TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 490 - THÁNG 5 - S 1 - 2020
237
lợi cho thể, chúng làm giảm quá trình hình
thành các mảng vữa động mạch. Thuốc
tác dụng điều chỉnh c rối loạn lipid hoàn hảo
cần phải làm tăng được nồng độ HDL-C cho
thể. Nhìn vào kết quả thực nghiệm chúng ta
thấy (biểu đồ 5), so với hình, nồng độ
HDL-C hai uống Sơn tra xu hướng tăng
nhiều hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt này chưa
ý nghĩa thống kê.
Như vậy, Sơn tra liều 10g/kg 20g/kg thể
trọng tác dụng làm hạn chế tăng TG, TC
LDL-C xu hướng làm tăng HDL-C trên chuột
cống trắng được gây rối loạn lipid máu theo
chế ngoại sinh. Tuy nhiên, Sơn tra chưa đưa
được các chỉ số lipid máu trở về mức bình
thường, nồng độ các chỉ slipid huyết thanh
hai lô uống Sơn tra cùng cholesterol còn cao hơn
khá nhiều so với lô chứng trắng (p<0,01). Tác
dụng của Sơn tra mức liều 20g/kg không đem lại
sự khác biệt so với mức liều 10g/kg.
V. KẾT LUẬN
Sơn tra tác dụng điều trị rối loạn lipid trên
mô hình ngoại sinh ở chuột:
- Sơn tra liều 10g/kg m hạn chế tăng
18,56% TG, 13,93% TC 14,09% LDL-C huyết
thanh chuột so với lô chứng.
- Không có sự khác biệt vế tác dụng giữa hai
mức liều Sơn tra 10g/kg và 20g/kg.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Tử Dương (1998), Hội chứng tăng lipid
máu, Bách khoa thư bệnh học tập 2, Trung tâm
biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, 289-294.
2. Hoàng Bảo Châu (1997), Trúng phong-Đàm ẩm,
Nội khoa y học cổ truyền, NXB Y học, tr. 21-41,
326-343.
3. Trovato.A, et al (1996), Effects of fruit juices of
Citrus cinensis and Citrus lemon on experimental
hypercholesterolemia in the rat, Phytomedicine Vol2.
PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THUỐC TRONG ĐƠN
ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ MỘT SỐ BỆNH MẠN TÍNH
TẠI MỘT BỆNH VIỆN TUYẾN TRUNG ƯƠNG
Đinh Thị Lan Anh*, Đồng Thị Xuân Phương*,
Nguyễn Sơn Nam*, Phạm Thị Thúy Vân*
TÓM TẮT61
Đặt vấn đề: Người bệnh điều trị ngoại trú với đặc
điểm nhiều bệnh mạn tính, cần phối hợp nhiều nhóm
thuốc, thiếu sự giám sát, hỗ trợ dùng thuốc của nhân
viên y tế, đối tượng nguy cao gặp các vấn đề
liên quan đến thuốc (Drug related problems DRPs).
Các vấn đề về hướng dẫn dùng thuốc trong đơn
thể nguyên nhân dẫn đến DRP trong tuân thủ.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích các
DRP tiềm tàng liên quan đến thuốc trong đơn kê ngoại
trú, tập trung vào nhóm DRP về liều dùng, cách dùng.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu tả cắt ngang, sử dụng bộ công cụ đã được
xây dựng để sàng lọc DRP trong đơn điều trị ngoại
trú một số bệnh mạn tính tại một bệnh viện tuyến
trung ương. Kết quả: Tỷ lệ lượt thuốc được kê đơn có
ít nhất 1 DRP liều dùng, cách dùng 20,7%. DRP
dạng bào chế (C2) gặp trong 2 nhóm thuốc điều trị
tăng huyết áp, đái tháo đường với tỷ lệ xuất hiện
10,5%. DRP lựa chọn liều (C3) gặp trong cả 3 nhóm
thuốc điều trị tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn
lipid với tỷ lệ sàng lọc 15,8%. Kết luận: Tỷ lệ DRP
*Đại học Dược Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Thị Thúy Vân
Email: vanptt@hup.edu.vn
Ngày nhận bài: 17.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 15.4.2020
Ngày duyệt bài: 21.4.2020
sàng lọc được liên quan đến liều dùng, cách dùng
trong đơn ngoại trú của 3 nhóm thuốc tăng huyết
áp, đái tháo đường rối loạn lipid máu tương đối
cao. Nghiên cứu gợi ý rằng cần có thêm các biện pháp
hỗ trợ đơn và chương trình vấn cho người bệnh
ngoại trú điều trị các bệnh mạn tính nhằm ngăn
ngừa các DRP này.
