BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG THỊ MỸ DUYÊN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN
GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG
ĐẾN NĂM 2030
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG THỊ MỸ DUYÊN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN
GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN
NĂM 2030
Chuyên ngành Mã số
: Kinh tế chính trị : 60310102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LƯU THỊ KIM HOA
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông
tỉnh Tiền Giang đến năm 2030” là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn dẫn rõ ràng, không sao chép
từ công trình nghiên cứu khác. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Lưu Thị Kim Hoa.
Tác giả luận văn
Đặng Thị Mỹ Duyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: GDP huyện Gò Công Đông từ năm 2010 – 2015................................39
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế huyện Gò Công Đông từ năm 2010 – 2015.................40
Bảng 2.3: Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn ở huyện Gò Công Đông từ năm 2010
– 2015........................................................................................................................46
Bảng 2.4: Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông
từ năm 2010 – 2015...................................................................................................47
Bảng 2.5: Hiện trạng ngành thủy sản huyện Gò Công Đông từ năm 2010 –
2015...........................................................................................................................50
Bảng 2.6: Hiện trạng các cơ sở dịch vụ phục vụ thủy sản năm 2015..................53
Bảng 2.7: Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông từ năm 2010 –
2015...........................................................................................................................56
Bảng 2.8: Cơ sở vật chất ngành du lịch huyện Gò Công Đông...........................57
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
Hình 2.1: Sản lượng và số lượng tàu thuyền đánh bắt thủy hải sản huyện GCD từ
năm 2010 đến năm 2015...........................................................................................52
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 7
6. Nguồn thông tin nghiên cứu .................................................................................... 8
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu ............................................. 8
8. Kết cấu luận văn ...................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1 .............................................................................................................. 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ........................................... 10
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ........................................ 10
1.1.1. Kinh tế biển .............................................................................................. 10
1.1.2. Phát triển kinh tế biển .............................................................................. 11
1.1.3. Phát triển bền vững về kinh tế biển ......................................................... 12
1.1.3.1. Phát triển bền vững .............................................................................. 12
1.1.3.2. Phát triển bền vững kinh tế biển .......................................................... 14
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ BIỂN ........................................................................ 15
1.2.1. Kinh tế biển là một lĩnh vực kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm nhiều
ngành nhiều nghề khác nhau và có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau: ....... 15
1.2.2. Quá trình phát triển của kinh tế biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện về
vị trí địa lí, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển, thời tiết và khí hậu: .. 16
1.2.3. Kinh tế biển chịu sự tác động rất lớn của thiên nhiên, bão lũ. ............... 16
1.2.4. Kinh tế biển là ngành kinh tế chủ yếu nhờ vào việc khai thác tài nguyên,
khoáng sản là chính ............................................................................................ 16
1.2.5. Hoạt động kinh tế biển mang tính liên vùng: .......................................... 16
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ BIỂN 17
1.4. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ................................................. 18
1.4.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển ................................................................... 18
1.4.2. Phát triển sản phẩm biển ........................................................................ 20
1.5. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN .............................. 21
1.5.1 Hiệu quả về mặt kinh tế ............................................................................. 21
1.5.2. Hiệu quả về mặt xã hội ............................................................................. 22
1.6. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ........................................... 22
1.6. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN . 27
1.6.1. Tài nguyên của biển và vùng ven biển ..................................................... 27
1.6.2. Vốn, công nghệ ..................................................................................... 28
1.6.3. Nguồn nhân lực ....................................................................................... 28
1.6.4. Thị trường ................................................................................................ 29
1.6.5. Cơ chế chính sách ................................................................................... 29
1.6.6. Sự hoạt động của các thành phần kinh tế trong kinh tế biển ............... 30
1.7. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VÀ BÀI HỌC CHO
HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ............................................... 31
1.7.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí
Minh .................................................................................................................... 31
1.7.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang ... 32
