BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Huỳnh Thị Loan Phương

PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN

CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thị Loan Phương

PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN

CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

Chuyên ngành

: Địa lí học ( trừ ĐLTN)

Mã số

: 60 31 05 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS PHẠM XUÂN HẬU

Thành phố Hồ Chí Minh, 2014

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ

của các cá nhân và tổ chức.

Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Phạm Xuân Hậu, người đã

tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Người đã cho em

những kỹ năng và kiến thức quý báu về phương pháp nghiên cứu khoa học, sự nhiệt tình và

tâm huyết với công việc. Thầy là người luôn động viên để em có thể hoàn thành.

Em cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh đã tạo mọi điều kiện để giúp đỡ em hoàn thành khóa học này.

Xin bày tỏ lòng biết ơn đến các cơ quan ban ngành: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

TP Hồ Chí Minh, UBND Huyện Củ Chi, Ban quản lý Di tích Địa Đạo Củ Chi đã cung cấp

những tư liệu thiết yếu phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu.

Và cuối cùng, xin gởi lời biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn đồng

hành giúp đỡ em trong quá trình học tập.

Mặc dù có nhiều nổ lực, nhưng do hạn chế thời gian và nghiên cứu cùng với các điều

kiện khách quan chủ quan của bản thân nên đề tài sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất

mong nhận được sự cảm thông và chỉ bảo của Quý Thầy Cô và các bạn để luận văn được

hoàn thiện hơn.

Tp. Hồ Chí Minh, 15/3/2014

Học viên

Huỳnh Thị Loan Phương

1

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1

MỤC LỤC .................................................................................................................... 2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................. 5

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6

2. Mục đích và nhiệm vụ .................................................................................................... 7

3. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 8

4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 9

5. Đóng góp chủ yếu của đề tài ........................................................................................ 11

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG ................................................................................................................ 12

1.1. Một số khái niệm về du lịch, du lịch bền vững và những vấn đề liên quan ......... 12

1.1.1. Khái niệm du lịch .................................................................................................. 12

1.1.2. Khái niệm khách du lịch ( Du Khách) .................................................................. 15

1.1.3. Tài nguyên du lịch ................................................................................................. 18

1.1.4. Các loại tài nguyên du lịch .................................................................................... 20

1.1.5. Các loại hình du lịch .............................................................................................. 28

1.1.6. Phát triển bền vững............................................................................................... 30

1.1.7. Phát triển du lịch bền vững ................................................................................... 32

1.1.8. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững .......................................................... 32

1.1.9. Tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững .................................................. 34

1.2. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ............................................................... 38

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở một số nước ...................................... 38

1.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam ................................................................ 39

1.2.3. Phát triển du lịch bền vững ở vùng Đông Nam Bộ ............................................... 39

1.2.4. Phát triển du lịch bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh ........................................ 41

1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch ........................................................... 43

1.3.1. Dân cư và lao động ................................................................................................ 43

1.3.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế .................................. 43

1.3.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ..................................................................................... 44

1.3.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật ............................................................................... 44

1.3.5. Đô thị hóa .............................................................................................................. 44

2

1.3.6. Điều kiện sống ....................................................................................................... 44

1.3.7. Thời gian rỗi .......................................................................................................... 44

1.3.8. Các nhân tố chính trị ............................................................................................. 44

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI ....... 46

2.1. Khái quát về huyện Củ Chi ....................................................................................... 46

2.2. Tài nguyên và những điều kiện phát triển du lịch .................................................. 47

2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên ................................................................................... 47

2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn ................................................................................. 53

2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch ............................................................................... 62

2.3. Đánh giá chung về tài nguyên và các điều kiện phát triển du lịch ........................ 69

2.3.1. Thuận lợi ............................................................................................................... 69

2.3.2. Hạn chế .................................................................................................................. 70

2.4. Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi .......................................................... 72

2.4.1. Vị trí du lịch của huyện Củ Chi trong nền kinh tế ................................................ 72

2.4.2. Thực trạng phát triển du lịch ................................................................................. 72

2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi trên quan điểm phát triển bền vững ........................................................................................................... 87

2.5.1. Đánh giá chung ...................................................................................................... 87

2.5.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng bền vững ................................................................................................................................. 90

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG ................................................................... 95

3.1. Những căn cứ xây dựng định hướng và giải pháp .................................................. 95

3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh .................................. 95

3.1.2. Kế hoạch phát triển kinh tế huyện Củ Chi ............................................................ 96

3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế Huyện Củ Chi ......................................................... 98

3.1.4. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi ........................................ 100

3.2. Định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững .................. 103

3.2.1 Định hướng phát triển tổ chức lãnh thổ du lịch ................................................... 104

3.2.2. Định hướng phát triển các thị trường khách du lịch ........................................... 105

3.2.3. Định hướng phát triển các sản phẩm du lịch ....................................................... 107

3.3. Các giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững ............... 110

3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch bền vững về kinh tế ...................................... 110

3.3.2. Nhóm phát triển du lịch bền vững về tài nguyên và môi trường ........................ 115

3.3.3. Nhóm phát triển du lịch bền vững về xã hội ....................................................... 116

3

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 118

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 120

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 122

4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

IUOTO : Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch.

UNWTO : Tổ chức du lịch thế giới.

UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc.

VQG : Vườn quốc gia.

HST : Hệ sinh thái.

KBT : Khu bảo tồn.

TNDL : Tài nguyên du lịch.

DSTN : Di sản tự nhiên

DSVH : Di sản văn hóa

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

P. Morand có câu nói rằng: “Khi du lịch trở về, có lẽ người ta đã lớn lên. Nhưng có

một điều chắc chắn là Trái Đất phải nhỏ lại”

Du lịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những

ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền kinh tế

phát triển thì đời sống con người ngay một nâng cao thì nhu cầu tham quan du lịch ngày

càng lớn.

Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch và cơ cấu chi tiêu

của con người càng lớn. Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện giao thông hiện

đại, đã tạo nên sự thoải mái cho con người trong việc di chuyển trên các tuyến đường du

lịch. Bên cạnh đó những trung tâm du lịch được hình thành với những khách sạn hiện đại,

đầy đủ tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng du

lịch chất lượng cao. Những sản phẩm mang tính đặc sản của vùng, của địa phương theo thị

hiếu quốc tế. Tuy nhiên, điều du khách quan tâm không chỉ là vật chất mà còn quan tâm cả

đến nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, hiện nay nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải

tạo các danh lam thắng cảnh, trùng tu nâng cao các di tích lịch sử, các công trình văn

hóa…để đáp ứng nhu cầu của du khách.

Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã có những bước phát triển vượt bậc trong

du lịch. Có những chiến lược quảng bá hình ảnh của đất nước với bạn bè thế giới nói chung

và trong khu vực nói riêng. Nhiều chiến lược phát triển được đưa ra. Và ngày càng có nhiều

hình thức, dịch vụ du lịch phục vụ du khách. Nhưng Thành phố Hồ Chí Minh được bạn bè

quốc tế biết đến như một điểm đến đầy thú vị và cần khám phá. Hàng năm có hàng triệu du

khách đến để tham quan, mua sắm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Với các địa điểm tham quan

mang đậm tính lịch sử như: nhà thờ Đức Bà, chợ Bến Thành, bến Nhà Rồng, nhà hát Thành

Phố, các viện bảo tàng, lịch sử…đã làm phong phú thêm văn hóa của thành phố. Các khách

du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh có thể sơ lược tìm hiểu được văn hóa của người Việt

thông qua những cộng đồng dân cư sống nơi đây. Với đầy các món ăn văn hóa -truyền

thống các vùng miền, những cửa hàng mua sắm với phong phú đa dạng các chủng lọai hàng

hóa. Các dịch vụ phòng khách sạn sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Du khách có thể yên tâm

với những dịch vụ tốt nhất của thành phố.

6

Trong bối cảnh chung của du lịch Thành phố Hồ Chí Minh thì sự phát triển du lịch của

các vùng ngoại ô thành phố cũng không kém phần quan trọng mà huyện Củ Chi là một điển

hình.

Nằm về phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, giáp với huyện Hóc Môn, tỉnh Tây

Ninh, tỉnh Bình Dương. Cách trung tâm thành phố hơn 30km. Củ Chi nằm giữa hai con

sông là sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông. Với vị trí này đã tạo cho huyện Củ Chi có

nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Cùng với lịch sử đấu tranh chống Pháp và chống

Mỹ, Củ Chi được biết đến như một vùng đất anh hùng “ Củ Chi đất thép thành đồng. Củ

Chi đất lửa sinh hoa hồng”. Với hệ thống chiều dài địa đạo hơn 250 km nằm sâu trong

lòng đất. Đó là một công trình kiến trúc độc đáo, một di tích lịch sử nổi tiếng. Niềm tự hào

của người dân Củ Chi nói riêng và của cả nước nói chung. Với lợi thế về thiên nhiên và bản

sắc văn hóa độc đáo, truyền thống lịch sử hào hùng, Củ Chi hoàn toàn có thể xây dựng và

phát triển du lịch một cách bền vững.

Do đó việc xây dựng và phát triển du lịch huyện Củ Chi là nhu cầu cấp thiết nhằm đáp

ứng được nhu cầu phát triển của huyện cũng như nâng cao đời sống người dân, góp phần

vào việc phát triển du lịch của thành phố và của cả nước. Bên cạnh đó, nhằm giới thiệu cho

khách du lịch trong và ngoài nước hiểu thêm về lịch sử cũng như văn hóa, đời sống của

người dân huyện Củ Chi. Đó là lý do vì sao tôi chọn đề tài” Phát triển du lịch huyện Củ

Chi theo hướng bền vững” nhằm đánh thức được tiềm năng và xây dựng những hướng đi

mới cho sự phát triển du lịch của huyện Củ Chi trong thời kì hội nhập và phát triển.

2. Mục đích và nhiệm vụ

2.1. Mục đích của đề tài

Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững vào nghiên cứu đánh

giá tiềm năng, hiện trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó

đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ

sau:

-Tổng quan cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch ở Việt Nam và Thành

phố Hồ Chí Minh vận dụng nghiên cứu tại huyện Củ Chi.

-Thu thập tổng hợp tài liệu, tư liệu, số liệu, các điều kiện và thực trạng phát triển du

lịch ở huyện Củ Chi. Từ đó phân tích đánh giá tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch

7

huyện. Tìm ra những lợi thế và hạn chế đối với sự tổ chức phát triển du lịch của huyện Củ

Chi.

- Đề xuất giải pháp phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng bền vững.

3. Giới hạn nghiên cứu

- Về nội dung.

Đề tài tập trung đánh giá tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, các điều kiện để phát triển

du lịch và thực trạng hoạt động du lịch.

- Không gian

Phạm vi nghiên cứu là huyện Củ Chi ( gồm 20 xã và 1 thị trấn). Ngoài ra, đề tài còn

mở rộng nghiên cứu sang các huyện và tỉnh lân cận để thấy được mối liên hệ tác động qua

lại và hổ trợ cho huyện phát triển .

- Về thời gian

Đề tài tập trung thu thập số liệu, phân tích và nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ

2001- 2011 và định hướng phát triển bền vững đến năm 2020.

- Những công trình nghiên cứu liên quan

Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người, buổi ban đầu thường đi kèm với

hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm các vùng đất mới. Việc cung ứng các dịch

vụ cho du khách để thu lợi nhuận có lẽ là hình thức cổ xưa nhất của hoạt động du lịch, với

mục tiêu ưu tiên hàng đầu là thương mại hóa tối đa các sản phẩm du lịch và không chú ý

đến những tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường.

Vào giữa thập kỷ 90 (1996) đã xuất hiện một khái niệm mới là du lịch bền vững (

Sustainable tourism), khái niệm này còn chưa đạt đến giai đoạn chính muồi. Tuy nhiên,

điểm đặc trưng cơ bản của Du lịch bền vững không chỉ là nó cổ vũ cho loại hoạt động du

lịch ít gây hại cho môi trường mà còn là một khái niệm mới về chất, thu hút và đòi hỏi sự

hợp tác tham gia của tất cả các thành tố của ngành công nghiệp du lịch:

- Các tổ hợp khách sạn toàn cầu

- Các tổ chức du lịch lữ hành

- Các khách sạn nhỏ bé, biệt lập

Du lịch bền vững nhằm:

- Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

- Bảo vệ văn hóa và phúc lợi của cộng đồng địa phương

- Tạo lập sự công bằng trong nội bộ giữa các thế hệ

8

Tại Việt Nam, từ sau năm 1991 đã chú trọng đến phát triển du lịch bền vững sau

những cuộc khủng hoảng của ngành du lịch. Các tài nguyên du lịch cũng được khai thác có

hiệu quả hơn, khai thác kết hợp với bảo vệ, tôn tạo và phát triển các tài nguyên. Có rất nhiều

đề tài nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ở các tỉnh thành nói riêng và cả nước nói

chung.

Là một thành phố được xem là có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước,

Thành phố Hồ Chí Minh cũng có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu nhằm đưa ngành du

lịch thành phố hướng đến sự phát triển bền vững như “ Hướng đến sự phát triển bền vững

các vùng dân cư trên đất ngập nước ven biển – huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh”,

hoặc các đề tài nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ở tỉnh bạn “ Phát triển du lịch bền

vững ở tỉnh Bình Định”, “ Phát triển du lịch tỉnh Hải Dương theo hướng bền vững”,… Ở Củ

Chi cũng có một số đề tài nghiên cứu phát triển du lịch huyện như “ Xây dựng và quảng bá

thương hiệu huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh qua sản phẩm du lịch địa phương”, “Giải pháp

marketing nhằm thu hút khách nội địa tại Khu di tích lịch sử Địa Đạo Củ Chi.” Nhưng chưa

có đề tài nào nghiên cứu phát triển du lịch huyện theo hướng bền vững. Vì thế tác giả muốn

đưa đề tài này vào nghiên cứu nhằm phát huy du lịch huyện một cách hoàn chỉnh hơn, phát

triển theo hướng bền vững lâu dài.

4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu

4.1. Các quan điểm nghiên cứu

4.1.1. Quan điểm hệ thống

Bản chất du lịch được hình thành bởi nhiều phân hệ khác nhau nhưng lại có liên hệ

chặc chẽ với nhau. Chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, tự nhiên, xã hội. vì vậy khi

nghiên cứu phải đảm bảo được tính hệ thống của đề tài.

4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Các đối tượng nghiên cứu địa lý phải gắn liền với một lãnh thổ cụ thể với những nét

riêng biệt. Đó là sự liên kết như là một hệ thống không gian của các đối tượng du lịch với

các nguồn tài nguyên, các dịch vụ du lịch. Quan điểm này được vận dụng vào luận văn

bằng cách phân tích các tiềm năng và các tác động đến sự phát triển bền vững du lịch của

huyện Củ Chi.

4.1.3. Quan điểm sinh thái bền vững

Phát triển du lịch phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Vì thế phát triển du lịch theo

hướng bền vững là nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tăng cường bảo tồn các giá trị văn

9

hóa, bản sắc dân tộc, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo được sự phát triển bền vững.

Do đó khi nghiên cứu đề tài cần tính đến khả năng tác động của du lịch đối với môi trường,

khả năng chịu đựng của hệ sinh thái. Làm sao để đảm bảo phát triển du lịch một cách bền

vững. Đó là quan điểm chủ chốt của luận văn.

4.1.4. Quan điểm lịch sử- viễn cảnh

Các nhân tố trong tự nhiên hay xã hội đều có sự thay đổi theo thời gian. Cần dựa trên

những thay đổi của đối tượng địa lí từ quá khứ đến hiện tại. Nắm bắt và đánh giá hiện trạng

để đề xuất những giải pháp cho tương lai. Nhằm đưa ra các dự báo về xu hướng phát triển

của hệ thống lãnh thổ.

4.2. Các phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp

Các tài liệu thống kê được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: tài liệu lưu trữ quốc

gia và trung ương, tài liệu của các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch, các tài liệu khác có

liên quan.

Các tài liệu thống kê luôn được bổ sung, cập nhật, và được tác giả chọn lọc, tổng hợp

và phân tích liên hợp các yếu tố trong mối tương quan, ảnh hưởng lẫn nhau làm cơ sở cho

mục đích nghiên cứu của luận văn.

4.2.2. Phương pháp bản đồ, biểu đồ

Là một phương pháp không thể thiếu trong nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý du

lịch nói riêng. Phương pháp này được sử dụng từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối của quá

trình tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối liên hệ về thời gian, không gian, số lượng,

chất lượng của các đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận văn một cách chi tiết,

khoa học thông qua các bản đồ, biểu đồ.

4.2.3. Phương pháp thực địa

Phương pháp thực địa là một phương pháp truyền thống của địa lý học, được sử dụng

rộng rãi trong địa lý du lịch nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc

điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn

được coi trọng nhằm có được cái nhìn thực tế về đặc trưng lãnh thổ nghiên cứu. Phương

pháp này còn được thực hiện kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học.

4.2.4. Phương pháp khai thác phần mềm của hệ thống thông tin

Các chương trình phần mềm xử lý các thông tin thu được qua điều tra như Excel,

Windows, Word, MapInfor được sử dụng để xử lý, phân tích kết quả điều tra và thể hiện

10

qua các bảng thống kê, các bản đồ, biểu đồ, sơ đồ.

4.2.5. Phương pháp dự báo

Mô hình dự báo định lượng dựa trên số liệu quá khứ, những số liệu này giả sử có liên

quan đến tương lai và có thể tìm thấy được. Tất cả các mô hình dự báo theo định lượng có

thể sử dụng thông qua chuỗi thời gian và các giá trị này được quan sát đo lường các giai

đoạn theo từng chuỗi .

Tuy nhiên hiện nay thông thường khi dự báo người ta thường hay kết hợp cả phương

pháp định tính và định lượng để nâng cao mức độ chính xác của dự báo. Bên cạnh đó, vấn

đề cần dự báo đôi khi không thể thực hiện được thông qua một phương pháp dự báo đơn lẻ

mà đòi hỏi kết hợp nhiều hơn một phương pháp nhằm mô tả đúng bản chất sự việc cần dự

báo.

Trong quá trình nghiên cứu, đòi hỏi cần có sự tham khảo ý kiến của các chuyên gia,

các nhà làm du lịch, các cấp quản lí. Cũng như sự hướng dẫn của các giảng viên để đề tài có

thể được hoàn thành tốt hơn, hoàn chỉnh hơn.

5. Đóng góp chủ yếu của đề tài

- Tổng quan và hệ thống hóa vấn đề lý luận và thực tiễn địa lí du lịch; trên cơ sở đó

vận dụng vào nghiên cứu cụ thể trên địa bàn huyện Củ Chi.

- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện phát triển du lịch huyện Củ Chi.

Đưa ra các sản phẩm du lịch và các loại hình du lịch huyện Củ Chi.

-Đề xuất các giải pháp chủ yếu góp phần khai thác tài nguyên, phát triển du lịch hiệu

quả và bền vững.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm các phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, tài liệu tham

khảo và phụ lục.

Trong đó, phần nội dung của luận văn sẽ được trình bày trong ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch bền vững

Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền

vững.

11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN

DU LỊCH BỀN VỮNG

1.1. Một số khái niệm về du lịch, du lịch bền vững và những vấn đề liên quan

1.1.1. Khái niệm du lịch

Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu

được trong đời sống văn hóa- xã hội và hoạt động du lịch đang phát triển một cách mạnh

mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.

Thuật ngữ “ du lịch” trở nên rất thông dụng. Nó bắt nguồn từ tiếng Pháp:

“ Tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Du lịch

gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm hồi phục, nâng cao sức khỏe và khả năng lao động

của con người, nhưng trước hết liên quan mật thiết với sự chuyển chỗ của họ. Vậy du lịch là

gì?

Trong vòng hơn 9 thập kỉ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du

lịch IUOTO ( International of Union Official Travel Organization) năm 1925 tại Hà Lan,

khái niệm du lịch luôn được tranh luận. Đầu tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng

cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các

vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày nay, người ta đã thống nhất

rằng về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước trừ

việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch.

Lúc đầu số người đi du lịch rất hạn chế, sau đó dần dần tăng lên. Với việc hoàn thiện

các phương tiện và mạng lưới giao thông, những cuộc đi chơi như vậy kéo dài hơn, xa hơn.

Lúc này du lịch mang tính nhận thức và trở thành một hiện tượng lập lại thường xuyên, phổ

biến. Trên bình diện quốc gia hay quốc tế, vấn đề cấp thiết đang đặt ra là phải tạo điều kiện

nhằm thỏa mãn tới mức cao nhất các nhu cầu của người du lịch về giao thông, ăn uống,

quần áo, giày dép, đồ lưu niệm và nhiều mặt hàng khác. Du lịch không chỉ tạo nên sự vận

động của hàng triệu người từ nơi này sang nơi khác, mà còn phát sinh nhiều hiện tượng kinh

tế - xã hội gắn liền với nó.

Như vậy du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt nó mang ý nghĩa

thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí…Mặt khác,

du lịch được nhìn nhận dưới góc độ khác như là hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh

tế ( sản xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra.

12

Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu được trong

cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các chuyến du lịch trong hoặc ngoài nước, con

người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi giải trí, mà còn nhằm thỏa mãn cả những nhu cầu

to lớn về mặt tinh thần. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những đặc trưng riêng biệt về tự

nhiên, lịch sử, văn hóa, truyền thống …thu hút khách du lịch. Thông qua việc phát triển du

lịch quốc tế, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng được mở rộng . Năm

1979, Đại hội của tổ chức du lịch thế giới ( IUOTO) đã thông qua hiến chương du lịch và

chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm gắn du lịch với sự

tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, vì hòa bình và tình hữu nghị trên toàn thế

giới. Du lịch không còn là hiện tượng lẻ loi, đặc quyền của cá nhân hay nhóm người nào đó.

Ngày nay, nó mang tính chất phổ biến và tính nhận thức với mục tiêu không ngừng nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, củng cố hòa bình và hữu nghị giữa các

dân tộc

Nội dung thứ hai của khái niệm du lịch là hệ quả của nội dung thứ nhất . Du lịch là

một hiện tượng kinh tế - xã hội thu hút hàng tỉ người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó

là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần

của khách.

Trong những thập kỉ gần đây, du lịch phát triển rất nhanh . Theo số liệu của tổ chức du

lịch thế giới, hàng năm trên Trái Đất có 3 tỉ người đi du lịch. Tất nhiên, ngành kinh tế tổng

hợp phục vụ du lịch phải ra đời và phát triển với tốc độ như vũ bão để đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt khổng lồ của 8 triệu người du lịch bình quân cho mỗi ngày.

Dòng người du lịch đông đảo có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của nhiều

nước. Các ngành kinh tế gắn liền với du lịch như giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, xây

dựng, thương nghiệp, ăn uống công cộng..v..v.. trong chừng mực nhất định phải đổi cả

hướng và cơ cấu sản xuất.

Bản chất của sản xuất du lịch được thể hiện qua tất cả các ngành kinh tế. Du lịch đòi

hỏi phải phát triển và mở rộng các ngành công nghiệp khác nhau phục vụ cho nhu cầu du

lịch như sản xuất các phương tiện giao thông, thiết bị điện, đồ gỗ,..các mặt hàng tiêu dùng,

thực phẩm chế biến…Ngay cả nhu cầu. Một số mặt hàng như đồ lưu niệm, tuy đơn giản

nhưng lại có tác dụng làm sống lại những ngành nghề thủ công truyền thống.

Nông nghiệp cũng hướng vào việc sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch. Để thỏa

mãn nhu cầu của du khách, trước mắt các ngành kinh tế đang đặt ra những nhiệm vụ nặng

13

nề, phát triển và hiện đại hóa tất cả các loại giao thông, hoàn thiện các phương tiện liên lạc,

xây các khách sạn, nhà hàng, các tổ hợp dịch vụ.

Việc tăng nhanh dòng người du lịch đòi hỏi không chỉ nhiều mặt hàng tiêu dùng, mà

còn cả bản thân sự phục vụ nữa. Nhu cầu về người phục vụ, những cán bộ du lịch có tay

nghề cao tăng lên đáng kể. Cần phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ từ

những người phục vụ khách sạn, hướng dẫn khách đi tham quan, cho đến những người nấu

ăn, thông tin liên lạc.

Về phương diện lãnh thổ, du lịch cũng có những tác động nhất định, đặc biệt đối với

các vùng xa xôi, nền kinh tế chậm phát triển nhưng có nhiều tiềm năng lôi cuốn khách du

lịch. Bộ mặt nền kinh tế của vùng dần dần được thay đổi tùy thuộc nhiều vào số lượng

khách đến. Đời sống nhân dân được cải thiện nhờ có thêm việc làm và tăng thu nhập.

Du lịch đạt được hiệu quả kinh tế cao, được gọi là “ ngành xuất khẩu vô hình” đem lại

nguồn ngoại tệ lớn. Tốc độ tăng thu nhập của du lịch vượt xa nhịp độ tăng của nhiều ngành

kinh tế. Năm 1950 thu nhập ngoại tệ về du lịch quốc tế chỉ ở mức 2,1 tỷ đô la Mỹ ( USD),

năm 1960 đạt 6,8 tỷ, năm 1970 đạt 18 tỷ, năm 1980 đạt 102 tỷ, năm 1991 đạt 260 tỷ và năm

1994 đạt 338 tỷ.

Số khách du lịch trên thế giới cũng tăng từ 25 triệu lượt người năm 1950 lên 69 triệu

lượt người năm 1960, 160 triệu lượt người năm 1970, 285 triệu lượt người năm 1980; đạt

mức mức 450 triệu lượt người năm 1991 và trên 500 triệu lượt người năm 1994.

Châu Âu là khu vực có du lịch phát triển sớm, đã và sẽ dẫn đầu thế giới về số khách và

thu nhập du lịch. Châu Á Thái Bình Dương có nhịp độ tăng trưởng du lịch rất cao và sẽ

chiếm vị trí quan trọng trong du lịch thế giới. Các nước Đông Nam Á đã trở thành trung tâm

du lịch sôi động và hấp dẫn của khu vực và thế giới. Tốc độ phát triển hàng năm của vùng

Đông Nam Á cao gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng hàng năm của du lịch thế giới. Năm 1994,

Thái Lan đón 6,2 triệu lượt khách du lịch quốc tế và thu được 6,6 tỷ USD, Inđônêxia đón

4,0 triệu lượt khách du lịch quốc tế, thu được 5,3 tỷ, Singapore đón 6,0 triệu lượt khách

quốc tế, thu 6,5 tỷ USD. Ở Việt Nam, ngành du lịch đang mở ra nhiều triển vọng to lớn.

Năm 1990, ngành du lịch nước ta đón hơn 25 vạn lượt khách quốc tế và 1 triệu lượt

khách nội địa đến năm 1994 đã tăng lên 1,018 triệu lượt khách quốc tế và 3,5 triệu lượt

khách nội địa. Nguồn thu nhập xã hội từ du lịch cũng không ngừng phát triển, từ 650 tỷ

đồng năm 1990 lên 4000 tỷ đồng ( trong đó có 210 triệu đôla) năm 1994.

Trong một số tài liệu công bố gần đây nhất, có người quan niệm du lịch bao hàm 3 mặt

14

nội dung, song thực chất không khác gì 2 nội dung trên, bởi vì nội dung đầu được tách ra

làm đôi. Theo I.I Pirojnik ( 1985), thuật ngữ du lịch chuyển tải 3 nội dung cơ bản:

1. Cách thức sử dụng thời gian rỗi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.

2. Dạng chuyển cư đặc biệt.

3. Ngành kinh tế, một trong những ngành thuộc lĩnh vực phi sản xuất nhằm phục vụ

các nhu cầu văn hóa- xã hội của nhân dân.

Du lịch không chỉ bao gồm các dạng hoạt động của dân cư trong thời gian tới, mà còn

bao trùm lên không gian nơi diễn ra các hoạt động khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập

trung các xí nghiệp dịch vụ chuyên môn hóa.

Khái niệm du lịch có thể được xác định như sau:

Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di

chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh,

phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm

theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa

( I.I. Pirojnik, 1985).

1.1.2. Khái niệm khách du lịch ( Du Khách)

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, khách du lịch là những người có đặc trưng sau:

- Là người đi khỏi nơi cư trú của mình

- Không theo đuổi mục đích kinh tế.

- Khoảng cách tối thiểu từ nhà đến điểm đến tùy quan niệm của từng nước.

Tại các nước đều có các định nghĩa riêng về khách du lịch. Tuy nhiên, điểm chung

nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch là:

Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi

nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao ở

nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến từ 24g trở lên ( hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua

đêm) nhưng không quá thời gian một năm.

Khách du lịch là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục đích như

nghỉ ngơi, kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình.

Theo Luật Du lịch Việt Nam:

Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm

việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.

Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: khách du lịch quốc tế và khách du

15

lịch nội địa.

* Khách du lịch quốc tế ( International tourist)

Năm 1973, Ủy ban thống kê của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc ngày

nay) đã đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:

Khách du lịch quốc tế là những người thăm viếng một quốc gia ngoài quốc gia cư trú

thường xuyên của mình trong thời gian ít nhất là 24g.

Theo khái niệm trên, xét về mặt thời gian, khách du lịch quốc tế là những người có

thời gian viếng thăm ( lưu lại) ở quốc gia khác ít nhất là 24g. Trên thực tế, những người đến

quốc gia khác có lưu trú qua đêm mặc dù chưa đủ thời gian 24g vẫn được thống kê là khách

du lịch quốc tế.

Bên cạnh khách đi du lịch có lưu trú qua đêm, có nhóm khách chỉ đi du lịch trong

ngày. Đối tượng này được gọi là khách tham quan.

Khách tham quan ( Excursionist, Day-vistor): Những người rời nơi cư trú thường

xuyên của mình đến nơi nào đó, quay trở lại với những mục đích khác nhau, loại trừ mục

đích làm công và nhận thù lao ở nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến không quá 24g,

không sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm.

Để thống nhất hai khái niệm “ khách du lịch” và “khách tham quan”, năm 1963 tại hội

nghị của Liên Hợp Quốc về Du lịch được tổ chức ở Roma ( Ý), Ủy ban thống kê của Liên

Hợp Quốc đưa ra một khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:

Khách du lịch quốc tế là người thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư trú của

mình với bất kỳ lý do nào ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng

thăm.

Những khái niệm trên khá rõ ràng và chi tiết nhưng vẫn chưa xác định giới hạn về thời

gian lưu lại của khách du lịch tại các điểm đến. Năm 1989, tại Hội nghị liên minh Quốc hội

về du lịch được tổ chức ở Lahaye ( Hà Lan) đã ra “ Tuyên bố Lahaye về du lịch”, trong đó

đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:

Khách du lịch quốc tế là những người:

- Trên đường đi thăm một hoặc một số nước, khác với nước mà họ cư trú thường

xuyên;

- Mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi không quá thời

gian 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải được phép gia hạn;

- Không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách

16

hay do yêu cầu của nước sở tại;

- Sau khi kết thúc đợt tham quan ( hay lưu trú) phải rời khỏi nước đến tham quan để về

nước nơi cư trú của mình hoặc đi đến một nước khác.

Hiện nay trên thế giới nhiều nước sử dụng khái niệm này.

Như vậy, có thể hiểu: Khách du lịch quốc tế là khách du lịch mà điểm xuất phát và

điểm đến du lịch thuộc phạm vi lãnh thổ của hai hoặc nhiều quốc gia khác nhau.

Luật Du lịch Việt Nam đã đưa ra khái niệm khách du lịch quốc tế như sau:

Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào

Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước

ngoài du lịch.

Như vậy, nhóm khách du lịch quốc tế được phân thành 2 loại:

Khách du lịch quốc tế đi vào ( Inbound tourist): là người nước ngoài và người của một

quốc gia nào đó định cư ở nước khác vào quốc gia đó du lịch. Loại khách này sử dụng ngoại

tệ để mua hàng hóa, dịch vụ.

Ví dụ: Người Mỹ và Việt kiều Mỹ vào Việt Nam du lịch.

Khách du lịch quốc tế đi ra ( outbound tourist): là công dân của một quốc gia và người

nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đó đi ra nước ngoài du lịch.

Ví dụ: người Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch đến nước

khác ( Trung Quốc, Thái Lan,…v..v).

Những đối tượng sau đây không được công nhận là khách du lịch quốc tế:

- Những người đến một nước để thừa hành nhiệm vụ nào đó ( các nhân viên thương

vụ, ngoại giao ở các sứ quán, cảnh sát quốc tế làm nhiệm vụ ở các nước khác,..);

- Những người đi sang nước khác để hành nghề ( dù có hay không có hợp đồng), hoặc

tham gia các hoạt động kinh doanh ở nước đến.

- Những người nhập cư vào nước đến;

- Học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sống tạm trú ở nước ngoài;

- Những người thường xuyên qua lại biên giới ( nhân viên hải quan tại các cửa khẩu,

người buôn bán ở các chợ biên giới..);

- Những hành khách đi xuyên qua một quốc gia ( khách transit) và không dừng lại cho

dù cuộc hành trình đó kéo dài 24g.

* Khách du lịch nội địa ( Internal tourist)

Khách du lịch nội địa được phân biệt với khách du lịch quốc tế ở chỗ nới đến của họ

17

cũng chính là nước của họ cư trú thường xuyên. Họ cũng được phân biệt với những người lữ

hành trong nước ở mục đích chuyến đi, khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú ( tùy

theo chuẩn mực của từng quốc gia).

Khái niệm về khách du lịch nội địa được xác định không giống nhau ở các nước khác

nhau.

Theo quy định của Mỹ: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi cách nơi

ở thường xuyên của họ ít nhất là 50 dặm , tức khoảng 80 km ( tính trên một chiều) với

những mục đích khác nhau ngoài việc đi làm hàng ngày.

Theo quy định của Pháp: Khách du lịch nội địa là những người rời khỏi nơi cư trú của

mình tối thiểu là 24g và nhiều nhất là 4 tháng với một hoặc một số mục đích: giải trí, sức

khỏe, công tác và hội họp dưới mọi hình thức.

Theo quy định của Canada: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi xa 25

dặm, tức là khoảng 40km và có nghỉ lại đêm, hoặc rời khỏi thành phố và có nghỉ lại đêm tại

nơi đến.

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005):

Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt

Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

Ngoài ra, tại một số nước còn phân biệt khái niệm khách du lịch trong nước và khách

du lịch quốc gia:

Khách du lịch trong nước ( Domestic tourist): Là tất cả những người đang đi du lịch

trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia ( bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch

quốc tế đi vào).

Khách du lịch quốc gia ( National tourist): Là tất cả công dân của một quốc gia nào đó

đi du lịch ( kể cả đi du lịch trong nước và đi du lịch ra nước ngoài).

1.1.3. Tài nguyên du lịch

* Khái niệm tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch là loại tài nguyên có những đặc điểm giống những loại tài nguyên

nói chung, song có một số đặc điểm riêng gắn với sự phát triển của ngành Du lịch.

Tài nguyên du lịch theo Pirojnik: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa-

lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực

tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du

lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng được dùng để

18

trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”. (Pirojnik)

Nguyễn Minh Tuệ và nnk. cũng cho rằng: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và

văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí

tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử

dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch” [22]

Theo các nhà khoa học Du lịch Trung Quốc định nghĩa là: “ Tất cả giới tự nhiên và xã

hội loài người có sức hấp dẫn khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành Du lịch, có thể sản

sinh ra hiệu quả kinh tế- xã hội và môi trường đều có thể gọi là tài nguyên du lịch”. [6]

Khoản 4 ( Điều 4, chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định “ Tài nguyên

du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động

sáng tạo của con người và các gía trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu

cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô

thị du lịch”.

Từ những quan niệm trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

Pirojnik, Nguyễn Minh Tuệ và một số học giả cho rằng tài nguyên du lịch là tổng thể

tự nhiên, kinh tế - xã hội văn hóa được sử dụng để phục hồi sức khỏe, phát triển thể lực và

tinh thần con người. Trên cơ sở này các học giả cho rằng địa hình, thủy văn, khí hậu, động –

thực vật , di tích lịch sử văn hóa, văn hóa nghệ thuật lễ hội,…là những tài nguyên du lịch.

Song thực tế không phải bất cứ mọi dạng, mọi kiểu địa hình , tất cả các kiểu khí hậu các yếu

tố khí hậu hay các giá trị văn hóa….đều có khả năng hấp dẫn khách cũng như có khả năng

kinh doanh du lịch. Trong nhiều trường hợp địa hình hiểm trở, các bãi biển bị xâm thực

mạnh, một số kiểu khí hậu, nguồn nước bị ô nhiễm là những điều kiện không hấp dẫn

khách, trở ngại cho phát triển du lịch. Các tác giả trên quan niệm tài nguyên du lịch được sử

dụng để góp phần phục hồi sức khỏe, phát triển thể lực và trí tuệ của con người, khả năng

lao động và sức khỏe của họ. Quan niệm này chỉ phù hợp với đặc điểm phát triển du lịch

của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mang tính bao cấp. Nhà nước xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật phục vụ du lịch, trả lương cho cán bộ, nhân viên lao động làm việc trong

ngành Du lịch, bỏ tiền để tiếp đón các cán bộ nhân viên nhà nước đi nghỉ dưỡng theo chế độ

hoặc đón tiếp các chuyên gia. Thực tế hiện nay việc bảo tồn và khai thác tài nguyên du lịch

hấp dẫn du khách, ngoài các chức năng xã hội phục vụ cho du khách, tài nguyên du lịch còn

được khai thác nhằm đạt hiệu quả kinh tế , nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, hiệu

quả môi trường và chính trị… Phần nhiều các nhà khoa học trong nước và quốc tế như:

19

Pirojnik, Ngô Tất Hổ, Trần Đức Thanh, Phạm Trung Lương, Bùi Thị Hải Yến cũng như

Luật Du lịch Việt Nam đều cho rằng, tài nguyên du lịch là những cảnh quan thiên nhiên, các

yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người tạo ra có sức hấp dẫn với du khách, có

thể sử dụng phục vụ cho phát triển du lịch.

Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như là tiền đề phát triển du lịch, tài nguyên du

lịch càng phong phú đặc sắc có mức độ tập trung cao thì càng có sức hấp dẫn với du khách

và có hiệu quả kinh doanh du lịch cao.

Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, việc khai thác phụ thuộc vào nhiều điều

kiện kinh tế- xã hội, khoa học kỹ thuật, chính trị nên ngày càng được mở rộng. Do vậy, tài

nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên du lịch đã, đang khai thác và tài nguyên du lịch chưa

được khai thác.

Từ những nhận xét trên tác giả đưa khái niệm tài nguyên du lịch : “ Là tất cả những gì

thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra có sức hấp dẫn khách du

lịch, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành Du lịch mang lại hiệu quả kinh tế -

xã hội và môi trường”.

1.1.4. Các loại tài nguyên du lịch

* Nhóm tài nguyên du lịch tự nhiên

Tài nguyên tự nhiên gồm các yếu tố, các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên,

các quá trình biến đổi chung hoặc có thể khai thác và sử dụng vào đời sống và sản xuất của

con người.

Theo khoản 1 ( Điều 13, Chương II) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “ Tài

nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ

sinh thái, cảnh quan tự nhiên được khai thác hoặc có thể được sử dụng phục vụ mục đích du

lịch”.

- Các thành phần của tự nhiên

Theo căn cứ và sơ đồ phân loại tài nguyên du lịch thì có một số thành phần tự nhiên

hấp dẫn du khách đã, đang hoặc có thể khai thác phục vụ cho mục đích du lịch như địa chất,

địa mạo, địa hình, khí hậu, thủy văn và sinh vật.

 Địa chất- địa hình- địa mạo

Các quá trình địa chất là nguyên nhân tạo ra bề mặt địa hình, việc nghiên cứu chúng có

thể phát hiện ra những giá trị để hấp dẫn du khách, là cơ sơ quan trọng để phát triển du lịch

của các địa phương và quốc gia.

20

Do đạt được tiêu chí nêu trên nên tháng 11 năm 2000, lần thứ 2 Vịnh Hạ Long được

công nhận là di sản tự nhiên thế giới và tháng 7 năm 2003 vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ

Bàng được công nhận là di sản tự nhiên thế giới.

Khi nghiên cứu địa hình bao gồm: hình thái, độ cao, độ dốc, hướng của địa hình, các

địa hình tạo nên cảnh quan đẹp.

Đối với hoạt động du lịch, đặc điểm hình thái địa hình nghĩa là các dấu hiệu bên ngoài

của địa hình và các dạng địa hình ngoạn mục, sự kết hợp của địa hình với các dạng tài

nguyên nước, khí hậu, sinh vật tạo nên các cảnh quan tự nhiên, kỳ thú, là những yếu tố hấp

dẫn du khách

- Các đơn vị hình thái chính của địa hình là đồi núi, cao nguyên, đồng bằng, ven biển

và đảo.

+ Địa hình đồng bằng khá đơn điệu về ngoại hình. Tuy nhiên sự kết hợp giữa đồng

bằng với tài nguyên nước như: sông, kênh, rạch, ao hồ, tài nguyên sinh vật đã tạo nên những

phong cảnh thủy mặc, yên ả, thanh bình, khoảng đất bao la hấp dẫn du khách như các đồng

bằng sông MeKong ở Campuchia, sông Mê Nam của Thái Lan, sông Cửu Long của Việt

Nam, đồng bằng Amazon của Braxin….

Thêm vào nữa đồng bằng là nơi thuận lợi cho cư trú của dân cư nông nghiệp, là điều

kiện quan trọng để hình thành nên các nền văn minh, văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ nhiều

giá trị văn hóa của loài người ở nhiều quốc gia. Do vậy, địa hình đồng bằng ở nhiều quốc

gia trên thế giới đã và đang được phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái

nhân văn, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch nghỉ dưỡng.

+ Địa hình đồi núi, cao nguyên thường tạo ra những không gian kỳ vĩ, sinh động và

thơ mộng.

Do sự chia cắt của bề mặt địa hình, nên đã tạo nên sự tương phản về cảnh vật giữa các

thung lũng sâu, với các dãy núi cao nguyên cao, tạo ra sức hấp dẫn với du khách. Các vùng

đồi là nơi cư dân đến quần cư sớm và khá đông đúc. Do vậy vùng đồi núi là nơi lưu giữ và

phát hiện thấy nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử văn hóa, tạo điều kiện phát triển các loại

hình du lịch khám phá, du lịch tham quan nghiên cứu như ở Sơn Vi- Lâm Thao- Phong

Châu ( Phú Thọ), Đồng Nai,…

Núi và cao nguyên là dạng địa hình có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.

Loại địa hình này thuận lợi cho phát triển loại hình du lịch, tham quan, nghỉ dưỡng. Ở các

nước ôn đới, về mùa đông nhiều vùng núi thường có băng tuyết nên ở những vùng núi có độ

21

cao từ 1500m-2000m có phong cảnh đẹp như: An pơ, Pi-rê-nê,…thuận lợi cho phát triển du

lịch thể thao mùa đông.

Vùng núi là nơi có nhiều suối nước nóng, nước khoáng nên còn thuận lợi cho phát

triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh.

Những vùng núi có độ cao trên 2500m có phong cảnh đẹp, thuận lợi cho phát triển loại

hình du lịch thể thao mạo hiểm leo núi như: khu Everest (Hymalaya), Fanxipang ( Việt

Nam), Kilimantan ( Tanzania), An pơ, Coocdie, Andes,….

Vùng núi cao còn là nơi bảo tồn nhiều khu vườn quốc gia, có đa dạng sinh học cao,

phong phú cảnh đẹp. Đồng thời vùng núi cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số

còn giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Những điều kiện này thuận lợi cho

phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa.

- Các dạng địa hình thuận lợi cho phát triển du lịch: có nhiều dạng địa hình đặc biệt có

giá trị to lớn cho việc triển khai phát triển các hoạt động du lịch, đó là: kiểu địa hình Karst (

đá vôi) và kiểu địa hình ven bờ- bãi biển và đảo.

+ Địa hình Karst gồm các kiểu chủ yếu như: hang động Karst, cánh đồng Karst, phễu

Karst, sông hồ Karst, Karst ngập nước. Trong đó kiểu Karst hấp dẫn du khách nhất là hang

động Karst và kiểu Karst ngập nước ( Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà,…).

Hiện nay trên thế giới có khoảng 700 hang động đã được sử dụng để phát triển du lịch.

Trên thế giới có nhiều hang động được đánh giá là dài, sâu nhất đó là: Flint Mammauth

Cave Stystem ở Hoa Kỳ dài 530km; Cptumisticas Kay dài 153 km ở Ucraina; Holloch dài

133,5 km ở Thụy Sỹ; RescauSecan Bernard sâu 1535m ở Pháp, Sistem de Trave sâu 1380m

ở Tây Ban Nha.

Ở Việt Nam các hang động: Phong Nha, Thiên Đường ( nằm trong di sản tự nhiên thế

giới vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng), hang Thiên Cung trong di sản tự nhiên thế giới

Vịnh Hạ Long cũng được đánh giá là một trong những hang động đẹp và kỳ vỹ của thế giới.

Nhìn chung kiểu địa hình karst thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch như: thám

hiểm hang động, tham quan nghiên cứu,…

+ Kiểu địa hình ven bờ và đảo: kiểu địa hình ven bờ hấp dẫn khách du lịch đó là các

bãi cát ven biển, hồ, sông. Trong đó đặc biệt là các bãi cát ven biển, đảo, thường được gọi là

các bãi biển.

Các bãi biển hoặc ven hồ hấp dẫn du khách và thuận lợi phát triển các loại hình du lịch

tắm biển, lặn biển, thể thao biển, nghỉ dưỡng chữa bệnh. Nhu cầu du lịch biển trên thế giới

22

cũng như ở Việt Nam ngày càng tăng, theo UNWTO ( Tổ chức Du lịch thế giới), có hơn

70% số du khách được thích đi du lịch biển.

- Các di tích tự nhiên: các quá trình nội lực và ngoại lực đã tạo thành trên bề mặt địa

hình nhiều di tích tự nhiên có giá trị thẫm mỹ. Trong đó nhiều di tích tự nhiên do không giải

thích được nguyên nhân khoa học hình thành chúng, nên con người đã dệt cho nó những

huyền thoại. Do vậy, nhiều di tích tự nhiên đã trở thành những điểm tham quan hấp dẫn du

khách như hòn Chồng ( Nha Trang), hòn Trống Mái ( Sầm Sơn- Thanh Hóa), hòn Gà Chọi (

Vịnh Hạ Long), giếng Giải Oan ( Chùa Hương – Hà Tây).

 Khí hậu

Khí hậu là một loại tài nguyên sớm được khai thác để quy hoạch phát triển du lịch. Từ

cuối thế kỷ XVIII đến những năm đầu thế kỷ XX đã có nhiều dự án quy hoạch phát triển du

lịch ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ở những nơi có khí hậu trong lành, mát mẻ như:

Dovos, Crans – Montana, Lesyin ở Thụy Sỹ, Kitzibuhel Cista,…ở Đức, Shimla, Dazilung,

Neinitan ở Ấn Độ, núi Thái Sơn ở Trung Quốc; Sapa, Đà Lạt, Bạch Mã, Ba Vì, Mẫu Sơn,

Bà Nà, Tam Đảo ở Việt Nam. Các điều kiện của tài nguyên khí hậu phục vụ cho việc chữa

bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các mục đích phát triển du lịch khá đa dạng

như: Tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe của con người; tài nguyên khí hậu phục vụ

cho việc chữa bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các hoạt động thể thao mùa

đông; tài nguyên khí hậu thích hợp cho hoạt động du lịch tắm, lặn biển và thể thao biển…

 Tài nguyên nước

Nước được coi là tài nguyên quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch

nói chung và để phát triển nhiều loại hình du lịch. Các loại tài nguyên nước sau đây đã được

khai thác là tài nguyên du lịch:

- Nước mặt: sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước ven

biển. Bề mặt nước của sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước

biển đã kết hợp với các tài nguyên khác như núi non, rừng cây tự nhiên, hệ sinh thái nhân

văn tạo ra những phong cảnh nên thơ, hữu tình hấp dẫn du khách.

+ Các vùng nước ven biển có bãi cát đẹp hoặc ven các hồ, có môi trường trong sạch,

độ mặn phù hợp từ 30- 40‰, độ trong suốt cao, thường được khai thác để phát triển các loại

hình thể thao, bơi lội, lặn biển, tắm biển, đua thuyền, lướt ván như các bãi biển ở Việt Nam

và nhiều nước trên thế giới.

Bề mặt nước ven các bãi biển, trên các hồ, các sông suối, kênh rạch có động tham

23

quan trên nước. Ví dụ như ở Sidney, Menbourn ( Austraylia), trên các hồ lớn như Ngũ Hồ (

Canada- Hoa Kỳ), trên các sông, kênh rạch ở Thái Lan, trên sông Mê Kông ở Việt Nam,

Lào, Campuchia, …

+ Các thác nước cũng đã tạo nơi có phong cảnh đẹp và hấp dẫn du khách có thể triển

khai các hoạt động du lịch tham quan và thể thao mạo hiểm.

- Các điểm nước khoáng, suối nước nóng

Các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý để triển khai

các loại hình du lịch, nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh. Trên thế giới, những nước giàu

nguồn nước khoáng cũng là những nước phát triển loại hình du lịch chữa bệnh nghỉ dưỡng

dựa vào nguồn nước khoáng như Liên Bang Nga, Bungari, Hungari, Thụy sỹ, Áo, Italia,

CHLB Đức, CH Séc và Slôvakia,...

 Tài nguyên sinh vật

Tài nguyên sinh vật bao gồm toàn bộ các loài thực vật, động vật sống trên lục địa và

dưới nước vốn có sẵn trong tự nhiên và do con người thuần dưỡng, chăm sóc, lai tạo.

Tài nguyên sinh vật vừa góp phần cùng với các loại tài nguyên khác tạo nên phong

cảnh đẹp, hấp dẫn, vừa có ý nghĩa bảo vệ môi trường như: bảo tồn các nguồn gen, che phủ

cho mặt đất, hạn chế hiện tượng xói mòn, xâm thực, rửa trôi, lở đất, trượt đất, lũ quét, lở

trượt băng tuyết ở các miền núi, hạn chế được hiện tượng xâm thực, tác dụng tiêu cực của

sóng thần, các vùng ven biển. Thảm thực vật còn cung cấp chất mùn cho thổ nhưỡng, được

coi là máy điều hòa tự nhiên, lọc không khí, làm cho không khí thêm trong lành, mát mẻ.

Tài nguyên sinh vật là nguồn cung cấp nhiều loại dược liệu cho việc phát triển loại

hình du lịch chữa bệnh và an dưỡng như ( tắm thuốc của người Dao Đỏ ở Sapa – Lào Cai);

cung cấp nguồn thực phẩm cho du khách. Vì vậy, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa cho việc

phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch chữa bệnh, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, đi

bộ, leo núi, lặn biển, tham quan, nghiên cứu), cùng với các tài nguyên nước và địa hình góp

phần phát triển du lịch sông nước, miệt vườn.

 Vườn quốc gia

Là nơi tập trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động – thực vật đặc hữu,

quý hiếm, nhiều VQG có khả năng hấp dẫn du khách cao, thuận lợi cho việc phát triển các

loại hình du lịch sinh thái.

 Khu bảo tồn thiên nhiên

Là một khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc trên biển, được thành lập để bảo tồn bền

24

vững các HST chưa hoặc bị biến đổi rất ít và có các loài động – thực vật đặc hữu hoặc đang

bị đe dọa. KBT không có chức năng hoạt động du lịch sinh thái và không khuyến khích phát

triển du lịch sinh thái mà thiên về mục tiêu bảo tồn các HST nhiều hơn.

 Khu bảo tồn loài và nơi cư trú

Là khu vực trên đất liền hay trên biển, được quản lý bằng các biện pháp tích cực nhằm

duy trì các nơi cư trú và đảm bảo sự sống lâu dài của các loài động vật, kể cả các loài sinh

vật biển đang có nguy cơ bị tiêu diệt”.

 Khu bảo tồn cảnh quan

Là khu vực đất liền, đất ngập nước trên biển và ven biển, có tác động qua lại giữa con

người và thiên nhiên lâu đời nên đã tạo ra một khu vực có giá trị cao về thẩm mỹ, sinh thái,

văn hóa và lịch sử, đôi khi cũng có giá trị ĐDSH cao. Việc duy trì tính toàn vẹn của các mối

tác động qua lại truyền thống này là điểm cốt lõi của công tác bảo vệ, duy trì và phát triển

KBT thuộc hạng này”.

 Một số HST đặc biệt

Các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam có một số HST đặc biệt có sự ĐDSH tiêu

biểu cho thiên nhiên ở mỗi vùng, có khả năng hấp dẫn du khách, có ý nghĩa cho việc bảo vệ

môi trường, bảo vệ sự ĐDSH.

Ví dụ: Ở những vùng ven biển có HST rừng ngập mặn, nếu việc quy hoạch phát triển

du lịch hoặc các hoạt động kinh tế khác không hợp lý, hệ thực vật bị chặt phá sẽ kéo theo sự

xâm thực các vùng đất ven biển, mất đi nơi ở sinh sản và kiếm ăn của nhiều loài thủy sản,

nhiều loài thú, bò sát, lưỡng cư và các loài và các loài chim nước. Ở HST này, các loại cây

con thường được mọc ra từ rễ của cây lớn, các cây lớn sẽ nuôi dưỡng và bảo vệ cho các cây

con, các loài thực vật có bộ rễ phát triển sống đan chặt vào nhau, cùng nhau tồn tại. Do vậy,

việc trồng rừng ngập mặn rất tốn kém và khó có hiệu quả.

 Các điểm tham quan sinh vật

Là những khu vực trên đất liền hoặc trên các đảo được đầu tư quy hoạch xây dựng để

bảo tồn, nuôi dưỡng các loài động – thực vật quý hiếm, các HST nhằm mục đích bảo tồn sự

ĐDSH, nghiên cứu phổ biến khoa học, giáo dục cộng đồng, tìm hiểu cảm nhận môi trường

sống. Việc quản lý, bảo tồn động vật hoang dã và phục vụ giải trí, phát triển du lịch sinh

thái , tìm hiểu văn hóa của cư dân bản địa ở các điểm tham quan sinh vật chủ yếu tại các

công viên quốc gia, các trang trại, miệt vườn. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt

Nam đã có nhiều điểm tham quan sinh vật hấp dẫn du khách

25

- Các cảnh quan du lịch tự nhiên

Điểm du lịch tự nhiên là nơi có dạng TNDL hấp dẫn du khách. Có những điểm du lịch

tự nhiên đã được đầu tư khai thác vào mục đích phát triển du lịch gọi là các điểm du lịch tự

nhiên đã được hình thành. Có những điểm du lịch tự nhiên có dạng tài nguyên hoặc các bộ

phận của nó có sức hấp dẫn du khách, nhưng chưa được đầu tư khai thác phát triển du lịch

gọi là các điểm du lịch tiềm năng.

Theo Khoản 8 ( Điều 4, Chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, có thể định

nghĩa: Điểm du lịch tự nhiên là nơi có TNDL hấp dẫn du khách.

Theo Khoản 1,2 ( Điều 2,4, Chương IV) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, các điểm

du lịch tự nhiên cấp Quốc gia phải đảm bảo các điều kiện sau:

- Có TNDL tự nhiên đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.

- Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo phục vụ ít nhất

100000 lượt khách tham quan một năm.

Dựa theo khái niệm về du lịch, theo Khoản 7 ( Điều 4, Chương I) Luật Du lịch Việt

Nam năm 2005, có thể định nghĩa khu du lịch tự nhiên như sau:

“ Khu du lịch tự nhiên là nơi có TNDL tự nhiên có ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên

nhiên, hấp dẫn du khách, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng

của khách du lịch”

- Di sản thế giới- Di sản thiên nhiên thế giới

 Di sản thế giới

Theo UNESCO, Di sản thế giới là: “ Di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng núi,

dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố,…do các nước có tham gia

Công ước Di sản thế giới đề nghị cho chương trình Quốc tế Di sản thế giới, được nhận và

quản lý bởi UNESCO. Sau đó Chương trình Quốc tế Di sản thế giới sẽ lập danh sách, đặt

tên, bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại

chung”.

Việt Nam tham gia vào Công ước Di sản thế giới năm 1978. Di sản thế giới gồm có:

DSTN thế giới, DSVH thế giới, DSVH và TN thế giới.

Năm 1989, tại phiên họp Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách để công

nhận một danh hiệu cho một sản phẩm văn hóa phi vật thể là kiệt tác DSVH truyền miệng

và phi vật thể của nhân loại.

Từ năm 1978 đến ngày 29 tháng 6 năm 2007, Hội đồng Di sản thế giới UNESCO đã

26

công nhận 851 di sản thế giới gồm 660 DSVH, 166 DSTN, 25 DSVH & TN.

 Di sản tự nhiên thế giới

Là các công trình thiên nhiên hợp thành bởi những thành tựu vật lý và sinh học hoặc

những nhóm thành hệ có một giá trị toàn cầu, đặc biệt về mặt thẫm mỹ hoặc khoa học, các

thành hệ địa chất và địa văn, các miền được phân định ranh giới rõ ràng, làm nơi sinh sống

của các loài động vật và thực vật bị đe dọa, đặc biệt về các mặt khoa học, bảo tồn hoặc vẻ

đẹp thiên nhiên.

* Nhóm tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng

tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với du khách và có thể

khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài

nguyên du lịch nhân văn.

Vì vậy tài nguyên du lịch nhân văn thường là những giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc

của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Du khách đi du lịch là để trải nghiệm, tìm hiểu, hưởng

thụ các giá trị về văn hóa, giá trị về thiên nhiên, nên những tài nguyên du lịch nhân văn đặc

sắc, độc đáo ở mỗi địa phương, ở mỗi quốc gia có tính hấp dẫn lớn đối với du khách.

Các tài nguyên du lịch nhân văn

- Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể gồm:

+ Di sản văn hóa thế giới vật thể.

+ Các di tích lịch sử văn hóa, danh thắng cấp quốc gia và địa phương.

+ Các cổ vật và bảo vật quốc gia.

+ Các công trình đương đại.

- Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể gồm:

+ Di sản văn hóa thế giới truyền miệng và phi vật thể.

+ Các lễ hội truyền thống.

+ Nghề và làng nghề thủ công cổ truyền.

+ Văn hóa nghệ thuật.

+ Văn hóa ẩm thực.

+ Văn hóa ứng xử, phong tục, tập quán.

+ Thơ ca và văn học.

+ Văn hóa các tộc người.

+ Các phát minh, sáng kiến khoa học.

27

+ Các hoạt động văn hóa thể thao, kinh tế- xã hội có tính sự kiện.

1.1.5. Các loại hình du lịch

- Du lịch tham quan

Tham quan là hoạt động quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới

xung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một tài nguyên du lịch tự nhiên như một phong

cảnh kỳ thú, cũng có thể là tài nguyên du lịch nhân văn như một di tích, một công trình

đương đại hay một cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất,…

- Du lịch giải trí

Những người đi du lịch theo loại hình này nhằm mục đích tách khỏi sự căng thẳng,

đơn điệu của công việc hàng ngày, tìm kiếm sự thư giãn thoải mái thông qua các hoạt động

giải trí ở điểm đến du lịch. Có thể có nhu cầu tham quan hoặc các nhu cầu khác, song mục

tiêu đó không phải là cơ bản. Khách du lịch thường chọn một nơi yên bình, không đi lại

nhiều.

- Du lịch kinh doanh

Không thể phủ nhận mục đích kinh tế trong chuyến đi của nhiều người, đặc biệt là

thương gia. Mục đích chính của chuyến đi là tìm kiếm cơ hội đầu tư, cơ hội kinh doanh, tìm

đối tác làm ăn,…Song đối với các cơ sở kinh doanh du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú,

đây lại là đối tượng phục vụ đặc biệt. Đối với ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua,

khách du lịch thương gia chiếm tỷ trọng khá lớn về số lượng ( trên 20%) và đặc biệt tỷ trọng

chi tiêu của nhóm người này so với toàn bộ chi tiêu của khách du lịch luôn giữ ở mức cao

nhất.

- Du lịch công vụ

Khách du lịch công vụ đến một nơi nào đó nhằm mục đích tham dự các hội nghị, hội

thảo, hội chợ hoặc tăng cường quan hệ ngoại giao trao đổi văn hóa…Được coi là một loại

hình du lịch vì các đại biểu cũng có nhu cầu về đi lại, ăn, ở, giải trí. Hơn nữa họ còn có

những nhu cầu bổ sung như: tổ chức hội họp, MICE, thông tin liên lạc, dịch thuật,…và

thường có khả năng chi trả lớn. Đặc điểm của loại hình du lịch này là tính thời vụ thường

khá thấp.

- Du lịch thể thao

Đây là loại hình xuất hiện để đáp ứng lòng đam mê các hoạt động thể thao của mọi

người. Để kinh doanh loại hình này, yêu cầu điểm du lịch phải có các điều kiện tự nhiên

thích hợp và có cơ sở trang thiết bị phù hợp cho từng loại hình cụ thể. Mặt khác nhân viên

28

cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp đỡ cho khách du lịch chơi đúng quy

cách.

- Du lịch nghỉ dưỡng

Là những địa điểm có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục

như các bãi biển, hồ, sông suối, suối nước nóng, vùng núi, vùng nông thôn,…Cho đến nay

ngành du lịch Việt Nam chủ yếu vẫn kinh doanh loại hình du lịch này.

- Du lịch lễ hội

Mục đích du lịch lễ hội là tham gia vào các lễ hội được tổ chức ở một địa danh nổi

tiếng nào đó, qua đó nâng cao hiểu biết về văn hóa, tăng cường mở rộng quan hệ giao tiếp.

Lễ hội có thể là: lễ hội truyền thống, festival chuyên đề, liên hoan phim, âm nhạc,…

- Du lịch tôn giáo

Du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách chủ yếu để thỏa mãn các nhu

cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo của tín đồ hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị

giáo. Điểm đến của các luồng khách du lịch này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa…

- Du lịch mạo hiểm

Du lịch mạo hiểm dựa trên nhu cầu tự thể hiện mình, tự rèn luyện mình và khám phá

bản thân của con người, đặc biệt là giới trẻ. Về loại hình du lịch này, Việt Nam là nước có

lợi thế khá lớn bởi được thiên nhiên ưu đãi về các điều kiện địa hình và khí hậu. Với ¾ diện

tích là đồi núi, có nhiều vực sâu, lại nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa nên tạo ra các vùng phù

hợp cho du lịch khám phá.

- Du lịch nghiên cứu học tập

Đây là loại hình du lịch nhằm nâng cao, củng cố kiến thức đã học hoặc tìm hiểu sâu về

các vần đề tò mò muốn tìm hiểu kiến thức bổ sung ở điểm đến du lịch.

- Du lịch thăm thân

Mục đích của chuyến đi du lịch theo loại hình này nhằm thăm viếng bà con, gia đình,

bạn bè…trong quá trình đó họ kết hợp tham quan, tìm hiểu thêm về đặc trưng văn hóa, điều

kiện tự nhiên của khu vực đó và sự thay đổi theo năm tháng mà họ muốn khám phá trải

nghiệm. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, trong những năm gần đây, có

khoảng 20 % số khách đến Việt Nam với mục đích thăm người thân.

- Một số loại hình du lịch đặc thù khác

Du lịch hoài niệm, du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch nông nghiệp, du lịch đánh

bạc, du lịch vườn,…

29

1.1.6. Phát triển bền vững

Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác

nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá … Phát triển là xu hướng tự nhiên tất

yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Phát triển kinh tế - xã

hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát

triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nâng cao các giá trị văn hoá cộng đồng. Sự

chuyển đổi của các hình thái xã hội từ xã hội công xã nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ lên

phong kiến rồi chế độ tư bản … Được coi là một quá trình phát triển.

Mục tiêu của phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người,

làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên, tạo lập một xã hội công bằng và bình đẳng

giữa các thành viên. Các mục tiêu của phát triển thường được cụ thể hoá bằng những chỉ

tiêu về đời sống vật chất như lương thực, nhà ở, điều kiện bảo đảm sức khoẻ và đời sống

tinh thần như giáo dục, mức hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, sự bình đẳng xã hội, tự do

chính trị, truyền thống lịch sử của từng quốc gia.

Sau một thời gian dài phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, bên cạnh những lợi

ích xã hội, nâng cao điều kiện sống cho con người, hoạt động phát triển cũng đã và đang

làm cạn kiệt tài nguyên, gây ra những tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường Trái Đất.

Trước những thực tế không thể phủ nhận là môi trường ngày càng bị ô nhiễm bởi chất thải

từ các hoạt động kinh tế, nhiều hệ sinh thái đã bị suy thoái ở mức báo động, nhiều loài sinh

vật đã và đang có nguy cơ bị diệt vong, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của toàn

xã hội qua nhiều thế hệ …Từ nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới của con người

về hoạt động phát triển, đó là “phát triển bền vững”.

Lý thuyết về phát triển bền vững xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX và chính

thức đưa ra tại Hội nghị của Uỷ Ban thế giới về Phát triển và Môi trường (WCED) nổi tiếng

với tên gọi của Uỷ ban Brundtlant năm 1987.

Trong định nghĩa của Brundtlant thì: “Phát triển bền vững được hiểu là hoạt động phát

triển kinh tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả

năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Tuy nhiên nội dung chủ yếu của vấn đề

này xoay quanh vấn đề kinh tế.

Một định nghĩa khác về phát triển bền vững được các nhà khoa học trên thế giới đề

cập tới một cách tổng quát hơn: “Phát triển bền vững là các hoạt động phát triển của con

người nhằm phát triển và duy trì trách nhiệm của cộng đồng đối với lịch sử hình thành và

30

hoàn thiện sự sống trên trái đất”.

Mặc dù còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm về phát triển bền vững ở những

góc độ khác nhau, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến nay khái niệm mà Uỷ ban Thế

Giới về phát triển và môi trường WCED đưa ra năm 1987 được sử dụng rộng rãi, làm chuẩn

mực để so sánh các hoạt động phát triển có trách nhiệm đối với môi trường của con người.

Theo quan điểm của tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra năm 1980

“Phát triển bền vững phải cân nhắc đến hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và

không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch

hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Điều này khẳng định rằng mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội của hầu hết các nước trên thế giới phải được xác định trong mối quan hệ bền

vững.

Tại hội nghị về Môi trường toàn cầu RIO – 92 và RIO – 92+5, quan niệm về phát triển

bền vững được các nhà khoa học bổ sung, theo đó: “Phát triển bền vững được hình thành

trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế

và hệ văn hoá – xã hội”.

Dưới quan điểm phát triển bền vững này, Jacobs và Sadler (1992) cho rằng phát triển

bền vững là kết quả tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của 3 hệ thống nói trên, đồng

thời xác định phát triển bền vững không cho phép con người vì sự ưu tiên phát triển của hệ

này mà gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay nói cụ thể hơn thì phát triển bền

vững là sự dung hoà các tương tác và sự thoả hiệp giữa 3 hệ thống nói trên nhằm đưa ra các

mục tiêu hẹp hơn cho sự phát triển bền vững bao gồm:

- Tăng cường sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng vào những quyết định mang tính

chất chính trị trong quá trình phát triển của xã hội.

- Tạo ra những khả năng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà không làm suy thoái

tài nguyên thông qua việc áp dụng những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật.

- Giải quyết các xung đột xã hội do phát triển không công bằng.

Ở Việt Nam, lý luận về phát triển bền vững cũng được các nhà khoa học, lý luận quan

tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý

luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển bền vững, đối chiếu với những hoàn cảnh cụ thể ở

Việt Nam.

Chỉ thị số 36/CT của Bộ Chính trị BCHTW Đảng ngày 25/6/1998 đã xác định mục

tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững dựa chủ yếu vào hoạt động bảo vệ

31

môi trường. Đồng thời trong “báo cáo chính trị” tại Đại hội Đảng VIII (1996) cũng đã chính

thức đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một

cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững. [5]

1.1.7. Phát triển du lịch bền vững

Các khái niệm về du lịch bền vững

Khái niệm về du lịch bền vững mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm

về du lịch mềm của những năm 90 và thực sự gây được chú ý rộng rãi trong những năm gần

đây. Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì:

“ Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch

mà vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng các nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.

Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để

chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được

bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống.

( Hens L., 1998)

Mục tiêu của Du lịch bền vững là:

- Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, nên phát triển du lịch

bền vững cần phải bền vững về kinh tế, thu nhập phải lớn hơn chí phí, phải đạt được sự tăng

trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tối ưu hóa đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập

quốc dân, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.

- Phát triển bền vững về môi trường: Phải sử dụng và bảo vệ tài nguyên và môi trường

du lịch theo hướng tiết kiệm, bền vững, đảm bảo sự tái tạo và phục hồi của tài nguyên, nâng

cao chất lượng của tài nguyên và môi trường, thu hút cộng đồng và du khách vào các hoạt

động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên.

- Phát triển bền vững về xã hội: Thu hút cộng đồng tham gia vào các hoạt động du

lịch, tạo nhiều việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương,

cải thiện tính công bằng xã hội, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đáp ứng

cao độ nhu cầu của du khách.

Như vậy, các nhà quy hoạch trong quá trình quy hoạch du lịch cần xem xét đến việc

đáp ứng các mục tiêu phát triển du lịch bền vững của các hệ thống lãnh thổ được quy hoạch.

Để đạt được sự phát triển du lịch bền vững, trong quá trình phát triển du lịch và quy

hoạch du lịch cần phải thực hiện có nguyên tắc.

1.1.8. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững

32

- Sử dụng nguồn lực một cách bền vững : Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài

nguyên thiên nhiên, văn hóa- xã hội là rất cần thiết, nó giúp cho việc kinh doanh phát triển

lâu dài. Du lịch là ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch lại

được coi là sản phẩm du lịch quan trọng nhất, là mục đích chuyến đi của du khách. Nhưng

nhiều loại tài nguyên du lịch không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được. Hoạt động du

lịch đã mang lại hiệu quả về nhiều mặt, nhưng cũng gây nhiều tác động tiêu cực như: làm

cạn kiệt, suy giảm tài nguyên và môi trường…

Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những

phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng tiết kiệm,

hợp lý để lưu lại cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên như thế hệ hiện tại được hưởng.

- Duy trì tính đa dạng: Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn

hóa- xã hội là hết sức quan trọng đối với du lịch bền vững, lâu dài; là cơ sở cho việc tồn tại,

phát triển của ngành du lịch.

- Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải: Sự tiêu thụ quá mức tài nguyên thiên nhiên

và các tài nguyên khác không chỉ dẫn đến sự hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên

mà còn không đảm bảo được nguồn tài nguyên cho sự phát triển lâu dài của ngành Du lịch.

Do vậy, việc quy hoạch phát triển du lịch đúng đắn ngay từ khi lập dự án phải tiến hành

đánh giá tác động từ hoạt động du lịch tới tài nguyên môi trường, từ đó dự kiến những biện

pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm lượng chất thải

vào môi trường là cần thiết.

- Hợp nhất quy hoạch du lịch vào quá trình quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội: Du

lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, nó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với

nhiều ngành kinh tế - xã hội. Ngành du lịch mang lại hiệu quả trực tiếp và gián tiếp đối với

các ngành kinh tế- xã hội. Do vậy, cần hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ

hoạch định chiến lược của địa phương và quốc gia. Quy hoạch phát triển du lịch là một bộ

phận của quy hoạch kinh tế - xã hội, nó làm tăng khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của

ngành du lịch.

- Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc

quyền sở hữu của người dân bản địa như đường giao thông, điện nước, hệ thống xử lý chất

thải, thông tin liên lạc,… có thể không chỉ phục vụ riêng cho ngành du lịch nhưng vẫn thúc

đẩy du lịch phát triển. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực cho kinh tế- xã

hội của địa phương. Do vậy, ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập cho

33

phát triển kinh tế địa phương và quốc gia.

- Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa

phương vào du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường; mà còn góp phần duy

trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sức hấp

dẫn với du khách.

- Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan: Đây là một bước cần thiết

nhằm nâng cao nhận thức của các bên tham gia với các dự án quy hoạch, cùng nhau giải

quyết các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Đồng thời, điều này giúp cho các bên tham gia

có thể ủng hộ cho việc thực hiện các dự án quy hoạch.

- Đào tạo nhân viên: Nguồn nhân lực du lịch là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, nó

quyết định sự phát triển du lịch bền vững. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, các

dự án quy hoạch ngay từ đầu cần phải hoạch định các chiến lược, giải pháp để đào tạo, nâng

cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.

- Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm: Để thực hiện được các mục tiêu phát triển

du lịch bền vững, các dự án quy hoạch du lịch cần hoạch định được các chiến lược,

marketing, quảng bá cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nâng cao sự

tôn trọng của du khách với môi trường tự nhiên, văn hóa - xã hội tại điểm đến, đồng thời

làm tăng sự thỏa mãn của du khách.

- Tiến hành nghiên cứu: Thông tin, số liệu để xây dựng dự án và ngay cả khi dự án

được thực hiện đều không sẵn có. Để các dự án quy hoạch có hiệu quả, ngay từ thời kỳ tiền

dự đến khi thực hiện dự án cần: đầu tư nhiều cho công tác điều tra, giám sát, thống kê, phân

tích, so sánh tổng hợp mới có thể xây dựng được các mục tiêu, các định hướng, các giải

pháp của dự án phù hợp. Công tác nghiên cứu còn giúp cho việc nhận thức rõ được những

thiếu sót, hạn chế của những dự án quy hoạch để từ đó có những giải pháp kế hoạch điều

chỉnh bổ sung kịp thời. Đồng thời kết quả điều tra, thống kê, đánh giá còn cung cấp thông

tin làm cơ sở cho việc quy hoạch của dự án ở những giai đoạn sau.

1.1.9. Tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững

Phát triển du lịch bền vững là một phạm trù còn mới trong chiến lược phát triển du lịch

ở nước ta, vì vậy việc nghiên cứu và xác định các dấu hiệu để nhận biết trạng thái của quá

trình phát triển này là rất quan trọng. Dựa vào các dấu hiệu này các nhà quản lý có thể có

những giải pháp phù hợp và kịp thời nhằm điều chỉnh các hoạt động nhằm đạt tới trạng thái

bền vững hơn cho quá trình phát triển.

34

- Các tiêu chí về kinh tế:

Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định lâu dài của

các chỉ tiêu kinh tế du lịch (chỉ tiêu về khách du lịch, thu nhập, GDP, cơ sở vật chất kỹ

thuật, lao động...). Theo xu thế phát triển hiện nay ở trong nước và trên thế giới, các chỉ tiêu

kinh tế được phát triển liên tục trong nhiều năm (thường là trên dưới 10 năm) ở mức trung

bình khoảng 7-10% năm thì được coi là phát triển bền vững. Tuy nhiên tùy thuộc vào trình

độ phát triển và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi địa phương mà

mức độ tăng trưởng sẽ cao hay thấp khác nhau được lựa chọn để đánh giá tính bền vững.

