ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HẢI QUÂN
PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T ¤ NHIÔM M¤I TR¦êNG
T¹I C¸C KHU C¤NG NGHIÖP ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HẢI QUÂN
PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T ¤ NHIÔM M¤I TR¦êNG
T¹I C¸C KHU C¤NG NGHIÖP ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. MAI HẢI ĐĂNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hải Quân
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG, PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHU CÔNG NGHIỆP.................................................. 10 1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng .............. 10 1.1.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường ........ 10 1.1.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường ........ 12 1.2. Tổng quan về Khu công nghiệp (KCN) .......................................... 14 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm KCN .............................................................. 14 1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam ........................ 16
1.3. Những vấn đề pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng tại
các khu công nghiệp ở Việt Nam ..................................................... 19 1.3.1. Khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN ..................... 19 1.3.2. Đặc điểm và nội dung pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
tại KCN ở Việt Nam ........................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM .... 28 2.1. Thực trạng quy định về thông tin môi trƣờng tại các KCN ......... 28 2.1.1. Các quy định pháp luật về thông tin môi trường tại KCN ................. 28 2.1.2. Nội dung và hình thức thông tin môi trường tại KCN ....................... 29 2.2. Thực trang quy định về đánh giá tác động môi trƣờng KCN ...... 30 2.2.1. Nội dung quy định về đánh giá tác động môi trường KCN ............... 30 2.2.2. Việc thực thi pháp luật đánh giá tác động môi trường tại KCN ở
Việt Nam ............................................................................................. 37
2.3. Thực trạng quy định về quản lý chất thải tại các KCN ................ 39
2.3.1. Các quy định về quản lý chất thải ...................................................... 39
2.3.2. Hoạt động quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn
thông thường tại KCN ........................................................................ 42
2.3.3. Hoạt động quản lý và xử lý khí thải tại KCN ..................................... 45
2.3.4. Hoạt động thu gom, xử lý nước thải tại KCN .................................... 47
2.3.5. Hoạt động quản lý thu gom chất thải nguy hại .................................. 49
2.4. Thực trạng quy định về quan trắc môi trƣờng tại các KCN........ 52
2.4.1. Khái niệm và nội dung các quy định pháp luật về quan trắc môi
trường KCN ........................................................................................ 52
2.4.2. Việc thực thi pháp luật về quan trắc môi trường ở Việt Nam ............ 54
2.5. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm pháp luật tại các KCN .... 56
2.5.1. Các quy định pháp luật hiện hành về thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN......................... 56
2.5.2. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam ............................................ 57
2.5.3. Thực trạng quy định pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường KCN
ở Việt Nam ......................................................................................... 68
2.6. Đánh giá pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng tại khu
công nghiệp và thực tiễn thi hành tại Việt Nam ............................ 73
2.6.1. Kết quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường tại KCN ................................................................. 73
2.6.2. Khó khăn, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân........................................ 77
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHU
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ...................................................... 82
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trƣờng KCN ở Việt Nam .................................................................. 82
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện ............................................................................. 82
3.1.2. Định hướng hoàn thiện ....................................................................... 85
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trƣờng KCN ở Việt Nam hiện nay .................................................. 86
3.2.1. Rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về kiểm soát ô nhiễm môi
trường tại các KCN ............................................................................. 86
3.2.2. Xây dựng cơ chế, chính sách để đầu tư nguồn lực cho công tác
kiểm soát ô nhiễm môi trường tại KCN ............................................. 92
3.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trƣờng KCN ở Việt Nam............................................... 92 3.3.1. Cơ chế, chính sách tăng cường hiệu quả quản lý môi trường ............ 92 3.3.2. Nhóm các giải pháp kỹ thuật phòng ngừa, ứng phó, xử lý ô
nhiễm môi trường ............................................................................... 94 3.3.3. Nhóm các công cụ kinh tế tăng cường hiệu quả bảo vệ môi trường ....... 96 3.3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra ............................................ 97 3.3.5. Nhóm các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật các bên liên quan để nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ môi trường .......................................................................................... 98 KẾT LUẬN .................................................................................................... 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Ý nghĩa
BTTH Bồi thường thiệt hại
BVMT Bảo vệ môi trường
Cụm công nghiệp CCN
Công nghiệp hóa CNH
CTNH Chất thải nguy hại
CTR Chất thải rắn
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
HĐH Hiện đại hóa
HTXLNTTT Hệ thống xử lý nước thải tập trung
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KTTĐ Kinh tế trọng điểm
ÔNMT Ô nhiễm môi trường
VPHC Vi phạm hành chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường các khu công nghiệp (KCN)
trên phạm vi cả nước tuy đã được cải thiện nhưng trên thực tế, chưa đáp ứng
được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. KCN là nơi tập trung các
cơ sở công nghiệp thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, cũng là nơi
thải ra môi trường các loại chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải nguy hại (gọi
chung là chất thải), gây tác động xấu đến môi trường.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 12/2018, cả nước
có 283 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 78
nghìn ha. Theo Tổng cục Môi trường, nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm do hoạt
động công nghiệp bắt nguồn từ việc xả các loại chất thải (nước thải, khí thải,
chất thải rắn, chất thải nguy hại) vào môi trường. Mặc dù mô hình tập trung các
cơ sở sản xuất vào các khu công nghiệp tạo thuận lợi cho quản lý chất thải,
nhưng đến nay bên cạnh một số khu công nghiệp thực hiện đúng quy định pháp
luật về quản lý chất thải, vẫn còn nhiều khu công nghiệp chưa hoàn thiện các
công trình thu gom, xử lý chất thải tập trung. Thực trạng đó làm cho môi trường
sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Báo cáo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội cho thấy, tỷ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập
trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%. Một số khu công
nghiệp có xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hầu như không
vận hành để giảm chi phí. Bình quân mỗi ngày các khu, cụm, điểm công
nghiệp thải ra hàng chục nghìn tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại
khác. Hầu hết nước thải đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến
chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi hoạt động của các nhà máy
trong khu công nghiệp phá vỡ hệ thống thủy lợi, tạo ra những cánh đồng ngập
1
úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại cho sản xuất nông nghiệp. Ô
nhiễm môi trường không khí ở các khu công nghiệp chủ yếu tập trung tại các
khu công nghiệp cũ, sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu
tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Tại các khu công
nghiệp này, ô nhiễm chủ yếu là bụi, một số khu công nghiệp có biểu hiện ô
nhiễm CO2, SO2 và tiếng ồn. Các chuyên gia môi trường cảnh báo, nhiều loại
khí khác có ảnh hưởng tới sức khỏe con người mà không ngửi thấy bằng khứu
giác đang diễn ra phổ biến ở các khu công nghiệp hiện nay.
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo tổng hợp tại Hội nghị
toàn quốc bảo vệ môi trường năm 2018. Cụ thể, hàng năm, cả nước phát sinh
hơn hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630.000 tấn chất thải
nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước thải còn rất hạn chế. Đặc biệt, trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m3 nước thải/ngày đêm; lưu lượng xả thải trên 2 triệu m3/ngày nhưng có tới 70%
lượng nước thải chưa được xử lý triệt để, 23% doanh nghiệp FDI xả thải
vượt quy chuẩn cho phép từ 5-12%. Theo thống kê, mỗi năm cả nước có
khoảng 9.000 người tử vong và trên 200.000 trường hợp được phát hiện ung
thư do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Hàng năm có hàng triệu mét khối nước
chưa qua xử lý đổ xuống các dòng sông như sông Tô Lịch, sông Sét, sông
Nhuệ, sông Kim Ngưu, sông Lừ, .v.v.
Ngoài ra, rất nhiều chất thải là hóa chất, chất độc hại đã được tạo ra khi
ngành nghề sản xuất thay đổi trong khi quy trình xử lý chất thải vẫn giữ
nguyên như cũ. Điều này đồng nghĩa với việc những hóa chất mới này hầu
như không được xử lý, hoặc sau khi xử lý vẫn giữ nguyên yếu tố độc hại khi
thải ra môi trường, dẫn đến những hệ lụy, hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe
cho cộng đồng dân cư và chính những lao động trong khu công nghiệp, đặc
biệt là những khu công nghiệp nằm trong địa bàn dân cư.
2
Thực tiễn này đặt ra vấn đề là phải hoàn thiện các cơ chế nhằm kiểm
soát ô nhiễm môi trường ở các KCN một cách có hiệu quả để bảo vệ môi
trường, trong đó có việc hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.Vấn
đề đặt ra, quy định và thực thi pháp luật, trong đó có pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường ở các KCN như thế nào để vừa giữ gìn được một môi
trường không khí sạch, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong
lành của người dân đồng thời vẫn có các điều kiện phát huy tối đa các nguồn
lực cho phát triển kinh tế đất nước là vấn đề hết sức quan trọng. Nghiên cứu
các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các
KCN trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014, có thể thấy Luật quy định còn
khá chung chung, nhiều thiếu sót, chưa mang tính hệ thống, thiếu minh bạch,
thiếu cụ thể dẫn tới khó khả thi. Ví dụ: về nội hàm kiểm soát ô nhiễm môi
trường ở các KCN chưa được làm rõ, quy định về đánh giá tác động môi
trường ở các KCN còn thiếu sót dẫn tới nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh vẫn
có thể lách qua các quy định pháp luật để không phải lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường; thiếu các quy định về phí bảo vệ môi trường với khí thải, về
xác định thiệt hại môi trường tại KCN,... Bên cạnh đó, quy định về quy chuẩn
môi trường ở các KCN hiện nay đã lạc hậu so với khu vực và thế giới; chưa
có quy định cụ thể về quy chuẩn môi trường trong các khu chế xuất, KCN
phát triển theo hướng mới. Những điểm thiếu sót hạn chế trong các quy định
pháp luật đã gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như
người dân trong thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ
tham gia vào các sân chơi chung của khu vực và thế giới như: Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Liên minh thuế quan
Nga, Kazakhstan, Belarusia,... Việc tham gia vào các sân chơi chung này đòi
hỏi Việt Nam phải hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước phù hợp với
3
luật chơi chung của thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia một số công
ước quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và môi trường ở các KCN nói
riêng, ứng phó với biến đổi khí hậu, như: Công ước khung về ứng phó với
biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc, Nghị định thư Kyoto về ứng phó với
biến đổi khí hậu, Công ước về bảo vệ tầng ozon,... Bởi vậy, nghiên cứu, hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN là một đòi hỏi
cấp thiết. Mặt khác, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, do
đó Nhà nước có rất nhiều trách nhiệm trong đó có việc phải kiểm soát các mặt
trái của kinh tế thị trường (phát triển lệch lạc), trong cái lệch lạc đó là việc
ngăn chặn các hành vi làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi
trường ở các KCN là rất quan trọng. Nhà nước phải đảm bảo môi trường sống
trong lành, an toàn, lành mạnh nhằm đảm bảo quyền lợi về tự nhiên của con
người, và để thực hiện được điều này, Nhà nước phải sử dụng pháp luật.
Ngoài ra, qua tổng quan các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản liên quan trực
tiếp đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN. Do vậy, tác
giả lựa chọn đề tài “PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM” là đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam vấn đề pháp luật bảo vệ môi trường tại các KCN được
Đảng, Nhà nước đặc biệt là những nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh, góc độ khác nhau. Để nghiên cứu đề tài “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam” tác giả đã tham khảo những
tài liệu về bảo vệ môi trường tại các KCN để tìm ra những điểm riêng trong
pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN. Nghiên cứu về vấn đề
bảo vệ môi trường tại các KCN trong thời gian qua có một số tài liệu, công
trình như sau:
4
- “Pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam” của tác giả
Doãn Hồng Nhung, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016 là tài
liệu nghiên cứu tổng quan về những vấn đề lý luận về khu công nghiệp và
pháp luật bảo vệ môi trường KCN; thực trạng và thực tiễn thi hành ở Việt
Nam; các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường KCN;
- “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường KCN ở Việt Nam” của tác giả Doãn Hồng Nhung, Nhà xuất bản Xây
dựng năm 2016 là tài liệu tập trung đánh giá thực trạng pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN và thực tiễn thi
hành ở Việt Nam;
- “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam”
của tác giả Bùi Đức Hiển, NXB Chính trị quốc gia là tài liệu tập trung đánh
giá những vấn đề lý luận, thực tiễn và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam.
- Báo cáo môi trường quốc gia năm 2009 “Môi trường Khu công nghiệp”;
- Báo cáo “Nhiệm vụ Quan trắc và Phân tích Môi trường công nghiệp
tại một số khu công nghiệp thuộc các tỉnh phía Bắc”, Viện Khoa học và Công
nghệ Môi trường, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, 2006 - 2008;
- Dự án “Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng quản lý môi trường tại
các Khu công nghiệp/khu chế xuất và xây dựng cơ chế nhằm quản lý có hiệu
quả đối với loại hình kinh doanh dịch vụ này”, Tổng cục Môi trường, 2009;
- Đề tài "Nghiên cứu giải pháp khắc phục những tồn tại, xác định định
hướng và lộ trình thực hiện chiến lược quản lý chất thải rắn ở các đô thị và
khu công nghiệp ở Việt Nam đến 2020”, Viện Quy hoạch Đô thị và Nông
thôn, Bộ Xây dựng. 2006.
- Đề tài "Khảo sát đánh giá xây dựng mô hình quản lý môi trường tại
các khu công nghiệp Việt Nam”, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách
Công nghiệp. 2006.
5
Các tài liệu nghiên cứu trên đã khái quát tổng thể pháp luật về bảo vệ
môi trường các KCN ở Việt Nam tuy nhiên chưa nêu bật được các giải pháp
ngăn chặn, phòng ngừa ô nhiễm môi trường tại các KCN. Do vậy trên cơ sở
tham khảo các tài liệu trên tác giả tập trung nghiên cứu nội dung kiểm soát ô
nhiễm môi trường tại các KCN.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là các quy định pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN được ghi nhận trong Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan khác. Bên
cạnh đó, tác giả cũng có sự quan tâm thích đáng đến việc nghiên cứu các quan
điểm, lý thuyết khoa học về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi
trường tại các KCN nói riêng cũng như một số các quy định pháp luật quốc tế
và một số nước trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN.
- Về phạm vi nghiên cứu của đề tài, tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận, pháp lý và thực tiễn xoanh quanh pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường tại các KCN.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích giải quyết những vấn đề sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ môi trường
và kiểm soát ô nhiễm môi trường tại KCN;
- Nghiên cứu làm rõ và đánh giá việc thực thi các quy định của pháp
luật kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN ở Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật kiểm soát
ô nhiễm môi trường tại các KCN ở Việt Nam;
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân
tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch,...
6
Đồng thời luận văn còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm
trong các báo cáo của Chính phủ và các Bộ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng,.. và các địa phương cũng
như những thông tin trên mạng Internet,... Cụ thể:
- Phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
được sử dụng trong nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa hành vi xả thải
các chất thải của các cá nhân, tổ chức với ô nhiễm môi trường KCN; mối
quan hệ giữa ô nhiễm môi trường KCN và biến đổi khí hậu và nhu cầu kiểm
soát ô nhiễm môi trường ở các KCN bằng pháp luật;
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng khi đánh giá, bình
luận các quan điểm, các quy định pháp luật, các tình huống thực tiễn làm cơ
sở cho những kết luận khoa học về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN
nhằm đưa ra được khung pháp luật hoàn thiện kiểm soát ô nhiễm môi trường
ở các KCN ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp nghiên cứu này sẽ được tác
giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phỏng
vấn chuyên gia, các nhà quản lý để đánh giá các nghiên cứu về khái niệm, đặc
điểm của môi trường, ô nhiễm môi trường, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường ở các KCN. Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn chuyên gia cũng nhằm
xác định các khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh pháp luật về kiểm soát
ô nhiễm môi trường tại KCN;
- Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá
những quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các
KCN, so sánh đưa ra các số liệu để đánh giá thực trạng, rút ra những bất cập,
hạn chế, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Bên
cạnh đó, để đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
7
trường ở các KCN, tác giả dự kiến sử dụng phương pháp điều tra xã hội học
để tìm hiểu ý kiến quan điểm của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá
nhân chủ nguồn thải và người dân về vấn đề này.
- Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp phương pháp phân tích, tổng
hợp để đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường ở các KCN ở Việt Nam đồng thời dự báo xu hướng
phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN trong
tương lai gần.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN ở Việt Nam là
công trình nghiên cứu quy mô, mới, từ góc độ khoa học pháp lý, trên cơ sở
các quy định trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp
luật liên quan. Luận văn nghiên cứu làm rõ các vấn đề từ lý luận, pháp lý đến
thực tiễn về quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm môi
trường tại các KCN. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát ô nhiễm môi
trường ở các KCN ở Việt Nam, đối chiếu pháp luật hiện hành với pháp luật
quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới để mổ xẻ, phân tích chỉ ra những
ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, bất cập. Từ đó đưa ra nhu cầu, định hướng và các
giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường ở các KCN ở nước ta hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo với các cơ quan
lập pháp, lập quy trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ môi trường nói chung; cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các
trường đại học, cao đẳng chuyên ngành luật. Luận văn cũng có giá trị tham
khảo đối với các cơ quan thực tiễn trong quá trình thực thi, giải quyết các vấn
đề liên quan đến bảo vệ môi trường tại các KCN ở Việt Nam.
8
7. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nôi dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường, pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại
các khu công nghiệp ở Việt Nam;
Chương 3: Đề xuất, hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
ở các khu công nghiệp tại Việt Nam.
9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI
TRƢỜNG, PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng
1.1.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường
Theo khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định:
Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường
gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Theo đó sự biến đổi các thành
phần môi trường có thê bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm. Chất gây ô nhiễm được các nhà môi
trường học định nghĩa là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi
trường làm cho môi trường bị ô nhiễm. Chất gây ô nhiễm được phân loại
thành các loại sau đây [34, tr.64].
- Chất gây ô nhiễm tích lũy (chất dẻo, chất thải phóng xạ) và chất gây ô
nhiễm tích lũy (tiếng ồn);
- Chất gây ô nhiễm trong phạm vi địa phương (tiếng ồn), trong phạm vi
vùng (mưa a xít) và trên phạm vi toàn cầu (chất CFC);
- Chấy gây ô nhiễm từ nguồn có thể xác định (chất thải từ các cơ sở sản
xuất kinh doanh) và chất gây ô nhiễm không xác định được nguồn (hóa chất
dùng cho nông nghiệp);
- Chất gây ô nhiễm do phát thải liên tục (chất thải từ các cơ sở sản xuất
kinh doanh) và chất gây ô nhiễm do phát thải không liên tục (dầu tràn do sự
cố tràn dầu).
Theo khoản 18 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014:
Kiểm soát ô nhiễm môi trường là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn
10
chặn và xử lý ô nhiễm môi trường. Khái niệm trên thể hiện ở nhiều khía cạnh
như mục đích kiểm soát, chủ thể kiểm soát, cách thức và công cụ kiểm soát,
nội dung kiểm soát. Cụ thể [34, tr. 69]:
- Mục đích chính của việc kiểm soát ô nhiễm môi trường (ÔNMT) là
phòng ngừa, khống chế không để ÔNMT xảy ra đó là quá trình con người
ngăn chặn các tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động kinh tế - xã hội.
Còn nếu vì những lý do khác nhau mà ÔNMT vẫn xảy ra thì kiểm soát
ÔNMT chính là hoạt động xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi lại tình trạng
môi trường như trước khi bị ô nhiễm.
- Chủ thể của kiểm soát ÔNMT không chỉ là nhà nước mà còn bao gồm
các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình,.. là
trách nhiệm của toàn xã hội.
- Kiểm soát ÔNMT không chỉ được thực hiện bằng các biện pháp mệnh
lệnh - kiểm soát, bằng các công cụ hành chính mà còn được thực hiện đồng
bộ bằng các công cụ kinh tế, các biện pháp kỹ thuật, các giải pháp công nghệ,
các yếu tố xã hội và thị trường.
- Nội dung chính của hoạt động kiểm soát ÔNMT gồm: Thu thập, quản
lý và công bố các thông tin về môi trường, xây dựng và thực hiện các quy
hoạch, kế hoạch kiểm soát ÔNMT; ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi
trường; quản lý chất thải; xử lý, khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm.
Qua đó, ta thấy kiểm soát ÔNMT được hiểu một cách tổng quát là một
sự tổng hợp các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng
ngừa, khống chế không cho sự ô nhiễm xảy ra, hoặc khi có sự ô nhiễm xảy ra
thì có thể chủ động xử lý, làm giảm thiểu hay loại trừ được nó. Đồng thời là
sự tổng hợp các hoạt động, hành động biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa và
khống chế không cho sự ô nhiễm xẩy ra hoặc khi có ô nhiễm xảy ra thì có thể chủ
11
1.1.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường
Pháp luật bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp đến hoạt động quản
lí nhà nước về môi trường và nhiều lĩnh vực pháp luật khác của Việt Nam.
Hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường là hướng tới bảo vệ những lợi ích
của nhà nước, lợi ích cộng đồng và xã hội. Pháp luật điều chỉnh những mối
quan hệ xã hội, là công cụ cơ bản và quan trọng nhất để quản lí mọi mặt của
đời sống xã hội, mọi hành vi, xử sự của con người đều phải tuân theo pháp
luật, vấn đề kiểm soát môi trường cũng không phải ngoại lệ. Là một lĩnh vực
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí
cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước đối với
lĩnh vực bảo vệ môi trường, hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, và là cơ sở pháp lí cho công tác kiểm
soát ô nhiễm môi trường.
Thứ nhất, Luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, từ đó sẽ được phổ biến một cách rộng rãi. Bằng quyền lực của mình
Nhà nước sẽ bảo đảm thực thi Luật hiệu quả.
Báo cáo chuyên đề, những nội dung cơ bản, các điểm mới của Luật Bảo
vệ môi trường năm 2014 và tình hình xây dựng các văn bản hướng dẫn thi
hành luật, yêu cầu các cá nhân tổ chức thực hiện theo đúng pháp luật. Khi cần
thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho pháp
luật được thi hành, trừng phạt, thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của
các cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi
trường. Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định “Nhà nước thống nhất
quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, lập quy hoạch bảo vệ môi
trường, xây dựng tiềm lực cho hoạt động bảo vệ môi trường ở Trung ương và
địa phương”. Pháp luật bảo vệ môi trường đã quy định sự thống nhất các cơ
12
quan nhà nước, xây dựng hệ thống các cơ quan quản lí đối với vấn đề kiểm
soát ô nhiễm môi trường trong phạm vi cả nước, từ trung ương tới địa
phương. Tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động bảo vệ môi trường.
Thứ ba, pháp luật là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra,
giám sát, xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Các cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có
trách nhiệm tổ chức điều tra, nghiên cứu, đánh giá hiện trạng môi trường,
định kỳ báo cáo với Quốc hội về tình hình môi trường; xác định khu vực bị ô
nhiễm môi trường và thông báo cho nhân dân biết; có kế hoạch phòng, chống
suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường (Điều 10 Luật
bảo vệ môi trường 2014).
Nhà nước khuyến khích các hoạt động sử dụng và khai thác hợp lí
nguồn tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ sinh học tiên tiến, thân thiện
với môi trường,… Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, nhà
nước định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật
do nhà nước ban hành. Việc xử lý vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ
chức trong và ngoài nước có những hành vi vô ý hay cố tình vi phạm các quy
định nhà nước trong lĩnh vực môi trường.
Thứ tư, pháp luật là cơ sở pháp lí cho công tác kiểm soát môi trường.
Theo những quy định của pháp luật, công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường
được các cá nhân, tổ chức thực hiện một cách khoa học, có hiệu quả, có tác
động to lớn đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhờ có pháp luật,
nhà nước mới kịp thời phát hiện, kiểm tra, ngăn chặn các hành vi sai lệch, gây
tổn hại đến môi trường. Đồng thời biểu dương, khen thưởng những tổ chức,
cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác bảo vệ môi trường. Dựa vào các
văn bản pháp luật do nhà nước ban hành các cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức,
cá nhân thực hiện theo đó để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
13
Thứ năm, vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường thể
hiện ở việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường đó là những tiêu chuẩn pháp
lý là những tiêu chuẩn mà cá nhân, tổ chức phải tuân thủ nghiêm ngặt khi khai
thác, sử dụng các yếu tố khác nhau của môi trường. Đây là cơ sở pháp lý cho
việc xác định vi phạm pháp luật về môi trường.
Có thể thấy, pháp luật có vai trò của quan trọng trong công tác kiểm
soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay. Đặc biệt trong hoàn cảnh này,
công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta tuy đã đạt được nhiều thành
tựu song cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, đặt ra rất nhiều khó khăn trong
việc bảo vệ môi trường - vấn đề sống còn của nhân loại. Chính vì vậy, vai trò
của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường ngày càng được đề cao.
1.2. Tổng quan về Khu công nghiệp (KCN)
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm KCN
Theo Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy
định về quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp thì KCN được hiểu là:
Khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được thành lập theo
điều kiện, trình tự và thủ tục quy định.
Khu công nghiệp gồm nhiều loại hình khác nhau, bao gồm: Khu chế
xuất, khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp sinh thái (sau đây gọi chung là
Khu công nghiệp, trừ trường hợp có quy định riêng đối với từng loại hình).