1.7.3. Bài học kinh nghiệm cho huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang ............ 33
Tóm tắt chương 1 ................................................................................................... 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG GIAI ĐOẠN NĂM 2005 – 2015 ............................... 35
2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ................................................................................. 35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 35
2.1.2. Các tài nguyên thiên nhiên ....................................................................... 36
2.1.2.1. Địa hình, địa mạo, địa chất .............................................................. 36
2.1.2.1. Tài nguyên sinh vật ............................................................................... 37
2.1.2.2. Tài nguyên nước: .................................................................................. 38
2.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội ............................................................................ 38
2.2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG
TỈNH TIỀN GIANG .............................................................................................. 44
2.2.1. Nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản ............................................................ 44
2.2.1.1 Nuôi trồng thủy hải sản ......................................................................... 44
2.2.1.2. Đánh bắt thủy hải sản .......................................................................... 49
2.2.2. Du lịch biển .............................................................................................. 55
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ................................................................................. 58
2.3.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân ............................................. 58
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................... 60
2.3.2.1. Tiềm năng đầu tư không tương xứng với lợi thế của huyện ................. 60
2.3.2.2. Phương tiện đánh bắt thủy hải sản thô sơ, khâu chế biến và tiêu thụ
sản phẩm còn hạn chế ........................................................................................ 61
Tóm tắt chương 2 ................................................................................................... 62
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂNỞ
HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030 ...................... 63
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ở HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030 .............. 63
3.1.1. Cơ hội trong việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang .......................................................................................................... 63
3.1.1.1. Cơ hội từ điều kiện tự nhiên .................................................................. 63
3.1.1.2. Cơ hội từ điều kiện xã hội ..................................................................... 65
3.1.2. Thách thức trong việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông ... 65
3.2. ĐỊNH HƯỚNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA
HUYỆN GÒ CÔNG ĐONG TÌNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030 .................. 67
3.2.1. Định hướng phát triển chung ................................................................... 67
3.2.2. Định hướng phát triển cơ cấu ngành ...................................................... 70
3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG
TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030 ................................................................. 75
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và phát triển kinh tế biển ......... 75
3.3.2. Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền ............................... 76
3.3.3. Huy động vốn đầu tư trong và ngoài huyện trong việc phát triển kinh tế
biển ..................................................................................................................... 77
3.3.4. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế biển ... 79
3.3.5. Phát triển khoa học công nghệ ................................................................. 81
3.3.6. Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế biển ............................... 82
3.3.7. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trong việc phát triển kinh tế biển 85
3.3.8. Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với bảo vệ môi trường ................... 86
3.3.9. Phát triển kinh tế biển phải đi đôi với an ninh quốc phòng ..................... 87
Tóm tắt chương 3 ................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI NỘI DUNG
CP Cổ phần
GCĐ Gò Công Đông
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTVT Giao thông vận tải
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
SX Sản xuất
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biển cả luôn mang một nguồn tài nguyên mà con người không thể tưởng tượng
được. Biển cũng chính là môi trường sinh thái nuôi sống con người trong quá khứ,
hiện tại và thậm chí là mai sau. Biển là nguồn nước, nguồn tài nguyên, mang đến
nguồn thực phẩm giá trị lại có thể xem là vô tận nếu biết cách khai thác, sử dụng.
Con người chúng ta không thể phủ nhận vai trò và những lợi ích mà nó mang đến
không chỉ cho mỗi người dân mà còn chính quốc gia có biển.
Trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển của toàn thế giới rộng gần
. Biển luôn là tài sản vô cùng quý giá, có vai trò vô cùng quan trọng và
109 triệu km2
to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển bởi đây là nhân tố
thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Tài nguyên biển, du
lịch biển, các dịch vụ trên biển; tất cả chính là tiềm năng, lợi thế của biển đều mang
lại những lợi ích nhất định cho phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hiện nay, tài
nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt bởi con người khai thác quá mức và không
có biện pháp bảo vệ bảo tồn hiệu quả. Chính vì vậy, một số quốc gia lựa chọn biển,
có chiến lược phát triển hướng ra biển để tăng cường tiềm lực khai thác, bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ cũng như quốc phòng an ninh cho chính đất nước.