Từ khóa:
Các vấn đề liên quan đến thuốc, người
bệnh điều trị ngoại trú, bệnh mạn tính, dược lâm sàng.
SUMMARY
DRUG RELATED PROBLEMS IN
PRESCRIPTION FOR OUTPATIENTS WITH
CHRONIC DISEASES IN A CENTRAL HOSPITAL
Introduction: Elderly who are characterized by
multiple chronic diseases, requiring long-term
treatment, coordination of multiple drugs in treatment,
these are risk factors of drug-related problems (DRPs)
in the prescription. This study was conducted to
screen the potential drug related problems in
prescriptions for outpatients with chronic diseases.
Subjects and methods: A prospective, cross-section
study, using a developed tool for the detection and
classification of DRPs in the prescriptions for
outpatients with chronic diseases in a Central Hospital.
Results: The rate of the drug with at least 1 DRP was
20,7%. DRP drug form (C2) was found in 2 group of
drugs to treat hypertension and diabetes with the rate
of 10,5%. The rate of DRP dose selection (C3) was
15,8% and occurred in 3 drug groups (hypertension,
vietnam medical journal n01 - MAY - 2020
238
diabetes and dyslipidemia). Conclusion: The DRP
rates in the prescriptions for outpatient with
hypertension, diabetes mellitus, and dyslipidemia at a
Central Hospital were quite high. The study suggested
that additional measures such as consultation and
counselling propram need to be implemented to
prevent these DRPs.
Key words:
Drug related promblems, outpatients,
chronic diseases, clinical pharmacy.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề liên quan đến thuốc (Drug Related
Problems DRPs) những tình huống liên quan
đến điều trị bằng thuốc thể gây hại hoặc tiềm
ẩn mối nguy hại cho sức khỏe người bệnh. Phát
hiện, xử trí dự phòng DRPs một trong
những nhiệm vụ quan trọng của thực hành c
lâm sàng [1]. Người bệnh ngoại t với những
đặc điểm như tuổi trung bình cao, nhiều bệnh lý
mạn tính đối tượng tồn tại nhiều nguy xảy
ra DRP.
Tại bệnh viện tuyến trung ương nơi tiến hành
nghiên cứu, bộ phận cấp phát thuốc ngoại trú
ngoài phát hiện các vấn đề sai sót liên quan đến
thủ tục hành chính thanh toán bảo hiểm y tế,
đã từng bước phát hiện được DRP về tương tác
thuốc chống chỉ định nhưng chưa điều kiện
đánh giá cụ thể về DRP liên quan đến liều dùng,
cách dùng thuốc trong đơn kê. Tại Việt Nam, đã
một số nghiên cứu về DRP nhưng chủ yếu
được thực hiện với đối tượng người bệnh nội trú
hoặc DRP trên một bệnh nhất định, còn chưa
nghiên cứu về DRP hướng dẫn s dụng thuốc
trên người bệnh ngoại trú. Xut phát t nhu cầu
thực tiễn trên, nghiên cứu này được thực hiện
nhằm mục đích phân tích đặc điểm của một số
loại DRP trong hướng dẫn sử dụng thuốc thường
gặp trong đơn ngoại trú, tập trung vào đơn
điều trị các bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường
và rối loạn chuyển hóa lipid.
