PHÁT HIỆN MỚI TRÊN TRỐNG

ĐỒNG ĐỘNG XÁ HƯNG YÊN

Trống đồng Đông Sơn là một báu vật của người Việt cổ, một giá trị

điển hình của mỹ thuật văn hóa Đông Sơn. Trên trống đồng người ta

tìm thấy lịch sử, lễ hội, mỹ thuật, kiến trúc, trang phục v.v... mọi sinh

hoạt tượng trưng được mô phỏng trong ngôn ngữ mỹ thuật tạo hình.

Người Việt thời vương quốc Văn Lang thờ thần mặt trời, vì vậy mặt

trời được thể hiện lớn trên mặt trống đồng. Giá trị của trống đồng trở

thành biểu tượng của nền văn hóa, văn minh cổ xưa cách đây 3 nghìn

năm. Thời nhà Hạ có trống một chân (Túc cổ), thời nhà Thương có

doanh cổ (trống có lỗ thông ở giữa), các hoàng đế Trung Hoa có trống

giao long (da quì) đều không thể vượt qua sự trường tồn và giá trị văn

hóa cổ của trống đồng Việt cổ. Trống đồng còn là biểu tượng cao quí,

linh thiêng của người Việt. Trong sách Tôn giáo thời tiền sử của Đông

Nam á (1) viết trống Đông Sơn là vật thiêng, làm trung gian giữa con

người và trời đất, giữa cõi sống và cõi chết. Trên mặt trống hình tia mặt

trời toả rộng, ban sự sống cho muôn loài, bao quanh các vành trang trí

muông thú, chim bay, hươu chạy, cá bơi là cõi đất, với biết bao hình

ảnh nhảy múa, thuyền bơi, sóng nước là đặc trưng của vùng Đông Nam

á. Chính vì sự cao quý linh thiêng và tượng trưng quyền lực của thủ

lĩnh người Việt, khi cần tập hợp chống ngoại xâm, đoàn kết, đều đánh

trống đồng của nhà nước Âu Lạc. Khi nhà Hán xâm lược nước ta năm

43 đã tổ chức thu vét trống đồng đem đi thủ tiêu, phá hoại văn hóa. Mã

Viện đã vơ vét trống đồng đúc thành hình con ngựa cao 3 thước - 5 tấc,

dài 4 thước - 4 tấc (cao khoảng 1m40, thân dài khoảng 1m80) để dâng

vua Hán Quang Vũ, đặt tại kinh đô Trường An. Kể từ đó, trống đồng

được người Việt bảo vệ bằng cách đem chôn giấu trong lòng đất. Cuộc

xâm lược của người Hán qua 10 thế kỷ, dưới ách đô hộ, thời gian đã

làm quên lãng, đứt gẫy văn hóa, mỹ thuật của người Việt cổ bị phủ mờ

bởi thời gian.

Khi giành lại độc lập ở thế kỷ X người Việt tìm lại cội nguồn, quá khứ

vương triều Lý đã xây dựng nơi đền thờ trống đồng ở Thăng Long, đó

là đền Đồng Cổ nay thuộc làng Đông, phường Bưởi quận Tây Hồ. Phục

hồi lại nơi thờ tại đền Đồng Cổ, huyện Yên Định, trấn Thanh Hoa. Đền

Đồng Cổ xưa xây bên bờ sông Mã, xã Đan Nê Thượng, phủ Yên Định,

nay là xã Yên Thọ, huyện Yên Định. Đây là vùng đất thuộc di tích khảo

cổ, nền văn hóa thời Hùng Vương (Đông Sơn) dưới chân núi Tam Thái

Sơn. Hàng năm, các vương triều Lý Trần, Lê Trịnh ở nước ta đều có tổ

chức quốc lễ, tại đền Đồng Cổ ở kinh đô Thăng Long. Trống đồng còn

là biểu tượng hãi hùng cho quân xâm lược. Sử sách Trung Hoa viết

rằng trong các trận giao chiến, dân Bách Việt đánh trống đồng để thị

oai. Đám quân bại trận ở Đại Việt về, còn lưu truyền câu ”Đồng cổ

thanh trung bạch phát sinh”. Nghe tiếng trống đồng sợ đến bạc tóc.

