BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Huỳnh Thị Loan Phương
PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN
CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Thị Loan Phương
PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN
CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
Chuyên ngành
: Địa lí học ( trừ ĐLTN)
Mã số
: 60 31 05 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS PHẠM XUÂN HẬU
Thành phố Hồ Chí Minh, 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
của các cá nhân và tổ chức.
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Phạm Xuân Hậu, người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Người đã cho em
những kỹ năng và kiến thức quý báu về phương pháp nghiên cứu khoa học, sự nhiệt tình và
tâm huyết với công việc. Thầy là người luôn động viên để em có thể hoàn thành.
Em cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh đã tạo mọi điều kiện để giúp đỡ em hoàn thành khóa học này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến các cơ quan ban ngành: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
TP Hồ Chí Minh, UBND Huyện Củ Chi, Ban quản lý Di tích Địa Đạo Củ Chi đã cung cấp
những tư liệu thiết yếu phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu.
Và cuối cùng, xin gởi lời biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn đồng
hành giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Mặc dù có nhiều nổ lực, nhưng do hạn chế thời gian và nghiên cứu cùng với các điều
kiện khách quan chủ quan của bản thân nên đề tài sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự cảm thông và chỉ bảo của Quý Thầy Cô và các bạn để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Tp. Hồ Chí Minh, 15/3/2014
Học viên
Huỳnh Thị Loan Phương
1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................. 5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6
2. Mục đích và nhiệm vụ .................................................................................................... 7
3. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 8
4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 9
5. Đóng góp chủ yếu của đề tài ........................................................................................ 11
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................. 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG ................................................................................................................ 12
1.1. Một số khái niệm về du lịch, du lịch bền vững và những vấn đề liên quan ......... 12
1.1.1. Khái niệm du lịch .................................................................................................. 12
1.1.2. Khái niệm khách du lịch ( Du Khách) .................................................................. 15
1.1.3. Tài nguyên du lịch ................................................................................................. 18
1.1.4. Các loại tài nguyên du lịch .................................................................................... 20
1.1.5. Các loại hình du lịch .............................................................................................. 28
1.1.6. Phát triển bền vững............................................................................................... 30
1.1.7. Phát triển du lịch bền vững ................................................................................... 32
1.1.8. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững .......................................................... 32
1.1.9. Tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững .................................................. 34
1.2. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ............................................................... 38
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở một số nước ...................................... 38
1.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam ................................................................ 39
1.2.3. Phát triển du lịch bền vững ở vùng Đông Nam Bộ ............................................... 39
1.2.4. Phát triển du lịch bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh ........................................ 41
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch ........................................................... 43
1.3.1. Dân cư và lao động ................................................................................................ 43
1.3.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế .................................. 43
1.3.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ..................................................................................... 44
1.3.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật ............................................................................... 44
1.3.5. Đô thị hóa .............................................................................................................. 44
2
1.3.6. Điều kiện sống ....................................................................................................... 44
1.3.7. Thời gian rỗi .......................................................................................................... 44
1.3.8. Các nhân tố chính trị ............................................................................................. 44
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI ....... 46
2.1. Khái quát về huyện Củ Chi ....................................................................................... 46
2.2. Tài nguyên và những điều kiện phát triển du lịch .................................................. 47
2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên ................................................................................... 47
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn ................................................................................. 53
2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch ............................................................................... 62
2.3. Đánh giá chung về tài nguyên và các điều kiện phát triển du lịch ........................ 69
2.3.1. Thuận lợi ............................................................................................................... 69
2.3.2. Hạn chế .................................................................................................................. 70
2.4. Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi .......................................................... 72
2.4.1. Vị trí du lịch của huyện Củ Chi trong nền kinh tế ................................................ 72
2.4.2. Thực trạng phát triển du lịch ................................................................................. 72
2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi trên quan điểm phát triển bền vững ........................................................................................................... 87
2.5.1. Đánh giá chung ...................................................................................................... 87
2.5.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng bền vững ................................................................................................................................. 90
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG ................................................................... 95
3.1. Những căn cứ xây dựng định hướng và giải pháp .................................................. 95
3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh .................................. 95
3.1.2. Kế hoạch phát triển kinh tế huyện Củ Chi ............................................................ 96
3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế Huyện Củ Chi ......................................................... 98
3.1.4. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi ........................................ 100
3.2. Định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững .................. 103
3.2.1 Định hướng phát triển tổ chức lãnh thổ du lịch ................................................... 104
3.2.2. Định hướng phát triển các thị trường khách du lịch ........................................... 105
3.2.3. Định hướng phát triển các sản phẩm du lịch ....................................................... 107
3.3. Các giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững ............... 110
3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch bền vững về kinh tế ...................................... 110
3.3.2. Nhóm phát triển du lịch bền vững về tài nguyên và môi trường ........................ 115
3.3.3. Nhóm phát triển du lịch bền vững về xã hội ....................................................... 116
3
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 120
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 122
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
IUOTO : Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch.
UNWTO : Tổ chức du lịch thế giới.
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc.
VQG : Vườn quốc gia.
HST : Hệ sinh thái.
KBT : Khu bảo tồn.
TNDL : Tài nguyên du lịch.
DSTN : Di sản tự nhiên
DSVH : Di sản văn hóa
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
P. Morand có câu nói rằng: “Khi du lịch trở về, có lẽ người ta đã lớn lên. Nhưng có
một điều chắc chắn là Trái Đất phải nhỏ lại”
Du lịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những
ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền kinh tế
phát triển thì đời sống con người ngay một nâng cao thì nhu cầu tham quan du lịch ngày
càng lớn.
Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch và cơ cấu chi tiêu
của con người càng lớn. Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện giao thông hiện
đại, đã tạo nên sự thoải mái cho con người trong việc di chuyển trên các tuyến đường du
lịch. Bên cạnh đó những trung tâm du lịch được hình thành với những khách sạn hiện đại,
đầy đủ tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng du
lịch chất lượng cao. Những sản phẩm mang tính đặc sản của vùng, của địa phương theo thị
hiếu quốc tế. Tuy nhiên, điều du khách quan tâm không chỉ là vật chất mà còn quan tâm cả
đến nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, hiện nay nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải
tạo các danh lam thắng cảnh, trùng tu nâng cao các di tích lịch sử, các công trình văn
hóa…để đáp ứng nhu cầu của du khách.
Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã có những bước phát triển vượt bậc trong
du lịch. Có những chiến lược quảng bá hình ảnh của đất nước với bạn bè thế giới nói chung
và trong khu vực nói riêng. Nhiều chiến lược phát triển được đưa ra. Và ngày càng có nhiều
hình thức, dịch vụ du lịch phục vụ du khách. Nhưng Thành phố Hồ Chí Minh được bạn bè
quốc tế biết đến như một điểm đến đầy thú vị và cần khám phá. Hàng năm có hàng triệu du
khách đến để tham quan, mua sắm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Với các địa điểm tham quan
mang đậm tính lịch sử như: nhà thờ Đức Bà, chợ Bến Thành, bến Nhà Rồng, nhà hát Thành
Phố, các viện bảo tàng, lịch sử…đã làm phong phú thêm văn hóa của thành phố. Các khách
du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh có thể sơ lược tìm hiểu được văn hóa của người Việt
thông qua những cộng đồng dân cư sống nơi đây. Với đầy các món ăn văn hóa -truyền
thống các vùng miền, những cửa hàng mua sắm với phong phú đa dạng các chủng lọai hàng
hóa. Các dịch vụ phòng khách sạn sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Du khách có thể yên tâm
với những dịch vụ tốt nhất của thành phố.
6
Trong bối cảnh chung của du lịch Thành phố Hồ Chí Minh thì sự phát triển du lịch của
các vùng ngoại ô thành phố cũng không kém phần quan trọng mà huyện Củ Chi là một điển
hình.
Nằm về phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, giáp với huyện Hóc Môn, tỉnh Tây
Ninh, tỉnh Bình Dương. Cách trung tâm thành phố hơn 30km. Củ Chi nằm giữa hai con
sông là sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông. Với vị trí này đã tạo cho huyện Củ Chi có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Cùng với lịch sử đấu tranh chống Pháp và chống
Mỹ, Củ Chi được biết đến như một vùng đất anh hùng “ Củ Chi đất thép thành đồng. Củ
Chi đất lửa sinh hoa hồng”. Với hệ thống chiều dài địa đạo hơn 250 km nằm sâu trong
lòng đất. Đó là một công trình kiến trúc độc đáo, một di tích lịch sử nổi tiếng. Niềm tự hào
của người dân Củ Chi nói riêng và của cả nước nói chung. Với lợi thế về thiên nhiên và bản
sắc văn hóa độc đáo, truyền thống lịch sử hào hùng, Củ Chi hoàn toàn có thể xây dựng và
phát triển du lịch một cách bền vững.
Do đó việc xây dựng và phát triển du lịch huyện Củ Chi là nhu cầu cấp thiết nhằm đáp
ứng được nhu cầu phát triển của huyện cũng như nâng cao đời sống người dân, góp phần
vào việc phát triển du lịch của thành phố và của cả nước. Bên cạnh đó, nhằm giới thiệu cho
khách du lịch trong và ngoài nước hiểu thêm về lịch sử cũng như văn hóa, đời sống của
người dân huyện Củ Chi. Đó là lý do vì sao tôi chọn đề tài” Phát triển du lịch huyện Củ
Chi theo hướng bền vững” nhằm đánh thức được tiềm năng và xây dựng những hướng đi
mới cho sự phát triển du lịch của huyện Củ Chi trong thời kì hội nhập và phát triển.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1. Mục đích của đề tài
Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững vào nghiên cứu đánh
giá tiềm năng, hiện trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó
đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
-Tổng quan cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch ở Việt Nam và Thành
phố Hồ Chí Minh vận dụng nghiên cứu tại huyện Củ Chi.
-Thu thập tổng hợp tài liệu, tư liệu, số liệu, các điều kiện và thực trạng phát triển du
lịch ở huyện Củ Chi. Từ đó phân tích đánh giá tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch
7
huyện. Tìm ra những lợi thế và hạn chế đối với sự tổ chức phát triển du lịch của huyện Củ
Chi.
- Đề xuất giải pháp phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng bền vững.
3. Giới hạn nghiên cứu
- Về nội dung.
Đề tài tập trung đánh giá tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, các điều kiện để phát triển
du lịch và thực trạng hoạt động du lịch.
- Không gian
Phạm vi nghiên cứu là huyện Củ Chi ( gồm 20 xã và 1 thị trấn). Ngoài ra, đề tài còn
mở rộng nghiên cứu sang các huyện và tỉnh lân cận để thấy được mối liên hệ tác động qua
lại và hổ trợ cho huyện phát triển .
- Về thời gian
Đề tài tập trung thu thập số liệu, phân tích và nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ
2001- 2011 và định hướng phát triển bền vững đến năm 2020.
- Những công trình nghiên cứu liên quan
Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người, buổi ban đầu thường đi kèm với
hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm các vùng đất mới. Việc cung ứng các dịch
vụ cho du khách để thu lợi nhuận có lẽ là hình thức cổ xưa nhất của hoạt động du lịch, với
mục tiêu ưu tiên hàng đầu là thương mại hóa tối đa các sản phẩm du lịch và không chú ý
đến những tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường.
Vào giữa thập kỷ 90 (1996) đã xuất hiện một khái niệm mới là du lịch bền vững (
Sustainable tourism), khái niệm này còn chưa đạt đến giai đoạn chính muồi. Tuy nhiên,
điểm đặc trưng cơ bản của Du lịch bền vững không chỉ là nó cổ vũ cho loại hoạt động du
lịch ít gây hại cho môi trường mà còn là một khái niệm mới về chất, thu hút và đòi hỏi sự
hợp tác tham gia của tất cả các thành tố của ngành công nghiệp du lịch:
- Các tổ hợp khách sạn toàn cầu
- Các tổ chức du lịch lữ hành
- Các khách sạn nhỏ bé, biệt lập
Du lịch bền vững nhằm:
- Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
- Bảo vệ văn hóa và phúc lợi của cộng đồng địa phương
- Tạo lập sự công bằng trong nội bộ giữa các thế hệ
8
Tại Việt Nam, từ sau năm 1991 đã chú trọng đến phát triển du lịch bền vững sau
những cuộc khủng hoảng của ngành du lịch. Các tài nguyên du lịch cũng được khai thác có
hiệu quả hơn, khai thác kết hợp với bảo vệ, tôn tạo và phát triển các tài nguyên. Có rất nhiều
đề tài nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ở các tỉnh thành nói riêng và cả nước nói
chung.
Là một thành phố được xem là có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước,
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu nhằm đưa ngành du
lịch thành phố hướng đến sự phát triển bền vững như “ Hướng đến sự phát triển bền vững
các vùng dân cư trên đất ngập nước ven biển – huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh”,
hoặc các đề tài nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ở tỉnh bạn “ Phát triển du lịch bền
vững ở tỉnh Bình Định”, “ Phát triển du lịch tỉnh Hải Dương theo hướng bền vững”,… Ở Củ
Chi cũng có một số đề tài nghiên cứu phát triển du lịch huyện như “ Xây dựng và quảng bá
thương hiệu huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh qua sản phẩm du lịch địa phương”, “Giải pháp
marketing nhằm thu hút khách nội địa tại Khu di tích lịch sử Địa Đạo Củ Chi.” Nhưng chưa
có đề tài nào nghiên cứu phát triển du lịch huyện theo hướng bền vững. Vì thế tác giả muốn
đưa đề tài này vào nghiên cứu nhằm phát huy du lịch huyện một cách hoàn chỉnh hơn, phát
triển theo hướng bền vững lâu dài.
4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Các quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Bản chất du lịch được hình thành bởi nhiều phân hệ khác nhau nhưng lại có liên hệ
chặc chẽ với nhau. Chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, tự nhiên, xã hội. vì vậy khi
nghiên cứu phải đảm bảo được tính hệ thống của đề tài.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Các đối tượng nghiên cứu địa lý phải gắn liền với một lãnh thổ cụ thể với những nét
riêng biệt. Đó là sự liên kết như là một hệ thống không gian của các đối tượng du lịch với
các nguồn tài nguyên, các dịch vụ du lịch. Quan điểm này được vận dụng vào luận văn
bằng cách phân tích các tiềm năng và các tác động đến sự phát triển bền vững du lịch của
huyện Củ Chi.
4.1.3. Quan điểm sinh thái bền vững
Phát triển du lịch phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Vì thế phát triển du lịch theo
hướng bền vững là nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tăng cường bảo tồn các giá trị văn
9
hóa, bản sắc dân tộc, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo được sự phát triển bền vững.
Do đó khi nghiên cứu đề tài cần tính đến khả năng tác động của du lịch đối với môi trường,
khả năng chịu đựng của hệ sinh thái. Làm sao để đảm bảo phát triển du lịch một cách bền
vững. Đó là quan điểm chủ chốt của luận văn.
4.1.4. Quan điểm lịch sử- viễn cảnh
Các nhân tố trong tự nhiên hay xã hội đều có sự thay đổi theo thời gian. Cần dựa trên
những thay đổi của đối tượng địa lí từ quá khứ đến hiện tại. Nắm bắt và đánh giá hiện trạng
để đề xuất những giải pháp cho tương lai. Nhằm đưa ra các dự báo về xu hướng phát triển
của hệ thống lãnh thổ.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
Các tài liệu thống kê được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: tài liệu lưu trữ quốc
gia và trung ương, tài liệu của các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch, các tài liệu khác có
liên quan.
Các tài liệu thống kê luôn được bổ sung, cập nhật, và được tác giả chọn lọc, tổng hợp
và phân tích liên hợp các yếu tố trong mối tương quan, ảnh hưởng lẫn nhau làm cơ sở cho
mục đích nghiên cứu của luận văn.
4.2.2. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Là một phương pháp không thể thiếu trong nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý du
lịch nói riêng. Phương pháp này được sử dụng từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối của quá
trình tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối liên hệ về thời gian, không gian, số lượng,
chất lượng của các đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận văn một cách chi tiết,
khoa học thông qua các bản đồ, biểu đồ.
4.2.3. Phương pháp thực địa
Phương pháp thực địa là một phương pháp truyền thống của địa lý học, được sử dụng
rộng rãi trong địa lý du lịch nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc
điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn
được coi trọng nhằm có được cái nhìn thực tế về đặc trưng lãnh thổ nghiên cứu. Phương
pháp này còn được thực hiện kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học.
4.2.4. Phương pháp khai thác phần mềm của hệ thống thông tin
Các chương trình phần mềm xử lý các thông tin thu được qua điều tra như Excel,
Windows, Word, MapInfor được sử dụng để xử lý, phân tích kết quả điều tra và thể hiện
10
qua các bảng thống kê, các bản đồ, biểu đồ, sơ đồ.
4.2.5. Phương pháp dự báo
Mô hình dự báo định lượng dựa trên số liệu quá khứ, những số liệu này giả sử có liên
quan đến tương lai và có thể tìm thấy được. Tất cả các mô hình dự báo theo định lượng có
thể sử dụng thông qua chuỗi thời gian và các giá trị này được quan sát đo lường các giai
đoạn theo từng chuỗi .
Tuy nhiên hiện nay thông thường khi dự báo người ta thường hay kết hợp cả phương
pháp định tính và định lượng để nâng cao mức độ chính xác của dự báo. Bên cạnh đó, vấn
đề cần dự báo đôi khi không thể thực hiện được thông qua một phương pháp dự báo đơn lẻ
mà đòi hỏi kết hợp nhiều hơn một phương pháp nhằm mô tả đúng bản chất sự việc cần dự
báo.
Trong quá trình nghiên cứu, đòi hỏi cần có sự tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
các nhà làm du lịch, các cấp quản lí. Cũng như sự hướng dẫn của các giảng viên để đề tài có
thể được hoàn thành tốt hơn, hoàn chỉnh hơn.
5. Đóng góp chủ yếu của đề tài
- Tổng quan và hệ thống hóa vấn đề lý luận và thực tiễn địa lí du lịch; trên cơ sở đó
vận dụng vào nghiên cứu cụ thể trên địa bàn huyện Củ Chi.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện phát triển du lịch huyện Củ Chi.
Đưa ra các sản phẩm du lịch và các loại hình du lịch huyện Củ Chi.
-Đề xuất các giải pháp chủ yếu góp phần khai thác tài nguyên, phát triển du lịch hiệu
quả và bền vững.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm các phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, tài liệu tham
khảo và phụ lục.
Trong đó, phần nội dung của luận văn sẽ được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền
vững.
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Một số khái niệm về du lịch, du lịch bền vững và những vấn đề liên quan
1.1.1. Khái niệm du lịch
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống văn hóa- xã hội và hoạt động du lịch đang phát triển một cách mạnh
mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.
Thuật ngữ “ du lịch” trở nên rất thông dụng. Nó bắt nguồn từ tiếng Pháp:
“ Tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Du lịch
gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm hồi phục, nâng cao sức khỏe và khả năng lao động
của con người, nhưng trước hết liên quan mật thiết với sự chuyển chỗ của họ. Vậy du lịch là
gì?
Trong vòng hơn 9 thập kỉ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du
lịch IUOTO ( International of Union Official Travel Organization) năm 1925 tại Hà Lan,
khái niệm du lịch luôn được tranh luận. Đầu tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng
cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các
vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày nay, người ta đã thống nhất
rằng về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước trừ
việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch.
Lúc đầu số người đi du lịch rất hạn chế, sau đó dần dần tăng lên. Với việc hoàn thiện
các phương tiện và mạng lưới giao thông, những cuộc đi chơi như vậy kéo dài hơn, xa hơn.
Lúc này du lịch mang tính nhận thức và trở thành một hiện tượng lập lại thường xuyên, phổ
biến. Trên bình diện quốc gia hay quốc tế, vấn đề cấp thiết đang đặt ra là phải tạo điều kiện
nhằm thỏa mãn tới mức cao nhất các nhu cầu của người du lịch về giao thông, ăn uống,
quần áo, giày dép, đồ lưu niệm và nhiều mặt hàng khác. Du lịch không chỉ tạo nên sự vận
động của hàng triệu người từ nơi này sang nơi khác, mà còn phát sinh nhiều hiện tượng kinh
tế - xã hội gắn liền với nó.
Như vậy du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt nó mang ý nghĩa
thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí…Mặt khác,
du lịch được nhìn nhận dưới góc độ khác như là hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh
tế ( sản xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra.
12
Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu được trong
cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các chuyến du lịch trong hoặc ngoài nước, con
người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi giải trí, mà còn nhằm thỏa mãn cả những nhu cầu
to lớn về mặt tinh thần. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những đặc trưng riêng biệt về tự
nhiên, lịch sử, văn hóa, truyền thống …thu hút khách du lịch. Thông qua việc phát triển du
lịch quốc tế, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng được mở rộng . Năm
1979, Đại hội của tổ chức du lịch thế giới ( IUOTO) đã thông qua hiến chương du lịch và
chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm gắn du lịch với sự
tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, vì hòa bình và tình hữu nghị trên toàn thế
giới. Du lịch không còn là hiện tượng lẻ loi, đặc quyền của cá nhân hay nhóm người nào đó.
Ngày nay, nó mang tính chất phổ biến và tính nhận thức với mục tiêu không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, củng cố hòa bình và hữu nghị giữa các
dân tộc
Nội dung thứ hai của khái niệm du lịch là hệ quả của nội dung thứ nhất . Du lịch là
một hiện tượng kinh tế - xã hội thu hút hàng tỉ người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó
là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
của khách.
Trong những thập kỉ gần đây, du lịch phát triển rất nhanh . Theo số liệu của tổ chức du
lịch thế giới, hàng năm trên Trái Đất có 3 tỉ người đi du lịch. Tất nhiên, ngành kinh tế tổng
hợp phục vụ du lịch phải ra đời và phát triển với tốc độ như vũ bão để đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt khổng lồ của 8 triệu người du lịch bình quân cho mỗi ngày.
Dòng người du lịch đông đảo có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của nhiều
nước. Các ngành kinh tế gắn liền với du lịch như giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng, thương nghiệp, ăn uống công cộng..v..v.. trong chừng mực nhất định phải đổi cả
hướng và cơ cấu sản xuất.
Bản chất của sản xuất du lịch được thể hiện qua tất cả các ngành kinh tế. Du lịch đòi
hỏi phải phát triển và mở rộng các ngành công nghiệp khác nhau phục vụ cho nhu cầu du
lịch như sản xuất các phương tiện giao thông, thiết bị điện, đồ gỗ,..các mặt hàng tiêu dùng,
thực phẩm chế biến…Ngay cả nhu cầu. Một số mặt hàng như đồ lưu niệm, tuy đơn giản
nhưng lại có tác dụng làm sống lại những ngành nghề thủ công truyền thống.
Nông nghiệp cũng hướng vào việc sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch. Để thỏa
mãn nhu cầu của du khách, trước mắt các ngành kinh tế đang đặt ra những nhiệm vụ nặng
13
nề, phát triển và hiện đại hóa tất cả các loại giao thông, hoàn thiện các phương tiện liên lạc,
xây các khách sạn, nhà hàng, các tổ hợp dịch vụ.
Việc tăng nhanh dòng người du lịch đòi hỏi không chỉ nhiều mặt hàng tiêu dùng, mà
còn cả bản thân sự phục vụ nữa. Nhu cầu về người phục vụ, những cán bộ du lịch có tay
nghề cao tăng lên đáng kể. Cần phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ từ
những người phục vụ khách sạn, hướng dẫn khách đi tham quan, cho đến những người nấu
ăn, thông tin liên lạc.
Về phương diện lãnh thổ, du lịch cũng có những tác động nhất định, đặc biệt đối với
các vùng xa xôi, nền kinh tế chậm phát triển nhưng có nhiều tiềm năng lôi cuốn khách du
lịch. Bộ mặt nền kinh tế của vùng dần dần được thay đổi tùy thuộc nhiều vào số lượng
khách đến. Đời sống nhân dân được cải thiện nhờ có thêm việc làm và tăng thu nhập.
Du lịch đạt được hiệu quả kinh tế cao, được gọi là “ ngành xuất khẩu vô hình” đem lại
nguồn ngoại tệ lớn. Tốc độ tăng thu nhập của du lịch vượt xa nhịp độ tăng của nhiều ngành
kinh tế. Năm 1950 thu nhập ngoại tệ về du lịch quốc tế chỉ ở mức 2,1 tỷ đô la Mỹ ( USD),
năm 1960 đạt 6,8 tỷ, năm 1970 đạt 18 tỷ, năm 1980 đạt 102 tỷ, năm 1991 đạt 260 tỷ và năm
1994 đạt 338 tỷ.
Số khách du lịch trên thế giới cũng tăng từ 25 triệu lượt người năm 1950 lên 69 triệu
lượt người năm 1960, 160 triệu lượt người năm 1970, 285 triệu lượt người năm 1980; đạt
mức mức 450 triệu lượt người năm 1991 và trên 500 triệu lượt người năm 1994.
Châu Âu là khu vực có du lịch phát triển sớm, đã và sẽ dẫn đầu thế giới về số khách và
thu nhập du lịch. Châu Á Thái Bình Dương có nhịp độ tăng trưởng du lịch rất cao và sẽ
chiếm vị trí quan trọng trong du lịch thế giới. Các nước Đông Nam Á đã trở thành trung tâm
du lịch sôi động và hấp dẫn của khu vực và thế giới. Tốc độ phát triển hàng năm của vùng
Đông Nam Á cao gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng hàng năm của du lịch thế giới. Năm 1994,
Thái Lan đón 6,2 triệu lượt khách du lịch quốc tế và thu được 6,6 tỷ USD, Inđônêxia đón
4,0 triệu lượt khách du lịch quốc tế, thu được 5,3 tỷ, Singapore đón 6,0 triệu lượt khách
quốc tế, thu 6,5 tỷ USD. Ở Việt Nam, ngành du lịch đang mở ra nhiều triển vọng to lớn.
Năm 1990, ngành du lịch nước ta đón hơn 25 vạn lượt khách quốc tế và 1 triệu lượt
khách nội địa đến năm 1994 đã tăng lên 1,018 triệu lượt khách quốc tế và 3,5 triệu lượt
khách nội địa. Nguồn thu nhập xã hội từ du lịch cũng không ngừng phát triển, từ 650 tỷ
đồng năm 1990 lên 4000 tỷ đồng ( trong đó có 210 triệu đôla) năm 1994.
Trong một số tài liệu công bố gần đây nhất, có người quan niệm du lịch bao hàm 3 mặt
14
nội dung, song thực chất không khác gì 2 nội dung trên, bởi vì nội dung đầu được tách ra
làm đôi. Theo I.I Pirojnik ( 1985), thuật ngữ du lịch chuyển tải 3 nội dung cơ bản:
1. Cách thức sử dụng thời gian rỗi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.
2. Dạng chuyển cư đặc biệt.
3. Ngành kinh tế, một trong những ngành thuộc lĩnh vực phi sản xuất nhằm phục vụ
các nhu cầu văn hóa- xã hội của nhân dân.
Du lịch không chỉ bao gồm các dạng hoạt động của dân cư trong thời gian tới, mà còn
bao trùm lên không gian nơi diễn ra các hoạt động khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập
trung các xí nghiệp dịch vụ chuyên môn hóa.
Khái niệm du lịch có thể được xác định như sau:
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di
chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh,
phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm
theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa
( I.I. Pirojnik, 1985).
1.1.2. Khái niệm khách du lịch ( Du Khách)
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, khách du lịch là những người có đặc trưng sau:
- Là người đi khỏi nơi cư trú của mình
- Không theo đuổi mục đích kinh tế.
- Khoảng cách tối thiểu từ nhà đến điểm đến tùy quan niệm của từng nước.
Tại các nước đều có các định nghĩa riêng về khách du lịch. Tuy nhiên, điểm chung
nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch là:
Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi
nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao ở
nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến từ 24g trở lên ( hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua
đêm) nhưng không quá thời gian một năm.
Khách du lịch là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục đích như
nghỉ ngơi, kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình.
Theo Luật Du lịch Việt Nam:
Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm
việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: khách du lịch quốc tế và khách du
15
lịch nội địa.
* Khách du lịch quốc tế ( International tourist)
Năm 1973, Ủy ban thống kê của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc ngày
nay) đã đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là những người thăm viếng một quốc gia ngoài quốc gia cư trú
thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là 24g.
Theo khái niệm trên, xét về mặt thời gian, khách du lịch quốc tế là những người có
thời gian viếng thăm ( lưu lại) ở quốc gia khác ít nhất là 24g. Trên thực tế, những người đến
quốc gia khác có lưu trú qua đêm mặc dù chưa đủ thời gian 24g vẫn được thống kê là khách
du lịch quốc tế.
Bên cạnh khách đi du lịch có lưu trú qua đêm, có nhóm khách chỉ đi du lịch trong
ngày. Đối tượng này được gọi là khách tham quan.
Khách tham quan ( Excursionist, Day-vistor): Những người rời nơi cư trú thường
xuyên của mình đến nơi nào đó, quay trở lại với những mục đích khác nhau, loại trừ mục
đích làm công và nhận thù lao ở nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến không quá 24g,
không sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm.
Để thống nhất hai khái niệm “ khách du lịch” và “khách tham quan”, năm 1963 tại hội
nghị của Liên Hợp Quốc về Du lịch được tổ chức ở Roma ( Ý), Ủy ban thống kê của Liên
Hợp Quốc đưa ra một khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là người thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư trú của
mình với bất kỳ lý do nào ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng
thăm.
Những khái niệm trên khá rõ ràng và chi tiết nhưng vẫn chưa xác định giới hạn về thời
gian lưu lại của khách du lịch tại các điểm đến. Năm 1989, tại Hội nghị liên minh Quốc hội
về du lịch được tổ chức ở Lahaye ( Hà Lan) đã ra “ Tuyên bố Lahaye về du lịch”, trong đó
đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là những người:
- Trên đường đi thăm một hoặc một số nước, khác với nước mà họ cư trú thường
xuyên;
- Mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi không quá thời
gian 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải được phép gia hạn;
- Không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách
16
hay do yêu cầu của nước sở tại;
- Sau khi kết thúc đợt tham quan ( hay lưu trú) phải rời khỏi nước đến tham quan để về
nước nơi cư trú của mình hoặc đi đến một nước khác.
Hiện nay trên thế giới nhiều nước sử dụng khái niệm này.
Như vậy, có thể hiểu: Khách du lịch quốc tế là khách du lịch mà điểm xuất phát và
điểm đến du lịch thuộc phạm vi lãnh thổ của hai hoặc nhiều quốc gia khác nhau.
Luật Du lịch Việt Nam đã đưa ra khái niệm khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào
Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước
ngoài du lịch.
Như vậy, nhóm khách du lịch quốc tế được phân thành 2 loại:
Khách du lịch quốc tế đi vào ( Inbound tourist): là người nước ngoài và người của một
quốc gia nào đó định cư ở nước khác vào quốc gia đó du lịch. Loại khách này sử dụng ngoại
tệ để mua hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: Người Mỹ và Việt kiều Mỹ vào Việt Nam du lịch.
Khách du lịch quốc tế đi ra ( outbound tourist): là công dân của một quốc gia và người
nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đó đi ra nước ngoài du lịch.
Ví dụ: người Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch đến nước
khác ( Trung Quốc, Thái Lan,…v..v).
Những đối tượng sau đây không được công nhận là khách du lịch quốc tế:
- Những người đến một nước để thừa hành nhiệm vụ nào đó ( các nhân viên thương
vụ, ngoại giao ở các sứ quán, cảnh sát quốc tế làm nhiệm vụ ở các nước khác,..);
- Những người đi sang nước khác để hành nghề ( dù có hay không có hợp đồng), hoặc
tham gia các hoạt động kinh doanh ở nước đến.
- Những người nhập cư vào nước đến;
- Học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sống tạm trú ở nước ngoài;
- Những người thường xuyên qua lại biên giới ( nhân viên hải quan tại các cửa khẩu,
người buôn bán ở các chợ biên giới..);
- Những hành khách đi xuyên qua một quốc gia ( khách transit) và không dừng lại cho
dù cuộc hành trình đó kéo dài 24g.
* Khách du lịch nội địa ( Internal tourist)
Khách du lịch nội địa được phân biệt với khách du lịch quốc tế ở chỗ nới đến của họ
17
cũng chính là nước của họ cư trú thường xuyên. Họ cũng được phân biệt với những người lữ
hành trong nước ở mục đích chuyến đi, khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú ( tùy
theo chuẩn mực của từng quốc gia).
Khái niệm về khách du lịch nội địa được xác định không giống nhau ở các nước khác
nhau.
Theo quy định của Mỹ: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi cách nơi
ở thường xuyên của họ ít nhất là 50 dặm , tức khoảng 80 km ( tính trên một chiều) với
những mục đích khác nhau ngoài việc đi làm hàng ngày.
Theo quy định của Pháp: Khách du lịch nội địa là những người rời khỏi nơi cư trú của
mình tối thiểu là 24g và nhiều nhất là 4 tháng với một hoặc một số mục đích: giải trí, sức
khỏe, công tác và hội họp dưới mọi hình thức.
Theo quy định của Canada: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi xa 25
dặm, tức là khoảng 40km và có nghỉ lại đêm, hoặc rời khỏi thành phố và có nghỉ lại đêm tại
nơi đến.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005):
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, tại một số nước còn phân biệt khái niệm khách du lịch trong nước và khách
du lịch quốc gia:
Khách du lịch trong nước ( Domestic tourist): Là tất cả những người đang đi du lịch
trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia ( bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế đi vào).
Khách du lịch quốc gia ( National tourist): Là tất cả công dân của một quốc gia nào đó
đi du lịch ( kể cả đi du lịch trong nước và đi du lịch ra nước ngoài).
1.1.3. Tài nguyên du lịch
* Khái niệm tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là loại tài nguyên có những đặc điểm giống những loại tài nguyên
nói chung, song có một số đặc điểm riêng gắn với sự phát triển của ngành Du lịch.
Tài nguyên du lịch theo Pirojnik: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa-
lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực
tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du
lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng được dùng để
18
trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”. (Pirojnik)
Nguyễn Minh Tuệ và nnk. cũng cho rằng: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và
văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí
tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử
dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch” [22]
Theo các nhà khoa học Du lịch Trung Quốc định nghĩa là: “ Tất cả giới tự nhiên và xã
hội loài người có sức hấp dẫn khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành Du lịch, có thể sản
sinh ra hiệu quả kinh tế- xã hội và môi trường đều có thể gọi là tài nguyên du lịch”. [6]
Khoản 4 ( Điều 4, chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định “ Tài nguyên
du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động
sáng tạo của con người và các gía trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô
thị du lịch”.
Từ những quan niệm trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
Pirojnik, Nguyễn Minh Tuệ và một số học giả cho rằng tài nguyên du lịch là tổng thể
tự nhiên, kinh tế - xã hội văn hóa được sử dụng để phục hồi sức khỏe, phát triển thể lực và
tinh thần con người. Trên cơ sở này các học giả cho rằng địa hình, thủy văn, khí hậu, động –
thực vật , di tích lịch sử văn hóa, văn hóa nghệ thuật lễ hội,…là những tài nguyên du lịch.
Song thực tế không phải bất cứ mọi dạng, mọi kiểu địa hình , tất cả các kiểu khí hậu các yếu
tố khí hậu hay các giá trị văn hóa….đều có khả năng hấp dẫn khách cũng như có khả năng
kinh doanh du lịch. Trong nhiều trường hợp địa hình hiểm trở, các bãi biển bị xâm thực
mạnh, một số kiểu khí hậu, nguồn nước bị ô nhiễm là những điều kiện không hấp dẫn
khách, trở ngại cho phát triển du lịch. Các tác giả trên quan niệm tài nguyên du lịch được sử
dụng để góp phần phục hồi sức khỏe, phát triển thể lực và trí tuệ của con người, khả năng
lao động và sức khỏe của họ. Quan niệm này chỉ phù hợp với đặc điểm phát triển du lịch
của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mang tính bao cấp. Nhà nước xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ du lịch, trả lương cho cán bộ, nhân viên lao động làm việc trong
ngành Du lịch, bỏ tiền để tiếp đón các cán bộ nhân viên nhà nước đi nghỉ dưỡng theo chế độ
hoặc đón tiếp các chuyên gia. Thực tế hiện nay việc bảo tồn và khai thác tài nguyên du lịch
hấp dẫn du khách, ngoài các chức năng xã hội phục vụ cho du khách, tài nguyên du lịch còn
được khai thác nhằm đạt hiệu quả kinh tế , nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, hiệu
quả môi trường và chính trị… Phần nhiều các nhà khoa học trong nước và quốc tế như:
19
Pirojnik, Ngô Tất Hổ, Trần Đức Thanh, Phạm Trung Lương, Bùi Thị Hải Yến cũng như
Luật Du lịch Việt Nam đều cho rằng, tài nguyên du lịch là những cảnh quan thiên nhiên, các
yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người tạo ra có sức hấp dẫn với du khách, có
thể sử dụng phục vụ cho phát triển du lịch.
Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như là tiền đề phát triển du lịch, tài nguyên du
lịch càng phong phú đặc sắc có mức độ tập trung cao thì càng có sức hấp dẫn với du khách
và có hiệu quả kinh doanh du lịch cao.
Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, việc khai thác phụ thuộc vào nhiều điều
kiện kinh tế- xã hội, khoa học kỹ thuật, chính trị nên ngày càng được mở rộng. Do vậy, tài
nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên du lịch đã, đang khai thác và tài nguyên du lịch chưa
được khai thác.
Từ những nhận xét trên tác giả đưa khái niệm tài nguyên du lịch : “ Là tất cả những gì
thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra có sức hấp dẫn khách du
lịch, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành Du lịch mang lại hiệu quả kinh tế -
xã hội và môi trường”.
1.1.4. Các loại tài nguyên du lịch
* Nhóm tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên tự nhiên gồm các yếu tố, các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên,
các quá trình biến đổi chung hoặc có thể khai thác và sử dụng vào đời sống và sản xuất của
con người.
Theo khoản 1 ( Điều 13, Chương II) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “ Tài
nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ
sinh thái, cảnh quan tự nhiên được khai thác hoặc có thể được sử dụng phục vụ mục đích du
lịch”.
- Các thành phần của tự nhiên
Theo căn cứ và sơ đồ phân loại tài nguyên du lịch thì có một số thành phần tự nhiên
hấp dẫn du khách đã, đang hoặc có thể khai thác phục vụ cho mục đích du lịch như địa chất,
địa mạo, địa hình, khí hậu, thủy văn và sinh vật.
Địa chất- địa hình- địa mạo
Các quá trình địa chất là nguyên nhân tạo ra bề mặt địa hình, việc nghiên cứu chúng có
thể phát hiện ra những giá trị để hấp dẫn du khách, là cơ sơ quan trọng để phát triển du lịch
của các địa phương và quốc gia.
20
Do đạt được tiêu chí nêu trên nên tháng 11 năm 2000, lần thứ 2 Vịnh Hạ Long được
công nhận là di sản tự nhiên thế giới và tháng 7 năm 2003 vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ
Bàng được công nhận là di sản tự nhiên thế giới.
Khi nghiên cứu địa hình bao gồm: hình thái, độ cao, độ dốc, hướng của địa hình, các
địa hình tạo nên cảnh quan đẹp.
Đối với hoạt động du lịch, đặc điểm hình thái địa hình nghĩa là các dấu hiệu bên ngoài
của địa hình và các dạng địa hình ngoạn mục, sự kết hợp của địa hình với các dạng tài
nguyên nước, khí hậu, sinh vật tạo nên các cảnh quan tự nhiên, kỳ thú, là những yếu tố hấp
dẫn du khách
- Các đơn vị hình thái chính của địa hình là đồi núi, cao nguyên, đồng bằng, ven biển
và đảo.
+ Địa hình đồng bằng khá đơn điệu về ngoại hình. Tuy nhiên sự kết hợp giữa đồng
bằng với tài nguyên nước như: sông, kênh, rạch, ao hồ, tài nguyên sinh vật đã tạo nên những
phong cảnh thủy mặc, yên ả, thanh bình, khoảng đất bao la hấp dẫn du khách như các đồng
bằng sông MeKong ở Campuchia, sông Mê Nam của Thái Lan, sông Cửu Long của Việt
Nam, đồng bằng Amazon của Braxin….
Thêm vào nữa đồng bằng là nơi thuận lợi cho cư trú của dân cư nông nghiệp, là điều
kiện quan trọng để hình thành nên các nền văn minh, văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ nhiều
giá trị văn hóa của loài người ở nhiều quốc gia. Do vậy, địa hình đồng bằng ở nhiều quốc
gia trên thế giới đã và đang được phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái
nhân văn, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch nghỉ dưỡng.
+ Địa hình đồi núi, cao nguyên thường tạo ra những không gian kỳ vĩ, sinh động và
thơ mộng.
Do sự chia cắt của bề mặt địa hình, nên đã tạo nên sự tương phản về cảnh vật giữa các
thung lũng sâu, với các dãy núi cao nguyên cao, tạo ra sức hấp dẫn với du khách. Các vùng
đồi là nơi cư dân đến quần cư sớm và khá đông đúc. Do vậy vùng đồi núi là nơi lưu giữ và
phát hiện thấy nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử văn hóa, tạo điều kiện phát triển các loại
hình du lịch khám phá, du lịch tham quan nghiên cứu như ở Sơn Vi- Lâm Thao- Phong
Châu ( Phú Thọ), Đồng Nai,…
Núi và cao nguyên là dạng địa hình có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.
Loại địa hình này thuận lợi cho phát triển loại hình du lịch, tham quan, nghỉ dưỡng. Ở các
nước ôn đới, về mùa đông nhiều vùng núi thường có băng tuyết nên ở những vùng núi có độ
21
cao từ 1500m-2000m có phong cảnh đẹp như: An pơ, Pi-rê-nê,…thuận lợi cho phát triển du
lịch thể thao mùa đông.
Vùng núi là nơi có nhiều suối nước nóng, nước khoáng nên còn thuận lợi cho phát
triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh.
Những vùng núi có độ cao trên 2500m có phong cảnh đẹp, thuận lợi cho phát triển loại
hình du lịch thể thao mạo hiểm leo núi như: khu Everest (Hymalaya), Fanxipang ( Việt
Nam), Kilimantan ( Tanzania), An pơ, Coocdie, Andes,….
Vùng núi cao còn là nơi bảo tồn nhiều khu vườn quốc gia, có đa dạng sinh học cao,
phong phú cảnh đẹp. Đồng thời vùng núi cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số
còn giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Những điều kiện này thuận lợi cho
phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa.
- Các dạng địa hình thuận lợi cho phát triển du lịch: có nhiều dạng địa hình đặc biệt có
giá trị to lớn cho việc triển khai phát triển các hoạt động du lịch, đó là: kiểu địa hình Karst (
đá vôi) và kiểu địa hình ven bờ- bãi biển và đảo.
+ Địa hình Karst gồm các kiểu chủ yếu như: hang động Karst, cánh đồng Karst, phễu
Karst, sông hồ Karst, Karst ngập nước. Trong đó kiểu Karst hấp dẫn du khách nhất là hang
động Karst và kiểu Karst ngập nước ( Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà,…).
Hiện nay trên thế giới có khoảng 700 hang động đã được sử dụng để phát triển du lịch.
Trên thế giới có nhiều hang động được đánh giá là dài, sâu nhất đó là: Flint Mammauth
Cave Stystem ở Hoa Kỳ dài 530km; Cptumisticas Kay dài 153 km ở Ucraina; Holloch dài
133,5 km ở Thụy Sỹ; RescauSecan Bernard sâu 1535m ở Pháp, Sistem de Trave sâu 1380m
ở Tây Ban Nha.
Ở Việt Nam các hang động: Phong Nha, Thiên Đường ( nằm trong di sản tự nhiên thế
giới vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng), hang Thiên Cung trong di sản tự nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long cũng được đánh giá là một trong những hang động đẹp và kỳ vỹ của thế giới.
Nhìn chung kiểu địa hình karst thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch như: thám
hiểm hang động, tham quan nghiên cứu,…
+ Kiểu địa hình ven bờ và đảo: kiểu địa hình ven bờ hấp dẫn khách du lịch đó là các
bãi cát ven biển, hồ, sông. Trong đó đặc biệt là các bãi cát ven biển, đảo, thường được gọi là
các bãi biển.
Các bãi biển hoặc ven hồ hấp dẫn du khách và thuận lợi phát triển các loại hình du lịch
tắm biển, lặn biển, thể thao biển, nghỉ dưỡng chữa bệnh. Nhu cầu du lịch biển trên thế giới
22
cũng như ở Việt Nam ngày càng tăng, theo UNWTO ( Tổ chức Du lịch thế giới), có hơn
70% số du khách được thích đi du lịch biển.
- Các di tích tự nhiên: các quá trình nội lực và ngoại lực đã tạo thành trên bề mặt địa
hình nhiều di tích tự nhiên có giá trị thẫm mỹ. Trong đó nhiều di tích tự nhiên do không giải
thích được nguyên nhân khoa học hình thành chúng, nên con người đã dệt cho nó những
huyền thoại. Do vậy, nhiều di tích tự nhiên đã trở thành những điểm tham quan hấp dẫn du
khách như hòn Chồng ( Nha Trang), hòn Trống Mái ( Sầm Sơn- Thanh Hóa), hòn Gà Chọi (
Vịnh Hạ Long), giếng Giải Oan ( Chùa Hương – Hà Tây).
Khí hậu
Khí hậu là một loại tài nguyên sớm được khai thác để quy hoạch phát triển du lịch. Từ
cuối thế kỷ XVIII đến những năm đầu thế kỷ XX đã có nhiều dự án quy hoạch phát triển du
lịch ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ở những nơi có khí hậu trong lành, mát mẻ như:
Dovos, Crans – Montana, Lesyin ở Thụy Sỹ, Kitzibuhel Cista,…ở Đức, Shimla, Dazilung,
Neinitan ở Ấn Độ, núi Thái Sơn ở Trung Quốc; Sapa, Đà Lạt, Bạch Mã, Ba Vì, Mẫu Sơn,
Bà Nà, Tam Đảo ở Việt Nam. Các điều kiện của tài nguyên khí hậu phục vụ cho việc chữa
bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các mục đích phát triển du lịch khá đa dạng
như: Tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe của con người; tài nguyên khí hậu phục vụ
cho việc chữa bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các hoạt động thể thao mùa
đông; tài nguyên khí hậu thích hợp cho hoạt động du lịch tắm, lặn biển và thể thao biển…
Tài nguyên nước
Nước được coi là tài nguyên quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch
nói chung và để phát triển nhiều loại hình du lịch. Các loại tài nguyên nước sau đây đã được
khai thác là tài nguyên du lịch:
- Nước mặt: sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước ven
biển. Bề mặt nước của sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước
biển đã kết hợp với các tài nguyên khác như núi non, rừng cây tự nhiên, hệ sinh thái nhân
văn tạo ra những phong cảnh nên thơ, hữu tình hấp dẫn du khách.
+ Các vùng nước ven biển có bãi cát đẹp hoặc ven các hồ, có môi trường trong sạch,
độ mặn phù hợp từ 30- 40‰, độ trong suốt cao, thường được khai thác để phát triển các loại
hình thể thao, bơi lội, lặn biển, tắm biển, đua thuyền, lướt ván như các bãi biển ở Việt Nam
và nhiều nước trên thế giới.
Bề mặt nước ven các bãi biển, trên các hồ, các sông suối, kênh rạch có động tham
23
quan trên nước. Ví dụ như ở Sidney, Menbourn ( Austraylia), trên các hồ lớn như Ngũ Hồ (
Canada- Hoa Kỳ), trên các sông, kênh rạch ở Thái Lan, trên sông Mê Kông ở Việt Nam,
Lào, Campuchia, …
+ Các thác nước cũng đã tạo nơi có phong cảnh đẹp và hấp dẫn du khách có thể triển
khai các hoạt động du lịch tham quan và thể thao mạo hiểm.
- Các điểm nước khoáng, suối nước nóng
Các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý để triển khai
các loại hình du lịch, nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh. Trên thế giới, những nước giàu
nguồn nước khoáng cũng là những nước phát triển loại hình du lịch chữa bệnh nghỉ dưỡng
dựa vào nguồn nước khoáng như Liên Bang Nga, Bungari, Hungari, Thụy sỹ, Áo, Italia,
CHLB Đức, CH Séc và Slôvakia,...
Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên sinh vật bao gồm toàn bộ các loài thực vật, động vật sống trên lục địa và
dưới nước vốn có sẵn trong tự nhiên và do con người thuần dưỡng, chăm sóc, lai tạo.
Tài nguyên sinh vật vừa góp phần cùng với các loại tài nguyên khác tạo nên phong
cảnh đẹp, hấp dẫn, vừa có ý nghĩa bảo vệ môi trường như: bảo tồn các nguồn gen, che phủ
cho mặt đất, hạn chế hiện tượng xói mòn, xâm thực, rửa trôi, lở đất, trượt đất, lũ quét, lở
trượt băng tuyết ở các miền núi, hạn chế được hiện tượng xâm thực, tác dụng tiêu cực của
sóng thần, các vùng ven biển. Thảm thực vật còn cung cấp chất mùn cho thổ nhưỡng, được
coi là máy điều hòa tự nhiên, lọc không khí, làm cho không khí thêm trong lành, mát mẻ.
Tài nguyên sinh vật là nguồn cung cấp nhiều loại dược liệu cho việc phát triển loại
hình du lịch chữa bệnh và an dưỡng như ( tắm thuốc của người Dao Đỏ ở Sapa – Lào Cai);
cung cấp nguồn thực phẩm cho du khách. Vì vậy, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa cho việc
phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch chữa bệnh, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, đi
bộ, leo núi, lặn biển, tham quan, nghiên cứu), cùng với các tài nguyên nước và địa hình góp
phần phát triển du lịch sông nước, miệt vườn.
Vườn quốc gia
Là nơi tập trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động – thực vật đặc hữu,
quý hiếm, nhiều VQG có khả năng hấp dẫn du khách cao, thuận lợi cho việc phát triển các
loại hình du lịch sinh thái.
Khu bảo tồn thiên nhiên
Là một khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc trên biển, được thành lập để bảo tồn bền
24
vững các HST chưa hoặc bị biến đổi rất ít và có các loài động – thực vật đặc hữu hoặc đang
bị đe dọa. KBT không có chức năng hoạt động du lịch sinh thái và không khuyến khích phát
triển du lịch sinh thái mà thiên về mục tiêu bảo tồn các HST nhiều hơn.
Khu bảo tồn loài và nơi cư trú
Là khu vực trên đất liền hay trên biển, được quản lý bằng các biện pháp tích cực nhằm
duy trì các nơi cư trú và đảm bảo sự sống lâu dài của các loài động vật, kể cả các loài sinh
vật biển đang có nguy cơ bị tiêu diệt”.
Khu bảo tồn cảnh quan
Là khu vực đất liền, đất ngập nước trên biển và ven biển, có tác động qua lại giữa con
người và thiên nhiên lâu đời nên đã tạo ra một khu vực có giá trị cao về thẩm mỹ, sinh thái,
văn hóa và lịch sử, đôi khi cũng có giá trị ĐDSH cao. Việc duy trì tính toàn vẹn của các mối
tác động qua lại truyền thống này là điểm cốt lõi của công tác bảo vệ, duy trì và phát triển
KBT thuộc hạng này”.
Một số HST đặc biệt
Các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam có một số HST đặc biệt có sự ĐDSH tiêu
biểu cho thiên nhiên ở mỗi vùng, có khả năng hấp dẫn du khách, có ý nghĩa cho việc bảo vệ
môi trường, bảo vệ sự ĐDSH.
Ví dụ: Ở những vùng ven biển có HST rừng ngập mặn, nếu việc quy hoạch phát triển
du lịch hoặc các hoạt động kinh tế khác không hợp lý, hệ thực vật bị chặt phá sẽ kéo theo sự
xâm thực các vùng đất ven biển, mất đi nơi ở sinh sản và kiếm ăn của nhiều loài thủy sản,
nhiều loài thú, bò sát, lưỡng cư và các loài và các loài chim nước. Ở HST này, các loại cây
con thường được mọc ra từ rễ của cây lớn, các cây lớn sẽ nuôi dưỡng và bảo vệ cho các cây
con, các loài thực vật có bộ rễ phát triển sống đan chặt vào nhau, cùng nhau tồn tại. Do vậy,
việc trồng rừng ngập mặn rất tốn kém và khó có hiệu quả.
Các điểm tham quan sinh vật
Là những khu vực trên đất liền hoặc trên các đảo được đầu tư quy hoạch xây dựng để
bảo tồn, nuôi dưỡng các loài động – thực vật quý hiếm, các HST nhằm mục đích bảo tồn sự
ĐDSH, nghiên cứu phổ biến khoa học, giáo dục cộng đồng, tìm hiểu cảm nhận môi trường
sống. Việc quản lý, bảo tồn động vật hoang dã và phục vụ giải trí, phát triển du lịch sinh
thái , tìm hiểu văn hóa của cư dân bản địa ở các điểm tham quan sinh vật chủ yếu tại các
công viên quốc gia, các trang trại, miệt vườn. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đã có nhiều điểm tham quan sinh vật hấp dẫn du khách
25
- Các cảnh quan du lịch tự nhiên
Điểm du lịch tự nhiên là nơi có dạng TNDL hấp dẫn du khách. Có những điểm du lịch
tự nhiên đã được đầu tư khai thác vào mục đích phát triển du lịch gọi là các điểm du lịch tự
nhiên đã được hình thành. Có những điểm du lịch tự nhiên có dạng tài nguyên hoặc các bộ
phận của nó có sức hấp dẫn du khách, nhưng chưa được đầu tư khai thác phát triển du lịch
gọi là các điểm du lịch tiềm năng.
Theo Khoản 8 ( Điều 4, Chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, có thể định
nghĩa: Điểm du lịch tự nhiên là nơi có TNDL hấp dẫn du khách.
Theo Khoản 1,2 ( Điều 2,4, Chương IV) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, các điểm
du lịch tự nhiên cấp Quốc gia phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Có TNDL tự nhiên đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.
- Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo phục vụ ít nhất
100000 lượt khách tham quan một năm.
Dựa theo khái niệm về du lịch, theo Khoản 7 ( Điều 4, Chương I) Luật Du lịch Việt
Nam năm 2005, có thể định nghĩa khu du lịch tự nhiên như sau:
“ Khu du lịch tự nhiên là nơi có TNDL tự nhiên có ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên
nhiên, hấp dẫn du khách, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch”
- Di sản thế giới- Di sản thiên nhiên thế giới
Di sản thế giới
Theo UNESCO, Di sản thế giới là: “ Di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng núi,
dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố,…do các nước có tham gia
Công ước Di sản thế giới đề nghị cho chương trình Quốc tế Di sản thế giới, được nhận và
quản lý bởi UNESCO. Sau đó Chương trình Quốc tế Di sản thế giới sẽ lập danh sách, đặt
tên, bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại
chung”.
Việt Nam tham gia vào Công ước Di sản thế giới năm 1978. Di sản thế giới gồm có:
DSTN thế giới, DSVH thế giới, DSVH và TN thế giới.
Năm 1989, tại phiên họp Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách để công
nhận một danh hiệu cho một sản phẩm văn hóa phi vật thể là kiệt tác DSVH truyền miệng
và phi vật thể của nhân loại.
Từ năm 1978 đến ngày 29 tháng 6 năm 2007, Hội đồng Di sản thế giới UNESCO đã
26
công nhận 851 di sản thế giới gồm 660 DSVH, 166 DSTN, 25 DSVH & TN.
Di sản tự nhiên thế giới
Là các công trình thiên nhiên hợp thành bởi những thành tựu vật lý và sinh học hoặc
những nhóm thành hệ có một giá trị toàn cầu, đặc biệt về mặt thẫm mỹ hoặc khoa học, các
thành hệ địa chất và địa văn, các miền được phân định ranh giới rõ ràng, làm nơi sinh sống
của các loài động vật và thực vật bị đe dọa, đặc biệt về các mặt khoa học, bảo tồn hoặc vẻ
đẹp thiên nhiên.
* Nhóm tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng
tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với du khách và có thể
khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài
nguyên du lịch nhân văn.
Vì vậy tài nguyên du lịch nhân văn thường là những giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc
của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Du khách đi du lịch là để trải nghiệm, tìm hiểu, hưởng
thụ các giá trị về văn hóa, giá trị về thiên nhiên, nên những tài nguyên du lịch nhân văn đặc
sắc, độc đáo ở mỗi địa phương, ở mỗi quốc gia có tính hấp dẫn lớn đối với du khách.
Các tài nguyên du lịch nhân văn
- Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể gồm:
+ Di sản văn hóa thế giới vật thể.
+ Các di tích lịch sử văn hóa, danh thắng cấp quốc gia và địa phương.
+ Các cổ vật và bảo vật quốc gia.
+ Các công trình đương đại.
- Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể gồm:
+ Di sản văn hóa thế giới truyền miệng và phi vật thể.
+ Các lễ hội truyền thống.
+ Nghề và làng nghề thủ công cổ truyền.
+ Văn hóa nghệ thuật.
+ Văn hóa ẩm thực.
+ Văn hóa ứng xử, phong tục, tập quán.
+ Thơ ca và văn học.
+ Văn hóa các tộc người.
+ Các phát minh, sáng kiến khoa học.
27
+ Các hoạt động văn hóa thể thao, kinh tế- xã hội có tính sự kiện.
1.1.5. Các loại hình du lịch
- Du lịch tham quan
Tham quan là hoạt động quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới
xung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một tài nguyên du lịch tự nhiên như một phong
cảnh kỳ thú, cũng có thể là tài nguyên du lịch nhân văn như một di tích, một công trình
đương đại hay một cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất,…
- Du lịch giải trí
Những người đi du lịch theo loại hình này nhằm mục đích tách khỏi sự căng thẳng,
đơn điệu của công việc hàng ngày, tìm kiếm sự thư giãn thoải mái thông qua các hoạt động
giải trí ở điểm đến du lịch. Có thể có nhu cầu tham quan hoặc các nhu cầu khác, song mục
tiêu đó không phải là cơ bản. Khách du lịch thường chọn một nơi yên bình, không đi lại
nhiều.
- Du lịch kinh doanh
Không thể phủ nhận mục đích kinh tế trong chuyến đi của nhiều người, đặc biệt là
thương gia. Mục đích chính của chuyến đi là tìm kiếm cơ hội đầu tư, cơ hội kinh doanh, tìm
đối tác làm ăn,…Song đối với các cơ sở kinh doanh du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú,
đây lại là đối tượng phục vụ đặc biệt. Đối với ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua,
khách du lịch thương gia chiếm tỷ trọng khá lớn về số lượng ( trên 20%) và đặc biệt tỷ trọng
chi tiêu của nhóm người này so với toàn bộ chi tiêu của khách du lịch luôn giữ ở mức cao
nhất.
- Du lịch công vụ
Khách du lịch công vụ đến một nơi nào đó nhằm mục đích tham dự các hội nghị, hội
thảo, hội chợ hoặc tăng cường quan hệ ngoại giao trao đổi văn hóa…Được coi là một loại
hình du lịch vì các đại biểu cũng có nhu cầu về đi lại, ăn, ở, giải trí. Hơn nữa họ còn có
những nhu cầu bổ sung như: tổ chức hội họp, MICE, thông tin liên lạc, dịch thuật,…và
thường có khả năng chi trả lớn. Đặc điểm của loại hình du lịch này là tính thời vụ thường
khá thấp.
- Du lịch thể thao
Đây là loại hình xuất hiện để đáp ứng lòng đam mê các hoạt động thể thao của mọi
người. Để kinh doanh loại hình này, yêu cầu điểm du lịch phải có các điều kiện tự nhiên
thích hợp và có cơ sở trang thiết bị phù hợp cho từng loại hình cụ thể. Mặt khác nhân viên
28
cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp đỡ cho khách du lịch chơi đúng quy
cách.
- Du lịch nghỉ dưỡng
Là những địa điểm có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục
như các bãi biển, hồ, sông suối, suối nước nóng, vùng núi, vùng nông thôn,…Cho đến nay
ngành du lịch Việt Nam chủ yếu vẫn kinh doanh loại hình du lịch này.
- Du lịch lễ hội
Mục đích du lịch lễ hội là tham gia vào các lễ hội được tổ chức ở một địa danh nổi
tiếng nào đó, qua đó nâng cao hiểu biết về văn hóa, tăng cường mở rộng quan hệ giao tiếp.
Lễ hội có thể là: lễ hội truyền thống, festival chuyên đề, liên hoan phim, âm nhạc,…
- Du lịch tôn giáo
Du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách chủ yếu để thỏa mãn các nhu
cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo của tín đồ hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị
giáo. Điểm đến của các luồng khách du lịch này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa…
- Du lịch mạo hiểm
Du lịch mạo hiểm dựa trên nhu cầu tự thể hiện mình, tự rèn luyện mình và khám phá
bản thân của con người, đặc biệt là giới trẻ. Về loại hình du lịch này, Việt Nam là nước có
lợi thế khá lớn bởi được thiên nhiên ưu đãi về các điều kiện địa hình và khí hậu. Với ¾ diện
tích là đồi núi, có nhiều vực sâu, lại nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa nên tạo ra các vùng phù
hợp cho du lịch khám phá.
- Du lịch nghiên cứu học tập
Đây là loại hình du lịch nhằm nâng cao, củng cố kiến thức đã học hoặc tìm hiểu sâu về
các vần đề tò mò muốn tìm hiểu kiến thức bổ sung ở điểm đến du lịch.
- Du lịch thăm thân
Mục đích của chuyến đi du lịch theo loại hình này nhằm thăm viếng bà con, gia đình,
bạn bè…trong quá trình đó họ kết hợp tham quan, tìm hiểu thêm về đặc trưng văn hóa, điều
kiện tự nhiên của khu vực đó và sự thay đổi theo năm tháng mà họ muốn khám phá trải
nghiệm. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, trong những năm gần đây, có
khoảng 20 % số khách đến Việt Nam với mục đích thăm người thân.
- Một số loại hình du lịch đặc thù khác
Du lịch hoài niệm, du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch nông nghiệp, du lịch đánh
bạc, du lịch vườn,…
29
1.1.6. Phát triển bền vững
Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác
nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá … Phát triển là xu hướng tự nhiên tất
yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Phát triển kinh tế - xã
hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát
triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nâng cao các giá trị văn hoá cộng đồng. Sự
chuyển đổi của các hình thái xã hội từ xã hội công xã nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ lên
phong kiến rồi chế độ tư bản … Được coi là một quá trình phát triển.
Mục tiêu của phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người,
làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên, tạo lập một xã hội công bằng và bình đẳng
giữa các thành viên. Các mục tiêu của phát triển thường được cụ thể hoá bằng những chỉ
tiêu về đời sống vật chất như lương thực, nhà ở, điều kiện bảo đảm sức khoẻ và đời sống
tinh thần như giáo dục, mức hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, sự bình đẳng xã hội, tự do
chính trị, truyền thống lịch sử của từng quốc gia.
Sau một thời gian dài phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, bên cạnh những lợi
ích xã hội, nâng cao điều kiện sống cho con người, hoạt động phát triển cũng đã và đang
làm cạn kiệt tài nguyên, gây ra những tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường Trái Đất.
Trước những thực tế không thể phủ nhận là môi trường ngày càng bị ô nhiễm bởi chất thải
từ các hoạt động kinh tế, nhiều hệ sinh thái đã bị suy thoái ở mức báo động, nhiều loài sinh
vật đã và đang có nguy cơ bị diệt vong, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của toàn
xã hội qua nhiều thế hệ …Từ nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới của con người
về hoạt động phát triển, đó là “phát triển bền vững”.
Lý thuyết về phát triển bền vững xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX và chính
thức đưa ra tại Hội nghị của Uỷ Ban thế giới về Phát triển và Môi trường (WCED) nổi tiếng
với tên gọi của Uỷ ban Brundtlant năm 1987.
Trong định nghĩa của Brundtlant thì: “Phát triển bền vững được hiểu là hoạt động phát
triển kinh tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Tuy nhiên nội dung chủ yếu của vấn đề
này xoay quanh vấn đề kinh tế.
Một định nghĩa khác về phát triển bền vững được các nhà khoa học trên thế giới đề
cập tới một cách tổng quát hơn: “Phát triển bền vững là các hoạt động phát triển của con
người nhằm phát triển và duy trì trách nhiệm của cộng đồng đối với lịch sử hình thành và
30
hoàn thiện sự sống trên trái đất”.
Mặc dù còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm về phát triển bền vững ở những
góc độ khác nhau, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến nay khái niệm mà Uỷ ban Thế
Giới về phát triển và môi trường WCED đưa ra năm 1987 được sử dụng rộng rãi, làm chuẩn
mực để so sánh các hoạt động phát triển có trách nhiệm đối với môi trường của con người.
Theo quan điểm của tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra năm 1980
“Phát triển bền vững phải cân nhắc đến hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và
không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch
hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Điều này khẳng định rằng mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của hầu hết các nước trên thế giới phải được xác định trong mối quan hệ bền
vững.
Tại hội nghị về Môi trường toàn cầu RIO – 92 và RIO – 92+5, quan niệm về phát triển
bền vững được các nhà khoa học bổ sung, theo đó: “Phát triển bền vững được hình thành
trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế
và hệ văn hoá – xã hội”.
Dưới quan điểm phát triển bền vững này, Jacobs và Sadler (1992) cho rằng phát triển
bền vững là kết quả tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của 3 hệ thống nói trên, đồng
thời xác định phát triển bền vững không cho phép con người vì sự ưu tiên phát triển của hệ
này mà gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay nói cụ thể hơn thì phát triển bền
vững là sự dung hoà các tương tác và sự thoả hiệp giữa 3 hệ thống nói trên nhằm đưa ra các
mục tiêu hẹp hơn cho sự phát triển bền vững bao gồm:
- Tăng cường sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng vào những quyết định mang tính
chất chính trị trong quá trình phát triển của xã hội.
- Tạo ra những khả năng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà không làm suy thoái
tài nguyên thông qua việc áp dụng những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật.
- Giải quyết các xung đột xã hội do phát triển không công bằng.
Ở Việt Nam, lý luận về phát triển bền vững cũng được các nhà khoa học, lý luận quan
tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý
luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển bền vững, đối chiếu với những hoàn cảnh cụ thể ở
Việt Nam.
Chỉ thị số 36/CT của Bộ Chính trị BCHTW Đảng ngày 25/6/1998 đã xác định mục
tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững dựa chủ yếu vào hoạt động bảo vệ
31
môi trường. Đồng thời trong “báo cáo chính trị” tại Đại hội Đảng VIII (1996) cũng đã chính
thức đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một
cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững. [5]
1.1.7. Phát triển du lịch bền vững
Các khái niệm về du lịch bền vững
Khái niệm về du lịch bền vững mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm
về du lịch mềm của những năm 90 và thực sự gây được chú ý rộng rãi trong những năm gần
đây. Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì:
“ Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch
mà vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng các nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để
chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được
bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống.
( Hens L., 1998)
Mục tiêu của Du lịch bền vững là:
- Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, nên phát triển du lịch
bền vững cần phải bền vững về kinh tế, thu nhập phải lớn hơn chí phí, phải đạt được sự tăng
trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tối ưu hóa đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập
quốc dân, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
- Phát triển bền vững về môi trường: Phải sử dụng và bảo vệ tài nguyên và môi trường
du lịch theo hướng tiết kiệm, bền vững, đảm bảo sự tái tạo và phục hồi của tài nguyên, nâng
cao chất lượng của tài nguyên và môi trường, thu hút cộng đồng và du khách vào các hoạt
động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên.
- Phát triển bền vững về xã hội: Thu hút cộng đồng tham gia vào các hoạt động du
lịch, tạo nhiều việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương,
cải thiện tính công bằng xã hội, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đáp ứng
cao độ nhu cầu của du khách.
Như vậy, các nhà quy hoạch trong quá trình quy hoạch du lịch cần xem xét đến việc
đáp ứng các mục tiêu phát triển du lịch bền vững của các hệ thống lãnh thổ được quy hoạch.
Để đạt được sự phát triển du lịch bền vững, trong quá trình phát triển du lịch và quy
hoạch du lịch cần phải thực hiện có nguyên tắc.
1.1.8. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
32
- Sử dụng nguồn lực một cách bền vững : Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên, văn hóa- xã hội là rất cần thiết, nó giúp cho việc kinh doanh phát triển
lâu dài. Du lịch là ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch lại
được coi là sản phẩm du lịch quan trọng nhất, là mục đích chuyến đi của du khách. Nhưng
nhiều loại tài nguyên du lịch không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được. Hoạt động du
lịch đã mang lại hiệu quả về nhiều mặt, nhưng cũng gây nhiều tác động tiêu cực như: làm
cạn kiệt, suy giảm tài nguyên và môi trường…
Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những
phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng tiết kiệm,
hợp lý để lưu lại cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên như thế hệ hiện tại được hưởng.
- Duy trì tính đa dạng: Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn
hóa- xã hội là hết sức quan trọng đối với du lịch bền vững, lâu dài; là cơ sở cho việc tồn tại,
phát triển của ngành du lịch.
- Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải: Sự tiêu thụ quá mức tài nguyên thiên nhiên
và các tài nguyên khác không chỉ dẫn đến sự hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên
mà còn không đảm bảo được nguồn tài nguyên cho sự phát triển lâu dài của ngành Du lịch.
Do vậy, việc quy hoạch phát triển du lịch đúng đắn ngay từ khi lập dự án phải tiến hành
đánh giá tác động từ hoạt động du lịch tới tài nguyên môi trường, từ đó dự kiến những biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm lượng chất thải
vào môi trường là cần thiết.
- Hợp nhất quy hoạch du lịch vào quá trình quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội: Du
lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, nó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với
nhiều ngành kinh tế - xã hội. Ngành du lịch mang lại hiệu quả trực tiếp và gián tiếp đối với
các ngành kinh tế- xã hội. Do vậy, cần hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ
hoạch định chiến lược của địa phương và quốc gia. Quy hoạch phát triển du lịch là một bộ
phận của quy hoạch kinh tế - xã hội, nó làm tăng khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của
ngành du lịch.
- Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc
quyền sở hữu của người dân bản địa như đường giao thông, điện nước, hệ thống xử lý chất
thải, thông tin liên lạc,… có thể không chỉ phục vụ riêng cho ngành du lịch nhưng vẫn thúc
đẩy du lịch phát triển. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực cho kinh tế- xã
hội của địa phương. Do vậy, ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập cho
33
phát triển kinh tế địa phương và quốc gia.
- Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa
phương vào du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường; mà còn góp phần duy
trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sức hấp
dẫn với du khách.
- Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan: Đây là một bước cần thiết
nhằm nâng cao nhận thức của các bên tham gia với các dự án quy hoạch, cùng nhau giải
quyết các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Đồng thời, điều này giúp cho các bên tham gia
có thể ủng hộ cho việc thực hiện các dự án quy hoạch.
- Đào tạo nhân viên: Nguồn nhân lực du lịch là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, nó
quyết định sự phát triển du lịch bền vững. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, các
dự án quy hoạch ngay từ đầu cần phải hoạch định các chiến lược, giải pháp để đào tạo, nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
- Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm: Để thực hiện được các mục tiêu phát triển
du lịch bền vững, các dự án quy hoạch du lịch cần hoạch định được các chiến lược,
marketing, quảng bá cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nâng cao sự
tôn trọng của du khách với môi trường tự nhiên, văn hóa - xã hội tại điểm đến, đồng thời
làm tăng sự thỏa mãn của du khách.
- Tiến hành nghiên cứu: Thông tin, số liệu để xây dựng dự án và ngay cả khi dự án
được thực hiện đều không sẵn có. Để các dự án quy hoạch có hiệu quả, ngay từ thời kỳ tiền
dự đến khi thực hiện dự án cần: đầu tư nhiều cho công tác điều tra, giám sát, thống kê, phân
tích, so sánh tổng hợp mới có thể xây dựng được các mục tiêu, các định hướng, các giải
pháp của dự án phù hợp. Công tác nghiên cứu còn giúp cho việc nhận thức rõ được những
thiếu sót, hạn chế của những dự án quy hoạch để từ đó có những giải pháp kế hoạch điều
chỉnh bổ sung kịp thời. Đồng thời kết quả điều tra, thống kê, đánh giá còn cung cấp thông
tin làm cơ sở cho việc quy hoạch của dự án ở những giai đoạn sau.
1.1.9. Tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững là một phạm trù còn mới trong chiến lược phát triển du lịch
ở nước ta, vì vậy việc nghiên cứu và xác định các dấu hiệu để nhận biết trạng thái của quá
trình phát triển này là rất quan trọng. Dựa vào các dấu hiệu này các nhà quản lý có thể có
những giải pháp phù hợp và kịp thời nhằm điều chỉnh các hoạt động nhằm đạt tới trạng thái
bền vững hơn cho quá trình phát triển.
34
- Các tiêu chí về kinh tế:
Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định lâu dài của
các chỉ tiêu kinh tế du lịch (chỉ tiêu về khách du lịch, thu nhập, GDP, cơ sở vật chất kỹ
thuật, lao động...). Theo xu thế phát triển hiện nay ở trong nước và trên thế giới, các chỉ tiêu
kinh tế được phát triển liên tục trong nhiều năm (thường là trên dưới 10 năm) ở mức trung
bình khoảng 7-10% năm thì được coi là phát triển bền vững. Tuy nhiên tùy thuộc vào trình
độ phát triển và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi địa phương mà
mức độ tăng trưởng sẽ cao hay thấp khác nhau được lựa chọn để đánh giá tính bền vững.
Với tiêu chí này, cần đề cập đến những chỉ tiêu cụ thể sau:
+ Chỉ tiêu khách du lịch: Đây là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát
triển du lịch. Chỉ tiêu khách du lịch quyết định sự thành công hay thất bại; quyết định sự
phát triển bền vững hay không bền vững của ngành du lịch. Trong chỉ tiêu khách du lịch,
ngoài số lượng tuyệt đối về khách, các chỉ tiêu khác cần phải tính đến trong quá trình phát
triển bền vững đó là số ngày lưu trú trung bình, số khách quay trở lại, khả năng thanh toán,
mức độ hài lòng của khách...
+ Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch (GDP du lịch):. Chỉ
tiêu thu nhập du lịch liên quan chặt chẽ đến chỉ tiêu khách du lịch, sự tăng trưởng liên tục
của khách du lịch sẽ kéo theo sự tăng trưởng về thu nhập và sẽ đóng góp quan trọng cho sự
phát triển bền vững của du lịch.
Như vậy, chỉ tiêu thu nhập du lịch và tổng sản phẩm quốc nội là những tiêu chí quan
trọng, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế.
+ Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
trong du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiên vận
chuyển, các khu du lịch, các văn phòng lữ hành, các cơ sở dịch vụ bổ sung khác...) là thước
đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về số lượng, chủng loại
và chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, một mặt đáp ứng được mọi nhu
cầu của mọi đối tượng khách, mặt khác góp phần quan trọng vào việc hấp dẫn, thu hút
khách, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Ngành.
- Chỉ tiêu nguồn nhân lực du lịch: Chất lượng đội ngũ lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác.
+ Tính trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch: Hoạt động tuyên
35
truyên quảng bá du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thu hút khách du lịch.
Tính trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá thông qua việc cung cấp đầy đủ và
trung thực thông tin về tuyến điểm, về sản phẩm du lịch sẽ tạo được lòng tin cho du khách
và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút khách du lịch. Sự gia tăng lượng khách du lịch
đồng nghĩa với việc tăng trưởng về kinh tế thông qua hoạt động du lịch.
- Các tiêu chí về tài nguyên – môi trường:
Phát triển du lịch bền vững phải khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả các
tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên
cho phát triển du lịch cần được quản lý và giám sát để một mặt đáp ứng được nhu cầu hiện
tại, mặt khác phải đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Với mục tiêu này,
trong quá trình phát triển, ngành du lịch cần phải có những đóng góp tích cực cho công tác
tôn tạo nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường… để giảm thiểu các tác động của hoạt động
du lịch đến nguồn tài nguyên môi trường.
+ Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch đầu tư tôn tạo và bảo tồn: Các khu, điểm du
lịch là hoạt động trong phát triển du lịch, trong đó tài nguyên du lịch đóng vai trò trung tâm.
Thực tế cho thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc thì sức hấp dẫn và hiệu
quả của hoạt động du lịch càng cao.
Mục tiêu phát triển bền vững là nhằm hạn chế tối đa việc khai thác quá mức và lãng
phí các nguồn tài nguyên, nhất là các nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Nơi nào
càng có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, thì chứng tỏ hoạt động phát
triển du lịch ở đó càng với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được
xem là trong trạng thái phát triển bền vững.
+ Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được quy hoạch: Quy hoạch du lịch là quá
trình kiểm kê, phân tích, đánh giá các nguồn lực và các điều kiện có liên quan để phát triển
du lịch, từ đó xác định các phương án phát triển phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu
quả tiềm năng tài nguyên du lịch và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của hoạt
động du lịch đến tài nguyên – môi trường, mang lại hiệu quả cao về kinh tế và xã hội.
+ Áp lực đối với môi trường – tài nguyên tại các khu, điểm du lịch: Việc phát triển quá
nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá và quản lý tác động
đến môi trường tại các khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính gây ra những hậu
quả nghiêm trọng về môi trường tại đây và kết quả sẽ là sự phát triển thiếu bền vững của du
36
lịch.
+ Cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch: Dự đoán sự gia tăng của số lượng
khách là tiêu chí quan trọng cho sự phát bền vững về mặt kinh tế, số lượng khách đến một
điểm du lịch càng tăng sẽ chứng tỏ sự phát triển lớn mạnh của điểm du lịch đó. Tuy nhiên
việc gia tăng mạnh mẽ về số lượng khách du lịch sẽ đồng nghĩa với việc các nguồn tài
nguyên du lịch bị khai thác quá mức để đáp ứng cho các nhu cầu của du khách dẫn đến tình
trạng suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên ( một số loài sinh vật đặc hữu được dùng
cho các nhu cầu sản xuất hàng lưu niệm, các món đặc sản, các vị thuốc quý…). Sự gia tăng
nhanh của du khách còn gây ra hiện tượng quá tải về chất thải tại các điểm du lịch, làm cho
môi trường tại nơi đó không đảm bảo và dẫn đến hiện tượng bị suy thoái môi trường.
Do vậy, việc giới hạn số lượng khách đến trong một chu kỳ phát triển là vấn đề quan
trọng và cần thiết, điều này sẽ giúp cho việc duy trì và bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo
cung cấp đủ nguồn năng lượng để phục vụ nhu cầu cho khách du lịch.
+ Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và
bảo vệ môi trường: Mức độ đóng góp của ngành du lịch cho công tác bảo tồn và nâng cấp
nguồn tài nguyên được thể hiện qua tỷ lệ giữa phần đóng góp và tổng nguồn thu. Tỷ lệ ngày
càng lớn thì mức độ đóng góp càng cao và đảm bảo cho việc khai thác các nguồn tài nguyên
phục vụ phát triển du lịch theo hướng bền vững.
- Các tiêu chí về xã hội
Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành Du lịch phải có những đóng góp cụ
thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo công ăn việc làm cho người lao động; tham
gia xóa đói giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở những vùng sâu,
cùng xa – nơi có tài nguyên du lịch; chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự
công bằng trong phát triển; góp phần hỗ trợ các ngành khác cùng phát triển.
+ Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ: việc phát triển hệ
thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội, tạo điều kiện
để một bộ phận người lao động ở địa phương có công ăn việc làm, cải thiện chất lượng cuộc
sống, nâng cao dân trí… Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn
của xã hội (nhân lực, trí lực, vật lực) cho phát triển du lịch, phù hợp với tính chất xã hội hóa
cao của du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
+ Tác động đến xã hội từ các hoạt động du lịch: Để đảm bảo cho sự phát triển du lịch
bền vững về mặt xã hội, vấn đề đặt ra là các tác động tiêu cực (không thể tránh khỏi) đến xã
37
hội từ các hoạt động phát triển du lịch cần phải được kiểm soát và quản lý.
+ Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du
lịch: Để đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững, cần có sự ủng hộ và hợp tác của cộng
đồng dân cư địa phương – chủ nhân của các nguồn tài nguyên du lịch. Do vậy mức độ hài
lòng của cộng đồng dân cư đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ảnh mức độ bền vững của
du lịch trong quá trình phát triển.
1.2. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở một số nước
- Khu bảo tồn Annapurna (ACAP) – Nê Pan: Ở khu bảo tồn này phát triển du lịch sinh
thái dược sử dụng như là đòn bẩy để phát triển cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn sự
đa dạng sinh học và các hoạt động phát triển cộng đồng bền vững ở ACAP.
Trong khu bảo tồn, các chương trình đã được đưa vào mục tiêu giảm bớt sức ép đối
với nguồn tài nguyên rừng, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư địa
phương và làm cho du lịch có trách nhiệm hơn. Các vườn ươm đã được xây dựng nhằm
cung cấp cây giống cho cộng đồng và các chương trình trồng rừng. Để giải quyết vấn đề củi
đốt, các kho chứa dầu hỏa, khí hóa lỏng và các máy phát điện thủy lực loại nhỏ được xây
dựng dưới sự quản lý của cộng đồng. Tại những khu vực thường xuyên có khách tham quan
du lịch, các chương trình chăn nuôi, lâm nghiệp, nông nghiệp được triển khai nhằm tăng thu
nhập cho người dân địa phương, đồng thời cung cấp lương thực thực phẩm cho khách du
lịch. Ngoài ra, các chương trình giáo dục du khách cũng như người dân bản địa và công tác
thông tin được ưu tiên triển khai thực hiện. Hoạt động chủ yếu ở ACAP là xây dựng năng
lực địa phương, rồi cuối cùng chính người dân địa phương quyết định cuộc sống của mình.
Họ là những nhân tố hoạt động chính và họ chính là những người hưởng lợi chính. Cộng
đồng dân cư địa phương được tổ chức đào tạo và giao nhiệm vụ để bảo vệ chất lượng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn riêng có của mình; đó là nhân tố chính thu hút du
khách cũng là cơ sở nền tảng cho nguồn sinh sống bền vững.
- Du lịch Thenmala – Kerala, Ấn Độ: Mục tiêu là phát triển Thenmala và vùng lân cận
thành điểm đến du lịch hấp dẫn; xúc tiến du lịch sinh thái trên cơ sở các nguyên tắc bền
vững; xây dựng các điểm đến du lịch theo đúng quy hoạch, trong đó nhấn mạnh việc phát
triển du lịch bền vững, làm mẫu hình cho các chương trình phát triển du lịch khác.
38
Để đạt được các mục tiêu trên, ba nhóm sản phẩm du lịch đã được đầu tư phát triển là:
Du lịch thân thiện với môi trường, Du lịch sinh thái và Du lịch hành hương. Du lịch thân
thiện với môi trường được phát triển ở ngoại vi khu bảo tồn hoang dã Shenduruney với mục
đích giảm áp lực lên khu bảo tồn. Trong khu bảo tồn chỉ dành cho những khách du lịch sinh
thái thật sự. Những du khách khác có thể trải nghiệm các sản phẩm thân thiện với môi
trường như: Các lối mòn tự nhiên nhỏ, xe đạp địa hình hay lối đi bộ trên cao nhìn xuống.
Nhằm giảm thiểu tác động lên hệ sinh thái rừng trong khu bảo tồn, một số phương tiện được
cấp ở Thenmala như: Du thuyền trên hồ, các lối đi bộ, khán đài vòng, đài phun nước có
nhạc, xe đạp địa hình… Du lịch sinh thái được quy hoạch phát triển trong khu rừng xung
quanh. Trung tâm giáo dục môi trường được thành lập. Khu bảo tồn hoang dã Shenduruney.
1.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam
- Mô hình phát triển du lịch sinh thái Núi Voi của Công ty Du lịch Phương Nam (Đà
Lạt – Lâm Đồng): Các hoạt động du lịch ở đây đều được gắn liền với thiên nhiên, gắn với
văn hóa cộng đồng (chủ yếu là dân tộc Chứt) và có trách nhiệm với công tác bảo tồn các giá
trị tự nhiên và văn hóa. Các dịch vụ du lịch ở đây được mang đậm màu sắc của tự nhiên
(vận chuyển bằng voi, ngựa, thuyền; ngủ nhà sàn ở trong rừng, thậm chí cả ở chòi trên cây
cao) và văn hóa cộng đồng (khách du lịch được tham gia vào các hoạt động cộng đồng). Mô
hình du lịch sinh thái Núi Voi đã và đang được tiến hành có hiệu quả và thu hút ngày càng
nhiều khách tham quan du lịch, nghiên cứu…
- Mô hình phát triển du lịch cộng đồng ở Sapa: Mô hình này quan tâm đến việc
khuyến khích và tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch, thông qua
đó nâng cao lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng dân cư trực tiếp tham gia vào các dịch vụ
du lịch như hướng dẫn khách du lịch, phục vụ khách (lưu trú, ăn uống) tại nhà dân, sản xuất
và bán hàng lưu niệm, biểu diễn nghệ thuật văn hóa dân gian…
1.2.3. Phát triển du lịch bền vững ở vùng Đông Nam Bộ
Miền đất cao này nằm ngay dưới chân các cao nguyên Bảo Lộc – Di Linh, chạy dài từ
tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đến tỉnh Tây Ninh, rìa phía Nam đổ thoai thoải và nối liền với đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long.
Đông Nam Bộ là một khu vực có nền kinh tế năng động với trung tâm là Thành phố
Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh
39
gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và hành lang du lịch Xuyên Á. Với diện tích 23605,2 km2. Dân số: 14566,5 nghìn người; mật độ: 617 người/ km2.
Vùng Đông Nam Bộ là cửa ngõ mở đầu của hành lang du lịch Xuyên Á, giữ vai trò
quan trọng đối với du lịch Việt Nam.
Tài nguyên du lịch nhân văn gồm cụm di tích lịch sử - văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh, các di tích cách mạng Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh), căn cứ Tà Thiết (Bình
Phước). Các di tích văn hóa gắn với đạo Cao Đài, lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh).
Về cảnh quan tự nhiên có núi Bà Đen, hồ Dầu Tiếng ( Tây Ninh), Thác Mơ, núi Bà Rá
( Bình Phước), Cần Giờ ( Thành phố Hồ Chí Minh). Bờ biển khu vực này thuộc các địa
phương : Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực ven biển này có nhiều bãi
biển đẹp là khu nghỉ mát nổi tiếng như: bãi Sau, bãi Dứa
(Vũng Tàu). Côn Đảo ( Bà Rịa – Vũng Tàu) là tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, biển
đảo có giá trị của cả nước.
Đông Nam Bộ cũng đã quy hoạch một số điểm du lịch phát triển theo hướng bền vững
như “Mô hình phát triển du lịch sinh thái Cát Tiên của ban quản lý vườn quốc gia Cát Tiên”.
Mục đích của mô hình này là đưa du khách gần gũi với thiên nhiên để khám phá và nghiên
cứu những giá trị của thiên nhiên và bản sắc văn hóa dân tộc Mạ, S’tiêng, đồng thời nâng
cao trách nhiệm trong việc bảo vệ các giá trị đó. Các sản phẩm du lịch đã và đang được khai
thác ở đây là du lịch sinh thái, du lịch tham quan, nghiên cứu, dã ngoại, mạo hiểm. Các đối
tượng đang được tham quan, nghiên cứu và khám phá bao gồm Bàu Sấu, Bàu Chim; làng
dân tộc Mạ, S’tiêng ở Tài Lài; rừng Bằng Lăng; thác Bến Cự; thác Mỏ Vẹt; thác Trời, thác
Dựng; khu di chỉ khảo cổ Cát Tiên; xem thú về ban đêm,…
Vùng Đông Nam Bộ có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông
Thị Vải,…Mang lại giá trị rất lớn cho nông nghiệp cũng như phát triển du lịch sinh thái của
vùng.
Vùng tập trung khai thác các sản phẩm du lịch đặc trưng như: Du lịch MICE gắn với
văn hóa, lễ hội, giải trí; du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch giải trí cuối tuần, du lịch thể thao,
du lịch mua sắm và du lịch gắn với cửa khẩu.
Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch của vùng:
+ Thành phố Hồ Chí Minh gắn với khu rừng sác Cần Giờ và hệ thống di tích lịch sử -
văn hóa nội thành.
+ Tây Ninh gắn với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, núi Bà Đen, hồ Dầu Tiếng.
40
+ Thành phố Vũng Tàu gắn với Long Hải, Phước Hải, côn Đảo.
Hệ thống các khu, điểm du lịch
Căn cứ đặc điểm tài nguyên du lịch và thực tế nhu cầu phát triển, định hướng quy
hoạch phát triển các khu du lịch quốc gia, điểm du lịch quốc gia và đô thị du lịch như sau:
4 khu du lịch quốc gia:
1. Khu du lịch quốc gia núi Bà Đen.
2. Khu du lịch quốc gia Cần Giờ.
3. Khu du lịch quốc gia Long Hải – Phước Hải.
4. Khu du lịch quốc gia Côn Đảo.
5 điểm du lịch quốc gia:
1. Điểm du lịch quốc gia Tà Thiết.
2. Điểm du lịch quốc gia TW Cục Miền Nam.
3. Điểm du lịch quốc gia Cát Tiên.
4. Điểm du lịch quốc gia Hồ Trị An – Mã Đà.
5. Điểm du lịch quốc gia Củ Chi.
1 đô thị du lịch: Vũng Tàu.
Ngoài ra, còn chú trọng phát triển các điểm như: Thác Mơ – Bà Rá ( Bình Phước);
Bình Châu, Phước Bửu, Núi Dinh ( Bà Rịa – Vũng Tàu),…
Nhìn chung vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng rất lớn trong việc khai thác và phát
triển du lịch với điều kiện tự nhiên phong phú cùng với văn hóa đa dạng vùng có đủ điều
kiện để xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập cũng như lợi
nhuận cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu này, vùng cần liên kết hợp tác để tạo ra
sản phẩm đồng bộ, đa dạng sản phẩm và tạo nên sản phẩm du lịch đặc trưng.
1.2.4. Phát triển du lịch bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả
điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành
phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419
người/km². Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh
chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước. Nhờ điều
kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan
trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường
41
thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế,
tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí,
Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng,
Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước về số lượng bảo tàng. Nơi đây cũng là một đô
thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay có hơn một nghìn ngôi chùa,
đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19
theo các phong cách Roman, Gothic. Ngoài ra trong thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành
phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng như: Nhà Hát Lớn, Dinh Độc Lập, Bến Nhà
Rồng… Kiến trúc hiện đại thì có Diamond Plaza, Saigon Trade Centre… Khu vực ngoài
trung tâm có các điểm du lịch như Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, vườn cò Thủ
Đức. Bên cạnh đó thành phố còn có khá nhiều khu vui chơi giải trí như Công viên Đầm Sen,
Suối Tiên, Thảo Cầm Viên,…hệ thống nhà hàng quán ăn cũng là một thế mạnh của ngành
du lịch thành phố.
Từ những thế mạnh đó, ngành du lịch của thành phố đã không ngừng đầu tư phát triển,
từ năm 2001 đến nay, lượng khách du lịch quốc tế đến thành phố không ngừng tăng lên, nếu
như năm 2001 lượng khách quốc tế đến thành phố là 1226 nghìn lượt khách thì đến năm
2006 đã tăng lên 2340 nghìn lượt ( tăng 17,5 % so với cùng kỳ) và đến năm 2010 là 3100
nghìn lượt ( tăng 19,2% so với cùng kỳ)
Bảng 1.1. Khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh
Đơn vị 2001 2006 2007 2008 2009 2010
tính
Khách du lịch Nghìn 1226 2350 2700 2800 2600 3100
quốc tế đến người
Thành Phố Hồ
Chí Minh
Khách du lịch Nghìn 2330 3583,5 4229,4 4235,8 3772,3 5049,8
quốc tế đến Việt người
Nam
Tỷ lệ khách du % 52,6 65,6 63,8 66,1 68,9 61,4
lịch đến TP Hồ
Chí Minh
(Nguồn: Tổng cục du lịch - Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch thành phố Hồ Chí Minh)
so với cả nước
42
Cơ sở lưu trú ờ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đã gia tăng nhanh chóng, 641 khách
sạn với 17.646 phòng. Thành phố có 11 khách sạn 5 sao như Caravelle, Sheraton,
Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor
Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Bên cạnh đó thành
phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Theo dự
kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10 nghìn phòng 4 hoặc 5 sao.
Về doanh thu du lịch của thành phố trong những năm qua đã tăng lên đáng kể. Năm
2001 là 3.762 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên 13.350 tỷ đồng, năm 2010 là 44.918 tỷ đồng
chiếm 45,8% doanh thu du lịch cả nước.
Phát triển du lịch tạo ra nhiều việc làm cho lực lượng lao động thành phố, nhờ đó cải
thiện đươc chất lượng cuộc sống của người dân. Trong những năm qua lực lượng lao động
trong ngành du lịch thành phố không ngừng tăng lên. Năm 2005 toàn thành phố có 121.935
lao động làm việc trong lĩnh vực nhà hàng khách sạn, du lịch. Thì đến năm 2011 con số đó
đã tăng lên 209.439 người.
Tóm lại với điều kiện cơ sở hạ tầng được xem là hoàn thiện nhất cả nước cùng với các
tiềm năng về du lịch phong phú. Thành phố là một điểm đến đầy hấp dẫn đối với du khách.
Với những thế mạnh trong khu vực nói chung và của quốc gia nói riêng, các giá trị văn hóa
độc đáo, các sản phẩm du lịch đặc trưng từ truyền thống cho đến hiện đại, Thành phố Hồ
Chí Minh hội đủ các điều kiện để phát triển du lịch một cách bền vững.
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch
1.3.1. Dân cư và lao động
Số lượng người lao động trong hoạt động sản xuất và dịch vụ ngày càng đông gắn liền
trực tiếp với kinh tế du lịch. Việc nắm vững số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân
khẩu, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch.
1.3.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu, làm xuất hiện nhu
cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực.
Công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo nên những tiền đề nâng
cao thu nhập của người lao động, đồng thời tăng thêm khả năng đi du lịch.
Nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn vì du lịch không thể phát triển được nếu như không
bảo đảm việc ăn uống cho khách du lịch.
43
Mạng lưới giao thông cũng là một trong những tiền đề kinh tế quan trọng nhất để phát
triển du lịch.
1.3.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch
Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành
một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch.
1.3.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật
Cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa và tự động hóa quá trình sản xuất liên
quan chặt chẽ với nhau. Chúng là những nhân tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu du lịch và
hoạt động du lịch.
1.3.5. Đô thị hóa
Là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, đô thị hóa như nhân tố phát sinh góp
phần thúc đẩy mạnh nhu cầu của du lịch.
1.3.6. Điều kiện sống
Là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu
nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ
mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục,…
1.3.7. Thời gian rỗi
Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu thời gian
rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch.
1.3.8. Các nhân tố chính trị
Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu
nghị giữa các dân tộc. Ngược lại chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên tình
trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn thất cả đến môi
trường tự nhiên.
44
45
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ
CHI
2.1. Khái quát về huyện Củ Chi
Huyện Củ Chi nằm trong vành đai xanh của Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện
tích tự nhiên là 43.496 ha, chiếm 20,45% diện tích của thành phố, đứng thứ hai trong số các
quận huyện của thành phố. Số dân là 355822 người ( năm 2009). Huyện có trung tâm hành
chính là thị trấn Củ Chi, cách thành phố 50km theo trục đường xuyên Á. Toàn huyện có 20
xã 1 thị trấn. Nơi đây được biết đến như một vùng đất anh hùng với 30 năm kháng chiến
chống quân xâm lược. Với tên gọi hào hùng “ Vùng đất thép thành đồng”. Quân và dân Củ
Chi đã làm nên những trang sử rạng ngời của dân tộc, tiếp bước truyền thống ông cha xây
dựng nên non song bờ cõi nước nhà. Nơi đây nổi tiếng với khu di tích lịch sử Địa đạo Củ
Chi, đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của
thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Đây chính là tiềm năng to lớn để
thúc đẩy sự phát triển du lịch của huyện. Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng
đem lại nguồn thu lớn cho địa phương trong thời kỳ đổi mới.
Củ Chi là một huyện ngoại thành nằm về phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh
có tọa độ địa lý từ 10053’ đến 10010’ vĩ Bắc và từ 106022’ đến 106040’ kinh Đông.
Phía Bắc giáp huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh.
Phía Nam giáp huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Đông giáp tỉnh Bình Dương.
Phía Tây giáp tỉnh Long An.
Huyện Củ Chi nằm trên một vùng đất chuyển tiếp từ vùng đất cao của núi rừng miền
Đông Nam Bộ xuống vùng đất thấp của miền Đồng bằng sông Cửu Long. Thế nên trong bài
văn bia của nhà thơ Viễn Phương mới có câu “ Vùng đất sáng miền Nam Tổ quốc, nửa tiếp
Trường Sơn, nửa nối đồng bằng”.
Địa hình huyện Củ Chi khá đơn giản, có xu thế thấp dần theo 2 hướng Tây Bắc -
Đông Nam và Đông Nam - Tây Nam với độ cao từ 0 - 8m được phân thành 3 vùng: vùng
gò đồi, vùng triền, vùng bưng trũng. Chúng tạo nên những miền địa hình và cảnh quan khá
đa dạng.
46
Huyện Củ Chi nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích
đạo. Khí hậu tương đối ôn hòa quanh năm, tạo điều kiện để các thảm thực vật quanh năm
xanh tốt với các hệ sinh thái như: hệ sinh thái cạn, hệ sinh thái ven sông,…
Huyện Củ Chi có thế mạnh là tuyến đường Xuyên Á chạy dọc suốt chiều dài của
huyện nên việc lưu thông với các tỉnh và thành phố khá thuận lợi, giúp việc kết nối các
điểm, tuyến du lịch với các tỉnh bạn trở nên dễ dàng hơn.
Nằm ở phía Đông Bắc và chạy suốt chiều dài giữa huyện Củ Chi và tỉnh Bình Dương
với chiều dài 54km, sông Sài Gòn kết hợp với các hệ thống kênh, rạch tự nhiên khác như:
rạch Tra, rạch Đường Đá, … tạo thành hệ thống giao thông đường thủy vận tải hành khách
cũng như hàng hóa đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì tuyến sông Sài Gòn nằm trong dự án
phát triển du lịch đường thủy của Thành phố Hồ Chí Minh, hứa hẹn một tương lai tươi sáng
cho các loại hình du lịch của huyện phát triển.
Là một huyện nằm trong trung tâm kinh tế của cả nước, huyện Củ Chi có ưu thế quan
trọng về vị trí phát triển các ngành kinh tế và dịch vụ du lịch, là điểm dừng chân khá quan
trọng trên tuyến du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh, là điểm khởi đầu cho các tuyến tham
quan khám phá vùng văn hóa phía Nam, là tuyến đường huyết mạch đến với nước bạn Cam-
pu-chia sẽ tạo điều kiện thu hút du khách đến với huyện Củ Chi và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Có thể khẳng định, với một vị trí địa lý quan trọng tiếp giáp với các tỉnh bạn, tạo thuận
lợi cho việc giao lưu kinh tế giữa huyện với các tỉnh cùng với bề dày lịch sử trong hai cuộc
kháng chiến đã tạo nên một huyện Củ Chi hào hùng với những nét đa dạng trong văn hóa và
đời sống. Đây chính là tiềm năng, là cơ sở quan trọng để khai thác và phát triển du lịch, là
điều kiện để huyện Củ Chi trở thành một điểm đến không thể thiếu khi du khách đặt chân
đến thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Tài nguyên và những điều kiện phát triển du lịch
2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.1.1. Địa hình
Địa hình huyện Củ Chi mang đầy đủ dấu ấn địa hình của vùng Đông Nam Bộ với độ
cao trung bình từ 5m đến 15m và chuyển dần sang địa hình trũng thấp của đồng bằng Tây
Nam Bộ với độ cao trung bình từ 0,8m đến 2m. Dựa vào độ cao có thể chia ra làm 2 dạng
địa hình chính:
47
- Dạng địa hình có độ cao > 5m: dạng địa hình này phân bố ở vùng trung tâm, phía
Bắc, phía Đông và phía Tây Bắc. Đất đá chủ yếu là các trầm tích Pleistoxen thượng, hệ
tầng Củ Chi, Pleistoxen trung - thượng, hệ tầng Thủ Đức. Do phân bố ở vị trí cao nên không
bị ngập nước, rất thuận tiện cho trồng cây ăn trái và cây công nghiệp.
- Dạng địa hình có độ cao <5m: dạng địa hình này chủ yếu phân bố ở phía Tây Nam và
Nam. Đất chủ yếu là các trầm tích sông, sông biển, sông đầm lầy. Do phân bố ở vị trí thấp
nên một số nơi vào mùa mưa bị ngập nước vì vậy rất thuận tiện cho trồng cây nông nghiệp.
Vậy cấu tạo địa hình của huyện Củ Chi khá đặc biệt với hai dạng địa hình khác nhau
tạo nên những đặc trưng cảnh quan khác nhau. Nếu như phía Bắc và phía Đông, phía Tây
Bắc với kiểu địa hình đặc trưng Đông Nam Bộ thì phía Tây Nam và phía Nam lại mang
dáng vẻ của Tây Nam Bộ. Chính điểm này tạo nên nét đa dạng của cảnh quan huyện Củ
Chi.
2.2.1.2. Khí hậu
Huyện Củ Chi nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích
đạo. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau, với đặc trưng chủ yếu là:
- Nhiệt độ trung bình tương đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng 26,60C. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,80C ( tháng 4), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất 24,80C ( tháng 12) Tuy nhiên biên độ nhiệt giao động giữa ngày và đêm chênh lệch khá lớn, vào mùa khô có trị số 8_100C.
- Lượng mưa trung bình năm từ 1300mm - 1770mm, tăng dần lên phía Bắc theo chiều
cao địa hình, mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm, mưa tập trung vào tháng
7,8,9. Vào tháng 12, tháng 1 lượng mưa không đáng kể.
- Độ ẩm không khí trung bình năm khá cao 79,5% cao nhất vào tháng 7,8,9 là 80 -
90%, thấp nhất vào tháng 12, tháng 1 là 70%.
- Tổng số giờ nắng trung bình trong năm là 2100 - 2920 giờ.
- Củ Chi có chế độ gió mùa, ít bão thường được phân bố vào các tháng trong năm như
sau:
+ Tháng 11 đến tháng 5: gió hướng Đông Nam, vận tốc trung bình 1,5 - 2,5m/s.
+ Tháng 5 đến tháng 9: thịnh hành hướng gió Tây Nam, vận tốc trung bình: 1,5 - 3m/s.
+ Tháng 10 đến tháng 11: thịnh hành hướng gió Đông Bắc, vận tốc trung bình: 1 -
1,5m/s.
48
Nhìn chung khí hậu huyện Củ Chi tương đối ôn hòa, là điều kiện thuận lợi để khai thác
du lịch quanh năm. Bên cạnh đó với thời tiết ổn định không có những hiện tượng bất thường
giúp người dân địa phương thuận lợi trong canh tác cũng như trong thu hoạch mùa vụ, đồng
thời trong nông nghiệp còn có thể tạo ra những sản phẩm trái mùa để thu hút du khách tham
quan ở mọi thời điểm trong năm.
2.2.1.3. Nguồn nước
Củ Chi là một huyện có tài nguyên nước mặt khá phong phú với hơn 100km kênh
rạch, lượng mưa lớn 2729,5mm/ năm.
Sông ngòi: chủ yếu là các sông ngòi, kênh, rạch. Trên địa bàn Củ Chi, hệ thống sông
ngòi kênh rạch phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào khu vực sông Sài Gòn và các xã
phía Nam, Tây Nam huyện với tổng chiều dài độ khoảng 345 km. phần lớn các sông rạch
chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy văn sông Sài Gòn như: rạch Tra, rạch Sơn, rạch
Bến Mương; kênh Thầy Cai chịu ảnh hưởng của sông Vàm Cỏ Đông.
- Sông Sài Gòn là sông lớn nhất trong địa bàn huyện, theo hướng Tây Bắc_ Đông
Nam, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Củ Chi và tỉnh Bình Dương với chiều dài qua huyện
là 45km, là điều kiện tốt để khai thác các tuyến du lịch trên sông. Chiều rộng trung bình của
sông ( đoạn trung lưu): 200m, độ sâu 16m. Lưu lượng sông Sài Gòn thay đổi theo mùa,
thường mùa mưa lớn hơn 1 - 5 lần mùa khô. Lưu lượng nước sông còn tùy thuộc vào kỳ
triều. Sông Sài Gòn làm nguồn nước sinh hoạt cho TP Hồ Chí Minh, đồng thời phục vụ đắc
lực cho nhu cầu vận chuyển đường sông của huyện Củ Chi.
- Rạch Tra là ranh giới giữa hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, dài 17km, rộng 30 - 34m,
nối với sông Sài Gòn.
- Kênh Thầy Cai dài 24km, rộng 45m, sâu 3m là con kênh lớn nằm phía Tây Nam
huyện, là ranh giới giữa huyện Củ Chi và huyện Đức Hòa tỉnh Long An. Kênh Thầy Cai nối
rạch Trảng Bàng ( tỉnh Tây Ninh) với sông Vàm Cỏ Đông, thông với rạch Tra qua kênh An
Hạ. Ngoài ra Củ Chi còn có nhiều kênh rạch nhỏ nằm ven sông Sài Gòn như: rạch Bà
Phước, rạch Dừa,…
- Kênh Đông là một công trình thủy lợi lớn nhất các tỉnh phía Nam, dẫn nước từ hồ
Dầu Tiếng về huyện Củ Chi. Riêng trên địa bàn huyện Củ Chi, kênh Đông đã tạo nguồn
nước tưới cho hơn 10000 ha, vùng gò và triền phía Tây và phía Bắc của huyện.
Hiện nay nguồn nước mặt được sử dụng với mục đích cấp nước tưới tiêu, tiêu thoát
nước, nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải và du lịch giải trí. Năm 2002 toàn huyện đã sử
49
dụng 480 triệu m3/năm để tưới cho khoảng 16500ha đất nông nghiệp ( 13000ha lúa và
3500ha cây hoa màu, cây ăn quả,…).Nước tưới chủ yếu được khai thác từ nguồn nước kênh
Đông và một phần nước từ các sông rạch, ao hồ hiện có cũng như khai thác nguồn nước
ngầm tại chỗ. Do có trữ lượng lớn, nên mặc dù lưu lượng khai thác khá lớn nhưng vẫn
không ảnh hưởng đến tiềm năng cấp nước của các nguồn nước này.
Nước ngầm: nguồn nước ngầm huyện Củ Chi khá phong phú và đang giữ vị trí tương
đối quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. Chất lượng nước nhìn
chung khá tốt trừ các khu vực bưng trũng Tam Tân - Thái Mỹ. Ngoài ra nguồn nước ngầm
của huyện được bổ sung một lượng nước ngầm đáng kể bởi hệ thống kênh Đông Củ Chi làm
nâng mực nước ngầm từ 2 - 4m. Huyện có 4 tầng chứa nước chính trong đó 3 tầng chứa
nước Plesitoxen, Pliocen trên và Pliocen dưới là những tầng chứa nước có trữ lượng lớn, có
nhiều tiềm năng trong việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất.
Hiện nay, tại Củ Chi phần lớn nước cấp được sử dụng từ nguồn nước mặt, mức độ
khai thác nước ngầm còn hạn chế, chủ yếu tập trung tại các tầng nông (Pleistoxen hoặc một
số tại tầng Pliocen trên) vì vậy trữ lượng nước và chất lượng nước vẫn còn tốt.
2.2.1.4. Sinh vật:
* Thực vật: Củ Chi là huyện có tỉ lệ cây xanh khá cao so với các quận huyện khác.
Ngoài diện tích đất nông nghiệp thì địa bàn còn có khoảng 530 ha chủ yếu là rừng trồng.
Tập trung nhiều nhất ở khu Đồng Dù thuộc địa phận Phước Vĩnh An và khu Tam Tân thuộc
địa phận Tân An Hội. Ngoài thảm thực vật cây trồng, hệ thực vật dọc theo bờ sông Sài Gòn
và rạch chính cũng khá phong phú.
Trong những năm chiến tranh, Củ Chi là vùng đất bị tàn phá nặng nề, tài nguyên sinh
vật của Củ Chi chỉ mới hồi sinh sau năm 1975. Diện tích rừng thứ sinh 81 ha, rừng trồng lên
tới 45 ha với mục đích là phục hồi và tôn tạo sinh cảnh. Có 3 hệ sinh thái chính ở Củ Chi là:
sinh thái cạn, sinh thái ven sông và sinh thái úng phèn kéo dài từ Thái Mỷ tới Bắc Bình
Chánh.
- Hệ sinh thái cạn: rừng tự nhiên ( rừng thứ sinh) chủ yếu ở khu vực Bến Dược còn lại
rải rác ở các nơi như Bến Đình…Rừng tự nhiên gồm trảng cỏ, cây bụi và một số loại cây gỗ
lớn như: Bằng Lăng 40% ( Lagerstronia sp), Dầu Lông
( Dipterocarpus indicatus), Gõ mật ( Sindoracochinchin - ensis),..Tại đây hội đoàn thực vật
ưu hợp được hình thành gồm: sim, mua, coke, đổ cọng, sống rắn, tam lang,…
50
Rừng trồng trên toàn huyện tập trung ở các nơi (Bến Dược 45 ha, Bến Đình 17 ha),
rừng trồng trên 15 năm tuổi với các loại cây chủ yếu là keo lá tràm. Tại đây môi trường sinh
thái được cải thiện rất tốt nên đã trồng cây lâu năm như: sao, dầu, gõ mật,… nhằm phục hồi
lại sinh cảnh rừng tự nhiên của khu vực rừng miền Đông Nam Bộ.
- Hệ sinh thái ven sông: trên những vùng kênh, rạch nhỏ, các bưng trũng, nước chảy
yếu, hay các kênh rạch nằm sâu trong vùng trũng nội đồng của huyện Củ Chi
( các nhánh phụ của sông Sài Gòn ở vùng Phú Hòa Đông, Bến Đình…) thường tập trung các
hội đoàn như: hội đoàn Chiếc, Xăng máu và hội đoàn Lục Bình, Nga, Nghể, Mồm mở, Môn
nước,…
Hiện nay, kiểu thực vật này chỉ gặp chủ yếu ở ven sông Sài Gòn cũng như ở các nhánh
phụ của sông và hệ thống kênh rạch nội đồng nơi mà đất đai chủ yếu là đất nông nghiệp
chưa bị quá trình đô thị hóa cũng như bị tác động của các hoạt động công nghiệp nên đất đai
chưa bị chiếm dụng nhiều và môi trường tự nhiên ở đây ít bị tác động.
