LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này.
Tác giả luận án
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu viết tắt Nội dung
BAST Bản án sơ thẩm 1
BAPT Bản án phúc thẩm 2
BHXH Bảo hiểm xã hội 3
BHYT Bảo hiểm y tế 4
BLDS Bộ luật dân sự 5
BLLĐ Bộ luật lao động 6
HĐLĐ Hợp đồng lao động 7
LĐST Lao động sơ thẩm 8
HĐXX Hội đồng xét xử 8
LĐPT Lao động phúc thẩm 9
NĐCP Nghị định chính phủ 10
NLĐ Người lao động 11
NSDLĐ Người sử dụng lao động 12
NXB Nhà xuất bản 13
QĐ Quyết định 14
QHLĐ Quan hệ lao động 15
TAND Toà án nhân dân 16
TGĐ Tổng giám đốc 17
TNHH Trách nhiệm hữu hạn 18
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh 19
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án............................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ............................................. 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ................................ 5
5. Những đóng góp mới của Luận án ................................................................ 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ....................................................... 9
7. Kết cấu của Luận án ...................................................................................... 9
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến luận án ......... 11
1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về bồi thường thiệt hại và pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động ............................................... 11
1.1.2. Các nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động ................................................................................... 27
1.1.3. Các nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động ............................................................ 40
1.2. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề còn tồn tại, cần nghiên cứu trong đề tài luận án ............ 50
1.2.1. Những vấn đề luận án kế thừa trong quá trình nghiên cứu ................... 50
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu ..................................... 51
1.3. Cơ sở lý thuyết, hướng tiếp cận nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu ...... 53
1.3.1. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................... 53
1.3.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu ................................................................... 53
1.3.3. Giả thiết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .......................................... 54
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 57
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT ........................................................................................ 59
2.1. Một số vấn đề lí luận về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động .... 59
2.1.1. Khái niẹm và đặc điểm củ ẹt trong quan hệ lao động. .... 59
ẹ ệ lao động ..................... 68
2.1.3. Phân loại bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ......................... 70
2.1.4. Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động ................................................................................................. 74
2.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ..... 83
2.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ......... 83
2.2.2. Vai trò của pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại ......................... 85
ẹ ệ lao động ...................... 87
2.2.4. Nọi dung pháp luật về ẹ ệ lao động ........... 92
ạn chƣong 2 ....................................................................................... 108
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG ..... 110
ỄN THỰC HIỆN ................................................................. 110
3.1. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng lao động và thực tiễn thực hiện .................................................. 110
ẹ n phuo ọng
trái pháp luạt ........................................................................................ 111
ẹt hại của người sử dụng lao độ ợp
đồng lao độ ẹ hoạ
......................................................................................... 133
3.2. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khỏe cho người lao động và thực tiễn thực hiện ................................. 140
3.3. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại tài sản cho
người sử dụng lao động và thực tiễn thực hiện ................................... 159
ận chƣong 3 ....................................................................................... 178
CHƢƠNG 4. MỌ ẢI PHÁP HOÀN THIẸN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIẸ ỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
Ệ LAO ĐỘNG .................... 180 Ẹ
4.1. Hoàn thiẹn pháp luạt lao độ ẹ ệ
lao động ............................................................................................... 180
4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động ............................................................................................... 181
4.1.2. Mọ ến nghị nhằm hoàn thiẹn nhữ ạt về
ệ lao đọng ............................................. 187 ẹ
4.2. Mọ ải pháp nhằm nâng cao hiẹ ực hiện pháp luật về
ẹ ệ lao động ............................................. 202
ạt ......... 202
4.2.2. Tang cu
............................................................................................ 203
4.2.3. Cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với
doanh nghiệp và người lao động để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại ........................................................ 204
4.2.4. Tang cu ẹ lao đọng ................ 205
Kết luận chƣơng 4 ....................................................................................... 206
PHẦ ẬN ...................................................................................... 208
Ệ ................................................... 210
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với những chuyển biến về
kinh tế, những thay đổi trong đời sống xã hội thì các quan hệ xã hội cũng
ngày càng trở nên phức tạp, phát sinh những tranh chấp đòi hỏi phải có sự
điều chỉnh kịp thời của pháp luật để giải quyết. Trong đó phải kể đến quan hệ
lao động là một nội dung quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
của hoạt động sản xuất và nền kinh tế. Việc điều hoà ổn định quan hệ này là
một yêu cầu quan trọng trong pháp luật lao động, làm nền tảng thúc đẩy phát
triển kinh tế của đất nước. Muốn vậy, việc bảo vệ các quyền, lợi ích cho các
chủ thể là người lao động, người sử dụng lao động nhằm duy trì ổn định, hài
hoà quan hệ lao động luôn là nội dung được quan tâm. Đặc biệt là trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các chủ thể luôn có khả
năng gặp phải những thiệt hại về vật chất và tinh thần, tính mạng và sức khoẻ
do nhiề ẹ
nguyên nhân khách quan, có thể ể
ẹ
luạt lao đọng đã đưa ra nhiề ề bồi thường thiệt hại ở các nội dung
khác nhau như: bồi thường thiệt hạ ọ
thu ẹ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; bồi thường thiệt hại
liên quan đến tài sản của người sử dụng lao động… Tuy nhiên, do tính chất
phức tạp của quan hệ lao động, nên các xung đột về thiệt hại và yêu cầu bồi
thường, mức độ đảm bảo bồi thường các thiệt hại… rất khó xác định được hết
trách nhiệm của mỗi bên. Do đó, đòi hỏi viẹ ện các quy
định của pháp luật lao động về ẹ ệ lao động là
vô cùng cấp thiết, nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích cho các bên; tính chính
xác, công bằng cho xã hội và sự nghiêm minh của pháp luật.
2
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn hết sức quan tâm đến vấn đề
bồi thường thiệt hại. Quốc hội đã ban hành Bộ Luật dân sự năm 2015; Bộ luật
lao động năm 2012; Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; Nghị định
05/2015; Thông tư 04/2015… Những văn bản quy phạm nói trên bước đầu
tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do bị chấm dứt
hợp đồng trái pháp luật; bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; bị mất mát, hư
hỏng tài sản nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thực tế, Bọ luạt
lao đọng nam 2012 đã ghi nhạn mọ
thu ẹ ẹ ẹ ời lao
độ ọ ẹ thuong tạ
thu ẹ o
định về bồi thường thiệt hại này trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hiện vẫn
có những bất cập nhất định, nhất là việc chưa có đầy đủ các văn bản hướng
dẫn thi hành về vấn đề này, nên vẫn còn những vướng mắc cả lý luận và thực
ạ tiễn. Vì vạ ẹ
thu ẹ ẹn nay trong quan hệ lao đọ ạ ứ
ủ tục bồi thường vừ
pháp luật, vừa đảm bảo quyền, lợi ích cho các bên.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những
vấn đề lí luận cơ bản, đánh giá một cách toàn diện quy định của pháp luật
hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cũng như thông qua việc
nghiên cứu thực tiễn sẽ giúp đưa ra những nhận xét và góp phần hoàn thiện
thêm một bước pháp luật về bồi thường thiệt hại góp phần bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Xuất phát từ tính cấp thiết, ý
nghĩa cũng như tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật
về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở Việt Nam” làm nội dung
nghiên cứu trong Luận án Tiến sĩ của mình. Mặc dù rất quan tâm đến nội
3
dung này, nhưng do kinh nghiệm viết chưa nhiều, tài liệu thu thập cũng còn
hạn chế, đặc biệt là khả năng tổng quan, phân tích số liệu còn khiêm tốn cho
nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Chính vì vậy, kính mong thầy,
cô và các bạn góp ý để người viết có thể hoàn thiện hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
bồi thường thiệt hại và sự điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động; thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi
thường thiệt hại và đánh giá một cách toàn diện pháp luật hiện hành về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động; từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định Luận án cần thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án; rút ra những điểm còn tồn tại cần nghiên cứu trong đề tài luận án;
những điểm hợp lý để kế thừa, phát triển trong quá trình nghiên cứu nhằm mở
rộng hướng tiếp cận nghiên cứu và đạt được mục đích đã đề ra.
Thứ hai, phân tích và hệ thống hoá những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động dưới góc độ pháp luật như: khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa, phân loại bồi thường thiệt hại và các căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động; đồng thời chỉ rõ sự điều chỉnh pháp luật
về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động như: khái niệm và nội dung pháp
luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
4
Thứ ba, nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động và thực tiễn thực hiện như: bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ cho người lao động và bồi thường thiệt hại về tài sản cho
người sử dụng lao động. Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành
về bồi thường thiệt hại, như: kết quả đạt được, những khó khăn, tồn tại và chỉ
rõ nguyên nhân của những bất cập đó.
Thứ tư, từ thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động đã phân tích, đưa ra những yêu cầu và
đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động; nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận án là những vấn đề lí luận và sự
điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; thực
trạng pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực hiện về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: Dưới góc độ khoa học pháp lý và phù hợp với
chuyên ngành nghiên cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, sự điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động bao gồm: bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động;
bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ cho người lao động và bồi thường
thiệt hại tài sản cho người sử dụng lao động. Ngoài ra, Luận án có nghiên cứu
các chuẩn mực quốc tế như: các Công ước, khuyến nghị của Tổ chức lao động
5
quốc tế (ILO) và kinh nghiệm của pháp luật một số nước để có độ sâu và rộng
nhằm tham khảo kinh nghiệm cho pháp luật lao động Việt Nam.
Luận án không đề cập đến các chế độ đối với người lao động nói chung
(bao gồm công chức, viên chức, lao động cá thể, hợp tác xã, người lao động
làm việc cho người sử dụng lao động ở nước ngoài và các quan hệ liên quan
trực tiếp với quan hệ lao động như: quan hệ về việc làm, quan hệ về học nghề,
quan hệ đại diện lao động, quan hệ về bảo hiểm xã hội, quan hệ về giải quyết
tranh chấp lao động và đình công, quan hệ về quản lý nhà nước về lao động
hay xử lý vi phạm về bồi thường thiệt hại…).
- Giới hạn về không gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động trong phạm vi cả nước.
- Giới hạn về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động từ năm 1994 (năm ban hành Bộ luật
lao động năm 1994 đến nay)
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ
người lao động, về xây dựng và phát triển quan hệ lao động trong điều kiện
kinh tế thị trường; đặc biệt là các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia ký kết
về quyền lao động, bảo vệ người lao động.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả kết hợp sử dụng một số
phương pháp chung được áp dụng trong nghiên cứu khoa học như: phương
pháp tổng hợp; phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp hệ thống hoá;
phương pháp thống kê; phương pháp chứng minh; phương pháp mô tả;
phương pháp khảo cứu; phương pháp giả thiết; phương pháp dự báo… Bên
6
cạnh đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành luật
học là phương pháp so sánh pháp luật.
Cụ thể trong từng chương đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp để
làm rõ các nội dung, như:
Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp các quan điểm của
cá nhân, tổ chức; các số liệu; căn cứ lí luận; các tình huống từ hoạt động phân
tích tài liệu, công trình; bình luận khoa học; nhận xét tình huống thể hiện ở tất
cả các chương của luận án. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những luận
giải, đề xuất của chính tác giả luận án.
Phương pháp phân tích: được sử dụng trong tất cả các chương để làm
rõ nội dung đưa ra; đánh giá các tài liệu, số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
Cụ thể, được áp dụng để phân tích tài liệu sơ cấp (các Văn kiện của Đảng và
các văn bản pháp luật có liên quan; các bản án; các số liệu thống kê chính
thức của cá nhân và cơ quan có thẩm quyền cũng như số liệu thống kê do tác
giả thực hiện thông qua các bản án, các quan điểm) và thứ cấp (các công trình
khoa học, đề tài, tạp chí, kết luận đã được những tác giả khác thực hiện).
Phương pháp thống kê: được sử dụng nhiều tại chương hai và chương
ba để tập hợp, xử lý các tài liệu; các công trình; các bản án và các số liệu
nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu của luận án.
Phương pháp hệ thống hóa: là phương pháp giúp tác giả tập hợp các tài
liệu, bài viết, nghiên cứu, tình huống và hệ thống hóa những vấn đề lý luận,
thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động. Phương pháp này được thể hiện chủ yếu tại chương 1 về
tổng quan tình hình nghiên cứu và chương 2 những vấn đề lý luận về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động và sự điều chỉnh của pháp luật.
Phương pháp chứng minh: thông qua việc đưa ra các nhận xét, số liệu,
bản án được dùng để chứng minh cho các luận điểm, các quy định của pháp
7
luật, của tổ chức lao động quốc tế được đưa ra trong luận án thể hiện trong nội
dung của từng vấn đề tại chương 2 và chương 3 của luận án.
Phương pháp mô tả: được sử dụng chủ yếu tại chương 2 và chương 3
của luận án qua việc trích dẫn các bản án, các số liệu đã thu thập được để làm
rõ những vấn đề đặt ra; phân tích nội dung của các bản án để thống kê, làm rõ
những điểm bất cập của pháp luật hiện hành cần phải sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn.
Phương pháp khảo cứu: được thể hiện phần lớn tại chương 2 và
chương 3 của luận án, thông qua việc tổng hợp các quan điểm của cá nhân, tổ
chức; các lĩnh vực khác; quy định pháp luật của tổ chức lao động quốc tế và
pháp luật của các quốc gia; đặc biệt là các bản án đã được xét xử; từ đó đưa ra
các nhận định đảm bảo các quy định đó có phù hợp với Việt Nam và thực tiễn
hiện nay.
Phương pháp giả thiết: được sử dụng nhiều tại chương 2, chương 3 và
chương 4 của luận án. Thông qua việc đặt ra các giả thiết có thể xảy ra và đưa
ra các quan điểm, các quy định pháp luật của các nước và tổ chức lao động
quốc tế minh chứng cho quy định pháp luật Việt Nam hiện hành cần phải thay
đổi cho phù hợp với thực tiễn để đảm bảo việc thực hiện trong điều kiện mới
hiện nay.
Phương pháp dự báo: được sử dụng phần lớn tại chương 4 của luận án
nhằm làm rõ những yêu cầu và những đề xuất sửa đổi các quy định của pháp
luật hiện hành đảm bảo việc thực hiện trong thực tiễn.
Phương pháp so sánh: được dùng nhiều tại chương 2 và chương 3 của
luận án để đối chiếu, so sánh, đánh giá thể hiện sự khác biệt về pháp luật bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động do luật lao động điều chỉnh với các
quan hệ do các ngành luật khác điều chỉnh và nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài so với Việt Nam về quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại; qua đó
8
rút ra bài học để lựa chọn kế thừa những biện pháp, hạt nhân hợp lý phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh khuyến nghị áp dụng đối với Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là công trình khoa học chuyên khảo nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện và có hệ thống về pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động,
luận án có những đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, Luận án làm sâu sắc thêm những vấn đề lí luận cơ bản về bồi
thường thiệt hại và pháp luật về bồi thường thiệt hại như: khái niệm, đặc điểm,
ý nghĩa của bồi thường thiệt hại và khái niệm, nội dung sự điều chỉnh của pháp
luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; từ đó góp phần xây dựng và
hoàn thiện cơ sở lý luận về pháp luật bồi thường thiệt hại ở Việt Nam.
Thứ hai, Luận án phân tích, chỉ ra những kinh nghiệm của một số quốc
gia về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động, tạo cơ sở quan trọng để
liên hệ, đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành và tham khảo trong quá trình
hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở nước ta.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện hành theo các nội dung cụ thể: bồi
thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định của pháp luật
và thoả thuận của các bên; bồi thường thiệt hại do bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp và bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản của người sử dụng
lao động; từ đó chỉ ra những điểm còn hạn chế trong hệ thống các văn bản
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; những kết quả đạt
được và những bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện; nêu rõ các nguyên
nhân để từ đó làm cơ sở trong việc đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở Việt Nam.
Thứ tư, Luận án trình bày sự cần thiết hoàn thiện, các yêu cầu hoàn thiện
và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại với những luận giải
9
cụ thể trên cơ sở khoa học và thực tiễn để đảm bảo hướng tới một hệ thống
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động hoàn thiện hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần củng cố, hoàn thiện cơ sở lý luận về bồi thường thiệt
hại và pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Luận án cũng
đóng góp một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động trên cơ sở khoa học. Đồng thời, ở mức độ nhất
định luận án cũng cung cấp những kiến thức hữu ích cho những người làm
công tác thực tiễn trong lĩnh vực lao động để áp dụng pháp luật bồi thường
thiệt hại một cách hiệu quả.
Các giải pháp thực hiện của đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan, tổ chức khi nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng thời, tổ
chức thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở
Việt Nam.
Luận án có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các cơ quan
có liên quan trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật về bồi
thường thiệt hại; là tài liệu tham khảo bổ ích cho người lao động, người sử
dụng lao động có thể tự bảo vệ mình khi tham gia vào quan hệ lao động.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm
tài liệu tham khảo hữu ích tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về luật học, về
lao động.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài “phần mở đầu”, “kết luận” và “danh mục tài liệu tham khảo”,
dự kiến Luận án được kết cấu bốn chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lí luận về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động và sự điều chỉnh của pháp luật.
10
Chương 3. Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động và thực tiễn thực hiện.
Chương 4. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
11
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về bồi thường thiệt hại, pháp luật bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động không phải là một vấn đề mới trong trong giai đoạn hiện nay,
đặc biệt là khi nghiên cứu dưới góc độ pháp lý. Theo khảo sát của tác giả, cho
đến thời điểm này, các nghiên cứu trực tiếp hay liên quan đến đề tài này trong
lĩnh vực lao động ở nước ta tương đối nhiều, thực tế cho thấy cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới luôn
phải có sự điều chỉnh và bổ sung các nội dung về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động, thể hiện trong các luận án, luận văn, đề tài khoa học và các
bài viết đăng tạp chí. Nhưng ở cấp độ Luận án Tiến sĩ chưa có nghiên cứu nào
viết về pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, các đề tài chủ yếu
nghiên cứu một nội dung cụ thể về bồi thường thiệt hại, như bồi thường do vi
phạm chấm dứt hợp đồng lao động; bồi thường tính mạng, sức khoẻ và bồi
thường thiệt hại về tài sản. Qua quá trình nghiên cứu, có thể đánh giá tình hình
nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án như sau:
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến luận
án
1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về bồi thường thiệt hại và pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
1.1.1.1. Nghiên cứu lý luận về bồi thường thiệt hại
Ở cấp độ luận án Tiến sỹ, đề tài về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động hiện nay là chưa có, các đề tài chủ yếu liên quan đến nội dung của bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động, như: “Pháp luật lao động với vấn đề
bảo vệ người lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2006)
của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng, luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học
12
Luật Hà Nội [100]; “Pháp luật về An toàn lao động ở Việt Nam” (2013) của tác
giả Trần Trọng Đào, luận án Tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [64];
“Hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động” (2012) của Lê Kim
Dung, luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội [69]; “Pháp luạ
đon phuo ọ – ạ n”
(2013) của Nguyễn Thị Hoa Tâm, luận án Tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh [108]... Các luận án này ở góc độ nào đó cũng đã đề
cập đến một số vấn đề lý luận về một trong các nội dung cụ thể của bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động như: bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
lao động; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và bồi thường thiệt hại
với tư cách là biện pháp bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Tuỳ từng vấn đề
tiếp cận khác nhau, nên nội dung làm rõ cũng có sự khác nhau, trong đó có đề
tài tiếp cận lý luận về việc bảo vệ người lao động, có đề tài làm rõ lý luận về an
toàn lao động, tai nạn lao động và có đề tài lại phân tích lý luận về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động.
Với góc độ tiếp cận gần hơn, các luận văn thạc sĩ ẹ
trong lao đọng” (2004) của tác giả Đinh Nho Bình, luận văn Thạc sĩ luật học,
trường Đại học Luật Hà Nội [54]; “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động Việt Nam” (2007) của tác giả Nguyễn Anh Sơn, luận văn Thạc sĩ luật
học, Đại học Quốc gia Hà Nội [104]; ẹ ạt Lao
đọng Viẹt Nam - Mọ ạ (2012) của tác giả
ận văn Thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội [75]; “Bồi thường thiệt
hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” (2014) của Nguyễn Thị Bích Nga, luận văn Thạc sĩ luật
học, Đại học Quốc gia Hà Nội [95]; “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao
động Việt Nam” (2015) của Nguyễn Thị Lan Phương, luận văn Thạc sĩ luật
học, Đại học Quốc gia Hà Nội [101]; “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao
13
động Việt Nam và pháp luật cộng hoà Liên bang Nga dưới góc độ so sánh”
(2019) của tác giả Nguyễn Thị Thu, luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học
Luật Hà Nội [111]. Các luận văn đều đã trình bày những vấn đề lý luận về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động; khái quát một số nội dung cụ thể về
bồi thường thiệt hại như: các quan điểm khác nhau về bồi thường thiệt hại,
khái niệm bồi thường, khái niệm thiệt hại; ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
quy định bồi thường thiệt hại và các hình thức phân loại bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động. Ngoài ra, còn một số luận văn khác cũng đề cập lý
luận về vấn đề bồi thường thiệt hại nhưng được cụ thể hơn về từng nội dung
bồi thường thiệt hại như: ẹ
ọ ạ luận văn Thạc
sĩ luật học, (2006) của tác giả ờng Đại học Luật Hà Nội
[58];
ẹ ọ
đọng theo pháp luạt Viẹt Nam” (2008) của tác giả
luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [103]
thiẹ (2012) của tác giả
Phuo ận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [109];
“Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ theo pháp luật Việt
Nam” (2014) của tác giả Phạm Thị Hương, luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội [83]… Các luận văn đã đưa ra một số nội dung lý luận bồi
thường thiệt hại như: khái niệm, đặc điểm, dấu hiệu nhận biết, vai trò, ý nghĩa
về một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, đó có
thể là bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người lao
động hay bồi thường thiệt hại do bị chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
và bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây thiệt hại về tài
sản của người sử dụng lao động, doanh nghiệp trong quá trình học tập, sản
xuất, kinh doanh.
14
Trong các cuốn sách viết về lý luận bồi thường thiệt hại, có những cuốn
đề cập được các nội dung cơ bản, như: sách ẹ
(2004) của tác giả Lê Mai
Anh, Nxb Lao động – Xã hội [47], dành một chương đề cập những vấn đề cơ
bản về bồi thường thiệt hại như: khái niệm bồi thường thiệt hại, dấu hiệu làm
căn cứ thực hiện bồi thường thiệt hại, các loại bồi thường thiệt hại; trong đó
khái niệm bồi thường thiệt hại được tiếp cận, lí giải dưới các góc độ khác
nhau cả về góc độ chính trị, góc độ kinh tế - xã hội và góc độ pháp luật; làm
rõ các yết tố thiệt hại, sự khác nhau giữa thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần
và một số thiệt hại khác; đồng thời so sánh bồi thường thiệt hại trong pháp
luật dân sự với bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động. Sách chuyên
khảo “Chế độ bồi thường trong Luật lao động Việt Nam” của các tác giả
Nguyễn Hữu Chí (chủ biên) và Đỗ Gia Thắng (2006), Nxb Tư pháp [59], cũng
lí giải một số vấn đề lí luận về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động,
trong đó các tác giả cũng làm rõ khái niệm bồi thường thiệt hại dưới các quan
điểm khác nhau cả về quyền con người, về mặt kinh tế, xã hội và về mặt pháp
lý; vai trò của bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động và phân loại bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Sách “Trách nhiẹ ẹ
ẹt Nam hiẹn nay” (2016) của
tác giả ị Quốc gia-sự thật [77], trong đó có trình
bày những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại; làm rõ bồi
thường thiệt hại; cơ sở tính bồi thường; các thiệt hại trong thực tế; trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp khi gây thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi
thường một phần hay toàn bộ và lý giải nguyên nhân phải thực hiện bồi
thường thiệt hại ở các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, nhất là lĩnh
vực môi trường; làm ô nhiễm môi trường.
15
Một số bài viết đăng trên tạp chí cũng đã bàn về các khía cạnh khác nhau
về lý luận bồi thường thiệt hại, bài viết ẹ
thu ẹ (2004) của các tác giả
ạp chí Tòa án nhân dân của
Toà án nhân dân tố 10/2004 [48, tr. 5-11]; bài viết
thu ẹ (2004) của các tác giả
n Cu ạp chí Tòa án nhân dân của Toà án nhân
ẹ dân tối cao, số 10/2004 [89, tr. 22-27]; bài viết
thu ẹ (2006) của các tác giả Duo
ạp chí Nhà nu ạt của Viẹn Nhà nu
Pháp luạ
[80, tr. 25-27]. Các bài viết đã xác định thiệt hại ở từng
nội dung cụ thể do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng; xác định thiệt hại là cơ sở
để ấn định mức bồi thường trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại; chính là
việc tính toán những tổn thất cả về mặt vật chất và tinh thần, từ đó ấn định
mức bồi thường thiệt hại bằng một khoản tiền cụ thể. Trong đó, có nhiều bài
viết đề cập lý luận bồi thường thiệt hại, đưa ra các quan điểm về thiệt hại, bồi
thường, các loại bồi thường trên thực tế và tầm quan trọng của bồi thường
thiệt hại. Nhìn nhận bồi thường thiệt hại với tính chất là nghĩa vụ của chủ thể
gây thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại như: “Mô hình bồi thường
tai nạn lao động ở Đức và khả năng áp dụng vào Việt Nam” (2008) của tác
giả Lê Kim Dung đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội của Bộ Lao động,
Thương binh xã hội, số 337/2008 [70, tr. 32-33], làm rõ lý luận bồi thường
thiệt hại qua các nội dung về khái niệm, dấu hiệu, phân loại bồi thường thiệt
hại, tai nạn lao động; nguyên nhân của tai nạn lao động; tầm quan trọng và lợi
ích của việc đưa ra các quy định; hình thành các quỹ tai nạn lao động; trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức quản lí quỹ bồi thường tai nạn lao động; trách
nhiệm của người sử dụng lao động và quyền lợi ích của người lao động khi bị
16
tai nạn lao động. Bài viết “Công tác quản lý bồi thường tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp ở một số nước châu Á và mô hình cho Việt Nam” (2011)
của tác giả Phạm Gia Lượng, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật của
Viện Nhà nước và pháp luật, số 5 (2011) [91], tập trung đưa ra một số quy
định của các nước châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… trong
việc quản lí bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Bài viết gồm 3
phần, trong đó lý luận bồi thường thiệt hại tập trung ở phần một, lý giải sự
cần thiết phải thực hiện bồi thường thiệt hại, các nguyên nhân chủ yếu; những
khiếm khuyết trong quá trình tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà
nước hiện nay; đồng thời yêu cầu phải hoàn thiện các quy định về công tác
thực hiện bồi thường và nghĩa vụ phát sinh khi không thực hiện bồi thường
hoặc bồi thường không đúng của các bộ phận được giao thực hiện.
Trên thế giới, cũng có một số công trình nghiên cứu về lý luận về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ Lao động. Nghiên cứu “Cases and materials
on equitable remedies, restitution and damages” (1986) của các tác giả
Robert N. Leavell, Jean C. Love, Grant S. Nelson [167], đề cập nhiều nội
dung lý luận về thiệt hại, bồi thường thiệt hại như: các quan điểm về thiệt hại,
vật chất; phân loại thiệt hại, dấu hiệu thiệt hại; các trường hợp bị thiệt hại;
trách nhiệm bồi thường về vật chất; nguyên tắc đền bù vật chất nhằm đảm bảo
công bằng cho các chủ thể khi bị xâm phạm các lợi ích bị thiệt hại. Nghiên
cứu “General provisions on compensation for damages caused by labor
accidents or occupational diseases to workers” (1999), của tác giả Kulya A.V
tại trường Đại học Saint-Petersburg [176], phân tích những vấn đề lý luận như
khái niệm, dấu hiệu và các loại bồi thường thiệt hại; những căn cứ được xem
xét bồi thường do bị tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp vì không đảm bảo
an toàn trong lao động kể cả nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Nghiên
cứu “Le préjudice dans le droit civil de la responsabilité” (2004) của tác giả
17
Xavier Pradel; đăng trên de Patrice Jourdain - Paris [180], lý giải những quan
điểm khác nhau về trách nhiệm bồi thường; các trường hợp bồi thường;
những tổn thương được bồi thường trong quan hệ bồi thường thiệt hại luật dân
sự quy định. Nghiên cứu “Reading in labor economics and labor relations”
(2005) của các tác giả Lloyd G.Reynolds, Stanley Master, Colletta H. Moser
[187], dành hẳn một nội dung đầu phân tích các quan điểm, cách thức và các
yếu tố đảm bảo duy trì quan hệ lao động, đảm bảo quyền và lợi ích cho các
bên nhất là người lao động yếu thế trong quan hệ lao động; những thiệt hại
được đền bù và yếu tố được đền bù; chính sách về kinh tế của các doanh
nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đảm bảo bồi thường thiệt hại khi xảy ra rủi ro.
Sách “Personnel - Human resource management” (1990) của các tác giả
Terry L.Leap, Michael D.Crino. Nxb Collier Macmillan, c''1989. - xxii, 730tr
+ ảnh; 23cm [184], trình bày một cách cô đọng, có hệ thống về những vấn đề
lý luận chung của bồi thường thiệt hại, như: khái niệm, cơ chế thực hiện, đối
tượng được bồi thường; các quy định trong thực hiện bồi thường và các nghĩa
vụ khác phát sinh liên quan đến việc chi trả bồi thường thiệt hại trong lao
động. Sách “Compensation” (2011) của các tác giả George T. Milkovich,
Jerry M. Newman, Barry Gerhart, Nxb Hill Irwin, 2011. - Xviii, 689p.: 24cm
[172], đưa ra quan điểm về bồi thường; cơ sở xác định và cơ chế thực hiện bồi
thường thiệt hại; cách xem xét các lựa chọn chiến lược quản lý tổng bồi
thường. Có thể nói, các công trình nghiên cứu lý luận về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động của các tác giả, tác phẩm nước ngoài phần nào thể
hiện được các quan điểm cơ bản của bồi thường thiệt hại, thảo luận về vấn đề
bồi thường thiệt hại lớn trên cơ sở của lý thuyết, nghiên cứu và làm cơ sở thực
hiện trong thực tế. Mặc dù mỗi công trình có cách tiếp cận khác nhau về bồi
thường thiệt hại, nhưng cũng đã giới thiệu được những điểm nhất định về lý
18
luận về bồi thường, quan điểm và phương thức làm cơ sở để thực hiện bồi
thường thiệt hại trong thực tế.
Nói tóm lại, theo khảo sát của tác giả những nghiên cứu về lý luận bồi
thường thiệt hại của Việt Nam và các nước tương đối đa dạng, đã đưa ra được
quan điểm, khái niệm cơ bản về bồi thường thiệt hại dưới các góc độ kinh tế;
những đặc trưng; phân loại và ý nghĩa của bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, để
nội dung lý luận bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động được rõ ràng,
nhất quán vẫn cần những quan điểm, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nguyên
tắc bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động được xem xét được toàn diện,
đầy đủ và thống nhất; nhất là các căn cứ về bồi thường thiệt hại trong lao
động cũng cần được phân tích một cách thấu đáo, cụ thể và có sự so sánh với
bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực dân sự. Như vậy, có thể nói còn rất nhiều
nội dung cần phải nghiên cứu, làm rõ về mặt lý luận đối với bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động.
1.1.1.2. Nghiên cứu lý luận pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động
Ở Việt Nam, vấn đề lý luận pháp luật về bồi thường thiệt hại được nghiên
cứu trong lĩnh vực khoa học luật và chủ yếu được công bố trong các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo và các bài viết được đăng trên các
tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, tuỳ từng nghiên cứu khác nhau, cách thức
tiếp cận khác nhau nên cũng có sự khác nhau giữa các nghiên cứu.
Về Luận án tiến sĩ, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu lý luận
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, các đề tài hiện nay
chủ yếu tập trung làm rõ một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động, như: “Pháp luật lao động với vấn đề bảo vệ người lao động
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2006) của tác giả Nguyễn Thị
Kim Phụng, luận án Tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [100]. Luận
19
án đã làm rõ một số nội dung lý luận về pháp luật bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động như: quan điểm về người lao động, người lao động chưa
thành niên, người lao động cao tuổi, người lao động là nữ giới, người lao động
tàn tật, người lao động khuyết tật, lao động di trú; vấn đề điều chuyển lao động;
vấn đề không phân biệt đối xử người lao động; vì sao phải bảo vệ người lao
động; ý nghĩa của việc bảo vệ người lao động; đưa ra các quy định của pháp
luật về bảo vệ người lao động. Trong đó, luận án rất thành công trong việc làm
rõ những bất cập của các quy định của pháp luật như: một số quy định quá chi
tiết, chưa hợp lý, chưa linh hoạt, chưa hiệu quả, nên họ bị vi phạm quyền lợi vì
vậy pháp luật cần hoàn thiện với những quy định cụ thể để bảo vệ cho các chủ
thể này trong quan hệ lao động khi bị xâm phạm các quyền và lợi ích. Luận án
tiến sĩ luật học “Pháp luạ n phuo –
luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh [108],
luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động và pháp luật đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trong đó
thể hiện được khái niệm, đặc điểm của hợp đồng lao động, đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động; ý nghĩa của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với các bên trong quan hệ lao động; sự cần thiết và nội dung điều
chỉnh bằng pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và khái quát
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động. Luận án rất đã chỉ rõ được những vấn đề lý luận pháp
luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại khi vi phạm căn cứ chấm dứt hay thủ
tục chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật gây ra thiệt hại phải có nghĩa vụ
bồi thường. Luận án Tiến sĩ “Pháp luật về An toàn lao động ở Việt Nam”
(2013) của tác giả Trần Trọng Đào, luận án Tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia
20
Hà Nội [64], làm sáng rõ cơ sở lý luận về an toàn lao động và pháp luật về an
toàn lao động, trong đó về cơ sở lý luận an toàn lao động luận án đề cập khái
niệm về an toàn lao động, mục đích, ý nghĩa của an toàn lao động; tính chất của
việc bảo đảm an toàn lao động và sự cần thiết phải bảo đảm an toàn lao động;
về lý luận pháp luật an toàn lao động luận án đã chỉ rõ được sự cần thiết phải
điều chỉnh an toàn lao động bằng pháp luật; khái niệm và đặc điểm của pháp
luật về an toàn lao động; những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về an toàn lao
động và vai trò của pháp luật về an toàn lao động đặc biệt là làm rõ được nội
dung của pháp luật về an toàn lao động và sự điều chỉnh pháp luật về an toàn
lao động trong quá trình khai thác sức lao động.
Về luận văn thạc sĩ có rất nhiều công trình nghiên cứu viết về lý luận
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, trong đó có các
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
và có những nghiên cứu làm rõ một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động. Đối với các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động, gồm: luận văn thạc sĩ
thiẹ lao đọng” (2004) của tác giả Đinh Nho Bình, luận văn thạc sĩ
luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [54]; luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt
hại trong pháp luật lao động Việt Nam” (2007) của tác giả Nguyễn Anh Sơn,
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [104]; luận văn hạc sĩ
ẹ ạt Lao đọng Viẹt Nam - Mọ ạ
(2012) của tác giả ận văn thạc sĩ, Đại học
Luật Hà Nội [75]; luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014)
của Nguyễn Thị Bích Nga, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội
[95]; “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam” (2015) của
Nguyễn Thị Lan Phương, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội
21
[101]; luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt
Nam qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị” (2018) của tác giả Bùi Ngọc
Hoàng, luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Huế [78] và “Bồi
thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật cộng hoà
Liên bang Nga dưới góc độ so sánh” (2019) của Nguyễn Thị Thu, luận văn
thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [111]… Các luận văn trên đã làm
sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động, như: khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động; lịch sử hình thành và phát triển pháp
luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động và sự điều chỉnh của pháp
luật lao động về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, trong đó chỉ rõ
các căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại; nguyên tắc và nội dung
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Đồng thời có sự so sánh bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động do Luật Lao động điều chỉnh với bồi
thường thiệt hại trong quan hệ dân sự do Luật Dân sự điều chỉnh và quy định
của pháp luật lao động Việt Nam có những điểm tương đồng và khác biệt với
quy định của một số nước trên thế giới về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động. Đối với những nghiên cứu làm rõ một nội dung cụ thể của bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động có các đề tài như: luận văn thạc sĩ
ọng theo pháp luạt Viẹt Nam”
ận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội [63], thể
hiện một cách có hệ thống những vấn đề lí luận về hợp đồng lao động, điều
chỉnh pháp luật vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong quá trình sử dụng
lao động; trong đó đề cập nhiều nội dung về lý luận pháp luật bồi thường thiệt
hại của cả người lao động và người sử dụng lao động do vi phạm thoả thuận
của các bên khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cả về căn cứ chấm
dứt và thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Luận văn Thạc sĩ
22
ẹ
mọ ạ (2006) của tác giả
trường Đại học Luật Hà Nội [58], làm rõ cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại
do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm, trong đó đề cập khái niệm, đặc điểm
bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm sức khoẻ, tính mạng; sơ lược sự phát
triển các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khoẻ, tính mạng; đồng thời có sự đối chiếu các quy định của pháp luật Việt
Nam với quy định của một số nước trên thế giới về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khoẻ, tính mạng. Luận văn Thạc sĩ ẹ
ngu đọ ọng theo pháp luạt Viẹt Nam”
(2008) của tác giả Nguyễn Thị Thu Quyên, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Luật Hà Nội [103], nghie ạn pháp luậ
ọng, trong đó làm rõ một số nội dung cơ bản như: khái niệm và
đặc điểm hợp đồng lao động; chấm dứt hợp đồng lao động; hậu quả pháp lý
của chấm dứt hợp đồng lao động; phân loại chấm dứt hợp đồng lao động và
sự điều chỉnh của pháp luật lao động về chấm dứt hợp đồng lao động, trong
đó chỉ rõ những quy định của pháp luật trước đó với quy định hiện nay, so
sánh với quy định của một số nước với quy định của Việt Nam về chấm dứt
hợp đồng lao động; từ đó làm rõ sự khác biệt giữa chấm dứt hợp đồng lao
động theo quy định của pháp luật Việt Nam so với quy định của pháp luật của
một số nước trên thế giới. Luận văn Thạc sĩ ẹ
công, ngu (2012) của tác giả ận văn o
thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [109], làm rõ các vấn đề lý luận
về bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề vi phạm, trong đó
đề cập định nghĩa bồi thường thiệt hại, người làm công, người lao động,
người làm việc, người học nghề, người tập nghề; đặc điểm và phân loại bồi
thường thiệt hại và sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm bồi thường
23
thiệt hại do người làm công, người học nghề vi phạm quy định gây thiệt hại
phải bồi thường; trong việc phân tích lý luận pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, luận văn đã rất thành công trong việc thể hiện nội dung pháp
luật về bồi thường thiệt hại và có sự so sánh với lĩnh vực nhà nước, đơn vị
hành chính sự nghiệp về vấn đề này.
Lý luận về pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng có rất
nhiều cuốn sách làm rõ, như: sách “Các quy định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại” (1997) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga, Nxb
Chính trị quốc gia, 1997. - 523 tr.; 19 cm [96], trình bày những quy định
chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong một số lĩnh vực cụ thể. Sách chuyên khảo ọ
Luạt Lao đọng Viẹt Nam” (2006) của các tác giả Nguyễn Hữu Chí (chủ biên)
và Đỗ Gia Thắng, Nxb Tư pháp, 2006, - 234 tr.; 20,5 cm [59], đề cập nội dung
chế độ bồi thường thiệt hại trong Luật Lao động về lý luận pháp luật bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động, như: khái niệm, đối tượng và phạm
vi áp dụng; căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại; đặc biệt, cuốn
sách đã phân tích được các nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường thiệt
hại, sự khác nhau giữa chế độ bồi thường thiệt hại trong Luật Lao động với
chế độ bồi thường thiệt hại trong Luật Dân sự và Luật Thương mại; đồng thời
làm rõ một số quy định của pháp luật quốc tế về chế độ bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động. Cuốn ạ ẹ
(2006), Nxb Thống kê, 2006, - 159 tr.; 20,5 cm [96], gồm 2 chương,
trong đó chương 1 làm rõ khái quát chung về thiệt hại và bồi thường thiệt hại
gồm: các quan điểm về thiệt hại; những loại thiệt hại được đền bù và những
thiệt hại có thể xảy ra; nguyên nhân phải thực hiện bồi thường thiệt hại trong
xã hội và căn cứ thực hiện bồi thường thiệt hại. Trong đó, lý luận pháp luật về
bồi thường thiệt hại được tác giả thể hiện được nhiều trong nội dung các căn
24
cứ thực hiện bồi thường thiệt hại, dẫn chứng các trường hợp phải bồi thường
thiệt hại, nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp; chủ quan, khách quan và nhấn
mạnh yếu tố lỗi là căn cứ để các bên xem xét việc phải bồi thường.
Bên cạnh các luận án, luận văn và các cuốn sách; các bài viết đăng trên
tạp chí về lý luận pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng
tương đối đa dạng, như: các bài viết
(2003) của tác giả Tu
Lu ạp chí Tòa án nhân dân của Toà án nhân dân tố
4/2003 [92, tr. 5-10]; bài viết ẹ ẹt
(2003) của các tác giả
[48, tr. 5-11], đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
ết ẹ
thu ẹ (2006) của tác giả Dương Quỳnh
Hoa [80, tr. 25-27], đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà
nước và Pháp luật, số 3/2006, các bài viết trên đã đưa ra và phân tích được
các căn cứ, nội dung các nguyên tắc tính thiệt hại; ấn định mức bồi thường
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng một khoản tiền cụ thể để bù đắp
thiệt hại, đặc biệt căn cứ và nguyên tắc tính thiệt hại, các tác giả đã khai thác
rất kỹ về dấu hiệu, nguyên nhân, hành vi và thái độ trong quá trình thực hiện,
xem xét làm cơ sở để yêu cầu bồi thường và mức bồi thường. Bài viết “Tiêu
chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao động” (2011) của tác giả Lê Kim
Dung [72, tr. 36-38], đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà
nước và pháp luật, số 5 (277), đưa ra các tiêu chí về lý luận pháp luật bồi
thường tai nạn, như: tính dễ tiếp cận và mở rộng độ bao phủ; tính hiệu quả;
tính chia sẻ rủi ro; tính công bằng và tính phòng ngừa chủ động giảm thiểu rủi
ro, nhằm đảm bảo việc thực hiện bồi thường tai nạn lao động khi có rủi ro xảy
ra; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quan hệ lao động
25
và duy trì ổn định quan hệ lao động. Bài viết ọ
ẹ ọng và trách nhiẹ ẹ lao
đọng theo Bọ luạt Lao đọng nam 2012” (2013) của tác giả Trần Thị Thanh
Hà [74, tr. 22 – 27], đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
ết tập trung đề cập những vấn đề lý luận pháp luật
về hợp đồng lao động trong quan hệ lao động, như: chỉ rõ vi phạm các căn cứ,
các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật của một trong hai bên
trong quan hệ lao động gây thiệt hại phải có nghĩa vụ bồi thường theo Bộ luật
lao động năm 2012, nhấn mạnh các yếu tố khách quan tác động, những tổn
thất mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu và mức yêu cầu được bồi thường thiệt
hại.
Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu lý luận pháp luật về bồi thường thiệt hại
của các nước, các học giả tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới như:
Nghiên cứu “The quantum of damages in personal injury claims” (1954) của
các tác giả David A. McI. Kemp, Margaret Sylvia Kemp, đăng trên London:
Sweet & Maxwell [195], đưa ra những thiệt hại; các loại thiệt hại, số lượng
thiệt hại; thái độ gây thiệt hại; quy định của pháp luật đảm bảo được bồi
thường và những thiệt hại được xem xét giải quyết bồi thường trên cơ sở yêu
cầu của bên bị thiệt hại. Nghiên cứu “Le préjudice dans le droit civil de la
responsabilité” (2004) của tác giả Xavier Pradel đăng trên de Patrice Jourdain
Paris, 2004 [180], làm rõ các loại thiệt hại, những thiệt hại được xem xét bồi
thường và cơ sở xác định được bồi thường trong thực tế thực hiện trong quan
hệ dân sự do Luật Dân sự quy định. Nghiên cứu “Cases and materials on the
law of restitution” (2007) của các tác giả Andrew Burrows and Ewan
McKendrick and James Edelman, Nxb Đại học Oxford, c2007 [168], phân
tích lý luận pháp luật về các trường hợp bị thiệt hại, tổn thất được giải quyết
bồi thường thiệt hại; các quy định bồi thường thiệt hại và mức độ được bồi
26
thường theo quy định của pháp luật, trong đó cuốn sách rất thành công trong
việc đưa ra và làm rõ mức độ được bồi thường của bên bị thiệt hại, trách
nhiệm của bên gây thiệt hại phải có nghĩa vụ phải thực hiện bồi thường kể cả
trong trường hợp không cố ý gây thiệt hại. Sách “The Law of Torts” (1971)
của tác giả John G. Fleming, Nxb Công ty Luật sách Australia, 1971, 24 cm
[194], chỉ rõ quan điểm về bồi thường thiệt hại, các trường hợp yêu cầu bồi
thường thiệt hại, nguyên nhân phải thực hiện bồi thường; mức bồi thường cơ
bản; những bất cập của quy định đã được áp dụng và pháp luật điều chỉnh; giá
trị được bồi thường; mức độ áp dụng; phạt vi phạm những trường hợp không
thực hiện bồi thường và các trường hợp được xem xét miễn trừ, điểm nhấn
của của sách là thể hiện và lý giải được vấn đề mức bồi thường cơ bản, giá trị
được bồi thường và các trường hợp được miễn trừ bồi thường khi thực hiện
hành vi gây thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng. Sách “Cases and
materials on equitable remedies, restitution and damages” (1994) của các tác
giả Robert N. Leavell, Jean C. Love, Grant S. Nelson, Candace S. Kovacic,
Nxb St. Paul, 1994. 1219 tr.; 28cm [169], về lý luận pháp luật bồi thường thiệt
hại được đề cập qua các nội dung cơ bản như: các nguyên tắc chủ yếu, các
biện pháp giải quyết công bằng, các quy tắc về bồi thường thiệt hại và căn cứ
tính toán những thiệt hại; việc điều chỉnh luật pháp về vật chất và quyền lợi
của các bên qua việc phân tích các vụ án thực tế; trong đó làm rõ được những
lợi ích vất chất có được của bên bị thiệt hại khi thiệt hại xảy ra. Như vậy, có
thể nói, các công trình trên là nền tảng lí luận quan trọng của pháp luật về bồi
thường thiệt hại và việc đưa ra các công trình nghiên cứu với các nội dung đã
đề cập, chỉ rõ các kết quả đạt được của các công trình cho ta thấy rõ được điều
đó.
Như vậy, tuỳ thuộc cách tiếp cận, nội dung nghiên cứu và mức độ thể
hiện của từng công trình mà kết quả nghiên cứu những vấn đề lí luận pháp
27
luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng có sự khác nhau. Các
công trình trên đã được luận giải tương đối cơ bản các nội dung như: khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung điều chỉnh của pháp luật bồi
thường thiệt hại; những đúc rút từ nghiên cứu pháp luật bồi thường thiệt hại
tại nhiều quốc gia trên thế giới đã được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu
và chia sẻ. Tuy nhiên, trên cơ sở xem xét các công trình đã đề cập, phân tích
những kết quả đạt được xét một cách toàn diện việc tiếp tục nghiên cứu, hệ
thống hoá nội dung lý luận pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động vẫn cần được tiếp tục làm rõ, phát triển và làm sâu sắc thêm đối với các
nhà nghiên cứu và việc nghiên cứu của tác giả về vấn đề lý luận pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng không ngoài mục đích đó.