Thời nhà Trần chiến thắng quân Nguyên ba lần, đến nỗi khi sứ thần nhà

nguyên sang nước ta nghe tiếng trống đồng còn khiếp sợ để lại những

vần thơ:

Bóng lòe gươm sắt lòng thêm đắng

Tiếng rộn trống đồng tóc đốm hoa

Tuy vậy, do cuộc xâm lược với âm mưu đồng hóa người Việt, nền văn

minh Trống Đồng Đông Sơn bị bao phủ mờ, sau một nghìn năm vẫn

còn ẩn chứa nhiều điều nên ta chưa hiểu biết hết về xã hội thời Hùng

vương. Cho đến nay sau 80 năm sau khi phát hiện ra văn hóa đồ đồng

của người Việt số trống cỡ lớn loại I Hê gơ mới khoảng 80 chiếc, riêng

ở Thanh Hóa thấy khoảng hơn 60 chiếc, tổng số các loại trống nước ta

đã tìm thấy khoảng 300 trống. Kể từ năm 1924 được coi như nền văn

minh thời Hùng vương, được tìm thấy lại, bằng những di sản vật thể.

Trống đồng người Việt trở thành báu vật và niềm tự hào của các bảo

tàng như: trống sông Đà còn gọi là trống Moulié được đem trưng bày ở

Paris 1889, hiện lưu trữ tại bảo tàng Guimet; trống Khai hóa đưa đi

trưng bày ở Paris nay để ở bảo tàng dân tộc học Vienne (Museum fiir

Volkerkunde, Vienne) thế kỷ II trước công nguyên; trống Hà Nội được

Anderson mua đưa về Thụy Điển vào bảo tàng Stockhom v.v... Tuy

vậy ở nước ta cũng còn lưu giữ nhiều trống giá trị như trống Ngọc Lũ

thế kỷ III trước công nguyên, của chùa Long Đọi làng Ngọc Lũ tỉnh Hà

Nam (năm 1901 tìm thấy). Trống Hoàng Hạ tìm được năm 1932 lúc

đào sông gần làng Hoàng Hạ tỉnh Hà Đông. Hai chiếc trống này hiện

lưu tại Viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Trong gần một thế kỷ qua, các

nhà khảo cứu tốn biết bao giấy mực để tìm ra những lời giải về trống

đồng, qua những hình vẽ nổi trên trống. Nói chung ít nhiều đều được

khẳng định, trên nhiều khía cạnh, như thờ thần mặt trời, biểu hiện

quyền lực, trống Đông Sơn là mô hình vũ trụ thu nhỏ v.v... Trong nghi

lễ vương triều Việt đều có sử dụng trống đồng, sau khi dàn đại cổ đánh

ba tiếng trống lớn, trống đồng đánh ứng lên ba tiếng (2) (Kim cổ ứng

chi). Người có công sưu tầm trống đồng và khảo cứu cách đánh trống

đồng phải nói đến nguyên chủ tịch hội cổ vật Thăng Long Phan Đình

Nhân. Anh đã nghiên cứu tìm ra cách sử dụng dùi trống bọc bằng da (3)

khi đánh vào vòng vành trong mặt trống như thúc giục quân sĩ, lúc

quyết liệt, lúc ung dung. Khi dùi đánh chuyển động ra vòng ngoài, vào

trung tâm, âm thanh vang động hào hùng như vạn hùng binh, lúc réo

rắt, lúc trầm hùng như giao hòa cõi trời đất ở nơi núi sông Đại Việt.