- Hệ sinh thái của vùng úng phèn
Quần xã Năng ( Eleocharis dulcis - Eleocharis geniculate, Eleocharis ochrostachys,
Eleocharis spiralis): kiểu thực vật thường gặp ở vùng kênh rạch, ao trũng thoát nước kém
như khu vực ngập nước dọc kênh An Hạ, kênh Đông, Tam Tân - Thái Mỹ.
Quần xã tràm ( Melaleuca cajeputi): kiểu này phân bố dọc theo kênh An Hạ, kênh
Xáng, Thái Mỹ. Cây Tràm mọc thành từng đám cao hay cây bụi dọc bờ kênh và trên đất cao
( hiện chủ yếu là Tràm trồng). Bên dưới là các loại thường gặp như: Đưng Năng, Cỏ Mật
nhiều Gié, Sậy, Muôi, Ráng đại, Mồm mốc, Sen, Cỏ ống, Cỏ chỉ,…
* Động vật: do không còn rừng tự nhiên nên động vật quý hiếm ở Củ Chi cũng không
còn. Trong vùng chỉ có các loài hoang dã thông thường như rắn, chuột, ếch,…nhưng số
lượng cũng không nhiều. Để phục vụ mục đích ẩm thực ngày nay, không chỉ Củ Chi mà
nhiều nơi khác ở Việt Nam khai thác các loài này khá nhiều.
Tuy không có các loài động vật hoang dã quý hiếm như một số tỉnh thành khác nhưng
huyện Củ Chi lại có Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã. Đây cũng là một địa điểm tiềm
năng góp phần vào phát triển du lịch của huyện.
Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã huyện Củ Chi được xây dựng tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi vào năm 2006 với diện tích 400m2 do chi cục Kiểm lâm Tp Hồ Chí
Minh quản lý và Wildlife At Risk ( WAR- một tổ chức phi chính phủ tài trợ hoạt động. Tất
cả các loài động vật thu giữ từ những vụ buôn bán trái phép đều được đưa về đây, hiện nay
51
Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã Củ Chi đang cứu hộ trên 30 loài động vật với tổng
cộng 116 cá thể, tất cả đều thuộc danh mục đặc biệt quý hiếm cần được bảo tồn. Ngoài ra
trung tâm còn tiến hành nuôi và nhân giống một số loài động vật quý hiếm khác kết hợp với
các hộ nông dân và các trang trại. Phối hợp với Trung tâm Tư vấn, Hỗ trợ nông nghiệp, tiếp
tục triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển nghề nuôi cá sấu trên địa bàn thành
phố đến năm 2010 theo Quyết định số 208/2005/QĐ-UBND ngày 02/12/2005 của UBND
Thành phố.
Một số loài động vật được nuôi và nhân giống thành công ở trung tâm:
* Phát triển các trại nuôi động vật hoang dã ngành lâm nghiệp:
+ Gây nuôi cá sấu: Trong năm 2006, tổng đàn cá sấu của 50 trại nuôi đang quản
lý: 113.609 con, tổng diện tích chuồng nuôi: 354.284 m2
Tiêu thụ cá sấu năm 2006 :
- Xuất khẩu 19.414 sản phẩm và con sống (gấp 3 lần năm 2005)
- Xuất bán nội địa: 8.828 con (gấp 4 lần năm 2005).
+ Trăn - rắn các loại: Với 10 trại nuôi của doanh nghiệp và hộ gia đình
Trăn đen: 13.207 con; Trăn vàng : 7072 con; Rắn Ráo trâu: 1.950 con.
Da trăn đen khô: (23.592 mét x 0,3 m = 7.600 m2); da trăn vàng khô: (22.280 mét x
0,3 m = 6.684 m2); da rắn ri cá: (3.000 mét x 0,3 m = 900 m2);
+ Động vật hoang dã khác:
Bò sát khác: 05 trang trại với 303.050 con (kỳ sừng, kỳ tôm, bò cạp, cóc, ểnh ương,
Thằn lằn nhà, Liu điu, Tắc kè, Cắc ké, Chàng hiu, Thằn lằn núi);
Nhím: 08 trại với 406 con.
Chi cục Kiểm lâm đã tổ chức kiểm tra 42.000 con/tổng số 500.000 con ba ba của các
trang trại gây nuôi; Hươu sao: 12 con; Nai: 11con; Cua đinh: 1.000 con; Vượn 4 con;
Voọc 01 con, Chồn gấu: 03 con; Khỉ : 07 con; Bò tót: 03 con (01 đực + 01 cái và 01 con
bê).
* Phát triển các trại nuôi động vật hoang dã ngành thủy sản:
- Cá Hải Tượng: có 5 cơ sở nuôi Hải Tượng tổng số: 23 con, trọng lượng bình quân:
80-100 kg/con: 12 con , 30-50 kg/con: 4 con, nhỏ bé 0,3kg – 0,6 kg/con: 7 con.
- Cá Huyết Long: có 2 cơ sở nuôi Huyết Long: tổng số 115 con, chiều dài bình quân: 2
- 3cm: 55 con , 4-5 cm: 60 con.
52
Đây là một địa điểm tham quan và học tập bổ ích cho các em học sinh sinh viên. Và
cũng là nơi để du khách tham quan và hiểu hơn về giá trị của tự nhiên. Góp phần hình thành
ý thức bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Với sự
khai thác và tàn phá của con người vì những lợi ích cá nhân đã ảnh hưởng đến sự sống của
các loài động vật trên Trái Đất.
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Theo dân gian thì vùng Củ Chi xưa có rất nhiều cây Củ Chi ( tên ngày nay thường gọi
là cây Mã Tiền) cho nên những cư dân đầu tiên đã đặt tên cho vùng đất này là Củ Chi. Củ
Chi là vùng đất được người Việt khai phá trong những năm đi mở cõi vào cuối thế kỉ XVII
đầu thế kỉ XVIII thuộc tỉnh Gia Định, bao gồm toàn bộ phần đất của hai tổng Long Tuy Hạ
và Long Tuy Trung, một phần của hai tổng Long Tuy Thương và Bình Thạnh Trung của
huyện Hóc Môn ngày nay.
Qua nhiều biến động của lịch sử những địa danh cũ không còn nữa, nhiều địa danh
mới xuất hiện. Cho tới năm 1957, chính quyền Sài Gòn chính thức thành lập quận Củ Chi
thuộc tỉnh Bình Dương. Năm 1963 chính quyền Sài Gòn chia Củ Chi thành 2 quận: quận Củ
Chi xác lập vào tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập, và quận Phú Hòa thuộc tỉnh Bình Dương.
Trong chiến tranh chống Mỹ, tuy Củ Chi là chiến trường ác liệt phía Bắc Sài Gòn -
Gia Định nhưng người dân quyết bám trụ giữ làng, địa đạo Củ Chi cũng được bắt nguồn từ
đây. Năm 1967 Củ Chi đón nhận huân chương Thành Đồng với danh hiệu cao quý “ Đất
Thép Thành Đồng”. Sau khi đất nước thống nhất, ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa khóa IV đổi tên Sài Gòn Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh thì
quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa và quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương trở thành huyện Củ
Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Huyện Củ Chi ngày nay gồm 20 xã và một thị trấn.
2.2.2.1. Dân cư và nguồn lao động
Toàn huyện Củ Chi có 13 dân tộc sinh sống. trong đó người kinh chiếm đa số: 296450
người chiếm 99,36% tổng số dân. Kế đến là người Hoa chiếm 0,58%, người Khơ-me chiếm
0,04%. Các dân tộc Tày, Thái, Mường, Nùng, H’mông, Dao,…chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Hiện nay, tại huyện có một địa điểm tập trung nhiều dân tộc ít người với nhiều nét truyền
thống văn hóa đặc sắc được tái hiện và gìn giữ. Đó chính là Khu Du Lịch Sinh Thái Văn
Hóa Dân Tộc Thiểu Số. Các dân tộc ít người được đưa về sống nơi đây với công việc hàng
ngày là dệt thổ cẩm, làm gốm, đúc đồng,…nhằm tái hiện lại các nghề truyền thống của
người dân Việt Nam. Đây cũng là một địa điểm thu hút khách du lịch đến tham quan và hiểu
53
thêm về văn hóa các dân tộc nếu du khách không có điều kiện đến những vùng, miền cách
xa thành phố.
Theo thống kê từ năm 2005 đến năm 2010, dân số huyện Củ Chi từ 296.032 người
tăng lên 362.454 người tăng 66.422 người. Đây là lực lượng lao động chính cho sự phát
triển kinh tế của huyện.
Bảng 2.1. Dân số huyện Củ Chi giai đoạn 2005 – 2011
Năm 2005 2008 2009 2010 2011
Tổng số ( người) 296.032 336.716 347.530 355.823 363.171
Nam ( người) 141.136 157.829 167.333 177.489 175.060
Nữ ( người) 154.897 178.887 180.196 178.334 187.394
Nguồn Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh
Do đặc thù nền kinh tế huyện phụ thuộc nhiều vào công nghiệp nên đa số dân cư tham
gia vào các hoạt động của các khu công nghiệp. Một số ít tham gia vào các hoạt động của
ngành du lịch dưới các hình thức như buôn bán nhỏ, lẻ hay các công việc trong các khu du
lịch không đòi hỏi trình độ cao. Điều này dẫn đến thiếu nguồn nhân lực tại chỗ cho ngành
du lịch huyện. Số lao động có trình độ tay nghề cao thì tham gia các hoạt động kinh tế ở khu
vực trung tâm thành phố, chỉ số ít làm việc tại địa phương. Bên cạnh đó theo xu hướng của
hiện đại hóa, công nghiệp hóa, giới trẻ ít nhiều bỏ đi các nét văn hóa, truyền thống của dân
tộc. Một số nghành nghề truyền thống ngày bị mai một đi, do không có đội ngũ kế thừa và
phát huy.
2.2.1.5. Các di tích văn hóa lịch sử
Nói đến Củ Chi không thể không nói đến các di tích lịch sử gắn liền với hai cuộc chiến
tranh chống Pháp, chống Mỹ và hiện nay đã trở thành khu tham quan du lịch thu hút khách
trong nước và ngoài nước.
Tính đến cuối năm 2005 toàn huyện có 88 di tích lịch sử - văn hóa trong đó có 7 di
tích lịch sử, 59 di tích văn hóa và 22 di tích cách mạng. Tiêu biểu nhất là hai khu di tích Bến
Dược và Bến Đình là hai điểm tham quan hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến du
lịch. Hàng năm cụm di tích lịch sử - văn hóa Củ Chi đón tiếp phục vụ hơn 1.000.000 lượt
khách du lịch trong và ngoài nước. Đây là sản phẩm du lịch đặc thù của huyện Củ Chi.
Bảng 2.2. Di tích lịch sử, văn hóa của huyện
Tên di tích Địa chỉ Quyết định công Tổ chức, cá nhân là
nhận xếp hạng chủ sở hữu hoặc
54
quản lý trực tiếp
Khu địa đạo Củ Xã Phú Mỹ Hưng, Số 54/VHQĐ ngày Bộ Chỉ huy Quân
Chi huyện Củ Chi 29 tháng 4 năm sự Thành phố Hồ
Chí Minh 1979
Địa đạo Bến Đình Xã Nhuận Đức, Số 101/2004/QĐ- Bộ Chỉ huy Quân
huyện Củ Chi BVHTT ngày 15 sự Thành phố Hồ
tháng 12 năm 2004 Chí Minh
Đình Cây Sộp Ap Cây Sộp, xã Số 5513/QĐ- Ban Quản trị
Tân An Hội, huyện UBND ngày 30
tháng 11 năm 2006 Củ Chi
Đình Xóm Huế Ấp Xóm Huế, xã Số 5511/QĐ-UBND Ban Quản lý
Tân An Hội, huyện ngày 30 tháng 11
Củ Chi năm 2006
Chùa Linh Sơn Ban Trị sự
Ấp Phú Lợi, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi Số 4347/QĐ- UBND ngày 13 tháng 10 năm 2008
Nguồn UBND Huyện Củ Chi
Nhìn chung mật độ di tích của huyện rất ít và thưa thớt, chủ yếu tập trung ở các xã
phía Bắc của huyện, còn lại các xã phía Nam hầu như không hoặc có chỉ là các di tích mang
tính chất địa phương.
Về chất lượng di tích: Mặc dù được quan tâm bảo tồn, nhưng cho đến nay các di tích
trên địa bàn huyện có nguy cơ xuống cấp do sự tác động thời gian, chiến tranh và ý thức bảo
tồn cũng như kinh phí còn nhiều hạn chế. Một số không được đầu tư để bảo tồn trùng tu.
Khả năng khai thác du lịch: với số lượng di tích lịch sử ít nhưng giá trị lịch sử cao là
những nét đặc trưng và lợi thế của huyện Củ Chi trong phát triển du lịch. Hệ thống địa đạo
Củ Chi nổi tiếng qua hai cuộc kháng chiến được nhân dân trong nước và thế giới biết đến là
một điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch huyện, cũng như thu hút du khách gần xa tham
quan tìm hiểu để biết thêm về những nét hào hùng của quân và dân Củ Chi nói riêng và
người Việt Nam nói chung.
Một số di tích lịch sử - văn hóa nổi bật có khả năng khai thác phát triển du lịch:
* Di tích lịch sử địa đạo Bến Dược: Di tích địa đạo Bến Dược còn gọi là Khu di tích
lịch sử văn hóa địa đạo Củ Chi, thuộc địa bàn ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu di tích nằm ở tận cùng về phía Bắc của huyện Củ Chi,
55
Tây Bắc giáp với sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp ấp Phú Lợi, Tây Nam giáp ấp Lộc Thuận,
Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp ấp Phú Hòa, cách Trung tâm Thành phố Hồ Chí
Minh khoảng 70km về hướng Tây Bắc.
Năm 1961, địa đạo chỉ là những đường hầm ngầm sâu trong lòng đất, kéo dài vài chục
thước… cốt tránh địch hơn là đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước
sang giai đoạn quyết liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia
Định chỉ thị thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ và công trình lấy ngày thành lập Đảng (3
tháng 2) khởi công. Địa đạo được xây dựng theo kinh nghiệm từ trước, cứ khoảng 16m tạo
một giếng đường kính 0,6m, sâu 3m khi giáp mí thì lấp miệng. Từ đáy giếng dùng cuốc
chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao 80cm. Địa đạo gồm các ngóc ngách
theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm này sang hầm khác thành một thế liên hoàn
được tính toán hết sức khoa học. Do có nhiều ngỏ ngách, nhiều đoạn giao nhau hoặc song
song nên địa đạo kéo dài trên 100 cây số, có đoạn hẹp, rộng có khi phải trườn vào và có
chốt an toàn phòng khi địch sử dụng hợi cay hoặc bơm nước độc xuống địa đạo… Miệng
địa đạo là một cấu trúc đặc biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn trong bụi rậm, gò mối, nắp hầm
vừa vặn một người chui, lỗ thông hơi tạo đường xiên núp trong các bụi rậm khó phát hiện.
Điểm nổi bật của khu địa đạo là các hầm đều âm trong lòng đất. Những căn hầm cho văn
phòng, y tế, cơ yếu, hậu cần, văn nghệ, bếp hoàng cầm…
Ngày 29/4/1979 địa đạo Phú Hiệp, Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa – Thông tin đặc
cách cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 54/VH-
QĐ.
*Di tích lịch sử địa đạo Bến Đình: Khu di tích lịch sử địa đạo Bến Đình thuộc ấp Bến
Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, nằm về phía Bắc thị trấn Củ Chi, giáp với sông Sài
Gòn và tỉnh lộ 15, cách Trung tâm thành phố 55km. Phía Bắc giáp với xã An Nhơn Tây,
phía Nam giáp xã Phú Hòa Đông, phía Tây giáp xã Phạm Văn Cội và phía Đông giáp sông
Sài Gòn.
Trong cuộc kháng chiến, do địch tập trung đánh phá càn quét địa bàn Củ Chi rất gay
gắt nên căn cứ Huyện ủy không cố định, phải di chuyển nhiều nơi. Từ năm 1964 - 1967,
Nhuận Đức là một trong 6 xã giải phóng phía bắc có hệ thống địa đạo hoàn chỉnh liên hoàn
giữa các ấp, Bến Đình – xã Nhuận Đức có địa thế rất thuận lợi với khu rừng trải dài trên
hàng trăm hecta, lại là vùng đồi cao rắn chắc tiếp giáp sông Sài Gòn, khi có địch càn quét có
56
thể di chuyển lực lượng về phía sông trú lui an toàn. Từ đó địa đạo Bến Đình chính thức trở
thành khu căn cứ ổn định, vững chắc và an toàn của huyện ủy.
Khu địa đạo căn cứ huyện ủy bao gồm các hạng mục công trình : Hầm bảo vệ, Hầm
C25, Hầm văn công, Hầm y tế, Hầm lương thực, Hầm bí thư huyện ủy, hầm bếp Hoàng
Cầm…
Ngày 15/2/2004 Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin đã ký Quyết định số 101/2004/QĐ-
BVHTT xếp hạng Di tích quốc gia cho căn cứ địa đạo Bến Đình.
* Đình Cây Sộp: Đình Cây Sộp tọa lạc tại ấp Cây Sộp, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi.
Từ chợ Bến Thành theo đường Cách mạng tháng 8, Quốc lộ 22 đến ngã năm thị trấn Củ Chi
– tại chân cầu vượt rẽ phải theo đường Nguyễn Văn Khạ vào khoảng 5km rẻ trái là đến di
tích.
Đình Cây Sộp (còn gọi là đình Vĩnh An Tây) được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ
XIX của thôn Vĩnh An Tây, huyện Bình Long, Phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đình thờ Thần
Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị Thần bảo hộ của làng). Ngày 29 tháng 11 năm 1852 âm lịch,
đình được Vua Tự Đức ban tặng Sắc phong. Đình với tư cách là một thiết chế văn hóa cơ
sở, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của nhân dân trong vùng. Tuy bị chiến tranh tàn
phá, ngôi đình không còn nguyên trạng như xưa, nhưng đình Cây Sộp vẫn giữ được giá trị
văn hóa phi vật thể. Vào ngày rằm tháng 2 âm lịch hàng năm, đình tổ chức lễ hội Kỳ yên
nhằm tưởng nhớ những người có công với nước, ngoài ra lễ hội còn đáp ứng nhu cầu đời
sống tâm linh của nhân dân.
Ngày 30/11/2006 Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 5513/QĐ-UBND
xếp hạng đình Cây Sộp là một di tích lịch sử cấp thành phố.
* Đình Xóm Huế:Đình Xóm Huế tọa lạc tại ấp Xóm Huế, xã Tân An Hội, huyện Củ
Chi. Đình có vị trí cách trung tâm thành phố 30km, theo Quốc lộ 22 từ Sài Gòn lên Củ Chi
đến km thứ 19 khu vực ấp Xóm Huế, rẻ trái vào đường Quốc Thạnh, hơn 1km là đến di tích.
Đình Xóm Huế được xây dựng vào năm 1841, mái lợp lá, vách gỗ. Đình thờ Thần
Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị thần bảo hộ của làng). Đình tọa lạc trên một gò cao, hình chữ
nhật, quay về hướng Đông. Đình xây theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, có ba nóc nối liền nhau
hình chữ tam. Phía trước là Tiền điện và là nơi tiếp khách mới xây dựng năm 1990. Bờ mái
trên nhà Tiền điện trang trí lưỡng Long chầy Nhật An Hội. Hai bên có 2 rồng chầu ra phía
Nam Bắc. Dưới bờ nóc mái là chữ Đình Tân An Hội. Bốn cột bê tông nhà Tiền điện được
khảm sành sứ. Hai cột gian giữa có 2 rồng chầu vào cuốn thư “Thần Ân Phản Tế”. Ngoài
57
hàng ba, hai bên vách đối diện nhau có thờ bài vị, một bên là Thủy Long Thần Nữ, một bên
là Mộc Trụ Thọ Thần.
Ngày 30/11/2006, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số
5511/QĐ-UBND xếp hạng Đình Xóm Huế là một di tích kiến trúc nghệ thuật.
* Chùa Linh Sơn: Chùa Linh Sơn tọa lạc tại ấp Phú Lợi, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ
Chi. Từ trung tâm thành phố theo đường Quốc lộ 22 đến huyện Hóc Môn, theo đường tỉnh
lộ 15 qua cầu Xáng đến địa phận Củ Chi, xuôi về hướng bắc qua ngã tư Tân Quy khoảng
3km sẽ gặp ngôi chùa Linh Sơn Cổ Tự.
Chùa được khởi sự xây dựng vào năm 1806, khi Hòa thượng Bửu Tịnh Phổ Tế, đời 35
thuộc dòng Lâm tế trên đường chu du hành đạo dừng chân tại khu rừng cây cao bóng mát
dựng lên một am nhỏ, mái lợp tranh, xung quanh xây tường đất, thỉnh phật từ nơi khác về
thờ tự. (Đó là khu rừng chùa ấp Phú Lợi ngày nay)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhà chùa là nơi đùm bọc, che
chở cho nhiều thanh niên chống không đi lính cho giặc, giúp đỡ cho nhiều cán bộ cách
mạng mỗi khi ghé qua chùa trên đường đi công tác. Trong những năm kháng chiến chống
Mỹ, chùa là cơ sở cách mạng, nơi ẩn náu một số cán bộ giao liên, công tác Thành. Chùa
Linh Sơn còn lưu lại những giá trị kiến trúc nghệ thuật gồm: Cột gỗ, kèo, trính, rui, mè…
Trong chùa có nhiều hiện vật bằng gỗ: tượng, bao lam, liễng, ghế thờ, trống, mõ…được
điêu khắc chạm lộng công phu có giá trị nghệ thuật độc đáo, mang tính hiện thực và đã được
dân gian hóa.
Chùa Linh Sơn được Ủy ban nhân dân thành phố ký Quyết định số 4347/QĐ-UBND
ngày 13/10/2008 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
2.2.2.2. Lễ hội
Do lịch sử, dân tộc và tôn giáo nên lễ hội tại Củ Chi cũng khá đa dạng, chủ yếu diễn ra
vào dịp mùa xuân. Tuy nhiên, tình hình lễ hội chưa đồng nhất, còn mang tính chất tự phát,
chưa được đầu tư nhiều nên chưa xây dựng nên nét đặc sắc vốn có của nó.
Các ngày lễ được tổ chức ở huyện Củ Chi:
*Lễ Hội - Hội chợ Sinh Vật Cảnh nông nghiệp và sản phẩm làng nghề: Lễ hội này do
HTX nuôi trồng thủy sản Hà Quang phối hợp cùng Hội Sinh Vật Cảnh Thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức tại khu làng nghề liên hiệp, xã Phú Hòa Đông – Trung An, huyện Củ
Chi. Ngoài trưng bày, giao lưu các sản phẩm nông nghiệp và làng nghề, còn có hội thi các
sản phẩm về hoa lan, kiểng bonsai, kiểng thú, tiểu cảnh, kiểng cổ, cá cảnh, tiểu cảnh sân
58
vườn… 41 cơ sở, đơn vị trong và ngoài huyện và một số tỉnh tham gia lễ hội lần này. Các
buổi tọa đàm về tiềm năng phát triển nghề sinh vật cảnh của TPHCM và huyện Củ Chi cũng
như hội thảo với chủ đề về nâng cao tay nghề trồng hoa, cây kiểng, cá cảnh… cũng đã diễn
ra tại đây.
*Lễ Hội đền Bến Dược: diễn ra vào ngày 19/12 với nhiều loại hình đặc sắc mang đậm
bản sắc văn hóa của dân tộc từ: ca múa, đờn ca tài tử, cải lương, hát bội, đến nhiều loại hình
vui chơi bổ ích khác. Đối với nhân dân địa phương thì những ngày này đã thực sự trở thành
một ngày hội truyền thống, vì thế mà có những đêm Khu di tích đã đón tiếp gần 50.000
khán giả đến tham gia hoạt động, vui chơi. Đặc biệt vào ngày lễ lớn này, Hội thao đền Bến
Dược do chính khu di tích đăng cai tổ chức luôn được mọi người quan tâm, tham gia ủng hộ
vì nó mang tính cộng đồng, tập thể cao. Lễ Hội được tổ chức với sự kêu gọi tham gia của
các tỉnh bạn lân cận như: Tây Ninh, Long An, Bình Dương với nhiều môn thi đấu như cầu
lông, bóng chuyền, bơi lội, đua thuyền…hội thao trong khuôn khổ lễ hội đã thu hút được rất
nhiều đơn vị trong địa bàn và các tỉnh bạn trực tiếp tham gia ủng hộ. Kết quả này thể hiện
được tinh thần giao lưu học tập lẫn nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa các đơn vị bạn
trong và ngoài tỉnh.
*Lễ cầu siêu các anh hùng liệt sĩ: hằng năm trước ngày 27/7 tại đền Bến Dược lại diễn
ra lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ. Nghi lễ được ban Nghi lễ GHPGVN TP.HCM cùng
BTS GHPGVN huyện Củ Chi các chư tăng ni, các tu viện trên địa bàn huyện cùng hơn 200
quý Phật tử tham gia cầu nguyện. Đây cũng là dịp các thân nhân và các vị lãnh đạo cả nước
cũng về đây thắp hương để tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để
giành độc lập cho đất nước hôm nay.
*Lễ hội bắn pháo hoa diễn ra hằng năm vào đêm giao thừa tại đền Bến Dược, đây là
hoạt động mừng xuân nhằm phục vụ cho nhân dân vùng ngoại thành, giúp bà con có một
năm mới vui tươi. Vì điều kiện cách xa trung tâm nên thành phố đã có những chương trình
chào đón năm mới ở đây, tạo điều kiện để người dân có những hoạt động ý nghĩa trong dịp
Tết.
2.2.2.3. Các loại tài nguyên nhân văn khác
Các làng nghề:
Từ xa xưa người dân huyện Củ Chi đến vùng đất này để lập nghiệp, họ đã liên tiếp
chống chọi với những khó khăn của thiên nhiên, nạn nhân của sự áp bức bóc lột tàn bạo. Từ
trong gian khó đó đã sinh ra những con người hào hùng, gian khổ, cần cù chịu khó. Luôn
59
gắn chặt cuộc sống của mình với mảnh đất quê hương, luôn yêu thương tương trợ và giúp
đỡ nhau vượt qua những khó khăn trong lịch sử. Trong quá trình phát triển đó, không thể
không nói đến những nét văn hóa, kinh tế của huyện với những ngành nghề truyền thống có
từ xa xưa và được lưu giữ cho đến ngày nay. Với những sản phẩm mang đậm bản sắc và dấu
ấn riêng của người dân Củ Chi.
Hiện nay trên địa bàn huyện có những làng nghề truyền thống như:
+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông: Toàn xã có hơn 1.400 lò bánh tráng thủ công,
44 lò tráng bánh máy, với hơn 50% số hộ trong xã, hơn 5.000 lao động tại chỗ tham gia làm
nghề bánh tráng. Mỗi ngày làng nghề bánh tráng Phú Hòa Ðông sản xuất hơn 38 tấn bánh
thành phẩm (trong đó 80% sản lượng phục vụ xuất khẩu). Các dự án vệ sinh môi trường, tạo
nguồn nguyên liệu tại chỗ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại đã được xây dựng triển
khai để làng nghề phát triển theo hướng đi bền vững.
Bánh tráng Củ Chi vừa mỏng lại dẻo, phù hợp để cuốn thịt với rau sống, hay cuốn chả
giò,… ngoài những bí quyết đặc biệt về cách chọn gạo và cách làm thì cũng giống như Tây
Ninh ở Củ Chi cũng có bán tráng phơi sương. Loại bánh này chuyên dùng để cuốn với thịt
heo hoặc thịt bò luộc kèm với rau rừng. Trong dịp Tết đối với người dân địa phương thì
món bánh tráng cuốn thịt nhà nào cũng có. Và đây cũng được xem là một nét văn hóa ẩm
thực truyền thống của người dân huyện Củ Chi.
Ngày nay, bánh tráng Củ Chi không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn
xuất khẩu sang các nước như: Mỹ, Úc, Nhật Bản, Canada,…Bình quân mỗi tháng làng nghề
sản xuất khoảng 1000 tấn bánh tráng các loại.
+ Làng nghề đan lát xã Thái Mỹ: xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi – Tp Hồ Chí Minh từ lâu
đã nổi tiếng với làng nghề đan lát các sản phẩm mây tre lá truyền thống với các sản phẩm
như: giỏ, rổ, chậu hoa, thúng,…hầu hết được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, trên địa
bàn xã có 5 cơ sở mây tre lá hoạt động, thu hút hàng trăm công nhân làm việc tại chỗ.
+ Làng nghề mành trúc Tân Thông Hội: là nơi sản xuất mành trúc hàng đầu cả nước.
Với kinh nghiệm làm mành trúc hơn 30 năm, sản phẩm của làng nghề đã được thị trường
trong nước và ngoài nước biết đến. Do điều kiện tự nhiên của huyện Củ Chi có rất nhiều tre,
trúc, rất thuận lợi cho việc sản xuất các mặt hàng thủ công như: mây, tre, lá. Một mành trúc
tùy theo yêu cầu khách hàng mà có số lượng dây khác nhau, thông thường là 100 dây với
chiều dài 2m, kế tiếp đó là xỏ kẽm, giựt mành. Những việc đó đòi hỏi người thợ phải làm
đều tay để đảm bảo sản phẩm không bị lỗi.
60
+ Làng nghề sinh vật cảnh: đây là dự án được Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà
Quang thành lập với nhiều mô hình đa dạng như: trồng hoa lan, cây kiểng và nuôi cá cảnh
kết hợp với du lịch nghỉ dưỡng sinh thái. Đây sẽ là nơi cung cấp cây con giống, tiêu thụ sản
phẩm cho xã viên, thúc đẩy làng nghề phát triển và nếu phù hợp có thể phát triển lên 110 ha
hay 500 ha. Với tổng vốn đầu tư là 20 tỷ, hiện nay đã hình thành một phần đường nội bộ
trong khuôn viên làng nghề trong phần diện tích 5 ha. Các sản phẩm hàng hóa của làng nghề
đã tham gia thị trường như: hoa lan, cá cảnh ( cá chép Nhật, cá dĩa,…), cây kiểng.
Đặc sản địa phương, món ăn dân tộc:
+ Bò tơ Củ Chi: thịt bò ở đây được lựa chọn rất kỹ lưỡng từ những con bò tơ đủ độ
tuổi nhất định. Thịt bò ở đây mềm, tươi ngon. Sau đó cắt thành những khoanh tròn. Khi thịt
chín rất chắc, thơm và ngọt. Thông thường phổ biến nhất là món bò luộc, được cuộn với rau
rừng kèm với bánh tráng ( cũng là đặc sản huyện Củ Chi). Ngoài ra, thịt bò tơ còn được chế
biến thành nhiều món khác như: bò nhúng hèm, bò nướng vĩ, lòng bò hấp gừng, bò tơ
nướng lụi,.. Và không thể không nói đến món cháo dựng bò, được nấu bằng gân bò, móng
bò với đậu phộng, đậu xanh, đậu trắng, khoai, củ mì. Khi cháo sôi thả rau má, mồng tơi vào,
ăn rất ngọt và mát. Du khách khi đến Củ Chi hoặc chỉ đi ngang qua cũng không thể nào bỏ
qua dịp thưởng thức món đặc sản này. Vào dịp cuối tuần, người dân thành phố muốn thay
đổi không khí cũng thường lái xe đến đây để thưởng thức món bò tơ đặc sản ở đây.
+ Khoai mì: là món ăn dân dã được xem gắn liền với địa danh Củ Chi và người dân Củ
Chi. Do điều kiện ngày xưa nghèo khó, người dân Củ Chi gắn liền với lương thực chính là
củ mì nên người dân đã chế biến ra nhiều món ăn khác nhau từ khoai mì. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho cây khoai mì phát triển, năng suất cao. Từ lâu khoai mì đã trở thành
món ăn quen thuộc của người dân Củ Chi. Khoai mì có thể chế biến thành nhiều món ăn
khác nhau nhưng phổ biến nhất hiện nay có lẻ là món khoai mì hấp nước cốt dừa. Với món
này du khách có thể dễ dàng tìm thấy khi đi du lịch Củ Chi.
+ Món ngon từ dế: nói đến các món đặc sản ở Củ Chi không ai không biết đến một
món ăn côn trùng nổi tiếng ở đây. Đó là các món ăn được chế biến từ dế. Trại dế Thanh Tùng nằm ở ấp Bến Đò 2, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi với diện tích rộng hơn 1000 m2.
Đến đây ngoài được tham quan trang trại, du khách còn được thưởng thức các đặc sản từ dế
như: dế chiên giòn, dế kho tiêu, dế lăn bột, dê cơm chiên nước mắm,…Ngoài ra còn có các
món được chế biến từ các loại côn trùng khác như: bò cạp, rết, đuông dừa… Các món ăn
được ăn kèm với các loại rau sông, rau rừng làm tăng thêm hương vị hấp dẫn. Vậy du khách
61
không cần đi đến Thái Lan hay Campuchia để thưởng thức các món đặc sản côn trùng mà
ngay tại Củ Chi du khách cũng có thể thưởng thức những món ăn độc đáo và lạ này.
2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Trong những năm vừa qua, cơ sở hạ tầng của huyện ngày càng được cải thiện, giao
thông được nâng cấp, sửa mới. Nhiều tuyến đường được mở rộng và trải nhựa. Cơ sở vật
chất được đầu tư khá tốt nhằm phục vụ cho ngành du lịch nói riêng và phát triển kinh tế
huyện nói chung.
2.2.3.1. Hệ thống giao thông vận tải
Trên địa bàn huyện chỉ có loại hình giao thông đường bộ, đường thủy ( các loại hình
khác hầu như không có).
Về giao thông đường bộ: tổng chiều dài mạng lưới đường trên địa bàn huyện Củ Chi là
594942m (trên 88 tuyến- không kể các đường nhỏ và đường trong khu ở có lộ giới nhỏ hơn
12m). Trong đó có 22 tuyến đường chính và đường liên khu vực hiện hữu là đường Quốc lộ
22, Tỉnh lộ 2, Tỉnh lộ 6, Tỉnh lộ 7, Tỉnh lộ 8, Tỉnh lộ 9, Tỉnh lộ 15, Bến Than, Tam Tân, Hồ
Văn Tắng, Nguyễn Văn Khạ, Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Thị Rành, Phạm Văn Cội, An
Nhơn Tây, Trung Lập, Nguyễn Thị Nê, Nguyễn Thị Lắng, Phú Thuận, Bến Súc, Võ Văn
Bích,Nhuận Đức, vừa sử dụng chức năng đối ngoại, vừa sử dụng chức năng đối nội với tổng
chiều dài là 219233 m. Các tuyến đường có chức năng đối ngoại cụ thể như sau:
+ Quốc lộ 22: là con đường nối liền Tp Hồ CHí Minh đến cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây
Ninh, dài 58,5 km. Đây là con đường nằm trong dự án đường xuyên Á giữa Tp Hồ Chí
Minh và Phnom Penh. Tuyến đường này đi qua các huyện Hóc Môn, Củ chi ( Tp Hồ Chí
Minh), Trảng Bàng, Gò Dầu ( tỉnh Tây Ninh), và kết thúc tại cửa khẩu Mộc Bài , xã Lợi
Thuận, huyện Bến Cầu ( tỉnh Tây Ninh). Thông qua tuyến đường này có thể kết nối các
tuyến điểm du lịch của huyện Củ Chi với các tỉnh bạn và nước láng giềng Campuchia. Đây
được xem là con đường huyết mạch hứa hẹn tiềm năng du lịch lớn của huyện.
Ngoài ra huyện còn có các tuyến đường nối liền với các tỉnh và các huyện lân cận như:
- Tỉnh lộ 2: với chiều dài 2.0356 m, chiều rộng lòng đường 12 m, lộ giới 40m.
- Tỉnh lộ 6: với chiều dài 2.644 m, chiều rộng lòng đường 10 m lộ giới 30 m.
- Tỉnh lộ 7: chiều dài tổng cộng 22.600 m, chiều rộng lòng đường 18m, lộ giới 40 m.
- Tỉnh lộ 15: chiều dài 33.969 m, chiều rộng lòng đường từ 14 – 17 m, lộ giới 40 m.
- Đường Tam Tân: chiều dài 17.644m, chiều rộng lòng đường từ 7 – 19,5 m, lộ giới 40
m.
62
Về cầu: Trên địa bàn huyện có 50 cầu đi qua các sông, kênh, rạch trên các tuyến
đường chính của huyện do Khu quản lý giao thông số 3 quản lý, bao gồm nhiều loại: bê
tông dự ứng lực, bê tông liên hợp, bê tông cốt thép,…với tổng chiều dài khoảng 1.630m
Về giao thông đường thủy: huyện Củ Chi có nhiều hệ thống sông ngòi, kênh rạch.
Trong đó một số tuyến sông chính có chức năng giao thông đường thủy như: sông Sài Gòn,
kênh Xáng, kênh Quyết Thắng, kênh Đức Lập,… Ngoài chức năng giao thông đường thủy
thì sông Sài Gòn Gòn là tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái ven sông, phát triển du lịch
đường thủy từ trung tâm thành phố đến các huyện ngoại thành.