1.1.2. Các nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động
Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động từ
lâu luôn là nội dung được các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học quan tâm,
điều đó thể hiện qua các luận án, luận văn, các đề tài khoa học và các bài viết
đăng tạp chí… đều đề cập về nội dung này. Qua quá trình nghiên cứu, có thể
đánh giá tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động, như sau:
Ở cấp độ Luận án tiến sĩ, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu
thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, các đề tài
hiện nay chủ yếu khai thác một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt hại, như
“Pháp luật lao động với vấn đề bảo vệ người lao động trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam” (2006) của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng, Luận án
tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [100], phân tích tương đối kỹ các
quy định của pháp luật về bảo vệ người lao động và đánh giá thực trạng thực
hiện việc bảo vệ cho người lao động trong quá trình sử dụng sức lao động trong
28
điều kiện mới. Trong đó, đã chỉ ra những bất cập của pháp luật, như: một số
quy định còn quá chi tiết, chưa hợp lý, dẫn tới việc bảo vệ người lao động chưa
linh hoạt; biện pháp bảo vệ chưa hiệu quả, nên họ còn bị vi phạm quyền lợi;
quy định người sử dụng lao động phải bồi thường vật chất nếu vi phạm quyền
nhân thân của người lao động; quy định đóng và hưởng bảo hiểm xã hội trên
lương thực tế của người lao động. Từ đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của pháp luật lao động thời điểm đó trong việc bảo vệ
các quyền, lợi ích cho người lao động. Luận án tiến sĩ “Pháp luậ n
phuo –
iến sĩ luật học, trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh [108]
n phuo
n phuo
đồng lao động; luận án rất thành công trong việc lý giải nguyên nhân của
những bất hợp lý trong việc quy định và thực tiễn thực hiện đó; đồng thời đưa
ra các quy định bồi thường thiệt hại và biện pháp đảm bảo việc thực hiện bồi
thường thiệt hại khi người lao động và người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động gây thiệt hại. Luận án Tiến sĩ “Pháp luật về An
toàn lao động ở Việt Nam” (2013) của tác giả Trần Trọng Đào, Luận án tiến sỹ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [64], làm sáng rõ các quy định của pháp luật
về an toàn lao động trong quan hệ lao động ở Việt Nam; trong đó phân tích
được các quy định về bồi thường thiệt hại khi người lao động bị tai nạn lao
động hay bệnh nghề nghiệp khi tham gia vào quan hệ lao động, nhằm ngăn
chặn, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở mức thấp nhất cho
người lao động; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho người lao động và đưa ra một
số đánh giá liên quan đến các quy định của pháp luật hiện nay chưa thực sự phù
hợp, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Như vậy, qua việc dẫn chứng các
29
đề tài Luận án trên có thể thấy, mặc dù chưa có đề tài nào tập trung trực tiếp
vấn đề thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động,
nhưng cũng đã phân tích được cơ bản các nội dung cụ thể của bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động; đồng thời cho thấy pháp luật bồi thường thiệt hại
đã có những cải tiến tích cực, mà vẫn có những “nút thắt” nhất định qua quá
trình thực hiện, cần phải được tháo gỡ trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn, dẫn
chứng cụ thể hơn về các quy định của pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động để đưa pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động được
thực hiện hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Ở cấp độ Luận văn thạc sĩ, nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động, nhiều đề tài đã được làm rõ, như:
Luận văn thạc sĩ ẹ ọng” (2004) của tác giả
Đinh Nho Bình, luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [54];
luận văn Thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam”
(2007) của tác giả Nguyễn Anh Sơn, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc
gia Hà Nội [104] và luận văn Thạc sĩ ẹ ạt Lao
đọng Viẹt Nam - Mọ ạ (2012) của tác giả
ận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội [75]. Các đề tài tập trung
phân tích thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại,
trong đó làm rõ ba loại hình bồi thường thiệt hại gồm bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và
bồi thường thiệt hại về tài sản. Ngoài ra, trong đề tài “Bồi thường thiệt hại
trong pháp luật lao động Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Sơn [104], còn
phân tích thêm một số bồi thường thiệt hại khác có liên quan như: bồi thường
thiệt hại khi người lao động bị tam giữ, tạm giam; bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng xuất khẩu lao động… Tuy nhiên, các đề tài trên chủ yếu phân
tích thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật lao
30
động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007 và các văn bản hướng
dẫn thực hiện. Luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động
Việt Nam” (2015) của tác giả Nguyễn Thị Lan Phương, luận văn thạc sĩ luật
học, Đại học Quốc gia Hà Nội [101], đã khái lược toàn bộ các nội dung thực
trạng các quy định về bồi thường thiệt hại và thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại tài sản; bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và bồi thường
thiệt hại về thu nhập; đồng thời đánh giá về bồi thường thiệt hại trong pháp
luật lao động Việt Nam và đưa ra lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Mặc dù, với mỗi loại bồi thường,
luận văn đều phân tích những ưu điểm và chỉ rõ những bất cập làm cơ sở kiến
nghị hoàn thiện; nhưng việc phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng cũng mới dừng lại ở việc làm rõ những tồn tại mang tính khái quát chưa
làm nổi bật được vấn đề đặt ra; các vụ án dẫn chứng cho từng hình thức bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng cần được hoàn thiện thêm.
Cũng tìm hiểu về thực trạng pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động, nhưng được nghiên cứu tại một địa phương cụ thể có các nghiên cứu
như: Luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014) của tác giả
Nguyễn Thị Bích Nga, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [95]
và luận văn Thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam
qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị” (2018) của tác giả Bùi Ngọc Hoàng,
luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Huế [78]. Các đề tài tập trung
làm rõ thực trạng pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại và thực tiễn áp
dụng các quy định đó trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quảng Trị, trong đó
làm rõ các quy định về bồi thường thiệt hại tiền lương; bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ; bồi thường thiệt hại về tài sản và về vi phạm hợp đồng lao
31
động; ưu điểm của các đề tài trên là đã đánh giá thực trạng pháp luật về bồi
thường thiệt hại và thực tiễn áp dụng trên từng địa phương là thành phố Đà
Nẵng và tỉnh Quảng Trị qua các nội dung những kết quả đạt được; những hạn
chế, tồn tại và chỉ rõ được nguyên nhân của những bất cập đó. Tuy nhiên, việc
đánh giá các quy định của pháp luật và các bản án được đưa vào làm dẫn chứng
để làm rõ sự phù hợp hay hạn chế của các quy định pháp luật mới chỉ mới dừng
lại ở việc liệt kê, dẫn chứng; vì thế việc tiếp tục tìm hiểu sâu nội dung này trên
cơ sở phân tích, đánh giá, dẫn chứng đa dạng hơn, cụ thể hơn là rất cần thiết.
Nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động, nhiều đề tài chỉ tiếp cận một nội dung cụ thể của pháp luật bồi thường
thiệt hại như: luận văn thạc sĩ
ng theo pháp luạt Viẹt Nam”
[103],
luận văn phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người sử dụng lao động, trong đó làm rõ các quy định của
pháp luật hiện hành về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và thực tiễn
thực hiện; phân tích cả chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật và chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; việc giải quyết các quyền lợi và nghĩa vụ
của người lao động khi bị chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật Việt
Nam; đồng thời cũng đưa ra một số tình huống tranh chấp làm rõ. Luận văn đã
phân tích, đánh giá được những quy định của pháp luật lao động thời điểm đó
trong việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
những bất cập nảy sinh khi người lao động không chấp nhận bồi thường, mức
bồi thường thiệt hại và đưa ra được những kiến nghị để khắc phục những bất
cập đó. Luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ theo pháp luật Việt Nam” (2014) của Phạm Thị Hương, luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [83], tập trung làm rõ thực tiễn áp dụng các
32
quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ trong đó phân tích kỹ hai nội dung thực trạng vấn đề xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ trong tình hình hiện nay và thực tiễn giải quyết, áp dụng các
quy định về bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ; chỉ rõ
những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện các quy
định về bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ. Tuy
nhiên, việc mới chỉ dừng lại ở việc phân tích thực trạng xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ và thực tiễn giải quyết các quy định về bồi thường do hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ và đưa ra một số giải pháp khắc phục những khó
khăn trong thực hiện cũng cần phải làm rõ thêm. Vì những thực trạng mà luận
văn đưa ra phần lớn là những nguyên nhân khách quan và các quy định được
đưa ra để khắc phục cũng đã được thay đổi. Đề tài thạc sĩ “Chế độ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại Bắc Giang” (2015) của tác giả
Lục Thị Thu Hoè, luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội [81], luận văn
làm rõ thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, trong đó tập trung phân tích về đối tượng hưởng; các trường hợp
được coi là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tỷ lệ đóng góp, mức trợ cấp bồi
thường; xử phạt vi phạm và thực tiễn thi hành chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp tại tỉnh Bắc Giang qua các nội dung kết quả đạt được, tồn tại và
nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. Ngoài ra, trong phần thực trạng luận văn còn
đề cập cả lịch sử hình thành và phát triển chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. Việc tập trung làm rõ các nội dung cụ thể là đối tượng hưởng, tỷ lệ
đóng góp, mức trợ cấp và xử lý đối với các trường hợp vi phạm là rất cần thiết,
nhất là việc áp dụng tại một địa phương cụ thể. Tuy nhiên, cũng vì phân tích rất
cụ thể về các trường hợp và áp dụng tại một địa phương là tỉnh Bắc Giang cũng
khó đánh giá hết được nội dung và bất cập của các quy định của pháp luật lao
động hiện hành. Vì thế, việc tiếp tục xem xét ở các địa phương và áp dụng cho
33
nhiều trường hợp khác là rất cần thiết và quan trọng. Đề tài luận văn Thạc sĩ
“Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra” (2012) của
tác giả Vũ Phương Thảo, luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà
Nội [109], luận văn phân tích thực trạng pháp luật bồi thường thiệt hại do người
làm công, người học nghề gây ra, tập trung vào các nội dung: nguyên tắc
chung, trách nhiệm của các chủ thể khi gây ra bồi thường về khách quan, chủ
quan khi gây thiệt hại cho cá nhân, pháp nhân sử dụng người làm công, người
học nghề. Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng quy định pháp luật
hiện nay so với trước đây, những khó khăn, tồn tại nảy sinh trong quá trình
thực hiện và các nguyên nhân có thể khắc phục tuỳ từng trường hợp và đối
tượng vi phạm gây thiệt hại. Thành công của luận văn là làm rõ được trách
nhiệm của chủ thể gây ra thiệt hại, nhất là đối với người làm công, người học
nghề; so sánh được nhưng ưu điểm của quy định hiện nay so với quy định
trước đây và đưa ra được một số giải pháp hạn chế việc gây thiệt hại trong quá
trình thực hiện công việc. Tuy nhiên, việc giới hạn chủ thể gây thiệt hại là
người làm công và người học nghề cũng khó đánh giá hết các quy định của
pháp luật hiện hành, nhất là chưa tách bạch được sự khác nhau giữa người làm
công, người lao động và các đối tượng khác. Vì thế, đây cũng là nội dung cũng
cần phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu thêm để có cái nhìn đầy đủ khách quan,
toàn diện hơn.
Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại cũng là chủ đề được lựa
chọn cho đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của nhiều nhà nghiên cứu trong
những năm vừa qua, đặc biệt phải kể đến một số nghiên cứu cấp Bộ, cấp Nhà
nước. Đề tài nghiên cứu “Hình thành quỹ bồi thường tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp” (2000), đề tài cấp bộ của Cục An toàn lao động – Bộ lao
động – Thương binh và Xã hội [60]. Với phương pháp nghiên cứu tổng hợp từ
các số liệu thứ cấp cùng với trực tiếp điều tra, nhóm tác giả có những phân
34
tích rất quan trọng về thực trạng pháp luật quy định về quỹ bồi thường, chi trả
bồi thường, hậu quả thực hiện bồi thường; trong đó bài viết phân tích những
khó khăn trong việc thực hiện quy định chi trả khi có rủi ro, biến cố, nhất là
tai nạn lao động và tính cấp thiết về việc quy định pháp luật về hình thành quỹ
bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp khi xảy ra các rủi ro liên
quan đến tính mạng và sức khoẻ cho người lao động và gia đình họ. Tuy
nhiên việc chỉ tập trung làm rõ nội dung về quỹ bảo hiểm và việc đảm bảo chi
trả khi xảy ra các rủi ro cũng khó để bao quát được những quy định của pháp
luật và thực tiễn thực hiện luôn biến đổi hiện nay, nên việc tiếp tục làm rõ nội
dung này ở nhiều phương diện khác cũng rất quan trọng. Đề tài nghiên cứu
“Đề án xây dựng quỹ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” (2008)
của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội [55], trong chương trình quốc gia
về bảo hộ lao động, vệ sinh lao động 2006 – 2010. Là một công trình quan
trọng tổng kết thực trạng thực hiện bồi thường thiệt hại trong lao động để từ
đó đưa ra mục tiêu, giải pháp thực hiện bồi thường thông qua quỹ bảo hiểm.
Đề tài có những đánh giá quan trọng về ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn và đảm bảo việc thực hiện các quy định bồi thường thiệt hại
trong quá trình lao động thông qua việc xây dựng quy định quỹ bồi thường tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đề xuất nghiên cứu các biện pháp duy trì,
thực hiện đảm bảo lâu dài; các quy định phải xây dựng có cơ sở khoa học và
thực tiễn đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả cho các doanh nghiệp đảm bảo
an toàn, vệ sinh trong quá trình sử dụng lao động. Tuy nhiên, phần lớn nội
dung của đề tài cũng mới dừng lại ở việc nghiên cứu và đưa ra phương án tạo
lập quỹ thực hiện bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; việc chưa
chú trọng làm rõ các quy định của pháp luật lao động hiện nay trong việc xác
định trách nhiệm của các bên và nghĩa vụ đảm bảo chi trả cũng là nội dung
tiếp tục được cần được hoàn thiện. Đề tài “Cơ sở khoa học và thực tiễn xây
35
dựng quy định quỹ bồi thường tai nạn lao động” (1997) đề tài cấp Bộ của tác
giả Nguyễn Đại Đồng (chủ nhiệm đề tài) [65]. Đề tài dành một phần nội dung
khá lớn để trình bày tình hình triển khai thực hiện đồng bộ các quy định pháp
luật; những kết quả đạt được và những bất cập trong tổ chức việc thực hiện
các quy định pháp luật bồi thường thiệt hại trong quá trình sử dụng lao động.
Trong đó nhấn mạnh thực trạng pháp luật về sử dụng quỹ bồi thường hiện nay
tại một số địa phương; những khó khăn khi thực hiện các quy định chi trả và
đưa ra một số giải pháp khắc phục những bất cập của các quy định pháp luật
về xây dựng quỹ bồi thường tai nạn lao động để xử lí kịp thời, hiệu quả. Tuy
nhiên, các nội dung mà đề tài đưa ra lại được phân tích trên cơ sở các quy
định của Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và
2007, do đó việc tiếp tục làm rõ nội dung này bởi các quy định của pháp luật
hiện hành là rất quan trọng và cần thiết.
Bên cạnh những Luận án, luận văn, cũng như đề tài khoa học đã nêu,
thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại cũng được nghiên cứu và công bố
trong một số cuốn sách tham khảo, sách chuyên khảo. Sách “Pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại” (1993) của các tác giả Huyền Nga, Hương
Lan, Châu Loan, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1993, -541tr.; 19cm [97], tập hợp
những văn bản luật và văn bản dưới luật; phân tích thực trạng thực hiện các
văn bản pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực khác
nhau, trong đó có lĩnh vực lao động, bảo hiểm từ trang 141 đến 196. Cuốn
sách “Chế độ bồi thường trong luật Lao động Việt Nam” (2006) của các tác
giả Nguyễn Hữu Chí (chủ biên) và Đỗ Gia Thắng, Nxb Tư pháp, 2006. -234
tr.; 20,5 cm [59]. Cuốn sách đề cập thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt
hại thông qua việc phân tích từng quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại tính
mạng, sức khoẻ cho người lao động; bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng lao động, kể cả vi phạm hợp đồng học nghề, hợp đồng xuất khẩu lao
36
động; bồi thường thiệt hại về tài sản; đưa ra các ví dụ, các tình huống làm
minh chứng cho từng trường hợp bồi thường cụ thể. Cuốn sách “Các quy
định pháp luật về bồi thường thiệt hại” (2006), Nxb Thống kê 2006. -159 tr.;
19cm [96], đề cập nội dung các quy định của pháp luật bồi thường thiệt hại
hiện nay về dân sự, kinh tế và lao động, nhất là các quy định về vi phạm hợp
đồng lao động và bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức trong quá trình tham gia
giao kết hợp đồng.
Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng
là nội dung được quan tâm thể hiện trong các bài viết đăng trên các tạp chí.
Bài viết “Giải quyết các tranh chấp về bồi thường tai nạn lao động” (1999)
của tác giả Phạm Công Bảy đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 9/1999 [49,
tr. 17-19], đã lý giải nguyên nhân, đặc thù của tranh chấp về bồi thường tai
nạn lao động xung quanh việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ khiếu
kiện, cụ thể là việc xác định trường hợp nào thì người bị tai nạn lao động
được bồi thường, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết, quan hệ của các chủ
thể trong tranh chấp và mức được bồi thường. Bài viết “Bồi thường thiệt hại
do bị tai nạn lao động” (2000) của tác giả Đỗ Ngân Bình đăng trên tạp chí
Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội, số 10/2000 [53; tr. 9-11], phân tích
các quy định của pháp luật về điều kiện lao động gồm tai nạn lao động; thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; bảo hiểm xã hội; chỉ rõ những bất cập của
quy định lao động trong bộ luật lao động và đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện. Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi đơn phương chấm dứt
hợp đồng” (2000) của tác giả Nguyễn Xuân Thu đăng trên tạp chí Luật học
của trường Đại học Luật Hà Nội, số 5 [112, tr. 50-56], phân tích các quy định
của pháp luật hiện hành về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Ngoài ra, bài viết còn
có sự đối chiếu quy định của pháp luật lao động Việt Nam với một số nước
37
trên thế giới trong thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Bài viết
thiẹ (2004) của các tác giả Tiến Long,
Nguyễn Văn Cường đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân của Toà án nhân dân
tố
[89, tr. 22-27], làm rõ các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện nay trong thực hiện bồi thường thiệt hại, trong đó làm rõ các
nguyên tắc chung, tiêu chí đưa ra và nội dung cách tính bồi thường thiệt hại
tính mạng, sức khoẻ bị xâm hại; việc áp dụng các quy định trong thực tế về
bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ. Bài viết “Trách nhiẹ
thiẹ (2004)
của tác giả Đinh Va ạp chí Tòa án nhân dân của Toà án nhân
dân tố
[102, tr. 13 – 20], đề cập các vấn đề chung về bồi
thường, quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ bị thiệt hại không chỉ chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự mà còn phải chịu trách
nhiệm bồi thường do hành vi phạm tội gây ra; đưa ra một số kiến nghị đảm
bảo việc thực hiện bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. Bài viết
ẹ ẹ (2006)
của tác giả Duo ạp chí Nhà nu ạt của
Viẹn Nhà nu ạ
[80, tr. 25-27]
ẹ
ẹ ất là ẹ
ẹ ẹ ẹ
ạt vạ
thu ẹ ọ ết ọ
ẹ ọng và trách nhiẹ
quan hẹ lao đọng theo Bọ luạt Lao đọng nam 2012” (2013) của tác giả Trần
Thị Thanh Hà, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
38
[74, tr. 22-27], phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật lao
động về hợp đồng lao động, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao
động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động; chỉ rõ những bất cập
và một số ý kiến hoàn thiện trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật
lao động hiện nay về bồi thường thiệt hại cả về căn cứ chấm dứt và thủ tục
chấm dứt hợp đồng lao động.
Đóng góp vào thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động Việt Nam, bên cạnh các nghiên cứu trong nước còn có những công
trình của các học giả nước ngoài, như: nghiên cứu “The law of restitution”
(1966) của các tác giả Robert Goff and Gareth Jones, đăng trên London:
Sweet & Maxwell [193], đưa ra các quy định về bồi thường thiệt hại, luật bồi
thường thiệt hại; nghĩa vụ bồi thường từng trường hợp và bình luận các quy
định. Nghiên cứu “Le dommage corporel et sa compensation” (1988) của tác
giả Robert Barrot đăng trên Paris: Litec [178], làm rõ những tổn thương ở các
bộ phận của cơ thể của chủ thể bị thiệt hại; xác định mốc thời gian, hoàn
cảnh, địa điểm; cơ quan có thẩm quyền và quy định giải quyết và mức bồi
thường. Nghiên cứu “Understanding the law of obligations” (1998) của tác
giả Andrew Burrows đăng trên Oxford: Hart, 1998, 223 trang [200], nêu rõ
tầm quan trọng của các luật, nghĩa vụ các chủ thể phải nắm bắt; nghĩa vụ phải
bồi thường khi cố ý vi phạm gây thiệt hại; mức bồi thường tổn thất; những
yếu tố đảm bảo bồi thường và hậu quả phát sinh. Nghiên cứu “Cases and
materials on tort and accident law” (1989) của tác giả Paul, Minn đăng trên
trang Keeton, 1989, 1318 trang [167], chia sẻ những quy định về các trường
hợp được bồi thường thiệt hại; làm rõ tai nạn lao động, tra tấn trong lao động;
nghĩa vụ của chủ thể giải quyết bồi thường; yêu cầu bồi thường và giải quyết
hậu quả phát sinh khi không thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Nghiên cứu “The
evolution of labor relations in Japan: Heavy industry 1853-1955” (1988) của
tác giả Andrew Gordon báo của trường Đại học Harvard, 1988 [190], đưa ra
39
các quy định về bồi thường thiệt hại và thực tiễn thực hiện các quy định bồi
thường thiệt hại; phân tích từng vụ án cụ thể; trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho từng trường hợp gặp rủi ro do bị tai nạn lao động, trong đó nhấn mạnh ý
nghĩa của giải quyết bồi thường thiệt hại ở các khu công nghiệp sử dụng lao
động bị tai nạn lao động cần phải được đảm bảo. Nghiên cứu “Cases and
materials on the law of restitution” (2007) của các tác giả Andrew Burrows
and Ewan McKendrick and James Edelman của trường Đại học Oxford, 1,045
trang [168], phân tích các quy định về bồi thường thiệt hại, những điểm mới
trong quy định; một số bất cập trong áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại.
Sách “Obligations” (1996) của các tác giả Boris Starck, Henri Roland,
Laurent Boyer, Nxb Paris: Litec, 1996. - 582 trang.; 24 cm [183], phân tích
các quy định nghĩa vụ của bên vi phạm phải thực hiện bồi thường; hạn chế
của các nghĩa vụ đặt ra không đảm bảo thực hiện và mức độ xử lí đối với
những nghĩa vụ thực hiện không hoàn thành. Sách “Modern Tort aw”, (2009)
của tác giả Vivienne Harpwood, Nxb Routledge – Cavendish, 2009. - 981
trang.; 27 cm [181] ọt cách co ọi
ạ ẹ ồi thường trong lĩnh vực lao
động là một trong những nội dung quan trọng để đảm bảo sự phát triển kinh tế
cho đất nước và ngược lại những quyền, lợi ích của bên gây thiệt hại không
thực hiện sẽ là nguyên nhân dẫn tới tranh chấp và sự bất ổn quan hệ lao động.
Như vậy, điểm tương đồng của các công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước trên là đã khai thác một cách khá đa dạng thực trạng pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Trong đó, các công trình trong nước
có những nghiên cứu được các tác giả tiếp cận giống nhau về mục đích, phạm
vi, nội dung thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại và một số bất cập của
quy định pháp luật lao động trong thực tiễn thực hiện bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, cũng do bối cảnh thời gian nghiên cứu nên phần lớn các công trình
40
đều được hoàn thành trước khi Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực, cho
nên đa số các tác giả chỉ có thể cập nhật đến thực tiễn thực hiện pháp luật bồi
thường thiệt hại trước thời điểm bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực, nên
những bất cập hay dự báo những khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật
cũng chưa thể thoã mãn; còn những công trình được hoàn thành sau khi Bộ
luật lao động năm 2012 có hiệu lực cũng chưa làm nổi bật các quy định của
pháp luật và thực trạng pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động. Đối với những công trình nước ngoài, các tác giả cũng đã thể
hiện rất phong phú các nội dung tiếp cận, phân tích được thực trạng pháp luật
về bồi thường thiệt hại và những khó khăn trong thực hiện của mỗi công
trình; cung cấp những cách nhìn sâu sắc về một vài nội dung của pháp luật lao
động về bồi thường thiệt hại; nhưng từ góc độ tổng quan những phát hiện này
vẫn cần có sự đồng bộ, thống nhất trong quan điểm tiếp cận, phân tích, lý giải
để làm sáng rõ thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại.
1.1.3. Các nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động
1.1.3.1. Nghiên cứu về yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động
Những yêu cầu đặt ra nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động tuỳ thuộc vào từng công trình, nghiên cứu khác nhau
mà việc đưa ra các yêu cầu cũng không giống nhau. Ở cấp độ Luận án tiến sĩ,
đến thời điểm này chưa có nghiên cứu nào về pháp luật bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động mà phần lớn các công trình đều chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt hai trong quan hệ lao
động, Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động”
(2012) của tác giả Lê Kim Dung, luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học
xã hội [69], đề cập các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại,
như đảm bảo giảm thiểu thiệt hại đối với người lao động khi bị tai nạn lao
41
động và góp phần vào việc phòng ngừa và giảm tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp; phải hướng tới một hệ thống pháp luật hiện đại đảm đảm bảo
tính khả thi do sự khác nhau về các điều kiện kinh tế, xã hội, khoa học, chính
trị và văn hoá. Luận án tiến sĩ “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động – những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2013) của tác giả Nguyễn Thị
Hoa Tâm, luận án Tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh [108] đưa ra những yêu cầu rất cụ thể để hoàn thiện pháp luật về đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động ở Việt Nam, gồm đảm bảo lợi ích của
người lao động và người sử dụng lao động khi chấm dứt quan hệ lao động;
bình ổn các quan hệ lao động trong doanh nghiệp sau khi chấm dứt một số
quan hệ lao động cá nhân; đảm bảo tính khả thi của các quy định về đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động; đảm bảo tính thống nhất của các quy
định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong mối tương
quan với các vấn đề khác có liên quan; đảm bảo tính tương thích của các quy
định pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nước ta với pháp
luật lao động quốc tế và tôn trọng tiêu chuẩn lao động quốc tế. Ở cấp độ Luận
văn thạc sĩ, các nghiên cứu đề cập yêu cầu về hoàn thiện pháp luật bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động tương đối đa dạng thể hiện trên nhiều nội
dung và hình thức thể hiện khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận của từng tác
giả, luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014) của tác giả
Nguyễn Thị Bích Nga, luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội
[95], đưa ra ba nội dung nhằm nhấn mạnh sự cần thiết yêu cầu hoàn thiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động gồm: phải quan tâm
và bảo vệ các quyền và lợi ích của các chủ thể yêu cầu xuất phát từ quan điểm
của Đảng về vấn đề giai cấp; phải bảo đảm các quyền cho người lao động,
xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là người lao động luôn phải phụ
thuộc người sử dụng lao động; đảm bảo các điều kiện hội nhập kinh tế quốc
42
tế, xuất phát từ quá trình toàn cầu hoá đã mang đến cho đất nước nhiều cơ hội
mới và cũng đặt ra nhiều thách thức mới trong quan hệ lao động. Luận văn
thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam” (2015) của
tác giả Nguyễn Thị Lan Phương, luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội [101], đề cập tới ba yêu cầu: phải đảm bảo đặt trong mối quan hệ tổng
thể, toàn diện với pháp luật lao động nói chung; phải đặt trong mối tương
quan hài hoà lợi ích giữa các bên trong quan hệ lao động; cần phải nghiên cứu
tiếp cận các quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế và các quốc gia khác về
vấn đề bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động để tiếp tục hoàn thiện
quy định của pháp luật lao động Việt Nam nhằm đảm bảo tính tương thích, sự
phù hợp với thông lệ và xu hướng chung, tiến bộ của pháp luật quốc tế. Luận
văn Thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam qua thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị” (2018) của tác giả Bùi Ngọc Hoàng, luận
văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Huế [78], làm rõ các yêu cầu phải
hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động gồm:
hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ lao động, giúp phát triển ổn định quan hệ lao
động; hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại đặt trong mối tương quan
hoàn thiện các chế định khác nhau của Bộ luật lao động. Luận văn thạc sĩ
“Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật cộng
hòa Liên bang Nga dưới góc độ so sánh” (2019) của tác giả Nguyễn Thị Thu,
luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [111], tiếp tục nhấn
mạnh các yêu cầu cơ bản như: cần phải khắc phục những yếu tố bất cập, tồn
tại trong quy định pháp luật hiện hành; mục đích bảo vệ tốt hơn quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động và đưa pháp luật Việt
Nam tiến gần hơn với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
Có thể nói việc đưa ra các yêu cầu nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại luôn là nền tảng cho những nghiên cứu giải pháp hoàn thiện
43
pháp luật về bồi thường thiệt hại của các tác giả. Tuy nhiên, trong giai đoạn
hiện nay, với sự đổi thay của điều kiện xã hội cũng như xu hướng của pháp
luật bồi thường thiệt hại trên thế giới thì các yêu cầu hoàn thiện pháp luật bồi
thường thiệt hại cũng cần được nghiên cứu bổ sung và phát triển hơn.
1.1.3.2. Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động là một nội dung được nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới ở nhiều
mức độ khác nhau. Ở cấp độ Luận án tiến sĩ phần lớn các nghiên cứu mới chỉ
dừng lại việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ở một nội dung cụ
thể của pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, như: “Hoàn
thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động” (2012) của tác giả Lê Kim
Dung, luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội [69], đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động, như hoàn
thiện cơ sở pháp lý về bồi thường tai nạn lao động; hoàn thiện các quy định
bảo đảm tính dễ tiếp cận và mở rộng độ bao phủ của pháp luật về bồi thường
tai nạn lao động; hoàn thiện các quy định đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật
về bồi thường tai nạn lao động; hoàn thiện các quy định đảm bảo tính chia sẻ
rủi ro và tính công bằng của pháp luật về bồi thường tai nạn lao động và hoàn
thiện đảm bảo tính chủ động phòng ngừa cũng như tính bền vững của pháp
luật về bồi thường tai nạn lao động. Những giải pháp này đáp ứng các yêu cầu
của tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động, nhằm đảm
bảo cho các quy định của pháp luật về bồi thường tai nạn lao động phù hợp
yêu cầu của thực tiễn và khả thi. Luận án “Pháp luật về đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động - những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2013) của tác giả
Nguyễn Thị Hoa Tâm, luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh [108], đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đơn
44
phương chấm dứt hợp đồng lao động ở Việt Nam, gồm: hoàn thiện các quy
định của pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trên cơ sở
phân tích mười sáu quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và
việc đảm bảo các quyền, nghĩa vụ của mỗi bên và có dẫn chứng ở các nước
trên thế giới; đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Ở cấp
độ luận văn thạc sĩ các công trình cũng tiếp cận về giải pháp, kiến nghị tương
đối đa dạng, luận văn Thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động
Việt Nam” (2007) của tác giả Nguyễn Anh Sơn, luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội [104], đã đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại trong luật lao động, bao gồm: đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tôn trọng quyền tự định đoạt; nhấn
mạnh các giải pháp về bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ người lao
động; bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; bồi thường về tài sản và
hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường lao động. Luận văn thạc sĩ “Bồi
thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014) của tác giả Nguyễn Thị Bích Nga, Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [95], phân tích một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động ở Việt
Nam như hoàn thiện về thủ tục ban hành nội quy lao động; hoàn thiện pháp
luật về bồi thường thiệt hại tài sản; hoàn thiện pháp luật lao động về hợp đồng
lao động khi người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động vì lí do kinh tế,
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và sa thải trái pháp luật; một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
trong pháp luật lao động Việt Nam; đồng thời đưa ra một số kiến nghị rút ra
từ thực tiễn tại địa bàn thành phố Đà Nẵng cả về các quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại, cả về tổ chức thực hiện. Luận văn thạc sĩ “Bồi thường
45
thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam” (2015) của tác giả Nguyễn Thị
Lan Phương, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội [101], làm rõ
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về pháp luật bồi thường thiệt
hại trong lao động như bồi thường thiệt hại về tài sản; bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ; bồi thường thiệt hại về vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại về tiền lương; đồng thời đưa ra một số kiến nghị về tổ chức thực hiện
nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại theo
luật lao động Việt Nam. Luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật
lao động Việt Nam qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị” (2018) của tác
giả Bùi Ngọc Hoàng, luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Huế [78],
đề cập sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại
và giải pháp hoàn thiện những hạn chế, bất cập về bồi thường thiệt hại đối với
tiền lương, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng lao động và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật lao động về bồi thường thiệt hại. Tuy đã phân tích được các quy định
pháp luật và một số nội dung về bồi thường thiệt hại cũng như đưa ra được
một số bản án tại địa bàn Quảng Trị, nhưng việc giới hạn về phạm vi và dẫn
chứng cũng chưa thể hiện được nhiều các quy định của pháp luật lao động
hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Luận văn thạc sĩ
“Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam và pháp luật cộng
hoà Liên bang Nga dưới góc độ so sánh” (2019) của Nguyễn Thị Thu, luận
văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội [111], tập trung một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại, như: hoàn
thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại tài sản; bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ; bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật và bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp
46
khác; đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại như đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật, tăng
cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành với doanh nghiệp và người lao động.
Mặc dù, luận văn đưa ra các nội dung cơ bản về bồi thường thiệt hại như: về
tài sản; bồi thường về tính mạng, sức khoẻ và về đơn phương chấm dứt hợp
đồng và một số trường hợp khác; nhưng phần lớn làm rõ sự khác nhau của
quy định pháp luật lao động Việt Nam với quy định của pháp luật Liên Bang
Nga.
Bên cạnh các công trình luận án, luận văn thì một số cuốn sách chuyên
khảo cũng tập trung nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động. Sách chuyên khảo “Chế độ bồi thường trong
luật Lao động Việt Nam” (2006) của các tác giả Nguyễn Hữu Chí (chủ biên)
và Đỗ Gia Thắng, Nxb Tư pháp, 2006. -234 tr.; 20,5 cm [59], cuốn sách đưa
ra một kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện chế độ bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ cho người lao động; về vi phạm hợp đồng lao động và về
thiệt hại tài sản, trong đó có những tình huống viện dẫn để phân tích làm rõ.
Sách “Các biẹ ẹ ẹ
luạt Viẹt Nam” (2010) của tác giả Đỗ Văn Đại (chủ biên), Nxb Chính trị
Quốc gia, 2010. -444 tr., 20,5 cm [61]. Cuốn sách đề cập về vấn đề hoàn thiện
pháp luật trên cơ sở đưa ra các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng và quy định của pháp luật phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
đồng thời đề xuất một số cách thức nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
các quy định của pháp luật và đảm bảo các quyền, lợi ích cho bên bị thiệt hại
trong thực tế.
Ngoài ra, một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành cũng tập
trung luận bàn về giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động, như: bài viết “Quỹ bồi thường tai nạn lao động của các
47
nước trong khu vực và khả năng áp dụng vào Việt Nam” (1998) của tác giả
Lê Kim Dung đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội của Bộ Lao động -
Thương binh xã hội, số 135/1998, nhấn mạnh hoàn thiện các quy định về quỹ
bồi thường thiệt hại là tất yếu, trong đó tập trung phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành về quỹ, những bất cập trong quá trình áp dụng trong thực
tế về quỹ bồi thường tai nạn lao động và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật hiện nay nhằm đảm bảo thực hiện việc chi trả của các nước trên thế
giới hướng đến áp dụng ở Việt Nam. Bài viết ẹ
(2004) của các tác giả
Van Cu
, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
[89, tr. 22 – 27], bàn về cách tính bồi thường thiệt hại khi tính
mạng, sức khoẻ bị xâm hại trong các trường hợp cụ thể về mức độ thiệt hại,
lỗi, yếu tố khách quan, chủ quan, thái độ hợp tác và trong một số trường hợp
còn xét cả yếu tố kinh tế của người gây thiệt hại. Bài viết “Hoàn thiẹ
ẹ ọng đon phuo
ọng trái pháp luạt” (2011)
ạp pháp của Văn phòng Quốc hội,
[76, tr. 12-17], bài viết xác định cần phải hoàn thiện quy định trách nhiệm của
người sử dụng lao động trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bồi thường khi
người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động xuất phát từ
bản chất của quan hệ lao động; đồng thời cũng đưa ra những trường hợp bất
khả kháng có thể xảy ra trong quan hệ lao động buộc phải đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động. Bài viết ọ
ọng và trách nhiẹ thiẹ ẹ lao đọng
theo Bọ luạt Lao đọng nam 2012” (2013) của tác giả
trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
[74, tr.
22 – 27], phân tích những giải pháp buộc người lao động và người sử dụng
48
lao động phải thực hiện bồi thường khi gây ra thiệt hại trong quan hệ lao
động; trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đảm bảo
các quyền, nghĩa vụ cho các chủ thể trong quan hệ lao động.
Bên cạnh nhiều công trình nghiên cứu trong nước, các học giả nước
ngoài cũng đóng góp những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật
bồi thường thiệt hại trong một số nghiên cứu của họ. Nghiên cứu “Cases and
materials on equitable remedies, restitution and damages” (1986) của các tác
giả Robert N. Leavell, Jean C. Love, Grant S. Nelson đăng trên West Pub.
Co., 1986 [167], đưa ra được các yêu cầu cơ bản, các biện pháp giải quyết
công bằng về vật chất khi bị xâm phạm các lợi ích; các quy tắc đảm bảo được
thực hiện và cơ chế duy trì việc thực hiện bồi thường thiệt hại về vật chất cho
chủ thể bị gây thiệt hại. Nghiên cứu “The evolution of labor relations in
Japan: Heavy industry 1853-1955” (1988) của tác giả Andrew Gordon đăng
trên Đại học Harvard, c''1988 [190], nhấn mạnh ý nghĩa và sự tất yếu của quá
trình hoàn thiện pháp luật giải quyết bồi thường ở các khu công nghiệp, nhất
là khu công nghiệp nặng và công nghiệp công nghệ sử dụng lao động bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cần phải được đảm bảo bồi thường. Nghiên
cứu “Remedies for torts and breach of contract” (2004) của tác giả Andrew
Burrows, đăng tên Đại học Oxford, c2004 [188], lý giải ý nghĩa của bồi
thường; nghĩa vụ bồi thường; trách nhiệm bồi thường khi có tổn thất xảy ra;
các vi phạm liên hoàn và những biện pháp đảm bảo thực hiện bồi thường. Đặc
biệt, nghiên cứu đã chỉ ra được những quyền lợi trong hợp đồng sẽ được bồi
thường và có thể được bồi thường một số nội dung ngoài hợp đồng. Nghiên
cứu “Industrial relations around the world: Labor relations for multinational
companier” (2005) của các tác giả Miriam Rothman, Dennis R. Briscoe,
Raoul C.D. Nacamulli [175], đề cao tầm quan trọng của việc hoàn thiện các
quy định pháp luật và việc chia sẻ kinh nghiệm của các quốc gia về giải quyết
49
tranh chấp lao động liên quan đến bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động giữa giới chủ và thợ. Trong đó, nhấn mạnh ý nghĩa của việc đảm bảo bồi
thường là cơ sở duy trì ổn định quan hệ lao động và thái độ của mỗi bên trong
quá trình tham gia quan hệ lao động. Sách “The Future of Labour law”
(2004), của các tác giả Catherine Barnard, Simon Deakin and Gillians Morris,
đăng trên Portland Oregon [191], đề cập các nọi dung hoàn thiện pháp luật về
ọng (tr.101 – 128); đon phuo
lao đọng (tr.119); n ọ
– 147). Sách “Globalization and the future of labour law”
(2006) của các tác giả John D.R. Craig and S. Michael Lynk [174], làm rõ vai
trò của hoàn thiện pháp luật về các nộ ẹ ọc
thôi viẹc khi lao đọ
đu ẹc và đu ong tuong đuo
viẹ ọc thôi viẹc khi người lao động lạp gia đình
trong quá trình làm viẹc. Sách “Compensation” (2011) của các tác giả
George T. Milkovich, Jerry M. Newman, Barry Gerhart, Nxb New York:
McGraw - Hill Irwin, 2011, 689 tr, 24cm, [172], lý giải những yêu cầu cần
thiết bồi thường thiệt hại; đưa ra các biện pháp đảm bảo bồi thường thiệt hại
và tính tất yếu thực hiện biện pháp bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể nói ở những mức độ khác nhau các công trình nghiên cứu
trên đã phân tích, bình luận có giá trị về các quy định pháp luật bồi thường thiệt
hại và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam cũng như ở các quốc gia. Trong đó, có
đề tài phân tích trực tiếp pháp luật bồi thường thiệt hại, có đề tài chỉ tiếp cận
một khía cạnh, một nội dung cụ thể của pháp luật bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại chủ yếu được thực hiện và
công bố trước thời điểm Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực; do đó thực
trạng quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại chưa cập nhật được hệ thống
50
văn bản mới. Một số luận án, luận văn, đề tài khoa học và bài viết đăng trên tạp
chí được viết sau khi Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực dù đã cập nhật
những nội dung của quy định mới; nhưng hoặc chỉ khai thác một vài khía cạnh
của nội dung bồi thường thiệt hại trong lao động hoặc tiếp cận quy định mới
nhưng vụ án đưa ra làm minh chứng lại trên cơ sở xử lý của quy định trước
đây; do đó chưa phản ánh được một cách tổng quát về toàn bộ hệ thống pháp
luật bồi thường thiệt hại trong lao động. Các công trình khoa học trong và
ngoài nước cũng đã trình bày, phân tích, đánh giá những thành công, hạn chế
trong thực tiễn thực hiện pháp luật bồi thường thiệt hại của quan hệ lao động.
Tuy nhiên, do góc độ hay mức độ tiếp cận các vấn đề đó khác nhau, đánh giá
của các tác giả không giống nhau, nên tuỳ từng công trình mà việc thể hiện các
nội dung chưa luận giải một cách sâu sắc, toàn diện; các vụ án đưa ra làm dẫn
chứng mới chưa làm nổi rõ được vấn đề đã đề cập. Có thể nói, các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước đã phác hoạ lên những nét vẽ cơ bản cho “bức tranh”
thực trạng pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để “bức tranh” ấy được sắc nét hơn, ý nghĩa hơn rất cần có thêm
những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về hệ thống pháp luật bồi thường thiệt
hại hiện hành và thực trạng thực hiện các quy định đó được đảm bảo hơn.
1.2. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề còn tồn tại, cần nghiên cứu trong đề tài luận án
1.2.1. Những vấn đề luận án kế thừa trong quá trình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu tổng quan được luận giải trên cho thấy các nghiên
cứu trong nước và ngoài nước đã xây dựng được nền móng lý luận cơ bản cho
bồi thường thiệt hại và pháp luật bồi thường thiệt hại trên thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng. Các công trình đã để lại cho tác giả và những nhà nghiên
cứu khác những thành tựu quan trọng có thể kế thừa như:
51
Thứ nhất, các công trình đã cung cấp một số kiến thức lý luận chung về
bồi thường thiệt hại và pháp luật bồi thường thiệt hại với những nội dung cơ
bản, như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, vai trò, nguyên tắc, chức năng… trong
đó về cơ bản đã có sự kế thừa và tiến bộ trong quá trình nghiên cứu từ nhiều
công trình trước theo dòng lịch sử. Những kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần
quan trọng vào việc nghiên cứu chuyên sâu lý luận về bồi thường thiệt hại và
pháp luật bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, nhiều công trình đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu điểm,
nhược điểm của quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại; những kết quả đạt
được, những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật bồi thường
thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động nói riêng.
Những giá trị nghiên cứu này gắn với từng giai đoạn lịch sử cụ thể; đặc biệt tại
thời điểm trước khi luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu
lực thi hành, có ý nghĩa gợi mở hướng nghiên cứu cho những nghiên cứu tiếp
theo về thực trạng pháp luật bồi thường thiệt hại Việt Nam hiện hành.
Thứ ba, một số công trình có những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp
luật bồi thường thiệt hại, đặc biệt là những nghiên cứu về kinh nghiệm pháp lý
quốc tế được xác định là những thành tựu có thể kế thừa, phát huy trong một
nghiên cứu vừa mang tính chuyên sâu, vừa mang tính tổng quát về pháp luật
bồi thường thiệt hại.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Dựa trên kết quả nghiên cứu về tình hình nghiên cứu và những nội dung
được kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước đây, với phạm vi nghiên cứu
của mình, tác giả nhận thấy một số nội dung cần tiếp tục làm sâu sắc hơn, có
tính hệ thống, toàn diện và đầy đủ hơn; phù hợp với mục đích nghiên cứu mà
đề tài đã đặt ra. Cụ thể, luận án cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề sau:
52
Hệ thống hoá và làm sâu sắc hơn các vấn đề lí luận về bồi thường thiệt
hại, sự điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động;
đưa ra và phân tích được các khái niệm; đặc điểm; phân loại; các căn cứ làm
phát sinh bồi thường thiệt hại và sự điều chỉnh của pháp luật lao động về bồi
thường thiệt hại, trong đó có tiếp cận với các quan điểm, học thuyết tiến bộ trên
thế giới, các quy định của tổ chức lao động quốc tế, quy định pháp luật của các
quốc gia về bồi thường thiệt hại; đặc biệt là có so sánh với các lĩnh vực khác về
dân sự, thương mại do Luật Dân sự, Luật Thương mại điều chỉnh.
Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật lao động Việt Nam hiện hành
về bồi thường thiệt hại và thực tiễn thực hiện trong quan hệ lao động như: bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động của người lao động và người sử
dụng lao động; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho người lao động
và bồi thường thiệt hại về tài sản của người lao động cho người sử dụng lao
động. Trong đó, tập trung phân tích các quy định pháp luật lao động hiện hành,
dẫn chứng những vụ án cụ thể được xét xử gần nhất trên phạm vi cả nước để
làm rõ những ưu điểm và bất cập của các quy định pháp luật hiện hành, lý giải
nguyên nhân của những hạn chế đó; từ đó có những kiến nghị được xác đáng
nhằm khắc phục những bất cập đó.
Nghiên cứu những yêu cầu hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam hiện
hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, trong đó chỉ rõ những lý
do, nguyên nhân tất yếu yêu cầu phải hoàn thiện những quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; từ đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo cá
quyền và lợi ích cho các chủ thể trong quan hệ lao động và một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
Từ việc xác định các vấn đề nghiên cứu, tác giả luận án tập trung vào ba
nội dung chính: những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại và sự điều chỉnh
53
của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; thực tiễn thực
hiện pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động.