Việt Nam cũng là một quốc gia có biển, có biên giới biển, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông với diện tích trên 1 triệu km2. Biển Việt Nam vô cùng
dồi dào, phong phú tài nguyên từ hải sản, bãi biển, bãi tắm đẹp cho đến khoáng sản,
dầu khí… Hơn nữa vị trí địa lí lại rất thuận lợi, là cửa ngõ giao thương quan trọng,
thiết yếu của nhiều vùng, nhiều quốc gia khác nhau, là nơi qua lại của những tuyến
đường giao thông huyết mạch đối với nhiều nước, nối liền khu vực Đông Bắc Á với
Tây Thái Bình Dương và vùng Vịnh qua eo Malaca. Việt Nam nằm ở rìa biển
Đông, là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông ra Thái Bình Dương và mở cửa
ra nước ngoài. Với diện tích vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, cùng với
2
đường bờ biển dài 3260km ở ba hướng Bắc Đông Nam dọc theo đất nước càng
chứng minh nước ta có tiềm năng lớn về kinh tế biển.
Chính vì vậy, biển Việt Nam mang đến nhiều lợi ích kinh tế, cơ hội giao thương
với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức. Trong đó các
ngành then chốt của nền kinh tế biển là ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải,
công trình ven biển, các dịch vụ du lịch và thương mại quốc tế. Biển Đông thực sự
mang đến tiềm năng phát triển to lớn cho đất nước ta. Vì vậy, Việt Nam đã và đang
nỗ lực phát triển nền kinh tế biển trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau. Trong
những năm trước, nước ta cũng đã có những chiến lược, chính sách để phát triển
kinh tế biển.
Ngày 06/5/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển trong những năm tới, trong đó khẳng định phải đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia.
Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ quan điểm chỉ đạo
ấy, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa X đã thông qua
Nghị Quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trong những năm đổi mới
và mở cửa, Việt Nam đã chú trọng đến khai thác tiềm năng biển, sử dụng các nguồn
lực biển để phục vụ tích cực cho phát triển kinh tế nước nhà. Qua nhiều năm, cơ cấu
ngành nghề có nhiều thay đổi lớn nhưng vẫn chủ yếu là các ngành khai thác dầu
khí, thủy sản, du lịch, cảng biển, đóng tàu. Để tiếp tục phát huy công cuộc đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng
nhằm tránh tình trạng tụt hậu về kinh tế. Chính vì vậy, các lĩnh vực kinh tế liên
quan đến biển và vùng ven biển phải được coi trọng.
Hiện nay nước ta đã chú trọng, quan tâm đến phát triển kinh tế biển ở nhiều địa
phương có tiềm năng về kinh tế biển trong đó có huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền
Giang. Tiền Giang sở hữu bờ biển dài 32 km nên có điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế biển trong đó huyện Gò Công Đông là huyện có tiềm năng và lợi thế
3
lớn nhất. Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội vùng biển của huyện đã
có bước phát triển, mang đến những đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh, lại kết hợp chặt chẽ bảo vệ môi trường sinh thái. Thế nhưng những lợi ích
huyện Gò Công Đông có được từ biển chưa thực sự tối đa, tiềm lực đầu tư chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một huyện ven biển. Các dự án trong khu
công nghiệp, khu du lịch triển khai chậm, đầu tư cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ. Trong
khi đó, quy trình khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi thủy – hải sản và hoạt động
dịch vụ hậu cần nghề cá chủ yếu với quy mô nhỏ, lạc hậu. Cảng cá Vàm Láng lại đã
quá tải. Cuộc sống người dân phải chịu nhiều rủi ro do thiên tai…, vì vậy cần chú
trọng, đầu tư phát triển kinh tế biển hơn nữa. Nhận thức được tầm quan trọng, ý
nghĩa của nền kinh tế biển trong tương lai đối với cả nước nói chung và ở huyện Gò
Công Đông nói riêng, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế biển ở huyện Gò
Công Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030”, làm luận văn tốt nghiệp cao học,
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
Việt Nam là một quốc gia có lợi thế lớn về biển thể hiện ở vị trí địa, đường bờ
biển dài và đẹp, nguồn tài nguyên phong phú, thuộc quy mô khá đã tạo nên tiềm
năng lớn cho nền kinh tế biển. Từ trước tới nay, vấn đề kinh tế biển đã luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế mà
biển mang lại. Điều này thể hiện trong nhiều Nghị quyết của Đảng như tại Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông Nghị quyết số 09-
NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020, đó là phải trở thành quốc gia mạnh về biển, biết làm giàu từ
biển từ việc phát huy tiềm năng biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với
cơ cấu đa dạng, hiện đại, tạo tốc độ phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả với tầm
nhìn dài hạn. Ngoài ra, vấn đề kinh tế biển còn được đề cập, chú trọng trong các hội
thảo khoa học như “Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam” vào
ngày 11 tháng 2 năm 2007, hay hội thảo khoa học của Viện Khoa học Xã hội Việt
4
Nam và ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã phối hợp tổ chức mang tên “Khai
thác tiềm năng biển đảo vì sự phát triển bền vững của Quảng Ngãi và miền Trung”.
