập khẩu, theo đó tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân thương mại.
Do hạn chế về thời gian, số liệu và phương pháp nghiên cứu và cũng do mục tiêu đã
chọn ban đầu nên đề tài này không tính hệ số co giãn xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng
như chưa đưa ra được các nhận định về tác động của tỷ giá thực đa phương đối với xuất
nhập khẩu theo các độ trễ thời gian khác nhau. Vì vậy, để có thể đánh giá toàn diện hơn tác
động của tỷ giá đối với cán cân thương mại của Việt Nam, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể
là tính hệ số co giãn xuất nhập khẩu này.
Trên cơ sở các kết quả tính toán được, tác giả đề nghị sử dụng tỷ giá thực đa phương
làm tỷ giá mục tiêu và tỷ giá sẽ được điều chỉnh để hướng về mức tỷ giá có ngang giá sức
mua so với một rổ tiền nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa quốc nội.
Gợi ý tiếp theo của tác giả là điều chỉnh tăng tỷ giá trong thời gian sắp tới. Tuy
nhiên, tác giả không ủng hộ quan điểm về một cuộc phá giá mạnh tiền đồng nhằm khuyến
khích xuất khẩu vì những rủi ro từ động thái này đối với các khoản vay bằng ngoại tệ của
các doanh nghiệp và chính phủ, nguy cơ lạm phát tăng cao...
Ngoài ra, từ thực trạng cán cân thương mại của Việt Nam thời gian qua, tác giả cũng
có một số đề xuất nhằm cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu và môi trường đầu tư trong nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
Dương Duy Hưng, 2013. Cán cân thương mại Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án Tiến sĩ. Viện nghiên cứu thương mại.
Lê Kim Sa, 2012. Nhìn lại kinh tế toàn cầu năm 2011: Khó khăn tích lũy và
tương lai ảm đạm. Trung tâm nghiên cứu chính sách. Đại học Kinh tế. Đại học quốc
gia Hà Nội.
Nguyễn Hoàng Bảo, 2004. Kinh tế lượng ứng dụng. Đại học Kinh tế TP.HCM
Nguyễn Quốc Hùng, 2011. Tổng quan kinh tế thế giới 2010: Phục hồi nhưng
chưa bền vững. Trung tâm nghiên cứu chính sách. Đại học Kinh tế. Đại học quốc gia
Hà Nội.
Nguyễn Thị Ngọc Trang, 2008. Chống lạm phát: phải tìm đúng bệnh. Thời báo
kinh tế Sài Gòn Online. Ngày 29/3/2008.
Nguyễn Văn Tiến, 2005. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở. Nhà
xuất bản Thống Kê.
Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, 2006. Tài chính quốc tế. Nhà xuất bản
thống kê.
Trần Thị Lương Bình, 2013. Chính sách tỷ giá và những vấn đề đặt ra. Tạp chí
Tài Chính. Ngày 06/03/2013.
Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Vũ Quốc Huy và cộng sự, 2013. Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000 – 2011: Mức độ
sai lệch tác động đối với xuất khẩu. Nhà xuất bản Tri thức.
Website của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
Website của Ngân hàng Thế giới WB
Website của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
Kenichi Ohno, 2003. Exchange Rate Management of Vietnam. Issue Paper for
Possible Future Research, Vietnam Development Forum.
Mohsen Bahmani-Oskooee and Tatchawan Kantipong, 2001. Bilateral J-Curve
Between Thailand and Her Trading Partners. Department of Economics and The
Center for Research on International Economics, The University of
WisconsinMilwaukee, Milwaukee, WI 53201.
Ng Yuen-Ling, Har Wai-Mun, Tan Geoi-Mei, 2008. Real exchange Rate and
trade balance relationship: An empirial study on Malaysia. Faculty of Accountancy
anh Management, Universiti Tunku Abdul Rahman.
Onafowora, Olugbenga, 2003. Exchange rate and trade balance in east asia: is
there a J−curve?. Economics Bulletin, Vol. 5, No. 18 pp. 1−13.
Sulaiman D. Mohammad, 2010. The Role of Exchange Rate on Balance of
Trade: Empirical from Pakistan. University of Karachi – Applied Economics
Research Centre.
PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2005
Q2-2005
Q3-2005
Q4-2005
Q1-2006
Q2-2006
Q3-2006
Q4-2006
Giá trị xuất khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
1.345,44 945,42 756,14 679,60 358,86 286,79 139,87 185,26 201,47 89,22 239,16 5.227,23
1.286,99 1.031,54 762,02 596,96 467,64 242,66 158,51 148,72 147,23 85,11 253,91 5.181,29
1.714,80 1.200,24 844,32 713,73 552,14 293,03 187,66 168,38 278,82 87,47 266,22 6.306,81
1.576,77 1.163,11 865,63 732,51 538,36 263,03 177,56 150,55 235,50 91,29 256,51 6.050,82
1.658,94 1.207,70 823,87 804,58 505,52 395,00 189,64 216,57 258,18 88,89 271,91 6.420,80
1.986,89 1.374,31 823,78 885,55 347,72 319,65 211,28 186,25 221,68 115,52 281,91 6.754,54
2.208,91 1.335,32 763,52 1.159,46 505,08 368,67 226,32 205,35 240,88 131,17 300,39 7.445,07
1.990,36 1.322,77 831,64 895,11 453,38 361,80 215,66 189,03 29,46 117,43 325,49 6.732,13
TỔNG CỘNG Giá trị nhập khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
148,87 951,33 1.199,83 118,47 908,71 147,56 777,99 106,23 482,94 273,82 33,37 5.149,12 10.376,35
282,54 1.032,56 1.553,59 142,68 1.221,39 199,20 951,83 108,46 546,63 323,04 47,65 6.409,57 11.590,86
155,82 1.030,52 1.529,52 125,76 1.120,55 164,07 92,30 103,06 708,10 316,61 51,31 5.397,62 11.704,43
275,66 1.059,70 1.616,67 111,60 1.231,65 151,07 940,97 129,96 636,42 321,53 50,07 6.525,30 12.576,12
177,36 985,25 1.438,48 120,47 1.385,11 186,32 777,30 90,56 651,19 306,28 48,84 6.167,16 12.587,96
225,80 1.186,29 1.836,88 250,60 1.976,53 177,59 1.045,80 96,70 735,58 363,86 44,27 7.939,90 14.694,44
246,17 1.206,22 1.937,63 477,47 1.562,20 273,82 1.065,20 106,43 808,72 343,84 47,81 8.075,51 15.520,58
337,67 1.324,35 2.178,31 251,17 1.350,06 276,76 1.020,10 127,41 838,92 426,83 61,18 8.192,76 14.924,89
TỔNG CỘNG TỔNG XNK Tỷ trọng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore
0,14 0,18 0,19 0,08 0,12
0,14 0,18 0,20 0,06 0,15
0,16 0,19 0,20 0,07 0,14
0,15 0,18 0,20 0,07 0,14
0,15 0,17 0,18 0,07 0,15
0,15 0,17 0,18 0,08 0,16
0,16 0,16 0,17 0,11 0,13
0,16 0,18 0,20 0,08 0,12
PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2005
Q2-2005
Q3-2005
Q4-2005
Q1-2006
Q2-2006
Q3-2006
Q4-2006
6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
0,04 0,09 0,03 0,07 0,03 0,03
0,04 0,10 0,02 0,06 0,04 0,03
0,04 0,02 0,02 0,08 0,03 0,03
0,03 0,09 0,02 0,07 0,03 0,02
0,05 0,08 0,02 0,07 0,03 0,03
0,03 0,09 0,02 0,07 0,03 0,02
0,04 0,08 0,02 0,07 0,03 0,02
0,04 0,08 0,02 0,06 0,04 0,03
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
15.823,00 151,35 2.155,55 13.151,95 10.759,78 22.275,83 16,99 22.275,83 448,84 2.319,42 32.602,68
15.857,00 147,47 1.755,90 11.495,24 8.652,04 18.017,46 14,54 18.017,46 355,62 1.849,52 26.547,96
15.895,00 142,89 2.201,63 13.010,44 10.545,87 20.852,10 16,64 20.852,10 426,50 2.332,23 30.808,62
15.916,00 135,77 2.036,79 11.923,80 9.872,04 19.242,14 16,11 19.242,14 399,18 2.129,91 28.140,46
15.927,00 136,26 2.143,11 11.995,15 10.592,42 20.407,87 17,29 20.407,87 437,81 2.238,82 29.442,82
15.996,00 139,70 1.957,94 11.730,10 9.859,01 20.029,01 16,41 20.029,01 411,61 2.009,11 28.785,29
16.055,00 138,10 2.216,27 12.702,30 11.012,99 21.667,16 18,03 21.667,16 460,03 2.281,73 32.097,16
16.054,00 136,31 1.982,91 12.430,07 10.116,62 20.614,81 16,85 20.614,81 432,86 1.978,66 36.595,90
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
100,21 97,43 81,46 87,40 80,41 80,88 85,58 80,88 79,23 79,74 81,43
100,46 94,41 102,14 98,92 98,01 93,61 97,94 93,61 95,02 100,55 94,50
100,59 89,71 94,49 90,66 91,75 86,38 94,82 86,38 88,94 91,83 86,31
100,66 90,03 99,42 91,20 98,44 91,61 101,77 91,61 97,54 96,52 90,31
101,09 92,30 90,83 89,19 91,63 89,91 96,59 89,91 91,71 86,62 88,29
101,47 91,24 102,82 96,58 102,35 97,27 106,12 97,27 102,49 98,38 98,45
101,46 90,06 91,99 94,51 94,02 92,54 99,18 92,54 96,44 85,31 112,25
CPI (năm 2005= 100)
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản
98,3 100,0
99,6 100,1
100,8 100,0
101,3 100,0
101,9 99,9
103,6 100,3
104,2 100,5
103,3 100,3
PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2005
Q2-2005
Q3-2005
Q4-2005
Q1-2006
Q2-2006
Q3-2006
Q4-2006
3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
101,0 98,9 99,8 99,3 99,4 99,1 98,3 99,5 98,9 100,8