1.3. Cơ sở lý thuyết, hƣớng tiếp cận nghiên cứu và giả thiết nghiên
cứu
1.3.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án đã sử dụng một số lý thuyết sau:
Các học thuyết, tư tưởng về quyền con người dựa trên nguyên tắc: dân
chủ, tự do, công bằng, bình đẳng.
Học thuyết Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người,
về Nhà nước và pháp luật.
Các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội; xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam; về đảm bảo quyền
con người; về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động người sử
dụng lao động trong nền kinh tế thị trường; về vị trí, chức năng và vai trò của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá.
Ngoài ra, luận án còn dựa trên các Tuyên ngôn, các Công ước quốc tế, các
khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế và các quy định của pháp luật các
quốc gia.
1.3.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống các công trình nghiên cứu trong nước và
ngoài nước đã được thu thập có liên quan đến đề tài luận án, phân tích
những kết quả đạt được; một số bất cập; nguyên nhân của bất cập và một số
giải pháp, kiến nghị các công trình đã đưa ra hay những vấn đề còn bỏ ngỏ
của từng công trình.... Luận án sẽ kế thừa có chọn lọc trên cơ sở phân tích,
54
đánh giá các kết quả nghiên cứu đó. Từ đó, đưa ra những quan điểm của
mình về vấn đề nghiên cứu.
Cùng với việc nghiên cứu trực tiếp các quy định pháp luật lao động
hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động; luận án sẽ xem xét
quá trình thực hiện những quy định này trong thực tiễn trên cơ sở các quy
định, các vụ án, việc giải quyết các vụ án; từ đó có những đánh giá toàn diện
các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động, làm tiền đề đề đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay.
1.3.3. Giả thiết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Với mục đích làm sâu sắc thêm pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại
cả về phương diện lý luận và thực tiễn thực hiện; tác giả cần làm rõ ý nghĩa
cũng như những đặc điểm và nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động. Từ đó, làm cơ sở để soi chiếu vào thực tiễn thực hiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật lao động hiện nay
qua những kết quả đạt được; những tồn tại, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của
những bất cập đó. Từ đó đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động. Luận án đã xác định các giả thiết nghiên cứu và các
câu hỏi nghiên cứu tập trung vào ba vấn đề lớn mà đề tài luận án cần nghiên
cứu, đó là: lý luận, thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động hiện nay. Để giải quyết được vấn đề này, tác
giả đặt ra các giả thuyết nghiên cứu và các câu hỏi như sau:
Giả thiết nghiên cứu chung: Ở Việt Nam, nền tảng lý luận về bồi thường
thiệt hại, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động đã được xây dựng,
nhưng chưa hoàn chỉnh; thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi
55
thường thiệt hại; nhất là sau sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao
động năm 2012 có hiệu lực từ 1/5/2013 chưa được nghiên cứu tổng thể.
Câu hỏi nghiên cứu chung: Ở Việt Nam hiện nay đã xây dựng nền tảng lý
luận về bồi thường thiệt hại và pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động chưa? Những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động cần làm rõ. Sự điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động hiện nay. Những điểm khác nhau giữa bồi thường thiệt hại
trong lĩnh vực lao động so với bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực dân sự,
thương mại do Luật Dân sự, Luật Thương mại điều chỉnh và sự khác biệt trong
quy định về vấn đề này giữa Việt Nam so với các nước. Thực trạng pháp luật
Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động và thực tiễn
thực hiện như thế nào? Các yêu cầu đặt ra và những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
Để làm rõ các giả thiết nghiên cứu chung và trả lời các câu hỏi nghiên cứu
chung, luận án cần phải làm rõ các giả thiết nghiên cứu cụ thể và trả lời các câu
hỏi nghiên cứu cụ thể trong các mảng nghiên cứu sau:
Một là, đối với vấn đề nghiên cứu lý luận:
Giả thiết nghiên cứu cụ thể về lý luận bồi thường thiệt hại, pháp luật bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động: các quan niệm về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động hiện nay. Sự khác nhau giữa bồi thường thiệt hại trong
lao động với các lĩnh vực khác và các quốc gia trên thế giới. Các vấn đề lý luận
về pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động chưa được luận giải
một cách có hệ thống, sâu sắc và toàn diện.
Câu hỏi nghiên cứu cụ thể về lý luận bồi thường thiệt hại, pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động: Bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động là gì? Những điểm khác nhau giữa bồi thường thiệt hại trong lao động so
với các lĩnh vực khác và pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động khác gì so với các nước? Những đặc trưng của bồi thường thường
56
thiệt hại trong quan hệ lao động. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động. Những căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động và làm rõ sự điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động.
Hai là, đối với vấn đề nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động và thực tiễn thực hiện.
Giả thiết nghiên cứu về thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động: Pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại qua
thực tiễn thực hiện cho thấy vẫn còn những bất cập cả về đối tượng tham gia;
quyền lợi hưởng; quỹ bồi thường và vấn đề quản lý, tổ chức thực hiện bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
Câu hỏi nghiên cứu cụ thể về thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động: Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bồi thường
thiệt hại có đảm bảo các quyền, lợi ích cho các chủ thể trong quan hệ lao động
không? Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao
động hiện nay. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khoẻ cho người lao động. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại tài sản
cho người sử dụng lao động. Những kết quả đạt được, những bất cập và nguyên
nhân những bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động.
Ba là, đối với vấn đề nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
Giả thiết nghiên cứu về kiến nghị: nhu cầu thực tiễn cuộc sống và thực
tiễn thực hiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động hiện hành
đang đòi hỏi những kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt
hại và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại
tromg quan hệ lao động để phù hợp với tình hình mới.
57
Câu hỏi nghiên cứu về kiến nghị: Vì sao phải hoàn thiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động? Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Pháp luật Việt Nam hiện nay về bồi
thường thiệt hại cần được sửa đổi, bổ sung hay thay đổi những nội dung nào?
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động.
Kết luận chƣơng 1
Nghiên cứu về bồi thường thiệt hại và pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động luôn là nội dung được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà
khoa học quan tâm và tiếp cận ở những mức độ khác nhau. Theo tìm hiểu và
nhận thức của tác giả đến thời điểm tác giả tiếp cận dưới góc độ luật học thì ở
Việt Nam chưa có một luận án Tiến sĩ nào trực tiếp nghiên cứu về bồi thường
thiệt hại, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Một số công
trình luận án, luận văn, đề tài khoa học và các bài viết đăng tạp chí đã công bố
ở trong và ngoài nước viết về vấn đề này đã phân tích, dẫn chứng, bình luận có
giá trị những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại, thực trạng pháp luật về bồi
thường thiệt hại; chứng minh những kết quả đạt được được, những khó khăn,
tồn tại và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại. Trong
đó, có đề tài phân tích trực tiếp bồi thường thiệt hại, pháp luật bồi thường thiệt
hại; có đề tài chỉ tiếp cận tập trung một nội dung cụ thể của bồi thường thiệt
hại, như: bồi thường tài sản, bồi thường tính mạng, sức khoẻ, bồi thường vi
phạm hợp đồng lao động hay bồi thường thu nhập của các bên trong quan hệ
lao động. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện theo quy
định của Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006 và 2007,
nên quá trình phân tích các nội dung chưa cập nhật được hệ thống văn bản mới;
còn các nghiên cứu được viết sau Bộ luật lao động năm 2012 dù đã bổ sung các
58
quy định mới, nhưng cũng chưa làm rõ, đầy đủ, chưa bao quát được nội dung
bồi thường thiệt hại, pháp luật bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Vì
thế, trên cơ sở các công trình được tổng quan tại chương 1, tác giả tiếp tục kế
thừa các thành tựu của người đi trước, tiếp thu có chọn lọc để tiếp tục hoàn
thiện, đóng góp vào thành công của luận án.
59
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
QUAN HỆ LAO ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
2.1. Một số vấn đề lí luận về bồi thƣờng thiệt hại trong quan hệ lao động
2.1.1. Khái niẹm và đặc điểm củ ẹ trong quan hệ
lao động.
2.1.1.1. Khái niệm
Xã hội là sự hợp thành của các mối quan hệ đa dạng, phức tạp giữa các
chủ thể với nhau, đó có thể là mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, có thể là
mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức và với Nhà nước. Trong những mối
quan hệ này, các chủ thể không thể thực hiện hay đảm bảo các quyền, lợi ích
của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác; bởi
vì quyền của chủ thể này luôn bị giới hạn bởi quyền của chủ thể khác. Nói
cách khác, khi một chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình làm gây tổn
hại cho chủ thể khác thì chính chủ thể đó phải chịu hậu quả bất lợi do hành vi
của mình gây ra và ngược lại. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù
đắp tổn thất cho chủ thể khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Thực tế thực
hiện cho thấy nếu việc hưởng và thực hiện quyền tự do cá nhân của con người
là nhu cầu khách quan, thì sự tồn tại của khả năng xâm phạm quyền, lợi ích và
gây thiệt hại cho chủ thể khác cũng luôn song hành. Vì thế, vấn đề thiệt hại và
bồi thường thiệt hại luôn được quan tâm trong lĩnh vực lao động nói riêng và
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung từ trước đến nay.
Lịch sử phát triển quyền con người trong xã hội cho thấy các quyền của
mỗi người là sự kết tinh của các mối quan hệ xã hội giữa người với người.
Montesquieu – nhà tư tưởng lỗi lạc của thời kì khai sáng đã đúc kết bằng chân
lí “Tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì mà không gây thiệt hại cho
60
người khác”. Tư tưởng đó tiếp tục được nhấn mạnh trong Điều 4 Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Cộng hoà Pháp “Tự do bao gồm
quyền có thể làm mọi điều không gây hại cho người khác…” và tiếp tục được
đúc kết thành “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người” [67, tr. 628]. Như vậy, các quan điểm trên
đều chỉ rõ việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi chủ thể phải trên cơ sở
tôn trọng quy tắc chung không được vượt qua những khuôn khổ các quy định,
không được vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên,
trong thực tế cuộc sống của con người luôn phải đối diện với vô vàn sự phức
tạp mà không phải lúc nào họ cũng điều khiển được hành vi của mình theo
đúng những chuẩn mực của lí trí hay của pháp luật. Do đó, hành vi vi phạm
cố ý hoặc vô ý; trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho người khác có thể xảy
ra bất cứ lúc nào, đòi hỏi cần phải được xử lí đảm bảo các quyền, lợi ích cho
một trong hai bên khi xảy ra vi phạm. Trường hợp nếu có sự vi phạm gây
thiệt hại trong quá trình thực hiện thì cũng phải có nghĩa vụ bồi thường hay bị
trừng phạt tương ứng dựa trên mức độ vi phạm. Từ đó hạn chế, ngăn ngừa
việc vi phạm hay tái diễn và để mỗi người trong xã hội ý thức tự giác; chấp
hành các quy tắc, hạn chế gây thiệt hại cho người khác.
Dưới góc độ kinh tế, bồi thường thiệt hại là một công cụ quan trọng để
giải quyết các hậu quả mà thiệt hại đem lại. Theo đó bên bị thiệt hại sẽ được
bên gây thiệt hại đền bù một khoản tiền nhất định và khoản tiền này có thể sử
dụng để giải quyết hoặc đảm bảo phần nào những rủi ro thiệt hại về vật chất
hay tinh thần; trong một số trường hợp là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng;
còn bên gây ra thiệt hại qua đó phải bù đắp cho hành vi gây thiệt hại của
mình. Thực tế ẹ ỏi yêu cầu về
đạt ra nhu ẹ i thu ải
chịu trách nhiẹ ệt hạ ệt hạ
61
thực hiệ ệt hại và cơ quan có thẩm quyền giải quyết bồi
thường thiệt hại sẽ được đặt ra để khắc phục hậu quả của thiệt hại, bù đắp
được các tổn thất đã xảy ra.
Dưới góc độ pháp lý, bồi thường thiệt hại có thể hiểu là sự đền bù bằng
vật chất đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà chủ thể gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chủ thể bị
thiệt hại. Những quyền và lợi ích hợp pháp này có thể bao gồm quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, tư liệu sản xuất, vốn góp trong doanh nghiệp, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Trong Đại Từ điển tiếng Việt, bồi thường là “đền bù những tổn thất đã
gây ra” [135, tr. 191]; còn trong Từ điển tiếng Việt, bồi thường được hiểu là
“trả lại cho người khác cái có giá trị (thường biểu hiện bằng tiền) tương
xứng với những thiệt hại mà mình đã gây ra”. Về giải thích thuật ngữ thiệt
hại, trong Từ điển tiếng Việt thì thiệt hại là “bị mất mát về của cải, vật chất
hoặc tinh thần” [140, tr. 943]; theo Đại từ điển tiếng Việt, thiệt hại được hiểu
là “mất mát, hư hỏng nặng về người và của” [135, tr. 1571]. Còn trong Từ
điển giải thích thuật ngữ Luật học thì “Bồi thường thiệt hại là hình thức trách
nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả
bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất tinh thần cho bên bị
thiệt hại” [131, tr. 31]. Như vậy, bồi thường thiệt hại được hiểu là sự đền bù
bằng tiền đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm. Theo đó, bên gây thiệt hại trả lại cho bên bị thiệt
hại một vật có giá trị (thường là tiền) tương đương với những mất mát về vật
chất hoặc tinh thần mà họ đã gây ra cho bên bị thiệt hại. Qua đó, chủ thể bị
thiệt hại được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp mà đáng lẽ họ sẽ được
hưởng nếu không có sự vi phạm. Hành vi này nhằm điều hòa và giải quyết
62
các mối quan hệ trong xã hội, củng cố sự phát triển hài hòa của cộng đồng.
Tuy nhiên tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực mà việc giải quyết bồi thường thiệt hại
cũng có sự khác nhau.
Trong lĩnh vực dân sự, chủ thể gây thiệt hại trái pháp luật phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại do mình gây ra, bao gồm cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt
hại gián tiếp. Nghĩa vụ này bắt đầu là sự trả thù cá nhân nhằm vào nhân thân
của người gây thiệt hại do người bị thiệt hại và những người thân của người bị
thiệt hại áp dụng, dần dần chuyển sang hình thức phạt tài sản có lợi cho người
bị thiệt hại. Tuy nhiên, việc phạt tài sản cũng có sự khác nhau: thời điểm đầu
phạt tài sản do người bị hại quy định với tính chất là sự cưỡng chế cá nhân, sau
dần đến phạt tiền bồi thường thiệt hại do pháp quan thay mặt nhà nước áp dụng
theo quy định và trình tự tố tụng (pháp luật và luật tục La Mã).
Trong lĩnh vực thương mạ ẹ ọ ẹ
ẹ ẹ ủ
thể là thương nhân tham gia hoạt động thương mại khi giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại để đảm bảo thoả mãn mục tiêu của mình sẽ không tránh
khỏi những trường hợp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên
kia, nên phải bồi thường những tổn thất cho bên bị thiệt hạ
ị thiệt hạ
bên yêu cầu
bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất.
Việc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực thương mại có thể được hai bên thỏa
thuận với nhau thông qua các điều khoản trong hợp đồng thương mại. Trường
hợp các bên không thể tự giải quyết bằng con đường thương lượng, hoà giải
thì vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ được giải quyết thông qua các phương thức
khác như Trọng tài, Tòa án.
63
Tương tự như trong lĩnh vực dân sự hay thương mại, trong lĩnh vực lao
độ ẹt hại cũng được đặt ra tuỳ từng chủ thể, mức độ vi
phạm, mức độ tổn thất, thái độ… mà việc quy định bồi thường và giải quyết
bồi thường cũng có sự khác nhau. Nhưng, khác với quan hệ dân sự, chủ thể
gây thiệt hại trái pháp luật phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra,
gồm cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp; thì trong lĩnh vực lao
động tuỳ trường hợp cụ thể mà bên gây thiệt hại có thể bồi thường một phần
thiệt hại hoặc toàn bộ thiệt hại. Tức là, người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường
những thiệt hại trực tiếp từ hành vi vi phạm của mình, chứ không phải bồi
thường những thiệt hại gián tiếp. Tuy nhiên, trong lĩnh vực lao động, việc
thực hiện bồi thường thiệt hại đượ ể
thu ẹt ọng giữa các chủ thể; có thể
thu ẹ ời lao động và cũng có thể
ẹ ời lao động gây thiẹ ổn thất, mất mát, hư
hỏ của người sử dụng lao độ ẹ
ẹ ạt lao đsọ ẹ
ẹ ẹ xã họi thuọ
luạt lao đọng; hành vi gây thiẹ ạ
ời lao động hoạc người sử dụng lao độ
ạt lao đọng.
Về khái niệm bồi thường thiệt hại trong Luật Lao động, cũng đã có một số
quan điểm, bài viết, giáo trình đề cập, như: ẹ ạt lao
đọng là mọ ẹm pháp lý phát sinh khi mọt bên trong quan hẹ lao
đọ ẹ
tìn ẹ
củ ểm tương tự, trong
luận văn “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động việt Nam và thực tiễn
64
áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” tác giả Nguyễn Thị Bích Nga tiếp
tục nhấn mạnh: “là mọ ẹm pháp lý phát sinh khi mọt bên trong
quan hẹ lao đọ ạt lao đọng, gây thiẹ
cho ngu ẹ Như vậy, các quan điểm này đã chỉ rõ bồi thường thiệt
hại khi có “hành vi vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho bên kia” và yêu cầu bồi
thường nhằm “khôi phục tình trạng tài sản”, nhưng có quan điểm chỉ rõ có sự
“vi phạm pháp luật lao động” và có quan điểm chỉ dừng lại “vi phạm nghĩa
vụ” gây thiệt hại trong quan hệ lao động.
Trong giáo trình Luạt lao đọ ờng Đại học Luạt Hà Nọi không
ẹ ật lao đua ra mọ ẹ
độ ẹ ạ
hệ lao động, mọt tru ẹ ọng nhu sau:
ẹ ạ ẹ lao đọ
người lao độ ẹ ời sử dụng
lao độ ạt lao đọ ẹm
gây ra” [130, tr. 336]. Tuo vạy, trong giáo trình Luạt lao đọ
Viẹn Đại họ ộ ẹ
ật lao độ ẹm vạ
Theo đó, “Trách nhiẹm vạ ọ ẹm pháp lý do ngu
ọ ọ ọc ngu
đọ ẹ ạ ọng
do hành ạt lao đọ ẹm gây ra”
[138, tr. 298]. Theo các cách định nghĩa này, có thể hiểu nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại ở đây chỉ là trách nhiệm của người lao động phải bồi thường về “vật
chất”, “tài sản” do hành vi vi phạm “kỉ luật lao động” hay “hợp đồng trách
nhiệm” gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Thực chất đây là việc bồi
65
thường thiệt hại về tài sản theo sự cam kết, thực hiện trách nhiệm dân sự của
người lao động với người sử dụng lao động, nên không phản ánh hết nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại của các bên trong quan hệ lao động bao gồm cả người lao
động và người sử dụng lao động [95, tr. 265].
Như vậy, từ các quan điểm và khái niệm trên có thể nói, ẹ
“là trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên chủ thể trong
quan hệ lao động có hành vi trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể
bên kia, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần cho bên
bị thiệt hại”. ẹ quan hệ lao động là mọ
trách nhiẹm pháp lý đu ạt lao đọng và
ẹ ẹn pháp cu ẹ đu
ẹ ệ lao độ sinh khi mọ thu
quan hẹ ệt hạ
bên kia, trái với quy định của pháp luật hay thoả thuận của các bên gây thiẹ
ẹ ẹ
vạ ẹ
Viẹ ọ thiẹ
ẹ
ẹ ẹ
trò của thực hiện bồi thườ ạt lao đọ
ề tham gia vào quan hẹ lao đọng [61, tr. 12].
2.1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
Trong quá trình tham gia vào quan hệ lao động, vì nhiều lí do khác khau
giữa các chủ thể là người lao động hay người sử dụng lao động có thể có sự vi
phạm trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ lao động, thì phải có trách nhiệm
bồi thường. Đó có thể là bồi thường do vi phạm thực hiện hợp đồng lao động;
vi phạm về an toàn, vệ sinh lao động ảnh hưởng tới tính mạng, sức khoẻ hay
66
vi phạm về kỉ luật lao động gây thiệt hại về tài sản. Thực tế, phần lớn các quan
hệ bồi thường do luật dân sự điều chỉnh; nhưng cũng tồn tại những quan hệ bồi
thường trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật khác,
trong đó có luật lao động. Vì vậy, việc thực hiện bồi thường trong quan hệ lao
động bên cạnh những đặc điểm chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng và đảm bảo thực hiện; áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật; luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng thì bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động còn có những đặc điểm riêng sau đây:
i. Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là các bên trong quan hệ
lao động, đó là người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao
động, khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở hợp đồng lao
động, thoả ước lao động tập thể hay các thoả thuận khác, người lao động khó
có thể tránh khỏi những sơ suất, vô ý gây ra thiệt hại về tài sản cho người sử
dụng lao động và ngược lại, người sử dụng lao động vì mục tiêu của mình
hoặc do điều kiện nào đó không thuận lợi mà không đảm bảo an toàn, vệ sinh
lao động gây thiệt hại cho người lao động về tính mạng, sức khoẻ, nhân cách.
Điều này có sự khác biệt với lĩnh vực dân sự do Luật Dân sự điều chỉnh vì,
chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại trong Luật Dân sự có thể là cá
nhân, tổ chức bất kì thoả mãn điều kiện của Luật Dân sự.
ii. Về quan hệ phát sinh bồi thường
ẹ ọng phát sinh trên co ọt quan
hẹ lao đọng, du ọ ọng. Nghĩa là, điều chỉnh quan
hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao
động trên cơ sở thuê mướn và trả công sức lao động theo nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và đảm bảo các quyền và lợi
ích của mỗi bên. Điều này có sự khác biệt so với lĩnh vực dân sự do Luật Dân
67
ẹ ạ sự điều chỉnh, bởi vì trách nhiẹ
ẹ
hành vi gây thiẹ
ẹ ọt quan hẹ
thiẹ hành vi đó trái pháp luạt và gây thiẹ
ẹt ọ Mạ ẹ
ọng, ngu ọ
quan hẹ ẹ ự
ẹ ạ .
iii. Về phạm vi và nội dung bồi thường thiệt hại
Quan hệ ẹ
hẹ lao đọng và hành vi gây thiẹ ẹ
ẹ ẹ lao đọ
ẹ lao đọng hoạ
ẹ lao đọng gây ra, nhung không phả
ẹ ọ ợc xem là bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Nội dung thực hiện bồi thường này
khác nhiều với nghĩa vụ bồi thường trong dân sự; bởi vì trong lĩnh vực dân sự
do luật dân sự điều chỉnh có quan hệ thừa kế. Theo đó, người thừa kế của
người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại không phải thực hiện nghĩa vụ
bồi thường từ các hành vi vi phạm của người để lại thừa kế.
Như vậy, có thể ẹ ẹ
Luạt Lao đọ ồm ch ẹ ẹ
các bên trong quan hẹ xã họi thuọ ạt Lao đọng;
hành vi gây thiẹ ạ
ời lao động hoạc người sử dụng lao độ ạt
lao đọng.
68
ẹ ệ lao động
2.1.2.1. Đối với người lao động
Trong quan hệ lao động, thì người lao động là ngu
vào quá trình lao đọng, sản xuất, vận hành máy móc, thiết bị; vận chuyển
ạ hàng hoá... Vì thế ngu ộ
ị ọng hoạc co tiềm ẩn gây thiẹ
bẹ ẹ
ẹ đáng khi thiẹ ọ
n ẹ lao đọng hoạ
ẹ ạ trong cuọ ẹc pháp luạt lao đọ
ời sử dụng lao độ ọ
ạc buọc người sử dụng lao độ
ẹ gu ọng gạ
ẹ trình lao đọng nhu thiẹ ạng; về nhân
phẩm; về thu nhập; thiẹ ị vi phạm thực hiện hợp đồ
ẹ ọng.
2.1.2.2. Đối với người sử dụng lao động
Cũng giống như người lao động, người sử dụng lao động là một bên
trong quan hệ lao động, là người phải bỏ ra các chi phí để đầu tư máy móc,
thiết bị; tài sản; vốn… để hình thành và duy trì quan hệ lao động; nên khi
người lao động vi phạm kỉ luật lao động làm hư hỏng, mất, thiệt hại về tài sản
làm ảnh hưởng quá trình sản xuất kinh doanh; tạo những bất ổn trong quan hệ
doanh nghiệp thì cũng phải có nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại mà người
lao động gây ra. Thực tế, khi tham gia quan hệ lao động, để thực hiện được
nghĩa vụ lao động mà người sử dụng lao động phân công theo hợp đồng lao
động hay các thoả thuận đã giao kết thì người lao động được trao cho những
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định như quyền quản lí, sử dụng, bảo quản,
69
lưu giữ các trang thiết bị máy móc, phương tiện, vật tư, sản phẩm thuộc quyền
sở hữu của đơn vị và người lao động phải có trách nhiệm sử dụng, bảo quản
và giữ gìn. Tuy nhiên, để duy trì ổn định quan hệ lao động, đảm bảo quyền lợi
cho người sử dụng lao động và nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao
động nếu trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động mà người
lao động vi phạm kỉ luật lao động làm thiệt hại đến tài sản của người sử dụng
lao động, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành vi vi
phạm của họ gây ra nhằm bù đắp những thiệt hại mà người sử dụng lao động
phải gánh chịu.
2.1.2.3. Đối với nhà nước và xã hội
Trong quan hệ lao đọng, việ ả thuận của các bên trong
hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hay quy định khác như nọi quy
lao đọng, kỷ luật lao động; an toàn, vệ sinh lao động đối với các bên trong quan
hệ lao động là rất quan trọ ẹ ở để
n ệ ẹ lao độ
ẹ ề tài sản; tính mạng, sức khoẻ; hạn chế được
những thiệt hạ ẹ
thu ng thiẹ ối vớ ạt, ra
ẹ xã
họ ẹ ạt lao
đọ
ẹ ọ ảm bả
ẹ
Đối với xã hội, các quy định về bồi thường thiệt hại nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật của các chủ thể, từ đó hạn chế được những thiệt hại đáng tiếc có
thể xảy ra trong lao động, trong xã hội. Bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động là sự cụ thể hóa quy định trong Hiến pháp 2013, theo đó “mọi người có
70
nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” [16]. Nghĩa vụ này một mặt loại
bỏ việc đề cao quyền tự do cá nhân; mặt khác xác định trách nhiệm của chủ
thể đối với hoạt động của chính mình trước quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Bồi thường thiệt hại góp phần giáo dục, răn đe và nâng cao ý
thức pháp luật cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Ý thức
pháp luật ở đây là ý thức chấp hành quy định của pháp luật, như người lao
động phải tuân thủ kỷ luật lao động, nội quy lao động còn người sử dụng lao
động phải đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động; đóng bảo hiểm xã hội...
2.1.3. Phân loại bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
Phân loại bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động hiện nay có nhiều
căn cứ, tiêu chí như: căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
căn cứ vào quan hệ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, căn cứ vào
nội dung bồi thường thiệt hại, căn cứ vào thiệt hại xảy ra... mà có những cách
phân loại không giống nhau.
2.1.3.1. Căn cứ vào chủ thể bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại do người lao động thực hiện trong quan hệ lao động.
Bồi thường thiệt hại này phát sinh khi người lao động có hành vi vi phạm nội
quy, quy định của người sử dụng lao động làm mất, hư hỏng tài sản, máy móc
thiết bị của người sử dụng lao động hoặc vi phạm trong việc thực hiện hợp
đồng lao động mà các bên đã thoả thuận, ký kết gây thiệt hại cho người sử
dụng lao động. Có thể thấy người sử dụng lao động tham gia vào quan hệ lao
động họ phải đầu tư vốn; máy móc, thiết bị, công nghệ và tài sản nhằm đảm
bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, khi tài sản của người sử dụng lao
động bị thiệt hại do người lao động gây ra thì người sử dụng lao động phải
được bồi thường. Trong pháp luật lao động, đây được coi là một trong những
biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm các quyền của người sử dụng lao động. Bên
cạnh đó, người sử dụng lao động còn được bồi thường thiệt hại trong trường
71
hợp người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Khi người lao
động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động
cũng có những quyền hạn nhất định như không phải trả trợ cấp thôi việc cho
người lao động và người lao động cũng phải bồi thường những thiệt hại mà
các bên đã thoả thuận trong hợp đồng lao động hay các thoả thuận khác.
Ngoài ra, trong quá trình tham gia vào quan hệ lao động, theo quy định của
pháp luật để tập thể người lao động đạt được những yêu cầu nhất định trong
quá trình giải quyết tranh chấp lao động có thể tiến hành đình công, nhưng
trong trường hợp đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao
động thì tổ chức công đoàn lãnh đạo đình công phải thực hiện việc bồi thường
thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại do người sử dụng lao động thực hiện trong quan hệ
lao động. Đối với người lao động, biện pháp bồi thường thiệt hại được áp dụng
ở nhiều lĩnh vực, như: bồi thường thiệt hại khi người lao động tham gia vào
quan hệ lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ảnh hưởng tới tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm; bồi thường thiệt hại trong trường hợp người sử
dụng lao động vi phạm việc chấm dứt hợp đồng lao động gây thiệt hại cho ng-
ười lao động... Thực tế, khi tham gia vào quan hệ lao động, mục đích cơ bản và
xuyên suốt của người lao động là để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia
đình. Vì vậy, nếu người sử dụng lao động có lỗi hoặc gặp rủi ro khách quan
gây ra dẫn tới tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; doanh nghiệp gặp khó khăn
trong kinh doanh; trả lương chậm, ngừng việc thì phải bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ; tiền lương cho người lao động. Ngoài việc bồi thường
thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; bồi thường về tiền lương thì người lao động
còn được bồi thường trong trường hợp người sử dụng lao động vi phạm hợp
đồng lao động. Cũng như các trường hợp bồi thường thiệt hại khác, việc bồi
thường thiệt hại khi người sử dụng lao động vi phạm hợp đồng lao động cũng
72
nhằm mục đích bảo đảm quyền của người lao động; nâng cao ý thức pháp luật
của người sử dụng lao động. Vì vậy, khi người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật gây thiệt hại cho người lao động, kể
cả trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi cơ cấu, công nghệ và vì
lí do kinh tế đều phải bồi thường thiệt hại cho người lao động.
Mục đích của việc đưa ra căn cứ phân loại này không chỉ đảm bảo bù
đắp những tổn thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần; bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể bị thiệt hại trong quan hệ lao động, mà
còn góp phần tôn trọng sự thoả thuận, giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật
của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động.
2.1.3.2. Căn cứ vào ý chí của các bên trong quan hệ lao động
Bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận của hai bên trong quan hệ lao động.
Đây là trường hợp bồi thường thiệt hại do các bên trong quan hệ lao động là
người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận trước hoặc sau khi thiệt
hại xảy ra hoặc xảy ra tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mặc dù tôn
trọng quyền thoả thuận của các bên; nhưng xuất phát từ bản chất quan hệ lao
động là người lao động luôn ở vị thế yếu hơn, phải phụ thuộc vào người sử
dụng lao động, nên pháp luật lao động với đặc thù bảo vệ người lao động, duy
trì và phát triển sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã đưa ra
những giới hạn hay “ngưỡng” pháp lý nhất định, nhằm đảm bảo sự công bằng
về quyền lợi cho người lao động và hạn chế sự lạm dụng quyền hạn của người
sử dụng lao động trong thoả thuận của hai bên trong tất cả các nội dung như:
tiền lương tối thiểu trong quy định về tiền lương; thời giờ làm thêm giờ, thời
giờ làm việc vào ban đêm, thời giờ làm việc rút ngắn trong quy định về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; mức đóng, thời gian đóng, chủ thể đóng
trong quy định về bảo hiểm xã hội; các điều kiện bắt buộc “cứng” trong quy
định về an toàn lao động, vệ sinh lao động... Nhằm bảo vệ người lao động khi
73
tham gia vào quan hệ lao động, hạn chế sự lạm dụng của người sử dụng lao
động trong quá trình sử dụng sức lao động.
Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật: Đây là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp pháp luật đã có các quy định.
Trên cơ sở các quy định này là căn cứ để tính toán, xem xét việc thực hiện bồi
thường theo những điều kiện nhất định như: thiệt hại xảy ra; mức độ thiệt hại; ý
thức vi phạm; hành vi vi phạm; lỗi… mà không dựa vào thoả thuận của các bên,
không quan tâm việc các bên trước đó có thoả thuận hay không. Mục đích của
việc đưa ra các quy định này trong quan hệ lao động cũng xuất phát từ bản chất
của quan hệ lao động là người lao động luôn ở vị thế “yếu hơn” và phải phụ
thuộc vào người sử dụng lao động. Đồng thời, nhằm đảm bảo việc duy trì quan
hệ lao động, nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của hai bên.
2.1.3.3. Căn cứ vào nội dung bồi thường thiệt hại
Căn cứ vào nội dung bồi thường, có thể chia bồi thường thiệt hại thành
những loại sau:
Bồi thường thiệt hại do chấm dứt hợp đồng trái pháp luật: Khi giao kết
hợp đồng lao động, các bên có quyền tự do thỏa thuận các yêu cầu, nội dung
theo ý chí của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Nhưng sau khi hợp
đồng lao động đã có hiệu lực thì nội dung của hợp đồng lại ràng buộc quyền,
nghĩa vụ các bên; mỗi bên tham gia vào trong quan hệ lao động phải tuân thủ
những thoả thuận mà họ đã cam kết. Do đó, bên nào có hành vi vi phạm hợp
đồng lao động gây ra thiệt hại sẽ phải có nghĩa vụ bồi thường cho bên kia theo
những nội dung mà mình đã thoả thuận căn cứ vào mức độ thiệt hại, hành vi vi
phạm gây thiệt hại, yếu tố lỗi và trong một số trường hợp còn có thể căn cứ vào
điều kiện kinh tế của bên gây thiệt hại nhất là người lao động trong quan hệ lao
động để thực hiện việc bồi thường. Yếu tố này vừa thể hiện tính nhân văn, vừa
đảm bảo việc thực hiện việc bồi thường thiệt hại.
74
Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe: là trách nhiệm của người
sử dụng lao động đối với người lao động khi xảy ra tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp trong quá trình sử dụng sức lao động ảnh hưởng tới tính mạng,
sức khoẻ của người lao động. Bên cạnh việc đầu tư tài sản, máy móc, thiết bị
hình thành quan hệ lao động, duy trì quan hệ lao động để đảm bảo mục tiêu
lợi nhuận thì quá trình sử dụng sức lao động cũng luôn tiềm ẩn các rủi ro
nhất là ở những nơi môi trường lao động, điều kiện lao động không được
đảm bảo. Do vậy, việc pháp luật đưa ra các quy định bắt buộc “cứng” để
đảm bảo an toàn, vệ sinh trong lao động; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, nhân
cách cho người lao động trong quan hệ lao động, nhằm ngăn ngừa, hạn chế
các rủi ro, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Bồi thường thiệt hại về tài sản: Là trách nhiệm bồi thường thiệt hại chủ
yếu của người lao động khi có hành vi vi phạm kỷ luật lao động hoặc thiếu
tinh thần trách nhiệm trong thực hiện công việc gây ra làm tổn thất, hư hỏng,
mất mát về tài sản của người sử dụng lao động. Mục đích đưa ra quy định này
nhằm đảm bảo và tăng cường kỉ luật lao động trong đơn vị; nâng cao ý thức
chấp hành kỷ luật lao động đối với người lao động. Đồng thời, cũng đảm bảo
quyền sử dụng hợp pháp đối với vốn và tài sản trong doanh nghiệp, đảm bảo
sự đền bù một phần hay toàn bộ thiệt hại về tài sản cho người sử dụng.
2.1.4. Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động
Bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động là biệ
ản; tính mạ ẩ ẹ
khi mọt bên trong quan hẹ lao đọng có hành
thiẹ iẹc thực hiệ ọ ẹ
ạ ẹ
ủ thể ẹ lao đọng. Do đó viẹ
75
thu ẹ ạm nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng lao động và
quy định của pháp luật gây thiẹ ủ thể ọt
cách tùy tiẹn, vô ca ẹ lao đọng thì ngu ọ
ị coi là “yếu thế” (chỉ có sức lao động để tham gia vào quan hệ
mối quan hệ này). Vì thế, bên cạnh những điểm tương đồng với Luật Dân sự
về căn cứ bồi thường như: phải có hành vi vi phạm, có thiệt hại xảy ra; có mối
quan hệ giữa thiệt hại và hành vi vi phạm và có lỗi thì việc thực hiện bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động cũng có những đặc điểm riêng mang
tính đặc thù.
2.1.4.1. ẹ
Hành vi vi phạm gây thiệt hại ở đây được hiểu là những hành vi trái quy
định của pháp luật hay thoả thuận của các bên cho dù là có hành động hay
không hành động. Trong đó, hành vi hành động vẫn là chủ yế ẹ
hành đọ ạt; còn hành vi không hành
đọng, tứ ẹ ạ ẹn
hoạ ẹ ạt, nên gây thiẹ
họi chỉ có trọng một số trường hợp nhất định.
ệt hại là hành vi trái pháp luạt lao đọ
ẹm pháp luạt lao đọ ẹn mọ ạ
ẹ lao đọng đu ạ ẹ
nhiẹm pháp lý tương ứ lao đọ
ẹ ạt lao đọ
lao đọng đu ạ ẹ ể hiện trong nội
quy lao động của đơn vị ả thuận của các bên trướ
ọng làm gây thiệt hại cho người sử dụng lao độ
ọ ủa pháp luậ
vẹ sinh lao đọng gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ cho người lao động
76
hoặ ọng mà các bên đã thoả thuận trước đó gây thiệt
hại cho người lao động.
Như vậy, căn cứ phát sinh trách nhiẹ ẹ
độ ạt lao đọ trong lĩnh vực dân sự
ải thoả mãn yếu tố phả ệt hại. Tuy nhiên,
nếu như bồi thường trong lĩnh vực dân sự quy đị ẹ
ạ ẹ
thu 1 thì ca ực lao
ộ đọng không c
ọi quy đo pháp luạt lao độ ờ
lao đọng đặt ra. Tức là, khi ngu ọng muốn yêu cầu bồi thường
ọng thì phải có quy định trong nội quy mới thực vật chấ
ọ hiện đượ ẹ
ọng. ngu
ạt lao đọ
ậ ẹ lao đọ ẹ sinh lao
đọ ọ
ạn trong
quan hẹ lao đọng liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên kia, nhu
ội dung trong hợp đồng lao độ ọng tạ
phạm nội quy lao động. Mặc dù được tách ra trong quá trình làm rõ, nhưng
thực chất xem xét đế
ạn củ
ạt lao đọng. Bở 1 Khoản 1 Điều 584 Bộ Luât Dân sự năm 2015.
77
ạ
pháp luật lao động về các nội dung cụ thể nhu ong; việc làm; an toàn lao
động, vệ sinh lao động; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
họi… và thực tế căn cứ vào các quy định pháp luạt làm cơ
sở để giải quyết nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên; nên
bên gây thiệt hại có thể chỉ bồi thường một phần thiệt hại hoặc toàn bộ thiệt
hại. Điều này có sự khác biệt so với lĩnh vực dân sự, vì trong quan hệ dân sự,
chủ thể gây thiệt hại trái pháp luật phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình
gây ra, bao gồm cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
2.1.4.2. Có thiẹ
Thiệt hại theo nghĩa thông thường được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng
nề về người và của” [134, tr. 1571]. ẹt thì thiẹ
“bị mất mát về của cải, vật chất hoặc tinh thần” [140, tr. 943]. Trong pháp
luật của nhiều quốc gia đều đưa ra quan điểm “Thiệt hại là tổn thất về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật
bảo vệ” [131, tr. 118]. Như vậy, có thể nói thiẹ ẹc mọ
ạ ạ ạ
nguyên nhân c ạc khách quan nào đó. Đây được xem là mọ
ọ ẹ ọ
ẹ trách nhiẹ
Trong quan hẹ lao đọng để thực hiện bồi thườ ệt hại xảy ra
dù là thiẹ ải chứng minh đượ
trong quan hẹ lao đọng. Bởi vì, ngu ọng khi tham gia vào quan hẹ lao
đọng, xác lập hợp đồng lao độ
ả ạ ể nuôi sống bản thân và gia đình. Còn
ngu ọng tham gia vào quan hệ lao động, để hình thành quan hệ
78
lao động họ phải đầ n, máy móc thiết bị, công nghệ… nên, họ không
chỉ ạt động sản xuất kinh doanh ổn
đị ạn từ các chi phí đã đầu tư đó. Thiệt hại
trong quan hệ lao động chính là việc mấ hư hỏ
lu ợi nhuận của người sử dụng lao động hay tính mạng, sức
khoẻ, nhân cách của người lao động mà lẽ ra các bên xứng đáng được hưởng
nếu không có sự vi phạm. Đối với thiệt hại về tài sản, trong quan hệ lao động
để thực hiện được các nghĩa vụ lao động do người sử dụng lao động giao,
người lao động có thể được giao sử dụng, bảo quản, lưu giữ những máy móc,
thiết bị; nếu làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại
tài sản của người sử dụng lao động, thì phải bồi thường theo thoả thuận của
các bên hay theo quy định của nội quy lao động hay các quy định khác mà người sử dụng lao động đưa ra2 . Đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của
người lao động, để duy trì quan hệ lao động được ổn định, bền vững thì người
sử dụng lao động được pháp luật trao cho quyền quản lí, điều hành đối với
người lao động. Nhưng, người sử dụng lao động cũng phải có nghĩa vụ để
đảm bảo tính mạng, sức khoẻ cho người lao động, theo đó nếu người sử dụng
lao động không đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, để xảy ra tai nạn, bệnh
nghề nghiệp cho người lao động thì phải bồi thường tương ứng mức độ tổn
thất mà người lao động phải gánh chịu. Đối với thiệt hại do vi phạm hợp đồng
lao động của một trong hai bên quan hệ lao động, theo đó khi giao kết hợp
đồng lao động các bên đều có các quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mình theo sự
thoả thuận mà các bên đã thống nhất; nếu một trong hai bên vi phạm hợp
đồng, không thực hiện nghĩa vụ hay thực hiện không đúng những cam kết mà
các bên đã thoả thuận gây tổn thất cho phía bên kia thì phải có nghĩa vụ bồi
thường tương ứng mức độ thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong quan hệ
2 Khoản 1 Điều 130 Bộ Luật lao động năm 2012.
79
lao động không phải cứ có thiệt hại xảy ra là phải thực hiện bồi thường mà
phải trên những nguyên tắc nhất định, như: căn cứ ức độ thiệt
hại, nguyên nhân, thái độ, hậu quả và trong một số trường hợp còn cả hoàn
cảnh gia đình… Vì vậy, khi đánh giá mọt thiẹ ẹc tính
ạn thiẹ ọt cách khách quan, toán trách nhiẹ
hợp lí. Có thiẹ ẹ
hiẹ ạ ọ ụt, hư hỏ
liẹ ọng; sự mất mát, thiệt hại về
ự ọng hay do một trong hai bên đơn phương
chấm dứt hợp đồng trái pháp luật gây thiệt hạ ạt ra trách nhiệ
thu ẹ
Thiẹ ạt Lao đọ phần lớn là thiẹ ạ
Ngoài ra, trong một số trường hợp có thể xem xét thêm về yếu tố tổn thất tinh
thần. Thiệt hại về vật chất là thiệt hại thực tế tính được thành tiền như tổn thất
tài sản (bị giảm, mất; hư hỏng), các chi phí hợp lí để khắc phục thiệt hại; thu nhập bị mất hoặc giảm;3 còn thiệt hại tinh thần là thiệt hại không tính được
bằng tiền như danh dự, uy tín, nhân thân. Viẹ ẹ ệt hại
trong lĩnh vực lao động có sự khác nhau tuỳ thuộc vào từng chủ thể, đ
ngu ọ ọ thiẹt hạ ọ
ọ ồi thường nhiều lần và có thể
vào luong hàng tháng nếu thiệt hại không quá nghiêm trọng. So với quy định
trong Luật Dân sự thì nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
Lao động có sự khác biệt cơ bản. Trong quan hẹ ẹ
ạ ọ thiẹ
ẹ ẹ ồi thường thiệt
ẹ
hại trong lĩnh vực lao đọng thì tùy tru 3 Điều 37 Bộ Luật Dân sự năm 2015.
80
ẹ ọ ạc toàn bọ thiẹ ẹ
ẹ
ẹ ủ tục áp dụng trách nhiẹ
ạt Lao đọng theo mọ
ẹn cho tạ ọ
trách nhiẹ ẹ ạ ại yêu cầu nhất quán là
nhanh, gọn, đơn giản thuận tiện.
quan hẹ ẹ ẹ
xảy ra
Đây cũng là yếu tố rất quan trọ ẹn luôn nọ ạ
ạt biẹ ứ để xem
xét việc thực hiện bồi thường thiệt hạ ẹ ạn đọng nọ
pháp luạ ẹ
thiẹ ức là, trách nhiẹ ẹ ẹ
ực tế, mọt thiẹ
mọt hoạ ạt hay vi phạm nghĩa vụ lao động và
ngu ọt hành vi trái pháp luạt hay vi phạm nghĩa vụ lao độ
ẹ
pháp luạt gây thiẹ ọc lạ ọ
ẹn tuợ ẹ
đồng thờ ẹ ọt hành vi trái
pháp luạ
na t sinh thiẹ ạ
ẹ ẹ
ọ
khác tác đọng vào. Hành vi trái pháp luạ ng ra gây
81
ẹ thiẹ
ạ ẹ ẹ
ẹ ẹ ẹ
ạ ẹ
ẹn liên quan mọt cách toàn diẹ
thạ ạ
ẹ
ạ ọc lạp ẹ
ẹ ẹn, hiẹn tu hoạ
ạ ạ ẹ na
ng th ẹ hiẹ
ạ
ẹ ọ và hạ
ọ ẹ
ọt hành vi gây thiẹ ọ ạ
ọ
ẹ
mọ ọi. Nhu
ẹn hành vi gây thiẹ
hành vi trái pháp luạt gây thiẹ
là thu ẹ
ẹ u lọ ọ
ọt ngu ọt trong các ca
ẹ ạt lao đọng là bên gây thiẹ
ẹ
82
thiẹ ẹ ẹ pháp luạt lao đọ
ọ không đu ạ
ọ ẹ g mọ ọ
ẹ ểm tương đồ
ẹ ạt Lao đọ trong Luạ
đu ọt bên nhạ
ả thuận củ ạt lao đọ
ọng, trong thoả ước lao động tập thể làm gây
thiẹ ẹ ạc
ọ ạc cho thiẹ
ng gây ra thiẹ
ạ ẹ y ra hoạ
thiẹ ẹ ạ n chạn đu
ẹ ọng hay thiẹ
ẹ ạ
ẹ ẹ ản trong quan hẹ lao
đọ ọng
pháp luạt lao đọng trong tru ọ
thiẹ ạ ẹ
ẹ
ẹ [95].