2.2.3.2. Hệ thống cung cấp điện
Hiện huyện Củ Chi được cấp điện từ lưới điện chung của Thành phố Hồ Chí Minh,
nhận điện từ các trạm 110/15 - 22KV: Trạm Củ Chi 40MVA+63MVA, trạm Phú Hòa Đông
1×40MVA, trạm Tân Hiệp 2×18MVA
Lưới điện: trên địa bàn huyện có các đường dây cao thế 110KV, 220KV, 500KV.
- Đường dây 110KV đến các trạm: Củ Chi, Phú Hòa Đông, Bến Cát, Trảng Bàng, Gò
Đậu có chiều dài trên địa bàn huyện khoảng 64,52km.
- Đường dây 220KV từ trạm Tân Định (Bình Dương) đến trạm Trảng Bàng (Tây Ninh)
có chiều dài qua địa bàn huyện Củ Chi khoảng 15,2km.
- Đường dây 500KV từ trạm Phú Lâm đến các trạm Tân Định, Pleiku, đoạn qua địa
bàn huyện có chiều dài khoảng 24 km.
Lưới trung thế 15 – 22 KV: có chiều dài: 459,16km, trong đó:
- Đường dây nổi: 454,93km (chiếm 99,07%).
- Cáp ngầm: 4,23km (chiếm 0,93% ).
Lưới hạ thế: có chiều dài: 1121,95km; trong đó đường dây trên không có chiều dài:
1120,77 km (chiếm 99,9%), cáp ngầm có chiều dài: 1,18km (chiếm 0,1%).
Trạm biến thế 15 – 22/0.4KV: có 1.530 trạm, 2.548 máy với tổng công suất đạt
293.163,5KVA, trong đó trạm có 2 cấp điện áp (22 – 15KV) có 898 máy với tổng công suất
đặt 54.750KVA.
Lưới trung thế hiện có trên địa bàn huyện, phần mới cải tạo và xây dựng, được thiết kế
xây dựng theo tiêu chuẩn 22KV vận hành 15KV, kết cấu dạng mạch vòng kín vận hành hở,
đảm bảo hổ trợ nhau khi có sự cố. Tiết diện đường trục lớn (cáp ngầm dùng cáp 3M240,
đường dây trên không 3ACV240) nên vận hành tốt ít sự cố, tổn thất điện áp trong mức kỹ
63
thuật cho phép. Tuy nhiên đường dây trên không chiếm phần lớn nên kém an toàn và mỹ
quan đô thị.
Như vậy theo quy hoạch chung của huyện Củ Chi được UBND TP phê duyệt năm
1998 đến nay lưới điện trên địa bàn huyện đã phát triển đúng hướng, những công trình đã
thực hiện được:
Cải tạo nâng công suất các trạm 110/15 – 22KV Củ Chi, Phú Hòa Đông, xây dựng mới
đường dây 500KV Phú Lâm – Nhà Bè, Phú Lâm – Pleiku (mạch 2).
Cải tạo nâng tiết diện lưới điện trung hạ thế hiện hữu, và xây dựng mới lưới điện ở khu
dân cư mới phát triển.
2.2.3.3. Hệ thống bưu chính, viễn thông
Cùng với xu thế phát triển của địa phương để đáp ứng nhu cầu của người dân và của
du khách, hệ thống bưu chính viễn thông của huyện Củ Chi đã có những chương trình ứng
dụng cho các dịch vụ bưu chính như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bưu phẩm, bổ sung các
thiết bị cơ sở vật chất, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ đổi
mới và nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Bên cạnh đó với sự tham gia của các tập đoàn bưu chính viễn thông như: Công ty
Viễn thông Quân Đội, công ty Viễn thông Điện lực, công ty dịch vụ Bưu chính viễn thông
Sài Gòn,… đã làm cho giá dịch vụ rẻ hơn và chất lượng dịch vụ tốt hơn.
Theo số liệu của Chi nhánh Điện thoại Củ Chi thì hiện nay trên toàn huyện có 9 đài,
trạm là: Trạm Củ Chi, Tân Phú Trung, Phước Thạnh, Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây,
Phú Mỹ Hưng, Phạm Văn Cội, Tân Trung và trạm Bình Mỹ. Các trạm trên được phân bố
nhằm đảm bảo 100% xã trên địa bàn đều có mạng lưới thông tin liên lạc.
Năm 2003 huyện Củ Chi trung bình 8,2 máy /100 dân. Hệ thống điện thoại di động
được phủ sóng tất cả các trung tâm thị trấn, thị tứ và các tuyến đường giao thông đi qua.
Đây cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch huyện phát triển.
2.2.3.4. Hệ thống cấp, thoát nước
Cấp nước:
Tại Bến Than - huyện Củ Chi hiện có một trạm bơm cấp nước thô lấy nước từ sông Sài Gòn về cấp cho nhà máy nước Tân Hiệp Hóc Môn công suất Q = 300.000 m3/ngày, với
tuyến ống cấp nước thô 1500 mm đi trên đường Bến Than, hành lang bảo vệ tuyến ống cấp
nước 18 m đến 24 m.
Tình hình chung:
64
Hiện tại trên địa bàn huyện Củ Chi có một số khu vực đô thị được cấp nước bằng hệ
thống tập trung có quy mô nhỏ, bao gồm 5 hệ thống cấp nước tập trung, do công ty Đầu tư
khai thác nước sông Sài Gòn trước nay làm chủ đầu tư, sau khi xây dựng xong đã bàn giao
cho công ty Dịch vụ Công ích huyện quản lý và khai thác. Số các thị trấn không có hệ thống
cấp nước: 15 khu vực thị tứ, trung tâm không có hệ thống cấp nước.
Cấp nước cho các khu công nghiệp: hiện đã có 2 khu công nghiệp hoạt động
( Tây Bắc Củ Chi, sử dụng nước giếng khoan có công suất Q = 2250 m3/ngày và Tân Quy
chưa có mạng cấp nước chung) - Huyện Củ Chi là huyện ngoại thành, một số xã có giếng
khoan công nghiệp.
Một số Trung tâm xã sử dụng nước giếng khoan (công nghiệp) tập trung, tuy nhiên số
lượng các hộ gia đình sử dụng từ mạng cấp nước chung rất ít do phải đóng tiền.
Hiện nay dân cư sử dụng chủ yếu là nguồn nước ngầm khai thác do các hộ gia đình tự
khoan giếng. Tổng số giếng khoan trong toàn huyện hiện có 5.214 giếng, với tổng lưu lượng15.485 m3 /ngày, mật độ giếng khai thác 12,2 giếng /km2. Trong đó tầng chứa nước
Pleistocen độ sâu 10m - 20 m chất lượng nước tương đối tốt với 562 giếng; tầng chứa nước
Pliocen ở độ sâu từ 30m đến 40m chất lượng nước tốt với 4.652 giếng, trừ một số khu vực
nằm ven kênh Thầy Cai chất lượng nước phụ thuộc vào độ sâu giếng khoan.
Thoát nước:
Hệ thống thoát nước là hệ thống chung cho nước mưa và nước thải, mật độ rất thấp,
chủ yếu được xây dựng ở khu vực trung tâm thị trấn Củ Chi, một số cụm dân cư và một số
cụm, khu công nghiệp (khu công nghiệp Tây Bắc, cụm công nghiệp Tân Thạnh Đông. . .) và
cho các vị trí qua đường gồm các loại: cống tròn 500 đến 1500, cống hộp 2 (2000x2000),
mương xây từ B300 đến B1200.
Hệ thống thoát nước thải: Hệ thống cống thoát nước trong khu vực huyện Củ Chi là hệ
thống cống chung thoát cho nước mưa và nước thải, có mật độ thấp, chủ yếu xây dựng ở
khu trung tâm thị trấn huyện Củ Chi, một số cụm dân cư và khu công nghiệp. Phần còn lại,
nước thải thoát tự nhiên ra chổ trũng hoặc kênh rạch, một phần thấm vào đất.
Do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ nên hệ thống thoát nước tại huyện chưa được xử lý
triệt để. Công tác xử lý nước thải tại các điểm du lịch chưa được quan tâm, nhiều cơ sở dịch
vụ du lịch tại các điểm du lịch còn thải trực tiếp ra môi trường.
Hiện nay, nước thải trong khu vực huyện Củ Chi chưa được xử lý triệt để. Hệ thống xử
lý duy nhất cho nước thải sinh hoạt là bể tự hoại nhưng chỉ tập trung ở khu trung tâm và một
65
số cụm dân cư. Vì vậy cần quan tâm hơn nữa đến cung cấp nguồn nước sạch đặc biệt là
những khu vực xa trung tâm và các khu du lịch để phục vụ du khách được tốt hơn.
2.2.3.5. Cơ sở lưu trú
Do đặc thù vị trí địa lý của huyện Củ Chi gần với trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh
nên hầu như du khách không có xu hướng lưu trú lại. Đó cũng là lý do các cơ sở lưu trú ở
đây không phát triển hoặc có chăng chỉ là những cơ sở nhỏ, lẻ, còn chưa có chuyên môn cao
trong phục vụ nhu cầu của du khách.
Bảng 2.3. Cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng và dịch vụ cá thể của huyện Củ Chi
giai đoạn 2005 – 2011
2005 2008 2009 2010 2011
Tổng số 4.667 11.768 10.851 11.578 9.879
(Nguồn Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh)
Số lượng các cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng tại huyện có xu hướng giảm và
không ổn định. Điều này cho thấy huyện còn chưa quan tâm đầu tư nhiều trong lĩnh vực
này. Chỉ là các doanh nghiệp tư nhân đầu tư theo xu hướng thị trường. Các cơ sở lưu trú tại
huyện Củ Chi đa phần là các khách sạn nhỏ, hoặc các nhà nghỉ đáp ứng nhu cầu của người
dân từ địa phương khác đến đây khi có công việc hoặc các tiểu thương đến để trao đổi,
buôn bán hàng hóa trong huyện.
Bảng 2.4. Một số khách sạn nhà nghỉ huyện Củ Chi
Khách sạn Địa chỉ
Khách sạn Huyền Thoại Nguyễn Văn Ni, TT.Củ Chi
Khách sạn An Lộc Khu phố 4, TT.Củ Chi
Khách sạn Khoa Nhung 16 đường D3, TT. Củ Chi
Hotel Thành Vinh Chương Dương, 12, Củ Chi
Như vậy, để du lịch phát triển hơn thì huyện Củ Chi cần đầu tư nhiều hơn vào cơ sở
lưu trú, để giữ chân du khách kéo dài thời gian lưu trú tăng thu nhập cho du lịch. Để làm
được như vậy đòi hỏi phải có những chiến lược và quy hoạch phù hợp.
Ngoài cơ sở lưu trú, các cơ sở ăn uống, vui chơi giải trí ở Củ Chi trong những năm qua
cũng đã có những bước phát triển nhất định. Các cơ sở ăn ngày càng nhiều hơn, đa dạng
hơn từ những quán ăn bình dân cho đến các nhà hàng chuyên phục vụ các món ăn đặc sản
của huyện nói riêng và khu vực phía Nam nói chung. Du khách đến tham quan huyện Củ
Chi sẽ được giới thiệu món ăn đặc sản của huyện như: bò tơ, gà thả vườn hay những món ăn
66
chế biến từ côn trùng ( dế, bò cạp,…). Ngoài ra còn có món đặc sản khoai mì, món ăn được
xem là gắn liền với quê hương địa đạo.
Tuy nhiên, hạn chế của các cơ sở ăn uống ở Củ Chi là quy mô nhỏ, tác phong phục vụ
còn chưa chuyên nghiệp, khả năng đón những đoàn khách lớn còn hạn chế.
Tuy doanh thu về du lịch của huyện trong những năm qua có tăng lên, nhưng các cơ sở
vui chơi giải trí phục vụ du khách và người dân địa phương chưa phát triển. Đó cũng là lý
do du khách không lưu trú lại. Hiện nay, các cơ sở vui chơi giải trí của huyện chủ yếu là
Công viên nước Củ Chi, một số dịch vụ câu cá giải trí ở các điểm du lịch sinh thái.
Trung tâm văn hóa huyện được thành lập năm 1978 với tên gọi “ Nhà văn hóa – thông
tin – Thể dục thể thao huyện Củ Chi”. Với chức năng nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động văn hóa thông tin – thể dục thể thao trên địa bàn huyện Củ Chi. Ngoài ra tại các xã của
huyện cũng có các trung tâm văn hóa – thể thao. Đây là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa
truyền thống của người dân địa phương và tạo thêm sân chơi lành mạnh cho giới trẻ.
Sân golf Nhân Sư và khu villa: nằm ở vị trí Quốc lộ 22, Tân Thông Hội, Củ Chi
Thành phố Hồ Chí Minh. Sân golf là điểm đến thuận tiện nhất cho khách quốc tế hoặc
golfer sống ở các quận Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp,…chỉ mất 20 phút di chuyển
bằng đường bộ từ sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất hoặc 30 phút bằng ca-nô từ Thảo Điền (
Quận 2) để đến bến du thuyền của sân golf Nhân Sư – Ct Sphinx. Đây là một địa điểm đầy
thú vị dành cho mọi người và cũng là một tiềm năng hấp dẫn thu hút du khách có điều kiện
đến với vùng đất thép Củ Chi. Tạo thêm nhiều sản phẩm vui chơi giải trí cho du khách từ
những sản phẩm truyền thống đến sản phẩm hiện đại.
Nếu như từ năm 2000 đến 2005 các cơ sở mua sắm tại Củ Chi còn đơn điệu , chủ yếu
tập trung tại các chợ nhỏ, lẻ thì giờ đây với sự xuất hiện các siêu thị với quy mô vừa đã đáp
ứng được nhu cầu của du khách cũng như người dân địa phương như: siêu thị Coop mart,
siêu thị Vinatex. Còn lại các hệ thống của hàng nhỏ, lẻ chủ yếu tập trung tại khu vực thị trấn
và một số cơ sở mua sắm tại các điểm tham quan du lịch. Đặc biệt là các mặt hàng thủ công
mỹ nghệ, hàng lưu niệm nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách. Tuy nhiên sản phẩm còn
chưa ổn định chưa đáp ứng hết được nhu cầu của du khách.
2.2.3.5. Vốn đầu tư
Đầu tư trong lĩnh vực du lịch có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển. Nó
tạo ra động lực thúc đẩy du lịch phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho xã hội. Trong những
67
năm qua du lịch Củ Chi đã thu hút được một số đầu tư từ các doanh nghiệp. Tuy giá trị đầu
tư chưa cao nhưng cũng phần nào thúc đẩy được sự phát triển của huyện nhà.
- Đầu tư nước ngoài (FDI)
Trên địa bàn huyện Củ Chi chưa thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
vào lĩnh vực du lịch trong những năm qua. Nguyên nhân chủ yếu là do: cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch còn nghèo nàn, khả năng cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc điểm du lịch còn
nhiều hạn chế. Công tác quảng bá, xúc tiến, đầu tư chưa được chú trọng.
- Đầu tư trong nước
Chính sách đầu tư vào du lịch Củ Chi từ thành phố còn rất ít. Hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ phát triển du lịch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức do đó hạn chế sự phát triển
du lịch của huyện.
2.2.3.6. Hoạt động xúc tiến đầu tư du lịch
Trong những năm qua, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch của huyện đã có những
bước phát triển. Với nhiều hình thức khác nhau, phổ biến nhất là thông qua các chương trình
của đài truyền hình để quảng bá hình ảnh. Với địa đạo Củ Chi là một địa danh khá nổi
tiếng. Nói đến địa đạo là mọi người biết, đó là hệ thống địa đạo trong cuộc chiến tranh ác
liệt ngày xưa của quân dân Củ Chi ngày nay trở thành khu du lịch sinh thái quan trọng của
huyện. Đây là điểm thuận lợi cho công tác quảng bá, tiếp thị sản phẩm du lịch.
Để quảng bá hình ảnh của mình, du lịch huyện Củ Chi cũng đã tham gia nhiều hội chợ,
triển lãm du lịch, giới thiệu trên báo đài, internet.
Năm 2011, Địa đạo Củ Chi được chọn là 1 trong 10 điểm tham quan thú vị nhất trong
đợt bình chọn Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị. Năm 2013 hệ thống phòng thủ
trong lòng đất của huyện Củ Chi đã lọt vào danh sách 12 điểm du lịch ngầm hấp dẫn nhất
thế giới của tờ CNN, hình ảnh địa đạo Củ Chi được giới thiệu trên các phương tiện truyền
thông đại chúng, đây cũng là điểm thuận lợi cho việc quảng bá du lịch Củ Chi.
Tuy nhiên, các hình thức quảng bá thương hiệu còn thực hiện đơn lẻ giữa các điểm du
lịch. Chưa có sự kết nối để hình thành một chương trình quáng bá xuyên suốt và đầy đủ, các
doanh nghiệp chủ yếu quảng bá cho điểm du lịch của mình. Một số hình ảnh được các bạn
trẻ thông tin giới thiệu trên mạng internet. Các trang web còn nghèo nàn, hình ảnh trưng bày
tại các cuộc triễn lãm còn chưa phong phú. Điều đó cho thấy du lịch Củ Chi cần hơn nữa
những chiến lược quảng bá và marketing thương hiệu của mình, để từ đó giới thiệu rộng rãi
với du khách trong nước và quốc tế nhằm thu hút hơn nữa lượng du khách đến với Củ Chi.
68
Ngoài ra, huyện cũng có những dự án được quy hoạch ( Phụ lục 3) nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển của ngành du lịch với các khu vui chơi được mở rộng, các công viên hiện đại, các
khu du lịch sinh thái. Hứa hẹn trong tương lai sẽ tạo ra nhiều sản phẩm du lịch phục vụ cho
du khách khi đến tham quan, nghỉ dưỡng ở huyện Củ Chi.
2.3. Đánh giá chung về tài nguyên và các điều kiện phát triển du lịch
2.3.1. Thuận lợi
Trong xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu và mở rộng tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh tế tri thức trên thế giới đang tạo cơ hội
to lớn đồng thời cũng là thách thức to lớn đối với phát triển du lịch. Trước bối cảnh và xu
hướng đó, du lịch huyện Củ Chi đã từng bước thể hiện được những tiềm năng độc đáo, phù
hợp với xu thế của thị trường, tăng cường sức cạnh tranh với du lịch của các tỉnh bạn.
Nằm trong địa phận Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Củ Chi có ưu thế quan trọng để
phát triển du lịch, là điểm dừng chân khá quan trọng trên tuyến du lịch đến với Thành phố
Hồ Chí Minh, tuyến du lịch xuyên Việt đến với nước bạn Campuchia, huyện còn giáp ranh
với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương,… là điều kiện quan trọng thu hút khách du
lịch đến với các tuyến tham quan liên tỉnh.
Huyện Củ Chi từ lâu đã được biết đến như một cái nôi cách mạng của thành phố nói
riêng và của Việt Nam nói chung. Nói đến hoạt động du lịch huyện Củ Chi là người ta
thường nghĩ ngay đến các khu di tích địa đạo ở Bến Đình và Bến Dược. Huyện Củ Chi nổi
tiếng trong thời kì chống Pháp, chống Mỹ với khu vực địa đạo là khu “ Di tích lịch sử cách
mạng” có hình thái kiến trúc độc đáo. Hiện nay, không chỉ nổi tiếng về các di tích lịch sử,
huyện Củ Chi còn phát triển các loại hình du lịch khác phục vụ cho nhu cầu tham quan
khám phá cũng như nghỉ ngơi giải trí của người dân và du khách như: công viên nước, khu
du lịch sinh thái, các làng nghề. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu tham quan học tập của
mọi người, các trang trại nông nghiệp công nghệ cao, trạm cứu hộ động vật,…cũng mở cửa
phục vụ tham quan trải nghiệm thực tế cho rất nhiều học sinh, sinh viên. Những tiềm năng
trên sẽ hứa hẹn tăng sức mạnh phát triển du lịch cho huyện Củ Chi.
Đặc biệt du lịch huyện Củ Chi cũng nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh
đạo huyện và UBND thành phố. Sự phát triển du lịch của huyện phát triển theo đường lối
chính sách chung của thành phố, phù hợp với các chiến lược và mục tiêu mà chính phủ đề
ra. Du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, mở
69
rộng giao lưu, là lựa chọn hầu hết của các địa phương trong nền kinh tế toàn cầu và hội nhập
như hiện nay.
Với những điều kiện và thời cơ trên sẽ giúp huyện đưa ra những quyết định, lựa chọn
và phát triển du lịch với hy vọng sẽ đạt được những thành tựu to lớn, góp phần phát triển
nền kinh tế của huyện Củ Chi, nâng cao đời sống người dân nơi đây.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những tiềm năng và thế mạnh hiện có, du lịch huyện Củ Chi cũng tồn tại
nhiều thách thức mang tính chất chủ quan và cả những trở ngại khách quan.
Là một huyện có diện tích khá lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng tài nguyên du lịch
chủ yếu là các di tích lịch sử. Còn lại các tài nguyên du lịch khác hầu như có điểm tương
đồng giống như nhau, đặc biệt là các khu du lịch sinh thái.
Nhận thức về phát triển du lịch của huyện còn thấp, chưa được chú trọng phát triển.
Cộng đồng dân cư tham gia vào du lịch còn manh mún. Các ban ngành liên quan đến việc
khai thác quản lý các nguồn tài nguyên còn nhiều bất cập và chồng chéo, nhiều cấp nhiều
ngành cùng tham gia quản lý và khai thác một điểm tài nguyên. Do vậy, việc xây dựng quy
hoạch, đầu tư tôn tạo và bảo vệ tài nguyên môi trường chưa được quan tâm thỏa đáng.
Khả năng cạnh tranh du lịch của huyện không cao do chưa xây dựng được sản phẩm
du lịch mang đậm bản sắc văn hóa riêng. Bên cạnh đó, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh,
trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động ngành còn nhiều bất cập, tính chuyên
nghiệp chưa cao; cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém. Đó thực sự là khó
khăn cho quá trình phát triển du lịch huyện nhà trong xu thế ngày nay.
70
71
2.4. Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi
2.4.1. Vị trí du lịch của huyện Củ Chi trong nền kinh tế
Là một huyện vùng ven của thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua Củ Chi
đã có những bước khởi sắc đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế có
những chuyển biến sâu sắc. Ngành du lịch của huyện cũng ngày càng được đầu tư và có
những đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP của huyện.
Bảng 2.5. Bảng số liệu cơ cấu GDP của huyện Củ Chi phân theo ngành kinh tế năm
2001_2010
Năm 2001 2005 2010
GDP ( tỷ đồng) 2.357,039 4.316,551 6.711,33
Trong đó 100,0 100,0 100,0
- Nông – Lâm- Thủy sản (%) 22,74 14,59 8,05
- Công nghiệp – Xây dựng (%) 70,88 74,46 80,94
- Dịch vụ (%) 6,38 10,9 11,01
(Nguồn: UBND huyện Củ Chi, Phòng thống kê)
Tổng GDP toàn huyện tăng nhanh, năm 2001 đạt 2.357,03 tỷ đồng , đến năm 2005 con
số đó đã tăng đến 4316,5 tỷ đồng tăng hơn 1,8 lần. vào năm 2010 GDP của huyện đạt
6.711,3 tỷ đồng tăng gấp 1,6 lần so với năm 2005 và gấp 2,8 lần so với năm 2001.
Tuy nhiên xét về mặt đóng góp của ngành dịch vụ vẫn còn rất thấp, thấp nhất trong cơ
cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên đáng kể, từ năm
2000 đến 2005 tăng thêm 3,05%. Nhưng đến giai đoạn 5 năm sau từ 2005 – 2010 chỉ tăng
0,06%. Điều đó cho thấy dịch vụ trong cơ cấu kinh tế huyện còn có vai trò khá khiếm tốn,
chưa phát huy hết được tiềm năng. Trong đó phải nói đến đóng góp của ngành du lịch. Mặc
dù có nhiều tiềm năng nhưng du lịch huyện Củ Chi chưa phát triển tương xứng với tiềm
năng vốn có. Các loại hình du lịch còn phát triển một cách riêng rẻ, tự phát, thiếu quy
hoạch. Vì vậy, đòi hỏi cần có những định hướng phù hợp để có thể khai thác hết tiềm năng
vốn có của huyện.
2.4.2. Thực trạng phát triển du lịch
2.4.2.1. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch
- Mức độ khai thác: Tiềm năng tài nguyên du lịch của huyện Củ Chi khá đa dạng. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân tiềm năng này vẫn chưa được khai thác tối đa.
72
Bảng 2.6. Tỷ lệ khai thác một số loại tài nguyên du lịch chính năm 2012
STT Loại tài nguyên Tài nguyên du Đã khai thác Tỷ lệ khai
lich tiềm năng thác so với
tiềm năng (%)
1 Di tích lịch sử văn hóa 5 2 40
2 Du lịch sinh thái 5 4 80
3 Sông (có tiềm năng du 2 0 0
lịch)
4 Làng nghề 4 2 50
5 Vườn cây ăn trái 2 1 50
(Nguồn UBND huyện Củ Chi)
Qua bảng tổng hợp có thể khẳng định tỷ lệ khai thác tài nguyên của huyện Củ Chi
chưa khai thác tối đa, đồng đều. Trong số các tài nguyên du lịch có tiềm năng chỉ có các di
tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên chủ yếu được đầu tư phát triển. Các làng nghề , trang trại
vườn cây ăn trái được sử dụng thấp hoặc chưa được sử dụng. Trong số các loại tài nguyên
du lịch đã được khai thác thì mức độ khai thác cũng chưa nhiều.
Hiệu quả khai thác các loại tài nguyên du lịch: Theo kết quả nghiên cứu thời điểm hiện
nay thì hiệu quả khai thác tài nguyên du lịch của huyện còn khá thấp. Do tại các điểm du
lịch mới ở giai đoạn đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa có sản phẩm du lịch đặc thù. Trong thời gian
tới, hy vọng với những chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, đầu tư nâng cấp các
dịch vụ phục vụ sẽ thu được hiệu quả cao.
2.4.2.2. Các điểm du lịch, các khu du lịch
*Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi
Di tích Địa đạo Củ Chi hiện được bảo tồn ở hai khu vực Bến Dược và Bến Đình, cách
trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 70km về phía Tây Bắc. Khu du lịch thích
hợp cho những du khách thích tham quan và khám về lịch sử, bên cạnh đó trong khu du lịch
còn có nhiều khu vực với nhiều hạng mục và công trình khác nhau giúp du khách có thể
thỏa sức tham gia trải nghiệm các hoạt động đời sống thực tế thú vị của người dân địa
phương trong thời gian trải qua hai cuộc chiến tranh cam go và gian khổ. Giúp cho khách du
lịch đặc biệt là giới trẻ trong nước có những hiểu biết hơn về lịch sử của dân tộc.
73
Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng
vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa Thông tin công
nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia.
Địa đạo Củ Chi nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người. Khách trong nước, ngoài
nước tới tham quan, tìm hiểu ngày càng đông. Từ ngày thống nhất đất nước (1975), đã có
hàng chục ngàn đoàn khách du khách với đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm
địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, Nguyên thủ quốc gia, đến các chính
khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ,…
Địa đạo thường xuyên được gia cố, tôn tạo, đảm bảo độ bền vững lâu dài; kết hợp với
các công trình giải trí vui chơi, du lịch trong một khu rừng thiên nhiên rộng rãi, mát mẻ.
Khu di tích liên hoàn gồm căn cứ của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn – Gia
Định trong thời kháng chiến được khôi phục lại đầy đủ chi tiết như nguyên trạng vốn có
trước đây, là nơi hấp dẫn thu hút du khách.
Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược Đền được xây dựng trên khu đất rộng 70.000m2, gồm có cổng tam quan, nhà văn bia,
tháp 9 tầng cao khoảng 40m và ngôi điện chính. Trong điện chính có đặt bia khắc tên
khoảng 50.000 người con của tổ quốc Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh trên đất Sài Gòn –
Gia Định. Từ năm 1995 đến nay, Đền Tưởng niệm Liệt sĩ Bến Dược được trùng tu nâng cấp
2 lần thay đổi các chất liệu composite bằng đá và đồng như: hoa văn đế cột, rồng, liễn,
hạc,…nhằm mang tính vĩnh cửu, cũng như bổ sung thêm nhiều danh sách liệt sĩ khắc tên
trên bia đá.
Địa đạo Bến Dược
Nằm trong hệ thống địa đạo Củ Chi, Địa đạo Bến Dược là căn cứ của Khu ủy và Bộ
Tư lệnh quân khu Sài Gòn – Gia Định. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, là hệ thống
đường hầm nằm sâu trong lòng đất, có nhiều tầng hầm, nhiều ngõ ngách như mạng nhện dài
trên 200km, có nơi ăn, ở, hội họp và chiến đấu.
Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định kiên cường – bất khuất
Tầng hầm Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược là nơi trưng bày, tranh, tượng, phù điêu,
thể hiện các phong trào đấu tranh cách mạng tiêu biểu, các nhân vật tiêu biểu trong cuộc đấu
tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định. Tầng hầm có 9
không gian. Mỗi không gian thể hiện một giai đoạn cụ thể của quá trình lịch sử hơn 100
năm chống giặc Pháp, Mỹ xâm lược.
Công trình tái hiện vùng giải phóng Củ Chi
74
Đến nơi này du khách như trở lại thời chiến tranh. Đây là nơi tái hiện các giai đoạn
lịch sử từ năm 1960 – 1975, là nơi thể hiện cảnh sống, chiến đấu của người dân Củ Chi
trước và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Khu được chia ra thành nhiều vùng
như: vùng giải phóng, vùng tranh chấp, vùng trắng, vùng bị tạm chiếm,…thể hiện sinh động
cảnh quan làng mạc huyện Củ Chi trước chiến tranh với cây trái sum suê, bốn mùa nặng
quả; cảnh tàn phá của bom, đạn Mỹ; mô hình ấp chiến lược mà Mỹ và tay sai áp dụng để
kiểm soát dân cư; thể hiện cảnh trai, gái hăng hái tòng quân đánh giặc…
Rừng đặc trưng 3 miền và hồ cảnh quan mô phỏng Biển Đông: Rừng gỗ quý đặc
trưng của miền Bắc – Trung – Nam được trồng theo hình chữ S, rộng khoảng 4,6 ha, được
một cái hồ bao bọc hai phía mô phỏng biển Đông và Vịnh Thái Lan rộng 6,8 ha. Trên các
khu vực trồng gỗ quý theo miền, được xây dựng 3 mô hình đặc trưng thu nhỏ là: Chùa Một
Cột ( Hà Nội), Ngọ Môn ( Huế) và Bến Nhà Rồng ( Tp.HCM). Công trình này sẽ giáo dục
tình yêu thiên nhiên đất nước, hiểu được giá trị lịch sử - văn hóa dân tộc cho du khách nhất
là thế hệ trẻ. Là nơi học tập bổ ích về thiên nhiên, tham quan các mô hình di tích lịch sử văn
hóa nổi tiếng của Việt Nam.
Mô hình chùa Một Cột: chùa Một Cột gắn liền với lịch sử của thủ đô Hà Nội, và từ
lâu chùa Một Cột cũng là một biểu tượng của đất nước Thăng Long ngàn năm văn hiến. Mô
hình Chùa Một Cột thu nhỏ tại khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi nhỏ hơn 0,9 lần so với
ngôi chùa chính ở Hà Nội, được khởi công xây dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày
19.12.2009.
Mô hình Ngọ Môn Huế: là mô hình thu nhỏ có tỉ lệ chỉ bằng ¼ công trình thật,
được khởi công xây dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày 19.12.2009.
Mô hình Bến Nhà Rồng: Tòa nhà có đôi rồng gắn trên nóc, kiểu “ lưỡng long châu
nguyệt” nên thường gọi là Nhà Rồng. Bến cảng Nhà Rồng còn lưu lại cho dân tộc Việt Nam
một kỷ niệm thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Mô hình Bến Nhà Rồng thu nhỏ
tại khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi có tỷ lệ bằng ¼ công trình thật, được khởi công xây
dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày 19.12.2009.
Địa đạo Bến Đình: là di tích lịch sử cách mạng được Nhà nước công nhận (xếp
hạng) di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 15.12.2004. Cũng giống như địa đạo Bến Dược
nơi đây là nơi ăn, ở, hội họp cũng vừa là thế trận chiến đấu độc đáo, góp phần trong cuộc
chống giặc cứu nước.
75
Ngoài ra, khi đến tham quan khu di tích, du khách còn được tham gia các hoạt động
vui chơi, giải trí như: bắn súng, bắn súng đạn sơn, buổi trưa du khách có thể thưởng thức
các món ăn mang đậm bản chất dân dã ở nhà hàng trong khu du lịch. Vừa ăn du khách vừa
hưởng thụ cái không khí trong lành mát mẻ ở đây. Bên cạnh đó, du khách có thể tham gia
bơi thuyền Kayak, hay tắm mình trong hồ bơi để nghỉ ngơi thư giãn. Khi ra về du khách có
thể mua một số mặt hàng lưu niệm để làm quà. Các món đồ này được chế tác từ các vỏ đạn,
vỏ bom, được các nghệ nhân tạo thành những món đồ nhỏ, đẹp mắt và đáng yêu.
*Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số Củ Chi
Đến đây du khách sẽ khám phá được rất nhiều điều thú vị. Khu du lịch được thiết kế
với kết cấu chủ yếu bằng gỗ, tre, trúc, lá dừa nước,…Đến với khu du lịch, du khách sẽ có
cảm nhận như đang về một làng quê thôn dã. Đây là một điểm đặc biệt để thu hút du khách.
Xung quanh bờ hồ và trên những ngọn đồi cỏ nhấp nhô là khu nhà sàn của các nhóm đồng
bào dân tộc thiểu số. Tại nơi đây du khách không chỉ chiêm ngưỡng nét độc đáo của từng
kiểu nhà cùng những tín ngưỡng khác nhau của từng dân tộc mà còn được tận mắt quan sát
những vật dụng sinh hoạt và sản xuất của họ như: guồng nước của người Mường, lò rèn của
người S’tiêng, cách nấu rượu của người Chu - ru, cảnh dệt thổ cẩm của các cô gái Ba - na,
Thái; nghề đan lát của các nghệ nhân S’tiêng, nghề làm gốm của người Chơ - ro,…
Trong chuyến tham quan, du khách còn thưởng thức chương trình đặc biệt của khu du
lịch. Thu hút nhất có lẻ là những trò chơi lạ như: mê cung xanh, mê cung trúc với khu nhà 5
căn được làm từ hơn 2.000 cây trúc, khu vui chơi nước. Hay thú vị là trò xiếc vịt gây cảm
giác tò mò thích thú cho nhiều người. Khu du lịch còn có nhà lưu niệm để du khách lựa
chọn những món quà làm kỉ niệm hay tặng bạn bè, người thân. Ở đây còn có khu tái hiện
Sài Gòn 300 năm, trại nuôi đà điểu, sân golf, nhà hàng,…tất cả kết hợp thành một khuôn
viên thơ mộng. Đây có thể được xem là một điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến thăm
vùng đất thép.
*Khu du lịch “ Một thoáng Việt Nam”
Đây là điểm hội tụ của nền văn hóa Việt trên khắp đất nước Việt Nam. Khu du lịch là
một quần thể làng nghề thủ công truyền thống. Với diện tích 22,5 ha nằm cạnh rạch Bò Cạp,
gần sông Sài Gòn, khu du lịch có khoảng 30 hạng mục tiêu biểu cho những nền văn hóa
khác nhau trên khắp đất nước. Trong khu du lịch du khách có thể thưởng thức ẩm thực
mang đậm văn hóa 3 miền hay tham quan đảo nuôi chim thú tự nhiên, khu chợ hàng tiểu thủ
công nghiệp, chợ trên sông, vườn cây ăn trái,..
76
Tại nơi đây du khách có thể ngắm nhìn những công trình, những cảnh vật nổi tiếng của
đất nước Việt Nam như: tháp Chàm, chùa Thiên Mụ, hồ Hoàn Kiếm, chợ Bến Thành, núi
sông, rừng biển,…được tạo nên bởi những bàn tay nghệ nhân tài hoa làm toát lên vẻ đẹp của
quê hương đất nước Việt Nam.
Đến tham quan khu du lịch, du khách sẽ có dịp tận mắt nhìn thấy những người thợ thủ
công, nông dân, nghệ nhân,...cùng lao động sản xuất với những ngành nghề truyền thống.
Đồng thời điều thú vị là du khách còn có thể tự mình trải nghiệm bằng cách tham gia trực
tiếp vào công việc với sự hướng dẫn của các nghệ nhân.
Không phải ai cũng có điều kiện và thời gian đi khắp đất nước Việt Nam để tìm hiểu
về nền văn hóa Việt. Do đó, khu du lịch Một thoáng Việt Nam là điểm đến lý tưởng để tham
quan và hiểu thêm về con người Việt Nam trên mọi miền đất nước. Đến đây, du khách có
thể thưởng thức bát nước chè xanh đậm đặc của miền Bắc hay nước dừa ngọt lịm của miền
Nam với hình ảnh lũy tre, con trâu, lúa nước,…tất cả như một bức tranh tổng thể hài hòa về
đất nước Việt Nam.
*Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
Cách trung tâm thành phố 25km, cách thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương khoảng
2km. Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ là điểm hẹn cuối tuần đầy thú vị cho du khách. Với
không gian yên tĩnh, trong lành khu du lịch đem đến cho du khách cảm giác thư thả sau
những ngày làm việc mệt nhọc. Với lợi thế nằm ven sông Sài Gòn khu du lịch có một phong
cảnh nên thơ và mát mẻ với lũy tre, sông nước, cầu khỉ,.. Du khách có thể câu cá thư giản
tham quan nhà cổ hay đi dạo sông Sài Gòn bằng ca nô. Cách khu du lịch không xa là khu du
lịch Đại Nam thuộc tỉnh Bình Dương với nhiều loại hình tham quan, vui chơi giải trí hiện
đại. Đây có thể xem là một cung đường lý tưởng cho tuyến du lịch từ Thành phố Hồ Chí
Minh đi Bình Dương và ngược lại.
*Khu vườn cây ăn trái Trung An
Cách trung tâm thành phố 40 km là khu vườn cây ăn trái xã Trung An, huyện Củ Chi.
Nơi đây có khoảng 10 hộ kinh doanh cây ăn trái. Đến đây du khách có thể thưởng thức các
loại trái cây như; chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, mận, ổi,...Điểm thú vị là du khách có thể
tự mình hái và thưởng thức ngay tại vườn. Hằng năm, Trung An đón ít nhất từ 35.000 đến
50.000 du khách, 75% sản phẩm cây ăn trái của các vườn là bán cho du khách. Ngoài ra, khi
đến đây du khách còn có thể thưởng thức được không gian vườn mát mẻ, yên tĩnh. Không
chỉ thưởng thức trái cây, du khách còn có thể thưởng thức những món ăn dân dã miền quê
77
do người dân địa phương phục vụ. Đây cũng là một hướng đi mới để phát triển nông nghiệp
huyện Củ Chi.
*Khu công viên nước Củ Chi
Tọa lạc tại ấp 4 xã Phước Vĩnh An, công viên nước có diện tích khoảng 3 ha bao gồm
các hạng mục: khu hồ bơi dành cho người lớn, hồ bơi dành cho trẻ em, các trò chơi mạo
hiểm như: “ đu dây tử thần”, thử cảm giác mạnh thì có trò chơi “ 3 làn trượt nước”, hay du
khách có thể thư giản với “ Hồ tạo sóng nhân tạo”, “ Dòng sông lười”. Những du khách
thích không gian tĩnh lặng có thể đến khu vực câu cá thư giản, để vừa câu cá, vừa ngắm
cảnh thiên nhiên hay đi dạo tham quan vườn thú với đa dạng về chủng loại như: cá sấu, đà
điểu, voi, nai, hươu, gấu,…
Ngoài ra khu công viên còn phục vụ cho những du khách có nhu cầu lưu lại qua đêm
để thưởng thức cái không khi miền thôn dã với hệ thống nhà nghỉ, khách sạn 32 phòng, với
đầy đủ các tiện nghi.
*Khu nông nghiệp công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh
Nằm trên tuyến đường đi địa đạo Củ chi cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng 44km về phía Tây Bắc, thuận tiện giao thông đi các tỉnh. Từ đây du khách sử dụng
xe buýt có thể đi Campuchia và Thái Lan theo trục đường Xuyên Á. Được xây dựng theo
Quyết định số 3534/QĐ – UBND ngày 14/7/2004 của UBND Thành phố, với quy mô là
88,17 ha. Khu nông nghiệp công nghệ cao là khu kinh tế kỹ thuật đa chức năng, bao gồm
các lĩnh vực: nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ, sản xuất dịch vụ cung cấp giống,
vật tư, chế phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hội thảo,
hội chợ - triển lãm, tham quan, du lịch tri thức,…
Đến đây tham quan du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các công nghệ trồng rau
sạch, tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp và trải nghiệm những hoạt động thú vị như
trồng rau, chăm sóc rau sạch và khi ra về mỗi du khách còn được tặng một sản phẩm làm
quà. Hiện nay, khu nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu đón tiếp các đoàn khách là học sinh,
sinh viên từ các trường đến tham quan và học tập ngoại khóa.
*Trạm cứu hộ động vật hoang dã Trạm có diện tích 4000 m2, được nâng cấp và hoạt động vào năm 2008. Trạm có khả
năng cứu hộ nhiều loài động vật khác nhau như: linh trưởng, thú họ mèo, tê tê, rùa, rái
cá,…Hàng trăm cá thể và nhiều loài động vật khác nhau đã được thả về thiên nhiên. Trạm
cũng bao gồm một phòng trưng bày giáo dục về động vật hoang dã.
78
Hiện nay, trạm cũng mở cửa đón các đoàn khách đến để tham quan, học tập. Đặc biệt
là sinh viên và học sinh, thông qua đó giáo dục các em ý thức về tự nhiên và lòng yêu
thương đối với các loài động vật đang ngày càng bị con người sát hại.
2.4.2.3. Các tuyến du lịch
Tuyến du lịch trong huyện
- Thị trấn Củ Chi – khu công viên nước Củ Chi – khu vườn cây ăn trái Trung An.
Đây là tuyến du lịch phục vụ cho du khách có nhu cầu vui chơi giải trí kết hợp với
tham quan thư giản. Bên cạnh đó du khách còn có thể mua sắm các loại cây kiểng, cá cảnh,
bánh tráng, trái cây phục vụ cho sở thích của bản thân hay làm quà cho bạn bè, người thân.
Tuyến du lịch này thích hợp cho các bạn sinh viên họp mặt hay các nhóm bạn trẻ đi dã
ngoại vào cuối tuần.
Các điểm tham quan du lịch chính
+ Khu công viên nước Củ Chi
+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông
+ Làng nghề sinh vật cảnh
+ Khu vườn cây ăn trái Trung An
- Thị trấn Củ Chi – Địa đạo Bến Đình
Trong chuyến đi, du khách sẽ được tham quan khám phá các di tích lịch sử, các công
trình kiến trúc nghệ thuật văn hóa, Đồng thời tham quan trải nghiệm các hoạt động sản xuất
cũng như văn hóa đời sống của người dân địa phương và một số dân tộc ít người.
Các điểm tham quan chính:
+ Đình Cây Sộp
+ Khu nông nghiệp công nghệ cao
+ Chùa Linh Sơn
+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông
+ Địa đạo Bến Đình
+ Khu du lịch sinh thái văn hóa các dân tộc thiểu số
Đây cũng là tuyến du lịch phục vụ chủ yếu cho nhu cầu vui chơi, giải trí
Các điểm tham quan chính:
+ Khu công viên nước Củ Chi
+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
- Thị trấn Củ Chi – Địa đạo Bến Dược
79
Tuyến du lịch phục vụ cho nhu cầu tham quan học tập, phù hợp cho các đoàn du khách
quốc tế cũng như các đoàn khách trong nước hay các em học sinh, sinh viên. Qua chuyến đi,
du khách sẽ hiểu thêm về lịch sử của Việt Nam, hiểu biết thêm về các ngành nghề truyền
thống. Đồng thời thông qua một số điểm du lịch giáo dục con người tình yêu thiên nhiên và
yêu thương động vật.
Các điểm tham quan chính:
+ Làng nghề mành trúc Tân Thông Hội
+ Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã
+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam
+ Địa đạo Bến Dược
- Thị trấn Củ Chi – Trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh
Theo Quốc lộ 22 về trung tâm Thành phố với nhiều điểm tham quan, các di tích lịch
sử, các công trình văn hóa nghệ thuật. Kết hợp là các khu trung tâm vui chơi giải trí hiện
đại, các khu mua sắm sầm uất.
Các điểm tham quan chính:
+ chợ Bến Thành
+ Dinh Dộc Lập
+ Nhà hát Thành Phố
+ Các viện bảo tàng
+ Nhà thờ Đức Bà
+ Bưu điện Thành phố Hồ chí Minh
Tuyến du lịch liên tỉnh
Củ Chi – Tây Ninh
Loại hình du lịch chính : tham quan, tín ngưỡng
Các điểm du lịch:
+ Địa đạo Bến Đình
+ Địa đạo Bến Dược
+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam
+ Chùa Bà Tây Ninh
Củ Chi – Bình Dương
Loại hình tham quan nghỉ dưỡng. Với các điểm đến:
+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
80
+ Khu du lịch Đại Nam
+ Gốm sứ Minh Long
Tuyến du lịch quốc tế
Củ Chi – Phnôm Pênh
Loại hình chính là tham quan giải trí. Các điểm đến:
+ Khu di tích Địa đạo Củ Chi
+ Thủ đô Phnômpenh
2.4.2.4. Lao động trong ngành du lịch
Nguồn nhân lực là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát triển mọi lĩnh vực. Do đó, cho dù
tài nguyên thiên nhiên, lịch sử có phong phú đa dạng cỡ nào nhưng nguồn nhân lực kém thì
cũng không thể xây dựng được những chiến lược phát triển du lịch hay xây dựng những
chương trình du lịch đáp ứng được nhu cầu của du khách. Đây cũng là điểm yếu của Củ Chi
trong những năm qua. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch của huyện chỉ khoảng hơn
1000 người. Trong đó đa số không qua đào tạo, thiếu nghiệp vụ cũng như chuyên môn.
Trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 7%. Điều đó đòi hỏi lãnh đạo ngành cần có những
chương trình và chính sách để đào tạo và tuyển dụng những lao động có nghiệp vụ chuyên
môn trong lĩnh vực du lịch để thúc đẩy ngành du lịch của huyện phát triển. Quan tâm hơn
nữa đến việc đào tạo sử dụng nguồn nhân lực là cư dân bản địa, góp phần tạo ra những sản
phẩm du lịch đặc trưng hơn, giải quyết hiệu quả hơn việc chia sẻ du lịch với cộng đồng địa
phương.
2.4.2.5. Khách du lịch
Thực hiện chính sách phát triển du lịch cùng với sự tăng trưởng kinh tế của huyện, du
lịch huyện Củ Chi đã thu hút số lượng khách đến tham quan ngày một tăng. Năm 2000 số
lượt khách đến huyện Củ Chi là 826.200 lượt người, đến năm 2002 là 994.646 lượt người.
Năm 2004 là 904.561 lượt người. Hơn 5 năm sau, số lượt khách đã lên đến con số
1.125.000 vào năm 2009. Tuy số lượng khách tăng không đáng kể nhưng cũng đã cho thấy
được sự chuyển biến của của du lịch huyện Củ Chi trong những năm qua. Bắt đầu từ năm
2009 trở đi thì cùng với sự phát triển chung của thành phố, huyện Củ Chi đã có sự quan tâm
và đầu tư hơn vào du lịch. Thể hiện qua số lượng du khách của những năm về sau.
Bảng 2.7. Lượng khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 - 2011
Năm Tổng số Nội địa Quốc tế
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ
81
( %)
2001 875.801 641.683 73,26 183.683 26,73
2005 838.166 544.188 64,92 284.928 35,07
2008 790.529 354.069 44.79 436.460 55,21
2009 1.125.000 766.339 68,12 358.661 31,88
2010 1.263.919 852.243 67,43 411.676 32,57
2011 1.420.000 927.484 65,31 492.516 34,69
(Nguồn: Ban quản lý Di tích Địa Đạo Củ Chi)
*Khách quốc tế:
Số lượng khách quốc tế: khách quốc tế đến với huyện Củ Chi có xu hướng tăng qua
các năm trừ năm 2009. Năm 2000 khách quốc tế chỉ đạt 183.863 người thì đến năm 2005,
số khách đã tăng lên 284.928 người tăng 1,5 lần. Đến năm 2008 tăng lên 436.460 khách,
tăng 2,4 lần so với năm 2000. Và 1,5 lần so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2009 do ảnh
hưởng của nền kinh tế số lượng khách có xu hướng giảm, nhưng sau đó vào năm 2010 số du
khách đã tăng lại 411.676 khách, và đạt đến 492.516 khách vào năm 2011.
Bảng 2.8. Lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh và Củ Chi
giai đoạn 2001 – 2011
Năm Lượng khách đến Lượng khách đến Lượng khách đến
TP Hồ Chí Minh Củ Chi Củ Chi so với TP
( nghìn lượt) ( nghìn lượt) Hồ Chí Minh ( %)
2001 1.266 19 234,1
2005 2.000 15 284,9
2008 2.800 16 436,5
2009 2.600 14 358,6
2010 3.100 13 411,6
2011 3.500 14 492,5
(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh + Ban quản lý khu
du lịch Địa Đạo Củ Chi)
Tỉ lệ khách quốc tế trên tổng nguồn khách: khách du lịch quốc tế đến huyện Củ Chi
tăng lên qua các năm. Năm 2000 chỉ chiếm khoảng 22,3%. Đến năm 2005 tăng lên 34%,
nhưng vào năm 2008 số khách quốc tế đã chiếm hơn 55% tổng số khách đến Củ Chi. Đến
năm 2009 ảnh hưởng nền kinh tế số lượng du khách giảm xuống còn 32%, sau đó tăng lên
rất ít 32,6%, và năm 2011 là 34,7%.
82
Độ dài ngày lưu trú: khách đến tham quan huyện Củ Chi hầu như đều đi về trong ngày,
hiếm có khách lưu trú lại. Vì tất cả các khách đều lưu trú tại khu vực trung tâm Thành phố
Hồ Chí Minh.
Đặc điểm nguồn khách quốc tế:
+ Mục đích du lịch: tham quan địa đạo Củ Chi, nơi được xem là một kỳ quan đánh
giặc có một không hai. Nó mang chiều sâu thẳm của lòng căm thù và ý chí kiên cường, bất
khuất của “vùng đất thép”, một trong những biểu tượng rực rỡ Chủ nghĩa anh hùng của dân
tộc Việt Nam.[15] Củ Chi thu hút khách quốc tế đến chủ yếu để tham quan về di tích lịch sử
nổi tiếng này.
+ Phương tiện đi lại: khách quốc tế đế với Củ Chi hiện nay chủ yếu vẫn là đường bộ,
xuất phát từ trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc đi từ của khẩu Mộc Bài từ Cam- pu-
chia sang. Hiện có dự án phát triển hệ thống đường thủy nhưng chưa phổ biến.
+ Cơ cấu nguồn khách: du khách đến Củ Chi chủ yếu từ châu Á, châu Âu, châu Mĩ,
còn lại số ít là từ châu Phi và châu Úc. Tỉ lệ khách du lịch các nước đang ngày một tăng, là
một điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng du lịch của huyện.
Khách du lịch quốc tế đến Củ Chi so với Thành phố Hồ Chí Minh:
So với Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng khách du lịch quốc tế đến huyện Củ Chi còn
rất thấp và không ổn định. Năm 2000 chiếm 16%, nhưng đến năm 2005 chỉ còn 15% giảm
đi 1%, sau đó năm 2008 tăng lên 16%. Các năm tiếp theo đó hầu như chỉ dao động trong
khoảng 13 – 14%.
Biểu đồ 2.1. Khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 – 2011
khách nội địa
khách quốc tế
năm
1000 900 800 700 600 500 400 300 200 100 0
2001
2005
2008
2009
2010
2011
Nghìn lượt
(Nguồn: Ban quản lý khu di tích Địa đạo Củ Chi)
83
Số lượng khách nội địa: số lượng khách nội địa đến huyện Củ Chi tăng nhanh trong
những năm qua, từ giai đoạn năm 2009 trở đi thì số lượng khách nội địa tăng ổn định. Vào
năm 2000 số lượng khách nội địa là 642.337 lượt người thì sang năm 2005 số lượng khách
giảm 98.149 lượt khách chỉ còn 544.188 lượt nhưng đến năm 2008 thì lượng khách nội địa
sụt giảm chỉ còn 354.069 lượt người. Bắt đầu từ 2009 trở đi thì số lượng khách bắt đầu ổn
định hơn, tăng đều đặn qua các năm. Năm 2009 là 766.339 lượt khách, đến năm 2010 là
852.243 lượt khách, tăng 85.904 lượt khách. Và 2011 đạt 927.484 lượt khách, mức cao nhất
qua các năm, chiếm 65% tổng số khách đến Củ Chi.
Tỉ lệ khách nội địa trên tổng số khách: Nhìn chung khách đến Củ Chi chủ yếu vẫn là
khách nội địa, luôn chiếm hơn 65% tổng số khách trừ năm 2008. Như vậy , cơ cấu giữa
khách du lịch quốc tế và nội địa đến Củ Chi còn khá chênh lệch. Điều này, đặt ra yêu cầu
cho các nhà đầu tư cần quan tâm hơn nữa đến các sản phẩn du lịch và tuyên truyền quảng bá
du lịch. Nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế, thu hút lượng khách quốc tế đến với
Củ Chi ngày một nhiều hơn.
Độ dài ngày lưu trú: Cũng giống như khách quốc tế thì khách nội địa cũng chỉ đến
tham quan Củ Chi trong ngày hầu như không lưu lại. Vì đa phần là khoảng cách gần, còn lại
đa số là học sinh sinh viên đi tham quan học tập theo các công ty lữ hành hoặc du khách các
tỉnh thì lưu trú tại khu vực trung tâm. Bên cạnh đó, một số điểm du lịch khá hấp dẫn nhưng
chưa tổ chức được các dịch vụ phục vụ đúng nhu cầu của du khách nên dẫn đến khách
không muốn lưu trú lại.
Đặc điểm nguồn khách nội địa:
+ Mục đích du lịch: Khách nội địa đến với Củ Chi có nhiều dạng, nhưng đa phần là
các học sinh, sinh viên đi tham quan học tập kết hợp sinh hoạt ngoại khóa. Tiếp đến là các
cựu chiến binh về thăm lại địa đạo. Số khác là các vị lãnh đạo cấp nhà nước đến viếng đền
tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ ở đây. Ngoài ra, còn có một lượng khách đến các khu du
lịch sinh thái, vườn cây ăn trái để nghỉ ngơi, giải trí. Nguồn khách này chủ yếu là khách từ
nội thành thành phố đi dã ngoại vào dịp nghỉ lễ hoặc các dịp cuối tuần,…
+ Cơ cấu nguồn khách: Nguồn khách du lịch nội địa đến Củ Chi chủ yếu là từ khu vực
trung tâm Thành phố và các tỉnh lân cận. Ngoài ra còn có một số ít khách phía Bắc hay Hà
Nội đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh ghé qua.
%
Biều đồ 2.2. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 – 2011.
84
180
160,1
144,3
160
128,5
140
120
100
95,57
90,3
100
80
60
40
20
năm
0
2001
2005
2009
2008
2011
2010 (Nguồn: Ban quản lý khu Di tích Địa đạo Củ Chi)
Nếu lấy mốc tăng trưởng từ 2001 là 100% ta sẽ thấy tốc độ tăng trưởng của khách du
lịch đến Củ Chi không ổn định qua các năm. Giai đoạn năm 2005 đến năm 2008 tốc độ tăng
trưởng giảm xuống còn 95,7% năm 2005 và 90,3% năm 2009. Từ sau năm 2009 trở đi thì số
lượng khách đến Củ Chi có xu hướng tăng ổn định hơn, khoảng 15 % mỗi năm. Và đến
năm 2011 đạt 160,1% vượt 60,1% so với năm 2001. Nhìn chung trong quá trình phát triển
ngành du lịch huyện đã có những thay đổi tích cực để cải thiện chất lượng sản phẩm du lịch
nhằm gia tăng số lượng du khách qua mỗi năm. Số lượng các điểm du lịch ngày một nhiều
hơn với nhiều loại hình phong phú đa dạng hơn đã thu hút được sự quan tâm của du khách
trong những năm gần đây. Hy vọng trong những năm tới du lịch huyện Củ Chi sẽ có những
định hướng mang tính chiến lược hơn để gia tăng thêm lượng du khách đến với Củ Chi, bắt
kịp được với tốc độ phát triển du lịch của Thành phố.
2.4.2.6. Doanh thu
Doanh thu du lịch là tất cả khoản thu do du khách chi trả trên địa bàn huyên trong quá
trình tham quan du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế công tác thống kê doanh thu du lịch những
năm qua của huyện không có, mà chủ yếu dựa vào báo cáo của ban quản lý khu di tích lịch
sử Địa đạo Củ Chi. Còn các chi tiêu khác không cập nhật đầy đủ.
* Tổng doanh thu qua một số năm
Cùng với sự gia tăng về lượng du khách, doanh thu du lịch của Củ Chi cũng đã đạt
được mức tăng trưởng nhất định.
85
Bảng 9.5. Doanh thu từ khu di tích Địa đạo Củ Chi giai đoạn năm 2008 – 2011 so với
nguồn thu của Thành phố
Năm Doanh thu từ du Doanh thu từ du So với doanh thu
lịch huyện Củ Chi ( lịch của Thành phố du lịch của Thành
( tỷ đồng) tỷ đồng) phố ( %)
2008 57,566 31.000 0,18
2009 69,244 38.334 0,18
2010 85,724 44.918 0,19
2011 100,060 56.842 0,18
(Nguồn Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Phòng kế hoạch kinh doanh Địa đạo Củ
Chi)
Qua bảng trên cho thấy doanh thu từ du lịch của huyện trong những năm qua có sự gia
tăng đáng kể từ 57,566 tỷ đồng lên đến hơn 100 tỷ. Đây là một bước cố gắng phát triển
không ngừng của đội ngũ quản lý du lịch của huyện cũng như công sức của các nhân viên
ngành du lịch. Tuy nhiên, nếu đem so với nguồn thu chung của thành phố thì du lịch huyện
Củ Chi còn chiếm một tỷ lệ khá thấp. Từ năm 2008 đến năm 2011 đều chỉ dừng lại ở mức
0,18 % chỉ có năm 2010 đạt 0,19%. Vậy vấn đề đặt ra là ngành du lịch của huyện cần xem
lại định hướng phát triển du lịch của huyện chưa bắt kịp với sự phát triển du lịch của thành
phố. Huyện Củ Chi chưa tận dụng được lợi thế của một huyện ngoại thành của thành phố
trung tâm. Chưa tận dụng được nguồn khách đến thành phố làm cơ sở để tăng doanh thu cho
du lịch huyện. Đây là vấn đề mà các nhà làm du lịch huyện Củ Chi cần xem xét, cần có
những giải pháp cụ thể để du lịch huyện Củ Chi ngày càng phát triển bắt kịp với xu hướng
phát triển chung của thành phố.
*Cơ cấu nguồn thu
Cơ cấu nguồn thu du lịch huyện Củ Chi khá đơn điệu. Chủ yếu tập trung vào doanh
thu từ du khách tham quan khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi. Còn lại là từ doanh thu ăn
uống. Trong những năm qua doanh thu từ ăn uống cũng tăng lên đáng kể, nhờ vào sự hoàn
thiện và nâng cấp một số nhà hàng, các quán ăn mang tính đặc sản. Doanh thu từ các dịch
vụ khác còn rất ít.
Điều nay cho thấy du lịch huyện Củ Chi còn chưa khai thác được hết tiềm năng. Các
dịch vụ vui chơi, giải trí còn nghèo nàn chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. Nhìn
chung cơ cấu doanh thu du lịch Củ Chi ít thay đổi qua các năm. Do đó để có bước đột phá
86
đòi hỏi cần có những chiến lược đầu tư, xây dựng mới nâng cao chất lượng các dịch vụ du
lịch. Tiến hành đa dạng hóa các loại hình dịch vụ du lịch, đặc biệt là các dịch vụ có khả
năng thu hút khách du lịch, tăng khả năng chi tiêu của du khách và giữ chân du khách ở lại
lâu hơn. Để làm được điều đó đòi hỏi du lịch huyện Củ Chi cần tạo ra sản phẩm du lịch
hoàn hảo hơn và chất lượng hơn để tương xứng với những tiềm năng vốn có của mình.
2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi trên quan
điểm phát triển bền vững
2.5.1. Đánh giá chung
Trong những năm qua cùng với sự phát triển chung của ngành du lịch thành phố,
ngành du lịch huyện Củ Chi đã có nhiều nổ lực đánh thức tiềm năng của huyện. Các chỉ tiêu
về lượt khách, doanh thu có sự tăng trưởng đáng kể là lượt khách quốc tế có sự tăng lên, bên
cạnh những du khách của các thị trường quen thuộc còn có thêm sự xuất hiện các nguồn
khách mới.
Bên cạnh đó, huyện cũng đã có những chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
– kỹ thuật phục vụ cho du lịch. Đã bắt đầu xuất hiện những khách sạn đạt tiêu chuẩn để
phục vu du khách. Thu hút được cộng đồng dân cư địa phương tham gia vào hoạt động du
lịch, các hướng dẫn viên, buôn bán hàng lưu niệm,…
Để đưa du lịch huyện Củ Chi lên một tầm cao mới, ngành du lịch huyện cũng đã chú
trọng hơn đến công tác đầu tư, quảng bá du lịch địa phương với bạn bè trong nước và quốc
tế, bước đầu đã có những thành công nhất định. Tạo cơ hội thu hút đầu tư của các doanh
nghiệp trong cũng như ngoài nước tham gia vào phát triển du lịch của huyện nhà.
Các điểm du lịch cũng có những kế hoạch tổng thể và chi tiết để xây dựng nhiều loại
hình vui chơi tạo ra nhiều sản phẩm du lịch để phục vụ du khách, tạo ra sự kết nối giữa các
điểm, các khu du lịch. Đặc biệt, xu hướng mới là du lịch trải nghiệm rất phù hợp với địa
phương, sẽ tạo cảm giác thích thú cho khách du lịch khi tham gia khám phá về vùng đất
này.
Tuy nhiên, mức độ khai thác tài nguyên du lịch vẫn còn hạn chế. Chủ yếu tập trung
vào các di tích lịch sử, các khu du lịch sinh thái. Chưa khai thác hết tiềm năng vốn có của tài
nguyên. Các hệ thống du lịch đường sông chưa được khai thác phục vụ du lịch. Các điểm có
tiềm năng phát triển du lịch bị bỏ quên “ phim trường, xã Hòa Phú”. Khai thác nhưng chưa
có kế hoạch đầu tư lâu dài, dẫn đến một số khu du lịch xuống cấp như “ Khu du lịch Một
87
thoáng Việt Nam”, “Khu công viên nước Củ Chi”, một số công trình đưa vào hoạt động
nhưng không có kế hoạch đầu tư để tôn tạo. Các công trình kiến trúc văn hóa nghệ thuật chỉ
phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương mà chưa có hướng khai thác
thành sản phẩm du lịch để phục vụ nhu cầu của du khách. Các làng nghề có nguy cơ mai
một vì không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Các vườn cây ăn trái được đưa vào quy hoạch
phát triển du lịch nhưng vẫn còn hoạt động tự phát không theo quy hoạch chung, chủ yếu
theo mùa vụ.
Các loại hình du lịch còn đơn giản, đa số du khách đến huyện Củ Chi để tham quan di
tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, một số ít khách nội địa đến tham quan kèm theo vui chơi giải
trí. Mặc dù đã có nhiều loại hình du lịch được bổ sung vào các khu du lịch như mạo hiểm
hay trải nghiệm khám phá nhưng còn thiếu tính chất đặc sắc nên chưa thu hút được nhiều sự
quan tâm của du khách, đặc biệt là giới trẻ.
So với tiềm năng của huyện thì lượng du khách đến với du lịch huyện chưa tương
xứng với tiềm năng phát triển. Có rất nhiều điểm tham quan du lịch nghỉ dưỡng thu hút rất ít
khách nội thành vào các dịp cuối tuần. Các điểm du lịch còn lại chưa có chính sách đầu tư
quảng bá, giới thiệu điểm du lịch của mình đến với du khách. Tạo điều kiện tối đa để khách
du lịch có dịp tiếp xúc với các thông tin về điểm du lịch, khơi gợi cho du khách sự tò mò
thích thú khám phá và đặc biệt là phải có những thay đổi mới mẻ nhằm tránh cho du khách
cảm thầy buồn chán khi có dịp quay lại lần sau.
2.5.1.1. Tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường
Sự phát triển của bất kì ngành kinh tế nào cũng gắn liền với vấn đề môi trường, điều
này có ý nghĩa đối với sự phát triển của ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao như ngành Du lịch. Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng
đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của hoạt động du lịch.
Hiện nay không chỉ du lịch mà cả các ngành kinh tế khác cũng phải đang đối phó với
những thách thức không nhỏ bởi sự suy thoái môi trường tự nhiên, đặc biệt là ô nhiễm môi
trường nước, môi trường không khí, các khu dân cư, khu du lịch, làng nghề,…Bên cạnh đó,
sự suy giảm đa dạng sinh học, sự gia tăng tai biến và sự cố môi trường cũng có ảnh hưởng
đến sự phát triển du lịch bền vững.
2.5.1.2. Hoạt động du lịch làm tăng áp lực về chất thải sinh hoạt, góp phần làm tăng
nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí.
88
Ô nhiễm môi trường do tác động của hoạt động du lịch xuất hiện từ những nhân tố chủ
quan ( hoạt động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ, phục vụ khách du lịch: khách sạn, nhà
hàng, phương tiện vận chuyển khách du lịch). Phạm vi tác động của hoạt động du lịch đối
với môi trường chủ yếu tại các khu du lịch, các điểm tham quan du lịch thu hút du khách:
các khu du lịch sinh thái, khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, công viên nước,…Nguồn gây ô
nhiễm môi trường từ các chất rắn, nước thải, khí thải do các cơ sở kinh doanh dịch vụ du
lịch và khách du lịch thải ra.
+Chất rắn gồm có rác và các chất hữu cơ ( chủ yếu chất phế thải lương thực, thực
phẩm động vật, thức ăn thừa,…), rác vô cơ ( nguyên vật liệu xây dựng, vỏ bao bì đựng các
loại hàng hóa, lương thực thực phẩm ). Hầu hết các loại thức ăn thừa tại các nhà hàng, quán
ăn đều được thu gom và bán cho các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện. Một phần lại được
thải trực tiếp ra bên ngoài. Đây chính là nguồn trực tiếp gây ô nhiễm môi trường tự nhiên (
đất, nước, không khí).
Theo số liệu thống kê của Công ty dịch vụ công ích huyện Củ Chi, trong năm 2002,
tổng khối lượng rác thu gom hàng ngày trên địa bàn huyện là 19.710 tấn/ năm (tương ứng
khoảng 54 tấn/ ngày), trong đó rác từ các hộ gia đình là 7 tấn và từ các cơ sở sản xuất là 27
tấn/ ngày; rác từ các công trình công cộng như chợ, khu du lịch, vui chơi,…là 20 tấn/ ngày.
Nhìn chung hoạt động quản lý rác sinh hoạt trên địa bàn huyện Củ Chi hiện nay được
thực hiện khá tốt. Huyện Củ Chi là một huyện ngoại thành, các hộ gia đình ở đây (ngoại trừ
khu vực thị trấn ) phần lớn đều là nhà vườn, người dân thường có khuynh hướng tận dụng
lại hầu hết tất cả các loại thực phẩm, rau quả thừa làm thức ăn chăn nuôi gia súc, đây là
thành phần chiếm tỷ lệ cao trong rác sinh hoạt
( 72% - 84,5%), nên phần rác còn lại có khối lượng rất ít, có thể đổ bỏ hoặc đốt trong vườn
nhà hay ủ làm phân bón. Do đó, mặc dù tỷ lệ thu gom rác trên địa bàn huyện rất thấp (
17%), nhưng vấn đề vệ sinh môi trường vẫn được thực hiện khá tốt. đây là điều kiện thuận
lợi cho phát triển du lịch bền vững ở Củ Chi.
+ Nước thải chủ yếu là nước đã qua sử dụng tại các nhà hàng, khách sạn, nhà
nghỉ,..thải ra ngoài. Nước thải từ các khu du lịch có nhiều chất hóa học, dầu, mỡ,…hầu hết
không được qua hệ thống xử lý và thấm trực tiếp xuống lòng đất gây ô nhiễm nguồn tài
nguyên đất và nước mặt. Tuy nhiên nguồn nước mặt ở huyện Củ Chi do đặc trưng cho vùng
đất bị nhiễm phèn, nước đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, nên chỉ đạt tiêu chuẩn nguồn loại B
( tiêu chuẩn 5942 – 1995). Vì vậy hầu hết nước sử dụng cho các điểm du lịch, khu vui chơi
89
chủ yếu từ mạch nước ngầm khai thác ở tầng Pleistoxen và một phần ở tầng Plioxen trên.
Mức độ khai thác càng cao khả năng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước càng lớn, đặc biệt vào
những tháng mùa khô. Nước khai thác sử dụng cho các điểm du lịch là nước sạch nhưng khi
thải ra môi trường là nước đã qua sử dụng, được thải trực tiếp vào các hệ thống kênh rạch.
Sau đó đổ thẳng vào sông Sài Gòn, làm cho nguồn nước ở đây bị ô nhiễm. Nó không chỉ
ảnh hưởng đến địa phương mà còn tác động chung cho cả thành phố.
+ Khí thải gồm khí thải động cơ của phương tiện vận chuyển khách du lịch, khí thải từ
các bếp đun của nhà hàng, quán ăn. Khí thải từ máy điều hòa nhiệt độ,...Lượng khí thải
thoát tự nhiên ra môi trường gây ô nhiễm môi trường không khí. ( Bảng kết quả chất lượng
không khí huyện Củ Chi – Phụ lục 4)
2.5.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng
bền vững
Nghiên cứu của các nhà khoa học và kinh tế cho thấy, ba trụ cột của phát triển bền
vững gồm sự bền vững kinh tế, bền vững về xã hội và sự bền vững về tài nguyên và môi
trường.
2.5.2.1. Từ góc độ bền vững về kinh tế
Khách du lịch là cơ sở cho sự phát triển của ngành Du lịch bởi lượng khách tăng đồng
nghĩa với doanh thu tăng, khả năng đóng góp của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế của
huyện cũng được nâng cao. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là đối với phát triển du lịch từ góc độ
kinh tế là chất lượng nguồn khách.Về chỉ tiêu khách cũng như doanh thu của huyện so với
thành phố còn chiếm tỷ lệ chưa cao. Khách quốc tế đến huyện Củ Chi chỉ chiếm 13% - 14%
nguồn khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đến các thu nhập từ các dịch vụ du
lịch còn thấp.
Chất lượng các cơ sở lưu trú trên địa bàn huyện còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu
của du khách, các khách sạn chủ yếu tập trung ở thị trấn, còn lại là các nhà nghỉ với cơ sở
vật chất kỹ thuật chưa đạt tiêu chuẩn.
Hiệu quả khai thác du lịch còn thấp: thời gian lưu lại du lịch ngắn, chi tiêu cho mua
sắm của khách nội địa lẫn quốc tế còn thấp, mức độ hài lòng của du khách đối với sản phẩm
du lịch chưa cao. Muốn thu hút khách du lịch, lưu giữ khách nhiều ngày và tăng chi tiêu
mua sắm của khách cần phải khai thác nguồn tài nguyên và đầu tư sản phẩm du lịch chất
lượng, đây là vấn đề còn hạn chế của ngành du lịch huyện Củ Chi.
90
Như vậy chất lượng nguồn khách du lịch đang là vấn đề rất quan trọng đặt ra đối với
sự phát triển của du lịch từ góc độ kinh tế. Mặc dù lượng khách du lịch và thu nhập du lịch
qua các năm đều ghi nhận có sự tăng trưởng.
Với tư cách là một ngành kinh tế, sản phẩm du lịch là một yếu tố rất quan trọng quyết
định hiệu quả kinh doanh du lịch. Một sản phẩm du lịch tốt có chất lượng phù hợp với yêu
cầu của khách du lịch sẽ có khả năng bán giá cao, mang lại hiệu quả kinh tế. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, mặc dù huyện Củ Chi có tiềm năng phát triển du lịch nhưng trong những năm
qua những sản phẩm du lịch đặc sắc mang nét riêng của huyện Củ Chi chưa được khai thác
hiệu quả và chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng. Đây là một nguyên nhân quan
trọng làm hạn chế hiệu quả kinh doanh du lịch, đồng thời theo thời gian gây sự nhàm chán
cho du khách, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững.
Có đến 71,7% số khách đến Củ Chi lần đầu hứa sẽ quay lại khi có điều kiện, 81,8% số
khách đến Củ Chi lần thứ 2 hứa sẽ quay lại, 85,7% khách đến Củ Chi lần thứ 3 hứa sẽ quay
lại, và đến 96,3% số khách đến Củ Chi trên 3 lần hứa sẽ quay lại. Tuy nhiên, ngoại trừ số
khách đến lần đầu, số còn lại họ không phải là những du khách thực thụ, họ quay lại Củ Chi
với những mục đích khác nhau như: kết hợp công việc hay thăm hỏi người thân,…
Mức tăng trưởng đầu tư cho du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành:
đầu tư là đòn bẩy để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển trong đó có du lịch. Trong những
năm qua, đầu tư vào lĩnh vực du lịch của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có gia tăng,
song để du lịch thật sự phát triển bền vững cần có sự quan tâm hơn nữa từ phía nhà nước
bằng việc phân bổ đầu tư cho sự nghiệp du lịch cân đối các ngành kinh tế khác và tương
xứng với vai trò là một ngành kinh tế quan trọng. Về điểm này huyện Củ Chi còn chưa quan
tâm.