99,9 99,5 99,6 99,7 99,8 100,0 99,2 99,8 99,9 99,7
99,5 100,5 100,0 100,4 100,4 100,3 101,1 100,4 100,4 99,3
99,5 101,0 100,6 100,6 100,4 100,6 101,5 100,4 100,8 100,3
102,2 101,8 101,2 101,0 101,4 100,9 103,9 101,0 100,8 109,2
101,3 103,5 100,8 101,5 102,1 101,9 105,2 101,8 102,1 107,2
100,8 104,5 100,7 101,9 102,9 102,0 104,8 102,7 102,8 106,5
101,6 104,4 101,2 101,9 102,6 101,9 104,8 102,6 103,5 107,0
Điều chỉnh CPI
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
101,32 100,10 98,91 100,61 99,79 100,40 100,40 100,91 100,92 100,30 101,01 98,97
102,54 100,00 98,52 101,62 100,20 101,11 101,01 101,21 102,88 100,90 101,52 98,51
103,05 100,00 98,55 102,12 100,84 101,31 101,01 101,51 103,25 100,93 101,92 99,51
103,66 99,90 101,20 102,93 101,37 101,71 102,01 101,82 105,70 101,56 101,92 108,42
105,39 100,30 100,26 104,65 100,99 102,22 102,72 102,83 107,02 102,34 103,24 106,39
106,00 100,50 99,76 105,66 100,94 102,62 103,52 102,93 106,64 103,25 103,94 105,69
105,09 100,30 100,55 105,56 101,44 102,62 103,22 102,83 106,64 103,12 104,65 106,21
Tỷ giá thực song phƣơng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp
100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
102,60 98,55 81,41 88,85 81,08 82,06 86,82 82,47
104,56 95,83 102,14 102,04 99,69 96,07 100,42 96,17
104,17 90,15 93,58 93,04 92,98 87,94 96,25 88,12
96,24 82,95 92,80 86,59 92,04 85,94 95,75 86,03
100,15 87,02 85,60 87,73 86,98 86,39 93,25 86,90
101,76 86,76 97,05 96,55 97,75 94,44 103,94 94,72
100,38 85,04 87,09 93,93 89,80 89,41 96,38 89,59
PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2005
Q2-2005
Q3-2005
Q4-2005
Q1-2006
Q2-2006
Q3-2006
Q4-2006
9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
100,00 100,00 100,00
80,79 80,81 83,11
99,24 102,99 97,38
92,28 93,14 88,41
95,09 90,42 84,89
92,25 83,33 85,68
103,41 96,10 96,82
96,83 82,82 110,60
GDP
Trung Quốc
Singapore
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 4 Úc 5 6 Đức 7 Hàn Quốc Pháp 8 Thái Lan 9 Hồng Kông 10 Anh 11 Việt Nam 12
TỔNG CỘNG GDP bình quân GDP Việt Nam REER
113,0 104,7 149,6 114,0 124,0 101,0 119,5 106,5 122,9 120,2 112,4 131,1 1.287,80 120,58 131,14 100,00
111,5 105,8 141,1 114,0 119,3 100,5 119,7 106,0 125,0 120,8 112,7 131,8 1.276,36 119,10 131,81 88,31
112,2 106,5 141,2 115,5 122,5 101,4 118,6 106,1 126,3 122,7 113,4 136,7 1.286,38 119,88 136,68 100,21
112,2 105,9 141,7 116,9 117,5 101,8 121,4 105,9 127,9 124,9 114,5 136,9 1.290,69 119,88 136,86 94,11
116,5 107,1 168,2 117,4 138,3 103,9 126,7 108,9 130,4 131,1 116,9 140,8 1.365,36 128,98 140,77 90,65
114,7 107,3 160,3 116,9 134,5 104,3 125,8 109,4 131,3 128,2 116,1 141,6 1.348,74 127,01 141,59 89,49
114,7 107,5 158,5 118,0 128,9 105,4 124,5 108,9 132,3 130,5 116,0 148,7 1.345,20 125,40 148,68 96,96
114,9 108,1 159,4 120,7 132,0 106,8 127,0 108,8 133,6 133,3 116,5 149,3 1.361,18 127,52 149,28 91,59
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2007
Q2-2007
Q3-2007
Q4-2007
Q1-2008
Q2-2008
Q3-2008
Q4-2008
Giá trị xuất khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
2.098,34 1.343,80 753,39 828,12 500,14 492,52 271,91 230,67 215,60 116,72 315,22 7.166,43
2.370,82 1.303,86 939,29 669,54 583,36 380,85 306,29 202,24 246,36 140,12 342,04 7.484,77
2.852,65 1.552,30 907,74 876,39 555,79 542,81 317,05 239,20 303,83 157,11 394,42 8.699,29
2.782,69 1.890,04 1.045,68 1.428,15 595,11 438,72 348,16 212,29 264,21 168,54 379,61 9.553,20
2.467,52 1.971,46 928,39 815,04 523,97 499,85 403,47 231,35 322,80 167,47 378,74 8.710,06
2.960,84 2.273,29 1.113,86 1.160,33 840,89 498,01 596,64 270,87 439,49 202,84 418,57 10.775,63
3.363,46 2.245,52 1.455,58 1.595,12 867,24 496,08 437,85 208,31 341,30 248,21 408,64 11.667,31
3.094,98 1.977,53 1.352,27 713,13 600,93 479,44 399,52 260,31 286,48 258,68 375,10 9.798,37
TỔNG CỘNG Giá trị nhập khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
295,11 1.142,07 2.283,53 212,60 1.620,69 437,26 1.080,19 217,46 749,03 388,25 33,61 8.459,80 15.626,23
370,36 1.372,11 3.242,02 246,09 2.005,76 256,94 1.300,68 302,57 846,94 463,99 62,72 10.470,18 17.954,95
434,00 1.684,76 3.076,26 201,97 1.894,63 268,26 1.367,02 291,33 904,03 538,47 41,49 10.702,22 19.401,51