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được thành
lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp. Khu chế
xuất được ngăn cách với khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng đối với
khu phi thuế quan quy định tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
Khu công nghiệp hỗ trợ là khu công nghiệp chuyên sản xuất các sản
14
phẩm công nghiệp hỗ trợ, thực hiện dịch vụ cho sản xuất các sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ. Tỷ lệ diện tích đất cho các dự án đầu tư vào ngành nghề công
nghiệp hỗ trợ thuê, thuê lại tối thiểu đạt 60% diện tích đất công nghiệp có thể
cho thuê của khu công nghiệp;
Khu công nghiệp sinh thái là khu công nghiệp, trong đó có các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất sạch hơn và sử
dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện
hoạt động cộng sinh công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, môi
trường, xã hội của các doanh nghiệp.
Từ quy định trên, ta có thể thấy KCN có những đặc điểm sau:
Về mặt pháp lý: Các KCN hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam, ngoài ra chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước
ngoài, Luật lao động, các quy định của Chính phủ,...
Về thành lập: KCN không được thành lập một cách tự phát mà theo
quyết định của Chính phủ. Nhà nước luôn thiết lập chính sách xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp. Do vậy mà các KCN luôn được thành lập theo
một hệ thống và cơ chế nhất định phù hợp với tình hình kinh tế đất nước.
Về quá trình hoạt động: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và các thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Tức là chỉ chuyên về hoạt
động công nghiệp.
Về không gian: Có ranh giới địa lý xác định theo quy định, KCN được
thành lập trên cơ sở diện tích lớn, có tính đặc biệt về điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lý thuận lợi và thường không có dân cư sinh sống.
Phân loại: Tùy theo tiêu chí mà các KCN được phân thành nhiều loại.
Thông thường, theo chủ đầu tư, KCN gồm:
Các KCN bao gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong nước
Các KCN gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong và ngoài nước
15
Các KCN chỉ gồm các doanh nghiệp, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài
Như vậy, có thể thấy rằng, KCN có những đặc điểm riêng biệt so với
các khu kinh tế khác. Quá trình kinh tế phát triển đã đặt ra những yêu cầu
mới, tạo ra những đặc trưng mới cho các KCN. Chính sự thay đổi đó đã có
những ảnh hưởng nhất định đến đời sống của người dân quanh khu vực.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp ở Việt Nam gắn
liền với đường lối đổi mới được triển khai từ tháng 12/1986. KCN, KCX hình
thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được
khởi xướng từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986). Tiếp
theo đó, Đại hội VII đã kịp thời đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới
mạnh mẽ và toàn diện nền kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá (CNH), hiện đại
hoá (HĐH) đất nước, được cụ thể hoá bằng Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội 1991 - 2000. Hàng loạt các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội được triển khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có
chính sách phát triển KCN, KCX với sự ra đời của KCX Tân Thuận tại thành
phố Hồ Chí Minh (1991) và việc ban hành Quy chế KCX (Nghị định
322/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 18/10/1991) và Quy chế KCN
(Nghị định 192/CP của Chính phủ ngày 28/12/1994).
Tiếp đó, định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN,
KCX được xác định cụ thể tại Nghị quyết Đại hội VIII (năm 1996):
Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và
khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công
nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các
thành phố, thị xã nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ
sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây
dựng các khu công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư.
16
Báo cáo Chính trị Đại hội IX (năm 2001) về Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001-2010 tiếp tục khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý công
nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế
xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp
lớn và các khu kinh tế mở". Báo cáo chính trị tại Đại hội X (năm 2006) một
lần nữa khẳng định chủ trương “Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất”, đồng thời
nhấn mạnh chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững,
trong đó có phát triển bền vững KCN, KCX.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XI (năm 2011) và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 đã định hướng phát triển KCN, KCX bền
vững và theo chiều sâu: “Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy
hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công
nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp
quy mô lớn, hiệu quả cao”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011 - 2020 đặt ra mục tiêu đến năm 2020 “...tất cả các cụm, khu công
nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung”.
Hiện nay, với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước việc
phát triển khu công nghiệp được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước. Có thể
khai quát quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở nước ta
như sau:
Một là, số lượng các khu công nghiệp tăng nhanh qua các thời kỳ
Bảng 1.1: Phát triển khu công nghiệp qua các thời kỳ [22, tr.32].
Năm
1991
1995
2000
2005
2008
2018
Số lượng
1
12
65
131
223
283
Diện tích (ha)
300
2.360
11.964
26.986
57.264
78.000
17
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, sau 27 năm, số lượng các khu
công nghiệp tăng nhanh và tương đối đều giữa các thời kỳ. Theo số liệu thống
kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến tháng 3 năm 2018 cả nước có
283 khu công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích trên 78.000 ha.
Hai là, về phân bổ khu công nghiệp
Các khu công nghiệp phân bổ rộng khắp trong cả nước, khi mới hình
thành thường được xây dựng tập trung ở những vùng có điều kiện về tự nhiên,
kinh tế - xã hội, những thành phố lớn. Sau đó, các khu công nghiệp đã được
quy hoạch, xây dựng ở hầu hết các vùng trong cả nước.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường [34, tr.07] khu vực
Đông Nam Bộ (96 khu công nghiệp) và Đồng bằng sông Hồng (83 khu công
nghiệp) có số lượng và diện tích các KCN chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước. Bởi
vì khu vực đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời, có hệ thống cơ
sở hạ tầng tốt còn khu vực Đông Nam Bộ có điều kiện tốt về mặt tự nhiên để
phát triển sản xuất. Khu vực trung du miền núi phía Bắc (21 khu công nghiệp)
chiếm tỷ lệ thấp nhất cả nước bởi vì điều kiện tư nhiên, kinh tế - xã hội ở khu
vực này còn nhiều khó khăn, không phù hợp với xây dựng các khu công
nghiệp. Mặc dù có sự phân bổ các khu công nghiệp không đồng đều giữa các
vùng trong cả nước nhưng nhìn tổng thể tất cả các vùng đều được quy hoạch
phù hợp với lợi thế của từng vùng. Trong mỗi vùng các khu công nghiệp được
xây dựng ở hầu hết các tỉnh. Việc phân bổ như vậy sẽ khai thác được tiềm
năng, lợi thế của mỗi tỉnh.
Ba là, về thu hút đầu tư, xây dựng khu công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN là công cụ hữu hiệu để thu hút
các dự án đầu tư, đặc biệt các dự án đầu tư nước ngoài. Hàng năm, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX chiếm từ 40-45% tổng vốn đầu tư.
Bốn là, về xây dựng hệ thống xử lý nước thải trong khu công nghiệp
18
Bên cạnh những ưu điểm, việc xây dựng và phát triển KCN còn để lại
nhiều hệ lụy cho xã hội. Đó là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp
với nhiều loại hình khác nhau, dù các cơ sở này có công nghệ hiện đại đến
mấy cũng đều tác động đến môi trường, ở những khía cạnh và mức độ khác
nhau (ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, không khí, khói, bụi, tiếng ồn, giao
thông, ô nhiễm nhiệt độ, độ ẩm...) làm cho các khu vực xung quanh bị ảnh
hưởng. Các khu, cụm công nghiệp là trung tâm, nơi duy trì và phát tán nguồn
gây ô nhiễm. Các tác động này không chỉ diễn ra trước mắt mà diễn ra lâu dài,
không chỉ diễn ra tại vị trí đặt cơ sở sản xuất mà còn lan rộng theo nguồn
nước, theo gió....
Việc khắc phục hậu quả ô nhiễm cũng rất phức tạp, kéo dài và tốn kém,
thậm chí vượt xa tổng số ngân sách mà khu, cụm công nghiệp đó đã đóng góp
cho địa phương trong suốt thời gian nó hoạt động. Song, hậu quả nguy hiểm
nhất chính là những ảnh hưởng đến an toàn sức khoẻ người dân và hủy hoại
tài nguyên môi trường - có những tác động không thể và không bao giờ khắc
phục được. Theo số liệu thống kê, trên phạm vi cả nước đã có 221/251 KCN,
KCX đang hoạt động có HTXLNTTT đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường,
đạt 88,05% (tăng 8,05% so với năm 2017) [16, tr.05].
Qua phân tích, chúng ta có thể đánh giá, việc xây dựng và phát triển
các KCN là một hướng đi đúng trong mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Xu hướng phát triển của các KCN là mở rộng về số lượng, diện
tích, hướng tới phát triển bền vững.
1.3. Những vấn đề pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng tại
các khu công nghiệp ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 có thể thấy kiểm soát ô nhiễm môi
trường là một chu trình và coi phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô
19
nhiễm là nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường. Luật bảo vệ môi trường
2014 chưa có giải thích thế nào là kiểm soát ô nhiễm môi trường khu công
nghiệp mà mới chỉ đưa ra cách hiểu chung chung về kiểm soát ô nhiễm môi
trường nói chung tại khoản 18 Điều 3 của Luật.
Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN là một bộ phận
của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung. Vì thế các quan hệ pháp luật kiểm
soát ô nhiễm môi trường tại các KCN bao gồm: quan hệ pháp luật dân sự,
quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hành
chính và quan hệ luật quốc tế đặt trong địa bàn cụ thể.
Dễ dàng nhận thấy kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN liên
quan trực tiếp đến lợi ích vật chất và tinh thần của con người. Môi trường
thực sự đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội
của người dân. Do vậy, trong kiểm soát ô nhiễm môi trường, quan hệ giữa các
chủ thể có liên quan đến hoạt động tại các KCN phải được thực hiện dựa trên
những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường. Để kiểm soát ô nhiễm môi trường có hiệu quả cao ở các KCN, ngăn
ngừa và giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực đến con người và các
hệ động thực vật, vấn đề này phải được thực hiện trong một trật tự nhất định;
các quy định về kiểm soát ô nhiễm phải được tổ chức thực hiện đúng theo
trình tự, thủ tục, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của các KCN. Nhà
nước với tư cách là chủ thể của quyền lực chính trị, thông qua hệ thống các
quy phạm pháp luật để thể chế các quan điểm, đường lối, chính sách của mình
liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các KCN, quy định quy trình
thực hiện hoạt động ngăn ngừa, hạn chế, xử lý ô nhiễm môi trường do các
hoạt động của các KCN gây ra ở Việt Nam; quy định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng như trách
nhiệm pháp lý khi có những hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
20
môi trường ở các KCN. Như vậy, đối với các KCN, để thực hiện hoạt động
kiểm soát ô nhiễm, Nhà nước cần phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp
luật để điều chỉnh các hoạt động này. Cụ thể bao gồm các nhóm quy phạm
pháp luật chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, những quy định về quy hoạch KCN gắn với kiểm soát ô
nhiễm môi trường có mục đích khoanh vùng ô nhiễm môi trường, xác định
chất lượng môi trường ở từng khu vực KCN;
Thứ hai, những quy định về xây dựng, quản lý các dữ liệu thông tin về
môi trường ở các KCN nhằm công khai, minh bạch về số liệu, dữ liệu, trữ
lượng, giá trị kinh tế của các thành tố môi trường hay những vấn đề về môi
trường tại các KCN;
Thứ ba, những quy định về đánh giá tác động môi trường và cam kết
bảo vệ môi trường tại KCN nhằm làm rõ các tác động tiêu cực lẫn tích cực
của các các hoạt động tại KCN đến môi trường tự nhiên và xã hội, là cơ sở để
xây dựng các biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực đó;
Thứ tư, những quy định về việc ban hành và áp dụng hệ thống quy
chuẩn kỹ thuật môi trường riêng cho các KCN, trên cơ sở đó xác định được
chính xác chất lượng môi trường sống của con người và giúp cho họ biết được
giới hạn, phạm vi cho phép tác động đến môi trường, đồng thời cũng là căn cứ
pháp lý để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả mà
con người gây ra cho người dân và môi trường ở các KCN;
Thứ năm, những quy định về quản lý chất thải tại các KCN. Nhận thức
được các rủi ro ngày càng tăng đến sức khoẻ của người dân và môi trường tại
các làng nghề, Nhà nước ta đã tìm mọi biện pháp nhằm tăng cường vai trò của
pháp luật trong việc kiểm tra nguồn thải, xử lý, vận chuyển, chôn lấp, thu
gom và tái chế các chất thải ở khu vực này;
Thứ sáu, các quy định về trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại các KCN;
21
Thứ bảy, các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà
nước và cộng đồng dân cư trong kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN;
Thứ tám, những quy định về chế tài xử lý vi phạm pháp luật kiểm soát
ô nhiễm môi trường tại các KCN.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
do các hoạt động của các KCN gây ra ở Việt Nam bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa
nhận, quy định về các chủ thể trong quan hệ kiểm soát ô nhiễm môi trường do
các hoạt động của các KCN gây ra; nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch làng nghề gắn với kiểm
soát ô nhiễm; quản lý thông tin về môi trường; ban hành và áp dụng các công
cụ, biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường; quy định trách nhiệm kiểm soát
ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ tại các KCN;
trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng dân cư
trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm; xử lý các hành vi vi phạm để ứng phó,
khắc phục trước các vấn đề về môi trường với mục đích ngăn ngừa, giảm
thiểu các tác động xấu đến môi trường và con người, góp phần cải thiện môi
trường tại các KCN.
1.3.2. Đặc điểm và nội dung pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
tại KCN ở Việt Nam
Quan hệ giữa các chủ thể trong kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các
KCN phải dựa trên những tiêu chí, căn cứ nhất định, đó là các quy định pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động tại các KCN gây ra ở
Việt Nam. Kiểm soát ô nhiễm là một trong những nội dung quan trọng nhằm
cải thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng tại các KCN
Do vậy, những quan điểm, chính sách bảo vệ môi trường của Nhà nước
nói chung, trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm ở các KCN nói riêng sẽ được
22
Nhà nước cụ thể hóa vào trong các quy phạm pháp luật. Pháp luật kiểm soát ô
nhiễm môi trường tại các KCN ở Việt nam sẽ hiện thực hóa những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực này vào trong
thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các KCN. Để pháp luật kiểm soát
ô nhiễm môi trường là hình thức thể hiện và đảm bảo thực hiện tốt nhất tại
các KCN, thì cần phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, khi xây dựng các nội dung trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường do các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại KCN gây ra cần đảm
bảo quyền được sống trong môi trường trong lành, cụ thể là người dân của các
làng nghề được quyền sống trong một môi trường không bị ô nhiễm, đảm bảo
cuộc sống được hài hòa với thiên nhiên. Trong giai đoạn hiện nay, quyền con
người, dân chủ và công bằng là những vấn đề rất được Đảng và Nhà nước ta
đề cao, do vậy, yêu cầu tôn trọng quyền về môi trường của con người đã được
đặt ra ngay từ những bước đầu xây dựng pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường tại các KCN. Ngân hàng Thế giới đánh giá chất lượng cuộc sống con
người của các nước dựa vào 3 tiêu chí: Thu nhập của người dân, hệ thống an
sinh xã hội và chất lượng môi trường. Từ mục đích đảm bảo cho con người có
được chất lượng môi trường trong lành ở các KCN, các nhà làm luật đã đưa ra
những lập luận về tầm quan trọng của quyền được sống trong môi trường
trong lành là quyền quyết định đến vấn đề sức khỏe, tuổi thọ và chất lượng
cuộc sống nói chung; phân tích, đánh giá thực trạng môi trường ở các KCN
hiện nay đang bị ô nhiễm, suy thoái nên quyền tự nhiên này của người dân
đang bị xâm phạm; căn cứ vào những cam kết quốc tế và xu hướng chung trên
thế giới là thể chế quyền này trong pháp luật quốc gia, theo đó, không ràng
buộc các quốc gia về mặt pháp lý, nhưng ràng buộc về mặt chính trị, đạo lý
buộc chúng ta phải thực hiện. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các
nhà xây dựng luật dựa trên những yếu tố cấu thành của quy phạm pháp luật:
23
Từ giả định gồm chủ thể, điều kiện, hoàn cảnh để đưa ra quy định bắt buộc
những chủ thể đó khi rơi vào điều kiện, hoàn cảnh ở phần giả định phải thực
hiện, nếu không thực hiện sẽ bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng
chế theo quy định ở phần chế tài. Để đảm bảo kiểm soát ô nhiễm tốt tại các
KCN, thì việc đặt ra các điều kiện, hoàn cảnh ở phần giả định, đưa ra những
quy định của Nhà nước ở phần quy định và sự cưỡng chế của Nhà nước ở
phần chế tài phải đảm khoa học và chặt chẽ. Quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN phải nghiêm túc, đúng tinh
thần của pháp luật. Nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện những biện pháp
cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường nhằm bảo đảm cho
người dân ở khu vực xung quanh các KCN được sống trong một môi trường
trong lành. Đáp ứng được yêu cầu này đồng nghĩa với việc thực hiện đúng
mục đích của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động tại
các KCN gây ra ở Việt Nam. Như vậy, quan điểm về kiểm soát ô nhiễm ở các
KCN khi xem xét cần đứng trên nhiều góc độ nhưng không thể bỏ qua quan
điểm vì lợi ích của con người.
Thứ hai, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động tại
các KCN gây ra ở Việt Nam phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng các yêu
cầu về phát triển bền vững. Theo khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường
năm 2015, phát triển bền vững được hiểu là: “Phát triển để đáp ứng các nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Quy định này
nhấn mạnh việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho
nhu cầu hiện tại phải chú ý trữ lượng hiện có để dành cho thế hệ sau. Nói cách
khác, phát triển bền vững chính là phát triển trên cơ sở duy trì được mục tiêu
và cơ sở vật chất của quá trình phát triển. Muốn vậy, cần phải có sự tiếp cận
24
mang tính tổng hợp và bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế -
xã hội - môi trường. Tuy còn nhiều tranh luận về khái niệm “phát triển bền
vững”, song đã có sự thống nhất cao là đều tập trung chú trọng phúc lợi lâu
dài của con người và đều bao hàm những yêu cầu về sự phối hợp một cách hài
hòa ít nhất ba phương diện là tăng trưởng kinh tế; bảo đảm công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường. Ngoài ra, có nhiều quan điểm còn đề cập những khía
cạnh khác của phát triển bền vững như chính trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc và
đòi hỏi phải tính toán, cân đối chúng trong hoạch định chiến lược và chính
sách phát triển kinh tế - xã hội cho từng quốc gia, từng địa phương cụ thể.
Căn cứ vào tầm quan trọng của môi trường và phát triển kinh tế tại các KCN,
dựa vào mối quan hệ tương tác giữa môi trường và phát triển kinh tế tại các
KCN ở Việt Nam, thì muốn phát triển phải bảo vệ môi trường và ngược lại.
Có thể khẳng định, kiểm soát, bảo vệ tốt môi trường ở các KCN đồng nghĩa
với việc bảo vệ tốt mục tiêu phát triển bền vững của người dân tại các khu
vực xung quanh KCN. Như vậy, yêu cầu đặt ra là cần có sự kết hợp hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, việc khai thác
tài nguyên và xả thải phải trong giới hạn, trong khả năng tự làm sạch của môi
trường4. Việc ghi nhận và tôn trọng yêu cầu phát triển bền vững trong pháp
luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động tại các KCN gây ra ở
Việt Nam là cách thức để các chủ thể trong quan hệ này nhận thức một cách
đúng đắn đối với việc hạn chế tới mức thấp nhất việc gây ô nhiễm môi
trường, đồng thời phát triển bền vững kinh tế tại các KCN.
Thứ ba, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của
doanh nghiệp tại KCN gây ra phải chú ý đến yếu tố phòng ngừa, tức là chủ
động ngăn chặn rủi ro, mà các chủ thể có thể gây ra cho môi trường tại các
KCN. Hoạt động kiểm soát, bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng
ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái để cải thiện chất
25
lượng môi trường ở KCN. Các nhà làm luật dựa trên cơ sở chi phí phòng ngừa
bao giờ cũng nhỏ hơn chi phí khắc phục, phục hồi môi trường. Từ đó đặt ra
yêu cầu lường trước những rủi ro và đưa ra được những phương án, biện pháp
phù hợp để giảm thiểu, loại trừ những rủi ro đó.
Thứ tư, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của
KCN gây ra phải chú ý thực hiện nguyên tắc ai gây ô nhiễm, người đó phải trả
tiền, phải khắc phục ô nhiễm, có nghĩa là chủ thể gây hậu quả, tác động xấu
đến môi trường, thì phải trả tiền để mua quyền khai thác, sử dụng các yếu tố
của môi trường. Những người gây ô nhiễm phải chịu các chi phí thực hiện các
biện pháp kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm được quy định bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo môi trường trong trạng thái chấp
nhận được. Chủ thể phải trả tiền có thể là người khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên; người có hành vi xả thải vào môi trường; người có những hành vi
khác gây tác động xấu tới môi trường tại KCN theo quy định của pháp luật
hiện hành. Tiền trả cho hành vi gây ô nhiễm phải tương xứng với tính chất và
mức độ gây tác động xấu tới môi trường làng nghề, phải đủ sức tác động đến
lợi ích và hành vi của các chủ thể có liên quan đến hoạt động của KCN, có
như vậy mới đủ sức răn đe đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường ở các
KCN. Hình thức trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm có thể là thuế tài nguyên,
thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường hay chi phí sử dụng dịch vụ (thu gom
rác, quản lý chất thải nguy hại...) ở làng nghề, kinh phí sử dụng cơ sở hạ tầng:
Ví dụ như tiền thuê kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp bao gồm cả tiền
thuê hệ thống xử lý chất thải tập trung... Ngoài ra, hình thức trả tiền cho hành
vi gây ô nhiễm cũng có thể là chi phí phục hồi môi trường trong quá trình
khai thác tài nguyên.
Thứ năm, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động tại
các KCN gây ra phải rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu cho mọi chủ thể (Nhà nước,
26
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cộng đồng dân cư, các hiệp hội
ngành nghề, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân…) tại các khu vực liên quan
biết. Chẳng hạn như: Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường phải chỉ rõ
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quản lý chất thải,
từ phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý… chất thải, chất thải nguy hại ở các
KCN như thế nào? Quy định rõ những đối tượng nào phải đánh giá môi
trường khi thực hiện các mục đích phát triển gây ảnh hưởng xấu đến môi
trường và con người ở các KCN? Ngoài ra, cũng phải chỉ rõ chủ thể có thẩm
quyền xử lý vi phạm, về thủ tục cũng như quy định cụ thể mức xử lý vi phạm
là bao nhiêu đối với mỗi hành vi vi phạm... để các chủ thể có liên quan dễ
dàng cập nhật và áp dụng.
Thứ sáu, pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của
KCN gây ra ở Việt Nam phải mang tính ổn định và phù hợp với xu thế phát
triển bền vững tại các KCN. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát
triển hiện nay, quan điểm về kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường sẽ giao
thoa với quan niệm và nhận thức về lĩnh vực này của các nước trên thế giới.
Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm
tự nhiên, văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các KCN
trong từng giai đoạn cụ thể. Những yêu cầu của pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường do các hoạt động của KCN gây ra đã đề cập trên đây cần phải
được thực hiện và có tính khả thi. Có thể nói, đây là yêu cầu quan trọng, bởi
vì pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không thể tự mình đi vào trong
thực tiễn, vì thế, cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh tại các KCN. Việc xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện phải được tiến hành một cách đồng bộ,
đồng thời xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp vi phạm pháp luật.
27
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định về thông tin môi trƣờng tại các KCN
2.1.1. Các quy định pháp luật về thông tin môi trường tại KCN
Hoạt động thông tin về tình hình môi trường nói chung, môi trường
KCN nói riêng là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và
các chủ thể liên quan theo quy định của pháp luật. Hiện nay chưa có văn bản
quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm thông tin môi trường KCN. Theo
quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 thì thông tin môi
trường là số liệu, dữ liệu về môi trường dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số,
hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự. Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 có
hai phương thức để công chúng tiếp cận thông tin môi trường:
Một là, các cơ quan nhà nước, cơ sở sản xuất, kinh doanh chủ động
công khai thông tin theo quy định và mọi người đều có thể tiếp nhận những
thông tin này. Theo Điều 131 đối với phương thức này pháp luật quy định rõ
những thông tin buộc phải công khai,hình chức công khai, người có trách
nhiệm phải công khai. Ưu điểm của phương thức này là công chúng có thể dễ
dàng tiếp cận thông tin mà không phải qua những thủ tục phức tạp, tốn kém.
Hạn chế là nội dung và chất lượng thông tin lại tùy thuộc vào các cơ quan nhà
nước. Trên thực tế các cơ quan nhà nước cũng chủ động công khai thông tin
qua các văn bản, báo cáo định kỳ đã phân tích tương đối toàn diện và bao quát
các vấn đề liên quan đến môi trường từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
cho đến các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến môi trường. Thông qua việc công
khai báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường,
kế hoạch bảo vệ môi trường sẽ giúp người dân có được thông tin từ tổng thể
đến cụ thể liên quan đến môi trường;
28
Hai là, người dân chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ sở sản xuất,
kinh doanh cung cấp thông tin về môi trường. Theo quy định của Luật bảo vệ
môi trường 2014 các chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường
gồm: tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đại diện cộng đồng
dân cư [12]. Quy định pháp luật hiện hành không cho phép cá nhân, hộ gia đình
được trực tiếp yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường mà phải thông qua đại
diện cộng đồng dân cư hoặc các tổ chức mình tham gia để yêu cầu.
