BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN TRẦN THỊNH PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH YYẾẾUU TTỐỐ TTÁÁCC ĐĐỘỘNNGG ĐĐẾẾNN LLỢỢII NNHHUUẬẬNN CCỦỦAA CCÁÁCC NNGGÂÂNN HHÀÀNNGG NNIIÊÊMM YYẾẾTT TTRRÊÊNN TTHHỊỊ TTRRƯƯỜỜNNGG CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN VVIIỆỆTT NNAAMM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN TRẦN THỊNH PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH YYẾẾUU TTỐỐ TTÁÁCC ĐĐỘỘNNGG ĐĐẾẾNN LLỢỢII NNHHUUẬẬNN CCỦỦAA CCÁÁCC NNGGÂÂNN HHÀÀNNGG NNIIÊÊMM YYẾẾTT TTRRÊÊNN TTHHỊỊ TTRRƯƯỜỜNNGG CCHHỨỨNNGG KKHHOOÁÁNN VVIIỆỆTT NNAAMM

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ NGÀNH: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRƢƠNG QUANG THÔNG

LỜI CAM ĐOAN

---0O0---

Để thực hiện luận văn “Phân tích yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân

hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, tôi đã tự mình nghiên cứu,

tìm hiểu vấn đề, vận dụng kiến thức đã học và trao đổi với giảng viên hướng dẫn,

đồng nghiệp, bạn bè…

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và

kết quả trong luận văn này là trung thực.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 7 năm 2013 Người thực hiện luận văn

NGUYỄN TRẦN THỊNH

LỜI CẢM ƠN

---0O0---

Để hoàn thành chương trình Cao học Tài chính ngân hàng và luận văn này,

tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến:

Quý Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế TP.HCM đã hết lòng tận tụy, truyền

đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian tôi học tại Trường, đặc biệt là Phó

giáo sư, Tiến sỹ Trương Quang Thông – Giảng viên Bộ môn Ngân hàng Quốc tế,

Khoa Tài chính Ngân hàng đã tận tình hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa

học và nội dung đề tài.

Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình và các bạn học viên cao học Khóa

20, lớp đêm 11 phần đại cương và lớp Tài chính Ngân hàng đêm 6 đã cùng tôi chia

sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã hết sức cố gắng để hoàn thiện luận văn,

trao đổi và tiếp thu những ý kiến đóng góp của Quý Thầy, Cô và bạn bè, tham khảo

nhiều tài liệu, song không tránh khỏi có những sai sót. Rất mong nhận được những

thông tin góp ý của Quý Thầy, Cô và bạn đọc.

Xin chân thành cảm ơn.

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT......................................................................... 5

1.1 Khái niệm về NHTM ....................................................................................... 5

1.1.1 Bản chất của NHTM ..................................................................................... 5

1.1.2 Vai trò, chức năng của NHTM .................................................................... 5

1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng ................................................................ 6

1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán ............................................................ 7

1.1.2.3 Chức năng tạo tiền ..................................................................................... 8

1.2 Khái niệm về lợi nhuận ................................................................................... 9

1.2.1 Khái niệm chung ........................................................................................... 9

1.2.2 Khái niệm về lợi nhuận của NHTM .......................................................... 10

1.3 Điều kiện niêm yết của các NHTM trên sàn giao dịch chứng khoán Việt

Nam ....................................................................................................................... 10

1.4 Những yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thƣơng mại ........... 11

1.4.1 Yếu tố nội tại của ngân hàng .................................................................. 11

1.4.1.1 Rủi ro tín dụng .................................................................................. 11

1.4.1.2 Tính thanh khoản .............................................................................. 12

1.4.1.3 Hiệu quả quản lý ............................................................................... 13

1.4.1.4 Quy mô ngân hàng ............................................................................ 13

1.4.1.5 Tỷ lệ vốn ............................................................................................. 14

1.4.2 Yếu tố kinh tế vĩ mô ................................................................................ 15

1.4.2.1 Tăng trƣởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ................................. 15

1.4.2.2 Tốc độ lạm phát ................................................................................. 16

1.4.3 Các yếu tố khác ........................................................................................... 17

1.4.3.1 Hình thức sở hữu ngân hàng .................................................................. 17

1.4.3.2 Tính tập trung của thị trƣờng trong ngành ngân hàng ....................... 18

1.5 Mô hình nghiên cứu đề nghị ......................................................................... 19

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 20

CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................. 21

2.1 Đối tƣợng nghiên cứu và nguồn dữ liệu ....................................................... 21

2.2 Lƣợng hóa các biến ........................................................................................ 22

2.2.1 Biến phụ thuộc ......................................................................................... 22

2.2.2 Biến độc lập .............................................................................................. 23

2.2.2.1 Nhóm biến về yếu tố nội tại của ngân hàng .................................... 23

2.2.2.2 Nhóm biến về yếu tố kinh tế vĩ mô .................................................. 26

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 29

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................. 30

3.1 Phân tích dữ liệu ............................................................................................ 30

3.2 Kết quả thực nghiệm ..................................................................................... 31

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 33

CHƢƠNG 4: KIẾN NGHỊ DỰA TRÊN KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ............. 34

4.1 Về tính thanh khoản ...................................................................................... 34

4.2 Về quy mô ngân hàng .................................................................................... 36

4.3 Về rủi ro tín dụng .......................................................................................... 36

4.4 Về tỷ lệ vốn ..................................................................................................... 39

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ........................................................................................ 39

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 42

PHỤ LỤC 1: SỐ LIỆU THU THẬP CỦA CÁC NHTM NIÊM YẾT TRÊN

THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM 2006 – 2011

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH LIKELIHOOD TEST TRONG PHẦN

MỀM EVIEWS

PHỤ LỤC 3: CÁC KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TRONG PHẦN MỀM EVIEWS

PHỤ LỤC 4: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

: Ngân hàng thương mại 1. NHTM

: Ngân hàng Trung ương 2. NHTW

: Ngân hàng Nhà nước 3. NHNN

: Tỷ suất sinh lợi trên tài sản 4. ROA

5. ROE

: Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỀ TÀI

Trang

Bảng 2.1: Tình hình lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết cuối năm 2011 ............ 13

Bảng 3.1: Tóm tắt thống kê mô tả của các biến lựa chọn ......................................... 22

Bảng 3.2: Định nghĩa, kí hiệu và kỳ vọng tác động của các biến độc lập đối với biến

phụ thuộc ................................................................................................. 29

Bảng 4.1: Ma trận tương quan của các biến độc lập trong mô hình ......................... 30

Bảng 4.2: Kiểm định Likelihood Test ....................................................................... 30

Bảng 4.3: Kết quả hồi quy......................................................................................... 33

TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định các yếu tố tác động đối với

lợi nhuận của nhóm ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các

yếu tố này được phân ra làm 03 nhóm chính, đó là: yếu tố nội tại ngân hàng, yếu tố

ngành và yếu tố vĩ mô. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tập trung chủ yếu

đó là xem xét tác động của nhóm yếu tố nội tại ngân hàng và nhóm yếu tố vĩ mô đối

với lợi nhuận. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để chạy dữ liệu bảng

gồm 09 ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn

từ 2006 – 2011.

Kết quả cho thấy: tính thanh khoản và rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực lên

lợi nhuận, trong khi đó, quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn có mối quan hệ đồng biến

với lợi nhuận. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng GDP cũng là một trong những yếu tố

ảnh hưởng đến lợi nhuận. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả

quản lý và tốc độ tăng trưởng lạm phát không thật sự ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân

hàng Việt Nam.

1

LỜI MỞ ĐẦU

 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu

Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5,03%, thấp nhất

trong một thập kỷ qua. Đây là hệ quả của việc ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát,

cụ thể về chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước thể hiện tính kiên định trong kiểm

soát lạm phát ngay từ đầu năm 2011 qua Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 với

tăng trưởng tín dụng dưới 20%, tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15% -

16%; tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa 22% và

tối đa 16% vào 31/12/2011 và tiếp tục kiên định chính sách đó cho đến nửa đầu năm

2012 trước khi giảm lãi suất điều hành lần thứ nhất vào ngày 13/03/2012. Trong bối

cảnh khó khăn như vậy, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng

rất nhiều, cụ thể hàng loạt ngân hàng đã bị suy giảm lợi nhuận, cũng như không đạt

được lợi nhuận mục tiêu được đề ra từ đầu năm. Tuy nhiên, yếu tố về vĩ mô cũng

chỉ là một trong những yếu tố có thể tác động đến lợi nhuận ngân hàng, bên cạnh

đó, nhóm yếu tố nội tại ngân hàng được xem là những yếu tố quan trọng góp phần

vào việc cải thiện lợi nhuận và tình hình hoạt động của ngân hàng.

Nói khác hơn, lợi nhuận luôn là yếu tố sống còn của một doanh nghiệp, trong

lĩnh vực ngân hàng, điều này cũng không là ngoại lệ. Đứng trên góc độ vi mô và vĩ

mô, lợi nhuận luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát

triển của ngân hàng. Ở cấp độ vi mô, lợi nhuận chính là điều kiện thiết yếu và là

nguồn vốn rẻ nhất của một tổ chức tín dụng. Lợi nhuận ngân hàng không chỉ là kết

quả của hoạt động kinh doanh mà còn là tính thiết yếu cho hoạt động thành công

của ngân hàng trong giai đoạn cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tín dụng. Vì vậy,

mục tiêu cơ bản của các nhà quản trị ngân hàng là phải đạt được lợi nhuận như là

tính tất yếu của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Ở cấp độ vĩ mô, một hệ thống

ngân hàng tốt và làm ăn có hiệu quả có khả năng chống chọi tốt với những cú sốc

tiêu cực và đóng góp tích cực vào sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia.

2

Chính vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác động đến lợi nhuận

của ngân hàng nhằm đưa ra các giải pháp và kiến nghị giúp cho các ngân hàng niêm

yết nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung có thể nâng cao lợi nhuận

trong hoạt động kinh doanh là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết và thực tiễn hiện nay.

 Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu thực hiện xây dựng mô hình đo lường sự tác động của 02 nhóm

yếu tố: các yếu tố đặc thù của ngân hàng (yếu tố nội tại) và yếu tố thuộc về kinh tế

vĩ mô (yếu tố bên ngoài) đến lợi nhuận của ngân hàng, đề tài đặt ra các mục tiêu cụ

thể như sau:

- Xác định các nhân tố tác động đến lợi nhuận ngân hàng dựa trên các nghiên

cứu trước đây tại Việt Nam và thế giới.

- Đo lường mức độ tác động của các yếu tố đến lợi nhuận của nhóm ngân

hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng quan tâm đến việc đưa ra một quan điểm nhằm

giúp cho các nhà quản trị ngân hàng có thể tìm ra giải pháp, cũng như đề ra chiến

lược kinh doanh hiệu quả nhất tùy vào khả năng nội tại và diễn biến của nền kinh tế.

Để đạt được các mục tiêu này, nghiên cứu cần trả lời các câu hỏi sau đây:

1. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng?

2. Thang đo nào để đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến lợi nhuận

ngân hàng?

 Phƣơng pháp, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện thông qua 02 giai đoạn chính: (1) nghiên cứu sơ

bộ được thực hiện thông qua việc thu thập các nghiên cứu trước đây liên quan đến

đề tài nghiên cứu, từ đó xác định cơ sở lý luận, các yếu tố tác động đến lợi nhuận

ngân hàng, sau đó, tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu dựa vào các yếu tố đã

xác định được; (2) thu thập số liệu thông qua các báo cáo tài chính được công bố

3

của nhóm ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tiếp theo, sử

dụng phần mềm thống kê để chạy mô hình nhằm đo lường mức độ tác động của các

yếu tố đến lợi nhuận ngân hàng.

Đối tượng nghiên cứu chính là các yếu tố tác động đến lợi nhuận ngân hàng,

cụ thể ở đây là nhóm ngân hàng được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam.

Do hạn chế về việc thu thập số liệu đối với toàn hệ thống ngân hàng và bên

cạnh đó, theo số liệu thu thập đến cuối năm 2011, nhóm ngân hàng niêm yết đã

chiếm phần lớn thị phần trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, cụ thể: 44% đối với

thị phần dư nợ tín dụng và 74,8% đối với thị phần huy động, vì vậy, phạm vi nghiên

cứu của đề tài chỉ là nhóm ngân hàng hiện đang được niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam. Mặt khác, từ tháng 8 năm 2012, ngân hàng ngân hàng Nhà

Hà Nội (Habubank) đã chính thức sáp nhập vào ngân hàng ngân hàng Sài Gòn - Hà

Nội (SHB), do đó, để đảm bảo tính thống nhất về mặt thời gian của các mẫu khảo

sát, luận văn chỉ thu thập số liệu từ báo cáo tài chính (được công bố chính thức) của

09 ngân hàng niêm yết, bao gồm: ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), ngân

hàng Công thương Việt Nam (CTG), ngân hàng Sài Gòn Thương tín (STB), ngân

hàng Á Châu (ACB) và ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), ngân hàng Xuất nhập

khẩu Việt Nam (EIB), ngân hàng Quân đội (MBB), ngân hàng Nam Việt (NVB),

ngân hàng Nhà Hà Nội (HBB), trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2011.

 Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động như thời gian vừa qua, lợi

nhuận của ngân hàng đã suy giảm rất nhiều, một phần do tác động từ sự suy thoái

chung của nền kinh tế, nhưng phần còn lại vẫn là do sự điều hành của chính các

ngân hàng. Có quá nhiều yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng.

Vì vậy, nghiên cứu sẽ là một sự xác định rõ ràng và đáng tin cậy nhằm chỉ ra

đâu là yếu tố tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng, để từ đó, các nhà

4

điều hành chính sách, các chuyên gia kinh tế và trên hết là các nhà quản trị tại các

ngân hàng có thể hoạch định những chiến lược kinh doanh, cũng như các giải pháp

nhằm tháo gỡ khó khăn và nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.

 Kết cấu của báo cáo nghiên cứu

- Chương 1: Cơ sở lý thuyết

- Chương 2: Thiết kế nghiên cứu

- Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu

- Chương 4: Kiến nghị dựa trên kết quả thực nghiệm

5

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1 Khái niệm về NHTM

1.1.1 Bản chất của NHTM

Khái niệm chung về ngân hàng đó là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh

về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo

lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Tuy nhiên,

theo luật của các tổ chức tín dụng tại Anh thì NHTM là tổ chức tài chính trực tiếp

giao dịch với công chúng để huy động các khoản tiền gửi, cho vay và cung cấp các

dịch vụ tài chính khác cho công chúng. Tại Mỹ, cụ thể là theo FED (Federal

Reserve System – Cục dự trữ liên bang) thì NHTM là một tổ chức tài chính dưới

dạng một công ty cổ phần, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, sẵn sàng cho việc cho

vay.

Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 được

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông

qua thì ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt

động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,

các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách,

ngân hàng hợp tác xã.

1.1.2 Vai trò, chức năng của NHTM

- Về vai trò: các NHTM là lực lượng chủ yếu trong việc thực thi các quan hệ

tín dụng, biến vai trò khách quan của tín dụng thành hiện thực trong nền kinh tế,

đáp ứng nhu cầu vốn để phát triển kinh tế và góp phần quan trọng vào việc hình

thành cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội. Các NHTM có

vai trò trung gian, chuyển các khoản tiết kiệm tiền nhàn rỗi tạm thời thành tín dụng

đầu tư; vai trò thanh toán; vai trò bảo lãnh; vai trò đại lý; vai trò thực hiện chính

sách tiền tệ.