601,03 1.989,96 4.108,18 398,74 2.092,63 346,05 1.592,52 344,04 1.244,21 559,99 99,19 13.376,54 22.929,74
578,25 1.962,81 4.229,47 473,48 2.546,49 389,57 1.842,95 208,74 1.123,96 755,59 105,77 14.217,08 22.927,14
752,82 2.202,10 4.533,88 379,95 2.837,87 384,43 1.922,38 175,17 1.326,41 785,83 150,84 15.451,68 26.227,31
673,23 2.080,18 3.533,15 275,19 2.415,22 440,21 1.819,09 223,54 1.361,69 533,25 68,38 13.423,13 25.090,44
631,00 1.995,21 3.453,01 207,35 1.660,13 332,88 1.418,29 181,75 1.016,66 710,60 61,31 11.668,19 21.466,56
TỔNG CỘNG TỔNG XNK Tỷ trọng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore
0,15 0,16 0,19 0,07 0,14
0,15 0,15 0,23 0,05 0,14
0,17 0,17 0,21 0,06 0,13
0,15 0,17 0,22 0,08 0,12
0,13 0,17 0,22 0,06 0,13
0,14 0,17 0,22 0,06 0,14
0,16 0,17 0,20 0,07 0,13
0,17 0,19 0,22 0,04 0,11
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2007
Q2-2007
Q3-2007
Q4-2007
Q1-2008
Q2-2008
Q3-2008
Q4-2008
6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
0,06 0,09 0,03 0,06 0,03 0,02
0,04 0,09 0,03 0,06 0,03 0,02
0,04 0,09 0,03 0,06 0,04 0,02
0,03 0,08 0,02 0,07 0,03 0,02
0,04 0,10 0,02 0,06 0,04 0,02
0,03 0,10 0,02 0,07 0,04 0,02
0,04 0,09 0,02 0,07 0,03 0,02
0,04 0,08 0,02 0,06 0,05 0,02
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
16.024,00 134,23 2.141,51 13.193,96 10.900,25 21.845,41 17,43 21.845,41 470,34 2.134,68 32.174,34
16.125,00 133,48 2.303,14 14.383,14 11.427,66 23.119,59 18,46 23.119,59 499,34 2.286,42 34.364,58
16.105,00 136,78 2.117,65 14.115,15 10.673,16 22.640,75 17,45 22.640,75 463,74 2.041,60 32.558,27
16.114,00 142,49 2.140,22 13.955,15 10.861,94 23.236,58 16,83 23.236,58 466,41 1.986,71 31.400,65
15.960,00 151,66 2.273,83 14.651,28 11.566,06 25.235,95 16,11 25.235,95 507,31 2.049,96 31.715,18
16.514,00 157,83 2.407,60 15.896,38 12.128,38 26.032,66 15,79 26.032,66 493,20 2.117,04 32.406,15
16.517,00 153,49 2.422,45 13.206,99 11.539,05 23.624,27 13,68 23.624,27 485,77 2.126,97 29.702,69
16.977,00 176,69 2.438,98 11.761,67 11.796,14 23.626,88 13,48 23.626,88 486,48 2.190,44 24.107,16
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
101,27 88,68 99,35 100,32 101,31 98,07 102,59 98,07 104,79 92,04 98,69
101,91 88,19 106,85 109,36 106,21 103,79 108,65 103,79 111,25 98,58 105,40
101,78 90,37 98,24 107,32 99,19 101,64 102,71 101,64 103,32 88,02 99,86
101,84 94,14 99,29 106,11 100,95 104,31 99,06 104,31 103,91 85,66 96,31
100,87 100,20 105,49 111,40 107,49 113,29 94,82 113,29 113,03 88,38 97,28
104,37 104,28 111,69 120,87 112,72 116,87 92,94 116,87 109,88 91,27 99,40
104,39 101,41 112,38 100,42 107,24 106,05 80,52 106,05 108,23 91,70 91,11
107,29 116,74 113,15 89,43 109,63 106,07 79,34 106,07 108,39 94,44 73,94
CPI (năm 2005= 100)
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản
104,3 99,8
106,3 100,2
106,6 100,4
107,4 100,8
108,6 100,7
111,0 101,6
112,3 102,6
109,1 101,8
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2007
Q2-2007
Q3-2007
Q4-2007
Q1-2008
Q2-2008
Q3-2008
Q4-2008
3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
105,0 104,4 101,0 102,8 103,5 102,0 106,4 102,7 103,7 116,4
104,9 105,7 101,9 103,6 104,6 103,1 107,2 103,2 104,8 115,1
106,9 106,4 103,9 104,2 105,3 103,3 106,5 104,3 104,6 115,6
108,3 107,4 105,5 105,1 106,0 104,3 107,8 106,1 105,7 118,4
113,5 108,8 107,7 105,8 107,4 105,0 111,8 107,4 106,2 135,5
113,1 110,4 109,6 106,6 109,6 106,5 115,2 109,0 108,3 143,3
112,6 111,7 110,7 107,4 111,1 106,7 114,2 109,2 109,7 147,7
111,1 111,4 111,6 106,8 110,8 106,2 110,1 108,5 109,8 146,4
Điều chỉnh CPI
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
106,10 99,80 103,97 105,56 101,20 103,52 104,12 102,93 108,32 103,27 104,85 115,55
108,14 100,20 103,87 106,88 102,14 104,33 105,23 104,04 109,07 103,72 105,97 114,26
108,44 100,40 105,85 107,58 104,14 104,93 105,94 104,24 108,39 104,89 105,76 114,76
109,26 100,80 107,22 108,59 105,73 105,84 106,64 105,25 109,74 106,68 106,88 117,52
110,48 100,70 112,32 110,01 107,90 106,55 108,05 105,95 113,76 108,01 107,38 134,48
112,92 101,60 111,94 111,63 109,81 107,35 110,26 107,47 117,21 109,59 109,50 142,22
114,24 102,60 111,42 112,94 110,96 108,16 111,77 107,67 116,23 109,74 110,92 146,61