Bên cạnh đó có thể nêu một số luận văn, luận án đã được thực hiện trong thời
gian qua với nội dung liên quan đến kinh tế biển và vấn đề phát triển kinh tế biển
như:
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Đoàn Vĩnh Tường năm 2008 về “Giải pháp về vốn
đối với phát triển kinh tế biển tỉnh Khánh Hòa” đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận
cơ bản liên quan việc huy động vốn để phát triển kinh tế biển và làm rõ tiềm năng
kinh tế biển trong phát triển kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa đồng thời đề ra
những biện pháp thu hút vốn đầu tư cho kinh tế biển. Từ việc nghiên cứu những
thực trạng về vốn đối với phát triển kinh tế biển, luận án đánh giá thành tựu hạn chế
và nguyên nhân cho việc tìm vốn sau đó đề xuất giải pháp, nhưng chưa đi sâu vào
phân tích từng nội dung kinh tế biển và chưa có sự chia tách nguồn vốn theo kênh
huy động cụ thể.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế biển tỉnh
Thanh Hóa” của Đỗ Thị Hà Thương, năm 2016. Luận án đã đóng góp những
nghiên cứu chuyên sâu về huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế biển về lý
thuyết và thực tiễn. Qua phân tích các bài học kinh nghiệm của các nước trên thế
giới và một số địa phương về hoạt động huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế
biển, luận án đã rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Thanh Hóa
nói riêng và đề xuất hệ thống giải pháp, các điều kiện thực hiện các giải pháp khả
thi nhằm tăng cường công tác huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế biển tỉnh
Thanh Hóa.
- Dương Văn Hồng (2008) “Kinh tế biển Trà Vinh”, luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội. Luận văn nêu lên
và đánh giá thực trạng của kinh tế biển tỉnh Trà Vinh nhưng chủ yếu ở khía cạnh
nuôi trồng thủy hải sản, du lịch, vẫn còn ít về hoạt động giao thông biển. Các giải
pháp đưa ra quá nhiều không có trọng tâm khiến luận văn khá ít thuyết phục.
5
- Luận văn thạc sĩ Địa lí học, Nguyễn Thụy Ngọc Trang (2011), “Tiềm năng,
thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển tỉnh Ninh Thuận” đã nêu lên thực
trạng và đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế biển của tỉnh Ninh Thuận về vị trí địa
lí, tài nguyên hải sản, du lịch biển và lao động, các nguồn lợi khác. Luận văn đề cập
đến giao thông vận tải biển và môi trường sinh thái biển cũng là vấn đề quan trọng
cần quan tâm trong kinh tế biển. Các định hướng phát triển kinh tế biển hay dự báo
về đầu tư phát triển kinh tế biển, nguồn nhân lực cũng được đề cập, bao quát trong
bài luận văn.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Phát triển bền vững ngành thủy sản thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020”, Trần Thị Thơm (2011). Luận văn đã xây dựng hệ thống các
giải pháp phát triển bền vững ngành thủy sản thành phố Đà Nẵng đến năm 2020
trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Trong đó, hệ thống các giải pháp phát
triển bền vững về kinh tế được trình bày thông qua giải pháp bền vững trong nuôi
trồng, khai thác, chế biến và dịch vụ thủy sản.