Qua đó ta có thể hiểu thông tin môi trường KCN là một dạng cụ thể của
thông tin môi trường. Có thể hiểu thông tin môi trường KCN là số liệu, dữ
liệu về môi trường trong KCN dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh,
âm thanh hoặc dạng tương tự.
Trong KCN vấn đề thông tin môi trường rất quan trọng với các chủ thể
liên quan. Đối với cơ quan nhà nước đó là căn cứ để đưa ra các quyết định
quản lý đúng đắn. Đối với tổ chức, cá nhân đó là cơ sở để thực hiện các quyền
cơ bản, đưa ra các yêu cầu về chất lượng cuộc sống.
2.1.2. Nội dung và hình thức thông tin môi trường tại KCN
Theo khoản 1 Điều 131 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định về thông tin
môi trường phải được công khai gồm: Báo cáo đánh giá môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; thôn tin
về nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy
thoái ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu vực có nguy cơ xảy
ra sự cố môi trường; các báo cáo về môi trường; kết quả thanh tra, kiểm tra về
bảo vệ môi trường.
Pháp luật chưa có quy định riêng về nội dung thông tin môi trường
KCN phải được công khai. Vì vậy, chủ thể quản lý dựa vào quy định về công
khai thông tin môi trường nói chung để yêu cầu cá nhân, tổ chức cung cấp
thông tin theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các thông tin
29
môi trường khu công nghiệp thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được
phép công khai.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 131 Luật bảo vệ môi trường 2014 thì hình
thức công khai phải bảo đảm thuận tiện cho những đối tượng có liên quan tiếp
nhận thông tin.Việc công khai môi trường KCN phải công khai và bảo đảm cho
các chủ thể được tiếp cận thông tin. Trong KCN thông tin môi trường thường
được công khai dưới các hình thức đa dạng. Một số phương tiện cơ bản thường
được sử dụng để công khai thông tin môi trường trong KCN gồm: bảng tin của
KCN; đài phát thanh của KCN,.. Ngoài ra, còn một số phương tiện khác mà cơ
quan quản lý có thể sử dụng để công khai thông tin môi trường KCN như: công
khai trong các cuộc họp tổng kết hoạt động của KCN,…
2.2. Thực trang quy định về đánh giá tác động môi trƣờng KCN
2.2.1. Nội dung quy định về đánh giá tác động môi trường KCN
Tại khoản 23, Điều 3, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định:
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là việc phân tích, dự báo tác động đến
môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi
triển khai dự án đó.
Từ định nghĩa về ĐTM và các đặc điểm của KCN, có thể nói đánh giá tác
động môi trường trong KCN là hoạt động phân tích, dự báo tác động đến môi
trường của dự án đầu tư, các hoạt động trong KCN, từ đó đưa ra biện pháp bảo vệ
môi trường khi triển khai dự án và các hoạt động tại môi trường có dự án.
Pháp luật về đánh giá tác động môi trường tại KCN là hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong quá trình lập, thẩm
định và phê duyệt báo cáo cáo ĐTM tại KCN nhằm đảm bảo ĐTM như một
công cụ pháp lý trong công tác quản lý môi trường. Những hành vi vi phạm
ĐTM sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Các nội dung cơ bản của pháp luật ĐTM tại KCN gồm có: đối tượng
30
phải lập báo cáo ĐTM trong các KCN; nội dung báo cáo đánh giá tác động
môi trường; lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường; tham vấn ý kiến cộng đồng quá trình lập báo cáo ĐTM.
Theo Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định đối tượng phải
thực hiện ĐTM gồm:
Một là các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu của
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
Hai là các dự án có sử dụng đất của khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc
gia, khu di tích lịch sử - văn hóa, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển,
khu danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng;
Ba là các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường.
Trong Điều 66, Điều 67 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về bảo
vệ môi trường KCN, KCX, khu CNC và cụm công nghiệp, khu công nghiệp,
khu kinh doanh dịch vụ tập trung. Việc đánh giá tác động môi trường cần phải
được thực hiện trước, trong và sau khi thực hiện dự án. Để thực hiện các giải
pháp về bảo vệ môi trường thì các chủ đầu tư KCN, các doanh nghiệp cần phải
giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Nhà nước, các doanh nghiệp cần phải
thực hiện chương trình quản lý và giảm sát môi trường thong qua việc quản lý
chất thải nguy hại, chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí trong KCN.
Lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường là công việc nhà đầu tư chịu
trách nhiệm thực hiện và được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị dự án.
Ngoài ra, để báo cáo đánh giá tác động môi trường được thông qua và triển
khai, các cơ quan chức năng phải thực hiện công việc thẩm định và phê duyệt
báo cáo. Chi phí lập, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc
nguồn vốn đầu tư dự án do chủ dự án chịu trách nhiệm theo Điều 19 Luật bảo
vệ môi trường 2014.
31
Một là lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
Nhà đầu tư tự mình hoặc thuê tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác
động môi trường. Theo khoản 1, Điều 19 Luật bảo vệ môi trường 2014 thì chủ
dự án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện đánh giá tác
động môi trường. Bên cạnh đó, Điều 20 Luật bảo vệ môi trường 2014 cũng
quy định bổ sung về vấn đề lập lại báo cáo ĐTM. Theo đó, chủ dự án phải lập
lại báo cáo ĐTM trong các trường hợp sau: Không triển khai dự án trong thời
gian 24 tháng kể từ thời điểm quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM; thay đổi
địa điểm thực hiện dự án so với phương án trong báo cáo ĐTM đã được phê
duyệt; tăng quy mô, công suất, thay đổi công nghệ làm tăng tác động xấu đến
môi trường so với phương án trong báo cáo ĐTM đã được phê duyệt. Đây là
quy định mới so với Luật bảo vệ môi trường 2005 giúp nâng cao trách nhiệm
của các chủ dự án trong quá trình lập báo cáo ĐTM, tránh tình trạng lập báo
cáo mang tính hình thức, không thực hiện trên thực tế và loại bỏ các dự án,
tác động xấu đến môi trường
Hai là thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
Khái niệm: đây là việc các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sử
dụng quyền lực nhà nước để xem xét, đánh giá một cách toàn diện mối quan
hệ giữa lợi ích kinh tế mà dự án đem lại với lợi ích môi trường cần phải bảo
vệ, giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài.
Tại Điều 23 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định rất chi tiết về thẩm
quyền thẩm định báo cáo ĐTM, đó là:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM đối với
các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ; các dự án liên ngành, liên tỉnh thuộc các dự án có
sử dụng đất của khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu di tích lịch sử -
văn hóa, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, khu danh lam thắng cảnh
32
đã được xếp hạng và các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, trừ
các dự án thuộc bí mật quốc phòng, an ninh; dự án do Chính phủ thẩm định;
- Bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM đối với dự án
thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt đầu tư của mình nhưng không thuộc
đối tượng là các dự án liên ngành, liên tỉnh thuộc các dự án có sử dụng đất
của khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu di tích lịch sử - văn hóa, khu
di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, khu danh lam thắng cảnh đã được xếp
hạng và các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, trừ các dự án
thuộc bí mật quốc phòng, an ninh; dự án do Chính phủ thẩm định;
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM đối với
dự án thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt đầu tư của mình và các dự án
thuộc bí mật quốc phòng, an ninh;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, báo cáo ĐTM đối với dự
án đầu tư trên địa bàn, trực các dự án thuộc thẩm quyền của Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an.
Về hình thức thẩm định theo Điều 24 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy
định trong trường hợp cần thiết cơ quan thẩm định tổ chức khảo sát thực tế, lấy
ý kiến phản biện của cơ quan, tổ chức và chuyên gia để thẩm định báo cáo
ĐTM. Đây là quy định khác so với Luật bảo vệ môi trường 2005 bảo đảm được
tính chặt chẽ trong quá trình thẩm định, nâng cao chất lượng báo cáo ĐTM.
Theo khoản 5 Điều 1 Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường quy định việc Thẩm định báo cáo
đánh giá tác động môi trường được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều
24 Luật bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
- Thẩm định thông qua việc lấy ý kiến cơ quan, tổ chức có liên quan do
Thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm định
33
quyết định. Trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định có thể lấy ý kiến của
một số chuyên gia về môi trường và lĩnh vực liên quan đến dự án. Cơ quan, tổ
chức, chuyên gia được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong
thời hạn tối đa 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản lấy ý kiến
kèm theo hồ sơ báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án. Các dự án
thẩm định thông qua việc lấy ý kiến gồm:
- Các dự án đầu tư trong khu công nghiệp mà các KCN đó đã được phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc đã hoàn thành các thủ tục
về môi trường tương đương, đã hoàn thiện kết cấu hạ tầng xử lý nước thải và
được xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường theo quy định của
pháp luật, phù hợp với nhóm ngành nghề được phép thu hút đầu tư vào khu
công nghiệp, trừ các dự án thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động
môi trường quy định như: Khai thác, làm giàu quặng khoáng sản độc hại;
Luyện kim; tinh chế, chế biến khoáng sản độc hại; phá dỡ tàu biển;…
- Các dự án thuộc đối tượng phải lập lại báo cáo đánh giá tác động môi
trường quy định tại Nghị định;
- Các dự án áp dụng phương pháp kỹ thuật tốt nhất hiện có và kinh
nghiệm quản lý môi trường tốt nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
- Các dự án không thuộc đối tượng quy định ở trên, việc thẩm định báo
cáo đánh giá tác động môi trường được thực hiện thông qua hội đồng thẩm
định do Thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm
định thành lập với tổng số ít nhất 07 thành viên tham gia.
Ba là phê duyệt báo cáo ĐTM
Việc phê duyệt báo cáo ĐTM của dự án có ý nghĩa quan trọng để
doanh nghiệp được cấp phép xây dựng, thực hiện dự án.
Theo khoản 1, Điều 25 Luật bảo vệ môi trường 2014 trong thời hạn 20
ngày kể từ ngày nhận được báo cáo ĐTM đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của
34
cơ quan thẩm định, thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan thẩm định có trách
nhiệm phê duyệt báo cáo ĐTM, trường hợp không phê duyệt phải trả lời cho
chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do. Phê duyệt báo cáo ĐTM được thể
hiện dưới hình thức là bản quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM theo mẫu quy
định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 1 Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của
Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường quy định Nội dung thẩm định báo
cáo đánh giá tác động môi trường.
- Sự phù hợp của dự án đối với chiến lược, quy hoạch (nếu có), quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học;
- Sự phù hợp của các phương pháp đánh giá tác động môi trường được
sử dụng;
- Sự phù hợp của các đánh giá về việc lựa chọn công nghệ sản xuất,
hạng mục công trình và các hoạt động của dự án có nguy cơ tác động xấu đến
môi trường;
- Kết quả phân tích, tổng hợp số liệu về hiện trạng môi trường, kinh tế - xã
hội nơi thực hiện dự án và sự phù hợp của địa điểm lựa chọn thực hiện dự án;
- Việc đánh giá và dự báo về nguồn thải, sự phát sinh, quy mô, tính
chất nguy hại của nước thải, khí thải, chất thải rắn công nghiệp thông thường,
chất thải nguy hại và các loại chất thải đặc thù khác; các tác động của chất
thải và các tác động khác của dự án đến môi trường và sức khỏe cộng đồng;
đánh giá, dự báo các rủi ro sự cố môi trường do chất thải gây ra;
- Các yêu cầu, quy định, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về môi trường
áp dụng đối với dự án;
- Sự phù hợp của các giải pháp bảo vệ môi trường, bao gồm: phương án
thu gom, quản lý chất thải; biện pháp, công nghệ xử lý nước thải; biện pháp,
35
công nghệ giảm thiểu, xử lý bụi, khí thải; phương án lưu giữ, quản lý, xử lý
chất thải nguy hại; phương án lưu giữ, quản lý, xử lý chất thải rắn công
nghiệp thông thường; phương án quản lý, biện pháp, công nghệ xử lý chất
thải khác; phương án cải tạo, phục hồi môi trường (nếu có); các biện pháp
giảm thiểu tác động tiêu cực khác của dự án đến môi trường; các phương án
phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường do chất thải của dự án gây ra;
- Sự phù hợp của chương trình quản lý và giám sát môi trường;
- Các cam kết bảo vệ môi trường của chủ dự án
Tham vấn ý kiến cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM
Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định tham vấn ý kiến cộng đồng là
một trong những thủ tục không thể thiếu đó là sự tham gia của cộng đồng, là
sự trao đổi thông tin giữa chủ dự án, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với
các bên có liên quan trong quá trình lập, thẩm định báo cáo ĐTM của dự án.
Theo Điều 11 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định tham vấn cộng
đồng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường đóng vai trò quan
trọng. Sự tham gia của cộng đồng có tác động rất lớn đến việc thực hiện các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đặc biệt tại các KCN. Báo cáo
ĐTM trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thực chất là lời cam kết của chủ dự án
trước các cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường và cả cộng đồng. Bảo vệ
môi trường KCN cần chú trọng việc tăng cường ảnh hưởng tốt, giảm thiếu
ảnh hưởng xấu của dự án đến môi trường. Chính vì vậy, sự tham gia của cộng
đồng có tác động rất lớn đến việc chủ dự án đầu tư thực hiện các quy định của
pháp luật về môi trường. Việc tham gia phối hợp và tác động trực tiếp liên hệ
với các cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường, cộng đồng dân cư chịu tác động
trực tiếp của dự án là việc làm cần thiết. Cộng đồng dân cư, những người dân
sống xung quanh các dự án, KCN sẽ cảm nhận được những tích cực và tiêu cực
mà dự án mang đến cho môi trường. Do đó các ý kiến phản hồi, ý kiến tham
36
vấn sẽ vừa giúp cho các cơ quan có cái nhìn toàn diện hơn về dự án để phục vụ
công tác thẩm định đạt hiệu quả. Những ý kiến phản hồi từ cộng đồng dân cư
đồng thời cũng giúp chủ đầu tư xác định rủi ro tiềm ẩn tới môi trường mà quá
trình thiết kế dự án có thể chưa tính đến. Việc tham vấn ý kiến cộng đồng được
quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật bảo vệ môi trường 2014.
2.2.2. Việc thực thi pháp luật đánh giá tác động môi trường tại KCN
ở Việt Nam
Thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường
nên trong năm 2018 đã có 469 dự án đầu tư [16, tr.16] thuộc thẩm quyền phê
duyệt của Chính phủ, Thủ tướng đã thực hiện ĐTM; 16 cơ sở được phê duyệt
đề án bảo vệ môi trường chi tiết; nhiều dự án, hoạt động đầu tư đã thực hiện
đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường. Thông qua đánh giá tác động môi
trường đã có sự điều chỉnh các định hướng phát triển, bố trí không gian phát
triển và đầu tư phù hợp hơn về môi trường; hầu hết các dự án đầu tư đã được
yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung các biện pháp giảm thiểu tác động có hại đến môi
trường, trong đó tập trung vào các giải pháp công trình phòng, ứng phó sự cố
môi trường, giám sát môi trường của dự án, đặc biệt đối với dự án thuộc loại
hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm cao.
Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2011 - 2015, đã có hơn 9.000 dự án đầu
tư trên cả nước thực hiện báo cáo ĐTM. Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi
trường thẩm định, phê duyệt hơn 1.200 báo cáo ĐTM; các bộ, ngành, địa
phương thẩm định, phê duyệt hơn 100 báo cáo; các địa phương thẩm định, phê
duyệt hơn 8.000 báo cáo. Riêng năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp
nhận 477 hồ sơ và đã phê duyệt 230 báo cáo ĐTM của các dự án đầu tư thuộc
thẩm quyền thẩm định của Bộ. Ngoài ra, Bộ cũng đã phê duyệt 81 báo cáo ĐTM
và 110 dự án, đề án cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản, ký
quỹ cải tạo, phục hồi môi trường, với số tiền hơn 1.571 tỷ đồng [35].
37
Các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực môi trường có chung nhận
định: Việc thực hiện báo cáo ĐTM còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Trong
đó, về lý thuyết, ĐTM được thực hiện nhằm phân tích các tác động từ những
dự án phát triển cụ thể, đưa ra các thông tin giúp cơ quan quản lý ra quyết
định đối với dự án. ĐTM còn có vai trò xây dựng kế hoạch, giúp nhà đầu tư
quản lý tốt các vấn đề môi trường và rủi ro môi trường. Tuy nhiên, không ít
nhà đầu tư nhìn nhận ĐTM như một thủ tục hành chính hơn là công cụ để
quản lý môi trường, cho nên việc thực hiện ĐTM thông thường được phó mặc
cho cơ quan tư vấn.
Trong khi đó, theo phân cấp trong Luật bảo vệ môi trường 2014, Bộ
Tài nguyên và Môi trường có thẩm quyền chủ trì phê duyệt các dự án thuộc
thẩm quyền đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, dự án liên tỉnh và
một số loại hình dự án nhạy cảm môi trường. Các bộ, ngành khác có thẩm
quyền tổ chức thẩm định ĐTM các dự án thuộc thẩm quyền đầu tư của mình
và UBND cấp tỉnh chủ trì thẩm định ĐTM cho các dự án thuộc thẩm quyền
địa phương. Do đó, cơ quan thẩm định ĐTM cũng là cơ quan ra quyết định
đối với chủ trương xây dựng dự án, cho nên thẩm định ĐTM thường thiếu
mức độ độc lập và khách quan cần thiết. Nhiều địa phương thường đặt các ưu
tiên tăng trưởng kinh tế hơn là các mục tiêu về BVMT.
Để việc thực hiện báo cáo ĐTM ở nước ta thực sự trở thành một trong
những công cụ quản lý có hiệu quả đối với công tác BVMT thời gian tới, các
bộ, ngành, địa phương không phê duyệt báo cáo ĐTM đối với các dự án đầu
tư sử dụng công nghệ lạc hậu; dự án thuộc loại hình sản xuất gây ô nhiễm môi
trường, phát thải hóa chất, các chất độc hại khó phân hủy với chi phí xử lý
cao; dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhất là đất rừng phòng hộ,
rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn có tác động xấu đến môi trường sinh thái.
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM;
xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật về ĐTM, nhất là ĐTM tổng hợp, ĐTM xuyên
38
biên giới; thực hiện nghiêm việc kiểm tra, xác nhận các công trình BVMT trong
các dự án đầu tư. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng bằng việc công bố dự
thảo báo cáo ĐTM để lấy ý kiến của người dân, các bên liên quan trước khi phê
duyệt các quy hoạch phát triển và dự án cụ thể. Đồng thời, cần xem xét quy định
việc đánh giá và xây dựng kế hoạch quản lý rủi ro chi tiết cho một số loại hình
dự án như hóa dầu, hóa chất, luyện thép, khai thác khoáng sản…
2.3. Thực trạng quy định về quản lý chất thải tại các KCN
2.3.1. Các quy định về quản lý chất thải
Điều 68 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định chủ cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc thu gom, xử lý
nước thải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường; thu gom, phân loại, lưu
giữ, xử lý, thải bỏ chất thải rắn theo quy định của pháp luật; bảo đảm không
để rò rỉ, phát tán khí độc hại ra môi trường; hạn chế tiếng ồn, độ rung, phát
sáng, phát nhiệt gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường xung quanh và người
lao động; bảo đảm nguồn lực, trang thiết bị đáp ứng khả năng phòng ngừa,
ứng phó sự cố môi trường; xây dựng và thực hiện phương án bảo vệ môi
trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát sinh lượng chất thải lớn,
nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường phải có bộ phận chuyên
môn hoặc nhân sự phụ trách về bảo vệ môi trường; phải được xác nhận hệ
thống quản lý môi trường theo quy định của Chính phủ.
Chất thải công nghiệp: là những chất thải phát sinh từ quá trình sản
xuất công nghiệp, gồm có chất thải nguy hại và các chất thải thông thường.
Chất thải công nghiệp, đặc biệt là chất thải nguy hại là một thách thức lớn đối
với công tác quản lý môi trường của nhiều địa phương trong cả nước, các chất
thải công nghiệp có thể ở dạng khí, lỏng, rắn.
Nước thải từ KCN: Có thành phần đa dạng, chủ yếu là các chất lơ lửng,
chất hữu cơ, dầu mỡ và một số kim loại nặng. Với mỗi ngành nghề sản xuất
39
kinh doanh, mỗi nhà máy, thành phần nước thải không giống nhau dẫn đến
việc xử lý tập trung khó khăn. Trong nhiều trường hợp, nước thải của các nhà
máy, doanh nghiệp trộn lẫn sẽ tạo thành chất gây ô nhiễm mới rất nguy hại
đối với môi trường. Thông thường, ở các KCN có hệ thống xử lý nước thải
tập trung. Các doanh nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải riêng sẽ ký
hợp đồng xử lý nước thải ở cơ sở tập trung. Đến nay, trên phạm vi cả nước đã
có 221/251 KCN, KCX đang hoạt động có HTXLNTTT đạt quy chuẩn kỹ
thuật về môi trường, đạt 88,05% (tăng 8,05% so với năm 2017) [16, tr.18] đạt
chỉ tiêu đề ra, trong đó các địa phương có số lượng KCN lớn như TP.Hồ Chí
Minh, TP.Hà Nội, các tỉnh: Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai,
Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh,.. tỷ lệ này đều đạt 100% (Phụ lục I: Tỷ lệ
các KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu
chuẩn môi trường trên phạm vi cả nước năm 2018 theo Báo cáo số 206/BC-
CP ngày 15/5/2019 của Chính phủ).
Ô nhiễm không khí, tiếng ồn tại KCN: Chủ yếu là do ô nhiễm bụi, ở
một số KCN xuất hiện ô nhiễm CO, SO2, NO2. Nhìn chung, vấn đề ô nhiễm
không khí thường tập trung ở những KCN cũ do công nghệ lạc hậu, chưa đầu
tư hệ thống khí thải. Nồng độ bụi STP tại rất nhiều điểm quan trắc xung
quanh các KCN vượt giới hạn cho phép theo QCVN 05:2013/BTNMT, thậm
chí vượt nhiều lần giới hạn cho phép đối với trung bình 24 giờ và trung bình
năm [31]. Bên cạnh đó, một số ngành công nghiệp đang hoạt động vẫn tiếp
tục phát thải vào môi trường không khí một lượng bụi lớn, đó là các ngành
khai khoáng, nhiệt điện, xi măng. Tại hầu hết các khu vực quan trắc xung
quanh các KCN, mức ồn đo được đều xấp xỉ hoặc vượt theo quy chuẩn
QCVN 26:2010/BTNMT.
Chất thải rắn (CTR): Theo thống kê bình quân mỗi ngày các KCN nước
ta thải ra hàng chục nghìn tất chất thải rắn; bình quân mỗi năm thải ra trên
40
triệu tấn. Theo dự báo đến năm 2020 sẽ tăng lên 9-13,5 triệu tấn/năm. Tuy
nhiên vấn đề thu gom, vận chuyển và tái chế, tái sử dụng CTR ở các KCN còn
nhiều bất cập, đặc biệt đối với vận chuyển, quản lý và đăng ký nguồn thải đối
với chất thải nguy hại.
Hoạt động quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải tại
KCN [21, tr.145]
Theo khoản 15, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định quản lý
chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải. Việc quản lý chất thải phải bảo
đảm được quản lý trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu
gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy. Chất thải thông thường có lẫn
chất thải nguy hại vượt ngưỡng quy định mà không thể phân loại được thì phải
quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại [32].
Như vậy, để phục vụ việc quản lý chất thải, chúng ta phải tiến hành
phân định để xác định một vật chất là chất thải hay không phải là chất thải,
chất thải nguy hại hay chất thải thông thường và xác định chất thải đó thuộc
một loại hoặc một nhóm chất thải nhất định với mục đích để phân loại và
quản lý trên thực tế. Sau đó tiến hành phân loại chất thải là hoạt động phân
tách chất thải trên thực tế nhằm chia thành các loại hoặc nhóm chất thải để có
quy trình quản lý khác nhau.
Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi phát sinh
đến nơi xử lý, có thể kèm theo hoạt động thu gom, lưu giữ tạm thời, trung
chuyển chất thải và sơ chế chất thải tại điểm tập kết hoặc trung chuyển.
Tái sử dụng chất thải là việc sử dụng lại chất thải một cách trực tiếp
hoặc sau khi sơ chế mà không làm thay đổi tính chất của chất thải.
Sơ chế chất thải là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật cơ - lý đơn
thuần nhằm thay đổi tính chất vật lý như kích thước, độ ẩm, nhiệt độ để tạo
41
điều kiện thuận lợi cho việc phân loại, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái
chế, đồng xử lý, xử lý nhằm phối trộn hoặc tách riêng các thành phần của chất
thải cho phù hợp với quy trình quản lý khác nhau.
Tái chế chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật
để thu lại các thành phần có giá trị từ chất thải.
Thu hồi năng lượng từ chất thải là quá trình thu lại năng lượng từ việc
chuyển hóa chất thải.
Xử lý chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật
để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất thải và
các yếu tố có hại trong chất thải.
Đồng thời xử lý chất thải và việc kết hợp một quá trình sản xuất sẵn có
để tái chế, xử lý, thu hồi năng lượng từ chất thải trong đó chất thải được sử
dụng làm nguyên vật liệu, nhiên liệu thay thế hoặc được xử lý.