110,99 101,80 109,94 112,64 111,85 107,55 111,47 107,16 112,08 109,12 111,02 145,27
Tỷ giá thực song phƣơng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp
92,99 76,60 89,39 91,65 88,73 87,86 92,45 87,36
96,45 77,34 97,13 102,29 94,94 94,77 100,07 94,50
96,18 79,07 90,62 100,62 90,01 92,94 94,81 92,32
94,68 80,75 90,59 98,05 90,82 93,95 89,89 93,42
82,86 75,03 88,10 91,13 86,25 89,75 76,18 89,26
82,86 74,49 87,91 94,87 87,03 88,21 72,05 88,31
81,34 70,97 85,41 77,36 81,17 78,24 61,39 77,89
81,97 81,81 85,63 69,34 84,41 78,53 60,88 78,25
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2007
Q2-2007
Q3-2007
Q4-2007
Q1-2008
Q2-2008
Q3-2008
Q4-2008
9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
98,24 82,26 89,55
106,19 89,48 97,75
97,59 80,45 92,04
97,04 77,75 87,59
95,61 70,98 77,67
90,56 70,33 76,53
85,81 68,64 68,93
83,63 70,94 56,51
GDP
Trung Quốc
Singapore
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 4 Úc 5 6 Đức 7 Hàn Quốc Pháp 8 Thái Lan 9 Hồng Kông 10 Anh 11 Việt Nam 12
TỔNG CỘNG GDP bình quân GDP Việt Nam REER
118,0 109,9 191,7 122,8 127,2 108,5 132,2 111,8 136,5 138,8 119,6 151,6 1.417,08 134,95 151,55 88,40
116,7 109,8 184,0 122,8 152,0 107,9 132,5 111,6 137,4 136,1 120,0 152,9 1.430,87 139,70 152,90 94,44
117,3 109,7 181,2 123,8 149,3 108,9 130,6 111,5 139,6 139,3 121,0 161,7 1.432,46 136,49 161,66 90,72
117,1 109,9 181,1 125,3 137,9 109,4 134,4 110,8 140,7 142,7 120,8 163,0 1.430,06 136,85 162,96 90,23
119,3 111,3 213,4 127,0 142,7 111,5 139,2 113,6 145,1 148,5 123,0 163,0 1.494,67 147,09 162,95 83,57
117,7 109,8 204,0 126,4 131,3 109,9 138,0 112,0 144,6 141,6 120,7 161,8 1.455,89 141,71 161,80 82,95
116,9 108,9 198,8 127,3 151,7 109,5 134,7 111,0 143,9 140,6 118,5 172,1 1.461,92 140,97 172,12 77,75
113,8 104,6 194,9 127,3 143,9 107,4 130,0 108,3 134,9 138,9 115,6 172,5 1.419,61 137,48 172,45 79,57
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2009
Q2-2009
Q3-2009
Q4-2009
Q1-2010
Q2-2010
Q3-2010
Q4-2010
Giá trị xuất khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
2.588,74 1.491,29 976,98 480,82 483,10 506,23 516,54 237,62 204,50 163,27 286,90 7.935,99
2.694,30 1.366,52 1.218,79 623,84 539,06 381,42 490,75 187,09 342,85 219,52 329,08 8.393,22
3.081,79 1.609,48 1.245,77 584,58 560,48 541,02 507,11 195,60 369,96 278,47 358,49 9.332,75
2.990,94 1.824,52 1.467,50 587,47 493,61 456,74 550,10 188,24 349,21 372,45 354,77 9.635,55
3.021,81 1.754,44 1.214,84 697,36 440,65 734,91 530,78 246,87 296,05 381,55 350,92 9.670,18
3.368,55 1.733,46 1.467,78 782,56 333,43 572,62 504,28 225,97 276,63 438,41 397,31 10.101,00
4.125,55 1.952,69 1.869,91 653,82 371,99 808,48 521,10 279,34 368,75 469,09 443,11 11.863,83
3.722,19 2.287,10 2.756,26 570,25 975,23 256,69 526,56 342,93 241,38 175,15 490,55 12.344,29
TỔNG CỘNG Giá trị nhập khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
592,08 1.328,89 2.845,01 203,85 827,17 261,89 1.282,01 133,57 776,47 184,68 65,98 8.501,60 16.437,59
748,28 1.682,01 3.661,37 251,08 1.049,53 385,91 1.736,97 226,01 1.086,90 200,54 92,00 11.120,60 19.513,82
805,03 2.083,23 4.580,49 280,33 1.151,39 359,39 1.876,36 222,45 1.232,69 200,46 101,00 12.892,82 22.225,57
864,00 2.373,96 5.354,08 314,76 1.220,28 580,12 2.081,02 282,37 1.418,01 239,95 136,57 14.865,12 24.500,67
914,65 2.045,19 4.640,59 310,44 942,78 469,89 1.317,36 149,40 1.402,12 998,61 80,99 13.272,02 22.942,20
992,75 2.133,81 6.217,96 367,49 1.102,50 608,83 1.784,87 155,88 1.477,77 1.168,28 122,60 16.132,74 26.233,74
977,46 2.325,54 6.326,99 370,63 1.113,46 384,15 1.928,11 290,55 1.647,77 1.149,44 158,04 16.672,14 28.535,97
882,04 2.511,55 2.833,26 395,04 942,36 279,53 4.730,96 373,18 1.074,65 889,07 149,43 15.061,07 27.405,36
TỔNG CỘNG TỔNG XNK Tỷ trọng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore
0,19 0,17 0,23 0,04 0,08
0,18 0,16 0,25 0,04 0,08
0,17 0,17 0,26 0,04 0,08
0,16 0,17 0,28 0,04 0,07
0,17 0,17 0,26 0,04 0,06
0,17 0,15 0,29 0,04 0,05
0,18 0,15 0,29 0,04 0,05
0,17 0,18 0,20 0,04 0,07
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2009
Q2-2009
Q3-2009
Q4-2009
Q1-2010
Q2-2010
Q3-2010
Q4-2010
6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
0,05 0,11 0,02 0,06 0,02 0,02
0,04 0,11 0,02 0,07 0,02 0,02
0,04 0,11 0,02 0,07 0,02 0,02