Kết quả nghiên cứu bước đầu cung cấp một
số đặc điểm về c vấn đề liên quan đến hướng
dẫn sử dụng thuốc trên người bệnh ngoại trú,
cũng như là cơ sở để xây dựng các chương trình
tư vấn sử dụng thuốc trong thời gian tới.
II. ĐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
Đối ợng nghiên cứu. Đơn thuốc và phiếu
khám bệnh của người bệnh có ít nhất 1 trong số 3
bệnh : tăng huyết áp, đái tháo đường và rối loạn
chuyển hóa lipid, tại bộ phận km ngoại trú của
bệnh viện trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng
12 năm 2019 đến ngày 31 tháng 12 năm 2019.
Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu
tả cắt ngang, thu thập thông tin trên đơn
phiếu khám bệnh, dựa trên bộ công cụ được xây
dựng hthống phân loại DRP tham chiếu làm
sở xác định phân loại DRP hướng dẫn sử
dụng thuốc trong đơn kê. Với các thông tin
được từ đơn phiếu khám bệnh, nghiên cứu
xác định s dụng phương pháp đánh giá đơn
thuốc cấp độ 1 (Simple Medication Review) [2]
hệ thống phân loại DRP của Hiệp hội chăm
sóc Dược châu Âu (Pharmaceutical Care Network
Europe PCNE) [2]. Trong nội dung bài báo này,
chúng tôi tập trung phân tích việc sàng lọc các
DRP về: (1) dạng bào chế (2) lựa chọn liều
(Bảng 1). Đánh giá đơn thuốc cấp độ 1 được
hiểu đánh giá thuốc bản, cấp độ đánh
giá đầu tiên, dựa trên sở tiền sử dùng thuốc
sẵn. Để xây dựng bộ công cụ sàng lọc, nhóm
tập hợp các thông tin về hướng dẫn sử dụng
thuốc từ các nguồn: tờ thông tin sản phẩm thuốc
đang lưu hành tại viện và trên eMC, uptodate
(tra cứu chỉ định off- label). Nhóm nghiên cứu
ghi nhận lại sự khác biệt thông tin giữa các
nguồn tài liệu tham khảo, thảo luận thống nhất
đưa ra thông tin chung.
Bảng 1. Phân loại DRP về liều dùng
cách dùng thuốc được sử dụng trong
nghiên cứu, tham khảo phân loại của PCNE
Phân
nhóm
DRP
Nguyên nhân
Dạng bào
chế (C2)
C2.1
Dạng bào chế không phù
hợp
Lựa chọn
liều (C3)
C3.1
Liều quá thấp
C3.2
Liều quá cao
C3.3
Chế độ liều dùng không đ
(khoảng cách liều quá dài)
C3.4
Chế độ liều dùng quá cao
(khoảng cách liều quá ngắn)
C3.5
Hướng dẫn chế độ liều thuốc
sai, không rõ ràng hoặc
không hướng dẫn
Xử số liệu. Số liệu nghiên cứu được xử
bằng chương trình phần mềm SPSS 18.0. Các
biến số định tính được tả bằng tần số tỉ lệ
phần trăm (%). c biến sđịnh lượng được mô
tả bằng giá trị trung bình độ lệch chuẩn
(Standard deviation SD). Sử dụng kiểm định so
sánh các tỉ lệ bằng test Khi bình phương, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
*Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong thi gian nghiên cứu, đã thu thập được
thông tin đơn của 875 người bnh ngoi trú,
trong đó nam giới chiếm t l 65,6%, nhóm tui
60 chiếm t l 91,4%. 73,4% ngưi bnh
đưc chẩn đoán tăng huyết áp, đái tháo đường
chiếm 49,1%, ri lon chuyn hóa lipid
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 490 - THÁNG 5 - S 1 - 2020
239
53,5%. T l người bnh mắc ≥ 2 bệnh mn tính
là 90,5%; 53,8% ngưi bệnh được kê 1 đơn điều
tr ngoại trú 46,2% được nhiều hơn 1 đơn
thuc; s thuốc trung bình/đơn 3,5 ± 1,71
(Bng 2).