Với tiêu chí này, cần đề cập đến những chỉ tiêu cụ thể sau:

+ Chỉ tiêu khách du lịch: Đây là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát

triển du lịch. Chỉ tiêu khách du lịch quyết định sự thành công hay thất bại; quyết định sự

phát triển bền vững hay không bền vững của ngành du lịch. Trong chỉ tiêu khách du lịch,

ngoài số lượng tuyệt đối về khách, các chỉ tiêu khác cần phải tính đến trong quá trình phát

triển bền vững đó là số ngày lưu trú trung bình, số khách quay trở lại, khả năng thanh toán,

mức độ hài lòng của khách...

+ Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch (GDP du lịch):. Chỉ

tiêu thu nhập du lịch liên quan chặt chẽ đến chỉ tiêu khách du lịch, sự tăng trưởng liên tục

của khách du lịch sẽ kéo theo sự tăng trưởng về thu nhập và sẽ đóng góp quan trọng cho sự

phát triển bền vững của du lịch.

Như vậy, chỉ tiêu thu nhập du lịch và tổng sản phẩm quốc nội là những tiêu chí quan

trọng, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế.

+ Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật

trong du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiên vận

chuyển, các khu du lịch, các văn phòng lữ hành, các cơ sở dịch vụ bổ sung khác...) là thước

đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về số lượng, chủng loại

và chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, một mặt đáp ứng được mọi nhu

cầu của mọi đối tượng khách, mặt khác góp phần quan trọng vào việc hấp dẫn, thu hút

khách, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Ngành.

- Chỉ tiêu nguồn nhân lực du lịch: Chất lượng đội ngũ lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp

đến chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng

đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác.

+ Tính trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch: Hoạt động tuyên

35

truyên quảng bá du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thu hút khách du lịch.

Tính trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá thông qua việc cung cấp đầy đủ và

trung thực thông tin về tuyến điểm, về sản phẩm du lịch sẽ tạo được lòng tin cho du khách

và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút khách du lịch. Sự gia tăng lượng khách du lịch

đồng nghĩa với việc tăng trưởng về kinh tế thông qua hoạt động du lịch.

- Các tiêu chí về tài nguyên – môi trường:

Phát triển du lịch bền vững phải khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả các

tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên

cho phát triển du lịch cần được quản lý và giám sát để một mặt đáp ứng được nhu cầu hiện

tại, mặt khác phải đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Với mục tiêu này,

trong quá trình phát triển, ngành du lịch cần phải có những đóng góp tích cực cho công tác

tôn tạo nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường… để giảm thiểu các tác động của hoạt động

du lịch đến nguồn tài nguyên môi trường.

+ Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch đầu tư tôn tạo và bảo tồn: Các khu, điểm du

lịch là hoạt động trong phát triển du lịch, trong đó tài nguyên du lịch đóng vai trò trung tâm.

Thực tế cho thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc thì sức hấp dẫn và hiệu

quả của hoạt động du lịch càng cao.

Mục tiêu phát triển bền vững là nhằm hạn chế tối đa việc khai thác quá mức và lãng

phí các nguồn tài nguyên, nhất là các nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Nơi nào

càng có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, thì chứng tỏ hoạt động phát

triển du lịch ở đó càng với mục tiêu phát triển bền vững.

Theo tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được

xem là trong trạng thái phát triển bền vững.

+ Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được quy hoạch: Quy hoạch du lịch là quá

trình kiểm kê, phân tích, đánh giá các nguồn lực và các điều kiện có liên quan để phát triển

du lịch, từ đó xác định các phương án phát triển phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu

quả tiềm năng tài nguyên du lịch và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của hoạt

động du lịch đến tài nguyên – môi trường, mang lại hiệu quả cao về kinh tế và xã hội.

+ Áp lực đối với môi trường – tài nguyên tại các khu, điểm du lịch: Việc phát triển quá

nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá và quản lý tác động

đến môi trường tại các khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính gây ra những hậu

quả nghiêm trọng về môi trường tại đây và kết quả sẽ là sự phát triển thiếu bền vững của du

36

lịch.

+ Cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch: Dự đoán sự gia tăng của số lượng

khách là tiêu chí quan trọng cho sự phát bền vững về mặt kinh tế, số lượng khách đến một

điểm du lịch càng tăng sẽ chứng tỏ sự phát triển lớn mạnh của điểm du lịch đó. Tuy nhiên

việc gia tăng mạnh mẽ về số lượng khách du lịch sẽ đồng nghĩa với việc các nguồn tài

nguyên du lịch bị khai thác quá mức để đáp ứng cho các nhu cầu của du khách dẫn đến tình

trạng suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên ( một số loài sinh vật đặc hữu được dùng

cho các nhu cầu sản xuất hàng lưu niệm, các món đặc sản, các vị thuốc quý…). Sự gia tăng

nhanh của du khách còn gây ra hiện tượng quá tải về chất thải tại các điểm du lịch, làm cho

môi trường tại nơi đó không đảm bảo và dẫn đến hiện tượng bị suy thoái môi trường.

Do vậy, việc giới hạn số lượng khách đến trong một chu kỳ phát triển là vấn đề quan

trọng và cần thiết, điều này sẽ giúp cho việc duy trì và bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo

cung cấp đủ nguồn năng lượng để phục vụ nhu cầu cho khách du lịch.

+ Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và

bảo vệ môi trường: Mức độ đóng góp của ngành du lịch cho công tác bảo tồn và nâng cấp

nguồn tài nguyên được thể hiện qua tỷ lệ giữa phần đóng góp và tổng nguồn thu. Tỷ lệ ngày

càng lớn thì mức độ đóng góp càng cao và đảm bảo cho việc khai thác các nguồn tài nguyên

phục vụ phát triển du lịch theo hướng bền vững.

- Các tiêu chí về xã hội

Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành Du lịch phải có những đóng góp cụ

thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo công ăn việc làm cho người lao động; tham

gia xóa đói giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở những vùng sâu,

cùng xa – nơi có tài nguyên du lịch; chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự

công bằng trong phát triển; góp phần hỗ trợ các ngành khác cùng phát triển.

+ Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ: việc phát triển hệ

thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội, tạo điều kiện

để một bộ phận người lao động ở địa phương có công ăn việc làm, cải thiện chất lượng cuộc

sống, nâng cao dân trí… Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn

của xã hội (nhân lực, trí lực, vật lực) cho phát triển du lịch, phù hợp với tính chất xã hội hóa

cao của du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.

+ Tác động đến xã hội từ các hoạt động du lịch: Để đảm bảo cho sự phát triển du lịch

bền vững về mặt xã hội, vấn đề đặt ra là các tác động tiêu cực (không thể tránh khỏi) đến xã

37

hội từ các hoạt động phát triển du lịch cần phải được kiểm soát và quản lý.

+ Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du

lịch: Để đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững, cần có sự ủng hộ và hợp tác của cộng

đồng dân cư địa phương – chủ nhân của các nguồn tài nguyên du lịch. Do vậy mức độ hài

lòng của cộng đồng dân cư đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ảnh mức độ bền vững của

du lịch trong quá trình phát triển.

1.2. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững

1.2.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở một số nước

- Khu bảo tồn Annapurna (ACAP) – Nê Pan: Ở khu bảo tồn này phát triển du lịch sinh

thái dược sử dụng như là đòn bẩy để phát triển cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn sự

đa dạng sinh học và các hoạt động phát triển cộng đồng bền vững ở ACAP.

Trong khu bảo tồn, các chương trình đã được đưa vào mục tiêu giảm bớt sức ép đối

với nguồn tài nguyên rừng, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư địa

phương và làm cho du lịch có trách nhiệm hơn. Các vườn ươm đã được xây dựng nhằm

cung cấp cây giống cho cộng đồng và các chương trình trồng rừng. Để giải quyết vấn đề củi

đốt, các kho chứa dầu hỏa, khí hóa lỏng và các máy phát điện thủy lực loại nhỏ được xây

dựng dưới sự quản lý của cộng đồng. Tại những khu vực thường xuyên có khách tham quan

du lịch, các chương trình chăn nuôi, lâm nghiệp, nông nghiệp được triển khai nhằm tăng thu

nhập cho người dân địa phương, đồng thời cung cấp lương thực thực phẩm cho khách du

lịch. Ngoài ra, các chương trình giáo dục du khách cũng như người dân bản địa và công tác

thông tin được ưu tiên triển khai thực hiện. Hoạt động chủ yếu ở ACAP là xây dựng năng

lực địa phương, rồi cuối cùng chính người dân địa phương quyết định cuộc sống của mình.

Họ là những nhân tố hoạt động chính và họ chính là những người hưởng lợi chính. Cộng

đồng dân cư địa phương được tổ chức đào tạo và giao nhiệm vụ để bảo vệ chất lượng các

nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn riêng có của mình; đó là nhân tố chính thu hút du

khách cũng là cơ sở nền tảng cho nguồn sinh sống bền vững.

- Du lịch Thenmala – Kerala, Ấn Độ: Mục tiêu là phát triển Thenmala và vùng lân cận

thành điểm đến du lịch hấp dẫn; xúc tiến du lịch sinh thái trên cơ sở các nguyên tắc bền

vững; xây dựng các điểm đến du lịch theo đúng quy hoạch, trong đó nhấn mạnh việc phát

triển du lịch bền vững, làm mẫu hình cho các chương trình phát triển du lịch khác.

38

Để đạt được các mục tiêu trên, ba nhóm sản phẩm du lịch đã được đầu tư phát triển là:

Du lịch thân thiện với môi trường, Du lịch sinh thái và Du lịch hành hương. Du lịch thân

thiện với môi trường được phát triển ở ngoại vi khu bảo tồn hoang dã Shenduruney với mục

đích giảm áp lực lên khu bảo tồn. Trong khu bảo tồn chỉ dành cho những khách du lịch sinh

thái thật sự. Những du khách khác có thể trải nghiệm các sản phẩm thân thiện với môi

trường như: Các lối mòn tự nhiên nhỏ, xe đạp địa hình hay lối đi bộ trên cao nhìn xuống.

Nhằm giảm thiểu tác động lên hệ sinh thái rừng trong khu bảo tồn, một số phương tiện được

cấp ở Thenmala như: Du thuyền trên hồ, các lối đi bộ, khán đài vòng, đài phun nước có

nhạc, xe đạp địa hình… Du lịch sinh thái được quy hoạch phát triển trong khu rừng xung

quanh. Trung tâm giáo dục môi trường được thành lập. Khu bảo tồn hoang dã Shenduruney.

1.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam

- Mô hình phát triển du lịch sinh thái Núi Voi của Công ty Du lịch Phương Nam (Đà

Lạt – Lâm Đồng): Các hoạt động du lịch ở đây đều được gắn liền với thiên nhiên, gắn với

văn hóa cộng đồng (chủ yếu là dân tộc Chứt) và có trách nhiệm với công tác bảo tồn các giá

trị tự nhiên và văn hóa. Các dịch vụ du lịch ở đây được mang đậm màu sắc của tự nhiên

(vận chuyển bằng voi, ngựa, thuyền; ngủ nhà sàn ở trong rừng, thậm chí cả ở chòi trên cây

cao) và văn hóa cộng đồng (khách du lịch được tham gia vào các hoạt động cộng đồng). Mô

hình du lịch sinh thái Núi Voi đã và đang được tiến hành có hiệu quả và thu hút ngày càng

nhiều khách tham quan du lịch, nghiên cứu…

- Mô hình phát triển du lịch cộng đồng ở Sapa: Mô hình này quan tâm đến việc

khuyến khích và tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch, thông qua

đó nâng cao lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng dân cư trực tiếp tham gia vào các dịch vụ

du lịch như hướng dẫn khách du lịch, phục vụ khách (lưu trú, ăn uống) tại nhà dân, sản xuất

và bán hàng lưu niệm, biểu diễn nghệ thuật văn hóa dân gian…

1.2.3. Phát triển du lịch bền vững ở vùng Đông Nam Bộ

Miền đất cao này nằm ngay dưới chân các cao nguyên Bảo Lộc – Di Linh, chạy dài từ

tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đến tỉnh Tây Ninh, rìa phía Nam đổ thoai thoải và nối liền với đồng

bằng châu thổ sông Cửu Long.

Đông Nam Bộ là một khu vực có nền kinh tế năng động với trung tâm là Thành phố

Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh

39

gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và hành lang du lịch Xuyên Á. Với diện tích 23605,2 km2. Dân số: 14566,5 nghìn người; mật độ: 617 người/ km2.

Vùng Đông Nam Bộ là cửa ngõ mở đầu của hành lang du lịch Xuyên Á, giữ vai trò

quan trọng đối với du lịch Việt Nam.

Tài nguyên du lịch nhân văn gồm cụm di tích lịch sử - văn hóa ở Thành phố Hồ Chí

Minh, các di tích cách mạng Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh), căn cứ Tà Thiết (Bình

Phước). Các di tích văn hóa gắn với đạo Cao Đài, lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh).

Về cảnh quan tự nhiên có núi Bà Đen, hồ Dầu Tiếng ( Tây Ninh), Thác Mơ, núi Bà Rá

( Bình Phước), Cần Giờ ( Thành phố Hồ Chí Minh). Bờ biển khu vực này thuộc các địa

phương : Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực ven biển này có nhiều bãi

biển đẹp là khu nghỉ mát nổi tiếng như: bãi Sau, bãi Dứa

(Vũng Tàu). Côn Đảo ( Bà Rịa – Vũng Tàu) là tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, biển

đảo có giá trị của cả nước.

Đông Nam Bộ cũng đã quy hoạch một số điểm du lịch phát triển theo hướng bền vững

như “Mô hình phát triển du lịch sinh thái Cát Tiên của ban quản lý vườn quốc gia Cát Tiên”.

Mục đích của mô hình này là đưa du khách gần gũi với thiên nhiên để khám phá và nghiên

cứu những giá trị của thiên nhiên và bản sắc văn hóa dân tộc Mạ, S’tiêng, đồng thời nâng

cao trách nhiệm trong việc bảo vệ các giá trị đó. Các sản phẩm du lịch đã và đang được khai

thác ở đây là du lịch sinh thái, du lịch tham quan, nghiên cứu, dã ngoại, mạo hiểm. Các đối

tượng đang được tham quan, nghiên cứu và khám phá bao gồm Bàu Sấu, Bàu Chim; làng

dân tộc Mạ, S’tiêng ở Tài Lài; rừng Bằng Lăng; thác Bến Cự; thác Mỏ Vẹt; thác Trời, thác

Dựng; khu di chỉ khảo cổ Cát Tiên; xem thú về ban đêm,…

Vùng Đông Nam Bộ có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông

Thị Vải,…Mang lại giá trị rất lớn cho nông nghiệp cũng như phát triển du lịch sinh thái của

vùng.

Vùng tập trung khai thác các sản phẩm du lịch đặc trưng như: Du lịch MICE gắn với

văn hóa, lễ hội, giải trí; du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch giải trí cuối tuần, du lịch thể thao,

du lịch mua sắm và du lịch gắn với cửa khẩu.

Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch của vùng:

+ Thành phố Hồ Chí Minh gắn với khu rừng sác Cần Giờ và hệ thống di tích lịch sử -

văn hóa nội thành.

+ Tây Ninh gắn với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, núi Bà Đen, hồ Dầu Tiếng.

40

+ Thành phố Vũng Tàu gắn với Long Hải, Phước Hải, côn Đảo.

Hệ thống các khu, điểm du lịch

Căn cứ đặc điểm tài nguyên du lịch và thực tế nhu cầu phát triển, định hướng quy

hoạch phát triển các khu du lịch quốc gia, điểm du lịch quốc gia và đô thị du lịch như sau:

 4 khu du lịch quốc gia:

1. Khu du lịch quốc gia núi Bà Đen.

2. Khu du lịch quốc gia Cần Giờ.

3. Khu du lịch quốc gia Long Hải – Phước Hải.

4. Khu du lịch quốc gia Côn Đảo.

 5 điểm du lịch quốc gia:

1. Điểm du lịch quốc gia Tà Thiết.

2. Điểm du lịch quốc gia TW Cục Miền Nam.

3. Điểm du lịch quốc gia Cát Tiên.

4. Điểm du lịch quốc gia Hồ Trị An – Mã Đà.

5. Điểm du lịch quốc gia Củ Chi.

 1 đô thị du lịch: Vũng Tàu.

Ngoài ra, còn chú trọng phát triển các điểm như: Thác Mơ – Bà Rá ( Bình Phước);

Bình Châu, Phước Bửu, Núi Dinh ( Bà Rịa – Vũng Tàu),…

Nhìn chung vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng rất lớn trong việc khai thác và phát

triển du lịch với điều kiện tự nhiên phong phú cùng với văn hóa đa dạng vùng có đủ điều

kiện để xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập cũng như lợi

nhuận cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu này, vùng cần liên kết hợp tác để tạo ra

sản phẩm đồng bộ, đa dạng sản phẩm và tạo nên sản phẩm du lịch đặc trưng.

1.2.4. Phát triển du lịch bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh

Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ

Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả

điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành

phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419

người/km². Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh

chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước. Nhờ điều

kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan

trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường

41

thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế,

tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí,

Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.

Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng,

Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước về số lượng bảo tàng. Nơi đây cũng là một đô

thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay có hơn một nghìn ngôi chùa,

đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19

theo các phong cách Roman, Gothic. Ngoài ra trong thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành

phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng như: Nhà Hát Lớn, Dinh Độc Lập, Bến Nhà

Rồng… Kiến trúc hiện đại thì có Diamond Plaza, Saigon Trade Centre… Khu vực ngoài

trung tâm có các điểm du lịch như Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, vườn cò Thủ

Đức. Bên cạnh đó thành phố còn có khá nhiều khu vui chơi giải trí như Công viên Đầm Sen,

Suối Tiên, Thảo Cầm Viên,…hệ thống nhà hàng quán ăn cũng là một thế mạnh của ngành

du lịch thành phố.

Từ những thế mạnh đó, ngành du lịch của thành phố đã không ngừng đầu tư phát triển,

từ năm 2001 đến nay, lượng khách du lịch quốc tế đến thành phố không ngừng tăng lên, nếu

như năm 2001 lượng khách quốc tế đến thành phố là 1226 nghìn lượt khách thì đến năm

2006 đã tăng lên 2340 nghìn lượt ( tăng 17,5 % so với cùng kỳ) và đến năm 2010 là 3100

nghìn lượt ( tăng 19,2% so với cùng kỳ)

Bảng 1.1. Khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh

Đơn vị 2001 2006 2007 2008 2009 2010

tính

Khách du lịch Nghìn 1226 2350 2700 2800 2600 3100

quốc tế đến người

Thành Phố Hồ

Chí Minh

Khách du lịch Nghìn 2330 3583,5 4229,4 4235,8 3772,3 5049,8

quốc tế đến Việt người

Nam

Tỷ lệ khách du % 52,6 65,6 63,8 66,1 68,9 61,4

lịch đến TP Hồ

Chí Minh

(Nguồn: Tổng cục du lịch - Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch thành phố Hồ Chí Minh)

so với cả nước

42

Cơ sở lưu trú ờ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đã gia tăng nhanh chóng, 641 khách

sạn với 17.646 phòng. Thành phố có 11 khách sạn 5 sao như Caravelle, Sheraton,

Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor

Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Bên cạnh đó thành

phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Theo dự

kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10 nghìn phòng 4 hoặc 5 sao.

Về doanh thu du lịch của thành phố trong những năm qua đã tăng lên đáng kể. Năm

2001 là 3.762 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên 13.350 tỷ đồng, năm 2010 là 44.918 tỷ đồng

chiếm 45,8% doanh thu du lịch cả nước.

Phát triển du lịch tạo ra nhiều việc làm cho lực lượng lao động thành phố, nhờ đó cải

thiện đươc chất lượng cuộc sống của người dân. Trong những năm qua lực lượng lao động

trong ngành du lịch thành phố không ngừng tăng lên. Năm 2005 toàn thành phố có 121.935

lao động làm việc trong lĩnh vực nhà hàng khách sạn, du lịch. Thì đến năm 2011 con số đó

đã tăng lên 209.439 người.

Tóm lại với điều kiện cơ sở hạ tầng được xem là hoàn thiện nhất cả nước cùng với các

tiềm năng về du lịch phong phú. Thành phố là một điểm đến đầy hấp dẫn đối với du khách.

Với những thế mạnh trong khu vực nói chung và của quốc gia nói riêng, các giá trị văn hóa

độc đáo, các sản phẩm du lịch đặc trưng từ truyền thống cho đến hiện đại, Thành phố Hồ

Chí Minh hội đủ các điều kiện để phát triển du lịch một cách bền vững.

1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch

1.3.1. Dân cư và lao động

Số lượng người lao động trong hoạt động sản xuất và dịch vụ ngày càng đông gắn liền

trực tiếp với kinh tế du lịch. Việc nắm vững số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân

khẩu, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch.

1.3.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu, làm xuất hiện nhu

cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực.

Công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo nên những tiền đề nâng

cao thu nhập của người lao động, đồng thời tăng thêm khả năng đi du lịch.

Nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn vì du lịch không thể phát triển được nếu như không

bảo đảm việc ăn uống cho khách du lịch.

43

Mạng lưới giao thông cũng là một trong những tiền đề kinh tế quan trọng nhất để phát

triển du lịch.

1.3.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch

Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành

một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch.

1.3.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật

Cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa và tự động hóa quá trình sản xuất liên

quan chặt chẽ với nhau. Chúng là những nhân tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu du lịch và

hoạt động du lịch.

1.3.5. Đô thị hóa

Là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, đô thị hóa như nhân tố phát sinh góp

phần thúc đẩy mạnh nhu cầu của du lịch.

1.3.6. Điều kiện sống

Là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu

nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ

mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục,…

1.3.7. Thời gian rỗi

Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu thời gian

rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch.

1.3.8. Các nhân tố chính trị

Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu

nghị giữa các dân tộc. Ngược lại chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên tình

trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn thất cả đến môi

trường tự nhiên.

44

45

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ

CHI

2.1. Khái quát về huyện Củ Chi

Huyện Củ Chi nằm trong vành đai xanh của Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện

tích tự nhiên là 43.496 ha, chiếm 20,45% diện tích của thành phố, đứng thứ hai trong số các

quận huyện của thành phố. Số dân là 355822 người ( năm 2009). Huyện có trung tâm hành

chính là thị trấn Củ Chi, cách thành phố 50km theo trục đường xuyên Á. Toàn huyện có 20

xã 1 thị trấn. Nơi đây được biết đến như một vùng đất anh hùng với 30 năm kháng chiến

chống quân xâm lược. Với tên gọi hào hùng “ Vùng đất thép thành đồng”. Quân và dân Củ

Chi đã làm nên những trang sử rạng ngời của dân tộc, tiếp bước truyền thống ông cha xây

dựng nên non song bờ cõi nước nhà. Nơi đây nổi tiếng với khu di tích lịch sử Địa đạo Củ

Chi, đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của

thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Đây chính là tiềm năng to lớn để

thúc đẩy sự phát triển du lịch của huyện. Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng

đem lại nguồn thu lớn cho địa phương trong thời kỳ đổi mới.

Củ Chi là một huyện ngoại thành nằm về phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh

có tọa độ địa lý từ 10053’ đến 10010’ vĩ Bắc và từ 106022’ đến 106040’ kinh Đông.

Phía Bắc giáp huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh.

Phía Nam giáp huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh.

Phía Đông giáp tỉnh Bình Dương.

Phía Tây giáp tỉnh Long An.

Huyện Củ Chi nằm trên một vùng đất chuyển tiếp từ vùng đất cao của núi rừng miền

Đông Nam Bộ xuống vùng đất thấp của miền Đồng bằng sông Cửu Long. Thế nên trong bài

văn bia của nhà thơ Viễn Phương mới có câu “ Vùng đất sáng miền Nam Tổ quốc, nửa tiếp

Trường Sơn, nửa nối đồng bằng”.

Địa hình huyện Củ Chi khá đơn giản, có xu thế thấp dần theo 2 hướng Tây Bắc -

Đông Nam và Đông Nam - Tây Nam với độ cao từ 0 - 8m được phân thành 3 vùng: vùng

gò đồi, vùng triền, vùng bưng trũng. Chúng tạo nên những miền địa hình và cảnh quan khá

đa dạng.

46

Huyện Củ Chi nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích

đạo. Khí hậu tương đối ôn hòa quanh năm, tạo điều kiện để các thảm thực vật quanh năm

xanh tốt với các hệ sinh thái như: hệ sinh thái cạn, hệ sinh thái ven sông,…

Huyện Củ Chi có thế mạnh là tuyến đường Xuyên Á chạy dọc suốt chiều dài của

huyện nên việc lưu thông với các tỉnh và thành phố khá thuận lợi, giúp việc kết nối các

điểm, tuyến du lịch với các tỉnh bạn trở nên dễ dàng hơn.

Nằm ở phía Đông Bắc và chạy suốt chiều dài giữa huyện Củ Chi và tỉnh Bình Dương

với chiều dài 54km, sông Sài Gòn kết hợp với các hệ thống kênh, rạch tự nhiên khác như:

rạch Tra, rạch Đường Đá, … tạo thành hệ thống giao thông đường thủy vận tải hành khách

cũng như hàng hóa đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì tuyến sông Sài Gòn nằm trong dự án

phát triển du lịch đường thủy của Thành phố Hồ Chí Minh, hứa hẹn một tương lai tươi sáng

cho các loại hình du lịch của huyện phát triển.

Là một huyện nằm trong trung tâm kinh tế của cả nước, huyện Củ Chi có ưu thế quan

trọng về vị trí phát triển các ngành kinh tế và dịch vụ du lịch, là điểm dừng chân khá quan

trọng trên tuyến du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh, là điểm khởi đầu cho các tuyến tham

quan khám phá vùng văn hóa phía Nam, là tuyến đường huyết mạch đến với nước bạn Cam-

pu-chia sẽ tạo điều kiện thu hút du khách đến với huyện Củ Chi và Thành phố Hồ Chí

Minh.

Có thể khẳng định, với một vị trí địa lý quan trọng tiếp giáp với các tỉnh bạn, tạo thuận

lợi cho việc giao lưu kinh tế giữa huyện với các tỉnh cùng với bề dày lịch sử trong hai cuộc

kháng chiến đã tạo nên một huyện Củ Chi hào hùng với những nét đa dạng trong văn hóa và

đời sống. Đây chính là tiềm năng, là cơ sở quan trọng để khai thác và phát triển du lịch, là

điều kiện để huyện Củ Chi trở thành một điểm đến không thể thiếu khi du khách đặt chân

đến thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. Tài nguyên và những điều kiện phát triển du lịch

2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên

2.2.1.1. Địa hình

Địa hình huyện Củ Chi mang đầy đủ dấu ấn địa hình của vùng Đông Nam Bộ với độ

cao trung bình từ 5m đến 15m và chuyển dần sang địa hình trũng thấp của đồng bằng Tây

Nam Bộ với độ cao trung bình từ 0,8m đến 2m. Dựa vào độ cao có thể chia ra làm 2 dạng

địa hình chính:

47

- Dạng địa hình có độ cao > 5m: dạng địa hình này phân bố ở vùng trung tâm, phía

Bắc, phía Đông và phía Tây Bắc. Đất đá chủ yếu là các trầm tích Pleistoxen thượng, hệ

tầng Củ Chi, Pleistoxen trung - thượng, hệ tầng Thủ Đức. Do phân bố ở vị trí cao nên không

bị ngập nước, rất thuận tiện cho trồng cây ăn trái và cây công nghiệp.

- Dạng địa hình có độ cao <5m: dạng địa hình này chủ yếu phân bố ở phía Tây Nam và

Nam. Đất chủ yếu là các trầm tích sông, sông biển, sông đầm lầy. Do phân bố ở vị trí thấp

nên một số nơi vào mùa mưa bị ngập nước vì vậy rất thuận tiện cho trồng cây nông nghiệp.

Vậy cấu tạo địa hình của huyện Củ Chi khá đặc biệt với hai dạng địa hình khác nhau

tạo nên những đặc trưng cảnh quan khác nhau. Nếu như phía Bắc và phía Đông, phía Tây

Bắc với kiểu địa hình đặc trưng Đông Nam Bộ thì phía Tây Nam và phía Nam lại mang

dáng vẻ của Tây Nam Bộ. Chính điểm này tạo nên nét đa dạng của cảnh quan huyện Củ

Chi.

2.2.1.2. Khí hậu

Huyện Củ Chi nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích

đạo. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng

12 đến tháng 4 năm sau, với đặc trưng chủ yếu là:

- Nhiệt độ trung bình tương đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng 26,60C. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28,80C ( tháng 4), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất 24,80C ( tháng 12) Tuy nhiên biên độ nhiệt giao động giữa ngày và đêm chênh lệch khá lớn, vào mùa khô có trị số 8_100C.

- Lượng mưa trung bình năm từ 1300mm - 1770mm, tăng dần lên phía Bắc theo chiều

cao địa hình, mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm, mưa tập trung vào tháng

7,8,9. Vào tháng 12, tháng 1 lượng mưa không đáng kể.

- Độ ẩm không khí trung bình năm khá cao 79,5% cao nhất vào tháng 7,8,9 là 80 -

90%, thấp nhất vào tháng 12, tháng 1 là 70%.

- Tổng số giờ nắng trung bình trong năm là 2100 - 2920 giờ.

- Củ Chi có chế độ gió mùa, ít bão thường được phân bố vào các tháng trong năm như

sau:

+ Tháng 11 đến tháng 5: gió hướng Đông Nam, vận tốc trung bình 1,5 - 2,5m/s.

+ Tháng 5 đến tháng 9: thịnh hành hướng gió Tây Nam, vận tốc trung bình: 1,5 - 3m/s.

+ Tháng 10 đến tháng 11: thịnh hành hướng gió Đông Bắc, vận tốc trung bình: 1 -

1,5m/s.

48

Nhìn chung khí hậu huyện Củ Chi tương đối ôn hòa, là điều kiện thuận lợi để khai thác

du lịch quanh năm. Bên cạnh đó với thời tiết ổn định không có những hiện tượng bất thường

giúp người dân địa phương thuận lợi trong canh tác cũng như trong thu hoạch mùa vụ, đồng

thời trong nông nghiệp còn có thể tạo ra những sản phẩm trái mùa để thu hút du khách tham

quan ở mọi thời điểm trong năm.

2.2.1.3. Nguồn nước

Củ Chi là một huyện có tài nguyên nước mặt khá phong phú với hơn 100km kênh

rạch, lượng mưa lớn 2729,5mm/ năm.

Sông ngòi: chủ yếu là các sông ngòi, kênh, rạch. Trên địa bàn Củ Chi, hệ thống sông

ngòi kênh rạch phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào khu vực sông Sài Gòn và các xã

phía Nam, Tây Nam huyện với tổng chiều dài độ khoảng 345 km. phần lớn các sông rạch

chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy văn sông Sài Gòn như: rạch Tra, rạch Sơn, rạch

Bến Mương; kênh Thầy Cai chịu ảnh hưởng của sông Vàm Cỏ Đông.

- Sông Sài Gòn là sông lớn nhất trong địa bàn huyện, theo hướng Tây Bắc_ Đông

Nam, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Củ Chi và tỉnh Bình Dương với chiều dài qua huyện

là 45km, là điều kiện tốt để khai thác các tuyến du lịch trên sông. Chiều rộng trung bình của

sông ( đoạn trung lưu): 200m, độ sâu 16m. Lưu lượng sông Sài Gòn thay đổi theo mùa,

thường mùa mưa lớn hơn 1 - 5 lần mùa khô. Lưu lượng nước sông còn tùy thuộc vào kỳ

triều. Sông Sài Gòn làm nguồn nước sinh hoạt cho TP Hồ Chí Minh, đồng thời phục vụ đắc

lực cho nhu cầu vận chuyển đường sông của huyện Củ Chi.

- Rạch Tra là ranh giới giữa hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, dài 17km, rộng 30 - 34m,

nối với sông Sài Gòn.

- Kênh Thầy Cai dài 24km, rộng 45m, sâu 3m là con kênh lớn nằm phía Tây Nam

huyện, là ranh giới giữa huyện Củ Chi và huyện Đức Hòa tỉnh Long An. Kênh Thầy Cai nối

rạch Trảng Bàng ( tỉnh Tây Ninh) với sông Vàm Cỏ Đông, thông với rạch Tra qua kênh An

Hạ. Ngoài ra Củ Chi còn có nhiều kênh rạch nhỏ nằm ven sông Sài Gòn như: rạch Bà

Phước, rạch Dừa,…

- Kênh Đông là một công trình thủy lợi lớn nhất các tỉnh phía Nam, dẫn nước từ hồ

Dầu Tiếng về huyện Củ Chi. Riêng trên địa bàn huyện Củ Chi, kênh Đông đã tạo nguồn

nước tưới cho hơn 10000 ha, vùng gò và triền phía Tây và phía Bắc của huyện.

Hiện nay nguồn nước mặt được sử dụng với mục đích cấp nước tưới tiêu, tiêu thoát

nước, nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải và du lịch giải trí. Năm 2002 toàn huyện đã sử

49

dụng 480 triệu m3/năm để tưới cho khoảng 16500ha đất nông nghiệp ( 13000ha lúa và

3500ha cây hoa màu, cây ăn quả,…).Nước tưới chủ yếu được khai thác từ nguồn nước kênh

Đông và một phần nước từ các sông rạch, ao hồ hiện có cũng như khai thác nguồn nước

ngầm tại chỗ. Do có trữ lượng lớn, nên mặc dù lưu lượng khai thác khá lớn nhưng vẫn

không ảnh hưởng đến tiềm năng cấp nước của các nguồn nước này.

Nước ngầm: nguồn nước ngầm huyện Củ Chi khá phong phú và đang giữ vị trí tương

đối quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. Chất lượng nước nhìn

chung khá tốt trừ các khu vực bưng trũng Tam Tân - Thái Mỹ. Ngoài ra nguồn nước ngầm

của huyện được bổ sung một lượng nước ngầm đáng kể bởi hệ thống kênh Đông Củ Chi làm

nâng mực nước ngầm từ 2 - 4m. Huyện có 4 tầng chứa nước chính trong đó 3 tầng chứa

nước Plesitoxen, Pliocen trên và Pliocen dưới là những tầng chứa nước có trữ lượng lớn, có

nhiều tiềm năng trong việc cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất.

Hiện nay, tại Củ Chi phần lớn nước cấp được sử dụng từ nguồn nước mặt, mức độ

khai thác nước ngầm còn hạn chế, chủ yếu tập trung tại các tầng nông (Pleistoxen hoặc một

số tại tầng Pliocen trên) vì vậy trữ lượng nước và chất lượng nước vẫn còn tốt.

2.2.1.4. Sinh vật:

* Thực vật: Củ Chi là huyện có tỉ lệ cây xanh khá cao so với các quận huyện khác.

Ngoài diện tích đất nông nghiệp thì địa bàn còn có khoảng 530 ha chủ yếu là rừng trồng.

Tập trung nhiều nhất ở khu Đồng Dù thuộc địa phận Phước Vĩnh An và khu Tam Tân thuộc

địa phận Tân An Hội. Ngoài thảm thực vật cây trồng, hệ thực vật dọc theo bờ sông Sài Gòn

và rạch chính cũng khá phong phú.

Trong những năm chiến tranh, Củ Chi là vùng đất bị tàn phá nặng nề, tài nguyên sinh

vật của Củ Chi chỉ mới hồi sinh sau năm 1975. Diện tích rừng thứ sinh 81 ha, rừng trồng lên

tới 45 ha với mục đích là phục hồi và tôn tạo sinh cảnh. Có 3 hệ sinh thái chính ở Củ Chi là:

sinh thái cạn, sinh thái ven sông và sinh thái úng phèn kéo dài từ Thái Mỷ tới Bắc Bình

Chánh.

- Hệ sinh thái cạn: rừng tự nhiên ( rừng thứ sinh) chủ yếu ở khu vực Bến Dược còn lại

rải rác ở các nơi như Bến Đình…Rừng tự nhiên gồm trảng cỏ, cây bụi và một số loại cây gỗ

lớn như: Bằng Lăng 40% ( Lagerstronia sp), Dầu Lông

( Dipterocarpus indicatus), Gõ mật ( Sindoracochinchin - ensis),..Tại đây hội đoàn thực vật

ưu hợp được hình thành gồm: sim, mua, coke, đổ cọng, sống rắn, tam lang,…

50

Rừng trồng trên toàn huyện tập trung ở các nơi (Bến Dược 45 ha, Bến Đình 17 ha),

rừng trồng trên 15 năm tuổi với các loại cây chủ yếu là keo lá tràm. Tại đây môi trường sinh

thái được cải thiện rất tốt nên đã trồng cây lâu năm như: sao, dầu, gõ mật,… nhằm phục hồi

lại sinh cảnh rừng tự nhiên của khu vực rừng miền Đông Nam Bộ.

- Hệ sinh thái ven sông: trên những vùng kênh, rạch nhỏ, các bưng trũng, nước chảy

yếu, hay các kênh rạch nằm sâu trong vùng trũng nội đồng của huyện Củ Chi

( các nhánh phụ của sông Sài Gòn ở vùng Phú Hòa Đông, Bến Đình…) thường tập trung các

hội đoàn như: hội đoàn Chiếc, Xăng máu và hội đoàn Lục Bình, Nga, Nghể, Mồm mở, Môn

nước,…

Hiện nay, kiểu thực vật này chỉ gặp chủ yếu ở ven sông Sài Gòn cũng như ở các nhánh

phụ của sông và hệ thống kênh rạch nội đồng nơi mà đất đai chủ yếu là đất nông nghiệp

chưa bị quá trình đô thị hóa cũng như bị tác động của các hoạt động công nghiệp nên đất đai

chưa bị chiếm dụng nhiều và môi trường tự nhiên ở đây ít bị tác động.

