LỜI CAM ĐOAN
Tôi khẳng định đây là công trình nghiên cứu của
riêng tác giả. Các số liệu, kết quả được trình bày trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Mai Thị Trang
MỤC LỤC
Trang
5
TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1. 1.2.
24
29
2.1.
29
2.2.
52
71
3.1.
71
3.2.
10 ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Các công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án 10 Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN Quan niệm phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên Một số nhân tố cơ bản quy định phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên Chương 3. PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Thực trạng phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay Dự báo những nhân tố tác động và vấn đề đặt ra đối với phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
104
117
4.1.
117
4.2.
132
4.3
Chương 4. GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm và năng lực của các chủ thể đối với phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững tây nguyên hiện nay Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả các hoạt động định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên
141 157
159 160 172
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Tây Nguyên là vùng chiến lược trọng yếu của quốc gia trong kháng
chiến cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là vùng cao nguyên đất
đỏ, có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, với một kho tàng văn hoá đầy bí ẩn và
đa sắc màu, sinh động trong sự thống nhất với văn hóa các dân tộc khác của
nước ta. Kho tàng văn hoá đấy, đã tạo nên những giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số Tây Nguyên độc đáo. Đó là: Thứ nhất, khai thác và ứng xử hài hoà với môi
trường tự nhiên, có sự thích ứng cao với các điều kiện, hoàn cảnh sống, biểu
hiện qua tâm thức rừng và phương thức canh tác vừa khai thác vừa giữ gìn
được rừng của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên; Thứ hai, điều tiết các quan
hệ xã hội trong sự ổn định hài hoà, biểu hiện qua thiết chế buôn làng tự quản
với hệ thống luật tục và toà án phong tục của tộc người dân tộc thiểu số Tây
Nguyên; Thứ ba, tính phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng tạo, biểu hiện qua
các hoạt động nghệ thuật dân gian đa sắc màu và tay nghề thủ công khéo léo
của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên; Thứ tư, tính cố kết cộng đồng, đề cao
buôn làng trong hoạt động tín ngưỡng, lễ hội phong phú và trong hệ thống
kiến trúc của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Thứ năm, đề cao vai trò của
người phụ nữ trong văn hoá mẫu hệ vẫn còn ghi dấu ấn trong xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh mới, sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta nói chung
và Tây Nguyên nói riêng, đều hướng đến mục tiêu cơ bản là bảo đảm phát
triển bền vững. Trên thế giới, nhiều nước lựa chọn con đường, cách thức
phát triển kinh tế theo lý thuyết phát triển gắn với chấp nhận hy sinh môi
trường, hy sinh sự ổn định xã hội và đã phải trả giá đắt. Quá trình tìm tòi,
nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra một thực tế, phát triển hiện nay
phải mang đặc trưng của phát triển bền vững và là một trong những cơ sở
khoa học cho phát triển ấy phải là văn hoá. Trong xu hướng chung đó, Đảng
ta đã kịp thời có các quan điểm cụ thể về văn hóa và vai trò văn hóa đối với
6
phát triển bền vững. Xét đến cùng, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên, là quá trình các chủ thể có nhận thức đầy đủ về các giá trị văn hoá, từ
đó tiến hành bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá đó. Sau đó, thông qua các
hoạt động cụ thể, định hướng các giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền
vững Tây Nguyên. Quá trình này trước mắt đã thu được những thành tựu nhất
định. Các chủ thể đã nhìn nhận, hiểu đúng được về vai trò của giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Thực hiện bảo tồn có hiệu
quả các giá trị văn hoá của vùng, qua đó phát triển có chọn lọc các giá trị đó để
phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Trên cơ sở đó, đã định hướng các giá
trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong các trụ cột của phát triển bền vững như
kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân khách quan và
chủ quan, mà quá trình nhận thức của các chủ thể vẫn chưa được đồng đều, hoạt
đồng bảo tồn đáp ứng được số lượng, nhưng vẫn vấp phải một số hạn chế về
chất lượng. Quá trình định hướng các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong
phát triển bền vững vẫn chưa khai thác được hết các thế mạnh của giá trị văn hoá,
vào phát triển kinh tế, ổn định xã hội và môi trường Tây Nguyên.
Để quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào phát triển bền
vững Tây Nguyên được hiểu quả. Cần phải tập trung thực hiện đồng bộ, có
hiệu quả các giải pháp thiết thực. Như nâng cao trách nhiệm và năng lực của
các chủ thể đối với phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên; nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn và phát triển
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số; nâng cao hiệu quả các hoạt động định hướng
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Nghiên cứu về phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên chính là cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn, và những luận cứ khoa
học, để thống nhất nhận thức, nhằm định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào
7
thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên. Đồng thời, xác lập được hệ thống các
giải pháp đồng bộ, góp phần tạo ra động lực vật chất và tinh thần to lớn, để
phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên,
là vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù đã có một số
công trình nghiên cứu về giá trị văn hoá, hệ giá trị văn hoá, phát triển bền vững
Tây Nguyên, nhưng nhìn tổng quan, chưa có công trình khoa học độc lập nào
luận giải một cách hệ thống, cơ bản về phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ là
vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;
Làm rõ thực chất và những yếu tố quy định phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên;
Đánh giá thực trạng, dự báo nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra cho
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên hiện nay;
Đề xuất những giải pháp cơ bản phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên.
8
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan và tập trung vào những nội dung
thuộc bản chất của văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong mối quan hệ
với phát triển bền vững Tây Nguyên. Đề tài chỉ nghiên cứu giá trị văn hoá của
các dân tộc thiểu số tại chỗ mà không nghiên cứu các giá trị văn hoá của các
dân tộc thiểu số di dân đến. Khảo sát thực tiễn một số địa bàn trên 5 tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Cụ thể như: huyện Đắk Hà,
huyện Ngọc Hồi, thành phố Kon Tum của tỉnh Kon Tum; Huyện Kbang,
huyện Chư Prông, huyện Đắk Đoa, thành phố Pleiku của tỉnh Gia Lai; huyện
Đơn Dương, huyện Đức Trọng và huyện Lạc Dương, thành phố Đà Lạt của
tỉnh Lâm Đồng; huyện Buôn Đôn, thành phố Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắk
Lắk. Khảo sát trong một khoảng thời gian dài kể từ sau đổi mới 1986, nhưng
tập trung hơn từ năm 2006 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án
Dựa vào hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam, về văn
hoá, văn hoá dân tộc thiểu số, về phát triển bền vững; về phát huy vai trò văn
hoá dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng trong
phát triển bền vững đất nước, phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
Cơ sở thực tiễn của luận án
Dựa vào lịch sử phát triển và thực trạng phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên trong phát triển bền vững. Kết quả nghiên cứu thực tiễn của
tác giả về phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; trừu tượng hoá và khái quát hóa; hệ
9
thống và cấu trúc; phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học thông qua bảng
hỏi và phỏng vấn sâu; phương pháp tiếp cận giá trị; phương pháp nghiên cứu
tài liệu (các báo cáo tổng kết) và phương pháp xin ý kiến chuyên gia. Ngoài ra,
luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành triết học -
văn hoá học để nghiên cứu đề tài.
5. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần làm rõ quan niệm về giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên;
Góp phần làm rõ thực trạng, dự báo những nhân tố tác động tới phát huy giá
trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên;
Góp phần làm rõ những yếu tố quy định phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số trong phát triền bền vững Tây Nguyên;
Các giải pháp cơ bản được đề xuất có tính đặc thù và khả thi nhằm phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triền bền vững Tây Nguyên hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Góp phần bổ sung và làm rõ quan niệm và thực chất phát huy giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần luận cứ khoa học để lãnh đạo,
quản lý các cấp, các ngành tham khảo chỉ đạo hoạt động thực tiễn giữ gìn,
phát triển, vận dụng giá trị văn hóa dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả phát
huy giá trị đó trong nhiệm vụ chiến lược phát triển bền vững Tây Nguyên.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy,
học tập, giáo dục văn hóa, triết học ở các trường, hệ thống giáo dục quốc dân
và những người quan tâm đến vấn đề này hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục, Danh mục các công trình của tác giả đã được công bố
liên quan đến luận án
10
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa và giá
trị văn hoá
* Về văn hóa
Văn hóa là lĩnh vực luôn được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm
tìm hiểu. Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa, có nội hàm rất rộng, xuất phát từ
tiếng La Tinh “culture” với nghĩa đen là trồng trọt ngoài đồng ruộng, nghĩa bóng
là giáo dưỡng, vun đắp, phát triển con người. Ở phương Đông, ngay từ thời cổ
đại, khái niệm văn hóa được hiểu với nghĩa “văn trị giáo hóa”, tức lấy “văn” để
giáo hóa thiên hạ. Kế thừa khái niệm văn hóa của nhà nhân học người Anh E.B
Taylo (2019), trong “Văn hóa nguyên thủy” [117], tới nay đã có hơn 400 khái
niệm. Năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là AL. Conrobo và C. Colackhon
đã đưa ra thống kê từ năm 1871 đến năm 1950 có tới 164 định nghĩa văn hóa.
Năm 1967, nhà xã hội học người Pháp A.Molo cho biết có 250 định nghĩa. Các
nghiên cứu của AV. Lunatsaroxki, Pn. Phedoxeep, AG. Egorop, GI. Goman, AK.
Uledop và LN. Cogan dưới góc độ triết học, xã hội học; chỉ ra sự tương tác chặt
chẽ giữa văn hóa và nhân cách, đồng thời khẳng định sự tồn tại trọn vẹn của con
người, sự phát triển toàn diện lực lượng sáng tạo, trí tưởng tượng, đời sống tình
cảm, cũng như đời sống thể lực của con người, đó là các hiện tượng cơ bản của
văn hóa. Khi nói đến văn hóa, không chỉ có ý nói đến các kết quả hoạt động sáng
tạo, mà còn nói đến cả tính chất sáng tạo ấy, trong chừng mực nó góp phần phát
triển tiềm năng tinh thần của con người vào toàn bộ các quan hệ lý luận, kinh tế,
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ của con người với thực tại.
Về văn hóa trong điều kiện Chủ nghĩa xã hội phát triển, nghiên cứu của
tác giả AV. Lunatsaroxki, PN. Phedoxeep, AG. Egorop, GI. Gomman, AK.
11
Uledop đã luận chứng khá sâu sắc dưới góc độ triết học, khẳng định sự tồn tại
trọn vẹn của con người, sự phát triển toàn diện của lực lượng sáng tạo, trí
tưởng tượng, đời sống tình cảm cũng như đời sống thể lực của con người là
các hiện tượng cơ bản của văn hóa.
Hiện nay, khái niệm văn hóa cũng được hiểu hết sức khác nhau.
Rodentan định nghĩa văn hóa với nghĩa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần mà con người đã sáng tạo ra gắn liền với quá trình sản xuất của
mình. Fedérico Mayor - Tổng thư ký UNESCO, tiếp cận văn hóa theo nghĩa
là toàn bộ diện mạo đặc trưng khắc họa nên bản sắc dân tộc, UNESCO nhìn
nhận văn hóa theo nghĩa rộng rãi nhất: đó là một phức thể tinh thần, vật chất,
trí thức, tình cảm; khắc họa trên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm,
làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội và coi văn hóa là một tổng thể những hệ
thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong cộng đồng, khiến
cộng đồng ấy có đặc thù riêng; Bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá
một sự việc, một hiện tượng theo cộng đồng ấy.
Quán triệt quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, nghiên
cứu của các tác giả: Phan Ngọc (2005), trong cuốn “Văn hóa Việt Nam và
cách tiếp cận mới”[93], cho rằng văn hóa là dấu ấn của một cộng đồng “lên
mọi hiện tượng tinh thần, vật chất, mọi sản phẩm của thể cộng đồng này từ tín
ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp bán ra thị trường” [93, tr.
16]; Trường Lưu (1998) với cuốn “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội”[81];
Trần Ngọc Thêm (1999) với “Cơ sở văn hóa Việt Nam [126]”; Đỗ Huy (2001)
với “Cơ sở triết học của văn hóa nghệ thuật Việt Nam Nam [63]; Nguyễn Văn
Huyên (2001) với “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam
trong thế kỷ mới” [67]; Phan Ngọc (2004) với “Bản sắc văn hóa Việt Nam”
[92], “Một nhận thức về văn hóa Việt Nam” [94]… Các quan niệm văn hóa
qua những định nghĩa đa dạng của các tác giả nhưng chung quy đều được biểu
hiện ở những phương diện như sau:
12
Thứ nhất, văn hóa tồn tại tổng thể trong những sản phẩm vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra, phản ánh cái chân, thiện, mỹ và sự hiện thực
của nó thông qua hoạt động sống của con người trong tiến trình lịch sử.
Thứ hai, văn hóa được biểu hiện ra với những chuẩn mực, cách thức ứng
xử, phong tục, tập quán, hình thái sinh hoạt vật chất và tinh thần. Những giá
trị đó được con người sáng tạo và phát triển trong các mối quan hệ của họ với
tự nhiên, xã hội và bản thân, đánh dấu trình độ phát triển của “bản chất người
trong lịch sử xã hội”, chi phối trở lại đời sống và hoạt động của con người
trong một cộng đồng nhất định.
Thứ ba, bản chất của văn hóa là sáng tạo và nhân văn theo tiêu chí chân,
thiện, mỹ của mỗi cộng đồng người. Sự thống nhất giữa cái chân, cái thiện và
cái mỹ là quy luật của tiến bộ xã hội về mặt văn hóa. Tiếp cận văn hóa theo
các phương diện trên đây có ý nghĩa căn bản để nghiên cứu giá trị văn hóa.
* Về giá trị văn hóa
Về giá trị văn hóa cho đến nay đã có không ít những nghiên cứu, những
quan niệm khác nhau. Nghiên cứu của tác giả Echacdon (1987), trong cuốn
“Giá trị cuộc sống giá trị văn hóa” [43], cho rằng giá trị văn hóa là tất cả
những gì góp phần thúc đẩy sự phát triển năng lực sản xuất của cá nhân và xã
hội, cũng như trên lĩnh vực xây dựng các quan hệ xã hội, chính trị, nghệ thuật,
khoa học và giáo dục; Tác giả La Quốc Kiệt (2003), trong cuốn “Tu dưỡng
đạo đức tư tưởng”[71] đưa ra quan điểm về “giá trị nhân cách”, coi đó là sự
thống nhất giữa giá trị bản thân và giá trị xã hội; đưa ra nội dung yêu cầu và
con đường bồi dưỡng, xây dựng giá trị nhân cách.
Tác giả Đào Duy Anh (2013) là một trong những học giả đầu tiên ở Việt
Nam trình bày giá trị văn hóa dân tộc thành hệ thống. Trong công trình “Việt
Nam văn hóa sử cương” [1], ông đã trình bày 7 giá trị có thể coi là bản sắc
văn hóa Việt Nam, đó là: Sức ký ức (trí nhớ) tốt, thiên về nghệ thuật và trực
13
giác; Ham học, thích văn chương; Ít mộng tưởng (thiết thực); Sức làm việc
khó nhọc (cần cù) ở mức ít dân tộc nào bì kịp; Giỏi chịu khổ và hay nhẫn
nhục; Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa; Khả
năng bắt chước, thích ứng và dung hòa rất tài.
Tác giả Nguyễn Duy Bắc và các cộng sự (2008), trong công trình “Sự biến
đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay” [7] khẳng định: “Giá trị văn hóa là giá trị phản ánh năng lực sáng
tạo vươn tới các giá trị nhân văn của con người trong hoạt động thực tiễn xã hội”
[7, tr. 277]. Tác giả Hoàng Chí Bảo (2010) trong “Thanh niên với việc chọn nghề
để lập thân, lập nghiệp” [7] khẳng định “tính phổ biến, phổ quát của văn hóa - ở
đó, con người - dân tộc và nhân loại gặp gỡ nhau, đó chính là chân - thiện - mỹ.
Đây là giá trị đích thực, bền vững của một nền văn hóa, của các nền văn hóa, các
thời đại văn hóa trong lịch sử nhân loại” [6, tr. 50]. Tác giả Nguyễn Trọng
Chuẩn (1998) trong “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển [28] cho rằng “khi nói đến giá trị truyền thống thì hàm ý đã muốn nói tới
những giá trị tương đổi ổn định, tới những gì là tốt đẹp, là tích cực, là tiêu biểu
cho bản sắc văn hóa dân tộc, có khả năng truyền lại qua không gian, thời gian,
những gì cần bảo vệ và phát triển” [28, tr. 16]
Công trình của tác giả Trần Văn Giàu (2001) “Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam” [43]. Từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học,
đã đưa ra những kiến giải sâu sắc và có hệ thống về nguồn gốc cũng như nội
dung các giá trị truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam. Các đức tính tốt
đẹp như yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa được tác giả luận giải sâu sắc, trình bày có hệ thống và khoa học với ý
nghĩa như một “hằng số”, một bảng giá trị tinh thần của người Việt. Những
giá trị đó, theo tác giả đã được định hình ngay từ thời dựng nước, phát triển
độc lập, không bị đồng hóa bởi tác động từ bên ngoài.
14
Tác giả Nguyễn Văn Huyên (1995) với công trình “Một số chuẩn mực giá
trị ưu trội khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường” [65]. Tác giả đã phân
tích sự chuyển đổi một số giá trị khi nền kinh tế nước ta chuyển từ mô hình
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Những nhận định này hiện nay
vẫn tiếp tục diễn ra và có những biến đổi to lớn hơn. Chẳng hạn sự chuyển biến
từ tư duy tiểu nông sang tư duy kinh tế hàng hóa, chủ nghĩa bình quân sang kiểu
phân phối dựa trên tài năng và cống hiến, giá trị cá nhân không còn bị miệt thị
mà được đề cao bên cạnh giá trị cộng đồng, tồn tại hài hòa với giá trị cộng đồng.
Đáng chú ý, tác giả nhận định: “Giờ đây cơ chế thị trường đã đề cao tiêu chí giá
trị được bổ sung và thậm chí đề cao ý nghĩa thực tế, thực dụng; sự thiên lệch về
ý chí và tinh thần đang dần được chuyển ưu tiên cho hoạt động vật chất, đề cao
giá trị kinh tế, từ chỗ chỉ trọng nông nay cả được trọng thương; sự giàu có về
tinh thần được gia tăng thêm sự giàu có về vật chất” [65, tr. 10].
Các tác giả Nguyễn Văn Tài và Văn Đức Thanh (2010) với công trình “Hệ
giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử giữ nước của dân tộc” [115].
Các tác giả đã phân tích yếu tố đồng đại và lịch đại, khái quát hệ giá trị quân sự
phong phú, có bề dày lịch sử, mang bản sắc dân tộc và đặc trưng Thăng Long -
Hà Nội. Chỉ ra những chiến công, sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử tiêu biểu,
những đóng góp có giá trị về mặt quân sự tiêu biểu. Đặt giá trị văn hoá quân sự
của Thăng Long Hà Nội trong tương quan với thủ đô các nước. Từ đó, đề xuất
một số vấn đề cơ bản về phát huy hệ giá trị văn hoá quân sự đó trong sự nghiệp
bảo vệ thủ đô Hà Nội ngày nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong
thời gian dài chưa có sự quan tâm đầy đủ nên chưa hình thành được những
cơ sở khoa học cần thiết, gần đây, công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai” của tác giả Trần
Ngọc Thêm (2016) [127] đã trình bày vấn đề nghiên cứu này có tính hệ
thống. Tác giả nhận định việc xây dựng một hệ giá trị mới phù hợp hơn,
15
giúp cho quốc gia dân tộc có đủ khả năng miễn dịch, đảm bảo sự phát triển
kinh tế phải đi đôi với sự phát triển văn hóa - con người. Theo quy luật
phát triển, hệ giá trị mới sẽ tự phát hình thành.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong đổi mới
hội nhập” (2013), [78] với 47 tham luận, trong đó có 16 tham luận đề cập
những vấn đề chung về hệ giá trị văn hóa Việt Nam, 31 tham luận đề cập đến
biểu hiện của hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong những lĩnh vực cụ thể như đô
thị, nông thôn, các loại hình nghệ thuật, văn hóa dân gian, gia đình, dòng họ,
cá nhân… bộc lộ sâu sắc bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.
Các công trình trên đã tiếp cận bản chất của giá trị văn hóa là sáng tạo, luôn
tồn tại và phát triển, khẳng định sức sống, trường tồn của văn hóa các dân tộc.
Để không chệch khỏi quỹ đạo văn hóa dân tộc, đều nhất thiết phải nắm bắt và
khôi phục lại tinh thần gốc của truyền thống trên tinh thần khoan dung văn hóa.
Bằng cách tiếp cận khác nhau, dưới góc độ triết học, quan niệm của các
tác giả về giá trị và giá trị văn hóa có điểm thống nhất sau:
Thứ nhất, về thực chất giá trị văn hóa là toàn bộ sự đa dạng của hoạt
động người, của các quan hệ xã hội, bao gồm cả những hiện tượng tự nhiên
liên quan, nhằm đem lại lợi ích cho con người.
Thứ hai, giá trị văn hóa là toàn bộ thế giới bên trong và bên ngoài con
người được hiện hình trong tư duy và tình cảm của con người với tính cách là
khuôn thước của sự đánh giá. Giá trị là sự đánh giá được nảy sinh trong quan
hệ giữa chủ thể với khách thể, mang ý nghĩa người ở trong đó và luôn mang
tính khách quan, nhưng việc sắp xếp, đánh giá thang bậc giá trị lại do chủ
quan của con người.
Thứ ba, giá trị văn hóa mang tính lịch sử và được hình thành trong hoạt
động của con người, đồng hành với đời sống của con người, giá trị luôn mang
tính tích cực và có tính lịch sử bởi lẽ giá trị cũng biến đổi và không ngừng
được bồi đắp thêm.
16
Thứ tư, giá trị văn hóa được coi là cái có ý nghĩa trong một cộng đồng xã
hội, trong những điều kiện nhất định đóng vai trò điều tiết mọi hoạt động của
con người theo hướng tiến bộ. Giá trị xã hội, thể hiện sự phát triển trình độ người
ngay trong con người và cộng đồng, thể hiện dấu ấn chân, thiện, mỹ trong tổng
thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người và cộng đồng người sáng tạo ra.
Thứ năm, đưa ra quan niệm giá trị văn hóa như tổng thể các giá trị cuộc sống
và làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị chân, thiện, mỹ trong xã hội.
Thứ sáu, đưa ra cấu trúc giá trị văn hóa gồm trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo, thế giới quan, văn hóa chính trị, kiến thức kinh
tế, thái độ lao động, kỷ luật lao động, các quy tắc đạo đức, sự phát triển năng
khiếu thẩm mỹ và thể lực.
Đó là những luận cứ khoa học, là tiền đề có giá trị nghiên cứu, tiếp thu,
vận dụng vào trong luận án, tuy nhiên còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa
thống nhất về phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên. Đó là những gợi ý cho luận án nghiên cứu.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên và giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa dân tộc thiểu số
Tác giả Nguyễn Như Ý (1999) trong Đại từ điển tiếng Việt [159] dân tộc
thiểu số được hiểu là: “Dân tộc chiếm số ít, so với dân tộc chiếm số đông nhất
trong một nước có nhiều dân tộc”. Theo đó, văn hóa dân tộc thiểu số là tổng
hợp tất cả những giá trị về vật chất, tinh thần trong đời sống của cộng đồng
người dân tộc thiểu số, do cộng đồng dân cư của họ sáng tạo ra trong quá
trình sinh tồn và phát triển, theo tiêu chí chân - thiện - mỹ.
Có nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về văn hóa dân tộc thiểu
số, như: Nhóm tác giả Roy Ellen, Peter Parkes, Alan Bicker (2010) với công
trình “Tri thức bản địa về môi trường và những biến đổi Các quan điểm nhân
học phê phán” [44]. Đã chỉ ra những đặc điểm phổ biến nhất của tri thức bản
17
địa như: Mang tính địa phương; Là tri thức được truyền miệng, hoặc được
truyền qua hình thức mô phỏng hoặc mô tả; Là hệ quả của các gắn kết thực tế
trong đời sống hằng ngày và liên tục được củng cố bằng kinh nghiệm; Có xu
hướng là loại kiến thức mang tính thực tiễn và giả thiết - kinh nghiệm nhiều
hơn là mang tính lý thuyết đúng nghĩa…
Nhiều tác giả (2009), trong tác phẩm “Tri thức bản địa và văn hóa sinh
thái của các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam về môi trường và bảo vệ môi
trường” [102]. Bao gồm nhiều bài viết, chỉ ra quan niệm về dân tộc bản địa
trở thành một vấn đề nổi cộm khi nghiên cứu về văn hóa dân tộc thiểu số,
nhất là trong bối cảnh sự di cư, nhập cư, giao lưu tiếp biến văn hóa xảy ra như
một xu thế không thể cưỡng lại của tiến trình phát triển văn hóa.
Một nghiên cứu của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1984) “Các dân
tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)” [127]. Bằng cách tiếp cận dân
tộc học và văn hóa học, cuốn sách đã thể hiện được những vấn đề cơ bản về
điều kiện tự nhiên, dân cư, ngôn ngữ, lịch sử tộc người, thành phần dân tộc,
kinh tế, xã hội, văn hóa, trình bày về từng dân tộc, quá trình các dân tộc tham
gia chống chủ nghĩa đế quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện
những yêu cầu thực tiễn của đất nước, nhất là những vùng dân tộc thiểu số, cụ
thể là những dân tộc ít người đã sinh sống lâu đời tại những tỉnh phía Nam,
được quan niệm là cộng đồng người bản địa ở khu vực này.
Tác giả Phan Hữu Dật (2018) với công trình “Một số vấn đề về dân tộc
học Việt Nam” [30] Công trình lý giải nguồn gốc của các dân tộc trên thế giới
và mối quan hệ đối với các dân tộc ở Việt Nam, lý giải các luồng di cư để
kiến tạo nên diện mạo một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa của nước ta qua
các thời kỳ đến tận ngày nay. Từ đó có cái nhìn sâu sắc về truyền thống văn
hóa của các tộc người ở các địa phương. Đặt văn hóa trong tương quan với sự
phát triển, liệu có phải việc lưu lại những giá trị cổ xưa sẽ kéo lùi sự phát triển
chung của xã hội?
18
Tác giả Trương Bi (2011), với cuốn “Lễ hội truyền thống dân tộc
Êđê”[15] nghiên cứu bài bản, công phu về hệ thống lễ hội truyền thống của dân
tộc Ê Đê. Dù năng suất lao động không cao nhưng văn hóa nương rẫy là đặc
điểm nổi bật của gia đình mẫu hệ Ê Đê. Nó là điều kiện cơ bản để tạo nên nghi lễ
- lễ hội vòng đời người và nghi lễ - lễ hội nông nghiệp độc đáo của cộng đồng
người Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk. Đáng chú ý là phần lớn nghi lễ ở Tây
Nguyên chỉ có lễ mà không có hội, như lễ bỏ mả, lễ hỏi, lễ cưới, lễ cúng sức
khỏe… Do đó, tính lễ ở đây được đề cao, tính hội rất mờ nhạt. Về sau, cùng với
quá trình di cư, tính hội ngày càng xâm nhập sâu vào văn hoá Tây Nguyên.
Tác giả Buôn Krông Tuyết Nhung (2012), với cuốn “Văn hóa mẫu hệ qua
sử thi Ê đê”[104]. Công trình trên cơ sở khảo sát văn hóa mẫu hệ Ê Đê trong
đời sống tộc người, đã tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa mẫu hệ Ê Đê được biểu
hiện qua hệ thống đề tài, qua hệ thống nhân vật nữ để đối chiếu văn hóa mẫu hệ
qua văn học với thực tiễn, cũng như tìm hiểu, đánh giá sự tiếp nhận văn hóa
mẫu hệ của cộng đồng. Khám phá thêm những nét độc đáo của văn hóa mẫu hệ
được thể hiện trong sử thi, góp phần khẳng định thêm giá trị lịch sử - văn hóa
và chức năng văn hóa - nghệ thuật của sử thi Ê Đê trong xã hội Ê Đê hiện nay,
làm cơ sở cho công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Các công trình này đã nghiên cứu công phu, có chiều sâu về các vấn đề
xoay quanh nguồn gốc, đời sống, văn hóa, phong tục, tập quán, hướng phát triển
và con người của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam trên cả nước. Cụ thể:
Thứ nhất, nước ta có một nền văn hóa phong phú đa dạng, biểu hiện sâu
sắc qua đời sống văn hóa của hệ thống tộc người dân tộc thiểu số.
Thứ hai, mỗi dân tộc đều có lối sống, phong tục tập quán, hình thức canh tác, tín
ngưỡng... mang bản sắc riêng, gắn liền với cuộc sống, tập quán và địa hình cư trú.
Thứ ba, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số đang đứng trước
nguy cơ bị “đồng hóa”, hòa tan và mai một. Đặt ra một vấn đề cấp thiết về
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững.
19
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên
Tác giả Nguyễn Tuấn Triết (2007), với công trình “Tây Nguyên những
chặng đường lịch sử văn hóa” [138]. Dưới cái nhìn lịch sử - văn hóa, cuốn sách
mang đến những nhận định toàn diện, sâu sắc về những đặc điểm và quá trình lịch
sử - văn hóa của Tây Nguyên. Tác giả Henri Maitre (1912) với công trình “Rừng
người Thượng - vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam” [55]. Đến nay,
đây vẫn được xem là công trình khảo sát toàn diện và cơ bản nhất về Tây Nguyên.
Thiên nhiên và con người Tây Nguyên, hệ thống núi non trùng điệp, hệ thống
sông ngòi chằng chịt, hệ thực vật và động vật hết sức phong phú, khí hậu và thời
tiết, diện mạo và lịch sử con người… tất cả đều được quan sát bằng một con mắt
chăm chú và tinh tế, được mô tả và bao quát tỉ mỉ, chi tiết đến kinh ngạc, hết sức
khách quan mà vẫn không kém phần bay bổng, chặt chẽ khoa học mà lại lôi cuốn
như một bút ký dân tộc học dưới một giọng văn lão luyện.
Nhiều tác giả (2009) trong cuốn sách “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên” [101] với 54 bài viết đầy chất lượng về cồng chiêng Tây Nguyên, đã
khắc họa được các yếu tố đặc điểm lịch sử, văn hóa, tập tục và sinh kế gắn
liền với cồng chiêng. Cồng chiêng gắn liền với toàn bộ đời sống sản xuất,
sinh kế và tinh thần của con người Tây Nguyên từ khi mới lọt lòng mẹ cho
đến khi trở về với Yang trong rừng thiêng.
Nhóm tác giả Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu (2012)
với công trình “Luật tục Ê Đê (Tập quán pháp)” [129]. Trong công trình, Luật
tục Ê Đê được chia làm 11 chương với 236 điều, trong đó vấn đề hôn nhân được
chú trọng hàng đầu và có nhiều quy định nhất (48 điều) và cũng chặt chẽ nhất.
Có thể nói: Bộ Luật tục là những trang sử truyền khẩu được ghi chép lại, nó
phản ánh sắc nét chân dung một tổ chức xã hội mẫu hệ còn khá điển hình trên
cao nguyên miền Trung nước ta vào những thập niên đầu của thế kỷ XX.
20
Tác giả Trương Bi (2011) với công trình “Lễ hội truyền thống dân tộc Ê
Đê” [15] nghiên cứu bài bản, công phu về hệ thống lễ hội truyền thống của
dân tộc Ê Đê. Dù năng suất lao động không cao nhưng văn hóa nương rẫy là
đặc điểm nổi bật của gia đình mẫu hệ Ê Đê, cũng là tiền đề tạo nên hệ thống
nghi lễ - lễ hội của người Ê Đê.
Tác giả Buôn Krông Tuyết Nhung (2012) với công trình “Văn hóa mẫu hệ
qua sử thi Êđê” [104], qua nghiên cứu các tác phẩm sử thi nổi tiếng của người Ê
Đê, đã tái hiện được đặc trưng văn hóa mẫu hệ tồn tại lâu đời nơi đây; cùng
những nét độc đáo của văn hóa mẫu hệ được thể hiện trong sử thi, góp phần
khẳng định thêm giá trị lịch sử - văn hóa và chức năng văn hóa - nghệ thuật của
sử thi Ê Đê, làm cơ sở cho công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những công trình này có nhiều cách tiếp cận về các biểu hiện giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, tựu chung lại đều có những quan niệm như sau:
Thứ nhất, khẳng định tính đa dạng, phong phú và độc đáo riêng có của
văn hóa tộc người ở Tây Nguyên.
Thứ hai, khẳng định sức sống lâu bền của các giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên suốt chiều dài lịch sử.
Thứ ba, vấn đề bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên được đặt lên hàng đầu trong các công trình nghiên cứu.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phát triển bền vững và
phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phát triển bền vững
và vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Tác giả Lê Hồng Lý (2014) với công trình “Vai trò của văn hóa và lối
sống trong phát triển bền vững Tây Nguyên” [82]. Đã sử dụng quan điểm tiếp
cận chỉnh thể (holistic approach) của ngành nhân học trong việc nghiên cứu
và đánh giá văn hóa của các tộc người ở Tây Nguyên, cũng như mối quan hệ
của văn hóa với phát triển. Đây là hệ thống quan điểm đầy thuyết phục về
việc ảnh hưởng của làn sóng di cư đến toàn bộ đời sống sinh kế, tập tục, văn
21
hóa Tây Nguyên. Tác giả cũng nhận định, làn sóng di cư đã đặt ra nhiều thách
thức đối với văn hóa Tây Nguyên, nhưng đồng thời cũng góp phần không nhỏ
vào việc làm thay đổi diện mạo vùng đất này.
Tác giả Hà Huy Thành (2014) với công trình “Xây dựng luận cứ khoa học
cho việc bổ sung và đổi mới hệ thống thể chế cho phát triển bền vững Tây
Nguyên” [124]. Đã tổng hợp, phân tích quy trình ban hành, thực thi và giám sát
đánh giá hiệu quả của văn bản chính sách của Trung ương và địa phương về kinh
tế - văn hóa - xã hội - môi trường - an ninh quốc phòng cho 5 tỉnh Tây Nguyên.
Đề tài cấp nhà nước của tác giả Nguyễn Văn Tài (2014) về “Vấn đề
quốc phòng và an ninh trong phát triển bền vững Tây Nguyên” [116]. Đã
khẳng định tiến trình quốc phòng và an ninh trong mối quan hệ với phát triển
kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên từ 1986 đến nay đạt những thành tựu to lớn,
song so với tiêu chí phát triển bền vững còn bộc lộ không ít bất cập. Để đảm
bảo, tăng cường quốc phòng an ninh trong phát triển bền vững Tây Nguyên
thời kỳ mới phải dựa trên sự xác định quan hệ quan điểm, mô hình được tham
chiếu từ lược khảo kinh nghiệm lịch sử và phù hợp với tính đặc thù của vùng.
Tác giả Nguyễn Văn Thanh (2012) với bài báo “Tư tưởng của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự
nhiên với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay” [120]. Đã khẳng định tư
tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa con
người, xã hội và tự nhiên là tư tưởng mang tầm thế giới quan và phương pháp
luận triết học đối với lý luận về phát triển bền vững.
Hai tác giả Lê Văn Khoa với Phạm Quang Tú (2014) với công trình
“Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên”[69]. Khẳng định tất cả những
hoạt động từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tập tục của Tây Nguyên đều có khả
năng ảnh hưởng lâu dài đến một vùng rộng lớn. Công trình cũng khẳng định
đây là vùng đất giàu có và trù phú về tài nguyên, nhưng chính điều đó đã đẩy
tới thực trạng ảo tưởng về sự “vô cùng vô tận” của tài nguyên thiên nhiên, dẫn
tới thực tế khai thác vô tội vạ và huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên ở đây. Đặc
22
biệt là từ sau năm 1975, Tây Nguyên đã trải qua một giai đoạn biến đổi chưa
từng có trong lịch sử. Đó là những biến đổi nhanh chóng, dữ dội, thậm chí là
đảo lộn so với trật tự đã được thiết lập lâu đời tại vùng đất này về dân cư, về
sử dụng đất... Tây Nguyên khởi sắc về kinh tế, về sự đa dạng phong phú tộc
người, nhưng lại đang loay hoay trong việc cân bằng giữa phát triển và đảm
bảo không đánh mất bản sắc văn hóa của mình.
Các công trình này đã đúc kết những giá trị văn hóa - lịch sử truyền
thống và điều kiện tự nhiên xã hội của vùng Tây Nguyên, đúc kết những
nét bản sắc phong phú của từng tộc người cũng như phong tục, tập quán tốt
đẹp của đồng bào các dân tộc - một trong những nhân tố cốt lõi mà phát
triển bền vững phải tính đến.
Có nhiều công trình bàn về chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với phát
triển Tây Nguyên, như: Tác giả Bạch Hồng Việt (2011) với “Một số vấn đề
phát triển kinh tế Tây Nguyên theo hướng bền vững” [156]; Tác giả Hà Huy
Thành (2014) với công trình “Thực trạng thể chế phát triển bền vững vùng
Tây Nguyên: những phát hiện bước đầu” [124]; Tác giả Mai Thanh Sơn
(2011) với công trình “Chính sách đất đai và văn hóa tộc người - nghiên cứu
trường hợp tại Đắk Lắk” [114]; Kỷ yếu hội thảo khoa học (2014) “Tây
Nguyên: thực trạng và thách thức trong phát triển bền vững” [79];... Các
công trình đã khẳng định Tây Nguyên là một trong những địa bàn chiến lược
mà Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; đồng thời khẳng định tính đúng đắn,
sát thực, hiệu quả của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số.
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phát huy giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Ban chỉ đạo Tây Nguyên (2016) với công trình “Giá trị văn hóa truyền
thống Tây Nguyên với phát triển bền vững” [4] đã tập hợp các bài viết của các
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích về thực trạng của việc bảo tồn và
23
đề ra giải pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay vì sự phát triển bền vững.
Tác giả Đào Duy Quyền (2014) với bài báo:“Văn hóa cổ truyền Tây
Nguyên trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” [101] nhận
định việc những giá trị văn hóa cổ truyền Tây Nguyên thay đổi trong thời kỳ hội
nhập là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên sự thay đổi đó đang ở mức báo động,
khi mà văn hóa truyền thống Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ sẽ biến mất.
Tác giả Đỗ Hồng Kỳ (2012) qua công trình “Văn hóa cổ truyền ở Tây
Nguyên trong phát triển bền vững”[77], đã khái quát lại khái niệm phát triển
bền vững, qua đó nêu vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững. Tác giả
cho rằng cần phải để cho những người dân tộc thiểu số tại chỗ ý thức được
những giá trị, những mất mát, thì mới có khả năng gìn giữ được những nét
văn hóa truyền thống nơi đây, chứ không thể trông chờ một chiều vào chính
sách, vào những sự tác động từ bên ngoài.
Viện nghiên cứu văn hoá (2019), với công trình “Văn hoá các tộc người
thiểu số tại chỗ Tây Nguyên: truyền thống, biến đổi và các vấn đề đặt ra”
[155]. Nhóm tác giả, đã chỉ ra và đánh giá quá trình biến đổi của văn hoá Tây
Nguyên từ truyền thống đến hiện đại. Chỉ ra nền văn hoá gắn truyền thống
của người Tây Nguyên có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường sống. Đồng
thời, tập trung vào khai thác một số di sản biểu tượng của văn hoá Tây
Nguyên như: nhà rông, nhà dài, nhà mồ và cồng chiêng, làm nên sự hùng
tráng, đặc sắc của văn hoá Tây Nguyên. Hơn thế, còn làm rõ những hệ quả
của sự biến đổi đó đối với đời sống, sinh kế, văn hoá xã hội của người dân tộc
thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên ngày nay. Trên cơ sở nhận định, đánh giá vai
trò của văn hoá trong phát triển bền vững Tây Nguyên đã chỉ ra những giải
pháp khả thi, để phát huy vai trò của văn hoá trong phát triển vùng.
Tựu chung lại, tất cả những công trình này, đều tập trung nghiên cứu các
vấn đề nổi cộm ở Tây Nguyên, như:
24
Một là: văn hóa, văn hóa tộc người, các yếu tố cấu thành văn hóa Tây Nguyên,
việc phát huy giá trị của những mặt đó vào phát triển bền vững Tây Nguyên;
Hai là: kinh tế, chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng và những tác động của nó
đối với phát triển bền vững Tây Nguyên.
Ba là: vấn đề phát huy những giá trị kinh tế, chính trị, văn hóa... đối với
công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên, luôn được coi trọng và đặt làm
nhiệm vụ cấp bách.
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công
bố và những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả chủ yếu các công trình khoa học tiêu biểu đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án
Từ việc nghiên cứu kết quả các công trình khoa học đã công bố, tác giả
luận án đi đến nhận xét:
Thứ nhất, các công trình khoa học đã luận giải một số vấn đề về vai trò,
quan niệm, nội dung, quá trình hình thành, phát triển, thực chất phát huy giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
Các công trình đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận, về giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên dưới nhiều góc độ, cấp độ và phương pháp tiếp
cận khác nhau, trong đó chủ yếu là phương pháp thực tiễn, lịch sử - lôgic, tiếp
cận giá trị. Các công trình khoa học cơ bản coi văn hóa dân tộc thiểu số là nét
đặc trưng bao trùm lên hệ thống văn hóa Tây Nguyên, đề cao những giá trị
văn hóa đó, khẳng định vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững Tây
Nguyên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Các công trình khoa học đã đề cập đến vai trò, quan niệm, nội dung của giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, với nhiều cách khái quát, song đều chủ
yếu đề cập đến hai khía cạnh: Các giá trị và sự dịch chuyển của văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên trước và sau sự kiện di dân năm 1975 và ảnh hưởng, tác
động của các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số đến các mặt, các khía cạnh khác của
25
Tây Nguyên. Một số công trình đã đề cập đến nhu cầu phát huy giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, như là một tất yếu khách quan. Phần lớn các công
trình đều cho rằng: thực chất vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên là quá trình tích cực, tự giác của các chủ thể, với tổng hợp
các cách thức, biện pháp làm gia tăng vai trò, làm cho giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số được bảo tồn, phát triển và phát huy giá trị trong phát triển bền vững
Tây Nguyên. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu nghiên cứu về vai trò của các
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên và khẳng định cần phát huy giá trị
đó trong bối cảnh hiện nay; hơn nữa, khi nghiên cứu về thực chất lý luận của vấn
đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số đối với phát triển bền vững Tây
Nguyên, chưa có công trình nào đề cập đến một cách hệ thống, sâu sắc.
Thứ hai, các công trình khoa học đã đánh giá tương đối sâu sắc, toàn
diện một số vấn đề thực tiễn phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
Các công trình đã khái quát, phân tích một số vấn đề thực tiễn về vai trò và
giá trị của văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Thực tiễn về tính tất yếu của
việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, trong phát triển bền vững và bước
đầu có những nghiên cứu cơ bản về phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây
Nguyên. Những nội dung khái quát, đánh giá tương đối phong phú, tạo nên cái
nhìn tổng thể, toàn diện về tiến trình phát triển và những đặc trưng cơ bản làm
nên giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đồng thời, phân tích những đặc
trưng cơ bản về địa lý, dân cư và hoạt động sinh kế của Tây Nguyên, từ đó chỉ ra
được mối liên hệ giữa những yếu tố này đối với văn hóa. Hơn thế, khẳng định
văn hóa có thể ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ trở lại tất cả các yếu tố đó. Đặc
biệt, có một số công trình đã chỉ ra được những nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp, dẫn tới nguy cơ mai một văn hóa truyền thống của người Tây Nguyên.
Các công trình đã công bố, đánh giá một cách toàn diện cả mặt tích cực
và hạn chế, nguyên nhân của thực trạng nhận thức vai trò, giá trị văn hóa dân
26
tộc thiểu số Tây Nguyên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa.
Các công trình đó bước đầu, đã nghiên cứu quá trình phát huy giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vào một số lĩnh vực cụ thể.
Thứ ba, các công trình khoa học đã đề cập đến một số giải pháp bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển toàn diện Tây Nguyên.
Đã chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc, cốt lõi và nhiều cách nhìn
khác nhau về giải pháp bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
phát triển bền vững Tây Nguyên, với đặc thù của từng lớp khách thể mà các
đề tài nghiên cứu. Nhìn chung, các tác giả chủ yếu đề xuất những giải pháp
như: tăng cường hoạt động giáo dục, tuyên truyền, tổng kết lý luận thực tiễn,
xây dựng môi trường, xây dựng thiết chế, cơ chế chính sách thông thoáng,
phát huy tính tích cực, năng động của chủ thể… Tuy nhiên, hệ thống giải
pháp của các công trình đã nghiên cứu, đề xuất và luận giải cơ bản xuất phát
từ cách tiếp cận ở nội hàm của các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, với mỗi lớp khách thể nghiên cứu.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
Qua các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, cùng những
kết quả đã được khái quát trên đây, luận án cần tập trung giải quyết những
vấn đề cơ bản sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Bổ sung và phát triển sâu
sắc hơn cách tiếp cận triết học vấn đề văn hóa dân tộc thiểu số ở khía cạnh giá
trị, nội dung, bản chất; đồng thời đưa ra quan niệm về giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên, làm rõ thực chất và nhân tố cơ bản quy định phát huy
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên hiện nay. Các quan niệm về giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, cấu trúc, nội hàm, nội dung chủ yếu
có sự luận giải, phân tích khác nhau, nhưng chưa đưa ra quan niệm và khái
quát những giá trị tiêu biểu của văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền
27
vững Tây Nguyên. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục giải quyết, là
phải nghiên cứu, luận giải những vấn đề bản chất, những giá trị tiêu biểu, nội
dung cốt lõi, xuyên suốt của giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên. Đây là cơ sở lý luận khoa học, để nhận diện những
biểu hiện về mặt thực tiễn, qua đó định hướng nội dung phát huy và xây dựng
giải pháp phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, có tính khả thi cao trong
phát triển bền vững Tây Nguyên.
Hai là, khảo sát, đánh giá tình hình phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay bằng phương pháp
mới, góc tiếp cận mới. Các công trình khoa học mới chỉ dừng lại luận giải chi
tiết, sâu sắc cơ sở thực tiễn và vai trò của giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong
phát triển Tây Nguyên. Vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đánh giá khái
quát, toàn diện việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên hiện nay. Vì vậy, xuất phát từ sự đòi hỏi của thực tiễn
và sự trống vắng của những công trình khoa học, trên cơ sở nền tảng lý luận
thực chất và nhân tố cơ bản quy định quá trình phát huy giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số Tây Nguyên. Cần khảo sát, đánh giá thực tiễn phát huy giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi cao nhằm phát huy
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
Do đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu khác nhau, nên các công trình
chỉ tập trung luận chứng và đưa ra các giải pháp toàn diện, có chiều sâu, mang tính
khả thi, đối với việc nhìn nhận vai trò của văn hóa truyền thống với phát triển
bền vững Tây Nguyên. Chưa công trình nào đi sâu vào một lát cắt cụ thể, để xác
định giải pháp phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
Tây Nguyên. Do đó, từ đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu và xuất phát từ
đòi hỏi của thực tiễn, cần đề xuất những giải pháp có tính đặc thù, có ý nghĩa
thực tiễn cao, mang định hướng phương pháp luận dưới góc độ triết học.
28
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay có ý nghĩa quan
trọng với đề tài luận án. Các công trình đã chỉ ra cái nhìn toàn cảnh về văn
hóa, văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, giá trị, giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Các nhà khoa học khi nghiên cứu về văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên đều cơ bản cho rằng, Tây Nguyên là một vùng văn hóa
phong phú, huyền bí với sự chung sống hài hòa của nhiều dân tộc, tôn giáo,
nhưng nền văn hóa đó đang đứng trước nguy cơ biến đổi và mai một. Đây là
những nội dung quan trọng sẽ được tác giả kế thừa và phát triển sâu sắc hơn
trong quá trình hoàn thành luận án. Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ, phạm
vi nghiên cứu của mỗi công trình không giống nhau mà các tác giả chỉ khai
thác về văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, xu thế phát triển và những tác
động ngoại cảnh đối với văn hóa Tây Nguyên. Cho đến nay, dưới góc độ
triết học vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, bài bản và hoàn
chỉnh về “Phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên hiện nay” thành một công trình cụ thể.
Góc độ tiếp cận của luận án là bằng phương pháp luận triết học: phân
tích thực chất phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên. Với các đối tượng là phát huy giá trị đời sống sản xuất
sinh kế, đời sống sinh hoạt tinh thần, phong tục, tập quán của người dân tộc
thiểu số vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên. Trên cơ sở lý
luận và đánh giá thực trạng, chỉ ra những yếu tố quy định và giải pháp phát
huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
một cách hoàn chỉnh.
29
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN
2.1. Quan niệm phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên
2.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên và
phát triển bền vững ở Tây Nguyên
* Dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Tây Nguyên là một vùng cao nguyên rộng lớn, gồm năm tỉnh của Việt
Nam: Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai và Lâm Đồng, với tổng diện tích
54.508,3 km² [phụ lục 2k]. Có hệ sinh thái rừng phong phú, đa dạng, với trữ
lượng tài nguyên, sản vật phong phú. Tây Nguyên có lịch sử phát triển lâu dài
trải suốt hàng trăm năm từ thời tiền nhà nước, tiền giai cấp đến nay. Xã hội Tây
Nguyên duy trì sự ổn định trong thiết chế buôn làng tự quản, dựa vào luật tục và
người có uy tín trong cộng đồng là chủ yếu. Người Tây Nguyên cổ truyền có nền
kinh tế dựa vào thiên nhiên, tự cấp tự túc là chính. Với nền văn hoá nổi trội là văn
hoá rừng, văn hoá làng và văn hoá tộc người. Vùng là địa bàn chung sống của
người dân tộc thiểu số tại chỗ, người Kinh và người dân tộc thiểu số mới đến.