Bảng 2. Một số đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
Số lượng
Tỷ lệ %
Giới tính (n=875)
Nam giới
574
65,6
Nữ giới
301
34,4
Tuổi (n=875)
Tuổi <60
75
8,6
Nhóm tuổi từ 60 – 70
547
62,5
Trên 70 tuổi
253
28,9
Tuổi trung bình: 64,6 ± 10,9
Đặc điểm bệnh lý (n=875)
Tăng huyết áp
642
73,4
Đái tháo đường
430
49,1
Rối loạn chuyển hóa
lipid
468
53,5
≥ 2 bệnh mạn tính
792
90,5
Số lượng đơn thuốc được kê (n=875)
1 đơn thuốc
471
53,8
≥ 1 đơn thuốc
404
46,2
Số thuốc trong đơn (n=1355)
1 2 thuốc
416
30,7
3 5 thuốc
541
39,9
> 5 thuốc
398
29,4
Số thuốc trung bình/đơn: 3,5 ± 1,7
*Đặc điểm DRP trong kê đơn ngoại trú
Trong tổng số 4800 lượt thuốc được kê, tỷ lệ
lượt thuốc không phát hiện DRP về liều dùng
cách dùng 79,3%, 1 DRP 17,1%, 2
DRP 1,9%, c thuốc có từ 3 DRP trở lên
chiếm tỷ lệ thấp (Biểu đồ 1). Tổng số DRP mã C2
và C3 trong kê đơn ngoại trú là 1257.
Biểu đồ 1. Số lượng DRP trên lượt thuốc
được kê
Dựa trên hệ thống phân loại đã xây dựng, khi
phân tích trên 1257 DRP mã C2 và C3 được phát
hiện, kết quả cho thấy những DRP chiếm tỷ
lệ cao nhất bao gồm C3.5 (14,4%), C2.1
10,5%, các DRP còn lại chiếm t lệ thấp
(biểu đồ 2), skhác biệt về tỷ lệ các DRP có
ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Biểu đồ 2. Phân loại DRP về liều dùng -
cách dùng
*Đặc điểm DRP trên từng nhóm thuốc
Phân tích tỷ lệ xuất hiện DRP trên từng
nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp so với tổng s
lượt thuốc đã đơn, kết quả được tả trong
biểu đồ 2. Trong nhóm ức chế men chuyển,
hướng dẫn sử dụng thuốc không phù hợp (C3.5)
chiếm tỷ lệ cao nhất 6,9% và liều quá cao (C3.2)
chiếm 1,5%. Trong nhóm ức chế thụ thể
angiotensin II chỉ ghi nhận DRP hướng dẫn sử
dụng thuốc không p hợp (C3.5) với tỷ lệ
1,7%. Trong nhóm chẹn kênh canxi: liều quá
cao (C3.2) chiếm tỷ lệ 1,5%, hướng dẫn sử dụng
thuốc không phù hợp xuất hiện rất thấp (C3.5) là
0,5%. Trong nhóm chẹn beta giao cảm chỉ gặp
không hướng dẫn sử dụng dạng o chế phù
hợp (C2.1) với tỷ lệ 7,1%.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ mã DRP trên tổng số lượt
kê đơn thuốc THA
Tỷ lệ xuất hiện mã DRP trên từng nhóm thuốc
điều trị đái tháo đường so với tổng số lượt thuốc
đã kê đơn được biểu diễn trong biểu đồ 3. Trong
nhóm thuốc biguanid: t lệ DRP không hướng
dẫn sử dụng dạng bào chế phù hợp (C2.1) cao
nhất 14,4% không hướng dẫn sử dụng
vietnam medical journal n01 - MAY - 2020
240
thuốc phù hợp (C3.5) 10,3%. Trong nhóm
thuốc sulfonylure, tỷ lệ DRP không hướng dẫn s
dụng dạng bào chế phù hợp (C2.1) 10,8%,
không hướng dẫn sử dụng thuốc phù hợp (C3.5)
2,9%. Nhóm insulin, chỉ gặp DRP không
hướng dẫn sử dụng thuốc phù hợp (C3.5) với tỷ
lệ 3,8%.