ẹ đọ ẹ ời sử
ạ dụng lao độ ời sử dụng lao
ẹ độ
Tuy nhiên trong lĩnh vực lao động do Luật Lao động điều chỉnh cũng có
83
sự khác biệ ực dân sự do Luật Dân sự điều chỉnh thể hiện ở
chỗ luôn đề ẹ ngu ọng. Trong quan hệ bồi thường thiệt hạ
ạt Dân
ẹ ẹ ọ
thu ẹ ẹ ẹ ạt Lao
đọng thì viẹ ẹ
trách nhiẹ ẹ ạt Lao đọ
ngu ọ , nhu
thu ọng như: bị tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp
hoạc có tru ọ ạt lao đọng làm gây thiẹ
cho người sử dụng lao động, nhung ngu ọ
ờng hợp bất khả kháng. ẹm vạ
ẹ ững căn cứ ọ Như vậ
ẹ ẹ ẹ lao
đọng (như: có hành vi vi phạm gây thiệt hại; thiệt hại xảy ra; có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xả
ẹ ọng ngoài các yếu tố trên thì tuỳ nhiẹ
thuộc các quy định của từng quốc gia mà có thể xem
ng, kinh nghiẹm làm nhu
viẹc và mức độ ời lao độ ứ phát sinh bồi
ệc thực hiện bồi thường, đảm bảo cuọ g cho thườ
ọ ọng. ngu
2.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại trong quan hệ lao
động
2.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội, hành vi gây thiẹ
của một trong hai bên cho dù cố ý hay vô ý mà gây tổn thấ
ấ ạ ệt hại là mọ
84
ẹ ạ
giai đoạ ẹc quy định và
thực hiệ ẹ ống nhau căn cứ
o ẹ
Thông thường, trong đời sống xã hội và pháp luật thì việc giải quyết đền
bù những tổn thất gây ra chủ yếu bằng con đường pháp luật dân sự. Tuy nhiên,
nếu xảy ra trong quan hệ lao động hoặc có sự tham gia của một hoặc cả hai bên
chủ thể của quan hệ lao động thì do luật lao động điều chỉ
trách nhiẹ ẹ ạt lao đọ ẹ
trách nhiẹ ẹ ạ g pháp luạ
ẹ ẹ ẹ
bên đã gây ra cho nhau, thì trong pháp luạt lao đọng, trách nhiẹ
thiẹ ng cu ạt lao đọ
trách nhiẹ ỗ ẹ người lao động.
Trong quan hệ lao động, các chủ thể khi giao kết hợp đồng lao động đều
có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Để đảm bảo thoả mãn được mục
tiêu của mình, giữa các chủ thể là người lao động và người sử dụng lao động có
thể xảy ra những hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích của mỗi bên trong quan
hệ đó. Khi thực hiện nghĩa vụ lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao
động để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình thì người lao động khó có
thể tránh khỏi những sơ suất, sai sót cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người sử
dụng lao động. Ngược lại, người sử dụng lao động vì yêu cầu duy trì quan hệ
lao động, đảm bảo mục tiêu lợi nhuận hay những hoàn cảnh bất đắc dĩ nào đó
mà vi phạm nghĩa vụ đã thoả thuận gây thiệt hại cho người lao động về tính
mạng, sức khoẻ. Để ngăn chặn và khắc phục hậu quả của những hành vi vi
phạm gây thiệt hại, Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó,
bồi thường thiệt hại có thể được coi là một phương tiện pháp lý quan trọng để
85
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động.
ẹ ọ
trách nhiẹ ọt ngu
ẹ ạt lao đọ
ạt lao đọng và quan hẹ lao đọ
ọ ẹ lao đọ người lao động
và người sử dụng lao động được hình thành trên cơ sở thuê mướn và trả công
sức lao động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, không trái pháp
luật nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích của mỗi bên ẹ
trong quá trình lao đọ người lao động hoạc người sử dụng lao động
ẹ lao đọ ẹ
ẹ này.
Nói tóm lại, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại nhằm buộc
bên vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho bên kia phải khắc phục
hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất vật chất, sức khoẻ, tinh thần mà mình
đã gây ra nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích cho bên bị thiệt hại.
2.2.2. Vai trò của pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại
Quan hệ lao động là quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ lao động,
được xác lập trên cơ sở pháp luật lao động, bao gồm các tiêu chuẩn về lao
động, cơ chế xác lập và vận hành quan hệ lao động, thiết chế giải quyết tranh
chấp lao động và vai trò của các bên trong quan hệ lao động. Để đảm bảo
quyền và lợi ích của các chủ thể, hạn chế được các tranh chấp và duy tri ổn
định của quan hệ lao động thì vấn đề pháp luật lao động về bồi thường thiệt
hại luôn được quan tâm.
86
Pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể trong quan hệ lao động. Đối với người lao động, khi
tham gia vào quan hệ lao động để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình,
họ phải trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; luôn
phải đối diện với các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, tác động tới tính mạng, sức khoẻ
khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động như: vận
hành máy móc, thiết bị, đi lại... Vì thế, các quy định của pháp luật lao động về
bồi thường thiệt hại bảo vệ cho người lao động khi bị xâm phạm về tính
mạng, sức khoẻ và nhân cách; hạn chế sự lạm dụng của người sử dụng lao
động trong quá trình sử dụng sức lao động và duy trì ổn định quan hệ lao
động. Đối với người sử dụng lao động, khi tham gia vào quan hệ lao động để
có lợi nhuận họ phải đầu tư vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ rất tốn kém và
dễ bị tổn thất do hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động gây
thiệt hại. Vì thế, các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại là điều
kiện đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng lao động, bảo vệ tài sản, đảm bảo
quá trình sản xuất luôn được duy trì và khắc phục hậu quả cho người sử dụng
lao động.
Pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại góp phần củng cố quan hệ
lao động. Các quy định của pháp luật về bồi thường khi có hành vi vi phạm
gây thiệt hại đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động;
tạo điều kiện để các chủ thể trong quan hệ lao động nhận thức được vai trò, vị
trí và nghĩa vụ của mình vừa hạn chế những mâu thuẫn nảy sinh, vừa giúp
cho các chủ thể thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động.
Người lao động về tâm lí sẽ yên tâm lao động sản xuất, đóng góp, cống hiến
vì nếu gặp rủi ro sẽ được bồi thường xứng đáng. Ngược lại, người sử dụng lao
động cũng được đảm bảo khi người lao động vi phạm kỷ luật lao động gây
thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường một phần hoặc toàn bộ những
87
thiệt hại đã gây ra, tạo điều kiện để người sư dụng lao động khắc phục được
những thiệt hại bị xâm hại để tiếp tục duy trì quan hệ lao động.
Pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm; tinh thần, thái độ đối với các chủ thể trong quan hệ lao động.
Đối với người lao động, tham gia vào quan hệ lao động bán sức lao động để
có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình và để đạt được mục tiêu đó trong
quá trình lao động họ có thể vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại. Vì thế,
các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại có tác dụng giáo dục, răn đe,
ngăn ngừa người lao động tránh gây thiệt hại; có ý thức tự giác chấp hành tốt
các nội quy, quy định về kỷ luật lao động. Đối với người sử dụng lao động
trong quá trình khai thác sức lao động để duy trì hoạt động sản xuất, kinh
doanh; thoả mãn mục tiêu lợi nhuận thì họ cũng phải tuân thủ các quy định
của pháp luật về an toàn, vệ sinh trong lao động; tạo môi trường lao động
thuận lợi cho người lao động yên tâm công tác, vì nếu không tuân thủ các quy
định gây thiệt hại phải cũng phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
tu
i trong các quan hẹ lao đọ luạt lao đọ
tu
đọ
2.2.3.1. B
ẹc đưa ra quy đị ẹ
thiẹ ệ lao đọng là buọ
ạ ảm bả
88
ệt hại trong quan hẹ lao đọ ẹ
ối hận, an na ẹ
họ
ẹ ẹ lao
đọ
trong quan hẹ lao đọng, giúp cho các bên đồng cảm, thân thiẹn, chia sẻ và
hiểu nhau ho
nhiẹ ẹ ộ, trách nhiệm thực hiện
ẹ công việc, mức độ đóng góp, mức độ khắc phục hậu quả
ời điểm gây thiệt hại. Trường hợ
thiẹ ạm gây thiệt hại, có thái độ và ý thức khắc
ỗi phục hậu quả thì trách nhiẹ ẽ
cố ạm.
ẹ Thông thu ệt hại trong quan
hệ lao độ ịnh của pháp luậ
ẹ ệt hại bao nhiêu bồi thường bấ
ờng hợp nào bên gây thiẹ oàn
bọ ẹ ững trường hợp đu
ẹ “Việc xem xét, quyết định mức bồi
thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động”4
đu ẹ ệ lao
độ ạc biẹ
ngu ọng. Bở ọ ẹ lao đọng, viẹ
ẹ ạt lao đọng không hu
toàn bọ thiẹ ống như bồi thường thiệt hại trong quan hệ dân sự do
4 Khoản 1 Điều 131 Bộ Luật lao động năm 2012.
89
Luật Dân sự điều chỉ n đe ngu ọng,
nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người lao động. Ho
ọ thiẹ ọ
ng nhiều về do ngu ọ
toàn bọ, ngu ọ ủa bản ọ
thân và gia đình họ ẹ
đọ ọng.
ẹ Mọt trong các ca ệ lao
động là bên gây thiẹ “Viẹ thu
thiẹ ”5. Như vậy, tru ẹ
ẹ ẹ lao đọ
ạ ố ẹ
ọ ọ ẹ
mọ ọ ẹ
Điều này có sự khác biệt cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao
động với quan hệ dân sự. Theo đó, trong quan hẹ dân sự, trách nhiẹm bồi
ậ thường thiệt hạ ần lớn các tru
ẹ ẹ
ẹ đọ thu ẹt hại; còn đối với quan hẹ
ẹ luật lao đọng thì viẹ
ẹ ẹ ờng hợp thiẹ
ọng hay thiệt hại về tài sả
đu ẹ
ạ ất là bồi thường
thiệt hại về tài sản trong quan hệ lao động. Trường hợp thiệt hại về tính mạng, 5 Khoản 1 Điều 131 Bộ Luật lao động năm 2012.
90
sức khoẻ của người lao động, người sử dụng lao động phải có trách nhiẹ
ẹ thu ệt hạ ế
ậ ứ vào
ẹt hại, giúp mức độ lỗ
cho viẹ ẹ ệt hại đu ọ
thiẹt ịp thời và có tính ra ừa tái phạm.
ẹ Đây là mọ
ng thiẹ ệ ẹ
ẹ lao độ
ẹ “Việc xem xét, quyết định mức bồi
thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế…”6 ạ
ọ thiẹ
ẹ
ỗi bên. Bởi vì, thiẹ ệ lao động rất đa dạ
ổn thất về ợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại, thu nhập bị giảm sút hoạc thiẹ
Trong quan hệ lao động, khi mọt trong hai bên gây thiẹ
ẹ
ẹ ị tổn thất, thiệt hạ
ấ ẹ ạ
ạ ặc ảnh hưởng tính mạng, sức khoẻ
ẹ ẹ
ẹ
ạt, trách nhiệm vi phạm của mỗ ủ thể
ọi; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy
6 Khoản 1 Điều 131 Bộ Luật lao động năm 2012.
91
nhiên, trong tru ọ ẹ
thì viẹ ẹ ẹ
thu người sử dụng lao động là tất yếu trong tru ỗi của
người sử dụng lao động vi phạm quy định của pháp luật về an toàn lao động,
vệ sinh lao động làm cho ngu ọ ẹ
trường hợp người sử dụng lao động không có lỗi vẫn phải có trách nhiệm nhất
định trong việc chi trả trợ cấp và các hỗ trợ ẹ
ong t ọng hoạc bẹ ẹ
ẹ ngu ọ ẹ ạo niềm tin
cho người lao động trong quá trình tham gia vào quan hẹ lao đọng.
này, viẹ ệt hại trong
ẹ ắc này quan hệ lao độ
nhằm đáp ứ
ẹ ối với người lao động là các chi phí thuốc men, khám,
chữa, điều trị để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ đảm bảo việc duy trì cuộc sống
cho bản thân người lao động và gia đình họ, nhất là những trường hợp là lao
động chính và tạo ra thu nhập nuôi sống cả gia đình thì viẹ i thu ẹ
ối với người sử dụng lao động là bù đắp
những tổn thất về tài sản, khắc phục sự cố trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và duy trì quan hệ lao động. Như vậ
trong viẹ ẹ
cuọ ẹ
ẹ ẹ
phía bên kia.
ệt hịa
trong quan hệ lao độ ẹ ẹ
lao đọng thuọ ạt lao đọng.
92
2.2.4. Nọi
ẹ ệ lao động là một loại trách nhiẹm pháp
lý phát sinh khi mọ ẹ lao đọng có hành vi vi phạm
nghĩa vụ ẹ
ạ ẹ i [50, tr.16].
ẹ ẹ ẹ ệ lao
đọng là buọc ạ
ẹ
hẹ lao đọ ạt lao đọ
ẹ ẹ ẹ lao đọng,
nhưng nhìn chung pháp luật các nước thường xác định bồi thường thiệt hại
trong quan hệ lao động gồm 3 trường hợ ẹ
ộ thiẹ
thiẹ
2.2.4.1. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động
Khi giao kết hợp đồng lao động các bên có quyền tự do thỏa thuận theo ý
chí mong muốn của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định. Sau khi hợp
đồng lao động đã có hiệu lực, người lao động và người sử dụng lao động phải
tuân theo những quy định của luật lao động và những thỏa thuận trong hợp
đồng. Vì vậy, khi thực hiện hợp đồng, nếu một trong hai bên vi phạm đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, trách nhiệm bồi thường
có thể thuộc về bất cứ chủ thể nào tham gia quan hệ pháp luật lao động đã có
hành vi gây thiệt hại đối với chủ thể phía bên kia. Như vậy, đối với những
quan hệ bồi thường do vi phạm hợp đồng lao động, đu
ẹ lao đọng là người lao động và người sử dụng lao độ
ẹn hợp đồng lao độ
ẹ lao đọng có
93
ợp đồng lao độ ẹ ủ
yế ợp đồng lao độ ẹ
chính là đon phuo ọng trái pháp luạt.
i. Đon phuo ọng trái pháp luật của người lao động
Người lao động đon phuo ợp đồng lao động trái pháp luật
đu ời lao độ ợp đồng lao độ
các ca ợp đồng lao động hoạ
ợp đồng lao động. Như vậy, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động người lao động phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện là vừa phải có
căn cứ chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật, vừa phải thực hiện thủ tục báo
trước đúng pháp luật. Nếu vi phạm các quy định đó việc chấm dứt hợp đồng
bị coi là trái pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Mục
đích của việc đưa ra quy định này là đảm bảo cho hoạt động lao động luôn
được duy trì, tránh sự thiệt hại cho người sử dụng lao động khi người lao
động nghỉ việc, nhưng giữa các quốc gia cũng có những quy định khác nhau.
Về căn cứ chấm dứt, nội dung này pháp luật lao động của một số nước
rất coi trọng và đưa ra quy định rất chặt chẽ nếu không đảm bảo sẽ bị coi là
trái pháp luật. Trong pháp luật lao động của Hàn Quốc quy định: “khi một
hợp đồng lao động đưa ra các điều kiện làm việc không đáp ứng các tiêu
chuẩn trong luật thì quy định đó không có hiệu lực” và “Trong trường hợp
điều kiện làm việc thông báo khi giao kết hợp đồng lao động không thống
nhất với các điều kiện thực tế thì người lao động có quyền… yêu cầu người sử
dụng lao động đền bù thiệt hại do vi phạm hoặc có thể chấm dứt hợp đồng lao động ngay lập tức”7. Tương tự như vậy, trong pháp luật lao động của Trung
Quốc cũng thể hiện: “Khi giao kết hợp đồng lao động, doanh nghiệp phải
thông báo cho người lao động về công việc, những rủi ro phòng tránh trong
7 Điều 15 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009.
94
nghề nghiệp, điều kiện an toàn sản xuất, trả công lao động và các vấn đề khác mà người lao động muốn biết…”8. Và pháp luật lao động của Nhật Bản
cũng nhấn mạnh: “Nếu những điều kiện làm việc được nêu rõ không đúng với
thực tế thì người lao động có thể huỷ bỏ hợp đồng lao động mà không cần
báo trước và người sử dụng lao động phải chịu tiền phí tổn đi lại cho người lao động trong vòng 14 ngày sau khi hợp đồng lao động bị huỷ bỏ”9
Về thủ tục chấm dứt, đây cũng là nội dung được đặt ra làm cơ sở cho
việc xác định trách nhiệm bồi thường của người lao động khi tham gia quan
hệ lao động. Pháp luật Lao động của Lào quy định: “Hợp đồng lao động có
thời hạn hoặc không có thời hạn có thể huỷ bỏ theo sự thoả thuận của hai
bên. Một bên hợp đồng lao động có thể huỷ bỏ hợp đồng không có thời hạn nếu lí do đầy đủ và phải báo cho bên kia biết trước 3 tháng”10. Tương tự,
pháp luật lao động của Trung quốc cũng thể hiện: “Bộ luật này quy định để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động… nhưng vẫn quy định việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động là phải có lí
do…” và “người lao động có thể huỷ bỏ hợp đồng lao động bằng cách báo trước 30 ngày bằng văn bản cho doanh nghiệp”11; pháp luật lao động của
Nga nhấn mạnh: “hợp đồng lao động có thể huỷ bỏ bất cứ lúc nào theo sự
thoả thuận của hai bên kí kết hợp đồng lao động”, nhưng “người lao động
phải báo trước bằng văn bản cho người sử dụng lao động ít nhất hai tuần lễ”
và có thể “chưa được thực hiện nếu người sử dụng lao động chưa tuyển được người thay thế”12. Tương tự như thế pháp luật lao động của Philippin cũng
đưa ra: “một người lao động có thể chấm dứt mối quan hệ chủ - thợ mà không
cần lí do xác đáng bằng một văn bản thông báo cho chủ sử dụng lao động
8 Điều 8 Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007; 9 Điều 13 Luật Tiêu chuẩn lao động Nhật Bản năm 1976; 10 Điều 12 Luật Lao động Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào 2007; 11 Điều 22 Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007; 12 Điều 77 Bộ luật Lao động của Liên bang Nga năm 2001.
95
trước ít nhất một tháng. Nếu không có thông báo đó thì chủ sử dụng lao động có thể bắt người lao động chịu trách nhiệm về các thiệt hại”13. Như vậy, có
thể thấy các quốc gia đều rất quan tâm về vấn đề này và đưa ra quy định cụ
thể về việc phải báo trước thời gian nếu người lao động muốn chấm dứt hợp
đồng lao động; thậm chí có quốc gia còn quy định nếu không thực hiện việc
báo trước hay báo trước nhưng chưa tìm được “người thay thế” thì không
được chấm dứt hợp đồng lao động. Bởi vì, việc người lao động tự ý đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, không thực hiện báo trước sẽ ảnh
hưởng nhiều đến việc duy trì hoạt động lao động, ảnh hưởng quá trình sản
xuất, kinh doanh; gây tổn thất cho người sử dụng lao động trong việc sắp xếp,
bố trí lao động, tuyển dụng lao động mới, đào tạo người lao động và tạo tâm lí
bất ổn cho quan hệ lao động. Ngược lại, nếu người lao động báo trước, người
sử dụng lao động sẽ chủ động trong việc tổ chức, quản lí điều hành quan hệ
lao động được hiệu quả, đảm bảo duy trì quan hệ lao động ổn định, bền vững.
ii. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật của ngu
ọng
Tương tự như người lao động, người sử dụng khi đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật cũng phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại. Tuy nhiên, khác với nghĩa vụ bồi thường của người lao động, người
sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
vừa phải thực hiện bồi thường cho người lao động khoản tiền lương trong thời
gian nghỉ việc, vừa phải nhận người lao động quay trở lại làm việc trong đơn
vị. Thực tế, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và xử lí hậu quả
của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động rất phức tạp, do có những
rủi ro, khó khăn trong việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, thông
thường người sử dụng lao động sẽ cố gắng đưa ra một thỏa thuận chấm dứt
13 Điều 284 Bộ Luật lao động của Liên bang Nga năm 2001.
96
hợp đồng lao động với người lao động như: tiền bồi thường, lí do, thủ tục
chấm dứt... trước khi cho người lao động nghỉ việc. Tuy nhiên, việc quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động giữa các quốc gia cũng có những điểm khác
nhau. Trong đó, pháp luật lao động của Trung Quốc quy định: “Khi hợp đồng
chấm dứt doanh nghiệp sẽ cấp một giấy chứng nhận xác nhận việc kết thúc
hợp đồng lao động và trong vòng 15 ngày sẽ thực hiện các thủ tục chuyển hồ sơ và bảo hiểm xã hội của người lao động”14. Pháp luật lao động của Nhật
Bản làm rõ: “khi người lao động chết hoặc thôi việc trong vòng 7 ngày, người
sử dụng lao động phải hoàn trả đầy đủ tiền lương và trả lại mọi khoản tiền
dành dụm, ngân phiếu, tiền kí quỹ, mọi khoản tiền và đồ vật thuộc về người lao động hoặc thân nhân có yêu cầu”15; pháp luật lao động của Hàn Quốc
cũng đề cập: “Nếu người lao động chết hoặc về hưu, chủ lao động phải thanh
toán tiền công, tiền đền bù và các khoản tiền này hay đồ vật có giá trị khác
trong vòng 14 ngày sau khi có yêu cầu thanh toán; trường hợp đặc biệt thì có thể gia hạn theo thoả thuận của các bên liên quan”16 và pháp luật lao động
của Philippin cũng nhấn mạnh: khi người sử dụng lao động đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động do lỗi của người lao động thì người lao động sẽ “được
thanh toán một khoản bằng ít nhất một tháng hoặc tháng lương cho mỗi năm phục vụ, tính theo mức nào cao hơn”17. Như vậy, ở các quốc gia đều có quy
định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động với người lao động; trong đó, có những quy định không chỉ đưa ra thời
hạn cụ thể số ngày làm thủ tục, mà còn chỉ rõ nội dung phải giải quyết cho
người lao động nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích cho người lao động khi chết
14 Điều 50 Bộ Luật Lao động Trung Quốc năm 2007; 15 Điều 22 B Lu 16 Điều 36 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009; 17 Điều 282 và 284 Bộ Luật lao động của Philippin năm1974.
97
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động và mức bồi thường cụ thể, như: tiền lương,
tiền ký quỹ, tiền đền bù, đồ vật có giá trị... Thậm chí, trong một số trường hợp
có quốc gia còn quy định ngoài tiền lương, chi phí bồi thường phải thực hiện,
còn quy định phải thực hiện các thủ tục chuyển hồ sơ và bảo hiểm xã hội của
người lao động nếu có yêu cầu. Có thể nói, so với quy định về chấm dứt hợp
đồng của người lao động thì quy định về nghĩa vụ chấm dứt hợp đồng của
người sử dụng lao động là tương đối rõ ràng, cụ thể, chi tiết và đầy đủ hơn
xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động, người sử dụng lao động luôn là
người có những điều kiện thuận lợi hơn so với người lao động và ngược lại,
người lao động luôn vị thế yếu hơn cần phải được bảo vệ.
iii. Người sử dụng lao độ hợp đồng lao động
ẹ hoạ
Thay đổi cơ cấu, công nghệ hay lí do kinh tế là một nhu cầu chính đáng
của nhà đầu tư hay sự biến động về kinh tế, nó có thể xuất hiện trong quá
trình phát triển tự nhiên của doanh nghiệp. Nội dung của việc thay đổi cơ cấu,
công nghệ trong doanh nghiệp chính là sự biến đổi doanh nghiệp cho phù hợp
với môi trường, điều kiện kinh doanh cụ thể và nhu cầu thực tế từ sản xuất
kinh doanh nhằm đạt hiệu quả kinh doanh hiệu quả hơn. Tuy nhiên quá trình
thay đổi đó, cũng ảnh hưởng nhiều về mặt tổ chức, quản lí, điều hành, chi phí
đầu tư và con người thực hiện, cần phải có các quy định, chính sách để đảm
bảo thực hiện trong quá trình thay đổi cơ cấu công nghệ hay lí do kinh tế. Về
mặt pháp lí xét ở góc độ nào đó là quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp hay bị
động từ phía doanh nghiệp, nhưng cũng như nhiều quyền khác quyền thay đổi
cơ cấu, công nghệ hay vì lí do kinh tế phải được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật. Thực tế, việc quy định về thay đổi cơ cấu, công nghệ hay lí do kinh
tế luôn có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo việc thay đổi đó được thực hiện
thuận lợi, hiệu quả; đồng thời bảo vệ lợi ích của các chủ thể có liên quan đặc
98
biệt là lợi ích của người lao động. Người lao động tham gia vào quan hệ lao
động bán sức lao động để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình; do đó
khi bị ảnh hưởng, mất việc làm nhất là những người lao động đã làm việc lâu
năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm công việc mới, ảnh hưởng
thu nhập, tâm lý bất ổn không chỉ bản thân người lao động mà cả gia đình họ.
Vì thế việc quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong trường
hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hay lí do kinh tế là tất yếu để bảo vệ lợi ích
cho người lao động và gia đình họ; nhưng cũng tuỳ thuộc từng người lao động
mà người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm khác nhau trong việc xây
dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động. Tổ chức lao động quốc tế
trong Công ước số 158 (1982) và Khuyến nghị số 166 (1982) đều có các quy
định xác định trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng
lao động vì lí do kinh tế, cơ cấu, công nghệ hoặc lí do tương tự như: cung cấp
kịp thời cho đại diện người lao động về lí do chấm dứt, thời điểm thực hiện và
số lượng người lao động có liên quan; hỏi ý kiến đại diện lao động; thông báo
cho nhà chức trách có liên quan... Tương tự như thế, ở các quốc gia khác nhau
đều có quy định về nội dung này. Pháp luật lao động của Philippin quy định
trường hợp đóng cửa doanh nghiệp và giảm nhân viên: “thực hiện bằng một
văn bản thông báo cho công nhân, Bộ lao động và Việc làm ít nhất một tháng
trước thời hạn dự định và sẽ được nhận một khoản thanh toán bằng ít nhất
một tháng hoặc một tháng lương trả cho mỗi năm phục vụ, tính theo mức nào cao hơn”18; pháp luật Hàn Quốc cũng chỉ rõ khi sa thải người lao động trong
các trường hợp chuyển nhượng, mua đứt và sáp nhập kinh doanh nhằm tránh
các khó khăn về tài chính được xem là nhu cầu quản lí khẩn cấp “Trường hợp
này chủ doanh nghiệp phải nỗ lực hết sức tránh sa thải người lao động và
phải chọn lựa người lao động sẽ bị sa thải bằng cách đưa ra các chuẩn sa
18 Điều 283 Bộ luật Lao động của Philippin năm1974.
99
thải hợp lí và công bằng. Đồng thời, phải thông báo cho công đoàn hoặc đại diện những người lao động để tìm phương án giải quyết, đền bù thoả đáng”19.
Như vậy, nội dung chấm dứt hợp đồng lao động vì lí do kinh tế hay thay đổi
cơ cấu, công nghệ ở các quốc gia được đặt ra có những điểm tương đồng như
có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể người lao động, xác định trách
nhiệm của người sử dụng lao động khi thực hiện việc chấm dứt và những ưu
tiên khi có nhu cầu sử dụng lao động trở lại và giải quyết việc đền bù khi
chấm dứt hợp đồng.
2.2.4.2. Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
Trong quá trình khai thác sức lao động, khi môi trường lao động, điều
kiện lao động chưa đảm bảo hay có sự vi phạm quy định trong quá trình thực
hiện an toàn, vệ sinh lao động thì người lao động dễ gặp phải những vấn đề về
tính mạng, sức khỏe như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
ẹ trong quan hệ lao độ
ọ
hiẹn các hoạt động lao động, thực hiện các thao tác nghiẹ ạt động
sản xuất, kinh doanh, vận chuyể đọng hay bệnh tậ
ủa họ. Người sử dụng lao động
với vai trò là người có quyền tổ chức, quản lý việc sản xuất, kinh doanh; đồng
thời cũng là chủ thể chịu trách nhiệm về an toàn, vệ sinh lao động; có nghĩa
vụ thực hiện tốt những biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động, phòng
ngừa tai nạn và các ảnh hưởng có hại đến sức khỏe, tính mạng của người lao
động; thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho
người lao động khi xảy ra sự cố lao động. Về vấn đề này, quy định của tổ
chức lao động quốc tế và pháp luật của các quốc gia cũng đều rất quan tâm để
duy trì ổn định quan hệ lao động, hạn chế xung đột giữa các bên và bảo vệ
19 Điều 24 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009.
100
người lao động, như: Công ước số 155 (năm 1981) về An toàn, vệ sinh lao
động và môi trường làm việc; Công ước số 120 (1964) về Vệ sinh trong
Thương mại và văn phòng; Công ước số 148 (1977) về Bảo vệ người lao
động chống những rủi ro nghề nghiệp do không khí, ồn và rung tại nơi làm
việc; Công ước số 62 (1937) về quy định An toàn trong công nghiệp xây
dựng; Công ước số 139 (1976) về Phòng ngừa và kiểm tra những nguy hiểm
nghề nghiệp gây ra do các chất và tác nhân gây bệnh ung thư; Công ước 167
(1988) về An toàn sức khoẻ trong xây dựng. Pháp luật lao động của các quốc
gia cũng có quy định rất cơ bản, như: pháp luật lao động của Malaysia quy
định: “Khi nhận người vào làm việc thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ
bảo hộ cho người lao động, kể cả bảo hộ về phúc lợi, sức khoẻ, an toàn cả về mặt vật chất và tinh thần”20. Pháp luật lao động của Trung Quốc cũng đề cập:
“Người sử dụng lao động có trách nhiệm về an toàn lao động trong doanh
nghiệp của mình…” và “Người lao động bị tai nạn lao động có quyền đòi bồi
thường theo quy định của các luật dân sự có liên quan, ngoài quyền được hưởng bảo hiểm lao động”21. Tương tự, pháp luật lao động của Lào cũng
nhấn mạnh: “Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm đảm bảo nơi làm
việc, máy móc thiết bị và quy trình sản xuất, bao gồm việc sử dụng hoá chất, an toàn và không nguy hiểm cho sức khoẻ người lao động”22. Còn pháp luạt
lao động ẹ ọng
nhu sau: “Ngu ọ ọ i
phí khác cho ngu ọ ọng hoạc bẹ ẹp.
Phương thức bồi thường theo tỷ lệ cố định trên cơ sở thu nhập bình quân,
thực hiện cơ chế yêu cầu thẩm tra và tái thẩm tra để đảm bảo quyền lợi của
20 Điều 35 Luật Nhân lực Malaixia năm 2003; 21 Điều 17 và Điều 48 Luật An toàn lao động Trung Quốc năm 2002; 22 Điều 42 Luật Lao động Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào 2007;
101
người lao động”23. Nhu vạy, nhìn chung quy định của tổ chức lao động quốc
tế và pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều quan tâm đến việc bảo vệ tính
mạng, sức khoẻ cho người lao động, thể hiện rõ trách nhiệm của người sử
dụng lao động cả về tính mạng, sức khoẻ, phúc lợi, vật chất, tinh thần; nếu
gây thiệt hại phải có nghĩa vụ thực hiện bồi thường, quy định người lao động
bị tại nạn có quyền đòi bồi thường; quy định đảm bảo nơi làm việc, máy móc,
thiết bị, quy trình sản xuất, hoá chất không gây nguy hiểm tính mạng, sức
khoẻ cho người lao động. Tuy nhiên, giữa các quốc gia khác nhau, các quy
định cũng rất khác nhau, pháp luật Hàn Quốc quy định rất nghiêm khắc về
trách nhiệm bồi thường của ngườ ọ ọ
ọng, không phân biẹ ời
lao động, không phân biẹ ời lao động không có nghĩa vụ
phải đóng góp, kể cả trường hợp khi chấm dứt hợp đồng lao động mà người
lao động bị tai nạn lao động thì vẫn được hưởng trợ cấp tai nạn lao động
giống như người lao động bình thường đang làm việc. Trong khi đó, pháp luật
lao động của Cộng hoà Liên bang Đức thì quy định việc thực hiện bồi thường
lại là trách nhiệm của cơ quan thực hiện bảo hiểm là Quỹ bảo hiểm, còn người
sử dụng lao động không có trách nhiẹ ời lao
động mà chỉ đóng chi phí bảo hiểm trong tru ọng, bẹ
ẹp ời lao độ ẹ
ẹn công viẹc đu ợp đồng lao độ
ời lao độ
nhưng người lao động phải xin xác nhận của bác sĩ về thương tật, gửi cho
người sử dụng lao động; sau đó, người sử dụng lao động sẽ đệ đơn lên Quỹ bảo
hiểm tai nạn đề nghị thanh toán. Mức bồi thường trong thời gian nghỉ việc do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là 80% tiền lương. Thời gian trả tiền bồi
23 Điều 78 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009.
102
thường sẽ chấm dứt khi khả năng lao động của người lao động hồi phục, nhưng
không quá 78 tuần hoặc chuyển sang nhận các chế độ xã hội khác vì lý do tai nạn lao động24.
2.2.4.3. Bồi thường thiệt hại về tài sản
Bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh do một trong hai bên chủ thể của
quan hệ lao động có hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản cho bên kia trong
quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ lao động nhằm khôi phục lại giá trị tài sản
ban đầu đã bị tổn thất do hành vi vi phạm của một trong hai bên chủ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi người lao động làm hư
hỏng các dụng cụ, thiết bị, tư liệu sản xuất mà người sử dụng lao động giao sử
dụng, quản lý trong quá trình lao động hoặc do người lao động thực hiện đình
công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao động.
Về trách nhiệm vật chất trong quan hệ lao động. Trong quá trình tham
gia vào quan hệ lao động, để có thể đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ lao
động, người lao động được người sử dụng lao động giao tư liệu lao động cho
họ quản lí, bảo quản và sử dụng tài sản nhằm chủ động thực hiện hoạt động
lao động. Ngược lại, người lao động phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn và
sử dụng các tài sản đó; nếu làm mất mát, hư hỏng trong quá trình thực hiện
quyền, nghĩa vụ lao động thì người lao động không những bị xử lí kỉ luật lao
động, mà còn phải bồi thường những thiệt hại vật chất tương ứng với mức độ
vi phạm cho người sử dụng lao động. Bồi thường thiệt hại đối với tài sản của
người sử dụng lao động được pháp luật lao động quy định thành một chế độ
pháp lí gọi là trách nhiệm vật chất. Theo đó, trách nhiẹm vạ ọ
trách nhiẹm pháp lý do người sử dụng lao độ ời lao
độ ọc người lao độ ẹ
ời lao động gây ra cho người sử dụng lao độ ẹ
24 Điều 28 Luật Lao động Đức năm 1997.
103
ẹc theo hợp đồng lao động “trách nhiẹm vạ ời
lao động trong quan hẹ lao đọng là trách nhiẹ ẹ
ẹ ạt lao đọng hoạ
[59]. Như vậy, trách nhiệm vật chất trong
luật lao độ ời lao động làm công hưởng lương trên
cơ sở hợp đồng lao động; xảy ra trong quá trình người lao động thực hiện
quyền, nghĩa vụ lao động khi có vi phạm nội quy lao động và tài sản bị thiệt
hại phải là tài sản của người sử dụng lao động mà người lao động đang đảm
nhận bảo quản, lưu giữ, sử dụng [106, tr 298]. Viẹ ẹm bồi
thường tài sản này trong Luạt lao đọ
ủa người sử dụng lao độ
bọ hoạc mọ ẹ ạ ời sử dụng lao độ
ng cu luạt lao đọng trong đơn vị
ạt lao đọ ời lao động. Các quốc gia trên thế giới đều
quan tâm đến việc xác định và giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản cho
bên bị thiệt hại. Tuy nhiên, tùy thuộc từng quốc gia mà quy định pháp luật về
vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp này có thể khác nhau, đa số các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì không có quy định riêng, vì họ
cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động cũng chính là
bồi thường thiệt hại trong dân sự, còn phần lớn các nước đều có quy định về
nội dung này, theo đó, Luật lao động Nga quy định “ngu ọ
thu ẹ ọng. Ngu
lao đọ ạ
ẹ ọ
ạ
ạc làm hu 25; tương tự, pháp luật lao động của Trung quốc cũng quy định “trường
25
ộ Luật lao động của Liên bang Nga năm 2001.
104
hợp gây thiệt hại về kinh tế do thiếu trách nhiệm hoặc vi phạm quy trình thao
tác mà làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị, làm ra phế phẩm thì bị xử phạt bồi
thường theo tình tiết tăng nặng, nhẹ và tiền bồi thường được tính trừ vào tiền lương mỗi tháng nhưng không quá 20% tiền lương”26; pháp luật lao động của
Séc quy định: “người lao động có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
sử dụng lao động do vi phạm trong công việc hoặc có liên quan trực tiếp đến
công việc của mình. Trường hợp thiệt hại có một phần trách nhiệm của người sử dụng lao động thì người lao động được giảm mức bồi thường”27 và pháp
luật lao động của Thuỵ Điển cũng thể hiện rõ: “người sử dụng lao động,
người lao động hay tổ chức vi phạm Luật này hay thỏa ước lao động tập thể
phải bồi thường thiệt hại cho những mất mát do mình gây ra, trừ khi luật có
quy định khác. Nhưng trong quá trình đánh giá mức độ thiệt hại của chủ thể,
cần cân nhắc đến sự tuân thủ các quy định của pháp luật hoặc các quy định
của thoả ước lao động tập thể của chủ thể đó và các yếu tố khác ngoài những yếu tố thuần túy quan trọng về mặt kinh tế”28.
Như vậy, trên cơ sở các quy định đó có thể thấy pháp luật của các quốc
gia đều có sự quan tâm nhất định và đưa ra các quy định tương đối cụ thể về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có sự thiệt hại về tài sản. Tuy nhiên, giữa
các quốc gia khác nhau việc đưa ra quy định của pháp luật và xác định về bồi
thường thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại về tài sản cũng không giống nhau.
Quy định của pháp luật Trung Quốc tương đối nghiêm khắc không chỉ yêu cầu
bồi thường các thiệt hại mà còn phạt phải bồi thường do các khoản lợi nhuận bị
giảm sút và trừ vào tiền lương khi người lao động thiếu trách nhiệm hoặc vi
phạm tuỳ mức độ trong quá trình thao tác làm hư hỏng thiết bị, dụng cụ; còn
quy định của pháp luật lao động của Nga tương đồng quy định của pháp luật
26 Bộ luật Lao động Trung Quốc năm 2007; 27 Điều 250 Luật lao động Cộng hòa Séc năm 2006; 28 Luật Hợp tác lao động Thụy Điển.
105
Việt Nam, Séc và Pháp là trên cơ sở các thiệt hại thực tế, mức thiệt hại và thái
độ vi phạm kỷ luật của người lao động, không phải bồi thường các khoản lợi
nhuận bị giảm sút do hành vi vi phạm và cân nhắc thái độ, ý thức tuân thủ quy
định của pháp luật, thoả ước lao động tập thể và các thoả thuận khoác. Trong
khi đó, pháp luật lao động của Thụy Điển thể hiện sự công bằng, nghiêm khắc
trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường về tài sản không có sự
phân biệt là người lao động hay người sử dụng lao động hay tổ chức khác nếu
có hành vi vi phạm cho những mất mát, thiệt hại gây ra vẫn phải chịu trách
nhiệm bồi thường như nhau. Còn các quốc gia khác nhìn chung đều xác định
người lao động có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao
động nếu có thiệt hại phát sinh và thiệt hại đó do lỗi của người lao động hoặc
có liên quan trực tiếp đến người sử dụng lao động.
Về đình công bất hợp pháp. Đình công là một trong những quyền cơ bản
của người lao động trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải được đảm bảo
thực hiện trên thực tế để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Đây là một
hiện tượng bình thường trong quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động
và tập thể lao động, là kết quả tất yếu của những tranh chấp lao động tập thể
và được coi như “vũ khí” để người lao động đấu tranh với người sử dụng lao
động nhằm đạt những yêu sách gắn với quan hệ lao động. Tuy nhiên,
đình công nếu không được kiểm soát tốt, thì có thể có những ảnh hưởng tiêu
cực tới quyền lợi hợp pháp của người sử dụng lao động, lợi ích của các chủ
thể tham gia quan hệ lao động và lợi ích chung của cộng đồng. Chính vì vậy,
đình công được tổ chức lao động quốc tế, Công ước quốc tế và pháp luật của
các quốc gia đều coi trọng và điều chỉnh vấn đề này một cách phù hợp và hiệu
quả theo định hướng từng thời điểm. Theo Công ước quốc tế quy định tại
Điểm D, Khoản 1, Điều 8 về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966) có
đề cập đến vấn đề đình công “là quyền mà các quốc gia phải tôn trọng, có
106
nghĩa vụ thúc đẩy các quyền này và không được hạn chế nó”. Tuy nhiên đình
công phải được quy định hợp lý với những điều kiện khác nhau “quyền đình
công được thực hiện với điều kiện phù hợp với luật pháp của mỗi quốc gia”.
Không quy định rõ ràng như Công ước quốc tế, Tổ chức Lao động quốc tế coi
quyền đình công là biểu hiện của quyền tự do liên kết, quyền tổ chức và
thương lượng tập thể của người lao động “Quyền đình công là một trong
những biện pháp thiết yếu của người lao động và các tổ chức của họ có thể sử
dụng để xúc tiến và bảo vệ các lợi ích kinh tế, xã hội của mình, không chỉ
nhằm đạt tới những điều kiện làm việc tốt hơn hoặc có những yêu cầu tập thể
mang tính chất nghề nghiệp, mà còn nhằm tìm ra những giải pháp cho những
vấn đề chính sách kinh tế và xã hội, các vấn đề lao động bất kỳ loại nào mà
người lao động trực tiếp quan tâm” (Công ước 87 năm 1948 và Công ước 98
năm 1949). Như vậy, có thể thấy về mặt bản chất cách nhìn nhận đình công
của ILO cũng tương đồng với cách nhìn nhận của Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa (1966); nhưng ở đây ILO với đặc thù là một tổ chức
quốc tế thì việc xem xét đình công không chỉ dừng lại ở việc mô tả, khái quát
đình công mà còn bao hàm cả phạm vi, mục đích của đình công nữa. Với sự
quy định đầy đủ và cụ thể như thế ILO mong muốn rằng đó là một trong
những cơ sở để các quốc gia thành viên có thể quy định về đình công một
cách hợp lý nhất, tùy vào từng điều kiện của mỗi quốc gia nhưng phải trên cơ
sở của ILO quy định. Còn đình công theo pháp luật của các nước trên thế giới
quy định khá đa dạng, phong phú theo các xu hướng khác nhau, ở những mức
độ khác nhau: có những quốc gia không quy định về đình công Trung Quốc; Đài Loan cấm đình công29; có những quốc gia xem đình công như những hiện
tượng bình thường, có thể không cần phải có quy định trong luật mà chỉ do án
lệ xác định [126]; còn phần lớn các nước đều quy định chặt chẽ, mô hình hoá
29 Bộ luật Lao động Trung Quốc năm 2007.
107
đình công thành các quy định cụ thể, như: trong Luật Hiến pháp (Pháp,
Đức…) hoặc là quy định trong Bộ luật lao động (Nga, Philipines, Thái Lan,
Việt Nam…) nhằm quản lý đình công dựa trên nguyên tắc tôn trong lợi ích
kinh tế-xã hội và muốn hạn chế mức tối thiểu sự tác động tiêu cực của đình
công đối với xã hội. Theo đó, pháp luật của Campuchia quy định “một cuộc
đình công là việc ngưng làm việc phối hợp, bởi một nhóm người lao động
diễn ra trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc một cơ sở nhằm thỏa mãn nhu
cầu của họ từ người sử dụng lao động như một điều kiện để họ trở lại làm việc”30; pháp luật của Malaysia chỉ rõ: “Đình công nghĩa là một nhóm người
lao động cùng kết hợp nghỉ việc, hoặc cùng từ chối hoặc từ chối tiếp tục làm
việc hoặc chấp nhận làm việc theo một thỏa thuận chung giữa nhóm người
lao động này, và bao gồm bất kỳ hành động hoặc sự chểnh mảng trong công
việc được nhóm người lao động này cùng kết hợp thực hiện hoặc theo thỏa
thuận chung, hướng tới hoặc dẫn tới bất kỳ sự giới hạn, hạn chế, giảm bớt
hoặc chấm dứt hoặc trì hoãn thực thi toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ liên quan đến công việc của họ” 31 còn pháp luật Ba Lan thì cho rằng: “Đình công
là sự ngưng việc tập thể của người lao động nhằm mục đích giải quyết tranh chấp liên quan đến lợi ích kinh tế”32. Như vậy, tùy thuộc từng quan điểm,
cách tiếp cận khác nhau mà đình công giữa các quốc gia cũng không giống
nhau. Có quan điểm khá đầy đủ, có thể thấy rõ ràng rằng định nghĩa đã nêu
lên được dấu hiệu, phạm vi cũng như mục đích hướng đến của cuộc đình công
và giới hạn về việc người lao động thực hiện như pháp luật Campuchia; còn
Malaysia đã liệt kê các hành vi được cho là đình công, những nội dung họ
được thực hiện và ngưỡng mà họ không được vi phạm trong quá trình thực
hiện đình công, bao gồm cả hiện tượng lãn công theo quy định của một số
30 Điều 318 Luật Lao động Campuchia năm 2012; 31 Điều 2 Luật Quan hệ lao động Malaysia năm 1967; 32 Điều 17 Luật về Giải quyết tranh chấp lao động tập thể của Ba Lan năm 2013.
108
nước; trong khi đa phần các quốc gia kể cả Ba Lan nêu lên được những dấu
hiệu để phân biệt sự ngưng việc nào sẽ được coi là đình công và sự ngưng
việc nào là không đình công. Từ đó, chỉ rõ những nội dung mà người lao động
được tiến hành hay vi phạm trong quá trình tiến hành đình công.
Có thể nói, đình công là một hình thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động khi có sự xâm phạm về mặt lợi ích như: tiền lương,
tiền thưởng; thời giờ nghỉ ngơi; điều kiện làm việc… do đó, tổ chức lao động
quốc tế hay pháp luật của các quốc gia đều đề cập; nhưng nếu lợi dụng đình
công để thực hiện mục đích không chính đáng hay không tuân thủ quy định
của pháp luật thì đình công có thể đem lại những bất lợi không chỉ đối với
giới chủ mà còn cả tổ chức lãnh đạo, người tham gia và các bên có liên quan.
Vì thế, tổ chức lao động quốc tế và các quốc gia đều coi trọng nội dung này,
nhưng tuỳ thuộc vào từng thời điểm, cách tiếp cận khác nhau mà quy định
cũng có sự khác nhau.
ận chƣong 2
Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động đều xác lập những quyền
và nghĩa vụ cụ thể với nhau trên cơ sở tự do thoả thuận, tôn trọng lẫn nhau.