0,04 0,11 0,02 0,07 0,02 0,02
0,05 0,08 0,02 0,07 0,06 0,02
0,05 0,09 0,01 0,07 0,06 0,02
0,04 0,09 0,02 0,07 0,06 0,02
0,02 0,19 0,03 0,05 0,04 0,02
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
16.954,00 181,07 2.480,14 11.652,48 11.158,35 22.562,37 12,25 22.562,37 477,85 2.187,47 24.340,72
16.953,00 174,14 2.481,45 13.755,66 11.693,34 23.961,36 13,31 23.961,36 498,92 2.187,34 28.055,41
16.991,00 181,70 2.488,07 14.953,78 12.015,42 24.879,93 14,42 24.879,93 507,04 2.192,25 27.345,37
17.941,00 199,82 2.627,49 16.091,28 12.783,95 25.845,81 15,41 25.845,81 538,45 2.313,33 28.136,66
18.544,00 204,57 2.716,55 16.984,45 13.219,28 24.995,45 16,39 24.995,45 573,69 2.388,31 27.637,65
18.544,00 201,34 2.730,71 15.805,05 13.233,43 22.755,33 15,32 22.755,33 572,44 2.381,86 27.862,36
18.932,00 220,78 2.825,21 18.301,56 14.369,64 25.838,40 16,60 25.838,40 623,44 2.439,22 29.811,70
18.932,00 229,36 2.858,57 19.240,59 14.704,47 25.296,94 16,68 25.292,94 627,90 2.435,14 29.638,05
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
107,15 119,63 115,06 88,60 103,70 101,29 72,10 101,29 106,46 94,31 74,66
107,14 115,05 115,12 104,59 108,68 107,57 78,34 107,57 111,16 94,31 86,05
107,38 120,05 115,43 113,70 111,67 111,69 84,87 111,69 112,97 94,52 83,87
113,39 132,02 121,89 122,35 118,81 116,03 90,70 116,03 119,96 99,74 86,30
117,20 135,16 126,03 129,14 122,86 112,21 96,47 112,21 127,82 102,97 84,77
117,20 133,02 126,68 120,17 122,99 102,15 90,17 102,15 127,54 102,69 85,46
119,65 145,87 131,07 139,15 133,55 115,99 97,70 115,99 138,90 105,17 91,44
119,65 151,54 132,61 146,29 136,66 113,56 98,18 113,54 139,89 104,99 90,91
CPI (năm 2005= 100)
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản
108,6 100,6
109,7 100,6
110,5 100,3
110,7 99,8
111,1 99,7
111,7 99,9
111,8 99,3
112,1 99,5
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2009
Q2-2009
Q3-2009
Q4-2009
Q1-2010
Q2-2010
Q3-2010
Q4-2010
3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
112,8 111,5 111,3 106,7 111,6 105,7 111,5 109,3 109,4 155,2
111,3 112,0 109,8 106,9 112,7 106,3 112,0 109,0 110,6 152,3
111,1 113,0 110,4 107,1 113,3 106,2 111,8 108,2 111,3 151,5
111,8 113,6 110,8 107,2 113,5 106,5 112,3 110,3 112,1 153,1
115,3 114,7 112,3 107,6 114,9 107,1 115,7 111,6 112,9 168,4
114,6 115,5 113,1 108,1 115,7 108,0 115,6 112,0 114,4 166,0
115,0 116,3 114,1 108,3 116,6 107,9 115,4 109,9 114,7 164,3
117,1 116,8 115,2 108,7 117,1 108,3 115,5 113,3 115,9 169,7
Điều chỉnh CPI
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
110,48 100,60 111,64 112,74 111,55 107,45 112,27 106,66 113,47 109,87 110,62 153,98
111,60 100,60 110,22 113,25 110,01 107,65 113,38 107,27 113,97 109,56 111,83 151,12
112,41 100,30 110,01 114,26 110,58 107,85 113,98 107,16 113,75 108,74 112,54 150,37
112,61 99,80 110,67 114,86 111,00 107,96 114,19 107,47 114,24 110,87 113,35 151,98
113,02 99,70 114,10 115,98 112,58 108,36 115,59 108,07 117,71 112,18 114,16 167,09
113,63 99,90 113,46 116,78 113,37 108,86 116,40 108,98 117,64 112,61 115,67 164,71
113,73 99,30 113,83 117,59 114,29 109,06 117,30 108,88 117,45 110,50 115,98 163,05
114,04 99,50 115,87 118,10 115,40 109,47 117,81 109,28 117,58 113,91 117,19 168,44
Tỷ giá thực song phƣơng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp
76,87 78,16 83,42 64,87 75,12 70,68 52,57 70,16
79,12 76,59 83,97 78,38 79,12 76,63 58,78 76,35
80,27 80,07 84,45 86,39 82,12 80,11 64,34 79,60
84,02 86,69 88,76 92,47 86,78 82,42 68,15 82,04
79,27 80,65 86,06 89,63 82,77 72,77 66,74 72,57
80,86 80,68 87,26 85,21 84,66 67,52 63,72 67,59
83,46 88,84 91,50 100,36 93,62 77,59 70,29 77,46
81,00 89,52 91,23 102,57 93,63 73,80 68,66 73,67
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2009
Q2-2009
Q3-2009
Q4-2009
Q1-2010
Q2-2010
Q3-2010
Q4-2010
9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
78,45 67,30 53,63
83,83 68,37 63,68
85,46 68,35 62,77
90,18 72,76 64,36
90,04 69,13 57,91
91,09 70,21 60,02
100,06 71,27 65,04
97,65 71,00 63,25
GDP
Trung Quốc
Singapore
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 4 Úc 5 6 Đức 7 Hàn Quốc Pháp 8 Thái Lan 9 Hồng Kông 10 Anh 11 Việt Nam 12
TỔNG CỘNG GDP bình quân GDP Việt Nam REER