Trong đó, người dân tộc thiểu số tại chỗ là nhóm người sinh sống lâu đời nhất ở đây.
Hiện nay tại Tây Nguyên có 47 dân tộc anh em cùng sinh sống [17],
trong đó có dân tộc Kinh và 46 dân tộc thiểu số. Cộng đồng các dân tộc sinh
sống lâu đời nhất ở đây, gọi là dân tộc thiểu số tại chỗ (luận án sẽ thống nhất
gọi là dân tộc thiểu số). Dân tộc thiểu số tại chỗ mà đề tài luận án nghiên cứu
cũng chính là cộng đồng tộc người thiểu số tại chỗ của Tây Nguyên.
Dân tộc thiểu số Tây Nguyên là cộng đồng tộc người thiểu số tại chỗ
được hình thành trong lịch sử của Tây Nguyên, họ chính là chủ thể sáng
tạo ra nền văn hoá phong phú đa dạng và mang sắc thái của các dân tộc
thiểu số Tây Nguyên.
30
Cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên gồm 12 tộc người
chiếm 26,58% tổng dân số [69, tr. 147], bao gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Ra
Glai, Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Rơ Măm, Mạ, M’Nông, Cơ Ho và Brâu
(trước đây thường gọi là người Thượng). Đây là cộng đồng dân cư lâu đời
nhất ở Tây Nguyên, sinh sống dọc các sườn núi, rải rác khắp 5 tỉnh của vùng.
Trong suốt quá trình sinh tồn và phát triển, họ đã sáng tạo ra nền văn hoá độc
đáo, đa sắc màu của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Trước sự dịch chuyển cơ cấu dân cư, người dân tộc thiểu số tại chỗ có
nhiều thay đổi về địa bàn cư trú. Có một bộ phận sinh sống ở thị xã, thị trấn,
nhưng đa số sống ở vùng ven, và sống bằng nghề nông là chủ yếu. Một bộ
phận khác di tản vào những vùng núi cao, vùng xa, quy tụ nhau lại, duy trì tập
tục cũ. Cũng có những người sau khi bán hoặc nhường đất cho những người
mới đến, không có nghề nghiệp sinh sống ổn định, lại quay lại làm thuê trên
chính mảnh đất trước đây là của mình. Có thể nói, cùng với làn sóng di cư ồ
ạt từ các vùng miền trên cả nước, là sự gia tăng đột biến cơ cấu dân cư và
thành phần dân tộc tôn giáo ở Tây Nguyên. Người đồng bào dân tộc thiểu số
tại chỗ ở Tây Nguyên đang trở thành thiểu số ngay trên chính mảnh đất cha
ông mình, đặt ra nhiều vấn đề về biến đổi văn hóa và sinh kế.
* Văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Đến nay đã có rất nhiều quan niệm khi nghiên cứu về văn hoá, tuỳ vào
từng góc độ tiếp cận, từng ngành nghề nghiên cứu, mà có những quan điểm
khác nhau khi nghiên cứu về nội dung có nội hàm rất rộng lớn này.
Tiếp cận dưới góc độ giá trị, thì "văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu
biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [142, tr. 368-369].
Quan niệm này nhấn mạnh văn hoá chính là những giá trị vật chất và tinh
thần được hình thành thông qua hoạt động sống của con người.
31
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá” [51, tr. 458]. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá khá sâu
sắc và toàn diện. Người đã chỉ ra văn hoá là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của
con người, hoạt động sáng tạo đó tạo nên những giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Trong Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa tại Vơ-ni-dơ (I-
ta-li-a), năm 1970, nguyên Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, ông Federico
Mayor đã đưa ra một khái niệm về văn hóa, được cộng đồng quốc tế công
nhận. Đó là: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các
cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. (tác giả nhấn
mạnh). Đây là một quan niệm rất rộng và bao quát, khi xem xét văn hoá ở ba
yếu tố cốt lõi là: thứ nhất, nhấn mạnh văn hoá là hoạt động sáng tạo của con
người trong suốt chiều dài lịch sử, từ quá khứ đến hiện tại; thứ hai, nhấn
mạnh hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra. Đó là những giá trị vật
chất và giá trị tinh thần. Điều này cũng tách văn hoá ra khỏi những gì phản
giá trị, không nhân văn và không phụng sự con người.; thứ ba, nhấn mạnh bản
sắc riêng của dân tộc (đặc tính riêng của mỗi dân tộc). Văn hoá xét đến cùng
chính là những gì riêng có, những đặc trưng không thể trộn lẫn. Chính nhờ có
văn hoá, mà có thể phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác, quốc gia này
với quốc gia khác. Hay nói cách khác, văn hoá làm nên bản sắc dân tộc.
Dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng tựu chung lại, văn hoá là
những gì liên quan đến con người, do con người sáng tạo ra suốt tiến trình
lịch sử. Khẳng định ở đâu có hoạt động sáng tạo của con người thì ở đó sẽ
hình thành nên các giá trị văn hoá.
32
Trên cơ sở đó, có thể quan niệm: Văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên là
tổng thể các hoạt động sáng tạo của cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ trong
suốt tiến trình lịch sử, hình thành nên một hệ giá trị vật chất và tinh thần mang
bản sắc của cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn Tây Nguyên.
Văn hoá dân tộc thiếu số Tây Nguyên theo cách định nghĩa này, là tập
hợp các hoạt động sáng tạo của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Hoạt
động sáng tạo đó là cơ sở của hệ thống giá trị mang bản sắc của văn hoá dân
tộc thiểu số Tây Nguyên. Bao gồm các hoạt động sáng tạo cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoạt động sáng tạo trong sản xuất và tổ chức đời sống vật
chất gắn liền với việc khai thác và giữ gìn rừng trên địa bàn Tây Nguyên
Sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên chủ yếu là canh tác
nương rẫy, trồng lúa nương và các loại hoa màu cung cấp cho đời sống tự cấp
tự túc. Việc canh tác của họ vừa khai thác vừa giữ gìn được rừng. Tại mô hình
sản xuất này, người đồng bào thực hiện khai hoang, mở rộng nương rẫy trong
những khu rừng được cộng đồng cho phép sản xuất. Có một đặc trưng riêng là
phương thức sản xuất hưu canh luân khoảnh, vừa khai thác vừa giữ gìn rừng.
Trong quá trình khai thác, nếu thấy đất có dấu hiệu bạc màu, thì thu hoạch
xong người đồng bào sẽ dừng lại, chuyển sang canh tác ở thửa rừng khác, để
cho thửa rừng đã bạc màu khoảng thời gian từ năm đến mười năm để tự phục
hồi. Nhờ thế, dù khai thác suốt cả hàng trăm năm nay nhưng người Tây
Nguyên vẫn giữ được gần như nguyên trạng sự trù phú của rừng.
Thứ hai, hoạt động sáng tạo ra các thiết chế buôn làng tự quản, tổ chức xã
hội cộng đồng mang đặc trưng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Trải suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài, xã hội truyền thống của người Tây
Nguyên được vận hành bằng luật tục và thiết chế buôn làng tự quản qua toà án
phong tục. Luật tục là một sáng tạo độc đáo của người Tây Nguyên, tất cả các
vấn đề của đời sống xã hội được nhắc đến với từng điều cấm cụ thể. Từ người
phụ nữ, người già, trẻ em, người yếu thế trong xã hội đều được bảo vệ, phòng
33
ngừa các rủi ro. Mỗi người đều bắt buộc phải có trách nhiệm với cộng đồng, với
gia đình mình, với những người đã chết và thần linh. Không được xâm phạm
thân thể, tài sản của người khác, không được xúc phạm thần linh và những vùng
đất cấm như rừng thiêng, rừng mộ địa, rừng đầu nguồn. Cả những người có vai
vế, có tiếng nói trong cộng đồng, như già làng, trưởng bản cũng không được
nằm trong “vùng an toàn”, nếu vi phạm điều cấm trong luật tục sẽ bị xử phạt
công khai tại toà án phong tục. Nhờ vậy, xã hội Tây Nguyên trải suốt hàng thế
kỷ phát triển, dù chưa có nhà nước, chưa có pháp luật chính thức nhưng vẫn có
thể vận hành trong trật tự ổn định.
Thứ ba, hoạt động sáng tạo trong nghệ thuật và tổ chức đời sống tinh
thần với những hình thức văn hoá nghệ thuật đặc sắc của dân tộc thiểu số
Tây Nguyên.
Sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên gắn
với rất nhiều loại hình nghệ thuật dân gian phong phú, tiêu biểu như cồng
chiêng, đàn đá, sử thi…
Không gian văn hoá cồng chiêng là một di sản văn hóa đồ sộ của người
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Cồng chiêng không tồn tại đơn thuần như một
nhạc khí, hơn thế nó còn xuất hiện trong hầu khắp các nghi lễ, lễ hội quan
trọng của người Tây Nguyên. Từ lễ mùa vụ đến lễ vòng đời, từ lúc sinh ra cho
đến lúc chết đi, các hoạt động sống của họ đều có sự tham gia của cồng
chiêng, dưới sự chở che của rừng già. Trong sâu thẳm nền văn hóa đầy bí ẩn
này, gần như toàn bộ các hoạt động sống của họ đều âm vang những thanh âm
trầm hùng của cồng chiêng. Bộ cồng chiêng được người đồng bào lưu giữ như
một tài sản. Mỗi bộ phận của bộ cồng chiêng đều được đúc thủ công, tinh
chỉnh, thẩm âm cẩn thận, dù thế, các thanh âm của cồng chiêng đều phản ánh
đặc trưng riêng của từng dân tộc. Người dân tộc thiểu số Tây Nguyên chỉ cần
nghe tiếng cồng chiêng, là biết của dân tộc nào, biết rõ trong tiếng chiêng đó
muốn chuyển tải thông điệp gì.
34
Đàn đá là một sáng tạo độc đáo của người Tây Nguyên trong quá trình
chinh phục tự nhiên, nó phản ánh đặc trưng sản xuất nguyên thủy cổ xưa tại
vùng đất này. Thoạt nhìn, đàn đá được chế tác thô sơ, nhưng lại phản ánh
được sự tinh tế và năng lực thẩm âm của những nghệ nhân, với kích thước dài,
ngắn, dày, mỏng khác nhau, những thanh đá cũng mang lại những âm thanh
khác biệt hoàn toàn. Khi âm thanh của đàn đá cất lên, qua mỗi quãng âm là
những thanh âm đơn sơ, thuần khiết nhất, là tiếng thánh thót của âm vực cao,
là như tiếng của ngàn xa vọng về của âm vực trầm. Ban đầu, đàn đá được
sáng tạo để phục vụ cho quá trình sản xuất, đuổi chim thú, bảo vệ mùa màng,
về sau nó còn được sử dụng tại các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, các nghi lễ
thờ cúng của người Tây Nguyên.
Sử thi Tây Nguyên gắn liền với những tên tuổi thần thoại, những người
anh hùng có công lớn với con người nơi đây như Đăm San, Đăm Di,
Dyông… mà đồng bào Tây Nguyên kính trọng, tôn sùng. Sử thi Tây Nguyên
chuyển tải những trang sử sống động từ thủa xa xưa của miền đất này, hơn thế
nó được lưu giữ bằng hình thức truyền khẩu từ đời này sang đời khác. Có
khoảng hơn hai trăm pho sử thi được sưu tầm, lưu giữ, đây là một nguồn tư
liệu phong phú để nghiên cứu lịch sử, văn học dân gian và văn hóa Tây
Nguyên, nhất là trải suốt một thời kỳ dài, nhiều dân tộc chưa có chữ viết,
không ghi chép sử sách. Dù có một dung lượng đồ sộ nhưng sử thi Tây
Nguyên lại đặc biệt dễ nhớ do được kể bằng lối văn vần, điều này là một yếu
tố đảm bảo việc lưu truyền sử sách của con người nơi đây. Hằng đêm, bên
bếp lửa của nhà Rông, nhiều thế hệ người đồng bào ngồi quây quần bên nhau,
nghe già làng hoặc nghệ nhân hát Khan kể về những áng sử thi anh hùng. Khi
đêm đã tàn, buổi kể chuyện được khép lại để lại những háo hức, tò mò cho
người nghe vào những đêm sau đó. Trong những lần đó, không gian, bối cảnh
của những trang sử lần lượt được tái hiện một cách sinh động, điều này tưới
tắm vào lớp trẻ tình yêu, niềm tự hào về cha ông mình, đồng thời sẽ lưu giữ
35
lại những giá trị đó tiếp tục truyền lại cho đời sau. Bằng lối kể chuyện độc
đáo, những pho sử đặc biệt của Tây Nguyên tạo nên niềm hứng khởi, thích
thú, tò mò cho thế hệ trẻ. Có lẽ đây là điều mà giới học giả cần phải kế thừa
nếu muốn giáo dục truyền thống, để không biến những giá trị thiêng liêng
trong lịch sử, văn hóa dân gian thành những thứ khô khan bị chính hậu nhân
của mình chối bỏ.
Thứ tư, hoạt động sáng tạo làm nên một đời sống tâm linh và tín ngưỡng
mang bản sắc độc đáo của các cộng đồng người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội, ở Tây Nguyên ra đời trên cơ sở
phương thức canh tác nương rẫy và tín ngưỡng vạn vật hữu linh, dẫn tới các
lễ hội ở Tây Nguyên nặng về tính lễ hơn tính hội. Các nghi lễ gắn liền với
vòng đời và lịch mùa vụ của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Từ lúc chào
đời cho đến lúc chết đi, đều gắn liền với các nghi lễ thiêng liêng. Từ lễ thổi tai
để đón chào sự ra đời của một đứa bé, đến lễ cúng trưởng thành, cúng sức
khoẻ, lễ thành hôn, lễ tang, lễ bỏ mả. Mỗi nghi lễ đều được chăm chút cẩn
thận, có người đứng ra làm chủ lễ để giao tiếp với thần linh, cầu mong những
điều tốt đẹp nhất đến cho người được làm lễ. Điều này thể hiện sự trân trọng
con người, trân trọng cuộc sống của người Tây Nguyên.
Bên cạnh các nghi lễ cúng vòng đời, là một hệ thống nghi lễ, lễ hội
quanh năm theo lịch mùa vụ ở các đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Như lễ cúng bến nước, lễ cúng mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng thần lúa, lễ
cúng giống lúa, lễ cúng thần cây… Điểu này thể hiện tín ngưỡng phong phú,
vạn vật hữu linh của người đồng bào. Các đồ vật trong lễ cúng đều là sản vật,
vật nuôi gắn liền với đời sống của họ.
Từ những hoạt động sáng tạo trong sản xuất trong đời sống vật chất,
trong thiết chế buôn làng tự quản, trong nghệ thuật và tổ chức đời sống tinh
thần, trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng. Các cộng đồng dân tộc thiểu số
đã hình thành nên các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
36
* Giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về giá trị văn hoá,
như: giá trị văn hoá chính là tổng thể các giá trị bao trùm, phổ biến nhất của
xã hội, và của con người trong xã hội đó, là những phẩm chất đặc trưng, tiêu
biểu nhất của văn hoá. Dù tiếp cận bằng nhiều cách, nhưng tựu chung lại, giá
trị văn hoá phổ quát nhất của loài người là chân, thiện, mỹ. Chân được hiểu
là những cái gì đúng đắn, bền vững, đã được kiểm nghiệm trong tri thức, lý
luận và thực tiễn đời sống con người. Thiện là những điều tốt đẹp như đạo
đức, lẽ phải của con người, vì con người, phục vụ cho sự sinh tồn và phát
triển của con người. Mỹ chính là cái đẹp. Nhưng không chỉ dừng lại ở cái đẹp
theo cách hiểu thông thường, mà còn là những điều lớn lao, vĩ đại, trác tuyệt,
lý tưởng, nhân văn đẹp đẽ trong đời sống xã hội. Giá trị văn hoá chứa đựng tất
cả các thành tựu vật chất và tinh thần của văn hoá, thông qua giá trị văn hoá
có thể đo lường được trình độ phát triển nhất định của xã hội. Giá trị văn hoá
được con người sáng tạo ra trong lịch sử phát triển lâu dài của mình.
Đối lập với giá trị văn hoá thì còn có cả những yếu tố phản giá trị. Đó là những
yếu tố đi ngược lại với lẽ sinh tồn, không phụng sự cho những nhu cầu chân chính của
xã hội loài người. Là những điều không đúng đắn, không hướng thiện, không làm cho
con người sống tốt hơn, có ích hơn trong tiến trình phát triển của mình.
Như vậy, giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên là cụ thể hoá các giá
trị chân, thiện, mỹ phổ quát nhất trong đời sống sáng tạo của người Tây Nguyên.
Từ đó có thể đi đến quan niệm: Giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên là
những cái đúng, cái tốt, cái đẹp mang sắc thái của cộng đồng các dân tộc thiểu
số tại chỗ, phản ánh hoạt động sáng tạo của người dân tộc thiểu số, tạo nên nền
tảng tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại
chỗ trên địa bàn Tây Nguyên trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên là những nội dung cơ bản
mang tính chuẩn mực, độc đáo, cốt lõi của văn hóa dân tộc thiểu số Tây
37
Nguyên. Đó là kết tinh của hoạt động sáng tạo trong suốt quá trình sinh tồn và
phát triển của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Giá trị đó mang những đặc
trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, khai thác và ứng xử hài hoà với môi trường tự nhiên, có sự
thích ứng cao với các điều kiện, hoàn cảnh sống, biểu hiện qua tâm thức rừng
và phương thức canh tác vừa khai thác vừa giữ gìn được rừng của người dân
tộc thiểu số Tây Nguyên.
Tâm thức rừng là yếu tố bao trùm, xuyên suốt trong văn hoá của người
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Rừng một mặt là không gian sinh tồn chủ yếu
của người Tây Nguyên, cũng là gốc rễ, linh hồn và là trung tâm của văn hóa
Tây Nguyên. Chính vì điều đó, người đồng bào trân quý từng tấc đất, tấc rừng,
nâng niu từng gốc cây, từng hòn đá, từng dòng nước chảy từ trong mạch rừng
đó. Suốt tiến trình lịch sử của mình, người Tây Nguyên vừa khai thác vừa dung
dưỡng, tái tạo rừng liên tục, nên gần như vẫn giữ được rừng nguyên trạng với
độ bao phủ của hệ sinh thái động thực vật phong phú, hiếm có. Bên cạnh đó,
phương thức canh tác hưu canh luân khoảnh giúp người đồng bào có thể giữ
được rừng, ngăn chặn tình trạng rừng bị thoái hoá, bạc màu. Nhờ đó, suốt cả
nhiều thế kỷ chung sống, người Tây Nguyên vẫn giữ được rừng nguyên vẹn.
Sự thay đổi, dịch chuyển thường xuyên khi luân khoảnh đó, mang lại cho
người đồng bào sự khoáng đạt, dễ thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh sống.
Song song với những khoảnh rừng phục vụ cho sinh kế, người đồng bào
Tây Nguyên còn có những khu rừng chuyên biệt không ai được đụng đến trong
mọi hoàn cảnh, đó là khu rừng phục vụ cho đời sống tâm linh, như rừng thiêng,
rừng cấm, khu rừng mộ địa và rừng đầu nguồn. Như vậy, có thể khẳng định,
rừng một mặt đảm bảo các yếu tố vật chất nuôi sống con người Tây Nguyên,
mặt khác giúp nuôi dưỡng, bồi đắp đời sống tinh thần của họ. Điều đó nói lên
rằng, với người Tây Nguyên, việc gìn giữ rừng không chỉ đơn thuần là gìn giữ
môi trường sống, đó còn là bảo vệ cội nguồn của văn hóa Tây Nguyên, để có
thể phát triển bền vững.
38
Thứ hai, điều tiết các quan hệ xã hội trong sự ổn định hài hoà, biểu hiện
qua thiết chế buôn làng tự quản với hệ thống luật tục và toà án phong tục của
tộc người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Ở thời kỳ tiền nhà nước, tiền giai cấp, trật tự xã hội Tây Nguyên được vận
hành ổn định dựa vào hệ thống luật tục và tòa án phong tục. Luật tục phản ánh
mọi khía cạnh của đời sống cộng đồng, quan tâm đến đạo đức, luân lý, sự công
bằng cho tất cả các đối tượng trong xã hội, từ rất sớm đã xuất hiện một thiết chế
xã hội có tầm nhìn phổ quát đáng kinh ngạc. Luật tục được lưu giữ bằng hình
thức truyền khẩu, ở Ê Đê thì chủ đất (Pô Lăn) và chủ nước (Pô Pin Êa) là người
có trách nhiệm giữ gìn luật tục. Khi trong cộng đồng có người vi phạm các điều
cấm kị, pô phat kđi sẽ trực tiếp dùng hệ thống luật tục của cộng đồng mình, đứng
ra xử kiện, dưới sự chứng kiến và tham gia của cả buôn làng. Người thua kiện sẽ
chịu các hình phạt của cộng đồng tùy theo các mức nặng nhẹ, vật nộp phạt sẽ
được đem ra mời cả buôn làng, để cả làng cùng chứng kiến đã xử phạt thành
công. Sau khi xử phạt, mọi thù oán được hóa giải, không còn thù hằn, hiềm
khích, họ lại tiếp tục chung sống hòa thuận với nhau. Nhờ đó, xã hội xã hội Tây
Nguyên được duy trì ổn định suốt chiều dài lịch sử.
Thứ ba, tính phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng tạo, biểu hiện qua các
hoạt động nghệ thuật dân gian đa sắc màu và tay nghề thủ công khéo léo của
người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Tây Nguyên có một nền nghệ thuật dân gian độc đáo, phong phú về
chủng loại, phản ánh đầy đủ đời sống tinh thần và những sáng tạo độc đáo của
người đồng bào. Nghệ thuật dân gian của người Tây Nguyên đều dung dị,
nguyên sơ, đơn thuần, dễ chạm đến mọi ngóc ngách xúc cảm của người đón
nhận, như những tiếng vọng từ chính những chất liệu mộc mạc tại cuộc sống
của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Biểu hiện trong sử thi, cồng chiêng,
đàn đá, nghề thủ công truyền thống, nhà mồ và tượng nhà mồ…
39
Với nghệ thuật diễn xướng mang đặc trưng của văn hóa dân gian truyền
khẩu, sử thi Tây Nguyên được đánh giá là một kho tàng vô cùng đồ sộ, vào
loại bậc nhất khu vực và thế giới. Đây là những nét phác thảo về thủa sơ khai
của loài người ở Tây Nguyên, phản ánh những đặc trưng cơ bản của các sinh
hoạt đời thường, cùng đời sống tinh thần của họ, qua đó chuyển tải ước mơ,
khát vọng về một cuộc sống lý tưởng, về các thiên anh hùng ca chiến thắng
cường bạo, đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho buôn làng. Tuy nhiên
mới chỉ dừng lại ở cách phản ánh chất phác, còn nặng về tư duy huyền thoại
khi giải thích về nguồn gốc hình thành của thế giới.
Cồng chiêng được sử dụng trong hầu hết các nghi lễ, lễ hội ở Tây
Nguyên, như một ngôn ngữ đặc biệt giúp con người có thể giao tiếp được với
thần linh. Qua ngôn ngữ đó, những khát vọng về một cuộc sống lý tưởng, ấm
no, hạnh phúc được người dân tộc thiểu số gửi đến thần linh. Trong không
gian núi rừng, nhà rông, nhà dài, nương rẫy, những thanh âm của cồng chiêng
trở thành một đặc trưng, phản ánh đầy đủ đời sống tinh thần của người dân
tộc thiểu số Tây Nguyên Đồng thời, cồng chiêng còn xuất hiện trong các sinh
hoạt văn hóa cộng đồng để thỏa mãn nhu cầu văn nghệ, giải trí của người dân.
Cồng chiêng gắn liền với nền sản xuất nương rẫy, thể hiện được sự thuần hậu
chất phác nhưng đầy hào sảng, quảng đại trong tính cách của người Tây
Nguyên. Tuy nhiên, ngày nay không gian để diễn xướng cồng chiêng đã thay
đổi nhiều, không còn thuần khiết như trước.
Tính sáng tạo độc đáo của nhạc cụ đàn đá được xem như một trong
những loại hình nhạc cụ cổ xưa nhất của con người, là một nhạc cụ độc nhất
vô nhị ở Việt Nam. Ra đời từ thủa sơ khai, nhưng đàn đá đạt được trình độ
gọt đẽo trau chuốt, tỉ mỉ, thẩm âm tinh tế, phản ánh được sự khéo léo của đôi
tay nghệ nhân người dân tộc thiểu số Tây Nguyên từ hàng trăm năm trước.
Thanh âm của đàn đá chân thật, như tiếng đại ngàn, tiếng suối chảy. Đàn đá
40
được xem là một khí cụ thiêng liêng, là thanh âm nối liền giữa quá khứ và
hiện tại, giữa người sống và người chết, giữa con người trần tục với đấng thần
linh. Đàn đá là một loại hình âm nhạc thuần khiết, nảy sinh trong quá trình
sinh tồn của con người, phản ánh trình độ sáng tạo, chinh phục tự nhiên của
con người. Chính vì lẽ đó, nhạc cụ này như chính là linh hồn của con người
Tây Nguyên, trong trẻo, thuần khiết và đầy nội lực. Đây là một nguồn tư liệu
hiếm hoi để nghiên cứu về đời sống sản xuất, sinh hoạt tinh thần của con
người từ thời nguyên thủy, cũng là hiện thân của một nét văn hóa đặc trưng
đầy bí ẩn, nhiều trầm tích của Tây Nguyên. Nhạc cụ này sau đó được
UNESCO chọn là một trong các nhạc cụ độc đáo thuộc không gian văn hóa
Cồng chiêng Tây Nguyên, là kiệt tác truyền khẩu, phi vật thể của nhân loại.
Sự sáng tạo của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên còn được biểu
hiện trong những độc đáo của nghề thủ công truyền thống của họ. Đó là
nghề dệt thổ cẩm, đan lát, rèn, đúc nhẫn bạc độc đáo của người đồng bào
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Qua khảo sát các di chỉ khảo cổ, các nhà
khoa học thu được một số lượng phong phú các nông cụ trong đời sống sản
xuất. Đó là một số công cụ bằng đồ kim khí, đồ đồng, còn lại phần lớn là
bằng đá, xương thú, ngà voi. Với nhiều khuôn đúc, hình mẫu khác nhau,
phản ánh sự đa dạng trong phương thức sản xuất của đồng bào dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Đây là một kho tàng đồ sộ để nghiên cứu về xã hội
thời nguyên thủy, về những dấu tích đã bị mai một ở nhiều nơi khác.
Một nét đặc sắc trong những tạo tác thủ công của người đồng bào dân
tộc thiểu số Tây Nguyên là nhà mồ và tượng nhà mồ. Nhà mồ là nơi trú ngụ
của người đã mất, họ sẽ được ở đây với đầy đủ vật dụng khi còn sống cho đến
khi mãn tang, để trở về với thần linh nơi rừng cấm. Nhà mồ và tượng nhà mồ
thể hiện được phong cách nghệ thuật độc đáo của người Tây Nguyên. Tượng
nhà mồ không nặng về tả thực, mà là những nét chạm khắc tượng trưng mô
41
phỏng, giúp phát huy trí tưởng tượng cho người xem, những tạo tác đó gần
gũi với nghệ thuật thô sơ thời nguyên thủy, đó là nền nghệ thuật gối đầu lên
thực tiễn, đơn sơ nhưng lâu bền. Hệ thống tượng nhà mồ rất phong phú, ngoài
những bức tượng lặng lẽ ôm đầu đầy bí ẩn, còn có những bức mô phỏng
người phụ nữ đang mang bầu, cảnh sinh hoạt vợ chồng. Điều đó phản ánh tín
ngưỡng phồn thực trong đời sống văn hóa, thể hiện ước mơ sinh sôi nảy nở,
kế thế đời đời của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Thứ tư, tính cố kết cộng đồng, đề cao buôn làng trong hoạt động tín
ngưỡng, lễ hội phong phú và trong hệ thống kiến trúc của người dân tộc thiểu
số Tây Nguyên.
Tính cố kết cộng đồng là một giá trị của văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên biểu đạt qua hoạt động tín ngưỡng, lễ hội phong phú. Cộng đồng
buôn làng có sức ảnh hưởng rất lớn đối với tâm thức của người Tây Nguyên, toàn
bộ quy định của cộng đồng, chính là chuẩn mực để tất cả thành viên hành động,
ứng xử. “Nên cõng ôm nhau/ Đừng xẻ đôi chia lìa/ Nên xích lại gần nhau, đùm
bọc lại nhau/ Đừng đánh vào đầu, đừng lao bằng chày/ Đừng làm khổ cho nhau”
[105, tr.392-393]. Ở Tây Nguyên, nổi lên vai trò của cộng đồng, của tập thể, thay
thế cho vai trò của mỗi cá nhân. Kể cả người đứng đầu buôn làng, cũng chỉ đúng
nghĩa là người đại diện cho tiếng nói của buôn làng. Người đó sẽ nhận được sự
tôn trọng tuyệt đối, nếu tuân thủ các quy định, thực hiện hết các trách nhiệm và
quyền hạn của mình đối với cộng đồng. Nhưng chỉ cần người này vi phạm các
điều cấm kỵ, làm phương hại đến niềm tin của cộng đồng, sẽ có những điều luật
hà khắc để xử phạt nghiêm khắc. “Ông ta là cây đa đầu suối, cây sung đầu làng, là
người trông nom anh em, con cháu trong làng/ Thế mà ông ta lấn át, chà đạp, áp
bức họ/… Vì vậy là có việc phải đưa ông ta ra xét xử” [120, tr. 262].
Bên cạnh đó, hoạt động nghi lễ, lễ hội diễn ra quanh năm, trải suốt vòng đời
của người Tây Nguyên. Đó là nơi cả buôn làng cùng chung tay tổ chức, thể hiện
sự chăm lo đến đời sống của con người, tôn vinh, đề cao vai trò và giá trị của con
người, quan tâm đến mối liên hệ chặt chẽ giữa mỗi người với cả cộng đồng.
42
Tính đề cao buôn làng của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, thể hiện
thông qua hệ thống kiến trúc độc đáo như nhà rông, nhà dài. Người đồng bào
dân tộc thiểu số Tây Nguyên có thể xây nhà ở của mình nhỏ, nhưng nhà
cộng đồng nhất định phải xây to, bề thế. Điều đó khẳng định sự coi trọng
yếu tố cộng đồng, buôn làng của họ. Nhà rông là một nét kiến trúc phản ánh
rõ đặc trưng văn hóa Tây Nguyên, bên cạnh dáng vẻ đồ sộ, bề thế trong kết
cấu tổng thể, là nét mềm mại, uyển chuyển trong những thiết kế cầu kỳ, chăm
chút từng chi tiết nhỏ. Nhà rông được xây dựng ở vị trí trung tâm của buôn
làng, nơi thuận lợi để có thể tập trung cho các sinh hoạt cộng đồng. Tại đây
diễn ra các hoạt động quan trọng của cộng đồng, là nơi để buôn làng xử kiện,
hội họp để đưa ra ý kiến thống nhất mỗi khi có thiên tai, địch họa. Cũng là
nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng.
Thứ năm, đề cao vai trò của người phụ nữ trong văn hoá mẫu hệ vẫn
còn ghi dấu ấn trong xã hội hiện đại.
Chế độ mẫu hệ tồn tại lâu đời ảnh hưởng bao trùm lên văn hoá của người
Tây Nguyên. Dù nền văn hoá đó phong phú, đa dạng, nhiều tầng lớp, thì vai
trò người phụ nữ luôn nổi lên như là mạch ngầm, là sợi dây xuyên suốt qua
nhiều thế hệ, để sáng tạo và lưu truyền văn hoá đó với đời sau. Xuất phát từ
đặc trưng quần hôn thời nguyên thuỷ, vai trò của người phụ nữ trong gia đình
truyền thống Tây Nguyên nổi lên với 3 đặc điểm cơ bản: con cái sinh ra mang
họ mẹ, nhà gái chủ động trong các thủ tục hôn nhân, đàn ông sau kết hôn phải
ở rể bên nhà vợ, gia sản, tước vị được trao truyền thừa kế theo dòng nữ.
Không những thế, người phụ nữ trong gia đình mẫu hệ Tây Nguyên
cũng là chủ lễ, chủ bến nước, chủ gia đình. Nhiều nơi người chủ nhà (phụ
nữ) sẽ giao cho chồng hoặc anh em của mình, thay mình thực hiện vai trò
trong tế lễ. Trong kiến trúc của nhà rông, nhà dài, các hoạ tiết trang trí chủ
đạo đều thiên về tính nữ, thể hiện vai trò của người phụ nữ trong chính
cộng đồng. Nhà dài là nơi vẫn còn in rõ dấu ấn của gia đình mẫu hệ Tây
43
Nguyên. Trong nhà dài có các phòng nhỏ, là nơi cư trú của các gia đình
nhỏ, cả nhà dài thường được cai quản bởi người phụ nữ cao tuổi - một đặc
trưng của gia đình mẫu hệ.
* Phát triển bền vững và phát triển bền vững ở Tây Nguyên
Phát triển bền vững là quan niệm hình thành trong xã hội hiện đại, từ khoảng
thập niên 80 của thế kỷ trước. Khi tăng trưởng kinh tế xâm phạm đến môi trường
sống và làm nảy sinh các vấn đề xã hội, đe doạ đến sự phát triển, thế giới bắt đầu
đặt ra vấn đề phát triển bền vững. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển
bền vững ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), vào năm 2002 đã đưa ra khái
niệm đầy đủ về phát triển bền vững như sau: “Phát triển bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa ba mặt, đó là:
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu
cầu đời sống của con người trong hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” [147]. Đây đang là quan
niệm về phát triển bền vững được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
Trong đó tập trung vào các mục tiêu cụ thể như: tăng trưởng kinh tế cao
và ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất
lượng môi trường sống.
Phát triển bền vững phải đảm bảo hài hoà cả ba mặt kinh tế, xã hội và
môi trường. Đồng thời, phải đảm bảo những gì mà ta đang làm hôm nay để
đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người trong hiện tại, nhưng không làm
tổn hại đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Trải qua các kỳ Đại hội cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú trọng
đến vấn đề phát triển bền vững. Trên cơ sở quan điểm phát triển bền vững của
Liên hợp quốc, Đảng ta đã có những bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hoá để gắn liền
với thực tiễn của Việt Nam. Đảng ta cho rằng: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
44
với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người” [37, tr. 77]. “Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên
quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên” [37, tr. 94]. Điều này cho thấy, khi xem
xét về phát triển bền vững Đảng ta rất chú trọng đến các yếu tố kinh tế, xã hội và
môi trường như quan điểm của Liên hợp quốc về vấn đề này.
Quan điểm của nước ta về phát triển bền vững đã được bổ sung, cụ thể
hoá và phát triển bằng nhiều nội dung mới, vừa phù hợp với xu hướng phát
triển chung của thế giới đương đại, vừa thể hiện được đặc thù phát triển của
Việt Nam hiện nay. Đó là: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được
nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó
của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. [108]
Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên là một bộ phận quan trọng trong
phát triển bền vững của Việt Nam, phải bám sát các trụ cột cơ bản: kinh tế; xã
hội; môi trường. Phát triển bền vững Tây Nguyên phải khai thác được vị thế
địa chính trị, vị trí chiến lược quốc phòng và an ninh của vùng, không những
thế còn phải phát huy được vị thế đó. Phát triển bền vững Tây Nguyên, để
vùng ngày càng phát huy được vị trí địa chiến lược trọng yếu, có vai trò vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Là vùng nằm ở vị trí trung
tâm của Đông Dương xét theo cả trục Bắc - Nam và trục Đông - Tây, đồng
thời vùng còn là điểm tựa lưng về mặt địa lý và chiến lược đối với Trường Sa,
Hoàng Sa của Việt Nam.
Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, xét đến cùng, là phát triển sao cho
hợp lý và hiệu quả ở một khu vực trọng yếu và mang đậm tính đặc thù trong bối
cảnh phát triển chung của Việt Nam. Với vị trí, vai trò là một cực phát triển, một
động lực phát triển bền vững của đất nước, bất cứ biến chuyển nào của Tây
Nguyên cũng không chỉ tác động đến cấu trúc nội vùng, mà còn ảnh hưởng sâu
rộng đến các cấu trúc ngoại vùng, liên vùng, toàn quốc và thậm chí liên quốc gia.
45
Trên cơ sở đó, có thể khái quát: Phát triển bền vững Tây Nguyên là sự
kết hợp khăng khít, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với duy trì tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ ổn định môi trường ở trên địa bàn Tây Nguyên. Sự phát
triển đó phải đảm bảo đáp ứng được nhu cầu hiện tại của vùng, nhưng không
làm tổn hại đến việc đáp ứng các nhu cầu sinh tồn của thế hệ tương lai.
Phát triển bền vững ở Tây Nguyên có những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế. Phát triển bền vững về kinh tế
tại Tây Nguyên là phải đảm bảo giải quyết hài hoà mục tiêu phát triển kinh tế
với mục tiêu phát triển văn hoá - xã hội. Hài hoà tốc độ tăng trưởng kinh tế
với việc sử dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có, về con người, công nghệ và tài
nguyên thiên nhiên. Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, du lịch, mang lại
nguồn thu lâu dài và bền vững cho ngân sách địa phương, đồng thời góp phần
cải thiện đời sống của người dân. Tăng cường đầu tư cây công, nông nghiệp
hữu cơ, tạo thương hiệu và thế mạnh để xuất khẩu ra các thị trường khó tính.
Tận dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0 vào trong
quản lý và sản xuất. Trên tất cả, các mục tiêu phát triển kinh tế không làm tổn
hại đến môi trường sinh thái, để có thể phát triển lâu dài và bền vững.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội. Hiểu rộng ra chính là phát triển bền
vững về xã hội, văn hoá và chính trị và tăng cường, đảm bảo an ninh quốc phòng
ở Tây Nguyên. Phát triển bền vững về xã hội vùng Tây Nguyên là hướng tới xây
dựng một cộng đồng có nền kinh tế phát triển, tích cực xoá đói giảm nghèo trên
diện rộng, cùng với đó là thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội về giáo
dục, y tế và phúc lợi xã hội. Để cuộc sống của người dân được cải thiện về mọi
mặt, tỉ lệ nghèo đói được đẩy xuống mức thấp nhất. Mọi người dân đều được
hưởng lợi từ các chính sách an sinh xã hội, nâng cao dân trí và trình độ lao động,
được chăm lo toàn diện về sức khoẻ ngay từ tuyến cơ sở.
Phát triển bền vững về văn hoá, phát triển văn hoá trên cơ sở xây dựng
nền kinh tế vững mạnh. Chú trọng phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp, độc
đáo của người dân tộc thiểu số, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của
46
người Tây Nguyên. Mặt khác, tiếp thu những giá trị tốt đẹp trong văn hoá các
dân tộc nhập cư, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để xây dựng văn hoá của
người Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp. Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
văn hoá và kinh tế, để văn hoá thực hiện đúng vai trò là nền tảng tinh thần của
xã hội và là động lực để phát triển kinh tế. Đào tạo nên những con người Tây
Nguyên vừa biết trân quý những giá trị văn hoá truyền thông vừa biết đón nhận
những cái hay, cái tốt đẹp của thời đại mới vào trong xây dựng quê hương đất
nước trong thời kỳ hội nhập. Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tiến
tới xây dựng môi trường văn hoá Tây Nguyên lành mạnh và tiến bộ.
Phát triển bền vững về chính trị, mục tiêu then chốt là giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
trên địa bàn Tây Nguyên, tích cực, chủ động bắt kịp các xu thế hội nhập của
thời đại. Tăng cường, hoàn thiện hệ thống chính trị các cấp, phát huy cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ mọi mặt đời sống xã hội.
Thực hiện đồng thuận xã hội, giải quyết triệt để các mâu thuẫn, xung đột về
dân tộc, tôn giáo trên địa bàn, xây dựng mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tha hoá biến chất, tự diễn biến, tự chuyển hoá
trong một bộ phận cán bộ, như tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khoá
XXII. Xây dựng hình tượng người cán bộ, Đảng viên tận tuỵ, mẫu mực,
phụng sự nhân dân nhằm cũng cố niềm tin của nhân dân. Đảm bảo ổn định
chính trị vùng biên giới, tránh tình trạng bị các thế lực thù địch gây bất ổn,
tiến tới kích động bạo loạn lật đổ ở vùng. Phát triển kinh tế, xã hội nhưng
không tổn hại đến an ninh chính trị của vùng và đất nước, đảm bảo vũng chắc
an ninh, quốc phòng, đồng thời phải tích cực bảo vệ môi tường sống.
Đối với tăng cường và đảm bảo quốc phòng và an ninh. Quốc phòng an
ninh ổn định là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến phát triển bền vững
Tây Nguyên. Bởi quốc phòng an ninh ổn định chính là yếu tố cốt lõi để đảm
bảo cho đất nước phát triển hoà bình, ổn định, mặt khác cũng là tiền đề cho
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường phát triển bền
47
vững. Phải chuẩn bị về tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng an ninh
vững chắc cho vùng, để có thể sẵn sàng ứng phó với các tình huống an ninh
truyền thống và an ninh phi truyền thống tại địa bàn, góp phần củng cố, tăng
cường và đảm bảo quốc phòng an ninh cho Tây Nguyên. Từ đó góp phần giữ
ổn định chính trị, giữ bình yên cho cuộc sống của người dân, để có thể tập
trung nguồn lực cho phát triển kinh tế toàn diện của vùng.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Phát triển bền vững môi
trường Tây Nguyên là việc đảm bảo các dạng tài nguyên có thể phục hồi
được sử dụng trong khả năng chống chịu của chúng, và sử dụng hợp lý, tiết
kiệm các loại tài nguyên không thể phục hồi. Nhằm giữ cho môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội không bị tàn phá gây tổn hại và suy thoái. Các
loại rác thải được xử lý, tái chế đảm bảo, để cho môi trường sống không bị ô
nhiễm, gây nguy hại cho cuộc sống của con người. Bên cạnh đó cần có
chính sách sử dụng đất hợp lý, không khai thác vô độ đến mức huỷ hoại
rừng. Tăng cường khôi phục rừng nguyên sinh, bởi bên cạnh là môi trường
sống chủ yếu, rừng còn chính là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng văn hoá
Tây Nguyên. Bên cạnh đó, cần khôi phục đa dạng sinh học, để người Tây
Nguyên có thể ổn định cuộc sống của mình dựa vào nguồn tài nguyên phong
phú của vùng. Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm nguồn nước, khắc phục tình
trạng nước ngầm bị tụt quá sâu gây khô hạn, ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài
của người Tây Nguyên. Sử dụng tri thức, công nghệ hiện đại trong việc khôi
phục, bảo tồn nguồn tài nguyên trù phú của vùng đất cao nguyên này.
2.1.2. Quan niệm về phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên
* Khái niệm phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên
Để nghiên cứu phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên thì cần bắt đầu từ quan niệm cơ bản về phát
huy. “Phát huy là quá trình làm cho cái hay, cái tốt đẹp, tích cực có sức lan
48
tỏa đối với phát triển” [154] (tác giả nhấn mạnh). Quan niệm này nhấn
mạnh hoạt động của chủ thể (làm cho), nghĩa là có sự tham gia của chủ thể
để tác động, làm cho cái hay, cái tốt đẹp, tích cực lan toả vào trong thực
tiễn của phát triển.
Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có cách tiếp cận theo quá trình
phát huy như: mục đích, chủ thể, nội dung, phương thức phát huy; Có cách
tiếp cận theo lôgic hoạt động của chủ thể trong suốt quá trình phát huy. Xuất
phát từ mục đích, đối tượng nghiên cứu, đề tài này có một cách tiếp cận
theo lôgic hoạt động của chủ thể, gắn liền phát huy các giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số với hoạt động thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên.
Khái niệm phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên được tiếp
cận theo lôgic hoạt động của các chủ thể, đó là quá trình làm cho cái đúng, cái tốt,
cái đẹp trong giá trị văn hoá đó lan toả vào các lĩnh vực phát triển bền vững ở Tây
Nguyên. Cụ thể, là làm cho các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên được
lan toả, thấm đẫm, phổ biến vào trong thực tiễn phát triển bền vững của vùng.
Hoạt động đó trải qua một số giai đoạn, khởi đầu thì các chủ thể phải nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, và vai trò của
giá trị đó trong phát triển bền vững. Tiếp đó các chủ thể phải tiến hành bảo tồn các
giá trị đó, trong các hoạt động đó có việc ngăn chặn các giá trị văn hoá Tây
Nguyên không mai một, biến mất. Đồng thời, phát triển các giá trị văn hoá đó,
đảm bảo phù hợp với xu thế vận động của vùng trong tình hình mới. Sau cùng,
cần phải thực hiện định hướng các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
vào trong trong thực tiễn phát triển bền vững của vùng.
Từ đó, có thể quan niệm: Phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên là quá trình các chủ thể nhận thức
toàn diện và sâu sắc các giá trị văn hoá, thực hiện bảo tồn và phát triển các
giá trị văn hoá, định hướng các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội để tạo động lực phát triển bền vững Tây Nguyên.
49
* Nội dung phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên
Theo lôgic hoạt động chủ thể, thì nội dung phát huy bao gồm:
Các chủ thể nhận thức toàn diện và sâu sắc các giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Trước hết, chủ thể phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên
bao gồm nhiều nhân tố khác nhau như: các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể,
các nhà khoa học, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, người dân sống ở Tây
Nguyên ..., trong đó nổi lên vai trò của chủ thể người dân tộc thiểu số Tây
Nguyên. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả nhấn mạnh vai trò của
3 chủ thể: (1) các tổ chức Đảng, (2) hệ thống chính quyền, (3) cộng đồng người
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Các chủ thể phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ
về giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, để luôn tích cực, tự giác, sáng
tạo, thúc đẩy quá trình phát huy giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền vững.
Phải có bản lĩnh vượt qua nghịch cảnh, trở ngại trong quá trình phát huy. Vì chủ
thể phát huy là động lực tự thân quan trọng nhất thúc đẩy quá trình phát huy giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số được diễn ra thuận lợi và có kết quả tích cực.
Để hiểu rõ các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số tồn tại suốt cả hàng trăm
năm phát triển, phải có quá trình nhận thức lâu dài, thì mới có được hoạt động
phát huy đầy đủ, hoàn chỉnh. Thực tế cho thấy, trình độ nhận thức của các chủ
thể về văn hoá Tây Nguyên cùng các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên lớn bao nhiêu, sẽ củng cố tình cảm, sự trân trọng của họ đổi với nền
văn hoá này bấy nhiêu. Trên cơ sở nhận thức hoàn thiện, đúng đắn các giá trị
văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, ý thức được các giá trị này là mạch
ngầm sống còn cho đời sống văn hoá của người Tây Nguyên; Hơn thế đang
đứng trước nguy cơ biến đổi, mai một, các chủ thể sẽ chủ động giữ gìn, bảo
vệ. Đồng thời nhờ quá trình nhận thức, biết được trách nhiệm chủ chốt của
mình trong việc phát huy các giá trị đó vào phát triển bền vững Tây Nguyên
trên tất cả các lĩnh vực.
50
Phải có nhận thức đúng, đủ, thì chủ thể Đảng, Nhà nước mới có thể đưa ra
những quyết sách, chủ trương đúng đắn, kịp thời đối với việc phát huy giá trị văn
hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên; Các chủ thể sở ban
ngành, đoàn thể mới có thể sát sao, thực hiện đúng chủ trương đường lối vào
từng đối tượng cụ thể, để tổ chức, quản lý và bảo tồn được những giá trị văn hoá
đang đứng trước nguy cơ bị mai một; Các chủ thể người dân tộc thiểu số sẽ hiểu
rõ hơn nền văn hoá dân tộc mình, để có ý thức tự hào, gìn giữ và quảng bá nền
văn hoá đó ra bên ngoài; Các chủ thể người dân, các nhà khoa học sẽ có cái nhìn
đúng đắn, góp phần vào công cuộc phát huy giá trị văn hoá truyền thống Tây
Nguyên vào công cuộc xây dựng, phát triển vùng. Nhờ đó họ sẽ ý thức được
trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị này
vào trong công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên.