2.3.2. Hoạt động quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn
thông thường tại KCN
Các quy định pháp luật
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy
định về quản lý chất thải và phế liệu quy định chất thải rắn (CTR) là chất thải
ở thể rắn hoặc sệt (còn gọi là bùn thải) được thải ra từ sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Như vậy, trong KCN tồn tại cả
CTR công nghiệp và chất thải rắn sinh hoạt. CTR công nghiệp là CTR phát
sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bao gồm cả CTR, bùn sinh ra
từ hệ thống xử lý chất thải lỏng và khí thải. CTR công nghiệp không bao gồm
CTR sinh hoạt của cán bộ, công nhân tại các KCN.
CTR trong KCN phải phân loại CTR thông thường, chất thải y tế và
chất thải nguy hại, trường hợp không thể phân loại được thì phải quản lý theo
quy định về chất thải nguy hại; bùn cặn của nhà máy xử lý nước thải tập
42
trung, hệ thống thoát nước của KCN và các cơ sở trong KCN phải được thu
gom, vận chuyển, xử lý hoặc tái sử dụng theo quy định của pháp luật về quản
lý bùn thải [7].
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN là chủ nguồn thải CTR
công nghiệp thông thường thực hiện trách nhiệm phân định, phân loại, lưu giữ
CTR công nghiệp thông thường theo quy định của pháp luật; tự tái sử dụng,
sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi hoặc ký hợp đồng chuyển giao cho
đơn vị có chức năng vận chuyển, xử lý CTR công nghiệp thông thường. Định
kỳ báo cáo tình hình phát sinh, quản lý chất CTR công nghiệp thông thường
trong báo cáo giám sát môi trường định kỳ (Phụ lục II: Yêu cầu kỹ thuật, quy
trình quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường theo Nghị định số
40/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ).
Thực trạng pháp luật quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR thông
thường tại KCN ở Việt Nam hiện nay
Theo Báo cáo về công tác bảo vệ môi trường năm 2018 của Chính phủ
báo cáo Quốc hội: Hàng năm, CTR công nghiệp phát sinh khoảng 25 triệu
tấn, trong đó tro xỉ nhiệt điện, xỉ thép và thạch cao từ các nhà máy sản xuất
phân bón hóa học khoảng 16,9 triệu tấn. Lượng tro xỉ phát sinh từ các nhà
máy nhiệt điện than khoảng 13 triệu tấn/năm. Hiện nay lượng tro, xỉ tồn trữ
tại các bãi chứa khoảng 34,3 triệu tấn và phải sử dụng tổng diện tích bãi thải
xỉ khoảng 1.000 ha, chứa nhiều tạp chất gây ô nhiễm [4].
Theo số liệu hiện tay tỷ lệ thu gom CTR công nghiệp đạt tỷ lệ khá cao,
đạt trên 90% khối lượng CTR công nghiệp phát sinh. Tỷ lệ này đạt được do
chủ nguồn thải xác định và có đăng ký với Ban Quản lý KCN.
Hầu hết các cơ sở trong KCN ký hợp đồng với các đơn vị hoạt động
trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển chất thải (chiếm tỷ lệ 74,2%) các cơ sở
bán chất thải có giá trị kinh tế chiếm tỷ lệ 18%; một số cơ sở thực hiện nghiền
nát chất thải làm nguyên liệu đun [33].
43
Lượng CTR công nghiệp ở nước ta những năm gần đây phát sinh rất
lớn, đặc biệt là ở những vùng có ngành công nghiệp phát triển như Hà Nội,
Quảng Ninh, Hải Dương, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng
Tàu... Riêng TP. Hồ Chí Minh, trong năm 2016, khối lượng CTR công nghiệp
ước phát sinh khoảng 1.500 - 2.000 tấn/ngày từ hơn 2.000 nhà máy lớn và
khoảng 10.000 cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, nằm trong và ngoài các KCX -
KCN và CCN; tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng phát sinh lượng lớn CTR thông
thường khoảng 1.000 tấn/ngày, chủ yếu là xỉ thép, tạp chất từ phế liệu thép
nhập khẩu, xỉ than đá, bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải…Theo số liệu của
Tổng cục Môi trường, lượng CTR thông thường phát sinh từ các hoạt động
sản xuất công nghiệp ước tính khoảng 25 triệu tấn/năm, riêng từ các KCN là
khoảng 8,1 triệu tấn/năm [1]. Theo đánh giá, thành phần CTR công nghiệp có
thể thay đổi theo hướng gia tăng chất thải nguy hại, đây là kết quả của quá
trình gia tăng mức độ công nghiệp hóa và sử dụng hóa chất ngày càng cao.
Với lợi thế là mô hình sản xuất tập trung, các KCN có nhiều thuận lợi
hơn trong việc quản lý chất thải, do đó, tỷ lệ thu gom CTR tại khu vực này
cao hơn so với các CCN và các cơ sở sản xuất ngoài KCN. Tại các KCN,
CTR thường được tận dụng tái chế, tái sử dụng tối đa, phần thải bỏ sẽ ký hợp
đồng với đơn vị/doanh nghiệp xử lý chất thải để xử lý tập trung. Phần lớn các
CCN vẫn chưa hoàn thiện các công trình thu gom, xử lý chất thải tập trung.
Đối với các cơ sở sản xuất nằm ngoài KCN, CCN việc quản lý, kiểm soát ô
nhiễm còn gặp nhiều khó khăn.
Thực tế, còn tồn tại hiện tượng các chất thải không có giá trị kinh tế
được thu gom và đổ lẫn với chất thải sinh hoạt, gây khó khăn trong việc thu
gom, xử lý. Trước khi chuyển giao cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực
thu gom, vận chuyển, CTR công nghiệp thường được chất thành đống trong
kho chứa, hoặc tại các khu vực trống trong các khuôn viên cơ sở. Tuy nhiên,
44
tại nhiều cơ sở sản xuất hệ thống kho chứa CTR công nghiệp chưa đạt yêu
cầu, không có mái che, để lộ thiên trong khuôn viên. Việc thu gom CTR công
nghiệp trong nội bộ các nhà máy, xí nghiệp trong KCN do đội vệ sinh của nhà
máy đảm nhiệm và Ban quản lý KCN chịu trách nhiệm quản lý chung. Tại
nhiều KCN chưa có nhiều điểm tập trung thu gom CTR theo quy định.
Hiện nay, trong cả nước đang rất thiếu các khu xử lý CTR công nghiệp,
đặc biệt là khu xử lý có quy mô lớn. Việc xử lý CTR công nghiệp mới thực
hiện ở quy mô nhỏ. Ngoài ra, có một số cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài
KCH hợp đồng với các tổ chức, cá nhân không có chức năng thu gom, vận
chuyển dẫn đến việc đổ chất thải không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Việc tái chế, tái sử dụng CTR công nghiệp diễn ra khá phổ biến chủ
yếu là tự phát tại các cơ sở công nghiệp. Trước đây, tro xỉ than chỉ được tái
chế để làm gạch không nung, phụ gia bê tông, phụ gia xi măng,.. tuy nhiên
mới chỉ đạt 30% tổng lượng tro, xỉ phát sinh. Do vậy, đã có một số giải pháp
sử dụng tro xỉ, thạch cao tại các nhà máy nhiệt điện, hóa chất đã được áp
dụng. Mục tiêu là xử lý phế thải đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để sử
dụng làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Các giải pháp này sẽ giúp
giảm diện tích bãi thải; tiết kiệm tài nguyên khoáng sản trong sản xuất vật liệu
xây dựng. Tuy nhiên hiện nay việc triển khai còn nhiều khó khăn do lượng xỉ
than thường có khối lượng lớn và trong thành phần có chứa nhiều tạp chất.
2.3.3. Hoạt động quản lý và xử lý khí thải tại KCN
Các quy định của pháp luật về quản lý khí thải tại KCN
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định về các nguồn khí thải cố
định: Quy định nguồn phát thải khí phải được chủ nguồn thải và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đánh giá và kiểm soát (khoản 1 Điều 62) đồng thời tại
quy định các nguồn thải này cũng phải xác định về lưu lượng, tính chất và đặc
45
điểm của khí thải (khoản 1 Điều 64). Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
tính toán sức chịu tải của môi trường không khí để xem xét, phê duyệt dự án
và hoạt động có phát thải khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người
và môi trường (khoản 2 Điều 64). Việc cấp giấy phép xả khí thải vào môi
trường cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí
công nghiệp lưu lượng lớn (khoản 4 Điều 64). Các chủ nguồn thải cũng phải
có trách nhiệm quản lý nguồn thải của mình, theo đó: các cơ sở sản xuất, kinh
doanh có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô
nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính
chất, đặc điểm khí thải. Trường hợp bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt
ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý
chất thải nguy hại (Điều 102).
Theo Nghị định 38/2015/NĐ-CP đã cụ thể các quy định trên: Đăng ký,
kiểm kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về khí thải công nghiệp (Điều 45); cấp phép
xả thái khí công nghiệp (Điều 46); quan trắc khí thải công nghiệp tự động liên
tục (Điều 47);
Theo Điều 10 Thông tư 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao quy định thì các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
trong KCN phát sinh khí thải, tiếng ồn phải đầu tư, lắp đặt hệ thống xử lý khí
thải, giảm thiểu tiếng ồn bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Thực trạng pháp luật về quản lý khí thải tại KCN
Qua thực tế triển khai ta có thể thấy rằng các quy định pháp luật về
quản lý khí thải trong Luật bảo vệ môi trường 2014 còn chưa thật cụ thể, khó
áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ: đối với các doanh nghiệp có lưu lượng khí thải
công nghiệp lớn luật yêu cầu lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động và
đấu nối trực tiếp để cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể kiểm tra bất cứ
46
lúc nào. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp có lưu lượng khí thải nhỏ hơn
thì không phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động nên khó kiểm soát nguồn
khí thải. Trong Nghị định 38/2015/NĐ-CP có hướng dẫn quy định về cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát khí thải công nghiệp có lưu
lượng lớn nhưng chưa có hướng dẫn, phân biệt giữa cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp có lưu lượng lớn với cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn.
Có những quy định đã cụ thể, nhưng lại chưa đủ sức răn đe: quy định
mức xử phạt quá thấp dẫn đến doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt mà
không thực hiện các biện pháp xử lý khí thải trong khi đó có những quy định
lại không khả thi, không áp dụng trên thực tiễn. Bên cạnh đó trách nhiệm của
cơ quan nhà nước với tư cách là chủ thể tham gia kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí nhưng khi gây ra thiệt hại lại chưa quy định trách nhiệm
pháp lý cụ thể.
2.3.4. Hoạt động thu gom, xử lý nước thải tại KCN
Nước thải là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất được thải ra từ sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác. Pháp luật quy định
các KCN phải có hệ thống thu gom riêng nước mưa và hệ thống thu gom, xử
lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn môi trường. Hệ thống xử lý nước thải
phải bảo đảm đủ công suất xử lý toàn bộ lượng nước thải phát sinh của các cơ
sở trong KCN. Mạng lưới thu gom và hệ thống thoát nước mưa, nước thải
phải được thường xuyên duy tu, bảo dưỡng định kỳ để bảo đảm luôn trong
điều kiện vận hành bình thường.
Theo khoản 2 Điều 8 Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015
của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì hệ thống thoát nước tại KCN phải bảo
đảm các yêu cầu sau: tách riêng hệ thống thu gom, thoát nước thải với hệ
thống thoát nước mưa; hệ thống thu gom, thoát nước thải phải có vị trí, cốt hố
47
ga phù hợp để đấu nối với điểm xả nước thải của các cơ sở và bảo đảm khả
năng thoát nước thải của KCN; vị trí đấu nối nước thải nằm trên tuyến thu
gom của hệ thống thoát nước KCN và đặt bên ngoài phần đất của các cơ sở;
điểm xả thải của hệ thống xử lý nước thải tập trung trong KCN tại nguồn tiếp
nhận phải bố trí bên ngoài hàng rào KCN, có biển báo, có sàn diện tích tối thiểu 1m2 và có lối đi để thuận lợi cho việc kiểm tra nguồn thải.
Theo khoản 3 Điều 8 Thông tư 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015
quy định đối với nhà máy xử lý nước thải tập trung (XLNTTT) trong KCN
phải bảo đảm các yêu cầu: có thể chia thành nhiều đơn nguyên phù hợp với
tiến độ lấp đầy và hoạt động của KCN nhưng phải bảo đảm xử lý toàn bộ
lượng nước thải phát sinh đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; có đồng hồ đo
lưu lượng nước thải đầu vào; có công tơ điện độc lập; khuyến khích việc áp
dụng công nghệ thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng; có hệ thống
quan trắc tự động, liên tục đối với cá thông số: lưu lượng nước thải đầu ra,
pH, nhiệt độ, COD, TSS và một số thông số đặc trưng khác trong nước thải
của KCN trước khi thải ra nguồn tiếp nhận theo yêu cầu của Quyết định phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hệ thống quan trắc tự động phải
bảo đảm yêu cầu kỹ thuật kết nối để truyền dữ liệu tự động, liên tục về Sở Tài
nguyên và Môi trường địa phương.
Theo Điều 9 Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT nước thải của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh dịch vụ trong KCN phải được xử lý theo điều kiện ghi
trong văn bản thỏa thuận với chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN
trước khi đấu nối vào hệ thống thu gom của KCN để tiếp tục xử lý tại nhà
máy XLNTTT bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi xả ra
nguồn tiếp nhận; trường hợp nước thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý phải có hợp đồng xử lý nước
thải với đơn vị có chức năng phù hợp theo quy định hiện hành.
48
Ngoài các quy định chung về thu gom, xử lý nước thải KCN, các cơ sở
kinh doanh, dịch vụ trong KCN còn phải tuân thủ các quy chuẩn quốc gia về nước
thải đối với các ngành sản xuất đặc thù như: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước
thải công nghiệp chế biến cao su thiên nhiên QCVN 01: 2008/BTNMT); Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08:2008/BTNMT); Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm 9QCVN 09: 2008/BTNMT);
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước biển ven bờ 9QCVN 10:
2008/BTNMT); Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế biến
thủy sản (QCVN 11: 2008/BTNMT); Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp giấy và bột giấy (QCVN 12: 2008/BTNMT);…
2.3.5. Hoạt động quản lý thu gom chất thải nguy hại
Các quy định pháp luật về quản lý, thu gom, vận chuyển chất thải nguy
hại (CTNH)
Pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong KCN là những quy phạm
được phân loại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, là tổng thể những quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành, thừa nhận nhằm điều chỉnh nội dung và
trình tự trong quy trình quản lý chất thải nguy hại với giới hạn là phạm vi giới
hạn của các KCN trên lãnh thổ Việt Nam [30].
Việc ban hành Luật bảo vệ môi trường 2014 là một bước quan trọng
hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý CTNH trong KCN ở Việt Nam.
Theo đó, Luật đã bổ sung các quy phạm pháp luật cụ thể trong lĩnh vực này
như: quy định mọi loại chất thải được quản lý từ khi phát sinh, giảm thiểu,
phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý; các tổ
chức, cá nhân có hoạt động giảm thiểu phát thải, tái chế, tái sử dụng chất thải
được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước; quy định trách nhiệm của các
chủ đầu tư KCN, KCX trong quản lý chất thải; để khắc phục những mặt trái
trong quản lý CTNH trong thời gian quan, Luật đưa ra 6 nguyên tắc trong
quản lý CTNH; quy định bổ sung các điều kiện hành nghề xử lý CTNH,…
49
Nội dung pháp luật quản lý CTNH trong KCN
Về quản lý đối với chủ nguồn thải CTNH: Theo khoản 5 Điều 7 Nghị
định 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và
phế liệu định kỳ 6 tháng/lần chủ nguồn chất thải nguy hại phải báo cáo việc
lưu giữ CTNH tại cơ sở phát sinh với Sở Tài nguyên và Môi trường bằng văn
bản riêng hoặc kết hợp trong báo cáo quản lý CTNH định kỳ khi chưa chuyển
giao được trong các trường hợp chưa có phương án vận chuyển, xử lý khả thi;
chưa tìm được chủ xử lý CTNH phù hợp. Đồng thời, lập, sử dụng, lưu trữ và
quản lý chứng từ CTNH, báo cáo quản lý CTNH (định kỳ và đột xuất) và các
hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến công tác quản lý CTNH theo quy định.
Khi chấm dứt hoạt động phát sinh CTNH, phải thông báo bằng văn bản cho
Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có cơ sở phát sinh CTNH trong thời gian
không quá 6 tháng.
Về quản lý với tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển CTNH: Việc thu
gom, vận chuyển CTNH chỉ được phép thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân có
giấy phép xử lý CTNH. Để được cấp giấy phép này, đơn vị phải báo cáo đánh
giá tác động môi trường được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt đối với
dự án đầu tư cơ sở xử lý CTNH. Đồng thời, địa điểm của cơ sở này phải nằm
trong quy hoạch có nội dung về quản lý, xử lý chất thải do cơ quan có thẩm
quyền cấp tỉnh trở lên phê duyệt.
Về quản lý với chủ xử lý CTNH: Chủ xử lý CTNH trước hết phải có
Giấy phép xử lý CTNH đồng thời ký hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý
CTNH với các chủ nguồn thải CTNH. Theo quy định tại Nghị định số
38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 yêu cầu các chủ xử lý CTNH phải áp dụng
tiêu chuẩn quốc gia về hệ thống quản lý môi trường (TCVN ISO 14001) trong
thời hạn 02 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép xử lý CTNH. Tương tự như
các đơn vị thu gom, vận chuyển CTNH, thì hoạt động của chủ xử lý CTNH
50
cũng yêu cầu lập, sử dụng, lưu trữ và quản lý chứng từ CTNH và các hồ sơ
liên quan. Ngoài ra còn cần thực hiện kế hoạch kiểm soát ô nhiễm môi trường
và phục hồi môi trường khi chấm dứt hoạt động.
Thực trạng pháp luật quản lý chất thải nguy hại tại KCN
CTNH chiếm khoảng 15-20% lượng CTR công nghiệp. Đây là nguồn
gây ô nhiễm tiềm năng rất đáng lo ngại cho sức khỏe cộng đồng. CTNH phát
sinh từ các KCN của phía Nam khoảng 82.000 - 134.000 tấn/năm cao hơn các
khu vực khác (gấp 3 lần miền Bắc và 20 lần miền Trung). Gần một nửa số
lượng chất thải công nghiệp phát sinh ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là
tại các tỉnh: TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương.
Thực tế lượng phát sinh CTNH này có thể còn lớn hơn, do chưa được quản lý
đúng cách và thống kê đầy đủ, nhiều loại CTNH được thu gom cùng rác thải
sinh hoạt rồi đổ tập trung tại các bãi rác công cộng [33].
Hiện nay, đa phần các chủ nguồn thải có phát sinh CTNH lớn hàng
năm đều đã đăng ký và được cấp Sổ đăng ký chủ nguồn thải nguy hại. Lượng
CTNH phát sinh từ chủ nguồn thải này đều được thu gom và đưa đến các cơ
sở đã cấp phép để xử lý. Một phần lượng CTNH phát sinh từ các nguồn thải
được xử lý bởi chính các chủ nguồn thải (bằng các công trình bảo vệ môi
trường tại cơ sở), bởi các cơ sở do địa phương cấp phép hoặc được xuất khẩu ra
nước ngoài để xử lý, tái chế. Một số CTNH đặc thù (chất thải có chứa PCB) do
chưa có công nghệ xử lý phù hợp nên được lưu giữ tại nơi phát sinh. Với tình
hình như vậy nhìn chung lượng CTNH phát sinh tại hầu hết các chủ nguồn thải
lớn đều đã được quản lý đúng với quy định hiện hành. Lượng CTNH phát sinh
tại các chủ nguồn thải nhỏ hoặc tại vùng sâu, vùng xa chỉ phần nhỏ được thu
gom; số còn lại được các làng nghề thu gom, tái chế chưa bảo đảm yêu cầu về
môi trường hoặc thậm chí được chôn lấp không đúng quy định.
Năng lực thu gom xử lý CTNH của các cơ sở xử lý tăng cao hơn (năm
51
2018 tăng 05 cơ sở xử lý CTNH so với năm 2017, xử lý được thêm 500
nghìn tấn/năm). Tỷ lệ CTNH được thu gom, xử lý đúng quy định đạt khoảng
75% [16, tr.20].
2.4. Thực trạng quy định về quan trắc môi trƣờng tại các KCN
2.4.1. Khái niệm và nội dung các quy định pháp luật về quan trắc môi
trường KCN
Theo khoản 20 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định: Quan trắc
môi trường là quá trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi trường, các yếu
tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng, diễn
biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi trường.
Pháp luật hiện hành chưa có quy định về quan trắc môi trường tại KCN.
Từ khái niệm trên ta có thể hiểu khái niệm: Quan trắc môi trường KCN là quá
trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi trường KCN, các yếu tố tác động
lên môi trường KCN nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng, diễn biến
chất lượng môi trường KCN và các tác động xấu đối với môi trường KCN.
Quan trắc môi trường hoạt động cần thiết và có ý nghĩa lớn trong công
tác quản lý bảo vệ môi trường. Những quy định về quan trắc môi trường khả
thi, phù hợp với thực tế là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền có căn
cứ quản lý và cũng là cơ sở để các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm chỉnh
quy định của pháp luật.
Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định về quan trắc môi trường
gồm các quy định về: hoạt động quan trắc, thành phần môi trường và chất thải
cần được quan trắc, chương trình quan trắc môi trường, hệ thống quan trắc
môi trường, trách nhiệm quan trắc,.. Tuy nhiên, các quy phạm này mang tính
định hướng không hướng dẫn cụ thể vấn đề quan trắc môi trường tại KCN.
Trên cơ sở quy định chung, các chủ thể có thẩm quyền vạch ra các kế hoạch
quản lý vấn đề quan trắc môi trường trong từng lĩnh vực cụ thể.
52
Theo quy định tại Thông tư 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ
Tài nguyên và môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao có quy định về quan trắc môi trường như sau:
Tại khoản 1 Điều 8 quy định hệ thống quan trắc nước thải tự động là hệ
thống bắt buộc phải có trong hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường KCN;
Tại khoản 3 Điều 8 quy định nhà máy xử lý nước thải tập trung KCN
phải có thệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với các thông số: lưu lượng
nước thải đầu ra, pH, nhiệt độ COD, TSS và một số thông số đặc trưng khác
trong nước thải của KCN trước khi thải ra nguồn tiếp nhận theo yêu cầu của
quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hệ thống quan
trắc tự động phải bảo đảm yêu cầu kỹ thuật kết nối để truyền dữ liệu tự động,
liên tục về Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương;
Tại Điều 9 về quản lý nước thải KCN yêu cầu việc vận hành nhà máy
xử lý nước thải tập trung phải có thiết bị đo lưu lượng đầu vào, thiệt bị quan
trắc tự dộng duy trì hoạt động 24/24 giờ và truyền dữ liệu tự động, liên tục về
Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương;
Tại Điều 15 về trách nhiệm của chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ
tầng KCN yêu cầu bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường đáp ứng điều
kiện phải tổng hợp, báo cáo kết quả quan trắc môi trường và công tác bảo vệ
môi trường KCN, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong KCN gửi Ban
quản lý các khu kinh tế, KCN, Sở Tài nguyên và môi trường trước ngày 31/12
hàng năm. Báo cáo gồm các nội dung: đơn vị thực hiện quan trắc; đánh giá
kết quả quan trắc nước thải tự động (báo cáo hàng quý) đối chiếu với quy
chuẩn kỹ thuật môi trường hiện hành; đánh giá kết quả quan trắc theo từng
đợt lấy mẫu nước mặt, nước thải, nước ngầm,… so với tiêu chuẩn, quy chuẩn
hiện hành; lập biểu đồ và đánh giá diễn biến kết quả quan trắc theo từng đợt,
từng năm, theo các thông số quan trắc đối với từng thành phần môi trường.
53
Tại Điều 16 quy định trách nhiệm của chủ dự án và chủ cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ trong KCN phải thực hiện chương trình quan trắc môi
trường, báo cáo theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả quan trắc
cho chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN.
Tuy nhiên, những quy định về quan trắc môi trường KCN tại Thông tư
này chưa tập trung vào một số điều luật cụ thể. Tổng hợp các quy định tại
Thông tư, chúng ta có thể nhận thấy, vấn đề quan trắc môi trường KCN tập
trung vào một số nội dung cơ bản sau: hệ thống cơ sở vật chất quan trắc môi
trường KCN gồm: hệ thống quan trắc toàn KCN; hệ thống quan trắc môi
trường của từng cơ sở sản xuất, kinh doanh; chủ thể có nghĩa vụ quan trắc và
báo cáo tình hình quan trắc môi trường thuộc về cơ sở sản xuất kinh doanh;
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm quản lý vấn đề quan
trắc môi trường KCN của các cơ sở sản xuất, kinh doanh; báo cáo kết quả
quan trắc môi trường KCN phải tuân thủ theo mẫu chung;…
2.4.2. Việc thực thi pháp luật về quan trắc môi trường ở Việt Nam
Theo Báo cáo của Chính phủ về công tác bảo vệ môi trường năm 2018
thực hiện Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia
giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030 [27], trong năm, Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã triển khai Đề án quan trắc môi trường quốc gia đối với
không khí và nước giai đoạn 2018-2020, tầm nhìn đến năm 2030; tiếp tục
theo dõi và đánh giá hoạt động qua trắc của các Trung tâm, trạm quan trắc
môi trường trên phạm vi cả nước; tiếp tục duy trì 09 chương trình quan trắc
môi trường tại các lưu vực sông, nước mặt; 03 chương trình quan trắc môi
trường tại các vùng kinh tế trọng điểm; 02 chương trình quan trắc tự động
(Bao gồm: Quan mắc môi trường lưu vực sông Cầu; Nhuệ - Đáy; Mã; Hồng –
Thái Bình; Đà; Cả La; sông Trà Trúc; hệ thống sông Đồng Nai; nước mặt
vùng Tây Nam Bộ; Vu Gia – Thu Bồn; quan trắc tại vùng kinh tế trọng điểm
54
phía Bắc, Trung, Nam; quan trắc tại khu vực khai thác bauxite, tác động của
hoạt động thủy điện tại vùng Tây Nguyên).