6

- Về chức năng: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu,

thường xuyên là huy động tiền gửi của khách hàng để cho vay, thực hiện nghiệp vụ

chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Quá trình hình thành và phát triển của

NHTM gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Ngày nay,

NHTM đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng và trở thành một loại

hình ngân hàng chiếm vị trí chủ yếu trong hệ thống các ngân hàng trung gian. Chức

năng cụ thể của NHTM như sau:

1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng

Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã

hội đã làm phát sinh mâu thuẫn giữa hiện tượng vốn tiền tệ nhàn rỗi từ chủ thể kinh

tế này, trong khi chủ thể kinh tế khác có nhu cầu lại thiếu vốn, cần được bổ sung.

Giải quyết vấn đề này, NHTM đóng vai trò là trung gian tín dụng, trở thành “cầu

nối” để người có vốn và người cần vốn gặp nhau.

Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền

kinh tế, NHTM hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền

kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.

Như vậy, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người

cho vay. Với chức năng này, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên

trong quan hệ. Cụ thể:

Đối với bản thân NHTM, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho mình từ chênh

lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận

này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM.

Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình do

ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an

toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán.

Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi

tiêu, thanh toán mà không phải tốn nhiều chi phí về sức lực, thời gian cho việc tìm

7

kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.

Đối với nền kinh tế, chức năng này của NHTM có vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế vì nó đã đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo

quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất tạo

thêm việc làm cho người lao động. Với chức năng này, NHTM đã tối thiểu hóa chi

phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế, kích thích quá trình luôn chuyển

vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của

NHTM vì nó phản ánh bản chất của NHTM là đi vay để cho vay, nó quyết định sự

tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức

năng khác.

1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán

Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, NHTM thực hiện các khoản thanh

toán chi trả cho khách hàng. Thay cho việc thanh toán trực tiếp, các doanh nghiệp,

cá nhân… Có thể nhờ NHTM thực hiện những công việc này dựa trên những khoản

tiền mà họ đã gửi ở ngân hàng, thông qua việc mang tiền của người phải trả chuyển

cho người được trả bằng nhiều hình thức khác nhau với kỹ thuật ngày càng tiên tiến

và thủ tục ngày càng đơn giản. Ở đây, NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho các

doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.

NHTM thực hiện chức năng thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung

gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi ngân hàng đã mở cho khách hàng

tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền để khách hàng

thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán.

Việc các NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to

lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này các NHTM cung cấp cho khách

hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,

thẻ rút tiền, thẻ thanh toán… tùy theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình

phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ

8

tiền trong túi, không phải mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người thanh toán dù ở

gần hay xa, họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản

thanh toán này. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm rất nhiều chi phí về thời

gian, tiền bạc, lại đảm bảo được thanh toán an toàn hơn so với thanh toán trực tiếp.

Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán,

tốc độ chuyển vốn, đồng thời việc thanh toán qua ngân hàng đã giảm được lượng

tiền mặt lưu thông, góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn,

đếm nhận, bảo quản tiền…

Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng

thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay

của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức

năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.

1.1.2.3 Chức năng tạo tiền

Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và thanh toán mà các NHTM có

khả năng “tạo tiền”. Đó là khả năng mở rộng tiền gửi nhiều lần. Từ một khoản tiền

gửi ban đầu vào một ngân hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một

hệ thống NHTM, số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội mức mở rộng tiền gửi phụ

thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (còn được gọi là số nhân tiền). Hệ số mở rộng tiền

gửi của NHTM chịu sự tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ

vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.

Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán

trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Một khối lượng

tín dụng mà NHTM cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của NHTM, từ đó làm tăng

lượng tiền cung ứng cho quá trình giao dịch trong nền kinh tế.

Thực hiện tốt các chức năng thanh toán đó, một mặt NHTM đã có vai trò rất

lớn trong việc giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư, thực hiện tốt kế hoạch sản xuất,

kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời góp phần phân bố hợp lý các

nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế

9

theo một cơ cấu ngành và khu vực thích hợp. Mặt khác, với vai trò cầu nối trong

việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế, NHTM tạo ra

môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Thông qua hoạt động

của NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả,

nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về cho NHTW,

giúp cho NHTW có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.

Ngoài ra, NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các nước, góp

phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.

1.2 Khái niệm về lợi nhuận

1.2.1 Khái niệm chung

Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ

đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ

hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận, trong kế

toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất. Sự khác nhau giữa định

nghĩa ở hai lĩnh vực là quan niệm về chi phí. Trong kế toán, người ta chỉ quan tâm

đến các chi phí bằng tiền, mà không kể chi phí cơ hội như trong kinh tế học. Trong

kinh tế học, ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận sẽ bằng 0. Chính sự khác

nhau này dẫn tới hai khái niệm lợi nhuận: lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán.

Lợi nhuận kinh tế lớn hơn 0 khi mà chi phí bình quân nhỏ hơn chi phí biên,

cũng tức là nhỏ hơn giá bán. Lợi nhuận kinh tế sẽ bằng 0 khi mà chi phí bình quân

bằng chi phí biên, cũng tức là bằng giá bán. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo

(xét trong dài hạn), lợi nhuận kinh tế thường bằng 0. Tuy nhiên, lợi nhuận kế toán

có thể lớn hơn 0 ngay cả trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo.

Một doanh nghiệp trên thị trường muốn tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn mức sản

lượng mà tại đó doanh thu biên bằng chi phí biên. Tức là doanh thu có thêm khi bán

thêm một đơn vị sản phẩm bằng phần chi phí thêm vào khi làm thêm một đơn vị sản

phẩm. Tại điểm doanh thu biên bằng chi phí biên, doanh nghiệp lỗ ít nhất.

10

1.2.2 Khái niệm về lợi nhuận của NHTM

NHTM có 02 nghiệp vụ chủ yếu: huy động và cho vay. Trong nghiệp vụ huy

động, ngân hàng trả lợi tức cho người nhận tiền, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân

hàng phải thu lợi tức của người đi vay. Về nguyên tắc, lợi tức cho vay phải cao hơn

lợi tức huy động.

Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức huy động sau khi trừ đi những chi

phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh

tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.

1.3 Điều kiện niêm yết của các NHTM trên sàn giao dịch chứng khoán Việt

Nam

Các NHTM cũng là doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, chính vì vậy

để được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, cụ thể là trên sàn Chứng khoán

thành phố Hồ Chí Minh và sàn Chứng khoán Hà Nội, các NHTM cần đáp ứng đầy

đủ các điều kiện được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành. Gần đây

nhất chính là Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định

chi tiết về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi,

bổ sung một số điều Luật Chứng khoán mà Chính phủ vừa ban hành.

Ngoài ra, Nghị định 58 cũng quy định thêm các điều kiện để doanh nghiệp

được lên sàn Chứng khoán TPHCM, đó là: phải có 2 năm hoạt động dưới hình thức

công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết; tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên

vốn chủ sở hữu (ROE) năm gần nhất tối thiểu là 5%; hoạt động kinh doanh của 2

năm liền trước phải có lãi; không có nợ quá hạn trên 1 năm; không lỗ lũy kế đến

năm đăng ký niêm yết.

Đồng thời, tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất

300 cổ đông (không phải cổ đông lớn) nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp Nhà

nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Đối với sàn chứng khoán Hà Nội, công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 30 tỷ

11

đồng trở lên mới được phép niêm yết. Điều kiện để được niêm yết chỉ cần 1 năm

hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết và

tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông

nắm giữ.

Các doanh nghiệp đã niêm yết trước ngày 15/9/2011 không đáp ứng được

điều kiện niêm yết theo quy định của Nghị định 58 vẫn được tiếp tục niêm yết và

không phải chuyển sàn theo điều kiện niêm yết mới. Nghị định 58 cũng yêu cầu các

công ty chưa đủ điều kiện niêm yết trên 2 sở, công ty đại chúng chào bán chứng

khoán ra công chúng chưa niêm yết phải đăng ký giao dịch chứng khoán trên

Upcom trong thời hạn 1 năm kể từ ngày chào bán.

Đến quý 2/2009 có tất cả 5 Ngân hàng thương mại niêm yết trên các sàn giao

dịch chứng khoán Việt Nam. Đến cuối năm 2011 đã có 9 ngân hàng đang được

niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bao gồm ngân hàng Ngoại thương

Việt Nam (VCB), ngân hàng Công thương Việt Nam (CTG), ngân hàng Sài Gòn

Thương tín (STB), ngân hàng Á Châu (ACB) và ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội

(SHB), ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (EIB), ngân hàng Quân đội (MBB),

ngân hàng Nam Việt (NVB), ngân hàng Nhà Hà Nội (HBB). Tuy nhiên, đến ngày

28/8/2012 thì ngân hàng Nhà Hà Nội đã chính thức sáp nhập vào ngân hàng Sài

Gòn – Hà Nội, đồng thời cổ phiếu của ngân hàng này cũng hủy niêm yết trên sàn

giao dịch chứng khoán Việt Nam.

1.4 Những yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thƣơng mại

1.4.1 Yếu tố nội tại của ngân hàng

1.4.1.1 Rủi ro tín dụng

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng rủi ro tín dụng là một biến số quan

trọng trong nghiên cứu lợi nhuận ngân hàng. Thực tế, các tổ chức phi tài chính chịu

rủi ro tín dụng thấp hơn các tổ chức tài chính. Cooper và cộng sự (2003) thấy rằng

những thay đổi trong danh mục cho vay của ngân hàng có thể được phản ánh bởi

12

những thay đổi trong rủi ro tín dụng, do đó doanh số của các tổ chức tín dụng cũng

có thể bị ảnh hưởng. Duca và McLaughlin (1990) chứng minh rằng sự thay đổi của

rủi ro tín dụng là lý do chính trong việc giải thích các biến động trong lợi nhuận

ngân hàng, vì lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm khi rủi ro tín dụng tăng lên. Do đó,

chất lượng các khoản cho vay là tiêu chí quan trọng hơn số lượng. Ở một khía cạnh

nào đó thì nghiên cứu của Bourke (1989) cũng có sự tương đồng với nghiên cứu của

Duca và McLaughlin (1990) vì ông chỉ ra rằng lợi nhuận của các ngân hàng sẽ thấp

hơn khi họ phải đối mặt với các khoản vay có nguy cơ mất khả năng thanh toán.

Trong cùng một cách tiếp cận, Miller và Noulas (1997) đã cho thấy rủi ro tín dụng

có tác động tiêu cực đến lợi nhuận. Mối quan hệ nghịch biến phản ánh điều đó khi

danh mục cho vay của các ngân hàng trở nên rủi ro, các ngân hàng phải trích dự

phòng rủi ro nhiều hơn, từ đó ảnh hưởng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy,

các ngân hàng với các khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao hơn sẽ có lợi nhuận

thấp hơn.

1.4.1.2 Tính thanh khoản

Bourke (1989) đã sử dụng tỷ số tài sản lưu động (tổng tiền mặt, tiền gửi ngân

hàng, đầu tư chứng khoán) trên tổng tài sản để đo lường tính thanh khoản. Trong

nghiên cứu của mình, ông đã khai thác dữ liệu từ các báo cáo tài chính của một mẫu

gồm 90 ngân hàng từ 12 quốc gia trong mười năm từ 1972 đến 1981. Kết quả này

cho thấy rằng tính thanh khoản có tác động cùng chiều lên lợi nhuận, gia tăng tỷ số

này sẽ nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. Molyneux và Thornton (1992) đã mở

rộng các phương pháp luận của Bourke (1989) bằng cách sử dụng tỷ số tài sản lưu

động trên tổng tài sản để đo lường rủi ro thanh khoản, kết quả nghiên cứu đã cho

thấy rằng có một mối quan hệ ngược chiều giữa tính thanh khoản và lợi nhuận trong

số 18 nước Châu Âu từ năm 1986 đến 1989. Sự trái chiều giữa các kết quả thực

nghiệm của Molyneux và Thornton (1992) và Bourke (1989) có thể được giải thích

bởi sự khác biệt trong độ nhạy cảm của nhu cầu vay vốn tại các khoảng thời gian

khác nhau.

13

1.4.1.3 Hiệu quả quản lý

Hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định tỷ lệ chi phí hoạt động tác động tiêu

cực lên lợi nhuận của các ngân hàng (Bourke, 1989). Nói chung, việc giảm chi phí,

nghĩa là hiệu quả kinh doanh được cải thiện, sẽ làm tăng lợi nhuận của các ngân

hàng. Ngược lại, Molyneux và Thornton (1992) cho thấy một mối quan hệ cùng

chiều giữa tỷ lệ chi phí nhân viên với tổng tài sản và tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên

tài sản. Các kết quả cho thấy trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, sự gia tăng

chi phí lương để đầu tư vào nguồn nhân lực có thể làm tăng lợi nhuận của các ngân

hàng. Davydenko (2011) chứng minh rằng lợi nhuận của các ngân hàng Ukraina có

tương quan âm với tỷ lệ chi phí quản lý trên tổng tài sản. Mối quan hệ ngược chiều

này cho thấy sự yếu kém trong khả năng quản lý chi phí ngoài trả lãi của các ngân

hàng Ukraina. Mối quan hệ này cũng cho thấy rằng sự cạnh tranh buộc các ngân

hàng Ukraina phải tiến hành cắt giảm chi phí, thay vì tăng lợi nhuận bằng cách tăng

phí hoặc lãi suất đối với khách hàng. Davydenko cũng lập luận rằng nếu một ngân

hàng quản lý chi phí ngoài trả lãi một cách hiệu quả thì khi có sự gia tăng chi phí,

ngân hàng có thể gia tăng biên độ lãi suất, từ đó sẽ nâng cao lợi nhuận.

1.4.1.4 Quy mô ngân hàng

Quy mô ngân hàng là một trong các yếu tố nội bộ quyết định lợi nhuận vì

trên thực tế các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng kinh doanh của mình bằng cách

tăng tài sản và nguồn vốn. Nói chung, các ngân hàng lớn có thể đạt được lợi nhuận

cao từ lợi thế kinh tế theo quy mô trong hệ thống ngân hàng. Biến số quy mô cũng

bao hàm các yếu tố về chi phí, đa dạng hóa sản phẩm và rủi ro. Một mối quan hệ

cùng chiều giữa quy mô và lợi nhuận của ngân hàng là kết quả thực nghiệm từ các

nghiên cứu của Smirlock (1985).