(Không phải một nhóm người cầm gậy gõ trên trống như lễ hội diễn

hiện nay là không đúng). Theo kết quả nghiên cứu âm nhạc phạm vi

đánh các vùng trong mặt trống tạo ra các nốt nhạc khác nhau, ví dụ như

đánh vào khoảng 1-3 ta được nốt si giáng; vành 4-5 được nốt mi, nốt

pha, ở vành 7 lại si giáng (4) và ở các loại trống khác có kết quả khác

nhau nếu không cùng một loại. ở vòng ngoài vành 9 cũng lại trở lại nốt

mi. Trong trống đồng còn chứa đựng một dòng chảy mỹ thuật Việt cổ.

Để có được những hình trang trí hoa văn, người nhẩy múa, nhà cửa,

thuyền tầng, võ sĩ rõ nét, đúc trống phải có tỷ lệ hàm lượng chì cao.

Nhà nghiên cứu khảo cổ học Louis Finot nhận xét viết về trống đồng và

đồ đồng thời Hùng Vương (Đông Sơn) “Những điều thấy được trên đồ

đồng là hình ảnh của một cư dân nông nghiệp, săn bắn, đi biển, thờ vật

tổ và nhất là cách ăn mặc, rất giống trang phục của thổ dân vùng Nam

đảo”. Thật vậy, người Việt là cư dân nông nghiệp, hình ảnh trang phục

áo tứ thân được thể hiện rất rõ trong trống đồng, đồng thời đi liền với

hình ảnh con trâu, giúp người nông dân trong việc canh nông với câu :

con trâu là đầu cơ nghiệp. Hình tượng đầu trâu được gắn liền với nhiều

đồ đồng tác phẩm mỹ thuật. Hiện nay bảo tàng Hoàng gia Mariemont

(Bỉ) có sưu tập được một chiếc muôi đồng (múc canh) có cán hình đầu

trâu ở đầu cán muôi, hai sừng cong lên lớn, có gắn lục lạc, dọc theo cán

hình trang trí mô típ vặn thừng và vòng tròn đồng tâm tiếp tuyến đối

xứng. Đây là một chiếc muôi rất đặc sắc dài 22 cm, có thể là đồ sinh

hoạt của các quý tộc, thủ lĩnh bộ lạc. Hình ảnh con trâu còn được tìm

thấy trên tang trống đồng Động Xá, trâu đang gặm cỏ hai sừng cong

vênh rất lớn, trên vai trâu một con chim đang đậu, xòe cánh, mỏ dài,

bên cạnh là một tiếp tuyến trang trí tương tự cán muôi đồng. Tiếp đó là

hình đúc nổi đôi trâu đang giao cấu, trâu cái hai chân trước choãi ra,

đầu gục xuống, trâu đực tư thế dũng mãnh, chồm nhẩy lên lưng trâu

cái, đuôi cong lên, hai vai gồ sống trậu, một chân trước giơ lên, một

chân trước còn lại ấn trâu cái xuống để làm nhiệm vụ truyền lại giống

nòi. Hình vẽ rất mỹ thuật, diễn tả sinh động và đặc sắc với phong cách

hiện đại.

Trang phục áo dài tứ thân

Hình vẽ đoàn người phụ nữ mặc áo dài tứ thân cổ tròn, mặc váy lộ cả

bắp chân, khuôn mặt đẹp, mũi cao, đeo vòng khuyên tai lớn, tóc quấn

trần búi gọn phía sau, buộc theo dải lụa tỏa xuống thêm duyên dáng.

Ngồi trên thuyền hai phụ nữ cùng thư thái chèo thuyền tiến lên, đang

kéo mái chèo, thắt lưng gọn gàng. Hình vẽ tiếp theo cũng diễn tả hai

phụ nữ mặc trang phục áo dài tứ thân, nhìn nghiêng, đeo khuyên tai to,

đội mũ ống cao, phía sau có dải lụa che bao sau mũ, tỏa dài xuống.