Hoạt động quảng bá du lịch của huyện còn hạn chế chưa có hiệu quả. Việc quảng cáo
sản phẩm du lịch chủ yếu dựa trên những gì có sẵn mà chưa quan tâm đến sản phẩm du lịch
thị trường cần. Vì vậy, khả năng thu hút khách du lịch kém, làm giảm hiệu quả kinh doanh
của hoạt động du lịch.
Chất lượng nguồn nhân lực du lịch chưa được nâng lên ngang tầm với yêu cầu của
nhiệm vụ. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực. Tuy nhiên
chất lượng đội ngũ lao động cũng như trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, trình độ
nghiệp vụ, kỹ năng nghề,…chưa bắt kịp tốc độ phát triển chung đang là yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm du lịch và đang là vấn đề đặt ra hiện nay.
91
2.5.1.3. Từ góc độ khai thác và bảo vệ tài nguyên – môi trường
Các nguồn tài nguyên du lịch chưa được khai thác nhiều cho phát triển du lịch. Tỷ lệ
khai thác cũng như mức độ khai thác các loại tài nguyên du lịch còn thấp, cho thấy các giá
trị tài nguyên chưa được phát huy để có những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
Vấn đề quản lý tài nguyên du lịch còn chồng chéo giữa các cấp, ngành. Nhận thức xã
hội về phát triển du lịch và khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch còn nhiều hạn chế.
Số lượng các khu, điểm du lịch được quy hoạch và đầu tư tôn tạo còn ít, hiện chỉ có
Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi được quy hoạch cụ thể. Các khu du lịch đang phát triển
tự phát không có quy hoạch cụ thể nên vấn đề khai thác sử dụng tài nguyên còn nhiều hạn
chế.
Cường độ hoạt động du lịch ở một số điểm du lịch chính còn thấp lại chỉ tập trung vào
mùa lễ hội, gây áp lực lớn cho môi trường vào những thời điểm này. Như vậy, các điểm du
lịch cần có những sản phẩm du lịch đa dạng, kéo dài thời vụ khai thác, có như vậy mới giảm
bớt áp lực đến môi trường, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững.
2.5.1.4. Từ góc độ phát triển xã hội
Trong thời gian qua sự phát triển của ngành du lịch của huyện đã có những đóng góp
tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, tạo thêm việc làm, tạo thêm thu nhập
cho người dân địa phương nhưng nhận thức xã hội về du lịch vẫn chưa được đầy đủ và nhất
quán nên ảnh hưởng tới sự phối hợp giữa các ngành nghề có liên quan.
Các nhà lãnh đạo địa phương và ngành du lịch thành phố đánh giá rất cao sự an toàn
của Củ Chi, nhưng với khách du lịch vẫn tồn tại những mặt chưa tốt. Đó là sự an toàn trong
các trò chơi mang tính chất mạo hiểm như: bắn súng , bơi thuyền, lướt ván,…Đồng thời
huyện cũng cần thành lập các đội nhóm hướng dẫn và bảo vệ du khách, đặc biệt là trong
mùa cao điểm để tạo thêm niềm tin cho du khách.
Hoạt động phát triển du lịch trong thời gian qua luôn gắn liền với vấn đề xã hội hóa du
lịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát triển quá nhanh các hệ thống
doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng quy mô
nhỏ vượt quá khả năng quản lý của địa phương, tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh như: gây
hỗn loạn trong kinh doanh, các tệ nạn xã hội,…Đây là một vấn đề tác động không tốt đến
phát triển bền vững nhìn từ góc độ xã hội.
Mọi hoạt động phát triển chỉ bền vững nếu được sự ủng hộ của xã hội nói chung, của
cộng đồng nơi diễn ra hoạt động du lịch nói riêng. Vấn đề đặt ra cho phát triển du lịch từ
92
góc độ xã hội là phải nâng cao nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của du lịch và chia sẻ lợi
ích thu được từ du lịch với cộng đồng dân cư.
Nhìn chung trong những năm qua du lịch đã và đang tiếp tục góp phần cải thiện và
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân huyện Củ Chi, vốn trước đây chỉ đơn thuần là
nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của du lịch sẽ góp phần tăng thu nhập cho người dân,
đồng thời giúp họ lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc đang có nguy cơ
mai một.
93
94
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU
LỊCH HUYỆN CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
3.1. Những căn cứ xây dựng định hướng và giải pháp
3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu tổng quát
Căn cứ theo quyết định của UBND Tp Hồ Chí Minh ( QĐ 06/2008?QĐ-UBND) về
“Chương trình phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 – 2010 và những
năm kế tiếp” và “ Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành du lịch trên địa
bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015”với các mục tiêu đặt ra như sau:
- Phát triển du lịch gắn liền với phát triển thương mại và giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc làm cho “ Du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn” để đóng góp cho sự tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố và phát triển bền vững.
- Phát triển du lịch thành phố gắn liền với việc xã hội hóa để người dân và các thành
phần kinh tế tham gia vào hoạt động và xây dựng môi trường du lịch. Đẩy mạnh xúc tiến du
lịch, tăng cường hội nhập và chủ động phát triển quan hệ quốc tế.
- Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, chọn lọc xây dựng một số sản
phẩm du lịch có chất lượng cao, có sức cạnh tranh. Nâng cấp và xây dựng các điểm du lịch,
khu du lịch, tuyến du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc tế.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để từng bước đưa du lịch
thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực. nâng cao năng lực
và hiệu quả quản lí nhà nước đối với hoạt động du lịch.
Mục tiêu cụ thể
- Tiếp tục đẩy mạnh tốc dộ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí
Minh bình quân 12,5%/ năm.
- Tốc độ phát triển khách nội địa là 15% đến 20%/ năm.
- Nâng cao nguồn thu nhập du lịch, tăng khả năng đóng góp ngày càng nhiều của
ngành du lịch vào ngân sách thành phố, với tốc độ là 28%/ năm.
- Phát triển tuyến du lịch đường sông nhằm tăng cường, liên kết, phối hợp với các địa
phương lân cận và ngược lại.
- Tạo chuỗi các sự kiện bình và xét chọn với nhiều hình thức đa dạng nhằm thu hút sự
quan tâm của dư luận xã hội, khách du lịch và của những người làm công tác phục vụ khách
95
du lịch về vấn đề chất lượng sản phẩm du lịch và các giá trị văn hóa đặc trưng của Nam Bộ
nói riêng và Việt Nam nói chung. Qua đó lựa chọn và biểu dương các dịch vụ hàng đầu của
ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh để giới thiệu, quảng bá rộng rãi với du khách trong
và ngoài nước. Như chương trình
“ Thành phố Hồ Chí Minh – 100 điều thú vị”
- Thực hiện các chương trình quảng bá xúc tiến du lịch như:
+ Tổ chức các hoạt động xúc tiến ra nước ngoài tại thành phố
+ Tổ chức hoạt động xúc tiến du lịch ra nước ngoài tại các thị trường
+ Tổ chức các hoạt động quảng bá phát triển du lịch nội địa
+ Thông tin tuyên truyền
- Thực hiện xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu du lịch của thành phố
- Tăng cường quản lý, thu hút đầu tư và phát triển hệ thống khách sạn đạt chuẩn quốc
tế.
3.1.2. Kế hoạch phát triển kinh tế huyện Củ Chi
Cơ cấu kinh tế của huyện theo đồ án quy hoạch được phê duyệt năm 1998 là công
nghiệp – nông nghiệp – thương mại – dịch vụ - du lịch. Nay điều chỉnh cơ cấu kinh tế huyện
trong tương lai là công nghiệp – dịch vụ thương mại – nông nghiệp.
Bảng 3.1. Cơ cấu kinh tế huyện Củ Chi giai đoạn 2010 – 2020 (đơn vị %)
Khu vực Năm 2010 Năm 2020
Nông – lâm – thủy sản 8,05 5,0
Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 80,94 80,8
11,01 Thương mại dịch vụ 14,2
(Nguồn : UBND huyện Củ Chi, Phòng thống kê)
Định hướng phát triển của huyện trong những năm tới là phát triển theo hướng nông
nghiệp đô thị, nâng cao giá trị sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Mục tiêu xây
dựng huyện Củ Chi trở thành đô thị xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng đô thị sinh thái –
bền vững.
- Chiến lược xây dựng mô hình dân cư của huyện Củ Chi theo các khu vực khác nhau:
+ Xây dựng khu đô thị Tây Bắc Củ Chi, thị trấn huyện lỵ, khu vực Tân Quy, và các thị
trấn thành những khu đô thị hiện đại, tạo động lực đô thị hóa làm thay đổi kinh tế và toàn
cảnh dân cư của huyện.
+ Hình thành các thị tứ tại khu Trung tâm liên xã, trung tâm xã tạo tiền đề cho xây
96
dựng dân cư và các công trình phúc lợi cũng như công trình phục vụ sản xuất.
+ Xây dựng các khu dân cư nông thôn với mục tiêu ổn định cuộc sống của người dân,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản phẩm có chất lượng cao và gắn liền với nhu cầu
nghỉ ngơi du lịch sinh thái – dân cư nhà vườn cho khu vực nội thành.
- Chiến lược phân khu chức năng khu đô thị Củ Chi theo hướng xác định rõ các khu
vực ưu tiên phát triển, khu vực phát triển có kiểm soát và các khu vực dự trữ phát triển trong
tương lai:
+ Khu vực đô thị hóa cao hài hòa với khu dân cư nông thôn. Lấy tiền đề phát triển bền
vững và môi trường thân thiện cho nhu cầu cuộc sống của con người. Phân biệt rõ ranh giới
giữa dân cư nông thôn và khu đô thị hóa. Khoanh vùng các khu vực dự kiến xây dựng tạo
điều kiện tập trung xây dựng, khắc phục tình trạng xây dựng tràn lan, phân tán và không
thuận lợi cho quản lý xây dựng và sử dụng hiệu quả hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật đô thị
của huyện.
+ Xác định cụ thể các khu vực dự kiến dành cho những dự án có quy mô lớn của thành
phố và các hành lang kỹ thuật dự kiến sẽ có trên địa bàn huyện Củ Chi: nhằm bảo đảm có
đủ quỹ đất cho phát triển và sử dụng có hiệu quả trong đầu tư xây dựng.
+ Các khu và cụm công nghiệp tập trung với loại hình công nghiệp khác nhau: cơ khí,
dược, điện, …
+ Các khu vực dành cho các dự án xây dựng công trình có quy mô lớn của thành phố:
phim trường, khu vui chơi giải trí đa năng, viện trường…
+ Hành lang dự kiến cho đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài, hành lang
đường xe lửa Thành phố Hồ Chí Minh – Lộc Ninh – Campuchia (đường sắt Xuyên Á), một
số tuyến dự phòng để nối liền các khu chức năng chính trên địa bàn huyện.
- Chiến lược phát triển các vùng cảnh quan đặc trưng:
+ Từ đặc trưng của thảm thực vật và phương thức sản xuất nông nghiệp, quy hoạch một
số vùng có cây đặc trưng (ví dụ như rừng tầm vông, rừng trúc, rừng các loại cây ăn quả địa
phương, rừng nhiệt đới có nuôi thú chim để tham quan và rừng cây cao su) phục vụ cho nghỉ
ngơi, tham quan, giải trí từ một số khu vực đất có năng suất nông nghiệp thấp, chậm phát
triển. Qua đó hình thành khu vực có tiền đề đầu tư xây dựng, tạo động lực thay đổi cơ cấu
kinh tế, đặc biệt tạo việc làm cho người dân Củ Chi.
+ Phát triển các làng nghề truyền thống kết hợp du lịch: làng nghề bánh tráng và tiểu
thủ công nghiệp đan lát xuất khẩu tại xã Phú Hoà Đông và xã Thái Mỹ.
97
+ Khu vực sản xuất nông nghiệp – các khu rừng với quy mô diện tích và thảm thực vật
khác nhau.
- Chiến lược phát triển dọc theo hành lang sông Sài Gòn:
Phát triển dọc theo hành lang sông Sài Gòn thành các khu du lịch sinh thái kết hợp bảo
tồn các giá trị văn hóa lịch sử và các cụm dân cư mật độ thấp theo hướng nghỉ dưỡng. Tiến
tới thực hiện mục tiêu này thông qua các giải pháp:
+ Điều chỉnh quy hoạch các khu vực dọc sông Sài Gòn thành 7 cụm phát triển du lịch
sinh thái có quy mô khoảng 4.750 ha.
+ Chuyển hình thức cây trồng vật nuôi và làng nghề – cây cảnh thành các khu vực tập
trung để có khả năng đầu tư hạ tầng kỹ thuật thuận lợi cho sản xuất, bảo đảm có sản phẩm
với quy mô lớn và chất lượng cao.
+ Tập trung nghiên cứu khu vực địa đạo Bến Dược và các dự án có liên quan (dự án
mô phỏng Hồ Biển Đông), xây dựng hệ thống các bảo tàng cách mạng, phát triển thành
trung tâm du lịch kết hợp nâng cao các giá trị văn hóa, lịch sử và truyền thống cách mạng,
góp phần xây dựng mục tiêu huyện xã hội chủ nghĩa.
3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế Huyện Củ Chi
Tăng trưởng kinh tế: Trong những năm qua (giai đoạn 2000-2005) tổng giá trị sản xuất
trên địa bàn huyện bình quân hàng năm tăng 17,96% cao hơn so với mức tăng bình quân của
Thành phố. Năm 2005 tổng giá trị sản xuất - kinh doanh trên địa bàn huyện đạt 4.320 tỷ
đồng, tăng 14,5% so với năm 2004.
Cơ cấu kinh tế của huyện những năm qua có sự chuyển dịch theo hướng Công nghiệp
– tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp – thương mại dịch vụ.
Khu vực công nghiệp là động lực tăng trưởng chính của huyện. Năm 2005, giá trị sản
xuất của khu vực này đạt 3.216,301 tỷ đồng, tăng 16,7% so với năm 2004. Khu vực nông
lâm thủy sản đạt 630,22 tỷ đồng, tăng 2,83% so với năm 2004 và khu vực thương mại dịch
vụ đạt 473,03 tỷ đồng, tăng 17,3% so với năm 2004.
- Công nghiệp
Sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 – 2005 phát triển với tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm đạt 21,47%. Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp năm 2005
của huyện là 3.216 tỷ đồng.
Hiện có 1.372 cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp do huyện quản lý và
63 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, thu hút trên 33.000 lao động. Với các khu cụm
98
công nghiệp được phân bố dọc theo Quốc lộ 22, Tỉnh lộ 15, Tỉnh lộ 8.
Các làng tiểu thủ công nghiệp truyền thống như mây tre lá, bánh tráng xuất khẩu ngày
càng phát triển.
- Nông lâm thủy sản
Sản xuất nông lâm thủy sản giai đoạn 2000 – 2005 phát triển với tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm đạt 3,43%, giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp năm 2005 đạt
khoảng 630,22 tỷ đồng.
Trong những năm gần đây, chủ trương của Thành phố là đưa dần công nghiệp ở nội
thành ra khu vực ngoại vi, huyện Củ Chi là khu vực được nhiều nhà doanh nghiệp lưu ý, đã
và đang xây dựng hàng loạt cơ sở sản xuất công nghiệp. Vì thế đất nông nghiệp có xu
hướng thu hẹp dần diện tích canh tác.
Đất nông lâm thủy sản hiện có 33.249,54 ha, chiếm 76,44% tổng diện tích đất tự
nhiên, giảm 1.321,9 ha so với năm 1997. Trong đó: Đất nông nghiệp chiếm 32.737,06 ha
gồm đất trồng lúa 25.160 ha với năng suất bình quân đạt 3,79tấn/ha; đất trồng cỏ 800 ha và
đất trồng các loại cây khác như cây rau 3.200 ha, hoa kiểng 45 ha, cây công nghiệp 3.532
ha, …). Đất lâm nghiệp chiếm 104,2 ha chủ yếu ở khu bảo tồn, khu di tích lịch sử. Đất nuôi
trồng thủy sản chiếm 408,28 ha, chủ yếu bố trí ở khu vực phía đông của huyện như làng
nghề cá cảnh, cá sặc rằn ở ấp Phú Hòa, Bến Cỏ, Phú Hòa Đông.
Về thủy sản ở xã Phú Hòa Đông đang triển khai đầu tư nuôi thủy sản quy mô 100 ha.
- Thương mại – dịch vụ
Hiện có 8.310 cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm của ngành thương mại – dịch vụ là 27,13%.
Trên địa bàn huyện có 18 chợ chủ yếu là bán lẻ kinh doanh các mặt hàng tươi sống,
phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân. Các chợ phân bố tại 14 xã và thị trấn,
trong đó có 12 chợ truyền thống hình thành và phát triển từ lâu đời. Đa số các chợ chưa
được đầu tư cơ sở hạ tầng, một số chợ họp ở lòng đường gây cản trở giao thông.
Trên địa bàn huyện đang triển khai và phát triển loại siêu thị, trung tâm thương mại
dịch vụ.
Về kinh doanh nhà hàng, khách sạn hiện có 2.880 hộ, chủ yếu tập trung ở thị trấn Củ
Chi và một số xã dọc quốc lộ 22.
Về dịch vụ du lịch có khu di tích đền Bến Dược, Bến Đình, Một thoáng Việt Nam,
Công viên nước, khu du lịch sinh thái Nhuận Đức.
99
3.1.4. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi
Qua các nội dung nghiên cứu ở chương 3 kết hợp với “ Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” và “ Chương trình hành động quốc gia về
Du lịch giai đoạn 2013 -2020”, đề tài đưa ra những quan điểm và mục tiêu cho việc xây
dựng và phát triển sản phẩm du lịch của huyện Củ Chi theo các hướng sau.
3.1.4.1. Quan điểm phát triển
Với những tiềm năng và lợi thế về tài nguyên du lịch nhân văn, trong những năm qua
du lịch huyện Củ Chi đã có những bước phát triển nhanh, ngành du lịch đã đi đúng hướng
và có đóng góp nhiều mặt về kinh tế - văn hóa – xã hội và môi trường, an ninh trật tự…Tuy
nhiên căn cứ vào tình hình phát triển du lịch của thế giới và khu vực trong thời gian tới, đặc
biệt là tình hình phát triển du lịch của cả nước và cụ thể là của Thành phố Hồ Chí Minh, thì
huyện Củ Chi cần phải xây dựng các chiến lược cụ thể nhằm phát triển lâu dài dựa trên
những quan điểm như sau:
Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng
cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định vai trò của
ngành Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, thu nhập du lịch từng bước phải đóng góp lớn vào
GDP. Du lịch gia tăng nhanh trong xu hướng chung của kinh tế dịch vụ của huyện để khẳng
định vị trí động lực trong nền kinh tế.
Phát huy tối đa các thế mạnh của ngành du lịch, hệ thống kinh doanh dịch vụ để khẳng
định vai trò động lực của ngành du lịch. Phát triển du lịch tạo động lực phát triển các ngành
liên quan như: nông nghiệp, giao thông, công nghiệp, thương mại, bảo hiểm, bưu chính viễn
thông,…chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ hiện đại đồng thời đảm bảo công
bằng và tiến bộ xã hội.
Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm;
chú trọng phát triển theo chiều sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương
hiệu và khả năng cạnh tranh.
Quan điểm chuyển từ phát triển về lượng theo chiều rộng sang tập trung phát triển về
chất theo chiều sâu theo hướng hiện đại. Chất lượng hoạt động du lịch phải được coi trọng
hàng đầu; tập trung đầu tư khai thác phát triển các sản phẩm, dịch vụ đặc trưng, có chất
lượng và giá trị gia tăng cao, có thương hiệu nổi bật.
Phát triển mạnh các địa bàn trọng điểm du lịch, tập trung đầu tư phát triển các khu du
lịch có tầm cỡ, các điểm đến nổi bật để phát triển trở thành thương hiệu quốc gia và thương
100
hiệu vùng. Tập trung đầu tư phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có thế mạnh về tài
nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương. Nhấn mạnh các yếu tố văn hóa và sinh
thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch.
Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các gíá trị văn
hóa của huyện; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật
tự an toàn xã hội.
Phát triển du lịch trong sự cân đối các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường, đảm
bảo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần tích cực trong việc bảo tồn, bảo vệ môi
trường tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch có trách nhiệm, tôn
trọng lợi ích các bên, các vùng miền, tôn trọng văn hóa truyền thống, tôn trọng du khách
trong mối quan hệ với các cộng đồng điểm đến. Phát triển du lịch gắn với giảm nghèo, từng
bước nâng cao đời sống của dân địa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng.
Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực của huyện đầu tư phát triển du lịch;
phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế huyện Củ Chi và các yếu tố tự nhiên và văn hóa, thế mạnh
đặc trưng của huyện; tăng cường liên kết để phát triển du lịch
Phát huy hiệu quả tính liên vùng, liên kết vùng và khu vực trong tổ chức không gian
du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch. Phát triển mạnh du lịch để tạo thu nhập và việc làm
cho xã hội, mở rộng giao lưu giữa các địa phương.
Mọi phương án phát triển du lịch cần có sự kết hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp và
đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài.
Phát triển du lịch trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, khai thác tối
đa ưu thế của địa phương, đề cao vai trò, trách nhiệm của mọi thành phần, đặc biệt là mối
quan hệ giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, phát huy tính năng động tự chủ của doanh
nghiệp và vai trò kết nối của hiệp hội nghề nghiệp.
3.1.4.2. Mục tiêu phát triển
*Mục tiêu tổng quát
Đến năm 2020, du lịch cơ bản đóng góp tích cực vào GDP của huyện, có tính chuyên
nghiệp hơn, có hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du
lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Phấn đấu đến năm 2030, du lịch huyện Củ Chi được biết đến như một địa điểm dừng
chân lý tưởng, không thể bỏ qua của du khách khi đặt chân đến Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và khu vực phía Nam nói chung. Là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng cho người dân thành phố
101
vào những ngày nghỉ, những dịp cuối tuần.
* Mục tiêu cụ thể
- Về hoạt động ngành: phấn đấu đến năm 2020, ngành du lịch của huyện đạt được
những bước tăng trưởng nhất định, thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của ngành
như sau:
- Khách du lịch: thu hút khách trong nước và quốc tế bằng nhiều biện pháp thiết kế sản
phẩm, xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch huyện Củ Chi. Trong đó quan tâm đến thị hiếu và
nhu cầu của khách nội địa nhiều hơn, chú trọng khai thác thị trường quốc tế đầy tiềm năng.
Theo báo cáo của phòng kinh doanh, kế hoạch tăng trưởng hàng năm của Địa đạo Củ Chi
phấn đấu đạt 12% . Như vậy, tốc độ tăng trưởng đề ra là 12% mỗi năm, thì du lịch của
huyện phấn đấu đến năm 2015 đón 2,2, triệu lượt khách. Trong đó 1,4 triệu lượt khách nội
địa, 774,9 nghìn lượt khách quốc tế.
Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi phải có sự phấn đấu của toàn thể lãnh đạo ngành
cũng như đội ngũ lao động trong ngành du lịch phải không nghừng nâng cao chất lượng
phục vụ, mở rộng thêm các dịch vụ vui chới, giải trí để tăng thêm lượng khách du lịch đến
với Củ Chi.
Thu nhập du lịch: Phát triển đa dạng các dịch vụ hỗ trợ hoạt động du lịch để tăng
nguồn thu; kéo dài thời gian lưu trú của du khách; tăng doanh thu du lịch, đóng góp nhiều
hơn cho GDP của huyện. Riêng khu vực địa đạo Củ Chi đã đề ra mục tiêu năm 2015 là
158,783 tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 254,053 tỷ đồng.
Vốn đầu tư du lịch: Để đáp ứng yêu cầu phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho du lịch
huyện đòi hỏi ngày một nhiều hơn. Bên cạnh đó huyện đang chú trọng đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng. Đây được xem là nền tảng đầu tiên cho việc phát triển du lịch của huyện.
Trong năm 2013, Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi còn xây dựng thêm công trình
làng chiến đấu ven sông. Với sự phối hợp của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Bình Dương đồng ý
cho sử dụng gần 120 ha đất bên kia sông Sài Gòn, đoạn đối diện với Địa đạo để tái hiện lại
quang cảnh và cuộc chiến đấu ven sông Sài Gòn, cũng như một số công trình phù hợp khác.
Đây là khu tham quan gắn kết của tuyến tham quan hệ thống Địa đạo Củ Chi, để du khách
hiểu rõ hơn nơi được gọi là khu “tam giác sắt”.
Lao động và việc làm:
Cần có những chiến lược đào tạo nguồn lao động cụ thể như:
Gửi một số cán bộ tham dự lớp đào tạo chuyên ngành về du lịch và nhân viên phục vụ
102
tham dự lớp đào tạo nâng cao tay nghề như: đầu bếp, tiếp viên, bán hàng,..
Tổ chức các lớp học tại chỗ nhằm bổ sung kiến thức lịch sử sự hình thành và phát triển
Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, về con người và mảnh đất Củ Chi xưa và nay.
Tổ chức cho các cán bộ học tập kỹ năng tổ chức quản lý, tạo điều kiện và khuyến
khích nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ, chuyên ngành “ Quản trị kinh doanh”.
- Về tổ chức lãnh thổ:
Tiến hành quy hoạch cụ thể các điểm du lịch trong huyện. Phát triển các điểm du lịch
hiện có và khai thác các điểm tiềm năng. Phát triển đa dạng các loại hình du lịch, bao gồm
du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa,…Kết hợp các loại hình du lịch tạo nên sản
phẩm du lịch đặc trưng của huyện.
Phát triển du lịch trong sự hòa nhập, gắn kết chặt chẽ với các quận huyện trong thành
phố và liên vùng. Thể hiện qua công tác xây dựng các tuyến du lịch liên tỉnh với khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ. Tiến tới xây dựng tuyến du lịch khu vực và
quốc tế, tạo mối quan hệ giao lưu hợp tác với Cam-pu-chia. Trên cơ sở đó, thiết kế các
chương trình hấp dẫn, thu hút thị trường khách du lịch trong nước và ngoài nước.
* Mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi đến năm 2020
Mục tiêu phát triển du lich được xác định trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi với các giai đoạn như sau
Bảng 3.2. Dự báo chỉ tiêu phát triển du lịch đến năm 2020
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2010 2015 2020
Tổng lượt khách Nghìn lượt 1263,9 2208 3926
Khách nội địa 852,2 1459,4 2594
Khách quốc tế 411,6 748,6 1332
Doanh thu Tỷ đồng 85,724 158,7 254
Dự báo trên được tính theo kế hoạch chung của khu du lịch đề ra là 12% mỗi năm.
Doanh thu phấn đấu từ 12% - 20%.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động du lịch từng năm có những biến động khác nhau.
Trong giai đoạn năm 2005 – 2011 có năm tăng hơn 12%. Năm 2009 tăng 334.471 lượt
khách so với năm 2008 (mức tăng trưởng 42%). Từ 2009 trở đi tốc độ tăng trưởng đều đặn
12%/ năm. Doanh thu trên thực tế luôn đạt cao hơn mục tiêu đặt ra. Có năm cao hơn kế
hoạch 26%.
3.2. Định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững
103
3.2.1 Định hướng phát triển tổ chức lãnh thổ du lịch
Định hướng phát triển du lịch theo lãnh thổ là vấn đề tổ chức lãnh thổ du lịch dựa trên
những giá trị và sự phân bố của các tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch, làm cơ sở để phát triển hệ thống các dịch vụ du lịch, đặc biệt là cơ sở
lưu trú trên lãnh thổ nghiên cứu. Tổ chức lãnh thổ là công cụ cụ thể nhất để tổ chức các mục
tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi nói chung và phát triển du lịch bền vững nói riêng.
- Định hướng tổ chức lãnh thổ du lịch
Dựa vào môi trường du lịch tự nhiên và nhân văn, điều kiện kinh tế xã hội, sự phân bố
các nguồn tài nguyên du lịch trong huyện, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
du lịch, định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi thành 2 vùng chủ yếu sau:
*Cụm du lịch di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi với trọng điểm du lịch chính là Khu di
tích lịch sử Địa đạo Củ Chi và các điểm du lịch phụ trợ như: khu du lịch Một thoáng Việt
Nam, Khu du lịch sinh thái văn hóa các dân tộc thiểu số, làng nghề bánh tráng Phú Hòa
Đông. Các sản phẩm du lịch chủ yếu là văn hóa, lịch sử, sinh thái với cảnh quan thiên nhiên
nông thôn, sông nước yên bình.
*Cụm du lịch phía Nam của huyện với các điểm du lịch:công viên nước Củ Chi, khu
du lịch sinh thái Bình Mỹ, vườn cây ăn trái Trung An. Các sản phẩm du lịch chủ yếu là vui
chơi, giải trí, nghỉ ngơi với vùng sinh thái sông nước, vườn cây ăn trái.
- Định hướng tổ chức tuyến du lịch
Căn cứ vào điều kiện địa lý huyện Củ Chi, vị trí du lịch huyện Củ Chi nằm trong vùng
phụ cận trung tâm du lịch thành phố Hồ Chí Minh và mối liên hệ mang tính liên vùng du
lịch với các tỉnh thành lân cận, việc phát triển du lịch huyện Củ Chi được tổ chức theo các
hướng chính như sau:
Hướng Tây Bắc: theo đường Xuyên Á xuất phát từ trung tâm Củ Chi- Tây Ninh.
Hướng Tây: Củ Chi – Long An, các tỉnh miền Tây.
Hướng Đông Nam: theo tỉnh lộ 8 Củ Chi – TX Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.
Hướng Nam: theo tuyến đường xuyên Á Củ Chi – Trung tâm thành phố Hồ Chí
Minh
Củ Chi – Tây Ninh – Mộc Bài – Cam-pu-chia
*Tuyến du lịch liên tỉnh
Củ Chi – Long An – các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
Củ Chi – Biên Hòa – Bà Rịa Vũng Tàu
104
Củ Chi – Bình Dương
Củ Chi – Tây Ninh
Củ Chi – Trung tâm Hồ Chí Minh – các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ
*Tuyến du lịch nội bộ
Tuyến du lịch đường bộ:
Tuyến du lịch trung tâm thành phố Hồ Chí Minh – Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ
Chi – khu du lịch Một thoáng Việt Nam, khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số.
Tuyến du lịch công viên nước Củ Chi – làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông
Tuyến du lịch vườn cây ăn trái Trung An – khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
Tuyến du lịch tổng hợp thăm di tích lịch sử văn hóa, làng nghề, các khu du lịch sinh
thái.
Tuyến du lịch đường sông:
Bạch Đằng – Địa đạo Củ Chi: Khởi hành tại Bến Bạch Đằng, tham quan Bán đảo
Thanh Đa Bình Quới, Cầu Bình Lợi, Chợ lò gốm Lái Thiêu, Thị xã Bình Dương, ngã ba
Bến Cát, Bến Đình
3.2.2. Định hướng phát triển các thị trường khách du lịch
Thị trường là nhân tố quan trọng của sự phát triển, đẩy nhanh tốc độ phát triển cần có
những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường và không ngừng mở rộng, phát triển thị
trường. Định hướng thị trường là việc xác định các thị trường mục tiêu trong tương lai dựa
trên các tiêu chí: xu hướng dự báo dòng khách du lịch ; tiềm năng du lịch của lãnh thổ ( tự
nhiên và nhân văn); hệ thống các khu vui chơi giải trí, các điểm du lịch tiêu biểu, các sản
phẩm du lịch đặc trưng, đặc điểm tâm lý xã hội, nhu cầu của từng du khách, kết quả điều tra
về khách du lịch, các sự kiện lớn, các hội nghị, ngày hội thể thao,…các chương trình xúc
tiến du lịch.
Với đặc thù về tài nguyên du lịch của huyện Củ Chi với vị trí địa lý nằm ở trung tâm
du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường mục tiêu của Củ Chi bao gồm: thị trường khách
quốc tế và thị trường khách nội địa. Đây có thể là thị trường truyền thống cũng có thể là thị
trường mới.
3.2.2.1. Thị trường du khách quốc tế
Củ Chi thuộc thành phố Hồ Chí Minh nên thị trường khách du lịch của huyện cũng
được xác định trên cơ sở khách du lịch đến với thành phố Hồ Chí Minh
Qua thực tế hoạt động và dự báo, thị trường mục tiêu và tiềm năng cho du lịch thành
105
phố giai đoạn 2011 – 2015 theo các nhóm thị trường như sau:
+ Nhóm thị trường trọng điểm:
Bắc Mỹ: Mỹ, Canada
Châu Âu: Anh, Pháp, Đức, Nga
Đông Bắc Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan
Châu Úc: Úc
Asean: Singapore, Malaysia, Thái Lan
+ Nhóm thị trường mới và tiềm năng:
Châu Âu:
Bắc Âu: Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch
Nam Âu: Tây Ban Nha, Ý
Đông Âu: các nước thành viên EU
Nam Á: Ấn Độ, Bangladesh
Asean: Campuchia, Philippines, Brunei, Indonesia, Myanmar
Trung Đông: Ả Rập Xê Út, Qatar, Thổ Nhĩ Kỷ, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống
nhất
Châu Phi: Nam Phi
3.2.2.2. Thị trường du khách nội địa
Khách du lịch nội địa rất đa dạng, gồm nhiều tầng lớp xã hội, nhiều nghề nghiệp khác
nhau. Họ có thể đi theo gia đình, theo nhóm, hoặc theo các công ty du lịch. Mục đích chính
của khách du lịch nội địa đến với Củ Chi là để tham quan di tích lịch sử, nghỉ ngơi vào các
ngày lễ hoặc các ngày nghỉ cuối tuần, du lịch công vụ, …
+ Khách du lịch tham quan di tích lịch sử: Đối tượng khách tham quan di tích lịch sử
chiếm một tỷ lệ đáng kể. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau trên khắp mọi miền đất nước với
đủ các thành phần xã hội và lứa tuổi. Trong đó chiếm đáng kể là sinh viên, học sinh. Mục
đích chính là tham quan di tích lịch sử kết hợp cắm trại, dã ngoại.
+ Khách du lịch cuối tuần kết hợp vui chơi giải trí: Hiện nay loại hình này đang phát
triển nhanh, nhất là ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà áp lực của
công việc, áp lực của cuộc sống rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến đời sống của người dân. Do
đó, vào những dịp cuối tuần, các tầng lớp lao động cần có nhu cầu tái phục hồi sức khỏe,
sức lao động. Đây là điều kiện thích hợp cho các khu du lịch vui chơi giải trí như Công viên
nước Củ Chi, vườn cây ăn trái Trung An đón tiếp đối tượng du khách này.
106
+ Khách du lịch sinh thái: Loại hình du lịch sinh thái ở huyện Củ Chi trong những năm
gần đây cũng khá phát triển. Các đối tượng chính của loại hình du lịch này rất đa dạng, đa
số là các đối tượng thích mạo hiểm, khám phá, tham gia các hoạt động hoạt động trải
nghiệm trong cuộc sống thường ngày ở nông thôn. Các hoạt động du lịch sinh thái cũng
thường diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng bởi tính mùa vụ trong du lịch. Các điểm du
lịch sinh thái được UBND thành phố quy hoạch phát triển ở huyện Củ Chi gồm có các xã
An Nhơn Tây, xã An Phú, xã Bình Mỹ.
+Khách du lịch thương mại, công vụ: Đối tượng chính của loại hình du lịch này
thường là các cán bộ, công nhân viên trong cơ quan Nhà nước hoặc các doanh nghiệp, cả
các quan chức cấp cao các nước,…thường kết hợp giữa công tác và du lịch. Khả năng chi
tiêu của đối tượng này tương đối cao. Họ thường sử dụng những dịch vụ cao cấp. Loại hình
du lịch này thường diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và thường
tập trung chủ yếu ở Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi.
3.2.3. Định hướng phát triển các sản phẩm du lịch
Du lịch là ngành kinh tế mang tính định hướng tài nguyên rõ rệt, phát triển du lịch cần
dựa vào đặc điểm nguồn tài nguyên du lịch để xác định sản phẩm du lịch đặc trưng, từ đó
xác định thị trường tiêu thụ. Để khai thác được lâu dài cần có sự củng cố và xây dựng các
khu, tuyến, điểm du lịch, đầu tư tôn tạo các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa bảo
vệ tài nguyên môi trường.
Phát triển sản phẩm du lịch là định hướng quan trọng làm tăng khả năng khai thác tài
nguyên du lịch và tạo nên sản phẩm du lịch hấp dẫn. Với tiềm năng và các nguồn tài nguyên
du lịch ở Củ Chi có thể xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch sau:
3.2.3.1. Du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa hiện đang là xu hướng chung của các nước đang phát triển vì đem lại
giá trị to lớn cho cộng đồng và xã hội. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào các sản phẩm văn
hóa, những giá trị truyền thống của dân tộc, các phong tục, tín ngưỡng để tạo sức hút với
khách du lịch bản địa và quốc tế.
Củ Chi có nhiều di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng. Tài nguyên du lịch văn hóa
chiếm phần lớn trong nguồn tài nguyên du lịch ở Củ Chi. Tuy nhiên để tăng tính hấp dẫn ta
cần lựa chọn những tài nguyên tiêu biểu, có giá trị văn hóa lịch sử để đầu tư xây dựng và
phát triển tạo thành điểm đến du lịch hoàn chỉnh như:
+ Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi nơi được xem là công trình kiến trúc độc đáo
107
trong lòng đất, nổi tiếng qua hai thời kỳ chống Mỹ, chống Pháp của quân và dân Củ Chi.