Có một lượng lớn các nghiên cứu về ảnh hưởng của lợi thế kinh tế theo quy

mô đến lợi nhuận ngân hàng. Akhavein và cộng sự năm 1997; Bourke năm 1989;

Molyneux và Thornton năm 1992; Bikker và Hu năm 2002; Goddard và cộng sự

năm 2004 chứng minh rằng lợi thế kinh tế theo quy mô là kết quả của mối quan hệ

14

cùng chiều giữa quy mô và lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, lợi nhuận của các

ngân hàng lại có quan hệ ngược chiều với khả năng đa dạng hóa. Các ngân hàng tận

dụng lợi thế của sự đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, nhưng nó cũng có

thể làm giảm lợi nhuận. Trong một nghiên cứu khác, Boyd, J.H. và D.E. Runkle

(1993) đồng ý rằng khái niệm lợi thế kinh tế theo quy mô liên quan đến quy mô của

ngân hàng. Về lý thuyết, nếu lợi thế kinh tế theo quy mô tồn tại, các tổ chức tài

chính lớn hơn có thể cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn với chi phí thấp hơn, trong điều

kiện các yếu tố khác không đổi.

Athanasoglou P và cộng sự (2006) cho thấy một sự tăng trưởng thị phần của

một ngân hàng có thể dẫn đến sự gia tăng trong tỷ suất sinh lợi và lợi nhuận. Điều

này có thể được giải thích bởi giả định đó là các ngân hàng lớn được hưởng lợi từ

lợi thế kinh tế theo quy mô bằng cách cung cấp dịch vụ của họ với giá rẻ hơn và

hiệu quả hơn so với các ngân hàng nhỏ. Nếu Chính phủ tạo ra các rào cản nhằm hạn

chế sự thành lập các ngân hàng mới (như Việt Nam đã làm trong năm 1997), các

ngân hàng lớn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn.

Ngược lại, Koch (1974) và Al-Hashimi có một quan điểm đối lập, Al-

Hashimi (2007) cho rằng không nên đưa lợi thế kinh tế theo quy mô vào trong các

nghiên cứu lợi nhuận bởi vì nó chỉ liên quan đến đơn giá và sản lượng, trong khi đó,

quy mô doanh nghiệp và tỷ suất sinh lợi mới thực sự là đối tượng nghiên cứu của

lợi nhuận. Bên cạnh đó, Berger và cộng sự (1987); Boyd và Runkle (1993); Miller

và Noulas (1997); Athanasoglou và cộng sự (2005) chỉ ra rằng sự gia tăng quy mô

ngân hàng chỉ tiết kiệm được một ít chi phí khi hệ thống ngân hàng mở rộng. Trong

khi đó, Eichengreen và Gibson (2001) đề xuất rằng sự gia tăng quy mô vốn chỉ tác

động cùng chiều lên lợi nhuận đến một mức nhất định nào đó. Hơn nữa, họ cho rằng

mối quan hệ giữa quy mô và lợi nhuận ngân hàng là phi tuyến tính.

1.4.1.5 Tỷ lệ vốn

Về lý thuyết, Short (1979) lập luận rằng tỷ lệ vốn (tức là tỷ số vốn và dự trữ

trên tổng tài sản) của một ngân hàng gắn liền với quy mô của nó bởi vì các ngân

15

hàng lớn có xu hướng làm ra lợi nhuận nhiều hơn so với các ngân hàng nhỏ dựa vào

khả năng huy động vốn ít tốn kém hơn. Tương tự như vậy, Bikker và Hu (2002),

Goddard và cộng sự (2004) có cùng một lập luận rằng trong trường hợp các ngân

hàng nhỏ và vừa, quy mô ngân hàng có liên quan đến lợi nhuận thông qua tỷ lệ vốn.

Ngoài ra, còn có một số bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ lệ

vốn và lợi nhuận, cụ thể, Bourke (1989) có cùng quan điểm với Short (1979).

Bourke chỉ ra rằng có một mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận vì

thực tế cho thấy các ngân hàng quản trị vốn tốt có thể tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn và

thị trường tài sản tốt hơn, vì các ngân hàng này có ít rủi ro hơn. Hơn nữa, các ngân

hàng có tỷ lệ vốn cao, duy trì sự thận trọng trong danh mục cho vay, cũng có thể cải

thiện lợi nhuận.

Cùng quan điểm đó, Molyneux và Thornton (1992), Williams, Molyneux và

Thornton (1994) và Molyneux và Forbes (1995) cũng cho thấy một mối quan hệ

cùng chiều giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận trong thị trường ngân hàng châu Âu.

Thông qua mô hình kiểm định nhân quả Granger, Berger (1995) đã chỉ ra

mối quan hệ cùng chiều giữa vốn và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tại các ngân

hàng của Mỹ trong những năm 1980, nhưng mối quan hệ này đã đổi chiều vào năm

1990. Trong nghiên cứu của mình, Berger mở rộng sự kiểm định bằng cách sử dụng

các chi phí phá sản dự kiến. Ông lập luận rằng chi phí bảo hiểm cho các khoản nợ

(không được bảo hiểm) thấp hơn sẽ tạo ra một tỷ lệ vốn và ROE cao hơn.

1.4.2 Yếu tố kinh tế vĩ mô

1.4.2.1 Tăng trƣởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

Đã có khá nhiều nghiên cứu kiểm định mức độ ảnh hưởng của tốc độ tăng

trưởng GDP lên lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xem

tốc độ tăng trưởng GDP như một biến giải thích cho lợi nhuận ngân hàng. Theo các

nghiên cứu của Bourke (1989), Molyneux và Thornton (1992), tỷ lệ tăng trưởng

GDP tác động cùng chiều đến lợi nhuận ngân hàng. Kết quả thực nghiệm này được

16

khẳng định trong một số nghiên cứu khác của Hassan và Bashir (2003), Pasiouras

và Kosmidou (2007), và Kosmidou (2008), rộng hơn, các nghiên cứu này cho rằng

hiệu quả hoạt động của ngành tài chính tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng GDP.

Tại Brazil, Afanasieff và cộng sự (2002) đã sử dụng dữ liệu mảng để tìm ra

một điều đó là cũng giống như lạm phát kỳ vọng, tốc độ tăng trưởng GDP là một

trong các yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận ngân hàng. Mặt khác, bằng chứng

thực nghiệm từ các nghiên cứu của Hoggarth và cộng sự (1998) cho thấy rằng lợi

nhuận của các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi GDP, nhưng tốc độ tăng

trưởng lợi nhuận của các ngân hàng ở Anh cao hơn ở Đức lại không thể giải thích

thông qua GDP thực. Ở một nghiên cứu khác, Athanasoglou và cộng sự (2005) cho

thấy chu kỳ kinh doanh có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của ngành ngân hàng

Hy Lạp. Tuy nhiên, trong giai đoạn suy thoái, ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh là

không đáng kể. Tương tự, Flamini và cộng sự (2009) cũng chứng minh rằng trong

giai đoạn này, chất lượng tín dụng sẽ giảm, do đó làm giảm lợi nhuận của các ngân

hàng (khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống, thậm chí là âm).

1.4.2.2 Tốc độ lạm phát

Tác động của môi trường kinh tế vĩ mô lên lợi nhuận của ngân hàng đã được

nghiên cứu khá rộng rãi, trong đó tỷ lệ lạm phát là yếu tố tiêu biểu. Mối liên hệ giữa

lợi nhuận ngân hàng và tỷ lệ lạm phát đã được đề cập đến trong nghiên cứu của

Revell (1979). Ông ấy đã chứng minh rằng lạm phát tác động lên lợi nhuận ngân

hàng thông qua mối liên hệ giữa tốc độ tăng của tiền lương và các chi phí hoạt động

với tỷ lệ lạm phát. Khả năng quản lý hiệu quả chi phí hoạt động của các ngân hàng

phụ thuộc vào khả năng dự báo lạm phát trong tương lai, mà mức độ chính xác của

các dự báo này phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của môi trường kinh tế vĩ mô.

Tương tự, Perry (1992) đã chỉ ra tác động của lạm phát kỳ vọng lên lợi nhuận ngân

hàng. Cụ thể, trong trường hợp các nhà quản lý có thể đưa ra một mức lạm phát kỳ

vọng tương đối chính xác, ngân hàng cần điều chỉnh các mức lãi suất một cách thích

hợp để doanh thu tăng nhanh hơn chi phí.

17

Bên cạnh đó, Bourke (1989) và Molyneux và Thornton (1992) đã chỉ ra tác

động cùng chiều của lạm phát và lãi suất dài hạn lên lợi nhuận. Ngoài ra, Kaya

(2002) cũng đã khẳng định rằng trong số các yếu tố quyết định của kinh tế vĩ mô thì

lạm phát và thâm hụt ngân sách có tác động đáng kể đến lợi nhuận của các ngân

hàng thương mại.

1.4.3 Các yếu tố khác

1.4.3.1 Hình thức sở hữu ngân hàng

Nghiên cứu đầu tiên về tác động của hình thức sở hữu đối với hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng được thực hiện bởi Vernon (1971). Trong nghiên cứu đó,

Vernon đã cho thấy có sự khác biệt giữa hình thức quản lý và hình thức sở hữu của

các ngân hàng. Ngoài ra, Short (1979) cho thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa

lợi nhuận ngân hàng và quyền sở hữu của Nhà nước. Bên cạnh đó, Bourke (1989)

đã thử nghiệm tác động của sở hữu Nhà nước trên lợi nhuận của các ngân hàng

bằng cách sử dụng một biến nhị phân đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước. Ông

chỉ ra được sự tác động ngược chiều của biến giả đại diện cho quyền sở hữu Nhà

nước lên biến phụ thuộc được lượng hóa thông qua tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở

hữu và tỷ suất sinh lợi trên tài sản. Biến giả đại diện cho sở hữu Nhà nước mang giá

trị dương khi biến phụ thuộc dùng để đo lường lợi nhuận tăng thêm một vài đơn vị.

Giá trị tăng thêm đó bao gồm chi phí nhân viên và dự phòng rủi ro các khoản cho

vay. Cho hai biến phụ thuộc, lợi nhuận trước thuế cộng với chi phí nhân viên theo

phần trăm của tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế cộng với chi phí nhân viên và dự

phòng rủi ro các khoản cho vay theo phần trăm của tổng tài sản, lúc này biến giả sẽ

mang giá trị âm. Qua đó, có thể chứng minh rằng việc quản lý chi phí nhân viên

trong nhóm ngân hàng quốc doanh là không hiệu quả. Kết quả thực nghiệm này cho

thấy năng suất lao động trong các ngân hàng tư nhân cao hơn so với các ngân hàng

sở hữu Nhà nước. Molyneux và Thornton (1992) đã tiến hành một số nghiên cứu,

trong đó có một mẫu lớn gồm mười tám nước châu Âu từ năm 1986 đến năm 1989,

được thực hiện dựa trên các nghiên cứu của Bourke ( 1989). Ngược lại với mối

18

quan hệ trong các nghiên cứu trước đó, Molynuex và Thornton (1992) , Williams ,

Molyneux và Thornton (1994) và Molyneux và Forbes (1995) cho thấy rằng quyền

sở hữu của Chính phủ các ngân hàng châu Âu có một tác động tích cực lên lợi

nhuận trên vốn. Do đó, có thể kết luận rằng các ngân hàng tư nhân tạo ra lợi nhuận

trên vốn thấp hơn so với các ngân hàng quốc doanh.

1.4.3.2 Tính tập trung của thị trƣờng trong ngành ngân hàng

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về các yếu tố tác động đến lợi nhuận của

ngân hàng liên quan đến hai giả thuyết, đó là giả thuyết sức mạnh thị trường và giả

thuyết cấu trúc hiệu quả. Theo Bourke (1989), Molyneux và Thornton (1992), giả

thuyết sức mạnh thị trường, còn được gọi là giả thuyết cấu trúc - vận hành - hiệu

quả (SCP: Structure – Conduct - Performance), tỷ lệ tập trung trong lĩnh vực ngân

hàng có mối quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Giả

thuyết này giả định rằng các ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận độc quyền bằng

cách tận dụng sức mạnh thị trường. Giả thuyết cấu trúc hiệu quả cũng ủng hộ quan

điểm rằng sự tập trung trong lĩnh vực ngân hàng và lợi nhuận của các ngân hàng có

mối quan hệ đồng biến. Theo giả thuyết này, một số ngân hàng nhỏ có thể liên kết

với nhau để tạo ra lợi ích nhóm. Lợi ích nhóm có thể gây hại cho khách hàng và đối

thủ cạnh tranh vì các ngân hàng thông đồng với nhau để tăng lãi suất cho vay và

giảm lãi suất huy động cho các cá nhân. Tầm quan trọng của cấu trúc thị trường và

các biến đặc trưng của ngành ngân hàng có thể được giải thích bởi giả thuyết SCP.

Giả thuyết này giả định rằng các điều kiện cơ cấu thị trường, bao gồm cả số lượng,

quy mô của các công ty và các điều kiện gia nhập xác định sự cạnh tranh trong một

thị trường. Một số nghiên cứu liên quan đến giả thuyết SCP cũng phù hợp với thị

trường cạnh tranh ( Berger, 1995; Goddard và cộng sự, 2004; Molyneux và cộng sự,

1996). Altunbaş và cộng sự (2001) và Schure và cộng sự (2004) cho thấy mức độ

hiệu quả của các ngân hàng khác nhau đáng kể giữa các ngành ngân hàng. Các giả

thuyết nêu trên đã được thử nghiệm bởi Smilock (1985) và Berger (1995), người đã

chỉ ra mối quan hệ của cấu trúc lợi nhuận trong ngành ngân hàng.

19

1.5 Mô hình nghiên cứu đề nghị

Với các yếu tố đã được xác định, để đánh giá mức độ tác động của các yếu tố

nội tại của ngân hàng và yếu tố vĩ mô lên lợi nhuận của ngân hàng niêm yết tại Việt

Nam, tác giả dự kiến sử dụng mô hình nghiên cứu sau:

LNit = β0 + β1TKit + β2QMit + β3RRit + β4HQit + β5TLit + β6GDPt + β7LPt + eit

Trong đó:

LNit là lợi nhuận của ngân hàng i ở thời điểm t – được lượng hóa bởi hai tỷ

số là ROA và ROE.

TKit là chỉ số thanh khoản của ngân hàng i ở thời điểm t.

QMit là quy mô của ngân hàng i ở thời điểm.

RRit là chỉ số rủi ro tín dụng của ngân hàng i ở thời điểm t.

HQit là chỉ số hiệu quả quản lý của ngân hàng i ở thời điểm t.

TLit là tỷ lệ vốn của ngân hàng i ở thời điểm t.

GDPt là tổng sản phẩm quốc nội tại thời điểm t.

LPt là chỉ số lạm phát tại thời điểm t.

20

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng thương mại đã được thực

hiện trong rất nhiều nghiên cứu, tạp chí và luận văn trước đây. Tuy nhiên, một

nghiên cứu chính thức về vấn đề này tại thị trường Việt Nam thì vẫn chưa được

thực hiện. Chương này tập trung vào cơ sở lý thuyết, kết quả thực nghiệm và

phương pháp sử dụng trong nghiên cứu lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Về

mặt lý thuyết, có ba nhóm yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng thương

mại, cụ thể là các yếu tố đặc thù của ngân hàng (nội tại), yếu tố ngành và kinh tế vĩ

mô (yếu tố bên ngoài). Nhóm yếu tố đặc thù của ngân hàng bao gồm quy mô ngân

hàng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, hiệu quả quản lý và tỷ lệ vốn. Trong khi

đó, nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô bao gồm tăng trưởng GDP và lạm phát. Một số bằng

chứng thực nghiệm cho thấy rằng lợi nhuận của ngân hàng phần lớn bị ảnh hưởng

bởi nhóm yếu tố đặc thù của ngân hàng và nhóm yếu tố ngành. Tuy nhiên, cũng có

một số bằng chứng cho thấy nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận

của ngân hàng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả sẽ tập trung phân

tích và đánh giá 02 nhóm yếu tố đó là: nhóm yếu tố nội tại của ngân hàng và nhóm

yếu tố kinh tế vĩ mô.