Người nữ phía trước khăn lụa sau mũ bay lên cao. Hình vẽ hai người

phụ nữ đang cúi xuống, mạn thuyền che nửa người ,tuy vậy vẫn lộ rõ

hai vạt áo buộc dải dính nhau. Hai đầu mũi thuyền độc mộc cong vênh

lên cao, được trang trí bằng 4 vòng tròn đồng tâm. Một hình phụ nữ nối

tiếp đoàn thuyền độc mộc, ngồi chèo một mình cũng trong trang phục

áo tứ thân, bộ dạng ngồi ngay ngắn, đầu tóc quấn áp sát thân. Những

hình ảnh diễn tả đoàn người phụ nữ trong trang phục chèo thuyền, vòng

quanh tang trống, áo tứ thân trên trống Động Xá là những hình ảnh mỹ

thuật rõ nét nhất, cụ thể nhất và rất đặc sắc, hiếm hoi mà ta biết đến

hôm nay.

Trống đồng Động Xá có hình vẽ trang phục áo tứ thân, mặc váy ngắn

được phát hiện năm 1997 tại vùng đồng bằng bắc bộ, thuộc khu vực

đồng Chiêm trũng tỉnh Hưng Yên. Nơi đây quy tụ sinh sống của người

Việt cổ. Trống được phát hiện khi đào mương, tại đây khảo cổ học phát

hiện ra một khu nghĩa địa lớn của người Việt cổ đại. ở nghĩa địa này có

72 ngôi mộ chôn theo kiểu dát giường và có một trống trông theo.

Trống Động Xá gồm một ngôi sao 9 cánh tia, giữa là mặt trời gỗ tròn,

gồm nhiều vòng tròn tiếp tuyến, có 4 con chim Lạc bay ngược chiều

kim đồng hồ. Đặc biệt bốn góc là bốn con chẫu tràng nhỏ bé, dáng ngồi

rất sinh động. Những con chẫu tràng rất gần gũi trong nông nghiệp của

đồng chiêm vùng bắc bộ, mang tính bản địa, cư dân rất cao. Nhìn từ

góc độ mỹ thuật, những hình vẽ rất hiện thực, bằng nét nổi lên trong

trang phục, kiểu nét đồ họa là rất hiếm hoi mà tôi được thấy trong các

loại trống đồng. Các biểu tượng hình người thường đã được cách điệu,

ước lệ bằng hình kỷ hà (hình học) chỉ mang phong cách tạo dáng để ta

còn phải suy đoán. ở đây sự diễn tả hình phụ nữ mặc trang phục, nhiều

dáng điệu ngồi trên thuyền độc mộc rất gần với sinh hoạt thường ngày

của cư dân nông nghiệp người Việt cổ, với đường nét sinh động, hiện

thực.

Trong khu mộ cổ Động Xá người ta còn tìm thấy hơn 20 miếng vải làm

từ những băng sợi lanh màu nhuộm chàm. Nền vải chính dệt xen kẽ

những sợi gai cho thấy đa dạng trong kiểu cách thời bấy giờ. Khu mộ

táng hình thuyền ở Động Xá huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên. Từ 1200

miếng vải to nhỏ khai quật được phát hiện ra 7 loại vải khác nhau gồm

các chất liệu lanh, gai, lụa. Trang phục thời kỳ này đã được phản ảnh

trong trống đồng Động Xá, hiện rõ nét dần lên, trong lịch sử trang phục

thời Hùng Vương cổ đại (5). Những đồ tuỳ táng, nguồn gốc các loại vải

dệt, kiểu áo tứ thân trong trống Động Xá làm phong phú cho lịch sử,

giai đoạn vương quốc Văn Lang của người Việt cổ, trước khi bị Hán

xâm lược. Tôi muốn được giới thiệu trong mỹ thuật hôm nay một cách

vẽ hiện thực.

Trịnh Quang Vũ

(1) Sách của nhà khảo cổ người Anh H.G Quarich Wales

(2) Lê Triều hội điển, Lịch triều hiến chương loại chí

(3) Da nguyên bừu của con dê đực

(4) Cao Xuân Hạo - báo GĐ và XH

(5) Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam NXBVHTT

2007