Các chủ thể thực hiện bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên được hình thành trong suốt
chiều dài lịch sử của vùng đất này. Đến nay, do sự bào mòn của thời gian, của
biến đổi khí hậu, cả sự vô tình hoặc cố ý của con người, nhiều di sản văn hoá
Tây Nguyên đang xuống cấp, thất thoát, đứng trước nguy cơ bị mai một, lãng
quên. Muốn giữ được các giá trị đó, cần tiến hành hoạt động bảo tồn, phục
dựng, để lưu giữ được những giá trị văn hoá tốt đẹp mà thế hệ đi trước đã xây
dựng. Bởi nếu không thực hiện bảo tồn, thì những giá trị văn hoá truyền thống
sẽ bị biến mất, không còn giá trị gì để phát huy vào trong thực tiễn phát triển
bền vững Tây Nguyên. Bảo tồn không đơn thuần là giữ nguyên vẹn những giá
trị đã được xây dựng, mà trong bảo tồn đã bao gồm kế thừa và lọc bỏ. Để bảo
tồn có hiệu quả, cần phải kế thừa những thành tựu, tinh hoa của truyền thống,
đồng thời có quá trình gạn lọc, loại bỏ những gì phản giá trị, không còn phù
hợp, đi ngược với sự tiến bộ của loài người. Văn hoá không nằm ngoài quy
luật về sự vận động, phát triển. Theo thời gian, những điều kiện tồn tại mới sẽ
51
được sáng tạo, nảy sinh, để phù hợp với nhu cầu sinh tồn, phát triển của con
người. Do đó, các chủ thể cần chủ động thúc đẩy phát triển các giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, làm mới các giá trị văn hoá đó, để phù hợp điều
kiện sống mới, với xu thế vận động, phát triển của thời đại, đặc biệt là trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Các chủ thể thực hiện định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên.
Định hướng, là làm cho toàn bộ các hoạt động thực tiễn chứa đựng các
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, được các giá trị văn hoá đó chỉ
đạo, dẫn dắt trong quá trình phát triển.
Nếu chỉ dừng lại ở hoạt động nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các
chủ thể và tiến hành bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
Tây Nguyên thì chưa thể đưa được các giá trị văn hoá này vào trong thực tiễn
phát triển của vùng được. Bởi các giá trị đó sau khi được các chủ thể trân
trọng, bảo tồn, phát triển thì vẫn ở yên đó, các giá trị không tự mình tác động
và thúc đẩy biến đổi ở thực tiễn được. Do đó, bắt buộc phải triển khai hoạt
động định hướng các giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây
Nguyên. Bản thân các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên không thể
tự mình đi vào trong đời sống thực tiễn, nên cần có quá trình định hướng, dẫn
dắt của các chủ thể, để các giá trị đó tham gia vào thúc đẩy phát triển bền
vững Tây Nguyễn. Đó là quá trình liên tục lan tỏa giá trị, làm phong phú hơn
vai trò giá trị văn hóa dân tộc thiểu số vào xây dựng và phát triển bền vững
Tây Nguyên. Trong đó cần chỉ rõ: lựa chọn định hướng nội dung gì của giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số vào trụ cột nào của quá trình phát triển bền vững Tây
Nguyên. Hoạt động định hướng đó sẽ thúc đẩy kinh tế vùng phát triển lâu dài
trên diện rộng. Trên cơ sở một nền chính trị ổn định, đảm bảo trật tự, an toàn
trong xã hội. Các vấn đề y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội được chăm lo. Làm
phong phú hơn kho tàng văn hóa Tây Nguyên trong nền chung của Việt Nam,
52
đồng thời lưu giữ tính đa dạng của văn hóa thế giới. Khôi phục lại mật độ bao
phủ của rừng nguyên sinh, giúp bảo vệ nguồn nước, đảm bảo môi trường sống
cho cộng đồng. Đồng thời giữ một nền an ninh quốc phòng vững mạnh, giúp
cho ổn định vùng biên giới của tổ quốc trong tiến trình phát triển.
2.2. Một số nhân tố cơ bản quy định phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
2.2.1. Phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên là một quá trình chịu sự quy định của năng lực và trách
nhiệm của các chủ thể trong nhận thức và thực tiễn
Năng lực là tri thức, kinh nghiệm, khả năng của các chủ thể trong quá
trình nhận thức, thực hiện phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên. Còn trách nhiệm là những yêu cầu bắt buộc các
chủ thể phải thực hiện, để đảm bảo thành công cho quá trình phát huy các giá
trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Tiếp cận phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững nói chung và Tây Nguyên nói riêng gắn với hoạt động của mỗi con người
với tính cách là một chủ thể ở một cá nhân, nhưng trong tính chỉnh thể thống nhất
của toàn bộ hệ thống. Sự thống nhất ấy là cùng dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy
đảng và vai trò tổ chức các cấp chính quyền... Mỗi cá nhân từ cấp lãnh đạo, chỉ
đạo cao nhất của tỉnh đến từng thôn xóm, bản làng và gia đình cụ thể, gắn với
chức năng, nhiệm vụ nhất định. Mặc dù hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau,
nhưng cùng hướng tới mục đích chung và phù hợp với hệ chuẩn giá trị phát triển
bền vững ở Tây Nguyên đã được hoàn thiện. Mỗi chủ thể thể hiện chức năng,
nhiệm vụ riêng và hoàn thành được nhiệm vụ chính trị, tức là góp một phần động
lực của mình vào cái hợp lực có tính tổng hợp của toàn bộ hệ thống.
Khi thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, mỗi chủ thể đều phải vượt
qua những khó khăn, những lực cản mà trạng thái bình thường của chủ thể
khó có thể chiến thắng. Khó khăn, lực cản ấy ở tất cả các mặt: nhận thức,
53
hành động thực tiễn. Vì thế, phải thông qua và trên cơ sở của năng lực và
trách nhiệm của từng chủ thể trong tính hệ thống, đồng bộ. Năng lực và trách
nhiệm ở từng chủ thể từ cá nhân đến toàn bộ hệ thống sẽ tạo ra sức mạnh lớn
hơn hơn nhiều lần sức mạnh ở trạng thái bình thường được gọi là phần phát
huy trong phát triển bền vững. Phát huy đó chỉ có thể diễn ra có chất lượng,
hiệu quả khi dựa trên một nền tảng năng lực và trách nhiệm của mỗi con
người cụ thể trong tính hệ thống, đồng bộ và có tính vượt bậc. Nếu không có
những cố gắng vượt bậc ấy thì khó có thể vượt qua những khó khăn, lực cản
và không thể có phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số.
Có thể tiếp cận tính yếu tố năng lực và trách nhiệm của các con người
Tây Nguyên ở các mặt cụ thể và trước hết là trong tiếp nhận những giá trị đã
được khai thác làm giàu tri thức, nâng cao tầm hiểu biết về nội dung và ý
nghĩa đối với phát triển bền vững. Đối với một trình độ học vấn còn thấp và
không đồng đều của những con người các dân tộc thiểu số thì trách nhiệm và
năng lực phải càng cao thì mới có thể nắm vững, làm chủ mục tiêu, nội dung,
cách thức thực hiện. Nội dung, bản sắc văn hóa cũng như giá trị văn hóa các
dân tộc rất lớn, trình độ khái quát cao, đặc biệt tri thức trong các quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước… Nhận thức được những vấn đề
đó là một thách thức lớn đối với các chủ thể ở trình độ học vấn còn thấp của
các con người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Trình độ nhận thức ấy ấy lại chịu
sự quy định bởi năng lực của họ. Trình độ nhận thức là bước khởi đầu cho các
bước phát huy giá trị văn hóa ở các khâu tiếp theo. Biểu hiện tập trung nhất là
cùng thống nhất nhận thức ở quan điểm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, chỉ đạo
và chương trình kế hoạch phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên.
Yếu tố trách nhiệm của các chủ thể các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, các nhà
khoa học trong xây dựng, hoàn thiện quan điểm chỉ đạo và chương trình, kế
hoạch phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
54
Tây Nguyên. Quan điểm của Đảng, chủ trương của Chính phủ là cái chung và
từ cái chung đi vào lĩnh vực văn hóa trong phát triển bền vững thì phải dựa
vào năng lực và trách nhiệm của các chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, các nhà khoa
học cụ thể hóa vào Tây Nguyên một cách sát thực. Không có năng lực và
trách nhiệm của các chủ thể này thì sẽ rơi vào tình trạng chung chung, không
sát thực và không có phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên. Tư tưởng của Đảng trong Văn kiện Đại hội XII
của Đảng về: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”
[38, tr. 126-127] là cơ sở cho các chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo các cấp và chủ thể
các nhà khoa học cụ thể hóa vào môi trường văn hóa Tây Nguyên.
Yếu tố năng lực và trách nhiệm của các chủ thể là đồng bào các dân tộc
thiểu số biểu hiện ở việc tiếp thu các quan điểm chỉ đạo, chương trình, kế
hoạch phát huy giá trị văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Các
quan điểm chỉ đạo, chương trình kế hoạch phát huy giá trị văn hóa các dân
tộc thiểu số được các chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo đưa vào nội dung giáo dục,
tuyên truyền và đồng bào các dân tộc phải tiếp thu làm cho nhận thức, tri
thức của mình lớn lên, nắm được bản chất, cốt lõi... Nhưng với trình độ nhận
thức còn thấp so với các vùng miền khác thì các chủ thể này phải có năng
lực và trách nhiệm vượt bậc mới có thể hiểu biết đầy đủ nội dung, bản chất
của phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững.
Tổng hợp năng lực và trách nhiệm ở mỗi chủ thể trong tính chỉnh thể, hệ
thống sẽ tạo ra sức mạnh có tính tổng hợp cao tập trung vào phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Biểu hiện sức mạnh tinh thần dựa trên cơ sở trình độ nhận thức đã có
bước phát triển vượt bậc sẽ đem lại sức mạnh tinh thần, thái độ, động cơ,
niềm tin, ý chí tập trung vào phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Ở nội dung này là tinh thần trách
55
nhiệm đối với phát triển chung của toàn bộ Tây Nguyên; ở sự toàn tâm, toàn ý
vào khai thác, phát huy giá trị văn hóa bản địa trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Ở đó đã bao hàm nội dung mỗi chủ thể tự chiến thắng những lực cản
trước mắt. Tạm gác lợi ích trước mắt để đổi lấy cái lợi ích lâu dài; hy sinh lợi
ích cá nhân để thu về lợi ích chung của cộng đồng; bỏ qua tăng trưởng kinh tế
đơn thuần để có được tăng tưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã
hội bằng chính phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Yếu tố năng lực và trách nhiệm của mỗi con người các dân tộc thiểu số
quy định quá trình định hướng những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Trên cơ sở những kết quả của những
bước chuyển hóa trên, mỗi con người đi vào rèn luyện phong cách ứng xử
phù hợp với chuẩn mực, yêu cầu của bảo vệ môi trường văn hóa Tây Nguyên.
Ứng xử với hoạt động của chính mình và ứng xử với những người khác sự
tinh tế, lịch sự, lịch lãm, văn minh tương xứng với chuẩn của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Trong tính đồng bộ, thống nhất giữa các chủ thể từ nhận thức đến thái
độ động động cơ, ý chí tiến tới sự thống nhất trong hoạt động thực hành phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc trên thực tiễn. Mỗi chủ thể hoạt động ở các
lĩnh vực, các phương diện khác nhau, gắn với từng cương vị, chức trách,
nhưng thống nhất ở một chương trình kế hoạch phát huy giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số. Chương trình kế hoạch từ tổng thể đến từng giai đoạn; từ
lĩnh vực kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội đều được các chủ thể phát huy
năng lực và trách nhiệm để hiện thực hóa phát huy giá trị văn hóa trong phát
triển bền vững Tây Nguyên.
Giữa chương trình kế hoạch phát huy giá trị văn hóa có tính khoa học
với hoạt động thực tiễn của các chủ thể luôn có khoảng cách khá xa và luôn
phải ứng phó với những khó khăn, phức tạp. Giải quyết được những khó khăn,
lực cản ấy càng phải dựa trên cơ sở và sức mạnh được tạo ra từ yếu tố năng
56
lực và trách nhiệm của mỗi chủ thể. Quá trình lãnh đạo của các cấp ủy đảng,
các cấp chính quyền địa gắn với tinh thần đồng tâm hiệp lực của đồng bào,
tạo nên phong trào quần chúng cách mạng hiện thực hóa giá trị văn hóa các
dân tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Yếu tố năng lực, trách nhiệm
của mỗi chủ thể là cơ sở, động lực cho nâng cao ý thức trách nhiệm trong bảo
vệ, giữ gìn những di sản văn hóa; trong ứng xử với bảo vệ môi trường tự
nhiên; trong xây dựng hạ tầng cơ sở, đặc biệt trong ứng xử với khách tham
quan, du lịch có tính tinh tế, lịch lãm, văn minh. Yếu tố năng lực và trách
nhiệm của mỗi chủ thể trong cộng đồng từ thôn xóm, bản làng đến cấp tỉnh
trong thực hiện nếp sống văn minh, lịch sự, qua đó sẽ hấp dẫn, lôi cuốn du
khách. Yếu tố năng lực, trách nhiệm trong đấu tranh với những thái độ, động
cơ, hành vi lỗ mãng, phản giá trị, lệch chuẩn văn hóa. Yếu tố năng lực, trách
nhiệm trong củng cố quốc phòng - an ninh, không chỉ trong bảo đảm an ninh,
an toàn cho khách tham quan, du lịch, mà còn đáp ứng yêu cầu bí mật, yêu
cầu tạo sức mạnh thế và lực ở mặt quốc phòng - an ninh. Yếu tố năng lực,
trách nhiệm trong xây dựng các khu du lịch bảo đảm tính “quần thể liên
hoàn” tạo thuận tiện cho khách tham quan, du lịch, liên quan đến dịch vụ
phục vụ văn hóa ẩm thực, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ,... Yếu tố năng lực,
trách nhiệm của các chủ thể ở tinh thần ủng hộ chủ trương, kế hoạch xây dựng
theo quy hoạch của các cấp lãnh đạo, chỉ đạo. Mỗi người dân, gia đình không
gây khó khăn khi xây dựng hạ tầng cơ sơ, đường xá hay khu di tích lấn vào
đất canh tác, đất định cư. Đặc biệt yếu tố năng lực, trách nhiệm trong đấu
tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo vụ lợi cá nhân và những hành vi lừa
đảo khách tham quan, du lịch làm băng hoại môi trường văn hóa du lịch. Toàn
bộ những nội dung trên hợp thành một cơ sở, động lực cho phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Yếu tố năng lực và trách nhiệm của các chủ thể, thể hiện tính quy định
đối với phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
57
Tây Nguyên còn ở chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hướng dẫn viên;
đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp, có trình độ. Mỗi chủ thể hoạt động ở lĩnh vực
này vừa có phẩm chất, năng lực, đặc biệt là năng lực chuyên môn ở trình độ
tương ứng. Sự tương ứng này cho phép chuyển tải giá trị văn hóa đang ẩn
chứa trong các di sản văn hóa; di sản vật chất, tinh thần và làm lan tỏa giá trị
đến du khách. Năng lực và trách nhiệm của các chủ thể hoạt động có tính
chuyên môn, chuyên nghiệp là cơ sở trực tiếp, để đánh thức các tiềm năng
đang ẩn chứa thành hiện thực.
Tổng thể những nội dung về năng lực và trách nhiệm của các chủ thể tạo
thành cơ sở, động lực cho những tiềm năng, sức mạnh đang ẩn chứa trong các di
sản văn hóa Tây Nguyên được đánh thức. Từ đó nâng tầm lan tỏa giá trị văn hóa
và phục vụ phát triển bền vững Tây Nguyên. Yếu tố năng lực, trách nhiệm của
các chủ thể tạo thành phong trào quần chúng sâu rộng hướng vào phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
2.2.2. Phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên là một quá trình phụ thuộc vào chất lượng hoạt động bảo tồn và phát
triển giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong thời kỳ mới
Hoạt động bảo tồn, phát triển giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên quyết định hiệu quả của việc phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Bởi các giá trị đó phải được giữ
gìn, thì mới có thể sử dụng để định hướng có hiệu quả vào phát triển bền
vững Tây Nguyên. Nếu các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
không được bảo tồn, gìn giữ, thì những giá trị đó sẽ nhanh chóng mai một,
thậm chí biến mất. Điều đó cũng đồng nghĩa với không thể phát huy được
các giá trị đó vào trong công cuộc phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong suốt
tiến trình phát triển, tuỳ vào từng điều kiện, hoàn cảnh và những tác động từ
ngoại cảnh, mà các giá trị đó ít nhiều có sự thay đổi để thích nghi. Do đó,
bên cạnh bảo tồn, cần phải tích cực phát triển các giá trị văn hoá dân tộc
58
thiểu số Tây Nguyên. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc
tế đang có nhiều tác động làm biến đổi văn hoá nơi này.
Phải bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên vì các giá trị
này đang đứng trước nguy cơ bị mai một; tuy nhiên, đồng thời với quá trình bảo
tồn phải đảm bảo đổi mới và phát triển liên tục trong quy luật vận động chung
của xã hội. Bởi bản thân các giá trị văn hóa vốn không phải nhất thành bất biến,
mà nó là quá trình kết tinh, chọn lọc lâu dài trong tiến trình phát triển. Mà vận
động, giao thoa và tiếp biến là một quy luật tất yếu của văn hóa, những giá trị đã
trở nên lạc hậu, lỗi thời dần sẽ bị bài trừ, nhường chỗ cho những giá trị văn hóa
cấp tiến, có tác động tích cực, nhân văn đối với đời sống con người.
Bên cạnh đó, chính sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên đã dẫn tới một
thực trạng xã hội ở Tây Nguyên. Đó chính là sự ảo tưởng về sự vô cùng vô
tận của tài nguyên thiên nhiên, nên con người ở đây đã khai thác vô tội vạ,
không có ý thức giữ gìn, bảo vệ. Dẫn tới cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, kéo
theo sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống, văn hoá ngoại lai dần xâm
nhập và có ảnh hưởng nhất định đến tập tục, lối sống của người dân.
Tây Nguyên chứa đựng trong mình nhiều thế mạnh để phát triển du lịch.
Đó là sự giàu có, phong phú đa dạng và đầy bí ẩn của tài nguyên thiên nhiên
và kho tàng văn hóa đồ sộ của vùng. Tây Nguyên được xem một trong số ít
nơi còn giữ được gần như nguyên trạng nền văn hóa nguyên sơ mộc mạc từ
thời tiền giai cấp, tiền nhà nước. Nền văn hóa đó tạo nên nhiều khao khát
khám phá, chinh phục. Nếu “giữ mình” được trước những biến thiên, xâm
lăng văn hóa, thì nét văn hóa bí ẩn, riêng biệt của Tây Nguyên sẽ thực sự trở
thành một “mỏ vàng”, một cú huých đối với sự phát triển kinh tế của vùng.
Đây là một tiềm năng to lớn để phát triển ngành du lịch, có thể là các hình
thức du lịch khám phá, trải nghiệm, là một kho tư liệu sống sinh động để
nghiên cứu về một nền văn hóa nhiều trầm tích. Điều này sẽ mang lại một
nguồn thu kinh tế đáng kể cho vùng, đồng thời góp phần quảng bá văn hóa
59
Tây Nguyên với các vùng miền khác trong cả nước và quốc tế. Để làm được
điều đó cần phải tăng cường các hoạt động bảo tồn các giá trị văn hoá, để tự
thân những giá trị đó sẽ tham gia và thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế,
đời sống văn hoá, xã hội Tây Nguyên.
Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa có vai trò quan trọng trong phát triển bền
vững Tây Nguyên. Góp phần đảm bảo cho các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
Tây Nguyên không bị mai một, biến mất trong cơn lốc phát triển. Từ đó sẽ phát
huy tối đa vai trò của mình trong công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên.
Văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên có một quá trình phát triển lâu dài,
với chiều sâu lịch sử hàng trăm năm. Quá trình đó góp phần hình thành và lưu
giữ những giá trị văn hoá tốt đẹp, tích cực, nhân văn. Những giá trị này cần
được bảo tồn có hiệu quả, thì mới có thể phát huy được vào trong thực tiễn
phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay. Đồng thời, những hoạt động văn
hoá mang nặng tính mê tín dị đoan, thủ tục rườm rà, phản giá trị, những điều
cũ kỹ lỗi thời làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và sự phát triển của con
người nơi đây thì cần phải lọc bỏ, loại trừ.
Trên cơ sở bảo tồn, cần phát triển các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, để đảm bảo trong bối cảnh phát triển chung, nền văn hóa đó không bị
lạc hậu; mà vẫn thể hiện được vai trò của mình trong quá trình hội nhập của
vùng đất này với bên ngoài và thế giới. Để có thể phát triển được các giá trị văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, một mặt phải nắm bắt được xu thế vận động,
biến đổi của thời đại; mặt khác phải đảm bảo kế thừa được những thành tựu đã
được xây dựng, kết tinh từ trong truyền thống. Kế thừa là một trong những nội
dung của quy luật phủ định của phủ định biểu hiện ra trong tự nhiên - xã hội,
như là mối liên hệ tất yếu giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển.
Phát triển là một xu thế vận động tất yếu của lịch sử, văn hoá không nằm
ngoài quy luật đó. Phát triển các giá trị văn hoá, để những giá trị văn hoá đó
không vì những điều cũ kỹ, lạc hậu của chính mình trở thành lực cản cho quá
60
trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Trong sự vận động tất yếu của lịch sử tự nhiên, những giá trị văn hoá
mới sẽ tiếp nối nhau ra đời, bồi đắp, làm giàu có hơn nền văn hoá có lịch sử
lâu đời của Tây Nguyên. Những điều tốt đẹp sẽ tiếp tục được gìn giữ và phát
huy giá trị trong công cuộc phát triển của vùng.
Do vậy, vấn đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên phải được bảo tồn và phát triển nội dung giá trị văn
hóa. Văn hóa Tây Nguyên trải qua hàng trăm năm phát triển với nhiều trầm
tích, ngoài những sinh hoạt văn hóa mang tính mê tín dị đoan, nặng về thủ tục
rườm rà, nhiêu khê cản trở quá trình phát triển, thì những giá trị văn hóa tích
cực, nhân văn cần phải được bảo tồn, kế thừa và gìn giữ đồng thời nhân rộng
để phát huy giá trị trong thực tiễn.
Bảo tồn và phát triển nội dung giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây
Nguyên có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Bởi việc kế thừa
những giá trị tốt đẹp truyền thống chính là quy luật phát triển tất yếu của mọi
sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Kế thừa là một trong
những đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng, như một sợi dây nối liền
giữa cái cũ và các mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái lạc hậu và tiến
bộ trên con đường phát triển. Đây là quá trình cái cũ và cái mới cọ xát với
nhau, nhằm loại bỏ những giá trị tiêu cực, không phù hợp và qua đó phát huy
những giá trị tích cực, tiến bộ để xây dựng cái mới, đáp ứng được yêu cầu của
phát triển. Quá trình đó diễn ra thường xuyên, liên tục, để sàng lọc và lưu giữ
những thành tố hợp lý, đồng thời bồi đắp, bổ sung, sáng tạo, phát triển ra các
giá trị mới, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Mọi sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trên thế giới đều xuất
phát từ việc kế thừa những giá trị, những hạt nhân hợp lý trong quá khứ. Đó là
một quá trình thực hiện những bước phủ định kế tiếp và liên tục. Bản chất của
sự phủ định này không phải là thủ tiêu hoàn toàn, phá hủy hoàn toàn cái cũ,
61
mà sẽ giữ lại những hạt nhân điển hình, tiến bộ. Cái cũ và cái mới sẽ xâm
nhập, liên kết, trao đổi và chuyển hóa cho nhau. Không có bất kỳ giá trị văn
hóa tiến bộ nào được sinh ra, nảy nòi trên một mảnh đất trống, mà đó là kết
quả lâu dài của sự phát triển đúng quy luật từ những nền tảng đã được xây
dựng trước đó, là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh liên tục trên cơ sở
bảo tồn và kế thừa những giá trị của cái cũ.
Sự phát triển nội dung giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên là
một quá trình phát sinh và giải quyết những mâu thuẫn khách quan trong
chính những giá trị văn hóa đó. Đó là một quá trình thống nhất giữa việc loại
trừ các yếu tố tiêu cực, dị đoan, lỗi thời và sự kế thừa những giá trị tốt đẹp.
Qua đó sẽ nâng cao, làm vững chắc hơn những nhân tố tích cực, tiến bộ từ
chính nền tảng văn hóa truyền thống của Tây Nguyên trong một diện mạo
mới. Góp phần gia tăng hiệu quả của quá trình phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Trên bình diện khác, kế thừa không chỉ là kế thừa những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc mà còn kế thừa những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Do đó,
trong tính tất yếu của kế thừa đã bao hàm tính khách quan của giao lưu văn
hóa với nước ngoài. Dưới những tác động liên tục của xu thế toàn cầu hóa
cùng ảnh hưởng của cách mạng khoa học công nghệ, mở rộng giao lưu văn
hóa với các nước bên ngoài trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử. Điều đó
một mặt sẽ mở rộng cửa đón nhận những tinh hoa của văn hóa nước ngoài,
mặt khác để văn hóa Tây Nguyên được đi ra bên ngoài, giao thoa, học hỏi,
tiếp biến, làm phong phú hơn nền văn hóa đầy bí ẩn này. Nhờ đó, sẽ định
hướng những giá trị mới tốt đẹp đó vào xây dựng và phát triển Tây Nguyên.
Phát triển các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong xu thế
phát triển và hội nhập. Cụ thể là song song với việc bảo tồn các giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số truyền thống thì đón nhận các giá trị văn hóa mới, trong điều
kiện hoàn cảnh mới thì phải đảm bảo phát triển nó, xây dựng nó để phát huy
62
giá trị của nó trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Tây Nguyên nằm ở vùng
đón các làn sóng di cư, bởi thế văn hóa Tây Nguyên mang trong mình dấu vết
của những luồng di cư đó.
Để vừa đảm bảo lưu giữ được những giá trị cốt lõi trong truyền thống
đồng thời không bị bỏ lại trong xu thế phát triển chung của nhân loại, cần
giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong hệ thống giá trị văn
hoá dân tộc thiểu số. Để phát huy các giá trị đó vào trong công cuộc phát
triển bền vững Tây Nguyên.
2.2.3. Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
Tây Nguyên là quá trình chịu sự tác động của hiệu quả hoạt động định hướng
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên
Yếu tố này khẳng định, phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên, phụ thuộc vào vai trò của các chủ thể, trong hoạt
động định hướng đúng đắn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong thực
tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên. Đây chính là hoạt động chuyển từ nhận
thức đơn thuần thành những tác động cụ thể, chuyển hoá các tiềm năng của văn
hoá dân tộc thiểu số vào thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên. Nếu hoạt
động định hướng diễn ra đúng hướng, có hiệu quả thì sẽ thúc đẩy quá trình phát
huy giá trị văn hoá vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên, trái lại
nếu hoạt động định hướng không đạt hiệu quả, sẽ kìm hãm quá trình phát huy,
kéo lùi sự phát triển của Tây Nguyên.
Hoạt động định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong thực tiễn phát
triển bền vững Tây Nguyên phải thông qua các hình thức kinh doanh khai thác
được giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên; qua việc vận dụng luật tục
vào trong xây dựng và sử dụng luật pháp vào trong điều tiết xã hội; qua các thiết
chế văn hoá cộng đồng; qua việc xây dựng môi trường văn hoá cơ sở tích cực,
tiến bộ. Thì mới có thể đưa các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội và môi trường Tây Nguyên được.
63
Trước hết là thông qua các hình thức kinh doanh khai thác được giá trị văn
hoá dân tộc thiểu số, sẽ giúp người Tây Nguyên dùng chính tiềm năng văn hoá
của mình để thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển. Một mặt, có thể đảm bảo đời
sống của người đồng bào, mặt khác, vẫn có thể gìn giữ giá trị văn hoá truyền
thống của chính họ. Thực tế cho thấy, Tây Nguyên có một kho tàng văn hoá đồ
sộ, có sức hút rất lớn đối với cộng đồng. Vùng có thể đẩy mạnh phát triển ngành
du lịch, lữ hành, để thu hút một số lượng đông đảo du khách đến để tham quan,
trải nghiệm nền văn hoá truyền thống nơi đây. Nếu hoạt động du lịch được tổ
chức có hệ thống, có quy hoạch, đạt hiệu quả cao, thu hút được càng nhiều lượt
khách thì càng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương qua các hoạt
động dịch vụ, lưu trú tại địa bàn. Nguồn ngân sách đó sẽ quay trở lại phục vụ tốt
hơn cho cuộc sống của người dân tộc thiểu số, đảm bảo mức thu nhập và mức
sống của họ so với các cộng đồng dân cư khác trên địa bàn. Ngược lại, nếu hoạt
động du lịch chỉ dừng lại ở mức manh mún, nhỏ lẻ, theo từng cá thể tự phát, thì
chỉ mang lại một nguồn thu nhỏ. Không đủ để tái đầu tư nhằm tiếp tục phát triển
ngành du lịch, lâu dần vì chính nhu cầu tồn tại của các cá thể, mà du lịch có thể
biến tướng, các giá trị văn hoá truyền thống cũng sẽ dần biến mất, ngành du lịch
vốn đang là ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế Tây Nguyên cũng sẽ mất đi
những thế mạnh vốn có của mình.
Chính quyền cơ sở ở Tây Nguyên nếu có thể vận dụng, kế thừa luật tục vào
trong thực thi pháp luật ở Tây Nguyên, thì có thể đảm bảo cho sự phát triển ổn
định cho xã hội ở đây, cũng không làm đứt gãy truyền thống. Bởi, xã hội Tây
Nguyên đã tồn tại ổn định hàng trăm năm trong sự điều tiết của luật tục, với một
hệ thống điều luật chặt chẽ, nhân văn, bao quát toàn bộ các khía cạnh của đời
sống xã hội. Luật tục hình thành và phát triển trên nền tảng gia đình mẫu hệ, ở
một xã hội khép kín, tiền nhà nước, tiền giai cấp, giúp cho xã hội Tây Nguyên
vận hành trong một trật tự được cộng đồng công nhận. Do đó, nếu biết vận
dụng, kết hợp luật tục với pháp luật vào trong quản lý xã hội, thì vừa có thể
64
đảm bảo ổn định xã hội, vừa có thể giải quyết hài hoà vấn đề dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên. Xuất phát từ đặc thù phát triển, người dân tộc thiểu số Tây
Nguyên vẫn dễ dàng tiếp nhận và làm theo luật tục quen thuộc hơn là các
chương điều quy định trong pháp luật, mặc dầu bản chất vấn đề là đều nhằm
điều tiết xã hội trong một trật tự được công nhận. Ngược lại, nếu phủ nhận
những giá trị của luật tục, thì người đồng bào có thể bắt buộc phải tuân thủ
quy định của pháp luật, nhưng trong tâm thức của họ vẫn có những khoảng
trống không thể lấp đầy. Điều đó dẫn tới xã hội chỉ ổn định ở bề nổi, còn sâu
bên trong vẫn chứa đựng những nguy cơ có thể gây xáo trộn bất cứ lúc nào.
Phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên, chịu sự tác động của hoạt động định hướng giá trị văn hoá vào trong
thực tiễn, thông qua các thiết chế văn hoá như cơ sở vật chất, phương tiện, hạ
tầng cơ sở hiện đại. Văn hóa, cũng như phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên, chỉ có thể diễn ra trên cơ sở
một tiền đề vật chất, phương tiện cụ thể. Đặc điểm của cơ sở vật chất phương
tiện, trong tính quy định đối với phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên, có tính tổng hợp cao, bao gồm cả lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa nghệ thuật. Tính tổng hợp của các yếu
tố vật chất, phương tiện làm cơ sở, động lực cho phát huy giá trị văn hóa
trong phát triển bền vững, còn mang đặc đặc điểm của nhiều tầng trình độ
phù hợp, tương ứng với các chủ thể là các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Phát triển bền vững ở mỗi lĩnh vực khác nhau ở Tây Nguyên, gắn với các
chủ thể các dân tộc khác nhau về trình độ làm chủ cơ sở vật chất, phương
tiện. Tương ứng với trình độ của chủ thể nào, thì sẽ làm chủ cơ sở vật chất,
phương tiện ở trình độ ấy. Xét về mặt tổng thể, các chủ thể ở Tây Nguyên
có sự phân hoá trình độ rõ rệt, có đầy đủ các tầng trình độ từ cao xuống
thấp. Vì thế, cơ sở vật chất, phương tiện cũng có sự phong phú tương ứng,
để đáp ứng được với nhu cầu sử dụng của các chủ thể. Thiết lập, xây dựng
65
sự đa dạng trình độ cơ sở vật chất, phương tiện hợp lý, tương xứng, sẽ là
điều kiện, cơ sở, và động lực cho phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Để có thể xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, thì phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên cũng dựa
trên cơ sở của sự phong phú đa dạng về trình độ của công cụ, phương tiện
trong phát triển kinh tế. Công cụ, phương tiện lao động ở Tây Nguyên có đầy
đủ các trình độ khác nhau từ cao xuống thấp, nhưng nhìn tổng thể vẫn còn
chưa được hiện đại. Trình độ công nghệ cao chiếm tỷ trọng ít hơn so với các
trình độ thấp. Sự phong phú về trình độ công cụ, phương tiện sản xuất vật
chất, sẽ tạo ra sự phù hợp giữa con người và công cụ lao động trong lực lượng
sản xuất. Có sự phù hợp ở tất cả các tầng bậc khác nhau của trình độ con
người, thì mới có thể giải phóng đồng bộ lực lượng sản xuất, đảm bảo tăng
trưởng kinh tế ở Tây Nguyên. Tăng trưởng kinh tế ở Tây Nguyên không chỉ
có ý nghĩa về kinh tế, mà còn có giá trị văn hóa rất lớn. Nó bảo đảm cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất cho các dân tộc thiểu số, qua đó thực hiện những
giá trị văn hóa, xã hội bằng chính sức mạnh nội lực của mình. Một trong
những luận điểm của C. Mác về văn hoá: văn hóa là xã hội hóa lao động.
Điều đó cũng có nghĩa, những người đến tuổi lao động có công ăn, việc làm
là có văn hóa. Vì thế, xây dựng sự đa dạng tính đa tầng về trình độ công cụ,
phương tiện trong sản xuất vật chất, chính là mở ra điều kiện cho xã hội hóa
lao động, ở tầng sâu của nó chính là phát triển văn hóa và phát huy giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững ở mặt kinh tế.
Ở Tây Nguyên, hoạt động chính trị gắn với hệ thống chính trị từ cấp tỉnh
đến cấp cơ sở, xã, phường, buôn làng. Nét đặc thù của hệ thống chính trị ở
Tây Nguyên là còn có sự tồn tại và ảnh hưởng nhất định của già làng trưởng
bản. Họ trực tiếp tham gia thực hiện ổn định chính trị và phát triển bền vững ở
lĩnh vực chính trị Tây Nguyên. Các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực chính trị
66
ở Tây Nguyên cũng phải dựa trên cơ sở của công cụ, phương tiện hiện đại.
Như xe cộ, hệ thống máy móc công nghệ thông tin phục vụ công tác bám sát
cơ sở và hoạt động tuyên truyền. Với ý nghĩa đó, trình độ công cụ, phương
tiện là một trong những yếu tố quy định chất lượng, hiệu quả của phát triển
bền vững ở lĩnh vực chính trị. Công cụ, phương tiện đầy đủ, hiện đại, là cơ sở,
động lực cho phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên. Chất lượng hiệu quả từ hoạt động của các chủ thể trong hệ
thống chính trị, làm cho chính trị vững mạnh, ổn định và những giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số có sức lan tỏa trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Tính quy định của cơ sở vật chất, phương tiện, hạ tầng cơ sở cho phát huy
giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên, ở lĩnh
vực văn hóa, xã hội. Phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở lĩnh vực này
cũng dựa trên nền tảng của cơ sở vật chất, phương tiện, hạ tầng cơ sở theo yêu
cầu sự tương thích về trình độ. Sự tương thích với từng trình độ của mỗi tầng bậc
chủ thể khác nhau, thì mới có thể làm chủ và sáng tạo ra những giá trị văn hóa
trong quá trình hoạt động. Xét trên tổng thể các chủng loại công cụ, phương tiện
hoạt động ở lĩnh vực này cũng có bộ phận có tính hiện đại, có những bộ phận
từng bước tiến lên hiện đại. Hạ tầng cơ sở ở trình độ hiện đại là nội dung có vai
trò tiền đề cho các bộ phận khác. Trong đó, nổi lên nội dung về đường giao
thông, công nghệ thông tin và dịch vụ phục vụ cho khai thác các giá trị văn hóa,
là những yếu tố có tính quyết định nhất đến phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số chỉ có chất lượng, hiệu quả khi thu hút
được khách du lịch trong và ngoài nước. Giá trị văn hóa từ chỗ chỉ phục vụ cho
nhu cầu đời sống tinh thần cho dân cư tại chỗ, đến mở rộng phạm vi ảnh hưởng,
phục vụ cho khách du lịch. Việc thu hút được nhiều khách du lịch đến tham quan,
thưởng thức giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, phải dựa trên cơ sở hạ tầng giao
thông, thông tin thuận lợi, mới tạo ra động lực cho phát triển bền vững.
67
Đặc biệt là hạ tầng cơ sở ở mặt dịch vụ. Dịch vụ phục vụ cho du lịch là
yếu tố bảo đảm trình độ hiện đại thì mới thu hút được khách du lịch, tham quan,
lưu trú. Nó gồm hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, phục vụ ẩm thực, các
đặc sản vùng miền, để quảng bá đến du khách. Hệ thống các khu tham quan tạo
thành quần thể, cấu trúc liên hoàn, phù hợp với nhu cầu của du khách. Có sự
kết hợp giữa cái nguyên sơ, nguyên thủy của tự nhiên với các văn hóa vật thể,
phi vật thể truyền thống bản địa. Các khu trưng bày hiện vật văn hóa vật thể,
phi vật thể được trình bày có tính hệ thống, theo nguyên tắc của lý luận bảo
tàng và phương tiện hiện đại. Nhằm đảm bảo thu hút, hấp dẫn, khơi gậy sự tò
mò, mong muốn khám phá của du khách với các hiện vật được trưng bày. Toàn
bộ những điều kiện, cơ sở vật chất, phương tiện ấy, hợp thành một yếu tố quy
định phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Khi những điều kiện, cơ sở ấy đủ sức thu hút được nhiều du khách, sẽ
góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, quảng bá giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên ra bên ngoài.
Để định hướng có hiệu quả các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong
phát triển bền vững Tây Nguyên, cần phải chú trọng xây dựng môi trường văn
hoá tích cực ở Tây Nguyên. Nói cách khác, phát huy giá trị văn hóa các dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững chịu sự quy định của môi trường văn
hóa tích cực ở Tây Nguyên.
Môi trường văn hóa là tổng thể những nhân tố con người với tiền đề vật
chất, phương tiện trong sự tương tác, quan hệ lẫn nhau tạo ra không gian văn hóa
có tính đặc thù, sắc thái riêng và với một sức mạnh từ dư luận văn hóa, đạo đức,
chi phối suy nghĩ, hành vi mỗi con người theo chuẩn giá trị đã được xác định.
Cấu trúc một môi trường văn hóa gồm các chủ thể ở các lĩnh vực, các
cấp độ khác nhau và tương ứng với nó là các thiết chế văn hóa, cơ sở vật
chất, phương tiện trong sự thống nhất chỉnh thể với nhau, đồng thời với
một không gian văn hóa có tính đặc thù. Các thiết chế văn hóa là các tổ
68
chức xã hội được cộng đồng tạo ra. Mỗi tổ chức đó gồm những con người,
cá nhân hoạt động thực hiện chức năng của mình theo một nguyên tắc, cơ
chế, bảo đảm tính nhịp nhàng cho cộng đồng, xã hội phát triển. Các thiết
chế ấy có thể tiếp cận ở mặt chính trị, pháp luật, đạo đức... Mỗi góc độ tiếp
cận sẽ tạo ra một sắc thái riêng của môi trường văn hóa. Trong môi trường
văn hóa, còn có thể tiếp cận ở hai phương diện tích cực và tiêu cực. Môi
trường văn hóa nào nuôi dưỡng, sáng tạo ra những giá trị văn hóa, thì là
môi trường tích cực. Môi trường nào nuôi dưỡng, sáng tạo ra nhiều cái
phản văn hóa gọi là môi trường tiêu cực. Môi tường văn hóa tích cực có
bản chất là quan hệ lợi ích có tính hài hòa. Ở đó những biểu hiện bất bình
đẳng; cái xấu không được dư luận xã hội tôn vinh rộng rãi.
Môi trường văn hóa Tây Nguyên, vừa có tính đặc thù về tính đa dạng, sự
đan xen nhiều hệ chuẩn giá trị, chuẩn mực giữa các dân tộc thiểu số, vừa đang
trong quá trình chuyển hóa lên môi trường văn hóa xã hội chủ nghĩa, trong
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Môi trường văn hóa tích cực trong phát triển bền vững Tây Nguyên là
môi trường thống nhất giữa những giá trị truyền thống với hiện đại; giữa
những giá trị đã và đang sáng tạo ra trong tính chỉnh thể thống nhất và nuôi
dưỡng, phát huy vai trò đối với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và môi
trường ở Tây Nguyên.
Xét tính quy định ở phương diện môi trường văn hoá là cơ sở phát huy
giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
Tây Nguyên luôn phải dựa trên một cơ sở là môi trường văn hóa - môi trường
văn hóa tích cực. Môi trường đó gồm sự vững mạnh của các tổ chức chính trị,
thiết chế văn hóa và sự ứng xử của các chủ thể phù hợp với hệ chuẩn giá trị
đặc sắc Tây Nguyên. Chuẩn giá trị văn hóa Tây Nguyên trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đáp ứng theo yêu cầu phát triển
69
bền vững. Chỉ có môi trường văn hóa ấy mới có thể nuôi dưỡng, phát huy
những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Ngược lại, môi môi trường văn hóa không có những đặc trưng trên
thì không thể phát huy giá trị văn hóa trong phát triển bền vững.
Xét tính quy định ở phương diện vai trò động lực phát huy giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Môi trường văn hóa tích cực tức là các nhân tố cấu thành tương ứng
với nhau về trình độ, vận hành trên cơ sở một cơ chế hoàn thiện. Sự tương
ứng về trình độ cũng như vận hành trên cơ sở một cơ chế hoàn thiện thì
mới tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy quá trình phát huy giá trị văn hóa
trong phát triển bền vững. Sự vận động giữa các nhân tố mang tính chất
cùng chiều, cùng chung mục đích thì nhanh chóng cho ra kết quả theo ý
muốn. Ở đó không có tình trạng vận động của nhân tố này cản trở vận
động của nhân tố khác. Tính đồng thuận càng cao thì những giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số tại chỗ càng phát triển, càng gia tăng sức lan tỏa giá
trị trong không gian môi trường văn hóa và ra các không gian văn hóa
khác. Nó có sức mạnh ngăn chặn những suy nghĩ, hành vi lệch lạc, lệch
chuẩn của môi trường văn hóa. Kết quả cuối cùng là toàn bộ tiềm năng,
thế mạnh của Tây Nguyên được đánh thức, được nhân lên gấp nhiều lần
thúc đẩy tăng trường kinh tế trong tính hài hòa với các vấn đề chính trị, xã
hội và phát triển bền vững.
70
Kết luận chương 2
Giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên là những nội dung cơ bản
nhất phản ánh hoạt động sáng tạo của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Nó
thể hiện đầy đủ các khía cạnh chân thiện mỹ trong đời sống của người đồng
bào. Những giá trị đó, là yếu tố cốt lõi, tạo điều kiện, tiền đề, động lực thúc
đẩy phát triển bền vững Tây Nguyên trong suốt tiến trình lịch sử lâu dài.
Phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên là một quá trình lâu dài và phức tạp. Nó mang tính chất của một phong
trào quần chúng rộng rãi, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp chính
quyền và hệ thống chính trị cũng như toàn bộ đồng bào dân tộc thiểu số Tây
Nguyên và những người sinh sống tại đây. Các chủ thể cần có nhận thức đầy đủ,
chủ động, tích cực tham gia vào quá trình đó, để đưa những giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số cốt lõi vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên.
Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên là một quá trình chịu sự quy định của năng lực và trách nhiệm của các
chủ thể trong nhận thức và thực tiễn; phụ thuộc vào chất lượng công tác bảo
tồn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong thời kỳ mới;
chịu sự tác động của hiệu quả các hoạt động định hướng giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và môi trường Tây Nguyên.
Tính quy định được hiểu qua vai trò cơ sở, động lực, định hướng cho phát huy
giá trị văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Mặc dù mỗi tính quy
định được tiếp cận, luận giải khác nhau, nhưng quan hệ biện chứng với nhau,
trong chỉnh thể thống nhất.
71
Chương 3 PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
* Ưu điểm
- Về nhận thức của các chủ thể về phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Phần lớn các chủ thể đã nhận thức được vai trò của giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên, đồng thời triển khai các
hoạt động cụ thể thúc đẩy quá trình phát huy các giá trị văn hoá đó vào thực
tiễn phát triển bền vững.
Đảng ta nhận thức sâu sắc vị trí, địa bàn chiến lược của Tây Nguyên, đã
thường xuyên đổi mới, hoàn thiện tư duy lý luận, kiên định và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Kế
thừa thành tựu của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, đặc biệt là
các vấn đề: bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa; xây dựng môi trường văn
hóa; bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; củng cố, xây
dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa và thiết chế văn hóa. Để xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của
văn hóa, cho rằng “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Hơn thế, khẳng định văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của phát triển bền vững
đất nước, phải đặt văn hóa ngang hàng với chính trị và kinh tế. Chú trọng xây
72
dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động văn hóa. Đồng thời tập trung phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với
xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa, để chủ động và kịp thời hội nhập
quốc tế về văn hóa, tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại trên cơ sở bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Văn kiện Đại hội XII kế thừa có chọn lọc
các kỳ đại hội trước đó, đồng thời cho rằng xây dựng và phát triển nền văn
hóa phải gắn liền với xây dựng và phát triển con người. Hơn thế, văn hóa
không chỉ dừng lại là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là nguồn sức
mạnh nội sinh để thúc đẩy phát triển bền vững đất nước. Điều này khẳng định
Đảng và Nhà nước đã nhìn nhận đúng, công nhận và tạo điều kiện thông
thoáng về mặt chính sách để có thể thông qua văn hóa tiến tới phát triển bền
vững Tây Nguyên. Cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên đã nhận
thức đầy đủ, đồng thời quán triệt kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa
của các dân tộc thiểu số, xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc
dân tộc. Tạo nên sự tương đồng giữa các dân tộc trong vấn đề văn hóa và sử
dụng các nguồn lực khác vào quá trình phát triển.
Trong các chủ thể phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên thì vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng ở
vị trí trung tâm. Qua số liệu khảo sát các đối tượng đánh giá mức độ quan
trọng của các chủ thể phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên hiện nay cho thấy vai trò của Đảng đối với việc
phát huy giá trị văn hóa là 76,8%; vai trò của các sở ban ngành về văn hóa là
74,6%, của người đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên 75,8%; của người
các dân tộc khác sinh sống tại Tây Nguyên là 39%; của các nhà nghiên cứu
trong nước và quốc tế là 48% [Phụ lục 1b]. Trên cơ sở các chủ trương đường
lối của Đảng, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu và đề ra những quan
điểm về giá trị văn hóa dân tộc thiểu số gắn liền với tình hình thực tiễn của
phát triển bền vững Tây Nguyên.
73
Nhìn chung đội ngũ cán bộ nghiên cứu đã được trang bị đầy đủ kiến
thức và có những bước tiến bộ rõ rệt về bản lĩnh chính trị, bản lĩnh khoa học,
năng lực tư duy sáng tạo, nhất là tư duy lý luận. Nhờ vậy, họ đã tham gia tích
cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, góp phần bảo vệ, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dù trong bối cảnh tình
hình văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới, khu vực và của vùng đầy
biến động. Nhưng đội ngũ các nhà khoa học làm công tác nghiên cứu vẫn giữ
vững được lập trường quan điểm, hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận,
phục vụ kịp thời cho công tác văn hóa của vùng. Đó là những tiền đề quan
trọng, là động lực thúc đẩy tính tích cực xã hội để phát huy giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Các chủ thể quản lý hoạt động văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên như
các sở ban ngành về văn hóa, các cấp lãnh đạo ở địa phương, các cán bộ làm
công tác văn hóa đã tuyên truyền phổ biến chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đến với đồng bào dân tộc thiểu số thông qua nhiều hoạt động.
Qua số liệu khảo sát, hiểu biết của các chủ thể về các giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên được khẳng định ở những con số thuyết phục,
phải bảo vệ rừng nếu muốn giữ gìn văn hóa của người dân tộc thiểu số Tây
Nguyên có tỷ lệ cao nhất với 89,2% các chủ thể công nhận. Trong đó nhóm
công nhân viên chức và cán bộ có nhận thức cao nhất với 94,5%, phải khôi
phục hệ thống nhà rông, nhà dài 86,3%, khôi phục và lưu giữ cồng chiêng
84,8%, xuất bản và đào tạo diễn xướng sử thi 82,5%, giữ các nghi lễ lễ hội
truyền thống 84,3%, giảng dạy và lưu hành chữ viết của người dân tộc thiểu
số 70,9%. Nhóm đồng bào dân tộc thiểu số có nhận thức với tỉ lệ tương ứng
là: 87,4%, 79,2%, 86%, 73,8%, 78% [phụ lục 1b]. Đồng thời, phần lớn người
được hỏi đã khẳng định văn hóa dân tộc thiểu số có vai trò đặc biệt quan trọng
74
đối với phát triển bền vững Tây Nguyên: với 25,8% đánh giá là rất quan trọng,
45,8% đánh giá là quan trọng. Có 14,8% đánh giá là ít quan trọng, 8,4% cho
rằng không quan trọng, 5,2% không đưa ra câu trả lời [phụ lục 1b].