21

CHƢƠNG 2

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tƣợng nghiên cứu và nguồn dữ liệu

Cho đến nay, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua những cải cách đáng kể

từ cuối những năm 1980, góp phần cải thiện hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Khung thể chế và chức năng của các ngân hàng đã được nâng cao một cách hiệu

quả. Môi trường kinh doanh cũng đã được tổ chức theo hướng tăng cường sự cạnh

tranh. Bên cạnh đó, Ngân hàng Việt Nam đã từng bước tham gia và trở thành một

phần của các thị trường tài chính toàn cầu. Để phù hợp với những chuyển biến tích

cực đó, các ngân hàng Việt Nam đã tăng cường công nghệ để hỗ trợ cho các hoạt

động và tăng lợi nhuận. Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu bảng cân đối kế toán của

09 ngân hàng thương mại đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam. Dữ liệu được lấy từ báo cáo thường niên của các ngân hàng và dữ liệu vĩ mô

từ năm 2006 - 2011. Do đó, tập dữ liệu có tổng cộng 54 quan sát. Báo cáo thường

niên được lấy từ website chính thức của từng ngân hàng, trong khi đó dữ liệu vĩ mô

được thu thập từ website của Tổng cục Thống kê.

Bảng 2.1: Tóm tắt thống kê mô tả của các biến lựa chọn

Mẫu quan sát (Observations) Bình quân (Mean) Trung vị (Median) Lớn nhất (Maximum) Nhỏ nhất (Minimum)

54 54 54 54 54 54 54 54 54 0.008874 0.145761 0.423389 11.15490 0.011152 0.010937 0.069019 0.076950 0.125700 0.007500 0.134550 0.451550 10.37064 0.010350 0.008950 0.065800 0.083350 0.121500 Độ lệch chuẩn (Std. Dev.) 0.021600 0.305700 0.528500 19.61425 0.037000 0.022400 0.158800 0.085000 0.199000 0.004400 0.040000 0.176400 4.934665 0.003300 0.002600 0.011100 0.055000 0.065200 0.004200 0.064633 0.092566 3.567809 0.006935 0.005264 0.038265 0.011263 0.051685 ROA ROE TK QM RR HQ TL GDP LP

(Nguồn: Kết quả từ phần mềm Eviews)

22

Bảng 2.1 chỉ ra mô tả thống kê tóm tắt của các biến độc lập và biến phụ

thuộc bao gồm các thông số bình quân, trung vị, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và

giá trị nhỏ nhất. Bình quân giá trị của ROE cao hơn ROA (14,57% so với 0,88%).

Độ lệch chuẩn của ROE cũng cao hơn ROA. Bình quân tỷ số tài sản lưu động trên

tổng tài sản (TK) là 42,34% và độ lệch chuẩn của tỷ số này là 52,85%. Tỷ số dự

phòng rủi ro cho vay trên tổng dư nợ (RR) có giá trị bình quân là 1,11% và độ lệch

chuẩn là 3,7%. Trong khi đó, tỷ số chi phí ngoài trả lãi trên tổng tài sản (HQ) có giá

trị bình quân là 1,09% và độ lệch chuẩn là 2,24%. Tỷ số nguồn vốn trên tổng tài sản

(TL) có giá trị bình quân và độ lệch chuẩn lần lượt là 6,9% và 15,88%. Chỉ số giá

tiêu dùng CPI (LP) có giá trị bình quân cao hơn hẳn giá trị bình quân của tổng sản

phẩm quốc nội (GDP) (12,57% so với 7,69%).

2.2 Lƣợng hóa các biến

2.2.1 Biến phụ thuộc

Theo các nghiên cứu của Sufian, F. (2009), Ben Naceur và Goaied (2008),

Kosmidos và cộng sự (2005), tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất

sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) được sử dụng để lượng hóa lợi nhuận của các

ngân hàng.

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) chỉ ra bao nhiêu lợi nhuận các ngân

hàng thương mại có thể tạo ra bằng cách sử dụng một đơn vị tài sản, mặc dù nó có

thể bị bóp méo bởi các hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, đối với các NHTM Việt

Nam, các hoạt động này là không đáng kể. Hassan và Bashir (2003) lập luận rằng

ROA có thể cho thấy khả năng của các ngân hàng trong việc quản lý và sử dụng

nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. ROA là chỉ tiêu quan trọng để so sánh hiệu

quả hoạt động của các ngân hàng. Cùng quan điểm này, Rivard và Thomas (1997)

chứng minh rằng ROA là giá trị lượng hóa tốt nhất cho lợi nhuận ngân hàng vì đòn

bẩy tài chính cao của các ngân hàng sẽ không ảnh hưởng đến ROA. Nghiên cứu này

cũng cho thấy rằng đối với các tổ chức tài chính cũng như các ngân hàng, ROA có

xu hướng thấp hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên, các hoạt động nội bảng có thể

ảnh hưởng đến giá trị ROA.

23

Mặt khác, tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho thấy hiệu quả quản

lý của các ngân hàng trong việc sử dụng vốn cổ đông. Các ngân hàng có xu hướng

sử dụng đòn bẩy cao, do đó họ thường đạt được ROE cao nhưng ROA thấp. ROE

có thể được tính bằng cách nhân ROA với tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu và

đòn bẩy tài chính có thể tác động đến giá trị của ROE. Tuy nhiên, nhược điểm của

ROE là không thể giải thích cho những rủi ro của đòn bẩy tài chính cao. Đây chính

là lý do mà ROA trở thành chỉ số chính lượng hóa cho lợi nhuận ngân hàng. Tuy

nhiên, trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam, cả hai tỷ số ROA và ROE đều

là tiêu chí quan trọng đối với cơ quan quản lý và các ngân hàng trong việc quyết

định các chiến lược quản lý phù hợp.

2.2.2 Biến độc lập

Để kiểm định mức độ tác động của các yếu tố lên lợi nhuận của ngân hàng

niêm yết tại Việt Nam, tác giả sẽ sử dụng và kiểm định các biến độc lập sau:

2.2.2.1 Nhóm biến về yếu tố nội tại của ngân hàng

 Tính thanh khoản

Cũng giống như rủi ro tín dụng, tính thanh khoản cũng cần được các ngân

hàng quản trị thật tốt. Rủi ro thanh khoản xuất hiện khi ngân hàng suy giảm khả

năng thanh toán các khoản nợ. Do đó, khả năng thanh khoản có thể ảnh hưởng lớn

đến lợi nhuận ngân hàng và trở thành nhân tố tác động chính.

Tỷ số tài sản lưu động (bao gồm tiền mặt, tiền gửi và chứng khoán đầu tư

của ngân hàng) trên tổng tài sản được sử dụng để lượng hóa tính thanh khoản của

ngân hàng. Theo Athanasoglou và cộng sự (2006), tỷ số này tốt hơn tỷ số nợ trên

tổng tài sản trong việc lượng hóa tính thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, nắm

giữ nhiều tài sản lưu động sẽ làm giảm khả năng nâng cao lợi nhuận của ngân hàng

vì tài sản lưu động đóng vai trò trong việc giải quyết các khoản nợ phát sinh hơn là

đầu tư tạo ra lợi nhuận. Vì vậy, tỷ số thanh khoản được dự báo sẽ có mối quan hệ

nghịch biến với lợi nhuận của ngân hàng.

24

 Quy mô ngân hàng

Để có thể tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng cần lựa chọn quy mô tối ưu.

Điều này chứng minh rằng quy mô ngân hàng có cả tác động tích cực và tiêu cực

lên lợi nhuận. Nhìn chung, trong một giới hạn nhất định, sự tăng trưởng về quy mô

của các ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận, lúc này, các ngân hàng sẽ có lợi thế cạnh

tranh về quy mô. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng đạt đến quy mô quá lớn, lợi nhuận

có thể bị ảnh hưởng xấu bởi sự gia tăng quy mô do các yếu tố như quan liêu, bộ

máy nhân sự cồng kềnh và sự sụt giảm năng suất làm việc của nhân viên. Như vậy,

mối liên hệ giữa quy mô ngân hàng và lợi nhuận có thể được kết luận là một mối

quan hệ phi tuyến tính. Từ đó, logarit của tổng tài sản ngân hàng sẽ được sử dụng

để nghiên cứu mối quan hệ này. Tuy nhiên, với thực tế thị trường tại Việt Nam hiện

nay vẫn đang trong giai đoạn tăng trưởng ban đầu, kỳ vọng mối quan hệ này sẽ là

đồng biến.

 Rủi ro tín dụng

Trong ngành ngân hàng, rủi ro tín dụng chính là rủi ro lớn nhất và cần lưu

tâm nhiều nhất. Rủi ro tín dụng tác động lên lợi nhuận của tất cả các tổ chức tài

chính, bao gồm cả ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh từ việc các khách hàng mất

khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của mình trong việc thanh toán nợ đầy đủ và đúng

hạn cho ngân hàng. Chính vì điều này mà rủi ro tín dụng tác động cực kỳ mạnh mẽ

lên sự tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng.

Trong nghiên cứu này, tỷ số dự phòng rủi ro cho vay trên tổng dư nợ sẽ được

sử dụng để phản ánh rủi ro tín dụng mà các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt. Theo

lý thuyết của Stubos và Tsikripis (2005), trong một nền kinh tế kế hoạch tập trung,

các nguồn tín dụng được sử dụng như một công cụ để thực hiện các mục tiêu của

chính phủ, do đó, việc đánh giá rủi ro tín dụng được bỏ qua. Nền kinh tế Việt Nam

và khu vực ngân hàng đang trong quá trình cải cách theo nền kinh tế thị trường, vẫn

chưa thoát khỏi chế độ cũ, vì vậy, phần lớn các nguồn tín dụng được phân bổ theo

các tiêu chí chính trị thay vì năng suất biên của dự án.

25

Theo Miller và Noulas (1997), rủi ro tín dụng của các ngân hàng tăng sẽ làm

giảm lợi nhuận do sự tích lũy các khoản nợ xấu. Do đó, NHNN đã quy định cụ thể

mức dự phòng đối với các khoản tín dụng tại các NHTM nhằm tối thiểu hóa rủi ro

tín dụng có thể xảy ra. Mức dự phòng này cũng được điều chỉnh theo từng thời kỳ

để phù hợp với cơ chế và sự phát triển của thị trường. Do đó, rủi ro tín dụng có thể

được khái quát như là một biến xác định trước. Theo các nghiên cứu trước đây như

Athanasoglou và cộng sự (2006), Athanasoglou và cộng sự (2008), Sufian (2009)

cho rằng sự gia tăng rủi ro tín dụng sẽ làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng, do

đó, nghiên cứu này kỳ vọng sẽ có mối quan hệ nghịch biến giữa yếu tố rủi ro tín

dụng và lợi nhuận của ngân hàng.

 Hiệu quả quản lý

Trong ngành ngân hàng, số lượng nhân viên được sử dụng là rất nhiều, do

đó, chi phí quản lý chung sẽ là gánh nặng lớn đối với các ngân hàng hoạt động

không hiệu quả. Tỷ số chi phí ngoài trả lãi trên tổng tài sản được sử dụng để lượng

hóa cho yếu tố hiệu quả quản lý của các ngân hàng. Chi phí ngoài trả lãi bao gồm

chi phí lương, trợ cấp và chi phí hoạt động của hệ thống. Hiệu quả quản lý của ngân

hàng thường được phân tích và đánh giá thông qua chi phí hoạt động.

Một số nghiên cứu trước đây liên quan đến vấn đề này đã cho rằng việc cải

thiện hiệu quả quản lý cùng với giảm chi phí ngoài trả lãi có thể nâng cao lợi nhuận

của ngân hàng. Cụ thể, Bourke (1989) đã chỉ ra được mối quan hệ ngược chiều giữa

chi phí ngoài trả lãi và lợi nhuận ngân hàng trong nghiên cứu của mình. Ở một khía

cạnh khác, việc trả lương cao hơn cho nhân viên lại có thể nâng cao lợi nhuận ngân

hàng. Chính từ thực tế này, Molyneux và Thornton (1992) đã cho rằng có một mối

quan hệ cùng chiều giữa chi phí ngoài trả lãi và lợi nhuận. Với cùng quan điểm trên,

Claessens, Demirgüç-Kunt và Huizinga (2001) cho rằng sự dư thừa lao động có ảnh

hưởng tiêu cực đến lợi nhuận ngân hàng tại các nước đang phát triển với mức thu

nhập thấp, thế nhưng ảnh hưởng này sẽ trở nên tích cực đối với các ngân hàng hoạt

động ở những nước phát triển với mức thu nhập cao. Bên cạnh đó, với những đề

xuất trong nghiên cứu của Sathye (2001), ngành ngân hàng đang phát triển tại Việt

26

Nam cần xác định rõ ảnh hưởng của mức tiền lương, thù lao cao hơn và đội ngũ

nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ hơn để có thể kết luận mối quan hệ giữa chi

phí ngoài trả lãi và lợi nhuận. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chi phí ngoài trả lãi và

lợi nhuận trong hệ thống ngân hàng Việt Nam được kỳ vọng là ngược chiều, bởi lẽ

năng suất lao động của nhân viên tại các ngân hàng là tương đối thấp.

 Tỷ lệ vốn

Tác động của yếu tố vốn hóa lên lợi nhuận ngân hàng có thể được kiểm định

thông qua tỷ số nguồn vốn trên tổng tài sản. Nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và

quỹ dự trữ của ngân hàng. Nói chung, ngân hàng sẽ gặp rủi ro nếu để tỷ lệ vốn ở

mức quá thấp và Beger (1995) cho rằng lợi nhuận và tỷ lệ vốn có mối quan hệ

nghịch biến. Mặt khác, Molyneux (1993) chứng minh rằng vẫn có trường hợp tỷ lệ

vốn cao hơn có thể làm giảm chi phí sử dụng vốn. Do đó, mức độ tăng trưởng của

vốn chủ sở hữu có thể tác động tích cực lên lợi nhuận của ngân hàng. Đặc biệt là đối

với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, vai trò của vốn chủ sở hữu là cực kì

quan trọng đối với các tổ chức tài chính, bao gồm cả ngân hàng trong việc tạo ra

một cấu trúc vốn vững chắc, vì vốn chủ sở hữu có thể giảm thiểu mức độ thiệt hại

của các cuộc khủng hoảng tài chính bằng nguồn vốn bổ sung và nâng cao sự bảo vệ

đối với người gửi tiền vượt qua được các giai đoạn khó khăn của thị trường. Tóm

lại, với các lý do đã nêu, mối quan hệ giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận được kỳ vọng là

đồng biến.