Với hai khu vực Đền Bến Đình và Đền Bến Dược.
+ Đình Cây Sộp ( còn gọi là đình Vĩnh An Tây). Đình thờ Thần Thành Hoàng Bốn
Cảnh ( Vị Thần bảo hộ của làng). Đình được vua Tự Đức ban tặng Sắc phong, nơi được
xem là một thiết chế văn hóa cơ sở.
+ Đình Xóm Huế , là một di tích kiến trúc nghệ thuật
+ Chùa Linh Sơn được công nhận là một công trình kiến trúc nghệ thuật. Cũng là nơi
đùm bọc, che chở cho các cán bộ cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ.
3.2.3.2. Du lịch sinh thái
Phát triển du lịch sinh thái là thực hiện quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước đối với sự nghiệp phát triển du lịch nhằm tạo ra hình ảnh mới, đặc sắc của du lịch Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới.
Củ Chi với tiềm năng du lịch sinh thái phong phú và đa dạng, được UBND thành phố
chú trong phát triển. Tuy nhiên, khi khai thác các sản phẩm du lịch sinh thái ở các khu, các
điểm cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
+ Có hoạt động giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường, tạo ý thức cho mọi
người nỗ lực tham gia vào việc bảo tồn các giá trị tài nguyên.
+ Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái
+ Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng
+ Tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
Ngoài ra du lịch sinh thái còn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người
dân địa phương như đảm nhận vai trò hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ ăn, nghỉ; hàng lưu niệm;
nhu cầu dịch vụ cho khách,…
Cũng như các loại hình du lịch khác, tại các điểm du lịch cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đảm bảo tiêu chuẩn của khu, điểm du lịch.
Hiện tại huyện Củ Chi đã có những điểm du lịch sinh thái đang hoạt động như:
+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam
+ Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số
+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
Và mới đây thì UBND thành phố phê duyệt đồ án quy hoạch 3 phân khu nông nghiệp
kết hợp du lịch sinh thái và dân cư nhà vườn ( khu 3,4 và khu 10 ) tại huyện Củ Chi
+ Phân khu 3: thuộc xã An Phú và xã An Nhơn Tây với tổng diện tích 418,93 ha.
108
Trong đó khu chức năng thuộc khu ở nông thôn có diện tích 145,37 ha, nhóm nhà ở nông
thôn chiếm 112,81 ha, khu chức năng dịch vụ công cộng cấp khu ở 0,07 ha và 32,49 ha cho
đường giao thông cấp phân khu vực và đường giao thông nông thôn.
+ Phân khu 4 thuộc xã An Nhơn Tây, giáp sông Sài Gòn, tỉnh lộ 15. Khu vực quy
hoạch có tổng diện tích 208,6 ha. Khu chức năng thuộc khu ở nông thôn có diện tích 60,77
ha. Trong đó, nhóm nhà ở chiếm 21,33ha, khu chức năng dịch vụ công cộng 9,56ha và
24,65ha là mạng lưới đường giao thông cấp phân khu vực và đường giao thông nông thôn.
+ Phân khu 10 có địa giới giáp tỉnh lộ 9, tỉnh lộ 15, rạch Tra thuộc xã Bình Mỹ. Khu
vực quy hoạch có tổng diện tích 544,88 ha. Khu vực chức năng thuộc khu ở nông thôn có
diện tích 59,52 ha. Trong đó, các khu chức năng xây dựng nhà ở chiếm 50,12ha, khu chức
năng dịch vụ công cộng cấp khu ở chiếm 1,6ha, khu chức năng cây xanh công cộng xây
dựng mới chiếm 1,11ha và 6,69ha cho mạng lưới đường giao thông cấp phân khu vực và
đường giao thông nông thôn.
Ngoài ra theo quy hoạch của huyện còn có thêm khu du lịch sinh thái vườn khoảng
100 ha thuộc xã Hòa Phú.
Bên cạnh đó huyện cần hình thành mạng lưới các nhà vườn trồng cây ăn trái, xây dựng
nhà có kiến trúc theo kiểu Nam Bộ, xây dựng cơ sở tiện nghi cho du khách,kết hợp với các
tuyến giao thông đường thủy và đường bộ để làm phong phú thêm loại hình tham quan.
Hình thành thêm tuyến du lịch ven sông xuất phát từ khu du lịch sinh thái Bình Mỹ
đến địa đạo, dọc ven sông là tham quan các làng nghề thủ công. Tuy nhiên khi phát triển
loại hình này cần lưu ý đến môi trường khu vực ven sông và cảnh quan.
Như vậy, nhìn chung huyện Củ Chi có đầy đủ những điểm thuận lợi để phát triển du
lịch sinh thái. Ngoài cảnh quan thiên nhiên thuận lợi, thì quy hoạch của thành phố cũng là
điều kiện quan trọng để du lịch sinh thái huyện phát triển.
Bên cạnh những thuận lợi thì du lịch sinh thái huyện cũng tồn tại những khó khăn như
tour du lịch đường sông còn phải phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan: sự thay đổi
thất thường của thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng không ít đến các hoạt động du lịch. Cơ sở
hạ tầng, các bến tàu, cầu thuyền, dịch vụ du lịch, tàu vận chuyển, cơ sở lưu trú, dịch vụ tiếp
đón, cứu hộ,…ven các con con sông chưa được xây dựng và đáp ứng nhu cầu của du khách,
hiện trạng môi trường nước sông Sài Gòn, các con kênh đang có nguy cơ ô nhiễm.
3.2.3.3. Du lịch làng nghề
Du lịch làng nghề là loại hình du lịch có khả năng thu hút du khách đặc biệt là khách
109
du lịch quốc tế bên cạnh đó du lịch làng nghề còn tăng khả năng chi tiêu và mua sắm của du
khách. Đặc điểm nổi bật của huyện Củ Chi là ngành nghề truyền thống luôn gắn với nông
nghiệp, nông thôn. Vì thế, phát triển du lịch làng nghề truyền thống hiện nay là bước đột
phá để phát triển du lịch của huyện nhằm cải thiện đời sống của nhân dân ở nông thôn.
Hiện tại một số làng nghề ở huyện Củ Chi đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản của du
khách là tham quan, trải nghiệm và mua sắm. Tuy nhiên, để khai thác làng nghề truyền
thống thành sản phẩm du lịch thì cần phải lựa chọn những làng nghề còn đang hoạt động
hoặc giữ nghề và có khả năng khôi phục được, phải có cảnh quan môi trường tốt, phải có
điểm trình diển cho du khách tham quan, cũng như hướng dẫn du khách tham gia trực tiếp
vào hoạt động sản xuất. Từ đó đầu tư xây dựng thành điểm đến. Các làng nghề ở huyện Củ
Chi hiện nay:
+ Làng nghề bánh tráng (Phú Hòa Đông)
+ Làng nghề mành trúc (Tân Thông Hội)
+ Làng nghề đan lát (Thái Mỹ)
+ Làng nghề sinh vật cảnh (Phú Hòa Đông – Trung An)
3.2.3.4. Phát triển các loại hình du lịch dựa vào các sự kiện đặc biệt:
+ Tổ chức các giải thi đấu thể thao tại đền Bến Dược
+ Phát triển các môn thể thao như đua thuyền trên sông Sài Gòn, bắn súng, đua thuyền
Kaya,…nhằm thu hút khách du lịch tham gia.
+ Tổ chức các cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ,..
+ Tổ chức cho lễ kết nạp Đoàn, Đảng cho các cán bộ học sinh, sinh viên tại đền Bến
Dược,…
Dù là sản phẩm du lịch nào thì đòi hỏi phải được xây dựng một cách hoàn chỉnh trước
khi kết nối các tour du lịch. Làm sao để du khách được đón tiếp, được giới thiệu, được
tham quan, được giao lưu và mua bán sản phẩm, nghỉ ngơi, thưởng thức ẩm thực một cách
tốt nhất. Bên cạnh đó cũng cần đảm bảo các điểm đến được xây dựng một cách khoa học,
quản lý tốt, đảm bảo quy hoạch phát triển chung, kết hợp giữa cải tạo và xây mới, giữa
truyền thống và hiện đại. Có như vậy mới hy vọng du lịch sẽ phát triển một cách bền vững
lâu dài.
3.3. Các giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững
3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch bền vững về kinh tế
110
3.3.1.1. Quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch du lịch
Công tác quy hoạch là một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo cho việc
phát triển du lịch bền vững. Không thể đầu tư xây dựng bất cứ khu du lịch nào nếu thiếu
quy hoạch. Nhà nước cần quản lý chặc chẽ các dự án đầu tư phát triển du lịch và chỉ cho
phép đầu tư khi đã có quy hoạch được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong quá trình quy
hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, lập các dự án khả thi đầu tư phát triển du lịch cần có sự
hợp tác chặc chẽ giữa các chuyên gia quy hoạch với các chuyên gia ở những lĩnh vực liên
quan, chính quyền và cộng đồng địa phương.
Đối với du lịch huyện Củ Chi, mặc dù đã có những quy hoạch cụ thể của Thành phố
giai đoạn 2011 – 2015 nhưng việc triển khai quy hoạch còn chậm. Mộ số khu du lịch chưa
có quy hoạch chi tiết. Điều này làm hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc
phát triển hoạt động du lịch huyện Củ Chi. Thêm vào đó do không có quy hoạch nên một số
khu vực như Bình Mỹ, Hòa Phú đã xảy ra tình trạng chồng lấn, xen kẽ giữa du lịch và các
ngành công nghiệp, khai thác,…dẫn đến mất dần tài nguyên du lịch. Các thành phần kinh tế
nhỏ, lẻ đầu tư tự phát phá vỡ cảnh quan môi trường, mất dần bản sắc văn hóa.
Để có thể thực hiện tốt công tác quản lý và quy hoạch cần Điều chỉnh quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Củ Chi đến năm 2020 cả nội dung và chiến lược cho phù hợp, cụ thể
như sau:
+ Đánh giá một cách đầy đủ tiềm năng phát triển du lịch của huyện, xác định lại hệ
thống chỉ tiêu phát triển du lịch phù hợp để có những định hướng đầu phát triển sản phẩm
du lịch sát với yêu cầu thực tế.
+ Sớm quy hoạch chi tiết khu du lịch trọng điểm Địa đạo Củ Chi, khu du lịch sinh thái
văn hóa dân tộc thiểu số, khu du lịch một thoáng Việt Nam (giai đoạn 2011 – 2015)
+ Quy hoạch sản phẩm du lịch phải tạo điểm nhấn, chú trọng xây dựng sản phẩm du
lịch đặc thù, lấy di tích lịch sử văn hóa, lễ hội, làng nghề truyền thống làm trọng tâm; tìm ra
những nét riêng có ở mỗi lĩnh vực thiên nhiên, di tích lễ hội chủ động tạo sự khác biệt.
Trong quy hoạch phát triển sản phẩm cần quan tâm tới yếu tố bảo vệ môi trường và sự tham
gia của cộng đồng.
+ Quy hoạch phát triển du lịch phải tính tới mối liên hệ vùng với các tỉnh thành lân
cận: Bình Dương, Tây Ninh và trung tâm thành phố Hồ Chí Minh.
+ Quy hoạch hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, các điểm dừng chân, các nhà hàng, các
111
khu vui chơi giải trí về số lượng đảm bảo về sức chứa theo tính toán dự báo số du khách đến
Củ Chi vào năm 2020; về chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch
quốc tế và nội địa.
+ Khi các quy hoạch đã được phê duyệt thì đi vào thiết kế, xây dựng một khu du lịch
cụ thể phải theo đúng quy hoạch và coi trọng yếu tố văn hóa, bản sắc riêng của mỗi cộng
đồng địa phương. Việc trùng tu, nâng cấp, bảo tồn và phát huy di tích, di sản cần có dự tính
hướng đến là thu hút khách du lịch.
3.3.1.2. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù
Chất lượng sản phẩm du lịch đang là điểm yếu và là vấn đề quan trọng mà du lịch Củ
Chi cần quan tâm. Nguyên nhân khách quan do tài nguyên du lịch Củ Chi có tiềm năng
ngoài khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi được xem là quần thể di tích danh thắng có giá trị
tầm quốc gia, còn các tài nguyên khác đều có những nét tương đồng với nhau đòi hỏi khai
thác cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, nhằm tạo ra sự khác biệt để tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm. Về mặt chủ quan, Củ Chi chưa thực sự quan tâm đến việc phát
triển các sản phẩm du lịch dựa trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên. Do đó cần có những
giải pháp cụ thể nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch mang nét đặc thù riêng của huyện Củ
Chi để tăng tính hấp dẫn và năng cao năng lực cạnh tranh là hết sức cần thiết. Để du lịch
huyện ngày càng phát triển cần tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch sau:
+ Du lịch văn hóa lịch sử với trọng điểm là quần thể di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi.
+ Du lịch tìm hiểu văn hóa đời sống người dân Việt Nam ( khu du lịch Một thoáng
Việt Nam, Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số)
+ Du lịch sinh thái trọng điểm ( Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ, vườn cây ăn trái Trung
An)
+ Du lịch vui chơi giải trí Công viên nước Củ Chi
+ Du lịch làng nghề mành trúc Tân Thông Hội, đan lát Thái Mỹ, làm bánh tráng Phú
Hòa Đông.
+ Quy hoạch và xây dựng khu phố ẩm thực, làng ẩm thực tại một số tuyến đường quan
trọng hoặc tại các làng văn hóa, làng nghề truyền thống nơi thường xuyên có khách du lịch
đến thăm. Sản phẩm được dùng trong “ Phố ẩm thực” có thể sử dụng các nguyên liệu, thực
phẩm, các món ăn mang bản sắc của địa phương như: bánh tráng, thịt bò tơ, gà thả vườn, dế,
bò cạp,… là các sản phẩm được nuôi trồng tại địa phương.
Bên các sản phẩm mang tính đặc thù, du lịch huyện Củ Chi cũng cần đầu tư các sản
112
phẩm du lịch mang tính hiện đại. Đó chính là cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật để phát triển
các loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo,…
Đa dạng hóa sản phẩm du lịch sẽ giúp cho du lịch của huyện tăng thêm sức cạnh tranh
, tạo sự hấp dẫn cho du khách. Đồng thời còn tạo được súc hút lớn với các thành phần kinh
tế và cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động du lịch, giải quyết việc làm, góp phần
phát triển du lịch bền vững cả về kinh tế - xã hội.
3.3.1.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tăng
cường phối hợp liên ngành trong lĩnh vực du lịch
Để đảm bảo du lịch huyện Củ Chi phát triển bền vững, trong thời gian tới lãnh đạo và
các ban ngành có liên quan cần nghiên cứu xây dựng một số chính sách cơ bản như sau:
+ Chính sách đầu tư: Thành phố cần có chính sách đầu tư hỗ trợ hợp lý, xây dựng kết
cấu hạ tầng dẫn đến các khu du lịch trọng điểm. Có chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư
phát triển du lịch nhất là các dự án đầu tư xây dựng các khu du lịch, khu du lịch sinh thái
tổng hợp, các khu vui chơi giải trí.
+ Chính sách tài chính:Cần có quỹ phát triển du lịch, ưu tiên hoặc miễn giảm không
thu thuế trong khoảng thời gian nhất định với các hình thức đầu tư cho phát triển sản phẩm
du lịch mới, sản phẩm du lịch đặc thù, bảo vệ môi trường du lịch. Kiểm tra, điều chỉnh các
loại phí, lệ phí các hình thức vé liên quan đến du lịch trong phạm vi của huyện để khuyến
khích đầu tư và phát triển du lịch. Đồng thời từ đó tạo ra sự thống nhất giá cả trong kinh
doanh du lịch, tạo sự yên tâm cho du khách.
+ Chính sách xã hội hóa hoạt động du lịch: nhằm động viên mọi nguồn lực của xã hội
để xây dựng và phát triển du lịch và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước các cấp chính quyền trong quản lý hoạt động du lịch. Đặc biệt là cộng đồng người dân
địa phương tích cực tham gia vào hoạt động du lịch phát huy tối đa giá trị truyền thống,
thuần phong mỹ tục, góp phần giữ gìn trật tự an ninh, vệ sinh môi trường tự nhiên tại các
điểm du lịch, làm thế nào để cả du khách và cộng đồng dân cư địa phương đều được hưởng
thụ thành quả do du lịch mang lại.
+ Chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế: Đây là một chính sách quan trọng thu hút
khách đến với du lịch Củ Chi. Cần có những chính sách quảng bá, hợp tác song phương
trong lĩnh vực du lịch với các tỉnh, thành phố ở nước ngoài. Tạo điều kiện học tập kinh
nghiệm, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho hoạt động kinh tế của huyện Củ Chi, trong
bối cảnh chung của cả nước là “ mở cửa – hội nhập và hợp tác quốc tế”.
113
Tóm lại du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành và xã hội hóa cao.
Đòi hỏi các cấp, ban ngành cần có những chủ trương và chính sách phát triển phù hợp, bắt
kịp với xu thế đổi mới của thị trường. nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đồng thời
phải giải quyết được các vấn đề liên quan đến du lịch, nhất là trong đầu tư phát triển sản
phẩm du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch cũng như bảo vệ tôn tạo môi trường tự nhiên và
xã hội. Để đảm bảo du lịch không chỉ phát triển mà còn phát triển một cách bền vững.
3.3.1.4. Tăng cường đầu tư phát triển du lịch
Không riêng gì du lịch, mà đối với bất kỳ ngành kinh tế nào muốn có được hiệu quả
cao thì đầu tư phải thỏa đáng. Mức đầu tư càng cao, càng ổn định, thì tính bền vững càng
được đảm bảo. Củ Chi là huyện có nguồn thu rất ít từ du lịch. Do đó, khả năng tích lũy dành
cho du lịch cũng hạn chế. Tuy nhiên trong thời gian qua huyện cũng đã có những chính sách
phát triển ít nhiều tác động đến sự phát triển của du lịch như:
+ Chính sách hợp lý cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình hệ thống cung cấp
nước sạch, xử lý nước thải, hệ thống bưu chính viễn thông, điện chiếu sáng, bãi đỗ xe, các
tuyến giao thông công cộng. Đặc biệt là hệ thống đường giao thông của huyện được đầu tư
đáng kể.
+ Chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Đơn giản
hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình đầu tư.
3.3.1.5. Đẩy mạnh quảng bá xúc tiến du lịch và mở rộng thị trường
Tăng cường quảng bá sản phẩm du lịch của huyện bằng các chính sách quảng cáo,
khuyến mãi. Giới thiệu các điểm du lịch trọng điểm như Địa đạo Củ Chi bằng các tập in với
các ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Nhật, Hoa để giới thiệu cho du khách
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, internet đưa thông tin hình ảnh các
khu du lịch lên mạng, tham gia quảng cáo trên một số báo, tạp chí. Gởi thông tin các điểm
du lịch cho các công ty tổ chức du lịch.
Lắp đặt một số bảng panô giới thiệu du lịch huyện Củ Chi tại các trục giao lộ lớn đi
qua huyện.
Tăng cường quảng cáo vào các dịp Lễ, Tết,…kèm theo các chính sách khuyến mãi.
Chẳng hạn giảm giá 30% cho khách nội địa đi theo đoàn từ 50 người trở lên hay hay tặng
quà lưu niệm cho du khách,…
3.3.1.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Con người là một trong nhân tố quan trọng cấu thành một sản phẩm du lịch hoàn hảo.
114
Vì vậy, công tác sắp xếp nhân sự để đảm bảo công tác phục vụ khách hàng được chu đáo
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển du lịch của huyện. Cụ thể cần
phải có một kế hoạch để bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng lao động huyện Củ Chi.
Việc đầu tiên cần thống kê số lượng nhân viên và tiến hành phân loại trình độ nghiệp
vụ của toàn bộ các nhân viên đang tham gia công tác về du lịch trên địa bàn huyện.
Có những chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài, các lao động trình độ tay nghề kỹ
thuật cao từ bên ngoài địa phương những nơi có ngành du lịch phát triển.
Kết hợp với các trường đào tạo du lịch, các trung tâm nghề để tiến hành đạo tạo nâng
cao tay nghề của các nhân viên hiện đang làm việc tại các khu du lịch . Đồng thời tích cực
học tập kinh nghiệm, năng lực hoạt động du lịch với khu vực trung tâm của Thành phố Hồ
Chí Minh. Tích cực trao đổi, rút kinh nghiệm sau những đợt phục vụ du khách, đặc biệt là
khách quốc tế đến từ những thị trường mới. Khuyến khích người lao động tự đào tạo và bồi
dưỡng kiến thức cũng như nghiệp vụ chuyên môn, phù hợp với nhu cầu hiện tại.
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, các doanh
nghiệp. Đây là một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn lao động một cách
hiệu quả. Đội ngũ quản lý có chuyên môn nghiệp vụ cao thì đội ngũ nhân viên mới được chỉ
đạo tốt. Ngoài ra cần có những chính sách ưu đãi đối với các nhân viên có trình độ, năng
lực.
Bên cạnh đó, người dân địa phương cũng là một nguồn lao động lớn và đầy tiềm năng
nếu được đào tạo và khai thác có hiệu quả. Đối tượng này sẽ đem lại lợi ích lớn trong việc
chia sẻ lợi ích du lịch cho cộng đồng dân cư địa phương.
3.3.2. Nhóm phát triển du lịch bền vững về tài nguyên và môi trường
Bảo tồn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch: để đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, xã
hội môi trường, thẩm mỹ nhưng vẫn duy trì được bản sắc cũng như văn hóa dân tộc, đảm
bảo được sự đa dạng sinh học, các quá trình sinh thái cơ bản với các giải pháp như:
+ Thực hiện chiến lược bảo tồn, tôn tạo các tài nguyên di tích lịch sử, văn hóa.
+ Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên du lịch, quản lý môi trường, xử lý chất
thải một cách có hiệu quả.
+ Khuyến khích, hỗ trợ các loại hình du lịch tự nhiên thân thiện với môi trường như:
du lịch sinh thái; du lịch văn hóa – lịch sử; du lịch kết hợp bảo tồn, nghiên cứu khoa học; du
lịch làng quê.
+ Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ
115
môi trường, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, những dự án sử dụng các công nghệ
tiên tiến trong xử lý chất thải, sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu,…
+ Tổ chức hoạt động thu gom chất thải rắn từ hoạt động du lịch. Thực hiện đảm bảo vệ
sinh môi trường ở các khu, điểm tham quan du lịch.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành Quy chế và quy định bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch trong huyện.
+ Lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào các hoạt động của du lịch. Các điểm du
lịch cần tăng cường hơn nữa các biện pháp bảo vệ an toàn và sức khỏe cho du khách trong
các dịch vụ vui chơi.
Thành lập mô hình các đội nhóm để hướng dẫn du khách có ý thức hơn trong việc bảo
tồn và giữ gìn tài nguyên môi trường, đặc biệt là tại các khu di tích vào những mùa cao
điểm.
3.3.3. Nhóm phát triển du lịch bền vững về xã hội
- Xã hội hóa phát triển du lịch
Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, phát triển du lịch là một
chiến lược quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, không phải ở đâu vai trò của du lịch cũng được đánh giá đầy đủ đúng đắn và tạo điều
kiện tốt nhất để phát triển. Do đó trong thời gian tới cần phải xã hội hóa du lịch một cách
toàn diện và đúng đắn, tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức về ngành du lịch trong các
cấp, các ngành. Động viên mọi thành phần kinh tế và cộng đồng đồng dân cư tham gia phát
triển du lịch.
- Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về phát triển du lịch bền vững
Cần nâng cao nhận thức của cư dân và du khách trong việc giữ gìn và bảo tồn tài
nguyên – môi trường du lịch. Khuyến khích hỗ trợ vật chất đối với việc nâng cao nhận thức
về phát triển du lịch bền vững, khuyến khích du khách đóng góp kinh phí trong quá trình
tham quan, nghiên cứu các giá trị văn hóa nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ, tôn tạo và
phát triển các giá trị văn hóa. Kêu gọi sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, doanh nhân hoạt động
kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện đầu tư cho việc nâng cao nhận thức của cộng đồng
địa phương về phát triển du lịch bền vững.
- Đẩy mạnh giáo dục, hướng dẫn du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa
riêng
Tại các điểm tham quan du lịch, các khu du lịch, các điểm dừng chân, các làng nghề.
Cần phải tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cụ thể cho người dân ở đây cách đón tiếp, phục
116
vụ sao cho chuyến du lịch của du khách hoàn hảo, nhận thức cao về phát triển du lịch bền
vững sẽ đảm bảo sức hấp dẫn riêng biệt và bền vững của từng làng quê. Cần bảo tồn và phát
triển sự độc đáo riêng của từng làng quê về di tích lịch sử văn hóa, làng nghề truyền thống,
các di tích gắn với các vị anh hùng dân tộc,..Khuyến khích các làng nghề sản xuất các vật
phẩm lưu niệm, mỹ nghệ thể hiện bản sắc riêng của địa phương. Đồng thời nâng cao mức
sống cho người dân để họ có khả năng duy trì các ngành nghề truyền thống.
117
KẾT LUẬN
Trên cơ sở lý luận, đánh giá tổng hợp nguồn tài nguyên và thực trạng phát triển du lịch
huyện Củ Chi , đế tài đưa ra một số kết luận sau:
1. “ Vùng đất sáng ở miền Nam Tổ quốc, nửa tiếp Trường Sơn, nửa nối đồng bằng.
Chống xâm lăng từ Trương Định, Trương Quyền, máu dũng sĩ chảy tràn sông suối” – Củ
Chi được biết đến là một vùng đất anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống
Pháp. Với khu di tích Địa đạo Củ Chi là một di tích lịch sử đầy tự hào của quân và dân Củ
Chi. Nơi đây được xem là tài nguyên du lịch nhân văn hiếm có ở Việt Nam. Bên cạnh đó,
với đặc điểm thiên nhiên mang dáng dấp của vùng đồng bằng Nam Bộ, huyện Củ Chi có
điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Đây là những tiềm năng lớn để
Củ Chi phát triển du lịch.
2. Hoạt động du lịch huyện Củ Chi trong những năm qua chưa phát triển tương xứng
với tiềm năng. Mặc dù trong những năm gần đây, lượng khách du lịch đến với huyện Củ
Chi ngày một tăng. Nhưng so với lượng du khách đến Thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ du
khách đến với Củ Chi còn rất thấp. Doanh thu từ du lịch cũng chưa khẳng định được sự
đóng góp của ngành đối với nền kinh tế của huyện.
3. Thực trạng trên có thể được lý giải bởi các nguyên nhân sau: Huyện Củ Chi nằm ở
vùng ven của Thành phố Hồ Chí Minh, nơi được xem là trung tâm du lịch của cả nước với
cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hoàn thiện nhất cả nước. Du khách hầu như lưu trú chủ yếu
ở trung tâm thành phố vì khoảng cách đi lại gần, sự phối hợp các tuyến điểm du lịch của
huyện chưa được nhịp nhàng. Các sản phẩm du lịch mặc dù khá đa dạng nhưng chưa đặc
sắc, chưa tạo được sản phẩm du lịch hoàn chỉnh và chất lượng cao. Công tác tuyên truyền
quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế.
4. Trước những thực tế trên, đòi hỏi ngành du lịch huyện Củ Chi cần tập trung đầu tư
thu hút vốn các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Có kế hoạch xây dựng các sản
phẩm du lịch đặc sắc có tính cạnh tranh cao, trên cơ sở lấy du lịch di tích lịch sử văn hóa và
sinh thái làm cơ sở phát triển. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự
phát triển, đặc biệt là các cư dân địa phương. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng kỹ
thuật phuc vụ du lịch.
Mục tiêu định hướng phát triển du lịch bền vững huyện Củ Chi đã được đề ra là nâng
cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Có như vậy thì du lịch Củ Chi mới hy
118
vọng phát triển và trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế huyện Củ
Chi.
119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. GS.TSKH Lê Huy Bá (2006), Du lịch sinh thái, NXB Khoa học kỹ thuật.
2. Vương Lôi Đình, Đổng Ngọc Minh (2000), Kinh tế du lịch và Du lịch học, NXB trẻ
TP Hồ chí Minh.
3. Nguyễn Văn Đính (2009), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Nguyễn Hồng Giáp (2000), Kinh tế du lịch, NXB trẻ.
5. Nguyễn Văn Huy (2007), Sài Gòn 24G, NXB Thế giới.
6. Ngô Tất Hổ (2000), Phát triển và quản lý du lịch địa phương, NXB Khoa học Bắc
Kinh.
7. Nguyễn Văn Lưu (1998), Thị trường du lịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát 8.
triển ở Việt Nam, NXB Thống Tấn.
Phạm Trung Lương (2000), Tài nguyên và môi trường du lịch, NXB Giáo dục Hà Nội. 9.
10. Luật du lịch Việt Nam (1/2006).
11. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình tổng quan du lịch, NXB Lao động – xã hội.
12. Nhiều tác giả (2007), Sài Gòn xưa và nay, NXB Trẻ.
13. Đặng Văn Phan (2006), Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam thời kì hội nhập, NXB Giáo
dục.
14. Phạm Côn Sơn (2008), Đất Việt mến yêu, NXB Phương Đông.
15. Hồ Sĩ Thành, Địa đạo Củ Chi, NXB Thanh Hóa.
16. Trần Đức Thanh (2006), Nhập môn Khoa học Du lịch, NXBĐHQG Hà Nội
17. Lê Bá Thảo (2001), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục.
18. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Tổ chức lãnh thổ du lịch, NXB Giáo dục.
19. Trần Mạnh Thương, Việt Nam văn hóa và du lịch, NXB Thông Tấn.
20. Nguyễn Minh Tuệ (2010), Địa lí du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục.
21. Nguyễn Minh Tuệ (2009), Địa lí các vùng kinh tế, NXB Giáo dục Hà Nội.
22. Nguyễn Minh Tuệ và nnk ( 1997), Địa lý du lịch, NXB TP HCM
23. Bùi Thị Hải Yến (2011), Tuyến điểm du lịch, NXB Giáo dục.
Tiếng Anh
24. Verite Keily Collins(2010),Dictionary For The Tourism, Routledge
120
25. Vijay Reddy, Keith Wilkes (2012),Tourism, Climate Change and Sustainability,
Routledge
26. Larry Dwyer, Eugenia Wicken (2012), Event Tourism and Cultural
Tourism,Routledge
27. Linda Kaplan Thaler. Robin Koval ( 2009), Việt Nam 63 tỉnh thành và các địa điểm du
lịch, NXB Lao động.
28. Susanne Beken Zohn Hay (2012), Climate Change and Tourism,Routledge
Các trang web
WWW.vietnamtourism.gov.vn
WWW.moitruongdulich.vn
WWW.webdulich.com
WWW.huyencuchi.com.vn
WWW.saigonmoi.com
WWW. Diadaocuchi.com.vn
WWW. Saigontourist.com
121
PHỤ LỤC
Người du hành ( Traveller)
Không tính vào thống kê du lịch
Được thống kê là khách đi du lịch
( visitor)
-
Khách tham quan
Du khách ( Tourist)
-
( Excursionist- Day visitor)
-
-
Khách quá cảnh
Khách có thời gian du lịch ít nhất là 24g
Khách có thời gian đi du lịch dưới 24g
- - -
Những người làm việc để nhận thù lao. Những người làm việc ở vùng biên giới. Nhân viên đại sứ quán, lãnh sự quán. Nhân viên lực lượng quân sự. Dân di cư Dân tị nạn Người nhập cư,……
Phụ lục 1: Sơ đồ mô tả các khái niệm về khách du lịch.
122
Phụ lục 2: Dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ
2015 2030
STT Các chỉ tiêu 1 Khách quốc tế ( lượt) 7.370.000 2020 9.690.000 2025 12.300.000 15.900.000
2,44 2,64 2,7 2,75 Ngày lưu trú trung bình ( ngày)
118,5 118 110 119
2 Mức chi tiêu bình quân (USD) Khách nội địa ( lượt) 20.000.000 24.480.000 31.600.000 38.600.000
1,7 1,8 1,85 1,9 Ngày lưu trú trung bình ( ngày)
30 50 56 58
3 3.000 7.212 9.460
Mức chi tiêu bình quân (USD) Tổng thu từ du lịch ( triệu USD) 5.220
4 5.224 6.720 6.800 7.150
5 175.000 243.500 283.500 378.000 Nhu cầu đầu tư ( triệu USD) Lao động trực tiếp ( người)
6 595.000 828.200 963.900 1.285.000
7 Tổng lao động ( người) Cơ sở lưu trú ( cơ sở) 4.950 6.400 7.830 9.450
110.100 162.400 203.500 243.000 Số lượng buồng lưu trú ( buồng)
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển Du lịch
123
Phụ lục 3: Dân số huyện Củ Chi phân theo đơn vị hành chính năm 2012
STT Địa bàn Số dân năm 2012
(Người) (%)
Thị trấn huyện lỵ 1 22.069 5,78
Xã Hòa Phú 2 13.190 3,46
Xã Trung An 3 17.680 4,64
Xã Tân An Hội 4 26.935 7,06
Xã Trung Lập Thượng 12.957 3,4 5
Xã Phước Hiệp 6 13.270 3,48
Xã Thái Mỹ 7 12.386 3,25
Xã Phước Vĩnh An 8 16.603 4,35
Xã Phú Mỹ Hưng 9 6.877 1,8
Xã Trung Lập Hạ 10 13.337 3,5
11 Xã Tân Thạnh Đông 36.799 9,65
12 Xã Phước Thạnh 17.546 4,6
Xã Bình Mỹ 13 20.918 5,49
Xã Tân Thạnh Tây 14 11.933 3,13
Xã Phú Hòa Đông 15 23.925 6,27
Xã Tân Thông Hội 16 34.972 9,17
Xã An Phú 17 9.973 2,62
18 Xã An Nhơn Tây 15.651 4,1
Xã Phạm Văn Cội 19 8.646 2,27
Xã Nhuận Đức 20 12.139 3,18
Xã Tân Phú Trung 21 33.536 8,79
Toàn huyện 381.342 100,00
Nguồn UBND huyện Củ Chi
124
Phụ lục 4: Kết quả chất lượng không khí ở huyện Củ Chi.
STT Vị trí điểm đo
Nồng độ các chất ô nhiễm ( mg/m3) Bụi UBND huyện Củ Chi 0,24 Của hàng bán ga Năm Tới ( Phước Hiệp) 0,30 0,35 Ấp Gò Nổi, xã An Nhơn Tây 0,31 Ngã tư Củ Chi, An Nhơn Tây 0,31 Cổng vào Địa Đạo Củ Chi 0,28 Ấp Bến Đình, xã Phạm Văn Cội 0,29 Ngã tư Tân Quy 0,32 CHVLXD Hồng Hà 0,31 Ấp 8, xã Bình Mỹ 0,31 Ấp giữa, xã Tân Phú Trung 0,32 Ngã ba Tỉnh lộ 8 và Tỉnh lộ 9 0,28 Ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội 0,40 Khu phố 2 – TT Củ Chi ( gần cầu vượt) 0,3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 TCVN 5937 - 1995 SO2 0,115 0,078 0,096 0,079 0,109 0,066 0,082 0,089 0,087 0,053 0,089 0,075 0,128 0,5 NO2 0,054 0,050 0,049 0,055 0,062 0,050 0,027 0,038 0,032 0,043 0,040 0,035 0,065 0,4 CO 3,5 1,4 1,7 1,9 0,6 0,5 0,6 1,5 1,6 1,5 1,8 1,5 1,9 40
Nguồn: Viện kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường, Tháng 11/2003
125
Phụ lục 5: Các dự án được quy hoạch phục vụ phát triển du lịch huyện Củ Chi
Vị trí
STT Tên dự án 1 Khu thảo cầm viên Sài Gòn ( Sài Gòn Safari) Quy mô 485,35 ha 1 phần xã Phú Mỹ Hưng, 1 phần xã An Nhơn Tây
100 ha Xã An Nhơn Tây 2 Khu công viên văn hóa lịch sử Sài Gòn – Gia Định
150 ha 50 ha Xã Tân Phú Trung Xã Hòa Phú 3 4 Khu công viên giải trí quốc tế Khu phim trường – Xưởng phim đài truyền hình thành phố
100 ha 20 ha Xã Tân Thạnh Đông Xã Bình Mỹ 5 6 Khu du lịch sinh thái vườn Khu nuôi trồng thủy sản kết hợp du lịch Gò Chùa
Xã Phước Vĩnh An 7
Khu công viên nước Củ Chi ( mở rộng) 28 ha Nguồn UBND huyện Củ Chi
126
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI
Địa đạo Củ Chi Đền Bến Dược, Địa đạo Củ Chi
Địa đạo Bến Đình Đường hầm chiến đấu
Khu tái hiện Vùng giải phóng Mô hình Chùa Một Cột
127
Mô hình Ngọ Môn Huế Mô hình Bến Nhà Rồng
Cảnh giã gạo- Khu du lịch Một thoáng Việt Nam Vườn cây ăn trái Trung An
Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông Đan lát xã Thái Mỹ
128
Vườn tre Đặc sản Bò tơ
Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ Mô hình cánh đồng thu nhỏ
Khu du lịch Văn hóa dân tộc thiểu số Khu du lịch Một thoáng Việt Nam
129