Việc thực hiện các nghĩa vụ của chủ thể này là điều kiện để bảo đảm quyền
của chủ thể khác. Nếu chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện đúng hoặc thực
hiện không đầy đủ các nghĩa vụ của mình sẽ xâm phạm tới quyền lợi của chủ
thể kia gây ảnh hưởng không tốt tới mối quan hệ giữ
ẹ lao đọ ạ
thiẹ ẹ
thu ẹ ệ lao đọng. Bồi thường thiệt hạ
ạ ẹ
ẹ lao đọng. Việc thực hiện bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao đọng vừ ẹ ẹ
109
ẹ ẹ ừ
ạ
quan hẹ pháp luạt lao đọng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc thực hiện bồi thường
thiệt hại phải trên cơ sở những căn cứ nhất định như có hành vi vi phạm gây
thiệt hại; có thiệt hại xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt
hại và hậu quả xảy ra và có lỗi của người vi phạm. Còn các nước khác nhau
quy định về bồi thường thiệt hại cũng không giống nhau, tuỳ thuộc từng nội
dung thực hiện bồi thường, như vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản trong
quan hệ lao động ở
đu ạ
thiẹ ạt an sinh xã họ ọ
ẹ ạt lao đọ ọc
hẹ ạt Xã họ ẹ
trong quan hệ lao đọ ẹt Nam đu o
ọ ẹ
độ ẹ ẹ
tài sản.
110
CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG
3.1. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng lao động và thực tiễn thực hiện
Hợp đồng lao động là hình thức pháp lí chủ yếu làm phát sinh quan hệ
pháp luật lao động trong nền kinh tế thị trường. Nếu như trước đây, trong cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, chế độ tuyển dụng vào biên chế nhà nước là hình
thức pháp lí chủ yếu làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động và được áp
dụng cho các xí nghiệp, nhà máy, cơ quan nhà nước thì hiện nay trong cơ chế
thị trường, hình thức đó đã được thay thế bằng hợp đồng lao động. Theo ILO
thì “Hợp đồng lao động là một thoả thuận ràng buộc pháp lí giữa một người
sử dụng lao động và một công nhân trong đó xác lập các điều kiện về chế độ
việc làm” [59, tr. 98]. Pháp luật lao động của Việt Nam cũng quy định: “Hợp
đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”33. Như vậ ọng là co
pháp lý làm phát sinh quan hẹ lao đọ ời lao động và người
sử dụng lao động. Sau khi kí kết hợp đồng lao động, những thoả thuận về
quyền và nghĩa vụ mà các bên đã kí kết sẽ có giá trị ràng buộc đối với các
bên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì bên nào cũng muốn đảm bảo các
quyền, lợi ích của mình và vì nhiều lí do chủ quan, khách quan; cố ý, vô ý
khác nhau có thể có những hành vi vi phạm hợp đồng lao động; nên quan hệ
lao động đã diễn ra không theo đúng những thoả thuận mà các bên đã cam kết
33 Điều 15 Bộ luật lao động năm 2012
111
trước đó dẫn đến phải bồi thường thiệt hại. Tru
ợp đồng lao độn ẹ
chính là đon phuo ọng trái pháp luạt của người sử
dụng lao động hay của người lao động hoạ ợp đồng lao động
trong tru ẹp hoạ
ẹ n phuo
đọng trái pháp luạt
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động có thể do những nguyên
nhân chủ quan, khách quan mà hợp đồng lao động phải chấm dứt. Chấm dứt
hợp đồng lao động là chấm dứt quan hệ lao động theo hợp đồng đã được xác
định trước đó, tức là chấm dứt việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà các
bên đã thoả thuận. Sự kiện chấm dứt là điều kiện giải phóng các bên khỏi các
quyền và nghĩa vụ đã từng ràng buộc họ theo các quy định của pháp luật.
Chấm dứt hợp đồng lao động là một sự kiện pháp lí quan trọng bởi hậu quả
pháp lý của nó dẫn tới sự kết thúc của quan hệ lao động. Có thể gây ra những
hậu quả bất lợi nhất định cho các chủ thể trong quan hệ lao động về việc làm,
thu nhập, cuộc sống của người lao động và gia đình họ; gây xáo trộn quan hệ
lao động, bất ổn trong đơn vị sử dụng lao động; có thể gây thiệt hại cho người
sử dụng lao động. Vì vậy, để bảo vệ quan hệ lao động cần xác định rõ các
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động; quyền, nghĩa vụ của các bên khi
chấm dứt hợp đồng lao động. Thực tế, các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao
động do bị đơn phương chấm dứt là sự kiện dễ xảy ra tranh chấp lao động, bởi
sự chấm dứt này chỉ xuất phát từ ý chí của một chủ thể trong quan hệ lao
động; nhưng được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và thông thường gây ra sự bất
lợi cho chủ thể kia. Vì vậy, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
được quy định bởi một thủ tục pháp lí chặt chẽ về căn cứ; điều kiện chấm dứt;
quyền và nghĩa vụ của một trong hai bên quan hệ lao động. Bộ luật lao độ
112
ờng hợp đon phuo
ọng trái pháp luạt. Theo đó, “đon phuo
ọ đọng trái pháp luạt là các tru
ộ luật này”34. Nhu vạ
ời lao động đon phuo ọng trái pháp
luạt là tru n phuong chấm dứt không đúng ca ạ
ời sử dụng lao độ n phuo
ọng không đúng ca ặ
hoạc trong các tru n phuo
đọng. Viẹc đon phuo ọng trái pháp luạ ọ
ẹ ạ
ọ ẹ ẹ
ệt hại, pháp luạ n
phuo ọng trái pháp luạ ạ
thu ẹ ủa ngu ọng khi đon phuo
ọng
Cùng với quy định bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, pháp luật cũng quy định tương đối
chặt chẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động khi đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động. Người lao động đon phuo ợp đồng
lao động đu ời lao độ ợp đồng lao độ
hợp đồng lao động hoạ
ợp đồng lao động đu ộ luật lao
động năm 2012; nói cách khác nếu không thực hiện việc chấm dứt hợp đồng
lao động theo đúng các căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao 34 Điều 41 Bộ Luật lao động năm 2012.
113
động năm 2012 hoặc vi phạm thời hạn báo trước theo Khoản 2 Điều 37 Bộ
luật lao động năm 2012 sẽ bị coi là trái pháp luật. Đây là cơ sở để xem xét
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động. Như vậy, khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động người lao động phải đáp ứng đồng thời
hai điều kiện: một là có căn cứ chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật; hai là thực
hiện thủ tục báo trước đúng pháp luật. Nếu vi phạm các quy định đó việc chấm
dứt hợp đồng bị coi là trái pháp luật [52, tr 91].
Về căn cứ chấm dứt, có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như: điều kiện làm việc;
công việc được giao; tiền lương được trả; quyền được nghỉ ngơi; hưởng bảo
hiểm xã hội… Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012, các căn cứ
chấm dứt bao gồm: “Không đu ẹ
viẹc hoạc không đu ẹn làm viẹ ạ
ọng; không đu o hoạ ong không
ạ ọng; bị ngược đãi, quấy rối tình dục,
cưỡng bức lao động; lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của
cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền; người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục…”35. Tuy nhiên, các ca ọ
nội dung chưa được làm rõ, nhu: “không đu ẹn làm viẹ
ạ ọng”. Có ý kiến cho rằng “không đu
ẹn làm viẹc” là không được trang bị các đồ dùng, dụng cụ,
phương tiện làm việc tối thiểu theo yêu cầu của công việc; có ý kiến khác lại
cho rằng “không đu ẹn làm viẹc” là không đảm bảo môi
trường làm việc an toàn, vệ sinh cho người lao động thì người lao động có thể
chấm dứt hợp đồng lao động. Như vậy, không đơn giản để làm rõ được trong
các trường hợp cụ thể như: thiếu các dụng cụ, phương tiện làm việc; các dụng
35 Khoản 1 Điều 37 Bộ Luật lao động năm 2012.
114
cụ lúc thực hiện không đảm bảo yêu cầu; môi trường làm việc không đảm bảo
an toàn ẹn lao đọng không đu ợp đồng lao động,
nọi quy lao đọ ị sử dụng lao động,… nên người lao động không
dễ để chấm dứt. Đó là chưa kể đến trường hợp người lao động không hiểu
biết pháp luật, ngại va chạm và đang cần việc làm để đảm bảo thu nhậ
“bị ngược đãi” được giải thích là “bị người sử dụng lao động
đánh đặp hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự” [52, tr 93]. Còn các thuật ngữ khác cũng tương
tự, cần phải được làm rõ, như: “cưỡng bức lao động” được hiểu tương đối là
nếu người sử dụng lao động dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc sử
dụng các biện pháp khác cưỡng ép về tinh thần, tạo sự lệ thuộc để buộc người
lao động phải làm việc trái với ý muốn của họ; i làm
viẹc” cũng tương tự dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau. Thực tế, hành vi
“quấy rối tình dục tại nơi làm việc” không nên hiểu đó chỉ là hành vi của
người quản lí, mà có thể là hành vi của những người lao động cùng làm việc
với nhau; nên để chứng minh bị quấy rối tình dục trên là rất phức tạp khi phải
có các căn cứ, thu thập, cung cấp chứng cứ để làm rõ bị quấy rối; nhất là
trong hoàn cảnh không có quy định cụ thể “thế nào là quấy rối tình dục” như
hiện nay.
ủ tục duy nhất mà người lao động phải thực hiện
khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là thủ tục báo trước cho người sử
dụng lao động trước khi chấm dứt hợp đồng lao động. Thời hạn báo trước được
quy định tuỳ thuộc vào căn cứ chấm dứt hợp đồng hoặc loại hợp đồng lao động
mà người lao động chấm dứt. Theo đó, người lao động khi đon phuo
ợp đồng lao độ ực hiệ ật quy
đị ạc 45 ngày. Quy định
này của Bộ luật lao động năm 2012, tương đối cơ bản, nhưng so sánh với pháp
115
luật của một số nước trên thế giới cũng có những điểm cần xem xét, cụ thể: đối
với hợp đồng lao động không xác định thời hạn người lao động có quyền có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần đưa ra lí do
chấm dứt “nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày…”36. Quy định này của pháp luật nhằm mục đích bảo vệ người
lao động, tránh sự ràng buộc vĩnh viễn giữa người lao động với người sử dụng
lao động trong suốt cuộc đời lao động của họ, “có thể tạo nên tình trạng nô lệ
trá hình trong lao động” [56, tr 95]. Tuy nhiên, pháp luật của nhiều quốc gia
trên thế giới (như đã phân tích tại chương 2) không chấp nhận việc chấm dứt
“dễ dàng” như vậy mà đều có quy định rất chặt chẽ, cụ thể về việc phải báo
trước thời gian, phải có lí do cụ thể nếu người lao động muốn chấm dứt hợp
đồng lao động. Bởi vì, nếu người lao động báo trước, người sử dụng lao động
sẽ chủ động trong việc tổ chức, quản lí điều hành quan hệ lao động và ngược
lại, nếu người lao động không báo trước sẽ ảnh hưởng rất nhiều hoạt động sản
xuất, kinh doanh, gây tổn thất cho người sử dụng lao động trong việc sắp xếp,
bố trí, phân công và tuyển dụng lao động mới, đào tạo họ.
Ví dụ: Bản án số 04/2017/LĐ-PT ngày 25/7/2017 về tranh chấp bồi
thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
giữa nguyên đơn công ty TNHH Đ A và bị đơn bà Đặng Ngọc Đoan T của
TAND thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Theo đó, công ty TNHH Đ A bị bà T làm
việc theo hợp đồng xác định thời hạn là 2 năm (từ 22/10/2015 đến 22/10/2017
[115]. Ngày 14/12/2015, bà T nộp đơn xin thôi việc, ngày 17/12/2015, bà T tự
ý bỏ việc không nêu lý do và công ty đã 3 lần mời bà đến làm việc, nhưng bà
T không đến. Công ty đã đề nghị TAND thành phố Đ xem xét yêu cầu bồi
thường cho công ty: vi phạm thời hạn báo trước là 3.056.192đ; bồi thường
hợp đồng học nghề: 2.750.000đ; tổng cộng: 5.806.192đ (trừ tiền lương
36 Khoản 3 Điều 37 Bộ Luật lao động năm 2012.
116
881.000đ số tiền còn lại bà T phải bồi thường công ty là 4.925.101đ). Do so
ách nhiẹ ẹc bà T
có thể bỏ đi làm cho công ty khác hoặc chuyển giao thông tin củ
Nhu vạ ẹ
ẹ
mà con là thiẹ ố ệc đưa
ra quy định người lao động muốn chấm dứt hợp đồng lao động cần phải báo
trước là rất quan trọng vừa đảm bảo việc duy trì hoạt động sản xuất, kinh
doanh; sắp xếp bố trí lao động và tuyển dụng lao động mới; vừa tránh tổn thất
cho người sử dụng lao động khi chưa tuyển dụng được người lao động làm
việc thay thế; nhấ ệ
nghiẹp, người sử dụng lao động ẹ ời
lao động để làm căn cứ xử lí bồi thường khi có sự vi phạm chấm dứt gây thiệt
hại; đồng thời các nhà làm luạ
người lao độ ời sử
dụng lao độ ẹ lao đọng và hạn chế mâu
thuẫn của các bên trong quan hệ lao động.
Về hậu quả người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Trong tru ời lao động ạ
ịnh của Bộ luật lao động năm 2012, thì người lao độ
ọ ạ : “Không đu ở ẹ
ời sử dụng lao độ o
ọ
thu ời sử dụng lao động mọ o o
ời lao độ tru
117
ời sử dụng lao độ ủa pháp luật”37 đối với
những người lao động đã được người sử dụng lao động đài thọ chi phí đào tạo
với cam kết làm việc cho người sử dụng lao động sau khi học xong, nhưng
khi chấm dứt hợp đồng lao động chưa thực hiện xong cam kết về thời gian
làm việc. Mức bồi hoàn có thể là một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo tuỳ
theo thoả thuận của các bên khi giao kết hợp đồng đào tạo nghề. Nhu vạ
ời lao độ ợp đồng lao
động trái pháp luạt hiẹn nay bọc lọ mọ ời lao độ
ẹ
người lao độ
ong tuo thôi viẹ
ời lao độ tru
ời lao
ợp đồng lao động. Ho độ
người lao động đon phuo ợp đồng lao động trái pháp luạ
ẹ nh của pháp luật lao độ
luong chu n đe, giáo dục ý thức người lao động. Có thể nói quy
ẹ người lao động, nhu định này, mặ
ời sử dụng chu
ợp đồng lao ều kiện cho người lao độ lao độ
động, không đảm bảo duy trì ổn định quan hệ lao động.
3.1.1.2. ủa ngu ọng khi đon phuo ẹ
ọng
Để bảo vệ ệ lao động
cần xác định rõ các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động; quyền, nghĩa vụ
rách nhiệm bồi
của mỗi bên khi chấm dứt hợp đồng lao độ 37 Điều 43 Bộ Luật lao động năm 2012.
118
thường thiệt hại thuộc về bên chủ thể nào tham gia quan hệ pháp luật lao động
đã có hành vi gây thiệt hại đối với chủ thể phía bên kia. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, chỉ rõ: “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các Điều 37, 38 và 39 của Bộ luật này”38. ời
sử dụng lao độ
ồm: người ứ39; vi sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao độ phạm thời hạn báo trước theo quy định của pháp luật 40 và chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong các trường hợp bị pháp luật cấm41. Như
vậy, khi người sử dụng lao động đon phuo
ca pháp luạt hoạ ạ
ộng,
ạt. Thực tế ngu
việc khó khan, phức tạp trong viẹc đon phuo ợp đồng lao
động, thông thu ời sử dụng lao độ ủ động đua ra mọ
thuạn để ợp đồng lao độ ời lao độ ạn mọ
người lao động trên cơ sở thời gian, mức độ đóng góp
của người lao độ ẹc đon phuo ời sử dụng lao
động trái quy định của pháp luạt, nhu ạn người lao động trở
ệc thì người sử dụng lao động còn ọ
ời lao động [20].
Về căn cứ chấm dứt hợp đồng lao động. Theo quy định của pháp luạt lao
động hiện nay, người sử dụng lao độ n phuo
38
39
ọt trong các can “a) Người lao động thường xuyên
ộ luật lao động năm 2012; ộ luật lao động năm 2012;
40 41 Điều 39 Bộ luật lao động năm 2012.
119
không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; b) Người lao động bị
ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người
lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn
hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng
lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì
người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động; c) Do
thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của
pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng
vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc; d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này”42.
Tru
“người lao động thường xuyên không hoàn thành công viẹc theo hợp đồng lao động”43 thì “Người sử dụng lao động phải quy định cụ thể
tiêu chí đánh giám mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của doanh
nghiệp, làm cơ sở đánh giá người lao động thường xuyên không hoàn thành
công việc theo hợp đồng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành sau khi có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở”44. Trong khi đó, so sánh với quy định
trong Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007;
cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật lao động năm 1994 lại cụ
thể về các trường hợp được coi là “người lao động thường xuyên không hoàn
thành công việc theo hợp đồng” khi “không hoàn thành định mức lao động
hoặc nhiệm vụ được giao do yếu tố chủ quan và bị lập biên bản hoặc nhắc
42
nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng mà sau đó vẫn không khắc
ộ Luật lao động năm 2012;
43 Điều 38 Bộ Luật lao động năm 2012; 44 Khoản 1, Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP;
120
phục”. Quy định này, bị cho là cứng nhắc, không phù hợp với tính linh hoạt của thị trường lao động và làm khó cho đơn vị sử dụng lao động45. Như vậy,
có thể nói quy định trong Bộ luật lao động năm 2012 đã trao quyền chủ động
cho người sử dụng lao động làm căn cứ chấm dứt hợp đồng lao động với
người lao động, theo đó nếu người sử dụng lao động không có quy định cụ thể
về vấn đề này để chứng minh người lao động thường xuyên không hoàn thành
công việc thì sẽ không được viện dẫn Điểm a, Khoản 1 Điều 38 Bộ luật lao
động năm 2012 để chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động và ngược
lại, nếu người sử dụng lao động lạm dụng và không chứng minh được theo
căn cứ trên thì việc chấm dứt đó là trái pháp luật và phải có nghĩa vụ bồi
thường cho người lao động.
Tru “người lao độ
ời lao động ối với
người làm theo hợp đồng lao độ
ời lao động làm theo hợp đồng lao độ
(từ 12 đến 36 tháng) ợp đồng lao độ
ợp đồng lao độ ạc theo mọt công viẹ
ng lao đọng chu
ời lao động đu
ời lao độ ợp đồng lao động”46. Quy định này căn cứ vào thực tế
thực hiện được xem là phù hợp vừa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo; vừa
đảm bảo tính linh hoạt trong thực hiện. Đồng thời cũng bảo vệ được các
quyền, lợi ích cho người lao động khi gặp các trường hợp rủi ro do bị tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình tham gia vào quan hệ lao động.
Trường hợp “do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lí do bất khả
45 Khoản 1, Điều 12 Nghị định số 47/2010/NĐ-CP ngày 06/5/2010. 46 Khoản 1 Điều 38 Bộ Luật lao động năm 2012
121
ạt, mà người sử dụng lao độ
ọc ẹ ẹc”47.
Quy định này đưa ra nhằm tính tới những yếu tố không lường trước được để
bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng trong một số trường hợp nhất định;
nhưng thực tế khi áp dụng cũng xảy ra những bất hợp lí và có sự lợi dụng
trong quá trình thực hiện. Để tránh sự lạm dụng của người sử dụng lao động
và bảo vệ người lao động, cần phải quy định rõ những trường hợp
và người sử dụng lao động được đảm bảo thực hiện khi xảy ra “lí
do bất khả kháng”. Như vậy, khi viện dẫn Điểm c Khoản 1 Điều 38 Bộ luật
lao động năm 2012, người sử dụng lao động phải chứng minh được là “lí do
bất khả kháng” bao gồm ẹ ạ
quan nhà nu 48
và dù đã tìm mọi cách, thực hiện các biện pháp khắc phục những khó khăn
gặp phải “nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc”. Nếu
không chứng minh đủ các căn cứ đó thì cũng không thể viện dẫn Điểm c,
Khoản 1 Điều 38 để chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động và nếu
vi phạm cũng phải có nghĩa vụ bồi thường tương ứng mức độ thiệt hại cho
người lao động.
Trường hợp “người lao động không có mặt tại nơi làm việc”
ẹn hợp đồng lao động theo quy định49
i hạ ạm hoãn” thực hiện hợp đồng lao động hoặc
một thời hạn khác do người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận với nhau50. Quy đị a Bộ luật lao động 2012 so voi một điem mo
Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007. Bộ luật lao
47 Khoản 1 Điều 38 Bộ Luật lao động năm 2012; 48 Khoản 2, Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP; 49 Khoản 1 Điều 38 Bộ Luật lao động năm 2012; 50 Điều 33 Bộ Luật lao động năm 2012.
122
động năm 1994 sửa đổi, bổ c truong hợp mộ
mà người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
trong khi quy định của Bộ luật lao động năm 2012 thể hiện ngay khi hết hạn
tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động phải có mặt tại nơi
làm việc; trường hợp nếu đã quá 5 ngày làm việc kể từ ngày tạm hoãn thực
hiện hợp đồng lao động mà người lao động không có mặt tại nơi làm việc thì
người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động với người lao
động. Như vậy, mặc dù ở mức độ nào đó quy định này gây khó khăn cho
người lao động và có thể đẩy người lao động đến chỗ bị mất việc làm khi
chưa thu xếp được thời gian để quay trở lại nơi làm việc, ngay khi hết hạn tạm
hoãn thực hiện hợp đồng lao động; nhưng gắn trách nhiệm tiếp tục thực hiện
hợp đồng lao động của người lao động với người sử dụng lao động sau thời
hạn tạm hoãn; đảm bảo quyền được quay trở lại làm việc của người lao động
và nghĩa vụ nhận người lao động trở lại làm việc của người sử dụng lao động khi hết hạn tạm hoãn51.
Về thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động. Khi đon phuo ợp
đồng lao động theo quy định tạ n 1 Đieu 38 Bộ luật lao động năm 2012,
người sử dụng lao độ ời lao động:
ợp đồng lao độ “
ợp đồng lao độ
ờng hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này và đối với hợp viẹ
52. Thủ tục nêu trên là có tính bắt buộc, nếu vi phạm sẽ phải
đồng lao độ ạc theo mọt công viẹ
du
chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ vi phạm theo quy định của pháp luật.
Về hậu quả việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
51 Khoản 1, Điều 10 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003. ộ luật lao động năm 2012. 52
123
lao động trái pháp luật. Bộ luật lao động năm 2012 quy định “Trường hợp
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các Điều 37, 38 và 39
của Bộ luật này” , pháp luật quy định, người sử dụng lao độ i
chịu nhung hậ viẹc nhu: “phải nhạn người lao độ
theo hợp đồng lao độ o ọ
ời lao động không đu ẹc cọ
ong theo hợp đồng lao động”; “tru ời lao
độ ẹ
người sử dụng lao độ ẹc cho người lao động”53. Như
vậy, quy định này xác định rõ nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với
người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Nghĩa vụ này bao gồm các nghĩa vụ liên quan đến việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng lao động và đền bù các tổn thất về vật chất và tinh thần cho người lao
động, nhằm bảo vệ việc làm và thu nhập cho người lao động và gia đình họ.
Pháp luật lao động quy định nghĩa vụ trước hết của người sử dụng lao
động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là “phải
nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết”.
Thực tế, quá trình áp dụng quy định này vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau; có
quan điểm cho rằng vì bộ luật lao động đã quy định, nên người sử dụng lao
động phải nhận người lao động trở lại làm việc; quan điểm khác thì cho rằng
vì hợp đồng lao động đã hết thời hạn nên người sử dụng lao động không phải
nhận người lao động trở lại làm việc. Sẽ là hợp lí hơn nếu quy định này được
áp dụng theo quan điểm thứ hai là người sử dụng lao động không phải nhận
người lao động trở lại làm việc khi thực hiện hết các chế độ gồm tiền lương,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Trên thực tế, kể cả trường hợp thực hiện 53 Khoản 1, 2 Điều 42 Bộ Luật lao động năm 2012.
124
theo quan điểm thứ nhất là người sử dụng lao động “phải nhận người lao
động trở lại làm việc”,
người sử dụng lao động ạ ời lao động trong
đo ạt lao động hiệ
biẹ ọc người sử dụng lao độ ạn người lao độ
ẹc, nên không ít tru ời sử dụng lao động cố tình
không thực hiện quy định này hoặc vẫn chấp hành, nhưng kéo dài thời gian
nhận người lao động trở lại làm việc để người lao động mệt mỏi, chán nản mà
tự rút lui hay phải tìm kiếm việc làm mới dù họ thực sự không muốn khi
không còn được tin tưởng, không muốn đóng góp, cống hiến nữa.
Bên cạnh quy định “phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp
đồng lao động”, pháp luật cũng quy định “…phải trả tiền lương, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc
cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động”. Như vậ
ợp đồng lao độ ời lao động phải
chịu những tổn thất về vật chất và tinh thần rất lớn, nên người sử dụng lao
động phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày người lao động
không được làm việc. Đây là khoản bồi thường đương nhiên người lao động
đáng được hưở ợp đồng
lao độ ời sử dụng lao độ gười lao độ
ể đảm bảo quyền lợi cho người lao
động thì người sử dụng lao động còn phải đền bù thêm ít nhất 02 tháng tiền
lương theo hợp đồng lao động. Nếu người lao động không yêu cầu người sử
dụng lao động nhận trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết, thì
ngoài việc thanh toán các khoản tiền nói trên, người sử dụng lao động còn
phải trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ
12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Trường hợp người lao động yêu cầu người sử dụng lao động nhận trở lại làm
125
việc theo hợp đồng lao động đã giao kết mà người sử dụng lao động không
muốn nhận lại người lao độ
thể thỏa thuận bồi thường thiệt hại thêm với mức ít nhất bằng 02 tháng tiền
lương theo hợp đồng lao động. Nếu không thể thỏa thuận, thì người sử dụng
lao động buộc phải nhận lại người lao động trở lại làm việc. Bên cạnh đó, nếu
người sử dụng lao động vi phạm thời gian báo trước theo quy định tại Khoản
2 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 thì còn phải bồi thường cho người lao
động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong
những ngày không báo trước.
Ví dụ, Bản án số 58/2017/LĐ-ST ngày 31/8/2017 về việc tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp HĐLĐ giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị M và bị đơn
công ty TNHH N Việt Nam của TAND quận Tân Bình, tp. Hồ Chí Minh [122].
Ngày 30/6/2016, bà M bắt đầu làm việc tại công ty TNHH N Việt Nam. Sau 2
tháng thử việc, công ty kí HĐLĐ 12 tháng đối với bà M từ 1/9/2016 đến
1/9/2017 với mức lương là 10.000.000đ/tháng. Trong quá trình làm việc công
ty không đóng BHXH, BHYT cho bà. Trong quá trình đó, bả vẫn làm tốt các
công việc và ngày 26/12/2016 bà bị chấm dứt HĐLĐ. Theo đó, bà M đã kiẹ
ạ
ong là 80.000.000đ; vi
phạm về thời gian báo trước 30 ngày là 30.000.000đ; bồi thường 2 tháng tiền
lương là 20.000.000đ; huỷ quyết định về việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ;
đối với các khoản BHXH, BHYT yêu cầu công ty có trách nhiệm thực hiện
quyền lợi đóng trong thời gian hợp đồng có hiệu lực và phải nhận bà trở lại
làm việc do HĐLĐ hết hạn vào ngày 1/9/2017. Căn cứ vào Khoản 1, Khoản 5
Điều 42 quy định về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ; Điều 90 BLLĐ quy định về tiề
-
126
ọ ọ ề tiền lương, HĐXX chỉ chấp nhận
mức lương để tính các khoản bồi thường là 8.500.000đ (mức lương chính,
phụ cấp công việc, tiền ăn trưa, tiền đi lại, gửi xe) là 68.000.000đ); vi phạm
thời hạn báo trước là 8.500.000đ; 02 tháng tiền lương tương ứng là
17.000.000đ; đóng BHXH, BHYT trong thời gian 12 tháng làm việc (do hai
bên chưa thực hiện) nên phải có nghĩa vụ trích đóng theo quy định của pháp
luật. Đối với yêu cầu nhận bà M trở lại làm việc do bà rút lại trong yêu cầu
nên HĐXX chấp nhận. Như vậy, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp
luật của công ty N với bà M là tổn thất rất lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, nên
công ty N không những phải bồi thường thiệt hại trong thời gian bà M không
được làm việc cả về tiền lương (lương chính thoả thuận trong hợp đồng, phụ
cấp lương, tiền ăn trưa, tiền đi lại, tiền gửi xe…); bồi thường vi phạm thời hạn
báo trước; bồi thường 02 tháng tiền lương; mà còn phải đóng cả tiền BHXH,
BHYT mà hai bên chưa thực hiện. Ngoài ra, công ty còn phải nhận bà M trở
lại làm việc theo đúng quy định của pháp luật, trường hợp bà M không muốn
trở lại làm việc thì ngoài các khoản bồi thường đó công ty N và bà M có thể
thoả thuận bồi thường thiệt hại ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động khoảng 8.500.000/tháng.
Mặc dù pháp luật quy định tương đối cơ bản nghĩa vụ của người sử dụng
lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, nhưng
do các văn bản hướng dẫn luật không quy định rõ cách thức trả tiền BHXH,
BHYT trong những ngày người lao động không được làm việc, nên hiện nay
đang tồn tại nhiều cách lí giải khác nhau. Cách lí giải thứ nhất là trả trực tiếp
cho người lao động số tiền tương ứng với số tiền đóng BHXH, BHYT trong
những ngày người lao động không được làm việc. Nếu thực hiện theo cách
hiểu này thì sẽ đơn giản và thuận tiện cho cả hai chủ thể, nhất là trường hợp
người lao động muốn nhận tiền. Nhưng, với trường hợp người lao động
127
không muốn nhận tiền mà muốn đóng BHXH trong thời gian không được làm
việc, thì sẽ không thực hiện được các thủ tục đóng BHXH bắt buộc vì phải
thông qua người sử dụng lao động. Như vậy, quyền lợi của người lao động
cũng sẽ bị ảnh hưởng do bị gián đoạn thời gian đóng BHXH, cũng như bị
giảm thời gian đóng BHXH khi thực hiện chế độ này. Cách lí giải thứ hai, là
buộc phải thực hiện thủ tục đóng BHXH, BHYT cho người lao động trong
những ngày người lao động không được làm việc. Tức là, phải làm thủ tục
đóng BHXH, BHYT cho người lao động; đồng thời người lao động cũng phải
đóng một khoản tiền lương tương ứng theo tỷ lệ nghĩa vụ phải đóng BHXH,
BHYT theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng nảy
sinh bất cập nếu vụ tranh chấp kéo dài, vì có nhiều trường hợp khoảng thời
gian từ khi người lao động bị cho thôi việc đến khi bản án có hiệu lực của Toà
án về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với
người lao động kéo dài từ một đến hai năm sẽ gây khó khăn cho việc đóng
BHXH, BHYT trong thời gian người lao động không làm việc. Vả lại, trong
thời gian không được làm việc người lao động vẫn phải đóng BHYT theo tỷ
lệ pháp luật quy định; nhưng lại không được hưởng quyền lợi từ việc đóng
BHYT, vừa không phát huy được vai trò của BHYT, vừa ảnh hưởng đến
quyền thụ hưởng bảo hiểm của người lao động [127, tr. 24].
Ngoài ra, việc quy định “phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất
02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động” cũng có những điểm bất cập
trong thực tiễn thực hiện. Bởi vì, các tranh chấ ong trong
tru ẹ ẹ lao đọng trái pháp luạ
thôi viẹ o ọi khác không? Theo
Điều 90 của Bộ luật lao động năm 2012 thì o mà
người sử dụng lao độ ời lao độ ẹn công viẹ
ạ o ong theo công viẹc hoạ
128
o . Từ định nghĩa trên có thể thấy
đặc điểm của tiền lương, những “khoản” được coi là tiền lương, nhưng cũng
có “khoản bổ sung khác” cũng cần hướng dẫn làm rõ. Có cách lí giải đó là
các khoản mà người sử dụng lao động trả thêm cho người lao động ngoài tiền
lương và phụ cấ m tru
ải khác là cầ ạ
trong hợp đồng lao độ ạ
o ong.
và đu ạ ề
nghĩa vụ bồi thường được quy định là “ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động”54, cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Bởi vì, q
luong theo hợp đồng lao động là chưa rõ ràng vì không nói rõ là hợp đồng lao
độ ẹn hay hợp đồng lao độ
ợp đồng lao động. Bở ong theo hợp
đồng lao động đang thực hiện hoạc hợp đồng lao độ
ời lao động; còn nếu ca
luong đu ạ ợp đồng lao độ ẹ ời
lao động, vì thông thu ời gian thì các hợp đồng lao động sau tiề
n nhiều so vớ ợp đồng thử việc. Vì
vạ ẹ ạ ẹ
trong quan hẹ lao đọng [52, tr.24].
Bên cạnh đó, một quy định nữa của Bộ luật lao động về bồi thường thiệt
cũng cần phải được xem xét sửa đổi hoặc cần làm rõ hơn là “trong những ngày
người lao động không được làm việc”. Có ý kiến cho rằng đây là thời gian
đượ ẹ ộng. Ý kiến này
ại hợp đồng lao động xác đị ừ 12 đế
sẽ thuận lợ 54
u 42 Bộ luật lao động nam 2012.
129
ẽ rất khó làm rõ.
Có ý kiến khác lại cho rằ ẹ
ự bất hợ ại hợp đồng lao
ợc lạ hợp động có thời gian ngắn sẽ đượ
ậy, việc làm rõ đồng lao độ
ừ thời điểm nào là thời gian “không được làm viẹc”
rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi nhất là đối với người lao động.
Ví dụ -
luạt đọ ữa nguyên đơn anh Đạng Anh T và bị
ủa TAND thành phố Hải Phòng [114]. Theo đó ngày
15/3/2010, anh T đu
viẹ ết đị -
ẹ ẹm thuọ ạ
ẹ ẹ g viẹ
n 2 tháng làm viẹ
ẹ
- ọ ẹ
ọng làm công viẹ
ẹ
nhung công ty yêu ẹn đúng thoả thuận củ
ạ ẹ
-
ọi quy lao đọng, vi ph ọ
ện An
Dương đã tuyên: việc kỷ luật lao động với hình thức sa thải của công ty cổ
phần TS với anh Đặng Anh T là trái pháp luật. Buọ cho anh
130
Đạ o ẹ
ọ ọ
ẹm cùng anh Đạng Anh T nọ
Như vậy, qua vụ án này cho
thấy, thời gian tính “những ngày không được làm việc” của Toà án là từ
15/4/2014 - ngày công ty ra Quyết đinh sa thải đến 13/3/2017 là xét xử sơ
thẩm; trong khi thời điểm anh T nghỉ là việc là 29/3/2014 do “không được bố trí theo đúng công việc đã thoả thuận trong hợp đồng lao động”55. Hơn 2
tuần nghỉ việc không được trả lương là khoản tiền không nhỏ gây khó khăn
cho anh T trong đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình, cũng như tìm
kiếm công việc mới. Vì vậy, pháp luật cần phải có quy định thống nhất hoặc
quy định rõ hơn “trong những ngày người lao động không được làm việc” để
đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và gia đình họ.
Tóm lại, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là quyền chính đáng
của các chủ thể trong quan hệ lao động, nhưng nếu một trong hai bên đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật lại ảnh hưởng đến quyền
chủ thể kia. Do đó việc xác định trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động là
hợp pháp hay trái pháp luật là vấn đề rất quan trọng luôn được các bên tham
gia hợp đồng lao động quan tâm để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của
mình; đồng thời giúp cho các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở giải quyết các
tranh chấp phát sinh liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng lao động. Mạc dù pháp luật lao độ o
cơ bả
ẫn còn một số ụ thể, chưa đượ
ững vướng mắc khi áp dụng pháp luậ
55 Điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ Luật lao động năm 2012.
131
Thứ nhất, p
“tiền lương theo hợp đồng lao động”,
p thườ
ố đị Pháp luật lao động quy định: “là khoản tiền mà người
sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa
thuận; tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác”56 bồi thường
thiệt hại quan hệ lao động
ệ
hay bao gồ
khi văn bản hướng dẫn làm rõ
hợp đồng lao động57 và “Mức
lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thỏa thuận ghi trong hợp
đồng lao động, bao gồm: 1. Mức lương, ghi mức lương tính theo thời gian
của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương do người sử
dụng lao động xây dựng theo quy định của pháp luật lao động mà hai bên đã
thỏa thuận... 2. Phụ cấp lương, ghi các khoản phụ cấp lương mà hai bên đã
thỏa thuận… 3. Các khoản bổ sung khác, ghi các khoản bổ sung mà hai bên đã thỏa thuận58...
ghi trong hợp đồng lao động
-
56 Điều 90 Bộ Luật lao động năm 2012; -CP; 57 -BLĐTBXH. 58
132
“con số”
người lao động bồi thường thiệt hại hợp
đồng lao động ờ
ố đị
bồi thường thiệt hại người lao động v người sử
dụng lao động hợp đồng lao động
thấy không thật sự người sử dụng lao
động hay người lao động hợp đồng lao động
quan hệ lao
động c bồi thường thiệt hại
hay “giới thợ”
người sử dụng lao động
người lao động
người sử dụng lao động phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những
ngày người lao động không được làm việ ền bù thêm ít nhất 02 tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động p người lao động
ệc thanh toán các khoản tiền nói trên, người sử
dụng lao động còn phải trả trợ cấp thôi việc cho người lao động người
sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động
ể thỏa thuận bồi thường thiệt hại thêm với mức
ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Ngoài ra, nếu người
sử dụng lao động vi phạm thờ ớc thì còn phải bồi thường cho
người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động
trong những ngày không báo trước. Ngược lạ người lao động
133
hợp đồng lao động bồi thường
thiệt hại người lao động
người sử dụng lao động
theo hợp đồng lao động
người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương
của người lao động trong những ngày không báo trướ
người sử dụng lao động
hợp đồng lao động bồi
thường thiệt hại người sử dụng lao động người lao động
quan hệ lao động.
3 ẹt hại của người sử dụng lao độ
ẹ hoạ hợp đồng lao độ
ợp đồng lao độ ẹ hoạ
ạt cho phép người sử dụng lao động được đon
phuo ợp đồng lao độ ời lao động.
công nghẹ được pháp luật lao động quy định gồm các tru ụ thể:
ọ
ẹ
ời sử dụng lao động. Còn
thay đổ ọc mọt trong các tru
hoạ ẹ
ạ ẹ còn “chia, tách, sáp nhập, hợp nhất,
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, hợp tác xã là trường hợp bản thân cơ cấu doanh nghiệp, hợp tác xã có sự thay đổi”59. Điều này có sự khác biệt với quy
định trước đây trong Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 59 Điều 13 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP.
134
2006 và 2007 cũng như các văn bản hướng dẫn Bộ luật lao động năm 1994
sửa đổi, bổ sung không quy định thế nào là thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc lý
do kinh tế; mà chỉ làm rõ các trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ gồm 03
trường hợp, đó là thay đổi công nghệ, thay đổi cơ cấu sản phẩm và thay đổi
cơ cấu tổ chức; còn trường hợp lý do kinh tế mới được quy định lần đầu trong
Bộ luật lao động năm 2012. Như vậy, bên cạnh quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động60, người sử dụng lao động còn được quyền cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ sản xuất hoặc vì lí do kinh tế 61 và
tru ẹp tổ chức lại doanh nghiệp, nhu sáp nhạp hay chuyển đổi hình thức doanh nghiệp62. Việc quy định tổ chức lại
doanh nghiệp (gồm sáp nhạ ẹp) hay tổ chức
lại lao động (sắp xếp, phân bổ lại lao động) nhằm tăng hiệu quả, năng suất lao
động hay thay đổi sản phẩm (chuyển đổi mặt hàng, sản phẩm, hàng hoá) trong
nền kinh tế thị trường là rất cần thiết và quan trọ ới thực tế trong
điều kiện khó kha ẹp, biến động thị trường buộc phả
ọng. Tuy nhiên, nếu pháp luạ ừng trường hợ
ợc thực hiện, không được thực hiện sẽ ẹc người sử dụng
lao động lợi dụng quy định đó để chấm dứt hợp đồng lao độ
ị ẹn gây bất ổn cho người lao
động và quan hệ lao động.
Ví dụ, Bản án Phúc thẩm số 21/2017/LĐ-PT ngày 28/11/2017 của TAND
tỉnh Bình Dương về tranh chấp đơn phương chấm dứt HĐLĐ giữa nguyên
đơn bà Hoàng Thị Phương L với bị đơn công ty CP Bệnh viện Đa khoa quốc
tế H (do ông Võ Hồng C là người đại diện theo pháp luật) [120]. Tại đơn khởi
kiện ngày 5/4/2017 bà L trình bày: ngày 25/11/2010 bà L vào làm thử tại
60 Điều 38 Bộ Luật lao động năm 2012; 61 62
ộ Luật lao động năm 2012; ộ luật lao động năm 2012.
135
công ty CP Bệnh viện Đa khoa Quốc tế H thời gian thử việc là 2 tháng. Đến
ngày 24/1/2011 bà L kí HĐLĐ không xác định thời hạn với chức danh chuyên
viên mua hàng, mức lương 8.000.000; ngày 20/9/2013 bà L tiếp tục ký phụ
lục hợp đồng với mức lương 8.800.000 đồng. Ngày 17/2/2016 công ty thông
báo cho bà L về việc sắp xếp cơ cấu nhân sự tại công ty. Công ty yêu cầu bà L
tự viết đơn xin nghỉ việc nếu không công ty sẽ ra Quyết định thôi việc với lí do
thay đổi cơ cấu, cắt giảm nhân sự. Ngày 24/2/2016 bà L nhận được thông báo
số 01HCNS/T2-2016 yêu cầu bà L kí nhận thông báo về việc giảm biên chế
nhân sự do thay đổi cơ cấu vá sắp xếp nhân sự; ngày 26/2/2016 bà L nhận
được thông báo số 02/HCNS/2016 của phòng hành chí nhân sự yêu cầu bà L
ở nhà và vẫn hưởng lương đến ngày 25/4/2016. Ngày 1/5/2016 công ty ra
Quyết định số 21/2016/QĐTV đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà L. Lý giải
về quyết định trên, đại diện công ty cho rằng vào khoảng đầu năm 2016, công
ty nhận thấy tình hình kinh doanh chưa đạt hiệu quả, cần sắp xếp lại cơ cấu
nhân sự trong khi nhu cầu sử dụng lao động của các phòng, ban đã đầy đủ
nên công ty đã quyết định phương án cắt giảm nhân sự. Như vậy, Quyết định
này của công ty là trái quy định của pháp luật làm ảnh hưởng quyền lợi của bà
L; áp dụng các quy định của pháp luật lao động; khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố
tụng dân sự và Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, Toà
tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L; yêu cầu công ty CP Bệnh
viện Đa khoa Quốc tế H phải bồi thường thiệt hại cho bà L về những ngày bà
không làm việc, chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp trong thời gian bà L
bị cho nghỉ việc và bà L không phải chịu án phí sơ thẩm và phúc thẩm.
Trường hợp buộc phải cho bà L thôi việc vì lí do thay đổi cơ cấu và sắp xếp
nhân sự mà không thể sắp xếp công việc mới thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho bà L theo đúng quy định của pháp luật63. Có thể nói, việc cắt giảm lao
63 Điều 49 Bộ Luật lao động năm 2012.
136
động do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lí do kinh tế nhằm mục đích tăng
năng suất lao động, ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn
toàn do người sử dụng lao động đon phuo ẹn. Vì thế, để bảo vệ cho
người lao động trong trường hợp này, pháp luạ ạ
ẹ ẹ ời sử
dụng lao động [132, tr.202].
Về thủ tụ ẹ hoạ
lao đọng, ảnh hưởng việc làm của người lao động hay nhiều người
lao động, thì người sử dụng lao độ uo ọ
ọ quy định của pháp luật64. Trong đó,
pháp luạ ẹ ời sử dụng lao động trong viẹ
ạo lại cho người lao độ
làm viẹ ải có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại
cơ sở. Trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc
làm vì lí do kinh tế hay việc làm mới do thay đổi cơ cấu, công nghệ mà phải
ổi vớ ẹn tạ ọ
cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động65 thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lí nhà nước về lao động66.
Về trợ cấp mất việc làm, pháp luật lao động Việt Nam quy định tương
đối cơ bả ẹ ời lao động đu ẹ
“làm viẹc thu ời sử dụng lao độ
ẹc làm m làm viẹ ong lên”.
nhu ong”. ẹ
ẹ ời lao động đã làm viẹ
ười lao độ
ộ luật lao động năm 2012;
người sử dụng lao độ 64 65 Điều 49 của Bộ luật lao động năm 2012; 66 Khoản 3 Điều 44 Bộ Luật lao động năm 2012.
137
ạ ọ ẹc đã ẹ
đu ời sử dụng lao độ ẹc”. Và o
o t ẹ ẹ
ọ o
người lao độ ẹc làm”67. Tương tự và để
ọ ời sử dụng lao động đon
phuo ợp đồng lao động, pháp luật cũng quy định:
ời lao độ ẹ ời sử dụng lao độ
ẹc làm nhu n làm viẹ
ẹc làm ít hon 18 tháng thì người sử dụng lao động có trách nhiẹ
ẹc làm cho người lao độ
luong” và “tru ạp Doanh nghiẹ
ời lao độ ọng thì người sử
dụng lao động có trách nhiẹ ẹc hoạ ẹ
ời lao động đã làm viẹ ời lao
động đã làm viẹc cho người sử dụng lao động tru
68.
sáp nhạp Doanh nghiẹ
ẹc làm trong tru
ọc lọ ất cập thể hiện sự
ậm chí có sự ự bất cập đó thể hiện rõ tại quy định trả trợ
cấp thôi việc tại Điều 48 với quy định trả trợ cấp mất việc làm tại Điều 49 Bộ
luật lao động năm 2012. Theo đó, “ngu ọng cho ngu ọng
thôi viẹ ẹ hoạ ạ
69 thì người sử dụng lao
ạp, doanh nghiẹ
ẹ ộ luật lao động
động phải có trách nhiẹ 67 Điều 49 Bộ Luật lao động năm 2012; 68 Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP; 69 Khoản 10 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012.
138
năm 2012. Tru ợp đồng lao độ ọ
ọ người sử dụng lao động đu
45 Bộ luật lao động năm 2012 người sử dụng lao độ ẹc
ộ luật lao động năm 2012. Vì vạy, khi làm cho người lao độ
ẹ thực hiệ ặp nhiề ẹ
ổi co ọng đuo
nghẹ hoạ ọ ọng là người lao
ẹ động nhung chính người lao độ
hu ẹ ời sử dụng lao
độ
ẹc cho người lao độ ời sử dụng lao động (
ời lao độ m làm viẹ ửa tháng luong)
, thì người sử dụng lao độ m làm
viẹ ọt tháng luong.
Sự bất cập còn thể hiện ở quy đị ẹ
ca m làm viẹ không ca ẹ
ợp đồng lao động, nên chu ẹ
ẹ thu ợp đồng
lao độ ẹc nhu nhau, nhung người lao độ
làm viẹc lâu ho ẹ ợp đồng lao độ
ẹc làm ít ho
đó, pháp luạ ẹn người lao động đu ẹc
làm là làm viẹc thu ẹ
ời lao động chua làm viẹ
ẹ ẹ ẹ
n cho người lao động chua làm viẹ
a tìm đu ẹ ẹ người
139
lao động. Do vạy, Bộ luật lao độ
ời lao động này. ho
Bên cạnh đó, một bất cập nữa về ồi thường thiệt hại khi
người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luậ
ế tài, biện pháp để
đảm bảo thực hiệ ộ luật lao độ
ời sử dụng lao độ
ị
người sử dụng lao độ
ời sử dụng lao độ
ời lao ho
ời lao độ ợp đồng lao độ độ
ời sử dụng lao độ
ời lao độ ồi thường
thiệt hại khi người sử dụng lao độ
kinh
Như vậ ồi thường thiệt hại khi người sử dụng lao động
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luậ
ệ “khoảng trống pháp lý” mong muốn
ời sử cần được làm rõ. Pháp luật
dụng lao độ
70. Bở
ời sử dụng lao độ
ời sử dụng lao
độ
70
ộ luật lao động năm 2012.