- Hệ sinh thái của vùng úng phèn

Quần xã Năng ( Eleocharis dulcis - Eleocharis geniculate, Eleocharis ochrostachys,

Eleocharis spiralis): kiểu thực vật thường gặp ở vùng kênh rạch, ao trũng thoát nước kém

như khu vực ngập nước dọc kênh An Hạ, kênh Đông, Tam Tân - Thái Mỹ.

Quần xã tràm ( Melaleuca cajeputi): kiểu này phân bố dọc theo kênh An Hạ, kênh

Xáng, Thái Mỹ. Cây Tràm mọc thành từng đám cao hay cây bụi dọc bờ kênh và trên đất cao

( hiện chủ yếu là Tràm trồng). Bên dưới là các loại thường gặp như: Đưng Năng, Cỏ Mật

nhiều Gié, Sậy, Muôi, Ráng đại, Mồm mốc, Sen, Cỏ ống, Cỏ chỉ,…

* Động vật: do không còn rừng tự nhiên nên động vật quý hiếm ở Củ Chi cũng không

còn. Trong vùng chỉ có các loài hoang dã thông thường như rắn, chuột, ếch,…nhưng số

lượng cũng không nhiều. Để phục vụ mục đích ẩm thực ngày nay, không chỉ Củ Chi mà

nhiều nơi khác ở Việt Nam khai thác các loài này khá nhiều.

Tuy không có các loài động vật hoang dã quý hiếm như một số tỉnh thành khác nhưng

huyện Củ Chi lại có Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã. Đây cũng là một địa điểm tiềm

năng góp phần vào phát triển du lịch của huyện.

Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã huyện Củ Chi được xây dựng tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi vào năm 2006 với diện tích 400m2 do chi cục Kiểm lâm Tp Hồ Chí

Minh quản lý và Wildlife At Risk ( WAR- một tổ chức phi chính phủ tài trợ hoạt động. Tất

cả các loài động vật thu giữ từ những vụ buôn bán trái phép đều được đưa về đây, hiện nay

51

Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã Củ Chi đang cứu hộ trên 30 loài động vật với tổng

cộng 116 cá thể, tất cả đều thuộc danh mục đặc biệt quý hiếm cần được bảo tồn. Ngoài ra

trung tâm còn tiến hành nuôi và nhân giống một số loài động vật quý hiếm khác kết hợp với

các hộ nông dân và các trang trại. Phối hợp với Trung tâm Tư vấn, Hỗ trợ nông nghiệp, tiếp

tục triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển nghề nuôi cá sấu trên địa bàn thành

phố đến năm 2010 theo Quyết định số 208/2005/QĐ-UBND ngày 02/12/2005 của UBND

Thành phố.

Một số loài động vật được nuôi và nhân giống thành công ở trung tâm:

* Phát triển các trại nuôi động vật hoang dã ngành lâm nghiệp:

+ Gây nuôi cá sấu: Trong năm 2006, tổng đàn cá sấu của 50 trại nuôi đang quản

lý: 113.609 con, tổng diện tích chuồng nuôi: 354.284 m2

Tiêu thụ cá sấu năm 2006 :

- Xuất khẩu 19.414 sản phẩm và con sống (gấp 3 lần năm 2005)

- Xuất bán nội địa: 8.828 con (gấp 4 lần năm 2005).

+ Trăn - rắn các loại: Với 10 trại nuôi của doanh nghiệp và hộ gia đình

Trăn đen: 13.207 con; Trăn vàng : 7072 con; Rắn Ráo trâu: 1.950 con.

Da trăn đen khô: (23.592 mét x 0,3 m = 7.600 m2); da trăn vàng khô: (22.280 mét x

0,3 m = 6.684 m2); da rắn ri cá: (3.000 mét x 0,3 m = 900 m2);

+ Động vật hoang dã khác:

Bò sát khác: 05 trang trại với 303.050 con (kỳ sừng, kỳ tôm, bò cạp, cóc, ểnh ương,

Thằn lằn nhà, Liu điu, Tắc kè, Cắc ké, Chàng hiu, Thằn lằn núi);

Nhím: 08 trại với 406 con.

Chi cục Kiểm lâm đã tổ chức kiểm tra 42.000 con/tổng số 500.000 con ba ba của các

trang trại gây nuôi; Hươu sao: 12 con; Nai: 11con; Cua đinh: 1.000 con; Vượn 4 con;

Voọc 01 con, Chồn gấu: 03 con; Khỉ : 07 con; Bò tót: 03 con (01 đực + 01 cái và 01 con

bê).

* Phát triển các trại nuôi động vật hoang dã ngành thủy sản:

- Cá Hải Tượng: có 5 cơ sở nuôi Hải Tượng tổng số: 23 con, trọng lượng bình quân:

80-100 kg/con: 12 con , 30-50 kg/con: 4 con, nhỏ bé 0,3kg – 0,6 kg/con: 7 con.

- Cá Huyết Long: có 2 cơ sở nuôi Huyết Long: tổng số 115 con, chiều dài bình quân: 2

- 3cm: 55 con , 4-5 cm: 60 con.

52

Đây là một địa điểm tham quan và học tập bổ ích cho các em học sinh sinh viên. Và

cũng là nơi để du khách tham quan và hiểu hơn về giá trị của tự nhiên. Góp phần hình thành

ý thức bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Với sự

khai thác và tàn phá của con người vì những lợi ích cá nhân đã ảnh hưởng đến sự sống của

các loài động vật trên Trái Đất.

2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

Theo dân gian thì vùng Củ Chi xưa có rất nhiều cây Củ Chi ( tên ngày nay thường gọi

là cây Mã Tiền) cho nên những cư dân đầu tiên đã đặt tên cho vùng đất này là Củ Chi. Củ

Chi là vùng đất được người Việt khai phá trong những năm đi mở cõi vào cuối thế kỉ XVII

đầu thế kỉ XVIII thuộc tỉnh Gia Định, bao gồm toàn bộ phần đất của hai tổng Long Tuy Hạ

và Long Tuy Trung, một phần của hai tổng Long Tuy Thương và Bình Thạnh Trung của

huyện Hóc Môn ngày nay.

Qua nhiều biến động của lịch sử những địa danh cũ không còn nữa, nhiều địa danh

mới xuất hiện. Cho tới năm 1957, chính quyền Sài Gòn chính thức thành lập quận Củ Chi

thuộc tỉnh Bình Dương. Năm 1963 chính quyền Sài Gòn chia Củ Chi thành 2 quận: quận Củ

Chi xác lập vào tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập, và quận Phú Hòa thuộc tỉnh Bình Dương.

Trong chiến tranh chống Mỹ, tuy Củ Chi là chiến trường ác liệt phía Bắc Sài Gòn -

Gia Định nhưng người dân quyết bám trụ giữ làng, địa đạo Củ Chi cũng được bắt nguồn từ

đây. Năm 1967 Củ Chi đón nhận huân chương Thành Đồng với danh hiệu cao quý “ Đất

Thép Thành Đồng”. Sau khi đất nước thống nhất, ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam

Dân Chủ Cộng Hòa khóa IV đổi tên Sài Gòn Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh thì

quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa và quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương trở thành huyện Củ

Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Huyện Củ Chi ngày nay gồm 20 xã và một thị trấn.

2.2.2.1. Dân cư và nguồn lao động

Toàn huyện Củ Chi có 13 dân tộc sinh sống. trong đó người kinh chiếm đa số: 296450

người chiếm 99,36% tổng số dân. Kế đến là người Hoa chiếm 0,58%, người Khơ-me chiếm

0,04%. Các dân tộc Tày, Thái, Mường, Nùng, H’mông, Dao,…chiếm tỉ lệ không đáng kể.

Hiện nay, tại huyện có một địa điểm tập trung nhiều dân tộc ít người với nhiều nét truyền

thống văn hóa đặc sắc được tái hiện và gìn giữ. Đó chính là Khu Du Lịch Sinh Thái Văn

Hóa Dân Tộc Thiểu Số. Các dân tộc ít người được đưa về sống nơi đây với công việc hàng

ngày là dệt thổ cẩm, làm gốm, đúc đồng,…nhằm tái hiện lại các nghề truyền thống của

người dân Việt Nam. Đây cũng là một địa điểm thu hút khách du lịch đến tham quan và hiểu

53

thêm về văn hóa các dân tộc nếu du khách không có điều kiện đến những vùng, miền cách

xa thành phố.

Theo thống kê từ năm 2005 đến năm 2010, dân số huyện Củ Chi từ 296.032 người

tăng lên 362.454 người tăng 66.422 người. Đây là lực lượng lao động chính cho sự phát

triển kinh tế của huyện.

Bảng 2.1. Dân số huyện Củ Chi giai đoạn 2005 – 2011

Năm 2005 2008 2009 2010 2011

Tổng số ( người) 296.032 336.716 347.530 355.823 363.171

Nam ( người) 141.136 157.829 167.333 177.489 175.060

Nữ ( người) 154.897 178.887 180.196 178.334 187.394

Nguồn Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh

Do đặc thù nền kinh tế huyện phụ thuộc nhiều vào công nghiệp nên đa số dân cư tham

gia vào các hoạt động của các khu công nghiệp. Một số ít tham gia vào các hoạt động của

ngành du lịch dưới các hình thức như buôn bán nhỏ, lẻ hay các công việc trong các khu du

lịch không đòi hỏi trình độ cao. Điều này dẫn đến thiếu nguồn nhân lực tại chỗ cho ngành

du lịch huyện. Số lao động có trình độ tay nghề cao thì tham gia các hoạt động kinh tế ở khu

vực trung tâm thành phố, chỉ số ít làm việc tại địa phương. Bên cạnh đó theo xu hướng của

hiện đại hóa, công nghiệp hóa, giới trẻ ít nhiều bỏ đi các nét văn hóa, truyền thống của dân

tộc. Một số nghành nghề truyền thống ngày bị mai một đi, do không có đội ngũ kế thừa và

phát huy.

2.2.1.5. Các di tích văn hóa lịch sử

Nói đến Củ Chi không thể không nói đến các di tích lịch sử gắn liền với hai cuộc chiến

tranh chống Pháp, chống Mỹ và hiện nay đã trở thành khu tham quan du lịch thu hút khách

trong nước và ngoài nước.

Tính đến cuối năm 2005 toàn huyện có 88 di tích lịch sử - văn hóa trong đó có 7 di

tích lịch sử, 59 di tích văn hóa và 22 di tích cách mạng. Tiêu biểu nhất là hai khu di tích Bến

Dược và Bến Đình là hai điểm tham quan hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến du

lịch. Hàng năm cụm di tích lịch sử - văn hóa Củ Chi đón tiếp phục vụ hơn 1.000.000 lượt

khách du lịch trong và ngoài nước. Đây là sản phẩm du lịch đặc thù của huyện Củ Chi.

Bảng 2.2. Di tích lịch sử, văn hóa của huyện

Tên di tích Địa chỉ Quyết định công Tổ chức, cá nhân là

nhận xếp hạng chủ sở hữu hoặc

54

quản lý trực tiếp

Khu địa đạo Củ Xã Phú Mỹ Hưng, Số 54/VHQĐ ngày Bộ Chỉ huy Quân

Chi huyện Củ Chi 29 tháng 4 năm sự Thành phố Hồ

Chí Minh 1979

Địa đạo Bến Đình Xã Nhuận Đức, Số 101/2004/QĐ- Bộ Chỉ huy Quân

huyện Củ Chi BVHTT ngày 15 sự Thành phố Hồ

tháng 12 năm 2004 Chí Minh

Đình Cây Sộp Ap Cây Sộp, xã Số 5513/QĐ- Ban Quản trị

Tân An Hội, huyện UBND ngày 30

tháng 11 năm 2006 Củ Chi

Đình Xóm Huế Ấp Xóm Huế, xã Số 5511/QĐ-UBND Ban Quản lý

Tân An Hội, huyện ngày 30 tháng 11

Củ Chi năm 2006

Chùa Linh Sơn Ban Trị sự

Ấp Phú Lợi, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi Số 4347/QĐ- UBND ngày 13 tháng 10 năm 2008

Nguồn UBND Huyện Củ Chi

Nhìn chung mật độ di tích của huyện rất ít và thưa thớt, chủ yếu tập trung ở các xã

phía Bắc của huyện, còn lại các xã phía Nam hầu như không hoặc có chỉ là các di tích mang

tính chất địa phương.

Về chất lượng di tích: Mặc dù được quan tâm bảo tồn, nhưng cho đến nay các di tích

trên địa bàn huyện có nguy cơ xuống cấp do sự tác động thời gian, chiến tranh và ý thức bảo

tồn cũng như kinh phí còn nhiều hạn chế. Một số không được đầu tư để bảo tồn trùng tu.

Khả năng khai thác du lịch: với số lượng di tích lịch sử ít nhưng giá trị lịch sử cao là

những nét đặc trưng và lợi thế của huyện Củ Chi trong phát triển du lịch. Hệ thống địa đạo

Củ Chi nổi tiếng qua hai cuộc kháng chiến được nhân dân trong nước và thế giới biết đến là

một điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch huyện, cũng như thu hút du khách gần xa tham

quan tìm hiểu để biết thêm về những nét hào hùng của quân và dân Củ Chi nói riêng và

người Việt Nam nói chung.

Một số di tích lịch sử - văn hóa nổi bật có khả năng khai thác phát triển du lịch:

* Di tích lịch sử địa đạo Bến Dược: Di tích địa đạo Bến Dược còn gọi là Khu di tích

lịch sử văn hóa địa đạo Củ Chi, thuộc địa bàn ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ

Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu di tích nằm ở tận cùng về phía Bắc của huyện Củ Chi,

55

Tây Bắc giáp với sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp ấp Phú Lợi, Tây Nam giáp ấp Lộc Thuận,

Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp ấp Phú Hòa, cách Trung tâm Thành phố Hồ Chí

Minh khoảng 70km về hướng Tây Bắc.

Năm 1961, địa đạo chỉ là những đường hầm ngầm sâu trong lòng đất, kéo dài vài chục

thước… cốt tránh địch hơn là đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước

sang giai đoạn quyết liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia

Định chỉ thị thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ và công trình lấy ngày thành lập Đảng (3

tháng 2) khởi công. Địa đạo được xây dựng theo kinh nghiệm từ trước, cứ khoảng 16m tạo

một giếng đường kính 0,6m, sâu 3m khi giáp mí thì lấp miệng. Từ đáy giếng dùng cuốc

chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao 80cm. Địa đạo gồm các ngóc ngách

theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm này sang hầm khác thành một thế liên hoàn

được tính toán hết sức khoa học. Do có nhiều ngỏ ngách, nhiều đoạn giao nhau hoặc song

song nên địa đạo kéo dài trên 100 cây số, có đoạn hẹp, rộng có khi phải trườn vào và có

chốt an toàn phòng khi địch sử dụng hợi cay hoặc bơm nước độc xuống địa đạo… Miệng

địa đạo là một cấu trúc đặc biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn trong bụi rậm, gò mối, nắp hầm

vừa vặn một người chui, lỗ thông hơi tạo đường xiên núp trong các bụi rậm khó phát hiện.

Điểm nổi bật của khu địa đạo là các hầm đều âm trong lòng đất. Những căn hầm cho văn

phòng, y tế, cơ yếu, hậu cần, văn nghệ, bếp hoàng cầm…

Ngày 29/4/1979 địa đạo Phú Hiệp, Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa – Thông tin đặc

cách cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 54/VH-

QĐ.

*Di tích lịch sử địa đạo Bến Đình: Khu di tích lịch sử địa đạo Bến Đình thuộc ấp Bến

Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, nằm về phía Bắc thị trấn Củ Chi, giáp với sông Sài

Gòn và tỉnh lộ 15, cách Trung tâm thành phố 55km. Phía Bắc giáp với xã An Nhơn Tây,

phía Nam giáp xã Phú Hòa Đông, phía Tây giáp xã Phạm Văn Cội và phía Đông giáp sông

Sài Gòn.

Trong cuộc kháng chiến, do địch tập trung đánh phá càn quét địa bàn Củ Chi rất gay

gắt nên căn cứ Huyện ủy không cố định, phải di chuyển nhiều nơi. Từ năm 1964 - 1967,

Nhuận Đức là một trong 6 xã giải phóng phía bắc có hệ thống địa đạo hoàn chỉnh liên hoàn

giữa các ấp, Bến Đình – xã Nhuận Đức có địa thế rất thuận lợi với khu rừng trải dài trên

hàng trăm hecta, lại là vùng đồi cao rắn chắc tiếp giáp sông Sài Gòn, khi có địch càn quét có

56

thể di chuyển lực lượng về phía sông trú lui an toàn. Từ đó địa đạo Bến Đình chính thức trở

thành khu căn cứ ổn định, vững chắc và an toàn của huyện ủy.

Khu địa đạo căn cứ huyện ủy bao gồm các hạng mục công trình : Hầm bảo vệ, Hầm

C25, Hầm văn công, Hầm y tế, Hầm lương thực, Hầm bí thư huyện ủy, hầm bếp Hoàng

Cầm…

Ngày 15/2/2004 Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin đã ký Quyết định số 101/2004/QĐ-

BVHTT xếp hạng Di tích quốc gia cho căn cứ địa đạo Bến Đình.

* Đình Cây Sộp: Đình Cây Sộp tọa lạc tại ấp Cây Sộp, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi.

Từ chợ Bến Thành theo đường Cách mạng tháng 8, Quốc lộ 22 đến ngã năm thị trấn Củ Chi

– tại chân cầu vượt rẽ phải theo đường Nguyễn Văn Khạ vào khoảng 5km rẻ trái là đến di

tích.

Đình Cây Sộp (còn gọi là đình Vĩnh An Tây) được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ

XIX của thôn Vĩnh An Tây, huyện Bình Long, Phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đình thờ Thần

Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị Thần bảo hộ của làng). Ngày 29 tháng 11 năm 1852 âm lịch,

đình được Vua Tự Đức ban tặng Sắc phong. Đình với tư cách là một thiết chế văn hóa cơ

sở, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của nhân dân trong vùng. Tuy bị chiến tranh tàn

phá, ngôi đình không còn nguyên trạng như xưa, nhưng đình Cây Sộp vẫn giữ được giá trị

văn hóa phi vật thể. Vào ngày rằm tháng 2 âm lịch hàng năm, đình tổ chức lễ hội Kỳ yên

nhằm tưởng nhớ những người có công với nước, ngoài ra lễ hội còn đáp ứng nhu cầu đời

sống tâm linh của nhân dân.

Ngày 30/11/2006 Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 5513/QĐ-UBND

xếp hạng đình Cây Sộp là một di tích lịch sử cấp thành phố.

* Đình Xóm Huế:Đình Xóm Huế tọa lạc tại ấp Xóm Huế, xã Tân An Hội, huyện Củ

Chi. Đình có vị trí cách trung tâm thành phố 30km, theo Quốc lộ 22 từ Sài Gòn lên Củ Chi

đến km thứ 19 khu vực ấp Xóm Huế, rẻ trái vào đường Quốc Thạnh, hơn 1km là đến di tích.

Đình Xóm Huế được xây dựng vào năm 1841, mái lợp lá, vách gỗ. Đình thờ Thần

Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị thần bảo hộ của làng). Đình tọa lạc trên một gò cao, hình chữ

nhật, quay về hướng Đông. Đình xây theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, có ba nóc nối liền nhau

hình chữ tam. Phía trước là Tiền điện và là nơi tiếp khách mới xây dựng năm 1990. Bờ mái

trên nhà Tiền điện trang trí lưỡng Long chầy Nhật An Hội. Hai bên có 2 rồng chầu ra phía

Nam Bắc. Dưới bờ nóc mái là chữ Đình Tân An Hội. Bốn cột bê tông nhà Tiền điện được

khảm sành sứ. Hai cột gian giữa có 2 rồng chầu vào cuốn thư “Thần Ân Phản Tế”. Ngoài

57

hàng ba, hai bên vách đối diện nhau có thờ bài vị, một bên là Thủy Long Thần Nữ, một bên

là Mộc Trụ Thọ Thần.

Ngày 30/11/2006, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số

5511/QĐ-UBND xếp hạng Đình Xóm Huế là một di tích kiến trúc nghệ thuật.

* Chùa Linh Sơn: Chùa Linh Sơn tọa lạc tại ấp Phú Lợi, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ

Chi. Từ trung tâm thành phố theo đường Quốc lộ 22 đến huyện Hóc Môn, theo đường tỉnh

lộ 15 qua cầu Xáng đến địa phận Củ Chi, xuôi về hướng bắc qua ngã tư Tân Quy khoảng

3km sẽ gặp ngôi chùa Linh Sơn Cổ Tự.

Chùa được khởi sự xây dựng vào năm 1806, khi Hòa thượng Bửu Tịnh Phổ Tế, đời 35

thuộc dòng Lâm tế trên đường chu du hành đạo dừng chân tại khu rừng cây cao bóng mát

dựng lên một am nhỏ, mái lợp tranh, xung quanh xây tường đất, thỉnh phật từ nơi khác về

thờ tự. (Đó là khu rừng chùa ấp Phú Lợi ngày nay)

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhà chùa là nơi đùm bọc, che

chở cho nhiều thanh niên chống không đi lính cho giặc, giúp đỡ cho nhiều cán bộ cách

mạng mỗi khi ghé qua chùa trên đường đi công tác. Trong những năm kháng chiến chống

Mỹ, chùa là cơ sở cách mạng, nơi ẩn náu một số cán bộ giao liên, công tác Thành. Chùa

Linh Sơn còn lưu lại những giá trị kiến trúc nghệ thuật gồm: Cột gỗ, kèo, trính, rui, mè…

Trong chùa có nhiều hiện vật bằng gỗ: tượng, bao lam, liễng, ghế thờ, trống, mõ…được

điêu khắc chạm lộng công phu có giá trị nghệ thuật độc đáo, mang tính hiện thực và đã được

dân gian hóa.

Chùa Linh Sơn được Ủy ban nhân dân thành phố ký Quyết định số 4347/QĐ-UBND

ngày 13/10/2008 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.

2.2.2.2. Lễ hội

Do lịch sử, dân tộc và tôn giáo nên lễ hội tại Củ Chi cũng khá đa dạng, chủ yếu diễn ra

vào dịp mùa xuân. Tuy nhiên, tình hình lễ hội chưa đồng nhất, còn mang tính chất tự phát,

chưa được đầu tư nhiều nên chưa xây dựng nên nét đặc sắc vốn có của nó.

Các ngày lễ được tổ chức ở huyện Củ Chi:

*Lễ Hội - Hội chợ Sinh Vật Cảnh nông nghiệp và sản phẩm làng nghề: Lễ hội này do

HTX nuôi trồng thủy sản Hà Quang phối hợp cùng Hội Sinh Vật Cảnh Thành phố Hồ Chí

Minh tổ chức tại khu làng nghề liên hiệp, xã Phú Hòa Đông – Trung An, huyện Củ

Chi. Ngoài trưng bày, giao lưu các sản phẩm nông nghiệp và làng nghề, còn có hội thi các

sản phẩm về hoa lan, kiểng bonsai, kiểng thú, tiểu cảnh, kiểng cổ, cá cảnh, tiểu cảnh sân

58

vườn… 41 cơ sở, đơn vị trong và ngoài huyện và một số tỉnh tham gia lễ hội lần này. Các

buổi tọa đàm về tiềm năng phát triển nghề sinh vật cảnh của TPHCM và huyện Củ Chi cũng

như hội thảo với chủ đề về nâng cao tay nghề trồng hoa, cây kiểng, cá cảnh… cũng đã diễn

ra tại đây.

*Lễ Hội đền Bến Dược: diễn ra vào ngày 19/12 với nhiều loại hình đặc sắc mang đậm

bản sắc văn hóa của dân tộc từ: ca múa, đờn ca tài tử, cải lương, hát bội, đến nhiều loại hình

vui chơi bổ ích khác. Đối với nhân dân địa phương thì những ngày này đã thực sự trở thành

một ngày hội truyền thống, vì thế mà có những đêm Khu di tích đã đón tiếp gần 50.000

khán giả đến tham gia hoạt động, vui chơi. Đặc biệt vào ngày lễ lớn này, Hội thao đền Bến

Dược do chính khu di tích đăng cai tổ chức luôn được mọi người quan tâm, tham gia ủng hộ

vì nó mang tính cộng đồng, tập thể cao. Lễ Hội được tổ chức với sự kêu gọi tham gia của

các tỉnh bạn lân cận như: Tây Ninh, Long An, Bình Dương với nhiều môn thi đấu như cầu

lông, bóng chuyền, bơi lội, đua thuyền…hội thao trong khuôn khổ lễ hội đã thu hút được rất

nhiều đơn vị trong địa bàn và các tỉnh bạn trực tiếp tham gia ủng hộ. Kết quả này thể hiện

được tinh thần giao lưu học tập lẫn nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa các đơn vị bạn

trong và ngoài tỉnh.

*Lễ cầu siêu các anh hùng liệt sĩ: hằng năm trước ngày 27/7 tại đền Bến Dược lại diễn

ra lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ. Nghi lễ được ban Nghi lễ GHPGVN TP.HCM cùng

BTS GHPGVN huyện Củ Chi các chư tăng ni, các tu viện trên địa bàn huyện cùng hơn 200

quý Phật tử tham gia cầu nguyện. Đây cũng là dịp các thân nhân và các vị lãnh đạo cả nước

cũng về đây thắp hương để tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để

giành độc lập cho đất nước hôm nay.

*Lễ hội bắn pháo hoa diễn ra hằng năm vào đêm giao thừa tại đền Bến Dược, đây là

hoạt động mừng xuân nhằm phục vụ cho nhân dân vùng ngoại thành, giúp bà con có một

năm mới vui tươi. Vì điều kiện cách xa trung tâm nên thành phố đã có những chương trình

chào đón năm mới ở đây, tạo điều kiện để người dân có những hoạt động ý nghĩa trong dịp

Tết.

2.2.2.3. Các loại tài nguyên nhân văn khác

Các làng nghề:

Từ xa xưa người dân huyện Củ Chi đến vùng đất này để lập nghiệp, họ đã liên tiếp

chống chọi với những khó khăn của thiên nhiên, nạn nhân của sự áp bức bóc lột tàn bạo. Từ

trong gian khó đó đã sinh ra những con người hào hùng, gian khổ, cần cù chịu khó. Luôn

59

gắn chặt cuộc sống của mình với mảnh đất quê hương, luôn yêu thương tương trợ và giúp

đỡ nhau vượt qua những khó khăn trong lịch sử. Trong quá trình phát triển đó, không thể

không nói đến những nét văn hóa, kinh tế của huyện với những ngành nghề truyền thống có

từ xa xưa và được lưu giữ cho đến ngày nay. Với những sản phẩm mang đậm bản sắc và dấu

ấn riêng của người dân Củ Chi.

Hiện nay trên địa bàn huyện có những làng nghề truyền thống như:

+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông: Toàn xã có hơn 1.400 lò bánh tráng thủ công,

44 lò tráng bánh máy, với hơn 50% số hộ trong xã, hơn 5.000 lao động tại chỗ tham gia làm

nghề bánh tráng. Mỗi ngày làng nghề bánh tráng Phú Hòa Ðông sản xuất hơn 38 tấn bánh

thành phẩm (trong đó 80% sản lượng phục vụ xuất khẩu). Các dự án vệ sinh môi trường, tạo

nguồn nguyên liệu tại chỗ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại đã được xây dựng triển

khai để làng nghề phát triển theo hướng đi bền vững.

Bánh tráng Củ Chi vừa mỏng lại dẻo, phù hợp để cuốn thịt với rau sống, hay cuốn chả

giò,… ngoài những bí quyết đặc biệt về cách chọn gạo và cách làm thì cũng giống như Tây

Ninh ở Củ Chi cũng có bán tráng phơi sương. Loại bánh này chuyên dùng để cuốn với thịt

heo hoặc thịt bò luộc kèm với rau rừng. Trong dịp Tết đối với người dân địa phương thì

món bánh tráng cuốn thịt nhà nào cũng có. Và đây cũng được xem là một nét văn hóa ẩm

thực truyền thống của người dân huyện Củ Chi.

Ngày nay, bánh tráng Củ Chi không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn

xuất khẩu sang các nước như: Mỹ, Úc, Nhật Bản, Canada,…Bình quân mỗi tháng làng nghề

sản xuất khoảng 1000 tấn bánh tráng các loại.

+ Làng nghề đan lát xã Thái Mỹ: xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi – Tp Hồ Chí Minh từ lâu

đã nổi tiếng với làng nghề đan lát các sản phẩm mây tre lá truyền thống với các sản phẩm

như: giỏ, rổ, chậu hoa, thúng,…hầu hết được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, trên địa

bàn xã có 5 cơ sở mây tre lá hoạt động, thu hút hàng trăm công nhân làm việc tại chỗ.

+ Làng nghề mành trúc Tân Thông Hội: là nơi sản xuất mành trúc hàng đầu cả nước.

Với kinh nghiệm làm mành trúc hơn 30 năm, sản phẩm của làng nghề đã được thị trường

trong nước và ngoài nước biết đến. Do điều kiện tự nhiên của huyện Củ Chi có rất nhiều tre,

trúc, rất thuận lợi cho việc sản xuất các mặt hàng thủ công như: mây, tre, lá. Một mành trúc

tùy theo yêu cầu khách hàng mà có số lượng dây khác nhau, thông thường là 100 dây với

chiều dài 2m, kế tiếp đó là xỏ kẽm, giựt mành. Những việc đó đòi hỏi người thợ phải làm

đều tay để đảm bảo sản phẩm không bị lỗi.

60

+ Làng nghề sinh vật cảnh: đây là dự án được Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà

Quang thành lập với nhiều mô hình đa dạng như: trồng hoa lan, cây kiểng và nuôi cá cảnh

kết hợp với du lịch nghỉ dưỡng sinh thái. Đây sẽ là nơi cung cấp cây con giống, tiêu thụ sản

phẩm cho xã viên, thúc đẩy làng nghề phát triển và nếu phù hợp có thể phát triển lên 110 ha

hay 500 ha. Với tổng vốn đầu tư là 20 tỷ, hiện nay đã hình thành một phần đường nội bộ

trong khuôn viên làng nghề trong phần diện tích 5 ha. Các sản phẩm hàng hóa của làng nghề

đã tham gia thị trường như: hoa lan, cá cảnh ( cá chép Nhật, cá dĩa,…), cây kiểng.

Đặc sản địa phương, món ăn dân tộc:

+ Bò tơ Củ Chi: thịt bò ở đây được lựa chọn rất kỹ lưỡng từ những con bò tơ đủ độ

tuổi nhất định. Thịt bò ở đây mềm, tươi ngon. Sau đó cắt thành những khoanh tròn. Khi thịt

chín rất chắc, thơm và ngọt. Thông thường phổ biến nhất là món bò luộc, được cuộn với rau

rừng kèm với bánh tráng ( cũng là đặc sản huyện Củ Chi). Ngoài ra, thịt bò tơ còn được chế

biến thành nhiều món khác như: bò nhúng hèm, bò nướng vĩ, lòng bò hấp gừng, bò tơ

nướng lụi,.. Và không thể không nói đến món cháo dựng bò, được nấu bằng gân bò, móng

bò với đậu phộng, đậu xanh, đậu trắng, khoai, củ mì. Khi cháo sôi thả rau má, mồng tơi vào,

ăn rất ngọt và mát. Du khách khi đến Củ Chi hoặc chỉ đi ngang qua cũng không thể nào bỏ

qua dịp thưởng thức món đặc sản này. Vào dịp cuối tuần, người dân thành phố muốn thay

đổi không khí cũng thường lái xe đến đây để thưởng thức món bò tơ đặc sản ở đây.

+ Khoai mì: là món ăn dân dã được xem gắn liền với địa danh Củ Chi và người dân Củ

Chi. Do điều kiện ngày xưa nghèo khó, người dân Củ Chi gắn liền với lương thực chính là

củ mì nên người dân đã chế biến ra nhiều món ăn khác nhau từ khoai mì. Với điều kiện tự

nhiên thuận lợi cho cây khoai mì phát triển, năng suất cao. Từ lâu khoai mì đã trở thành

món ăn quen thuộc của người dân Củ Chi. Khoai mì có thể chế biến thành nhiều món ăn

khác nhau nhưng phổ biến nhất hiện nay có lẻ là món khoai mì hấp nước cốt dừa. Với món

này du khách có thể dễ dàng tìm thấy khi đi du lịch Củ Chi.

+ Món ngon từ dế: nói đến các món đặc sản ở Củ Chi không ai không biết đến một

món ăn côn trùng nổi tiếng ở đây. Đó là các món ăn được chế biến từ dế. Trại dế Thanh Tùng nằm ở ấp Bến Đò 2, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi với diện tích rộng hơn 1000 m2.

Đến đây ngoài được tham quan trang trại, du khách còn được thưởng thức các đặc sản từ dế

như: dế chiên giòn, dế kho tiêu, dế lăn bột, dê cơm chiên nước mắm,…Ngoài ra còn có các

món được chế biến từ các loại côn trùng khác như: bò cạp, rết, đuông dừa… Các món ăn

được ăn kèm với các loại rau sông, rau rừng làm tăng thêm hương vị hấp dẫn. Vậy du khách

61

không cần đi đến Thái Lan hay Campuchia để thưởng thức các món đặc sản côn trùng mà

ngay tại Củ Chi du khách cũng có thể thưởng thức những món ăn độc đáo và lạ này.

2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch

Trong những năm vừa qua, cơ sở hạ tầng của huyện ngày càng được cải thiện, giao

thông được nâng cấp, sửa mới. Nhiều tuyến đường được mở rộng và trải nhựa. Cơ sở vật

chất được đầu tư khá tốt nhằm phục vụ cho ngành du lịch nói riêng và phát triển kinh tế

huyện nói chung.

2.2.3.1. Hệ thống giao thông vận tải

Trên địa bàn huyện chỉ có loại hình giao thông đường bộ, đường thủy ( các loại hình

khác hầu như không có).

Về giao thông đường bộ: tổng chiều dài mạng lưới đường trên địa bàn huyện Củ Chi là

594942m (trên 88 tuyến- không kể các đường nhỏ và đường trong khu ở có lộ giới nhỏ hơn

12m). Trong đó có 22 tuyến đường chính và đường liên khu vực hiện hữu là đường Quốc lộ

22, Tỉnh lộ 2, Tỉnh lộ 6, Tỉnh lộ 7, Tỉnh lộ 8, Tỉnh lộ 9, Tỉnh lộ 15, Bến Than, Tam Tân, Hồ

Văn Tắng, Nguyễn Văn Khạ, Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Thị Rành, Phạm Văn Cội, An

Nhơn Tây, Trung Lập, Nguyễn Thị Nê, Nguyễn Thị Lắng, Phú Thuận, Bến Súc, Võ Văn

Bích,Nhuận Đức, vừa sử dụng chức năng đối ngoại, vừa sử dụng chức năng đối nội với tổng

chiều dài là 219233 m. Các tuyến đường có chức năng đối ngoại cụ thể như sau:

+ Quốc lộ 22: là con đường nối liền Tp Hồ CHí Minh đến cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây

Ninh, dài 58,5 km. Đây là con đường nằm trong dự án đường xuyên Á giữa Tp Hồ Chí

Minh và Phnom Penh. Tuyến đường này đi qua các huyện Hóc Môn, Củ chi ( Tp Hồ Chí

Minh), Trảng Bàng, Gò Dầu ( tỉnh Tây Ninh), và kết thúc tại cửa khẩu Mộc Bài , xã Lợi

Thuận, huyện Bến Cầu ( tỉnh Tây Ninh). Thông qua tuyến đường này có thể kết nối các

tuyến điểm du lịch của huyện Củ Chi với các tỉnh bạn và nước láng giềng Campuchia. Đây

được xem là con đường huyết mạch hứa hẹn tiềm năng du lịch lớn của huyện.

Ngoài ra huyện còn có các tuyến đường nối liền với các tỉnh và các huyện lân cận như:

- Tỉnh lộ 2: với chiều dài 2.0356 m, chiều rộng lòng đường 12 m, lộ giới 40m.

- Tỉnh lộ 6: với chiều dài 2.644 m, chiều rộng lòng đường 10 m lộ giới 30 m.

- Tỉnh lộ 7: chiều dài tổng cộng 22.600 m, chiều rộng lòng đường 18m, lộ giới 40 m.

- Tỉnh lộ 15: chiều dài 33.969 m, chiều rộng lòng đường từ 14 – 17 m, lộ giới 40 m.

- Đường Tam Tân: chiều dài 17.644m, chiều rộng lòng đường từ 7 – 19,5 m, lộ giới 40

m.

62

Về cầu: Trên địa bàn huyện có 50 cầu đi qua các sông, kênh, rạch trên các tuyến

đường chính của huyện do Khu quản lý giao thông số 3 quản lý, bao gồm nhiều loại: bê

tông dự ứng lực, bê tông liên hợp, bê tông cốt thép,…với tổng chiều dài khoảng 1.630m

Về giao thông đường thủy: huyện Củ Chi có nhiều hệ thống sông ngòi, kênh rạch.