Biểu đồ 0. Tỷ lệ mã DRP trên tổng số lượt
kê đơn thuốc ĐTĐ
Trong c thuốc điều trị rối loạn lipid, chỉ gặp
DRP hướng dẫn sử dụng thuốc không phù hợp
(C3.5) trên 2 nhóm thuốc nhóm c chế HMG
CoA reductase nhóm fibrat. với tlệ lần lượt
là 23,4% và 6,5%.
Biểu đồ 4. Tỷ lệ DRP trên tổng số lượt kê
đơn thuốc điều trị RLLP
IV. BÀN LUẬN
Xuất phát từ thực tế dược sĩ cấp phát thuốc tại
bệnh viện cần phải có phương pháp sàng lọc
nhanh nhằm giảm thiu DRP trong đơn nên
nhóm nghiên cứu nhận thấy việc triển khai
phương pháp đánh giá thuốc cấp 1 phù hợp.
Bằng phương pháp này, nhóm nghiên cứu th
xác định được tương đối đầy đủ các DRP dạng
bào chế (C2) một sDRP trong lựa chọn liều
(C3). Do thông tin còn hạn chế trong đơn
phiếu khám bệnh, việc xác định các DRP lựa chọn
thuốc (mã C1) còn nhiu khó khăn và do vậy, kết
qu thu được trong nghiên cứu mang tính chất
sàng lọc bước đầu. Do vậy trong báo cáo này,
chúng tôi tập trung phân tích sâu các DRP về liều
dùng cách dùng thuốc trong đơn kê.
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu, tổng s
875 người bệnh đã được thu thập thông tin
đơn, trong đó nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên
chiếm 91,4%, tuổi trung bình của mẫu nghiên
cứu 64,6 ± 10,9. Đ tuổi của người bệnh
trong nghiên cứu phản ánh tình trạng thực tế tại
các đơn vị khám điều trị ngoại trú, với đặc
điểm đa số người bệnh tới khám lấy thuốc
định nhóm người cao tuổi (trên 60) thường
mắc các bệnh mạn tính, cần điều trị lâu dài. Kết
quả này tương t như nghiên cứu của Zaman
Huri và cộng sự với tuổi trung nh của người
bệnh ngoại trú 62,3 ± 12,7, tỷ lệ dưới 60 tuổi
15% [3]. Tỷ lệ người bệnh đa bệnh
(được định nghĩa khi mắc t2 bệnh trở lên) biến
thiên trong nhiều nghiên cứu, dao động từ 20
30% trên toàn bộ đối tượng nghiên cứu, nhưng
tỷ lệ này n tới từ 55 89% khi đối tượng
nghiên cứu người cao tuổi [3]. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ người bệnh mắc từ 2
bệnh trở lên chiếm 90,5%. Kết quả này tương tự
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hương
(2016), với 89,7% người bệnh được chẩn đoán
từ 2 bệnh trở lên, số bệnh trung bình 3,1 ±
1,3 [4]. Đa bệnh lý được xác định có liên quan ý
nghĩa với tỷ lệ tử vong cao, giảm chất lượng
cuộc sống của người bệnh, gia tăng nh nặng
về chăm sóc y tế yếu tố nguy xuất hiện
DRP nói chung và DRP trong kê đơn nói riêng.