2.2.2.2 Nhóm biến về yếu tố kinh tế vĩ mô

Nhóm thứ ba của các yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng có liên

quan đến các chỉ số kinh tế vĩ mô. Để kiểm tra tác động của môi trường kinh tế vĩ

mô lên lợi nhuận ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và

tỷ lệ lạm phát (đo lường thông qua chỉ số CPI) sẽ được sử dụng. Chu kỳ kinh tế có

thể được đo lường bằng tốc độ tăng trưởng GDP. Nói chung, điều kiện kinh tế vĩ

mô càng tốt (tức là tốc độ tăng trưởng GDP cao) nhu cầu vay nợ càng cao.

27

 Tốc độ tăng trƣởng kinh tế

Mặc dù có nhiều kỹ thuật quản lý rủi ro để dự báo chu kỳ kinh doanh như: kỹ

thuật tài chính thực hành và xu hướng gia tăng đa dạng hóa địa lý, điều kiện kinh tế

vĩ mô có thể có một ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Tốc độ tăng

trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát và lãi suất có thể ảnh hưởng rộng rãi đến rủi ro tín dụng

thông qua một sự suy giảm trong giá trị của tài sản thế chấp và giảm khả năng trả

nợ vay. Trong một nền kinh tế thịnh vượng, sẽ có một sự tăng trưởng dư nợ cho vay

của các ngân hàng và biên độ (tức là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và tiền gửi) sẽ

tăng lên, bên cạnh đó, chất lượng tài sản (cho vay và đầu tư chứng khoán) sẽ được

cải thiện, vì vậy, ngân hàng nói chung sẽ đạt được lợi nhuận cao hơn. Trong trường

hợp của Việt Nam, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị

trường và có tốc độ tăng trưởng GDP ấn tượng trong giai đoạn hậu khủng hoảng.

Do đó, sự tương quan của tốc độ tăng trưởng GDP với lợi nhuận được kỳ vọng là

đồng biến, vì xác suất vỡ nợ sẽ lớn hơn và khả năng tiếp cận tín dụng sẽ dễ dàng

hơn trong giai đoạn tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn.

 Lạm phát

Lạm phát có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và các khoản thu của ngân

hàng. Theo Perry (1992) lạm phát có thể có cả tác động tích cực và tiêu cực đến lợi

nhuận của các ngân hàng, điều này phụ thuộc vào việc lạm phát dự đoán được hay

không. Trong trường hợp lạm phát được dự đoán đầy đủ, lãi suất cho cả các khoản

vay và tiền gửi có thể được thay đổi nhằm tạo ra lợi nhuận. Như vậy, lạm phát có

thể có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp

lạm phát không được dự đoán, lãi suất cho vay được điều chỉnh chậm hơn tốc độ

tăng của chi phí vốn và chi phí hoạt động, từ đó doanh thu của các ngân hàng có thể

tăng chậm hơn so với chi phí. Kết quả là, có kỳ vọng về mối quan hệ ngược chiều

giữa lạm phát và khả năng sinh lời của các ngân hàng.

28

Bảng 2.2: Định nghĩa, ký hiệu và kỳ vọng tác động của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc

Biến số Công thức tính Ký hiệu Kỳ vọng

Biến phụ thuộc

Lợi nhuận

ROA hoặc ROE

Tỷ số lợi nhuận ròng trước thuế/tổng tài sản hoặc Tỷ số lợi nhuận ròng trước thuế/vốn chủ sở hữu

Biến độc lập

Nhóm biến về yếu tố nội tại của ngân hàng

Tính thanh khoản TK Ngược chiều Tỷ số tài lưu động/tổng tài sản

Quy mô ngân hàng QM Cùng chiều hoặc ngược chiều Lograrit của tổng tài sản

Rủi ro tín dụng RR Ngược chiều

Tỷ số dự phòng cho vay/tổng dư nợ

Hiệu quả quản lý HQ Ngược chiều

Tỷ số chi phí ngoài trả lãi/tổng tài sản

Tỷ lệ vốn TL Cùng chiều Tỷ số nguồn vốn/tổng tài sản

Nhóm biến về kinh tế vĩ mô

Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP Cùng chiều Tốc độ tăng trưởng GDP

Lạm phát LP Ngược chiều Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Chương này trình bày về việc lượng hóa các yếu tố tác động đến lợi nhuận

ngân hàng đã được nêu ra trong chương 1, bao gồm: rủi ro tín dụng, hiệu quả quản

lý, tỷ lệ vốn, tính thanh khoản, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng GDP và lạm

phát. Việc lượng hóa được thực hiện dựa trên kết quả của các nghiên cứu trước đây,

đồng thời, sự kỳ vọng về mối tương quan giữa các biến độc lập đối với biến phụ

thuộc cũng được nêu ra trong chương này.

30

CHƢƠNG 3

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1 Phân tích dữ liệu

Bảng 3.1: Ma trận tương quan của các biến độc lập trong mô hình

QM GDP

RR

HQ

TL

LP

TK 1.000000 -0.187227 1.000000 0.171572 -0.282566 1.000000 0.769704 -0.795222 0.346291 1.000000 -0.669203 0.606489 -0.085092 -0.772239 1.000000 -0.140258 0.165692 -0.117623 -0.123892 0.094038 1.000000 0.080185 -0.113342 0.194136 0.061412 -0.082333 -0.319264 1.000000 TK QM RR HQ TL GDP LP

(Nguồn: Kết quả từ phần mềm Eviews)

Bảng 3.1 trình bày sự tương quan giữa các biến độc lập có trong mô hình.

Theo Kennedy (2008), trị tuyệt đối của các hệ số tương quan nhỏ hơn 0,8 có thể kết

luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các cặp biến, hay nói cách khác đó là

hiện tượng đa cộng tuyến không nghiêm trọng. Với kết quả đã có trong bảng 3.1 thì

có thể kết luận rằng không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các cặp biến độc lập

trong mô hình nghiên cứu.

Bảng 3.2: Kiểm định Likelihood Test Redundant Fixed Effects Tests Equation: ROA Test cross-section fixed effects

Effects Test Statistic d.f.

1.906489 18.222168 (8,38) 8 Cross-section F Cross-section Chi-square

Prob. 0.0875** 0.0196 Ghi chú: ký hiệu ** chỉ ra ước lượng điểm có ý nghĩa về mặt thống kê và khác “không” tại mức 10%

(Nguồn: Kết quả từ phần mềm Eviews)

Dữ liệu được dùng để kiểm định mô hình trong nghiên cứu này thuộc dạng

dữ liệu bảng (panel data). Do đó, để xử lý có thể dùng một trong ba phương pháp

31

sau: Pooled Regression, Fixed Effect Model (FEM) hoặc Random Effect Model

(REM). Tuy nhiên, vì dữ liệu có số ngân hàng nhiều hơn số kỳ thời gian quan sát (9

ngân hàng so với 6 năm) nên không sử dụng phương pháp REM.

Kiểm định Likelihood Test được tiến hành để xác định lựa chọn giữa phương

pháp Pooled Regression và FEM. Xét giả thiết H0: sử dụng phương pháp Pooled

Regression. Với kết quả được trình bày tại bảng 3.2, p-value của hệ số Likelihood

(8,75%) nhỏ hơn mức ý nghĩa 10%, từ đó bác bỏ giả thiết H0. Do đó, không sử dụng

phương pháp Pooled Regression, nghiên cứu sẽ dùng phương pháp FEM để chạy và

kiểm định mô hình.

3.2 Kết quả thực nghiệm

Hệ số ước lượng của tính thanh khoản (TK) đối với ROA, ROE âm và có ý

nghĩa thống kê. Cụ thể, khi giá trị đo lường tính thanh khoản tăng 1% thì giá trị bình

quân của ROA sẽ giảm 3,68% và của ROE sẽ giảm 29,9% trong điều kiện các yếu

tố khác được giữ nguyên. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Athanasoglou và

cộng sự (2006) khi tiến hành nghiên cứu yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân

hàng tại khu vực Tây và Nam Âu.

Kết quả cũng cho thấy được mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô (QM) đối

với lợi nhuận ngân hàng (ROA, ROE) thông qua hệ số ước lượng dương và có ý

nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5%. Cụ thể, khi quy mô tăng 1 đơn vị thì giá trị

trung bình của ROA tăng 0,029% và của ROE tăng 2,44% trong điều kiện các yếu

tố khác không đổi. Điều này chứng tỏ các ngân hàng đang đạt được lợi thế cạnh

tranh về quy mô, góp phần gia tăng lợi nhuận trong quá trình kinh doanh.

Hệ số ước lượng của rủi ro tín dụng (RR) mang giá trị âm và có ý nghĩa

thống kê đối với ROA, nhưng lại không có ý nghĩa đối với ROE. Qua kết quả này

có thể thấy khi rủi ro tín dụng tăng lên 1% thì giá trị bình quân của ROA sẽ giảm

12,23% trong điều kiện các yếu tố khác được giữ nguyên. Kết quả này hoàn toàn

phù hợp với nghiên cứu của Miller và Noulas (1997), các nhà nghiên cứu này đã có

32

cùng kết quả khi xác định các yếu tố tác động đến lợi nhuận của danh mục đầu tư và

các ngân hàng lớn tại Mỹ.

Kết quả hồi quy trong bảng 3.3 cũng chỉ ra được tỷ lệ vốn (TL) có tác động

cùng chiều lên ROA và ROE thông qua hệ số ước lượng mang giá trị dương và có ý

nghĩa thống kê. Khi giá trị đo lường tỷ lệ vốn tăng lên 1% thì giá trị trung bình của

ROA và ROE lần lượt tăng lên 2,13% và 0,53% trong điều kiện các yếu tố khác

không đổi. Điều này phù hợp với thực tế kinh doanh của các ngân hàng tại Việt

Nam. Từ năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã quy định các ngân hàng thương mại

phải tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng, đây là một trong những nguyên nhân chính

thúc đẩy việc mở rộng quy mô hoạt động và gia tăng nguồn vốn của các ngân hàng,

trong đó có nhóm ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Điều này chứng tỏ các ngân hàng đang sử dụng tốt nguồn vốn trong việc tạo ra lợi

nhuận.

Thông qua kết quả trên, có thể thấy GDP cũng là một trong những yếu tố tác

động đến lợi nhuận ngân hàng, cụ thể là chỉ số ROA. Với hệ số ước lượng âm và có

ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%, có thể khẳng định được rằng khi GDP tăng

lên 1% thì giá trị trung bình của ROA sẽ giảm đi 29,12% trong điều kiện các yếu tố

khác không đổi. Kết quả này ngược lại với các nghiên cứu trước đây như Hassan và

Bashir (2003), Pasiouras và Kosmidou (2007), và Kosmidou (2008). Tuy nhiên, nó

lại phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam vì qua báo cáo tài chính của các ngân

hàng thì trong năm 2008, đa số lợi nhuận của các ngân hàng vẫn tăng trong khi tốc

độ tăng trưởng GDP đã giảm rất mạnh so với năm 2007.

Hiệu quả quản lý (HQ) không ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng. Kết quả

này không phù hợp với các nghiên cứu của Bourke (1989), Molyneux và Thornton

(1992), Claessens, Demirgüç-Kunt và Huizinga (2001) và Davydenko (2011). Kết

quả này có thể được giải thích chính là vì các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa đánh

giá và đo lường được ảnh hưởng của sự gia tăng tiền lương, chi phí quản lý đối với

lợi nhuận kinh doanh.

33

Hệ số tương quan giữa tỷ lệ lạm phát (LP) và lợi nhuận ngân hàng không có

ý nghĩa thống kê. Kết quả này không phù hợp với các nghiên cứu trước đây như

Revell (1979), Bourke (1989), Molyneux, Thornton (1992) và Kaya (2002). Điều

này xuất phát từ sự chưa hiệu quả của các công cụ dự báo lạm phát tại Việt Nam, từ

đó dẫn đến lạm phát kỳ vọng vẫn chưa sát với lạm phát thực. Chính vì vậy, lãi suất

cho vay không được điều chỉnh kịp thời với tốc độ tăng của chi phí, điều này ảnh

hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng.

Bảng 3.3: Kết quả hồi quy

ROA

ROE

Biến số

Hệ số

Độ lệch chuẩn

t-value

P-value

Hệ số

Độ lệch chuẩn

t-value

P-value

TK

-0.0368

0.00507

-7.252

0.0222*

-0.299

0.049

-6.1014

0.0548**

QM

0.00029

0.00014

2.05803

0.0465*

0.0244

0.86394

-4.6582

0.0336*

RR

-0.1223

0.03525

-3.4678 0.0013***

-0.4772

0.34045

-1.4016

0.1692

HQ

0.01163

0.08946

0.12998

0.8973

0.08573

0.12312

0.69629

0.4905

TL

0.0213

0.0114

-1.8682

0.0695**

0.00532

0.00137

3.87456 0.0004***

GDP

-0.2912

0.1467

-1.985

0.0544**

-0.4119

1.41671

-0.2908

0.7728

0.01275

0.21625

0.8299

0.11006

-0.5194

0.6065

0.00276 0.617046

-0.0572 0.767337

0.725975

0.548965

28.00576

75.02703

0.000065***

0.000084***

LP R2 R2 hiệu chỉnh F-statistic P-value R2

Ghi chú: ký hiệu ***,*,** chỉ ra ước lượng điểm có ý nghĩa về mặt thống kê và khác “không” tại mức 1%, 5% và 10% (Nguồn: Kết quả từ phần mềm Eviews)

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Chương 3 tập trung vào phần kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập, xác

định phương pháp chạy mô hình dựa vào Likelihood Test, cuối cùng là chạy hồi

quy mô hình. Kết quả cho thấy rằng khi lượng hóa biến phụ thuộc lợi nhuận bằng

chỉ số ROA thì có 5 biến độc lập có ý nghĩa thống kê và khi lượng hóa bằng chỉ số

ROE thì có 3 biến độc lập có ý nghĩa thống kê. Tổng hợp lại kết quả cho thấy có tất

cả 5 biến độc lập có tác động đến biến phụ thuộc lợi nhuận, bao gồm: rủi ro tín

dụng, tính thanh khoản, tỷ lệ vốn, quy mô ngân hàng và tốc độ tăng trưởng kinh tế.

34

CHƢƠNG 4

KIẾN NGHỊ DỰA TRÊN KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

4.1 Về tính thanh khoản

Kết quả thực nghiệm cho thấy tính thanh khoản có tác động ngược chiều lên

lợi nhuận ngân hàng, do đó, để nâng cao lợi nhuận, các ngân hàng cần cân nhắc

giữa việc nắm giữ nhiều tài sản lưu động và tối đa hóa lợi nhuận. Bởi lẽ, việc nắm

giữ tài sản thanh khoản đảm bảo cho Ngân hàng giảm thiểu rủi ro thanh khoản,

nhưng đem lại lợi nhuận thấp. Những tài sản có tính thanh khoản thấp mang lại thu

nhập cao nhưng lại làm giảm khả năng thanh khoản, đặt ngân hàng vào rủi ro thanh

khoản cao khi khách hàng rút tiền và khi các cam kết tín dụng đến thời điểm thực

hiện. Tóm lại, các ngân hàng cần thực hiện tốt vấn đề quản trị rủi ro thanh khoản để

vừa có thể tránh được tổn thất xảy ra từ sự thiếu hụt thanh khoản vừa có thể đạt

được lợi nhuận tối đa. Sau đây, một số biện pháp các ngân hàng được kiến nghị

thực hiện:

Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công

việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân

hàng cần xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế

thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên

thị trường; cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn

huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn.

Thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các

lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Các

ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền

gửi tại Ngân hàng Trung ương và các tài sản có tính lỏng cao khác). Làm như vậy

để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương và để đối phó với

các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân

hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý. Các ngân

35

hàng cần xem xét lại cơ cấu về danh mục tài sản nợ, tài sản có của mình cho phù

hợp nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và

cho vay trên thị trường I (huy động tiền gửi từ các tổ chức và dân cư). Thực hiện

việc phát hành các giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu huy động vốn giữa thị trường I

và thị trường II (thị trường liên ngân hàng).

Thực hiện tốt quản lý khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy định liên quan

đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị

trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng

gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao. Hiện nay, xuất hiện một

thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ

e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế, họ sẵn sàng chịu

phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất

cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của

ngân hàng.

Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn: Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản

nợ và tài sản có của ngân hàng là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó

khăn thanh khoản. Vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn với tỷ

trọng lớn hoặc cùng là ngắn hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau

(ví dụ như huy động trung, dài hạn hai năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng

làm cho ngân hàng khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền vào của

mình.

Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro: Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt

Nam còn rất hạn chế, tuy nhiên, sau đợt biến động của thị trường tiền tệ trong thời

gian qua, chắc chắn các ngân hàng sẽ quan tâm nhiều hơn và nó sẽ giúp cho ngân

hàng quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của mình. Thị trường REPO là công cụ

khá hiệu quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng khoán nợ và cơ cấu tài

sản có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một cách nhanh chóng. Hợp

đồng giao sau và kỳ hạn cũng là những công cụ để cầm giữ lãi suất giao dịch nhằm

36

hạn chế rủi ro khi lãi suất thị trường biến động. Đặc biệt hợp đồng hoán đổi là công

cụ quan trọng để các ngân hàng có thể cơ cấu lại tài sản nợ, tài sản có trên bảng cân

đối tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác động của rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn.

4.2 Về quy mô ngân hàng

Biến số quy mô và lợi nhuận ngân hàng có mối tương quan dương, mặt khác,

biến số này được đo lường thông qua giá trị tổng tài sản. Do đó về lý thuyết các

ngân hàng cần gia tăng quy mô, cụ thể là quy mô tổng tài sản để có thể gia tăng lợi

nhuận. Tuy nhiên, như đã đề cập ở chương 2, việc tăng quy mô chỉ làm tăng lợi

nhuận trong một giới hạn nhất định, nếu vượt quá giới hạn này thì tăng quy mô sẽ

làm giảm lợi nhuận. Vì lúc đó, các ngân hàng không còn được hưởng lợi ích từ lợi

thế kinh tế theo quy mô, trái lại, chính sự cồng kềnh của bộ máy tổ chức sẽ làm phát

sinh nhiều chi phí, dẫn đến suy giảm lợi nhuận. Như vậy, các ngân hàng muốn phát

triển bền vững cần xác định được quy mô hoạt động tối ưu.

4.3 Về rủi ro tín dụng

Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại

Việt Nam, mang lại 80-90% thu nhập của mỗi ngân hàng, tuy nhiên rủi ro của nó

cũng rất lớn. Rủi ro tín dụng cao quá mức sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh

ngân hàng. Theo kết quả kiểm định thực nghiệm thì rủi ro tín dụng được đo lường

thông qua tỷ số giữa dự phòng rủi ro các khoản cho vay trên tổng dư nợ có tác động

ngược chiều lên ROA, nhưng không ảnh hưởng đến ROE. Rủi ro tín dụng tăng là

một trong những nguyên nhân làm suy giảm lợi nhuận ngân hàng, vì vậy để tăng

được lợi nhuận các ngân hàng cần giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Dưới đây xin nêu những phương thức quản lý tổng quát về đảm bảo an toàn

cũng như các kỹ thuật thu nhập và xử lý thông tin có thể áp dụng cho các ngân hàng

thương mại trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận:

- Nâng cao chất lượng tín dụng: có khá nhiều giai đoạn cần thực hiện, tuy

nhiên, phương pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích thẩm định

kỹ lưỡng các thông tin tài chính và phi tài chính của người nhận nợ. Đồng thời áp

37

dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi nhằm phân loại khoản vay và khách

hàng vay vốn. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần thường xuyên kiểm tra và nâng

cao chất lượng của hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng tín dụng nội bộ cho

phù hợp với tình hình và sự phát triển của thị trường tín dụng.

- Trích lập dự phòng rủi ro: tổ chức tín dụng trích lập ra một khoản dự phòng

nhằm bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra căn cứ vào mức độ rủi ro của các tài

sản có. Cụ thể, các ngân hàng thương mại cần thực hiện việc trích lập dự phòng này

theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng, trích lập và

sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức

tín dụng. Tuy nhiên, sắp tới đây Quyết định này sẽ được thay thế bằng Thông tư

02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban

hành Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng

rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín

dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

- Bảo hiểm rủi ro tín dụng: NHTM cần phải yêu cầu các khách hàng vay

thanh toán một khoản chi phí phụ thêm cho việc mua bảo hiểm nhằm bảo đảm cho

ngân hàng có thể thu hồi được một phần khoản cho vay trong trường hợp khách

hàng mất khả năng chi trả. Chất lượng tín dụng càng cao thì tỷ lệ bảo hiểm rủi ro tín

dụng càng thấp, khi rủi ro tín dụng của một doanh nghiệp tăng lên, các ngân hàng sẽ

yêu cầu tỷ lệ bảo hiểm tín dụng cao hơn. Như vậy có thể thấy rằng với các khách

hàng có chất lượng tín dụng càng cao thì chi phí đi vay của họ sẽ càng thấp.

- Phân tán rủi ro: việc này được thực hiện bằng cách phân tán rủi ro tín dụng

cho nhiều người vay. Tập hợp nhiều loại cho vay trong một tài sản cho phép ngân

hàng giảm sự thay đổi về thu nhập của chúng. Thu nhập từ các khoản cho vay thành

công sẽ bù đắp phần lỗ từ những khoản cho vay bị vỡ nợ. Do đó làm giảm khả năng

ngân hàng đó sẽ bị thiệt hại.

38

- Sử dụng thị trường bán nợ: sau khi đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp vay,

ngân hàng cần tập hợp các tài sản có rủi ro, sau đó bán cho các nhà đầu tư khác để

chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Việc sử

dụng thị trường này giúp cho ngân hàng có thể chuyển dịch rủi ro sang các nhà đầu

tư, góp phần giảm thiểu được chi phí trích lập dự phòng cho vay. Hiện nay với tình

hình nợ xấu tăng cao và làm ảnh hưởng rất nhiều đến sự tăng trưởng của nền kinh

tế, do đó, Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng

Việt Nam (VAMC) đã được Chính phủ thành lập nhằm mua lại các khoản nợ xấu từ

các tổ chức tín dụng, đây cũng là một trong những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn

cho các ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Như vậy, để quản lý rủi ro tín dụng, các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư có

thể sử dụng các phương thức như nâng cao tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, bảo

hiểm, phân tán rủi ro tín dụng tài sản của rủi ro tín dụng với các tài sản khác và bán

các phần của nó cho các nhà đầu tư bên ngoài. Những phương thức như vậy có thể

làm giảm rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư và những rủi ro

tín dụng này có thể được chia sẻ cho nhiều người sở hữu mới. Tuy nhiên việc sử

dụng các công cụ này có những hạn chế, cụ thể:

+ Việc áp dụng những thủ tục cấp tín dụng quá chặt chẽ nhằm nâng cao chất

lượng tín dụng làm người vay trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp nhận vốn tín

dụng, điều này sẽ làm mất cơ hội đầu tư của tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư.

+ Việc trích lập dự phòng rủi ro thường đặt ra những yêu cầu về tài chính đối

với các tổ chức tín dụng. Trong khi bảo hiểm rủi ro tín dụng lại đặt ra những yêu

cầu về tài chính đối với người nhận nợ. Do vậy, cả hai phương thức hoặc làm giảm

khả năng cân đối và điều hành vốn khả năng của tổ chức tín dụng hoặc làm tăng chi

phí vay vốn của người vay, dẫn đến tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc mở

rộng tín dụng và không thực hiện được chính sách khách hàng.

- Phương thức quản lý rủi to tín dụng bằng cách thông qua dẫn xuất tín dụng:

dẫn xuất tín dụng là các hợp đồng tài chính được ký kết bởi các bên tham gia giao

39

dịch dẫn xuất tín dụng (tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, nhà

đầu tư…) nhằm đưa ra những bảo đảm chống lại sự chuyển dịch bất lợi về chất

lượng tín dụng của các khoản đầu tư hoặc những tổn thất liên quan đến tín dụng.

Nhưng hợp đồng này mang lại cho các nhà đầu tư, người nhận nợ và ngân hàng

những kỹ thuật mới bổ sung cho các biện pháp bán nợ phân tán rủi ro và bảo hiểm

nhằm quản lý rủi ro tín dụng.

4.4 Về tỷ lệ vốn

Thông qua mối quan hệ đồng biến giữa tỷ lệ vốn và lợi nhuận, nghiên cứu

cũng đề xuất thêm một giải pháp khác trong việc gia tăng lợi nhuận của các ngân

hàng, đó là sử dụng hiệu quả nguồn vốn, đồng thời lựa chọn cơ cấu nguồn vốn tối

ưu tùy vào tình hình tài chính và kinh doanh thực tế của mỗi ngân hàng nhằm mục

tiêu tối đa hóa lợi nhuận.

Mục tiêu chung của quyết định phương án tài trợ vốn là đạt được chi phí vốn

rẻ nhất. Cơ cấu vốn mục tiêu là cơ cấu mà một ngân hàng thường xuyên sử dụng

khi quyết định bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Trong một nền tài chính dựa trên hệ

thống ngân hàng và thị trường chứng khoán chưa phát triển ổn định như hiện nay,

các ngân hàng Việt Nam cần có tầm nhìn dài hạn bằng cách xây dựng cho mình một

cơ cấu vốn mục tiêu, nhưng phải linh hoạt tận dụng những cơ hội của thị trường để

huy động nguồn vốn rẻ nhất. Xét cho cùng, ngân hàng là một thực thể sống trong

nền kinh tế, nên quyết định về cơ cấu vốn vẫn phụ thuộc rất lớn vào môi trường

kinh doanh.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

Dựa vào kết quả hồi quy từ mô hình ở chương 3, chương này tập trung vào việc đưa

ra các kiến nghị dựa trên các kết quả đó. Tuy nhiên, các kiến nghị chỉ được tập

trung vào các yếu tố nội tại ngân hàng, bao gồm: tính thanh khoản, rủi ro tín dụng,

quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn.

40

KẾT LUẬN

Tương tự như các nước đang phát triển khác, lĩnh vực ngân hàng Việt Nam

đã có những cải cách cả về phương thức hoạt động lẫn công cụ chính sách điều

hành, trong đó đáng kể nhất là chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai

cấp. Cho đến nay, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn chưa

được nghiên cứu rộng rãi, hơn nữa, hầu hết các lý thuyết nghiên cứu trước đây về

lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam chỉ tập trung vào cải cách hành chính. Chính vì lẽ

đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích chỉ ra được các yếu tố thật sự có

tác động đến lợi nhuận và khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng gồm các số liệu của 9 ngân hàng thương mại đang

niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong 6 năm từ 2006 đến 2011. Để

đảm bảo sự đồng nhất số liệu của 9 ngân hàng thương mại niêm yết (vì từ năm 2012

ngân hàng thương mại Nhà Hà Nội (Habubank) đã chính thức được sáp nhập vào

ngân hàng thương mại Sài Gòn – Hà Nội (SHB) và hủy niêm yết trên thị trường

chứng khoán từ tháng 8/2012) nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu từ năm 2006 đến

2011. Mặc dù tính cập nhật là chưa cao, tuy nhiên, nghiên cứu vẫn đảm bảo về kích

thước mẫu khảo sát, do đó, kết quả vẫn mang tính đại diện cho hệ thống ngân hàng

Việt Nam.

Trong nghiên cứu thực nghiệm này có 2 nhóm biến độc lập là nhóm biến nội

tại của ngân hàng (bao gồm rủi ro tín dụng, tính thanh khoản, hiệu quả quản lý, quy

mô ngân hàng và tỷ lệ vốn) và nhóm biến về kinh tế vĩ mô (bao gồm tốc độ tăng

trưởng GDP và tốc độ tăng lạm phát). Kết quả hồi quy từ mô hình nghiên cứu đã

cho thấy tính thanh khoản và rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực lên lợi nhuận,

trong khi đó, quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn có mối quan hệ đồng biến với lợi

nhuận. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng GDP cũng là một trong những yếu tố ảnh

hưởng đến lợi nhuận, mặc dù kết quả không phù hợp với một số nghiên cứu trước

đây được thực hiện tại các thị trường trên thế giới, tuy nhiên nó lại phản ảnh đúng

tình hình thực tiễn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tại Việt Nam. Đồng

41

thời, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả quản lý và tốc độ tăng trưởng lạm

phát không thật sự ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng Việt Nam.

Thông qua kết quả thực nghiệm nêu trên, nghiên cứu đã đề xuất và kiến nghị

một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của các ngân hàng Việt Nam. Các đề

xuất tập trung chủ yếu vào các yếu tố về tính thanh khoản, quy mô ngân hàng, rủi ro

tín dụng và tỷ lệ vốn. Đây mới chỉ là những kiến nghị, giải pháp đối với bản thân

các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, để có thể gia tăng lợi nhuận cho cả hệ thống

ngân hàng còn cần cả sự tăng cường giám sát và nâng cao hiệu quả quản lý từ phía

các cơ quan có thẩm quyền, trực tiếp chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – cơ

quan có quyền lực cao nhất đối với hệ thống ngân hàng.

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo cáo tài chính của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam từ năm 2006 đến năm 2011.

2. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2011 tại

webpage của Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn.

3. Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

4. Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 của Quốc hội.

5. Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ.

6. Phan Thị Hằng Nga (2011), “Yếu tố quyết định đến lợi nhuận ngân hàng niêm

yết”. Tạp chí công nghệ ngân hàng (68), tr. 20-25.

7. Trần Huy Hoàng (2011), “Giáo trình Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB

Lao động xã hội.

8. Trương Quang Thông (2010), “Phân tích hiệu năng hoạt động ngân hàng thương

mại Việt Nam”, NXB Phương Đông.

Tiếng Anh

5. Al-Hashimi, A. (2007) “Determinants of Bank Spreads in Sub-Saharan Africa,”

MPRA Paper No. 10228.

6. Afanasieff T., P.Lhacer and M. Nakane. (2002) “The determinants of bank

interest spread in Brazil ” Banco Central di Brazil Working Papers.

7. Athanasoglou, P., Delis, M. and Staikouras, C., (2006) “Determinants of bank

profitability in the South Eastern European region” MPRA Paper No. 10274.

8. Athanasoglou, PP, Brissimis, SN and Delis, MD (2008) “Bank-specific, industry-

specific and macroeconomic determinants of bank profitability” Journal of

43

International Financial Markets, Institutions and Money, vol. 18, no. 2, pp. 121-

136.