Các chủ thể văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên về cơ bản đã có sự
nhận thức đúng đắn vai trò của giá trị văn hóa dân tộc thiểu số đối với phát
triển bền vững Tây Nguyên. Vai trò giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên luôn gắn bó mật thiết với từng điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, đòi hỏi mỗi chủ thể phải có sự nhận thức đầy đủ, chủ động tích
cực tham gia vào quá trình phát huy thì mới mang lại kết quả tích cực.
Các chủ thể văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về nhiệm vụ gìn giữ, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số với công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên. Văn hóa dân tộc
thiểu số là một lĩnh vực chứa đựng nhiều biến động, đặc biệt là trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, giao lưu, tiếp biến văn hóa, là một xu thế chung của thời đại.
Văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên đứng trước nguy cơ sẽ bị hòa tan mai
một, đồng thời chịu những tác động ảnh hưởng, xâm lấn từ các văn hóa khác.
Đảng ta đã có nhận thức đúng đắn, đề ra những chủ trương đường lối hợp lý,
tiến bộ và kịp thời đối với công tác giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Đây là một quá trình vận dụng nguồn lực tổng hợp để
đánh thức những giá trị tiềm ẩn của văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, để
nó phát huy vai trò trong công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên.
- Về bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Thực hiện bảo tồn, kế thừa và phát triển có chọn lọc và phát huy giá trị
của các biểu tượng văn hoá Tây Nguyên, như: tiến hành khôi phục nhà rông,
tổ chức giảng dạy tiếng nói chữ viết của người dân tộc thiểu số, sưu tầm, bảo
quản và biên dịch để lưu giữ và phổ biến sử thi Tây Nguyên.
Thủ tướng đã chỉ đạo hoạt động bảo tồn, phát triển giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số Tây Nguyên qua Chương trình 135 [133]. Mục tiêu của đề án là
75
bảo tồn, kế thừa có chọn lọc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống và các giá trị văn hóa tiêu biểu, loại bỏ dần những cái lỗi thời lạc hậu,
xây dựng và phát triển những giá trị mới về văn hóa, nghệ thuật; hình thành
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới vùng Tây Nguyên; đoàn kết, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nâng cao đời sống văn hóa trong
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội; góp phần đẩy lùi âm mưu diễn biến
của các thế lực thù địch, ngăn chặn và bài trừ các luận điệu lừa bịp, xuyên tạc,
góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội; phát hiện, bồi dưỡng những
người sáng tác văn học nghệ thuật là người các dân tộc; Tổ chức điều tra, sưu
tầm, phổ biến các giá trị văn hóa nghệ thuật; bảo tồn, phát huy các nghề thủ
công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên.
Chương trình xây dựng, khôi phục lại nhà rông được triển khai khắp
các tỉnh ở Tây Nguyên. Cụ thể như ở Kon Tum với chỉ thị số 21 [128], Chỉ thị
nêu rõ, tất cả chính quyền các cấp phải đưa vấn đề khôi phục nhà rông thành
một nhiệm vụ trọng yếu, vận động, kêu gọi các cộng đồng dân cư tham gia
sửa chữa, xây mới nhà Rông theo kết cấu và nguyên liệu truyền thống trên
tinh thần vừa giữ được giá trị văn hóa vừa đảm bảo không lãng phí, tốn kém
tài sản nhân dân.
Theo kết quả khảo sát tại Kon Tum số liệu nhà rông năm 1999 là 265 trên
tổng số 625 buôn làng còn có nhà rông truyền thống [3, tr. 285], chưa kể tình
trạng xuống cấp đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Tại huyện Đắk Hà, Kon Tum,
trong 62 thôn làng thì chỉ có 56 thôn làng có 1999 nhà rông, trong đó chỉ còn 34
nhà còn có thể sử dụng được, 21 nhà đã bị xuống cấp, hư hỏng nghiêm trọng do
thời tiết và hỏa hoạn, 5 nhà rông đã bị hư hỏng toàn bộ [3, tr. 286]. Tại xã Đắk
Ui huyện Đắk Hà còn 9 thôn có nhà rông thì trong đó 1 cái đã bị sập hoàn
toàn do thời tiết, 8 cái còn lại cũng trong tình trạng hư hỏng nặng và trong
suốt thời gian dài không được sửa chữa [3, tr. 286]. Tại huyện Ngọc Hồi, Kon
Tum có 63 buôn làng thì chỉ còn 6 làng có nhà rông. Sau khi thực hiện Chỉ thị
76
số 21 [128] đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 575 nhà rông trên tổng số
588 buôn làng, tỉ lệ có nhà rông lên đến 97,8% [3, tr. 289]. Như vậy, có thể
thấy sau hơn một thập kỷ thực hiện Chỉ thị khôi phục nhà rông truyền thống
thì trên địa bàn tỉnh Kon Tum nhà rông đã được đưa trở lại cho đồng bào dân
tộc thiểu số, những nơi chưa có nhà rông thì đã được xây dựng mới để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng cho người dân.
Công cuộc xây dựng, khôi phục nhà rông cho thấy chính quyền các cấp
đã nhìn nhận được sự quan trọng của việc phải bảo tồn, gìn giữ và phát huy
các giá trị mang tính biểu tượng của văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Không còn sự xem nhẹ, thờ ơ trước sự tồn vong của di sản. Điều này là một
bước khởi sắc trong quá trình giữ gìn văn hóa truyền thống ở Tây Nguyên,
đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong phát triển bền vững.
Trước vấn đề giới trẻ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay có
biểu hiện lãng quên văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Các tỉnh ở Tây
Nguyên tập trung giảng dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc trong các bậc giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở, để có thể giúp người đồng bào dân tộc thiểu số
bảo tồn tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Chính quyền các cấp tiến hành
tuyên truyền, vận động, kêu gọi con em người dân tộc thiểu số tự nguyện tham
dự các lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các cơ sở đào tạo. Bộ Giáo dục cho
biên soạn một bộ sách giáo khoa cấp bậc tiểu học bao gồm các tiếng Jrai, Êđê,
Bahnar, K’ho… Còn ở các trường trung học cơ sở và trường dân tộc nội trú,
chương trình dạy được địa phương chủ động biên soạn. Các tỉnh ở Tây Nguyên
trích một khoản ngân sách lớn để in sách giáo khoa, trang thiết bị dạy học, sách
vở làm bài tập để phục vụ miễn phí cho học sinh các cấp. Ở Đắk Lắk, theo số
liệu trên cổng thông tin điện tử của tỉnh, trong năm học 2018-2019 đã huy động
133 giáo viên, tiến hành dạy tiếng Êđê cho 106 trường tiểu học, dạy tiếng cho
13.170 học sinh các lớp 3, 4, 5. Trong những năm qua, các tỉnh Đắk Lắk, Đắk
Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng đã tiến hành dạy tiếng Jrai, Êđê, Bahnar,
77
K’ho, M’nông cho hàng chục ngàn học sinh các cấp. Các giáo viên tham gia
giảng dạy là người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, được đào tạo nghiệp vụ bài
bản ở các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm trên địa bàn. Điều này giúp đảm
bảo chất lượng giảng dạy tiếng mẹ đẻ cho con em dân tộc thiểu số. Giữ được
tiếng nói, chữ viết là yếu tố cốt lõi nhất để giữ được văn hoá dân tộc thiểu số tại
chỗ ở Tây Nguyên. [64]
Trước nguy cơ sử thi sẽ bị thất truyền, mai một ngay trên chính quê
hương của mình. Trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2008, các tỉnh Tây
Nguyên đã sử dụng 17,957 tỷ đồng để triển khai dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo
quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây Nguyên”, đã sưu tầm được 801 tác
phẩm sử thi, với tổng cộng 5.679 băng ghi âm loại 90 phút [8]. Đây là một kết
quả khả quan, khi đã lưu giữ được một kho tàng đồ sộ các áng sử thi đang
đứng trước nguy cơ mai một. Trong số này, đáng kể đến nhất là ba bộ sử thi
chuỗi rất đồ sộ: sử thi Ốt Drông của đồng bào M’nông, sử thi Dông của đồng
bào Ba Na và sử thi Dăm Diông của đồng bào Xê Đăng. Ba bộ sử thi này
được giới chuyên gia đánh giá là những bộ sử thi có độ dài nhất còn lưu lại
được của thế giới. Điều này cho thấy, Tây Nguyên là nơi lưu giữ một kho
tàng sử thi đồ sộ, cả về số lượng và chất lượng. Khẳng định chiều sâu và sự
phong phú của một vùng văn hoá vốn nhiều trầm tích.
Công tác bảo tồn cồng chiêng đã được thực hiện có hiệu quả tương đối
tốt. Từ sau khi không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên được Unesco
công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hoá phi vật thể thế giới năm
2005, đến năm 2009 được chuyển thành Di sản văn hoá phi vật thể đại diện
của nhân loại. Chính quyền các cấp ở Tây Nguyên đã có nhiều hoạt động
để bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản.
Sau 10 năm thực hiện các đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Cồng chiêng Tây Nguyên, tỉnh Đắk Nông khôi phục được hơn 50 lễ hội
của các nhóm dân tộc; tổ chức được trên 100 lớp truyền dạy cồng chiêng từ
78
cấp huyện, thị xã đến cấp tỉnh; thành lập được 8 Câu lạc bộ cồng chiêng và
8 đội văn nghệ dân gian; cấp 150 bộ chiêng và 15 bộ goong cho phòng Văn
hóa và Thông tin các huyện, thị... Tỉnh Đắk Lắk thống kê được 2.307 bộ
chiêng đủ; 3.855 người biết diễn tấu cồng chiêng; 393 người biết chỉnh
chiêng có; 635 người biết dạy đánh cồng chiêng; 1.270 nghệ nhân biết sử
dụng nhạc cụ tre nứa; 2.608 nhà truyền thống; 220 bến nước truyền thống;
155 nghi lễ - lễ hội truyền thống với các tên khác nhau; số nghệ nhân biết
chế tác nhạc cụ tre nứa, gỗ, đá có 568 người. Toàn tỉnh hiện có 16 đội
thông tin lưu động; 184 đội văn nghệ cấp xã, phường; 554 đội cồng chiêng
truyền thống; tổ chức liên hoan văn hóa cồng chiêng, ngày hội văn hóa các
dân tộc; hội diễn văn nghệ quần chúng ở tỉnh 2 năm/lần, ở huyện, thị xã,
thành phố 1 năm/lần. Riêng tỉnh Lâm Đồng mở được 45 lớp truyền dạy
cồng chiêng cho hơn 1.080 học viên là thế hệ trẻ người Mạ, K’ho hoặc
Churu; tổ chức thành công 3 liên hoan văn hoá cồng chiêng cấp huyện;
trang bị được 12 bộ chiêng truyền thống kèm theo trang phục truyền thống
cho các địa phương trong tỉnh; hỗ trợ hình thành 3 mô hình bảo tồn tại địa
bàn huyện Đơn Dương, huyện Đức Trọng và huyện Lạc Dương. Hơn thế,
hằng năm Festival cồng chiêng Tây Nguyên được luân phiên tổ chức ở 5
tỉnh của vùng. Để qua đó quảng bá những giá trị của không gian văn hoá
cồng chiêng, văn hoá Tây Nguyên, đồng thời thu hút đầu tư để tiến tới phát
triển bền vững Tây Nguyên. [14]
- Về định hướng các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số vào trong thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội để tạo động lực phát triển bền vững Tây Nguyên
Các tỉnh Tây Nguyên đã từng bước khôi phục rừng, khai thác các giá
trị văn hoá vào phát triển du lịch, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng.
Trải qua hàng trăm năm khai thác và chung sống với rừng, người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên trên cơ sở giữ gìn rừng vẫn có thể đảm bảo được cuộc
sống trong một trật tự hài hòa. Trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ ra quyết
79
định 304/2005/QĐ-TTG ngày 23 tháng 11 năm 2005 về thí điểm giao rừng,
khoán rừng cho các hộ gia đình và người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên.
Nhằm tạo điều kiện ổn định và nâng cao đời sống cho người đồng bào. Các
địa phương đã thực hiện chỉ đạo, gấp rút bàn giao rừng cho người dân tộc
thiểu số canh tác. Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nguyên đánh giá, chính sách
giao đất giao rừng đã góp phần giải quyết được tình trạng mất đất, mất rừng
của người đồng bào. Giúp họ giải quyết được vấn đề lương thực thực phẩm,
phục vụ cho việc xây dựng cuộc sống ổn định lâu dài. Qua đó, người dân vẫn
gắn sinh kế của mình với rừng như trong truyền thống nhưng bằng hình thức
canh tác, nuôi trồng, chăm sóc và bảo vệ mới, điều đó làm cho cuộc sống của
họ trở nên ổn định, căn cơ, bền vững hơn. Đây được xem là một chính sách
đảm bảo cho việc giữ gìn và phát triển rừng bền vững, nhờ đó sẽ ngăn chặn
được nạn phá rừng làm tài nguyên mai một, nâng cao độ che phủ rừng, đảm
bảo an ninh môi trường, nâng cao chất lượng tài nguyên, đưa các thành phẩm
của lâm nghiệp thành hàng hoá. Theo đó GDP bình quân trên đầu người của
Tây Nguyên tăng mạnh so với trước đó. GDP bình quân đầu người năm 2016
đạt 39,56 triệu đồng, tăng 13 lần so với năm 2001.
Với những đặc điểm tự nhiên, khí hậu và đặc biệt là với kho tàng văn hóa
đồ sộ, Tây Nguyên trở thành một vùng có tiềm năng lớn để phát triển du lịch.
Vùng cũng xác định lấy văn hoá và du lịch là định hướng chủ đạo cho phát triển
toàn diện Tây Nguyên. Khai thác thế mạnh các tài nguyên thiên nhiên, Tây
Nguyên tiến hành xây dựng một hệ thống sản phẩm du lịch gắn liền với điều
kiện tự nhiên nơi đây, như núi rừng, thác nước, nông nghiệp sạch, các đặc trưng
văn hoá của người dân tộc thiểu số tại chỗ. Tiêu biểu như ở Đắk Lắk khai thác
cưỡi voi ở bản Đôn, chèo thuyền độc mộc ở hồ Lắk, kết hợp xem biểu diễn cồng
chiêng ở chính trong không gian sống của người đồng bào. Lâm Đồng với lợi
thế về khí hậu ôn hoà, quanh năm mát mẻ để xây dựng khu nghỉ dưỡng, tham
quan du lịch, chiếm phần lớn du khách đến với Tây Nguyên. Hàng loạt lễ hội
80
đâm trâu được tổ chức tháng ba hàng năm ở Kbang, Chư Prông (Gia Lai), thành
phố Kon Tum, buôn Đôn (Đắk Lắk), lễ hội đua voi phản ánh tinh thần thượng võ
với tập quán thuần dưỡng voi rừng của người dân tộc thiểu số tại chỗ. Hệ thống
di chỉ khảo cổ học dày đặc phân bổ khắp 5 tỉnh của Tây Nguyên, ghi dấu ấn sự
tồn tại của người tiền sử từ thời đồ đá đến thời đại kim khí ở đây, tiêu biểu như
di chỉ khảo cổ Biển Hồ, Lung Leng, Phù Mỹ… Tất cả tạo nên thế mạnh du lịch
riêng có của Tây Nguyên, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế, tạo
một nguồn thu lớn trong tổng số doanh thu hằng năm của vùng.
Một số sản phẩm du lịch của Tây Nguyên đã từng bước tạo dựng được
thương hiệu như Lễ hội hoa Đà Lạt, Liên hoan cồng chiêng quốc tế, Lễ hội cà
phê, Du lịch bản Đôn. Du lịch đã góp phần làm thay đổi diện mạo Tây
Nguyên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự ổn định về chính
trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, làm giảm mạnh hộ nghèo với những phương
thức linh hoạt. Thu nhập xã hội từ du lịch đạt cao gấp 3 lần doanh thu thuần
túy. Doanh thu du lịch lữ hành theo giá hiện hành của Tây Nguyên năm 2016
là 105,5 tỷ đồng, đến năm 2019 là 141,2 tỷ đồng [phụ lục 2I].
Thực hiện tôn trọng phong tục tập quán, tranh thủ người có uy tín trong
cộng đồng và cán bộ người dân tộc thiểu số có hiểu quả vào ổn định chính trị
của Tây Nguyên.
Thực hiện tác phong tôn trọng tập quán của nhân dân, các giá trị văn hoá
của người dân vào trong lãnh đạo, quản lý. Cấp uỷ đảng và chính quyền các
tỉnh Tây Nguyên đã thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII [128] về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng” ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển
hoá trong nội bộ. Cấp uỷ các cấp ở Tây Nguyên đã có sự phân công nhiệm vụ
cụ thể, đối với các đồng chí phụ trách từng mảng. Nhờ đó đã có thể trực tiếp
chỉ đạo, đốc thúc, mang lại hiệu quả cao trong việc tiến hành học tập, làm
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đáng nói nhất là xây dựng lối tư duy,
81
phong cách, tác phong công tác tôn trọng nhân dân, tôn trọng phong tục tập quán,
các giá trị đạo đức, giá trị văn hoá của người dân nơi người lãnh đạo. Nhờ đó giữ
gìn được các giá trị văn hoá truyền thống của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
phát huy giá trị đó trong công tác xây dựng sự ổn định chính trị của vùng.
Sự ổn định của tập tục, lối sống, sinh hoạt văn hoá của người dân tộc thiểu
số được chú trọng quan tâm, như là một yêu cầu tất yếu của công cuộc xây
dựng Đảng, ổn định bộ máy chính trị, hướng tới phát triển bền vững Tây
Nguyên. Trên cơ sở Chỉ thị 05-CT/TW [3] chú trọng xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, về chăm lo xây dựng, phát triển kinh
tế và văn hoá, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Qua
đó phát triển văn hoá, xây dựng hệ giá trị văn hoá chuẩn mực của con người Việt
Nam trong thời kỳ mới. Chú ý xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng, hướng tới xây
dựng đội ngũ cán bộ có đủ tài đức, phẩm chất, ngăn chặn sớm các biểu hiện tự
chuyển biến, tự chuyển hoá, tham nhũng cửa quyền trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Các tỉnh Tây Nguyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến nội dung
chỉ thị, biểu dương khích lệ các cá nhân tập thể tiêu biểu. Chủ trương tôn trọng
nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân về mọi mặt.
Để tranh thủ những người có uy tín trong cộng đồng vào củng cố chính
quyền cơ sở, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 253/QĐ-TTg [122]. Mục
tiêu của đề án là củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên,
từng bước xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp cơ sở
vững mạnh. Vùng đã huy động hàng ngàn cán bộ tham gia công tác bám dân,
bám địa bàn, phối kết hợp với các già làng, trưởng bản, những người có uy tín
trong buôn làng, để nắm dân, nắm tình hình của địa phương ở vùng các dân
tộc thiểu số. Tiến hành thực hiện chế độ hợp lý, cho đội ngũ cán bộ không
chuyên trách ở các buôn làng như già làng, trưởng bản, để lực lượng này có
thể chuyên tâm hơn cho công tác của mình. Bởi với đặc thù riêng có ở các
vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên, người đồng bào đa số vẫn chịu ảnh hưởng
82
bởi luật tục và những người có tiếng nói trong buôn làng hơn là từ chính
quyền. Từ đó có thể đề ra những chính sách quản lý hợp lý về công tác dân
tộc, tôn giáo tại địa bàn.
Đồng thời tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số vào
trong quản lý các vấn đề chính trị, xã hội của vùng. Không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị, để họ có thể đảm đương được các yêu
cầu đặt ra của thực tiễn. Các tỉnh thực hiện quy hoạch trên 11.000 lượt cán bộ cơ
sở, trong đó có 2.600 người dân tộc thiểu số. Có 37,6% đại biểu là người dân tộc
thiểu số ở trong hội đồng nhân dân cấp xã, có 28,06% cán bộ trong biên chế là
người dân tộc thiểu số ở bộ máy hành chính ở xã. Có 28,32% cán bộ người dân
tộc thiểu số nắm vai trò chủ chốt ở các buôn bon [96]. Phối kết hợp với các cơ sở
đào tạo, để nâng cao trình độ cho cán bộ là người dân tộc thiểu số, khuyến khích
con em dân tộc thiểu số đi học ở các trường cao đẳng đại học, để có thể tạo tầng
lớp kế cận bổ sung vào bộ máy chính quyền cơ sở. Những người này sẽ là chiếc
cầu nối vững chắc nhất, để đưa những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước,
đến với nhân dân bằng con đường ngắn nhất. Qua đó tránh được các âm mưu
xuyên tạc, chống phá gây bất ổn chính trị của các thế lực thù địch.
Trên cơ sở các quy định của luật tục, chính quyền các cấp đã thực hiện
chính sách đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên đảm bảo tôn
trọng và đề cao quyền lợi của họ. Trước đây, hội đồng Già làng ở Tây
Nguyên quản lý đất đai thông qua luật tục. Cộng đồng được quyền phát
nương làm rẫy trong khu vực mà luật tục cho phép. Không được tự ý phát rẫy
ở khu vực cấm, ở khu vực đang có người phát rẫy, khi có điều chỉnh nhân
khẩu phải báo cho hội đồng già làng để có điều chỉnh về đất đai. Đất rẫy này
các gia đình trong buôn có thể tự do chuyển nhượng cho nhau, trên cơ sở hai
bên đồng thuận. Nhưng tuyệt đối không được bán, chuyển quyền sở hữu đất
đó ra khỏi buôn làng. Nhờ đó, người Tây Nguyên giữ được đất rẫy trong sở
hữu của buôn làng, cũng giữ được tập tục, tập quán sản xuất và văn hoá
83
truyền thống của dân tộc mình. Quyết định số 132 [130] được thực hiện trên
nguyên tắc đảm bảo công khai, minh bạch và công bằng, trên cơ sở tôn trọng
phong tục tập quán của mỗi dân tộc. Quyết định đã yêu cầu trong vòng 10
năm, người dân được giao đất sản xuất theo quyết định này tuyệt đối không
được sang nhượng, cầm cố dưới bất cứ hình thức nào. Đảm bảo phát triển sản
xuất bền vững, giúp người đồng bào có thể ổn định đời sống lâu dài.
Từ sự phong phú về mặt tín ngưỡng và tính cố kết cộng đồng của người
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Đảng ta đã có nhiều chính sách, pháp luật khai
thác mặt tích cực và khắc phục các tiêu cực của vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Trong Văn kiện Đại hội XII Đảng ta chủ trương “phát huy những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”; “Quan tâm và tạo điều kiện cho
các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương điều lệ của tổ chức tôn giáo
đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” [38, tr.165]. Cùng với chính sách di
cư, từ 12 dân tộc thiểu số tại chỗ, Tây Nguyên trở thành địa bàn cư trú của 47
dân tộc anh em, từ một vùng có tín ngưỡng đa thần, nhiều tôn giáo đơn thần bắt
đầu du nhập vào, hiện đang có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành và Cao Đài, với hơn 1,9 triệu tín đồ, khoảng 3.500 chức sắc, chức việc và
nhà tu hành, hơn 840 cơ sở thờ tự thực hành tôn giáo [141, tr. 353]. Đặc biệt là
với đạo Tin Lành, không thể phủ nhận được tôn giáo này mang đến nhiều sinh
hoạt tinh thần, hoạt động cộng đồng vui vẻ, tích cực. Thông qua tôn giáo,
người đồng bào mở rộng giao tiếp ra khỏi cộng đồng buôn làng, có sự kết nối
với các cộng đồng, dân tộc khác có cùng tôn giáo, giúp họ tự tin hơn trong
giao tiếp xã hội. Nhờ tham gia tôn giáo mà họ biết làm ăn, biết sinh hoạt sạch
sẽ, loại bỏ các yếu tố mê tín cực đoan ra khỏi cuộc sống của mình. Nhiều thói
quen, tập quán xấu được lọc bỏ, dân trí người dân được nâng lên. Người dân
chăm chú làm ăn hơn, cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân đều được
nâng lên so với trước.
84
Thực hiện triển khai có hiệu quả các hoạt động cộng đồng trong khuôn
khổ nhà rông. Từ khi thực hiện chỉ thị số 21 [128], nhà rông được khôi phục,
xây mới ở Tây Nguyên, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng cho người đồng
bào trong thời đại mới. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều làng đã treo ảnh, tượng
Bác Hồ, cờ Tổ quốc, Quốc hiệu trong nhà rông, để thể hiện lòng biết ơn, sự
kính trọng với Bác và Đảng ta. Cũng ở đó các nội quy, hương ước của làng
được treo lên, nhờ đó người dân dễ dàng được tiếp cận. Cùng với các sinh hoạt
văn hoá, cộng đồng truyền thống, thì các buôn làng còn tổ chức các hoạt động
mới tại nhà rông như: lễ chào cờ, lễ báo công, phát động các phong trào của
đoàn thể, hội họp, quán triệt, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước đến với người đồng bào. Dưới nhà rông, các hoạt động sinh hoạt
cộng đồng được được kế tục, cũng ở đó lớp trẻ được trao truyền, kế thế những
phong tục tập quán tốt đẹp của cha ông mình từ đời này sang đời khác. Từ tính
cố kết cộng đồng, phát triển thành tinh thần đoàn kết đại dân tộc.
Tổ chức hoạt động khôi phục rừng tự nhiên, tăng diện tích che phủ của
rừng ở Tây Nguyên theo những quy định của luật tục trong truyền thống.
Người Tây Nguyên khai thác rừng cả trăm năm, nhưng họ khai thác trong
tâm thế giữ gìn. Hơn thế nữa, xuất phát từ tâm thức rừng, người Tây Nguyên
tuyệt đối không đụng đến rừng cấm, rừng đầu nguồn, rừng thiêng và khu rừng
mộ địa. Luật tục M’nông có quy định: Khu rừng đó là của tổ tiên, khu rừng đó
là của ông bà, khu rừng đó là của con cháu, khu rừng đó là của chúng ta, rừng
bị cháy ta phải giúp dập, rừng bị cháy mà không dập tắt, mọi người sẽ không
còn rừng, mọi người sẽ không còn đất... Luật tục Ê-Đê có nhắc: Đất đai,
sông suối, cái rừng là cái nong, cái nia, cái lưng của ông bà. Ông bà là người
giữ cái hang, trông coi rừng, trông coi cây K’towng, cây Kdjar. Luật tục Gia
Rai thì cho rằng: Đất đai tổ tiên để lại. Nếu bán đất cũng như bán ông bà.
Luật tục nghiêm cấm tất cả các hành vi làm tổn hại đến rừng, cấm không
được làm dơ bẩn nguồn nước sinh hoạt của buôn làng. Tất cả những ai vi
85
phạm điều cấm đều bị thần linh trừng phạt và buôn làng xử phạt rất nặng.
Chính nhờ điều này mà người dân tộc thiểu số Tây Nguyên suốt quá trình
cộng sinh lâu dài với rừng vẫn giữ được cho rừng một nguồn tài nguyên trù
phú, không ngừng tái sinh.
Nhận thấy những tác động tích cực, từ cách người dân tộc thiểu số tại chỗ
ứng xử với rừng, đối với môi trường sống, Đảng, Nhà nước đã tập trung bảo vệ,
trồng mới rừng ở Tây Nguyên. Năm 2019 tổng diện tích rừng của Tây Nguyên
là hơn 2,55 triệu ha (tỉ lệ che phủ của rừng là 45,9%), tăng 2,5 nghìn ha so với
năm 2018. Diện tích rừng trồng mới ở Tây Nguyên năm 2019 là 12,5 nghìn ha,
tăng 4,8 nghìn ha so với năm 2014 [phụ lục 2a]. Gần đây, Đề án 297 [134], với
mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng rừng biến mất, tiến hành khôi phục, phát
triển rừng. Đến ngày 22/6/2019 tại Đắk Lắk, Ban Chỉ đạo Nhà nước về chương
trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, tổ chức Hội nghị tăng cường
công tác quản lý bảo vệ rừng, giải quyết khó khăn, đẩy mạnh phát triển lâm
nghiệp vùng Tây Nguyên. Đây là những chính sách thiết thực, tác động trực tiếp
đến việc khôi phục rừng ở Tây Nguyên. Khi rừng được khôi phục, cũng sẽ là
yếu tố cốt lõi để giúp bảo vệ nguồn nước, ngăn chặn sạt lở, xói mòn, ngăn nước
ngầm tụt sâu, ngăn biến đổi khí hậu đang diễn ra ở Tây Nguyên.
Thực hiện gìn giữ và phát huy tính cố kết cộng đồng vào xây dựng tinh
thần yêu nước, chủ động tham gia đấu tranh với các âm mưu diễn biến hoà
bình của các thế lực thù địch.
Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên
phát huy tính cố kết cộng đồng của mình thành ý thức chính trị đại cộng đồng,
thành tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc, biến Tây Nguyên thành một
cứ địa cách mạng quan trọng của cả nước. Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập
đầy biền động, dù có nhiều trở ngại nhưng nhìn chung đồng bào dân tộc thiểu
số Tây Nguyên vẫn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục hun
đúc, gìn giữ và phát huy tính cố kết cộng đồng, tinh thần yêu nước, tích cực
86
tham gia vào công cuộc đấu tranh nhằm đánh bại âm mưu diễn biến hoà bình,
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của địch.
Bên cạnh đó kịp thời ngăn chặn các âm mưu khôi phục và phát triển lực
lượng của tổ chức phản động FULRO. Hơn thế nữa qua quá trình đấu tranh, lực
lượng an ninh của ta đã thu phục được hàng ngàn thành viên của tổ chức Fulro
quay đầu, về tham gia vào công tác xây dựng Tây Nguyên. Tiêu biểu như
nguyên đệ nhất Phó Thủ tướng Fulro ông Nahria Ya Đuk, từng bị bắt trong
chuyên án F101, sau đó trở thành Đại biểu quốc hội, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng. Ông Ya Đuk tích cực tham gia vào công
cuộc xây dựng Tây Nguyên, bảo vệ người đồng bào dân tộc thiểu số trước âm
mưu diễn biến hoà bình của địch. Ở tuyến biên giới, luôn chứa đựng nguy cơ bất
ổn, Tây Nguyên đã tiến hành hợp tác song phương, tranh thủ sự ủng hộ của lực
lượng vũ trang và chính quyền nước bạn Lào và Campuchia. Thực hiện cắm
mốc phân giới, ngăn chặn âm mưu xâm nhập, vượt biên, buôn người, tuồn hàng
lậu qua biên giới. Tây Nguyên là địa bàn đóng quân của các đơn vị lực lượng vũ
trang, biên phòng, các binh đoàn làm kinh tế, các đơn vị chủ lực của Bộ Quốc
phòng, bộ Công an… Đảm bảo để thực hiện quốc phòng toàn dân, xây dựng thế
trận an ninh nhân dân, phát huy tính cố kết cộng đồng, kịp thời ngăn chặn, xử lý
các tình huống khẩn cấp. Tất cả những điều đó giúp đảm bảo an ninh quốc
phòng cho Tây Nguyên, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia cho cả nước.
* Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước đã quan tâm, đánh giá đúng tiềm năng của
vùng kinh tế trọng điểm Tây Nguyên, về vai trò của văn hoá đối với phát triển,
từ đó sát sao vấn đề bảo tồn, khôi phục và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Từ đó, đề ra nhiều chủ trương,
chính sách sát thực, giải quyết được vấn đề cấp bách đang đặt ra ở vùng về
xây dựng văn hoá, kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng trong công cuộc
phát triển bền vững ở vùng.
87
Khẳng định Tây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển bền
vững, như là một vùng chung sống của nhiều dân tộc với nền văn hoá phong
phú, đa dạng. Từ 12 dân tộc thiểu số tại chỗ, Tây Nguyên trở thành địa bàn
chung sống của 47 dân tộc anh em trên cả nước, do quá trình di cư trên diện
rộng trong thời gian dài từ khắp cả nước. Đến nay, làn sóng di cư vẫn chưa có
dấu hiệu dừng lại, nên cơ cấu dân tộc, văn hoá ở vùng vẫn sẽ còn có nhiều
biến động. Như vậy, có thể khẳng định Tây Nguyên là vùng có cơ cấu dân tộc
phức tạp, có lịch sử phát triển và nguồn gốc hình thành không giống nhau,
kéo theo đó là các phong tục, tập quán, lối sống, văn hoá khác nhau. Điều đó
một mặt mang lại một diện mạo đa sắc màu về văn hoá cho Tây Nguyên, mặt
khác cũng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề trong quá trình chung sống về sự cọ xát,
xung đột giữa các nền văn hoá với nhau.
Cũng là vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều thế mạnh để phát
triển nền kinh tế nông lâm nghiệp như tài nguyên rừng, cây công nghiệp xuất
khẩu, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc lớn, chế xuất nông lâm sản, du lịch; Đồng
thời còn là vùng có tiềm năng lớn để phát triển các ngành năng lượng như
thuỷ điện, điện mặt trời. Tây Nguyên được xem là hậu phương kiên cố, vững
chãi của một dải miền Trung, với chức năng phòng hộ, cung cấp nước ngọt để
đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của miền Trung. Đối với khu vực tam giác
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, Tây Nguyên là có vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng, có tác động rất lớn đến an ninh chính trị và sự phát triển
của cả vùng. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước, đã đề ra những chủ trương
chính sách để phát triển kinh tế, trên cơ sở bảo đảm quốc phòng an ninh và
không xâm phạm đến văn hoá, môi trường sống của Tây Nguyên.
Thứ hai, các chủ thể quản lý thuộc chính quyền các cấp vùng Tây
Nguyên, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện chính sách của Đảng,
Nhà nước, Ban chỉ đạo Tây Nguyên trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
88
của Nhà nước, các tỉnh Tây Nguyên đã đẩy mạnh triển khai thực hiện các
Quyết định 168, 134, 135, 139, 154, 159,… của Thủ tướng Chính phủ, các
chính sách dân tộc, tôn giáo. Nên về cơ bản các vấn đề kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở Tây Nguyên tương đối ổn định. Bên cạnh
đó là tích cực vận động quần chúng tuân thủ theo chủ trương chính sách, ngăn
chặn các tư tưởng xấu đang manh nha xâm nhập vào. Nên dù những năm qua,
thế lực thù địch không ngừng kích động quần chúng ở vùng biên giới vượt
biên, chống chính quyền, kiếm cớ để quốc tế can thiệp vào vấn đề nội bộ của
Tây Nguyên. Nhưng nhờ công tác tuyên truyền, vận động, bám dân mà đồng
bào đã nhận thức được âm mưu của địch, không bị lôi kéo, dụ dỗ, đảm bảo
trật tự xã hội, an ninh chính trị cho toàn vùng.
Các tỉnh Tây Nguyên quan tâm bố trí, sử dụng cán bộ, củng cố hệ
thống chính trị, bám dân ở những vùng xung yếu. Tranh thủ sử dụng cán bộ
người dân tộc thiểu số, người kinh biết tiếng dân tộc tham gia vào công tác
dân vận, tận dụng những người có tiếng nói trong cộng đồng. Tỉnh Gia Lai ra
Nghị quyết phân công 47 sở, các ban ngành, mặt trận và đoàn thể tỉnh phụ
trách các xã trọng điểm, phân công 429 phòng ban của huyện phụ trách buôn
làng, vận động các doanh nghiệp trên địa bàn chung tay với các xã kém phát
triển nhằm cải thiện cuộc sống. Trong quá trình thực hiện các chính sách,
quan tâm giải quyết triệt để các đơn thư, khiếu nại của đồng bào, đặc biệt là
các vấn đề liên quan đến đất đai, tôn giáo, dân tộc, đền bù, giải phóng mặt
bằng… nhằm tạo sự nhất trí, đồng thuận trong dân. Chủ động, kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, Đảng viên có sai phạm trong
quá trình thực thi chính sách, vi phạm đạo đức lối sống.
Ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chính sách của Đảng và
Nhà nước với Tây Nguyên. Lãnh đạo các tỉnh còn chủ động tiến hành các
chính sách giúp đỡ, hỗ trợ dành cho đồng bào, nguồn kinh phí được trích trực
tiếp từ ngân sách của tỉnh. Tỉnh Kon Tum triển khai thực hiện hỗ trợ chi phí
89
ăn ở cho học sinh trường dân tộc nội trú, theo Quyết định số 112/2007 [133].
Đắk Nông thực hiện có hiệu quả Quyết định số 143 [136], để đảm bảo học phí
cho học sinh sinh viên người dân tộc thiểu số. Ngoài ra Đắk Nông còn thông
qua chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số
thuộc hộ nghèo, cận nghèo của tỉnh, để nhóm đối tượng này có thể trang trải
được việc học hành giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021. Uỷ ban nhân dân
tỉnh Đắk Lắk tiến hành chính sách tài trợ sách giáo khoa cho nhóm học sinh,
sinh viên nghèo, hỗ trợ một phần kinh phí cho học sinh ở các trường bán trú,
trường dân tộc nội trú, học sinh và giáo viên của các lớp dạy tiếng Êđê…
Thứ ba, nguyên nhân từ trình độ, năng lực chuyên môn của các chủ thể
trong ngành văn hóa - du lịch vùng Tây Nguyên hiện nay. Gần đây, thông qua các
chính sách đào tạo, thu hút nhân tài, đội ngũ nhân lực của các ngành văn hoá - du
lịch tại Tây Nguyên được nâng cao rõ rệt. Nhờ đó, du lịch Tây Nguyên cũng khởi
sắc hơn, do được đầu tư bài bản, công phu và có chiến lược hơn. Dễ thấy ngành
văn hóa - du lịch đóng một vai trò rất quan trọng trong việc quảng bá các giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Việc chú trọng phát triển ngành du lịch
giúp đảm bảo một nguồn thu đáng kể cho ngân sách của vùng, giúp cho người
đồng bào có thể có thêm thu nhập thông qua việc gìn giữ các giá trị văn hóa của
dân tộc mình. Nhờ đó, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên có thể đảm bảo cuộc
sống của mình và gia đình, bằng chính các sản phẩm văn hoá mà mình đang có.
Thứ tư, nguyên nhân từ tác động của kinh tế thị trường và xu thế toàn
cầu hóa. Nền kinh tế thị trường mang nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, dần
xoá nhoà sự chênh lệch mức sống của Tây Nguyên với các vùng miền khác
trong cả nước. Giúp cho đời sống kinh tế của người đồng bào được cải thiện
đáng kể, cùng với đó trình độ nhận thức của chủ thể văn hóa Tây Nguyên
được nâng cao, có thể nắm bắt được vị trí và các xu thế vận động, phát triển
của văn hoá dân tộc mình trong xu thế vận động của thời đại. Toàn cầu hoá
kéo theo sự phổ biến của các phương tiện nghe nhìn hiện đại, theo đó người
90
dân tộc thiểu số, đặc biệt là giới trẻ được tiếp cận, sử dụng các phương tiện,
công cụ, công nghệ hiện đại. Trình độ của giới trẻ nói riêng và cộng đồng dân
cư dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung đang ngày càng được nâng cao.
Nhờ đó có thể nhanh chóng nắm bắt được thông tin, các vấn đề đặt ra với
chính dân tộc mình, không chỉ dừng lại trong phạm vi buôn làng như trước.
Qua đó, họ được nhìn thấy được vai trò của văn hoá đối với phát triển nói
chung, vai trò của giá trị văn hoá dân tộc thiểu số đối với phát triển bền vững
Tây Nguyên nói riêng. Đây cũng là một kênh rất hữu hiệu, để các chính
quyền các cấp thực hiện tuyên truyền chủ trương đường lối đến với các chủ
thể quần chúng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Người đồng bào sẽ nhìn thấy
được những tác hại to lớn ở những vùng đánh mất văn hoá truyền thống trong
quá trình phát triển. Bằng những tác động đó, bản thân họ đã phần nào ý thức
được việc phải bảo tồn, gìn giữ những giá trị mang tính bản sắc của dân tộc
mình. Đồng thời sẽ trân trọng hơn các giá trị của dân tộc mình, cẩn trọng hơn
trong các hoạt động sống có xâm hại đến văn hoá truyền thống của cha ông.
Từ đó có thể tự ý thức được vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống trong
công cuộc phát triển bền vững Tây Nguyên để ra sức gìn giữ, phát huy.
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
* Hạn chế
- Về nhận thức của các chủ thể về phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Một số nơi, các chủ thể nhận thức về vai trò của giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên chưa được sâu sắc, toàn diện
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân cho rằng việc thực hiện
nhiệm vụ phát triển bền vững Tây Nguyên là trách nhiệm của lãnh đạo các
cấp ở Tây Nguyên; nhận thức về vai trò của văn hóa dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên còn nhiều hạn chế, chưa sâu sắc và đầy đủ.
91
Qua số liệu khảo sát cho thấy, vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế
Tây Nguyên chưa được đánh giá đúng mức. Không nhận thức được những tác
động nhiều mặt của văn hóa đối với hoạt động phát triển kinh tế, đặc biệt là
những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ về những giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, đánh đồng giữa thay đổi ồ ạt không
kiểm soát với việc phát triển các giá trị văn hóa truyền thống. Thiếu cảnh giác,
vội vàng đón nhận những yếu tố văn hoá ngoại lai đang xâm nhập vào Tây
Nguyên theo nhiều con đường, làm mất đi tính ổn định của văn hóa Tây
Nguyên. Điều đó dẫn tới sự phức tạp về vấn đề tôn giáo, từ đó nhiều cá nhân
tổ chức lợi dụng vấn đề này để gây bất ổn vấn đề chính trị ở Tây Nguyên.
Như hiện tượng đạo Hà Mòn, Fulro, nhà nước Đề Ga. Trong vòng một năm từ
2005-2006 đã có 1.020 người tại Kon Tum theo đạo Hà Mòn, từ đó đến nay,
gây ra nhiều biến động cho tình hình chính trị xã hội của Tây Nguyên [9]
Một số bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có biểu hiện xuống cấp
về đạo đức lối sống, vướng vào một số tệ nạn xã hội, có tư tưởng hoang mang
dao động. Đối với công tác văn hóa nhiều nơi còn bị xem nhẹ, chưa được đầu
tư xứng tầm. Vẫn tồn tại tình trạng tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận
cán bộ làm công tác văn hóa, dẫn tới các nguồn ngân sách chưa được sử dụng
hợp lý so với chủ trương đặt ra. Điều đó dẫn tới các biểu hiện tiêu cực, lối sống
không lành mạnh, phi văn hóa có cơ hội được bộc lộ, gây ảnh hưởng xấu đến
mặt bằng văn hóa của xã hội. Đáng nói hơn, những biểu hiện này còn tồn tại
trong các cán bộ, đảng viên, những người nắm rõ pháp luật và có trách nhiệm
thực thi pháp luật, điều này dẫn tới những bất cập, ít đồng thuận trong xã hội.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá, giám sát có nơi còn thiếu thống
nhất, đồng bộ, chặt chẽ. Triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng về phát
triển văn hóa chưa cụ thể, xây dựng các phong trào văn hóa - xã hội nhìn
chung còn chậm, thiếu nhận thức thống nhất, lúng túng trong khâu xác định
nội dung, phương thức, phương thức tiến hành và tổ chức thực hiện, vẫn còn
không ít nơi coi nhẹ thậm chí buông lỏng công tác quản lý văn hóa xã hội.
92
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta chưa được giáo dục về
vai trò giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển bền vững
Tây Nguyên. Còn thiếu tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong hoạt
động phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số. Một bộ phận chủ thể văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên chưa khắc phục khó khăn để thực hiện tốt công
tác xây dựng đời sống văn hóa. Nhận thức chưa được đầy đủ và sâu sắc. Việc thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành những chính sách cụ thể trong lĩnh
vực văn hóa có lúc, có nơi còn chậm và chưa phát huy tác dụng trong cuộc sống.
Có tình trạng cán bộ, đảng viên và nhân dân có biểu hiện tiêu cực, đã ảnh hưởng
đến phẩm chất chính sách, nhân cách. Tư tưởng thực dụng một khi phát triển tới
mức cực đoan sẽ đẩy họ tới nguy cơ thoái hóa, biến chất nhanh chóng. Ngoài ra
còn biểu hiện bè phái cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, cửa quyền, chạy
bằng cấp… đang là vấn đề nóng hiện nay. Một dạng khác của lối sống thực dụng
là sự phát sinh quan hệ cấu kết lợi ích. Đó là những cá nhân có lợi ích phụ thuộc
vào nhau, ngấm ngầm thực hiện phân chia lợi ích với nhau, theo nguyên tắc họ đặt
ra. Mối quan hệ này tạo nên “vây cánh”, “ê-kíp”, “bè phái”… lợi ích nhất định,
tồn tại ngầm, những người tham gia mối quan hệ này thường liên kết với nhau,
che chắn cho nhau, bảo vệ nhau. Đó là biểu hiện mới không lành mạnh trong quan
hệ đoàn kết nội bộ ở các đơn vị, cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã
hội. Điều này ảnh hưởng xấu tới quá trình phát huy hệ giá trị văn hóa dân tộc thiểu
số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
- Về bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Công tác khôi phục, bảo tồn các biểu tượng văn hoá ở Tây Nguyên
nhiều nơi chỉ mới giải quyết được phần số lượng, nhưng chưa giải quyết được
phần chất lượng.
Mặc dù Đảng ta đã đánh giá đúng tiềm năng về phát triển bền vững Tây
Nguyên, thế nhưng có một số chính sách lại không sát thực, không lường
được hết rủi ro. Như chính sách di cư ồ ạt sau năm 1975 vào Tây Nguyên,
93
chính sách phát triển cây công nghiệp trên diện rộng ở Tây Nguyên. Điều đó
làm thay đổi nhanh chóng và sai quy luật nhiều giá trị văn hóa ở Tây Nguyên.
Theo số liệu khảo sát của Gainsborough [45, tr. 36]: năm 1954 người
dân tộc thiểu số có 510.000 người, chiếm 85% toàn vùng, đến năm 2004
người dân tộc thiểu số có 1.181.337, chỉ còn chiếm 25,3% toàn vùng. Qua số
liệu thấy được cơ cấu dân cư của Tây Nguyên đã dịch chuyển hoàn toàn với
tốc độ quá nhanh. Người dân tộc tại chỗ Tây Nguyên trong mấy thập niên
bỗng trở thành “thiểu số” trên chính mảnh đất ông cha mình. Theo đó những
giá trị văn hóa truyền thống của Tây Nguyên bị lung lạc, đứng trước nguy cơ
bị hòa tan và biến mất. Điều này cho thấy, sự can thiệp sai quy luật về chính
sách đối với việc phát triển của Tây Nguyên, đã làm cho vùng bị phá vỡ kết
cấu hài hòa mà họ đã duy trì trong suốt lịch sử hàng trăm năm phát triển. Điều
này đi ngược với các tiêu chí phát triển bền vững.
Do chỉ tập trung đẩy nhanh về số lượng mà không chú ý nhiều đến chất
lượng của công trình, nên quy trình, nguyên liệu, tâm thức xây dựng nhà rông
có nhiều khác biệt so với truyền thống, vì thế không giải quyết được phần gốc
rễ của vấn đề. Bởi bản chất của phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số là phải
khơi gợi, đánh thức được nhu cầu tự thân của các chủ thể, từ đó họ sẽ trực tiếp
tham gia vào quá trình đó. Khác với trước, giờ đây nhà rông được xây dựng
bằng xi măng, tường gạch, các trụ bê tông kiên cố, mái tôn. Công trình chỉ mô
phỏng được hình dáng bề ngoài so với nhà rông truyền thống. Cũng không
được xây dựng với quy trình nghiêm ngặt, với đầy đủ lễ nghi của người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Vì thế, không tạo được tính “thiêng” cho nhà rông, cũng
không in đậm được dấu ấn của văn hóa cộng đồng trong suốt quá trình xây
dựng. Vì thế, nhiều nhà rông sau khi được khôi phục, xây dựng xong lại nhanh
chóng bị bỏ hoang, dần rơi vào hư hỏng do dân làng không đến, không chăm
sóc, không coi là một ngôi nhà mang biểu tượng văn hóa linh thiêng của họ.
94
Một bộ phận người đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên có biểu hiện
chối bỏ, quay lưng với văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Như một phần
đồng bào Bahnar, Gia-rai (tỉnh Gia Lai), Mnông (tỉnh Đắk Nông) từ bỏ tín
ngưỡng truyền thống trong đó có thực hành đánh cồng chiêng và các sinh
hoạt gắn với văn hóa cồng chiêng. Những huyện có cư dân theo tôn giáo mới,
hiện còn rất ít cồng chiêng, như: huyện Đắk Đoa (Gia Lai) chỉ còn 131 bộ
cồng chiêng, có 42 làng không còn cồng chiêng; thành phố Pleiku (Gia Lai)
chỉ còn 81 bộ cồng chiêng và có tới 20 làng không còn cồng chiêng.
Mặc dù đã sưu tầm được một số lượng sử thi đồ sộ, hơn thế còn xuất bản
được 75 bộ sử thi, có 21 bộ sử thi khác đang chuẩn bị xuất bản. Nhưng tất cả
mới chỉ dừng lại ở công tác sưu tầm và xuất bản, chưa được hiện thực hoá trong
đời sống của người dân tộc thiểu số tại chỗ. Sử thi và diễn xướng sử thi đang
đứng trước nguy cơ bị biến mất. Số lượng nghệ nhân biết hát sử thi nay chỉ còn
trên đầu ngón tay, như ở Đắk Lắk và Đắc Nông chỉ còn 5 người biết hát sử thi
Êđê, 2 người biết hát sử thi M’nông (2012), chưa kể phần lớn đều đã tuổi cao,
sức yếu. Không những thế, giới trẻ hiện nay lại đang bị cuốn theo các trào lưu
văn hoá ngoại lai mới du nhập vào, quay lưng với văn hoá của cha ông mình.