115,1 101,1 227,5 128,6 126,0 103,9 133,6 108,7 134,8 137,0 114,6 168,1 1.431,04 143,26 168,07 74,27
112,9 102,6 220,8 127,6 140,0 103,0 135,3 107,9 137,1 137,2 113,0 169,0 1.437,37 145,49 169,01 77,20
113,1 102,9 218,0 128,5 134,2 103,9 136,4 107,4 139,9 138,2 112,6 182,5 1.435,15 145,61 182,52 79,74
113,6 104,1 217,1 130,5 160,0 105,0 138,3 107,2 142,9 142,3 112,8 184,3 1.473,64 149,63 184,35 84,26
116,9 106,2 255,0 131,3 167,7 106,5 145,1 109,8 151,1 147,9 115,2 177,9 1.552,74 160,05 177,88 80,22
115,9 107,0 243,5 131,2 151,1 107,5 145,3 109,6 149,8 146,0 115,3 179,9 1.522,09 160,76 179,90 80,44
116,5 108,9 238,9 132,1 154,8 108,5 142,5 109,7 149,1 147,3 115,3 195,6 1.523,58 158,87 195,62 86,31
116,7 107,7 238,4 134,1 150,9 109,4 145,2 109,2 148,3 151,4 114,7 197,9 1.526,17 150,91 197,88 83,52
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2011
Q2-2011
Q3-2011
Q4-2011
Q1-2012
Q2-2012
Q3-2012
Q4-2012
Giá trị xuất khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
3.451,65 2.019,41 2.155,01 467,27 456,28 714,14 846,43 322,68 358,31 404,12 520,55 11.715,85
4.233,80 2.405,93 2.433,16 609,47 707,01 787,48 702,40 396,89 426,20 433,30 581,19 13.716,83
4.702,38 3.055,82 2.935,53 892,90 468,87 838,18 891,71 425,18 526,60 531,04 618,70 15.886,91
4.539,93 3.299,99 3.601,33 549,46 653,50 1.027,10 860,27 514,13 481,13 837,25 677,75 17.041,84
4.194,11 3.125,61 2.750,05 539,99 550,10 990,02 1.232,67 424,22 527,26 794,60 550,52 15.679,16
5.085,72 3.379,56 3.364,94 800,97 564,21 932,76 1.199,56 538,13 655,40 738,34 693,97 17.953,56
5.282,87 3.237,14 3.141,75 891,63 665,21 999,97 1.597,17 484,24 727,98 1.019,30 868,87 18.916,14
5.105,23 3.317,50 3.131,49 1.008,55 588,38 1.172,50 1.551,03 717,01 921,59 1.153,34 920,22 19.586,86
TỔNG CỘNG Giá trị nhập khẩu (triệu USD) 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
1.044,43 2.286,08 5.013,81 526,52 1.576,79 372,98 2.823,13 208,64 1.399,93 221,36 135,22 15.608,89 27.324,74
1.095,74 2.427,00 6.097,20 486,04 1.713,65 588,45 3.164,15 321,87 1.689,39 265,63 142,30 17.991,42 31.708,25
1.058,21 2.708,85 6.262,82 669,35 1.470,46 686,91 3.227,80 225,78 1.868,31 250,21 145,64 18.574,34 34.461,25
1.330,83 2.978,40 7.219,88 441,38 1.629,67 550,22 3.960,85 448,67 1.425,96 232,55 222,94 20.441,35 37.483,19
1.127,24 2.549,69 5.651,91 430,87 1.547,73 472,88 3.322,91 213,80 1.316,69 212,43 135,09 16.981,24 32.660,40
1.216,09 2.829,11 7.348,74 521,78 1.859,11 457,41 3.890,01 341,89 1.474,43 227,09 137,75 20.303,41 38.256,98
1.303,98 3.199,61 7.651,62 411,55 1.753,39 735,08 3.963,65 466,92 1.457,68 223,64 123,18 21.290,30 40.206,43
1.179,94 3.024,39 8.133,59 407,97 1.530,10 712,02 4.359,34 566,50 1.543,52 306,36 146,13 21.909,86 41.496,72
TỔNG CỘNG TỔNG XNK Tỷ trọng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore
0,16 0,16 0,26 0,04 0,07
0,17 0,15 0,27 0,03 0,08
0,17 0,17 0,27 0,05 0,06
0,16 0,17 0,29 0,03 0,06
0,16 0,17 0,26 0,03 0,06
0,16 0,16 0,28 0,03 0,06
0,16 0,16 0,27 0,03 0,06
0,15 0,15 0,27 0,03 0,05
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2011
Q2-2011
Q3-2011
Q4-2011
Q1-2012
Q2-2012
Q3-2012
Q4-2012
6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
0,04 0,13 0,02 0,06 0,02 0,02
0,04 0,12 0,02 0,07 0,02 0,02
0,04 0,12 0,02 0,07 0,02 0,02
0,04 0,13 0,03 0,05 0,03 0,02
0,04 0,14 0,02 0,06 0,03 0,02
0,04 0,13 0,02 0,06 0,03 0,02
0,04 0,14 0,02 0,05 0,03 0,02
0,05 0,14 0,03 0,06 0,04 0,03
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
20.703,00 251,68 3.043,29 20.619,43 15.814,38 27.971,63 18,19 27.971,63 658,59 2.563,34 32.108,37
20.618,00 252,83 3.185,92 22.141,67 16.773,51 29.682,89 19,31 29.682,89 670,57 2.649,62 33.005,29
20.628,00 265,49 3.246,00 20.176,25 15.864,03 28.375,86 17,51 28.375,86 661,85 2.647,50 32.169,37
20.828,00 269,36 3.305,56 21.152,92 16.012,92 27.387,68 18,08 27.387,68 657,22 2.682,12 32.202,17
20.894 263,47 3.312,25 22.167,66 16.676,42 27.886,72 18,74 27.886,72 681,29 2.694,03 33.182,96
20.882 260,76 3.310,87 21.031,13 16.476,34 26.564,11 18,27 26.564,11 663,27 2.691,04 32.895,38
20.869 265,49 3.294,26 21.741,66 16.820,46 26.223,81 18,71 26.223,81 668,46 2.691,47 33.213,61
20.843 256,48 3.308,47 21.668,86 17.075,68 27.218,70 19,50 27.218,70 680,55 2.689,60 33.540,53