Trong đó một số tuyến sông chính có chức năng giao thông đường thủy như: sông Sài Gòn,

kênh Xáng, kênh Quyết Thắng, kênh Đức Lập,… Ngoài chức năng giao thông đường thủy

thì sông Sài Gòn Gòn là tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái ven sông, phát triển du lịch

đường thủy từ trung tâm thành phố đến các huyện ngoại thành.

2.2.3.2. Hệ thống cung cấp điện

Hiện huyện Củ Chi được cấp điện từ lưới điện chung của Thành phố Hồ Chí Minh,

nhận điện từ các trạm 110/15 - 22KV: Trạm Củ Chi 40MVA+63MVA, trạm Phú Hòa Đông

1×40MVA, trạm Tân Hiệp 2×18MVA

Lưới điện: trên địa bàn huyện có các đường dây cao thế 110KV, 220KV, 500KV.

- Đường dây 110KV đến các trạm: Củ Chi, Phú Hòa Đông, Bến Cát, Trảng Bàng, Gò

Đậu có chiều dài trên địa bàn huyện khoảng 64,52km.

- Đường dây 220KV từ trạm Tân Định (Bình Dương) đến trạm Trảng Bàng (Tây Ninh)

có chiều dài qua địa bàn huyện Củ Chi khoảng 15,2km.

- Đường dây 500KV từ trạm Phú Lâm đến các trạm Tân Định, Pleiku, đoạn qua địa

bàn huyện có chiều dài khoảng 24 km.

Lưới trung thế 15 – 22 KV: có chiều dài: 459,16km, trong đó:

- Đường dây nổi: 454,93km (chiếm 99,07%).

- Cáp ngầm: 4,23km (chiếm 0,93% ).

Lưới hạ thế: có chiều dài: 1121,95km; trong đó đường dây trên không có chiều dài:

1120,77 km (chiếm 99,9%), cáp ngầm có chiều dài: 1,18km (chiếm 0,1%).

Trạm biến thế 15 – 22/0.4KV: có 1.530 trạm, 2.548 máy với tổng công suất đạt

293.163,5KVA, trong đó trạm có 2 cấp điện áp (22 – 15KV) có 898 máy với tổng công suất

đặt 54.750KVA.

Lưới trung thế hiện có trên địa bàn huyện, phần mới cải tạo và xây dựng, được thiết kế

xây dựng theo tiêu chuẩn 22KV vận hành 15KV, kết cấu dạng mạch vòng kín vận hành hở,

đảm bảo hổ trợ nhau khi có sự cố. Tiết diện đường trục lớn (cáp ngầm dùng cáp 3M240,

đường dây trên không 3ACV240) nên vận hành tốt ít sự cố, tổn thất điện áp trong mức kỹ

63

thuật cho phép. Tuy nhiên đường dây trên không chiếm phần lớn nên kém an toàn và mỹ

quan đô thị.

Như vậy theo quy hoạch chung của huyện Củ Chi được UBND TP phê duyệt năm

1998 đến nay lưới điện trên địa bàn huyện đã phát triển đúng hướng, những công trình đã

thực hiện được:

Cải tạo nâng công suất các trạm 110/15 – 22KV Củ Chi, Phú Hòa Đông, xây dựng mới

đường dây 500KV Phú Lâm – Nhà Bè, Phú Lâm – Pleiku (mạch 2).

Cải tạo nâng tiết diện lưới điện trung hạ thế hiện hữu, và xây dựng mới lưới điện ở khu

dân cư mới phát triển.

2.2.3.3. Hệ thống bưu chính, viễn thông

Cùng với xu thế phát triển của địa phương để đáp ứng nhu cầu của người dân và của

du khách, hệ thống bưu chính viễn thông của huyện Củ Chi đã có những chương trình ứng

dụng cho các dịch vụ bưu chính như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bưu phẩm, bổ sung các

thiết bị cơ sở vật chất, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ đổi

mới và nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Bên cạnh đó với sự tham gia của các tập đoàn bưu chính viễn thông như: Công ty

Viễn thông Quân Đội, công ty Viễn thông Điện lực, công ty dịch vụ Bưu chính viễn thông

Sài Gòn,… đã làm cho giá dịch vụ rẻ hơn và chất lượng dịch vụ tốt hơn.

Theo số liệu của Chi nhánh Điện thoại Củ Chi thì hiện nay trên toàn huyện có 9 đài,

trạm là: Trạm Củ Chi, Tân Phú Trung, Phước Thạnh, Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây,

Phú Mỹ Hưng, Phạm Văn Cội, Tân Trung và trạm Bình Mỹ. Các trạm trên được phân bố

nhằm đảm bảo 100% xã trên địa bàn đều có mạng lưới thông tin liên lạc.

Năm 2003 huyện Củ Chi trung bình 8,2 máy /100 dân. Hệ thống điện thoại di động

được phủ sóng tất cả các trung tâm thị trấn, thị tứ và các tuyến đường giao thông đi qua.

Đây cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch huyện phát triển.

2.2.3.4. Hệ thống cấp, thoát nước

Cấp nước:

Tại Bến Than - huyện Củ Chi hiện có một trạm bơm cấp nước thô lấy nước từ sông Sài Gòn về cấp cho nhà máy nước Tân Hiệp Hóc Môn công suất Q = 300.000 m3/ngày, với

tuyến ống cấp nước thô 1500 mm đi trên đường Bến Than, hành lang bảo vệ tuyến ống cấp

nước 18 m đến 24 m.

Tình hình chung:

64

Hiện tại trên địa bàn huyện Củ Chi có một số khu vực đô thị được cấp nước bằng hệ

thống tập trung có quy mô nhỏ, bao gồm 5 hệ thống cấp nước tập trung, do công ty Đầu tư

khai thác nước sông Sài Gòn trước nay làm chủ đầu tư, sau khi xây dựng xong đã bàn giao

cho công ty Dịch vụ Công ích huyện quản lý và khai thác. Số các thị trấn không có hệ thống

cấp nước: 15 khu vực thị tứ, trung tâm không có hệ thống cấp nước.

Cấp nước cho các khu công nghiệp: hiện đã có 2 khu công nghiệp hoạt động

( Tây Bắc Củ Chi, sử dụng nước giếng khoan có công suất Q = 2250 m3/ngày và Tân Quy

chưa có mạng cấp nước chung) - Huyện Củ Chi là huyện ngoại thành, một số xã có giếng

khoan công nghiệp.

Một số Trung tâm xã sử dụng nước giếng khoan (công nghiệp) tập trung, tuy nhiên số

lượng các hộ gia đình sử dụng từ mạng cấp nước chung rất ít do phải đóng tiền.

Hiện nay dân cư sử dụng chủ yếu là nguồn nước ngầm khai thác do các hộ gia đình tự

khoan giếng. Tổng số giếng khoan trong toàn huyện hiện có 5.214 giếng, với tổng lưu lượng15.485 m3 /ngày, mật độ giếng khai thác 12,2 giếng /km2. Trong đó tầng chứa nước

Pleistocen độ sâu 10m - 20 m chất lượng nước tương đối tốt với 562 giếng; tầng chứa nước

Pliocen ở độ sâu từ 30m đến 40m chất lượng nước tốt với 4.652 giếng, trừ một số khu vực

nằm ven kênh Thầy Cai chất lượng nước phụ thuộc vào độ sâu giếng khoan.

Thoát nước:

Hệ thống thoát nước là hệ thống chung cho nước mưa và nước thải, mật độ rất thấp,

chủ yếu được xây dựng ở khu vực trung tâm thị trấn Củ Chi, một số cụm dân cư và một số

cụm, khu công nghiệp (khu công nghiệp Tây Bắc, cụm công nghiệp Tân Thạnh Đông. . .) và

cho các vị trí qua đường gồm các loại: cống tròn 500 đến 1500, cống hộp 2 (2000x2000),

mương xây từ B300 đến B1200.

Hệ thống thoát nước thải: Hệ thống cống thoát nước trong khu vực huyện Củ Chi là hệ

thống cống chung thoát cho nước mưa và nước thải, có mật độ thấp, chủ yếu xây dựng ở

khu trung tâm thị trấn huyện Củ Chi, một số cụm dân cư và khu công nghiệp. Phần còn lại,

nước thải thoát tự nhiên ra chổ trũng hoặc kênh rạch, một phần thấm vào đất.

Do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ nên hệ thống thoát nước tại huyện chưa được xử lý

triệt để. Công tác xử lý nước thải tại các điểm du lịch chưa được quan tâm, nhiều cơ sở dịch

vụ du lịch tại các điểm du lịch còn thải trực tiếp ra môi trường.

Hiện nay, nước thải trong khu vực huyện Củ Chi chưa được xử lý triệt để. Hệ thống xử

lý duy nhất cho nước thải sinh hoạt là bể tự hoại nhưng chỉ tập trung ở khu trung tâm và một

65

số cụm dân cư. Vì vậy cần quan tâm hơn nữa đến cung cấp nguồn nước sạch đặc biệt là

những khu vực xa trung tâm và các khu du lịch để phục vụ du khách được tốt hơn.

2.2.3.5. Cơ sở lưu trú

Do đặc thù vị trí địa lý của huyện Củ Chi gần với trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh

nên hầu như du khách không có xu hướng lưu trú lại. Đó cũng là lý do các cơ sở lưu trú ở

đây không phát triển hoặc có chăng chỉ là những cơ sở nhỏ, lẻ, còn chưa có chuyên môn cao

trong phục vụ nhu cầu của du khách.

Bảng 2.3. Cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng và dịch vụ cá thể của huyện Củ Chi

giai đoạn 2005 – 2011

2005 2008 2009 2010 2011

Tổng số 4.667 11.768 10.851 11.578 9.879

(Nguồn Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh)

Số lượng các cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng tại huyện có xu hướng giảm và

không ổn định. Điều này cho thấy huyện còn chưa quan tâm đầu tư nhiều trong lĩnh vực

này. Chỉ là các doanh nghiệp tư nhân đầu tư theo xu hướng thị trường. Các cơ sở lưu trú tại

huyện Củ Chi đa phần là các khách sạn nhỏ, hoặc các nhà nghỉ đáp ứng nhu cầu của người

dân từ địa phương khác đến đây khi có công việc hoặc các tiểu thương đến để trao đổi,

buôn bán hàng hóa trong huyện.

Bảng 2.4. Một số khách sạn nhà nghỉ huyện Củ Chi

Khách sạn Địa chỉ

Khách sạn Huyền Thoại Nguyễn Văn Ni, TT.Củ Chi

Khách sạn An Lộc Khu phố 4, TT.Củ Chi

Khách sạn Khoa Nhung 16 đường D3, TT. Củ Chi

Hotel Thành Vinh Chương Dương, 12, Củ Chi

Như vậy, để du lịch phát triển hơn thì huyện Củ Chi cần đầu tư nhiều hơn vào cơ sở

lưu trú, để giữ chân du khách kéo dài thời gian lưu trú tăng thu nhập cho du lịch. Để làm

được như vậy đòi hỏi phải có những chiến lược và quy hoạch phù hợp.

Ngoài cơ sở lưu trú, các cơ sở ăn uống, vui chơi giải trí ở Củ Chi trong những năm qua

cũng đã có những bước phát triển nhất định. Các cơ sở ăn ngày càng nhiều hơn, đa dạng

hơn từ những quán ăn bình dân cho đến các nhà hàng chuyên phục vụ các món ăn đặc sản

của huyện nói riêng và khu vực phía Nam nói chung. Du khách đến tham quan huyện Củ

Chi sẽ được giới thiệu món ăn đặc sản của huyện như: bò tơ, gà thả vườn hay những món ăn

66

chế biến từ côn trùng ( dế, bò cạp,…). Ngoài ra còn có món đặc sản khoai mì, món ăn được

xem là gắn liền với quê hương địa đạo.

Tuy nhiên, hạn chế của các cơ sở ăn uống ở Củ Chi là quy mô nhỏ, tác phong phục vụ

còn chưa chuyên nghiệp, khả năng đón những đoàn khách lớn còn hạn chế.

Tuy doanh thu về du lịch của huyện trong những năm qua có tăng lên, nhưng các cơ sở

vui chơi giải trí phục vụ du khách và người dân địa phương chưa phát triển. Đó cũng là lý

do du khách không lưu trú lại. Hiện nay, các cơ sở vui chơi giải trí của huyện chủ yếu là

Công viên nước Củ Chi, một số dịch vụ câu cá giải trí ở các điểm du lịch sinh thái.

Trung tâm văn hóa huyện được thành lập năm 1978 với tên gọi “ Nhà văn hóa – thông

tin – Thể dục thể thao huyện Củ Chi”. Với chức năng nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn các hoạt

động văn hóa thông tin – thể dục thể thao trên địa bàn huyện Củ Chi. Ngoài ra tại các xã của

huyện cũng có các trung tâm văn hóa – thể thao. Đây là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa

truyền thống của người dân địa phương và tạo thêm sân chơi lành mạnh cho giới trẻ.

Sân golf Nhân Sư và khu villa: nằm ở vị trí Quốc lộ 22, Tân Thông Hội, Củ Chi

Thành phố Hồ Chí Minh. Sân golf là điểm đến thuận tiện nhất cho khách quốc tế hoặc

golfer sống ở các quận Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp,…chỉ mất 20 phút di chuyển

bằng đường bộ từ sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất hoặc 30 phút bằng ca-nô từ Thảo Điền (

Quận 2) để đến bến du thuyền của sân golf Nhân Sư – Ct Sphinx. Đây là một địa điểm đầy

thú vị dành cho mọi người và cũng là một tiềm năng hấp dẫn thu hút du khách có điều kiện

đến với vùng đất thép Củ Chi. Tạo thêm nhiều sản phẩm vui chơi giải trí cho du khách từ

những sản phẩm truyền thống đến sản phẩm hiện đại.

Nếu như từ năm 2000 đến 2005 các cơ sở mua sắm tại Củ Chi còn đơn điệu , chủ yếu

tập trung tại các chợ nhỏ, lẻ thì giờ đây với sự xuất hiện các siêu thị với quy mô vừa đã đáp

ứng được nhu cầu của du khách cũng như người dân địa phương như: siêu thị Coop mart,

siêu thị Vinatex. Còn lại các hệ thống của hàng nhỏ, lẻ chủ yếu tập trung tại khu vực thị trấn

và một số cơ sở mua sắm tại các điểm tham quan du lịch. Đặc biệt là các mặt hàng thủ công

mỹ nghệ, hàng lưu niệm nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách. Tuy nhiên sản phẩm còn

chưa ổn định chưa đáp ứng hết được nhu cầu của du khách.

2.2.3.5. Vốn đầu tư

Đầu tư trong lĩnh vực du lịch có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển. Nó

tạo ra động lực thúc đẩy du lịch phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho xã hội. Trong những

67

năm qua du lịch Củ Chi đã thu hút được một số đầu tư từ các doanh nghiệp. Tuy giá trị đầu

tư chưa cao nhưng cũng phần nào thúc đẩy được sự phát triển của huyện nhà.

- Đầu tư nước ngoài (FDI)

Trên địa bàn huyện Củ Chi chưa thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

vào lĩnh vực du lịch trong những năm qua. Nguyên nhân chủ yếu là do: cơ sở hạ tầng phục

vụ du lịch còn nghèo nàn, khả năng cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc điểm du lịch còn

nhiều hạn chế. Công tác quảng bá, xúc tiến, đầu tư chưa được chú trọng.

- Đầu tư trong nước

Chính sách đầu tư vào du lịch Củ Chi từ thành phố còn rất ít. Hệ thống cơ sở hạ tầng

phục vụ phát triển du lịch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức do đó hạn chế sự phát triển

du lịch của huyện.

2.2.3.6. Hoạt động xúc tiến đầu tư du lịch

Trong những năm qua, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch của huyện đã có những

bước phát triển. Với nhiều hình thức khác nhau, phổ biến nhất là thông qua các chương trình

của đài truyền hình để quảng bá hình ảnh. Với địa đạo Củ Chi là một địa danh khá nổi

tiếng. Nói đến địa đạo là mọi người biết, đó là hệ thống địa đạo trong cuộc chiến tranh ác

liệt ngày xưa của quân dân Củ Chi ngày nay trở thành khu du lịch sinh thái quan trọng của

huyện. Đây là điểm thuận lợi cho công tác quảng bá, tiếp thị sản phẩm du lịch.

Để quảng bá hình ảnh của mình, du lịch huyện Củ Chi cũng đã tham gia nhiều hội chợ,

triển lãm du lịch, giới thiệu trên báo đài, internet.

Năm 2011, Địa đạo Củ Chi được chọn là 1 trong 10 điểm tham quan thú vị nhất trong

đợt bình chọn Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị. Năm 2013 hệ thống phòng thủ

trong lòng đất của huyện Củ Chi đã lọt vào danh sách 12 điểm du lịch ngầm hấp dẫn nhất

thế giới của tờ CNN, hình ảnh địa đạo Củ Chi được giới thiệu trên các phương tiện truyền

thông đại chúng, đây cũng là điểm thuận lợi cho việc quảng bá du lịch Củ Chi.

Tuy nhiên, các hình thức quảng bá thương hiệu còn thực hiện đơn lẻ giữa các điểm du

lịch. Chưa có sự kết nối để hình thành một chương trình quáng bá xuyên suốt và đầy đủ, các

doanh nghiệp chủ yếu quảng bá cho điểm du lịch của mình. Một số hình ảnh được các bạn

trẻ thông tin giới thiệu trên mạng internet. Các trang web còn nghèo nàn, hình ảnh trưng bày

tại các cuộc triễn lãm còn chưa phong phú. Điều đó cho thấy du lịch Củ Chi cần hơn nữa

những chiến lược quảng bá và marketing thương hiệu của mình, để từ đó giới thiệu rộng rãi

với du khách trong nước và quốc tế nhằm thu hút hơn nữa lượng du khách đến với Củ Chi.

68

Ngoài ra, huyện cũng có những dự án được quy hoạch ( Phụ lục 3) nhằm hỗ trợ cho sự

phát triển của ngành du lịch với các khu vui chơi được mở rộng, các công viên hiện đại, các

khu du lịch sinh thái. Hứa hẹn trong tương lai sẽ tạo ra nhiều sản phẩm du lịch phục vụ cho

du khách khi đến tham quan, nghỉ dưỡng ở huyện Củ Chi.

2.3. Đánh giá chung về tài nguyên và các điều kiện phát triển du lịch

2.3.1. Thuận lợi

Trong xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu và mở rộng tăng

cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh tế tri thức trên thế giới đang tạo cơ hội

to lớn đồng thời cũng là thách thức to lớn đối với phát triển du lịch. Trước bối cảnh và xu

hướng đó, du lịch huyện Củ Chi đã từng bước thể hiện được những tiềm năng độc đáo, phù

hợp với xu thế của thị trường, tăng cường sức cạnh tranh với du lịch của các tỉnh bạn.

Nằm trong địa phận Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Củ Chi có ưu thế quan trọng để

phát triển du lịch, là điểm dừng chân khá quan trọng trên tuyến du lịch đến với Thành phố

Hồ Chí Minh, tuyến du lịch xuyên Việt đến với nước bạn Campuchia, huyện còn giáp ranh

với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương,… là điều kiện quan trọng thu hút khách du

lịch đến với các tuyến tham quan liên tỉnh.

Huyện Củ Chi từ lâu đã được biết đến như một cái nôi cách mạng của thành phố nói

riêng và của Việt Nam nói chung. Nói đến hoạt động du lịch huyện Củ Chi là người ta

thường nghĩ ngay đến các khu di tích địa đạo ở Bến Đình và Bến Dược. Huyện Củ Chi nổi

tiếng trong thời kì chống Pháp, chống Mỹ với khu vực địa đạo là khu “ Di tích lịch sử cách

mạng” có hình thái kiến trúc độc đáo. Hiện nay, không chỉ nổi tiếng về các di tích lịch sử,

huyện Củ Chi còn phát triển các loại hình du lịch khác phục vụ cho nhu cầu tham quan

khám phá cũng như nghỉ ngơi giải trí của người dân và du khách như: công viên nước, khu

du lịch sinh thái, các làng nghề. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu tham quan học tập của

mọi người, các trang trại nông nghiệp công nghệ cao, trạm cứu hộ động vật,…cũng mở cửa

phục vụ tham quan trải nghiệm thực tế cho rất nhiều học sinh, sinh viên. Những tiềm năng

trên sẽ hứa hẹn tăng sức mạnh phát triển du lịch cho huyện Củ Chi.

Đặc biệt du lịch huyện Củ Chi cũng nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh

đạo huyện và UBND thành phố. Sự phát triển du lịch của huyện phát triển theo đường lối

chính sách chung của thành phố, phù hợp với các chiến lược và mục tiêu mà chính phủ đề

ra. Du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, mở

69

rộng giao lưu, là lựa chọn hầu hết của các địa phương trong nền kinh tế toàn cầu và hội nhập

như hiện nay.

Với những điều kiện và thời cơ trên sẽ giúp huyện đưa ra những quyết định, lựa chọn

và phát triển du lịch với hy vọng sẽ đạt được những thành tựu to lớn, góp phần phát triển

nền kinh tế của huyện Củ Chi, nâng cao đời sống người dân nơi đây.

2.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những tiềm năng và thế mạnh hiện có, du lịch huyện Củ Chi cũng tồn tại

nhiều thách thức mang tính chất chủ quan và cả những trở ngại khách quan.

Là một huyện có diện tích khá lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng tài nguyên du lịch

chủ yếu là các di tích lịch sử. Còn lại các tài nguyên du lịch khác hầu như có điểm tương

đồng giống như nhau, đặc biệt là các khu du lịch sinh thái.

Nhận thức về phát triển du lịch của huyện còn thấp, chưa được chú trọng phát triển.

Cộng đồng dân cư tham gia vào du lịch còn manh mún. Các ban ngành liên quan đến việc

khai thác quản lý các nguồn tài nguyên còn nhiều bất cập và chồng chéo, nhiều cấp nhiều

ngành cùng tham gia quản lý và khai thác một điểm tài nguyên. Do vậy, việc xây dựng quy

hoạch, đầu tư tôn tạo và bảo vệ tài nguyên môi trường chưa được quan tâm thỏa đáng.

Khả năng cạnh tranh du lịch của huyện không cao do chưa xây dựng được sản phẩm

du lịch mang đậm bản sắc văn hóa riêng. Bên cạnh đó, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh,

trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động ngành còn nhiều bất cập, tính chuyên

nghiệp chưa cao; cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém. Đó thực sự là khó

khăn cho quá trình phát triển du lịch huyện nhà trong xu thế ngày nay.

70

71

2.4. Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi

2.4.1. Vị trí du lịch của huyện Củ Chi trong nền kinh tế

Là một huyện vùng ven của thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua Củ Chi

đã có những bước khởi sắc đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế có

những chuyển biến sâu sắc. Ngành du lịch của huyện cũng ngày càng được đầu tư và có

những đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP của huyện.

Bảng 2.5. Bảng số liệu cơ cấu GDP của huyện Củ Chi phân theo ngành kinh tế năm

2001_2010

Năm 2001 2005 2010

GDP ( tỷ đồng) 2.357,039 4.316,551 6.711,33

Trong đó 100,0 100,0 100,0

- Nông – Lâm- Thủy sản (%) 22,74 14,59 8,05

- Công nghiệp – Xây dựng (%) 70,88 74,46 80,94

- Dịch vụ (%) 6,38 10,9 11,01

(Nguồn: UBND huyện Củ Chi, Phòng thống kê)

Tổng GDP toàn huyện tăng nhanh, năm 2001 đạt 2.357,03 tỷ đồng , đến năm 2005 con

số đó đã tăng đến 4316,5 tỷ đồng tăng hơn 1,8 lần. vào năm 2010 GDP của huyện đạt

6.711,3 tỷ đồng tăng gấp 1,6 lần so với năm 2005 và gấp 2,8 lần so với năm 2001.

Tuy nhiên xét về mặt đóng góp của ngành dịch vụ vẫn còn rất thấp, thấp nhất trong cơ

cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên đáng kể, từ năm

2000 đến 2005 tăng thêm 3,05%. Nhưng đến giai đoạn 5 năm sau từ 2005 – 2010 chỉ tăng

0,06%. Điều đó cho thấy dịch vụ trong cơ cấu kinh tế huyện còn có vai trò khá khiếm tốn,

chưa phát huy hết được tiềm năng. Trong đó phải nói đến đóng góp của ngành du lịch. Mặc

dù có nhiều tiềm năng nhưng du lịch huyện Củ Chi chưa phát triển tương xứng với tiềm

năng vốn có. Các loại hình du lịch còn phát triển một cách riêng rẻ, tự phát, thiếu quy

hoạch. Vì vậy, đòi hỏi cần có những định hướng phù hợp để có thể khai thác hết tiềm năng

vốn có của huyện.

2.4.2. Thực trạng phát triển du lịch

2.4.2.1. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch

- Mức độ khai thác: Tiềm năng tài nguyên du lịch của huyện Củ Chi khá đa dạng. Tuy

nhiên, do nhiều nguyên nhân tiềm năng này vẫn chưa được khai thác tối đa.

72

Bảng 2.6. Tỷ lệ khai thác một số loại tài nguyên du lịch chính năm 2012

STT Loại tài nguyên Tài nguyên du Đã khai thác Tỷ lệ khai

lich tiềm năng thác so với

tiềm năng (%)

1 Di tích lịch sử văn hóa 5 2 40

2 Du lịch sinh thái 5 4 80

3 Sông (có tiềm năng du 2 0 0

lịch)

4 Làng nghề 4 2 50

5 Vườn cây ăn trái 2 1 50

(Nguồn UBND huyện Củ Chi)

Qua bảng tổng hợp có thể khẳng định tỷ lệ khai thác tài nguyên của huyện Củ Chi

chưa khai thác tối đa, đồng đều. Trong số các tài nguyên du lịch có tiềm năng chỉ có các di

tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên chủ yếu được đầu tư phát triển. Các làng nghề , trang trại

vườn cây ăn trái được sử dụng thấp hoặc chưa được sử dụng. Trong số các loại tài nguyên

du lịch đã được khai thác thì mức độ khai thác cũng chưa nhiều.

Hiệu quả khai thác các loại tài nguyên du lịch: Theo kết quả nghiên cứu thời điểm hiện

nay thì hiệu quả khai thác tài nguyên du lịch của huyện còn khá thấp. Do tại các điểm du

lịch mới ở giai đoạn đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa có sản phẩm du lịch đặc thù. Trong thời gian

tới, hy vọng với những chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, đầu tư nâng cấp các

dịch vụ phục vụ sẽ thu được hiệu quả cao.

2.4.2.2. Các điểm du lịch, các khu du lịch

*Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi

Di tích Địa đạo Củ Chi hiện được bảo tồn ở hai khu vực Bến Dược và Bến Đình, cách

trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 70km về phía Tây Bắc. Khu du lịch thích

hợp cho những du khách thích tham quan và khám về lịch sử, bên cạnh đó trong khu du lịch

còn có nhiều khu vực với nhiều hạng mục và công trình khác nhau giúp du khách có thể

thỏa sức tham gia trải nghiệm các hoạt động đời sống thực tế thú vị của người dân địa

phương trong thời gian trải qua hai cuộc chiến tranh cam go và gian khổ. Giúp cho khách du

lịch đặc biệt là giới trẻ trong nước có những hiểu biết hơn về lịch sử của dân tộc.

73

Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng

vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa Thông tin công

nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia.

Địa đạo Củ Chi nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người. Khách trong nước, ngoài

nước tới tham quan, tìm hiểu ngày càng đông. Từ ngày thống nhất đất nước (1975), đã có

hàng chục ngàn đoàn khách du khách với đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm

địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, Nguyên thủ quốc gia, đến các chính

khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ,…

Địa đạo thường xuyên được gia cố, tôn tạo, đảm bảo độ bền vững lâu dài; kết hợp với

các công trình giải trí vui chơi, du lịch trong một khu rừng thiên nhiên rộng rãi, mát mẻ.

Khu di tích liên hoàn gồm căn cứ của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn – Gia

Định trong thời kháng chiến được khôi phục lại đầy đủ chi tiết như nguyên trạng vốn có

trước đây, là nơi hấp dẫn thu hút du khách.

 Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược Đền được xây dựng trên khu đất rộng 70.000m2, gồm có cổng tam quan, nhà văn bia,

tháp 9 tầng cao khoảng 40m và ngôi điện chính. Trong điện chính có đặt bia khắc tên

khoảng 50.000 người con của tổ quốc Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh trên đất Sài Gòn –

Gia Định. Từ năm 1995 đến nay, Đền Tưởng niệm Liệt sĩ Bến Dược được trùng tu nâng cấp

2 lần thay đổi các chất liệu composite bằng đá và đồng như: hoa văn đế cột, rồng, liễn,

hạc,…nhằm mang tính vĩnh cửu, cũng như bổ sung thêm nhiều danh sách liệt sĩ khắc tên

trên bia đá.

 Địa đạo Bến Dược

Nằm trong hệ thống địa đạo Củ Chi, Địa đạo Bến Dược là căn cứ của Khu ủy và Bộ

Tư lệnh quân khu Sài Gòn – Gia Định. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, là hệ thống

đường hầm nằm sâu trong lòng đất, có nhiều tầng hầm, nhiều ngõ ngách như mạng nhện dài

trên 200km, có nơi ăn, ở, hội họp và chiến đấu.

 Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định kiên cường – bất khuất

Tầng hầm Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược là nơi trưng bày, tranh, tượng, phù điêu,

thể hiện các phong trào đấu tranh cách mạng tiêu biểu, các nhân vật tiêu biểu trong cuộc đấu

tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định. Tầng hầm có 9

không gian. Mỗi không gian thể hiện một giai đoạn cụ thể của quá trình lịch sử hơn 100

năm chống giặc Pháp, Mỹ xâm lược.

 Công trình tái hiện vùng giải phóng Củ Chi

74

Đến nơi này du khách như trở lại thời chiến tranh. Đây là nơi tái hiện các giai đoạn

lịch sử từ năm 1960 – 1975, là nơi thể hiện cảnh sống, chiến đấu của người dân Củ Chi

trước và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Khu được chia ra thành nhiều vùng

như: vùng giải phóng, vùng tranh chấp, vùng trắng, vùng bị tạm chiếm,…thể hiện sinh động

cảnh quan làng mạc huyện Củ Chi trước chiến tranh với cây trái sum suê, bốn mùa nặng

quả; cảnh tàn phá của bom, đạn Mỹ; mô hình ấp chiến lược mà Mỹ và tay sai áp dụng để

kiểm soát dân cư; thể hiện cảnh trai, gái hăng hái tòng quân đánh giặc…

 Rừng đặc trưng 3 miền và hồ cảnh quan mô phỏng Biển Đông: Rừng gỗ quý đặc

trưng của miền Bắc – Trung – Nam được trồng theo hình chữ S, rộng khoảng 4,6 ha, được

một cái hồ bao bọc hai phía mô phỏng biển Đông và Vịnh Thái Lan rộng 6,8 ha. Trên các

khu vực trồng gỗ quý theo miền, được xây dựng 3 mô hình đặc trưng thu nhỏ là: Chùa Một

Cột ( Hà Nội), Ngọ Môn ( Huế) và Bến Nhà Rồng ( Tp.HCM). Công trình này sẽ giáo dục

tình yêu thiên nhiên đất nước, hiểu được giá trị lịch sử - văn hóa dân tộc cho du khách nhất

là thế hệ trẻ. Là nơi học tập bổ ích về thiên nhiên, tham quan các mô hình di tích lịch sử văn

hóa nổi tiếng của Việt Nam.

 Mô hình chùa Một Cột: chùa Một Cột gắn liền với lịch sử của thủ đô Hà Nội, và từ

lâu chùa Một Cột cũng là một biểu tượng của đất nước Thăng Long ngàn năm văn hiến. Mô

hình Chùa Một Cột thu nhỏ tại khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi nhỏ hơn 0,9 lần so với

ngôi chùa chính ở Hà Nội, được khởi công xây dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày

19.12.2009.

 Mô hình Ngọ Môn Huế: là mô hình thu nhỏ có tỉ lệ chỉ bằng ¼ công trình thật,

được khởi công xây dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày 19.12.2009.

 Mô hình Bến Nhà Rồng: Tòa nhà có đôi rồng gắn trên nóc, kiểu “ lưỡng long châu

nguyệt” nên thường gọi là Nhà Rồng. Bến cảng Nhà Rồng còn lưu lại cho dân tộc Việt Nam

một kỷ niệm thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Mô hình Bến Nhà Rồng thu nhỏ

tại khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi có tỷ lệ bằng ¼ công trình thật, được khởi công xây

dựng vào ngày 24.5.2008, khánh thành ngày 19.12.2009.

 Địa đạo Bến Đình: là di tích lịch sử cách mạng được Nhà nước công nhận (xếp

hạng) di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 15.12.2004. Cũng giống như địa đạo Bến Dược

nơi đây là nơi ăn, ở, hội họp cũng vừa là thế trận chiến đấu độc đáo, góp phần trong cuộc

chống giặc cứu nước.

75

Ngoài ra, khi đến tham quan khu di tích, du khách còn được tham gia các hoạt động

vui chơi, giải trí như: bắn súng, bắn súng đạn sơn, buổi trưa du khách có thể thưởng thức

các món ăn mang đậm bản chất dân dã ở nhà hàng trong khu du lịch. Vừa ăn du khách vừa

hưởng thụ cái không khí trong lành mát mẻ ở đây. Bên cạnh đó, du khách có thể tham gia

bơi thuyền Kayak, hay tắm mình trong hồ bơi để nghỉ ngơi thư giãn. Khi ra về du khách có

thể mua một số mặt hàng lưu niệm để làm quà. Các món đồ này được chế tác từ các vỏ đạn,

vỏ bom, được các nghệ nhân tạo thành những món đồ nhỏ, đẹp mắt và đáng yêu.

*Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số Củ Chi

Đến đây du khách sẽ khám phá được rất nhiều điều thú vị. Khu du lịch được thiết kế

với kết cấu chủ yếu bằng gỗ, tre, trúc, lá dừa nước,…Đến với khu du lịch, du khách sẽ có

cảm nhận như đang về một làng quê thôn dã. Đây là một điểm đặc biệt để thu hút du khách.

Xung quanh bờ hồ và trên những ngọn đồi cỏ nhấp nhô là khu nhà sàn của các nhóm đồng

bào dân tộc thiểu số. Tại nơi đây du khách không chỉ chiêm ngưỡng nét độc đáo của từng

kiểu nhà cùng những tín ngưỡng khác nhau của từng dân tộc mà còn được tận mắt quan sát

những vật dụng sinh hoạt và sản xuất của họ như: guồng nước của người Mường, lò rèn của

người S’tiêng, cách nấu rượu của người Chu - ru, cảnh dệt thổ cẩm của các cô gái Ba - na,

Thái; nghề đan lát của các nghệ nhân S’tiêng, nghề làm gốm của người Chơ - ro,…

Trong chuyến tham quan, du khách còn thưởng thức chương trình đặc biệt của khu du

lịch. Thu hút nhất có lẻ là những trò chơi lạ như: mê cung xanh, mê cung trúc với khu nhà 5

căn được làm từ hơn 2.000 cây trúc, khu vui chơi nước. Hay thú vị là trò xiếc vịt gây cảm

giác tò mò thích thú cho nhiều người. Khu du lịch còn có nhà lưu niệm để du khách lựa

chọn những món quà làm kỉ niệm hay tặng bạn bè, người thân. Ở đây còn có khu tái hiện

Sài Gòn 300 năm, trại nuôi đà điểu, sân golf, nhà hàng,…tất cả kết hợp thành một khuôn

viên thơ mộng. Đây có thể được xem là một điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến thăm

vùng đất thép.

*Khu du lịch “ Một thoáng Việt Nam”

Đây là điểm hội tụ của nền văn hóa Việt trên khắp đất nước Việt Nam. Khu du lịch là

một quần thể làng nghề thủ công truyền thống. Với diện tích 22,5 ha nằm cạnh rạch Bò Cạp,

gần sông Sài Gòn, khu du lịch có khoảng 30 hạng mục tiêu biểu cho những nền văn hóa

khác nhau trên khắp đất nước. Trong khu du lịch du khách có thể thưởng thức ẩm thực

mang đậm văn hóa 3 miền hay tham quan đảo nuôi chim thú tự nhiên, khu chợ hàng tiểu thủ

công nghiệp, chợ trên sông, vườn cây ăn trái,..

76

Tại nơi đây du khách có thể ngắm nhìn những công trình, những cảnh vật nổi tiếng của

đất nước Việt Nam như: tháp Chàm, chùa Thiên Mụ, hồ Hoàn Kiếm, chợ Bến Thành, núi

sông, rừng biển,…được tạo nên bởi những bàn tay nghệ nhân tài hoa làm toát lên vẻ đẹp của

quê hương đất nước Việt Nam.

Đến tham quan khu du lịch, du khách sẽ có dịp tận mắt nhìn thấy những người thợ thủ

công, nông dân, nghệ nhân,...cùng lao động sản xuất với những ngành nghề truyền thống.

Đồng thời điều thú vị là du khách còn có thể tự mình trải nghiệm bằng cách tham gia trực

tiếp vào công việc với sự hướng dẫn của các nghệ nhân.

Không phải ai cũng có điều kiện và thời gian đi khắp đất nước Việt Nam để tìm hiểu

về nền văn hóa Việt. Do đó, khu du lịch Một thoáng Việt Nam là điểm đến lý tưởng để tham

quan và hiểu thêm về con người Việt Nam trên mọi miền đất nước. Đến đây, du khách có

thể thưởng thức bát nước chè xanh đậm đặc của miền Bắc hay nước dừa ngọt lịm của miền

Nam với hình ảnh lũy tre, con trâu, lúa nước,…tất cả như một bức tranh tổng thể hài hòa về

đất nước Việt Nam.

*Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

Cách trung tâm thành phố 25km, cách thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương khoảng

2km. Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ là điểm hẹn cuối tuần đầy thú vị cho du khách. Với

không gian yên tĩnh, trong lành khu du lịch đem đến cho du khách cảm giác thư thả sau

những ngày làm việc mệt nhọc. Với lợi thế nằm ven sông Sài Gòn khu du lịch có một phong

cảnh nên thơ và mát mẻ với lũy tre, sông nước, cầu khỉ,.. Du khách có thể câu cá thư giản

tham quan nhà cổ hay đi dạo sông Sài Gòn bằng ca nô. Cách khu du lịch không xa là khu du

lịch Đại Nam thuộc tỉnh Bình Dương với nhiều loại hình tham quan, vui chơi giải trí hiện

đại. Đây có thể xem là một cung đường lý tưởng cho tuyến du lịch từ Thành phố Hồ Chí

Minh đi Bình Dương và ngược lại.

*Khu vườn cây ăn trái Trung An

Cách trung tâm thành phố 40 km là khu vườn cây ăn trái xã Trung An, huyện Củ Chi.

Nơi đây có khoảng 10 hộ kinh doanh cây ăn trái. Đến đây du khách có thể thưởng thức các

loại trái cây như; chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, mận, ổi,...Điểm thú vị là du khách có thể

tự mình hái và thưởng thức ngay tại vườn. Hằng năm, Trung An đón ít nhất từ 35.000 đến

50.000 du khách, 75% sản phẩm cây ăn trái của các vườn là bán cho du khách. Ngoài ra, khi

đến đây du khách còn có thể thưởng thức được không gian vườn mát mẻ, yên tĩnh. Không

chỉ thưởng thức trái cây, du khách còn có thể thưởng thức những món ăn dân dã miền quê

77

do người dân địa phương phục vụ. Đây cũng là một hướng đi mới để phát triển nông nghiệp

huyện Củ Chi.

*Khu công viên nước Củ Chi

Tọa lạc tại ấp 4 xã Phước Vĩnh An, công viên nước có diện tích khoảng 3 ha bao gồm

các hạng mục: khu hồ bơi dành cho người lớn, hồ bơi dành cho trẻ em, các trò chơi mạo

hiểm như: “ đu dây tử thần”, thử cảm giác mạnh thì có trò chơi “ 3 làn trượt nước”, hay du

khách có thể thư giản với “ Hồ tạo sóng nhân tạo”, “ Dòng sông lười”. Những du khách

thích không gian tĩnh lặng có thể đến khu vực câu cá thư giản, để vừa câu cá, vừa ngắm

cảnh thiên nhiên hay đi dạo tham quan vườn thú với đa dạng về chủng loại như: cá sấu, đà

điểu, voi, nai, hươu, gấu,…

Ngoài ra khu công viên còn phục vụ cho những du khách có nhu cầu lưu lại qua đêm

để thưởng thức cái không khi miền thôn dã với hệ thống nhà nghỉ, khách sạn 32 phòng, với

đầy đủ các tiện nghi.

*Khu nông nghiệp công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh

Nằm trên tuyến đường đi địa đạo Củ chi cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh

khoảng 44km về phía Tây Bắc, thuận tiện giao thông đi các tỉnh. Từ đây du khách sử dụng

xe buýt có thể đi Campuchia và Thái Lan theo trục đường Xuyên Á. Được xây dựng theo

Quyết định số 3534/QĐ – UBND ngày 14/7/2004 của UBND Thành phố, với quy mô là

88,17 ha. Khu nông nghiệp công nghệ cao là khu kinh tế kỹ thuật đa chức năng, bao gồm

các lĩnh vực: nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ, sản xuất dịch vụ cung cấp giống,

vật tư, chế phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hội thảo,

hội chợ - triển lãm, tham quan, du lịch tri thức,…

Đến đây tham quan du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các công nghệ trồng rau

sạch, tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp và trải nghiệm những hoạt động thú vị như

trồng rau, chăm sóc rau sạch và khi ra về mỗi du khách còn được tặng một sản phẩm làm

quà. Hiện nay, khu nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu đón tiếp các đoàn khách là học sinh,

sinh viên từ các trường đến tham quan và học tập ngoại khóa.

*Trạm cứu hộ động vật hoang dã Trạm có diện tích 4000 m2, được nâng cấp và hoạt động vào năm 2008. Trạm có khả

năng cứu hộ nhiều loài động vật khác nhau như: linh trưởng, thú họ mèo, tê tê, rùa, rái

cá,…Hàng trăm cá thể và nhiều loài động vật khác nhau đã được thả về thiên nhiên. Trạm

cũng bao gồm một phòng trưng bày giáo dục về động vật hoang dã.

78

Hiện nay, trạm cũng mở cửa đón các đoàn khách đến để tham quan, học tập. Đặc biệt

là sinh viên và học sinh, thông qua đó giáo dục các em ý thức về tự nhiên và lòng yêu

thương đối với các loài động vật đang ngày càng bị con người sát hại.

2.4.2.3. Các tuyến du lịch

Tuyến du lịch trong huyện

- Thị trấn Củ Chi – khu công viên nước Củ Chi – khu vườn cây ăn trái Trung An.

Đây là tuyến du lịch phục vụ cho du khách có nhu cầu vui chơi giải trí kết hợp với

tham quan thư giản. Bên cạnh đó du khách còn có thể mua sắm các loại cây kiểng, cá cảnh,

bánh tráng, trái cây phục vụ cho sở thích của bản thân hay làm quà cho bạn bè, người thân.

Tuyến du lịch này thích hợp cho các bạn sinh viên họp mặt hay các nhóm bạn trẻ đi dã

ngoại vào cuối tuần.

Các điểm tham quan du lịch chính

+ Khu công viên nước Củ Chi

+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông

+ Làng nghề sinh vật cảnh

+ Khu vườn cây ăn trái Trung An

- Thị trấn Củ Chi – Địa đạo Bến Đình

Trong chuyến đi, du khách sẽ được tham quan khám phá các di tích lịch sử, các công

trình kiến trúc nghệ thuật văn hóa, Đồng thời tham quan trải nghiệm các hoạt động sản xuất

cũng như văn hóa đời sống của người dân địa phương và một số dân tộc ít người.

Các điểm tham quan chính:

+ Đình Cây Sộp

+ Khu nông nghiệp công nghệ cao

+ Chùa Linh Sơn

+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông

+ Địa đạo Bến Đình

+ Khu du lịch sinh thái văn hóa các dân tộc thiểu số

Đây cũng là tuyến du lịch phục vụ chủ yếu cho nhu cầu vui chơi, giải trí

Các điểm tham quan chính:

+ Khu công viên nước Củ Chi

+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

- Thị trấn Củ Chi – Địa đạo Bến Dược

79

Tuyến du lịch phục vụ cho nhu cầu tham quan học tập, phù hợp cho các đoàn du khách

quốc tế cũng như các đoàn khách trong nước hay các em học sinh, sinh viên. Qua chuyến đi,

du khách sẽ hiểu thêm về lịch sử của Việt Nam, hiểu biết thêm về các ngành nghề truyền

thống. Đồng thời thông qua một số điểm du lịch giáo dục con người tình yêu thiên nhiên và

yêu thương động vật.

Các điểm tham quan chính:

+ Làng nghề mành trúc Tân Thông Hội

+ Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã

+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam

+ Địa đạo Bến Dược

- Thị trấn Củ Chi – Trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh

Theo Quốc lộ 22 về trung tâm Thành phố với nhiều điểm tham quan, các di tích lịch

sử, các công trình văn hóa nghệ thuật. Kết hợp là các khu trung tâm vui chơi giải trí hiện

đại, các khu mua sắm sầm uất.

Các điểm tham quan chính:

+ chợ Bến Thành

+ Dinh Dộc Lập

+ Nhà hát Thành Phố

+ Các viện bảo tàng

+ Nhà thờ Đức Bà

+ Bưu điện Thành phố Hồ chí Minh

Tuyến du lịch liên tỉnh

 Củ Chi – Tây Ninh

Loại hình du lịch chính : tham quan, tín ngưỡng

Các điểm du lịch:

+ Địa đạo Bến Đình

+ Địa đạo Bến Dược

+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam

+ Chùa Bà Tây Ninh

 Củ Chi – Bình Dương

Loại hình tham quan nghỉ dưỡng. Với các điểm đến:

+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

80

+ Khu du lịch Đại Nam

+ Gốm sứ Minh Long

Tuyến du lịch quốc tế

 Củ Chi – Phnôm Pênh

Loại hình chính là tham quan giải trí. Các điểm đến:

+ Khu di tích Địa đạo Củ Chi

+ Thủ đô Phnômpenh

2.4.2.4. Lao động trong ngành du lịch

Nguồn nhân lực là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát triển mọi lĩnh vực. Do đó, cho dù

tài nguyên thiên nhiên, lịch sử có phong phú đa dạng cỡ nào nhưng nguồn nhân lực kém thì

cũng không thể xây dựng được những chiến lược phát triển du lịch hay xây dựng những

chương trình du lịch đáp ứng được nhu cầu của du khách. Đây cũng là điểm yếu của Củ Chi

trong những năm qua. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch của huyện chỉ khoảng hơn

1000 người. Trong đó đa số không qua đào tạo, thiếu nghiệp vụ cũng như chuyên môn.

Trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 7%. Điều đó đòi hỏi lãnh đạo ngành cần có những

chương trình và chính sách để đào tạo và tuyển dụng những lao động có nghiệp vụ chuyên

môn trong lĩnh vực du lịch để thúc đẩy ngành du lịch của huyện phát triển. Quan tâm hơn

nữa đến việc đào tạo sử dụng nguồn nhân lực là cư dân bản địa, góp phần tạo ra những sản

phẩm du lịch đặc trưng hơn, giải quyết hiệu quả hơn việc chia sẻ du lịch với cộng đồng địa

phương.

2.4.2.5. Khách du lịch

Thực hiện chính sách phát triển du lịch cùng với sự tăng trưởng kinh tế của huyện, du

lịch huyện Củ Chi đã thu hút số lượng khách đến tham quan ngày một tăng. Năm 2000 số

lượt khách đến huyện Củ Chi là 826.200 lượt người, đến năm 2002 là 994.646 lượt người.

Năm 2004 là 904.561 lượt người. Hơn 5 năm sau, số lượt khách đã lên đến con số

1.125.000 vào năm 2009. Tuy số lượng khách tăng không đáng kể nhưng cũng đã cho thấy

được sự chuyển biến của của du lịch huyện Củ Chi trong những năm qua. Bắt đầu từ năm

2009 trở đi thì cùng với sự phát triển chung của thành phố, huyện Củ Chi đã có sự quan tâm

và đầu tư hơn vào du lịch. Thể hiện qua số lượng du khách của những năm về sau.

Bảng 2.7. Lượng khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 - 2011

Năm Tổng số Nội địa Quốc tế

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ

81

( %)

2001 875.801 641.683 73,26 183.683 26,73

2005 838.166 544.188 64,92 284.928 35,07

2008 790.529 354.069 44.79 436.460 55,21

2009 1.125.000 766.339 68,12 358.661 31,88

2010 1.263.919 852.243 67,43 411.676 32,57

2011 1.420.000 927.484 65,31 492.516 34,69

(Nguồn: Ban quản lý Di tích Địa Đạo Củ Chi)

*Khách quốc tế:

Số lượng khách quốc tế: khách quốc tế đến với huyện Củ Chi có xu hướng tăng qua

các năm trừ năm 2009. Năm 2000 khách quốc tế chỉ đạt 183.863 người thì đến năm 2005,

số khách đã tăng lên 284.928 người tăng 1,5 lần. Đến năm 2008 tăng lên 436.460 khách,

tăng 2,4 lần so với năm 2000. Và 1,5 lần so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2009 do ảnh

hưởng của nền kinh tế số lượng khách có xu hướng giảm, nhưng sau đó vào năm 2010 số du

khách đã tăng lại 411.676 khách, và đạt đến 492.516 khách vào năm 2011.

Bảng 2.8. Lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh và Củ Chi

giai đoạn 2001 – 2011

Năm Lượng khách đến Lượng khách đến Lượng khách đến

TP Hồ Chí Minh Củ Chi Củ Chi so với TP

( nghìn lượt) ( nghìn lượt) Hồ Chí Minh ( %)

2001 1.266 19 234,1

2005 2.000 15 284,9

2008 2.800 16 436,5

2009 2.600 14 358,6

2010 3.100 13 411,6

2011 3.500 14 492,5

(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh + Ban quản lý khu

du lịch Địa Đạo Củ Chi)

Tỉ lệ khách quốc tế trên tổng nguồn khách: khách du lịch quốc tế đến huyện Củ Chi

tăng lên qua các năm. Năm 2000 chỉ chiếm khoảng 22,3%. Đến năm 2005 tăng lên 34%,

nhưng vào năm 2008 số khách quốc tế đã chiếm hơn 55% tổng số khách đến Củ Chi. Đến

năm 2009 ảnh hưởng nền kinh tế số lượng du khách giảm xuống còn 32%, sau đó tăng lên

rất ít 32,6%, và năm 2011 là 34,7%.

82

Độ dài ngày lưu trú: khách đến tham quan huyện Củ Chi hầu như đều đi về trong ngày,

hiếm có khách lưu trú lại. Vì tất cả các khách đều lưu trú tại khu vực trung tâm Thành phố

Hồ Chí Minh.

Đặc điểm nguồn khách quốc tế:

+ Mục đích du lịch: tham quan địa đạo Củ Chi, nơi được xem là một kỳ quan đánh

giặc có một không hai. Nó mang chiều sâu thẳm của lòng căm thù và ý chí kiên cường, bất

khuất của “vùng đất thép”, một trong những biểu tượng rực rỡ Chủ nghĩa anh hùng của dân

tộc Việt Nam.[15] Củ Chi thu hút khách quốc tế đến chủ yếu để tham quan về di tích lịch sử

nổi tiếng này.

+ Phương tiện đi lại: khách quốc tế đế với Củ Chi hiện nay chủ yếu vẫn là đường bộ,

xuất phát từ trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc đi từ của khẩu Mộc Bài từ Cam- pu-

chia sang. Hiện có dự án phát triển hệ thống đường thủy nhưng chưa phổ biến.

+ Cơ cấu nguồn khách: du khách đến Củ Chi chủ yếu từ châu Á, châu Âu, châu Mĩ,

còn lại số ít là từ châu Phi và châu Úc. Tỉ lệ khách du lịch các nước đang ngày một tăng, là

một điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng du lịch của huyện.

 Khách du lịch quốc tế đến Củ Chi so với Thành phố Hồ Chí Minh:

So với Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng khách du lịch quốc tế đến huyện Củ Chi còn

rất thấp và không ổn định. Năm 2000 chiếm 16%, nhưng đến năm 2005 chỉ còn 15% giảm

đi 1%, sau đó năm 2008 tăng lên 16%. Các năm tiếp theo đó hầu như chỉ dao động trong

khoảng 13 – 14%.

Biểu đồ 2.1. Khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 – 2011

khách nội địa

khách quốc tế

năm

1000 900 800 700 600 500 400 300 200 100 0

2001

2005

2008

2009

2010

2011

Nghìn lượt

(Nguồn: Ban quản lý khu di tích Địa đạo Củ Chi)

83

Số lượng khách nội địa: số lượng khách nội địa đến huyện Củ Chi tăng nhanh trong

những năm qua, từ giai đoạn năm 2009 trở đi thì số lượng khách nội địa tăng ổn định. Vào

năm 2000 số lượng khách nội địa là 642.337 lượt người thì sang năm 2005 số lượng khách

giảm 98.149 lượt khách chỉ còn 544.188 lượt nhưng đến năm 2008 thì lượng khách nội địa

sụt giảm chỉ còn 354.069 lượt người. Bắt đầu từ 2009 trở đi thì số lượng khách bắt đầu ổn

định hơn, tăng đều đặn qua các năm. Năm 2009 là 766.339 lượt khách, đến năm 2010 là

852.243 lượt khách, tăng 85.904 lượt khách. Và 2011 đạt 927.484 lượt khách, mức cao nhất

qua các năm, chiếm 65% tổng số khách đến Củ Chi.

Tỉ lệ khách nội địa trên tổng số khách: Nhìn chung khách đến Củ Chi chủ yếu vẫn là

khách nội địa, luôn chiếm hơn 65% tổng số khách trừ năm 2008. Như vậy , cơ cấu giữa

khách du lịch quốc tế và nội địa đến Củ Chi còn khá chênh lệch. Điều này, đặt ra yêu cầu

cho các nhà đầu tư cần quan tâm hơn nữa đến các sản phẩn du lịch và tuyên truyền quảng bá

du lịch. Nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế, thu hút lượng khách quốc tế đến với

Củ Chi ngày một nhiều hơn.

Độ dài ngày lưu trú: Cũng giống như khách quốc tế thì khách nội địa cũng chỉ đến

tham quan Củ Chi trong ngày hầu như không lưu lại. Vì đa phần là khoảng cách gần, còn lại

đa số là học sinh sinh viên đi tham quan học tập theo các công ty lữ hành hoặc du khách các

tỉnh thì lưu trú tại khu vực trung tâm. Bên cạnh đó, một số điểm du lịch khá hấp dẫn nhưng

chưa tổ chức được các dịch vụ phục vụ đúng nhu cầu của du khách nên dẫn đến khách

không muốn lưu trú lại.

Đặc điểm nguồn khách nội địa:

+ Mục đích du lịch: Khách nội địa đến với Củ Chi có nhiều dạng, nhưng đa phần là

các học sinh, sinh viên đi tham quan học tập kết hợp sinh hoạt ngoại khóa. Tiếp đến là các

cựu chiến binh về thăm lại địa đạo. Số khác là các vị lãnh đạo cấp nhà nước đến viếng đền

tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ ở đây. Ngoài ra, còn có một lượng khách đến các khu du

lịch sinh thái, vườn cây ăn trái để nghỉ ngơi, giải trí. Nguồn khách này chủ yếu là khách từ

nội thành thành phố đi dã ngoại vào dịp nghỉ lễ hoặc các dịp cuối tuần,…

+ Cơ cấu nguồn khách: Nguồn khách du lịch nội địa đến Củ Chi chủ yếu là từ khu vực

trung tâm Thành phố và các tỉnh lân cận. Ngoài ra còn có một số ít khách phía Bắc hay Hà

Nội đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh ghé qua.

%

Biều đồ 2.2. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến Củ Chi giai đoạn 2001 – 2011.

84

180

160,1

144,3

160

128,5

140

120

100

95,57

90,3

100

80

60

40

20

năm

0

2001

2005

2009

2008

2011

2010 (Nguồn: Ban quản lý khu Di tích Địa đạo Củ Chi)

Nếu lấy mốc tăng trưởng từ 2001 là 100% ta sẽ thấy tốc độ tăng trưởng của khách du

lịch đến Củ Chi không ổn định qua các năm. Giai đoạn năm 2005 đến năm 2008 tốc độ tăng

trưởng giảm xuống còn 95,7% năm 2005 và 90,3% năm 2009. Từ sau năm 2009 trở đi thì số

lượng khách đến Củ Chi có xu hướng tăng ổn định hơn, khoảng 15 % mỗi năm. Và đến

năm 2011 đạt 160,1% vượt 60,1% so với năm 2001. Nhìn chung trong quá trình phát triển

ngành du lịch huyện đã có những thay đổi tích cực để cải thiện chất lượng sản phẩm du lịch

nhằm gia tăng số lượng du khách qua mỗi năm. Số lượng các điểm du lịch ngày một nhiều

hơn với nhiều loại hình phong phú đa dạng hơn đã thu hút được sự quan tâm của du khách

trong những năm gần đây. Hy vọng trong những năm tới du lịch huyện Củ Chi sẽ có những

định hướng mang tính chiến lược hơn để gia tăng thêm lượng du khách đến với Củ Chi, bắt

kịp được với tốc độ phát triển du lịch của Thành phố.

2.4.2.6. Doanh thu

Doanh thu du lịch là tất cả khoản thu do du khách chi trả trên địa bàn huyên trong quá

trình tham quan du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế công tác thống kê doanh thu du lịch những

năm qua của huyện không có, mà chủ yếu dựa vào báo cáo của ban quản lý khu di tích lịch

sử Địa đạo Củ Chi. Còn các chi tiêu khác không cập nhật đầy đủ.

* Tổng doanh thu qua một số năm

Cùng với sự gia tăng về lượng du khách, doanh thu du lịch của Củ Chi cũng đã đạt

được mức tăng trưởng nhất định.

85

Bảng 9.5. Doanh thu từ khu di tích Địa đạo Củ Chi giai đoạn năm 2008 – 2011 so với

nguồn thu của Thành phố

Năm Doanh thu từ du Doanh thu từ du So với doanh thu

lịch huyện Củ Chi ( lịch của Thành phố du lịch của Thành

( tỷ đồng) tỷ đồng) phố ( %)

2008 57,566 31.000 0,18

2009 69,244 38.334 0,18

2010 85,724 44.918 0,19

2011 100,060 56.842 0,18

(Nguồn Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Phòng kế hoạch kinh doanh Địa đạo Củ

Chi)

Qua bảng trên cho thấy doanh thu từ du lịch của huyện trong những năm qua có sự gia

tăng đáng kể từ 57,566 tỷ đồng lên đến hơn 100 tỷ. Đây là một bước cố gắng phát triển

không ngừng của đội ngũ quản lý du lịch của huyện cũng như công sức của các nhân viên

ngành du lịch. Tuy nhiên, nếu đem so với nguồn thu chung của thành phố thì du lịch huyện

Củ Chi còn chiếm một tỷ lệ khá thấp. Từ năm 2008 đến năm 2011 đều chỉ dừng lại ở mức

0,18 % chỉ có năm 2010 đạt 0,19%. Vậy vấn đề đặt ra là ngành du lịch của huyện cần xem

lại định hướng phát triển du lịch của huyện chưa bắt kịp với sự phát triển du lịch của thành

phố. Huyện Củ Chi chưa tận dụng được lợi thế của một huyện ngoại thành của thành phố

trung tâm. Chưa tận dụng được nguồn khách đến thành phố làm cơ sở để tăng doanh thu cho

du lịch huyện. Đây là vấn đề mà các nhà làm du lịch huyện Củ Chi cần xem xét, cần có

những giải pháp cụ thể để du lịch huyện Củ Chi ngày càng phát triển bắt kịp với xu hướng

phát triển chung của thành phố.

*Cơ cấu nguồn thu

Cơ cấu nguồn thu du lịch huyện Củ Chi khá đơn điệu. Chủ yếu tập trung vào doanh

thu từ du khách tham quan khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi. Còn lại là từ doanh thu ăn

uống. Trong những năm qua doanh thu từ ăn uống cũng tăng lên đáng kể, nhờ vào sự hoàn

thiện và nâng cấp một số nhà hàng, các quán ăn mang tính đặc sản. Doanh thu từ các dịch

vụ khác còn rất ít.

Điều nay cho thấy du lịch huyện Củ Chi còn chưa khai thác được hết tiềm năng. Các

dịch vụ vui chơi, giải trí còn nghèo nàn chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. Nhìn

chung cơ cấu doanh thu du lịch Củ Chi ít thay đổi qua các năm. Do đó để có bước đột phá

86

đòi hỏi cần có những chiến lược đầu tư, xây dựng mới nâng cao chất lượng các dịch vụ du

lịch. Tiến hành đa dạng hóa các loại hình dịch vụ du lịch, đặc biệt là các dịch vụ có khả

năng thu hút khách du lịch, tăng khả năng chi tiêu của du khách và giữ chân du khách ở lại

lâu hơn. Để làm được điều đó đòi hỏi du lịch huyện Củ Chi cần tạo ra sản phẩm du lịch

hoàn hảo hơn và chất lượng hơn để tương xứng với những tiềm năng vốn có của mình.

2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi trên quan

điểm phát triển bền vững

2.5.1. Đánh giá chung

Trong những năm qua cùng với sự phát triển chung của ngành du lịch thành phố,

ngành du lịch huyện Củ Chi đã có nhiều nổ lực đánh thức tiềm năng của huyện. Các chỉ tiêu

về lượt khách, doanh thu có sự tăng trưởng đáng kể là lượt khách quốc tế có sự tăng lên, bên

cạnh những du khách của các thị trường quen thuộc còn có thêm sự xuất hiện các nguồn

khách mới.

Bên cạnh đó, huyện cũng đã có những chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất

– kỹ thuật phục vụ cho du lịch. Đã bắt đầu xuất hiện những khách sạn đạt tiêu chuẩn để

phục vu du khách. Thu hút được cộng đồng dân cư địa phương tham gia vào hoạt động du

lịch, các hướng dẫn viên, buôn bán hàng lưu niệm,…

Để đưa du lịch huyện Củ Chi lên một tầm cao mới, ngành du lịch huyện cũng đã chú

trọng hơn đến công tác đầu tư, quảng bá du lịch địa phương với bạn bè trong nước và quốc

tế, bước đầu đã có những thành công nhất định. Tạo cơ hội thu hút đầu tư của các doanh

nghiệp trong cũng như ngoài nước tham gia vào phát triển du lịch của huyện nhà.

Các điểm du lịch cũng có những kế hoạch tổng thể và chi tiết để xây dựng nhiều loại

hình vui chơi tạo ra nhiều sản phẩm du lịch để phục vụ du khách, tạo ra sự kết nối giữa các

điểm, các khu du lịch. Đặc biệt, xu hướng mới là du lịch trải nghiệm rất phù hợp với địa

phương, sẽ tạo cảm giác thích thú cho khách du lịch khi tham gia khám phá về vùng đất

này.

Tuy nhiên, mức độ khai thác tài nguyên du lịch vẫn còn hạn chế. Chủ yếu tập trung

vào các di tích lịch sử, các khu du lịch sinh thái. Chưa khai thác hết tiềm năng vốn có của tài

nguyên. Các hệ thống du lịch đường sông chưa được khai thác phục vụ du lịch. Các điểm có

tiềm năng phát triển du lịch bị bỏ quên “ phim trường, xã Hòa Phú”. Khai thác nhưng chưa

có kế hoạch đầu tư lâu dài, dẫn đến một số khu du lịch xuống cấp như “ Khu du lịch Một

87

thoáng Việt Nam”, “Khu công viên nước Củ Chi”, một số công trình đưa vào hoạt động

nhưng không có kế hoạch đầu tư để tôn tạo. Các công trình kiến trúc văn hóa nghệ thuật chỉ

phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương mà chưa có hướng khai thác

thành sản phẩm du lịch để phục vụ nhu cầu của du khách. Các làng nghề có nguy cơ mai

một vì không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Các vườn cây ăn trái được đưa vào quy hoạch

phát triển du lịch nhưng vẫn còn hoạt động tự phát không theo quy hoạch chung, chủ yếu

theo mùa vụ.

Các loại hình du lịch còn đơn giản, đa số du khách đến huyện Củ Chi để tham quan di

tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, một số ít khách nội địa đến tham quan kèm theo vui chơi giải

trí. Mặc dù đã có nhiều loại hình du lịch được bổ sung vào các khu du lịch như mạo hiểm

hay trải nghiệm khám phá nhưng còn thiếu tính chất đặc sắc nên chưa thu hút được nhiều sự

quan tâm của du khách, đặc biệt là giới trẻ.

So với tiềm năng của huyện thì lượng du khách đến với du lịch huyện chưa tương

xứng với tiềm năng phát triển. Có rất nhiều điểm tham quan du lịch nghỉ dưỡng thu hút rất ít

khách nội thành vào các dịp cuối tuần. Các điểm du lịch còn lại chưa có chính sách đầu tư

quảng bá, giới thiệu điểm du lịch của mình đến với du khách. Tạo điều kiện tối đa để khách

du lịch có dịp tiếp xúc với các thông tin về điểm du lịch, khơi gợi cho du khách sự tò mò

thích thú khám phá và đặc biệt là phải có những thay đổi mới mẻ nhằm tránh cho du khách

cảm thầy buồn chán khi có dịp quay lại lần sau.

2.5.1.1. Tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường

Sự phát triển của bất kì ngành kinh tế nào cũng gắn liền với vấn đề môi trường, điều

này có ý nghĩa đối với sự phát triển của ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên

vùng và xã hội hóa cao như ngành Du lịch. Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng

đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của hoạt động du lịch.

Hiện nay không chỉ du lịch mà cả các ngành kinh tế khác cũng phải đang đối phó với

những thách thức không nhỏ bởi sự suy thoái môi trường tự nhiên, đặc biệt là ô nhiễm môi

trường nước, môi trường không khí, các khu dân cư, khu du lịch, làng nghề,…Bên cạnh đó,

sự suy giảm đa dạng sinh học, sự gia tăng tai biến và sự cố môi trường cũng có ảnh hưởng

đến sự phát triển du lịch bền vững.

2.5.1.2. Hoạt động du lịch làm tăng áp lực về chất thải sinh hoạt, góp phần làm tăng

nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí.

88

Ô nhiễm môi trường do tác động của hoạt động du lịch xuất hiện từ những nhân tố chủ

quan ( hoạt động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ, phục vụ khách du lịch: khách sạn, nhà

hàng, phương tiện vận chuyển khách du lịch). Phạm vi tác động của hoạt động du lịch đối

với môi trường chủ yếu tại các khu du lịch, các điểm tham quan du lịch thu hút du khách:

các khu du lịch sinh thái, khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, công viên nước,…Nguồn gây ô

nhiễm môi trường từ các chất rắn, nước thải, khí thải do các cơ sở kinh doanh dịch vụ du

lịch và khách du lịch thải ra.

+Chất rắn gồm có rác và các chất hữu cơ ( chủ yếu chất phế thải lương thực, thực

phẩm động vật, thức ăn thừa,…), rác vô cơ ( nguyên vật liệu xây dựng, vỏ bao bì đựng các

loại hàng hóa, lương thực thực phẩm ). Hầu hết các loại thức ăn thừa tại các nhà hàng, quán

ăn đều được thu gom và bán cho các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện. Một phần lại được

thải trực tiếp ra bên ngoài. Đây chính là nguồn trực tiếp gây ô nhiễm môi trường tự nhiên (

đất, nước, không khí).

Theo số liệu thống kê của Công ty dịch vụ công ích huyện Củ Chi, trong năm 2002,

tổng khối lượng rác thu gom hàng ngày trên địa bàn huyện là 19.710 tấn/ năm (tương ứng

khoảng 54 tấn/ ngày), trong đó rác từ các hộ gia đình là 7 tấn và từ các cơ sở sản xuất là 27

tấn/ ngày; rác từ các công trình công cộng như chợ, khu du lịch, vui chơi,…là 20 tấn/ ngày.

Nhìn chung hoạt động quản lý rác sinh hoạt trên địa bàn huyện Củ Chi hiện nay được

thực hiện khá tốt. Huyện Củ Chi là một huyện ngoại thành, các hộ gia đình ở đây (ngoại trừ

khu vực thị trấn ) phần lớn đều là nhà vườn, người dân thường có khuynh hướng tận dụng

lại hầu hết tất cả các loại thực phẩm, rau quả thừa làm thức ăn chăn nuôi gia súc, đây là

thành phần chiếm tỷ lệ cao trong rác sinh hoạt

( 72% - 84,5%), nên phần rác còn lại có khối lượng rất ít, có thể đổ bỏ hoặc đốt trong vườn

nhà hay ủ làm phân bón. Do đó, mặc dù tỷ lệ thu gom rác trên địa bàn huyện rất thấp (

17%), nhưng vấn đề vệ sinh môi trường vẫn được thực hiện khá tốt. đây là điều kiện thuận

lợi cho phát triển du lịch bền vững ở Củ Chi.

+ Nước thải chủ yếu là nước đã qua sử dụng tại các nhà hàng, khách sạn, nhà

nghỉ,..thải ra ngoài. Nước thải từ các khu du lịch có nhiều chất hóa học, dầu, mỡ,…hầu hết

không được qua hệ thống xử lý và thấm trực tiếp xuống lòng đất gây ô nhiễm nguồn tài

nguyên đất và nước mặt. Tuy nhiên nguồn nước mặt ở huyện Củ Chi do đặc trưng cho vùng

đất bị nhiễm phèn, nước đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, nên chỉ đạt tiêu chuẩn nguồn loại B

( tiêu chuẩn 5942 – 1995). Vì vậy hầu hết nước sử dụng cho các điểm du lịch, khu vui chơi

89

chủ yếu từ mạch nước ngầm khai thác ở tầng Pleistoxen và một phần ở tầng Plioxen trên.

Mức độ khai thác càng cao khả năng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước càng lớn, đặc biệt vào

những tháng mùa khô. Nước khai thác sử dụng cho các điểm du lịch là nước sạch nhưng khi

thải ra môi trường là nước đã qua sử dụng, được thải trực tiếp vào các hệ thống kênh rạch.

Sau đó đổ thẳng vào sông Sài Gòn, làm cho nguồn nước ở đây bị ô nhiễm. Nó không chỉ

ảnh hưởng đến địa phương mà còn tác động chung cho cả thành phố.

+ Khí thải gồm khí thải động cơ của phương tiện vận chuyển khách du lịch, khí thải từ

các bếp đun của nhà hàng, quán ăn. Khí thải từ máy điều hòa nhiệt độ,...Lượng khí thải

thoát tự nhiên ra môi trường gây ô nhiễm môi trường không khí. ( Bảng kết quả chất lượng

không khí huyện Củ Chi – Phụ lục 4)

2.5.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng

bền vững

Nghiên cứu của các nhà khoa học và kinh tế cho thấy, ba trụ cột của phát triển bền

vững gồm sự bền vững kinh tế, bền vững về xã hội và sự bền vững về tài nguyên và môi

trường.

2.5.2.1. Từ góc độ bền vững về kinh tế

Khách du lịch là cơ sở cho sự phát triển của ngành Du lịch bởi lượng khách tăng đồng

nghĩa với doanh thu tăng, khả năng đóng góp của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế của

huyện cũng được nâng cao. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là đối với phát triển du lịch từ góc độ

kinh tế là chất lượng nguồn khách.Về chỉ tiêu khách cũng như doanh thu của huyện so với

thành phố còn chiếm tỷ lệ chưa cao. Khách quốc tế đến huyện Củ Chi chỉ chiếm 13% - 14%

nguồn khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đến các thu nhập từ các dịch vụ du

lịch còn thấp.

Chất lượng các cơ sở lưu trú trên địa bàn huyện còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu

của du khách, các khách sạn chủ yếu tập trung ở thị trấn, còn lại là các nhà nghỉ với cơ sở

vật chất kỹ thuật chưa đạt tiêu chuẩn.

Hiệu quả khai thác du lịch còn thấp: thời gian lưu lại du lịch ngắn, chi tiêu cho mua

sắm của khách nội địa lẫn quốc tế còn thấp, mức độ hài lòng của du khách đối với sản phẩm

du lịch chưa cao. Muốn thu hút khách du lịch, lưu giữ khách nhiều ngày và tăng chi tiêu

mua sắm của khách cần phải khai thác nguồn tài nguyên và đầu tư sản phẩm du lịch chất

lượng, đây là vấn đề còn hạn chế của ngành du lịch huyện Củ Chi.

90

Như vậy chất lượng nguồn khách du lịch đang là vấn đề rất quan trọng đặt ra đối với

sự phát triển của du lịch từ góc độ kinh tế. Mặc dù lượng khách du lịch và thu nhập du lịch

qua các năm đều ghi nhận có sự tăng trưởng.

Với tư cách là một ngành kinh tế, sản phẩm du lịch là một yếu tố rất quan trọng quyết

định hiệu quả kinh doanh du lịch. Một sản phẩm du lịch tốt có chất lượng phù hợp với yêu

cầu của khách du lịch sẽ có khả năng bán giá cao, mang lại hiệu quả kinh tế. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, mặc dù huyện Củ Chi có tiềm năng phát triển du lịch nhưng trong những năm

qua những sản phẩm du lịch đặc sắc mang nét riêng của huyện Củ Chi chưa được khai thác

hiệu quả và chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng. Đây là một nguyên nhân quan

trọng làm hạn chế hiệu quả kinh doanh du lịch, đồng thời theo thời gian gây sự nhàm chán

cho du khách, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững.

Có đến 71,7% số khách đến Củ Chi lần đầu hứa sẽ quay lại khi có điều kiện, 81,8% số

khách đến Củ Chi lần thứ 2 hứa sẽ quay lại, 85,7% khách đến Củ Chi lần thứ 3 hứa sẽ quay

lại, và đến 96,3% số khách đến Củ Chi trên 3 lần hứa sẽ quay lại. Tuy nhiên, ngoại trừ số

khách đến lần đầu, số còn lại họ không phải là những du khách thực thụ, họ quay lại Củ Chi

với những mục đích khác nhau như: kết hợp công việc hay thăm hỏi người thân,…

Mức tăng trưởng đầu tư cho du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành:

đầu tư là đòn bẩy để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển trong đó có du lịch. Trong những

năm qua, đầu tư vào lĩnh vực du lịch của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có gia tăng,

song để du lịch thật sự phát triển bền vững cần có sự quan tâm hơn nữa từ phía nhà nước

bằng việc phân bổ đầu tư cho sự nghiệp du lịch cân đối các ngành kinh tế khác và tương

xứng với vai trò là một ngành kinh tế quan trọng. Về điểm này huyện Củ Chi còn chưa quan

tâm.

Hoạt động quảng bá du lịch của huyện còn hạn chế chưa có hiệu quả. Việc quảng cáo

sản phẩm du lịch chủ yếu dựa trên những gì có sẵn mà chưa quan tâm đến sản phẩm du lịch

thị trường cần. Vì vậy, khả năng thu hút khách du lịch kém, làm giảm hiệu quả kinh doanh

của hoạt động du lịch.