Sau sự cố môi trường biển miền Trung, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
phối hợp với UBND 04 tỉnh miền Trung triển khai thực hiện dự án “Xây dựng
hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường 04 tỉnh miền Trung” [28]; triển khai
chương trình quan trắc và chất lượng môi trường biển tại 04 tỉnh: Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế trong 02 năm 2018-2019; xem xét
việc đầu tư, xây dựng thêm một số trạm quan trắc nước biển và không khí tự
động, liên tục tại 04 tỉnh nêu trên. Thủ tướng Chính phủ đã phê, chỉ đạo Bộ
Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện dự án “Điều tra, đánh giá, phân
loại và xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải” [29].
Các địa phương đã tăng cường, buộc các cơ sở có quy mô xả thải lớn
lắp đặt ngay các thiết bị quan trắc, giám sát liên tục, tự động hoạt động xả thải
theo quy định của pháp luật và truyền số liệu trực tiếp về Sở Tài nguyên và
Môi trường. Một số địa phương đã mở rộng đối tượng phải lắp đặt thiết bị quan trắc, tự động: tỉnh Hưng Yên yêu cầu cơ sở có lưu lượng 100 m3/ ngày
đêm phải lắp đặt thiết bị; tại các địa phương (Bình Định, Nam Định, Đồng
Tháp, Hậu Giang, Lào Cai, Vĩnh Phúc) đã bố trí nguồn kinh phí để xây dựng,
lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường nước mặt tự động trên các lưu vực sông
và hệ thống phần mềm, hạ tầng tiếp nhận số liệu quan trắc môi trường tự động
gửi về Sở Tài nguyên và Môi trường; một số địa phương (Hậu Giang, Lào
Cai, Vĩnh Phúc,..) đã xây dựng và ban hành quy định hoặc văn bản hướng dẫn
về yêu cầu kỹ thuật, kết nối dữ liệu hệ thống quan trắc và hoạt động kiểm tra,
giám sát các cơ sở thuộc đối tượng phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động,
liên tục theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đến nay, nhiều
KCN đã hoàn thành việc lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động như:
Khai Quang, Bình Xuyên II (Vĩnh Phúc); Nam Sách, Phúc Điền, Tân Trường
(Hải Dương); Điện Nam - Điện Ngọc, Bắc Chu Lai (Quảng Nam).
55
2.5. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm pháp luật tại các KCN
2.5.1. Các quy định pháp luật hiện hành về thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN
Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người thể hiện dưới
dạng hành động hoặc không hành động, có lỗi do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ. Vi phạm pháp luật bao gồm 04 loại như sau:
Một là vi phạm hình sự (tội phạm): là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm hại chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa;
Hai là vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị sử phạt hành chính;
Ba là vi phạm dân sự: là hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới các quan
hệ tài sản, quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản
Bốn là vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái với các quy tắc kỷ luật lao
động, học tập, công vụ nhà nước,.. trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học,
trong các ngành và lĩnh vực quản lý nhà nước được Bộ Luật lao động, Luật
hành chính và các văn bản nội bộ của từng đơn vị quy định.
Xử lý vi phạm pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, căn cứ vào những quy định của pháp luật ra các quyết định áp dụng
các hậu quả bất lợi đối với chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
56
Tương ứng với bốn loại vi phạm pháp luật, khoa học pháp lý cũng phân chia
xử lý vi phạm pháp luật thành 04 loại: xử lý hình sự, xử lý dân sự; xử lý hành
chính; xử lý kỷ luật nhà nước.
Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN là
một dạng cụ thể của xử lý vi phạm pháp luật cũng bao gồm 04 loại xử lý vi
phạm pháp luật.
2.5.2. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam
Xử lý hình sự
Trong thực tế, thời gian qua, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường
ở nước ta ngày càng phổ biến và có chiều hướng gia tăng trên nhiều lĩnh vực,
xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân. Tội phạm về lĩnh vực môi
trường tại khu công nghiệp có nhiều diễn biến phức tạp với chủ trương mở
cửa và thu hút đầu tư nước ngoài, cùng với hệ thống pháp luật còn nhiều “kẽ
hở” mà nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước chỉ chú trọng đầu tư các phương
án sản xuất kinh doanh mà chưa chú trọng xây dựng hệ thống xử lý chất thải
hoặc có nhưng cố tình dùng thủ đoạn khác làm cho cơ quan quản lý khó phát
hiện để xả thải ra môi trường điển hình và vụ Công ty Vedan xả xả nước thải
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên với lượng nước thải từ 50m³/ngày
đến dưới 5.000m³/ngày ra sông Thị Vải năm 2008.
Theo quy định của Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
quy định tội phạm môi trường gồm: tội gây ô nhiễm không khí; tội gây ô
nhiễm nguồn nước; tội gây ô nhiễm đất; tội nhập khẩu máy móc, thiết bị, phế
thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường;… Vi phạm về môi
trường trong thời gian qua rất nhiều nhưng xử lý hình sự thì còn ít, theo Bộ
Luật hình sự 1999 quy định doanh nghiệp bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng về môi trường nên
57
trong thực tế các cơ quan chức năng rất khó xác định mức độ của hành vi vi
phạm vì nó mang tính định tính nên khó truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn về
chủ thể truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ truy cứu với cá nhân. Từ những bất
cập trên, xuất phát từ thực tế nhiều pháp nhân, doanh nghiệp vi phạm về hành
vi môi trường nhưng do Bộ Luật hình sự chưa quy định nên việc xử lý trách
nhiệm hình sự gặp nhiều khó khăn. Do vậy lần đầu tiên trong nền lập pháp
của nước ta quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại
Bộ Luật hình sự 2015.
Theo Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 12 Điều từ
Điều 235 đến Điều 246 quy định về các tội phạm liên quan đến môi trường
nói chung và môi trường KCN nói riêng gồm: tội gây ô nhiễm môi trường; tội
vi phạm quy định về chất thải nguy hại; tội vi phạm quy định về phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt
Nam;.. Căn cứ vào quy định của Bộ Luật hình sự 2015 cho thấy tội phạm về
môi trường không có tội phạm được phân loại là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, trong khi hậu quả của tội phạm này gây ra cho môi trường là rất lớn.
Ngoài ra, hình phạt chính của tội phạm môi trường là phạt tiền chứ không phải
là phạt tù. Mặt khác đối với pháp nhân thương mại chỉ bị áp dụng hình phạt
tiền. Bên cạnh đó, Bộ Luật hình sự 2015 quy định liên quan đến tội phạm môi
trường về hình phạt đối với pháp nhân quy định pháp nhân thương mại phạm
tội quy định tại Điều 79 của Bộ Luật thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Như
vậy, việc các cơ quan chức năng khi xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân
sẽ căn cứ vào mức độ, tính chất nghiêm trọng của hình vi của các cá nhân
thuộc pháp nhân để quyết định.
Điển hình là vụ Công an tỉnh Hà Tĩnh ngày 02/8/2016 đã quyết định
khởi tố vụ án hình sự về việc vi phạm quy định về quản quản lý chất thải
nguy hại xảy ra tại địa bàn TX Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Công ty Formosa là đối
58
tượng điều tra trong vụ án. Kết quả xác minh, giữa Công ty Môi trường đô thị
Kỳ Anh (MTKA) và Cty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh có
hợp đồng vận chuyển xử lý bùn bánh từ xưởng xử lý nước thải sinh hoạt và
công nghiệp của Formosa. Theo đó, bên B sẽ vận chuyển chất thải đến khu
vực xử lý được Sở TN&MT Hà Tĩnh cấp phép hoạt động. Bên A sẽ cùng bên
B đến hiện trường kiểm tra phương thức và địa điểm xử lý. Cơ quan điều tra
đã làm rõ, đến ngày 11/7/2016, Công ty Formosa Hà Tĩnh đã chuyển giao cho
Công ty MTKA tổng khối lượng bùn thải là 276,190 tấn (gồm 185,9 tấn bùn
thải công nghiệp và 90,24 tán bùn thải sinh hoạt).Trong khi theo quy định của
pháp luật thì công nghệ và quy hoạch mặt bàng khu vực xử lý chất thải của
Cty MTKA chỉ được phép xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải hầm cầu.
Xử lý dân sự
Theo khoản 2 Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định về quyền được bồi
thường thiệt hại (BTTH) như sau: Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Cụ thể
hóa Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã quy định về
quyền yêu cầu BTTH, theo đó, “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài
sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản BTTH” (Điều 170). Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân
sự, chủ thể được bồi thường trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; tổ chức, cá nhân bị thiệt hại
về tài sản thuộc sở hữu của mình do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Xử lý dân sự là việc xác định những thiệt hại xảy ra đối với tính mạng,
sức khỏe, tài sản của cá nhân tổ chức và chủ thể gây ra thiệt hại đó phải có
nghĩa vụ bồi thường. BTTH do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra trong
trường hợp xuất hiện thiệt hại là tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản, việc xác
định chủ thể được bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung nêu trên. Tuy
nhiên, ô nhiễm môi trường không chỉ gây thiệt hại cho một người hay một số
59
người mà thường gây thiệt hại đến môi trường chung. Ở Việt Nam, theo quy
định tại Hiến pháp 2013, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Là người đại
diện chủ sở hữu đối với các thành phần môi trường cơ bản nhưng Nhà nước
không trực tiếp sử dụng các thành phần môi trường, các nguồn tài nguyên
thiên nhiên này mà chuyển giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng.
Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gồm: suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường; thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người,
tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra
Nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi
trường được quy định như sau:
Một là ô nhiễm môi trường và hậu quả do ô nhiễm môi trường phải
được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, điều tra và kết
luận kịp thời;
Hai là hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường của tổ chức, cá nhân
phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật;
Ba là nguyên tắc xác định trách nhiệm cá nhân được quy định như sau:
người đứng đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan đến hoạt động của tổ chức
mình; tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm
khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra; trường
hợp cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường do thực hiện nhiệm vụ được
tổ chức giao thì tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
Quy định của pháp luật về chủ thể được bồi thường thiệt hại do hành vi
60
làm ô nhiễm môi trường. Người được bồi thường là người bị thiệt hại hoặc
thân nhân của người bị thiệt hại, được xác định theo từng trường hợp cụ thể
sau đây: Nếu thiệt hại xảy ra do tài sản bị xâm hại thì người được bồi thường
là người có tài sản bị thiệt hại; nếu thiệt hại xảy ra do sức khỏe bị xâm phạm
thì người được bồi thường là bản thân nạn nhân, người đã bỏ ra các khoản chi
phí để chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân; nếu thiệt hại xảy ra do tính
mạng bị xâm phạm thì người được bồi thường là người đã bỏ ra các khoản chi
phí để điều trị trước khi nạn nhân chết, các khoản mai táng phí, thân nhân của
nạn nhân được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần và tiền cấp
dưỡng nếu họ là người mà nạn nhân có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống.
Qua quá trình nghiên cứu, theo dõi diễn biến một số vụ việc liên quan tới
hành vi xâm phạm môi trường của Công ty TNHH Vedan; Công ty TNHH San
Miguel Pure Foods Việt Nam; vụ AB Mauri có thể nhận thấy, người được bồi
thường ở đây chính là người nông dân nhưng thực tế khả năng tiến hành một
vụ kiện mang tính tập thể. Luật hiện hành không ghi nhận loại kiện này, mà chỉ
thừa nhận quyền kiện cáo theo luật chung về trách nhiệm dân sự. Cũng theo
luật chung, mỗi nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại của riêng mình để được
bồi thường trực tiếp, độc lập với yêu cầu bồi thường của nguyên đơn khác. Nhà
nước cam kết ủng hộ người bị thiệt hại trong việc thiết lập căn cứ pháp lý
khách quan cho yêu cầu bồi thường của họ. Trong khi đó, việc điều tra, giám
định để xác định mối liên hệ nguyên nhân - hệ quả giữa hành vi xả chất thải và
thiệt hại được ghi nhận là công tác kỹ thuật không hề đơn giản và rất tốn kém.
Theo quy định tại Điều 584, Điều 602 Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều
4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại có trách nhiệm khắc phục,
BTTH và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Như vậy,
các quy định trên đều xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH do hành
61
vi làm ô nhiễm môi trường là các tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác có
hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường.
Một vấn đề được đặt ra là cần phân biệt người được bồi thường với
người có quyền yêu cầu bồi thường. Về mặt lý thuyết, người được bồi thường
đương nhiên là người có quyền yêu cầu BTTH. Trong thực tiễn, người có
quyền yêu cầu BTTH có thể chia làm hai loại sau:
Thứ nhất, người có quyền yêu cầu BTTH về suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường.
Theo quy định tại Hiến pháp 2013, hầu hết các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, các thành phần môi trường như đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời... đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý hoặc
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Theo quy định tại Điều 198 BLDS năm 2015 quy định việc thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. 2. Chính phủ
thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm
tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Khoản 4 Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: "Cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật". Do
đó, về mặt nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu nói chung (Điều 164 Bộ Luật Dân
sự năm 2015), Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật gây ô nhiễm môi
trường làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường BTTH.
62
Thứ hai, chủ thể có quyền yêu cầu BTTH về tính mạng, sức khoẻ, tài
sản và lợi ích hợp pháp.
Theo quy định tại Điều 169 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định quyền
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp
luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”; nếu
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu gây thiệt hại thì “Chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại” (Điều 170
Bộ Luật Dân sự năm 2015).
Như vậy, đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi
ích hợp pháp do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra thì chủ thể có có
quyền đòi bồi thường là tổ chức, cá nhân bị thiệt hại.
Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và
các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Theo các quy định trên, Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu về chức
năng, tính hữu ích của môi trường là một lợi ích công cộng mà người đảm bảo
cho lợi ích này cũng là Nhà nước. Như vậy, chủ thể có quyền đòi bồi thường
trong trường hợp này là Nhà nước. Đối với quyền đòi BTTH của Nhà nước, theo
quy định tại Điều 56 khoản 2 Bộ Luật tố tụng dân sự, cơ quan, tổ chức do Bộ
luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Theo đó, cơ quan
được giao quản lý nhà nước về môi trường theo quy định tại Điều 141, 143 Luật
bảo vệ môi trường 2014 sẽ đại diện cho Nhà nước đòi BTTH về môi trường.
63
Theo Điều 3 khoản 2 Nghị định số 03/2015/NĐ-CP ngày 06/01/2015
quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường, trách nhiệm yêu cầu BTTH
được quy định như sau:
UBND cấp xã có trách nhiệm yêu cầu BTTH đối với môi trường do ô
nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình; UBND
cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu BTTH đối với môi trường do ô nhiễm, suy
thoái gây ra trên địa bàn từ hai xã, thị trấn, thị tứ trở lên; UBND cấp tỉnh có
trách nhiệm yêu cầu BTTH đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra
trên địa bàn từ hai huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên; Bộ Tài
nguyên và Môi trường có trách nhiệm yêu cầu BTTH đối với môi trường do ô
nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trở lên. Như vậy, các cơ quan nhà nước nêu trên có nghĩa vụ trước chủ
sở hữu toàn dân đối với các nguồn tài nguyên, các thành phần môi trường
trong việc đòi bồi thường loại thiệt hại “suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường”. Đây là mối quan hệ đại điện theo quy định của pháp luật.
Xử lý kỷ luật nhà nước
Xử lý vi phạm kỷ luật nhà nước áp dụng đối với cán bộ, công chức,
viên chức quản lý, bảo vệ môi trường tại KCN. Những vẫn đề này được quy
định trong Luật Công chức, viên chức. Gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là chủ thể bị xử lý là cán bộ, công chức, viên chức quản lý và bảo
vệ môi trường KCN;
Hai là hình thức xử lý gồm: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; buộc
thôi việc (áp dụng đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý);
khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức; buộc thôi việc
(áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc sử dụng công cụ xử lý kỷ luật nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chưa hiệu quả. Có thể khẳng định để
64
xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường KCN lỗi một phần không nhỏ thuộc về
công tác quản lý của chủ thể có thẩm quyền. Thậm chí, trong nhiều trường
hợp, vì lợi ích cá nhân, chủ thể có thẩm quyền bao che cho các hành vi vi
phạm. Vì thế, để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường KCN cần tăng
cường trách nhiệm của chủ thể quản lý. Các biện pháp xử lý kỷ luật nhà nước
phải đủ mạnh để bảo đảm chủ thể quản lý nhà nước phải nâng cao trình độ
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp trong công tác quản lý môi trường KCN.
Liên quan đến sự cố môi trường biển tại 04 tỉnh miền Trung, ngày
15/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thi hành kỷ luật 4 cá nhân
nguyên là lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND tỉnh Hà Tĩnh do đã
có những vi phạm liên quan đến Dự án Formosa Hà Tĩnh gây ra sự cố môi trường
rất nghiêm trọng tại 4 tỉnh miền Trung: thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo
đối với ông Nguyễn Minh Quang, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường nhiệm kỳ 2011 - 2016; thi hành kỷ luật bằng hình thức xóa tư cách nguyên
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2011- 2015 đối với ông
Nguyễn Thái Lai và ông Bùi Cách Tuyến; thi hành kỷ luật bằng hình thức xóa tư
cách nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2005 – 2010, nguyên
Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2010 - 2015 đối với ông Võ Kim Cự.
Xử lý vi phạm hành chính
Theo khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Xử
phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực
hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính.
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường hiện nay được quy định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày
18/11/2016. Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
65
trường tại KCN là một bộ phận của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể hiểu pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN là hệ thống các quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và
bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt các chủ thể có hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại KCN.
Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường quy
định tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 bao gồm:
Một là các hành vi vi phạm các quy định về kế hoạch bảo vệ môi
trường, đánh giá tác động môi trường và đề án bảo vệ môi trường;
Hai là các hành vi gây ô nhiễm môi trường;
Ba là các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải;
Bốn là các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường của cơ sở
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ và khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, cụm công nghiệp, khu kinh doanh dịch vụ tập trung;
Năm là các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong
hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế liệu, chế phẩm sinh học; nhập khẩu, phá
dỡ tàu biển đã qua sử dụng; hoạt động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản;
Sáu là các hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phòng, chống,
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường;
Bảy là các hành vi vi phạm hành chính về đa dạng sinh học bao gồm:
Bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn và phát triển bền
vững các loài sinh vật và bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền;
Tám là các hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm
tra, xử phạt vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm quy định khác về bảo
vệ môi trường.
66
Các biện pháp xử lý:
Một là biện pháp xử phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền tối đa đối với một
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000
đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức;
Hai là hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng có thời hạn đối
với các loại giấy phép, giấy chứng nhận, giấy xác nhận liên quan đến hành vi
vi phạm hành chính; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
Ba là ngoài các hình thức xử phạt quy định trên, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn có thể bị áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả.
Tại khoản 4, Điều 12, Nghị định 155/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm
quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh doanh hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao bị xử phạt như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi
không báo cáo kết quả thực hiện công tác bảo vệ môi trường theo quy định;
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi
không có bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường đáp ứng điều kiện theo
quy định; không có người quản lý vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung
theo quy định;
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi
không đảm bảo diện tích cây xanh tối thiểu trong phạm vi khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao; thực hiện không đúng quy hoạch các khu chức
năng trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao theo quy định;
- Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi ghi
chép nhật ký vận hành không đầy đủ một trong các nội dung: Lượng nước
thải, lượng điện tiêu thụ, hóa chất sử dụng, lượng bùn thải;
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với hành vi
67
không có nhật ký vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung; không có kế
hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường theo quy định;
- Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi
không có thiết bị đo lưu lượng nước thải đầu vào tại nhà máy xử lý nước thải
tập trung theo quy định; không bố trí công tơ điện độc lập tại nhà máy xử lý
nước thải tập trung của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao;
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi
không thực hiện đấu nối hoặc đấu nối không triệt để nước thải từ các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao theo quy định; không kiểm
soát dẫn đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xả nước thải vào hệ
thống thoát nước mưa của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao;
- Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với hành vi
không có hệ thống thu gom nước mưa và nước thải riêng biệt theo quy định;
- Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng đối với hành vi
xây lắp hệ thống xử lý nước thải tập trung không đúng quy định hoặc không
đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định;
- Phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng đối với hành vi
không có hệ thống xử lý nước thải tập trung theo quy định.
2.5.3. Thực trạng quy định pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường
KCN ở Việt Nam
Theo Báo cáo của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội [36] trong giai đoạn 2016-2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ
chức thanh tra, kiểm tra tại 1.354 cơ sở và KCN, xử phạt vi phạm hành chính
với số tiền trên 120 tỷ đồng. tiếp nhận, xử lý 48 hồ sơ khiếu nại, tố cáo và 665
báo cáo giải trình việc khắc phục hậu quả vi phạm, năm 2018 thực hiện thanh
tra, kiểm tra đối với 313 cơ sở; kịp thời chỉ đạo xử lý các vụ việc, điểm nóng
68
về môi trường; giám sát quá trình vận hành thử nghiệm các công trình xử lý
chất thải của các dự án lớn tiềm ẩn nguy cơ gây ONMT cao. Đặc biệt, trong
năm 2016, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, kịp thời việc điều tra, xác định
nguyên nhân, thủ phạm, có giải pháp khắc phục, xử lý sự cố môi trường gây
hải sản chết bất thường tại các tỉnh ven biển miền Trung, doanh nghiệp gây sự
cố đã hoàn thành bồi thường 500 triệu USD.
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP đã bổ sung những hành vi vi phạm theo
quy định tại các thông tư, nghị định, quyết định và văn bản pháp luật khác của
cơ quan quản lý nhà nước như vi phạm các quy định về thực hiện kế hoạch
bảo vệ môi trường (BVMT); vi phạm quy định về BVMT trong hoạt động
kinh doanh hạ tầng khu kinh doanh, dịch vụ tập trung, KCN, KCX, KCNC,
CCN; vi phạm quy định về BVMT trong hoạt động nuôi trồng thủy sản; vi
phạm các quy định về BVMT đất; vi phạm quy định về BVMT đối với hóa
chất, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú ý; vi phạm quy định về bảo hiểm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, một số hành vi vi phạm hành chính
trước đây không xử lý được do không có chế tài xử phạt, hoặc chưa quy định
rõ đã được cụ thể hóa trong Nghị định như hành vi liên quan đến hoạt động
vận hành thử nghiệm của dự án; hành vi thực hiện không đúng một trong các
nội dung của đề án BVMT đã được xác nhận; hành vi không thông báo bằng
văn bản đến tổ chức tham vấn, hoặc cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM về kế
hoạch vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải phục vụ giai đoạn vận
hành trước khi vận hành thử nghiệm ít nhất 10 ngày kể từ ngày tổ chức, cơ
quan có thẩm quyền nhận được văn bản thông báo; hành vi không báo cáo kịp
thời cho cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM và cơ quan chuyên môn về BVMT
cấp tỉnh để hướng dẫn giải quyết ÔNMT, sự cố môi trường trong quá trình
vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải theo quy định; hành vi không
dừng ngay hoạt động vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải, không
tổ chức khắc phục ÔNMT và bồi thường thiệt hại...