9. Berger, A. (1995a). “The profit - structure relationship in banking: Tests of

market-power and efficient-structure hypotheses.” Journal of Money, Credit

and Banking 27, pp. 404 – 431.

10. Berger, A. (1995b). “The relationship between capital and earnings in

banking” Journal of Money, Credit and Banking 27, pp. 432-456.

11. Berger, A.N., G.A. Hanweck, and D.B. Humphrey (1987) “Competitive

Viability in Banking: Scale, Scope, and Product Mix Economies,” Journal of

Monetary Economics 20, pp. 501-520.

12. Bikker, J. and H. Hu (2002). “Cyclical patterns in profits, provisioning and

lending of banks and procyclicality of the new Basel capital requirements.”

BNL Quarterly Review 221, pp. 143-175.

13. Bourke, P. (1989). “Concentration and other determinants of bank profitability

in Europe North America and Australia” Journal of Banking and Finance 13,

pp. 65-79.

14. Boyd, J. and D. Runkle (1993) “Size and performance of banking firms: Testing

the predictions of theory” Journal of Monetary Economics 31, pp. 47-67.

15. Cooper, M., Jackson, W. and G. Patterson (2003) “Evidence of predictability in

the cross-section of bank stock returns” Journal of Banking and Finance 27, pp.

817-850.

16. Davydenko, Antonina (2011) "Determinants of Bank Profitability in Ukraine,"

Undergraduate Economic Review: Vol. 7: Iss. 1, Article 2.

17. Duca, J. and M. McLaughlin (1990). “Developments affecting the profitability

of commercial banks.” Federal Reserve Bulletin, July.

18. Eichengreen, B. and H.D. Gibson (2001) “Greek banking at the dawn of the

new millennium” CERP Discussion Paper 2791, London.

44

19. Flamini, V., McDonald, C. and Schumacher, L (2009) “The determinants of

Commercial Bank Profitability in Sub-Saharan Africa”, IMF Working Paper

09/15 (Washington: International Monetary Fund).

20. Goddard, J., Molyneux, P. and J. Wilson (2004) “Dynamics of growth and

profitability in banking” Journal of Money, Credit and Banking 36, pp. 1069-

1090.

21. Hassan, M. K. and Bashir, A. H. M. (2003) “Determinants of Islamic banking

profitability” Paper presented at the 10th Economic Research Forum (ERF)

Annual Conference, Marrakech, Morocco.

22. Hoggarth, G., Milne, A. and Wood, G. (1998) “Financial innovation and

financial stability: some lessons from Germany and the UK” Financial Stability

Review, Bank of England.

23. Kaya, T.Y, (2002) “Determinants of Profitability in Turkish Banking Sector”,

(in Turkish) Turkish Banking Regulation and Supervision Agency, No: 2002/1.

24. Koch, J. (1974) “Industrial Organization and Price”, Prentice-Hall, New Jersey

25. Kosmidou, K. (2008) “The determinants of banks’ profits in Greece during the

period of EU financial integration” Managerial Finance, 34(3), pp. 146–159.

26. Le, M. T., (2000) “Reforming Vietnam's Banking System: Learning from

Singapore's Model” Working Paper, Institute of Southeast Asian Studies

(ISAS), Visiting Researchers Series No. 5.

27. Lloyd-Williams, D., Molyneux, P. and J. Thornton (1994) “Market structure

and performance in Spanish banking” Journal of Banking and Finance 18, 433-

443

28. Miller, S. and A. Noulas (1997) “Portfolio mix and large-bank profitability in

the USA” Applied Economics 29, pp. 505-512.

29. Molyneux P. and Fobers, W., (1995), “Market Structure and Performance in

European Banking” Applied Economics, 27.

30. Molyneux, P. and J. Thornton (1992) “Determinants of European bank

profitability: A note.” Journal of Banking and Finance 16, pp. 1173-1178.

45

31. Molyneux, P. Lioyd-Williams, D.M. and Thornton J.,(1994) “Market Structure

and Performance in Spanish Banking”. Journal of Banking and Finance, 18.

32. Nguyen, H. S. (2009) “Banking system of Vietnam: Reform Strategies and

transition Assessment” College of Economics, Vietnam National University,

Hanoi.

33. Pasiouras, F., & Kosmidou, K. (2007) “Factors influencing the profitability of

domestic and foreign commercial banks in the European Union” Research in

International Business and Finance, 21(2), pp. 222–237.

34. Perry, P. (1992) “Do banks gain or lose from inflation” Journal of Retail

Banking, 14(2), pp. 25–40.

35. Revell, J. (1979) “Inflation and financial institutions” Financial Times,

London.

36. Short, B. K. (1979) “The relation between commercial bank profit rates and

banking concentration in Canada, Western Europe, and Japan” Journal of

Banking and Finance 3, pp. 209-219.

37. Smirlock, M. (1985) “Evidence on the (non) relationship between concentration

and profitability in banking.” Journal of Money, Credit, and Banking 17, pp.

69-83.

38. Vo, T. T. and Pham, C. Q. (2008) “Managing Capital Flows: The Case of Viet

Nam”, ADB Institute Discussion Paper No.105, Asian Development Bank

Institute.

PHỤ LỤC 1

SỐ LIỆU THU THẬP CỦA CÁC NHTM NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM 2006 – 2011

2006

CHỈ TIÊU

Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

MBB

NVB

SHB

STB

VCB

Tiền mặt

2,284,848

1,436,603

2,898,007

82,547

157,321

23,115

19,355

2,827,452

2,418,207

Tiền gửi

17,964,755 31,849,653

2,918,517

3,734,958

6,032,415

419,687

682,966

3,013,119

13,652,841

CK đầu tư

4,228,621

17,329,218

1,587,239

1,694,092

668,454

-

2,065,024

31,116,572

3,065

Dự phòng rr

56,207

10,304

46,124

67,523

120,693

769

81,418

1,490,470

1,467

Lương và chi phí liên quan 197,211

1,118,567

85,668

46,213

55,561

8,686

187,462

448,882

6,231

Chi phí quản lý

265,213

1,022,755

99,009

62,618

104,241

15,212

9,887

220,802

764,675

Vốn góp của cổ đông

1,100,047

3,616,043

1,212,371

1,000,000

1,045,200

500,000

500,000

2,089,413

4,356,737

Vốn chủ sở hữu

1,653,987

5,637,625

1,946,667

1,756,381

1,380,912

521,135

511,294

2,870,346

11,228,106

Vốn tích lũy từ ln sau thuế

366,213

57,551

201,491

156,771

195,854

20,826

9,796

436,146

258,123

Tổng tài sản

44,645,039 135,442,520 18,327,479

11,685,318 13,611,319 1,126,544 1,322,027 24,776,182 166,952,020

Tổng nợ phải trả

42,948,524 129,804,895 16,380,812

9,928,937

12,230,407 605,409

810,733

21,905,836 155,749,678

Cho vay KH

17,014,419 80,152,334

10,207,392

5,983,267

5,999,065

354,254

492,984

14,394,313 67,742,519

Lợi nhuận sau thuế

505,576

602,800

258,469

185,193

218,990

20,826

7,053

470,128

2,877,021

CHỈ TIÊU Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

NVB

SHB

STB

VCB

2007 MBB

Tiền mặt

Tiền gửi

CK đầu tư

Dự phòng rr Lương và chi phí liên quan

Chi phí quản lý Vốn góp của cổ đông

Vốn chủ sở hữu Vốn tích lũy từ ln sau thuế

Tổng tài sản

Tổng nợ phải trả

Cho vay KH

4,926,850 34,309,705 9,132,829 134,537 392,062 412,588 2,630,060 6,257,849 1,435,752 85,391,681 79,133,832 31,810,857 1,760,008

1,743,604 21,337,175 37,404,891 1,708,407 1,619,189 1,146,838 7,608,643 10,646,529 192,062 166,112,971 155,466,442 102,190,640 1,149,442

1,850,102 5,572,169 6,076,844 73,541 172,088 181,541 2,800,000 6,294,943 398,038 33,710,424 27,415,481 18,452,151 463,417

154,802 10,932,026 2,411,833 133,516 88,890 103,373 2,000,000 3,178,427 294,692 23,518,684 20,339,339 9,419,378 365,632

352,321 13,405,382 1,675,726 143,776 118,146 242,739 2,000,000 3,479,521 537,732 29,623,582 26,073,716 11,612,575 492,608

78,542 4,890,606 - 6,095 37,961 72,926 500,000 579,028 74,733 9,903,074 9,324,045 4,363,446 74,733

51,376 5,588,202 382,520 8,083 31,595 41,989 2,000,000 2,178,409 127,873 12,367,440 10,189,031 4,183,502 126,889

3,335,063 8,535,241 9,173,801 177,573 345,942 395,283 4,448,814 7,349,659 1,234,529 64,572,875 57,223,216 35,378,147 1,397,897

3,204,247 53,260,230 37,715,965 2,102,199 645,406 982,334 4,429,337 13,527,759 404,347 197,408,036 183,772,150 97,631,494 2,407,061

Lợi nhuận sau thuế

CHỈ TIÊU Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

NVB

SHB

STB

VCB

2008 MBB

Tiền mặt

Tiền gửi

CK đầu tư

Dự phòng rr Lương và chi phí liên quan

Chi phí quản lý Vốn góp của cổ đông

Vốn chủ sở hữu Vốn tích lũy từ ln sau thuế

Tổng tài sản

Tổng nợ phải trả

Cho vay KH

9,308,613 26,292,778 24,441,506 228,623 691,319 764,407 6,355,813 7,766,468 697,100 105,306,130 97,539,662 34,832,700 2,210,682

1,980,016 24,284,573 755,256 2,150,396 2,947,019 2,010,666 7,717,168 12,336,159 184,298 193,590,357 181,254,198 120,752,073 1,804,464

4,455,588 12,930,051 7,518,367 376,291 282,709 319,962 7,219,999 12,844,077 104,397 48,247,821 35,403,744 21,232,198 711,014

167,874 8,762,786 3,477,996 240,781 106,916 152,142 2,800,000 2,992,761 70,992 23,606,717 20,613,956 10,515,947 352,167

411,633 16,525,370 8,477,960 246,917 234,025 321,413 3,400,000 4,424,064 288,766 44,346,106 39,669,453 15,740,426 696,205

137,582 4,494,415 41,311 21,942 79,480 100,710 1,000,000 1,076,158 57,507 10,905,278 9,829,119 5,474,559 57,144

67,479 3,162,091 1,955,500 25,541 85,398 105,137 2,000,000 2,266,655 167,512 14,381,310 12,114,655 6,252,699 194,770

8,458,614 10,272,122 8,969,574 251,752 643,346 626,589 5,115,831 7,758,624 984,340 68,438,569 60,679,945 35,008,871 954,753

3,482,209 60,929,189 41,567,126 4,175,342 769,507 867,063 12,100,860 13,945,829 1,014,455 222,089,520 208,040,296 112,792,965 1,506,103

Lợi nhuận sau thuế

CHỈ TIÊU Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

NVB

SHB

STB

VCB

2009 MBB

Tiền mặt

Tiền gửi

CK đầu tư

Dự phòng rr Lương và chi phí liên quan

Chi phí quản lý Vốn góp của cổ đông

Vốn chủ sở hữu Vốn tích lũy từ ln sau thuế

Tổng tài sản

Tổng nợ phải trả

Cho vay KH

6,757,572 38,439,459 32,166,926 501,994 851,469 936,993 7,814,138 10,106,287 1,339,200 167,881,047 157,774,760 62,357,978 2,201,204

2,204,060 29,414,094 38,977,048 1,551,109 1,793,512 1,080,544 11,252,973 12,572,078 836,276 243,785,208 231,007,895 163,170,485 1,284,283

6,838,617 9,091,374 8,401,391 378,769 458,505 448,591 8,800,080 13,353,319 448,516 65,448,356 52,095,037 38,381,855 1,132,463

177,159 8,857,346 5,268,166 219,839 134,173 205,723 3,000,000 3,251,899 130,160 29,240,379 25,988,480 13,358,406 407,547

541,132 25,490,566 9,674,239 447,182 349,706 434,353 5,300,000 6,888,072 397,307 69,008,288 61,512,780 29,587,941 1,173,727

269,589 5,530,981 2,148,860 95,404 95,927 105,165 1,000,000 1,166,038 142,670 18,689,953 17,523,913 9,959,607 142,415

139,081 7,277,456 4,865,643 127,084 143,449 196,684 2,000,000 2,417,045 271,122 27,469,197 25,052,152 12,828,748 318,405

8,701,909 17,834,201 9,912,430 515,517 747,374 891,385 6,700,353 10,546,760 1,463,937 104,019,144 93,242,243 59,657,004 1,670,559

4,485,150 72,631,336 32,634,887 4,625,120 1,983,950 1,509,967 12,100,860 16,710,333 3,104,063 255,495,883 238,676,242 141,621,126 3,944,753

Lợi nhuận sau thuế

CHỈ TIÊU Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

NVB

SHB

STB

VCB

2010 MBB

Tiền mặt

Tiền gửi

CK đầu tư

Dự phòng rr Lương và chi phí liên quan

Chi phí quản lý Vốn góp của cổ đông

Vốn chủ sở hữu Vốn tích lũy từ ln sau thuế

Tổng tài sản

Tổng nợ phải trả

Cho vay KH

10,884,762 36,875,603 48,202,271 716,697 970,747 1,177,077 9,376,965 11,376,757 790,240 205,102,950 193,726,193 87,195,105 2,334,794

2,813,948 55,997,576 61,585,378 2,770,755 4,140,982 3,054,352 15,172,291 18,200,546 2,247,814 367,730,655 349,328,196 234,204,809 3,444,530

6,429,465 33,651,296 20,694,745 628,097 544,314 482,516 10,560,069 13,510,740 342,870 131,110,882 117,600,142 62,345,714 1,814,639

348,634 7,726,991 7,427,959 384,428 156,906 230,038 3,000,000 3,533,452 369,141 37,987,726 34,454,274 18,684,558 476,321

868,771 34,398,257 15,563,524 738,337 567,110 686,772 7,300,000 8,882,344 781,339 109,623,198 99,882,085 48,796,586 1,745,170

780,426 4,707,391 1,867,070 127,618 122,364 152,806 1,820,234 2,022,338 157,373 20,016,386 17,994,047 10,766,555 156,914

201,671 12,141,973 8,767,942 272,556 279,833 399,751 3,497,519 4,183,214 423,664 51,032,861 46,849,647 24,375,588 494,329

12,677,849 24,828,708 21,525,331 820,603 1,021,646 1,156,087 9,179,230 14,018,317 1,759,560 152,386,936 137,691,961 82,484,803 1,910,340

5,232,743 87,893,681 32,811,215 5,572,588 2,603,191 1,941,225 13,223,715 20,736,729 4,719,234 307,621,338 286,764,577 176,813,906 4,303,042

Lợi nhuận sau thuế

CHỈ TIÊU Đơn vị: Triệu đồng

ACB

CTG

EIB

HBB

NVB

SHB

STB

VCB

2011 MBB

Tiền mặt

Tiền gửi

CK đầu tư

Dự phòng rr Lương và chi phí liên quan

Chi phí quản lý Vốn góp của cổ đông

Vốn chủ sở hữu Vốn tích lũy từ ln sau thuế

Tổng tài sản

Tổng nợ phải trả

Cho vay KH

8,709,990 86,349,838 26,089,070 986,436 1,574,327 1,556,492 9,376,965 11,959,092 828,890 281,019,319 269,060,227 102,809,156 3,207,841

3,713,859 77,552,986 67,448,881 3,036,502 4,975,087 4,102,822 20,229,722 28,490,896 4,540,639 460,603,925 431,904,533 293,434,312 6,259,367

7,295,195 66,695,335 26,376,794 618,812 1,050,942 858,993 12,355,229 16,302,520 2,659,755 183,567,032 167,264,512 74,663,330 3,038,864

347,533 5,063,547 11,770,625 591,047 198,204 317,649 4,050,000 4,390,523 130,781 41,285,500 36,892,879 22,352,405 234,249

917,418 47,695,857 19,412,920 1,092,540 824,090 1,056,569 7,300,000 9,642,143 1,249,734 138,831,492 128,533,693 57,952,296 1,915,335

366,339 4,017,375 1,866,937 159,139 194,459 199,924 3,010,215 3,126,001 166,662 22,496,047 19,280,045 12,914,682 166,201

425,219 18,880,287 15,097,394 354,967 510,879 614,957 4,815,795 5,830,868 644,215 70,989,542 65,158,674 29,161,851 753,029

11,857,270 12,428,659 24,368,177 812,940 1,944,550 1,644,586 10,739,677 14,546,883 1,958,008 141,468,717 126,921,834 80,539,487 1,995,857

5,393,766 115,621,818 29,456,514 5,328,154 3,188,514 2,511,323 19,698,045 28,638,696 5,521,466 366,722,279 337,940,349 209,417,633 4,217,332

Lợi nhuận sau thuế

PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH LIKELIHOOD TEST TRONG PHẦN MỀM EVIEWS

Redundant Fixed Effects Tests Equation: ROA_FIXCROSS Test cross-section fixed effects

Effects Test

Statistic

d.f.