Chất lượng nguồn nhân lực du lịch chưa được nâng lên ngang tầm với yêu cầu của

nhiệm vụ. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực. Tuy nhiên

chất lượng đội ngũ lao động cũng như trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, trình độ

nghiệp vụ, kỹ năng nghề,…chưa bắt kịp tốc độ phát triển chung đang là yếu tố ảnh hưởng

đến chất lượng sản phẩm du lịch và đang là vấn đề đặt ra hiện nay.

91

2.5.1.3. Từ góc độ khai thác và bảo vệ tài nguyên – môi trường

Các nguồn tài nguyên du lịch chưa được khai thác nhiều cho phát triển du lịch. Tỷ lệ

khai thác cũng như mức độ khai thác các loại tài nguyên du lịch còn thấp, cho thấy các giá

trị tài nguyên chưa được phát huy để có những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.

Vấn đề quản lý tài nguyên du lịch còn chồng chéo giữa các cấp, ngành. Nhận thức xã

hội về phát triển du lịch và khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch còn nhiều hạn chế.

Số lượng các khu, điểm du lịch được quy hoạch và đầu tư tôn tạo còn ít, hiện chỉ có

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi được quy hoạch cụ thể. Các khu du lịch đang phát triển

tự phát không có quy hoạch cụ thể nên vấn đề khai thác sử dụng tài nguyên còn nhiều hạn

chế.

Cường độ hoạt động du lịch ở một số điểm du lịch chính còn thấp lại chỉ tập trung vào

mùa lễ hội, gây áp lực lớn cho môi trường vào những thời điểm này. Như vậy, các điểm du

lịch cần có những sản phẩm du lịch đa dạng, kéo dài thời vụ khai thác, có như vậy mới giảm

bớt áp lực đến môi trường, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững.

2.5.1.4. Từ góc độ phát triển xã hội

Trong thời gian qua sự phát triển của ngành du lịch của huyện đã có những đóng góp

tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, tạo thêm việc làm, tạo thêm thu nhập

cho người dân địa phương nhưng nhận thức xã hội về du lịch vẫn chưa được đầy đủ và nhất

quán nên ảnh hưởng tới sự phối hợp giữa các ngành nghề có liên quan.

Các nhà lãnh đạo địa phương và ngành du lịch thành phố đánh giá rất cao sự an toàn

của Củ Chi, nhưng với khách du lịch vẫn tồn tại những mặt chưa tốt. Đó là sự an toàn trong

các trò chơi mang tính chất mạo hiểm như: bắn súng , bơi thuyền, lướt ván,…Đồng thời

huyện cũng cần thành lập các đội nhóm hướng dẫn và bảo vệ du khách, đặc biệt là trong

mùa cao điểm để tạo thêm niềm tin cho du khách.

Hoạt động phát triển du lịch trong thời gian qua luôn gắn liền với vấn đề xã hội hóa du

lịch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát triển quá nhanh các hệ thống

doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng quy mô

nhỏ vượt quá khả năng quản lý của địa phương, tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh như: gây

hỗn loạn trong kinh doanh, các tệ nạn xã hội,…Đây là một vấn đề tác động không tốt đến

phát triển bền vững nhìn từ góc độ xã hội.

Mọi hoạt động phát triển chỉ bền vững nếu được sự ủng hộ của xã hội nói chung, của

cộng đồng nơi diễn ra hoạt động du lịch nói riêng. Vấn đề đặt ra cho phát triển du lịch từ

92

góc độ xã hội là phải nâng cao nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của du lịch và chia sẻ lợi

ích thu được từ du lịch với cộng đồng dân cư.

Nhìn chung trong những năm qua du lịch đã và đang tiếp tục góp phần cải thiện và

nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân huyện Củ Chi, vốn trước đây chỉ đơn thuần là

nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của du lịch sẽ góp phần tăng thu nhập cho người dân,

đồng thời giúp họ lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc đang có nguy cơ

mai một.

93

94

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU

LỊCH HUYỆN CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

3.1. Những căn cứ xây dựng định hướng và giải pháp

3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh

Mục tiêu tổng quát

Căn cứ theo quyết định của UBND Tp Hồ Chí Minh ( QĐ 06/2008?QĐ-UBND) về

“Chương trình phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 – 2010 và những

năm kế tiếp” và “ Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành du lịch trên địa

bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015”với các mục tiêu đặt ra như sau:

- Phát triển du lịch gắn liền với phát triển thương mại và giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc làm cho “ Du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn” để đóng góp cho sự tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố và phát triển bền vững.

- Phát triển du lịch thành phố gắn liền với việc xã hội hóa để người dân và các thành

phần kinh tế tham gia vào hoạt động và xây dựng môi trường du lịch. Đẩy mạnh xúc tiến du

lịch, tăng cường hội nhập và chủ động phát triển quan hệ quốc tế.

- Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, chọn lọc xây dựng một số sản

phẩm du lịch có chất lượng cao, có sức cạnh tranh. Nâng cấp và xây dựng các điểm du lịch,

khu du lịch, tuyến du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc tế.

- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để từng bước đưa du lịch

thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực. nâng cao năng lực

và hiệu quả quản lí nhà nước đối với hoạt động du lịch.

Mục tiêu cụ thể

- Tiếp tục đẩy mạnh tốc dộ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí

Minh bình quân 12,5%/ năm.

- Tốc độ phát triển khách nội địa là 15% đến 20%/ năm.

- Nâng cao nguồn thu nhập du lịch, tăng khả năng đóng góp ngày càng nhiều của

ngành du lịch vào ngân sách thành phố, với tốc độ là 28%/ năm.

- Phát triển tuyến du lịch đường sông nhằm tăng cường, liên kết, phối hợp với các địa

phương lân cận và ngược lại.

- Tạo chuỗi các sự kiện bình và xét chọn với nhiều hình thức đa dạng nhằm thu hút sự

quan tâm của dư luận xã hội, khách du lịch và của những người làm công tác phục vụ khách

95

du lịch về vấn đề chất lượng sản phẩm du lịch và các giá trị văn hóa đặc trưng của Nam Bộ

nói riêng và Việt Nam nói chung. Qua đó lựa chọn và biểu dương các dịch vụ hàng đầu của

ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh để giới thiệu, quảng bá rộng rãi với du khách trong

và ngoài nước. Như chương trình

“ Thành phố Hồ Chí Minh – 100 điều thú vị”

- Thực hiện các chương trình quảng bá xúc tiến du lịch như:

+ Tổ chức các hoạt động xúc tiến ra nước ngoài tại thành phố

+ Tổ chức hoạt động xúc tiến du lịch ra nước ngoài tại các thị trường

+ Tổ chức các hoạt động quảng bá phát triển du lịch nội địa

+ Thông tin tuyên truyền

- Thực hiện xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu du lịch của thành phố

- Tăng cường quản lý, thu hút đầu tư và phát triển hệ thống khách sạn đạt chuẩn quốc

tế.

3.1.2. Kế hoạch phát triển kinh tế huyện Củ Chi

Cơ cấu kinh tế của huyện theo đồ án quy hoạch được phê duyệt năm 1998 là công

nghiệp – nông nghiệp – thương mại – dịch vụ - du lịch. Nay điều chỉnh cơ cấu kinh tế huyện

trong tương lai là công nghiệp – dịch vụ thương mại – nông nghiệp.

Bảng 3.1. Cơ cấu kinh tế huyện Củ Chi giai đoạn 2010 – 2020 (đơn vị %)

Khu vực Năm 2010 Năm 2020

Nông – lâm – thủy sản 8,05 5,0

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 80,94 80,8

11,01 Thương mại dịch vụ 14,2

(Nguồn : UBND huyện Củ Chi, Phòng thống kê)

Định hướng phát triển của huyện trong những năm tới là phát triển theo hướng nông

nghiệp đô thị, nâng cao giá trị sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Mục tiêu xây

dựng huyện Củ Chi trở thành đô thị xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng đô thị sinh thái –

bền vững.

- Chiến lược xây dựng mô hình dân cư của huyện Củ Chi theo các khu vực khác nhau:

+ Xây dựng khu đô thị Tây Bắc Củ Chi, thị trấn huyện lỵ, khu vực Tân Quy, và các thị

trấn thành những khu đô thị hiện đại, tạo động lực đô thị hóa làm thay đổi kinh tế và toàn

cảnh dân cư của huyện.

+ Hình thành các thị tứ tại khu Trung tâm liên xã, trung tâm xã tạo tiền đề cho xây

96

dựng dân cư và các công trình phúc lợi cũng như công trình phục vụ sản xuất.

+ Xây dựng các khu dân cư nông thôn với mục tiêu ổn định cuộc sống của người dân,

chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản phẩm có chất lượng cao và gắn liền với nhu cầu

nghỉ ngơi du lịch sinh thái – dân cư nhà vườn cho khu vực nội thành.

- Chiến lược phân khu chức năng khu đô thị Củ Chi theo hướng xác định rõ các khu

vực ưu tiên phát triển, khu vực phát triển có kiểm soát và các khu vực dự trữ phát triển trong

tương lai:

+ Khu vực đô thị hóa cao hài hòa với khu dân cư nông thôn. Lấy tiền đề phát triển bền

vững và môi trường thân thiện cho nhu cầu cuộc sống của con người. Phân biệt rõ ranh giới

giữa dân cư nông thôn và khu đô thị hóa. Khoanh vùng các khu vực dự kiến xây dựng tạo

điều kiện tập trung xây dựng, khắc phục tình trạng xây dựng tràn lan, phân tán và không

thuận lợi cho quản lý xây dựng và sử dụng hiệu quả hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật đô thị

của huyện.

+ Xác định cụ thể các khu vực dự kiến dành cho những dự án có quy mô lớn của thành

phố và các hành lang kỹ thuật dự kiến sẽ có trên địa bàn huyện Củ Chi: nhằm bảo đảm có

đủ quỹ đất cho phát triển và sử dụng có hiệu quả trong đầu tư xây dựng.

+ Các khu và cụm công nghiệp tập trung với loại hình công nghiệp khác nhau: cơ khí,

dược, điện, …

+ Các khu vực dành cho các dự án xây dựng công trình có quy mô lớn của thành phố:

phim trường, khu vui chơi giải trí đa năng, viện trường…

+ Hành lang dự kiến cho đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài, hành lang

đường xe lửa Thành phố Hồ Chí Minh – Lộc Ninh – Campuchia (đường sắt Xuyên Á), một

số tuyến dự phòng để nối liền các khu chức năng chính trên địa bàn huyện.

- Chiến lược phát triển các vùng cảnh quan đặc trưng:

+ Từ đặc trưng của thảm thực vật và phương thức sản xuất nông nghiệp, quy hoạch một

số vùng có cây đặc trưng (ví dụ như rừng tầm vông, rừng trúc, rừng các loại cây ăn quả địa

phương, rừng nhiệt đới có nuôi thú chim để tham quan và rừng cây cao su) phục vụ cho nghỉ

ngơi, tham quan, giải trí từ một số khu vực đất có năng suất nông nghiệp thấp, chậm phát

triển. Qua đó hình thành khu vực có tiền đề đầu tư xây dựng, tạo động lực thay đổi cơ cấu

kinh tế, đặc biệt tạo việc làm cho người dân Củ Chi.

+ Phát triển các làng nghề truyền thống kết hợp du lịch: làng nghề bánh tráng và tiểu

thủ công nghiệp đan lát xuất khẩu tại xã Phú Hoà Đông và xã Thái Mỹ.

97

+ Khu vực sản xuất nông nghiệp – các khu rừng với quy mô diện tích và thảm thực vật

khác nhau.

- Chiến lược phát triển dọc theo hành lang sông Sài Gòn:

Phát triển dọc theo hành lang sông Sài Gòn thành các khu du lịch sinh thái kết hợp bảo

tồn các giá trị văn hóa lịch sử và các cụm dân cư mật độ thấp theo hướng nghỉ dưỡng. Tiến

tới thực hiện mục tiêu này thông qua các giải pháp:

+ Điều chỉnh quy hoạch các khu vực dọc sông Sài Gòn thành 7 cụm phát triển du lịch

sinh thái có quy mô khoảng 4.750 ha.

+ Chuyển hình thức cây trồng vật nuôi và làng nghề – cây cảnh thành các khu vực tập

trung để có khả năng đầu tư hạ tầng kỹ thuật thuận lợi cho sản xuất, bảo đảm có sản phẩm

với quy mô lớn và chất lượng cao.

+ Tập trung nghiên cứu khu vực địa đạo Bến Dược và các dự án có liên quan (dự án

mô phỏng Hồ Biển Đông), xây dựng hệ thống các bảo tàng cách mạng, phát triển thành

trung tâm du lịch kết hợp nâng cao các giá trị văn hóa, lịch sử và truyền thống cách mạng,

góp phần xây dựng mục tiêu huyện xã hội chủ nghĩa.

3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế Huyện Củ Chi

Tăng trưởng kinh tế: Trong những năm qua (giai đoạn 2000-2005) tổng giá trị sản xuất

trên địa bàn huyện bình quân hàng năm tăng 17,96% cao hơn so với mức tăng bình quân của

Thành phố. Năm 2005 tổng giá trị sản xuất - kinh doanh trên địa bàn huyện đạt 4.320 tỷ

đồng, tăng 14,5% so với năm 2004.

Cơ cấu kinh tế của huyện những năm qua có sự chuyển dịch theo hướng Công nghiệp

– tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp – thương mại dịch vụ.

Khu vực công nghiệp là động lực tăng trưởng chính của huyện. Năm 2005, giá trị sản

xuất của khu vực này đạt 3.216,301 tỷ đồng, tăng 16,7% so với năm 2004. Khu vực nông

lâm thủy sản đạt 630,22 tỷ đồng, tăng 2,83% so với năm 2004 và khu vực thương mại dịch

vụ đạt 473,03 tỷ đồng, tăng 17,3% so với năm 2004.

- Công nghiệp

Sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 – 2005 phát triển với tốc độ tăng trưởng bình

quân hàng năm đạt 21,47%. Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp năm 2005

của huyện là 3.216 tỷ đồng.

Hiện có 1.372 cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp do huyện quản lý và

63 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, thu hút trên 33.000 lao động. Với các khu cụm

98

công nghiệp được phân bố dọc theo Quốc lộ 22, Tỉnh lộ 15, Tỉnh lộ 8.

Các làng tiểu thủ công nghiệp truyền thống như mây tre lá, bánh tráng xuất khẩu ngày

càng phát triển.

- Nông lâm thủy sản

Sản xuất nông lâm thủy sản giai đoạn 2000 – 2005 phát triển với tốc độ tăng trưởng

bình quân hàng năm đạt 3,43%, giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp năm 2005 đạt

khoảng 630,22 tỷ đồng.

Trong những năm gần đây, chủ trương của Thành phố là đưa dần công nghiệp ở nội

thành ra khu vực ngoại vi, huyện Củ Chi là khu vực được nhiều nhà doanh nghiệp lưu ý, đã

và đang xây dựng hàng loạt cơ sở sản xuất công nghiệp. Vì thế đất nông nghiệp có xu

hướng thu hẹp dần diện tích canh tác.

Đất nông lâm thủy sản hiện có 33.249,54 ha, chiếm 76,44% tổng diện tích đất tự

nhiên, giảm 1.321,9 ha so với năm 1997. Trong đó: Đất nông nghiệp chiếm 32.737,06 ha

gồm đất trồng lúa 25.160 ha với năng suất bình quân đạt 3,79tấn/ha; đất trồng cỏ 800 ha và

đất trồng các loại cây khác như cây rau 3.200 ha, hoa kiểng 45 ha, cây công nghiệp 3.532

ha, …). Đất lâm nghiệp chiếm 104,2 ha chủ yếu ở khu bảo tồn, khu di tích lịch sử. Đất nuôi

trồng thủy sản chiếm 408,28 ha, chủ yếu bố trí ở khu vực phía đông của huyện như làng

nghề cá cảnh, cá sặc rằn ở ấp Phú Hòa, Bến Cỏ, Phú Hòa Đông.

Về thủy sản ở xã Phú Hòa Đông đang triển khai đầu tư nuôi thủy sản quy mô 100 ha.

- Thương mại – dịch vụ

Hiện có 8.310 cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng bình quân

hàng năm của ngành thương mại – dịch vụ là 27,13%.

Trên địa bàn huyện có 18 chợ chủ yếu là bán lẻ kinh doanh các mặt hàng tươi sống,

phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân. Các chợ phân bố tại 14 xã và thị trấn,

trong đó có 12 chợ truyền thống hình thành và phát triển từ lâu đời. Đa số các chợ chưa

được đầu tư cơ sở hạ tầng, một số chợ họp ở lòng đường gây cản trở giao thông.

Trên địa bàn huyện đang triển khai và phát triển loại siêu thị, trung tâm thương mại

dịch vụ.

Về kinh doanh nhà hàng, khách sạn hiện có 2.880 hộ, chủ yếu tập trung ở thị trấn Củ

Chi và một số xã dọc quốc lộ 22.

Về dịch vụ du lịch có khu di tích đền Bến Dược, Bến Đình, Một thoáng Việt Nam,

Công viên nước, khu du lịch sinh thái Nhuận Đức.

99

3.1.4. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi

Qua các nội dung nghiên cứu ở chương 3 kết hợp với “ Chiến lược phát triển du lịch

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” và “ Chương trình hành động quốc gia về

Du lịch giai đoạn 2013 -2020”, đề tài đưa ra những quan điểm và mục tiêu cho việc xây

dựng và phát triển sản phẩm du lịch của huyện Củ Chi theo các hướng sau.

3.1.4.1. Quan điểm phát triển

Với những tiềm năng và lợi thế về tài nguyên du lịch nhân văn, trong những năm qua

du lịch huyện Củ Chi đã có những bước phát triển nhanh, ngành du lịch đã đi đúng hướng

và có đóng góp nhiều mặt về kinh tế - văn hóa – xã hội và môi trường, an ninh trật tự…Tuy

nhiên căn cứ vào tình hình phát triển du lịch của thế giới và khu vực trong thời gian tới, đặc

biệt là tình hình phát triển du lịch của cả nước và cụ thể là của Thành phố Hồ Chí Minh, thì

huyện Củ Chi cần phải xây dựng các chiến lược cụ thể nhằm phát triển lâu dài dựa trên

những quan điểm như sau:

 Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng

cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định vai trò của

ngành Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, thu nhập du lịch từng bước phải đóng góp lớn vào

GDP. Du lịch gia tăng nhanh trong xu hướng chung của kinh tế dịch vụ của huyện để khẳng

định vị trí động lực trong nền kinh tế.

Phát huy tối đa các thế mạnh của ngành du lịch, hệ thống kinh doanh dịch vụ để khẳng

định vai trò động lực của ngành du lịch. Phát triển du lịch tạo động lực phát triển các ngành

liên quan như: nông nghiệp, giao thông, công nghiệp, thương mại, bảo hiểm, bưu chính viễn

thông,…chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ hiện đại đồng thời đảm bảo công

bằng và tiến bộ xã hội.

 Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm;

chú trọng phát triển theo chiều sâu, đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương

hiệu và khả năng cạnh tranh.

Quan điểm chuyển từ phát triển về lượng theo chiều rộng sang tập trung phát triển về

chất theo chiều sâu theo hướng hiện đại. Chất lượng hoạt động du lịch phải được coi trọng

hàng đầu; tập trung đầu tư khai thác phát triển các sản phẩm, dịch vụ đặc trưng, có chất

lượng và giá trị gia tăng cao, có thương hiệu nổi bật.

Phát triển mạnh các địa bàn trọng điểm du lịch, tập trung đầu tư phát triển các khu du

lịch có tầm cỡ, các điểm đến nổi bật để phát triển trở thành thương hiệu quốc gia và thương

100

hiệu vùng. Tập trung đầu tư phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có thế mạnh về tài

nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương. Nhấn mạnh các yếu tố văn hóa và sinh

thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch.

 Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các gíá trị văn

hóa của huyện; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật

tự an toàn xã hội.

Phát triển du lịch trong sự cân đối các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường, đảm

bảo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần tích cực trong việc bảo tồn, bảo vệ môi

trường tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch có trách nhiệm, tôn

trọng lợi ích các bên, các vùng miền, tôn trọng văn hóa truyền thống, tôn trọng du khách

trong mối quan hệ với các cộng đồng điểm đến. Phát triển du lịch gắn với giảm nghèo, từng

bước nâng cao đời sống của dân địa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng.

 Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực của huyện đầu tư phát triển du lịch;

phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế huyện Củ Chi và các yếu tố tự nhiên và văn hóa, thế mạnh

đặc trưng của huyện; tăng cường liên kết để phát triển du lịch

Phát huy hiệu quả tính liên vùng, liên kết vùng và khu vực trong tổ chức không gian

du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch. Phát triển mạnh du lịch để tạo thu nhập và việc làm

cho xã hội, mở rộng giao lưu giữa các địa phương.

Mọi phương án phát triển du lịch cần có sự kết hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp và

đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài.

Phát triển du lịch trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, khai thác tối

đa ưu thế của địa phương, đề cao vai trò, trách nhiệm của mọi thành phần, đặc biệt là mối

quan hệ giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, phát huy tính năng động tự chủ của doanh

nghiệp và vai trò kết nối của hiệp hội nghề nghiệp.

3.1.4.2. Mục tiêu phát triển

*Mục tiêu tổng quát

Đến năm 2020, du lịch cơ bản đóng góp tích cực vào GDP của huyện, có tính chuyên

nghiệp hơn, có hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du

lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Phấn đấu đến năm 2030, du lịch huyện Củ Chi được biết đến như một địa điểm dừng

chân lý tưởng, không thể bỏ qua của du khách khi đặt chân đến Thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng và khu vực phía Nam nói chung. Là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng cho người dân thành phố

101

vào những ngày nghỉ, những dịp cuối tuần.

* Mục tiêu cụ thể

- Về hoạt động ngành: phấn đấu đến năm 2020, ngành du lịch của huyện đạt được

những bước tăng trưởng nhất định, thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của ngành

như sau:

- Khách du lịch: thu hút khách trong nước và quốc tế bằng nhiều biện pháp thiết kế sản

phẩm, xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch huyện Củ Chi. Trong đó quan tâm đến thị hiếu và

nhu cầu của khách nội địa nhiều hơn, chú trọng khai thác thị trường quốc tế đầy tiềm năng.

Theo báo cáo của phòng kinh doanh, kế hoạch tăng trưởng hàng năm của Địa đạo Củ Chi

phấn đấu đạt 12% . Như vậy, tốc độ tăng trưởng đề ra là 12% mỗi năm, thì du lịch của

huyện phấn đấu đến năm 2015 đón 2,2, triệu lượt khách. Trong đó 1,4 triệu lượt khách nội

địa, 774,9 nghìn lượt khách quốc tế.

Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi phải có sự phấn đấu của toàn thể lãnh đạo ngành

cũng như đội ngũ lao động trong ngành du lịch phải không nghừng nâng cao chất lượng

phục vụ, mở rộng thêm các dịch vụ vui chới, giải trí để tăng thêm lượng khách du lịch đến

với Củ Chi.

Thu nhập du lịch: Phát triển đa dạng các dịch vụ hỗ trợ hoạt động du lịch để tăng

nguồn thu; kéo dài thời gian lưu trú của du khách; tăng doanh thu du lịch, đóng góp nhiều

hơn cho GDP của huyện. Riêng khu vực địa đạo Củ Chi đã đề ra mục tiêu năm 2015 là

158,783 tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 254,053 tỷ đồng.

Vốn đầu tư du lịch: Để đáp ứng yêu cầu phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho du lịch

huyện đòi hỏi ngày một nhiều hơn. Bên cạnh đó huyện đang chú trọng đầu tư xây dựng cơ

sở hạ tầng. Đây được xem là nền tảng đầu tiên cho việc phát triển du lịch của huyện.

Trong năm 2013, Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi còn xây dựng thêm công trình

làng chiến đấu ven sông. Với sự phối hợp của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Bình Dương đồng ý

cho sử dụng gần 120 ha đất bên kia sông Sài Gòn, đoạn đối diện với Địa đạo để tái hiện lại

quang cảnh và cuộc chiến đấu ven sông Sài Gòn, cũng như một số công trình phù hợp khác.

Đây là khu tham quan gắn kết của tuyến tham quan hệ thống Địa đạo Củ Chi, để du khách

hiểu rõ hơn nơi được gọi là khu “tam giác sắt”.

Lao động và việc làm:

Cần có những chiến lược đào tạo nguồn lao động cụ thể như:

Gửi một số cán bộ tham dự lớp đào tạo chuyên ngành về du lịch và nhân viên phục vụ

102

tham dự lớp đào tạo nâng cao tay nghề như: đầu bếp, tiếp viên, bán hàng,..

Tổ chức các lớp học tại chỗ nhằm bổ sung kiến thức lịch sử sự hình thành và phát triển

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, về con người và mảnh đất Củ Chi xưa và nay.

Tổ chức cho các cán bộ học tập kỹ năng tổ chức quản lý, tạo điều kiện và khuyến

khích nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ, chuyên ngành “ Quản trị kinh doanh”.

- Về tổ chức lãnh thổ:

Tiến hành quy hoạch cụ thể các điểm du lịch trong huyện. Phát triển các điểm du lịch

hiện có và khai thác các điểm tiềm năng. Phát triển đa dạng các loại hình du lịch, bao gồm

du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa,…Kết hợp các loại hình du lịch tạo nên sản

phẩm du lịch đặc trưng của huyện.

Phát triển du lịch trong sự hòa nhập, gắn kết chặt chẽ với các quận huyện trong thành

phố và liên vùng. Thể hiện qua công tác xây dựng các tuyến du lịch liên tỉnh với khu vực

Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ. Tiến tới xây dựng tuyến du lịch khu vực và

quốc tế, tạo mối quan hệ giao lưu hợp tác với Cam-pu-chia. Trên cơ sở đó, thiết kế các

chương trình hấp dẫn, thu hút thị trường khách du lịch trong nước và ngoài nước.

* Mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi đến năm 2020

Mục tiêu phát triển du lich được xác định trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi với các giai đoạn như sau

Bảng 3.2. Dự báo chỉ tiêu phát triển du lịch đến năm 2020

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2010 2015 2020

Tổng lượt khách Nghìn lượt 1263,9 2208 3926

Khách nội địa 852,2 1459,4 2594

Khách quốc tế 411,6 748,6 1332

Doanh thu Tỷ đồng 85,724 158,7 254

Dự báo trên được tính theo kế hoạch chung của khu du lịch đề ra là 12% mỗi năm.

Doanh thu phấn đấu từ 12% - 20%.

Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động du lịch từng năm có những biến động khác nhau.

Trong giai đoạn năm 2005 – 2011 có năm tăng hơn 12%. Năm 2009 tăng 334.471 lượt

khách so với năm 2008 (mức tăng trưởng 42%). Từ 2009 trở đi tốc độ tăng trưởng đều đặn

12%/ năm. Doanh thu trên thực tế luôn đạt cao hơn mục tiêu đặt ra. Có năm cao hơn kế

hoạch 26%.

3.2. Định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững

103

3.2.1 Định hướng phát triển tổ chức lãnh thổ du lịch

Định hướng phát triển du lịch theo lãnh thổ là vấn đề tổ chức lãnh thổ du lịch dựa trên

những giá trị và sự phân bố của các tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ

thuật phục vụ du lịch, làm cơ sở để phát triển hệ thống các dịch vụ du lịch, đặc biệt là cơ sở

lưu trú trên lãnh thổ nghiên cứu. Tổ chức lãnh thổ là công cụ cụ thể nhất để tổ chức các mục

tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi nói chung và phát triển du lịch bền vững nói riêng.

- Định hướng tổ chức lãnh thổ du lịch

Dựa vào môi trường du lịch tự nhiên và nhân văn, điều kiện kinh tế xã hội, sự phân bố

các nguồn tài nguyên du lịch trong huyện, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

du lịch, định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi thành 2 vùng chủ yếu sau:

*Cụm du lịch di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi với trọng điểm du lịch chính là Khu di

tích lịch sử Địa đạo Củ Chi và các điểm du lịch phụ trợ như: khu du lịch Một thoáng Việt

Nam, Khu du lịch sinh thái văn hóa các dân tộc thiểu số, làng nghề bánh tráng Phú Hòa

Đông. Các sản phẩm du lịch chủ yếu là văn hóa, lịch sử, sinh thái với cảnh quan thiên nhiên

nông thôn, sông nước yên bình.

*Cụm du lịch phía Nam của huyện với các điểm du lịch:công viên nước Củ Chi, khu

du lịch sinh thái Bình Mỹ, vườn cây ăn trái Trung An. Các sản phẩm du lịch chủ yếu là vui

chơi, giải trí, nghỉ ngơi với vùng sinh thái sông nước, vườn cây ăn trái.

- Định hướng tổ chức tuyến du lịch

Căn cứ vào điều kiện địa lý huyện Củ Chi, vị trí du lịch huyện Củ Chi nằm trong vùng

phụ cận trung tâm du lịch thành phố Hồ Chí Minh và mối liên hệ mang tính liên vùng du

lịch với các tỉnh thành lân cận, việc phát triển du lịch huyện Củ Chi được tổ chức theo các

hướng chính như sau:

 Hướng Tây Bắc: theo đường Xuyên Á xuất phát từ trung tâm Củ Chi- Tây Ninh.

 Hướng Tây: Củ Chi – Long An, các tỉnh miền Tây.

 Hướng Đông Nam: theo tỉnh lộ 8 Củ Chi – TX Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.

 Hướng Nam: theo tuyến đường xuyên Á Củ Chi – Trung tâm thành phố Hồ Chí

Minh

 Củ Chi – Tây Ninh – Mộc Bài – Cam-pu-chia

*Tuyến du lịch liên tỉnh

 Củ Chi – Long An – các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

 Củ Chi – Biên Hòa – Bà Rịa Vũng Tàu

104

 Củ Chi – Bình Dương

 Củ Chi – Tây Ninh

 Củ Chi – Trung tâm Hồ Chí Minh – các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ

*Tuyến du lịch nội bộ

Tuyến du lịch đường bộ:

 Tuyến du lịch trung tâm thành phố Hồ Chí Minh – Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ

Chi – khu du lịch Một thoáng Việt Nam, khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số.

 Tuyến du lịch công viên nước Củ Chi – làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông

 Tuyến du lịch vườn cây ăn trái Trung An – khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

 Tuyến du lịch tổng hợp thăm di tích lịch sử văn hóa, làng nghề, các khu du lịch sinh

thái.

Tuyến du lịch đường sông:

 Bạch Đằng – Địa đạo Củ Chi: Khởi hành tại Bến Bạch Đằng, tham quan Bán đảo

Thanh Đa Bình Quới, Cầu Bình Lợi, Chợ lò gốm Lái Thiêu, Thị xã Bình Dương, ngã ba

Bến Cát, Bến Đình

3.2.2. Định hướng phát triển các thị trường khách du lịch

Thị trường là nhân tố quan trọng của sự phát triển, đẩy nhanh tốc độ phát triển cần có

những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường và không ngừng mở rộng, phát triển thị

trường. Định hướng thị trường là việc xác định các thị trường mục tiêu trong tương lai dựa

trên các tiêu chí: xu hướng dự báo dòng khách du lịch ; tiềm năng du lịch của lãnh thổ ( tự

nhiên và nhân văn); hệ thống các khu vui chơi giải trí, các điểm du lịch tiêu biểu, các sản

phẩm du lịch đặc trưng, đặc điểm tâm lý xã hội, nhu cầu của từng du khách, kết quả điều tra

về khách du lịch, các sự kiện lớn, các hội nghị, ngày hội thể thao,…các chương trình xúc

tiến du lịch.

Với đặc thù về tài nguyên du lịch của huyện Củ Chi với vị trí địa lý nằm ở trung tâm

du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường mục tiêu của Củ Chi bao gồm: thị trường khách

quốc tế và thị trường khách nội địa. Đây có thể là thị trường truyền thống cũng có thể là thị

trường mới.

3.2.2.1. Thị trường du khách quốc tế

Củ Chi thuộc thành phố Hồ Chí Minh nên thị trường khách du lịch của huyện cũng

được xác định trên cơ sở khách du lịch đến với thành phố Hồ Chí Minh

Qua thực tế hoạt động và dự báo, thị trường mục tiêu và tiềm năng cho du lịch thành

105

phố giai đoạn 2011 – 2015 theo các nhóm thị trường như sau:

+ Nhóm thị trường trọng điểm:

 Bắc Mỹ: Mỹ, Canada

 Châu Âu: Anh, Pháp, Đức, Nga

 Đông Bắc Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan

 Châu Úc: Úc

 Asean: Singapore, Malaysia, Thái Lan

+ Nhóm thị trường mới và tiềm năng:

 Châu Âu:

 Bắc Âu: Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch

 Nam Âu: Tây Ban Nha, Ý

 Đông Âu: các nước thành viên EU

 Nam Á: Ấn Độ, Bangladesh

 Asean: Campuchia, Philippines, Brunei, Indonesia, Myanmar

 Trung Đông: Ả Rập Xê Út, Qatar, Thổ Nhĩ Kỷ, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống

nhất

 Châu Phi: Nam Phi

3.2.2.2. Thị trường du khách nội địa

Khách du lịch nội địa rất đa dạng, gồm nhiều tầng lớp xã hội, nhiều nghề nghiệp khác

nhau. Họ có thể đi theo gia đình, theo nhóm, hoặc theo các công ty du lịch. Mục đích chính

của khách du lịch nội địa đến với Củ Chi là để tham quan di tích lịch sử, nghỉ ngơi vào các

ngày lễ hoặc các ngày nghỉ cuối tuần, du lịch công vụ, …

+ Khách du lịch tham quan di tích lịch sử: Đối tượng khách tham quan di tích lịch sử

chiếm một tỷ lệ đáng kể. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau trên khắp mọi miền đất nước với

đủ các thành phần xã hội và lứa tuổi. Trong đó chiếm đáng kể là sinh viên, học sinh. Mục

đích chính là tham quan di tích lịch sử kết hợp cắm trại, dã ngoại.

+ Khách du lịch cuối tuần kết hợp vui chơi giải trí: Hiện nay loại hình này đang phát

triển nhanh, nhất là ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà áp lực của

công việc, áp lực của cuộc sống rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến đời sống của người dân. Do

đó, vào những dịp cuối tuần, các tầng lớp lao động cần có nhu cầu tái phục hồi sức khỏe,

sức lao động. Đây là điều kiện thích hợp cho các khu du lịch vui chơi giải trí như Công viên

nước Củ Chi, vườn cây ăn trái Trung An đón tiếp đối tượng du khách này.

106

+ Khách du lịch sinh thái: Loại hình du lịch sinh thái ở huyện Củ Chi trong những năm

gần đây cũng khá phát triển. Các đối tượng chính của loại hình du lịch này rất đa dạng, đa

số là các đối tượng thích mạo hiểm, khám phá, tham gia các hoạt động hoạt động trải

nghiệm trong cuộc sống thường ngày ở nông thôn. Các hoạt động du lịch sinh thái cũng

thường diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng bởi tính mùa vụ trong du lịch. Các điểm du

lịch sinh thái được UBND thành phố quy hoạch phát triển ở huyện Củ Chi gồm có các xã

An Nhơn Tây, xã An Phú, xã Bình Mỹ.

+Khách du lịch thương mại, công vụ: Đối tượng chính của loại hình du lịch này

thường là các cán bộ, công nhân viên trong cơ quan Nhà nước hoặc các doanh nghiệp, cả

các quan chức cấp cao các nước,…thường kết hợp giữa công tác và du lịch. Khả năng chi

tiêu của đối tượng này tương đối cao. Họ thường sử dụng những dịch vụ cao cấp. Loại hình

du lịch này thường diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và thường

tập trung chủ yếu ở Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi.

3.2.3. Định hướng phát triển các sản phẩm du lịch

Du lịch là ngành kinh tế mang tính định hướng tài nguyên rõ rệt, phát triển du lịch cần

dựa vào đặc điểm nguồn tài nguyên du lịch để xác định sản phẩm du lịch đặc trưng, từ đó

xác định thị trường tiêu thụ. Để khai thác được lâu dài cần có sự củng cố và xây dựng các

khu, tuyến, điểm du lịch, đầu tư tôn tạo các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa bảo

vệ tài nguyên môi trường.

Phát triển sản phẩm du lịch là định hướng quan trọng làm tăng khả năng khai thác tài

nguyên du lịch và tạo nên sản phẩm du lịch hấp dẫn. Với tiềm năng và các nguồn tài nguyên

du lịch ở Củ Chi có thể xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch sau:

3.2.3.1. Du lịch văn hóa

Du lịch văn hóa hiện đang là xu hướng chung của các nước đang phát triển vì đem lại

giá trị to lớn cho cộng đồng và xã hội. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào các sản phẩm văn

hóa, những giá trị truyền thống của dân tộc, các phong tục, tín ngưỡng để tạo sức hút với

khách du lịch bản địa và quốc tế.

Củ Chi có nhiều di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng. Tài nguyên du lịch văn hóa

chiếm phần lớn trong nguồn tài nguyên du lịch ở Củ Chi. Tuy nhiên để tăng tính hấp dẫn ta

cần lựa chọn những tài nguyên tiêu biểu, có giá trị văn hóa lịch sử để đầu tư xây dựng và

phát triển tạo thành điểm đến du lịch hoàn chỉnh như:

+ Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi nơi được xem là công trình kiến trúc độc đáo

107

trong lòng đất, nổi tiếng qua hai thời kỳ chống Mỹ, chống Pháp của quân và dân Củ Chi.