Quá trình tiếp biến văn hóa của các tộc người mới đến đối với văn hoá
truyền thống vẫn không ngừng diễn ra ở Tây Nguyên. Chính vì sự phong phú
về tộc người cùng sinh sống trên một khu vực, nên vấn đề giao lưu, tiếp biến
văn hóa của các tộc người mới đến so với các dân tộc bản địa là điều không
thể tránh khỏi. Sự hấp dẫn của những luồng văn hóa nhập cư theo làn sóng di
dân dễ làm cho các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên thích thú đón nhận, thích nghi
và dần đánh mất bản sắc của mình. Người trẻ dân tộc thiểu số Tây Nguyên
chuyển sang nói tiếng Kinh, mặc quần áo tân thời. Vì vậy các tỉnh Tây
Nguyên gặp rất nhiều khó khăn trong việc định hướng giới trẻ theo học các
loại hình văn hoá truyền thống như cồng chiêng, sử thi, đàn đá… Không
những thế, lớp nghệ nhân giỏi lần lượt qua đời, để lại một khoảng trống về
tầng lớp kế cận của văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
95
- Về định hướng các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số vào trong thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội để tạo động lực phát triển bền vững Tây Nguyên
Các hoạt động phát triển kinh tế còn manh mún, chưa khai thác được
các giá trị văn hoá làm cho thu nhập GDP của Tây Nguyên nhìn chung vẫn
thấp so với cả nước, người dân tộc thiểu số tại chỗ có mức sống thấp hơn so
với mặt bằng chung.
Cùng với các chủ trương quy hoạch lại rừng, phát triển cây công nghiệp,
GDP bình quân trên đầu người ở Tây Nguyên tăng cao hơn so với trước đó.
Nhưng so với mặt bằng chung của cả nước, mức sống ở Tây Nguyên vẫn nằm
ở nhóm thấp. Hơn thế sự chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch về tiếp cận các
dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường hiện đại, tiếp cận việc làm giữa các vùng,
các nhóm dân cư vẫn chưa được thu hẹp. Nhóm đồng bào dân tộc thiểu số tại
chỗ vẫn có mức sống thấp hơn so với mặt bằng chung của vùng. Người dân tộc
thiểu số ở đây bị tách ra khỏi phương thức sản xuất truyền thống, rừng không
còn thời gian để nghỉ ngơi nên ngày càng bạc màu. Bằng nhiều cách họ rời bỏ
các thửa rừng của mình, hoặc bán với giá vô cùng rẻ cho người Kinh rồi
chuyển lên cư trú ở các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Một số người sau đó
do không đáp ứng được mức sống cơ bản, đã quay lại xin làm thuê tại chính
thửa đất mình từng bán. Một số khác trở thành lao động tự do không có tay
nghề, đi làm thuê theo mùa vụ, mức sống bấp bênh phụ thuộc vào người khác.
Sự tăng trưởng kinh tế trước mắt, không bao trùm toàn bộ đời sống của mỗi cá
nhân trong cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tăng trưởng đó chưa bao
hàm phát triển bền vững. Sự phân hoá giàu nghèo ở Tây Nguyên thể hiện rõ rệt
thông qua tỉ lệ chênh lệch của thu nhập bình quân đầu người giữa người Kinh
với người dân tộc thiểu số tại chỗ, giữa nhóm người có thu nhập cao nhất so
với nhóm người có thu nhập thấp nhất hằng năm. Đáng nói là sự chênh lệch đó
ngày càng lớn qua các năm. Nếu như năm 2010 nhóm thu nhập cao nhất thu
được 3,410 triệu đồng trên một tháng, cao gấp 9,2 lần so với nhóm thu nhập
thấp nhất, chỉ được 369 ngàn đồng trên một tháng. Thì đến năm 2019 tỉ lệ này
96
là 10,103 triệu đồng và 988 ngàn đồng, cao gấp 10,2 lần. Sự chênh lệch chi tiêu
bình quân đầu người trong một tháng giữa nhóm có thu nhập cao nhất so với
nhóm có thu nhập thập nhất vẫn cao, qua từng năm và so với cả nước. Tỉ lệ này
của Tây Nguyên năm 2010 là 9,2 lần, năm 2012 là 9,4 lần, năm 2014 là 9,7 lần,
năm 2016 là 9,8 lần, năm 2019 là 10,2 lần; tương tự tỉ lệ này của cả nước là 8,3
lần, 8,6 lần, 9,0 lần, 9,4 lần và 10,5 lần. [phụ lục 2e]
Hoạt động khai thác du lịch chưa mang lại nguồn thu xứng với thế mạnh,
tiềm năng của vùng. Dù đã có nhiều bước phát triển, nhưng thực tế tỷ trọng về
lượng khách du lịch và thu nhập từ du lịch của vùng Tây Nguyên vẫn chưa
tưng xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có. Du lịch Tây Nguyên phát triển có
phần chậm hơn so với các vùng khác của cả nước, trừ thành phố du lịch Đà
Lạt. Hạ tầng kỹ thuật du lịch ở nhiều khu vực còn hạn chế; trình độ phát triển
du lịch không đồng đều giữa các tỉnh trong vùng. Các yếu tố trong phát triển
du lịch bền vững hầu như chưa được quan tâm hoặc quan tâm nhưng chưa đạt
kết quả: thu nhập từ du lịch Tây Nguyên thấp, chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so
với tổng thu nhập du lịch của cả nước; thu nhập của dân cư từ hoạt động du
lịch manh mún, nhỏ lẻ. Theo thống kê sơ bộ, năm 2019 tổng doanh thu từ du
lịch của cả nước là 44.259,1 tỷ đồng, trong khi đó Tây Nguyên chỉ có 141,2 tỷ
đồng. Trong đó, nguồn thu chính đến từ các trung tâm du lịch của Lâm Đồng
và Đắk Lắk. [phụ lục 2I]
Chương trình du lịch “con đường xanh tây nguyên” đã được khởi xướng,
nhưng chưa được triển khai thực hiện một cách tích cực. Nhiều sản phẩm du
lịch khác mới bước đầu được đầu tư khai thác, chưa trở thành các sản phẩm
du lịch độc đáo, hấp dẫn. Bên cạnh đó, một số điều kiện về an ninh, an toàn;
thay đổi cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý du lịch địa phương cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển du lịch ở các tỉnh Tây Nguyên. Sự phát
triển du lịch tự phát; thiếu đồng bộ đã gây ra tác động đến tài nguyên và môi
trường tự nhiên cũng như môi trường văn hóa. Một số dự án đầu tư, bao gồm
cả đầu tư nâng cấp hạ tầng du lịch, còn chưa phát huy được hiệu quả.
97
Sự phong phú về tộc người, tôn giáo và sự đa dạng văn hoá trên địa bàn
đã kéo theo những mâu thuẫn, tranh chấp tôn giáo, làm nảy sinh nhiều bất ổn
chính trị ở Tây Nguyên.
Sự phát triển rầm rộ của các tôn giáo lớn tại Tây Nguyên, một bộ
phận lớn người dân tộc thiểu số tham gia vào các tôn giáo làm nảy sinh
nhiều vấn đề an ninh chính trị. Thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, kích
động, gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ nhóm người người nhập cư mới
đến và người dân tộc thiểu số tại chỗ, gây ra nhiều mâu thuẫn, xung đột.
Qua các sự kiện bạo động các năm 2001, 2004, 2008 ta thấy được những
nguy cơ và hệ quả của vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên. Các tổ
chức phản động núp bóng tôn giáo, dưới chiêu bài nhân quyền lôi kéo
đồng bào, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước, gây chia
rẽ sự đoàn kết giữa các dân tộc, khoét sâu ranh giới giữa người Kinh và
người Thượng, qua đó tuyên truyền chống phá nhà nước, tiến tới bạo loạn
lật đổ. Như vào khoảng thời gian tháng 7 đến tháng 9 năm 2008, chúng
âm thầm kết nối, tổ chức các nhóm hoạt động chống phá trên 18 huyện
của các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai. Một mặt kích động biểu tình,
mặt khác loan tin gây xáo trộn, chia rẽ ở nhiều buôn làng.
Với vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng, Tây Nguyên vẫn đang là
một trong những địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch, với
âm mưu diễn biến hoà bình nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Với chiêu
bài nhân quyền, lợi dụng tự do tôn giáo, để lôi kéo người dân, âm thầm xây
dựng lực lượng để khôi phục cái gọi là nhà nước Đềga, tổ chức tôn giáo Hà
Mòn. Dẫn dắt người có đạo thực hành mê tín dị đoan, hiểu sai lệch về chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng coi đây như một ngòi nổ,
chỉ chờ có thời cơ sẽ châm ngòi, khiến khủng hoảng leo thang và dẫn tới bạo
loạn lật đổ ở Tây Nguyên.
98
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Tây Nguyên có những bất cập
nhất định. Đội ngũ này còn mỏng, hơn thế trình độ chưa đáp ứng hết được
nhu cầu của công việc, chế độ đãi ngộ vẫn còn thấp. Không có sự nhất quán,
đồng bộ trong nhận thức về tôn giáo trong đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp ở
Tây Nguyên. Do đó, cách giải quyết các vấn đề tôn giáo hoặc là quá rập khuôn
máy móc, quyết liệt, hoặc là quá xem nhẹ, thờ ơ, buông lỏng. Dẫn tới có nhiều
mâu thuẫn của đồng bào giáo dân với chính quyền bắt nguồn từ cách giải quyết
vấn đề không thấu tình đạt lý của một số người chuyên trách. Do không có kiến
thức vững, dẫn tới cách giải quyết vụ việc chệch hướng so với chủ trương,
đường lối của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Đây sẽ là khe hở cho các thế lực thù
địch bên ngoài lợi dụng để dắt mũi những người dân kém hiểu biết. Bên cạnh đó,
xuất hiện hiện tượng cán bộ, Đảng viên có biểu hiện xa rời quần chúng, chỉ
chăm lo cho lợi ích của bản thân mà không sâu sát với nhân dân. Điều này sẽ
dẫn tới người dân sợ đến cửa công, loay hoay tự giải quyết vấn đề của mình,
hoặc sẽ bị kẻ xấu lợi dụng làm phát sinh những bất ổn tiềm tàng ở trong dân.
Phương thức canh tác nương rẫy ổn định bị phá vỡ vì thực hiện sai một
số vấn đề trong chính sách đất đai. Quy hoạch các vùng định cư cho người
dân tộc thiểu số nhiều nơi còn tạm bợ, nên dẫn tới phát triển chậm, không bền
vững. Khi rừng đã bạc màu, người đồng bào bỏ rừng rời đi, co cụm ở các
vùng núi cao. Nhiều người cho hoặc bán đất rẫy đi với giá rất rẻ, không đủ để
họ tự khôi phục sinh kế, sau một vòng luẩn quẩn không lối thoát, họ trở về
làm thuê trên chính mảnh đất từng là của mình, cuộc sống tạm bợ, không có
việc làm ổn định. Điều này làm gia tăng mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp đất
đai giữa nhóm người dân tộc thiểu số tại chỗ với nhóm người mới nhập cư.
Dù đã có nhiều biện pháp để ngăn chặn, kiềm toả, nhưng những tranh chấp
đất đai mang tính xung đột Kinh - Thượng vẫn tồn tại, thậm chí có dấu hiệu
gia tăng. Riêng năm 2008, tại Tây Nguyên xảy ra 243 vụ khiếu kiện, tranh
chấp của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 43% các vụ việc liên quan
trực tiếp đến đất đai.
99
Tình hình xã hội ở Tây Nguyên dưới sự tác động của tôn giáo, có nhiều
diễn biến phức tạp. Có những gia đình cùng chung sống với nhau nhưng lại có
tôn giáo khác nhau, điều này sẽ gây nên những va chạm nhất định trong các sinh
hoạt thường ngày. Ngoài ra, bên cạnh những bất ổn về mặt an ninh chính trị còn
phát sinh những khiếu kiện liên quan đến các hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Đó
là các khiếu kiện đòi lại đất của các cơ sở thờ tự tôn giáo. Bởi có một số mảnh
đất từng là cơ sở thờ tự của tôn giáo từ trước năm 1975, sau đó được Nhà nước
giao cho các đơn vị khác sử dụng, nay các cơ sở tôn giáo muốn đòi lại. Nhiều
trường hợp là các tôn giáo chiếm đoạt đất trái phép, cố ý xây dựng thành nơi thờ
tự, khi cơ quan chức năng phát hiện thì rơi vào tình thế “sự đã rồi”, cuối cùng
đành giữ nguyên. Điều này gây nên những bất ổn kéo dài cho xã hội ở Tây
Nguyên, đe doạ trực tiếp đến mục tiêu phát triển bền vững của vùng.
Người dân tộc thiểu số tại chỗ không còn mặn mà với nhà rông như trước,
kéo theo nhiều sinh hoạt cộng đồng truyền thống bị đứt gãy. Mặc dù nhà rông đã
được phục dựng, xây mới, nhưng vì chất liệu và quy trình xây dựng không giống
trong truyền thống, nên nhiều nơi không nhận được sự đón nhận hưởng ứng của
đồng bào. Do đó, nhiều nhà rông sau khi được khôi phục, xây dựng xong lại
nhanh chóng bị bỏ hoang, dần rơi vào hư hỏng do dân làng không đến, không
chăm sóc, không coi là một ngôi nhà mang biểu tượng văn hóa linh thiêng của
họ. Điều đó cũng phần nào ảnh hưởng đến sự gắn kết cộng đồng mà người dân
tộc thiểu số Tây Nguyên đã xây dựng và duy trì trong suốt tiến trình phát triển.
Tình trạng khai thác tràn lan dẫn tới diện tích rừng tự nhiên ở Tây
Nguyên vẫn tiếp tục giảm sút nghiêm trọng. Mặc dù chính quyền các cấp Tây
Nguyên đã có nhiều hoạt động chăm lo đến vấn đề khôi phục lại rừng cho Tây
Nguyên, nhưng hiệu quả của các đề án bảo vệ môi trường ở Tây Nguyên vẫn
chưa cao. Xuất phát là một vùng có độ che phủ của rừng lớn nhất cả nước,
nhưng diện tích rừng tự nhiên ở Tây Nguyên đang bị giảm sút với tốc độ đáng
báo động. Nạn phá rừng vẫn đang hoành hành ở Tây Nguyên, một phần do lâm
100
tặc, phần khác do phương thức canh tác của nhóm người nhập cư mới đến.
Đáng kể như ở các rừng thông xuất hiện hiện tượng khoan, bơm hoá chất, âm
thầm làm thông chết từ bên trong, huỷ hoại rừng tự nhiên. Tập quán đốt rừng
làm rẫy, là một trong những nguyên nhân dẫn tới nạn cháy rừng, như năm 2001
có tới 301,5 ha rừng bị cháy, chiếm 19,8% so với tổng diện tích rừng bị cháy
của cả nước. Diện tích rừng tự nhiên giảm mạnh qua số liệu thống kê hằng
năm. Năm 2019 tổng diện tích rừng tự nhiên của Tây Nguyên là gần 2,2 triệu
ha, giảm 540,2 nghìn ha so với năm 2008 [phụ lục 2a]. Bên cạnh đó, trước nhu
cầu sinh kế của người dân các chủ trương mở rộng đất nông nghiệp diễn ra quá
nhanh, không có quy hoạch tập trung trồng cây công nghiệp có thế mạnh xuất
khẩu như cà phê, chè, điều, tiêu… Điều này làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu
đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp so với đất tự nhiên của vùng, năm 1991
chiếm 8% đất tự nhiên, đến năm 2018 đã chiếm 44,5% trên tổng số đất tự nhiên
của vùng, cụ thể là 454,3 nghìn ha so với 2,427 triệu ha (tăng 5,3 lần). Cùng
với đó, đất lâm nghiệp giảm từ 59,2% (1991) xuống còn 45,5% (2018), cụ thể
là 3,329 triệu ha so với 2,482 triệu ha (giảm 1,3 lần). [phụ lục 2j]
Hoạt động khai thác quá mức, làm mực nước ngầm tụt xuống không đáp
ứng được nhu cầu tưới tiêu và sinh hoạt về mùa khô. Để tập trung phát triển
các đồn điền cây công nghiệp, người Tây Nguyên chuyển sang canh tác cây cao
su, cà phê và hồ tiêu. Chính điều này cần một lượng lớn nước để tưới vào mùa
khô, trong khi nước ở các ao hồ và đập chứa nước ở Tây Nguyên không thể đáp
ứng được, người dân chủ yếu sử dụng nước ngầm để tưới nương rẫy. Một số nơi
ở Tây Nguyên, mực nước ngầm ở Tây Nguyên đã hạ xuống 3 đến 4 mét, thậm
chí có nơi đã hạ 20 mét so với trước. Nguồn cấp nước trong tự nhiên như sông,
suối, hồ ngày càng khô cạn, ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp đến người đồng bào,
không đủ nước sạch để sinh hoạt. Không những thế, về mùa khô không đáp ứng
đủ nước để tưới, hạn hán bao trùm, về mùa mưa thì lũ quét, xói mòn, mưa lũ, để
lại nhiều tác động xấu. Cùng với đó là hiện tượng chất lượng đất bị thoái hoá.
101
Rải rác một số nơi xảy ra tình trạng hoang mạc hóa, do hiện tượng grannit hóa
đất đỏ ở Tây Nguyên. Thay đổi khí hậu dẫn tới Tây Nguyên ngày càng nóng lên.
Tốc độ xây dựng quá nhanh dẫn tới sương mù ngày càng trở nên hiếm hoi ở Đà
Lạt, trong khi đó, đây là một đặc trưng tạo nên sự thơ mộng của thành phố du
lịch nổi tiếng này.
Hoạt động khai thác kinh tế, du lịch dẫn tới nhiều nguồn tài nguyên
thiên nhiên quan trọng và quý giá ở Tây Nguyên đang bị cạn kiệt. Môi trường
và điều kiện sống ở Tây Nguyên đang bị suy thoái. Khí hậu, thời tiết thay đổi,
sâu bọ phát triển ngày càng nhiều, dẫn đến hạn hán và mất mùa thường xuyên,
trong đó điển hình phải kể đến các đợt hạn hán năm 1997, 1998 làm cho gần
50% diện tích cây lương thực và cà phê bị khô cháy. Rừng đầu nguồn bị phá
tại các huyện vùng cao Tây Nguyên làm cho nước mưa dốc thẳng xuống sông
ngay chỗ thượng lưu, gây lũ lụt và thiệt hại lớn cho các tỉnh Kon Tum và Gia Lai
vào năm 1997, Lâm Đồng năm 1999. Gần đây nhất, tháng 4 năm 2003, theo Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tây Nguyên có gần 42 nghìn ha cà phê và 7
nghìn ha lúa bị hạn nặng, ngoài ra, nắng hạn còn làm 112 nghìn người (hơn 22
nghìn hộ) thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Không chỉ có vậy, môi trường và điều
kiện sống vùng đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ cũng bị
ảnh hưởng bởi nạn phá rừng ở Tây Nguyên. Chính nạn phá rừng ở Tây Nguyên là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hàng năm tình trạng lũ lụt, ngập úng và bỏ hoang
hoá triền miên nhiều tháng của đồng ruộng các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận. Có
thể khẳng định rằng, thiệt hại về kinh tế do thiên tai ở Tây Nguyên lên đến hàng
chục, hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, hơn thế còn là những thiệt hại nghiêm trọng về
suy thoái môi sinh và điều kiện sống lâu dài.
Một số tổ chức lợi dụng chiêu bài tôn giáo nhằm tiến tới bạo loạn, lật
đổ, gây sức ép cho lĩnh vực quốc phòng và an ninh ở Tây Nguyên. Hoạt động
tôn giáo, tín ngưỡng ở Tây Nguyên có nhiều thay đổi, kéo theo đó là sự xuất
hiện của những tà môn, dị giáo, như đạo “Hà Mòn”, “Thanh Hải vô thượng
102
sư”… Những đạo này tìm nhiều cách để lôi kéo, kích động, định hướng về mặt tư
tưởng cho đồng bào để mưu đồ âm mưu chính trị của chúng. Một số lượng lớn
người dân tộc thiểu số đi theo Công giáo, Tin lành, nhiều nếp cũ bị thay đổi. Đáng
nói là các tổ chức chính trị núp bóng tôn giáo, như “Hà Mòn”, “Tin lành Đề
Ga”… gây xáo trộn và có những tác động xấu đến an ninh trật tự, an ninh chính trị
của vùng. Các tổ chức này đều được giật dây và rót vốn tiền từ nước ngoài vào,
dùng lợi ích để lôi kéo và ràng buộc những thủ lĩnh ở trong nước để hòng dắt mũi
người dân. Điều này gây nên nhiều vấn đề nổi cộm trong cộng đồng người dân tộc
thiểu số, khi họ mù quáng tin theo, làm con rối cho thế lực thù địch giật dây chống
phá chính quyền. Đây là một áp lực lớn đối với chính quyền và lực lượng an ninh
quân đội trên địa bàn về quản lý xã hội và an ninh quốc phòng.
Đường biên giới dài, làm cho hoạt động tội phạm càng phức tạp khi
có yếu tố nước ngoài âm thầm can thiệp. Tây Nguyên có đường biên giới
chung với Lào và Campuchia, đây cũng là điểm dễ gây bất ổn an ninh quốc
phòng cho vùng. Các tổ chức chống phá, phối hợp với tội phạm ở phía Lào tiến
hành buôn ma tuý, vận chuyển hàng lậu trái phép, tổ chức vượt biên trái phép.
Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tội phạm, tổ chức phản
động lưu vong thực hiện lôi kéo, xuyên tạc, chia rẽ người Campuchia gốc Việt
với người dân Campuchia. Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện truyền đạo trái
phép, làm nhiễu loạn tình hình tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên. Đặt ra cho
các cấp lãnh đạo, lực lượng an ninh quốc phòng của địa phương cần phải nắm
được tình hình, để đề ra những phương án hợp lý để đảm bảo phát triển bền
vững, ổn định công tác an ninh quốc phòng trên địa bàn.
* Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, chính sách phát triển vùng Tây Nguyên thời gian qua còn
mang nặng dấu ấn của tư duy kế hoạch hóa tập trung với định hướng phân bố
lực lượng sản xuất theo các lợi thế tự nhiên, chưa phù hợp với cơ chế thị trường
và bối cảnh hội nhập quốc tế. Quá trình hoạch định chính sách chưa thực sự gắn
103
kết với công tác nghiên cứu khoa học. Dẫn tới chính sách đưa ra không đáp ứng
được hết nhu cầu của thực tiễn. Hệ thống chính sách dành cho phát triển Tây
Nguyên còn bị dàn trải trên nhiều lĩnh vực, thiếu nhất quán, thiếu thực tế, nặng
tính hỗ trợ, khắc phục tình thế hơn là tạo điều kiện lâu dài cho đối tượng hưởng
chính sách, điều này đe doạ nghiêm trọng tới phát triển bền vững của vùng.
Thứ hai, dù đã được đầu tư, chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
thực tế chất lượng cán bộ có nhiều cải thiện so với trước, nhưng nhìn chung
vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra và những đòi hỏi của nhiệm vụ
lãnh đạo quản lý. Một số cán bộ có biểu hiện xa dân, quan liêu hoá các thủ tục
hành chính, dẫn tới không nắm bắt được những thay đổi, biến động về mặt văn
hoá, đời sống của người dân, do đó không có hành động ứng phó kịp thời. Mặt
khác, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chỉ chiếm một số ít trong cơ cấu tổ
chức, điều đó dẫn tới tình trạng số lượng cán bộ am hiểu văn hoá Tây Nguyên
không nhiều; cùng với chế độ đãi ngộ không cao, không đủ để đảm bảo cuộc
sống, nên họ không nhiệt huyết với công việc. Hơn thế, Ban chỉ đạo Tây
Nguyên mới chỉ được trao chức năng tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc chứ
chưa được trao quyền và nguồn lực tài chính và nhân lực trong việc ra quyết
định trong các vấn đề liên quan tới phát triển bền vững vùng.
Thứ ba, trước nguồn thu mang lại từ du lịch, ngành văn hóa - du lịch
khai thác ồ ạt du lịch Tây Nguyên vô tình tạo nên hiện tượng “văn hóa giả”
ở vùng. Từ đó các nghi lễ, lễ hội, hát khan, kể sử thi đều nặng về trình diễn,
cồng chiêng bị tách khỏi không gian truyền thống, nhà rông nhà dài dựng để
trưng bày…, chỉ để thỏa mãn sự hiếu kỳ của du khách nên không phản ánh
đúng văn hóa Tây Nguyên từ trong cốt lõi, lâu dần sẽ đánh mất sự thuần hậu,
sơ khai, trong trẻo của người đồng bào Tây Nguyên. Vì thế, những hình ảnh
được quảng bá ra bên ngoài, không phản ánh đúng mạch ngầm văn hoá từ
lâu đời của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Điều này lâu dần sẽ đẩy các
giá trị văn hoá cốt lõi đi vào quên lãng, lâu dần sẽ dẫn tới mai một. Việc sân
khấu hoá này cũng phá huỷ môi trường truyền dạy truyền thống, nơi mà dân
104
làng quây quần ngồi quanh đống lửa, bên ché rượu cần vừa thưởng thức, vừa
học đánh chiêng, hát khan từ những nghệ nhân lão luyện, từ những người
cao tuổi tinh anh ở trong buôn làng.
Thứ tư, nguyên nhân từ mặt trái của kinh tế thị trường và xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa. Nền kinh tế thị trường với xu hướng thương mại hóa đang
len vào từng mặt nhỏ nhất của đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số
Tây Nguyên, từ mặt nhận thức, đến tư duy về sở hữu, lợi ích. Sự thuần hậu
vốn có của người Tây Nguyên, nét huyền bí lạ lùng của văn hóa Tây Nguyên
bị xâm phạm sâu sắc hơn bao giờ hết. Người Tây Nguyên bị tư tưởng thương
mại hóa xâm lấn, các lễ hội, tập tục đôi khi diễn ra chỉ nhằm để thu hút du
lịch, chứ không phải diễn ra tự nhiên trong không gian văn hóa của họ nữa.
Xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, kéo theo sự du nhập của nhiều nền văn hóa, tôn
giáo mới vào Tây Nguyên, sự tiếp nhận những nền văn hóa mới, đồng thời đó sẽ
kéo theo sự mất dần ảnh hưởng của văn hóa dân tộc thiểu số truyền thống. Giới
trẻ người dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị thu hút bởi các làn sóng văn hoá mới từ
âm nhạc đến trang phục truyền thống. Dẫn tới thờ ơ, thậm chí quay lưng với các
giá trị văn hoá của chính dân tộc mình. Điều này lâu dần sẽ làm đứt gãy mạch
ngầm của văn hoá truyền thống, không còn tầng lớp kế cận, văn hoá Tây Nguyên
cũng sẽ biến mất. Và một điều tất yếu sẽ xảy ra, là không còn văn hoá cũng sẽ
không còn Tây Nguyên đa sắc màu, đầy bí ẩn và thu hút như trước nữa.
3.2. Dự báo những nhân tố tác động và vấn đề đặt ra đối với phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
3.2.1. Dự báo những nhân tố tác động đến phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Trong thời gian sắp tới, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế trên
thế giới sẽ phát triển ngày càng sâu rộng. Xu thế đó sẽ bao trùm và có ảnh
hưởng rất lớn đến hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Việt Nam sẽ tiếp
105
tục gia nhập vào các tổ chức quốc tế trên tất cả các lĩnh vực. Riêng đối với
Tây Nguyên, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng mang đến nhiều cơ hội
hội nhập, không chỉ hội nhập quốc tế và còn hội nhập với các vùng miền
khác trong cả nước. Trong thời gian sắp tới, toàn cầu hoá sẽ có nhiều tác
động tích cực và tiêu cực đến phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Về mặt tích cực, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện để
Tây Nguyên phát triển các thiết chế văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá cơ
sở lành mạnh, tiến bộ, có cơ hội để phát triển và quảng bá các giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số ra bên ngoài, thúc đẩy quá trình phát huy giá trị văn hoá đó
vào trong phát triển bền vững. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế mang đến
những cơ hội đầu tư có hệ thống từ bên ngoài vào phát triển văn hoá Tây
Nguyên, trang bị nguồn vốn để hoàn thiện kết cấu hạ tầng, thúc đẩy giao thông
phát triển. Nhờ đó ngành du lịch sinh thái, du lịch văn hoá ở Tây Nguyên sẽ có
thể tiếp cận được lượng khách lớn hơn, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách
địa phương và các cá thể, để có thể tái đầu tư vào bảo tồn và phát triển các giá trị
văn hoá. Hơn thế nữa, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế mở ra cơ hội về giao lưu
văn hoá giữa Tây Nguyên với các nền văn hoá lớn bên ngoài. Nền văn hoá độc
đáo của Tây Nguyên có thể được quảng bá rộng khắp với bạn bè quốc tế, đồng
thời có cơ hội kế thừa chọn lọc các tinh hoa văn hoá của nhân loại, làm giàu có,
phong phú hơn nền văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Về mặt tiêu cực, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế mang đến những cơ hội
đầu tư từ bên ngoài vào nước ta và Tây Nguyên, nhưng cũng chứa đựng những
rủi ro như các điều khoản ràng buộc, rơi vào bẫy nghèo đói, có thể dẫn đến sự
phụ thuộc về mặt kinh tế, chính trị và văn hoá với các nước lớn. Toàn cầu hoá
mang đến những nền văn hoá mới lạ, rất dễ dẫn đến tình trạng lai căng văn hoá
và tư tưởng quay lưng với văn hoá truyền thống. Nếu không có các biện pháp
ngăn chặn có tổ chức, dễ dẫn đến việc không những không kế thừa được tinh
106
hoa văn hoá nhân loại mà còn làm hoà tan, mai một văn hoá dân tộc thiểu số tại
chỗ, đánh mất bản sắc Tây Nguyên. Điều đó sẽ kìm hãm quá trình phát huy giá
trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế cũng sẽ dẫn tới hiện tượng suy thoái, băng
hoại đạo đức lối sống một bộ phận người ở Tây Nguyên. Trước sự thâm nhập
của những xu hướng, trào lưu, cơ hội mới, bên cạnh sự tiếp nhận những mặt ưu
trội, tiến bộ vào trong đời sống. Thì còn xuất hiện những tư tưởng, trào lưu mang
tính cực đoan. Như sự bành trướng của chủ nghĩa cá nhân, thói thực dụng, chỉ lo
vun vén cho lợi ích của bản thân mà quên đi lợi ích của cộng đồng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là mục tiêu và xu thế phát triển tất yếu
của nước ta, đây sẽ là tiền đề quan trọng đưa nền kinh tế, văn hoá, xã hội
nước ta cất cánh. Sau 35 năm đổi mới, nước ta đã gặt hái được nhiều thành
tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong tương lai, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ còn tiếp tục có
nhiều tác động đến với quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Về mặt tích cực, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần thúc
đẩy kinh tế Tây Nguyên phát triển. Chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu của
vùng, thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển. Đặc biệt, với thế mạnh tự
nhiên về trồng cây công nghiệp của vùng, quá trình công nghiệp hoá sẽ đưa quy
trình sản xuất, thu hoạch, đóng gói và bảo quản chuyên nghiệp vào trong quá
trình canh tác. Điều đó sẽ làm tăng năng suất lao động, mang lại hiệu quả kinh tế
cao hơn cho người nông dân. Mặt khác, cũng sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm,
giúp cho cây công nghiệp của Tây Nguyên đáp ứng được tất cả các yêu cầu khắt
khe từ các thị trường khó tính trên thế giới. Từ đó, đời sống của người dân sẽ
được nâng cao, đảm bảo các nhu cầu vật chất và tinh thần. Công nghiệp hoá sẽ
dần xoá bỏ các hình thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, kém hiệu quả.
107
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển về sản xuất, sẽ giúp nâng
cao dân trí cho người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, khi họ có cơ hội được tiếp
cận, sử dụng các máy móc, phương tiện hiện đại. Trình độ dân trí được cải
thiện, người đồng bào tránh xa được các hoạt động mê tín dị đoan, các thủ tục
rườm rà, nhiêu khê trong các nghi lễ, lễ hội.
Tuy nhiên, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng mang đến những tác
động tiêu cực nhất định. Trước hết là thực trạng suy thoái môi trường, do áp
dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại như phân bón vô cơ, làm cho đất đai
không có cơ hội tự hồi sinh như trong truyền thống. Lâu dần sẽ huỷ hoại môi
trường, chất đất - một thế mạnh trong canh tác cây công nghiệp, dược liệu,
hoa quả của Tây Nguyên. Trước mắt, chỉ là tình trạng tụt nước ngầm, cạn
dinh dưỡng trong đất, nhưng lâu dài sẽ dẫn đến tình trạng cằn cỗi, thậm chí sa
mạc hoá ở vùng cao nguyên này. Điều này sẽ đánh mất những tiềm năng và
lợi thế hiện có của Tây Nguyên. Hơn thế, nếu môi trường sống bị huỷ hoại,
rừng biến mất, đồng nghĩa với việc không gian nuôi dưỡng và thực hành văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên cũng biến mất.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ làm cho sự phân hoá giàu
nghèo ở Tây Nguyên ngày càng sâu sắc. Những người nhanh chóng tiếp cận
được với những máy móc hiện đại vào quá trình sản xuất, sẽ có cơ hội trở nên
giàu có. Ngược lại, điều đó cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới những quy mô
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, không đảm bảo chất lượng. Điều này dẫn tới một
nghịch lý dễ hiểu, người giàu sẽ ngày càng giàu, người nghèo sẽ ngày càng bị
bần cùng hoá. Ở Tây Nguyên, nhóm người Kinh mới đến, những người sinh
sống ở các trục đường giao thông thuận lợi, những người làm kinh doanh,
buôn bán, sẽ là nhóm người được hưởng lợi. Còn những người dân tộc thiểu
số tại chỗ, những người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, không
có nhiều điều kiện được học hành, sẽ ngày càng khó khăn. Chênh lệch giàu
nghèo, chênh lệch mức sống, chênh lệch cơ hội, sẽ kéo theo rất nhiều hệ luỵ.
108
Biến đổi cơ cấu xã hội, cơ cấu tộc người ở Tây Nguyên
Trong thời gian tới, kết cấu tộc người của Tây Nguyên sẽ còn có nhiều thay
đổi, khi mà làn sóng di cư tự do đi và đến Tây Nguyên vẫn chưa có dấu hiệu
dừng lại. Một mặt, là nhập cư đến Tây Nguyên từ các vùng dân tộc thiểu số phía
Bắc và các vùng miền khác trong cả nước. Mặt khác, là làn sóng di cư khỏi Tây
Nguyên, cả hợp pháp và bất hợp pháp đến các vùng miền trong cả nước, cả sang
các nước khác qua đường biên giới kéo dài của vùng. Điều này sẽ làm cho cơ
cấu xã hội, kết cấu tộc người ở Tây Nguyên sẽ còn có nhiều dịch chuyển.
Trước hết, sẽ là thay đổi tỉ lệ người các dân tộc cùng chung sống tại Tây
Nguyên. Trong tương lai, dân số Tây Nguyên sẽ tiếp tục tăng mạnh, tuy nhiên tỉ lệ
người dân tộc thiểu số tại chỗ trên tổng số dân sẽ có sự sụt giảm, không còn chiếm
26,58% trên tổng dân số [69, tr. 147], như hiện nay nữa. Sự sụt giảm đó, sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới các hoạt động thực hành văn hoá các dân tộc thiểu số tại chỗ.
Mặc dù, đó là văn hoá đại diện cho Tây Nguyên, nhưng không còn đại diện cho số
đông dân số ở đây nữa. Thực tế cho thấy, làn sóng di cư vẫn đang diễn ra, cùng
với việc chính quyền các cấp đã có những quy hoạch đất đai, khu đô thị, vùng cư
trú mới, ở một số nơi trước đây là đất rừng tự nhiên, đất canh tác.
Tam giác phát triển kinh tế
Với vị trí địa chiến lược quan trọng, Tây Nguyên nằm trọn trong Tam
giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia. Nhờ đó, đón nhận trực tiếp
những tác động từ các hoạt động của Tam giác phát triển. Trên cơ sở những
nội dung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế khu vực Tam giác phát triển,
dự báo sẽ có nhiều tác động đến Tây Nguyên trong thời gian tới. Về mặt tích
cực, sẽ thúc đẩy kinh tế của Tây Nguyên phát triển vượt bậc, khi mà vùng
Tam giác phát triển có triển vọng thu hút đầu tư từ nhiều nguồn nhân sách
trong nước, các nước thành viên và quốc tế. Đến tất cả các lĩnh vực như kinh
tế, giáo dục, năng lượng, y tế, du lịch, an sinh xã hội. Với sự chú trọng phát
triển hạ tầng giao thông, sẽ tạo tiền đề cho giao thương thuận lợi, hàng hoá đi
109
lại các nước dễ dàng hơn, góp phần mở rộng thị trường cho nông sản và cây
công nghiệp của Tây Nguyên. Nhờ đó, đời sống của người đồng bào sẽ được
cải thiện về mọi mặt.
Việc xây dựng vùng Tam giác phát triển, giúp củng cố mối quan hệ bang
giao giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Trên cơ sở đó, thúc đấy mối quan hệ
khăng khít giữa các quốc gia trong khu vực. Nhờ đó, trong thời gian tới, sẽ
giúp ổn định an ninh vùng biên giới ở khu vực Tây Nguyên, đảm bảo cho
vùng phát triển lâu dài và bền vững.
Tuy nhiên, sự hợp tác thông thương, dẫn tới có những đối tượng lợi dụng
hoạt động kinh doanh buôn bán để làm việc khác. Cũng là cơ hội để cho các
hoạt động phạm tội xuyên quốc gia tại vùng Tam giác phát triển. Đặc biệt là
vấn đề buôn lậu, vận chuyển ma tuý, hàng quốc cấm qua biên giới; vấn đề
vượt biên trái phép đến và đi khỏi Tây Nguyên. Điều này sẽ đặt vùng vào
những nguy cơ bất ổn tiềm ẩn, sẽ có thể bộc phát bất cứ lúc nào.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã tham gia trực tiếp vào mọi khía cạnh của
đời sống xã hội. Khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ như vũ bão, tác động
rất lớn đến sự dịch chuyển trong tổ chức, quản lý của nước ta. Như việc đầu
tư xây dựng chính phủ điện tử, kinh tế số, xã hội số, đề án xây dựng căn cước
công dân có gắn chip điện tử đang được gấp rút triển khai trên cả nước…
Giai đoạn này, chúng ta đang dần làm quen và thích ứng với những ảnh
hưởng từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
coi số hoá là trung tâm, lấy số hoá là phương tiện, phục vụ tối ưu cho cuộc
sống của con người. Trong tương lai gần, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ
có những tác động đến Tây Nguyên, điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến phát
huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Trước hết, trí tuệ nhân tạo (AI), big data, tự động hoá và iot (internet vạn
vật) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý văn hoá, toàn bộ các di sản
110
vật chất và tinh thần sẽ được thống kê trên một cơ sở dữ liệu khổng lồ. Tại đó,
AI sẽ giúp phân tích, dự đoán về xu hướng vận động, về nhu cầu của du
khách và của cả chính người dân tộc thiểu số, sau đó truyền kết quả đó lại con
người để cả hệ thống có thể chủ động quản lý, vận hành đúng hướng. Các
ngành kinh doanh khai thác được giá trị văn hoá cũng sẽ phát triển, ngành du
lịch sẽ được vận hành có hệ thống chứ không còn manh mún nhỏ lẻ nữa, điều
này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho vùng.
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng sẽ góp phần
nâng cao nhận thức của người đồng bào, một góc độ nào đó nền văn hoá đầy
bí ẩn này cũng sẽ dần thay đổi, sẽ không còn những chất phác, thuần hậu,
nguyên sơ như bây giờ.
Tác động của các thách thức an ninh phi truyền thống
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, rất nhiều vấn đề nảy sinh không phải do
nguồn gốc từ tự nhiên, mà là do con người gây ra, dẫn đến những thách thức
về an ninh phi truyền thống như: vấn đề dịch bệnh, biến đổi khí hậu, sạt lở
đất đai, nguồn nước cạn kiệt, suy thoái môi trường, ô nhiễm, di cư tự do…
Điều này sẽ tác động làm ảnh hưởng đến quá trình phát huy giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Dịch bệnh covid 19
vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, điều này làm ảnh hưởng đến giao thương, đi
lại, sản xuất và các nguồn cung ứng hàng hoá. Làm cho quá trình phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên bị ảnh
hưởng, gián đoạn, nguồn thu từ du lịch văn hoá giảm mạnh chưa từng có.
Điều này cho thấy trong tương lai, các dịch bệnh tương tự cũng có thể xảy ra,
trong xu thế toàn cầu hoá nó sẽ ảnh hưởng rộng khắp toàn thế giới, trong đó
có Tây Nguyên. Vấn đề di cư tự do, đặc biệt là làn sóng di cư từ đồng bào
người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên vẫn đang tiếp
diễn. Trong tương lai, vấn đề này vẫn rất khó kiểm soát, sẽ tạo nên sức ép
dân số lên Tây Nguyên, kéo theo sự phá vỡ văn hoá truyền thống của vùng.
111
Bên cạnh đó, vấn đề suy thoái môi trường, đặc biệt là hiện tượng ô nhiễm
bùn đỏ do khai thác bauxite sẽ trở thành một vấn nạn về môi trường đối với
Tây Nguyên và các vùng phụ cận trong tương lai. Khi mà các hồ chứa bùn
đều ở độ cao 700m - 800m, tiềm ẩn nguy cơ tạo nên lũ quét, phá huỷ môi
sinh đối với vùng hạ lưu như Tp Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai…
Vấn đề cạn kiệt nguồn nước đe doạ trực tiếp đến đời sống sản xuất, sinh kế
của người Tây Nguyên. Tây Nguyên sẽ đứng trước nguy cơ bị hoang mạc hoá,
đánh mất lợi thế về thổ nhưỡng của mình. Suy thoái môi trường là một vấn đề
đáng báo động ở Tây Nguyên. Trong tương lai, cùng với mật độ dân cư ngày
càng dày đặc, công cuộc khai thác tự nhiên ngày càng mạnh bạo. Mực nước
ngầm ở Tây Nguyên sẽ tiếp tục hạ sâu, kéo theo tốc độ đá ong hoá trên mặt đất
đỏ bazan. Nhiệt độ ngày càng tăng qua các năm, sẽ dần đánh mất những lợi thế
về khí hậu đối với du lịch Tây Nguyên. Nếu tình trạng này tiếp diễn, Đà Lạt sẽ
không còn là thành phố sương mù đặc biệt thu hút du khách. Trong tương lai,
nếu những vấn đề này không được ngăn chặn, người dân tộc thiểu số buộc phải
có những thay đổi để thích nghi với điều kiện sống mới, điều này kéo theo một
số tập tục, lề thói cũ không thể được gìn giữ, bảo tồn.
Bên cạnh đó, các vấn đề tội phạm xuyên quốc gia, dưới nhiều hình thức
hoạt động tinh vi, khó nắm bắt, cũng sẽ đe doạ trực tiếp đến sự ổn định chính
trị - xã hội của Tây Nguyên, kéo theo vấn đề bảo tồn các giá trị văn hoá
truyền thống của vùng.
Tất các các nhân tố này đều sẽ tác động, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh
hưởng đến quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên.
3.2.2. Vấn đề đặt ra đối với phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
Trên cơ sở những ưu điểm, hạn chế của thực trạng, có thể chỉ ra được
một số vấn đề đặt ra cho hiện tại và tương lai của phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay. Trong số những
112
phương pháp khái quát những vấn đề đặt ra, thì nổi lên phương pháp chỉ ra và
phân tích các mâu thuẫn từ thực tiễn. Trong phạm vi đề tài này, thì chính là
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên, với một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Mâu thuẫn giữa vấn đề chủ thể đang tích cực nâng cao năng lực, trách
nhiệm trong hoạt động phát huy với hiện tượng một bộ phận giới trẻ dân tộc
thiểu số Tây Nguyên có biểu hiện thờ ơ, quay lưng với văn hoá dân tộc mình
Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên là một yêu cầu cần thiết, để đảm bảo các giá trị văn hoá truyền thống
được bảo tồn và tham gia vào thực tiễn phát triển của vùng. Để làm được điều
đó, bên cạnh sự tham gia của các chủ thể lãnh đạo quản lý, thì nổi lên vai trò
đặc biệt quan trọng của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Bởi họ chính là
những người trực tiếp sáng tạo nên các giá trị đó, đồng thời tham gia đưa các
giá trị đó vào trong xây dựng phát triển cuộc sống của mình. Muốn làm được
điều đó, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên cần có được nhận thức sâu sắc,
đầy đủ, tình yêu và lòng tự hào về nền văn hoá dân tộc mình, để có thể tham
gia phát huy giá trị đó vào trong thực tiễn có hiệu quả.
Giới trẻ người dân tộc thiểu số Tây Nguyên là tầng lớp kế cận, sẽ quyết
định việc các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số có được kế tục, gìn giữ và phát
huy trong tương lai hay không. Nếu họ không có đủ tình yêu, lòng tự tôn về
văn hoá dân tộc mình, thì nền văn hoá đó có nguy cơ bị đứt gãy truyền thống
trong tương lai. Do đó, một yêu cầu bức thiết của việc phát huy giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững, là việc tập trung giáo dục truyền
thống cho giới trẻ. Thế nhưng, đến nay có một thực tế là một bộ phận giới trẻ
có biểu hiện tự ti, quay lưng, thờ ơ với văn hoá dân tộc mình. Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập văn hoá, các nền văn hoá mới mẻ từ bên ngoài đang
không ngừng xâm nhập và lan toả vào Tây Nguyên, cùng với sự phổ biến của
ngành công nghiệp văn hoá. Một mặt họ choáng ngợp với các biểu hiện của
113
các nền văn hoá mới, mặt khác đó là một phần tất yếu trong quá trình hội
nhập. Người trẻ dân tộc thiểu số Tây Nguyên bây giờ chủ yếu mặc trang phục
hiện đại, sinh hoạt theo lối sống của người Kinh, nghe nhạc Kpop, nhạc rock.
Rất ít người mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, có chăng cũng
chỉ là vào các ngày lễ tết quan trọng. Không nhiều người trong lớp trẻ còn
biết đánh cồng chiêng, biết kể sử thi, hát khan, biết vận hành một nghi lễ vòng
đời như lớp cha anh đi trước. Mặc dù gần đây, với sự nỗ lực của chính quyền
và những người làm công tác văn hoá, văn hoá truyền thống đang được truyền
dạy cho thế hệ trẻ dưới nhiều hình thức, nhưng đây vẫn chưa phải là hoạt
động phổ biến và được hầu hết lớp trẻ đón nhận.
Mâu thuẫn giữa đòi hỏi phải nâng cao chất lượng bảo tồn và phát triển
giá trị văn hoá với thực tiễn bảo tồn chưa có hiệu quả các giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số Tây Nguyên
Để có thể phát huy có hiệu quả các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào
trong phát triển bền vững Tây Nguyên, cần phải làm tốt công tác bảo tồn các
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số của vùng. Cụ thể là các di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể của Tây Nguyên. Bởi vấn đề cốt lõi trong phát huy giá trị văn
hoá vào trong phát triển bền vững, là phải giữ được các giá trị văn hoá đó vẹn
nguyên, để có thể đưa các giá trị đó tham gia vào các hoạt động thực tiễn phát
triển của Tây Nguyên trước mắt và lâu dài. Trong các nỗ lực bảo tồn của
chính quyền các cấp về di sản văn hoá ở Tây Nguyên, nổi lên các hoạt động
như khôi phục và xây mới nhà rông, giảng dạy tiếng nói chữ viết của người
dân tộc thiểu số, sưu tầm sử thi, dạy hát khan… Tuy nhiên không phải tất cả
các hoạt động đó đều đạt được hiệu quả như mục tiêu đặt ra.
Bởi xét đến cùng, bảo tồn các di sản văn hoá, là phải bảo tồn được cả
về số lượng và chất lượng của các di sản đó. Phải bảo tồn, khôi phục được
dáng vẻ hình hài và cả tâm thức, chiều sâu văn hoá của các di sản, thì
114
công tác bảo tồn mới có giá trị. Thực tế cho thấy, công tác bảo tồn các di
sản văn hoá ở Tây Nguyên đã thu về nhiều kết quả khả quan. Như số
lượng nhà rông được khôi phục, số lượng cồng chiêng được sưu tầm, số
lượng sử thi được biên tập xuất bản, ghi âm đã đề cập đến ở thực trạng.
Nhưng nhà rông khôi phục được về số lượng ở một số địa phương, mà chưa
khôi phục được sự thiêng liêng như trong tâm thức người dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Bởi trong truyền thống, để xây dựng nhà rông, người đồng bào
phải mất nhiều thời gian để chọn đất, đất phải ở vị trí đẹp, trung tâm của cả
làng. Sau đó làm nghi lễ cúng đất, nghi lễ chặt cây về dựng cột, nghi lễ cất
mái… Các vật dụng dùng để bài trí trong nhà rông là thành quả thu về sau
các cuộc đi săn, vừa gắn liền với đời sống sinh kế của họ, vừa biểu thị sức
mạnh trong chinh phục tự nhiên của con người nơi đây. Như sử thi dù đã sưu
tầm, in ấn, ghi âm được một khối lượng lớn, nhưng vẫn mới chỉ dừng lại ở
công tác sưu tầm, chưa đưa kho tàng quý giá đó ra để phổ biến, truyền dạy
lại cho người dân tộc thiểu số, để các pho sử thi đó một lần nữa lại sống
trong chính cuộc sống thường ngày của người đồng bào như trong lịch sử.
Mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tiến
bộ với môi trường văn hoá cơ sở còn nhiều tiêu cực làm hạn chế vai trò của
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Để phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
Tây Nguyên đạt được hiệu quả cao, lâu dài, cần phải có một môi trường văn
hoá lành mạnh, tích cực, tiến bộ. Nhưng thực tế ở Tây Nguyên, môi trường
văn hoá cơ sở vẫn còn yếu tố tiêu cực, lạc hậu, mê tín dị đoan, tranh chấp tôn
giáo, lợi dụng tôn giáo, làm cản trở quá trình phát triển bền vững.
Dù nhiều năm qua, có nhiều chính sách, hoạt động để nâng cao nhận
thức cho người đồng bào, góp phần loại bỏ những yếu tố mê tín, dị đoan, lạc
hậu ở Tây Nguyên, nhưng thực tế ở đây hủ tục vẫn còn đó và có ảnh hưởng
115
không nhỏ đến cuộc sống của người dân. Theo số liệu của Công an tỉnh Gia
Lai, chỉ trong vòng hai năm 2015 và 2016 ở tỉnh đã xảy ra 33 vụ án liên quan
đến “ma lai”, “thuốc thư”, làm ba người chết, sáu người bị thương, kéo theo
nhiều người hoang mang, dè chừng. Dù đến giờ vẫn chưa ai chứng minh được
“ma lai”, “thuốc thư” là gì, nhưng một số nơi, người đồng bào vẫn còn tin vào
những tập tục mê tín đó. Thậm chí có hiện tượng có người đứng sau, lợi dụng
sự thiếu hiểu biết để kích động họ vi phạm pháp luật.
Tây Nguyên là một trong những địa bàn trọng điểm để thế lực thù địch
thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, âm thầm kích động gây bạo
loạn. Chúng kêu gọi thành lập cái gọi là “Nhà nước Đêga”, hòng tách Tây
Nguyên ra khỏi khối đại đoàn kết dân tộc. Dùng nhiều thủ đoạn để xuyên
tạc, bóp méo sự thật, lợi dụng từ thiện, nhân đạo, đầu tư kinh tế để xâm
nhập, chia rẽ kinh thượng, lôi kéo, xúi giục người đồng bào có các hoạt
động chống phá, gây mất ổn định an ninh, chính trị ở vùng. Những điều
này sẽ cản trở quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong
phát triển bền vững Tây Nguyên.
116
Kết luận chương 3
Qua đánh giá thực trạng, khẳng định các chủ thể đã có nhận thức tương đối đầy đủ về vai trò của giá trị văn hoá trong phát triển bền vững Tây Nguyên, ý thức được trách nhiệm của mình trong quá trình đó; Từ đó thực hiện bảo tồn và phát triển có chọn lọc các giá trị văn hoá; Trên cơ sở đó, định hướng giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị trong khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện để tôn giáo hoạt động, khơi dậy các sinh hoạt cộng đồng ở buôn làng, bước đầu khôi phục rừng nguyên sinh, tăng độ che phủ của rừng đối với Tây Nguyên.
Tuy nhiên, nhận thức của một bộ phận chủ thể về giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vẫn chưa được sâu sắc, tiến bộ; Bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số chưa thực sự hiệu quả; Dẫn tới quá trình định hướng các giá trị văn hoá vào trong phát triển bền vững Tây Nguyên: chưa giải quyết được triệt để chênh lệch giàu nghèo, còn tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp tôn giáo gây bất ổn chính trị, kết cấu bền vững trong quản lý đất rừng của Tây Nguyên bị phá vỡ, các bất ổn và sự cố môi trường vẫn xảy ra.
Từ thực tiễn phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên, đi đến dự báo những nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình phát huy đó: Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế; công nghiệp hoá, hiện đại hoá; biến đổi cơ cấu xã hội, cơ cấu tộc người ở Tây Nguyên; tam giác phát triển kinh tế; cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tác động của các thách thức an ninh phi truyền thống
Đồng thời nêu rõ các vấn đề đặt ra đối với phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay. Đó là: Mâu thuẫn giữa vấn đề chủ thể đang tích cực nâng cao năng lực, trách nhiệm trong hoạt động phát huy với hiện tượng một bộ phận giới trẻ dân tộc thiểu số Tây Nguyên có biểu hiện thờ ơ, quay lưng với văn hoá dân tộc mình; Mâu thuẫn giữa đòi hỏi phải nâng cao chất lượng bảo tồn và phát triển giá trị văn hoá với thực tiễn bảo tồn chưa có hiệu quả các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên; Mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tiến bộ với môi trường văn hoá cơ sở còn nhiều tiêu cực làm hạn chế vai trò của giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
117
Chương 4
GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
4.1. Nhóm giải pháp về nhận thức của các chủ thể đối với phát huy giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
4.1.1. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức Đảng đối với
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Thứ nhất, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để nâng cao chất lượng
hoạch định các nghị quyết lãnh đạo, chương trình, kế hoạch chỉ đạo phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Cơ sở triết học của giải pháp này là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận, con người thông qua các
hoạt động sống tác động vào thế giới khách quan, cải tạo thế giới khách quan,
đồng thời khái quát các vận động phát triển trong thế giới đó thành hệ thống
nhận thức mới của chính mình. Cũng chính những đòi hỏi bức thiết từ đời sống
thực tiễn thúc đẩy quá trình nhận thức, để dùng những tri thức đó quay lại phục
vụ cho đời sống thực tiễn. Hơn thế, thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý. Nhờ có sự phong phú của đời sống thực tiễn mà lý luận không rơi vào giáo
điều, kinh viện. Bên cạnh đó, lý luận sẽ mãi mãi chỉ là lý luận suông khi không
được áp dụng vào thực tiễn. Đỉnh cao của hoạt động nhận thức thế giới của con
người, là khái quát thành lý luận, để dùng lý luận đó cắt nghĩa thế giới, cải tạo
thế giới nhằm phục vụ cho mục đích sinh tồn của mình.
Trước hết, cần thực hiện tổng kết giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây
Nguyên một cách có hệ thống, từ quá khứ đến hiện tại và xu thế phát triển
trong tương lai. Sau đó, hoạt động tổng kết thực tiễn phát huy giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số thành các vấn đề lý luận cần được tiến hành một cách rộng rãi,
đồng bộ. Kết hợp việc khai thác thông tin từ những diễn biến trong đời sống ở
118
địa bàn Tây Nguyên với việc khai thác dữ liệu, thông tin, các công trình
nghiên cứu thành các luận điểm tin cậy. Cuối cùng, cần thông qua công tác tổng
kết thực tiễn để nắm bắt được chất lượng của bộ máy chính trị cơ sở và đời sống của
người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Để có chủ trương quản lý hiệu quả, phù hợp với
những đòi hỏi của thực tiễn sôi động. Bên cạnh đó cần thông qua công tác tổng kết
thực tiễn cần kịp thời nắm tình hình, sớm phát hiện âm mưu, ý đồ, phương án
hành động của thế lực thù địch trên địa bàn Tây Nguyên. Tiến hành đánh giá
những ý đồ âm mưu, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để âm thầm gây kích
động, chống đối của các thế lực bên ngoài. Đồng thời cũng qua nắm tình hình,
đánh giá hoạt động của chính quyền cơ sở trong quá trình thực hiện các chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm phát hiện sớm các sai phạm, các kẽ
hở đang bị bên ngoài lợi dụng, để kịp thời có biện pháp khắc phục, sửa chữa
những sai phạm ngay từ khi mới chớm xuất hiện.
Bằng việc tổng kết thực tiễn, một mặt hoàn thiện các nhận thức về giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên, mặt khác sẽ khái quát thành các mệnh
đề lý luận, góp phần tham mưu kịp thời cho công tác hoạch định chính sách,
để đưa ra những chủ trương đường lối đúng đắn, sát với nhu cầu thực tiễn ở
Tây Nguyên. Xây dựng các giá trị mới để có thể kế thừa, phát triển trong việc
phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên sau này.
Thứ hai, đổi mới nội dụng và phương thức giáo dục đào tạo để nâng cao
trình độ của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức Đảng
Để có thể nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các tổ
chức Đảng, cần phải sử dụng linh hoạt các loại hình đào tạo. Trước hết cần sử
dụng các kênh đào tạo chính thống, như các nhà trường trong hệ thống giáo
dục. Bởi lực lượng cán bộ đảng viên được cử đi đào tạo, đào tạo lại, bồi
dưỡng, nâng cao ở các vừa học vừa làm, hệ sau đại học là rất lớn. Các chương
trình đào tạo cần có các nội dung về văn hoá, vai trò văn hoá trong phát triển
119
bền vững. Để củng cố thêm kiến thức đã được cọ xát từ thực tiễn của hệ thống
cán bộ, để họ thấm nhuần hơn những kiến thức về văn hoá, đặc biệt là văn
hoá dân tộc thiểu số, phục vụ cho công tác lâu dài.
Bên cạnh đó, cần kết hợp với các hoạt động báo cáo chính trị, báo cáo
chuyên đề, do các chuyên gia, các báo cáo viên có trình độ chuyên môn cao,
về tình hình văn hoá, văn hoá dân tộc thiểu số và những tác động của nó đối
với phát triển bền vững nói chung và phát triển bền vững Tây Nguyên nói
riêng. Có được kiến thức, sẽ giúp đội ngũ cán bộ này nâng cao năng lực trong
việc lãnh đạo, thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng sau này.
Ngoài ra phải phát động phong trào tự học, học tập không ngừng trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên của các tổ chức Đảng. Học tập thông qua sách vở,
báo đài, đặc biệt là qua thực tiễn địa bàn cơ sở, thực tiễn thực hiện các chủ
trương chính sách. Để khích lệ phong trào tự học này, cần tổ chức các chương
trình, hội thi tìm hiểu kiến thức văn hoá dân tộc thiểu số. Đưa phong trào tự
học vào mục tiêu công tác, để đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng học tập
nâng cao chuyên môn, tiến tới hoàn thiện bản thân mình.
Thứ ba, xây dựng các chương trình, kế hoạch đúng đắn, kịp thời để phát
huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Có thể nói, công tác xây dựng chương trình, kế hoạch là yếu tố đảm bảo
tính khoa học, tổng hợp cho việc phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên. Nhờ đó cả bộ máy sẽ vận hành trơn tru, đúng hướng hơn, cũng thuận
lợi hơn cho công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hiệu quả quá trình phát huy.
Việc xây dựng các chương trình, kế hoạch giúp tránh những hướng đi sai lầm,
không hiệu quả, gây lãng phí tài nguyên, tốn kém ngân sách.
Thông qua bộ khung chương trình, kế hoạch, cần xây dựng các chương
trình, kế hoạch hành động cụ thể, với mục đích, phương hướng rõ ràng, thì
quá trình phát huy mới phù hợp với từng địa phương, từng dân tộc thiểu số.
Trong chương trình, kế hoạch đó, cần chỉ rõ lực lượng cơ bản để tiến hành
120
quá trình phát huy, với những phương thức hành động cụ thể, rõ ràng. Trong
lực lượng tiến hành phát huy, cần có sự phân cấp, phân nhiệm cụ thể. Sẽ có
người đứng đầu phụ trách quản lý giám sát, các phòng ban bám sát và thực
hiện từng nhiệm vụ cụ thể, trên cơ sở báo cáo kết quả thường xuyên, để
không bị chệch hướng chương trình hành động.
Công tác xây dựng chương trình kế hoạch cần được tiến hành đồng bộ
ở các đảng uỷ các cấp, như vậy hiệu quả quản lý sẽ tăng lên đáng kể. Khi
được tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng, hài hoà giữa các cấp,
các ban ngành, sẽ tạo ra một chỉnh thể thống nhất, vững mạnh, đảm bảo
cho mục tiêu phát triển bền vững Tây Nguyên. Để có thể tiến hành đồng bộ
được, các chủ thể cần có những mối liên hệ cơ bản về mặt công tác, để có
thể trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, phân cấp phân ngành trong
từng nhiệm vụ cụ thể.
Hệ thống chương trình, kế hoạch được xây dựng cần có tính bao quát, có
phổ rộng đến việc phát huy tất cả các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên qua từng giai đoạn. Nhờ đó, có thể phân
thành từng nhóm hành động cụ thể, có nhóm cần đặc biệt ưu tiên xử lý ngay
và cũng có nhóm có thể tiến hành trong một kế hoạch dài hạn. Từ đó có
hướng sử dụng nguồn lực, thời gian và ngân sách hợp lý cho mỗi nhiệm vụ
đặt ra. Đồng thời, khi có các chương trình, kế hoạch cụ thể đối với việc phát
huy từng giá trị văn hoá, sẽ hiện thực hoá có hiệu quả các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Thứ tư, có chính sách khen thưởng, kỷ luật đúng lúc, để đạt kết quả cao
nhất trong quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên
Thi đua, khen thưởng và kỷ luật là một trong những nội dung rất quan
trọng của công tác Đảng và công tác chính trị. Được duy trì và vận hành để
121
đảm bảo sự nhìn nhận, đánh giá có hiệu quả đối với các nhiệm vụ chính trị,
đối với công tác phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên cũng vậy; đồng thời có biện pháp răn đe hiệu quả trước các
biểu hiện lơ là, sai phạm. Nhờ đó, có thể phát huy được tính tích cực, năng
động, sáng tạo của mỗi chủ thể trong nhiệm vụ công tác, đồng thời cũng góp
phần hạn chế được những khó khăn, vướng mắc xảy ra, làm cho việc phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên trở
thành một phong trào, được nhân rộng tại vùng. Để làm được điều đó, cần
phải chú trọng phát huy vai trò chủ thể, giúp tổ chức, triển khai các kế hoạch
khen thưởng, kỷ luật cụ thể.
Cấp uỷ đảng cần đưa ra các chương trình, chính sách động viên, khen
thưởng kịp thời, để khích lệ cán bộ, nhân viên đúng lúc, tạo cho họ động lực để
tiếp tục tiến hành quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên. Những người này thông qua sự trải nghiệm thực tế
của mình trong quá trình làm việc, sẽ tham mưu, đóng góp những ý kiến xác
đáng của mình, nhằm hoàn thiện chương trình kế hoạch phát huy, tạo nên sức
mạnh của tập thể trong quá trình này. Chính sách khen thưởng hợp lý, sẽ tạo
nên những gương điển hình tiêu biểu, từ đó nhân rộng toàn ngành, toàn địa
phương. Song song với khen thưởng cũng cần chế tài kỷ luật những cá nhân, tổ
chức vi phạm đạo đức lối sống, có biểu hiện trục lợi trong quá trình phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Thưởng
phạt phân minh sẽ góp phần thúc đẩy thái độ nghiêm túc, cầu thị trong quá
trình công tác. Tránh thái độ làm việc qua loa lấy lệ, gây ảnh hưởng đến hiệu
quả công việc và lãng phí cho ngân sách. Tuy nhiên, cần tránh thái độ dễ dãi
khi thực hiện trao thưởng, càng không được lạm dụng chính sách kỷ luật để
giải quyết các ân oán cá nhân, ảnh hưởng đến mục tiêu phát huy giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
122
4.1.2. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của chính quyền các cấp đối với
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Một là, tăng cường phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách của
Đảng về văn hoá và phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên
Trong quá trình quản lý, các cấp chính quyền cần thực hiện phổ biến sâu
rộng, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên và các cơ quan trực thuộc về
các quan niệm của Đảng về văn hoá, cũng như mục tiêu phát huy giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Đảng ta trong suốt quá
trình phát triển luôn khẳng định vị trí và vai trò to lớn của văn hoá trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Các đại hội lần thứ
VIII, IX, X, XI, XII của Đảng đều nhấn mạnh vai trò vô cùng quan trọng của văn
hoá đối với sự phát triển của đất nước, với các nội dung cơ bản như: thứ nhất, văn
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; thứ hai, văn hoá là mục tiêu của sự phát triển;
thứ ba, văn hoá, con người là động lực, là sức mạnh nội sinh đảm bảo sự phát
triển bền vững đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, Đảng ta luôn nhất quán
chủ trương xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để
từ đó nhất quán trong các hoạt động quản lý văn hoá, tránh chệch hướng với chủ
trương đường lối của Đảng.
Bên cạnh đó, cần phải phổ biến cho lãnh đạo, cán bộ, nhân viên, các đơn
vị trực thuộc những chủ trương, chính sách của Đảng về dân tộc thiểu số và văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Để thấy được tầm quan trọng của văn hoá dân
tộc thiểu số đối với sự phát triển của Tây Nguyên và đất nước. Hơn thế nữa, nền
văn hoá đó đang đứng trước nguy cơ sẽ mai một và biến mất, cần phải bảo tồn,
khôi phục, nhằm một mặt giữ gìn được các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số, mặt
khác định hướng các giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây
Nguyên. Tránh tình trạng chính các cán bộ quản lý về mảng văn hoá lại không
có kiến thức sâu về văn hoá, dẫn tới không dồn tâm huyết vào công việc, có thái
độ xem thường văn hoá của người đồng bào.
123
Hai là, đẩy nhanh việc thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm của Đảng về
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, cần kịp thời
thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm đó thành các văn bản pháp luật, cơ chế,
chính sách, chỉ thị về phát huy giá trị văn hoá trong phát triển bền vững Tây
Nguyên. Quá trình này giúp cho các chủ trương đường lối của Đảng trở nên
phù hợp nhất với tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá và trình độ quản lý, kết
cấu hạ tầng của từng địa phương, nhờ đó sẽ đạt hiệu quả cao hơn trong quá
trình triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thể chế hoá phải đảm
bảo: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình thể chế hoá của Nhà
nước. Đồng thời phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cơ quan
Nhà nước có quyền thể chế hoá, tránh tình trạng làm qua quýt, sao chép, áp
đặt máy móc các Nghị quyết của Đảng trong văn bản thể chế hoá, dẫn tới
không phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương.
Việc thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm của Đảng phải được triển
khai kịp thời, để các đường lối của Đảng nhanh chóng được triển khai, giải
quyết được các vấn đề đặt ra trong đời sống thực tiễn. Để làm được việc này,
chính quyền các cấp cần phải nắm vững, kiên định với những quan điểm của
Đảng, đồng thời thường xuyên nắm bắt những vận động, biến đổi trong đời
sống tại địa phương. Qua đó có quá trình thể chế hoá kịp thời, phù hợp.
Ba là, tập trung nguồn lực tổng hợp cho phát huy giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Để có thể thực hiện được quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số vào trong phát triển bền vững Tây Nguyên cần phải sử dụng tổng hợp
tất cả các nguồn lực. Trước hết là sử dụng hợp lý, minh bạch, công khai,
khách quan các nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước về địa phương. Tránh
việc làm thất thoát ngân sách do trục lợi cá nhân, hoặc do đánh giá sai tình
hình của thực tiễn. Ưu tiên ngân sách để xây dựng, hoàn thiện các thiết chế
124
văn hoá, nâng cao trình độ nhận thức cho người đồng bào, cải thiện đời sống ở
những vùng khó khăn, kém phát triển. Để không làm thất thoát ngân sách, sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, cần phải bám sát địa bàn, có cái nhìn tổng
thể, toàn diện đa chiều, từ đó có thuyết minh cụ thể dựa trên căn cứ thực tiễn.
Bên cạnh đó, tiến hành xã hội hoá các nguồn vốn từ bên ngoài qua đầu
tư, hỗ trợ, tài trợ, hiến tặng để phát triển văn hoá dân tộc thiểu số, đào tạo
nâng cao trình độ cho người đồng bào, xây dựng kết cấu hạ tầng, thiết chế văn
hoá phục vụ cho đời sống văn hoá của người dân. Các kênh đầu tư có thể huy
động các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, các doanh nghiệp đóng trên
địa bàn, các công ty lữ hành, du lịch có hợp tác với Tây Nguyên… Qua đó,
tạo sức mạnh cho các hoạt động định hướng các giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số vào trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong quá trình kêu
gọi các nguồn đầu tư bên ngoài, luôn phải nêu cao tinh thần cảnh giác, tránh
việc các cá nhân, tổ chức bên ngoài lợi dụng đầu tư để có mưu đồ khác, ảnh
hưởng đến an ninh văn hoá, an ninh trật tự và toàn vẹn lãnh thổ trên địa bàn.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra về hoạt động văn hoá trên địa bàn
Trong suốt quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên, các cấp chính quyền cần thường xuyên có công
tác thanh kiểm tra hiệu quả của quá trình phát huy, để kịp thời nhận diện
những sai phạm so với chủ trương đường lối. Bởi vì trong quá trình triển khai
thực hiện, khó tránh khỏi những thiếu sót, bất cập từ các nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Công tác thanh kiểm tra sẽ tạo những áp lực nhất định, để
các cán bộ chuyên trách chủ động có trách nhiệm với công việc của mình, làm
việc tận tâm, có hiệu quả. Tránh hiện tượng làm việc qua loa, thiếu trách
nhiệm, thả trôi, không quan tâm đến kết quả.
Đồng thời, lắng nghe những phản ánh nhiều chiều từ trong quần chúng
với việc tổ chức, quản lý các hoạt động văn hoá ở địa phương, để sớm nắm
bắt được những diễn biến mới nhất từ cơ sở. Bởi những phản ánh khách quan
125
từ quần chúng là một nguồn tin đáng tin cậy, bởi quần chúng là đối tượng trực
tiếp chịu ảnh hưởng từ các chính sách văn hoá trên địa bàn. Thông qua các
phản ánh của họ, có thể nắm được những tác động tích cực, tiêu cực từ các
chính sách, cả cách thức triển khai và hiệu quả công việc của cán bộ văn hoá
cơ sở nữa. Trên cơ sở đó, kịp thời có biện pháp, chế tài xử lý, rút kinh nghiệm,
điều chỉnh những vấn đề không trùng khớp giữa thực tiễn với quá trình tổ
chức, thực hiện các chương trình, kế hoạch. Thông qua rút kinh nghiệm, tiến
hành kiểm nghiệm tính đúng đắn của của các chương trình, kế hoạch, từ đó có
điều chỉnh kịp thời, hợp lý.
Qua công tác thanh kiểm tra và tiếp nhận có chọn lọc các phản hồi từ
quần chúng, cần có chế tài xử lý sai phạm hợp lý. Các chế tài xử lý cần đúng
người, đúng tội, khách quan, công tâm, có tính răn đe, giáo dục cao. Gắn trách
nhiệm của từng cá nhân, tổ chức đối với từng sai phạm cụ thể. Tránh việc đưa
ra chế tài chung chung, đến lúc có sai phạm sẽ xảy ra trường hợp quanh co, đùn
đẩy trách nhiệm, đến cuối cùng thì bỏ ngỏ vì không có hướng xử lý thoả đáng.
4.1.3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cộng đồng dân tộc thiểu
số tại chỗ đối với phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, nội dung tuyền truyền để người dân tộc
thiểu số ý thức được và có trách nhiệm về phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Muốn nâng cao nhận thức của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên về giá
trị văn hoá của dân tộc mình, ngoài việc để họ tự ý thức thông qua các hoạt
động thực hành văn hoá thường ngày. Còn cần có công tác tuyên truyền của
đội ngũ cán bộ văn hoá và các lực lượng liên quan như công an, bộ đội, biên
phòng, đoàn thanh niên, hội phụ nữ… Việc tuyên truyền có thể thông qua
nhiều hình thức, có thể theo cách truyền thống là đi đến từng thôn bản, thông
qua các sinh hoạt cộng đồng, trực tiếp nói cho người dân hiểu. Hoặc qua các
126
phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, tivi, báo… để người dân
được cập nhật thông tin thường xuyên, sẽ nắm được các hoạt động văn hoá
của vùng Tây Nguyên, từ đó có ý thức tự hào, muốn dựng xây, gìn giữ.
Sở Văn hoá thông tin các tỉnh ở Tây Nguyên cần xây dựng các chương
trình cố định trên các báo đài về người dân tộc thiểu số, để các chuyên gia là
người đồng bào được trực tiếp tham gia xây dựng chương trình. Chương trình
được thực hiện lâu dài, để tuyên truyền về các sinh hoạt văn hoá của người
dân, các lễ hội, nghi lễ thờ cúng tại các thôn bản. Nội dung tuyên truyền cần
tập trung vào các sinh hoạt văn hoá có tính nhân văn, giáo dục cao. Đồng thời
định hướng để người đồng bào không còn mê tín dị đoan, sa đà vào các hủ tục
vừa rườm rà vừa lãng phí.
Bên cạnh tuyên truyền về các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, còn cần phải chú trọng tuyên truyền các chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước, các quyết sách của địa phương về các vấn đề
văn hoá, dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Việc tuyên truyền phải lâu dài, thường
xuyên và có trọng điểm. Để người dân từng bước thấm nhuần các nội dung
tuyên truyền, qua đó sẽ tự điều chỉnh hành vi, lối sống đúng với chủ trương
đường lối. Hạn chế được việc các thế lực thù đich lợi dụng sự thiếu hiểu biết
của đồng bào để có những luận điệu xuyên tạc, dắt mũi dư luận.
Thứ hai, nâng cao hiểu biết cho giới trẻ người dân tộc thiểu số về các
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên thông qua các chương trình giáo
dục chính thống ở nhà trường
Giáo dục nhà trường chiếm một vị trí quan trọng trong hình thành nhận
thức, tư tưởng tình cảm của con người. Ở đó, lớp trẻ sẽ được bồi đắp có hệ
thống các tri thức cần thiết, làm hành trang cho các hoạt động sống sau này.
Để các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên không bị chôn vùi, quên
lãng dẫn tới bị mai một. Cần đưa các giá trị đó vào trong các chương trình
giảng dạy ở nhà trường ở tất cả các cấp đào tạo. Để song song với các chương
127
trình phổ thông theo mặt bằng chung của cả nước, con em người dân tộc thiểu
số cũng được học các giá trị văn hoá của cha ông mình. Từ đó sự hiểu biết sẽ
được bồi đắp qua năm tháng. Một mặt nâng cao nhận thức về văn hoá của
mình, mặt khác biết được rằng những giá trị đó đang được tôn trọng, ghi nhận
- bằng chính chương trình giáo dục chính thống, để không quay lưng, chối bỏ
nguồn cội của mình khi lớn lên.
Việc giảng dạy đó, bắt đầu bằng tiếng nói, chữ viết người dân tộc thiểu số
ở tất cả các bậc học. Cần thiết phải bắt đầu từ bậc học mầm non, chứ không
phải đợi đến cấp tiểu học mới tiến hành chương trình này. Bởi giai đoạn từ 0
đến 6 tuổi, là giai đoạn vàng để hình thành và phát triển nhân cách, trí tuệ ở
một đứa trẻ. Tại trường mầm non, trẻ em người dân tộc thiểu số sẽ được học
tiếng nói của dân tộc mình thông qua đồng dao, qua những câu chuyện kể ở
dạng đơn giản về lịch sử khai hoang mở làng của tổ tiên mình. Chương trình
này được dạy song song xen kẽ với tiếng phổ thông, mỗi tuần 1 đến 2 buổi,
mỗi buổi khoảng 45 phút, do các giáo viên người dân tộc thiểu số, hoặc là giáo
viên người Kinh biết tiếng dân tộc thiểu số đứng lớp. Điều này đảm bảo trẻ
được phát triển tự nhiên nhất, trong chính cái nôi văn hoá của cha ông mình.
Khi lớn lên, bên cạnh tiếng phổ thông và những kiến thức cơ bản như mặt bằng
chung cả nước, trẻ còn biết được tiếng nói chữ viết của dân tộc mình. Để dù
sinh sống, làm việc ở bất cứ môi trường nào, có nhiều kiến thức tiến bộ đến bao
nhiêu, trẻ vẫn mang đầy đủ trong mình những hình hài văn hoá của dân tộc.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích con em người dân tộc thiểu số mặc trang
phục truyền thống khi đến trường, nhất là vào các dịp đặc biệt. Cần được nhìn
nhận như đó là một tất yếu tự nhiên, chứ không phải là yếu tố bất thường, khác
biệt. Các thầy cô ở nhà trường, thông qua các bài giảng, cho trẻ thấy được
những trang phục truyền thống đó chính là kết tinh đẹp đẽ của văn hoá dân tộc
họ, là những bộ trang phục độc đáo, riêng có, cần được giữ gìn. Để con em
người dân tộc thiểu số cảm thấy được sự tự hào, hãnh diện khi mặc trên người
128
bộ trang phục đó. Yếu tố tự hào này rất quan trọng, bởi có một thực tế không
thể phủ nhận, là khi đến tuổi thành niên, nhiều người trẻ không còn mặc trang
phục truyền thống nữa, bởi họ ít nhiều mang trong mình tâm lý tự ti về văn hoá
dân tộc mình. Bên cạnh sự nhận thức đủ đầy, lòng tự hào chính là một trong
những yếu tố đảm bảo cho văn hoá truyền thống được bảo tồn, gìn giữ.
Cùng với giảng dạy ở trên lớp, cần kết hợp với các hoạt động ngoại khoá
như đi tham quan, sinh hoạt văn nghệ, thể thao… Nhiều nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới đều công nhận, ngoại khoá là một phương pháp giảng dạy bổ trợ rất có
hiệu quả. Nó giúp cho người học được thư giãn, thay đổi môi trường học, vừa
được học vừa được chơi, nhờ đó quá trình học tập sẽ có hiệu quả cao hơn, thầy trò
cũng gần gũi hơn. Có thể lấy một số nhà rông, nhà dài còn giữ được nguyên trạng
ở trong buôn làng làm địa điểm để học sinh đi dã ngoại. Trong buổi dã ngoại cần
kết hợp với già làng, trưởng bản hoặc một số nghệ nhân giỏi, để một mặt cho trẻ
biết đến kiến trúc của ngôi nhà; Mặt khác có thể được nghe người già kể chuyện,
hát khan, kể về những thiên anh hùng ca đẹp đẽ, bằng đúng không gian văn hoá
của họ. Trẻ có thể được biết đến cồng chiêng, đàn đá, bằng chính những nghệ
nhân lão luyện ngay tại cái nơi thuần văn hoá nhất, không phải trình diễn để thu
hút đám đông ở những không gian nhuốm màu kinh doanh hiện đại. Ở đây, trẻ em
người dân tộc thiểu số sẽ được tưới tắm bằng chính văn hoá dân tộc mình. Còn trẻ
em người Kinh nhờ đó được mở mang, hiểu rõ hơn về một nền văn hoá rất độc
đáo, đang đứng trước nguy cơ sẽ mai một, để có cái nhìn trân trọng hơn, sự trân
trọng đối với nền văn hoá khác - không giống mình là một điều mà nền giáo dục
nào cũng cần truyền đạt được cho người học. Bởi bản chất của văn hoá chính là sự
khác biệt, không có văn hoá nào ưu việt hơn, bởi tất cả đều là sản phẩm sáng tạo
có giá trị của con người, quay trở lại phục vụ cho chính con người.
Ở các bậc giáo dục cao hơn như Cao đẳng, Đại học có chuyên ngành về
văn hoá, sư phạm, cần mở các môn học gắn liền với văn hoá dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Như đào tạo nghệ nhân đúc cồng chiêng, nghệ nhân đánh cồng
129
chiêng, nghệ nhân kể sử thi… Bên cạnh đó là đào tạo chuyên sâu về tiếng nói
chữ viết người dân tộc thiểu số, để đào tạo đội ngũ kế cận, sau này sẽ về công
tác trong ngành văn hoá hoặc giảng dạy ở các địa phương của Tây Nguyên.
Tất nhiên, những môn học này nên định hướng là một môn học tự chọn, cho
những người có đam mê, có định hướng nghề ghiệp gắn bó; Hoặc cho đối
tượng là sinh viên cử tuyển từ các địa phương, sau này quay trở về quê mình
phục vụ. Để có chương trình dạy đáp ứng được nhu cầu của người học, cần
phải trang bị hệ thống sách, giáo trình liên quan. Toàn bộ sách này cần được
các chuyên gia văn hoá, những người làm công tác văn hoá và các nghệ nhân
đại diện cho người dân tộc thiểu số tại địa bàn xây dựng và thẩm định. Sự đầu
tư bài bản, có hệ thống như thế này, sẽ chuẩn bị cho các tỉnh của Tây Nguyên
một đội ngũ cán bộ am hiểu về văn hoá Tây Nguyên, những người giáo viên
vừa có kiến thức, vừa có bản lĩnh văn hoá để về giảng dạy cho con em về sau.
Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề người kế cận cho văn hoá dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Bởi qua quá trình khảo sát, vẫn có những học sinh có hứng thú,
muốn được đào tạo bài bản về văn hoá truyền thống của người dân tộc thiểu
số Tây Nguyên, để quay về góp phần bảo tồn, gìn giữ nền văn hoá đó.
Mặt khác, thực hiện khai thác yếu tố giáo dục gia đình, bởi đây là cái nôi
văn hóa của xã hội. Mỗi gia đình sẽ truyền dạy cho con cháu mình về truyền
thống của chính gia đình họ, về những tập tục, lề thói tốt đẹp trong sinh hoạt
đời thường. Đây là hình thức giáo dục trực quan, để cho giới trẻ quan sát, bị
ảnh hưởng và hình thành nên thói quen từ rất sớm, trước cả khi ý thức được
văn hóa dân tộc thiểu số là gì thì đã được tưới tắm, thấm nhuần tư tưởng văn
hóa rồi. Hình thức giáo dục này rất lâu bền, không đao to búa lớn, nhẹ nhàng,
uyển chuyển luồn lách vào trong từng nếp nghĩ của con người rồi âm thầm nuôi
dưỡng. Kế đó cần phải chú trọng hình thức giáo dục cộng đồng, thông qua các
hoạt động sinh sống của buôn làng. Đó là các hoạt động nghi lễ, lễ hội, hoạt
động hội họp ở nhà rông, nghe hát khan, kể sử thi. Để ở đó, giới trẻ được hòa
130
vào trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Bởi văn hóa Tây Nguyên là văn
hóa cộng đồng, gắn kết thống nhất, hài hòa, uyển chuyển. Văn hóa đó chỉ được
nảy sinh và có sức sống lâu bền nhất khi đặt trong mối quan hệ cộng đồng.
Thứ ba, phát huy vai trò của những người có ảnh hưởng trong cộng đồng
như già làng, trưởng bản, trí thức dân gian để khuyến khích người dân tộc thiểu
số trân trọng và có trách nhiệm hơn với các giá trị văn hoá của dân tộc mình
Lịch sử phát triển lâu dài của Tây Nguyên ghi dấu những ảnh hưởng
xuyên suốt của già làng, trưởng bản và trí thức dân gian. Ở thời kỳ xã hội tiền
nhà nước, tiền giai cấp, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên không biết đến
pháp luật và những quy định ràng buộc chặt chẽ của nó. Họ duy trì trật tự xã
hội nhờ hệ thống luật tục, toà án phong tục và những người có uy tín trong
cộng đồng. Đến nay, dù pháp luật được phổ biến sâu rộng đến mọi vùng thôn
bản. Nhưng với những đặc trưng văn hoá lâu đời, chưa thể thay đổi ngay lập
tức được, người đồng bào nơi đây vẫn chịu sự chi phối song song của pháp luật
và luật tục. Có những vấn đề mà pháp luật không thể giải quyết được, do mang
tính cá thể, cá biệt, thì ở đó, luật tục vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình. Vì
vậy, các cấp chính quyền cần phải tranh thủ tiếng nói của những người có ảnh
hưởng, có uy tín trong cộng đồng, để vận hành trật tự của buôn làng.
Với đặc trưng văn hoá làng và văn hoá cộng đồng bao trùm, ngày nay ở
các vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên quan niệm “phép Vua thua lệ làng”
vẫn còn những ảnh hưởng nhất định. Những người này sở dĩ có uy tín, có
tiếng nói trong cộng đồng là nhờ sự am hiểu của họ về văn hoá của người dân
tộc thiểu số Tây Nguyên, có sự tham gia tích cực vào các hoạt động sống của
người đồng bào. Họ có thể là người cao tuổi, những người gắn bó lâu nhất với
tiến trình lịch sử của buôn làng, trở thành những pho sử sống; kế đó là các
nghệ nhân với tay nghề điêu luyện, các thầy lang tham gia chữa bệnh cho
người dân, các thầy cúng giúp người đồng bào kết nối với thần linh bằng
những huyền thuật… Những người này khi lên tiếng nói về văn hoá dân tộc
131
mình, sẽ có sự ảnh hưởng sâu rộng trong lòng người dân tộc thiểu số nơi đây.
Cần phải tranh thủ tiếng nói của họ, để nói với người đồng bào về lịch sử của
dân tộc họ, biểu diễn cồng chiêng, sử thi, đàn đá bằng tay nghề điêu luyện
nhất, nguyên bản nhất. Sẽ tham vấn cho người buôn làng và chính quyền khi
tiến hành xây dựng, khôi phục lại các biểu tượng văn hoá của dân tộc mình.
Qua đó giúp người dân kết nối với thần linh thông qua các nghi lễ, tất nhiên
những yếu tố mê tín dị đoan cần có định hướng để loại trừ.
Khi chữ viết chưa được sử dụng phổ biến, người Tây Nguyên lưu giữ văn
hoá của mình bằng hình thức truyền khẩu, thông qua các sinh hoạt cộng đồng ở
nhà rông, nhà dài, ở các lễ hội, lễ cúng… Người già sẽ ngồi ở vị trí trung tâm,
thanh niên trai tráng, phụ nữ, trẻ em nối nhau ngồi xung quanh, ché rượu cần
được bưng ra, lửa được đốt lên. Các câu chuyện cứ thế được lưu truyền từ đời
này sang đời khác. Sự phát triển của xã hội hiện đại, làm cho giới trẻ dễ dàng tìm
gặp những điều thú vị ở trên điện thoại thông minh, họ sẽ lơ là hơn khi tìm đến
nhà rông để nghe kể chuyện. Nhưng những sinh hoạt cộng đồng này cần được
duy trì, để giáo dục truyền thống. Giáo dục truyền thống không gì tốt hơn bằng
để lớp trẻ được sống trong môi trường văn hoá đó, từ trực quan đến sự bồi đắp
lâu dài, sẽ giúp cho các giá trị văn hoá được neo giữ ở trong đội ngũ kế cận.
Đảng, Nhà nước ta luôn có chủ trương xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi một đất nước muốn phát triển hùng cường, phải
có chiều sâu văn hoá, với Tây Nguyên cũng vậy. Nếu như chỉ đứng trong
chân không về văn hoá, con người sẽ không thể tiến xa ở các mục tiêu phát
triển khác. Mục tiêu này rất khó để thực hiện triệt để, nếu người dân tộc thiểu
số tự quay lưng với văn hoá của chính mình. Trong các cách giải quyết, thì
mềm mại, uyển chuyển và có hiệu quả nhất là tranh thủ tiếng nói của những
người có uy tín trong cộng đồng. Để họ bằng lời nói, hành động làm cho
người đồng bào thấy được những phần tinh hoa, đẹp đẽ của văn hoá chính
mình, từ đó trân trọng, ra sức giữ gìn.
132
4.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn và phát triển
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
4.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên
Thứ nhất, chủ động bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hoá vật chất của văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Di sản văn hoá dân tộc thiểu số của Tây Nguyên là tài sản được thế hệ
trước truyền lại, tích luỹ và tồn tại suốt một thời gian dài. Chính điều đó làm nên
sự đa dạng, phong phú và chiều sâu cho văn hoá Tây Nguyên. Di sản văn hoá
chứa đựng kinh nghiệm sống, trí tuệ, tri thức, sự sáng tạo, những phẩm chất cao
quý suốt chiều dài lịch sử người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Những điều đó, góp
phần tạo nên môi trường văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là cơ sở để các thế
hệ sau kế thừa, phát triển trong các hoạt động sống sau này.
Để có thể giữ gìn được di sản văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
cần phải có thường xuyên phổ biến, quán triệt, thực hiện các quan điểm của
Đảng về bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đồng thời
thực hiện hợp tác giữa các cấp, các ban ngành từ trung ương đến địa phương,
nhất là giữa Cục Bảo tồn di sản văn hoá với ngành du lịch, nhằm có những
hướng đầu tư để phát triển du lịch bền vững. Thực hiện có hiệu quả các
chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, như dự án chống xuống cấp, tu bổ,
tôn tạo di tích; dự án sưu tầm và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể của
các dân tộc; dự án nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác văn hoá ở cơ sở,
thực hiện truyền thông và giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện chương trình;
dự án tập trung đầu tư nhằm phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống.
Bên cạnh nâng cao ý thức về văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên, cần
tiến hành tuyên truyền về việc cần thiết phải bảo tồn văn hoá dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Trước hết cần chỉ ra thật đầy đủ vai trò và những đóng góp to lớn
của văn hoá dân tộc thiểu số đối với phát triển kinh tế của vùng, ở khía cạnh văn
133
hoá tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Việc tuyên truyền này cần phải
diễn ra rộng khắp, từ các cấp chính quyền, hệ thống quản lý, những người làm
công tác văn hoá, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên và cả du khách. Để người
dân tộc thiểu số biết được rằng chính văn hoá của họ có thể giúp nuôi sống họ,
văn hoá có thể tạo ra kinh tế. Bảo tồn các giá trị văn hoá của họ với xây dựng
kinh tế không mâu thuẫn nhau, mà trái lại có thể hỗ trợ tích cực cho nhau.
Thứ hai, tiến hành các hoạt động chống xuống cấp, trùng tu, tôn tạo
các di sản văn hoá vật chất của văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Trải qua thời gian phát triển lâu dài, các di sản văn hoá vật chất của
Tây Nguyên như nhà rông, nhà dài, nhà mồ, tượng nhà mồ, cồng chiêng,
đàn đá, đàn tơ-rưng… đều đã có biểu hiện xuống cấp, hư hỏng. Ngoài tuổi
thọ của các di sản, cũng do tác động của nhiều yếu tố ngoại cảnh như biến
đổi khí hậu, thiên tai, chiến tranh và cả chính con người nơi đây. Để có
thể đảm bảo mục tiêu giữ gìn các di sản đó trong phát triển bền vững Tây
Nguyên, cần chủ động ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích, ngăn
chặn việc mua bán trái phép các di sản văn hoá vật thể. Ngoài các hoạt
động huy động nguồn lực tại chỗ để chăm lo, giữ gìn vệ sinh, có biện
pháp ứng phó trước thiên tai. Thì còn cần tranh thủ sự tham gia của các
nghệ nhân lành nghề, các chuyên gia văn hoá trong nước và quốc tế. Bởi
hoạt động trùng tu không chỉ là khôi phục cái vỏ bề ngoài của di sản, mà
còn cần phải làm sống lại chiều sâu văn hoá ở bên trong nó.
Để có thể tiến hành công cuộc trùng tu, tôn tạo di sản văn hoá vật chất của
dân tộc thiểu số Tây Nguyên có hiệu quả, thì chỉ công sức và tâm huyết thôi chưa
đủ, mà còn cần một nguồn vốn lớn, có khả năng duy trì hoạt động lâu dài. Để làm
được điều đó, ngoài nguồn chi của ngân sách, ngân sách địa phương, còn phải huy
động nguồn xã hội hoá từ các doanh nghiệp, các tổ chức và các mạnh thường
quân có tâm huyết đối với văn hoá. Một mặt tôn tạo, trùng tu di sản, mặt khác biến
các di sản này thành các sản phẩm có giá trị tinh thần, truyền thống, để nuôi
134
dưỡng tâm hồn và nhận thức của người dân, đồng thời phát triển du lịch để tăng
nguồn thu cho ngân sách. Để làm được việc đó, cần tiến hành tập huấn thường
xuyên cho cán bộ và quản lý ở các di sản, bảo tàng, để họ sẽ trực tiếp chăm lo, duy
trì hoạt động của những khu vực này đạt đúng mục tiêu đề ra.
Thứ ba, tiến hành sưu tầm, bảo tồn các giá trị di văn hoá phi vật chất
của dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Muốn làm tốt công tác sưu tầm, bảo tồn các di sản văn hoá phi vật chất
của người dân tộc thiểu số, cần phải gấp rút triển khai, hoàn thành việc thống kê,
điều tra về các di sản đó trên khắp 5 tỉnh của Tây Nguyên. Số liệu thống kê cần
cụ thể đến từng thôn bản, từng dân tộc, qua đó nắm được toàn bộ thực trạng của
hệ thống di sản phi vật thể của vùng. Muốn làm được việc này, phải trang bị
phương tiện, thiết bị và kinh phí hoạt động cho đội ngũ chuyên trách như cán bộ
văn hoá, các nghệ nhân. Lập thư mục về các di sản đó, để số hoá các di sản phi
vật thể đã tìm được, như số lượng các bộ sử thi, các bản nhạc cồng chiêng, các
nghi lễ, các phương thức và quy chuẩn tiến hành xây dựng nhà rông, nhà mồ.
Sưu tầm được rồi cần lưu giữ bằng các phương tiện vật chất, như in sách, in đĩa,
thu âm, ghi hình. Đặc biệt với không gian văn hoá cồng chiêng, là kiệt tác phi
vật thể và truyền khẩu của nhân loại, thì công tác sưu tầm này càng cần được
tiến hành cẩn thận, chắc chắn, tránh gây ra những nhầm lẫn hoặc bỏ sót đáng tiếc.
Công tác sưu tầm, bảo tồn giá trị văn hoá phi vật chất của dân tộc thiểu
số Tây Nguyên cần có sự tham gia của các chuyên gia văn hoá và những nghệ
nhân người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Bởi chỉ có các chuyên gia văn hoá,
mới có đủ trình độ và sự nhận thức sâu rộng về các di sản đó. Để nếu có thể,
họ chính là lực lượng nâng tầm di sản phi vật thể dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
thông qua các hồ sơ khoa học, để trình UNESCO công nhận là di sản văn hoá
thế giới. Tránh việc thẩm định nhầm lẫn, dẫn tới nhận thức sai, lưu truyền
không đúng và bảo vệ sai các giá trị văn hoá. Sau khi sưu tầm, cần được lưu
giữ trong các thư viện, nhà văn hoá, bảo tàng, để người dân dễ dàng tiếp cận.
135
Thông qua quá trình người đồng bào được tiếp xúc với các di sản phi vật thể,
họ vừa có thể được tìm thấy những giá trị cổ xưa nhất của dân tộc mình, vừa
để khơi gợi tiềm thức để tìm kiếm những di sản được lưu giữ ở chính trong
các hộ gia đình, dòng tộc ở trong cộng đồng. Tránh việc người dân bị thương
lái, bọn buôn đồ cổ lợi dụng, bán đi những di sản văn hoá phi vật thể của
mình, để thu về số tiền chỉ đủ cho vài cuộc rượu. Chính quyền cần có chính
sách chủ động thu mua lại những đồ cổ đã bị bán kết hợp với tuyên truyền để
người dân có ý thức chủ động lưu giữ các di sản quý giá này.
4.2.2. Phát triển các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong thực tiễn
phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
Toàn bộ hệ thống giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên sẽ chỉ
ngủ yên, nếu không được phát huy trong công cuộc phát triển bền vững Tây
Nguyên. Quá trình phát huy đó chỉ có hiệu quả, khi những giá trị đó được
nâng tầm và phát triển. Phát triển là quy luật tất yếu của sinh tồn, các giá trị
văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên cũng không nằm ngoài quy luật đó. Do
đó cần phải có các biện pháp cụ thể để thúc đẩy quá trình phát triển nội dung
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Thứ nhất, đẩy mạnh đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật dân gian
dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Trang bị cơ sở vật chất các nhà hát, thành lập các đoàn nghệ thuật dân
gian. Tiến hành biểu diễn các hoạt động nghệ thuật dân gian để người dân tộc
thiểu số, người dân nói chung và du khách có thể có một nơi để thưởng thức
các loại hình nghệ thuật truyền thống. Cấp kinh phí để đào tạo nghệ nhân, bổ
sung tầng lớp kế cận cho thế hệ nghệ nhân đang ngày càng ít dần của Tây
Nguyên. Đầu tư thêm các trang bị thiết bị, công cụ biểu diễn, trang phục truyền
thống cho các đoàn nghệ thuật dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Để các diễn viên,
nghệ nhân nghệ thuật dân gian có thể sống được bằng nghề của mình, dành hết
tâm huyết cho việc phát triển và quảng bá nghệ thuật dân tộc mình.