69
Nhằm tăng hiệu lực xử lý, có tính răn đe cao đối với những hành vi gây
ÔNMT nghiêm trọng của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, Nghị
định số 155/2016/NĐ-CP nêu rõ, các đối tượng là hộ gia đình, hộ kinh doanh
cá thể vi phạm các quy định của Nghị định sẽ bị xử phạt như đối với cá nhân
vi phạm. Các cá nhân, tổ chức có hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT bị áp
dụng các hình thức xử phạt như cảnh cáo; phạt tiền tối đa đối với một hành vi
VPHC về BVMT là 1 tỷ đồng với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức; bị
tước quyền sử dụng có thời hạn đối với Giấy phép xử lý CTNH; Giấy phép xả
khí thải công nghiệp; Giấy xác nhận đủ điều kiện về BVMT trong nhập khẩu
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; Giấy phép vận chuyển hàng nguy hiểm là
các chất độc hại, chất lây nhiễm; Giấy chứng nhận đăng ký lưu hành chế
phẩm sinh học trong xử lý chất thải tại Việt Nam…; hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn theo quy định tại khoản 2, Điều 25 Luật Xử lý VPHC từ 1 tháng -
24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt VPHC có hiệu lực thi hành…
Ngoài ra, đối với từng hành vi vi phạm, Nghị định cũng quy định rõ
mức phạt: Đối với hành vi vi phạm các quy định về thực hiện kế hoạch
BVMT thuộc thẩm quyền xác nhận của UBND cấp huyện, phòng đăng ký
kinh doanh cấp huyện và Sở Tài nguyên và Môi trường, bị phạt cảnh cáo,
hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng - 10.000.000 đồng khi thực hiện không đúng
một trong các nội dung kế hoạch BVMT đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác nhận; Đối với hành vi vi phạm các quy định về thực hiện báo cáo
ĐTM thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp tỉnh, Bộ Tài nguyên và
Môi trường, cơ quan ngang Bộ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng - 40.000.000
đồng khi thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo ĐTM và các
yêu cầu trong quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM, hoặc Giấy xác nhận hoàn
thành công trình BVMT phục vụ giai đoạn vận hành theo quy định; bị phạt
tiền từ 140.000.000 đồng - 160.000.000 đồng khi không có Giấy xác nhận
70
hoàn thành công trình BVMT phục vụ giai đoạn vận hành…; Đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có quy mô, công suất tương đương với
trường hợp phải lập báo cáo ĐTM trình Bộ Tài nguyên và Môi trường phê
duyệt bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng - 100.000.000 đồng khi không thực hiện
khắc phục ÔNMT, từ 50.000.000 đồng - 100.000.000 đồng đối với hành vi
không có hệ thống thu gom nước thải riêng biệt với hệ thống thoát nước mưa,
không có đủ phương tiện, thiết bị thu gom, lưu giữ, phân loại CTR tại nguồn,
để phát tán khí độc hại ra môi trường, không hạn chế tiếng ồn, độ rung, phát
sáng, phát nhiệt gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường và người lao động;…
Để đảm bảo công bằng trong quá trình xử phạt, Nghị định còn đưa ra
những quy định mang tính định lượng chi tiết đối với các hành vi vi phạm về
xả nước thải, thải bụi, khí thải gây ÔNMT. Trong đó, bổ sung các mức phạt
tăng thêm đối với các thông số môi trường thông thường và nguy hại tương
ứng, đồng thời phân chia lại ngưỡng vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
thải. Cụ thể, đối với các hành vi xả nước thải, thải bụi, khí thải vượt quy
chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 1,1 lần đến dưới 1,5 lần, hoặc xả nước thải, thải
bụi, khí thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải dưới 1,1 lần trong trường
hợp tái phạm, vi phạm nhiều lần bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng - 400.000.000
đồng tùy vào lượng nước thải, từ 10.000.000 đồng - 850.000.000 đồng tùy
vào lưu lượng khí thải; Hành vi xả nước thải, thải bụi, khí thải vượt quy chuẩn
kỹ thuật về chất thải từ 1,5 lần đến dưới 2 lần bị phạt từ 3.000.000 đồng -
750.000.000 đồng tùy vào lượng nước thải, từ 5.000.000 đồng - 800.000 đồng
tùy vào lưu lượng khí thải...
Riêng hành vi gây ÔNMT kéo dài, lặp lại nhiều lần mà không khắc
phục được (trước đây đã bị xử phạt VPHC về hành vi xả nước thải, khí thải,
gây tiếng ồn, độ rung vượt quy chuẩn môi trường) thì bị phạt tiền từ
130.000.000 đồng - 150.000.000 đồng. Nếu trong nước thải, bụi, khí thải có
71
cả các thông số môi trường nguy hại, vi khuẩn, hoặc giá trị pH ngoài ngưỡng
quy chuẩn kỹ thuật thì chọn thông số tương ứng với hành vi vi phạm có mức
phạt tiền cao nhất của mẫu nước thải, hoặc bụi, khí thải để xử phạt. Các thông
số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật còn lại của cùng mẫu chất thải đó sẽ bị
phạt tăng thêm từ 10% - 50% mức phạt tiền cao nhất của hành vi vi phạm đối
với mỗi thông số, tăng so với quy định cũ tại Nghị định số 179/2013/NĐ-CP
từ 1% - 4%… Mức phạt tiền đối với hành vi VPHC quy định trên là mức phạt
tiền quy định đối với hành vi VPHC của cá nhân, mức phạt tiền đối với hành
vi VPHC của tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền với cùng hành vi VPHC của cá
nhân. Ngoài các mức phạt trên, các cá nhân và tổ chức vi phạm còn phải thực
hiện các biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng.
Về phân định thẩm quyền xử phạt, Nghị định cũng kế thừa những ưu
điểm của Nghị định số 179/2013/NĐ-CP, nhưng quy định chi tiết hơn, nhằm
tạo thuận lợi cho các bên liên quan trong quá trình xử phạt, đảm bảo các chức
danh được xử phạt theo đúng thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung quy định mới tại Điều 53 về trách nhiệm
và cơ chế phối hợp trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử phạt VPHC trong
lĩnh vực BVMT, tránh chồng chéo trong quá trình thanh tra doanh nghiệp.
Trước những đòi hỏi cấp bách của việc bảo vệ môi trường nói chung, môi
trường tại các KCN nói riêng, Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016
(Nghị định 155) đã khắc phục một số hạn chế, bất cập của Nghị định số
179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 (Nghị định 179) của Chính phủ, giúp nâng
cao hiệu quả xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Nghị
định 155 đã bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho lực lượng
công an, mà trước đó Nghị định 179 không quy định, như: Hành vi vi phạm
các quy định về thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), đề
án bảo vệ môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường; hành vi vi phạm các quy
định về bảo vệ môi trường đối với chủ nguồn thải chất thải nguy hại, hoạt
72
động vận chuyển chất thải nguy hại, xử lý chất thải nguy hại trong nhập khẩu
phế liệu; hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động
nhập khẩu, sản xuất chế phẩm sinh học; vi phạm quy định trong nộp phí bảo vệ
môi trường, ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường… Ngoài ra, so với Nghị định
179, Nghị định 155 đã bỏ quy định hạn chế thẩm quyền của lực lượng cảnh sát
môi trường trong thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, điều tra, kiểm tra như quy
định tại Luật Công an nhân dân và Pháp lệnh Cảnh sát môi trường.
Có thể nói Nghị định 155/NĐ-CP đã và đang tạo điều kiện thuận lợi
cho lực lượng cảnh sát môi trường trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội
phạm về môi trường. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai nhiệm vụ, Cục Cảnh
sát phòng, chống tội phạm về môi trường cho biết, vẫn còn một số bất cập. Cụ
thể, lực lượng cảnh sát môi trường không được xử phạt vi phạm hành chính
đối với trường hợp vi phạm các quy định về thực hiện ĐTM, mà vấn đề này
thuộc thẩm quyền phê duyệt ĐTM của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Mặt
khác, quy định đoàn kiểm tra do lực lượng công an chủ trì phải có sự tham gia
của cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường các cấp (điểm d, khoản 3,
Điều 53), nhưng lại không quy định cụ thể cơ quan chuyên môn về bảo vệ
môi trường các cấp là những cơ quan nào, khiến cơ quan chức năng lúng túng
trong triển khai kế hoạch kiểm tra, giám sát, dễ tạo ra kẽ hở để doanh nghiệp
buông lỏng hoặc trốn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường.
2.6. Đánh giá pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng tại khu công
nghiệp và thực tiễn thi hành tại Việt Nam
2.6.1. Kết quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường tại KCN
Hệ thống các quy định về kiểm soát xả thải của doanh nghiệp kể từ khi
ban hành Luật môi trường 2014 đến nay có 02 Luật, pháp lệnh, 10 Nghị định,
01 Chỉ thị, 04 Thông tư, 07 quy chuẩn (Phụ lục III: Danh mục các văn bản
73
quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường KCN, CSONC theo Báo
cáo số 4012/BTNMT-TCMT ngày 27/7/2018 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường) và 02 quy trình kiểm soát gồm quy trình kiểm soát trong và ngoài
hàng rào của cơ sở sản xuất; trong hàng rào có 10 bước kiểm tra, giám sát;
ngoài hàng rào có 06 hoạt động kiểm soát và nhiều văn bản có hướng dẫn liên
quan (Phụ lục III: Hệ thống quy định pháp luật liên quan đến kiểm soát xả
thải của doanh nghiệp và quy trình kiểm soát xả thải trong và ngoài hàng rào
của doanh nghiệp theo vòng đời).
Quy định cụ thể về bảo vệ môi trường KCN triển khai quy định tại
Điều 66, Điều 67 Luật bảo vệ môi trường 2014 và các Nghị định có liên quan,
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT
ngày 30/6/2015 về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu chế xuất, khu công
nghệ cao trong. Một số nội dung mới được đưa vào Thông tư đã góp phần
tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại KCN, nâng
cao trách nhiệm của các bên liên quan gồm có: Ban quản lý KCN; các đơn vị
xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN và các cơ sở hoạt động trong khu kinh
tế, KCN. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành quy định
cụ thể về bảo vệ môi trường với các cơ sở ô nhiễm cao: Thông tư số
31/2016/TT-BTNMT về bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh
dịch vụ tập trung, làng nghề và các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ; Thông
tư số 24/2017/TT-BTNMT quy định về hoạt động quan trắc môi trường. Ngày
26/01/2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án “Điều tra, đánh giá,
phân loại và xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải” [29]. Việc thực hiện dự án
sẽ góp phần kiểm soát công tác bảo vệ môi trường từ nguồn thải có lưu lượng từ 5 m3/ngày đêm trở lên.
Đặc biệt ngày 13/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-
CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng
74
dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường có phạm vi điều chỉnh rất rộng. Với
phạm vi điều chỉnh 04 Nghị định liên quan đến công tác bảo vệ môi trường,
bao gồm: Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 Quy định về quy
hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi
trường; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 Quy định về quản lý
chất thải và phế liệu; Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 Quy
định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường. Nghị định
40/2019/NĐ-CP đã cắt giảm nhiều thủ tục hành chính không cần thiết, đơn
giản hóa điều kiện kinh doanh, quy định quản lý chặt chẽ hơn trong việc nhập
khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất từ nước ngoài vào Việt Nam và đối
tượng nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; bổ sung thêm nội dung
quy định số lượng và thời điểm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường...
Các báo cáo định kỳ của chủ dự án, cơ sở và khu công nghiệp về: quan trắc và
giám sát môi trường định kỳ, quan trắc tự động liên tục, quản lý chất thải rắn
sinh hoạt, quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường, quản lý chất thải
nguy hại, quản lý phế liệu nhập khẩu, kết quả giám sát và phục hồi môi
trường trong khai thác khoáng sản, hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường và
các báo cáo môi trường khác, được lồng ghép trong cùng một báo cáo công
tác bảo vệ môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang dự thảo Đề án kiểm soát đặc biệt
đối với cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao góp phần chủ động
phòng ngừa, hạn chế tối đa nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
sự cố môi trường trong tương lai; đồng thời thực hiện quyết tâm không chấp
nhận việc thu hút đầu tư để ảnh hưởng đến môi trường, không đánh đổi phát
triển kinh tế với hủy hoại môi trường mà Chính phủ đặt ra. Trong đó xác định
75
6 nhiệm vụ chủ yếu nhằm thực hiện kiểm soát đặc biệt đối với các dự án, cơ
sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao gồm [37]:
- Rà soát các dự án, cơ sở sản xuất thuộc các lĩnh vực sản xuất công
nghiệp gây ô nhiễm môi trường, xác định đối tượng và lập danh mục các dự
án, cơ sở sản xuất cần kiểm soát đặc biệt cấp Trung ương và cấp tỉnh;
- Rà soát báo cáo đánh giá tác động môi trường, các báo cáo đăng ký,
xác nhận, chứng nhận, giấy phép, chấp thuận điều chỉnh báo cáo đánh giá tác
động môi trường, kiểm tra, thanh tra và lập hồ sơ môi trường của từng dự án,
cơ sở sản xuất thuộc danh mục cần kiểm soát đặc biệt; đề xuất bổ sung, hoàn
thiện báo cáo đánh giá tác động môi trường nếu thấy cần thiết đối với các dự
án chưa triển khai trên thực tế;
- Rà soát, đánh giá nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và yêu cầu cải tiến,
đổi mới về công nghệ sản xuất; cải tiến công trình và biện pháp bảo vệ môi
trường; tăng cường năng lực phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; tăng
cường năng lực quản lý và giám sát môi trường; cập nhật, bổ sung, hoàn thiện
hồ sơ về môi trường của từng dự án, cơ sở sản xuất thuộc danh mục cần kiểm
soát đặc biệt;
- Xác lập chế độ giám sát đặc thù về môi trường; chế độ báo cáo, thanh
tra, kiểm tra đối với từng dự án, cơ sở sản xuất thuộc danh mục kiểm soát đặc
biệt; xây dựng và thực hiện chương trình giám sát về môi trường;
- Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu về các dự án, cơ sở sản xuất thuộc
danh mục cần kiểm soát đặc biệt trên phạm vi cả nước;
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật về
kiểm soát đặc biệt đối với dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường cao.
Danh mục các loại hình sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường:
Luyện gang, thép; Nhiệt điện; Khai thác, chế biến khoáng sản kim loại có sử
76
dụng hóa chất độc hại; Sản xuất giấy, bột giấy; Nhuộm (vải, sợi); Mạ; Chế
biến mủ cao su; Chế biến tinh bột sắn; Sản xuất xi măng; Sản xuất hóa chất,
thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học (trừ loại hình phối trộn); Lọc hóa
dầu; Thuộc da; Chế biến thủy sản; Chế biến mía đường; Sản xuất pin, ắc quy;
Xử lý chất thải.
2.6.2. Khó khăn, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Nhìn chung, từ thực tế cho thấy các quy định hiện hành về cơ bản đã
thuận lợi cho việc thực hiện; các biện pháp thực thi tương đối toàn diện; vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định khá cụ thể,..
Tuy nhiên trong thực tế nảy sinh một số vướng mắc sau:
Một, văn bản quy định về đánh giá sơ bộ tác động môi trường còn
chồng chéo, chưa thống nhất: Theo điều 34 Luật Đầu tư 2014, Điều 47 Luật
Đầu tư công quy định hồ sơ dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương
đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng quy định phải có đánh giá sơ bộ tác động môi
trường, các giải pháp bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Luật bảo vệ môi trường
2014 không có quy định về đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Tại khoản 2
Điều 25 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định: “Quyết định phê duyệt báo
cáo ĐTM là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ trường đầu tư của
dự án”. Do vậy, Thủ tướng đã giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan chuẩn bị Báo cáo về việc tháo
gỡ vướng mắc quy định pháp luật về thời điểm quyết định phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường của dự án đầu tư tại quy định của Luật Đầu tư,
Luật Đầu tư công và Luật Bảo vệ môi trường theo tờ trình số 42/CP-PL ngày
28/02/2018 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2264/VPCP-
PL ngày 12/3/2018 để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Hai, hiện nay chưa có biện pháp, công cụ sàng lọc dự án đầu tư theo
mức độ rủi ro về môi trường: theo Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 03/6/2013
77
của Ban Chấp hành Trung ương chỉ đạo thực hiện “Cơ chế quản lý về bảo vệ
môi trường theo từng loại hình và mức độ tác động đến môi trường đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh”. Nhưng đến nay, các quy định pháp luật về
bảo vệ môi trường chưa thể hiện rõ chủ trương này trong quá trình quản lý,
chưa xác định, phân loại, nắm chắc các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường cao, nhất là các dự án, cơ sở sản xuất lớn, có nguy cơ xảy ra ô
nhiễm, sự cố môi trường lớn, diễn ra trên diện rộng để có biện pháp xử lý phù
hợp. Do đó, cần bổ sung các quy định về sàng lọc dự án đầu tư, tăng cường
kiểm soát một số đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao để giải
quyết thực tiễn quản lý môi trường đang đặt ra bức thiết hiện nay.
Ba, thiếu các quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát chủ dự án đầu tư
xây dựng công trình xử lý chất thải và vận hành thử nghiệm: Tại khoản 4
Điều 16 của Nghị định số 18/2015/NĐ-CP quy định, chủ dự án có trách
nhiệm: “Thông báo bằng văn bản đến các tổ chức nơi tiến hành tham vấn, cơ
quan đã phê duyệt báo cáo ĐTM về kế hoạch vận hành thử nghiệm các công
trình xử lý chất thải phục vụ giai đoạn vận hành (từng giai đoạn hoặc toàn bộ
dự án) trước khi tiến hành vận hành thử nghiệm ít nhất 10 ngày làm việc….”.
Tuy nhiên, Nghị định số 18/2015/NĐ-CP chưa quy định rõ thời điểm vận
hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải; điều kiện để đưa các công trình
xử lý chất thải vào vận hành thử nghiệm; biện pháp xử lý khi vận hành thử
nghiệm không đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật môi trường; trách nhiệm của
cơ quan quản lý nhà nước về BVMT trong việc kiểm tra, giám sát vận hành
thử nghiệm. Hiện nay, chủ dự án chỉ cần thông báo cho cơ quan phê duyệt
báo cáo ĐTM và được tự vận hành thử nghiệm, tự chịu trách nhiệm về kết
quả vận hành thử nghiệm và rất khó phát hiện nếu xảy ra sự cố trong giai
đoạn này. Hiện nay, nội dung này đã được nêu tại Nghị định số 40/NĐ-CP
ngày 13/5/2019 của Chính phủ.
78
Quy định về kiểm tra, xác nhận hoàn thành các công trình BVMT của
dự án còn chung chung, chưa quy định thời điểm chủ dự án phải báo cáo hoàn
thành các công trình BVMT và không có cơ quan nào giám sát việc thực hiện
của chủ dự án (Khoản 6 Điều 16 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP). Điều 17
Nghị định số 18/2015/NĐ-CP chưa quy định rõ các công trình BVMT cần
phải kiểm tra, xác nhận và nội dung kiểm tra, xác nhận, nên việc tổ chức thực
hiện thiếu thống nhất, mỗi địa phương một cách khác nhau. Điều 27 Luật
BVMT quy định dự án chỉ được vận hành sau khi cơ quan phê duyệt báo cáo
ĐTM kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình BVMT, nhưng không giao
Chính phủ quy định chi tiết. Giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT của
dự án hiện nay đang được quy định tại Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT là
chưa phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Bốn, công tác quan trắc, giám sát quá trình hoạt động của các doanh
nghiệp trong KCN: thiếu cơ chế khuyến khích các cơ sở lắp đặt hệ thống quan
trắc tự động cụ thể là chưa có quy định việc miễn phải thực hiện quan trắc
định kỳ đối với các thông số đã quan trắc tự động; việc sử dụng số liệu, chia
sẻ số liệu và công khai số liệu quan trắc chưa được quy định cụ thể. Việc quan
trắc môi trường định kỳ của doanh nghiệp hiện nay đang được thực hiện theo
hướng ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ quan trắc. Nhưng
chất lượng quan trắc định kỳ chưa phản ánh đúng thực tế. Vì vậy, cần xây
dựng hình thức các doanh nghiệp nộp tiền để thực hiện quan trắc vào Quỹ bảo
vệ môi trường và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện theo
mô hình một số nước trên thế giới đang áp dụng. Quy định về quan trắc nước thải tự động đang áp dụng cho cá cơ sở xả thải từ 1.000m3/ngày đêm trở lên,
chưa siết chặt đối với các cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
cao như bột giấy, hóa chất,.. các cơ sở đã bị xử phạt vi phạm hành chính
nghiêm trọng hoặc liên tục, kéo dài.
79
Năm, thiếu quy định hoặc quy định chưa đầy đủ về việc sử dụng chung
hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN: Hiện nay đã có quy định cho phép
các KCN liền kề có thể sử dụng chung hệ thống xử lý nước thải tập trung
(HTXLNTTT) nhưng thiếu quy định về việc sử dụng chung HTXLNTTT của
KCN và doanh nghiệp trong KCN và giữa các doanh nghiệp với nhau khi có
liên kết đấu nối. Thiếu quy định về các thủ tục môi trường cần bổ sung khi có
điều chỉnh quy mô từ cụm công nghiệp chuyển đổi thành KCN.
Sáu, cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chưa theo kịp, phù hợp và
đồng bộ với cơ chế kinh tế thị trường: Các loại thuế, phí về môi trường theo
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo và
phục hồi môi trường”, “người hưởng lợi từ giá trị môi trường phải trả tiền”
mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò
công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái
môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng xanh.
Phí bảo vệ môi trường đối với khí thải chưa được tính toán dựa trên mức độ
độc hại, khối lượng nguyên liệu sản xuất đầu vào để tác động đến ý thức,
trách nhiệm của người sản xuất trong giảm thiểu nguồn gây ô nhiễm môi
trường; một số dự án lớn sau khi kết thúc có nguy cơ gây ra những tác động
tiêu cực tới môi trường và sức khỏe con người cần thiết phải thực hiện việc ký
quỹ phục hồi môi trường nhằm tạo ý thức cho các chủ thể, buộc phải tiến
hành công tác phục hồi môi trường thường xuyên trong từng khâu của quá
trình sản xuất và ở phạm vi tổng thể của toàn bộ chu trình sản xuất. Mặt khác,
các quy định hiện hành về bảo vệ môi trường chưa tạo ra hành lang pháp lý và
môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường, sản
phẩm thân thiện với môi trường, khuyến khích xã hội hóa trong một số hoạt
động bảo vệ môi trường. Tại Điều 8 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định
về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng
80
sản còn bất cập như: thời điểm và cách thức ký quỹ; tiền ký quỹ được hưởng
lãi suất bằng lãi suất cho vay của quỹ BVMT nơi ký quỹ và được tính từ thời
điểm ký quỹ. Quy định này gây khó khăn cho hoạt động của quỹ và chưa có
hướng dẫn cụ thể về việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi
trường tại các quỹ BVMT.
Bảy, các thủ tục hành chính cho phép về môi trường (giấy phép) chưa
có sự liên thông, tích hợp để bảo đảm thuận lợi cho doanh nghiệp: theo các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường hiện hành, sau đánh giá tác động
môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đang sử dụng các
loại giấy phép để quản lý môi trường đối với các dự án, cơ sở như: giấy xác
nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giấy phép xả thải vào nguồn
nước, giấy phép xả khí thải, giấy chứng nhận đủ kiều kiện nhập khẩu phế liệu,
giấy phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại, sổ chủ nguồn thải, kế hoạch
quản lý môi trường. Các nội dung của các giấy phép này đang được quy định
trong một luật hay bởi các luật khác nhau có sự trùng lặp về mục tiêu, nội
dung, thẩm quyền, hoặc quy định khác nhau; được thực hiện theo các quy
trình, thủ tục khác nhau, gây lãng phí thời gian, chi phí xã hội. Do vậy vấn đề
cải cách hành chính và hợp nhất, liên thông các thủ tục hành chính về môi
trường là một trong những nội dung ưu tiên để thực hiện chủ trương cải cách
hành chính của Chính phủ.
81
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trƣờng KCN ở Việt Nam
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện
Hiện nay, hệ thống các văn bản về bảo vệ môi trường KCN đã được chú
trọng hoàn thiện, với số lượng văn bản tương đối lớn, điều chỉnh hầu hết các
vấn đề từ phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm
môi trường, quy định về chất thải rắn, khí thải, nước thải, quan trắc,..Các quy
định về kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN không chỉ được quy định trong
Hiến pháp năm 2013, Luật bảo vệ môi trường 2014 mà còn được quy định
trong các luật, văn bản dưới luật có liên quan. Tuy nhiên thực tiễn thực thi ở
Việt Nam còn chưa hiệu quả, phát sinh những tồn tại, hạn chế trong tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN, cụ thể là:
Một là vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng các văn bản pháp luật
trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường KCN
Việc triển khai quy hoạch KCN đã được duyệt của các địa phương còn
hạn chế, chưa căn cứ trên khả năng thu hút đầu tư thực tế. nguyên nhân là tư
duy quy hoạch còn mang nhiều tính cục bộ, địa phương chưa tính toán đúng
mức lợi ích của vùng, quốc gia.
Nguồn nhân lực chuyên trách về môi trường tại các Ban Quản lý: theo
quy định [15] có ít nhất 05 biên chế có chuyên môn về bảo vệ môi trường.
Nhưng trong thực tế, Ban quản lý KCN phụ trách khối lượng công việc lớn
nhưng chỉ có 1-2 cán bộ phụ trách mảng môi trường. Trong khi đó, Sở Tài
nguyên và Môi trường các địa phương chỉ quản lý ngoài hàng rào KCN và
82
không có thẩm quyền giám sát các hoạt động trong khuôn viên KCN. Đây là
khó khăn rất lớn cho việc kiểm soát hoạt động gây ô nhiễm môi trường của
các cơ sở trong KCN.
Quy định về xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường: Theo
Điều 17 Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường,
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch
bảo vệ môi trường quy định việc kiểm tra các công trình bảo vệ môi trường
phục vụ giai đoạn vận hành của dự án được tiến hành thông qua đoàn kiểm tra
do thủ trưởng cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc
cơ quan được ủy quyền thành lập. Như vậy, theo quy định này, Ban quản lý
chỉ được thực hiện việc kiểm tra, xác nhận hoàn thành đối với các cơ sở do
Ban quản lý phê duyệt báo cáo ĐTM đã được UBND tỉnh ủy quyền. Tuy
nhiên, tại khoản 6, điều 1, Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-
BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ban
quản lý KCN, KCX, KKT lại quy định Ban quản lý có thẩm quyền tổ chức
kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai
đoạn vận hành dự án đối với các dự án đầu tư trong KCN, KKT theo pháp
luật bảo vệ môi trường. Như vậy 02 quy định này không phù hợp với nhau sẽ
rất khó khăn trong việc triển khai thực hiện.