140
ời lao độ ời lao
độ hợp đồng lao động ời sử dụng lao độ
ời lao độ
ồi thường thiệt hại khi người sử dụng lao độ
Nói tóm lại, các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động đều xác lập
những quyền và nghĩa vụ cụ thể với nhau trên cơ sở tự do thoả thuận, tôn
trọng lẫn nhau trong khuôn khổ pháp luật quy định. Sau khi hợp đồng lao
động đã có hiệu lực, người lao động và người sử dụng lao động phải tuân theo
những quy định của pháp luật lao động và những thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng lao động. Việc thực hiện các nghĩa vụ của chủ thể này là điều kiện
để bảo đảm quyền của chủ thể khác. Nếu chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện
đúng hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ của mình sẽ xâm phạm tới
quyền lợi của chủ thể kia gây ảnh hưởng không tốt tới mối quan hệ giữa các
bên và phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Mặc dù pháp luật lao
động Việt Nam ngày càng được quy định cơ bản về các nội dung bồi thường
thiệt hại; nhưng thực tiễn áp dụng cũng còn những bất cập nảy sinh về cả căn
cứ và thủ tục thực hiện. Chính vì vậy, việc đưa ra những bất cập và một số ý
kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng lao động là rất cần thiết nhằm bảo vệ cho các bên và duy trì
quan hệ lao động luôn được ổn định, bền vững.
3.2. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại tính
mạng, sức khỏe cho ngƣời lao động và thực tiễn thực hiện
ng và bẹ
ra trong quá trình lao đọng, là hạ
toàn, vẹ sinh lao đọng. Trong quan hệ lao động, người lao động luôn là người
141
“yếu thế”,
hu
Trong khi người sử dụng lao động lại có nhiều các điều kiện thuận lợi như
quyền tuyển dụng, sử dụng người lao động; nắm giữ các tư liệu sản xuất và tổ
chức, quản lí điều hành hoạt động lao động; người sử dụng lao động phải chịu
trách nhiệm về công tác an toàn, vệ sinh lao động; thực hiện các biện pháp đảm
bảo an toàn, phòng ngừa, ngăn chặn các rủi ro, các yếu tố ảnh hưởng khác phát
sinh trong lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ, tính mạng cho người lao động;
đồng thời thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho
người lao động khi xảy ra sự cố lao động. Bởi vì, đảm bảo tính mạng, sức khoẻ
cho người lao động là điều kiện tiên quyết cho quá trình sản xuất, kinh doanh
được ổn định; hạn chế được xung đột của các bên trong quan hệ lao động; tạo
tâm lí yên tâm cho người lao động và nâng cao hiệu quả sử dụng sức lao
động.
ng, bẹ p, pháp luạt lao
đọng Viẹ
ng, bẹ p; các căn cứ và thủ tục thực hiện viẹ
thu ng thiẹ
o
giải pháp về an toàn lao động, vệ sinh lao động không thể hạn chế được các
thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ xảy ra đối với người lao động trong quá trình
sản xuất [130, tr.413].
Hiến pháp năm 2013, quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ...”71; “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân 71 Điều 19 Hiến pháp năm 2013.
142
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”72 73. và
Như vậy, vấn đề bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho công dân luôn được pháp
luật quan tâm, trong đó việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh cho người lao
động luôn chiếm vị trí trung tâm nhằm duy trì ổn định quan hệ lao động, tạo
ra của cải vật chất đóng góp cho nền kinh tế và nâng cao mức sống của người
dân.
Về tai nạn lao động, Bộ luật lao động năm 2012 quy định:
đọ o ọ phạ
hoạ ời lao độ ng quá trình lao đọ
ẹ ẹn công viẹc, nhiẹ ọng”74. Tương tự, Luật An toàn
vệ sinh lao động năm 2015 cũng chỉ rõ: “tai nạn lao động là tai nạn gây tổn
thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc
gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”75. Như vậy, cả hai quy định trên đều có những điểm
tương đồng là “gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng của cơ thể
hoặc gây tử vong” và “gắn với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ được
giao”. Mạ ọng là mọ
giống các tai nạn rủi ro khác trong xã hội, nhưng điểm khác ở chỗ
ọ
ọ ời lao động trong quan hệ
lao động, tứ ẹn công viẹc và nhiẹ ọ
ạ ẹ “ ọ
72 Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013; 73 Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp năm 2013; 74 Khoản 1 Điều 142 Bộ Luật lao động năm 2012; 75 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
143
ẹ ẹn công viẹc, nhiẹ ọng” là đạ
ẹ ọ [132, tr.
364]. Ngoài ra, Luật Bảo hiểm xã hội cũng đưa ra, người lao động được
hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện: “a) Tại nơi làm việc
và trong giờ làm việc; b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực
hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động; c) Trên tuyến đường
đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý”76.
Bệnh nghề nghiệp. Trong quá trình lao đọng, mọ
i làm viẹ
ời lao độ ẹ ẹ
ẹ ẹ
ng làm viẹ ời lao động thì đu
ẹ ẹnh tạ ẹp gây nên
ẹ đu ẹp [132, tr. 364]. Bộ luật lao động năm
2012 quy định: “Bẹ ẹp là bẹnh phát sinh do ẹn lao đọ
ẹp tác đọ ời lao động”77. Và “bệnh nghề
nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động”78. Nhu vạ ẹ
nghiẹp là can bẹnh này ẹn lao đọ
ẹ ẹu làm cho
bẹ ẹ n bẹnh thông thu ẹ ẹ
ọ
ạ ạ
ẹ ẹp do Bọ
76 Khoản 1 Điều 43 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; 77 Khoản 1 Điều 143 Bộ Luật lao động năm 2012; 78 Khoản 9 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
144
ọ Lao đọng - Thuong binh và Xã họ
ẹ ẹn và môi tru quan nhà nu
ẹ ẹ p [132, tr. 365].
Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Trong quá trình lao động luôn tiềm ẩn những
nguy cơ có thể gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ảnh hưởng tới tính
mạng, sức khoẻ của người lao động. Do đó, người sử dụng lao độ
hiẹ ẹ ạ ọng,
ẹ bẹ ẹ ời lao động khi xảy ra các rủi ro,
Thứ nhất, ẹ
o ỳ
tạ ong tiẹ ạ
ẹ ọng”; và ẹ
ạc ra lẹ ọ
nguy co ọng, bẹ i làm viẹc có ẹp”79; và “Kịp thời sơ cứu, cấp
cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu,
cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp”80.
Thứ hai, thanh toán mọ ạc toàn bọ trong
quy định cũ, người sử dụng lao động ọ
ọng, bẹ
nghiẹp81. Hiẹn nay, người sử dụng lao độ ẹm
ọng tham gia BHYT và thanh toán toàn bọ
79 Khoản 1 Điều 140 Bộ Luật lao động năm 2012; 80 Khoản 1 Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; 81
ộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007.
145
ời lao động không tham gia BHYT”82; “Trả phí khám giám định mức suy giảm khả
năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động
dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa”83 và
“Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do
lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp theo mức bồi thường”84. Như vậy, viẹc nhà nu ời sử dụng
lao động thanh toán mọ ời lao độ
ời lao động và người sử dụng lao độ
ẹm thanh toán
mọ ời sử dụng lao độ
ạ ời sử dụng lao động khi
người lao độ ọng, bẹ ẹp.
Thứ ba, ong theo hợp đồng lao động cho người lao động
bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việ
85 .
ọng, bẹ
nghiẹp, quan hệ lao độ ẹn và người sử dụng lao
ong cho người lao động. Tuy độ
ời lao độ ọng, bẹ ẹ lạp luạ
ẹn công viẹ ời sử dụng lao động và du
ời sử dụng lao động; vì vạy, người sử dụng lao độ
ẹm trong tru ời lao độ ọng,
bẹ ẹp.
Thứ tư, ạ ời lao động
82 Khoản 1 Điều 144 Bộ Luật lao động năm 2012; 83 Điểm b Khoản 2 Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; 84 Khoản 4 Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; 85 Khoản 2 Điều 144 Bộ Luật lao động năm 2012.
146
nang lao đọ u 145 Bộ luật lao động
năm 2012. “Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động do lỗi của chính
người lao động gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40%; Giới thiệu để người
lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác
định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi
chức năng lao động theo quy định pháp luật; Thực hiện bồi thường, trợ cấp
đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày,
kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả
năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên
bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người; Sắp
xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y
khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi
điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc; Lập hồ sơ hưởng chế
độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định pháp luật”86. Mức bồi thường cũng được
quy định cụ thể, đối với người lao động “bị suy giảm từ 5% đến 10% khả
năng lao động” thì người sử dụng lao động bồi thường “ít nhất bằng 1,5
tháng tiền lương. Sau đó mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao
động cứ tăng 1% thì được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%.”87. Trong trường hợp “người lao động
bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc người lao động bị chết do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp”, thì người lao động hoặn thân nhân
người lao động nhận được khoản bồi thường “ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động” từ người sử dụng lao động88. “Trường hợp do lỗi của
người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất
86 Khoản 5, 6, 7, 8, 9 Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; 87 Điểm a Khoản 3 Điều 145 Bộ Luật lao động năm 2012; 88 Điểm b Khoản 3 Điều 145 Bộ Luật lao động năm 2012.
147
bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này”89 .
Ngoài ra, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 cũng quy định:
“Tru ời sử dụng lao độ
độ ọ ọ
(bảo hiểm thương mại), thì ngu ọng đu
ản 4 Điều ngu ộ ọ
04/2015/TT- 38 Luật An toàn vệ sinh lao độ
BLĐTBXH, thì người sử dụng lao độ
ọng ọng hoạ
ản 4 nhạn đu
Điều 38 Luật An toàn vệ sinh lao độ
- ời sử dụng lao động không đóng BHXH cho
NLĐ thuọ ọ ọ
ều Luạ ọi, thì ngoài viẹ
38 Luật An toàn vệ sinh lao độ 04/2015/TT-BLĐTBXH,
người sử dụng lao độ ọ ọi thay co
ọi cho người lao độ ọng, bẹ ẹp; việc
chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên,
trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của người lao động”.
Như vậy pháp luật lao động công nhận quyền hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp cho dù người sử dụng lao động có đóng bảo hiểm
này cho người lao động hay không. Đồng thời pháp luật bảo vệ quyền hưởng
tiền bồi thường của người lao động ít nhất phải bằng hoặc hơn mức bồi
thường mà pháp luật quy định để tránh trường hợp người sử dụng lao động tự 89 Khoản 4 Điều 145 Bộ Luật lao động năm 2012.
148
định ra mức bồi thường không hợp lý, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp
của người lao động.
Tóm lại, pháp luật lao động Việt Nam hiện hành quy định tương đối cụ
thể, chi tiết về cơ sở, căn cứ và thủ tục để người lao động được bồi thường thi
khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thể hiện sự coi trọng, quan tâm đối
với sức khỏe, tính mạng của người lao động, như: đối với người lao động bị
tai nạn lao động thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ thanh toán phần chi
phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do BHYT chi
trả đối với người lao động tham gia BHYT và thanh toán toàn bộ chi phí y tế
từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không
tham gia BHYT. Mặc dù, người sử dụng lao động không gây ra thiệt hại là tai
nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp đối với người lao động thì người sử dụng
lao động vẫn có trách nhiệ o ọng cho
người lao độ ọ ẹ
đạc biẹt người sử dụng lao độ ạ ời
lao động (trường hợp do lỗi của người lao độ
ộ luật lao động năm 201290 . Từ đó góp phần giảm thiểu
những vụ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cải thiện được điều kiện làm
việc và đảm bảo sức khoẻ, tính mạng cho người lao độ
lao đọng, bẹ ẹ ẹ
ủ thể trong quan hệ lao độ
ẹ ọng, vẹ sinh lao
đọ ọ
ọng hay bẹ ẹp.
Trên thực tế, những năm gần đây theo báo cáo của 63 Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội vẫn còn nhiều vụ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra ở
90 Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02/2/2015.
149
nhiều ngành, nghề, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ, tiềm ẩn nhiều rủi ro,
như: xây dựng, khai thác khoáng sản, xây lắp đều có xu hướng tăng.
ọng trong những năm gần đây luôn có sự biến
động. Theo đó, năm 2016 theo báo cáo của 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trên toàn quốc đã xảy ra 7.981 vụ tai nạn lao động làm 8.251
người bị nạn, trong đó: số vụ tai nạn lao động chết người: 799 vụ; số vụ tai
nạn lao động có hai người bị nạn trở lên: 106 vụ; số người chết: 862 người; số
người bị thương nặng: 1.952 người; nạn nhân là lao động nữ: 2.371 người.
Trong khu vực có quan hệ lao động, trên toàn quốc đã xảy ra 7.588 vụ tai nạn
lao động làm 7.806 người bị nạn, trong đó: số vụ tai nạn lao động chết người:
655 vụ; số vụ tai nạn lao động có hai người bị nạn trở lên: 95 vụ; số người
chết: 711 người; số người bị thương nặng: 1.855 người; nạn nhân là lao động
nữ: 2.291 người [201]. Năm 2017, theo báo cáo của 62/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trên toàn quốc đã xảy ra 8.956 vụ tai nạn lao động làm
9.173 người bị nạn, trong đó: số vụ ọng chết người: 898 vụ; số
người chết: 928 người; số người bị thương nặng: 1.915 người. Trong khu vực
có quan hệ lao động trên toàn quốc đã xảy ra 7.749 vụ tai nạn lao động, làm
7.907 người bị nạn, trong đó: số vụ ọng chết người: 648 vụ; số vụ
ọng có hai người bị nạn trở lên: 70 vụ; số người chết: 666 người;
số người bị thương nặng: 1.681 người. Trong số các nguyên nhân để xảy ra
tai nạn lao động chết người chủ yếu vẫn là do người sử dụng lao động chiếm
45,41%, trong đó không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn
chiếm 14,6 % tổng số vụ, không huấn luyện an toàn lao động hoặc huấn luyện
không đầy đủ chiếm 12,31% tống số vụ; thiết bị không đảm bảo an toàn là
10% tổng số vụ; điều kiện lao động chiếm 6,2% tổng số vụ và không trang bị
phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 2,30% tổng số vụ. Nguyên nhân của người
lao động chiếm 20%, trong đó chủ yếu là vi phạm quy trình quy chuẩn an
150
toàn lao động chiếm 16,9%, còn 3,1% là không sử dụng phương tiện bảo vệ
cá nhân. Thiẹ ạ ọ ề
ời lao động chết và những người lao
động bị thương) là ho ẹ
ọ . Năm 2018, trên
cả nướ ọng, làm 8.229 ngu
đó: số vụ tai nạn lao động làm chết người: 1.039 vụ; số người bị thương nặng:
2.813 người. Trong khu vực có quan hệ lao động số nạn nhân là 622 vụ (giảm
6,6 % so với năm 2017); khu vực người lao động làm việc không theo hợp
đồng lao động là 417 vụ (tăng 57,6% so với năm 2017). Thiệt hại về chi phí
tiền thuốc, mai táng phí, bồi thường thiệt hại cho gia đình người chết và bị
thương gần 1.500 tỉ đồng; thiệt hại về tài sản 5 tỷ đồng; tổng số ngày nghỉ do
tai nạn lao động là 137.034 ngày [201].
Về tình hình bệnh nghề nghiệp trong những năm gần đây cũng luôn có
diễn biến phức tạp. Theo đó, năm 2016 theo báo cáo của 57 các tỉnh, thành
phố tổ chức khám, chữa bệnh thời điểm đó với hơn 1,2 triệu trường hợp người
lao động đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế cho thấy có tới 156.899 người
lao động tiếp xúc với các yếu tố có hại cho sức khoẻ được phát hiện mắc bệnh
nghề nghiệp, trong đó: bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn chiếm 64,4%; bệnh
bụi phổi silic nghề nghiệp chiếm 10,2%; bệnh viêm phế quản mạn tính nghề
nghiệp chiếm 5,1%; ngoài ra rất nhiều bệnh khác cũng thường mắc như: bệnh
về đường hô hấp chiếm 25,6%; bệnh về đường tiêu hoá chiếm 16%; bệnh về
mắt chiếm 6,7%; bệnh cơ xương khớp chiếm 8,3%; bệnh về tai chiếm 2,32%;
bệnh về da chiếm 3,45% và bệnh về tim mạch chiếm 4,23%. Thực tế, chỉ tính
riêng khảo sát của Viện Vệ sinh y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh trong số
1000 công nhân nghề may đã có đến 93% bị mệt mỏi sau lao động, trong đó
47% mệt mỏi toàn thân; 15% kiệt sức; hơn 80% đau mỏi cơ xương khớp…
151
Điều đáng nói là dù người lao động đang đối diện với nhiều nguy cơ tiềm ẩn
của bệnh nghề nghiệp nhưng chưa đến 10% được chăm sóc sức khoẻ [214].
Năm 2017, theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố năm 2017, cả nước có hơn
3.800 trường hợp măc bệnh nghề nghiệp, khám bẹ ẹp: 2,2 triệu
lượt người (so với 1,53 triệu người năm 2016). Trong đó, khoảng 1,5 triệu
người thuộc diện “nguy cơ cao” với bệnh nghề nghiệp, chỉ có hơn 110.000
lượt người được khám bệnh nghề nghiệp (tỉ lệ phát hiện chỉ 5%), chỉ có
khoảng 1.000 người lao động được giám định để hưởng chế độ. Người lao
động đạt sức khỏe loại I chỉ chiếm 24,1% (năm 2016 là 23%); loại II và III
chiếm 68,4% (năm 2016 là 63%), còn lại là loại IV và V. Có khoảng 30.000
người lao động mắc bệnh nghề nghiệp được giám định, trong đó 30/34 loại
bệnh nghề nghiệp, phổ biến là điếc, tiếp đến là hen phế quản, bụi phổi silic,
nhiễm độc nicotin… Trong khi chỉ có 20,4% trong tổng số hơn 61.000 cơ sở
lao động thực hiện báo cáo về môi trường và sức khỏe người lao động có lập
hồ sơ vệ sinh lao động và chỉ có hơn 5.400 cơ sở sản xuất triển khai quan trắc
môi trường lao động [214]. ẹt Nam đã có 34 bẹnh đu
nhạn là bẹ ẹp đu ọ ọ
bẹ ạ : bệ ọ
ẹp; bẹ hiẹp; bẹ
ẹp; bệnh viêm loét da, viêm móng và xung quanh móng nghề
nghiệp… Đánh giá về bệnh nghề nghiệp, Bộ Y tế cho rằng hiện nay việc
khám và phát hiện bệnh nghề nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn; công tác
chỉ đạo, quản lý an toàn, vệ sinh lao động; chăm sóc sức khoẻ; phòng, chống
bệnh nghề nghiệp của các Bộ, ngành và địa phương chưa được quan tâm đúng
mức. Trong khi nhiều người sử dụng lao động chưa nghiêm túc thực hiện quy
định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động và phòng chống bệnh nghề
nghiệp; nguồn kinh phí cho hoạt động quản lý an toàn, vệ sinh lao động và
152
chăm sóc sức khoẻ; phòng, chống bệnh nghề nghiệp còn rất hạn chế.
Như vậ ọng, bẹ ẹp ở nước ta trong
thời gian quan luôn có sự thay đổi theo chiều hướng gia ta
nguyên nhân, trong đó đáng chú ý là các nguyên nhân nhu
ẹ ẹ sinh lao đọng chua ậ
ẹ đu ọ
ẹ ạ
ọng, vẹ sinh lao đọ
ạt tu ọ a nghiêm ngạt... Trong
khi thực tiễn thực hiện việc bồi thường thiệt hại về tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp cho người lao động đang gặp một số bất cập, thể hiện:
Thứ nhất, về việc xác định thế nào là tai nạn lao động và việc thực hiện
bồi thường. Khi xã hội phát triển thì ngành công nghiệp cũng đượ
nghiẹ ự
lao đọ n và người sử dụng lao độ
ọ trách nhiẹm ràng buọc chạ
ọ ọ o đọ ọ
ời lao động. Nhưng, hiẹn nay Bọ luạt lao đọng
ờng hiẹ mọ
hợp đượ ọ lao đọ
ời lao động trên đu
i làm viẹc và trên đu
ẹ a đón con, tham ngu
ọ
chua phân biẹt đu ọ ọ
ời lao động. Vì vạy, hiẹn nay viẹ
ọ ạ
153
ẹ ời lao
độ nhau [51]. Về đảm bảo việc bồi thường thiệt
hại về tai nạn lao động, mặc dù pháp luật lao động quy định tương đối rõ
ràng, cơ bản nhưng trên thực tế trong tru ời sử dụng lao động
không đóng BHXH, hoạ
ời lao độ ời sử dụng
lao độ ạ
Ví dụ, Bản án số 38/2017/LĐ-PT ngày 15/12/2017 về tranh chấp đòi bồi
thường thiệt hại tai nạn lao động của TAND tỉnh Cà Mau giữa ông Lê P H và
công ty CPXDCT HL [121]. Theo đó ngày 22/8/2015 công ty HL nhận vào
làm việc với nhiệm vụ là thuyền trưởng tàu kéo số 0557 SG với mức lương
15.000.000 chưa kể phụ cấp và các khoản bổ sung khác; nhưng chưa được kí
hợp đồng lao động và mua BHXH, BHYT. Quá trình làm việc ông H trình bày
nhiều lần đề xuất công ty kí hợp đồng lao động và đóng BHXH, BHYT nhưng
hoặc là công ty yêu cầu anh phải hoàn tất hồ sơ, hoặc là đưa hợp đồng nhưng
nội dung và công việc không rõ ràng để ông không kí. Ngày 3 - 6/7/2016 ông
được công ty điều động đi kéo tàu và bị cần cẩu đụng bị thương và phải nằm
viện điều trị; nhưng công ty không trả tiền lương, tiền viện phí và cho ông
nghỉ việc trong quá trình điều trị. Vì vậy, ông đã kiện ra toà án yêu cầu thanh
toán tiền viện phí, chi trả 2 tháng lương, chi trả lương trong thời gian điều trị
và không được làm việc, tiền trợ cấp sức khoẻ suy giảm khả năng lao động do
tai nạn lao động. Tổng cộng các khoản là 228.800.000 đồng. Tuy nhiên Toà
Sơ thẩm số 25/2017/LĐ-ST đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P
về yêu cầu đòi tiền lương và bồi thường thiệt hại về tai nạn lao động đối với
công ty HL với số tiền 228.800.000. ngày 10/7/2017 của toà TAND tỉnh Cà
Mau với lí do việc thực hiện công việc là do thoả thuận giữa cá nhân ông H
và cá nhân ông Đ đại diện công ty (không có thẩm quyền); giữa ông H và
154
công ty HL cũng chưa kí kết hợp đồng lao động nên không phát sinh quan hệ
lao động giữa ông H và công ty HL, không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa
các bên từ quan hệ lao động. Thực tế, ông H cũng không có văn bản hay tài
liệu nào thể hiện việc đôi bên có giao kết hợp đồng lao động, nên không có cơ
sở giải quyết bồi thường. Vì vậy, bản án phúc thẩm quyết định giữ nguyên
bản án lao động sơ thẩm và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H.
Như vậy, việc đưa ra quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng lao động
nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích cho người lao động với thực tiễn thực hiện
trong một số trường hợp mà người sử dụng lao động cố tình không thực hiện
bằng nhiều hình thức kí kết khác như khoán việc, dịch vụ, thời vụ… nhằm
trốn tránh nghĩa vụ thì pháp luật lao động cũng rất khó để đảm bảo, bảo vệ
các quyền, lợi ích cho người lao động và người thân của họ trong một số
trường hợp.
Thứ hai, ọng, bẹ
nghiẹp hiẹn nay pháp luật lao động quy định: ong làm ca
ọng, bẹ ẹ ong ạ
đu ọ
hoạc tru ẹ ẹ ẹ ạ
ẹc, tạ ong làm ca
thu ong đu
ọ ẹnh
nghiẹp”91 . ời lao động làm viẹc theo Hợp đồng lao độ
ong làm ca
luo ọ ong theo công viẹ
92 . Như vậy, viẹ
o
91 Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02/2/2015; 92 Điểm b Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02/2/2015.
155
luo ạo điều kiện cho mọt bọ phạn doanh nghiẹp
lợi dụ o ọ
luong thoả thuận (co ong kinh doanh (thực trả) thì không ghi
và đu ời lao động du ụ cấp và các khoản
bổ sung khác.
Thứ ba, về xác định mức thiệt hại. Việc xác định mức bồi thường thiệt
hại hiện nay chỉ dựa trên số liệu về thiệt hại, nhưng pháp luật lao động không
xác định thiệt hại đó ảnh hưởng như thế nào đến đời sống, việc làm của người
lao động, như: trường hợp người lao động là diễn viên múa thuộc công ty giải
trí. Do lỗi của người sử dụng lao động dẫn đến người lao động bị tổn thương
vĩnh viễn ở chân. Rõ ràng là tổn thương này sẽ khiến người lao động có thể
không tiếp tục làm việc (diễn viên múa) được nữa. Tuy nhiên theo cách tính
mức bồi thường hiện nay thì tổn thương này có thể không cao và không được
hưởng mức bồi thường hợp lý để người lao động đó có thể bắt đầu cuộc sống
mới và tìm công việc khác. Đây là một vấn đề hiện nay chưa được tính đến
trong pháp luật lao động Việt Nam, do đó cần phải có các quy định phù hợp
nhằm đảm bảo yếu tố thực hiện trong thực tiễn.
Ví dụ - - -
ẹ ữa Nguyên đo
đon: Công ty TNHH ĐN tại toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh [118]. Theo đó,
k
ọ
- -
thu ong
có đo ẹ
ạ ẹ
- -
156
- -
Sài Gòn đã thanh toán cho đuo ầu chị
ở - -
bản án sơ thẩm đã tuyên, Toà án cấp phúc thẩm đã tuyên: Giữ nguyên bản án
lao động sơ thẩm số - ẹ
ạn mọ ẹ
ọ ọ
ong T Nh,
sinh ngày 19/9/2008, Truo
ty Bảo hiể
B
thu m ba muoi triẹ
ạ ạ ẹ
ĐN. Như vậy, việc thực hiện bồi thường của công ty TNHH S ĐN đối với bà
Trần Thị M và người thân trên cơ sở thiệt hại thực tế và một số chi phí khác
phát sinh; trong đó có khấu trừ phần tiền đền bù của công ty bảo hiểm BJCo
Sài Gòn. Trong khi những tổn thất do ông T tại tai nạn lao động (trước thời
điểm chết ông T đang là Giám đốc công ty), chị M và các cháu K, cháu Nh là
tổn thất rất lớn cả về vật chất lẫn tinh thần. Có thể nói, việc xác định mức bồi
thường thiệt hại hiện nay của pháp luật lao động mới chỉ dừng lại dựa trên số
liệu về thiệt hại mà không xác định thiệt hại đó ảnh hưởng như thế nào đến đời
sống, việc làm của người lao động và người thân của họ sau khi xảy ra rủi ro.
Thứ tư, về thời điểm phát hiện bệ
157
viẹc thì người lao động chu ẹnh, sau mọ
hoạ ẹ ẹnh. Trong tru ếu người lao
động chứng minh được nguyên nhân dẫn tới phát bệnh lúc làm công việc cũ
liẹu người lao động có đu ọ ẹ
nghiẹp? Hiện nay, Bọ luạt lao đọng và các va ẫn
chu ẹ
ọng, bẹ ẹp. Trong tru ẹ ẹp
đã đu ng mọ
hu ọ ạ ẹ
ời sử dụng lao độ ẹ
Thứ năm, về tỷ lệ hưởng trợ cấ ọng và bẹ ghiẹp
ẹn, nhu là hai nộ
ọng và bẹ hiẹ ẹ hu ọ
ng lao nghiẹp nhu nhau là chu ọ
ng lao đọng nhu nhau, nhu ọ ẹ
lao đọng tác độ ẹ ẹ
ạ đọ ẹ ẹ
ẹ ẹp ặc biệ
ọ nạ ng lao đọng thì viẹ
ẹ ẹp ng lao đọ ọng và ngu
đu ẹ ọ
cuọ ẹ ẹp. Theo các chuyên gia
ẹ ẹ
bẹnh tạ nạng hon [59]. Mạ
lao đọng thu ứ
158
ẹ ẹ ọ
tru ọ ạ ẹ người lao động.
Ngoài ra, một số vấn đề khác về bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ
cho người lao động cũng cần được quan tâm, như: công tác
vẹ sinh lao đọ ị, doanh nghiẹp còn hạn chế ẹ
người lao độ ọng, bẹ ẹ
an toàn, vẹ sinh lao đọng chua đu ọ, toàn
diện; các quy định về một số bệnh nghề nghiệp ở một số địa bàn chưa được đầy
đủ, chưa đảm bảo được quyền lợi cho người lao động mắc phải; mức bồi
thường thiệt hại chưa được đảm bảo, chưa tương xứng với mức thiệt hại; danh
dự ời lao động không đu ật lao động
nên khi xảy ra thiệt hại không có căn cứ để thực hiện việc bồi thường…
Như vậy, qua các nội dung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe,
tính mạng trong pháp luật lao động Việt Nam có thể thấy, khác với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản, bồi thường sức khỏe tính mạng thể hiện
sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với những quyền thiêng liêng nhất là
sức khỏe, tính mạng của con người. Các quy định của pháp luật cũng hướng
đến việc ưu tiên khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại mà người lao động
gặp phải và cũng đã thể hiện những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, quy
định về bồi thường thiệt hại sức khỏe tính mạng hiện hành khi áp dụng trong
thực tiễn cũng có một số điểm chưa hợp lý, cần sự quan tâm hơn để phù hợp
với tình hình thực tế và nhằm giảm thiểu tình hình tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, góp phần bảo vệ sức khỏe cho bản thân người lao động và giúp
các gia đình người lao động vượt qua khó khăn. Trên cơ sở đó góp phần hạn
chế thiệt hại cho người lao động, hạn chế sự trốn tránh trách nhiệm của người
sử dụng lao động. Có thể ọng, bẹ ẹp
đang có xu hu ng nên Nhà nu ẹ
ọng, bẹ ẹ
159
vẹ ời lao động và giúp các gia đình người lao động
vu n. Trên co thiẹ ời lao
độ ẹ ời sử dụng lao động.
3.3. Thực trạng pháp luật lao động về bồi thƣờng thiệt hại tài sản
cho ngƣời sử dụng lao động và thực tiễn thực hiện
ẹ n là một nội dung quan trọng và luôn được
quan tâm trong pháp luạt lao đọng. Cùng với bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho người lao
động thì ẹ ột nội dung hợp thành chế độ
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Bồi thường thiệt hại về tài sản
ẹ phát sinh do mộ
ẹ lao đọng. Đây là
hành vi nhằ
ợp đồng lao động và nội quy lao động đều đề cập để
đảm bảo các quyền, nghĩa vụ lao động; duy trì ổn định quan hệ lao động và
hạn chế xung đột của các bên. Vì thế, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà
nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao
động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hoà và ổn định”93. Tương tự, pháp luật lao động cũng quy định: “... Ngu ọng làm
hu ạc có hành vi khác gây thiẹ
ọ ạt” 94 và
“Trong trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp mà gây thiệt hại cho
người sử dụng lao động thì tổ chức công đoàn lãnh đạo đình công phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.”95. Nhu vạy, bồi thường thiệt
hại về tài sản ở đây là nhằm mục đích khôi phục lại giá trị tài sản ban đầu của
ộ Luật lao động 2012;
93 Khoản 2 Điều 57 Hiến pháp năm 2013; 94 95 Khoản 1 Điều 233 Bộ Luật lao động.
160
người sử dụng lao động đã bị tổn thất do hành vi vi phạm của người lao động
gây ra. Trách nhiẹ ẹ ời lao độ
liẹ ời sử dụng lao độ
ọng (gọi là trách nhiệm vật chất)
hoặc tiến hành đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao
động.
Về trách nhiệm vật chất. Trong quan hệ lao động, để thực hiện được
công việc theo hợp đồng lao động đã giao kết, người sử dụng giao cho người
lao động quản lí, sử dụng, lưu giữ những tài sản nhất định như máy móc, thiết
bị, phương tiện, vật tư… Với những tài sản được giao, người lao động có
trách nhiệm sử dụng, bảo quản và giữ gìn; nhưng vì nhiều lí do khác nhau mà
không phải lúc nào người lao động cũng thực hiện được hết trách nhiệm của
mình. Theo đó, khi người lao động thực hiện quyền, nghĩa vụ lao động mà vi
phạm kỉ luật lao động làm thiệt hại đến tài sản của người sử dụng lao động thì
không những phải chịu trách nhiệm kỉ luật; mà pháp luật còn quy định trách
nhiệm phải bồi thường những thiệt hại do hành vi vi phạm của họ gây ra. Như
vậy, bồi thường thiệt hại đối với tài sản của người sử dụng lao động được
pháp luật lao động quy định thành một chế độ pháp lí gọi là trách nhiệm vật
chấ ọ ẹm vạ ời lao động
trong quan hẹ lao đọng là trách nhiẹ ẹ
ạt lao đọng hoạ n trách nhiẹ
ịnh này vừa có ý nghĩa bảo đảm bù đắp một phần
hoặc toàn bộ những thiệt hại về tài sản của người sử dụng lao động; vừa góp
phần quan trọng trong việc tăng cường kỉ luật lao động.
Một trong những điểm mới và tiến bộ của Bộ luật lao động hiện hành so
với trước đây là quy định việ
“Viẹ ẹ
đọ thiẹ
161
ngu ọng”96. Theo đó, khi tiến hành xử lí việc bồi thường thiệt hại
quyết định mức bồi thường thiệt hại, người sử dụng lao động phải căn cứ vào
lỗi của người lao động (hình thức lỗi cố ý hay vô ý, mức độ lỗi nặng hay
nhẹ…); mức độ thiệt hại thực tế (phải quy ra được giá trị bằng tiền) và hoàn
cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động. Quy định này
là hoàn toàn hợp lí vừa đảm bảo việc thực hiện bồi thường thiệt hại trên thực
tế, vừa đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của người lao động. Bởi vì, có
trường hợp người lao động gây thiệt hại, nhưng do điều kiện gia đình quá khó
khăn không thể có khả năng đảm bảo việc thực hiện việc bồi thường [52, tr
266]. Tuy nhiên, để đảm bảo việc thực hiện bồi thường còn phả
ếu tố khác, như: yếu tố lỗ ọ ời lao động được đu
xem xét trên cơ sở ời lao
ố ý thì phải thực hiện bồi thường và ngược lạ độ
ẹ
ẹ
97. M ọ thiẹ
ạ ẹ
ứ
người lao độ ời sử dụng lao động căn cứ vào tài sản thiệt
hại, giá trị tài sản theo thị trường, mức độ tiêu hao và tính ra được bằng tiền;
tức là không vu ẹ ời sử dụng lao độ
ụ thể mà mà người lao độ ột
phần hay toàn bọ thiẹ ần đầu tiên Bộ luật lao độ
ời sử dụng lao độ ẹ
ời
lao động để việc thực hiện bồi thường được đảm bảo được yếu tố thực hiện,
chính xác và hiệu quả.
ắ ời hiệ ệ ẹt
96 Khoản 1 Điều 131 Bộ Luật lao động năm 2012; 97 Khoản 2 Điều 130 Nghị định của Chính phủ số 45/2013/NĐ-CP.
162
hại bao gồm các bước sau:98. Bu ập biên bản và thông báo các bên liên
quan. Khi phát hiện người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động tại
thời điểm xảy ra đó người sử dụng lao động tiến hành lập biên bản vi phạm và
thông báo đến tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở ạc ngu
ẹn theo pháp luạt trong trường hợp người lao động du ổi để tiến
hành họp xử lý bồi thường thiệt hạ ẹc tru
hành cuọ ọ ẹ ồi
thường thiệt hại phải được lập thành biên bản và được thông báo qua các
thành viên tham dự trước khi kết thúc cuộc họp. Biên bản phải có đầy đủ chữ
ký của các thành viên tham dự cuộc họp và nếu không ký phải nêu rõ lý do.
Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động giải quyết bồi thường đu
mạ
ời sử dụng lao độ Tru
ạt thì người sử dụng lao độ mọ
ẹ quy định tại ọ
Khoản 4 Điều 123 Bộ luật lao động năm 2012). Bu
ẹn theo pháp luạ ẹp là ngu thu ẹ
ẹ người lao động.
Ngu ọ
thu ẹ Quyết định xử lý bồi thường thiệt
hại phải được ban hành trong thời hạn của thời hiệu xử lý bồi thường thiệt hại
hoặc thời hạn kéo dài thời hiệu xử lý bồi thường thiệt hại (Điều 124 của Bộ
luật lao động). Quyết định xử lý bồi thường thiệt hại phải được gửi đến người
lao động, cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật của người dưới 18 tuổi
và tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở.
ẹu xử lí bồi thường thiệt hạ ời lao động:
98 Điều 123, 124 và Khoả
ộ Luật lao động năm 2012.
163
hiẹ ẹ
ọ bí mạt công nghẹ, bí mạ ời sử dụng lao độ
99. Như vậy, việc quy
ẹ ồi thường thiệt hạ
định về thời hiệu xử lí bồi thường thiệt hại tuy có sự khác nhau về thời gian,
nhưng tương đối phù hợp do các hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt
hại có liên quan đến tài chính, bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh rất phức
tạp, khó khăn diễn ra cả một quá trình, yêu cầu cần phải có thời gian nhất
định để xác minh, điều tra và thu thập các chứng cứ cần phải có thời gian
chứng minh phạm tội hay không phạm tội, nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích
cho người lao động, đảm bảo tính công bằng, chính xác.
ạt lao độ ứ và trình tự
ử lí kỷ luật lao động thực hiện việc bồi thường thiệt hại ngày càng được
hoàn thiện, đảm bảo quyền ra quyết định xử lí kỷ luật yêu cầu bồi thường
thiệt hại bù đắp những tổn thất; tôn trọng sự tham gia và bảo vệ của tổ chức
đại diện tập thể người lao động và đơn giản hoá các thủ tục xử lí theo hướng
linh hoạ ụng các quy định của pháp luật,
nội quy lao động vẫn còn những sai phạm, bất cập nhất định, như: tự đưa ra
quyết định xử lí; không lập Hội dồng xử lí; không có sự tham gia của tổ chứ
ời lao động...
Ví dụ, Bản án số 16/2017/LĐ-PT ngày 26/9/2017 của TAND tỉnh Bình
Dương [117] về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và yêu
cầu bồi thường giữa nguyên đơn ông Trần Văn Th, sinh năm 1967 và bị đơn
công ty TNHH Đồ gỗ VL. Theo đơn khởi kiện ngày 24/10/2016, ông Th trình
bày ông vào làm việc từ ngày 1/4/2014, hai bên kí HĐLĐ thời hạn 3 tháng,
mức lương 2.889.000 đồng, phụ cấp 11.000 đồng/tháng. Ngày 1/4/2016 ông
99 Khoản 1 Điều 124 Bộ Luật lao động năm 2012.
164
Th và công ty ký HĐLĐ 3 năm (từ ngày 1/4/2016 đến 30/4/2019); mức lương:
3.745.000 đồng, phụ cấp: 200.000 đồng; tiền cơm: 15.000 đồng/phần. Trong
thời gian làm việc, ông luôn chấp hành nội quy lao động không bị lập bất kỳ
biên bản xử lý kỷ luật lao động. Ngày 27/9/2016 ông bị Tổng giám đốc công
ty mời lên văn phòng đề nghị chấm dứt HĐLĐ mà không nêu rõ lý do; đại
diện công ty không giao Quyết định chấm dứt HĐLĐ chỉ nói bằng miệng;
không có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động nên ông Th không
đồng ý và được công ty hẹn buổi chiều cùng ngày đến giải quyết. 15h00 cùng
ngày ông Th đến và công ty vẫn đề nghị ông làm đơn xin thôi việc, ông không
đồng ý nên ra về. Ngày 28, 29/9/2016 ông đến công ty làm việc, nhưng bảo vệ
không cho vào nên ông không thể báo hay nhờ ai báo công ty biết sự việc bị
ngăn cản không cho vào công ty làm việc. Vì thế ông yêu cầu bảo vệ cổng
công ty là ông L xác nhận vào cuốn sổ ông mang theo với nội dung “Phòng
bảo vệ không cho vào làm việc công ty”. Do không được vào làm việc, nên
ông Th không đến công ty và làm đơn nhờ BHXH tỉnh Bình Dương can thiệp.
Ngày 6/10/2016, công ty đến tận nơi ông thuê trọ nhắn ông đến làm việc,
nhưng công ty không nhận ông lại làm việc; không đóng bảo hiểm cho ông
mà yêu cầu ông ký đơn xin thôi việc nếu không giải quyết tiềm lương, không
trả tiền BHXH; ông không đồng ý và từ sau ngày 10/10/2016 ông không đến
công ty. Ngày 24/10/2016, ông nộp đơn khởi kiện tại Toà án lí do công ty đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định pháp luật, yêu cầu
công ty phải bồi thường cho ông các khoản: Tiền lương và phụ cấp lương
trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 27/9/2016 đến ngày xét
xử sơ thẩm là 8 tháng: 33.836.000 đồng; bồi thường 2 tháng tiền lương và
phụ cấp: 7.890.000; bồi thường tiền lương và phụ cấp lương do vi phạm thời
hạn báo trước: 6.827.000 đồng; phải đóng BHXH cho ông tại cơ quan BHXH
từ 1/4/2014 đến 12/6/2017 là 37 tháng: 30.484.000 đồng; tiền lương và phụ
165
cấp tháng 9/2016 làm việc mà ông chưa được nhận: 2.945.000 đồng. Tổng số
tiền ông yêu cầu công ty phải bồi thường là 51.498.00 đồng và yêu cầu công
ty phải nhận ông trở lại làm việc. Trên cơ sở quy định của pháp luật lao
động; các tài liệu, chứng cứ đã xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên toà,
Toà tuyên xử: không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện theo uỷ
quyền của công ty TNHH VL. Giữ nguyên Quyết định của bản án sơ thẩm số
08/2017/LĐ-ST ngày 13/6/2017 của TAND thị xã T, tỉnh Bình Dương với nội
dung: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Th; buộc công ty VL phải trả tiền
lương cho ông Th hai tháng 9 và 10/2016; buộc công ty TNHH VL đóng
BHXH cho ông Th từ tháng 4/2014 đến tháng 9/2016; yêu cầu công ty VL
nhận ông Th trở lại làm việc và một số thủ tục khác”.
Ví dụ thứ 2, Bản án số 11/2018/LĐ-PT ngày 30/8/2018 của TAND Bà
Rịa – Vũng Tàu. V/v tranh chấp xử lí kỷ luật lao động theo hình thức sa thải
giữa nguyên đơn: Ông Nguyễn Tuấn A (gọi tắt là ông A), sinh năm 1976 và Bị
đơn: Công ty TNHH A (gọi tắt là công ty A) [116]. Theo đơn khởi kiện ngày
13/6/2016, ông A trình bày: ông làm việc tại công ty A theo hình thức thử
việc, đến 13/7/2016 thì chính thức ký hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng
với chức danh là công nhân hàn, mức lương 3.717.000 đồng. Ngày
15/10/2016, công ty A kí Quyết định sa thải số 0809/QĐST.A&I với nội dung
“Sa thải và chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn đối với ông A”.
Không nêu lí do trong quyết định nên ông A cho rằng: Quyết định sa thải này
là trái pháp luật vì người kí quyết định sa thải sai thẩm quyền, bản thân ông
cũng không nhận được văn băn về việc tham dự, không có tổ chức công đoàn
tham gia; chỉ đưa biên bản cho mình ông kí… Do vậy, ông A yêu cầu Toà án
huỷ quyết định số 0809 ngày 15/10/1016 của công ty A; buộc công ty phải bồi
thường tiền lương trong những ngày không làm việc: 9 tháng là 54.360.535
đồng; trả 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 7.434.000; phải
166
đóng BHXH, BHYT từ tháng 10/2016 đến ngày 12/7/2017 và phải công khai
xin lỗi. Trong khi lí do được đại diện công ty đưa ra chỉ là ông A đã nghỉ quá
5 ngày/tháng (từ 10/10/2016 đến 14/10/2016); về trình tự thủ tục đã thông
báo bằng miệng cho ông A đến công ty để họp và giải quyết vi phạm của ông;
đã tiến hành tổ chức họp quyết định vào ngày 15/10/2016 và ông A biết mình
sẽ bị xử lí nhưng không phản đối. Ngoài ra, trong phiên toà sơ thẩm đại diện
công ty A còn cho rằng Bộ luật lao động không quy định hậu quả của việc sa
thải trái pháp luật. Trên cơ sở quy định của pháp luật lao động, Toà tuyên
xử: không chấp nhận kháng cáo của công ty A, giữ nguyên bản án sơ thẩm số
09/2018/LĐ-ST ngày 16/4/2018 của TAND huyện T với nội dung: chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông A; buộc công ty A phải trả tiền lương cho ông A là
36.155.300 đồng; buộc công ty A có trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm
quyền làm thủ tục truy nộp BHXH, BHYT cho ông A và một số thủ tục khác”.
ứ ong liẹ
ọ
g/ngu
ẹp và
buọ ẹ pháp luạt [59, tr. 211].
Như vậy, qua các vụ án trên cho thấy việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật lao động về thực hiện bồi thường thiệt hại về tài sản trên cơ sở các
căn cứ và trình tự, thủ tục thì việc giám sát việc thực hiện các quy định của
pháp luật trong xử lí kỷ luật lao động đó cũng rất quan trọng. Bởi vì, xuất phát
từ bản chất của quan hệ lao động, người lao động luôn phải phụ thuộc người
sử dụng lao động, việc đảm bảo các quyền, lợi ích cho người sử dụng lao
động cũng phải xem xét cho người lao động, thậm chí cần phải có sự tham gia
của tổ chức đại diện tập thể người lao động trong việc thực hiện bồi thường để
167
đảm bảo tính chính xác, hiệu quả. Đặc biệt là phải có các chế tài xử lí mạnh
những đơn vị sử dụng lao động có sự vi phạm về hình thức lẫn nội dung thực
hiện xử lí kỷ luật lao động, nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích cho người lao
động trong việc thực hiện bồi thường.
Về nghĩa vụ thực hiện bồi thườ ực hiện việ
thu ẹ ời lao độ cho người sử dụng lao động mọ
ền nhất đị ẹ ời sử
dụng lao độ ời lao độ
đu “Tru ọng gây thiẹ
o
i ngu ọng làm viẹc, thì
ngu ọ o
o ọ luạt
này” 100 . Và “Ngu ọ
luo ọ tru ẹ
o
ọ luạt Lao đọng do so
ẹ ong
noi ngu ọng làm viẹ . Ngoài ra “Tru
ẹ ạ ẹ
ẹ đu
ạc dù người sử dụng lao độ ẹ
ng cho phép thì ngu ọ . Bên
cạnh đó văn bản hướng dẫn còn thể hiện rõ: “Do so
ẹ o
i người lao động làm viẹ
100 Điều 130 Bộ Luật lao động năm 2012.