136
Thứ hai, phát triển con người Tây Nguyên thấm nhuần bản sắc văn hoá
Tây Nguyên
Bởi con người chính là chủ thể sáng tạo, nắm vai trò chủ chốt trong công
cuộc sáng tạo, giữ gìn, quảng bá các giá trị văn hoá; hơn thế cũng là đối tượng
thụ hưởng các thành quả mà giá trị văn hoá mang lại. Do đó, việc phát triển văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên không được tách rời với phát triển con người
nơi đây. Phải nâng cao trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị, phát triển toàn diện
về trí tuệ, cốt cách mọi mặt cho người và cộng đồng dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, để họ có thể trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển văn hoá, và tiếp
tục sáng tạo ra các giá trị văn hoá dân tộc mình. Nhờ đó, văn hoá có thể thẩm
thấu, lan toả vào trong chính từng người đồng bào, từng gia đình, từng cộng
đồng, dân tộc, góp phần hình thành và phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Thứ ba, mở rộng giao lưu, hợp tác với các nền văn hoá bên ngoài, để
làm phong phú hơn văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Giao lưu và tiếp biến là quy luật tất yếu trong tiến trình phát triển của
văn hoá nói chung, văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên cũng không nằm
ngoài xu hướng đó. Bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là tôn trọng, giữ gìn bản
sắc, kiên trì kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây
Nguyên trong công cuộc phát triển bền vững. Còn cần phải mở rộng hợp
tác, giao lưu với các nền văn hoá từ bên ngoài vào. Cụ thể ở Tây Nguyên là
hợp tác với văn hoá của người Kinh, văn hoá của các dân tộc thiểu số mới
đến. Đón nhận những ảnh hưởng tích cực, có giá trị từ các nền văn hoá mới
đến, để làm phong phú hơn nền văn hoá dân tộc mình. Như tinh thần hiếu
học, cần cù chịu khó, không bị khuất phục trước nghịch cảnh của người Kinh,
hay sự nhạy bén, năng động của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc mới
đến. Tiến tới lọc bỏ các biểu hiện mê tín dị đoan, thủ tục rườm rà gây cản trở
quá trình phát triển của chính họ.
137
Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, vách ngăn
giữa các nền văn hoá càng trở nên mong manh, dễ xoá nhoà. Hơn thế, chính
sách ưu tiên phát triển du lịch của Tây Nguyên, sẽ thu hút một số lượng
khổng lồ các du khách từ các châu lục. Người dân tộc thiểu số Tây Nguyên
một mặt lan toả các giá trị văn hoá của mình, mặt khác đón nhận, bồi đắp
thêm từ tinh hoa văn hoá nhân loại, để làm giàu đẹp hơn, nhưng đồng thời mở
rộng giao lưu, hợp tác văn hoá với các nước, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hoá nhân loại làm phong phú hơn văn hoá dân tộc. Đồng thời, cũng cần phải
có các biện pháp chủ động phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm lấn của các văn
hoá độc hại, đi ngược với lẽ sinh tồn.
Thứ tư, tăng cường hoạt động phổ biến, quảng bá giá trị văn hoá dân
tộc thiểu số Tây Nguyên ra cộng đồng và quốc tế
Sau khi khai thác, nâng cao nhận thức cho các chủ thể phát huy giá
trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Cần đẩy mạnh hoạt động phổ
biến, quảng bá để lan toả các giá trị văn hoá nơi đây đến với đông đảo
công chúng và bạn bè quốc tế. Thông qua các hoạt động quảng bá, giá trị
văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên sẽ được biết đến rộng rãi, với một
kho tàng đồ sộ, phong phú, đa tầng lớp. Điều đó một mặt sẽ làm giàu có
hơn kho tàng văn hoá nước ta, mặt khác giúp nâng tầm vị thế của Tây
Nguyên nói riêng và nước ta nói chung trên trường quốc tế. Hơn thế nữa,
khi khẳng định được chiều sâu và sự hấp dẫn văn hoá sẽ giúp Tây Nguyên
thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước. Bổ sung một
nguồn thu cho ngân sách, nâng cao thu nhập và chất lượng sống cho
người đồng bào. Giải quyết được vấn đề cốt lõi ở vùng dân tộc thiểu số
Tây Nguyên, là vừa giữ được văn hoá truyền thống, vừa đảm bảo tăng
trưởng kinh tế và mức sống cho người dân.
Cần đẩy mạnh tuyên truyền để phổ biến các giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số đến cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Để chính những
138
người đồng bào nắm bắt sâu sắc, thấm nhuần và trân trọng hơn văn hoá của
mình. Nhằm hướng tới mục tiêu văn hoá truyền thống không chỉ là những yếu
tố cá biệt ở trong cộng đồng nữa, mà nó được phổ biến rộng rãi. Đảm bảo
không đứt gãy mạch ngầm truyền thống của văn hoá Tây Nguyên. Có thể
thông qua các hoạt động dân vận, để vừa phổ biến giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên và vai trò của nó đến người dân, đồng thời làm người
dân tin tưởng hơn vào hướng phát triển bền vững của nó. Ngoài ra còn có thể
sử dụng các hoạt động truyền thông như lập các kênh, mục chuyên biệt trên
báo in, báo giấy, đài phát thanh, đài truyền hình địa phương, các kênh mạng
xã hội (kênh này đang chiếm một số lượng đông đảo người dùng ở các độ
tuổi) để nói về văn hoá Tây Nguyên. Quá trình tuyên truyền cần được sử dụng
bằng cả tiếng nói, chữ viết của người Kinh và tiếng nói chữ viết của người
dân tộc thiểu số, để người đồng bào được nghe về những đặc trưng, giá trị
tiêu biểu của văn hoá dân tộc mình, còn những người dân tộc khác cũng từ đó
có thể tìm hiểu về văn hoá Tây Nguyên.
Thông qua du lịch, để lại dấu ấn, ấn tượng của du khách đối với sự độc
đáo của vùng đất đa sắc màu văn hoá, con người hiếu khách, thân thiện, dễ
gần. Muốn làm được điều đó, các chủ thể phát huy giá trị văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên cần phải chăm lo cho các điểm du lịch ở Tây Nguyên.
Đầu tư có hệ thống, mở rộng du lịch sinh thái, du lịch khám phá. Có định
hướng để mỗi người dân tộc thiểu số đều giữ được sự thuần hậu, dễ mến vốn
có của mình, để vừa sinh sống bình thường, vừa âm thầm quảng bá văn hoá
của quê hương. Khi đã có được tình cảm yêu mến của du khách, chắc chắn họ
sẽ còn quay lại, hơn thế họ còn mang văn hoá của vùng đất này đi xa, thay
người Tây Nguyên quảng bá, tiếp tục mang những dòng người từ khắp nơi
trên thế giới về đây. Xu thế toàn cầu hoá, làm cho các đô thị lớn trên thế giới
đều có sự tương đồng nhất định với nhau. Điều mà thế giới đang khát khao
kiếm tìm, lại là những giá trị còn giữ được những vẻ đẹp nguyên sơ, thuần
hậu, phản ánh một lịch sử phát triển lâu dài, nhiều biến động.
139
Ngoài những hình thức quảng bá truyền thống, các chủ thể phát huy cần
xây dựng hình ảnh các đại sứ văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Những
người đó sẽ có sứ mệnh lan toả văn hoá của vùng đến với cộng đồng. Hướng
xây dựng hình ảnh đại sứ văn hoá, không phải là hướng đi mới mẻ. Nhiều quốc
gia từ lâu đều có đại sứ du lịch, những người sẽ mang du lịch nước mình đi
khắp nơi trên thế giới, với hình ảnh thân thiện, cởi mở và hiếu khách, nước ta
cũng thế. Nhưng với văn hoá truyền thống Tây Nguyên thì chưa giải quyết ổn
thoả được vấn đề này. Người làm đại sứ văn hoá phải là người dân tộc thiểu số
Tây Nguyên, am hiểu văn hoá nơi đây, có tiếng nói, có tầm ảnh hưởng nhất
định đối với công chúng trong một lĩnh vực nào đó. Qua đó, văn hoá truyền
thống Tây Nguyên sẽ âm thầm lan toả, kiên trì nối liền mạch văn hoá đã xuất
hiện hàng trăm năm.
4.2.3. Đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái và hoạt động chống
phá của thế lực thù địch với quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên
Thứ nhất, đấu tranh, phê phán những biểu hiện lệch lạc về giá trị văn
hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Gần đây, trước làn sóng du nhập của các văn hoá ngoại lai, ở Tây Nguyên
manh nha xuất hiện thái độ “sính ngoại” dẫn tới lệch lạc về nhận thức giá trị, tiếp
nhận một cách quá dễ dãi, thiếu chọn lọc đối với các sản phẩm văn hoá nước
ngoài. Đồng thời coi nhẹ văn hoá truyền thống, quay lưng với chính văn hoá của
cha ông mình. Do đó, cần quán triệt quan điểm Đại hội XII của Đảng về: “Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm,
hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá
con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội,
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”.
Cần phải có chế tài pháp lý xử lý nghiêm các hoạt động mua bán trái
phép đồ cổ, âm thầm tuồn hàng qua biên giới, trục lợi cá nhân, gây thất thoát
140
cho nguồn dự trữ di sản đang ngày càng cạn kiệt của vùng. Tuyên truyền cho
người đồng bào nhận thức việc bán các đồ cổ của gia đình mình cho thương lái
là vi phạm pháp luật. Bởi các cổ vật như cồng chiêng, đàn đá… đã trở thành tài
sản quốc gia, chứ không đơn thuần là một vật dụng mang tính cá nhân có thể
tuỳ tiện trao đổi, mua bán nữa. Ở Tây Nguyên đã xuất hiện hiện tượng “chảy
máu” cồng chiêng, một số vùng trong dân đã không còn lưu giữ cồng chiêng
như là một tài sản quý giá của gia đình như trước nữa. Hiện tượng người đồng
bào bán cồng chiêng, ngoài nguyên nhân về sự khó khăn về kinh tế, cần bán để
lấy tiền trang trải cuộc sống. Còn có nguyên nhân do đã có nhiều hoạt động
giải trí khác từ bên ngoài du nhập vào, người đồng bào không còn phụ thuộc
tinh thần quá nhiều vào cồng chiêng như trước nữa. Bên cạnh đó cần chủ động
thu mua lại cồng chiêng đã bị bán, bằng các nguồn ngân sách của địa phương
và nguồn xã hội hoá. Để trang bị lại cho các thôn bản đã bị bán hết cồng chiêng.
Còn cần mở các lớp dạy đánh cồng chiêng cho lớp trẻ ngay trên chính địa bàn,
tổ chức các lễ hội, để người dân được sống lại trong không gian văn hoá cồng
chiêng. Thiết kế, tổ chức các hội thi thường niên giữa các nhóm, hội với nhau,
để nâng cao đời sống tinh thần cho người đồng bào, dùng chính cồng chiêng để
gắn bó họ như trong văn hoá nguyên thuỷ.
Thứ hai, nâng cao trình độ đấu tranh, phê phán các hoạt động chống
phá của thế lực thù địch đối với Tây Nguyên.
Thời gian qua, các thế lực thù địch dưới chiêu bài dân tộc, tôn giáo,
có nhiều hoạt động tuyên truyền, chống phá, gây chia rẽ đoàn kết, âm thầm
xây dựng âm mưu diễn biến hoà bình tiến tới bạo loạn lật đổ ở Tây Nguyên.
Ngoài các cách thức truyền thống, chúng còn lợi dụng thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0, đẩy mạnh truyền thông để lôi kéo đồng
bào, giới trẻ dân tộc thiểu số quay lưng lại với văn hoá của mình. Định
hướng những giá trị lệch lạc, chỉ chăm chăm vào lợi ích cá nhân mà quên
đi lợi ích của cộng đồng, dân tộc. Thờ ơ với vận mệnh của quốc gia, xem
141
nhẹ những cống hiến của những người đi trước. Chúng muốn hình thành
nên một thế hệ vô ơn, bạc bẽo để dễ dàng dắt mũi, chi phối. Đồng thời cổ
suý cho lối sống gấp gáp, tự do thái quá của phương Tây, hướng giới trẻ
quay lưng với văn hoá dân tộc mình.
Vì vậy, Đảng uỷ các cấp cần phải thực hiện công tác bám dân triệt để,
sâu sát với cuộc sống, tâm tư nguyện vọng của người dân. Phổ biến pháp luật
bằng cách truyền đạt ngắn gọn, dễ nghe dễ nhớ, để đồng bào không bị mơ hồ
về pháp luật. Mặt khác phải không ngừng hoàn thiện nền văn hoá dân tộc
thiểu số Tây Nguyên, củng cố những giá trị nhân văn cao đẹp trong đó. Huy
động sức mạnh của các tổ chức, cộng đồng, để phổ biến những giá trị tốt đẹp
của văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên và vai trò của nó đối với phát triển
bền vững Tây Nguyên. Nâng cao trình độ làm chủ công nghệ cho các lực
lượng chuyên trách, để kịp thời ngăn chặn các hoạt động chống phá vừa mới
manh nha của thế lực thù địch trên internet.
4.3. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động định hướng giá trị
văn hoá dân tộc thiểu số vào thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên
4.3.1. Nâng cao hiệu quả của các hình thức sản xuất kinh doanh khai
thác được giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên trên cơ sở bảo vệ
môi trường sinh thái
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật về tổ chức
kinh doanh khai thác giá trị văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Thực tế vẫn tồn tại tình trạng kinh doanh khai thác tràn lan, manh mún
các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Dẫn tới hệ quả có thể
mang lại các lợi ích kinh tế trước mắt, nhưng tiềm ẩn nguy cơ huỷ hoại tài
nguyên văn hoá trong tương lai. Để khắc phục tình trạng đó, các địa phương
cần hoàn thiện bộ khung chính sách về các hoạt động kinh doanh khai thác
giá trị văn hoá trên địa bàn. Trong đó có các quy định về các hạng mục được
khai thác kinh doanh, giới hạn cho phép được khai thác kinh doanh và chế độ
142
bảo trì, phục dựng bắt buộc. Tránh việc các cá nhân tổ chức đầu tư, thu hút du
khách ồ ạt, không quan tâm đến khả năng tiếp nhận của một số cơ sở văn hoá.
Xây dựng luật cấm mua bán cồng chiêng trái phép, để ngăn chặn tình
trạng thất thoát cồng chiêng. Giới hạn các khu du lịch sinh thái, trải nghiệm
không được xâm phạm các di chỉ khảo cổ, các dấu tích của văn hoá tộc người
như nhà rông, nhà dài, nhà mồ. Không được tàn phá rừng để phục vụ mục
đích kinh doanh, như tận thu du lịch, buôn bán gỗ lậu, thu lợi kinh tế trước
mắt mà huỷ hoại môi trường sống lâu dài.
Xây dựng chính sách thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân vào khai thác kinh doanh liên quan đến lĩnh vực văn hoá ở Tây Nguyên.
Như mở rộng hoạt động du lịch, lữ hành kết hợp với trình diễn quảng bá cồng
chiêng, sử thi, đàn đá, trang phục truyền thống.
Có cơ chế, chính sách về tổ chức kinh doanh sẽ giúp cho chính quyền địa
phương thuận lợi hơn trong vấn đề quản lý hoạt động kinh doanh văn hoá trên
địa bàn. Căn cứ theo các điều khoản của quy định, sẽ dễ dàng nhìn ra các sai
phạm, chệch hướng của các hoạt động kinh doanh. Từ đó kịp thời ngăn chặn,
điều chỉnh, để hoạt động kinh doanh giá trị văn hoá ở Tây Nguyên có thể vừa
đảm bảo nguồn thu cho vùng, đồng thời không xâm phạm, huỷ hoại các giá trị
văn hoá đang cần được bảo tồn, gìn giữ. Đảm bảo hoạt động kinh doanh có
văn hoá, góp phần tích cực vào phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên.
Hệ thống cơ chế chính sách chặt chẽ, sẽ giúp đảm bảo an toàn cho hoạt
động khai thác kinh doanh các giá trị văn hoá. Cho cả người đứng ra kinh
doanh, các chủ thể văn hoá và du khách. Có pháp luật, chính sách bảo vệ,
người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh văn hoá sẽ tránh được những rủi
ro do hoạt động manh mún, thiếu tổ chức mang lại. Các quy định phải đảm
bảo quản lý chặt chẽ, trên cơ sở các điều kiện thông thoáng nhất định về mặt
thủ tục cho hoạt động kinh doanh, tránh nhiêu khê, lòng vòng.
143
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực trong các ngành kinh doanh khai
thác các giá trị văn hoá
Hoạt động kinh doanh khai thác các giá trị văn hoá không thể đạt hiệu quả
cao nếu như không có một nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng đứng ra đảm trách.
Đối với các hoạt động kinh doanh văn hoá, người đứng ra kinh doanh cần phải có
sự am hiểu về văn hoá, hơn thế phải có tình cảm trân trọng với các giá trị văn hoá
này. Nếu không, chỉ là hoạt động thu lợi thông thường, thì sớm muộn các giá trị
văn hoá cũng sẽ bị huỷ hoại vì những lợi ích kinh tế trước mắt.
Cần có các đề án về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có khả năng khai
thác được giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong kinh doanh. Như đào tạo công
nhân kỹ thuật dệt may thổ cẩm, kỹ thuật cắt may trang phục truyền thống cho
người dân tộc thiểu số. Để có thể tạo ra các trang phục, phụ kiện trên chất liệu
thổ cẩm bán cho du khách. Đào tạo các đoàn biểu diễn cồng chiêng, hát sử thi
chuyên nghiệp, để thực hiện biểu diễn tại nhà rông, nhà dài, nhằm mang đến
trải nghiệm văn hoá cho khách du lịch. Bên cạnh đó, cần đào tạo năng lực
quản lý hoạt động kinh doanh khai thác giá trị văn hoá cho nhân viên các sở
ban ngành văn hoá. Song song với hoạt động đào tạo mới, cần chú ý đào tạo
lại nguồn nhân lực tại chỗ, để cập nhật những kiến thức mới cho hệ thống cán
bộ làm công tác quản lý. Bên cạnh các kiến thức chuyên môn, cần nâng cao
văn hoá kinh doanh cho nguồn nhân lực, như sự minh bạch giá cả, cạnh tranh
công bằng, không chèo kéo khách, không dùng các thủ đoạn để bôi xấu các cơ
sở kinh doanh khác, để mang đến môi trường kinh doanh có văn hoá, nhân
văn, bền vững cho vùng.
Thứ ba, tích cực áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào
kinh doanh khai thác các giá trị văn hoá
Sự phát triển cùng với những ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đến mọi mặt của đời sống, là một xu thế tất yếu. Vì vậy, trong hoạt
động kinh doanh khai thác các giá trị văn hoá, cần phải biết kế thừa các thành
144
tựu của khoa học kỹ thuật vào trong tổ chức, quản lý và vận hành. Đặc biệt là
trong công tác lưu giữ và phổ biến các giá trị đó trên nền tảng kỹ thuật số, như
mở các trang web, trên đó phổ biến tất cả các hình ảnh, các thước phim về sinh
hoạt văn hoá của người đồng bào. Là các buổi biểu diễn cồng chiêng, các buổi
hát khan, các bản nhạc, cách dệt may trang phục, cách chế tác đồ thủ công, ẩm
thực các dân tộc, các bài sử thi được quay dựng lại để không bị thất truyền.
Nhờ đó dễ dàng phổ biến những mặt tích cực, tiến bộ của các giá trị đó ra cộng
đồng. Điều này giúp cho công tác quản lý được thuận lợi, hiệu quả hơn. Các bộ
phận chuyên trách có thể thường xuyên cập nhật tình hình, nguồn thu nhập, dấu
hiệu xuống cấp của di sản và các biểu hiện làm sai quy chế. Nhờ đó hoạt động
kinh doanh các giá trị văn hoá sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
Nhờ hệ thống công nghệ, có thể kết hợp liên vùng, liên tỉnh trong vận
hành bộ máy tổ chức kinh doanh các giá trị văn hoá. Điều này giúp tiết kiệm
chi phí về nhân công, đi lại, mà hiệu quả thu lại lại cao hơn, có quy chuẩn hơn.
Mặt khác, trên nền tảng công nghệ, có thể dễ dàng thu được các phản hồi từ
các hoạt động kinh doanh, để nhanh chóng rút kinh nghiệm, sửa chữa những
sai sót, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện, thúc đẩy hoạt động kinh
doanh khai thác các giá trị văn hoá ở Tây Nguyên ngày càng trở nên chuyên
nghiệp, khai thác hiệu quả các thế mạnh của vùng.
Thứ tư, xây dựng các mô hình du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch
trải nghiệm
Ngày nay, cùng với sự phát triển ngày càng cao của các tiện ích xã hội,
du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái trở nên đặc biệt thu hút đối với phần
đông du khách. Dựa trên những thế mạnh về khí hậu, địa hình và kho tàng
văn hoá đồ sộ, Tây Nguyên trở thành một điểm đến yêu thích của du khách
trong nước và quốc tế. Vùng cần có chủ trương quy hoạch các vùng du lịch
sinh thái, du lịch trải nghiệm về văn hoá, phong tục, tập quán.
145
Về du lịch sinh thái, đây được xem là loại hình du lịch dựa vào các thế
mạnh của tự nhiên và văn hoá của địa phương. Du lịch sinh thái được xây
dựng trên cơ sở tôn trọng môi trường sống, môi trường văn hoá, để du khách
khi đến đây có thể được thoải mái tận hưởng, thưởng ngoạn những gì nguyên
vẹn nhất của cơ sở du lịch. Hình thức du lịch này không xâm phạm, huỷ hoại
môi trường, môi sinh, có thể đảm bảo cho phát triển bền vững. Với địa hình
đồi núi, khí hậu dễ chịu cùng hệ thống rừng nguyên sinh và kho tàng văn hoá
đa sắc màu, Tây Nguyên chứa đựng nhiều thế mạnh, để phát triển thành công
mô hình du lịch này trên diện rộng.
Còn du lịch trải nghiệm, vượt qua các hình thức thưởng ngoạn thông
thường, cũng khác với các hình thức du lịch nghỉ ngơi truyền thống. Nó trở
thành một xu thế của ngành du lịch hiện nay. Ở đó, du khách được cùng ăn ở,
sinh hoạt, hoà mình vào trong cuộc sống thường ngày của người dân địa
phương. Họ sẽ được tự tay nấu những món ăn mang đặc trưng ẩm thực bản
địa, tự tay ủ rượu, sửa soạn cho lễ hội, trở thành một phần trong các hoạt động
văn hoá đó. Bên cạnh sự đa dạng phong phú, thì sự bí ẩn là điều được nói đến
nhiều nhất khi nhắc về văn hoá Tây Nguyên. Đẩy mạnh phát triển mảng du
lịch này, sẽ giúp cho các giá văn hoá truyền thống được sống trong nhịp sống
hiện đại, tạo tiền đề để quá trình phát huy giá trị văn hoá trong phát triển bền
vững Tây Nguyên đạt được hiệu quả cao nhất.
Thứ năm, tiến hành điện ảnh hoá, sân khấu hoá các trường ca, sử thi các
sinh hoạt văn hoá của người Tây Nguyên, để cộng đồng các dân tộc khác
trong cả nước và thế giới có cơ hội được tiếp xúc với những điều nhân văn,
đẹp đẽ của nền văn hoá đó. Thông qua ngành công nghiệp điện ảnh để quảng
bá hình ảnh, con người và tập tục tốt đẹp của người dân tộc thiểu số Tây
Nguyên. Nhờ đó, một mặt thoả mãn được sự tò mò khám phá, đồng thời sẽ
thu hút ngày càng nhiều du khách, thúc đẩy phát triển ngành du lịch của vùng.
Đồng thời, theo xu thế chung của khán giả hiện nay, những giá trị văn hoá
146
truyền thống Tây Nguyên nếu được khai thác, phản ánh sinh động, sẽ thu hút
một lượng tiếp cận, theo dõi đông đảo từ cả nước và quốc tế.
Bên cạnh đó cần tiến hành sân khấu hoá, qua các loại hình nghệ thuật
như cải lương, kịch nói, tuồng… Để các nghệ sỹ xây dựng, tái hiện các câu
chuyện lịch sử, các thiên anh hùng ca của người Tây Nguyên đến với cộng
đồng. Có thể kết hợp biểu diễn cồng chiêng, sử thi, trang phục truyền thống
với các loại hình nghệ thuật đặc thù sân khấu. Như hình tượng các vị vua nhà
Lê, nhà Trần đã được Nhà hát Cải lương Việt Nam tái hiện rất thành công,
thành các vở Vua thánh triều Lê, Cung Phi điểm bích… gây tiếng vang lớn
trong cộng đồng, khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc.
Những tác phẩm đã được điện ảnh hoá, sân khấu hoá còn có thể phát
hành qua các kênh trên mạng xã hội. Với tiềm lực về hạ tầng viễn thông, tỉ lệ
người dùng internet ngày càng phổ biến, thì đây là một kênh quảng bá có hiệu
quả về cả tốc độ truyền tin và mật độ phủ sóng. Chỉ cần chăm chút cho hình
ảnh và nội dung, chắc chắn các tác phẩm về giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
Tây Nguyên sẽ nhận được sự đón nhận từ cộng đồng.
Thứ sáu, có định hướng để thị trường hoá sản phẩm văn hoá, phát triển
công nghiệp văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Công nghiệp văn hoá là sự đầu tư các ngành kinh tế nhằm khai thác, sử
dụng có hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa văn hoá. Đây là một xu
thế phát triển bao trùm của ngành văn hoá trên thế giới từ giữa thế kỷ XX.
Hoạt động này sẽ kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật khai thác hiện đại với các
hoạt động văn hoá của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Để quảng bá, phổ
biến rộng rãi nền văn hoá đó ra bên ngoài, qua đó mang lại nguồn thu ngân
sách, nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
Cần có chiến lược quảng bá thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ,
kiến trúc của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Thông qua các hội chợ, các
liên hoan văn hoá Quốc tế và khu vực để mở các gian trưng bày, có các buổi
147
biểu diễn của các nghệ nhân lành nghề. Sử dụng văn hoá nghệ thuật dân tộc
thiểu số Tây Nguyên vào các sự kiện ngoại giao, để cộng đồng Quốc tế biết
đến nền văn hoá độc đáo, khác lạ này. Mở rộng các hoạt động giao lưu của sinh
viên vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên với các trường đại học trên thế giới về
văn hoá, để qua các hoạt động của họ, nền văn hoá truyền thống Tây Nguyên
được biết đến rộng rãi hơn, để lại ấn tượng tốt đẹp trong mắt bạn bè Quốc tế.
Cùng với phát triển ngành du lịch, đẩy mạnh đầu tư vào các giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Biến những giá trị đó thành những thế mạnh riêng
biệt, tạo nên thương hiệu của ngành du lịch Tây Nguyên. Đồng thời, kết hợp với
các công ty lữ hành, thiết lập các lộ trình du lịch văn hoá, sinh thái ở Tây Nguyên.
Để du khách trên mỗi hành trình của mình, sẽ được trải nghiệm nền văn hoá đa
sắc của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Dọc hành trình đó, sẽ bố trí chỗ nghỉ
ngơi (trong nhà sàn), ăn uống (bằng ẩm thực của người dân tộc thiểu số). Mặt
khác, nhằm đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, hướng tới giảm doanh thu từ lưu trú,
ăn uống, đồng thời tăng doanh thu từ dịch vụ. Như dịch vụ nhà hàng, khách sạn,
dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ cho thuê địa điểm chụp ảnh, tổ chức sự kiện,
dịch vụ vận tải… Nếu vận hành tốt, đây sẽ là một nguồn thu bền vững, để quay
trở lại đầu tư để phát triển văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
4.3.2 Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng việc kết hợp những giá
trị trong thể chế quản lý xã hội của các cộng đồng dân tộc thiểu số với
nâng cao dân chủ kỷ cương trong mọi hoạt động xã hội
Thứ nhất, kết hợp giá trị luật tục với chế định pháp luật trong vận hành,
quản lý xã hội
Có thể khẳng định, xã hội Tây Nguyên truyền thống vận hành ổn định
được là nhờ vào luật tục. Luật tục Tây Nguyên đã thể hiện được tính dân chủ
trong xử kiện. Người xử kiện không được phép lạm dụng quyền lực để xử
phạt quá mức mà luật tục đã quy định, nếu không dân làng và người chịu phạt
đều được quyền phản đối. Từ trong sâu thẳm của người đồng bào dân tộc
148
thiểu số Tây Nguyên, thiết chế buôn làng tự quản vẫn là yếu tố phát huy được
nhiều vai trò tích cực. Xã hội vận hành trong một trật tự định sẵn, người đồng
bào tuân thủ những quy định trong luật tục, trên cơ sở thực hiện các hoạt động
sinh kế và văn hóa quen thuộc của mình. Cần thông qua việc phát huy vai trò
tự quản của cộng đồng, xây dựng sức mạnh tổng hợp của cộng đồng dân tộc
thiểu số tại Tây Nguyên.
Do đó, những chính sách, luật định được đưa ra tại vùng dân tộc thiểu số
Tây Nguyên đặc biệt cần tham khảo luật tục truyền thống, lắng nghe ý kiến
của già làng, trí thức dân gian và những người phụ nữ ở đây. Trên cơ sở đó,
kế thừa những thắng lợi của thiết chế quản lý xã hội bằng luật tục và già làng
từ trước đến nay. Đó là những điều luật đặt ra phải xuất phát từ những đòi hỏi
của cuộc sống, gần gũi, dễ hiểu, dễ truyền tải, dễ nhớ, dễ thuộc. Người thực
thi pháp luật phải là người mẫu mực, có phẩm chất, đạo đức, cùng chia sẻ khó
khăn, gánh vác trách nhiệm với họ, thì chắc chắn sẽ là người tạo dựng được
tiếng nói trong lòng người dân tộc thiểu số. Nên ưu tiên đào tạo nguồn cán bộ
thực thi pháp luật là người dân tộc thiểu số, bởi họ là người sẽ dễ dàng nắm
bắt được cuộc sống của dân, vừa có kiến thức về luật tục lại được đào tạo
pháp luật bài bản, sẽ quay trở về phục vụ có hiệu quả cho đồng bào của họ.
Đặc biệt, trong những vụ việc mà có sự giao thoa giữa luật tục và luật pháp,
thì cần tham khảo các nội dung, quy định của luật tục để giải quyết, để người
đồng bào thấy được sự trân trọng phong tục tập quán họ từ phía chính quyền,
từ đó tự điều chỉnh hành vi của mình.
Ở Tây Nguyên do tính đặc thù của mình, đến nay vẫn tồn tại song song
giữa vai trò của luật tục và luật pháp, giữa già làng và cơ quan hành pháp. Do
đó cần có chính sách cụ thể đối với già làng ở đây. Để già làng không đơn
thuần tồn tại như những trí thức dân gian truyền thống nữa, thì cần căn cứ vào
nguyện vọng của họ, có công tác đào tạo, nâng cao trình độ để làm tốt hơn
công việc của mình. Dựa vào việc tổng kết thực tiễn, tổ chức nhân rộng
149
những tấm gương điển hình. Đồng thời cần có những chính sách hợp lý với
họ, tránh việc để họ còn giữ tâm lý “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” mà làm
việc qua loa theo sở thích, không có trách nhiệm thực sự đối với việc phát
triển văn hóa cộng đồng.
Dù chế độ mẫu hệ đã không còn phổ biến tại các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, nhưng người phụ nữ ở đây vẫn thể hiện những vai trò quan trọng đối
với việc phát triển của mỗi gia đình và cộng đồng. Cần có các chính sách giúp
phát triển cuộc sống, nhận thức của người phụ nữ dân tộc thiểu số Tây
Nguyên. Bởi phụ nữ vẫn là gốc rễ của mỗi con người, là yếu tố cốt lõi của
giáo dục gia đình, từ đó đào tạo lớp kế cận cho tương lai của xã hội. Khi
người phụ nữ làm chủ được cuộc sống của mình, có nhận thức tiến bộ, ý thức
được vai trò của văn hóa dân tộc thiểu số đối với cuộc sống của họ, thì sẽ
ươm mầm những tư tưởng đó vào con, cháu của mình. Hình thành nên một sự
giáo dục sớm, lâu dài và có hiệu quả cao. Xây dựng chính sách cho người phụ
nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên dựa trên nền chung của phụ nữ Việt Nam,
nhưng phải tôn trọng khác biệt, tận dụng những khác biệt để mang lại hiệu
quả lâu dài cho phát triển bền vững Tây Nguyên.
Khi xã hội được vận hành ổn định, sẽ là yếu tố nền tảng góp phần giải
quyết các mâu thuẫn, các tiêu cực trong xã hội. Từ đó thúc đẩy ổn định an
ninh chính trị, an ninh quốc phòng cho Tây Nguyên.
Thứ hai, phát huy các giá trị dân chủ công bằng trong luật tục, tập quán
vào trong giải quyết các vấn đề xã hội
Trong giải quyết các vấn đề xã hội ở địa phương, cần phải đảm bảo công
bằng, dân chủ với tất cả người dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đều được
hưởng những quyền lợi giống nhau trong khuôn khổ luật định. Công bằng là yếu
tố đặc biệt quan trọng trong duy trì ổn định xã hội, bởi thực tế đến nay vẫn có các
đối tượng muốn chia rẽ sự đoàn kết trong mối quan hệ giữa người Kinh và người
thượng, giữa người có tôn giáo và không có tôn giáo ở Tây Nguyên. Để không có
150
kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng chia rẽ, và đảm bảo một môi trường văn hoá lành mạnh
tích cực cho người dân, cần đảm bảo công bằng, trên cơ sở tôn trọng phong tục
tập quán của người dân địa phương, để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Bên cạnh đó, công bằng còn được hiểu rộng ra là sự chăm lo đến tất cả
các đối tượng trong xã hội. Cần thực hiện chăm lo đến người già, phụ nữ, trẻ
em, người nghèo, người yếu thế trong cộng đồng. Để trong quá trình phát
triển, họ không bị bỏ lại phía sau, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và
chênh lệch mức hưởng thụ cuộc sống của người dân. Bởi mức sống của nhóm
người già, phụ nữ, trẻ em và người yếu thế được xem như là thước đo về sự
văn minh, phát triển của một cộng đồng.
Bộ máy chính quyền ở địa phương cần tôn trọng người dân, phụng sự
nhân dân, bảo vệ cho sự an toàn của họ. Tránh thái độ cửa quyền, quan liêu,
vòi vĩnh, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân về các chủ trương chính
sách để trục lợi khi giải quyết các thủ tục hành chính. Nhờ đó, người dân ngày
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tập trung vào xây dựng cuộc sống
ngày càng no ấm hơn, hạnh phúc. Khi chất lượng cuộc sống được đảm bảo,
người dân tộc thiểu số có thể duy trì những tập tục tốt đẹp của mình trong
sinh hoạt, lễ nghi, cũng không dễ bị các tác động xấu từ bên ngoài vào làm
lung lạc, ảnh hưởng. Nhờ đó, họ tiếp tục sáng tạo ra các giá trị văn hoá mới,
đồng thời có cơ hội để hưởng thụ các thành quả của quá trình phát huy giá trị
văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
4.3.3. Xây dựng thiết chế văn hoá nhằm phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
Thứ nhất, tăng cường đầu tư xây dựng và nâng cao hiệu quả khai thác, sử
dụng cơ sở vật chất văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Ở Tây Nguyên, thiết chế cơ sở vật chất văn hóa là hệ thống nhà rông,
nhà dài, bảo tàng, nhà văn hóa, thư viện, phòng đọc, tủ sách, sân vận động,
vườn hoa, công viên… Đây chính là những nơi để cho đồng bào dân cư tham
151
gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, học tập nâng cao trình độ, thể chất,
thưởng thức các giá trị văn hoá, đồng thời cũng là nơi để họ gìn giữ, bồi đắp,
dung dưỡng, sáng tạo, làm giàu hơn văn hóa truyền thống dân tộc mình. Do
đó, cần phải quan tâm đúng mực, đầu tư xây dựng và có cơ chế vận hành hiệu
quả cơ sở vật chất văn hóa, để cho cộng đồng dân cư được duy trì các sinh
hoạt văn hóa của mình.
Vừa phải ưu tiên đầu tư mạnh việc mở rộng xây dựng các cơ sở vật chất
văn hoá, vừa phải tích cực bảo quản, sửa chữa kéo dài tuổi thọ cho các công
trình. Trong quá trình xây dựng, khôi phục nhà rông, nhà dài, phải quan tâm
đến chất lượng của công trình. Chất lượng của nhà rông, nhà dài không chỉ là
sự đồ sộ, kiên cố, có khả năng che nắng che mưa, mà là sự thiêng hóa trong
quá trình xây dựng. Từ khâu chọn đất, chọn gỗ, đến mỗi chi tiết hoa văn bố trí
trong nhà rông đều phải được chọn lựa kỹ lưỡng, có lễ cúng thần linh. Để
người đồng bào thực sự tôn trọng, kính ngưỡng và thường xuyên đến đó để
thực hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Giải quyết hài hoà giữa nguyên
liệu truyền thống, như gỗ với nguyên liệu tiện ích hiện đại như bê tông, cốt
thép, nhằm hạn chế việc người đồng bào trở nên xa lạ với chính những công
trình mang tính biểu tượng văn hoá của họ.
Bên cạnh ngân sách của nhà nước, có thể vận động nguồn lực từ nhiều
thành phần xã hội. Đó là các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có tâm huyết với
văn hóa Tây Nguyên. Hơn hết là vận động được sức dân, khuyến khích họ
tham gia vào quá trình xây dựng và vận hành nhà rông, nhà dài, thư viện, nhà
văn hoá... Tránh việc công trình xây dựng xong lại không được người đồng
bào - chủ thể văn hóa Tây Nguyên đón nhận, sử dụng.
Xây dựng thiết chế cơ sở vật chất văn hóa, phải xuất phát từ những nhu
cầu, đòi hỏi của thực tiễn, để có sự đầu tư hợp lý, đúng hướng. Trong quá
trình lập kế hoạch và triển khai xây dựng, khôi phục các cơ sở vật chất văn
hóa cần tham khảo ý kiến của nhóm người có uy tín trong cộng đồng tại các
152
dân tộc thiểu số. Qua đó, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người dân,
xây dựng những công trình có giá trị thực tiễn.
Muốn nâng cao được hiệu quả sử dụng của các cơ sở vật chất văn hoá,
phải xây dựng nhiều chương trình sinh hoạt văn hóa truyền thống như trình
diễn cồng chiêng, đàn đá, kể sử thi… để thu hút người đồng bào đến đây sinh
hoạt. Qua đó có thể kết hợp truyền dạy các giá trị văn hoá truyền thống đến
người đồng bào, đặc biệt là nhóm người trẻ.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên
Phải thực hiện bồi dưỡng, nâng cao năng lực, hướng dẫn hoạt động cụ
thể và có một chính sách hợp lý cho đội ngũ cán bộ văn hóa ở xã, thôn, bản.
Bởi đây là lực lượng có thể phát động phong trào quần chúng ở các địa bàn cơ
sở, là cầu nối của chính quyền các cấp với nhân dân, nhờ họ, thông qua họ có
thể đảm bảo hoạt động văn hóa tại địa phương đang đi đúng hướng, không bị
lợi dụng bởi các cá nhân tổ chức bên ngoài.
Thiết chế tổ chức vận hành văn hóa là toàn bộ các sở ban ngành về văn
hóa, nghệ thuật, thể thao… cùng bộ máy vận hành nơi đây. Để nâng cao hiệu
quả của bộ máy quản lý, cần có các biện pháp sau: Một là, minh bạch trong
tuyển dụng, ưu tiên chọn người tài, có năng lực, có trình độ, được đào tạo
bài bản về công tác văn hóa, quản lý văn hóa ở những cơ sở đào tạo uy tín
về phụ trách công việc; Hai là, trong suốt quá trình công tác, có sự giám sát
kỹ lưỡng, công tâm, để điều chỉnh, cất nhắc những người có năng lực làm
việc tốt, mang lại hiệu quả công việc cao lên những vị trí phù hợp, tránh
lãng phí tài nguyên; Ba là, với một số công tác đặc thù, ưu tiên tuyển những
trí thức người dân tộc thiểu số tại chỗ, bởi họ là người có quan hệ máu thịt
với những giá trị văn hóa truyền thống nơi đây, bằng hiểu biết của mình lực
lượng này sẽ tận tâm gìn giữ những thành trì văn hóa mà ông cha họ đã dày
công xây dựng; Bốn là, có chính sách tiền lương, phụ cấp hỗ trợ hợp lý, đảm
bảo cuộc sống cho cán bộ; Năm là, có chính sách thanh kiểm tra, giám sát
153
bởi lực lượng chuyên trách và chính nhân dân. Bởi đây là một địa bàn chiến
lược trọng yếu của quốc gia, có rất nhiều cá nhân, tổ chức sẵn sàng mua
chuộc cán bộ, lôi kéo họ tham gia vào những hoạt động hủy hoại văn hóa về
lâu về dài. Cài cắm người của địch làm gián điệp văn hóa để âm thầm thông
qua hoạt động của mình, thông qua văn hóa thực hiện các mưu đồ kinh tế,
chính trị, an ninh quốc gia.
4.3.4. Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, đồng bộ để
phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên có hiệu quả
Thứ nhất, xây dựng các mối quan hệ xã hội hài hoà ở cộng đồng dân tộc
thiểu số Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn có sự phong phú về tộc người và tôn giáo, điều
này một mặt tạo nên sự đa dạng văn hoá, mặt khác dễ làm nảy sinh các mâu
thuẫn xã hội. Điển hình như mâu thuẫn giữa người Thượng và người Kinh,
mâu thuẫn giữa các tộc người cùng chung sống tại Tây Nguyên, mâu thuẫn
giữa người có theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, mâu thuẫn giữa các
tôn giáo với nhau. Vì vậy cần phải thực hiện xây dựng mối quan hệ xã hội hài
hoà, công bằng ở Tây Nguyên.
Phải tiến hành các hoạt động giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cùng
chung sống tại Tây Nguyên, để cho các dân tộc hiểu hơn về văn hoá của nhau,
từ đó có thể chung sống hoà thuận. Như các ngày hội, các ngày tết cổ truyền
dân tộc, các lễ lớn của các tộc người, để các dân tộc khác được tham gia các
hoạt động văn hoá tiêu biểu của dân tộc mình.
Thứ hai, xây dựng lối sống lành mạnh, khắc phục các tệ nạn xã hội, mê
tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo
Muốn có được môi trường văn hoá cơ sở lành mạnh và đồng bộ, cần
phải xây dựng lối sống lành mạnh, tích cực ở địa phương. Khuyến khích
người dân tham gia các hoạt động thể dục thể thao để nâng cao sức khoẻ.
154
Thực hiện tuyên truyền cho họ thấy được tác hại của việc huỷ hoại môi
trường sống, để người đồng bào trong các hoạt động sống có ý thức bảo
vệ môi trường. Thành lập các câu lạc bộ thể thao, câu lạc bộ văn hoá, văn
nghệ tại các buôn làng, xã, thị trấn, để người dân được tham gia các hoạt
động sống tích cực. Cùng với đó, đẩy mạnh các phong trào thể dục, thể
thao trong quần chúng.
Định hướng người dân tránh xa các tệ nạn xã hội, như ma tuý, rượu
chè, bài bạc, buôn lậu, vượt biên trái phép… Tích cực bài trừ mê tín dị
đoan, cúng bái, ma chay cưới hỏi quá rườm rà, gây lãng phí thời gian và
kinh tế người đồng bào. Có thể triển khai thông qua các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến chính sách, tạo các sân chơi bổ ích lành mạnh. Tuyên
truyền để người đồng bào biết được sự nguy hiểm của ma tuý, từ đó chủ
động tránh xa các cám dỗ, lôi kéo từ bên ngoài. Liên kết với các bệnh viện,
trung tâm y tế, các tổ chức phi chính phủ để khám chữa bệnh cho đồng bào
vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, để người dân tin tưởng vào khoa học,
tránh xa các hủ tục cúng bái trong chữa bệnh. Bởi đến nay, một số vùng
sâu, vùng xa, bà con dân tộc thiểu số vẫn còn giữ những hình thức chữa
bệnh nặng về mê tín, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sức khoẻ
và tính mạng của họ. Hướng người đồng bào thực hiện chính sách hôn
nhân một vợ một chồng, tập trung chăm lo nuôi dạy con cái.
Thứ ba, xây dựng các chuẩn mực văn hoá trong cộng đồng, phum sóc,
thôn bản
Chính quyền các cấp cần phối hợp với những người có uy tín trong
cộng đồng, các đoàn thể để xây dựng các chuẩn mực văn hoá, ứng xử, đặc
biệt là ở các không gian văn hoá chung của buôn làng. Bởi cùng với sự
phát triển du lịch trong thời kỳ hội nhập, cuộc sống của người đồng bào sẽ
không còn ở trong những khuôn viên khép kín, biệt lập như trước nữa.
155
Những ứng xử của người dân tộc thiểu số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của hoạt động du lịch, trải nghiệm văn hoá trên địa bàn. Nếu không
có bộ khung về ứng xử, có nhiều hành động bộc phát có thể ảnh hưởng
đến diện mạo của vùng, thậm chí là diện mạo của quốc gia khi du khách
đến từ nước ngoài.
Có các chuẩn mực về ứng xử sẽ tạo nên một cộng đồng có lối sống
chan hoà, thân ái. Đặc biệt là ở các không gian văn hoá chung, nếu người
dân có thái độ ứng xử hoà nhã, nhân văn, chân tình gần gũi, thì mỗi người
dân đều trở thành một đại sứ văn hoá của dân tộc mình, nhờ đó sẽ mang
đến tình cảm cho du khách. Môi trường văn hoá đó sẽ tạo sự yên tâm,
thoải mái cho du khách trong thời gian ở đây và họ sẽ còn muốn quay trở
lại, điều này đảm bảo cho ngành du lịch của vùng ngày càng phát triển,
đảm bảo phát huy có hiệu quả các giá trị văn hoá vào trong phát triển bền
vững Tây Nguyên.
156
Kết luận chương 4
Văn hoá dân tộc thiểu số có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến phát
triển bền vững Tây Nguyên. Để khai thác được các tiềm năng văn hoá đang
ngủ quên, đánh thức và phát huy có hiệu quả nó vào trong thực tiễn phát triển
bền vững Tây Nguyên cần phải có những nhóm giải pháp sau:
Để phát huy có hiệu quả vai trò của giá trị văn hoá dân tộc thiểu số
trong phát triển bền vững Tây Nguyên cần nâng cao trách nhiệm và năng lực
của các chủ thể, cụ thể là nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ chức
Đảng, chính quyền và người dân tộc thiểu số đối với phát huy giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Để từ đó các tổ chức
Đảng có thể đề ra chủ trương, chính sách, nghị quyết lãnh đạo quá trình phát
huy. Hệ thống chính quyền sẽ có các kế hoạch, chương trình, chính sách,
pháp luật phù hợp thực hiện quá trình phát huy đó. Đồng bào người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên sẽ hiểu rõ giá trị văn hoá dân tộc mình, từ đó nuôi
dưỡng lòng tự hào, thúc đẩy họ tham gia vào quá trình phát huy giá trị văn
hoá dân tộc mình vào trong thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, cần phải tiến hành bảo tồn và phát triển giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số Tây Nguyên, thông qua các hoạt động cụ thể để bảo tồn, kế
thừa các giá trị tốt đẹp, nhân văn, gạn lọc, loại bỏ những gì phản giá trị, phản
văn hoá, mê tín dị đoan, kìm hãm quá trình phát triển. Đồng thời phát triển
các giá trị mới phù hợp với xu hướng vận động của thời đại. Ngoài ra, cần đấu
tranh phê phán các quan điểm sai trái và các hoạt động chống phá của thế lực
thù địch, với quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên.
Đồng thời, phải nâng cao hiệu quả hoạt động định hướng giá trị văn hoá
dân tộc thiểu số vào thực tiễn phát triển bền vững Tây Nguyên. Thông qua các
hoạt động kinh doanh có thể khai thác được giá trị văn hoá, thông qua các thiết
chế văn hoá cộng đồng để điều chỉnh và quản lý các hoạt động văn hoá, thông qua
việc xây dựng môi trường văn hoá cơ sở lành mạnh, để tạo tiền đề thuận lợi phát
huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
157
KẾT LUẬN
Hiện nay mặc dù chưa có một công trình cụ thể nào nghiên cứu chuyên
biệt về vấn đề phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên, nhưng đã có những công trình nghiên cứu những nội dung
liên quan. Những nội dung này là điều kiện, tiền đề quan trọng để tác giả đi
sâu vào nghiên cứu đề tài luận án. Cùng với đó, hoạt động nghiên cứu các
công trình, đề tài liên quan góp phần rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo để
hoàn thành luận án một cách thiết thực.
Luận án đã giải quyết được nội dung các khái niệm công cụ và trung
tâm: thực chất phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên. Nội dung các khái niệm như văn hóa, giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số Tây Nguyên; khái niệm về dân tộc thiểu số Tây Nguyên được
khái quát và luận giải một cách cụ thể. Trên cơ sở nội dung trên, phát huy giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên phản ánh,
khái quát mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa với mục tiêu, nội dung phát
triển có tính đặc thù cụ thể. Mối quan hệ đó trong trạng thái vận động, phát
triển và liên tục phải giải quyết những khó khăn, phức tạp - mà cụ thể là chiến
thắng các lực cản từ chủ quan và khách quan, đồng thời tạo động lực cho
những giá trị được phát huy tối đa trong phát triển bền vững Tây Nguyên.
Phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây
Nguyên là một quá trình chịu sự quy định của năng lực và trách nhiệm của các
chủ thể trong nhận thức và thực tiễn; phụ thuộc vào chất lượng công tác bảo tồn
và phát triển giá trị văn hóa dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong thời kỳ mới; chịu
sự tác động của hiệu quả các hoạt động định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu
số trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và môi trường Tây Nguyên. Mỗi mặt
trên thống nhất ở cách tiếp cận và luận giải vai trò ở định hướng, nội dung, động
lực bảo đảm cho phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển
bền vững Tây Nguyên. Nó được hiểu như cơ sở, tiền đề, điều kiện cho phát huy
giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững có tính đặc thù cụ thể.