Quy định về chuẩn kết nối thiết bị quan trắc tự động: theo quy định tại
Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiều Sở
Tài nguyên và Môi trường địa phương chưa có đủ nguồn lực để xây dựng hạ
tầng kết nối dữ liệu quan trắc tự động từ KCN.
Quy định về quan trắc môi trường xung quanh: Luật bảo vệ môi trường
2014 đã quy định tất cả chủ cơ sở phải thực hiện quan trắc chất phát thải và
quan trắc thành phần môi trường. Tuy nhiên, quy định trong Thông tư số
27/2014/TT-BTNMT lại chỉ yêu cầu các dự án thực hiện ĐTM chỉ phải quan
83
trắc môi trường xung quanh trong trường hợp cơ sở có phát sinh phóng xạ.
Điều này đã khiến các địa phương lúng túng trong quá trình thực hiện.
Hai là bất cập về lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động: Phần lớn
các phân khu chức năng trong KCN chưa lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải
tự động theo quy định do khó khăn về kinh phí đầu tư hoặc chưa huy động
được nguồn đầu tư. Theo khảo sát một số địa phương đã làm tốt việc đầu tư
quan trắc tự động như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Việc truyền
dữ liệu quan trắc về cơ quan quản lý còn gặp nhiều khó khăn theo số liệu hiện
cả nước mới có khoảng 20 tỉnh thực hiện việc truyền dữ liệu và hình ảnh về
Chi cục bảo vệ môi trường. Các địa phương còn lại đều chưa thực hiện đầy đủ
hệ thống truyền và tiếp nhận dữ liệu quan trắc tự động.
Ba là bất cập trong việc thực hiện các kết luận thanh tra, kiểm tra:
Thanh tra, kiểm tra là một trong những biện pháp kiểm soát ô nhiễm, quản lý
môi trường nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm gây tác động tiêu cực tới
môi trường do các hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung, bao gồm cả các
hoạt động trong KCN. Hiện nay số lượng các vụ việc vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường ở các KCN đã giảm so với trước tuy nhiên mức độ và hình
thức vi phạm lại phức tạp hơn. Bên cạnh đó, việc giám sát các kết luận thanh
tra, khắc phục ô nhiễm môi trường ở các địa phương còn chậm.
Bốn là việc phân bổ và sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường chưa đủ,
chưa đúng: Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường ở tất cả các địa
phương kinh phí sự nghiệp môi trường dành cho quản lý môi trường nói chung
vẫn chưa được bố trí đủ nên hầu hết các hoạt động bảo vệ môi trường, thanh
tra, kiểm tra, quan trắc giám sát môi trường định kỳ, phổ biến thông tin ở các
KCN chưa được triển khai đồng bộ mà chỉ tập trung để thực hiện ở một số
điểm nóng mà không bao quát hết toàn bộ các KCN một cách thường xuyên,
liên tục. Một vài địa phương vẫn sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường không
đúng mục chi như Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hưng Yên, An Giang.
84
Năm là công tác báo cáo, cập nhật thông tin từ các Ban quản lý KCN ở
các địa phương chưa được thực hiện đầy đủ: Tại Điều 14, Thông tư 35/2015/TT-
BTNMT quy định về việc định kỳ báo cáo công tác bảo vệ môi trường của
KCN gửi UBND cấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 15
tháng 01 hàng năm. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều Ban quản lý, địa phương
không thực hiện đúng quy định trên dẫn đến công tác thông tin môi trường
KCN chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện
Với mục tiêu nhằm kiểm soát, hạn chế tới mức thấp nhất mức độ gia
tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, cải thiện chất
lượng môi trường và nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, hướng tới mục tiêu phát triển đất nước, pháp luật bảo vệ môi trường khu
công nghiệp cần được hoàn thiện theo định hướng sau:
Một là đảm bảo nguyên tắc phát triển bền vững: Pháp luật về kiểm soát
ô nhiễm môi trường tại các KCN phải đảm bảo hướng đến mục tiêu phát triển
bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại nhưng vẫn giữ được
tiềm năng và cơ hội cho các thế hệ mai sau. Quán triệt Chỉ thị số 25/CT-TTg
ngày 31/8/2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường
của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là nhấn mạnh quan điểm “không phát triển
kinh tế bằng mọi giá; không đánh đổi môi trường lấy kinh tế”, đổi mới
phương thức quản lý môi trường “từ bị động giải quyết sang chủ động phòng
ngừa”và "từ kiểm soát cuối đường ống sang kiểm soát cuối đường ống kết
hợp với kiểm soát cả quá trình xử lý chất thải”, với nhiều quy định mới, đột
phá nhằm từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững.
Hai là đáp ứng yêu cầu của nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật kiểm
soát ô nhiễm môi trường KCN: thực hiện các biện pháp phòng ngừa và kiểm
soát ô nhiễm được ưu tiên, coi trọng tính hiệu quả, bền vững trong khai thác,
sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên.
85
Ba là tăng cường sự phối hợp với các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ
môi trường trong KCN: bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, là
nghĩa vụ của người dân, phải được thực hiện thống nhất trên cơ sở xác định rõ
trách nhiệm của các bộ, ngành, phân cấp cụ thể giữa trung ương và địa
phương, kết hợp phát huy vai trò của cộng đồng, các tổ chức quần chúng và
hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới
Bốn là đảm bảo các yếu tố đặc thù của KCN: tăng cường các biện pháp
hành chính, từng bước áp dụng các chế tài hình sự.
Năm là đảm bảo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền: tổ chức,
cá nhân hưởng lợi từ tài nguyên và các giá trị của môi trường phải trả tiền,
gây ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên phải trả chi phí
khắc phục, cải tạo, phục hồi và bồi thường thiệt hại
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trƣờng KCN ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về kiểm soát ô nhiễm môi
trường tại các KCN
Hệ thống pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường tại KCN luôn được rà
soát, sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong quá trình
thực thi và bảo đảm phù hợp với xu thế kinh tế hướng tới phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, Luật môi trường được xây dựng và ban hành lần đầu tiên
năm 1993, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong nhận thức, tổ chức và hoạt
động bảo vệ môi trường. Tiếp đó, Luật bảo vệ môi trường 2005 được ban
hành cùng với khối lượng lớn các văn bản hướng dẫn thi hành tạo thành hệ
thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp vấn đề bảo vệ môi
trường tại KCN [6]. Luật bảo vệ môi trường 2014 tiếp tục bổ sung và hoàn
thiện lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN trong điều kiện và hoàn
cảnh mới của đất nước. Song cùng với sự phát triển nhanh chóng của đất
86
nước, hệ thống pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN đã bộc lộ những
khiếm khuyết, hạn chế cần chỉnh sửa, bổ sung. Cùng với đó là tình trạng
buông lỏng quản lý của các cơ quan có thẩm quyền, sự cố tình vi phạm của
các doanh nghiệp trong KCN vì mục đích kinh tế đã dẫn đến môi trường khu
vực các KCN ô nhiễm nghiêm trọng.
Khác với khu vực sản xuất công nghiệp thủ công truyền thống, hầu hết
các KCN được đầu tư xây dựng tập trung các ngành công nghiệp hiện đại với
các trang thiết bị về xử lý chất thải, khí thải. Tuy nhiên, KCN là nơi tập trung
nguồn phát thải với nhiều nhà máy cùng hoạt động trên một địa bàn, cùng một
thời gian nếu quản lý không tốt sẽ tác động xấu đến môi trường xung quanh.
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện bước phát triển về xây dựng luật trong
nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật khi hiến
định nguyên tắc con người được sống trong môi trường trong lành tại Điều
43: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa
vụ bảo vệ môi trường. Đồng thời ghi nhận những quy định về điều kiện nhằm
thực thi quyền về môi trường: Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường;
quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu; Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi
trường, phát triển, sử dụng năng lường mới, năng lượng tái tạo; tổ chức, cá
nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy
giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi
thường thiệt hại.
Như vậy, Nhà nước phải duy trì các công cụ kiểm soát ô nhiễm môi
trường KCN, trong đó công cụ pháp luật là quan trọng nhất, có tính chất quyết
định đến vấn đề bảo vệ môi trường KCN tạo hành lang pháp lý cho các doanh
nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất gắn với kiểm soát ô nhiễm môi trường và
chế tài đủ mạnh để răn đe, giáo dục các hành vi vi phạm có thể xảy ra.
87
Nhìn chung, hệ thống pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN
đang tiếp tục được quan tâm, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cần thiết cho
công tác quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường KCN
Hoàn thiện quy định của pháp luật về công tác đánh giá tác động môi
trường (ĐTM) trong KCN. ĐTM đối với các dự án đầu tư trong KCN ở nước
ta trong thời gian qua mới chỉ dừng lại ở mức hình thức. Chính vì vậy, cần có
một hành lang pháp lý vững chắc để nâng cao hoạt động của các chủ thể tham
gia vào ĐTM. Việc hoàn thiện pháp luật về ĐTM cần theo hướng đảm bảo sự
tham gia của cộng đồng địa phương vào quá trình lập, thẩm định và giám sát
thực hiện các báo cáo ĐTM. Xác định rõ người đại diện cho cộng đồng dân
cư là ai, trình độ học vấn và ý thức quan tâm đến môi trường của họ ra sao để
thể hiện ý chí của cộng đồng dân cư. Cộng đồng dân cư cần được cung cấp
thông tin về dự án, về môi trường và cần được giải trình một cách cụ thể. Qua
đó nâng cao năng lực cộng đồng về các vấn đề môi trường và yêu cầu với báo
cáo ĐTM. Ngoài ra, cũng cần phát huy các phương pháp tuyên truyền, vận
động, sử dụng sức mạnh cộng đồng để bài trừ các hành vi gây ô nhiễm môi
trường mà doanh nghiệp, xuất phát từ việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng báo cáo ĐTM mà doanh nghiệp đã bị cảnh cáo, khiếu nại nhưng
vẫn cố tình vi phạm như: tẩy chay không dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Ngoài việc bổ sung các quy phạm liên quan đến việc tham vấn cộng
đồng, pháp luật cũng cần có quy định về giám sát, quản lý những người có
chuyên môn và nghĩa vụ để lập báo cáo ĐTM. Ngoài ra cũng cần sửa đổi các
quy định liên quan đến thời hạn thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM nhằm
nâng cao chất lượng thẩm định, phê duyệt báo cáo. Hội đồng thẩm định và
phê duyệt cũng cần nâng cao ý thức pháp luật, rà soát nghiêm ngặt để đảm
bảo những báo cáo ĐTM có chất lượng, kiên quyết loại bỏ những báo cáo
88
ĐTM còn mang tính hình thức, lắp ghép, không có tính ứng dụng thực tế. Tại
Nghị định số 40/NĐ-CP ngày 13/5/2019 đã khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy
hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và Kế hoạch bảo vệ môi trường, cụ thể như sau: Một dự án là một
hồ sơ môi trường; đối tượng phải đánh giá tác động môi trường của Phục lục
II và Phụ lục IIa có quy định về các loại hình sản xuất công nghiệp có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường và đối tượng phải vận hành thử nghiệm công trình
quản lý chất thải; bố cục của báo cáo đánh giá tác động môi trường có điểm
khác; thời điểm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; thời gian thẩm
định phê duyệt báo cáo đánh giá môi trường của các cơ quan có thẩm quyền
cũng thay đổi; quy định chi tiết về đối tượng phải lập lại báo cáo đánh giá tác
động môi trường; trách nhiệm của chủ đầu tư sau khi phê duyệt báo cáo đánh
giá tác động môi trường; vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải theo
quyết định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án; quy định thủ tục
và thời gian kiểm tra xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường tại KCN bao gồm các nội dung sau: việc triển khai thực hiện Nghị
định số 155/2016/NĐ-CP còn một số tồn tại, bất cập cần được sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với thực tế hiện nay, cụ thể như: Còn thiếu các quy định đình
chỉ cơ sở không có Kế hoạch bảo vệ môi trường thuộc đối tượng cấp huyện
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; thiếu quy định về thực hiện không
đúng, không đầy đủ chương trình giám sát môi trường trong Kế hoạch bảo vệ
môi trường, Đề án bảo vệ môi trường thuộc thẩm quyền xác nhận của UBND
cấp huyện; không có quy định xử phạt đối với hành vi không thực hiện giám
sát môi trường định kỳ; đối với nội dung vi phạm các quy định về hoạt động
ứng phó sự cố tràn dầu, cần sửa đổi, bổ sung đối với hành vi không đầu tư đầy
89
đủ thay vì đối với hành vi không đầu tư trang thiết bị ứng phó sự cố tràn dầu;
một số hành vi ngoài việc áp dụng hình thức xử phạt chính nhưng chưa được
quy định áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động dẫn đến các
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường,… Đặc biệt, Nghị định còn đang thiếu quy
định về xử phạt đối với hành vi không thực hiện giám sát môi trường định kỳ
theo quy định đối với các hồ sơ: Kế hoạch bảo vệ môi trường, Báo cáo đánh
giá tác động môi trường (ĐTM) thuộc thẩm quyền xác nhận, phê duyệt của
Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý Khu kinh tế (được UBND cấp
tỉnh ủy quyền), Bộ Tài nguyên và Môi trường...
Bên cạnh đó, ngày 13/5/2019 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường. Do vậy trong việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cần hoàn thiện
các quy đinh: bổ sung thêm phạm vi điều chỉnh các hoạt động thăm dò, khai
thác và chế biến khoáng sản; bổ sung, làm rõ đối tượng áp dụng của Nghị
định, trong đó bổ sung quy định rõ tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nhằm khắc phục vướng mắc trong việc xác
định đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính; xác định rõ các hành vi như:
Không có Báo cáo đánh giá tác động môi trường, không có Kế hoạch bảo vệ
môi trường, Đề án bảo vệ môi trường, không có Giấy xác nhận hoàn thành
công trình bảo vệ môi trường…; làm rõ hơn cách xác định mức phạt; bổ sung
thêm trường hợp đối với mẫu nước thải hoặc bụi, khí thải có cả thông số môi
trường nguy hại và các thông số thông thường vượt quy chuẩn kỹ thuật hoặc
giá trị pH nằm ngoài ngưỡng quy chuẩn kỹ thuật thì chọn thông số tương ứng
với hành vi vi phạm có khung phạt tiền cao nhất của mẫu nước thải hoặc bụi,
khí thải để xử phạt; trường hợp có khung phạt bằng nhau thì thông số nguy
hại là thông số để xác định hành vi vi phạm; bổ sung quy định về sử dụng kết
90
quả thu bằng thiết bị, hệ thống quan trắc tự động, liên tục khí thải, nước thải
để làm căn cứ xử phạt vi phạm hành chính,… Tại Khoản 1 và 2 của Điều 8
không có quy định đình chỉ cơ sở không có Kế hoạch bảo vệ môi trường
thuộc đối tượng cấp huyện cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Nghị
định 155/2016/NĐ-CP cũng chưa quy định cụ thể về biện pháp cưỡng chế đối
với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không chấp hành quyết định áp dụng
hình thức tạm thời đình chỉ hoạt động, buộc di dời, cấm hoạt động; chưa quy
định hành vi không gửi báo cáo quản lý chất thải nguy hại theo quy định;
chưa thống nhất mức phạt tiền về hành vi thải rác thải giữa các Nghị định liên
quan; một số hành vi ngoài việc áp dụng hình thức xử phạt hành chính nhưng
chưa quy định áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động dẫn
đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường;…. [19].
Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng
được sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, phân
rõ các nhóm hành vi vi phạm đối với cá nhân; cập nhật dự án đầu tư theo nội
dung báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt; thông báo cho cơ
quan nhà nước trong trường hợp thay đổi chủ dự án; rà soát, cải tạo, nâng cấp
các công trình xử lý chất thải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đối với trường hợp
trước đây không phải thực hiện thủ tục kiểm tra xác nhận hoàn thành…
Rà soát, điều chỉnh lại các văn bản đã ban hành liên quan đến việc phân
cấp quản lý môi trường KCN nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng phân
cấp và phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể đối với các đơn vị trong hệ thống
quản lý môi trường. Các văn bản cần đẩy mạnh phân cấp, giao quyền và trách
nhiệm trực tiếp cho Ban quản lý các KCN, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
thực hiện tốt chức năng của đơn vị quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Rà soát, hoàn thiện các văn bản liên quan đến các hướng dẫn kỹ thuật
trong hoạt động bảo vệ môi trường KCN. Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban
91
quản lý các KCN, công an các tỉnh, thành phố sớm ban hành quy chế phối
hợp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy định pháp luật về
bảo vệ môi trường KCN.
3.2.2. Xây dựng cơ chế, chính sách để đầu tư nguồn lực cho công tác
kiểm soát ô nhiễm môi trường tại KCN
Chính phủ cần có động thái tích cực nhằm hỗ trợ một cách thích hợp
đối với các doanh nghiệp sản xuất để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xử lý
ô nhiễm, nhập khẩu dây chuyền sản xuất có công nghệ hiện đại, thân thiện với
môi trường. Thu hút đầu tư vào KCN theo hướng ưu tiên những ngành công
nghiệp sạch, ít ô nhiễm, bảo đảm cơ cấu ngành nghề phù hợp với khả năng
thực tế và thực tế giải quyết ô nhiễm của địa phương; thu hút có trọng điểm
để phát triển các ngành kinh tế chủ lực cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong
bố trí nhà máy, xây dựng phương án bảo vệ môi trường.
Chính phủ cần hỗ trợ bằng các chính sách ưu đãi tín dụng, ưu đãi đầu
tư, đào tạo chuyên gia môi trường. Ban hành cơ chế, chính sách để tạo cơ sở
cho việc hỗ trợ về tài chính, ưu đãi đầu tư đối với việc đầu tư xây dựng các
công trình bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp.
Đồng thời các nguồn thu từ thuế, phí môi trường phải được đầu tư trở lại
cho các hoạt động bảo vệ môi trường, thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước
ngoài vào phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ bảo vệ môi trường với nguyên
tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền và người hưởng lợi từ môi trường phải chi
trả”. Ngoài nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách cho đầu tư xây dựng nhà máy xử lý
nước thải tập trung trong KCN cần xem xét, bố trí nguồn vốn với quy mô thích
hợp để thực hiện tín dụng ưu đãi cho đầu tư các nhà máy XLNTTT.
3.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trƣờng KCN ở Việt Nam
3.3.1. Cơ chế, chính sách tăng cường hiệu quả quản lý môi trường
Để đảm bảo cho hoạt động môi trường trong KCN được thực hiện
92
nghiêm túc và hiệu quả thì khung pháp lý về môi trường cần được xây dựng
và hoàn thiện đồng bộ, thống nhất. Do vậy, để tạo điều kiện tốt cho công tác
kiểm soát ô nhiễm môi trường tại KCN thì hệ thống pháp luật môi trường cần
có những văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn một số hoạt động quản lý
môi trường đặc thù trong KCN.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi
trường, thời điểm thực hiện đánh giá tác động môi trường để thống nhất giữa
các luật, phù hợp với cơ sở khoa học, bản chất của công cụ đánh giá tác động
môi trường, đáp ứng thực tiễn các vấn đề về môi trường đặt ra hiện nay. Bổ
sung các quy định về sàng lọc dự án theo các tiêu chí về loại hình sản xuất,
công nghệ sản xuất, quy mô xả thải, địa điểm thực hiện nhằm xác định dự án
có được phép đầu tư hay không. Trường hợp được phép đầu tư, tiếp tục xác
định dự án có phải thực hiện ĐTM chi tiết hay không và nếu thuộc đối tượng
thực hiện thì phải thực hiện theo quy trình và mức độ như thế nào. Trên cơ sở
quy định trong Luật, Chính phủ sẽ quy định chi tiết các danh mục dự án cụ
thể, quy định quy trình ĐTM, cấu trúc, nội dung của báo cáo ĐTM cho từng
danh mục dự án.
Bổ sung quy định về sàng lọc, tăng cường kiểm soát đối với các dự án,
cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Tập trung xây dựng các quy định về kiểm soát quá trình vận hành thử
nghiệm, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giám sát việc
hoàn thành công trình bảo vệ môi trường; tăng cường công tác ứng phó với sự
cố môi trường, thiết lập quy định về hồ kiểm chứng/hồ sự cố của các KCN.
Tăng cường cưỡng chế và giám sát hoạt động bảo vệ môi trường KCN:
hoạt động khó khăn nhất trong công tác thanh tra, kiểm tra chính là cưỡng chế
thực thi pháp luật, thực hiện các kết luận thanh tra cũng như khắc phục hậu
quả do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường gây ra. Theo số liệu từ các
địa phương trong cả nước, kết quả khắc phục ô nhiễm hoặc thực hiện các kết
93
luận thanh tra mới chỉ dừng ở cải thiện hệ thống xử lý chất thải mà chưa xử lý
triệt để các vấn đề ô nhiễm phát sinh trong quá trình sản xuất, thậm chí cả cơ
quan chức năng và các chủ cơ sở, chủ đầu tư cũng chưa thực hiện các biện
pháp mạnh, quyết liệt như đình chỉ hoạt động của cơ sở, đầu tư cũng như tái
đầu tư cho bảo vệ môi trường từ các KCN còn nhiều hạn chế. Thời gian tới
cần nghiên cứu, nhân rộng phát triển mô hình KCN sinh thái quy định tại
Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về
quản lý KCN, KKT.
Về công tác quy hoạch KCN: các địa phương cần rà soát, điều chỉnh để
đảm bảo phù hợp, đồng bộ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch sử dụng đất, bảo đảm tuân thủ quy hoạch đã được duyệt, khoảng cách
giữa các KCN, khu chức năng sản xuất với đường giao thông và dân cư xung
quanh để hạn chế ảnh hưởng đến các khu vực lân cận.
Về thẩm quyền của Ban quản lý các KCN: điều chỉnh văn bản pháp
luật theo hướng phân cấp, giao quyền trực tiếp, đầy đủ về công tác bảo vệ môi
trường cho các Ban quản lý thay vì thực hiện theo cơ chế ủy quyền như hiện
nay; xem xét bổ sung thanh tra Ban Quản lý các KCN vào hệ thống thanh tra
nhà nước để tạo điều kiện cho Ban Quản lý thực hiện tốt chức năng giám sát
thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại các KCN.
3.3.2. Nhóm các giải pháp kỹ thuật phòng ngừa, ứng phó, xử lý ô
nhiễm môi trường
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thẩm định báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, bổ sung đánh giá sơ bộ tác
động môi trường nhằm nhận dạng, dự báo các tác động tới môi trường có thể
xảy ra từ các dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp; kiên quyết
không phê duyệt đối với những dự án sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu có nguy
cơ cao gây tác động xấu tới môi trường trong các KCN.
94
Rà soát các nội dung trùng lắp của các thủ tục, hồ sơ môi trường đang
được quy định tại nhiều luật khác nhau nhằm khắc phục các nội dung trùng
lặp hoặc quy định khác nhau, thống nhất để thực hiện chủ trương cải cách
hành chính của Chính phủ.
Tăng cường giám sát, đảm bảo các dự án phải được xác nhận hoàn thành
các công trình bảo vệ môi trường trước khi đi vào vận hành chính thức theo
đúng quy định. Kiên quyết yêu cầu các KCN mới thành lập phải thực hiện
đúng quy định pháp luật, hoàn hiện hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường trước
khi đi vào hoạt động. Đối với các KCN đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn
thiện hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường thì cần có biện pháp kiên quyết để yêu
cầu các chủ đầu tư KCN hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường như:
không cho phép thu hút các dự án đầu tư vào KCN hoặc thực hiện thủ tục mở
rộng KCN khi chưa hoàn thành hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
Bổ sung quy định về việc sử dụng chung hệ thống xử lý nước thải của
KCN và doanh nghiệp trong KCN và giữa các doanh nghiệp với nhau khi có
liên kết đấu nối.
Yêu cầu chặt chẽ về lắp đặt hệ thống quan trắc tự động đối với các cơ
sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, các cơ sở đã bị xử phạt
vi phạm hành chính nghiêm trọng hoặc liên tục, kéo dài.
Bổ sung hình thức các doanh nghiệp nộp tiền để thực hiện quan trắc
môi trường định kỳ vào Quỹ bảo vệ môi trường và các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tổ chức thực hiện việc quan trắc.
Bổ sung nội dung khuyến khích các cơ sở lắp đặt hệ thống quan trắc tự
động, miễn phải thực hiện quan trắc định kỳ đối với các thông số đã quan trắc
tự động; quy định việc sử dụng số liệu, chia sẻ số liệu và công khai số liệu
quan trắc. Tại các KCN kết quả quan trắc môi trường và báo cáo giám sát môi
trường định kỳ nên lưu ý: Những cơ sở đã đấu nối vào HTXLNTTT thì có thể
95
không phải thực hiện quan trắc định kỳ; các cơ sở có thể thống nhất với chủ
đầu tư, ban quản lý để thực hiện linh hoạt, tránh lãng phí.
Bổ sung quy định công tác ứng phó sự cố môi trường, cụ thể là hồ sự
cố tại các KCN.
Xây dựng, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu
về nguồn thải, kết quả giám sát nguồn thải nhằm đánh giá, kiểm soát, phục vụ
công tác quản lý nhà nước, chia sẻ thông tin với các bên liên quan.
Nghiên cứu hướng dẫn về việc tái sử dụng nước thải, chất thải từ sản
xuất công nghiệp trong KCN để tạo điều kiện xây dựng các “cộng sinh công
nghiệp” giữa các doanh nghiệp trong KCN và giữa các KCN.