168
ời sử dụng lao động hoạc tài s ời sử
ời sử
dụng lao động giao; Tiêu hao vạt tu dụng lao động”101.
Nhu vạ ời lao độ
hoạc tiêu hao vạt tu ời lao độ
người sử dụng lao động. Trong tru ạ
ời sử dụng lao độ
ẹ ọ ọ thiẹ
tru ọi quy lao đọ
ạ ạn tru
thu ẹm “Tru ọng gây thiẹ
cho ngu ọ
ọ
ạ ẹ ẹm”102. ẹ
ạc theo nọi quy lao đọng giúp cho người sử dụng lao độ
ẹ lý viẹ ọ
doanh nghiẹ ọ
ời sử dụng lao độ
ẹ ời lao độ
ọ p người
sử dụng lao độ
ẹc người lao động so ẹ
o ẹ ẹ
đu ong vào luo
ời lao động. Pháp luật lao động cũng quy định
101 Khoản 2 Điều 32 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP; 102 Khoản 3 Điều 32 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP.
169
o o
ngu ọng sau khi trích nọ ọ ọ
ẹ ạp”103. Viẹ
thu vạ ời lao độ ẹ
ời sử dụng lao độ ời lao độ
ẹ ng hoạ ẹ
ời lao độ
ọng. Tuy vạ ẹ
n 09 tháng người sử dụng lao độ
ời lao độ đu
o ọ thiẹ
thiẹt thòi cho người sử dụng lao động trong tru
ạng tài chính cho người sử dụng lao động và chu
người lao động làm hu
ời lao động gây thiẹ
ời sử dụng lao động thì viẹ ẹ
ạ ời lao động có nguy co
ộ luật lao độ
ẹn cho viẹ ẹn pháp luạt đu ạn tiẹ
ẹ ọ
ọ thiẹ
nghiẹp thu ạn hành, ho
ọ
nhu ời sử dụng lao độ ời lao độ
103 Khoản 3 Điều 101 Bộ Luật lao động năm 2012.
170
ẹ ẹ ọ
ạt.
Ví dụ -
đọ ẹ ại Toà án nhân dân quận Gò vấp thành phố Hồ
Chí Minh giữa Nguyên đo
[119]. Theo đơn khởi kiện nộ
ọ
-2010 ngày 17/12/2010.
Công viẹ ọ –
Ngày 23/12/2011, Ông T đu ẹ ng ký tru
ạ
302.991.000đ nhu ẹ ng ký ẹ
- tru
ẹ -
đích tiêu xài cá nhân. Sau khi phát hiẹ ẹ
ạ viẹ
ngày nhu ẹ
ạ
ẹm vạ ọ
mọ ẹ
ọ ạ
ẹ
ẹ
i cu dân quạ ẹ
i cu
171
ở quy định của pháp luật lao độ
ọ ọ
ẹ ạ
nguyên đon. 1. Buọ
100.508.551đ (Mọt tram triẹu, nam tra m tram nam muo
n có hiẹ ạ
chạ o ạ ạ
ẹn ọ luạ
Như vậy, việc quy định giải quyết yêu cầu bồi thường của pháp luật là rất rõ
ràng, nhưng việc thực hiện bồi thường trong tình huống trên không đơn giản
thực hiện. Có nội dung khách quan, chủ quan khác nhau dẫn tới Ông Bùi
Ngọc T vừa không có khả năng thực hiện bồi thường, vừa cố tình trốn tránh
việc thi hành theo đúng yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền gây khó khăn và
thiệt hại cho công ty và các bên có liên quan trong việc giải quyết. Do đó,
việc đưa ra những quy định để bảo vệ cho người sử dụng lao động là nội dung
rất quan trọng.
Về đình công bất hợp pháp. Đình công là một hiện tượng bình thường
trong quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và tập thể lao động, là
kết quả tất yếu của những tranh chấp lao động tập thể. Đây là một trong các
hình thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khi có sự
xâm phạm về mặt lợi ích như: tiền lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi; các khoản hỗ trợ; điều kiện làm việc không đảm bảo; thay đổi định mức
sản phẩm… Tuy nhiên, nếu lợi dụng đình công để thực hiện mục đích không
chính đáng hoặc không tuân theo quy định của pháp luật thì đình công có thể
đem lại hệ lụy cho chính tổ chức lãnh đạo đình công, những người tham gia
172
đình công và những người có quyền và lợi ích liên quan. Vì thế, cần phải
được xem xét, giải quyết kịp thời, hiệu quả bởi các chủ thể có liên quan và
của các cơ quan nhà nước.
Đình công là quyền lợi hợp pháp của người lao động được pháp luật lao
động thừa nhận. Việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh chấp lao
động tập thể về lợi ích và sau thời hạn 05 ngày, kể từ ngày Hội đồng trọng tài
lao động lập biên bản hoà giải thành mà một trong các bên không thực hiện
thoả thuận đã đạt được, thì tập thể lao động có quyền tiến hành các thủ tục để
đình công. Một cuộc đình công hợp pháp phải được thực hiện theo trình tự
sau: 1. Lấy ý kiến tập thể lao động; 2. Ra quyết định đình công; 3. Tiến hành
đình công. Mặc dù, pháp luật thừa nhận đình công là quyền của người lao
động, nhưng không phải cuộc đình công nào cũng được coi là hợp pháp.
Trong trường hợp đình công bất hợp pháp, cần được thực hiện đúng trình tự
và thủ tục để được bồi thường thiệt hại theo đúng quy định của pháp luật.
Pháp luật lao động quy định các trường hợp đình công bất hợp pháp gồm: 1.
Không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. 2. Tổ chức cho
những người lao động không cùng làm việc cho một người sử dụng lao động
đình công. 3. Khi vụ việc tranh chấp lao động tập thể chưa được hoặc đang
được cơ quan, tổ chức, cá nhân giải quyết theo quy định của Bộ luật này. 4.
Tiến hành tại doanh nghiệp không được đình công thuộc danh mục do Chính phủ quy định. 5. Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công”104. Như vậy, so với quy định trước đây,105 căn cứ xác định cuộc đình công bất hợp pháp quy định của Bộ luật lao động hiện hành106 được giảm bớt số lượng quy
định, nhưng mở rộng nội hàm. Theo đó, cuộc đình công đó “không phát sinh
từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích”. Trước đây quy định là không xuất
104 Điều 215 Bộ Luật lao động năm 2102; 105 Bộ Luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006 và 2007; 106 Bộ Luật lao động năm 2012.
173
phát từ tranh chấp lao động tập thể nói chung, chứ không thu hẹp lại như hiện
nay, tức là chỉ công nhận đình công hợp pháp nếu gắn với tranh chấp lao động
tập thể về lợi ích mà không phải là tranh chấp lao động tập thể về quyền.
Cũng theo quy định nêu trên, các cuộc đình công xuất phát từ tranh chấp lao
động cá nhân không được thừa nhận. Cuộc đình công đó được “tổ chức cho
những người lao động không cùng làm việc cho một người sử dụng lao
động”. Pháp luật chỉ công nhận đình công hợp pháp khi nó phục vụ cho
những người lao động cùng làm việc cho một người sử dụng lao động. Có thể
ở những phạm vi và quy mô khác nhau nhưng dứt khoát phải cùng một chủ sử
dụng lao động. Việc tham gia đình công của những người lao động khác vào
cuộc đình công là vi phạm điều kiện nêu trên. Cuộc đình công được tiến hành
“khi vụ việc tranh chấp lao động tập thể (về lợi ích) chưa được hoặc đang
được cơ quan, tổ chức, cá nhân giải quyết theo quy định của Bộ luật này”.
Nói cách khác, pháp luật chỉ cho phép đình công khi đã sử dụng hết các
phương thức giải quyết tranh chấp lao động, nếu đang hoặc chưa được giải
quyết thì đình công bị tuyên bất hợp pháp. Cuộc đình công “tiến hành tại
doanh nghiệp không được đình công thuộc danh mục do Chính phủ quy
định”. Vì, các doanh nghiệp đó (được cân nhắc lựa chọn) đều thuộc loại
doanh nghiệp có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, xã hội và
đời sống nhân dân. Cuộc đình công vẫn tiếp tục tiến hành “khi đã có quyết
định hoãn hoặc ngừng đình công”. Theo quy định này, một cuộc đình
công dù có được tổ chức thực hiện hợp pháp trong doanh nghiệp không bị
cấm đình công, nhưng vì tiến hành vào thời điểm nhạy cảm, không thích hợp,
có thể gây ảnh hưởng đối với các hoạt động kinh tế, xã hội hoặc đời sống
nhân dân… nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu hoãn, ngừng lại,
tức là có thể dời sang thời điểm khác. Những cuộc đình công vẫn được tổ
chức và diễn ra vào thời điểm, thời gian có quyết định hoãn hoặc ngừng đình
174
công và bị xác định là đình công bất hợp pháp. Như vậy, việc đình công chỉ
được tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và sau thời
hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết, các
cuộc đình công diễn ra đều là đình công bất hợp pháp, đa phần đều do bột
phát mà không tuân theo trình tự, thủ tục, quy trình nhất định của pháp luật.
Do vậy, người lao động trong các đơn vị và các cơ quan chức năng, đặc biệt
là công đoàn cơ sở cần có những hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện cho người
lao động nắm rõ và hiểu đúng những quy định của pháp luật, để việc tổ chức
các cuộc đình công tuân thủ đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi chính đáng
của người lao động cũng như duy trì mối quan hệ tốt giữa người sử dụng lao
động và người lao động trong các đơn vị, góp phần ổn định tình hình trật tự
của địa phương.
Về xử lí hành vi đình công trái pháp luật.
Thứ nhất, “khi đã có quyết định của Toà án về cuộc đình công là bất hợp
pháp mà người lao động không ngừng đình công, không trở lại làm việc, thì
tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật về lao động”107. Trong trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp
mà gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thì tổ chức công đoàn lãnh đạo
đình công phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. “Người sử
dụng lao động xác định giá trị thiệt hại do cuộc đình công bất hợp pháp gây
ra bao gồm: Thiệt hại về máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu, bán thành
phẩm, thành phẩm hư hỏng sau khi trừ đi giá trị thu hồi do thanh lý, tái chế
(nếu có); Chi phí khắc phục hậu quả do đình công bất hợp pháp gây ra gồm:
Vận hành máy móc thiết bị theo yêu cầu công nghệ; sửa chữa, thay thế máy
móc, thiết bị bị hư hỏng; tái chế nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm,
thành phẩm bị hư hỏng; bảo quản nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm,
107 Khoản 1 Điều 233 Bộ Luật lao động năm 2012.
175
thành phẩm trong thời gian diễn ra đình công; vệ sinh môi trường; bồi
thường khách hàng hoặc phạt vi phạm hợp đồng do đình công xảy ra”108. Như vậy, quy định trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp gây
thiệt hại cho người sử dụng lao động, thì tổ chức công đoàn lãnh đạo đình
công phải bồi thường thiệt hại là phù hợp, phản ánh đúng vai trò đại diện của
tổ chức công đoàn là chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động cũng như trách nhiệm vật chất mà tổ chức công đoàn phải
thực hiện (bao gồm nguồn tài chính từ đóng góp của các đoàn viên công
đoàn) đối với trường hợp lãnh đạo đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho
người sử dụng lao động.
Thứ hai, đối với “người lợi dụng đình công gây mất trật tự công cộng,
làm tổn hại máy, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động; người có hành vi
cản trở thực hiện quyền đình công, kích động, lôi kéo, ép buộc người lao động
đình công; người có hành vi trù dập, trả thù người tham gia đình công, người
lãnh đạo cuộc đình công thì tuỳ theo mức độ vi phạm, có thể bị xử lý vi phạm
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”109. Như vậy, có thể thấy, pháp luật đã quy
định tương đối cụ thể về trách nhiệm của các bên trước, trong và sau đình công.
Các hành vi cố ý hay vô ý tuỳ theo mức độ vi phạm có thể xử lí vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu gây thiệt hại đều có nghĩa vụ
phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật lao động.
Về tình hình đình công trong những năm qua, theo thống kê của Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam, từ năm 2006 đến 2016 cả nước xảy ra khoảng
4000 cuộc đình công và ngừng việc tập thể, ọ
ạ ọ
co ẹ Năm 2017, cả nước
108 Điều 36 Nghị định 05/2015/NĐ-CP; 109 Khoản 2 Điều 233 Bộ Luật lao động năm 2012.
176
có 314 cuộc đình công và ngừng việc tập thể trên địa bàn 36 tỉnh, thành phố
(tăng 28 cuộc so với năm 2016, có 13 địa phương có số vụ tăng lên). Năm
2018 cả nước xảy ra 214 cuộc ngừng việc, đình công trên địa bàn 36 tỉnh và
thành phố, giảm 115 cuộc (khoảng 35%) so với năm 2017; theo đó, khu vực
miền Nam giảm 84 cuộc (khoảng 39,81%) so với năm 2017, miền Bắc giảm
29 cuộc (khoảng 27,9%) so với năm 2017, miền Trung giảm 2 cuộc (14,3%)
so với năm 2017. Năm 2019, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam phấn đấu
giảm ít nhất 10 % số cuộc ngừng việc, đình công trong toàn quốc so với năm
2018. Các cuộc ngừng việc tập thể và đình công xảy ra trong năm 2018 chủ
yếu tập trung tại một số địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
như: Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bình Dương. Tại miền
Bắc, các cuộc ngừng việc, đình công chủ yếu xảy ra ở Bắc Giang, Bắc Ninh,
Phú Thọ. Khu vực Miền Trung, các cuộc ngừng việc, đình công chủ yếu xảy
ra ở thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ An. Có những cuộc
đình công kéo dài nhiều ngày với hàng vạn người tham gia, thậm chí còn xảy
ra những hành động quá khích, như đánh người gây thương tích; đập phá máy
móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp, như các vụ đình công tại các
doanh nghiệp Sam Yang, Huê Phong (thành phố Hồ Chí Minh); Doanh Đức
(Bình Dương); King Toys (Đà Nẵng); Canon (Hà Nội) và nhiều doanh nghiệp
khác ở Đồng Nai, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương… Như vậy, tính chất,
mức độ, quy mô của các cuộc đình công theo hàng năm cũng có sự khác
nhau, khi xảy ra đình công không chỉ người lao động mà người sử dụng lao
động đều bị thiệt, vì bản chất đình công là sự ngưng việc tạm thời của người
lao động, nếu sự ngưng việc này diễn ra trong thời gian dài có thể gây ngừng
trệ sản xuất, hoạt động điều hành sản xuất, kinh doanh sẽ gặp trở ngại, làm
ảnh hưởng đến trật tự trị an; ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và sự phát
triển kinh tế – xã hội.
Có thể nói, mối quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm
177
ẩn phát sinh xung đột về quyền lợi giữa người lao động, tập thể lao động và
người sử dụng lao động và các xung đột này không được giải quyết thoả đáng
sẽ là nguyên nhân chính dẫn đến đình công. Mặc dù pháp luật lao động đã
quy định tương đối cơ bản về trách nhiệm của các bên trước, trong và sau
đình công; các hành vi cố ý hay vô ý căn cứ vào mức độ vi phạm, hành vi
đình công trái pháp luật phái có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại tương ứng;
nhưng trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về đình công vẫn
có những bất cập, hạn chế nhất định.
Thứ nhất, viẹ
ẹ ong thông qua co c
ời lao động đu
ọ ời lao độ
đình công trái pháp luậ
ẹ
ong lu ạn đọ
ệ lao động theo co
ọ Thứ hai,
ời lao động chua đu ọ
ời lao động đu ẹ ạt hoạ
ời sử dụng lao động, chu ong luo
ạ o a tuo ọ
người lao động.
ồi thường thiệt hại về tài sản đu là mọt co
lý nhằ ời sử dụng lao động; là co
người lao độ ạ ồi thường về tài sả
đu ẹ người lao động mọt cách chạ
178
ời lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do vô ý thì tru
người sử dụng lao động có thể áp dụng trách nhiệm bồi thường theo dân sự để
giải quyết vụ việc cho nhanh chóng và có lợi cho họ; tứ
ọ thu ẹ
ạ ẹ
ẹ ghi nhạ ạ ạ
ọ
ẹ ời sử dụng lao độ ng cu
ời lao độ anh nghiẹp. Tuy nhiên, pháp luật Việt
Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại tài sản chưa làm rõ được phương thức
đánh giá giá trị tài sản bị thiệt hại; hợp đồng trách nhiệm cũng chưa được
quan tâm đúng mức, chưa có văn bản hướng dẫn làm rõ và chưa xác định
được nghĩa vụ thực hiện bồi thường trong một số trường hợp cụ thể như: xem
xét mức độ lỗi, trường hợp người lao động gây thiệt hại nghiêm trọ
ạt, thái đọ ời lao độ
nang, kinh nghiẹm làm việc; mức độ đóng góp tru ỉ
luật cũng cần được làm rõ.
ạn chƣong 3
Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động ngày càng được quan tâm và hoàn thiện. Các quy định của
Bộ luật lao động năm 2012; Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; Luật
Việc làm 2013 và các văn bản hướng dẫn thực hiện là cơ sở đảm bảo việc
thực hiệ ẹ ệu quả, chính xác. Thông qua việc
phân tích, bình luận, dẫn chứng các bản án và dẫn chiếu các quy định của một
số quốc gia để làm rõ các quy định của pháp luật lao động về bồi thường thiệt
hại trong quan hệ lao động, thể hiện ở một số nội dung: bồi thường thiệt hại
179
do vi phạm hợp đồng lao động (bao gồm: người lao động đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; người sử dụng lao động chấm dứt
do thay đổi cơ cấu công nghệ hay vì lí do kinh tế); bồi thường thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng cho người lao động và bồi thường thiệt hại về tài sản cho
người sử dụng lao động. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật
về bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động vẫn còn nhiều bất cập, vướng
mắc. Những tồn tại trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại giữa các chủ thể
trong quan hệ lao động như: trách nhiệm thực hiện những thoả thuận của mỗi
bên trong hợp đồng lao động còn thấ ẹ ọ
tru ời lao động, người sử dụng lao động đon phuong
hợp đồng lao động chu ời lao động trong việc
chấp hành kỷ luật lao động và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong
việc đảm bảo an toàn, vẹ sinh lao đọng để đảm bảo tính mạng, sức khoẻ cho
người lao động… luôn là cơ sở để tác giả đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động trong nội dung chương sau của luận án.
180
CHƢƠNG 4
MỌ ẢI PHÁP HOÀN THIẸN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIẸ ỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THIẸ Ệ LAO ĐỘNG
4.1. Hoàn thiẹn pháp luạt lao độ ẹ
quan hệ lao động
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, những chuyển biến của
xã hội thì các mối quan hệ trong lao động đã có sự thay đổi cả về hình thức
lẫn nội dung. Kéo theo đó là sự tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, tranh chấp làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vì thế, bồi thường thiệt hại
luôn là nội dung được quan tâm trong quan hệ lao động, liên quan trực tiếp
đến các quyền, lợi ích của các chủ thể trong quan hệ lao động; liên quan đến
việc duy trì ổn định quan hệ lao động và làm nền tảng thúc đẩy phát triển nền
kinh tế của đất nước. Bởi lẽ, đối với người lao động, để có thu nhập, họ phải
trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, nên luôn tiềm ẩn các
rủi ro liên quan đến tính mạng, sức khoẻ cần phải được đảm bảo bồi thường
thiệt hại khi có sự vi phạm từ phía người sử dụng lao động. Đối với người sử
dụng lao động, để hình thành nên quan hệ lao động và thoả mãn mục tiêu lợi
nhuận, họ cũng phải đầu tư các chi phí về máy móc, thiết bị, vốn, công nghệ,
dây chuyền sản xuất kinh doanh; nếu người lao động trong quá trình tham gia
quan hệ lao động vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại về tài sản hay đình
công trái pháp luật làm thiệt hại cho người sử dụng lao động cũng phải có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Trên cơ sở đưa ra các quy định và thực tiễn
thực hiện về ẹ ệ lao độ
quy định của pháp luật lao động hiện nay về cơ bản đã đi vào cuộc sống, phát
huy được vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang, chuẩn mực pháp lí cho
các chủ thể trong quan hệ lao động, phát triển quan hệ lao động lành mạnh;
181
bảo vệ được quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động. Tuy nhiên,
quá trình hội nhập thương mại quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam trong những năm qua đã tác động nhiều đến quan hệ lao động việc đưa
ra và áp dụng các quy định của pháp luật lao động đã bộc lộ những bất cập
nhất định đòi hỏi việc hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động, nhất là
nội dung bồi thường thiệt hại được xem là vấn đề ể đảm bảo các
quyền, lợi ích cho các bên và duy trì bền vững quan hệ lao động, muốn vậy
cũ ả ọ sau:
4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong quan
hệ lao động
4.1.1.1. Khắc phục những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp
luật nhằm đảm bảo tính khả thi các quy định của pháp luật lao động về bồi
thường thiệt hại
Trong những năm qua, pháp luật lao động Việt Nam quy định về vấn đề
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động không ngừng hoàn thiện phù hợp
với quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế, quy định của các quốc gia trên
thế giới. Số lượng văn bản pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại hiện
nay trong lĩnh vực lao động ngày càng đa dạng thể hiện sự quan tâm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong quan hệ lao động. Đặc biệt, kể từ khi các văn bản luật
như: Bộ luật lao động năm 2012; Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015;
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; Bộ luật dân sự năm 2015; Luật Tố dụng dân
sự năm 2014; Luật Công đoàn năm 2012, cùng hàng loạt các văn bản hướng
dẫn thi hành được đưa ra kịp thời, đúng thời điểm tạo điều kiện thuận lợi trong
việc thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại trong thực tiễn. Có thể
nói các quy định về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam
hiện nay đã quy định một cách cơ bản, các nội dung được giải thích tương đối
182
chi tiết, đầy đủ, có nhiều điểm hoàn thiện hơn so với trước đây, tạo lập các
chuẩn mực, hành lang pháp lý, đưa ra các quy tắc xử sự cho các chủ thể tham
gia vào quan hệ lao động. chính của nọ ẹ
trong quan hệ lao đọng nhu ẹ
độ ẹ ời lao độ
thu ẹ người sử dụng lao độ ạp trong
Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thực hiện bộ luật; trong
đó nêu rõ các ca ẹt hại; trình tự, thủ tục
yêu cầu bồi thường thiệt hại; thời hiệu xử lý bồi thường và phuo
thu ẹ lao đọng. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật
lao động về bồi thường thiệt hại qua thực tiễn thực hiện vẫn còn nhiều bất cập,
vướng mắc như: một số quy định còn chung chung, mang nặng tính hình thức,
không có tính khả thi, khó áp dụng và thiếu tính đồng bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn; một số quy định nằm rải rác ở nhiều vấn đề, nhiều điều
luật và nhiều văn bản pháp luật khác nhau dẫn đến việc khó tra cứu, khó tìm
hiểu; việc tuyên truyền và thực hiện chưa đạt hiệu quả cao, phần nào thể hiện
sự không khoa học trong kĩ thuật lập pháp. Thực tế, vấn đề bồi thường thiệt hại
chỉ là một nội dung trong quan hệ lao động, nhưng việc thực hiện yêu cầu này
là rất quan trọng nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích cho các chủ thể, hạn chế
được tranh chấp của các bên và duy trì ổn định, bền vững quan hệ lao động đòi
hỏi việc hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại cần tập trung giải
quyết những bất cập nêu trên.
ẹ lao đọng
Quan hẹ lao đọng là quan hẹ ọng, tạ ọ
ọ ẹn ngu ọng, đu
xác lạp trên co ạt lao đọng ọng, co
ạp và vạn hành quan hệ lao độ
183
ệ lao động. Trong quan hẹ này, mọ đọ
ọ óa bán cho bên kia để có thu nhập
nuôi sống bả
ọng. Như vậy, có thể ẹ ẹ
ọc mọ ả hai chủ thể đều phải quan tâm tới sức lao động của
người lao động; trong đó, ngu ọ ử dụ ọ
ệ lao động, sản xuất ra hàng hóa, duy trì quan hệ lao
độ ạ ọc ọ
sức lao động của ngu ọ ọc đó
mà giữa các chủ thể trong quan hẹ lao động này có đu
ạ ẹ lao động Thoạ
giữa người lao động và người sử dụng lao độ
ọ ợi thế của “kẻ mạnh”
ọ
ạt tu là chạ ể mọt
có thể bảo vệ cho các chủ thể, nhất là phía người lao động. Trong khi đó,
ngu ọ ị thế “kẻ yếu” (chỉ có sức lao độ ọ
n có viẹc làm, thu nhập, vị trí xã hộ ể
ọng, sự
hạn chế về khả năng của bả ẹn do ạ
đọng đu ạ ẹ lao đọng ngu
“kẻ về địa vị, kinh tế và pháp lý so vớ là mọ
ọng. Như vậ ọ ọ
là quy luạ ạ
ọc choi [49].
184
4.1.1.3. Đảm bảo mối tương quan hợp lí về quyền, lợi ích giữa các chủ
thể trong quan hệ lao động.
Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong các đơn vị,
doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng góp phần ổn định môi
trường đầu tư, bảo đảm tăng cường kinh tế bền vững và thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. Vì thế, việc đảm bảo mối tương quan hợp lý về quyền và
lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ lao động là rất quan trọng. Bởi vì, khi
tham gia vào quan hệ lao động, các chủ thể là người lao động và người sử
dụng lao động đều mong muốn đạt được những mục tiêu nhất định về lợi ích
kinh tế. Người lao động muốn có thu nhập để đảm bảo nuôi sống bản thân và
gia đình; trong khi người sử dụng lao động cũng muốn duy trì ổn định quan
hệ lao động, muốn đảm bảo lợi nhuận được nhiều. Để thoả mãn các mục tiêu
lợi ích kinh tế này, các bên đều phải cần có nhau, sử dụng sức lao động của
người lao động; nhưng giữa các bên cũng luôn tiềm ẩn những xung đột về lợi
ích. Người lao động bao giờ cũng muốn công việc ổn định, thu nhập cao
nhưng lại muốn làm việc ít; người sử dụng lao động thì muốn có nhiều lợi
nhuận, muốn duy trì ổn định quan hệ sản xuất, kinh doanh, nên luôn tìm cách
tiết kiệm các chi phí ban đầu và chi phí khác phát sinh trong quá trình sử dụng
sức lao động. Vì vậy, nếu không dung hoà được quyền, lợi ích giữa các bên
chủ thể dễ phát sinh các bất đồng dẫn tới tranh chấp. Tuy nhiên, xét đến cùng
thì mục đích của các bên cũng chỉ đạt được khi quan hệ lao động diễn ra hài
hoà, ổn định. Chính vì vậy, cần phải hướng tới việc đảm bảo mối tương quan
hợp lí về quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên. Nếu pháp luật lao động chỉ
bảo vệ nhiều cho một trong hai bên, sẽ khó đảm bảo cho quan hệ lao động
phát triển bền vững và mục tiêu lợi ích kinh tế mà các bên mong muốn khi
xác lập quan hệ lao động cũng không thể thoả mãn. Nói cách khác, quan hẹ
lao đọ ng đu
185
ủ thể là người lao động và người sử dụng lao động. Khi đó lợi
ích mà cả hai bên mong muốn là đảm bảo lợi ích kinh tế tham gia vào quan hệ
ọ lao động cũng không thể đạt đượ
ẹ ẹn pháp luạ ệ lao
đọng. Ngoài ra, pháp luật lao động cũng cần phải hướng tới việc đảm bảo lợi
ích chung của xã hội, bởi quan hệ lao động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
kinh tế, xã hội mà muốn đảm bảo được điều đó thì việc giải quyết bồi thường
thiệt hại khi có sự vi phạm trong quan hệ lao động là rất quan trọng. Bởi vì,
khi tranh chấp lao động phát sinh khi mỗi bên không được đảm bảo các
quyền, lợi ích; khi một trong hai bên vì lợi ích của mình gây thiệt hại cho bên
kia sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc duy trì ổn định quan hệ lao động, đến
quyền, lợi ích của mỗi bên và việc đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế.
Vì vậy, pháp luật lao động cũng phải hướng tới mối tương quan hợp lý giữa
lợi ích của các bên, lợi ích chung cho xã hội.
4.1.1.4. Đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Viẹt Nam đã và đang tham gia họi nhạ ọng, đạc
biẹt Viẹ ọ
ẹ ẹ ọ xuyên Thái Bình Duo –
ẹ o ẹ ẹ
ẹ ẹ có nọ
lao đọ ội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi
pháp luật lao động Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu của việc hội nhập, đó
là việc tôn trọng và thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước trong thời gian qua đặt
ra yêu cầu “nội luật hoá theo lộ trình phù hợp với Điều ước quốc tế mà Việt
186
Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động và công đoàn”110.
Cuọ ạt công nghiẹ
ẹ
ọ
đọ ọng, quan hệ lao động và viẹc làm. Trong
bối cảnh nền kinh tế - xã hội đang có nhiều chuyển biến cũng như trong bối
cảnh toàn cầu hóa, quan hệ lao động của Việt Nam cũng có sự phát triển theo
hướng đa dạng hóa. Trong lĩnh vực lao động, các cam kết trong khuôn khổ
Liên hợp quốc, nghĩa vụ là thành viên của tổ chức lao động quốc tế và trong
các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với tư cách là thành viên của tổ
chức lao động quốc tế (ILO), Việt Nam có nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các
tiêu chuẩn lao động quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ
bản; các nguyên tắc về các quyền chủ yếu tại nơi làm việc của người lao
động, của người sử dụng lao động. Nhất là hiện nay các Hiệp định thương mại
của thế kỷ mới cũng rất quan tâm đến vấn đề lao động, đến quyền, nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ lao động; các tiêu chuẩn về lao động. Vì vậy, pháp
luật lao động Việt Nam cũng phải đưa ra các quy định phù hợp, tương thích
và đáp ứng được các tiêu chuẩn lao động cơ bản này. Đối chiếu các quy định
của pháp luật lao động Việt Nam hiện nay nhất là về vấn đề giải quyết bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ
bản quy định trong Công ước của Tổ chức lao động quốc tế, thì các nội dung
trong quy định của pháp luật Việt Nam vẫn còn một số nội dung chưa tương
thích, chủ yếu tập trung vào các nội dung về quyền tự do liên kết và thúc đẩy
thương lượng thoả thuận giữa các bên. Vì vậy, pháp luật lao động Việt Nam
110 Điểm 2.2. Mục III, Nghị quyết số 06 – NQ/TW ngày 5/11/2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII.
187
cũng phải phù hợp và đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản này nhất là vấn đề
thương lượng, thoả thuận đảm bảo quyền, lợi ích của mỗi bên trong đó có cả
nội dung bồi thường thiệt hại khi có sự vi phạm của một trong hai bên quan hệ
lao động. Để xây dựng và củng cố hệ thống các quy định của pháp luật lao
động, cần nghiên cứu, tiếp cận các quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế và
các quốc gia khác về các vấn đề cơ bản, trong đó có cả nội dung thoả thuận bồi
thường thiệt hại trong quan hệ lao động để tiếp tục hoàn thiện quy định của
pháp luật lao động Việt Nam về vấn đề này; qua đó đảm bảo tính tương thích,
sự phù hợp với thông lệ và xu hướng chung, tiến bộ của pháp luật các nước.
Như vậy, bên cạnh những chuẩn mực về quan hệ lao động đã được thừa
nhận rộng rãi trên thế giới thì pháp luật lao động Việt Nam còn thiếu sự cập
nhật kịp thời làm ảnh hưởng đến sự hình thành, vận hành của quan hệ lao động
nhất là những bất cập trong thực thi các quy định về bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động. Vì vậy, có thể nói viẹc hoàn thiẹ ạ
ẹ ệ lao đọng phù hợp với tổ chức lao động
ẹ ẹ quốc tế và các quốc gia là rấ
lao đọ ẹ ệ lao đọng, nhằm
đảm bảo cho quan hệ lao động được ổn định, hài hoà và bền vững.
4.1.2. Mọ ến nghị nhằm hoàn thiẹn nhữ p luạt về
ẹ ệ lao đọng
4.1.2.1. Về ẹ ộng
bồi thường thiệt
hại hợp đồng lao động
ủ thể trong quan hệ lao độ
188
ộ luật lao động năm
ị như sau:
Đối với trường hợp vi phạm hợp đồng lao động nói chung.
hợp đồng lao động
hợp đồng lao động
quân theo hợp đồng lao động
hợp đồng lao động
hợp đồng lao động
hợp đồng lao động .
Đối với trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái quy định của pháp luật.
Cần sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của người lao động khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và gây thiệt hại cho người
sử dụng lao động theo hướng tăng mức bồi thường lớn hơn. Mặc dù các quy
định của pháp luật hiện nay muốn bảo vệ người lao động, đảm bảo đảm quyền
tự do làm việc của người lao động, nhưng cũng phải đảm bảo quyền, lợi ích
của người sử dụng lao động bị thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người lao động dù việc đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động đó là đúng hay trái quy định của pháp luật hay thoả thuận của các
bên. Bởi vì, khi tham gia vào quan hệ lao động trở thành một bên của quan hệ
này người sử dụng lao động cũng rất tốn kém trong việc đầu tư các chi phí là
189
máy móc, thiết bị; vốn; dây chuyền, công nghệ; phải đảm bảo các điều kiện
an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động, nhưng trong quá trình sử dụng
lao động
g lao động. Trong khi, người lao
động đon phuo ợp đồng lao động trái pháp luạt chỉ phải “bồi
thường cho người sử dụng lao độ ong theo hợp đồng lao
động” [5, điều 43] là chu ếu không muốn nói là vô lý do không đảm
bảo quyền lợi và các chi phí bỏ ra hình thành nên quan hệ lao động của người
sử dụng lao động. Vì vậy, theo đề xuất của người viế
ẹ ừ “nửa tháng tiền lương” lên một tháng hoặc hai
tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Tức là,
quan hệ lao động. Thậm chí, trong một số trường hợp nếu gây ra thiệt hại lớn,
gây bất ổn trong đơn vị thì ngoài việc phải bồi thường một, hai tháng tiền
lương, còn phải bồi thường những thiệt hại khác phát sinh cho người sử dụng
lao động. Tương tự, đ
, nhằm ràng buộc mức trách nhiệm của người lao động và hạn chế
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động đối với
người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Cần bổ sung quy định người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn muốn chấm dứt hợp đồng lao động phải có lí do.
Theo đó, đối với trường hợp “người lao động làm việc theo hợp đồng lao
190
động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày…”111 . Quy định này của pháp luật lao động nhằm mục đích bảo vệ
người lao động, đảm bảo quyền tự do việc làm, tự do lao động cho người lao
động, tránh sự ràng buộc vĩnh viễn giữa người lao động với người sử dụng lao
động trong suốt cuộc đời lao động; nhưng quy định vô hình chung lại gây khó
khăn cho người sử dụng lao động, gây bất ổn cho việc duy trì quan hệ lao
động; làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là
việc tuyển dụng, đào tạo và sử dụng người lao động mới vào làm việc, thay
thế cho người lao động nghỉ việc, nhất là người lao động đó lại là người có
kinh nghiệm làm việc, giữ vài trò quan trọng và nắm bắt được các thông tin
quan trọng trong đơn vị. Bởi vì, việc cho phép ngu ọ “dễ
dàng”
mà chỉ
đọng tùy tiẹn, gây ra tâm lý bất ổn cho những người lao động khác và ảnh
hưởng hoạt độ ị. Việc chấm dứt này của
người lao động, làm cho ngu ọ ọ
ều chuyển và tìm ngu ọng phù hợp cả
chuyên môn, kinh nghiệ ộng nghỉ việ
n. Vì việc tuyển người lao động mới, hay điều
chuyển người lao động khác sang đảm nhận công việc cho người lao động đã
nghỉ cũng phải mất thời gian làm quen việc, đào tạo, tập huấn tố
trong tru ọ
báo tru ộ
ẹ ời sử dụng lao độ
ọng đó nghỉ việc. Đó là chưa kể đến việc người lao
111 Khoản 3 Điều 37 Bộ Luật lao động năm 2012.
191
động đó làm việc cho đơn vị sử dụng lao động cùng lĩnh vực kinh doanh,
đang cạnh tranh trực tiếp với họ và tạo ra tiền lệ xấu cho những trường hợp
các lao động khác cũng đang có ý muốn chấm dứt hợp đồng lao động. Theo ý
kiến của người viết, quy định này cần sửa đổi, bổ sung theo hu ọc ngu
lao đọng muốn nghỉ việ ợc lý do xác đáng mới đượ
ọ ể
ọng tùy tiẹn nêu trên, giảm bớt các
tranh chấp về chấm dứt hợp đồng lao động và ổn định quan hệ lao động
(giống pháp luật lao động của Lào, của Trung Quốc hay Nhật Bản…).
Cần điều chỉnh thống nhất quy định của pháp luật lao động về căn cứ
chấm dứt và thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tại Khoản 1,
Khoản 2 điều 43 Bộ luật lao động năm 2012 quy định người lao động vi phạm
về căn cứ chấm dứt thì “không được hưởng trợ cấp thôi việc và phải bồi
thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động”; còn nếu người lao động vi phạm thủ tục chấm dứt thì vừa không được
hưởng trợ cấp thôi việc, vừa “phải bồi thường cho người sử dụng lao động một
khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”112 . Như vậy, quy định này bất hợp lí ở chỗ số tiền mà người
lao động bồi thường trong trường hợp vi phạm thủ tục chấm dứt còn nhiều hơn
so với trường hợp người lao động vi phạm căn cứ chấm dứt. Do đó, theo đề
xuất của người viết, cần điều chỉnh thống nhất quy định về vấn đề này, không
thể để tình trạng vi phạm về hình thức bị phạt bồi thường nhiều hơn vi phạm về
nội dung, vừa tạo ra sự khó khăn trong việc áp dụng và xử lí trên thực tế; vừa
có thể gây hiểu nhầm trong việc đánh giá thực hiện bồi thường.
Đối với trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái quy định của pháp luật.
Cần sửa đổ ịnh người sử dụng lao động phải có trách
112 Điều 43 Bộ Luật lao động năm 2012.
192
nhiẹ ời lao đọ ẹc “từ 12
tháng trở lên” và chu ệc quy định trả trợ cấp mất việc làm
chỉ áp dụng đố “người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ
12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại Điều 44 và Điều 45 của
Bộ luật lao động 2012” ẹ
m làm viẹc đu ả 1 tháng luong, nhu
2 tháng luong”113. ằ ời lao
động chua làm viẹ ẹ ẹc làm, nhấ
ững ngu ộng đã làm viẹc đu
thu ịnh theo một mức cố định là 50% tháng luong hoạc mọ
ời lao động và gia đình họ đảm bảo
cuộc sống trong thời gian tìm kiếm công viẹ
ồi thường thiệt hạ ời sử dụng Cầ
lao độ
ời lao động. Như đã nêu ở trên, với các quy định chưa đầy đủ
của pháp luật lao độ ệ lao độ
ồi thường thiệt hạ
ời sử dụng lao độ ợp
đồng lao độ ộ luật lao độ
ời sử dụng lao độ
ợp đồng lao độ ỷ luật lao độ
ật.
Cần phải quy định thống nhất trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm với
113 Điều 49 Bộ Luật lao động năm 2012.
193
trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc. Nhu
ọ luạt lao đọ “người sử dụng lao động cho người
lao động thôi viẹ ẹ hoạ ạc do
sáp nhạ thì người sử dụng ẹ
lao động có trách nhiẹ ộ luật lao động ẹ
năm 2012. Tru ọ ọ
người sử dụng lao động đu ợp đồng lao độ
45 Bộ luật lao động năm 2012 và người sử dụng lao độ
viẹc làm cho người lao độ ộ luật lao động năm 2012. Tức là,
cùng mọ ọng là người lao động nhung chính người lao độ
p thôi viẹc. ẹ
Tru ời sử dụng lao độ
ẹ nhiẹ ộ luật lao độ
ẹ ẹ ều 49
ẹc cho người lao động thay cho Bộ luật lao độ
ẹc làm cho người lao động. Nếu người sử dụng trách nhiẹ
lao độ ộ
luật lao độ ẹc cho người lao độ
cho người sử dụng lao động rất nhiề ời lao độ
nam làm viẹ ửa tháng luo ộ luật lao
động năm 2012 thì người sử dụng lao độ ẹc làm cho
người lao độ m làm viẹ ọt tháng luong). Vì thế
ảo vệ được quyền lợi cho người lao động và duy trì ổn định
quan hệ lao độ ộ luật lao động
năm 2012 thành một khoản độc lập áp dụng cho trả trợ cấp mất việ
ộ luật lao động năm 2012 nhu sau: “người sử dụng lao
động cho người lao động thôi viẹ ẹ hoạ
194
ạc do sáp nhạ ẹ . Nhu
vạ ẹ ộ luật lao độ
ộ luật lao độ
nhiẹ ẹ ời sử dụng lao độ
ộ luật lao động năm 2012 [105, tr.27].
4.1.2.2. Về ẹ ối với người lao động
Cần nâng cao mức bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đối với
người lao động. Quy định của pháp luật lao động hiện nay về
thiẹ ối vớ ủa người lao động khi xảy ra tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp không tương xứng với mức thiệt hại mà người lao
động và gia đình họ ặ o
vùng trong những năm qua liên tục đu ng theo hướng tích cực;
nhưng vẫn chưa thể đảm bả t về tính mạng, sức khoẻ
người lao độ o m 2018 là 3.980.000
đồng/tháng tháng so với 3.750.000 đồng/tháng của năm 2017 (mức lương tăng 230.000 đồng so với năm 2017)114. Bởi vì, người lao động là người trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, nên luôn tiềm ẩn các rủi ro
về tính mạng, sức khoẻ, ốm đau, bệnh tật; nếu xảy ra rủi ro không chỉ người
lao động và gia đình họ sẽ gặp rất khó khăn về thu nhập để đảm bảo đời sống
mà bản thân người sử dụng lao động cũng sẽ bị ảnh hưởng trong việc duy trì
hoạt động lao động đảm bảo thoả mãn mục tiêu của họ.
Cần bổ sung quy định bồi thường thiệt hại về tinh thần. Bộ luật lao động
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay chưa có quy định về
vấn đề thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nội dung
này đã được đề cập và bảo vệ “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt
hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần; trong đó “Thiệt hại về tinh thần là
114 Điều 3 Nghị định số 141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017.
195
tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”115. Như vậy,
những tổn thất về tinh thần bao gồm các yếu tố như danh dự, uy tín, tên tuổi,
nhân thân, sức khoẻ. Người bị thiệt hại về tinh thần có thể suy giảm khả năng
lao động, bị ảnh hưởng đến cuộc sống, thậm chí trong một số trường hợp còn
dẫn đến nguy cơ trầm cảm, bị tâm thần và tự tử. Do đó, việc bổ sung quy định
về bồi thường thiệt hại tinh thần là cần thiết và quan trọng.
Khác với thiệt hại về vật chất, thiệt hại tinh thần có nhiều nguyên nhân
tác động, trong đó chủ yếu là do người lao động rơi vào trạng thái khủng
hoảng tâm lí, bất ổn tinh thần, hoang mang, lo lắng, áp lực công việc dồn nén
dẫn đến tổn thương tâm lý. Những tổn thương này có thể không biểu hiện ra
bên ngoài, nên cần phải được đánh giá, xem xét bằng chuyên môn của các bác
sĩ tâm lý, tâm thần và thường kéo dài rất lâu thậm chí khó có khả năng hồi
phục. Một số công việc và môi trường làm việc như: Y tế, chế tác, kiểm toán,
ngân hàng, cầu đường có thể dẫn tới nguy cơ này. Việc cứu chữa, điều trị
thiệt hại tâm thần trong một số trường hợp cũng tốn kém và mất rất nhiều thời
gian hơn so với các thương tổn thể chất. Vì thế, theo đề xuất của người viết
nên cho các bên thoả thuận về bồi thường tinh thần khi có tổn thất này, trường
hợp hai bên không thoả thuận được thì Toà án sẽ quyết định.
Cần quy định về mức trợ cấp tai nạn lao động phải độc lập với mức trợ
cấp do bị bệnh nghề nghiệ ạn lao động và bệnh nghề nghiệp là
hai nội dung khác nhau về tính chất, phạm vi và điều kiệ
ọ ọ; thực tế ọ
ộ hu ẹ ng lao đọng đối với na ất
lượng và hiẹ ẹc ộ ọ
ẹ ộ ẹ
115 Điều 361 Bộ Luật Dân sự năm 2015.
196
đọ bẹ ẹp cần phải cao ho ọ ọng. Bởi vì, khi
người lao độ ẹnh n ẹp, họ ất khó có co
ợc giống như trước khi xảy ra bệnh nghề nghiệp; thậ
ự tác động thường xuyên bẹnh tạt, phải tốn nhiều các chi phí trong việc
khám, điều trị với bệnh đó và ngày càng có nguy co nạng hon. Bởi vì, cùng
với việc độ tuổi càng cao, thời gian đóng góp lao động càng nhiều thì sức
khoẻ và sức đề kháng lại ngày càng giảm xuống. Chính vì vậy, theo đề xuất
của người viế ọ ng lao đọng nhu nhau, nhu
ọ bẹ ẹp nên quy định và chi trả cao hon so
vớ ọ ọng, số tiền trợ cấp cao hơn này nhằm đảm bảo việc
khám, điều trị và chữa trị; chống chọi lại nguy cơ tái phát do giảm sức khoẻ
và khả năng miễn dịch. Viẹ ọ ọng và
bẹ ẹp có co
ời lao độ ọng trong viẹ ọ
thiẹ ẹn lao đọ ẹn môi tru ọ ẹ
ọng, bẹ ẹp.
Cần bổ sung kịp thời một số bệnh mới phát sinh trong quá trình lao
động. Quy định của pháp luật về bệnh nghề nghiệp trong lao động hiện nay
vẫn có điểm bất cập trong việc quy định và đảm bảo thực hiện. Theo đó, Bộ Y
tế và các cơ quan ban ngành có liên quan cần xem xét, nghiên cứu và bổ sung
kịp thời một số bệnh nghề nghiệp mới phát sinh trong quá trình lao động,
ẹ ẹp được hưởng bảo hiểm xã nhưng chua c
hội nhu: bẹ ẹnh nhân,
bẹ ẹ ẹ
xuong do làm các công việc nặng, nhọc và nguy hiểm…
Cần quy định bồi thường thiệt hại do bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp trên cơ sở khả năng tiếp tục làm việc đối với một số công việc nhất
197
định. Quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện nay rất bất hợp lý ở chỗ
đánh giá về bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ của người lao
động lại chủ yếu dựa trên việc đánh giá tỉ lệ thương tật. Theo đó, có những
trường hợp người lao động có tỷ lệ thương tật rất thấp, nhưng mất khả năng
tiếp tục làm việc đối với công việc chuyên môn của mình trong một số công
việc như: giọng nói của giáo viên; giọng ca của ca sỹ; cầu thủ bóng đá bị gãy
chân, giãn dây chằng, đứt gân kheo; diễn viên múa bị dây chằng; đầu bếp bị
khứu giác, vị giác... Trường hợp nếu hai bên không thể thoả thuận mức độ bồi
thường thì Toà án hay cơ quan giải quyết tranh chấp khác có quyền quyết
định. Tuy nhiên, cũng đề phòng trường hợp người lao động lợi dụng quy định
này để yêu cầu bồi thường nhiều hơn pháp luật quy định, cần phải có xác
nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền trong việc đánh giá mức độ thiệt hại và các
yếu tố khác phát sinh. Đề xuất mức bồi thường quy định của pháp luật lao
động là không nên quá 06 tháng tiền lương vừa bảo vệ được người lao động
khi tham gia quan hệ lao động, vừa đảm bảo cho người lao động và gia đình
họ trong thời gian tìm kiếm công việc mới.