158
Luận án đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế từng mặt của phát huy một
cách cụ thể. Trước hết, các chủ thể đã có nhận thức tương đối đầy đủ về phát
huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Đã
bảo tồn và phát triển được những giá trị văn hoá cốt lõi của vùng. Đồng thời,
định hướng có hiệu quả các giá trị đó vào trong thực tiễn phát triển bền vững
Tây Nguyên. Tuy nhiên, cũng gặp phải những hạn chế nhất định, như một bộ
phận các chủ thể còn có nhận thức chưa được đúng đắn, quá trình bảo tồn,
phát triển nhiều nơi chỉ giải quyết được bề nổi, mà chưa đi vào phần cốt lõi
của các giá trị văn hoá. Trong hoạt động định hướng các giá trị văn hoá vào
trong thực tiễn phát triển bền vững, còn chưa khai thác hết các thế mạnh vốn
có của nền văn hoá phong phú, giàu có này.
Những ưu điểm, hạn chế trên có những nguyên nhân khách quan và chủ
quan cụ thể. Trong đó, nổi bật nhất là nguyên nhân chủ quan của các chủ thể.
Hiện tại cũng như thời gian tới, nhưng khó khăn, thách thức vẫn còn. Nhưng
nhìn chung, từng bước phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên ngày càng đi vào quỹ đạo.
Để phát huy các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào trong phát triển bền
vững Tây Nguyên có hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ và nhất quán hệ thống
giải pháp. Ở đây, luận án tập trung vào ba nhóm giải pháp cụ thể: nâng cao
trách nhiệm và năng lực của các chủ thể đối với phát huy giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay; nâng cao chất
lượng hoạt động bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong
phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay; nâng cao hiệu quả các hoạt động
định hướng giá trị văn hoá dân tộc thiểu số vào thực tiễn phát triển bền vững
Tây Nguyên. Mỗi giải pháp được luận giải gắn với từng chủ thể thực hiện các
mục tiêu, nội dung cụ thể trong tính chỉnh thể thống nhất. Mặc dù có sự khác
nhau, nhưng thống nhất ở nội dung tạo ra phong trào quần chúng cách mạng
sâu rộng thực hiện phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát
triển bền vững Tây Nguyên hiện nay.
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Mai Thị Trang (2016), “Lễ hội truyền thống trong đời sống văn hóa của
người Tây Nguyên”, Tạp chí Lý luận Chính trị và truyền thông, số
tháng 4 năm 2016, tr. 69-72.
2. Mai Thị Trang (2016), “Bảo vệ rừng trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Tây Nguyên”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số (243), tr. 70-73.
3. Mai Thị Trang (2018), “Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng trong giai
đoạn hiện nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số (408), tr. 61-63.
4. Mai Thị Trang (2019), “Giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống để phát
triển bền vững Tây Nguyên hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số
đặc biệt kỳ 2, tr. 301-304.
5. Mai Thị Trang (2020), “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hoá
của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
(431), tr. 56-58.
6. Mai Thị Trang (2020), “Phát triển bền vững các giá trị văn hoá truyền
thống của đồng bào dân tộc thiểu số: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí
Giáo dục lý luận, số (307), tr. 53-59.
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2013) Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
2. Anne, Dehauteclocque (2004), Người Êđê một xã hội mẫu quyền, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương (2016), Chỉ thị 05-CT/TW Về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, ngày
15/5/2016.
4. Ban chỉ đạo Tây Nguyên (2016), Giá trị văn hóa truyền thống Tây Nguyên
với phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
5. “Bản Thỉnh nguyện của Đại hội các sắc tộc thiểu số toàn quốc về quy chế
riêng biệt cho đồng bào thiểu số”, Đại hội các sắc tộc Thiểu số Việt
Nam tại Pleiku ngày 25 và 26/6/1967.
6. Vũ Văn Bách (2019), Phát triển hệ giá trị văn hóa của thanh niên quân đội
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (2010), “Thanh niên với việc chọn nghề để lập thân, lập
nghiệp”, Tạp chí Cộng sản, số (809), tr. 22-25.
8. Báo Nhân dân (2008), Sử thi Tây Nguyên trước nguy cơ thất truyền, ngày
17/3/2008, Hà Nội
9. Báo Biên phòng (2012), Tà đạo Hà Mòn và những hệ luỵ, ngày 03/10/2012.
9. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên), (2008), Sự biến đổi của các giá trị văn hóa
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, Nxb
Từ điển bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
10. Phan Văn Bé (1993), Tây Nguyên sử lược, tập 1 (từ thời nguyên thuỷ đến
Cách mạng tháng Tám 1945), Hội giáo dục Lịch sử (thuộc Hội Sử học
Việt Nam), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Trương Bi, Kna Y Wơn (2002), Sử thi Dăm Tiông, Sở Văn hóa - Thông
tin Đắk Lắk.
161
12. Trương Bi, Y Wơn (2003), Đăm Trao Đăm Rao, Sử thi Êđê Mdhur, Sở
Văn hóa - Thông tin Đắk Lắk.
13. Trương Bi, Bùi Minh Vũ, Điểu Kâu (2003), Tiăng Tăch Krăk (chàng
Tiăng bán tượng gỗ), Sử thi M’nông, Sở Văn hóa - Thông tin Đắk Lắk.
14. Trương Bi (Chủ biên), Đỗ Hồng Kỳ, Nguyễn Văn Kha (2003), Văn học
dân gian Êđê - Mnông, Sở Văn hóa - Thông tin Đắk Lắk.
15. Trương Bi (2011), Lễ hội truyền thống dân tộc Ê Đê, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
16. Trương Bi (2019), Bảo tồn giá trị không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên,
Báo Đắk Lắk, ngày 14/02/2019.
17. Uông Thái Biểu (2019), Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại các
tỉnh Tây Nguyên, Báo Nhân dân, ngày 30/4/2019.
18. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên thực
trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đăm Bo (Jacques Dournes) (2003), Mảnh đất huyền ảo (các dân tộc miền
núi Nam Đông Dương), Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
20. Bộ Phát triển Sắc tộc, Văn kiện căn bản ấn định nguyên tắc và kế hoạch
thi hành chương trình cải cách điền địa liên quan đến đồng bào
Thượng, Sở Kiến điền ấn hành, tài liệu Trung tâm Dân tộc học và Tôn
giáo, Viện Khoa học xã hội tại Tp Hồ Chí Minh, Ký hiệu BV-093.
21. Bộ Phát triển Sắc tộc (1974), Thành quả công tác kiến điền Thượng, Sở
công tác Kiến điền năm 1974, tài liệu Trung tâm Dân tộc học và Tôn
giáo, Viện Khoa học xã hội tại Tp Hồ Chí Minh, Ký hiệu BV-087.
22. Bộ Quốc gia giáo dục (1957), Công văn số 18895/GD/VH ngày 19/9/1957
gửi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về việc tổ chức lớp dạy tiếng Việt
cho đồng bào Thượng tại Kon Tum và Pleiku, TL TTLTQG II, ký
hiệu: SC.12- HS.22977.
23. Bộ Văn hóa Thông tin (1994), Nếp sống - phong tục Tây Nguyên, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
162
24. Nguyễn Văn Cần (2015), “Những biến động về tín ngưỡng tôn giáo của
đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, tr.16-18.
25. Nguyễn Kỉnh Chi, Nguyễn Đổng Chi (1937), Mọi Kon Tum, Nxb Huế.
26. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb
Văn hóa dân tộc.
27. Đào Tử Chí (1959), Bài ca chàng Đam Săn, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
28. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì
mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, số (2), tr.5 -6.
29. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên), (2002), Giá
trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Phan Hữu Dật (2018), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Ngô Văn Doanh (1995), Lễ hội bỏ mả các dân tộc Bắc Tây Nguyên, Nxb
Văn hóa Dân tộc.
32. Trần Trí Dõi (2000), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
33. Jacques Dournes (2003), Miền đất huyền ảo, (Bản dịch của Nguyên Ngọc
từ nguyên tác Population montagnardes du Sud - Indochinoi công bố
năm 1950 trên tạp chí France-Asie), Nxb Hội nhà văn.
34. Trần Văn Dũng (2005), Những đặc điểm chính về địa danh ở Đắk Lắk,
Trường Đại học Sư phạm Vinh, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ.
35. Đặng Thị Phương Duyên (2015), Giá trị văn hóa truyền thống với sự phát
triển lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
36. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Viện Văn hóa và
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
163
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
40. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa, xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb
Khoa học Xã hội.
41. Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa
nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Phạm Duy Đức (2006), Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện
văn hóa, Hà Nội.
43. Echacdon (1987), Giá trị cuộc sống giá trị văn hóa, Nxb Sách giáo khoa
Mác-Lênin, Hà Nội.
44. Roy Ellen, Peter Parkes, Alan Bicker Đại học Kent, Canterbury, Vương
Quốc Anh (2010), Tri thức bản địa về môi trường và những biến đổi
Các quan điểm nhân học phê phán, Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Gainsborough, Martin (2009), edon the Borders of State Power: Frontiers
in the Greater Mekong Sub-region, New York, Routledge.
46. Vargyas Gasbor (2018), Bất chấp định mệnh - Văn hóa và phong tục tập
quán của người Bru - Vân Kiều, Nxb Dân trí, Hà Nội.
47. Cửu Long Giang, Toan Ánh (1974), Miền Thượng Cao nguyên Việt Nam,
Nxb Sài Gòn.
48. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.
49. Paul Guileminet (1952), La tribu Bahnar du Kon Tum (Pateaux
L'indochine central) B.E.F.E.O tập XIV.
50. Nguyễn Thanh Hải (2017), Phát huy vai trò thanh niên trong xây dựng
môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
164
51. Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 3 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Phú Văn Hẳn (Chủ biên), (2004), Tây Nguyên ngày nay, Nxb Văn hóa dân tộc.
53. Phú Văn Hẳn (2005), Đội ngũ công chức dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
Nxb Văn hóa Dân tộc
54. Phú Văn Hẳn (2005), Đời sống văn hóa và xã hội người Chăm Thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Dân tộc.
55. Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng - Vùng núi rừng cao nguyên
miền Trung Việt Nam (phần III), (dịch từ nguyên tác Les Jungles Moi),
Nxb Tri thức.
56. Hoàng Văn Hiến (1981), “Những nét độc đáo và những nét loại hình của
bài ca Đăm Săn như là một tác phẩm anh hùng ca”, Tạp chí Dân tộc
học, tr. 34-36.
57. Nguyễn Văn Hoàn (Chủ biên), Nguyễn Hữu Thấu, Hà Công Tài (1988),
Đăm Săn sử thi Êđê, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Lý luận dân tộc và quan
hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
59. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Văn hóa, đạo đức và
niềm tin xã hội trước yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
60. Phan Thị Hồng (2004), Đặc điểm nhóm sử thi dân tộc Bana (Kon Tum),
Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Tp Hồ
Chí Minh.
61. Lưu Hùng (1994), Làng buôn cổ truyền xứ Thượng, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
62. Văn Công Hùng (2006), Mắt cao Nguyên, Nxb Hội Nhà văn.
63. Đỗ Huy, Cơ sở triết học của văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
64. Quang Huy (2018), Chú trọng dạy tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc
thiểu số, Báo Đắk Lắk 24h, ngày 26/9/2018.
165
65. Nguyễn Văn Huyên (1995), “Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, Số (1), tr. 10-12.
66. Nguyễn Văn Huyên (1999), “Giá trị truyền thống - Tiềm lực nội sinh của
sự phát triển Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, Số (1), tr. 33-35.
67. Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người
Việt Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Hoài, Nguyễn Văn Vĩnh (2009), Bước
đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây
Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.
70. Vũ Như Khôi (2017), Văn hoá giữ nước Việt Nam - những giá trị đặc
trưng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
71. La Quốc Kiệt (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, Nguyễn Công Quỳ
dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72. Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa - Thông tin
73. Siu Y Kim (2006), Sưu tập lịch sử Hội thánh Pleiku.
74. Đỗ Hồng Kỳ (1993), Sử thi thần thoại M’nông, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
75. Đỗ Hồng Kỳ (1996), Sử thi thần thoại M’nông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Đỗ Hồng Kỳ, Điểu Kâu, Nõ Yu, Đãm Põ Tiêu (1997), Sử thi thần thoại
M’nông, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
77. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển
bền vững, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
78. Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong đổi mới
hội nhập, Nxb Văn hóa - Thông tin, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà
Nội, 2013.
79. Kỷ yếu hội thảo khoa học, Tây Nguyên: thực trạng và thách thức trong
phát triển bền vững, Kon Tum, 2014.
166
80. Vũ Đình Lợi (1994), Hôn nhân và gia đình truyền thống ở các dân tộc Malayo -
Polynexia Trường Sơn - Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
81. Trường Lưu (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
82. Lê Hồng Lý (2014), Vai trò của văn hóa và lối sống trong phát triển bền
vững Tây Nguyên, Mã số TN3/X04.
83. E.M Mêlêtinxki (1997), “Về nguồn gốc sử thi anh hùng”, Tạp chí Văn học,
Số (1), tr. 40-43.
84. Thu Nhung Mlô (2000), Vai trò người phụ nữ Êđê trong đời sống xã hội
tộc người, Luận án Tiến sĩ dân tộc học, Hà Nội.
85. Thu Nhung Mlô (1995), “Nếp sống truyền thống của người Êđê”, Nghiên
cứu Đông Nam Á, Số (18), tr. 60-62.
86. Sạ Vẻng Đen Na Môn (2016), Phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong
đời sống văn hóa đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Lào hiện nay, Luận
án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
87. Hoàng Nam (2013), Tổng quan văn hóa truyền thống các dân tộc Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
88. Nguyễn Xuân Nghĩa (1989), “Thiên chúa giáo và đạo Tin lành ở vùng các
dân tộc thiểu số Tây Nguyên”, Tạp chí Dân tộc học, Số (4), tr. 59-73.
89. Đỗ Hữu Nghiêm (1968), Phương pháp truyền giáo của Tin lành giáo tại Việt Nam.
90. Đỗ Hữu Nghiêm (2000), “Chủ nghĩa thực dân Pháp với đạo Tin lành tại
Tây Nguyên Việt Nam 1926 - 1954”; Tạp chí Công giáo và Dân tộc,
Số (3), tr. 88-89.
91. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
92. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
93. Phan Ngọc (2005), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
167
94. Phan Ngọc (2005), Một nhận thức về văn hóa Việt Nam, Viện Văn hóa và
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
95. Hoai Huong Aubert-Nguyen, Michel Espagne (2018), Việt Nam một lịch
sử chuyển giao văn hóa, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
96. Bình Nguyên, “Hệ thống chính trị cơ sở Tây Nguyên ngày càng vững
mạnh”, Báo Lâm Đồng online, ngày 15/7/2012.
97. Nguyễn Khắc Ngữ (1966), Mẫu hệ Chăm, Nxb Sài Gòn.
98. Phan Đăng Nhật (1991), Sử thi Êđê, Nxb Khoa học xã hội.
99. Phan Đăng Nhật (1999), Vùng sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100 Nhiều tác giả (2004), Luật tục Ê Đê, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội.
101. Nhiều tác giả (2004), Vùng văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả (2009), Tri thức bản địa và văn hóa sinh thái của các dân
tộc người thiểu số ở Việt Nam về môi trường và bảo vệ môi trường,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
103. Võ Quang Nhơn (1997), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Buôn Krông Tuyết Nhung (2012), Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Êđê, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
105. Hoàng Ngọc Phong, Nguyễn Văn Phú (2006), Các giải pháp tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường vùng Tây Nguyên trong tình hình
mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
106. Lê Hữu Phong (2008), Từ vựng đối chiếu Việt - Bahnar, Bahnar - Việt,
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
107. Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông
(Đồng chủ biên), (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 nãm
đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
108. Quốc hội (2014), Luật số: 55/2014/QH13 về Bảo vệ môi trường,
(https://thuvienphapluat.vn/van-ban/tai-nguyen-moi-truong/Luat-bao-
ve-moi-truong-2014-238636.aspx, truy cập ngày 12/9/2019)
168
109. Đào Duy Quyền (2004), “Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên trong bối cảnh
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, Số (4), tr. 52-56.
110. Bùi Xuân Quỳnh (2015), Phát huy giá trị nhân văn quân sự truyền thống của
dân tộc trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính
trị hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
111. Sở Nội vụ Gia Lai (2010), Báo cáo tình hình thực hiện công tác tôn giáo
năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, số 1646/NV-TG,
ngày 24/11/2010.
112. Sở Văn hóa - Thông tin Gia Lai (1999), Luật tục Jrai, Gia Lai.
113. Sở Văn hóa - Thông tin Gia Lai (2003), Põtao Apui: tư liệu và nhận định, Gia Lai.
114. Mai Thanh Sơn (2011), Chính sách đất đai và văn hóa tộc người -
nghiên cứu trường hợp tại Đắk Lắk, Nxb Thế giới, Hà Nội.
115. Nguyễn Văn Tài, Văn Đức Thanh (2010), Hệ giá trị văn hóa Thăng
Long - Hà Nội trong lịch sử giữ nước của dân tộc, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
116. Nguyễn Văn Tài (2014), Vấn đề quốc phòng và an ninh trong phát triển
bền vững Tây Nguyên”, Đề tài cấp Nhà nước, Mã số TN3/X11.
117. E.B Taylor, (2019), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
118. Lê Văn Tân (2007), Xây dựng môi trường văn hóa bộ đội Hải quân trên
quần đảo Trường Sa hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị, Hà Nội.
119. An Thanh, Duyên cớ dòng Chúa cứu thế truyền giáo cho người Jrai, ngày
13/11/ 2006.
120. Nguyễn Văn Thanh (2012), “Tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-
Lênin về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên với phát triển bền
vững ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số (2/249), tr. 44-47.
121. Tô Ngọc Thanh (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện
đại, Nxb Khoa học xã hội.
169
122. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, Nxb Khoa học xã hội.
123. Hà Huy Thành (2014), Xây dựng luận cứ khoa học cho việc bổ sung và đổi mới hệ thống thể chế cho phát triển bền vững Tây Nguyên”, Đề tài
cấp Nhà nước, Mã số TN3/X09.
124. Hà Huy Thành (2014), “Thực trạng thể chế phát triển bền vững vùng
Tây Nguyên: những phát hiện bước đầu”, Hội thảo Tây Nguyên thực trạng và thách thức trong phát triển bền vững.
125. Nghiêm Thẩm (1961), “Tìm hiểu đồng bào Thượng”, Tạp chí Quê Hương, Số
(31), tr. 18-22.
126. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 127. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại
và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
128. Nguyễn Phú Trọng (2016), Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII, ngày
30/10/2016.
129. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu, (2012), Luật tục Ê
Đê (Tập quán pháp), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
130. Thủ tướng Chính phủ (2002), Giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên (Quyết định số 132/2002/QĐ-Ttg ngày 8/10/2002)
131. Thủ tướng chính phủ (2003), Đề án một số giải pháp củng cố chính
quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010 (Kèm theo Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 05/3/2003)
132. Thủ tướng Chính phủ (2004), Đề án phát triển hoạt động văn hoá thông tin vùng Tây Nguyên đến năm 2010 (Kèm theo quyết định số
25/2004/QĐ-Ttg ngày 27/2/2004)
133. Thủ tướng Chính phủ (2007), Chính sách hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật thuộc Chương trình 135 giai đoạn II, (kèm theo Quyết định
số 112/2007/QĐ-Ttg ký ngày 20/7/2007).
134. Thủ tướng Chính phủ (2019), Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững
vùng Tây Nguyên (Kèm theo Quyết định số 297/QĐ-TTg ngày 18/3/2019)
170
135. Vương Xuân Tình (2006), “Hoạt động lâm nghiệp trái phép và không
bền vững vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên”, Tạp chí Dân tộc học,
Số (5), tr. 22-25.
136. Tòa Hành chánh tỉnh Pleiku (1964), Pleiku ngày nay.
137. Tòa Giám mục Kon Tum (2001), Tư liệu trưng bày tại phòng truyền thống.
138. Nguyễn Tuấn Triết (2007), Tây Nguyên những chặng đường lịch sử văn
hóa, Nxb Khoa học xã hội.
139. Phạm Thị Trung (2006), “Quan niệm về linh hồn và các nghi lễ liên quan
đến linh hồn của người Xõ Teng ở Tu Mơrông”, Nghi lễ và phong tục
các tộc người ở Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội.
140. Nguyễn Quang Tuệ (2004), Hơamon Diỡ Hao Jrang, song ngữ Bahnar -
Việt, Siu Pêt dịch nghĩa; Bok Pơnh hát kể, Sở Văn hóa Thông tin Gia Lai.
141. Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sơ kết giữa kỳ chương trình Tây Nguyên 3,
Hà Nội, 2014.
142. Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1986.
143. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kon Tum, Duy trì và khôi phục nhà rông truyền
thống các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh (Kèm theo Chỉ thị số
21/1999/CT-UB ngày 25/11/1999)
144. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học (1984) , Các dân tộc
ít người ở Việt Nam (các tỉnh ở phía Nam), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
145. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1986), Một số vấn đề kinh tế - xã hội
Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
146. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2010), Chính sách hỗ trợ kinh phí cho học
sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm 2010 đến năm
2015 (Kèm theo Quyết định số 143/QĐ-UBND, (ký ngày 26/01/2010).
147. United Nations (2002), “World Summit on Sustainabe Development – Plan
of Implementation.” The Offcial United Nations Website for the Johannesburg
Summit 2002 – The world Summit on Sustainabe Development
(http://www.un.org/jsummit/html/document/summit-docs/2309-planfinal.htm).
Truy cập tháng 4 năm 2011).
171
148. Ủy ban Nhân dân tỉnh Gia Lai (1999), Địa chí Gia Lai, Nxb Văn hóa Dân tộc.
149. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1981), Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Công
Tum, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
150. Nguyễn Thị Kim Vân (2007), Đến với lịch sử - văn hóa Bắc Tây Nguyên,
Nxb Đà Nẵng.
151. Nguyễn Thị Kim Vân (2008), “Thần sáng tạo vũ trụ của người Jrai
Chor”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số (2), tr. 36-39.
152. Nguyễn Thị Kim Vân (2008), “Bước đầu tìm hiểu về tơring và các thủ
lĩnh của người Gia Rai từ nửa cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX”,
Tham luận tại Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III.
153. Nguyễn Thị Kim Vân (2010), Địa danh và di tích Gia Lai từ góc nhìn
lịch sử - văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội.
154. Viện Ngôn ngữ học (2009), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương
đông, Tp Hồ Chí Minh.
155. Viện nghiên cứu văn hoá (2019), Văn hoá các tộc người thiểu số tại chỗ
Tây Nguyên: truyền thống, biến đổi và các vấn đề đặt ra, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
156. Bạch Hồng Việt, Một số vấn đề phát triển kinh tế Tây Nguyên theo
hướng bền vững, Đề tài Khoa học cấp Bộ, 2010-2011
157. Bạch Hồng Việt (2011), “Tác động của một số chính sách vĩ mô đến
quản lý và phát triển xã hội vùng Tây Nguyên”, Tạp chí Xã hội học, số
(2/114), tr. 42-46.
158. Vụ Tôn giáo, Ban Dân vận và mặt trận Trung Ương (1976), Một số nét
đặc điểm tình hình tôn giáo miền Nam và ý kiến đề nghị về chủ trương
công tác dân vận đồng bào tôn giáo ở miền Nam, tài liệu lưu Ban tuyên
giáo tỉnh Gia Lai, ký hiệu: TV-134-T4.
159. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
172
PHỤ LỤC
Phụ lục 1a
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Tháng 8 năm 2020
Để góp phần nâng cao chất lượng đề tài: “Phát huy giá trị văn hóa
các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay”, xin
đồng chí vui lòng cho biết ý kiến của mình ở từng câu hỏi dưới đây. Tán
thành nội dung nào thì đánh dấu X vào ô bên phải. Xin cảm ơn đồng chí!
1. Theo đồng chí văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có các
đặc trưng nào sau đây?(Tùy chọn số lượng phương án)
- Đang dạng, phong phú về sắc thái văn hóa dân tộc 1
- Mang đặc điểm văn hóa núi cao 2
- Đang trong quá trình phát triển từ văn hóa du cư, du canh sang định 3
hình khu vực ổn định và theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Chịu nhiều tác động của các văn hóa nước ngoài 4
- Đan xen với yếu tố văn hóa công nghiệp ở một số trung tâm 5
- Giao lưu văn hóa hạn hẹp trong vùng là cơ bản 6
- Đa dạng về sắc thái văn hóa tôn giáo 7
2. Theo đồng chí phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay có các
đặc trưng nào sau đây? (Tùy chọn số lượng phương án)
- Theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ tiền đề kinh tế thấp, 1
phân tán, kinh tế nông, lâm nghiệp là cơ bản
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội còn nhờ vào Nhà 2
nước, Chính Phủ là cơ bản
- Dịch chuyển cơ cấu chậm trên hạ tầng cơ sở khó khăn 3
- Tiềm năng kinh tế lớn, nhưng chưa có điều kiện khai thác, phát huy 4
- Chịu nhiều sự chống phá của các thế lực thù địch 5
- Cơ cấu dân cư thưa, phân bố không đều, dịch vụ trình độ thấp 6
- Sức mạnh nội lực cho phát triển bền vững chưa cao 7
173
3. Theo đồng chí, trong phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số để phát triển bền vững Tây Nguyên, chủ thể nào chiếm vai trò quan trọng? (Tuỳ chọn số lượng phương án)
- Chủ thể Đảng Cộng sản Việt Nam - Chủ thể các sở, ban, ngành văn hoá ở các tỉnh Tây Nguyên - Chủ thể người dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên - Chủ thể người các dân tộc khác sinh sống tại Tây Nguyên - Chủ thể các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế
1 2 3 4 5 4. Theo đồng chí, vai trò văn hóa trong phát triển bền vững ở Tây
Nguyên thế nào? (Chọn một phương án) - Vai rất quan trọng - Vai trò quan trọng - Vai trò ít quan trọng - Vai trò không quan trọng - Khó trả lời 1 2 3 4 5
5. Theo đồng chí, những nhân tố nào sau đây thuộc nhân tố quy định
1 2 3
4
5
6
vai trò văn hóa trong phát triển bền vững? (Tùy chọn số lượng phương án) - Sự chỉ đạo, đầu tư của Đảng, Nhà nước - Trình độ khai thác những giá trị văn hóa ở từng dân tộc thiểu số - Sự hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho văn hóa tạo sức mạnh tổng hợp giữa các giá trị văn hóa từng dân tộc - Đội ngũ cán bộ các cấp (đặc biệt cán bộ văn hóa) cả phẩm chất và năng lực vận dụng - Trình độ bảo lưu, giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa của các đồng bào thiểu số - Phát triển kinh tế tiến vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp - Sự vững mạnh của các tổ chức thuộc Mặt trận Tổ quốc Tây Nguyên 7 8 - Sự vững mạnh của hệ thống chính trị Tây Nguyên 9 - Môi trường văn hóa Tây Nguyên trong sáng, lành mạnh, đẩy lùi các phản văn hóa
174
6. Theo đồng chí, trình độ, năng lực các chủ thể đồng bào dân tộc thiểu số trong phát huy vai trò văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên mức nào? (Chọn một phương án) - Trình độ, năng lực tốt - Trình độ, năng lực khá - Trình độ, năng lực trung bình - Trình độ, năng lực yếu - Khó xác định, đánh giá
1 2 3 4 5
6
7 8
1 2 3 4 5 7. Theo đồng chí, những nhân tố nào sau đây cản trở quá trình phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay? (Tùy chọn số lượng phương án) - Sự chống phá của các thế lực thù địch (diễn biến hòa bình) - Xung đột giá trị văn hóa giữa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên - Tình trạng “thương mại hóa” các dạng văn hóa vật thể - Cơ chế phát huy chưa thật phù hợp - Tiền đề vật chất, phương tiện chưa thật tương xứng trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Tính tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể (tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể, nhân dân) chưa tương xứng - Kinh tế trình độ thấp - Trình độ nhận thức về bản chất và vai trò văn hóa chưa tương đồng giữa các chủ thể ở các dân tộc khác nhau - Sự đầu tư của Đảng, Nhà nước, Chính Phủ chưa tương xứng và bị thất thoát 9
8. Theo đồng chí, xu hướng phát huy giá trị văn hóa trong phát
triển bền vững Tây Nguyên hiện nay? (Tùy chọn số lượng phương án) - Xu hướng ngày càng vững chắc, có chất lượng, hiệu quả - Chưa thật rõ xu hướng tích cực - Xu hướng phát huy ngày càng thấp, kém hiệu quả - Chưa rõ xu hướng tiêu cực - Giữ nguyên trạng thái như hiện tại - Khó trả lời 1 2 3 4 5 6
175
9. Theo đồng chí, nội dung nào sau đây là yêu cầu cho phát huy giá
trị văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay? (Tùy chọn số
lượng phương án)
- Bảo đảm sự phù hợp giữa văn hóa truyền thống và hiện đại của văn 1
hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên
- Vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa từng dân tộc, vừa tạo sự thống nhất trong 2
nền văn hóa dân tộc Việt Nam
- Khai thác được nhiều nhất và hệ thống hóa được giá trị văn hóa các 3
dân tộc thiểu số
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế chuyển hóa những giá trị văn hóa trong phát 4
triển bền vững phù hợp với từng giai đoạn phát triển
- Khó trả lời 5
10. Theo đồng chí, cần vận dụng các biện pháp chủ yếu nào dưới
đây để phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền
vững Tây Nguyên hiện nay (Tùy chọn số lượng)
- Giữ vững định hướng phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên 1
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp bộ đảng và sự đầu tư của Nhà 2
nước, Chính phủ ở lĩnh vực văn hóa và phát triển bền vững
- Xây dựng môi trường văn hóa vùng, miền nuôi dưỡng, phát huy các 3
giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
- Hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho phát huy văn hóa các 4
dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
- Củng cố, phát huy vai trò các thiết chế văn hóa các dân tộc thiểu số 5
ở cấp cơ sở hiện nay
- Phát huy tính tích cực, tự giác của các chủ thể trong quá trình giáo 6
dục đạo đức
- Phát huy tính tích cực, tự giác các chủ thể văn hóa và chủ thể kinh tế 7
trong phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững
Tây Nguyên hiện nay
176
- Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên truyền về văn hóa 8
Tây Nguyên và tầm quan trọng của phát triển bền vững
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách ở lĩnh vực văn hóa 9
hiện nay
- Hoàn thiện cơ chế và vận hành sự tương tác giữa tăng trưởng kinh tế
10 với công bằng xã hội ở Tây Nguyên hiện nay
11. Những biện pháp cần vận dụng để giữ gìn văn hoá dân tộc thiểu
số Tây Nguyên hiện nay? (Tuỳ chọn số lượng)
- Phải bảo vệ rừng 1
- Phải khôi phục hệ thống nhà rông, nhà dài 2
- Phải khôi phục và lưu giữ cồng chiêng 3
- Phải xuất bản và đào tạo diễn xướng sử thi 4
- Giữ gìn các nghi lễ, lễ hội truyền thống 5
- Phải giảng dạy và lưu hành chữ viết của người dân tộc thiểu số Tây 6
Nguyên
12. Ngoài các ý kiến trên, đồng chí có thể ghi thêm các ý kiến khác
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
13. Xin đồng chí cho biết, đồng chí là:
- Cán bộ quân sự - Là dân tộc thiểu số 1 7
- Cán bộ chính trị - Là dân tộc kinh 2 8
- Cán bộ khác - Theo một tôn giáo 3 9
- Đảng viên - Không theo tôn giáo 4 10
- Đoàn viên - thanh niên 5 - Là công nhân 11
- Nông dân nông 6 - Học vấn từ cao đẳng nghề 12
nghiệp, lâm nghiệp trở lên
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của đồng chí!
177
Phụ lục 1b
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Tổng số phiếu điều tra: 500
Đối tượng: các cơ quan Đảng, Uỷ ban nhân dân, sở văn hoá thể thao và
du lịch, Mặt trận Tổ quốc, một số đồng bào ở các địa phương.
Thời gian thực hiện: tháng 6/2020
Địa điểm thực hiện: Tây Nguyên
Đắk
Đắk
Kon
Gia Lai
Đối tượng
Lắk
Nông
Tum
Lâm Đồng
Tổng
(số
điều tra
(số
(số
(số
(số phiếu)
phiếu
phiếu)
phiếu)
phiếu)
phiếu)
Cơ quan Đảng
20
20
20
20
20
100
Uỷ ban nhân dân
20
20
20
20
20
100
Sở văn hoá thể
20
20
20
20
20
100
thao và du lịch
Mặt trận Tổ quốc
20
20
20
20
20
100
Đồng bào ở địa
20
20
20
20
20
100
phương
Tổng phiếu
100
100
100
100
100
500
178
Kết quả cụ thể
Khẳng định
Nội dung
Phương án trả lời
STT
Số
%
phiếu
Đa dạng, phong phú về sắc thái văn
469
93,8%
hoá dân tộc
Mang đặc điểm văn hóa núi cao
400
80%
Phát triển từ du cư, du canh sang
định hình khu vực ổn định và theo
415
83%
Văn hoá các dân tộc
định hướng XHCN
thiểu số Tây Nguyên có
01
Chịu nhiều tác động của văn hóa
200
40%
các đặc điểm
nước ngoài
Đan xen với yếu tố văn hóa công
315
63
nghiệp ở một số trung tâm
Giao lưu văn hóa hạn hẹp trong
359
71,8%
vùng là cơ bản
Đa dạng về sắc thái văn hóa tôn giáo
459
91,8%
Theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa từ tiền đề kinh tế thấp, phân
390
78%
tán, kinh tế nông, lâm nghiệp là cơ bản
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với
công bằng xã hội còn nhờ vào Nhà
415
83%
nước, Chính Phủ là cơ bản
Các đặc trưng của phát
Dịch chuyển cơ cấu chậm trên hạ
345
69%
triển bền vững Tây
02
tầng cơ sở khó khăn
Nguyên
Tiềm năng kinh tế lớn, nhưng chưa
440
88%
có điều kiện khai thác, phát huy
Chịu nhiều sự chống phá của các
325
65%
thế lực thù địch
Sức mạnh nội lực cho phát triển bền
330
vững chưa cao
66%
179
Đảng Cộng sản Việt Nam
379
76,8%
Các sở ban ngành văn hoá ở các tỉnh
373
74,6%
Tây Nguyên
Chủ thể nào chiếm vai trong trò quan
trọng
phát huy giá trị văn hoá
Người dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên
384
75,8%
03
dân tộc thiểu số để phát
Người các dân tộc khác sinh sống tại
195
439%
Tây Nguyên
triển bền vững Tây Nguyên
Các nhà nghiên cứu trong nước và
240
48%
quốc tế
Vai trò rất quan trọng
330
25,8%
Vai trò quan trọng
229
45,8%
Vai trò của văn hoá
trong phát
triển bền
Vai trò ít quan trọng
74
14,8%
04
vững Tây Nguyên
Vai trò không quan trọng
42
8,4%
Khó trả lời
26
5,2%
74%
Sự chỉ đạo, đầu tư của Đảng, Nhà nước
370
Trình độ khai thác những giá trị văn
345
69%
hóa ở từng dân tộc thiểu số
Sự hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho
văn hóa tạo sức mạnh tổng hợp giữa
377
75,4%
các giá trị văn hóa từng dân tộc
Đội ngũ cán bộ các cấp (đặc biệt
Những nhân tố quy định
cán bộ văn hóa) cả phẩm chất và
364
72,8%
năng lực vận dụng
05
vai trong phát
trò của văn hoá triển bền
Trình độ bảo lưu, giữ gìn, phát huy giá
368
73,6%
vững
trị văn hóa của các đồng bào thiểu số
350
Phát triển kinh tế tiến vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp
70%
359
71,8%
350
70%
Sự vững mạnh của các tổ chức thuộc Mặt trận Tổ quốc Tây Nguyên Sự vững mạnh của hệ thống chính trị Tây Nguyên
180
Trình độ, năng lực tốt
44
8,8%
06
Trình độ, năng lực khá Trình độ, năng lực trung bình Trình độ, năng lực yếu
90 138 200
18% 27,6% 40%
Khó xác định, đánh giá
28
5,6%
Trình độ, năng lực các chủ thể đồng bào dân tộc thiểu số trong phát huy vai trò văn hoá triển bền trong phát vững Tây Nguyên
240
48%
275
55%
314
62,8%
Sự chống phá của các thế lực thù địch (diễn biến hòa bình) Xung đột giá trị văn hóa giữa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên Tình trạng “thương mại hóa” các dạng văn hóa vật thể Cơ chế phát huy chưa thật phù hợp
350
70%
72,8%
364
07
75%
Những nhân tố cản trở quá trình phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số triển bền trong phát vững Tây Nguyên hiện nay
375
Tiền đề vật chất, phương tiện chưa thật tương xứng trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Tính tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể (tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể, nhân dân) chưa tương xứng Kinh tế trình độ thấp
349
69,8%
80,8%
Trình độ nhận thức về bản chất và vai trò văn hóa chưa tương đồng giữa các chủ thể ở các dân tộc khác nhau
404
69,2%
Sự đầu tư của Đảng, Nhà nước, Chính Phủ chưa tương xứng và bị thất thoát
346
378
75,6%
08
345 249 275 195
69% 49,8% 55% 39%
Xu hướng phát huy giá trị văn hoá trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
Ngày càng vững chắc, có chất lượng, hiệu quả Chưa thật rõ xu hướng tích cực Ngày càng thấp, kém hiệu quả Chưa rõ xu hướng tiêu cực Giữ nguyên trạng thái như hiện tại Khó trả lời
100
20%
181
396
79,2%
355
71%
09
381
76,2%
Yêu cầu cho phát huy giá trị văn hóa trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
71,8%
359
Bảo đảm sự phù hợp giữa văn hóa truyền thống và hiện đại của văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên Vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa từng dân tộc, vừa tạo sự thống nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam Khai thác được nhiều nhất và hệ thống hóa được giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Xây dựng, hoàn thiện cơ chế chuyển hóa những giá trị văn hóa trong phát triển bền vững phù hợp với từng giai đoạn phát triển
145
29%
363
72,6%
377
75,4%
315
63%
10
339
67,8%
405
81%
378
75,6%
Khó trả lời Giữ vững định hướng phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng và sự đầu tư của Nhà nước, Chính phủ ở lĩnh vực văn hóa và phát triển bền vững Xây dựng môi trường văn hóa vùng, miền nuôi dưỡng, phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số Hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay Củng cố, phát huy vai trò các thiết chế văn hóa các dân tộc thiểu số ở cấp cơ sở hiện nay Phát huy tính tích cực, tự giác của các chủ thể trong quá trình giáo dục đạo đức
Những biện pháp cần vận dụng để phát huy giá trị văn hoá dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay
342
68,4%
Phát huy tính tích cực, tự giác các chủ thể văn hóa và chủ thể kinh tế
182
354
70,8%
418
83,6%
69,8%
trong phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững Tây Nguyên hiện nay Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên truyền về văn hóa Tây Nguyên và tầm quan trọng của phát triển bền vững Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách ở lĩnh vực văn hóa hiện nay Hoàn thiện cơ chế và vận hành sự tương tác giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Tây Nguyên hiện nay
349
446
89,2%
339
67,8%
382
76,4%
294
58,8%
11
363
72,6%
Những biện pháp cần vận dụng để giữ gìn văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên hiện nay
349
Phải bảo vệ rừng Phải khôi phục hệ thống nhà rông, nhà dài Phải khôi phục và lưu giữ cồng chiêng Phải xuất bản và đào tạo diễn xướng sử thi Giữ gìn các nghi lễ, lễ hội truyền thống Phải giảng dạy và lưu hành chữ viết của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên
69,8%
183
Phụ lục 2a
Hiện trạng rừng có đến 31/12 phân theo địa phương chia theo năm, hiện trạng rừng và thành phố
Tổng diện tích rừng Rừng tự nhiên Rừng trồng Mới trồng Tỷ lệ che phủ rừng (%)
Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên
2008(*) 2.928,7 2.731,4 197,3 26,2 ..
2009 2.925,2 2.715,7 209,5 .. ..
2010(**) 2.874,4 2.653,9 220,5 38,3 ..
2.848,0 2.610,6 2011 237,4 42,7 ..
2.903,9 2.594,0 2012 309,9 42,7 ..
2.848,7 2.547,9 2013 300,8 26,8 ..
2.567,1 2.253,8 2014 313,3 64,6 45,8
2.562,0 2.246,0 2015 315,9 44,1 46,1
2.558,7 2.234,5 2016 324,2 .. 46,0
2.557,4 2.207,0 2018 350,4 .. 46,0
2.559,9 2.191,2 2019 368,7 .. 45,9
Chú thích
(*) Theo Quyết định số 1267/QĐ-BNN-KL ngày 04/5/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.(**) Diện tích rừng mới trồng bao gồm những diện tích rừng trồng mới trong 2 đến 3 năm đầu chưa đạt tiêu chuẩn rừng và không được tính vào tỷ lệ che phủ rừng. Đơn vị tính: Nghìn ha Nguồn: Tổng cục thống kê 2020
184
Phụ lục 2b
Doanh thu du lịch lữ hành phân theo địa phương
2010 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Sơ bộ 2019
83,9 61,5 84,4 88,2 109,2 105,3 120,0 128,1 141,2 Tây Nguyên
Đơn vị tính: Tỷ đồng Nguồn: Tổng cục thống kê 2020
Phụ lục 2c
Diện tích, dân số và mật độ dân số phân theo địa phương
Diện tích(Km2) Dân số trung bình (Nghìn người) Mật độ dân số (Người/km2)
Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên
2011 54.641,0 5.282,2 96,7
2012 54.641,1 5.363,3 98,2
2013 54.641,1 5.445,8 99,7
2014 54.641,0 5.525,8 101,0
2015 54.641,0 5.607,9 103,0
2016 54.508,0 5.693,2 104,0
2017 54.508,3 5.778,5 106,0
2018 54.508,3 5.871,0 108,0
2019 (*) 54.508,3 5.861,3 108,0
Chú thích
(*) Diện tích có đến 31/12/2018 theo Quyết định số 2908/QĐ-BTNMT ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nguồn: Tổng cục thống kê 2020
185
Phụ lục 2d
Tỷ suất nhập cư, xuất cư và di cư thuần phân theo địa phương
Đơn vị tính: ‰
2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Sơ bộ 2019
Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên
4,7 5,9 4,9 7,3 5,7 6,0 8,7 8,3 7,7 2,3 2,0 1,9 1,3 2,2
Tỷ suất nhập cư
4,9 6,1 6,4 5,5 6,1 8,4 5,0 6,1 6,1 3,4 4,4 2,6 3,2 4,6
Tỷ suất xuất cư
-0,2 -0,2 -1,5 1,8 -0,4 -2,4 3,7 2,2 1,6 -1,1 -2,4 -0,7 -1,9 -2,4
Tỷ suất di cư thuần
186
Phụ lục 2e
Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành phân theo thành thị, nông thôn, phân theo giới tính chủ hộ và phân theo vùng
2010
2012
2014
2016
2018
Sơ bộ 2019
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Thu nhập bình quân đầu người một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất
369,0
3.410,0
9,2
512,0
4.784,0
9,4
660,0
6.413,0
9,7
771,0
7.547,0
9,8
932,0
9.320,0
10,0
988,0
10.103,0
10,2
CẢ NƯỚC
305,0
2.526,0
8,3
421,0
3.626,0
8,6
510,0
4.574,0
9,0
619,0
5.812,0
9,4
730,0
7.241,0
9,9
720,0
7.546,0
10,5
Tây Nguyên
187
Phụ lục 2g Số trường học, lớp học, giáo viên và học sinh mẫu giáo tại thời điểm 30/9
Trường học (Trường) Lớp học (Lớp) Giáo viên (Người) Học sinh (Nghìn học sinh)
Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên Tây Nguyên
5.969,0 6.637,0 .. 148,7 2002
.. 6.051,0 6.759,0 152,6 2003
601,0 6.734,0 7.299,0 172,7 2004
635,0 7.014,0 7.318,0 171,3 2005
709,0 7.420,0 8.090,0 184,2 2006
732,0 7.048,0 8.032,0 180,6 2007
772,0 7.204,0 8.612,0 189,5 2008
803,0 7.588,0 9.218,0 199,7 2009
844,0 7.913,0 10.239,0 208,4 2010
868,0 8.398,0 10.980,0 231,1 2011
932,0 9.289,0 11.876,0 258,3 2012
942,0 8.980,0 12.973,0 259,0 2013
976,0 9.373,0 13.497,0 257,1 2014
1.009,0 11.217,0 14.538,0 269,8 2015
1.041,0 10.346,0 15.431,0 293,6 2016
1.065,0 11.216,0 16.293,0 306,5 2017
1.094,0 10.065,0 15.534,0 303,2 2018
188
Phụ lục 2h Số giáo viên phổ thông thuộc các dân tộc ít người trực tiếp giảng dạy tại thời điểm 30/9 phân theo một số địa phương (*)
Đơn vị tính: Người
Tổng số Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông
Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng
2004 667 1.369 1.514 241 420 568 1.138 1.099 174 310 66 181 326 51 33 50 89 86 16 24
2005 700 1.419 1.395 245 579 585 1.166 1.019 188 457 77 193 288 45 97 38 60 88 12 25
2006 729 1.498 1.444 260 563 595 1.191 1.035 190 441 87 237 301 98 49 47 70 108 21 24
2007 772 1.503 1.555 332 546 640 1.181 1.043 241 358 69 253 370 119 73 63 69 142 18 69
2008 795 1.495 1.615 335 545 642 1.162 1.061 198 308 87 259 421 102 165 66 74 133 35 72
2009 733 1.401 1.809 462 755 594 1.023 1.149 299 456 85 284 462 114 192 54 94 198 49 107
2010 739 1.549 1.870 533 777 590 1.122 1.176 322 434 90 302 479 139 218 59 125 215 72 125
2012 748 1.699 1.977 581 882 546 1.238 1.256 338 510 109 341 498 168 232 93 120 223 75 140
2013 944 1.912 2.017 630 846 682 1.389 1.378 368 464 185 385 400 179 218 77 138 239 83 164
189
Đơn vị tính: Người
Tổng số Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông
Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng
2014 1.032 1.945 2.179 642 1.038 722 1.434 1.353 377 590 203 370 560 181 263 107 141 266 84 185
2015 971 1.989 2.248 656 1.062 683 1.472 1.405 376 618 186 392 576 198 273 102 125 267 82 171
2016 1.015 1.981 2.316 684 1.113 704 1.440 1.443 397 644 200 398 590 201 286 111 143 283 86 183
2017 994 1.986 2.276 656 1.159 678 1.440 1.433 381 656 203 404 569 186 301 113 142 274 89 202
2019 975 1.879 2.142 650 1.177 652 1.320 1.314 348 658 208 412 558 202 312 115 147 270 100 207
Chú thích (*) Số liệu năm học 2005 trở về trước, 2009 và 2010 là tại thời điểm 31/12.
190
Phụ lục 2I
Doanh thu du lịch lữ hành theo giá hiện hành phân
theo địa phương chia theo Tỉnh, thành phố và Năm
2010
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Sơ bộ 2019
15.539,3 18.852,9 24.820,6 27.799,4 30.444,1 32.530,3 36.111,8 40.371,2
44.259,1
CẢ NƯỚC
83,9
61,5
84,4
88,2
109,2
105,3
120,0
128,1
141,2
Tây Nguyên
1,4
2,2
2,0
2,8
3,0
2,2
2,6
2,8
3,2
Kon Tum
11,2
20,3
22,3
25,3
26,2
25,6
28,4
30,8
33,2
Gia Lai
8,5
2,5
23,1
27,1
31,8
37,8
43,4
46,5
50,7
Đắk Lắk
0,5
0,3
0,3
0,2
1,0
0,6
0,7
0,7
0,7
Đắk Nông
32,8
47,2
39,1
44,9
47,3
53,4
36,2
36,7
62,3
Lâm Đồng Nguồn: Tổng cục thống kê Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm thống kê: 2020
Phụ lục 2j
Cơ cấu đất sử dụng phân theo địa phương (Tính đến 31/12/2018)
chia theo Phân theo địa phương và Đất sử dụng
Tổng diện tích
Đất sản xuất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
Đất chuyên dùng
Đất ở
100,0
44,5
45,5
3,6
1,1
Tây Nguyên
100,0
27,5
62,8
3,5
0,9
Kon Tum
100,0
51,6
37,8
3,4
1,2
Gia Lai
100,0
48,1
39,9
4,2
1,2
Đắk Lắk
100,0
56,3
35,1
4,2
0,8
Đắk Nông
100,0
37,6
55,2
2,9
1,3
Lâm Đồng
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2020 Đơn vị tính: %
191
Phụ lục 2k
Diện tích, dân số và mật độ dân số phân theo địa phương chia theo
Địa phương, Năm và Chỉ tiêu
2016
2017
2018
2019 (*)
Diện tích(Km2)
Diện tích(Km2)
Diện tích(Km2)
Diện tích(K m2)
Mật độ dân số (Người/km2)
Mật độ dân số (Người/km2)
Mật độ dân số (Người/km2)
Mật độ dân số (Người/km2)
Dân số trung bình (Nghìn người)
Dân số trung bình (Nghìn người)
Dân số trung bình (Nghìn người)
Dân số trung bình (Nghìn người)
54.5 08,0
5.69 3,2
54.508 ,3
5.77 8,5
104,0
54.508 ,3
5.87 1,0
106,0
54.508 ,3
5.86 1,3
108,0
108,0
Tây Nguyên