Kết quả nghiên cứu đặc điểm đơn ngoại
trú cho thấy tổng số đơn thuốc được cho
người bệnh 1355 đơn, trong đó 46,2% số
người bệnh được nhiều hơn 1 đơn thuốc, số
thuốc trung bình trong đơn 3,5 ± 1,7. Kết quả
này tương đương với nghiên cứu trên đối tượng
người bệnh đái tháo đường tăng huyết áp
được điều trị ngoại trú của Zaman Huri cộng
sự với 76,5% số người bệnh được tối thiểu 5
loại thuốc/ngày, số lượng thuốc được dao
động trong khoảng từ 3 cho tới 20 thuốc, số
thuốc trung nh cho mỗi người bệnh là 6,9 ± 2,8
[5]. Sử dụng nhiều thuốc đồng nghĩa đối mặt với
nguy bất lợi cho sức khỏe, nguy xuất hiện
DRP cao n. Nghiên cứu của Al-Taani G. M.
cộng s tn 1494 người bệnh ngoại trú, trong đó
81,2% ít nhất 1 DRP cho thấy s thuốc trong
đơn yếu tố nguy cơ độc lập của DRP [6].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ng
lọc DRP hướng dẫn sử dụng thuốc trong đơn
26,2%, kết quả này thấp hơn so với nghiên
cứu của các tác giả Paulino (63,7%) Franklin
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 490 - THÁNG 5 - S 1 - 2020
241
(70%) [7, 8], nguyên nhân thể do trong 2
nghiên cứu trên, tác giả ghi nhận tất cả DRP trên
các giai đoạn từ đơn cho tới cấp phát sử
dụng thuốc, còn nghiên cứu của chúng tôi chỉ
phân tích DRP trong giai đoạn đơn ngoại trú.
Các tác giả còn kết luận DRP trong đơn ngoại
trú cao hơn thể do điều kiện làm việc căng
thẳng của nhân viên y tế, lượng công việc nhiều,
số người bệnh phải khám trung bình trên ngày
cao không đủ thời gian cần thiết để trao
đổi với người bệnh. Ngoài ra thì số lượng đơn
thuốc càng nhiều quy trình đơn phức tạp
(người bệnh phải qua nhiều phòng khám) thì
nguy cơ xảy ra DRP càng cao.
DRP dạng bào chế gặp trong các thuốc điều
trị tăng huyết áp với tỷ lệ 7,1% đái tháo
đường 25,2%, không gặp trong nhóm thuốc điều
trị rối loạn lipid (p<0,05). Trong quá trình sàng
lọc DRP dạng bào chế (C2) nhóm nghiên cứu
nhận thấy DRP này hay gặp trong hoạt chất
metoprolol với biệt dược dạng giải phóng chậm
(Betaloc Zok) điều trị ng huyết áp trong
nhóm biguanid, nhóm sulfonylure điều trị đái
tháo đường. Tại địa điểm nghiên cứu, những
nhóm thuốc trên được cung cấp với dạng viên
giải phóng kiểm soát, thuộc danh mục thuốc
không được nhai, bẻ nghiền. Tuy nhiên, trong
đơn không hướng dẫn cho người bệnh,
nhóm nghiên cứu sàng lọc đây DRP dạng bào
chế, đồng thời đây cũng một trong những
nguyên nhân làm tăng tỷ lệ DRP trong tuân thủ
của người bệnh. Mặc chưa nhiều nghiên
cứu phân tích riêng về DRP hướng dẫn dùng
thuốc trong kê đơn ngoại trú nhưng cho đến thời
điểm nghiên cứu này được tiến hành, đã
nhiều nghiên cứu/báo cáo về DRP trên người
bệnh đái tháo đường. c nghiên cứu cũng chỉ
ra tỷ lệ những DRP thường gặp bao gồm: tương
tác thuốc thuốc (18,0%), không được hướng
dẫn đầy đvề thuốc (14,3%), chế độ liều không
phù hợp (23%) [3].
Khác với DRP dạng bào chế (chỉ xuất hiện 2
nhóm thuốc), DRP lựa chọn liều được ghi nhận
trong c3 nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp, rối
loạn lipid máu và đái tháo đường với tỷ lệ lần lượt
12,1%, 17,0% 26,9% (so với tổng số lượt
kê). Phân tích trong nhóm thuốc điều trị tăng
huyết áp, chghi nhận DRP hướng dẫn sử dụng
không phù hợp (C3.5) với tỷ lệ 9,1% liều quá
cao (C3.2) 3,0%, không ghi nhận các mã DRP lựa
chọn liều còn lại. Trong các thuốc điều trị đái tháo
đường rối loạn lipid máu cũng chỉ xuất hiện
DRP hướng dẫn sử dụng không phù hợp (C3.5).