Cần có quy định khám và điều trị cho người lao động trong quá trình lao
động. Bởi vì, mức bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp ít hơn so với chi phí và tổn thất do bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. Thực tế, khi xảy ra rủi ro tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp không ít
trường hợp người sử dụng lao động không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ quy định của pháp luật hoặc không có khả năng chi trả (các tai nạn xảy
ra cùng lúc, mức thiệt hại lớn). Vì vậy, cần có một cơ chế phù hợp để vừa
đảm bảo quyền được bồi thường cho người lao động, vừa giảm bớt gánh nặng
cho chính người sử dụng lao động. Ngoài ra, pháp luật cũng nên đưa ra các
quy định dành sự ưu tiên với người lao động khi thỏa thuận chi trả bồi thường
giữa hai bên không thống nhất hoặc không có căn cứ để bảo vệ cho người lao
198
động khi hợp đồng giữa các bên chưa xác lập; quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
chưa được hình thành thì phải thực hiện theo yêu cầu của người lao động.
4.1.2.3. Về ẹ
Bổ sung phương thức đánh giá trị tài sản bị thiệt hại. Quy định này sẽ
góp phần hạn chế việc người sử dụng lao động tùy tiện định giá tài sản bị thiệt
hại, qua đó vừa đảm bảo việc thực hiện bồi thường, bảo vệ quyền lợi của các
bên liên quan vừa hạn chế các vấn đề phát sinh khác trong quá trình giải quyết
bồi thường. Thực tế, thực hiện cho thấy trong qúa trình thực hiện bồi thường
có nhiều loại tài sản của người sử dụng lao động bị thiệt hại có thể được đánh
giá dễ dàng thông qua giá thị trường như: máy móc, linh kiện, thiết bị, sản
phẩm…; nhưng cũng có những loại tài sản rất khó để đánh giá được giá trị.
Bởi vì, có thể tài sản đó tại thời điểm sử dụng, bảo quản giá trị khác, nhưng
đến khi xảy ra thiệt hại, hư hỏng, mất mát giá trị khác; hoặc có những mặt
hàng, sản phẩm làm ra giá khác, nhưng đến thời điểm hư hỏng, hao hụt giá trị
khác. Đó là chưa kể trường hợp việc làm hư hỏng máy móc, thiết bị của người
lao động giá trị không lớn; nhưng nó lại ảnh hưởng cả dây chuyền sản xuất,
kinh doanh hoặc hợp đồng phải hoàn thành thì rất lớn. Do vậy, pháp luật cần
bổ sung Khoản 2 Điều 130 BLLĐ năm 2012 theo hướng “thời giá thị
trường” của tài sản do người lao động làm mất sẽ do người sử dụng lao động
xác định. Trường hợp người lao động không đồng ý với mức người sử dụng
lao động đưa ra, thì có thể thuê tổ chức, đơn vị định giá độc lập có giấy phép
hoạt động tiến hành định giá và kết quả định giá giá trị tài sản của đơn vị đó
sẽ được hai bên sử dụng thực hiện việc bồi thường.
Cần quy định rõ hơn về hợp đồng trách nhiệm trong Bộ luật lao động
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn Bộ luật lao động. Việc đưa ra hợp đồng
trách nhiệm trong quan hệ lao động là cần thiết vừa tôn trọng sự thoả thuận
của các bên, vừ ọ
199
ẹm cho ngu sử dụng lao đọng; đồng thờ
ộ luật lao động năm đọng trong viẹ
2012 quy đị ẹ
ọ ọng giao cho ngu ọ “người lao động
làm mất dụng cụ, thiết bị tái sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản
khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá mức cho phép
thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường;
trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách
nhiệm” a có mọt va ạt hu ụ
thể ọ ẹm, các nọi dung chủ yế
này và các yêu cầu về hình thức của hợp đồng trách nhiệm. Vì thế, việc áp
dụng cho các trường hợp trong thực tế sẽ không tránh khỏi những bất cập,
vướng mắc đối với các bên trong quan hẹ lao đọng. Cần thiết nên quy đị
ẹ ời lao
động và người sử dụng lao độ ền, nghĩa vụ của
cả hai bên; đặc biệt là trách nhiẹ ộng khi đu
ọ
ổn thấ ở nâng cao ý thức trách nhiệm công
việc cho người lao động.
Bỏ quy định người lao động phải bồi thường nhiều nhất 03 tháng tiền
lương và bị khấu trừ hàng tháng vào lương. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 130 và
Khoản 3 Điều 101 Bộ luật lao động quy định “Trường hợp người lao động
gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng
tiền lương tối thiểu” thì “phải bồi thường nhiều nhất 03 tháng tiền lương” và
“bị khấu trừ hàng tháng vào lương”. Quy định này chu
ời sử dụng lao động và không có co
để đánh giá hết những tổn thất mà người sử dụng lao động gánh chịu. Thực tế
200
o ẹ
116. Bởi vì, khi hình thành quan hệ lao
thiẹ ồi thườ ủa người lao động vi phạ
động, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động người sử dụng lao động phải đầu tư
nhiều chi phí cả về điều kiện hoạt động và duy trì hoạt động như: máy móc,
thiết bị, vốn, công nghệ, dây chuyền… Nếu người lao động vô ý, thiếu trách
nhiệm, nhận thức hay do khả năng mà làm mất mát, hư hỏng tài sản cho
người sử dụng lao động thì không những thiệt hại tài sản đó; mà còn có thể
ảnh hưởng dây chuyền sản xuất; chất lượng sản phẩm; tâm lý những người
lao động khác. Ngoài ra còn có thể để lại hậu quả về thi đua, hoàn thành
nhiệm vụ thời điểm khác. Do đó, nếu đưa ra việc gây thiệt hại không nghiêm
trọng, do sơ suất là không phản ánh hết; nên pháp luật cầ
thu ớn hon để gắn với trách nhiệm của người lao động lớn hơn vừa vừ
ẹ ẹp; vừ
ạt lao đọ ời lao động. Đồng thời, duy trì quan hệ
lao động được ổn định, hài hoà, bền vững.
Cầ ọ
ời lao động để hạn chế việc đình công bất hợp pháp. Bởi vì, phần lớ
ọng và đình công đề
ời lao động như: tiền lương, tiền thưởng; thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi; bảo hiểm xã hội… của tập thể người lao động chua đu
ồng thời, việc giải quyết các vụ đình công trong thời gian qua chủ
yếu là sự can thiệp của tổ chức liên ngành tại địa phương thông qua cơ chế
hành chính, không nhât thiêt phải qua hoà giải và trọng tài và cũng không
nhất thiết phải qua tổ chức đại diện của mình làm mất đi vai trò của cơ chế
đối thoại, thương lượng và hoà giải, làm cản trở sự vận động của quan hệ lao
116 Điều 3 Nghị định số 141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017.
201
động theo cơ chế thị trường. Vì thế, cầ ọng tổ chứ ại nơi
làm việc, thương lượng tập thể
người lao động; tang cu ạ
ời lao động. Bở ọ ời
lao động đu ẹ ạt hoạ ộ
người sử dụng lao động mà chu ối thoại,
thuong luo ạn để nắm bắt được mong muốn chính đáng, tâm tư
nguyện vọng từ thực tế nhu cầu của người lao động và gia đình họ
o a tuo ọ ời lao động và
đây chính là nguồn cơn dẫn tới việc đấu tranh của tập thể người lao động với
người sử dụng lao động.
Cần tang cu ẹ
pháp luạt lao đọ người sử dụng lao động để hạn chế việc đình công bất
hợp pháp. Trong thời gian vừa qua, viẹ ạ ọt bọ phạn
người sử dụng lao độ ọ ời sử dụng lao động có
tu tu ạn,
ời lao độ ạ ời sử
dụng lao độ ất là ở các doanh nghiẹp FDI
trong việ o thu
ọ ạt lao đọ ọng, huy đọ
ạ ọ
nghiẹp, đơn vị tại các đị
hu ời lao động, tập thể người lao động. Vì thế, co
ọng tạ ong cần tang cu
ẹ m pháp luạt lao đọ
doanh nghiẹp.
202
4.2. Mọ ải pháp nhằm nâng cao hiẹ ực hiện pháp luật
về ẹ ệ lao động
ạt
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là việc công bố, giới thiệu
rộng rãi nội dung của pháp luật để người lao động biết, động viên, thuyết
phục để mọi người tin tưởng và thực hiện đúng pháp luật. “Phổ biến pháp
luật là làm cho đông đảo mọi người hiểu thấu suốt các quy định của pháp
luật để thực hiện pháp luật trên thực tế bằng cách truyền đạt trực tiếp hay
thông qua hình thức nào đó” [140] và “Làm cho mọi người đều biết đến các
quy định của pháp luật” [134]; còn “Giáo dục pháp luật là quá trình hoạt
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con
người những tri thức pháp luật và những phẩm chất đạo đức cần thiết để
người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội” [128]. Như vậy,
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện để truyền tải
những thông tin, yêu cầu nội dung và các quy định của pháp luật đến với
người dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không
mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Thực tế,
phần lớn tại các đơn vị sử dụng hiện nay rất nhiều người lao động khi tham
gia vào quan hệ lao động chu ủa pháp luật lao động
về ẹ ệ lao đọng để có thể tự bảo vệ được các
quyền, lợi ích cho mình; hạn chế được sự lạm dụng của người sử dụng lao
động và kiểm soát được những nguyên nhân gây bất đồng trong quan hệ lao
động giữa các bên. Có rất nhiều nguyên nhân như sức ép về việc làm, không
hiểu rõ các quy định, các quy định luôn thay đổi và các quy định cũng nằ
ấn đề khác nhau… Nhìn chung, thời gian qua việc thực hiện
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật được tiến hành còn nạ
ng thu hút đu
203
ời lao động, nộ ếu tính thực
tế… Việc hỗ trợ từ phía tổ chức đại diện tập thể người lao động cũng không
phải thường xuyên liên tục, mà chỉ khi có tranh chấp lao động hay đình công
mới có ý kiến để bảo vệ cho người lao động. Vì vậy, việc tuyên truyền phổ
biến, giáo dục pháp luật để người lao động động được hiểu biết, để có thể tự
bảo vệ các quyền, lợi ích cho chính họ luôn là nội dung được quan tâm. Để
ẹn pháp luạt lao đọng nói ẹ
nói riêng thì các co quan nhà nu ọ
ụ ạ
rọ ọ luạt lao đọ
ẹ ừng người lao độ ẹn pháp, hình thứ
ọ ạt; các cuọc phát đọng,
vận độ ọ ạt lao đọng; các buổi
toạ đàm, lấy ý kiến tập thể lao động độc lập; tang cu ọ
ạ ọi dung chuo
ẹu, tình hình thực hiện pháp luạt lao đọ
cao nhạ ẹ ời lao động trong việc bảo vệ cho
chính mình và những người lao động khác trong quá trình tham gia vào quan
hệ lao động.
4.2.2. Tang cu
Thanh, kiểm tra lao đọ ọ ng kho
ọ ẹ ọ
ọ ẹ sinh lao đọ
ẹ ẹ ạt lao độ
ạt lao độ
ẹ
204
ng cao hiẹ ọ
đọ ẹ n van, tiến bộ. Vì thế công tác ọ
thanh, kiểm tra các hành vi vi phạm pháp luật lao động trong quan hệ lao
động cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục và kịp thờ
ới sự phát triển của đất nước, các đơn vị sử dụng được thành
lập ngày càng nhiều, cùng với đó thì hiẹn tu ạt lao đọ
ề ọ ng về
ng cu
ạt
lao đọng nói chung và pháp luạ ẹ
cần thiết. Bằng các hoạt động cụ thể co ọ
thực hiệ ẹc ban hành và đăng kí nọi quy
lao đọ ếu nại, tố cáo của
người lao động khi có đơn thư; phát hiẹ
pháp luạt lao động… Tuy nhiên, để làm được các nội dung vấn đề đó, các cơ
quan có thẩm quyền cần kiện toàn bộ máy làm công tác thanh tra quản lí lao
động từ cấp huyện trở lên; tinh giản những bộ phận không cần thiết, những
người không làm được việ ọ, nâng cao
trình đọ nghiẹ ho cán bọ chuyên môn.
4.2.3. Cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với
doanh nghiệp và người lao động để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về bồi thường thiệt hại
Trong quan hệ lao động, pháp luật lao động luôn khuyến khích các bên
tự thương lượng, thỏa thuận để đảm bảo quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên
trên thực tế để đảm bảo thoả mãn mục tiêu của mình, không phải lúc nào
người lao động và người sử dụng lao động cũng có tiếng nói chung. Trong
quan hệ lao động, khi có quyền lợi bị xâm phạm thì dễ phát sinh mâu thuẫn,
tranh chấp thậm chí khiếu nại kéo dài làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
205
hợp pháp của các bên, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và sự ổn định của quan hệ lao động. Do đó trong vấn đề bồi
thường thiệt hại, cần có sự phối hợp tích cực và hiệu quả của các bộ ngành có
liên quan như Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bộ Y Tế, tòa án nhân dân các cấp giải quyết tranh chấp lao động, trong
đó Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội giữ vai trò trung tâm còn các bộ
ngành khác có vai trò phối hợp nhằm kiểm tra, giám sát, điều chỉnh quan hệ
lao động nói chung và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại nói riêng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động.
4.2.4. Tang cu ẹ lao đọng
Ki n toàn h lao
đ
lao đ ng,
lao đ Trong giai đoạn hiện nay, việc tham
gia của các cơ quan quản lý nhà nước không chỉ đảm bảo quan hệ lao động
được thực hiện, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ
lao động, mà còn có sự can thiệp kịp thời, đúng lúc nhằm thúc đẩy quan hệ
lao động được duy trì ổn định bền vững.
t lao đ ng,
n người lao độ n người sử dụng lao
n có hi độ
t lao đ lu
ng trong vi nh
t lao đ ng và hạn chế sự vi phạm của các chủ thể dẫn tới việc phải thực lu
hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ lao động hiện nay, việc
nâng cao nhận thức hiểu biết cho các chủ thể trong quan hệ lao động về pháp
luật là rất quan trọng, bởi vì việc nắm vững những quy định pháp luật là cơ sở
để các chủ thể hạn chế sự vi phạm, tự nhận thức được các quyền và lợi ích
206
của mình nhất là người lao động để có thể tự bảo vệ; đồng thời hạn chế được
những xung đột không cần thiết giữa các bên trong việc đảm bảo các quyền
và lợi ích trong quá trình thực hiện. quan thanh
tra lao đ thi pháp lu t lao đ
ị
t lao đ ng và thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Quan
hệ lao động ngày càng thay đổi, đòi hỏi đội ngũ thanh tra về lao động cũng
cần phải có sự điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật, đảm
bảo các quyền và lợi ích cho các chủ thể; hạn chế những sai sót trong quá
trình thực hiện và nâng cao hiệu quả trong quá trình xử lý vi phạm.
n người sử dụng lao độ n người lao
ời lao động, người sử dụng lao độ độ
n có hi i làm vi
cao nh người lao độ
nghi p trong vi
ời lao độ c thương lượng
tập thể ả ước lao động tập thể thoả ước lao động tập thể m
ời lao độ ời sử dụng lao
độ ng di ả ước lao động tập thể ời
lao động. Theo đó, công đoàn cơ
người sử dụng lao động đ thương lượng tập thể
thoả ước lao động tập thể người lao động.
Người sử dụng lao động duy trì vi
doanh nghi
nhi lao đ
người lao động người sử dụng lao động
207
ng thân thi ; công đoàn cấp trên
trực tiếp cơ sở tăng cường bồi dưỡng kỹ năng đối thoại, thương lượng ký kết
thoả ước lao động tập thể cho công đoàn cơ sở cả về thu thập thông tin, đề
xuất nội dung. Tổ chức đại diện người sử dụng lao động tuyên truyền nâng
cao nhận thức cho người sử dụng lao động về vai trò, tầm quan trọng của đối
thoại tại nơi làm việc và thương lượng tập thể. Đồng thời, tổng kết mô hình
thương lượng tập thể và ký kết thoả ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh
nghiệp để nhân ra diện rộ
thu
ng ời lao độ
ời sử dụng lao động. Đây là n
ời lao th
động và người sử dụng lao độ
Kết luận chƣơng 4
Trên cơ sở phân tích thực trạng các quy định của pháp luật lao động về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động, cho thấy việc chỉ rõ những yêu cầu
và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luạ ẹ
ọi dung vô cùng quan trọng. Thực tế, viẹc hoàn thiẹn pháp luạ
thu ẹ ệ lao độ ợp với tình
hình chung xu thế của thế giới, các quy định của pháp luật phải đảm bảo thực
thi hiệu quả; nhất là việc bảo vệ các quyền, lợi ích của các chủ thể trong quan
hệ lao động. Đồng thờ ẹ ệc thực hiệ ẹ
ệ lao động cầ ổ biế
ạt; nâng cao vai trò hoạt động của công đoàn và tang cu
ọng;
208
từ đó đảm bảo cho quan hệ lao động luôn được ổn định, hài hoà, ổn định.
ẬN
Quan hệ pháp luật lao động là một trong những loại quan hệ pháp luật
cơ bản và quan trọng nhất, sự bền vững của quan hệ pháp luật lao động là nền
tảng cho nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Thực tế cho thấy, các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ lao động có thể gặp phải những thiệt hại về tài
sản; tính mạng, sức khỏe,… từ đó làm phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại
trong pháp luật lao động. Đây là chế định nhằm bù đắp những tổn thất về vật
chất; tinh thần; sức khỏe, cho bên bị thiệt hại trong quan hệ lao động. Cũng
giống như nhiều quốc gia trên thế giới, chế định về bồi thường thiệt hại trong
pháp luật lao động ở Việt nam, không chỉ góp phần tích cực trong việc bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể bị thiệt hại, đảm bảo
công bằng xã hội; mà còn góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của
các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật lao động.
Qua việc phân tích các nội dung những vấn đề lý luận về bồi thường
thiệt hại và sự điều chỉnh của pháp luật trong quan hệ lao động; thực trạng
pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại trong quan hệ
lao động và thực tiễn thực hiện. Đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi thường
thiệt hại trong quan hệ lao động là vô cùng cần thiết. Mặc dù, các qu
ẹ ệ lao độ
chuo ọ luạt lao đọng như chương 2, chương 3, chương 8, chương 9,
chương 10, chương 11… và đu ẹ ọ các
ẹ ẹ va ạ
209
ẹ ạ
ủ thể bị thiệt hại và có
ẹ ực tiễn thực hiệ
- xã họ
luạ ẹ ọc lọ mọt số ất cập cần thiết phải có
các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Đây là mọ ọi
hàm rọng, người viế
ẹ
ẹ ệ lao đọ ẹt
Nam hiẹn nay.
210
Ệ
A. Văn bản pháp luật
1. Bọ Luậ m 1995.
2. Bọ Luậ m 2005.
3. Bộ Luật dân sự năm 2015.
4. Bộ Luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007.
5. Bộ Luật lao động năm 2012.
6. Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2014.
7. Công ước số 124 về Kiểm tra y tế năm 1965.
8. Công ước số 155 về an toàn lao động - vệ sinh lao động năm 1981.
9. Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
10. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006.
11. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
12. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
13. Luật Công đoàn năm 2012.
14. Luật Dạy nghề năm 2006.
15. Luật Doanh nghiệp năm 2014.
16. Luậ m 2013.
17. Luật Thương mại năm 2005.
18. Luật Phá sản năm 2014.
19. Luật Việc làm năm 2013.
20. Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số nội dung của Bộ
luật lao động năm 2012, trong đó có một số nội dung quan trọng về tiền
lương, trợ cấp thôi việc, mất việc làm.
21. ọ
ẹ ẹ
211
22. Nghị định của Chính phủ số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/04/2013 về tổ chức
và hoạt động của thanh tra ngành lao động - thương binh và xã hội.
23. Nghị định của Chính phủ số 39/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 về quy
định chi tiết thi hành một số điều của luật an toàn, vệ sinh lao động.
24.
ọ ạt lao đọng và trách hu
nhiẹm vạ
33/2003/NĐ-CP ngày 02-4-2003.
25. Nghị định của Chính phủ số 43/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 quy định
chi tiết thi hành Điều 10 của Luật công đoàn về quyền, trách nhiệm của
công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của NLĐ.
26. Nghị định của Chính phủ số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003.
27. Nghị định của Chính phủ số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 quy định
chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ.
28. Nghị định của Chính phủ số 45/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 quy định
chi tiết một số điều của BLLĐ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
và an toàn lao động, vệ sinh lao động.
29. Nghị định của Chính phủ số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 quy định
chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về tranh chấp lao động.
30. -
ạt lao đọng.
31. Nghị định số 49 – CP Hà Nội của Hội đồng chính phủ ngày 9 tháng 4
năm 1968 ban hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên
chức đối với tài sản của nhà nước.
32. Nghị định 141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017 quy định mức lương tối
thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.
212
33. Nghị định 148/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 05/2015/NĐ-
CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật
lao động. Ngày ban hành: 24/10/2018, ngày hiệu lực: 15/12/2018.
34. ọ ọ
tru ẹ ọng.
35. ọ
ẹ lao đọ nhân.
36. Nghị quyết số 06 – NQ/TW ngày 5/11/2016 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
37. ẹ tháng 3 na
Viẹ ọ ẹt ẹ
Nam hay ngu ẹ
o
38. Thông báo số 908/TB-LĐTBXH về tình hình tai nạn lao động năm
2017 ngày 8 tháng 3 năm 2018.
39. Thông tư 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 2/2/2015 của Bộ lao động
thương binh và xã hội quy định và hướng dẫn thực hiện chế độ bồi
thường trợ cấp và chi phí y tế của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
40. Thông tư số 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế quy định về
bệnh nghề nghiệp được hưởng Bảo hiểm xã hội hướng dẫn thực hiện
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.
41. Thông tu -
hu ọ
213
42. Thông tư liên tịch 21/2014/TTLT-BYT-BLDTBXH về sửa đổi thông tư
liên tịch 28/2013/TTLT-BLĐTBXH quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể
do thương tích, bệnh, tật, và bệnh nghề nghiệp.
43. Thông tư 23/2015/TT-BLĐTB&XH hướng dẫn một số điều về tiền
lương của Nghị định 05/2015/NĐ-CP. Ngày ban hành: 23/06/2015,
ngày hiệu lực: 8/8/2015.
44. Thông tư 26/2017/TT-BLĐTBXH về quy định và hướng dẫn thực hiện
chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc.
45. Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTB&XH về quy định tỷ
lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh tật và bệnh nghề nghiệp.
46. Thông tư 47/2015/TT-BLĐTB&XH hướng dẫn một số điều về hợp đồng
lao động, kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất tại Nghị định số
05/2015/NĐ-CP. Ngày ban hành: 16/11/2015, ngày hiệu lực: 1/1/2016.
B. Các tài liệu tham khảo khác:
Tiếng Việt
47. TS. Lê Mai Anh (2004)“Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra”, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội 2004.
48. ẹ
ẹ , Tòa án
nhân dân. Tòa - 11.
49. Phạm Công Bảy (1999) “Giải quyết các tranh chấp về bồi thường tai
nạn lao động”, H.,1999, tạp chí Toà án, 9/1999.
50. ọi Viẹt Nam (2014), “
Hàn , Hà Nọi, 2014.
51. ọng-Thuong binh-Xã họ
m 2011, 2012, 2013.
52. Bình luận khoa học Bộ luật lao động, Nxb Lao động năm 2015.
214
53. Đỗ Ngân Bình (2000), “Bồi thường thiệt hại do bị tai nạn lao động”,
Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000, số 6, tr. 9-11.
54. Đinh Nho Bình (2004), ẹ ọng”, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, 2004. -43tr.; 28 cm.
55. Bộ lao động – Thương binh và Xã hội, (2008) “Đề án xây dựng quỹ bồi
thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp”, tháng 4/2008.
56. Bọ Lao đọng - Thuong binh và Xã họi (2014), “ -
ạt an toàn, vẹ sinh lao đọng”, Hà Nọi tháng 10/2014
(thay thế Tờ trình số 309/TTr-CP ngày 04/9/2014 của Chính phủ).
57. Bọ Lao đọng - Thuong binh và Xã họi (2014), “ -
ọng”, Hà Nọi 2014.
58. Trần Minh Châu (2006), “Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức
khoẻ và tính mạng bị xâm phạm, một số vấn đề về lí luận và thực tiễn”,
Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật, Hà Nội 2006.
59. “ ọ
trong luạt lao đọng Viẹt Nam”, Nxb Tu pháp, Hà Nội 2006.
60. Cục An toàn lao động – Bộ lao động – Thương binh và Xã hội (2000),
“Hình thành quỹ bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp”,
tháng 8/2000.
61. Đỗ Văn Đại (2008), “Bồi thường thiệt hại về tinh thần trong pháp luật
Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, (16), tr. 15 – 21, Hà Nội 2008.
62. Đỗ Văn Đại (2010), “Các biẹ ẹ ẹ
ạt Viẹt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010.
63. ọng theo pháp
luạt Viẹt Nam”, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội, 2004.
64. Trần Trọng Đào (2013), “Pháp luật về An toàn lao động ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2013.
215
65. Nguyễn Đại Đồng (1997), “Cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng quy
định quỹ bồi thường tai nạn lao động” đề tài cấp Bộ, tháng 4/1997.
66. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 32, (tiếng Nga).
67. C. Mác – Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1995.
68. “Trách nhiẹ ạt lao đọng và trách nhiẹm vạ
ạt lao đọ ẹt Nam”, Luạn va ạ
Nọi 2002.
69. Lê Kim Dung (2012), “Hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao
động”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, 2012.
70. Lê Kim Dung (2008), “Mô hình bồi thường tai nạn lao động ở Đức và
khả năng áp dụng vào Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
11/2008.
71. Lê Kim Dung (1998), “Quỹ bồi thường tai nạn lao động của các nước
trong khu vực và khả năng áp dụng vào Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu
cấp Bộ của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội, năm 1998.
72. Lê Kim Dung (2011), “Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao
động”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2011.
73. ọ ọng - bẹ ẹ
ẹn”, ảo hiểm xã hội, Hà Nội 2012.
74. Trần Thị Thanh Hà (2013) ọ
ọng và trách nhiẹ ẹ ẹ lao
đọng theo Bọ luạt Lao đọng nam 2012”, Toà án nhân dân, Toà án nhân
dân tối cao, số 19/2013, tr.22-27.
75. ạt Lao đọng Viẹt ẹ
Nam - Mọ ạ , Luận văn thạc sĩ, Đại học
Luật Hà Nội, 2012. -54 tr.; 28cm.
216
“Hoàn thiẹ 76.
nhiẹ ọng đon phuo lao
đọng trái pháp luạt”, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8/2011.
77. “Trách nhiẹ ẹ
ẹt Nam hiẹn nay”, - Hà Nọ
- ạt, 2016. - 272 tr. ; 21 cm.
78. Bùi Ngọc Hoàng (2018), “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động
Việt Nam qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị”, luận văn Thạc sỹ,
trường Đại học Luật, Đại học Huế, 2018.
79. Họ “ 9-CP Hà Nọi, ngày 09
tháng 4 na ọ trách nhiẹm vạ
Hà Nội 1968.
80. Dương Quỳnh Hoa (2006), “Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt
hại do tính mạng bị xâm phạm”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.
25-27, Hà Nội 2016.
81. Lục Thị Thu Hoè (2015), “Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
từ thực tiễn thi hành tại Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc
gia Hà Nội, -94 tr, 2015.
82. Hà Thu Hương, 2013, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Pháp
luật về quyền con người “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước gắn
liền với quyền con người: lý luận và thực tiễn”, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013.
83. Phạm Thị Hương (2014), “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng,
sức khỏe trong pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học chuyên
ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội 2014.
217
84. “Trách nhiẹm vạ luạt Lao đọng
Viẹ - ong hu ẹn”, luạn va
Luạ ạ - ọi 2010.
85. An Văn Khoái (2010), “Những bất cập trong quy định về bồi thường
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm”, Tạp chí Toà án nhân dân (23), tr.
24 -25, Hà Nội 2010.
86. Lê Thị Bích Lan (1999), “Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và uy tín”,
Luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội 1999.
87. “Pháp luạ ẹ ọng
trong quan hẹ lao đọ ẹ - , Khóa
luạ ẹ ạt Hà Nọi, Hà Nội 2011.
Lan (2005), “ ẹ ạt lao 88.
đọng Viẹt Nam”, tr 8, Luạn va ạ ọi 2005.
n Cu ẹ 89.
tạ
– 27.
90. Hoàng Quảng Lực (2008), “Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức
khoẻ bị xâm phạm khi người bị thiệt hại có hành vi trái pháp luật”, Tạp
chí Toà án nhân dân, (8), tr. 19 -20, Hà Nội 2008.
91. Phạm Gia Lượng (2011), “Công tác quản lý bồi thường tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp ở một số nước châu Á và mô hình cho Việt
Nam”, tạp chí Toà án nhân dân, số 11/2011, tr 21-24.
92. Tu
, đăng trên tạp chí Tòa
án nhân dân của Toà án nhân dân tố – 10.
218
93. Đào Thảo Ly (2014), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của
người khác gây ra theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2014.
94. “ ẹ - -
ẹc làm
ngu ẹt Nam, hoạc ngu ẹt Nam”;
95. ẹ ạt lao
đọng Viẹ
ạ ạ – ọi, Hà Luạn va
Nội 2014;
96. Nguyễn Thị Thanh Nga (1997), “Các quy định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, 1997.
97. Huyền Nga, Hương Lan, Châu Loan (1993) “Pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại”. -
1992. - 523 tr.; 19 cm.
98. “Khái niẹ ẹ
thu ẹ ẹ ẹ
NCKH: “Trách nhiẹ ẹ – ạ
, tru ạt Hà Nọi, Hà Nội 2009.
99. ạt lao đọng và trách nhiẹm vạ
trong nền kinh tế thị trường”, tạp chí Luật học 2003, tr. 37 – 41, Hà
Nội 2003.
100. Nguyễn Thị Kim Phụng (2006), “Pháp luật lao động với vấn đề bảo vệ
người lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006.
219
101. Nguyễn Thị Lan Phương (2015), “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật
lao động Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội 2015.
102. Đinh Văn Quế (2004), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người”, Tạp chí Toà án nhân
dân, (10), tr. 13 – 20, Hà Nội 2004.
103. (2008), ẹ
đọ ọng theo pháp luạt Viẹt Nam”,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, - Hà Nọi, 2008. - 52 tr. ; 28 cm.
104. Nguyễn Anh Sơn (2007), “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao
động Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
105. “ ọ
ọng và trách nhiẹ ẹ ẹ lao
đọng theo Bọ luạt lao đọng nam 2012”
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân củ
19/2013, tr. 22 – 27.
106. “ ẹ
ọng trong viẹ ẹ lao đọng theo bọ luạt
lao đọng sửa đổi nam 2012”, của m
2014, Hà Nội 2014.
107. Tài liệu tham khảo “Pháp luật lao động nước ngoài”, Nxb Lao động –
xã hội, 2010. -211tr.; 26 cm.
108. Nguyễn Thị Hoa Tâm (2013), “Pháp luạ n phuo
ọ – ạ , Luận án Tiến sĩ
luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tp. Hồ Chí
Minh 2013.
220
109. o (2012), ẹ
ngu gây ra”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội,
- Hà Nọi, 2012. - 58 tr.; 28 cm.
110. Đặng Châm Thông (2016), “Tài liệu huấn luyện vệ sinh, an toàn lao
động”, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội 2016.
111. Nguyễn Thị Thu (2019), “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động
Việt Nam và pháp luật cộng hoà Liên bang Nga dưới góc độ so sánh”,
Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội, 2019.
112. Nguyễn Xuân Thu (2000), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng”, Tạp chí Luật học, trường Đại học Luật
Hà Nội, 2000, số 5, tr. 50-56.
113. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (2017), “
01/2017/LĐ-ST ngày 07/09/2017, về việc tranh chấp về học nghề”.
ải Phòng (2017), “ - 114.
PT ngày 26/07/2017, về việc tranh chấp về xử lí kỷ luật lao động theo
hình thức sa thải”.
115. ỉnh Lâm Đồng (2017), “
04/2017/LĐ-PT ngày 25/07/2017, về tranh chấp bồi thường thiệt hại
do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”.
116. Toà án nhân dân quận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2018), “Bản án số
11/2018/LĐ-PT ngày 30/8/2018 về việc tranh chấp xử lí kỷ luật lao
động theo hình thức sa thải.
117. Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương (2017), “Bản án số 16/2017/LĐ-PT
ngày 26/09/2017 về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
118. Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh (2017), “Bản án số 18/2017/LĐ-PT
ngày 16/8/2017 về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại”.
221
119. Toà án nhân dân quận Gò vấp thành phố Hồ Chí Minh (2017), “Bản án
số 19/2017/LĐ-ST ngày 13/7/2017 về việc tranh chấp về bồi thường
thiệt hại”.
120. Toà án nhân dân quận tỉnh Bình Dương (2017), “Bản án số
21/2017/LĐ-PT ngày 28/11/2017 về việc tranh chấp đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động.
121. Toà án nhân dân quận tỉnh Cà Mau (2017), “Bản án số 38/2017/LĐ-PT
ngày 15/12/2017 về việc tranh chấp đòi tiền lương và bồi thường thiệt
hại tai nạn lao động”.
122. Toà án nhân dân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh (2017), “Bản
án số 58/2017/LĐ-ST ngày 31/8/2017 về việc tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động”.
123. Tòa lao đọ “Tài liẹu tạ ẹ
ọ hán
“mọ ạ
ạ Hà Nội 2009.
124. Toà lao đọ “Tài liẹu tạ
nghiẹ ọ
ọ ọ
ọng”, Hà Nọi 2014.
125. Đinh Bá Trung, Luạn va ạ m 2009) “Pháp luạ
ẹ ạt lao đọ
” ạ
năm 2009.
126. Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động (2015), “Giới thiệu pháp
luật về quan hệ lao động ở một số nước trên thế giới, Nxb Lao động,
Hà Nội 2015.
222
127. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Cơ sở lí luận và thực tiễn của
việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động năm 2012”, Hội thảo khoa học,
Hà nội, tháng 12/2017.
128. Tru ạt Hà Nọi (2001), “Giáo trình Luạ ẹt
Nam”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nọi.
129. Tru ạt Hà Nọi (2012), “Giáo trình luạt thuo ,
Nxb CAND năm 2012.
130. Tru ạt Hà Nọi (2013), “Giáo trình luạt lao đọng”, Nxb
CAND năm 2013.
131. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 1999.
132. Tru ạ “Giáo trình Luạt
Lao đọng Viẹt Nam” c, Hà Nội 2013.
133. “Pháp luạ ẹ lao đọng Viẹ
- ong hu ẹn”, Khoa Luạ
ọi, Hà Nội 2012.
134. “Từ và ngữ Hán - Việt” (2002), Nxb Bách khoa, Hà Nội 2002.
135. Nguyễn Như Ý (1998), “Đại từ điển tiếng Việt”, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội, Hà Nội 1998.
136. “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền 1789” của Pháp.
137. Van phòng Luạt su Invest Consult (2013), “ tu v
tháng 05/2013”, Hà Nọi 2013.
“Giáo trình luạt lao đọng”, 138. Viẹ
Viẹt Nam, Hà Nội 2010.
139. Viẹ ọ ọng”
(BHTNLĐ), ọi , (ngày 04/06/2013).
140. Viện Ngôn ngữ học (2006), “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng 2006.
Tiếng nƣớc ngoài:
223
Văn bản pháp luật
141. Beiten Burkhartd (2006), “Labour Law in Russia”.
142. Bọ luạ
143. Bọ luạt Dân ạ
144. Bọ luạ ủa nước Cộng hoà Pháp năm1999.
145. Bọ luạ o
146. Bộ luật Lao động của Liên bang Nga năm 2001.
147. Bộ luật Lao động của Philippin năm1974.
148. Bộ luật Lao động của Cộng hoà Séc năm 1991.
149. Bộ luật Lao động Trung Quốc năm 2007.
150. Đạo luật Liên bang số 180 ngày 24/11/1995 về việc sửa đổi, bổ sung
một số quy định pháp luật của Liên bang Nga về việc bồi thường của
Người sử dụng lao động do thiệt hại gây ra cho người lao động bao
gồm chấn thương, bệnh nghề nghiệp, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
công việc của họ.
151. Luật An toàn lao động Trung Quốc năm 2002.
152. Luật Bảo vệ việc làm Đức năm 1983.
153. Luật Hợp tác lao động Thụy Điển sửa đổi năm 2000.
154. Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007.
155. Luật Hợp tác lao động Thuỵ Điển năm 2000.
156. Luật Lao động Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào 2007.
157. Luật Lao động Đức năm 1997.
158. Luật Lao động Cộng hoà Séc năm 2006.
159. Luật Nhân lực Malaixia năm 2003.
160. Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009.
161. Luật Tiêu chuẩn lao động Nhật Bản năm 1976.
224
162. Nghị định số 3 của Tòa án tối cao Liên Bang Nga ngày 28/04/1994 về
thực tiễn tư pháp trong các trường hợp liên quan đến bồi thường thiệt
hại về sức khỏe.
163. Nghị quyết số 18 của Tòa án tối cao Liên bang Nga ngày 20/12/1994 về
một số vấn đề bồi thường thiệt hại về tinh thần.
164. Nghị quyết số 392 của Chính phủ Liên bang ngày 23/04/1994 về việc
phê duyệt các thủ tục cho việc thiết lập ủy ban y tế và chuyên gia lao
động mức độ mất việc làm trong lao động phần trăm, thương, bệnh
nghề nghiệp hoặc thiệt hại khác đối với sức khỏe liên quan đến việc
thực hiện nhiệm vụ công việc của họ.
165. Nghị định số 558 của Chính phủ Liên bang ngày 03/06/1995 về việc
phê duyệt quy chế về thủ tục điều tra và ghi nhận tai nạn lao động tại
nơi làm việc.
166. Nghị định sô 4214-1 của Hội đồng Tối cao Liên bang Nga ngày
24/12/1992 về Quy tắc bồi thường của người sử dụng lao động gây
thiệt hại cho người lao động do thương tích, bệnh nghề nghiệp, hoặc
thiệt hại về sức khỏe khác liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ lao
động của họ.
Các tài liệu tham khảo khác
167. “Cases and materials on equitable remedies, restitution and
damages”/“Các trường hợp và tài liệu về các biện pháp công bằng, bồi
thường và thiệt hại” (1986) của các tác giả Robert N. Leavell, Jean C.
Love, Grant S. Nelson. - St. Paul, Minn.: West Pub. Co., 1986.
168. “Cases and materials on the law of restitution”/“Các trường hợp và tài
liệu về luật bồi thường” (2007) của tác giả Andrew Burrows and Ewan
McKendrick and James Edelman - Oxford; New York: Oxford
University Press, c2007.
225
169. “Cases and materials on tort and accident law”/“Các trường hợp và tài
liệu về luật tra tấn và tai nạn” (1989) của tác giả Page Keeton... [et al.].
- St. Paul, Minn.: West Pub. Co., 1989.
170. “Cases and materials on torts”/“Các trường hợp và tài liệu về tra tấn”
(1990) của tác giả Richard A. Epstein. - Boston: Little, Brown, c1990.
171. “Cases on torts”/“Các vụ án về tra tấn” (1985) của các tác giả W. L.
Morison, Robin L. Sharwood and C. L. Pannam. - Sydney: Law Book
Co., 1985. - xxxii, 1004.
172. “Compensation/đền bù” (2011) của các tác giả George T. Milkovich,
Jerry M. Newman, Barry Gerhart. - 10th ed. - New York: McGraw -
Hill Irwin, 2011.
173. “Damages under the uniform commercial code” (2012) của tác giả Roy
Ryden Anderson. - West: Thomson Reuters, 2012.
174. “Globalization and the future of labour law/“Toàn cầu hóa và tương lai
của luật lao động” (2006), của các tác giả John D.R. Craig and S.
Michael Lynk, 2006.
175. “Industrial relations around the world: Labor relations for
multinational companier”/“Quan hệ công nghiệp trên toàn thế giới:
Quan hệ lao động cho công ty đa quốc gia” (2001) của các tác giả
Miriam Rothman, Dennis R. Briscoe, Raoul C.D. Nacamulli -2001.
176. Kulya A.V (1999), “General provisions on compensation for damages
caused by labor accidents or occupational diseases to workers/Các quy
định chung về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp cho người lao động”, Đại học Saint-Petersburg, 1999.
177. “Labor relations: Striking a balance/Quan hệ lao động của người: Tạo
sự cân bằng” (2005) của các tác giả John W. Budd. – Boston; McGraw
– Hill, 2005.
226
178. “Le dommage corporel et sa compensation”/“Tổn thương cơ thể và bồi
thường” (1998) của tác giả Robert Barrot. - Paris: Litec, 1988.
179. “La responsabilité dans le système international”/“Trách nhiệm trong
hệ thống quốc tế” (1991), Société française pour le droit international. -
Paris: A. Pedone, 1991.
180. “Le préjudice dans le droit civil de la responsabilité”/“Những thiệt hại
trong luật dân sự trách nhiệm” (2004) của tác giả Xavier Pradel; avant-
propos de Jean-Louis Baudouin et Patrice Deslauriers; préf. de Patrice
Jourdain. - Paris: L.G.D.J., 2004.
th 181. “Modern Tort aw/“Luật Tort hiện đại” (7 Edition, 2009), của tác giả
Vivienne Harpwood, published 2009.
182. ILO (2011), “National Labour Law Profile/“Hồ sơ luật lao động quốc
gia”, 2011.
183. “Obligations”/“Nghĩa vụ” (1996) của tác giả Boris Starck, Henri
Roland, Laurent Boyer. - Paris : Litec, 1996.
184. “Personnel and Human resource management”/“Quản lý nhân sự và
nhân sự” (2009) của các tác giả Terry L. Leap; Michael D. Crino.
185. “Perspectives on Labour law”/ Quan điểm về luật lao động” (2003), của
tác giả A.C.L. Davies, Cambridge.
186. “Private law and the many cultures of Europe”/“Luật riêng và nhiều
nền văn hóa của châu Âu” (2007) của Thomas Wilhelmsson, Elina
Paunio, Annika Pohjolainen. - Alphen aan den Rijn: Kluwer Law
International; Frederick, MD, USA: Sold and distributed in North,
Central, and South America by Aspen Publishers, c2007.
187. “Reading in labor economics and labor relations”/“Đọc trong kinh tế
lao động và quan hệ lao động” (2001) của các tác giả Lloyd
G.Reynolds, Stanley Master, Colletta H. Moser, 2001.
227
188. “Remedies for torts and breach of contract”/“Biện pháp khắc phục hậu
quả và vi phạm hợp đồng” của tác giả Andrew Burrows. - Oxford; New
York: Oxford University Press, c2004.
189. “Severance payment on redundancy”/“Thanh toán thôi việc khi thừa”
(2012).
190. “The evolution of labor relations in Japan/ Sự phát triển của quan hệ
lao động ở Nhật Bản”: Heavy industry 1853-1955” (1988) của tác giả
Andrew Gordon. - Harvard University press, c''1988.
191. “The Future of Labour law”/“Tương lai của luật lao động” (2004) của
các tác giả Catherine Barnard, Simon Deakin and Gillians Morris,
2004.
192. “The judicial process in tort cases”/“Quá trình tư pháp trong các vụ
án” (1939) của tác giả Leon Green. - St. Paul: West publishing co.,
1939.
193. “The law of restitution”/“Luật bồi thường” (1966) của tác giả Robert
Goff and Gareth Jones. - London: Sweet & Maxwell, 1966.
th 194. “The Law of Torts/luật của Torts” (1971) của tác giả John G. Fleming, 4
Edition, The Law Book Company limited, Australia, 1971, p.298 - 308.
195. “The quantum of damages”/“Lượng tử của thiệt hại” của tác giả David
A. McI. Kemp, Margaret Sylvia Kemp, C.J.C. McOustra. - London:
Sweet & Maxwell, 1956.
196. “The quantum of damages in personal injury claims”/“Số lượng thiệt
hại trong yêu cầu bồi thường thương tích cá nhân” (1954) của tác giả
David A. McI. Kemp, Margaret Sylvia Kemp. - London: Sweet &
Maxwell, 1954.
228
197. “The sky never changes: Testimonies from the Guatemalan labor
movement”/“Bầu trời không bao giờ thay đổi: Những lời chứng từ
phong trào lao động Guatemala” của các tác giả Thomas F. Reed,
Karen Brandow.
198. “Tort law”/“Luật Tort” (2012) của tác giả Brendan Greene. - London:
Hodder Education, 2012.
199. Torts (1988) của tác giả Edward J. Kionka. - St. Paul, Minn.: West Pub.
Co., 1988.
200. “Understanding the law of obligations”/“Hiểu luật nghĩa vụ” (2012) tác
giả Andrew, 2012.
C. Các Website:
201. Http://antoanlaodong.gov.vn/catld.
202. Http://books.google.com.vn/books.
203. Http://baophapluat.vn/trongnuoc.
204. Http://cand.com.vn/Xahoi.
205. Http:// www.chinhphu.vn.
206. Http://www.congdoanvn.org.vn.
207. Http://dantri.com.vn/phapluat/thamphanxuoansebichuyencongviec.
208. Http:// www.dole.gov.phil.
209. Http://www.doisongphapluat.com/xa-hoi.
210. Http://www.herringtoncarmichael.com.
211. Http:// www.ilo.org.
212. Http://khambenhnghe.com/Benhnghenghiepnhieugap10lansovoibaoo.
213. Http://khoahoc.tv.
214. Http://www.laodong.com.vn.
215. Http://www.luatvietnam.com.vn.
216. Http://www.molisa.gov.vn.
229
217. Http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages.
218. Https://www.miga.org.
219. Http://news.efinancialcareers.com/uken.
220. Http://news.zing.vn.
221. Http://news.efinancialcareers.com/uken/.
222. Http://nld.com.vn/formosa.html.
223. Http://nld.com.vn/thoisutrongnuoc/luongtoithieuvung.
224. Http://www.penrithcity.nsw.gov.au.
225. Http://www.pinsentmasons.com.
226. Http://ringring.vn.
227.Http://soldtbxh.haiduong.gov.vn/cacchinhsach/thanhtra/Pages/nangcaona
ngluccuathanhtralaodong.
228. Http://tamnhin.net/kyan.
229. Http://www.tapchihuongviet.eu/index.
230. Http://thanhnien.vn/thoisu.
231. Http://tratu.coviet.vn.
232. Http://tratu.soha.vn.
233. Https://thongtinphapluatdansu.com.
234. Http://www.toytowngermany.com.
235. Http://www.tienphong.vn/xa-hoi.
236. Http:// www.vibonline.com.vn.
237. Http:// www.vietlaw.gov.vn.
238. Http://www.vietnamplus.vn.
239. Http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/quytacungxuquayroitinhduc
tainoilamviec.
240. Http:// www.westlaw.com.