1.906489 18.222168

(8,38) 8

Cross-section F Cross-section Chi-square

Cross-section fixed effects test equation: Dependent Variable: ROA Method: Panel Least Squares Date: 07/11/13 Time: 10:58 Sample: 2006 2011 Periods included: 6 Cross-sections included: 9 Total panel (balanced) observations: 54

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

-0.122782 -0.038296 0.000162 -0.010667 0.005841 0.010984 -0.029417 0.026794

0.035293 0.005071 0.000136 0.009408 0.004419 0.089754 0.019977 0.004319

-3.478921 -7.552460 1.191958 -1.133747 1.321948 0.122384 -1.472553 6.204125

Variable RR TK QM TL LP HQ GDP C

Prob. 0.0875 0.0196 Prob. 0.0011 0.0000 0.2394 0.2628 0.1927 0.9031 0.1477 0.0000

0.008874 0.004200 -9.982094 -9.687430 -9.868454 1.596647

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.883751 Mean dependent var 0.866061 S.D. dependent var 0.001537 Akaike info criterion 0.000109 Schwarz criterion 277.5166 Hannan-Quinn criter. 49.95766 Durbin-Watson stat 0.000000

PHỤ LỤC 3

CÁC KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TRONG PHẦN MỀM EVIEWS

Dependent Variable: ROA Method: Panel Least Squares Date: 06/11/13 Time: 13:34 Sample: 2006 2011 Periods included: 6 Cross-sections included: 9 Total panel (balanced) observations: 54

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

-0.122250 -0.036793 0.000292 -0.021291 0.002757 0.011628 -0.291186 0.045957

0.035253 0.005074 0.000142 0.011397 0.012749 0.089459 0.146697 0.013006

-3.467786 -7.252026 2.058027 -1.868179 0.216250 0.129979 -1.984953 3.533422

Effects Specification

Variable RR TK QM TL LP HQ GDP C

Cross-section fixed (dummy variables)

Prob. 0.0013 0.0222 0.0465 0.0695 0.8299 0.8973 0.0544 0.0011

0.008874 0.004200 -10.02325 -9.433917 -9.795965 2.101369

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.617046 Mean dependent var 0.548965 S.D. dependent var 0.001428 Akaike info criterion 7.75E-05 Schwarz criterion 286.6276 Hannan-Quinn criter. 28.00576 Durbin-Watson stat 0.000065

Dependent Variable: ROE Method: Panel Least Squares Date: 06/11/13 Time: 13:34 Sample: 2006 2011 Periods included: 6 Cross-sections included: 9 Total panel (balanced) observations: 54

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

-0.477171 -0.298951 -4.024361 0.005315 -0.057166 0.085728 -0.411901 0.287244

0.340451 0.048997 0.863941 0.001372 0.110062 0.123121 1.416707 0.125607

-1.401584 -6.101411 -4.658145 3.874561 -0.519399 0.696289 -0.290745 2.286848

Effects Specification

Variable RR TK HQ QM TL LP GDP C

Cross-section fixed (dummy variables)

Prob. 0.1692 0.0584 0.4905 0.0336 0.0004 0.6065 0.7728 0.0279

0.145761 0.064633 -5.487797 -4.898468 -5.260516 2.123264

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.767337 Mean dependent var 0.725975 S.D. dependent var 0.013795 Akaike info criterion 0.007232 Schwarz criterion 164.1705 Hannan-Quinn criter. 75.02703 Durbin-Watson stat 0.000084

PHỤ LỤC 4

TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM

1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam

1.1 Hệ thống ngân hàng một cấp (trƣớc 1988)

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Trung ương) được thành lập

ngày 06 tháng 5 năm 1951 theo Quyết định số 15/SL. Kể từ khi thành lập vào cuối

những năm 1980, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về cơ bản hoạt động

như một công cụ ngân sách và công cụ hành chính của Chính phủ nhưng không

thực hiện kinh doanh tiền tệ theo nền kinh tế thị trường. Cho đến năm 1988, Ngân

hàng Nhà nước thực hiện cả hai vai trò, đó là vai trò của Ngân hàng Trung ương và

ngân hàng thương mại, được gọi là hệ thống ngân hàng một cấp (Vo, T.T và Pham,

C. Q, 2008).

Kể từ cuối những năm 1980, hệ thống ngân hàng Việt Nam thay đổi dần về

chất lượng theo định hướng của thị trường. Hệ thống ngân hàng một cấp dần dần đã

được cải cách thành hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó Ngân hàng Trung ương

và ngân hàng thương mại đã được tách ra. Năm 1988, bốn ngân hàng thương mại

Nhà nước (NHTMNN) bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank), Ngân hàng Công thương (Incombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp (VBA) đã được thành lập để thực hiện các

hoạt động ngân hàng thương mại (Le, M. T, 2001). Các ngân hàng được thành lập

nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các hoạt động giao dịch về vốn của các doanh

nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, vào năm 1990, Chính phủ loại bỏ các điều luật ràng

buộc cho phép các ngân hàng này mở rộng phạm vi hoạt động. Từ đây, Ngân hàng

Nhà nước chỉ còn thực hiện chức năng quản lý của Ngân hàng Trung ương.

1.2 Sự chuyển dịch từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng

thƣơng mại (1988 – 1998)

Trong tháng 5 năm 1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai pháp lệnh ngân

hàng, chính thức chuyển đổi hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng

hai cấp. Ngân hàng Nhà nước, ở cấp độ đầu tiên, thực hiện vai trò quản lý Nhà

nước về giao dịch tiền tệ, ngân hàng và các chức năng của Ngân hàng Trung ương.

Cấp thứ hai là hệ thống ngân hàng thương mại. (Nguyen, H.S, 2009)

Từ năm 1990, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt

Nam. Đồng thời, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng được phép liên doanh

với các ngân hàng nước ngoài. Trong những năm 1990, một số ngân hàng thương

mại Nhà nước và ngân hàng chính sách đã được thành lập như Ngân hàng cho

người nghèo vào năm 1995 và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long

(MHB) vào năm 1997. Cùng với tốc độ tăng trưởng đáng kể của nền kinh tế, số

lượng các ngân hàng thương mại tư nhân đã tăng lên nhanh chóng. Số lượng của

các ngân hàng thương mại được cấp phép thống kê theo thời gian như sau: 1991: 5

ngân hàng; 1993: 17 ngân hàng; 1994: 4 ngân hàng; 1995: 3 ngân hàng và năm

1996: 3 ngân hàng. Trong thời gian cao điểm (1996), hệ thống ngân hàng Việt Nam

có 52 ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đến năm 1997, Ngân hàng Nhà nước đã

ngừng cấp phép cho ngân hàng thương mại mới nhằm đảm bảo chất lượng và sự ổn

định của hệ thống ngân hàng.

1.3 Hệ thống ngân hàng thƣơng mại (từ 1998 đến nay)

Ngày 02 tháng 12 năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước

và Luật các Tổ chức tín dụng để thay thế hai Pháp lệnh ngân hàng, có hiệu lực từ

ngày 01 Tháng 10 năm 1998. Đến ngày 9 tháng 11 năm 1999, Bảo hiểm tiền gửi

Việt Nam được thành lập. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay cũng được thả nổi. Như

vậy, lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đã được thả nổi hoàn toàn tại Việt Nam.

Trong năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO). Theo cam kết gia nhập WTO, hệ thống tài chính Việt

Nam mở ra cơ hội cạnh tranh cho cả ngân hàng trong nước và nước ngoài. Trong

năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp phép thành lập 5 ngân hàng 100%

vốn nước ngoài, cụ thể là ANZ, Hong Leong, Standard Chartered, HSBC và

Shinhan Việt Nam. Mặc dù đã có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài và sự

thành lập của nhiều ngân hàng thương mại, hầu hết thị phần trong ngành ngân hàng

Việt Nam thuộc về các ngân hàng thương mại Nhà nước. Thị phần cho vay của 4

ngân hàng thương mại Nhà nước vào cuối năm 2011 là 48,8%, tăng nhẹ so với năm

2010 (47,5%). Như vậy, các ngân hàng thương mại Nhà nước đã thống trị thị

trường cho vay.

Hình 1.1 – Biểu đồ thị phần dư nợ tín dụng cuối năm 2011

Thị phần dƣ nợ tín dụng cuối năm 2011

11%

11%

8%

55%

4%

3%

3%

2%

1%

1%

BIDV CTG VCB ACB STB EIB MB SHB HBB NVB Khác

1%

(Nguồn: Báo cáo tài chính các Ngân hàng năm 2010, 2011)

Đồng thời trên thị trường tiền gửi, 4 ngân hàng thương mại Nhà nước cũng

đã chiếm thị phần rất lớn, cụ thể tổng số dư huy động trong năm 2011 của nhóm

ngân hàng này là 45%, trong đó, ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) đã

huy động được lượng tiền gửi lớn nhất, khoảng 293,4 nghìn tỷ đồng.

Hình 1.2 – Biểu đồ thị phần huy động vốn cá nhân cuối năm 2011

(Nguồn: Báo cáo tài chính hợp nhất các Ngân hàng năm 2010, 2011)

Bắt đầu từ năm 2005-2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần

hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao

năng lực tài chính của các tổ chức này. Tính đến tháng 2/2007 đã có 34 ngân hàng

thương mại hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng.

Tình hình lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết cuối năm 2011

NGÂN HÀNG ROA ROE NIM LỢI NHUẬN SAU THUẾ (Tỷ đồng)

1.14% 1.36% 1.66% 0.57% 1.38% 0.74% 1.06% 1.41% 1.15% 26.82% 21.97% 18.64% 5.34% 19.86% 5.32% 12.91% 13.72% 14.73% 1.49% 1.43% 1.81% 0.60% 1.53% 0.88% 1.19% 1.70% 1.19% 3.207.841 6.259.367 3.038.864 234.249 1.915.335 166.201 753.029 1.995.857 4.217.332 ACB CTG EIB HBB MBB NVB SHB STB VCB

Nguồn: Báo cáo tài chính hợp nhất của các ngân hàng năm 2011

1.3.1 Cơ hội

Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khung

pháp lý sẽ dần dần được cải thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó dẫn đến

môi trường kinh doanh bình đẳng. Tùy thuộc vào thế mạnh của từng ngân hàng,

một số ngân hàng sẽ chuyển đổi hoạt động theo hướng chuyên môn hóa để trở thành

ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ và ngân hàng đầu tư. Để hoạt động kinh

doanh trong một môi trường cạnh tranh, các ngân hàng thương mại phải thay đổi cơ

chế quản lý và sử dụng nguồn nhân lực một cách tối ưu nhất. Từ đó, khả năng cạnh

tranh của họ sẽ được nâng lên. Sau khi là thành viên chính thức của WTO, một số

ngân hàng nước ngoài đã trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng thương mại

trong nước thông qua việc nắm giữ cổ phần. Các ngân hàng thương mại Việt Nam

có thể tận dụng lợi thế trong việc sử dụng công nghệ và học tập kinh nghiệm quản

lý từ ngân hàng nước ngoài ở các nước phát triển để nâng cao khả năng cạnh tranh

của mình. Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước có thể tiếp cận dễ dàng

hơn đến thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt là thị trường tiền gửi và hoạt động

cho vay cũng có thể đạt hiệu quả hơn thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm và dịch

vụ ngân hàng. Ngoài ra, hội nhập cũng góp phần cải thiện tính minh bạch trong hệ

thống ngân hàng Việt Nam.

1.3.2 Thách thức

Hệ quả của tiến trình hội nhập vào thị trường tài chính toàn cầu chính là việc

Chính phủ gỡ bỏ các rào cản trước đây nhằm hạn chế sự tham gia của các tổ chức

tài chính nước ngoài, từ đó sự cạnh tranh tất yếu sẽ tăng lên và thị phần của các

ngân hàng thương mại trong nước sẽ suy giảm. Một mặt, ngân hàng nước ngoài ở

các nước phát triển có tiềm năng về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Mặt

khác, bản thân các tổ chức tài chính trong nước cũng đã và đang tồn tại các khía

cạnh tiêu cực đó là sự thiếu chuyên nghiệp ở kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, hiệu

quả hoạt động và khả năng cạnh tranh kém, tỷ lệ nợ xấu và sức đề kháng chống lại

rủi ro yếu. Từ những phân tích trên, có thể thấy áp lực cạnh tranh sẽ tăng theo lộ

trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài sau khi là thành

viên chính thức của WTO. Như vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ dần

dần mất đi lợi thế cạnh tranh vốn có như quy mô, khách hàng và lĩnh vực hoạt động,

đặc biệt là sau năm 2010, khi sự phân biệt giữa ngân hàng trong nước và nước ngoài

về cơ bản được loại bỏ. Đáng nói là nguy cơ thua lỗ và phá sản ngân hàng tại Việt

Nam có thể gia tăng do khả năng cạnh tranh kém hơn và không có khả năng kiểm

soát rủi ro khi tham gia hoạt động trên thị trường quốc tế. Sau khi hội nhập sâu rộng

vào thị trường tài chính toàn cầu, cơ hội để tận dụng sự chênh lệch trong tỷ giá hối

đoái và lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế trở nên khó khăn hơn. Hơn

nữa, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối phó với các cú sốc, khủng hoảng về

kinh tế và hệ thống ngân hàng non trẻ của Việt Nam chắc chắn phải gánh chịu

những thiệt hại đáng kể.