Đối với các thuốc điều trị đái tháo đường, theo
các khuyến cáo, nhóm biguanid (metformin) nên
được uống cùng bữa ăn đgiảm kích ứng đường
tiêu a, tuy nhiên hầu hết các đơn chỉ hướng
dẫn uống mỗi lần 1 viên. Nhóm sulfonylure cũng
được khuyến cáo dùng cùng bữa ăn, nhưng đa số
các đơn đu hướng dẫn người bệnh uống
trước ăn sáng. Đối với những DRP liên quan đến
thời điểm uống có phụ thuộc vào bữa ăn, nhóm
nghiên cứu đề xuất các bác sỹ nên có hướng dẫn
trong đơn. Những thuốc cần uống xa bữa ăn
thể ớng dẫn đơn giản là uống c đói”, những
thuốc cần uống cùng bữa ăn hoặc ngay sau ăn có
thể ớng dẫn người bệnh “uống lúc no”. Đối với
nhóm thuốc điều trị rối loạn lipid máu, DRP
C3.5 có liên quan tới việc hướng dẫn sai thời điểm
dùng thuốc, trong nhóm ức chế HMG CoA
reductase (với 3 hoạt chất pravastatin,
simvastatin fluvastatin) người bệnh được
ớng dẫn dùng buổi sáng hoặc hướng dẫn uống
sau ăn. Theo khuyến cáo hướng dẫn sử dụng
của sản phẩm, các thuốc này cần được uống o
buổi tối. Để phòng tránh DRP này nhóm nghiên
cứu đề xuất hai giải pháp. Giải pháp thnhất
khi thuốc của người bệnh có thể uống cùng 1 thời
điểm, các bác sỹ thể kê atorvastatin. Điều này
vừa đảm bảo hiệu quả điều trị đồng thời giảm số
lần uống thuốc trong ngày, tăng khả năng tuân
thủ dùng thuốc của người bệnh. Giải pháp thứ hai
khi người bệnh phải uống thuốc những thời
điểm khác nhau trong ngày thì tất cả các thuốc
thuộc nhóm ức chế HMG CoA reductase sẽ đều
được hướng dẫn “uống vào buổi tối”. Đối vi
nhóm fibrat hoạt chất được phát hiện có DRP là
gemfibrozil, theo khuyến cáo cần uống trước ăn
(tránh hiện tượng giảm hấp thu thuốc) nhưng đơn
hướng dẫn chung cho người bệnh uống tối
hoặc uống 1 viên/ngày. Để ngăn ngừa DRP này
chúng tôi đề xuất biện pháp giống như các thuốc
thời điểm dùng phụ thuộc vào bữa ăn ở trên.
Mã DRP liều quá cao được ghi nhận các thuốc
điều trị tăng huyết áp với 2 nhóm thuốc chẹn
kênh canxi (1,5%) ức chế men chuyển
(1,5%). Với việc chỉ ghi nhận DRP liều q
cao (C3.2) trong 2 nhóm thuốc trên, nhóm
nghiên cứu tiến nh phân tích tìm nguyên
nhân. Kết quả phát hiện mã DRP C3.2 được phát
hiện trên biệt dược Beatil 4/10mg (viên phối hợp
perindopril tert butylamine /amlodipin). Theo
thông tin tờ hướng dẫn sử dụng đi kèm sản
phẩm, Beatil 4/10mg liều khuyến o 1
viên/24 giờ, tuy nhiên đơn 1 viên/lần 2
lần/24 giờ. Nếu cần phải hiệu chỉnh liều, c
thể sdụng chế phẩm đơn thành phần thay
vì dùng viên phối hợp 2 lần/24h.