Với hai khu vực Đền Bến Đình và Đền Bến Dược.

+ Đình Cây Sộp ( còn gọi là đình Vĩnh An Tây). Đình thờ Thần Thành Hoàng Bốn

Cảnh ( Vị Thần bảo hộ của làng). Đình được vua Tự Đức ban tặng Sắc phong, nơi được

xem là một thiết chế văn hóa cơ sở.

+ Đình Xóm Huế , là một di tích kiến trúc nghệ thuật

+ Chùa Linh Sơn được công nhận là một công trình kiến trúc nghệ thuật. Cũng là nơi

đùm bọc, che chở cho các cán bộ cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ.

3.2.3.2. Du lịch sinh thái

Phát triển du lịch sinh thái là thực hiện quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà

nước đối với sự nghiệp phát triển du lịch nhằm tạo ra hình ảnh mới, đặc sắc của du lịch Việt

Nam trong khu vực và trên thế giới.

Củ Chi với tiềm năng du lịch sinh thái phong phú và đa dạng, được UBND thành phố

chú trong phát triển. Tuy nhiên, khi khai thác các sản phẩm du lịch sinh thái ở các khu, các

điểm cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:

+ Có hoạt động giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường, tạo ý thức cho mọi

người nỗ lực tham gia vào việc bảo tồn các giá trị tài nguyên.

+ Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái

+ Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng

+ Tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.

Ngoài ra du lịch sinh thái còn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người

dân địa phương như đảm nhận vai trò hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ ăn, nghỉ; hàng lưu niệm;

nhu cầu dịch vụ cho khách,…

Cũng như các loại hình du lịch khác, tại các điểm du lịch cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ

tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đảm bảo tiêu chuẩn của khu, điểm du lịch.

Hiện tại huyện Củ Chi đã có những điểm du lịch sinh thái đang hoạt động như:

+ Khu du lịch Một thoáng Việt Nam

+ Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số

+ Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

Và mới đây thì UBND thành phố phê duyệt đồ án quy hoạch 3 phân khu nông nghiệp

kết hợp du lịch sinh thái và dân cư nhà vườn ( khu 3,4 và khu 10 ) tại huyện Củ Chi

+ Phân khu 3: thuộc xã An Phú và xã An Nhơn Tây với tổng diện tích 418,93 ha.

108

Trong đó khu chức năng thuộc khu ở nông thôn có diện tích 145,37 ha, nhóm nhà ở nông

thôn chiếm 112,81 ha, khu chức năng dịch vụ công cộng cấp khu ở 0,07 ha và 32,49 ha cho

đường giao thông cấp phân khu vực và đường giao thông nông thôn.

+ Phân khu 4 thuộc xã An Nhơn Tây, giáp sông Sài Gòn, tỉnh lộ 15. Khu vực quy

hoạch có tổng diện tích 208,6 ha. Khu chức năng thuộc khu ở nông thôn có diện tích 60,77

ha. Trong đó, nhóm nhà ở chiếm 21,33ha, khu chức năng dịch vụ công cộng 9,56ha và

24,65ha là mạng lưới đường giao thông cấp phân khu vực và đường giao thông nông thôn.

+ Phân khu 10 có địa giới giáp tỉnh lộ 9, tỉnh lộ 15, rạch Tra thuộc xã Bình Mỹ. Khu

vực quy hoạch có tổng diện tích 544,88 ha. Khu vực chức năng thuộc khu ở nông thôn có

diện tích 59,52 ha. Trong đó, các khu chức năng xây dựng nhà ở chiếm 50,12ha, khu chức

năng dịch vụ công cộng cấp khu ở chiếm 1,6ha, khu chức năng cây xanh công cộng xây

dựng mới chiếm 1,11ha và 6,69ha cho mạng lưới đường giao thông cấp phân khu vực và

đường giao thông nông thôn.

Ngoài ra theo quy hoạch của huyện còn có thêm khu du lịch sinh thái vườn khoảng

100 ha thuộc xã Hòa Phú.

Bên cạnh đó huyện cần hình thành mạng lưới các nhà vườn trồng cây ăn trái, xây dựng

nhà có kiến trúc theo kiểu Nam Bộ, xây dựng cơ sở tiện nghi cho du khách,kết hợp với các

tuyến giao thông đường thủy và đường bộ để làm phong phú thêm loại hình tham quan.

Hình thành thêm tuyến du lịch ven sông xuất phát từ khu du lịch sinh thái Bình Mỹ

đến địa đạo, dọc ven sông là tham quan các làng nghề thủ công. Tuy nhiên khi phát triển

loại hình này cần lưu ý đến môi trường khu vực ven sông và cảnh quan.

Như vậy, nhìn chung huyện Củ Chi có đầy đủ những điểm thuận lợi để phát triển du

lịch sinh thái. Ngoài cảnh quan thiên nhiên thuận lợi, thì quy hoạch của thành phố cũng là

điều kiện quan trọng để du lịch sinh thái huyện phát triển.

Bên cạnh những thuận lợi thì du lịch sinh thái huyện cũng tồn tại những khó khăn như

tour du lịch đường sông còn phải phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan: sự thay đổi

thất thường của thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng không ít đến các hoạt động du lịch. Cơ sở

hạ tầng, các bến tàu, cầu thuyền, dịch vụ du lịch, tàu vận chuyển, cơ sở lưu trú, dịch vụ tiếp

đón, cứu hộ,…ven các con con sông chưa được xây dựng và đáp ứng nhu cầu của du khách,

hiện trạng môi trường nước sông Sài Gòn, các con kênh đang có nguy cơ ô nhiễm.

3.2.3.3. Du lịch làng nghề

Du lịch làng nghề là loại hình du lịch có khả năng thu hút du khách đặc biệt là khách

109

du lịch quốc tế bên cạnh đó du lịch làng nghề còn tăng khả năng chi tiêu và mua sắm của du

khách. Đặc điểm nổi bật của huyện Củ Chi là ngành nghề truyền thống luôn gắn với nông

nghiệp, nông thôn. Vì thế, phát triển du lịch làng nghề truyền thống hiện nay là bước đột

phá để phát triển du lịch của huyện nhằm cải thiện đời sống của nhân dân ở nông thôn.

Hiện tại một số làng nghề ở huyện Củ Chi đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản của du

khách là tham quan, trải nghiệm và mua sắm. Tuy nhiên, để khai thác làng nghề truyền

thống thành sản phẩm du lịch thì cần phải lựa chọn những làng nghề còn đang hoạt động

hoặc giữ nghề và có khả năng khôi phục được, phải có cảnh quan môi trường tốt, phải có

điểm trình diển cho du khách tham quan, cũng như hướng dẫn du khách tham gia trực tiếp

vào hoạt động sản xuất. Từ đó đầu tư xây dựng thành điểm đến. Các làng nghề ở huyện Củ

Chi hiện nay:

+ Làng nghề bánh tráng (Phú Hòa Đông)

+ Làng nghề mành trúc (Tân Thông Hội)

+ Làng nghề đan lát (Thái Mỹ)

+ Làng nghề sinh vật cảnh (Phú Hòa Đông – Trung An)

3.2.3.4. Phát triển các loại hình du lịch dựa vào các sự kiện đặc biệt:

+ Tổ chức các giải thi đấu thể thao tại đền Bến Dược

+ Phát triển các môn thể thao như đua thuyền trên sông Sài Gòn, bắn súng, đua thuyền

Kaya,…nhằm thu hút khách du lịch tham gia.

+ Tổ chức các cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ,..

+ Tổ chức cho lễ kết nạp Đoàn, Đảng cho các cán bộ học sinh, sinh viên tại đền Bến

Dược,…

Dù là sản phẩm du lịch nào thì đòi hỏi phải được xây dựng một cách hoàn chỉnh trước

khi kết nối các tour du lịch. Làm sao để du khách được đón tiếp, được giới thiệu, được

tham quan, được giao lưu và mua bán sản phẩm, nghỉ ngơi, thưởng thức ẩm thực một cách

tốt nhất. Bên cạnh đó cũng cần đảm bảo các điểm đến được xây dựng một cách khoa học,

quản lý tốt, đảm bảo quy hoạch phát triển chung, kết hợp giữa cải tạo và xây mới, giữa

truyền thống và hiện đại. Có như vậy mới hy vọng du lịch sẽ phát triển một cách bền vững

lâu dài.

3.3. Các giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững

3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch bền vững về kinh tế

110

3.3.1.1. Quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch du lịch

Công tác quy hoạch là một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo cho việc

phát triển du lịch bền vững. Không thể đầu tư xây dựng bất cứ khu du lịch nào nếu thiếu

quy hoạch. Nhà nước cần quản lý chặc chẽ các dự án đầu tư phát triển du lịch và chỉ cho

phép đầu tư khi đã có quy hoạch được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong quá trình quy

hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, lập các dự án khả thi đầu tư phát triển du lịch cần có sự

hợp tác chặc chẽ giữa các chuyên gia quy hoạch với các chuyên gia ở những lĩnh vực liên

quan, chính quyền và cộng đồng địa phương.

Đối với du lịch huyện Củ Chi, mặc dù đã có những quy hoạch cụ thể của Thành phố

giai đoạn 2011 – 2015 nhưng việc triển khai quy hoạch còn chậm. Mộ số khu du lịch chưa

có quy hoạch chi tiết. Điều này làm hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc

phát triển hoạt động du lịch huyện Củ Chi. Thêm vào đó do không có quy hoạch nên một số

khu vực như Bình Mỹ, Hòa Phú đã xảy ra tình trạng chồng lấn, xen kẽ giữa du lịch và các

ngành công nghiệp, khai thác,…dẫn đến mất dần tài nguyên du lịch. Các thành phần kinh tế

nhỏ, lẻ đầu tư tự phát phá vỡ cảnh quan môi trường, mất dần bản sắc văn hóa.

Để có thể thực hiện tốt công tác quản lý và quy hoạch cần Điều chỉnh quy hoạch tổng

thể phát triển du lịch Củ Chi đến năm 2020 cả nội dung và chiến lược cho phù hợp, cụ thể

như sau:

+ Đánh giá một cách đầy đủ tiềm năng phát triển du lịch của huyện, xác định lại hệ

thống chỉ tiêu phát triển du lịch phù hợp để có những định hướng đầu phát triển sản phẩm

du lịch sát với yêu cầu thực tế.

+ Sớm quy hoạch chi tiết khu du lịch trọng điểm Địa đạo Củ Chi, khu du lịch sinh thái

văn hóa dân tộc thiểu số, khu du lịch một thoáng Việt Nam (giai đoạn 2011 – 2015)

+ Quy hoạch sản phẩm du lịch phải tạo điểm nhấn, chú trọng xây dựng sản phẩm du

lịch đặc thù, lấy di tích lịch sử văn hóa, lễ hội, làng nghề truyền thống làm trọng tâm; tìm ra

những nét riêng có ở mỗi lĩnh vực thiên nhiên, di tích lễ hội chủ động tạo sự khác biệt.

Trong quy hoạch phát triển sản phẩm cần quan tâm tới yếu tố bảo vệ môi trường và sự tham

gia của cộng đồng.

+ Quy hoạch phát triển du lịch phải tính tới mối liên hệ vùng với các tỉnh thành lân

cận: Bình Dương, Tây Ninh và trung tâm thành phố Hồ Chí Minh.

+ Quy hoạch hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, các điểm dừng chân, các nhà hàng, các

111

khu vui chơi giải trí về số lượng đảm bảo về sức chứa theo tính toán dự báo số du khách đến

Củ Chi vào năm 2020; về chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch

quốc tế và nội địa.

+ Khi các quy hoạch đã được phê duyệt thì đi vào thiết kế, xây dựng một khu du lịch

cụ thể phải theo đúng quy hoạch và coi trọng yếu tố văn hóa, bản sắc riêng của mỗi cộng

đồng địa phương. Việc trùng tu, nâng cấp, bảo tồn và phát huy di tích, di sản cần có dự tính

hướng đến là thu hút khách du lịch.

3.3.1.2. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù

Chất lượng sản phẩm du lịch đang là điểm yếu và là vấn đề quan trọng mà du lịch Củ

Chi cần quan tâm. Nguyên nhân khách quan do tài nguyên du lịch Củ Chi có tiềm năng

ngoài khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi được xem là quần thể di tích danh thắng có giá trị

tầm quốc gia, còn các tài nguyên khác đều có những nét tương đồng với nhau đòi hỏi khai

thác cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, nhằm tạo ra sự khác biệt để tăng khả năng

cạnh tranh của sản phẩm. Về mặt chủ quan, Củ Chi chưa thực sự quan tâm đến việc phát

triển các sản phẩm du lịch dựa trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên. Do đó cần có những

giải pháp cụ thể nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch mang nét đặc thù riêng của huyện Củ

Chi để tăng tính hấp dẫn và năng cao năng lực cạnh tranh là hết sức cần thiết. Để du lịch

huyện ngày càng phát triển cần tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch sau:

+ Du lịch văn hóa lịch sử với trọng điểm là quần thể di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi.

+ Du lịch tìm hiểu văn hóa đời sống người dân Việt Nam ( khu du lịch Một thoáng

Việt Nam, Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số)

+ Du lịch sinh thái trọng điểm ( Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ, vườn cây ăn trái Trung

An)

+ Du lịch vui chơi giải trí Công viên nước Củ Chi

+ Du lịch làng nghề mành trúc Tân Thông Hội, đan lát Thái Mỹ, làm bánh tráng Phú

Hòa Đông.

+ Quy hoạch và xây dựng khu phố ẩm thực, làng ẩm thực tại một số tuyến đường quan

trọng hoặc tại các làng văn hóa, làng nghề truyền thống nơi thường xuyên có khách du lịch

đến thăm. Sản phẩm được dùng trong “ Phố ẩm thực” có thể sử dụng các nguyên liệu, thực

phẩm, các món ăn mang bản sắc của địa phương như: bánh tráng, thịt bò tơ, gà thả vườn, dế,

bò cạp,… là các sản phẩm được nuôi trồng tại địa phương.

Bên các sản phẩm mang tính đặc thù, du lịch huyện Củ Chi cũng cần đầu tư các sản

112

phẩm du lịch mang tính hiện đại. Đó chính là cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật để phát triển

các loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo,…

Đa dạng hóa sản phẩm du lịch sẽ giúp cho du lịch của huyện tăng thêm sức cạnh tranh

, tạo sự hấp dẫn cho du khách. Đồng thời còn tạo được súc hút lớn với các thành phần kinh

tế và cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động du lịch, giải quyết việc làm, góp phần

phát triển du lịch bền vững cả về kinh tế - xã hội.

3.3.1.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tăng

cường phối hợp liên ngành trong lĩnh vực du lịch

Để đảm bảo du lịch huyện Củ Chi phát triển bền vững, trong thời gian tới lãnh đạo và

các ban ngành có liên quan cần nghiên cứu xây dựng một số chính sách cơ bản như sau:

+ Chính sách đầu tư: Thành phố cần có chính sách đầu tư hỗ trợ hợp lý, xây dựng kết

cấu hạ tầng dẫn đến các khu du lịch trọng điểm. Có chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư

phát triển du lịch nhất là các dự án đầu tư xây dựng các khu du lịch, khu du lịch sinh thái

tổng hợp, các khu vui chơi giải trí.

+ Chính sách tài chính:Cần có quỹ phát triển du lịch, ưu tiên hoặc miễn giảm không

thu thuế trong khoảng thời gian nhất định với các hình thức đầu tư cho phát triển sản phẩm

du lịch mới, sản phẩm du lịch đặc thù, bảo vệ môi trường du lịch. Kiểm tra, điều chỉnh các

loại phí, lệ phí các hình thức vé liên quan đến du lịch trong phạm vi của huyện để khuyến

khích đầu tư và phát triển du lịch. Đồng thời từ đó tạo ra sự thống nhất giá cả trong kinh

doanh du lịch, tạo sự yên tâm cho du khách.

+ Chính sách xã hội hóa hoạt động du lịch: nhằm động viên mọi nguồn lực của xã hội

để xây dựng và phát triển du lịch và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà

nước các cấp chính quyền trong quản lý hoạt động du lịch. Đặc biệt là cộng đồng người dân

địa phương tích cực tham gia vào hoạt động du lịch phát huy tối đa giá trị truyền thống,

thuần phong mỹ tục, góp phần giữ gìn trật tự an ninh, vệ sinh môi trường tự nhiên tại các

điểm du lịch, làm thế nào để cả du khách và cộng đồng dân cư địa phương đều được hưởng

thụ thành quả do du lịch mang lại.

+ Chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế: Đây là một chính sách quan trọng thu hút

khách đến với du lịch Củ Chi. Cần có những chính sách quảng bá, hợp tác song phương

trong lĩnh vực du lịch với các tỉnh, thành phố ở nước ngoài. Tạo điều kiện học tập kinh

nghiệm, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho hoạt động kinh tế của huyện Củ Chi, trong

bối cảnh chung của cả nước là “ mở cửa – hội nhập và hợp tác quốc tế”.

113

Tóm lại du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành và xã hội hóa cao.

Đòi hỏi các cấp, ban ngành cần có những chủ trương và chính sách phát triển phù hợp, bắt

kịp với xu thế đổi mới của thị trường. nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đồng thời

phải giải quyết được các vấn đề liên quan đến du lịch, nhất là trong đầu tư phát triển sản

phẩm du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch cũng như bảo vệ tôn tạo môi trường tự nhiên và

xã hội. Để đảm bảo du lịch không chỉ phát triển mà còn phát triển một cách bền vững.

3.3.1.4. Tăng cường đầu tư phát triển du lịch

Không riêng gì du lịch, mà đối với bất kỳ ngành kinh tế nào muốn có được hiệu quả

cao thì đầu tư phải thỏa đáng. Mức đầu tư càng cao, càng ổn định, thì tính bền vững càng

được đảm bảo. Củ Chi là huyện có nguồn thu rất ít từ du lịch. Do đó, khả năng tích lũy dành

cho du lịch cũng hạn chế. Tuy nhiên trong thời gian qua huyện cũng đã có những chính sách

phát triển ít nhiều tác động đến sự phát triển của du lịch như:

+ Chính sách hợp lý cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình hệ thống cung cấp

nước sạch, xử lý nước thải, hệ thống bưu chính viễn thông, điện chiếu sáng, bãi đỗ xe, các

tuyến giao thông công cộng. Đặc biệt là hệ thống đường giao thông của huyện được đầu tư

đáng kể.

+ Chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Đơn giản

hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình đầu tư.

3.3.1.5. Đẩy mạnh quảng bá xúc tiến du lịch và mở rộng thị trường

Tăng cường quảng bá sản phẩm du lịch của huyện bằng các chính sách quảng cáo,

khuyến mãi. Giới thiệu các điểm du lịch trọng điểm như Địa đạo Củ Chi bằng các tập in với

các ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Nhật, Hoa để giới thiệu cho du khách

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, internet đưa thông tin hình ảnh các

khu du lịch lên mạng, tham gia quảng cáo trên một số báo, tạp chí. Gởi thông tin các điểm

du lịch cho các công ty tổ chức du lịch.

Lắp đặt một số bảng panô giới thiệu du lịch huyện Củ Chi tại các trục giao lộ lớn đi

qua huyện.

Tăng cường quảng cáo vào các dịp Lễ, Tết,…kèm theo các chính sách khuyến mãi.

Chẳng hạn giảm giá 30% cho khách nội địa đi theo đoàn từ 50 người trở lên hay hay tặng

quà lưu niệm cho du khách,…

3.3.1.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Con người là một trong nhân tố quan trọng cấu thành một sản phẩm du lịch hoàn hảo.

114

Vì vậy, công tác sắp xếp nhân sự để đảm bảo công tác phục vụ khách hàng được chu đáo

luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển du lịch của huyện. Cụ thể cần

phải có một kế hoạch để bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng lao động huyện Củ Chi.

Việc đầu tiên cần thống kê số lượng nhân viên và tiến hành phân loại trình độ nghiệp

vụ của toàn bộ các nhân viên đang tham gia công tác về du lịch trên địa bàn huyện.

Có những chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài, các lao động trình độ tay nghề kỹ

thuật cao từ bên ngoài địa phương những nơi có ngành du lịch phát triển.

Kết hợp với các trường đào tạo du lịch, các trung tâm nghề để tiến hành đạo tạo nâng

cao tay nghề của các nhân viên hiện đang làm việc tại các khu du lịch . Đồng thời tích cực

học tập kinh nghiệm, năng lực hoạt động du lịch với khu vực trung tâm của Thành phố Hồ

Chí Minh. Tích cực trao đổi, rút kinh nghiệm sau những đợt phục vụ du khách, đặc biệt là

khách quốc tế đến từ những thị trường mới. Khuyến khích người lao động tự đào tạo và bồi

dưỡng kiến thức cũng như nghiệp vụ chuyên môn, phù hợp với nhu cầu hiện tại.

Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, các doanh

nghiệp. Đây là một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn lao động một cách

hiệu quả. Đội ngũ quản lý có chuyên môn nghiệp vụ cao thì đội ngũ nhân viên mới được chỉ

đạo tốt. Ngoài ra cần có những chính sách ưu đãi đối với các nhân viên có trình độ, năng

lực.

Bên cạnh đó, người dân địa phương cũng là một nguồn lao động lớn và đầy tiềm năng

nếu được đào tạo và khai thác có hiệu quả. Đối tượng này sẽ đem lại lợi ích lớn trong việc

chia sẻ lợi ích du lịch cho cộng đồng dân cư địa phương.

3.3.2. Nhóm phát triển du lịch bền vững về tài nguyên và môi trường

Bảo tồn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch: để đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, xã

hội môi trường, thẩm mỹ nhưng vẫn duy trì được bản sắc cũng như văn hóa dân tộc, đảm

bảo được sự đa dạng sinh học, các quá trình sinh thái cơ bản với các giải pháp như:

+ Thực hiện chiến lược bảo tồn, tôn tạo các tài nguyên di tích lịch sử, văn hóa.

+ Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên du lịch, quản lý môi trường, xử lý chất

thải một cách có hiệu quả.

+ Khuyến khích, hỗ trợ các loại hình du lịch tự nhiên thân thiện với môi trường như:

du lịch sinh thái; du lịch văn hóa – lịch sử; du lịch kết hợp bảo tồn, nghiên cứu khoa học; du

lịch làng quê.

+ Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ

115

môi trường, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, những dự án sử dụng các công nghệ

tiên tiến trong xử lý chất thải, sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu,…

+ Tổ chức hoạt động thu gom chất thải rắn từ hoạt động du lịch. Thực hiện đảm bảo vệ

sinh môi trường ở các khu, điểm tham quan du lịch.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

việc chấp hành Quy chế và quy định bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch trong huyện.

+ Lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào các hoạt động của du lịch. Các điểm du

lịch cần tăng cường hơn nữa các biện pháp bảo vệ an toàn và sức khỏe cho du khách trong

các dịch vụ vui chơi.

Thành lập mô hình các đội nhóm để hướng dẫn du khách có ý thức hơn trong việc bảo

tồn và giữ gìn tài nguyên môi trường, đặc biệt là tại các khu di tích vào những mùa cao

điểm.

3.3.3. Nhóm phát triển du lịch bền vững về xã hội

- Xã hội hóa phát triển du lịch

Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, phát triển du lịch là một

chiến lược quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy

nhiên, không phải ở đâu vai trò của du lịch cũng được đánh giá đầy đủ đúng đắn và tạo điều

kiện tốt nhất để phát triển. Do đó trong thời gian tới cần phải xã hội hóa du lịch một cách

toàn diện và đúng đắn, tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức về ngành du lịch trong các

cấp, các ngành. Động viên mọi thành phần kinh tế và cộng đồng đồng dân cư tham gia phát

triển du lịch.

- Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về phát triển du lịch bền vững

Cần nâng cao nhận thức của cư dân và du khách trong việc giữ gìn và bảo tồn tài

nguyên – môi trường du lịch. Khuyến khích hỗ trợ vật chất đối với việc nâng cao nhận thức

về phát triển du lịch bền vững, khuyến khích du khách đóng góp kinh phí trong quá trình

tham quan, nghiên cứu các giá trị văn hóa nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ, tôn tạo và

phát triển các giá trị văn hóa. Kêu gọi sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, doanh nhân hoạt động

kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện đầu tư cho việc nâng cao nhận thức của cộng đồng

địa phương về phát triển du lịch bền vững.

- Đẩy mạnh giáo dục, hướng dẫn du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa

riêng

Tại các điểm tham quan du lịch, các khu du lịch, các điểm dừng chân, các làng nghề.

Cần phải tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cụ thể cho người dân ở đây cách đón tiếp, phục

116

vụ sao cho chuyến du lịch của du khách hoàn hảo, nhận thức cao về phát triển du lịch bền

vững sẽ đảm bảo sức hấp dẫn riêng biệt và bền vững của từng làng quê. Cần bảo tồn và phát

triển sự độc đáo riêng của từng làng quê về di tích lịch sử văn hóa, làng nghề truyền thống,

các di tích gắn với các vị anh hùng dân tộc,..Khuyến khích các làng nghề sản xuất các vật

phẩm lưu niệm, mỹ nghệ thể hiện bản sắc riêng của địa phương. Đồng thời nâng cao mức

sống cho người dân để họ có khả năng duy trì các ngành nghề truyền thống.

117

KẾT LUẬN

Trên cơ sở lý luận, đánh giá tổng hợp nguồn tài nguyên và thực trạng phát triển du lịch

huyện Củ Chi , đế tài đưa ra một số kết luận sau:

1. “ Vùng đất sáng ở miền Nam Tổ quốc, nửa tiếp Trường Sơn, nửa nối đồng bằng.

Chống xâm lăng từ Trương Định, Trương Quyền, máu dũng sĩ chảy tràn sông suối” – Củ

Chi được biết đến là một vùng đất anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống

Pháp. Với khu di tích Địa đạo Củ Chi là một di tích lịch sử đầy tự hào của quân và dân Củ

Chi. Nơi đây được xem là tài nguyên du lịch nhân văn hiếm có ở Việt Nam. Bên cạnh đó,

với đặc điểm thiên nhiên mang dáng dấp của vùng đồng bằng Nam Bộ, huyện Củ Chi có

điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Đây là những tiềm năng lớn để

Củ Chi phát triển du lịch.

2. Hoạt động du lịch huyện Củ Chi trong những năm qua chưa phát triển tương xứng

với tiềm năng. Mặc dù trong những năm gần đây, lượng khách du lịch đến với huyện Củ

Chi ngày một tăng. Nhưng so với lượng du khách đến Thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ du

khách đến với Củ Chi còn rất thấp. Doanh thu từ du lịch cũng chưa khẳng định được sự

đóng góp của ngành đối với nền kinh tế của huyện.

3. Thực trạng trên có thể được lý giải bởi các nguyên nhân sau: Huyện Củ Chi nằm ở

vùng ven của Thành phố Hồ Chí Minh, nơi được xem là trung tâm du lịch của cả nước với

cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hoàn thiện nhất cả nước. Du khách hầu như lưu trú chủ yếu

ở trung tâm thành phố vì khoảng cách đi lại gần, sự phối hợp các tuyến điểm du lịch của

huyện chưa được nhịp nhàng. Các sản phẩm du lịch mặc dù khá đa dạng nhưng chưa đặc

sắc, chưa tạo được sản phẩm du lịch hoàn chỉnh và chất lượng cao. Công tác tuyên truyền

quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế.

4. Trước những thực tế trên, đòi hỏi ngành du lịch huyện Củ Chi cần tập trung đầu tư

thu hút vốn các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Có kế hoạch xây dựng các sản

phẩm du lịch đặc sắc có tính cạnh tranh cao, trên cơ sở lấy du lịch di tích lịch sử văn hóa và

sinh thái làm cơ sở phát triển. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự

phát triển, đặc biệt là các cư dân địa phương. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng kỹ

thuật phuc vụ du lịch.

Mục tiêu định hướng phát triển du lịch bền vững huyện Củ Chi đã được đề ra là nâng

cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Có như vậy thì du lịch Củ Chi mới hy

118

vọng phát triển và trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế huyện Củ

Chi.

119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. GS.TSKH Lê Huy Bá (2006), Du lịch sinh thái, NXB Khoa học kỹ thuật.

2. Vương Lôi Đình, Đổng Ngọc Minh (2000), Kinh tế du lịch và Du lịch học, NXB trẻ

TP Hồ chí Minh.

3. Nguyễn Văn Đính (2009), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

4. Nguyễn Hồng Giáp (2000), Kinh tế du lịch, NXB trẻ.

5. Nguyễn Văn Huy (2007), Sài Gòn 24G, NXB Thế giới.

6. Ngô Tất Hổ (2000), Phát triển và quản lý du lịch địa phương, NXB Khoa học Bắc

Kinh.

7. Nguyễn Văn Lưu (1998), Thị trường du lịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát 8.

triển ở Việt Nam, NXB Thống Tấn.

Phạm Trung Lương (2000), Tài nguyên và môi trường du lịch, NXB Giáo dục Hà Nội. 9.

10. Luật du lịch Việt Nam (1/2006).

11. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình tổng quan du lịch, NXB Lao động – xã hội.

12. Nhiều tác giả (2007), Sài Gòn xưa và nay, NXB Trẻ.

13. Đặng Văn Phan (2006), Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam thời kì hội nhập, NXB Giáo

dục.

14. Phạm Côn Sơn (2008), Đất Việt mến yêu, NXB Phương Đông.

15. Hồ Sĩ Thành, Địa đạo Củ Chi, NXB Thanh Hóa.

16. Trần Đức Thanh (2006), Nhập môn Khoa học Du lịch, NXBĐHQG Hà Nội

17. Lê Bá Thảo (2001), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục.

18. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Tổ chức lãnh thổ du lịch, NXB Giáo dục.

19. Trần Mạnh Thương, Việt Nam văn hóa và du lịch, NXB Thông Tấn.

20. Nguyễn Minh Tuệ (2010), Địa lí du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục.

21. Nguyễn Minh Tuệ (2009), Địa lí các vùng kinh tế, NXB Giáo dục Hà Nội.

22. Nguyễn Minh Tuệ và nnk ( 1997), Địa lý du lịch, NXB TP HCM

23. Bùi Thị Hải Yến (2011), Tuyến điểm du lịch, NXB Giáo dục.

Tiếng Anh

24. Verite Keily Collins(2010),Dictionary For The Tourism, Routledge

120

25. Vijay Reddy, Keith Wilkes (2012),Tourism, Climate Change and Sustainability,

Routledge

26. Larry Dwyer, Eugenia Wicken (2012), Event Tourism and Cultural

Tourism,Routledge

27. Linda Kaplan Thaler. Robin Koval ( 2009), Việt Nam 63 tỉnh thành và các địa điểm du

lịch, NXB Lao động.

28. Susanne Beken Zohn Hay (2012), Climate Change and Tourism,Routledge

Các trang web

WWW.vietnamtourism.gov.vn

WWW.moitruongdulich.vn

WWW.webdulich.com

WWW.huyencuchi.com.vn

WWW.saigonmoi.com

WWW. Diadaocuchi.com.vn

WWW. Saigontourist.com

121

PHỤ LỤC

Người du hành ( Traveller)

Không tính vào thống kê du lịch

Được thống kê là khách đi du lịch

( visitor)

-

Khách tham quan

Du khách ( Tourist)

-

( Excursionist- Day visitor)

-

-

Khách quá cảnh

Khách có thời gian du lịch ít nhất là 24g

Khách có thời gian đi du lịch dưới 24g

- - -

Những người làm việc để nhận thù lao. Những người làm việc ở vùng biên giới. Nhân viên đại sứ quán, lãnh sự quán. Nhân viên lực lượng quân sự. Dân di cư Dân tị nạn Người nhập cư,……

Phụ lục 1: Sơ đồ mô tả các khái niệm về khách du lịch.

122

Phụ lục 2: Dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ

2015 2030

STT Các chỉ tiêu 1 Khách quốc tế ( lượt) 7.370.000 2020 9.690.000 2025 12.300.000 15.900.000

2,44 2,64 2,7 2,75 Ngày lưu trú trung bình ( ngày)

118,5 118 110 119

2 Mức chi tiêu bình quân (USD) Khách nội địa ( lượt) 20.000.000 24.480.000 31.600.000 38.600.000

1,7 1,8 1,85 1,9 Ngày lưu trú trung bình ( ngày)

30 50 56 58

3 3.000 7.212 9.460

Mức chi tiêu bình quân (USD) Tổng thu từ du lịch ( triệu USD) 5.220

4 5.224 6.720 6.800 7.150

5 175.000 243.500 283.500 378.000 Nhu cầu đầu tư ( triệu USD) Lao động trực tiếp ( người)

6 595.000 828.200 963.900 1.285.000

7 Tổng lao động ( người) Cơ sở lưu trú ( cơ sở) 4.950 6.400 7.830 9.450

110.100 162.400 203.500 243.000 Số lượng buồng lưu trú ( buồng)

Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển Du lịch

123

Phụ lục 3: Dân số huyện Củ Chi phân theo đơn vị hành chính năm 2012

STT Địa bàn Số dân năm 2012

(Người) (%)

Thị trấn huyện lỵ 1 22.069 5,78

Xã Hòa Phú 2 13.190 3,46

Xã Trung An 3 17.680 4,64

Xã Tân An Hội 4 26.935 7,06

Xã Trung Lập Thượng 12.957 3,4 5

Xã Phước Hiệp 6 13.270 3,48

Xã Thái Mỹ 7 12.386 3,25

Xã Phước Vĩnh An 8 16.603 4,35

Xã Phú Mỹ Hưng 9 6.877 1,8

Xã Trung Lập Hạ 10 13.337 3,5

11 Xã Tân Thạnh Đông 36.799 9,65

12 Xã Phước Thạnh 17.546 4,6

Xã Bình Mỹ 13 20.918 5,49

Xã Tân Thạnh Tây 14 11.933 3,13

Xã Phú Hòa Đông 15 23.925 6,27

Xã Tân Thông Hội 16 34.972 9,17

Xã An Phú 17 9.973 2,62

18 Xã An Nhơn Tây 15.651 4,1

Xã Phạm Văn Cội 19 8.646 2,27

Xã Nhuận Đức 20 12.139 3,18

Xã Tân Phú Trung 21 33.536 8,79

Toàn huyện 381.342 100,00

Nguồn UBND huyện Củ Chi

124

Phụ lục 4: Kết quả chất lượng không khí ở huyện Củ Chi.

STT Vị trí điểm đo

Nồng độ các chất ô nhiễm ( mg/m3) Bụi UBND huyện Củ Chi 0,24 Của hàng bán ga Năm Tới ( Phước Hiệp) 0,30 0,35 Ấp Gò Nổi, xã An Nhơn Tây 0,31 Ngã tư Củ Chi, An Nhơn Tây 0,31 Cổng vào Địa Đạo Củ Chi 0,28 Ấp Bến Đình, xã Phạm Văn Cội 0,29 Ngã tư Tân Quy 0,32 CHVLXD Hồng Hà 0,31 Ấp 8, xã Bình Mỹ 0,31 Ấp giữa, xã Tân Phú Trung 0,32 Ngã ba Tỉnh lộ 8 và Tỉnh lộ 9 0,28 Ấp Mũi Lớn 1, xã Tân An Hội 0,40 Khu phố 2 – TT Củ Chi ( gần cầu vượt) 0,3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 TCVN 5937 - 1995 SO2 0,115 0,078 0,096 0,079 0,109 0,066 0,082 0,089 0,087 0,053 0,089 0,075 0,128 0,5 NO2 0,054 0,050 0,049 0,055 0,062 0,050 0,027 0,038 0,032 0,043 0,040 0,035 0,065 0,4 CO 3,5 1,4 1,7 1,9 0,6 0,5 0,6 1,5 1,6 1,5 1,8 1,5 1,9 40

Nguồn: Viện kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường, Tháng 11/2003

125

Phụ lục 5: Các dự án được quy hoạch phục vụ phát triển du lịch huyện Củ Chi

Vị trí

STT Tên dự án 1 Khu thảo cầm viên Sài Gòn ( Sài Gòn Safari) Quy mô 485,35 ha 1 phần xã Phú Mỹ Hưng, 1 phần xã An Nhơn Tây

100 ha Xã An Nhơn Tây 2 Khu công viên văn hóa lịch sử Sài Gòn – Gia Định

150 ha 50 ha Xã Tân Phú Trung Xã Hòa Phú 3 4 Khu công viên giải trí quốc tế Khu phim trường – Xưởng phim đài truyền hình thành phố

100 ha 20 ha Xã Tân Thạnh Đông Xã Bình Mỹ 5 6 Khu du lịch sinh thái vườn Khu nuôi trồng thủy sản kết hợp du lịch Gò Chùa

Xã Phước Vĩnh An 7

Khu công viên nước Củ Chi ( mở rộng) 28 ha Nguồn UBND huyện Củ Chi

126

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI

Địa đạo Củ Chi Đền Bến Dược, Địa đạo Củ Chi

Địa đạo Bến Đình Đường hầm chiến đấu

Khu tái hiện Vùng giải phóng Mô hình Chùa Một Cột

127

Mô hình Ngọ Môn Huế Mô hình Bến Nhà Rồng

Cảnh giã gạo- Khu du lịch Một thoáng Việt Nam Vườn cây ăn trái Trung An

Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông Đan lát xã Thái Mỹ

128

Vườn tre Đặc sản Bò tơ

Khu du lịch sinh thái Bình Mỹ Mô hình cánh đồng thu nhỏ

Khu du lịch Văn hóa dân tộc thiểu số Khu du lịch Một thoáng Việt Nam

129