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
130,84 166,29 141,18 156,78 146,98 125,57 107,06 125,57 146,73 110,52 98,48
130,30 167,05 147,80 168,35 155,89 133,25 113,66 133,25 149,40 114,24 101,23
130,37 175,41 150,59 153,41 147,44 127,38 103,06 127,38 147,46 114,14 98,67
131,63 177,97 153,35 160,83 148,82 122,95 106,42 122,95 146,43 115,64 98,77
132,05 174,07 153,66 168,55 154,99 125,19 110,29 125,19 151,79 116,15 101,78
131,97 172,28 153,60 159,91 153,13 119,25 107,50 119,25 147,78 116,02 100,90
131,89 175,41 152,83 165,31 156,33 117,72 110,12 117,72 148,93 116,04 101,87
131,73 169,46 153,49 164,76 158,70 122,19 114,74 122,19 151,62 115,96 102,88
CPI (năm 2005= 100)
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản
113,5 99,2
115,5 99,4
116,0 99,4
115,8 99,2
116,7 99,5
117,7 99,6
117,9 99,0
118,0 99,0
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2011
Q2-2011
Q3-2011
Q4-2011
Q1-2012
Q2-2012
Q3-2012
Q4-2012
3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
121,1 118,5 118,2 109,6 119,3 109,0 119,2 115,8 117,6 189,9
121,2 119,6 118,5 110,3 120,3 110,2 120,3 117,8 119,4 198,1
122,2 120,3 120,4 110,7 121,6 110,2 120,2 117,0 120,1 201,3
122,4 120,3 121,5 111,1 121,8 110,9 120,1 119,8 121,3 203,4
125,7 120,4 123,9 111,9 123,0 111,6 123,2 121,9 121,7 220,2
124,7 121,0 124,7 112,3 123,2 112,5 123,4 122,7 122,7 215,1
124,5 122,7 125,4 112,9 123,5 112,4 123,7 120,6 123,0 212,6
125,0 122,9 126,4 113,3 123,9 112,6 124,0 124,3 124,5 217,6
Điều chỉnh CPI
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp 9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh 12 Việt Nam
115,46 99,20 119,88 119,82 118,41 110,37 120,02 109,99 121,26 116,46 118,91 188,46
117,50 99,40 119,96 120,93 118,73 111,08 121,03 111,20 122,47 118,41 120,73 196,61
118,01 99,40 120,96 121,64 120,63 111,48 122,33 111,20 122,31 117,62 121,44 199,79
117,80 99,20 121,20 121,64 121,79 111,88 122,54 111,91 122,25 120,43 122,65 201,88
118,72 99,50 124,40 121,74 124,19 112,69 123,74 112,61 125,38 122,53 123,05 218,53
119,74 99,60 123,40 122,35 124,97 113,09 123,94 113,52 125,55 123,39 124,06 213,50
119,94 99,00 123,26 124,06 125,69 113,70 124,25 113,42 125,89 121,28 124,37 211,02
120,04 99,00 123,71 124,27 126,65 114,10 124,65 113,62 126,19 124,99 125,88 215,94
Tỷ giá thực song phƣơng
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 Trung Quốc 4 Úc 5 Singapore 6 Đức 7 Hàn Quốc 8 Pháp
80,16 87,53 89,81 99,67 92,34 73,54 68,18 73,28
77,87 84,45 90,18 103,55 94,14 75,28 69,96 75,37
77,00 87,27 91,17 93,40 89,02 71,08 63,11 70,90
76,81 87,45 92,07 96,91 89,78 68,14 64,59 68,15
71,73 79,26 87,47 93,90 88,08 64,56 62,45 64,51
74,01 80,37 88,78 91,63 89,63 63,17 62,41 63,41
74,96 82,29 89,27 97,19 93,11 63,43 64,84 63,27
73,23 77,69 87,93 94,82 93,08 64,56 66,24 64,29
Á THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012) PHỤ LỤC : BẢNG TÍNH TỶ GIÁ THỰC ĐA PHƢƠNG THEO QUÝ (TỪ QUÝ 1/2005 ĐẾN QUÝ 4/2012)
Q1-2011
Q2-2011
Q3-2011
Q4-2011
Q1-2012
Q2-2012
Q3-2012
Q4-2012
9 Thái Lan 10 Hồng Kông 11 Anh
94,41 68,29 62,14
93,06 68,80 62,16
90,27 67,20 59,97
88,67 68,99 60,01
87,08 65,13 57,31
86,90 67,05 58,63
88,85 66,69 60,04
88,61 67,12 59,97
GDP
Trung Quốc
Singapore
1 Hoa Kỳ 2 Nhật Bản 3 4 Úc 5 6 Đức 7 Hàn Quốc Pháp 8 Thái Lan 9 Hồng Kông 10 Anh 11 Việt Nam 12
TỔNG CỘNG GDP bình quân GDP Việt Nam REER
119,3 106,3 279,9 133,6 175,8 112,2 151,0 112,8 155,8 159,2 117,2 187,8 1.623,18 171,19 187,79 83,67
118,0 105,2 266,7 134,3 170,7 111,0 150,4 111,9 153,9 153,5 116,1 190,1 1.591,68 167,27 190,12 83,64
118,3 108,2 260,9 135,9 159,8 111,7 147,8 111,6 154,6 153,1 116,4 207,5 1.578,36 164,18 207,50 82,21
119,0 107,8 259,6 137,6 160,4 111,8 150,1 110,8 135,1 155,9 116,0 210,0 1.564,20 166,03 209,95 82,14
123,2 109,8 302,5 139,6 153,2 113,6 155,4 113,2 156,4 160,2 117,9 196,7 1.645,03 176,18 196,71 77,40
121,3 109,3 286,9 139,2 179,8 112,3 153,9 112,0 160,7 154,8 116,1 199,2 1.646,40 176,78 199,24 78,80
122,0 108,6 280,2 140,4 170,7 112,6 150,1 111,7 159,4 155,4 116,6 218,0 1.627,65 172,02 217,98 79,75
121,4 108,1 280,2 142,2 162,2 112,1 152,3 110,5 161,0 160,3 116,0 221,4 1.626,13 172,47 221,37 78,34
Nguồn: OECD, APEC, NHNN, Tổng cục thống kê và tính toán của tác giá