Đối với các cơ sở sản xuất có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao trong
KCN: nghiên cứu, ban hành danh mục các ngành, nghề hoặc doanh nghiệp có
nguy cơ ÔNMT cao để tăng cường giám sát với các cơ sở này.
3.3.3. Nhóm các công cụ kinh tế tăng cường hiệu quả bảo vệ môi trường
Nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường phải được phân bổ và sử dụng
cho các hoạt động quản lý môi trường như thanh tra, kiểm tra, quan trắc chất
lượng môi trường xung quanh, môi trường nền, ban hành và giám sát thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật,..
Tăng cường công tác tính phí, thu phí và cung cấp đầy đủ thông tin, căn
cứ pháp lý để các doanh nghiệp có trách nhiệm nộp phí bảo vệ môi trường. Cập
nhật các tính phí để phù hợp với thực tế. Phí Bảo vệ môi trường (BVMT) nên
được sử dụng để đầu tư lại cho công tác quản lý môi trường và bổ sung vào quỹ
BVMT để thực hiện công tác quản lý nhà nước về BVMT, hỗ trợ đầu tư hạ
tầng BVMT tại các KCN xác định rõ đối tượng phải nộp phí trong KCN. Tỷ lệ
phí thu được nên phân bổ lại, linh hoạt hơn so với quy định theo Nghị định số
25/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ quy định phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải. Bổ sung quy định theo hướng bảo đảm hàng năm
96
tăng dần mức chi sự nghiệp bảo vệ môi trường trên 1% tổng chi ngân sách nhà
nước; đồng thời, bổ sung quy định tỷ lệ chi từ nguồn thu thuế bảo vệ môi
trường được sử dụng để đầu tư trực tiếp cho công tác bảo vệ môi trường.
Vấn đề ưu đãi hỗ trợ đối với hoạt động BVMT nói chung và hạ tầng
BVMT tại KCN hiện nay đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật [18]. Tuy nhiên, các chính sách vẫn chưa đi vào thực tế cuộc sống
do thiếu hướng dẫn cụ thể. Luật bảo vệ môi trường năm 2014 đã được ban
hành, do đó một số quy định về chính sách ưu đãi thuế, đất đai đối với các
hoạt động, dịch vụ BVMT nên ban hành để các chính sách hỗ trợ hoạt động
BVMT tại các KCN đi vào thực tế.
Từng bước chuyển đổi và cổ phần hóa các Công ty phát triển hạ tầng
theo Quyết định của Thủ tướng [26] ban hành Quy chế thí điểm chuyển đổi
Công ty phát triển hạ tầng KCN hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có
thu thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ
sở hữu; theo đó từng bước hạn chế sự tham gia làm chủ đầu tư của các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp dẫn đến nhiều bất cập trong quản lý.
Tăng cường đầu tư hợp tác quốc tế và trong khu vực để nâng cao năng
lực trong việc lựa chọn và chuyển giao công nghệ xử lý môi trường cho các
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
3.3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhất là kiểm tra đột
xuất để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các hành
vi vi phạm. Tổ chức thanh tra theo vùng để nắm bắt và xử lý các vi phạm.
Trong thời gian tới cần tập trung thanh tra, giám sát các dự án lớn, tiềm ẩn
nguy cơ xảy ra sự cố, ô nhiễm môi trường như dệt nhuộm, luyện kim,.. Tiếp
tục duy trì hoạt động, phát huy hiệu quả của đường dây nóng tiếp nhận và xử
lý phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân về ô nhiễm môi trường của trung
97
ương và địa phương; tập trung đẩy mạnh, làm tốt hơn việc tiếp nhận, xác
minh và xử lý các thông tin; mở rộng hệ thống đường dây nóng đến cấp
huyện, cấp xã nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm.
3.3.5. Nhóm các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật các bên
liên quan để nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ môi trường
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc
thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại các KCN, hạn
chế, giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của chính
quyền các cấp, Ban quản lý KCN, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong
việc thực thi Luật bảo vệ môi trường. Nâng cao nhận thức cho các chủ đầu tư
và chủ doanh nghiệp nhằm đảm bảo các dự án đầu tư phải tuân thủ nghiêm
ngặt Luật bảo vệ môi trường. Tiến tới minh bạch thông tin, chấn chỉnh công
tác tham vấn cộng đồng. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp và tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương giám
sát chặt chẽ nguồn xả thải ra môi trường của doanh nghiệp; xây dựng hệ
thống kiểm soát trung gian, trong đó người dân có thể tham gia cùng giám sát
việc xả thải, thông qua nhận biết dấu hiệu môi trường ô nhiễm và phản ánh
kịp thời các vụ việc vi phạm.
98
KẾT LUẬN
Phát triển các khu công nghiệp là một yêu cầu đặt ra để phát triển kinh
tế - xã hội đất nước nhưng kéo theo đó là tình trạng ô nhiễm môi trường KCN
diễn ra ngày càng nghiêm trọng mà điển hình là sự cố môi trường nghiêm
trọng do Công ty Formosa Hà Tĩnh là thảm họa gây ra đối với môi trường
biển ở Việt Nam. Quán triệt Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31/8/2016 về một số
nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường của Thủ tướng Chính phủ,
đặc biệt là nhấn mạnh quan điểm “không phát triển kinh tế bằng mọi giá;
không đánh đổi môi trường lấy kinh tế”. Qua nghiên cứu các quy định của
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các KCN ở Việt Nam để có cái
nhìn tổng quát về các quy định liên quan để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật môi trường tại KCN đồng thời liên hệ với thực tiễn
triển khai, chỉ ra các tồn tại, bất cập để đưa ra các giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật hướng tới mục tiêu phát triển KCN theo hướng bền vững.
Đáng kể nhất là việc Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 82/NĐ-
CP quy định về quản lý KCN và KKT vào tháng 5 năm 2018, trong đó thể chế
hóa các khái niệm KCN sinh thái, cộng sinh công nghiệp, đưa ra các tiêu chí
xác định KCN sinh thái, khuyến khích và hỗ trợ các nhà đầu tư và doanh
nghiệp áp dụng và phát triển theo mô hình KCN sinh thái. Trong thời gian tới,
Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp quan trọng, chuyển giao
công nghệ, phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh Công nghiệp 4.0, xây
dựng các chính sách phát triển công nghiệp bền vững, góp phần giúp Việt Nam
đạt được những thành tựu mới trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện cam
kết đối với Chương trình nghị sự 2030, các mục tiêu phát triển bền vững
(SDGs). Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường tại
KCN sẽ làm phong phú thêm cho lý luận về pháp luật bảo vệ môi trường nói
chung và pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nói riêng bảo đảm mục tiêu
phát triển bền vững khu công nghiệp theo hướng sinh thái và giải quyết hài hòa
môi quan hệ giữa giữa các yếu tố phát triển - kinh tế - xã hội - môi trường.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hoàng Anh (2018), “Hiện trạng phát sinh, thu gom, xử lý chất thải
rắn ở Việt Nam”, Tạp chí Môi trường.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 03/6/2013 chỉ đạo thực hiện “Cơ chế quản lý về bảo vệ môi trường theo từng loại hình và mức độ tác động đến môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh”, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
4. Bộ Công Thương (2019), Báo cáo số 3321/BCT-ATMT ngày 13/5/2019,
Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2009), Thông tư 230/2009/TT-BTC hướng dẫn ưu đãi về thuế đối với hoạt động bảo vệ môi trường quy định tại nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của chính phủ về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường, Hà Nội.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành
Luật môi trường năm 2005, Hà Nội.
7. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về bảo vệ môi trường Khu kinh tế, KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Hà Nội.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Báo cáo số 4012/BTNMT-TCMT
ngày 27/7/2018.
9. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng (2018), Báo cáo phục vụ đoàn giám sát “Việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đối với KCN, KCX và cơ sở sản xuất có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao” của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Hà Nội.
100
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường, Hà Nội.
11. Chính phủ (2015), Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường, Hà Nội.
13. Chính phủ (2015), Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm
2015 quy định về quản lý chất thải và phế liệu, Hà Nội.
14. Chính phủ (2016), Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.
15. Chính phủ (2018), Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định
về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, Hà Nội.
16. Chính phủ (2019), Báo cáo số 206/BC-CP ngày 15/5/2019 về công tác
bảo vệ môi trường năm 2018, Hà Nội.
17. Chính phủ (2019), Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, Hà Nội.
18. Chính phủ (2019), Nghị định số 69/2019/NĐ-CP Quy định việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao, Hà Nội.
19. Cục Quản lý Tài nguyên nước (2019), Trang tin điện tử ngày 10/7/2019,
Hà Nội.
20. Bùi Đức Hiển (2016), Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
101
21. Doãn Hồng Nhung (2016), Pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Doãn Hồng Nhung (2016), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường KCN ở Việt Nam, Nxb Xây dựng.
23. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
26. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 74/2013/QĐ-TTg ngày
05/12/2013 ban hành quy chế thí điểm chuyển đổi công ty phát triển hạ
tầng khu công nghiệp hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ
sở hữu, Hà Nội.
27. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12/01/2016,
về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường
quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
28. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1307/QĐ-TTg ngày
03/9/2017 phê duyệt chủ trương đầu tư dự án xây dựng hệ thống quan
trắc và cảnh báo môi trường biển 04 tỉnh miền Trung, Hà Nội.
29. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 140/QĐ-TTg ngày
26/01/2018 phê duyệt dự án “điều tra, đánh giá, phân loại và xây dựng
cơ sở dữ liệu về nguồn thải”, Hà Nội.
30. Phạm Thị Thanh Thủy (2016), Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại tại
KCN ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
31. Tổng cục Môi trường (2012), Báo cáo kiểm kê phát thải, quan trắc và
hiện trạng quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam.
32. Thu Trang (2012), “Quản lý chất thải rắn - Bài toán khó của Việt Nam”,
Tạp chí Công nghiệp, tháng 9, kỳ 1.
102
33. Trần Thị Thu Trang (2016), Đánh giá thực trạng quản lý chất thải rắn trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sỹ môi trường, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật môi trường, Nxb
Công an nhân dân.
35. Trung Tuyến (2017), “Để báo cáo đánh giá tác động môi trường trở
thành công cụ quản lý hiệu quả”, Báo Nhân dân điện tử.
36. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (2018), Báo
cáo số 1100/QH-UBKHCNMQQH14 ngày 18/10/2018, Hà Nội.
37. Tuệ Văn (2017), “Đề xuất kiểm soát đặc biệt cơ sở nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường cao”, Báo Điện tử Chính phủ.
103
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tỷ lệ các KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nƣớc thải
tập trung đạt tiêu chuẩn môi trƣờng trên phạm vi cả nƣớc năm 2018
TT
Tỉnh/thành phố
Tỷ lệ
Số KCN, KCX đang hoạt động có HTXLNTTT
Số KCN, KCX đang hoạt động (ngoài khu kinh tế) 4 1 1 3 3 3 3 1 1 10 6 8 8 3 4 2 5 5 5 6 3 3 3 1 1 1 2
100% 100% 0% 33.33% 66.67% 66.67% 100% 0% 0% 100% 83.33% 100% 87.5% 100% 75% 100% 40% 100% 60% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%
4 1 0 1 2 2 3 0 0 10 5 8 7 3 3 2 2 5 3 6 3 3 3 1 1 1 2
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27
Bắc Giang Bắc Kạn Hà Giang Hòa Bình Lào Cai Phú Thọ Thái Nguyên Tuyên Quang Yên Bái Bắc Ninh Hà Nam Hà Nội Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Nam Định Ninh Bình Quảng Ninh Thái Bình Vĩnh Phúc Bình Định Bình Thuận Đà Nẵng Khánh Hòa Nghệ An Ninh Thuận Phú Yên
TT
Tỉnh/thành phố
Tỷ lệ
Số KCN, KCX đang hoạt động có HTXLNTTT
28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56
Quảng Bình Quảng Nam Quảng Ngãi Quảng Trị Thanh Hóa Thừa Thiên Huế Đắk Lắk Đắk Nông Gia Lai Kon Tum Lâm Đồng Bà Rịa - Vũng Tàu Bình Dương Bình Phước Đồng Nai Hồ Chí Minh Tây Ninh An Giang Bạc Liêu Bến Tre Cần Thơ Đồng Tháp Hậu Giang Kiên Giang Long An Sóc Trăng Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long
Số KCN, KCX đang hoạt động (ngoài khu kinh tế) 2 1 2 2 4 2 1 1 1 1 2 10 28 6 31 17 5 2 1 2 5 3 2 1 16 1 3 1 2 251
0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 10 28 6 31 17 5 1 0 2 3 2 2 0 16 1 3 1 2 221
0%% 100 50% 50% 25% 50% 100% 100% 100% 100% 50% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 50% 0% 100% 60% 66.67% 100% 0% 100% 100% 100% 100% 100% 88,05%
Tổng cộng
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 4/2019)
Biểu đồ Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nƣớc thải
tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trƣờng giai đoạn 2016 - 2018
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 4/2019)
Biểu đồ Tỷ lệ cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nƣớc thải
tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trƣờng giai đoạn 2016 - 2018
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 4/2019)
PHỤ LỤC 2
Yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý chất thải rắn
công nghiệp thông thƣờng
(Nguồn: Nghị định số 40/NĐ-CP của Chính phủ, 5/2019)
_______
A. ĐỐI VỚI THIẾT BỊ LƢU GIỮ, TRẠM TRUNG CHUYỂN, KHU
VỰC LƢU GIỮ (NẾU CÓ)
1. Thiết bị lƣu giữ CTRCNTT phải đáp ứng các yêu cầu sau:
1.1. Đảm bảo lưu giữ an toàn, không bị hư hỏng, rách vỡ vỏ.
1.2. Bao bì mềm được buộc kín và bao bì cứng có nắp đậy kín để đảm bảo
ngăn chất thải rò rỉ hoặc rơi vãi ra môi trường.
1.3. Kết cấu cứng chịu được va chạm, không bị hư hỏng, biến dạng, rách vỡ
bởi trọng lượng chất thải trong quá trình sử dụng.
2. Trạm trung chuyển, khu vực lƣu giữ (nếu có) không bắt buộc phải
xây dựng dƣới dạng kho nhƣng phải đáp ứng các quy định sau:
2.1. Có cao độ nền bảo đảm không bị ngập lụt;
2.2. Mặt sàn đảm bảo kín, không rạn nứt, không bị thẩm thấu và tránh nước
mưa chảy tràn từ bên ngoài vào.
2.3. Có mái che kín nắng, mưa cho toàn bộ khu vực lưu giữ.
2.4. Kho lưu giữ tạm thời hoặc trạm trung chuyển theo dạng nhà kho thì phải
đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng theo quy định.
3. Khu vực lƣu giữ CTRCNTT ngoài trời phải đáp ứng các yêu cầu sau:
3.1. Có hệ thống thu gom, xử lý nước mưa chảy tràn, nước thải phát sinh trong
quá trình lưu giữ CTRCNTT đảm bảo đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
3.2. Có cao độ nền đảm bảo không bị ngập lụt; nền bảo đảm kín, không rạn
nứt, không bị thẩm thấu, đủ độ bền chịu được tải trọng của phương tiện vận chuyển
và lượng CTRCNTT lưu giữ.
3.3. Có biện pháp giảm thiểu bụi phát sinh từ bãi lưu giữ CTRCNTT (đối với
loại chất thải có phát sinh bụi).
B. ĐỐI VỚI CÁC PHƢƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN
1. Các phƣơng tiện vận chuyển CTRCNTT phải đáp ứng các yêu cầu về
an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trƣờng theo quy định của pháp luật.
2. Thiết bị lƣu giữ CTRCNTT đƣợc lắp cố định hoặc có thể tháo rời trên
phƣơng tiện vận chuyển phải đáp ứng các yêu cầu quy định tại Mục A.1.
3. Yêu cầu đặc thù một số loại phƣơng tiện vận chuyển CTRCNTT:
3.1. Xe tải thùng hở phải được phủ bạt kín sau khi chứa CTRCNTT.
3.2. Xe mô tô, xe gắn máy phải có thùng chứa và được gắn chặt trên giá để hàng
(phía sau vị trí ngồi lái) của xe mô tô, xe gắn máy. Kích thước của thùng chứa gắn trên
xe mô tô, xe gắn máy phải tuân theo quy định của Bộ Giao thông vận tải quy định về
tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ; lưu hành xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn, xe
bánh xích trên đường bộ; vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng; giới hạn xếp hàng
hoá trên phương tiện giao thông đường bộ khi tham gia giao thông.
4. Phƣơng tiện vận chuyển CTRCNTT khi đang hoạt động phải đƣợc
trang bị nhƣ sau:
4.1. Có dòng chữ “Vận chuyển chất thải” ở hai bên thành của phương tiện
với chiều cao ít nhất là 15cm kèm theo tên cơ sở, địa chỉ, số điện thoại liên hệ.
4.2. Các bản hướng dẫn rút gọn về quy trình vận hành an toàn phương tiện
vận chuyển, quy trình ứng phó sự cố (kèm theo danh sách điện thoại của các cơ
quan quản lý môi trường, công an, cấp cứu, cứu hoả của các địa phương trên địa
bàn hoạt động), nội quy về an toàn lao động và bảo vệ sức khoẻ (kèm theo yêu cầu
về thiết bị bảo hộ cá nhân) đặt ở cabin hoặc khu vực điểu khiển theo quy định của
pháp luật, được in rõ ràng, dễ đọc, không bị mờ.
C. ĐỐI VỚI CÔNG TRÌNH, THIẾT BỊ XỬ LÝ CTRCNTT
1. Công trình hoặc thiết bị xử lý CTRCNTT phải đáp ứng các yêu cầu
chung nhƣ sau:
1.1. Có công nghệ xử lý phù hợp với đặc tính hóa học, vật lý và sinh học; có
công suất phù hợp với khối lượng CTRSH cần xử lý.
1.2. CTRCNTT cần được phân loại, kiểm tra và đưa qua hệ thống hoặc thiết
bị sơ chế CTRCNTT (nếu cần thiết) để bảo đảm kích thước, trạng thái vật lý phù
hợp trước khi đưa vào xử lý.
1.3. CTRCNTT sau khi được xử lý cuối cùng và các chất thải phát sinh từ
quá trình xử lý phải bảo đảm theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN về môi
trường hoặc có biện pháp quản lý phù hợp theo quy định.
2. Yêu cầu đặc thù đối với một số hệ thống hoặc thiết bị xử lý CTRCNTT:
2.1. Lò đốt CTRCNTT tuân thủ theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về lò đốt chất thải công nghiệp.
2.2. Bãi chôn lấp CTRCNTT được xây dựng và vận hành đáp ứng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và phải phù hợp với nội dung báo cáo đánh giá tác động
môi trường và quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
3. Khu vực lắp đặt các hệ thống hoặc thiết bị xử lý CTRCNTT phải có:
3.1. Thiết bị phòng cháy chữa cháy theo quy định.
3.2. Hộp sơ cứu vết thương.
3.3. Thiết bị thông tin liên lạc (điện thoại cố định).
3.4. Thiết bị báo động (như còi, kẻng, loa).
3.5. Sơ đồ thoát hiểm, ký hiệu hướng dẫn thoát hiểm (ký hiệu exit hoặc ký
hiệu chỉ lối thoát) đặt ở điểm đầu mối của lối đi.
PHỤ LỤC 3
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trƣờng KCN, CSONC (kể từ khi Quốc Hội ban hành Luật Bảo vệ môi trƣờng năm 2014 đến ngày 30/6/2018)
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 7/2018)
- Luật Bảo vệ môi trường ngày 23 tháng 6 năm 2014.
- Luật Tài nguyên và Môi trường biển và hải đảo ngày 25 tháng 6 năm 2015;
- Pháp lệnh Cảnh sát môi trường ngày 23 tháng 12 năm 2014;
- Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 quy định về quy
hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và kế hoạch bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06 tháng 8 năm 2014 của Chính phủ về
thoát nước và xử lý nước thải.
- Nghị định 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường,
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ
môi trường
- Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ
quy định điều kiện tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường;
- Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về
quản lý chất thải và phế liệu.
- Nghị định 03/2015/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ về
xác định thiệt hại đối với môi trường;
- Nghị định số 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ
về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
- Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ về
quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế.
- Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ Quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
- Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2016 của Chính phủ về một số
nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường.
- Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 5 năm 2015 quy định về
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ
môi trường.
- Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về BVMT khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao.
- Thông tư số 19/2016/TT-BTNMT ngày 24 tháng 8 năm 2016 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường về báo cáo công tác bảo vệ môi trường.
- Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14 tháng 10 năm 2016 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh,
dịch vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- QCVN 40:2011/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp
- QCVN 01-MT:2015/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sơ
chế cao su thiên nhiên.
- QCVN 11-MT:2015/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp chế biến thủy sản.
- QCVN 12-MT:2015/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp giấy và bột giấy.
- QCVN 13-MT:2015/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp dệt nhuộm.
- QCVN 60-MT:2015/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
sản xuất cồn nhiên liệu.
- QCVN 63:2017/BTNMT-Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chế
biến tinh bột sắn.
PHỤ LỤC 4
Hệ thống quy định pháp luật liên quan đến kiểm soát xả thải của doanh nghiệp
và quy trình kiểm soát xả thải trong và ngoài hàng rào của doanh nghiệp
theo vòng đời
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường, 7/2018)
Bảng 1. Hệ thống các quy định liên quan đến kiểm soát xả thải
của doanh nghiệp
Bảng 2. Quy trình kiểm soát xả thải ngoài hàng rào của doanh nghiệp
PHÂN VÙNG MÔI TRƢỜNG
CẤP PHÉP XẢ THẢI, QUOTA XẢ THẢI
QUY HOẠCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
QUY CHUẨN MÔI TRƢỜNG, SÀNG LỌC DỤ ÁN
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỊU TẢI CỦA MÔI TRƢỜNG
ĐÁNH GIÁ MÔI TRƢỜNG CHIẾN LƢỢC
Bảng 3. Quy trình kiểm soát xả thải trong hàng rào của doanh nghiêp theo vòng đời
1. Phân nhóm dự án theo mức độ nguy cơ gây ô nhiễm môi trƣờng (Cao, trung bình, thấp)
2. Xem xét phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng; Đề án, kế hoạch BVMT
5. Phê duyệt kế hoạch phòng ngừa, giảm thiểu tác động, ứng phó sự cố MT
1. Xác định loại chất thải, việc phát sinh, quy mô, tính chất nguy hại (có 7 loại: nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, khí thải, CTR công nghiệp thông thường, CTR sinh hoạt, Chất thải nguy hại, chất thải đặc thù)
4. Phê duyệt chương trình quản lý và giám sát MT
2. Xác lập quy định, quy chuẩn xả thải đối với doanh nghiệp
3. Phê duyệt phương án thu gom, quản lý, công nghệ xử lý chất thải, chuyển giao chất thải
3. Kiểm tra, giám sát hoạt động thi công và vận hành thử nghiệm
5. Phê duyệt báo cáo hoàn thành công trình bảo vệ môi trường
4. Giám sát thường xuyên chất lượng nước thải, khí thải sau xử lý
2. Quy trình vận hành các công trình BVMT, hồ kiểm chứng
3. Thiết bị quan trắc, quan trắc tự động liên tục, trực tuyến
1. Phê duyệt kế hoạch vận hành thử nghiệm
4. Cấp phép xả thải (nƣớc thải, khí thải). Chấp thuận phƣơng án chuyển giao xử lý chất thải rắn; Cấp phép xử lý chất thải nguy hại
5. Quan trắc thƣờng xuyên, quan trắc tự động liên tục đối với nguồn thải lớn
2. Lắp đặt và thực hiện quan trắc tự động, liên tục, trực tuyến các thông số xả thải, đặc trưng của nguồn thải
1. Doanh nghiệp thực hiện chương trình quan trắc thường xuyên theo loại hình và quy mô xả thải (3 tháng, 6 tháng, 1 năm/lần)
6. Kết hợp chƣơng trình quan trắc chất lƣợng môi trƣờng, quan trắc tự động môi trƣờng xung quanh
2. Cảnh báo các khu vực bị ô nhiễm
1. Tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm, khu vực có nhiều nguồn thải, có nguồn thải lớn, khu vực nhạy cảm về môi trường
7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong hoạt động xả thải của doanh nghiệp
1. Tập trung vào các nguồn xả thải lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao
2. Tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm, khu vực có nhiều nguồn thải, có nguồn thải lớn, khu vực nhạy cảm về môi trường
8. Kiểm soát đặc biệt các dự án cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trƣờng cao
3. Xác lập và thực hiện chế độ giám sát, chế độ báo cáo, thanh tra, kiểm tra; chế độ quan trắc các cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm MT cao
1. Xác định 16 loại hình sản xuất công nghiệp ô nhiễm môi trường
2. Xây dựng danh mục các dự án phải kiểm soát đặc biệt dựa trên tiêu chí về quy mô xả thải, trình độ công nghệ xử lý, tính chất nguy hại, mức độ vi phạm các quy định về BVMT
9. Lập đƣờng dây nóng nhận phản ánh từ cộng đồng, các phƣơng tiện thông tin đại chúng
10. Cải tạo, phục hồi môi trƣờng sau khi dự án kết thúc
2. Xác nhận cải tạo, phục hồi môi trường sau khi dự án kết thúc
1. Xác định các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tồn lưu phải xử lý triệt để hoặc di dời