- Lý Kim Thụy (2011), Luận văn thạc sĩ địa lý học “Phát triển kinh tế biển
tỉnh Cà Mau – thực trạng và giải pháp” nghiên cứu thực trạng và giải pháp khá cụ
thể, chi tiết lại bao quát nhiều khía cạnh như không gian ven biển, phát triển nghề
cá, hàng hải, thăm dò khai thác dầu khí; đưa ra các định hướng phát triển các ngành
kinh tế biển như ngành thủy sản, công nghiệp biển, ngành du lịch, vận tải biển và
phát triển nguồn nhân lực. Luận văn còn đi sâu vào một số vấn đề liên quan đến
kinh tế biển khác như đầu tư vốn phát triển, xây dựng hệ thống chính sách quản lí,
bảo vệ môi trường biển và phát triển bền vững.
- Quan Văn Út (2013), Luận văn Thạc sĩ địa lí học, trường đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh “Phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu: tiềm năng, thực trạng và
giải pháp”. Luận văn đánh giá những lợi thế so sánh về điều kiện phát triển và
những kết quả đạt được cũng như khó khăn hạn chế trong quá trình phát triển các
ngành kinh tế biển, tập trung vào ngành kinh tế biển mũi nhọn của tỉnh như thủy
sản, du lịch, nghề muối biển, công nghiệp khai thác và lĩnh vực liên quan.
6
- Lê Văn Lợi (2014), trường đại học Kinh tế, đại học Quốc gia Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế “Khai thác hải sản ở tỉnh Quảng Bình theo hướng bền vững”.
Luận văn đã đánh giá thực trạng phát triển khai thác hải sản Quảng Bình giai đoạn
2008 - 2013, xác định phương hướng và các giải pháp phát triển khai thác thủy sản
một cách bền vững trong thời gian tới.
- Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị “Phát triển kinh tế biển ở
Hải Phòng” Trịnh Huy Hồng (2014), trường đại học Kinh tế tập trung nghiên cứu
vào các hoạt động kinh tế biển Hải Phòng trong một số ngành như thủy sản, du lịch
biển, giao thông vận tải biển, công nghiệp gắn với biển, dịch vụ cảng biển theo
hướng bền vững để làm rõ thành tựu, hạn chế cần khắc phục trong tương lai tới.
Trên cơ sở đó chỉ ra định hướng và giải pháp cơ bản cho quá trình phát triển kinh tế
biển ở Hải Phòng theo hướng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
- Nghiên cứu của của Tác giả Hoàng Văn Thái (2009), “Kinh tế biển Nghệ An
trong hội nhập kinh tế quốc tế” đánh giá nền kinh tế biển và sự phát triển kinh tế
biển trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế để đưa nền kinh tế biển của tỉnh phát
triển hơn để đưa ra những nhóm giải pháp cụ thể về thể chế, chính sách, vốn và giải
pháp liên quan đến doanh nghiệp hoạt động liên quan đến biển, nhân lực, khoa học
công nghệ,… nhưng tính khả thi của những giải pháp đưa ra còn ít vì vẫn chủ yếu lý
thuyết và đề xuất kiến nghị đối với tổ chức lớn.
Hầu như các nghiên cứu trên đều đề cập đến các vấn đề liên quan đến phát triển
kinh tế biển như nguồn vốn, các ngành nghề của kinh tế biển, phân tích tiềm năng,
thực trạng kinh tế biển hiện có của mỗi tỉnh, địa phương có biển để đưa ra giải pháp
phát triển kinh tế biển đúng đắn nhất. Tuy nhiên trong các công trình nghiên cứu
trên vẫn chưa có nghiên cứu về việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông
giai đoạn đến năm 2030. Vì vậy cần có một nghiên cứu sâu rộng hơn với thời gian
tương lai dài hơn về kinh tế biển của huyện Gò Công Đông đến năm 2030. Đề tài
“Phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030” sẽ
được nghiên cứu tổng thể mới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong nhiều
năm tới cùng với nhiều vấn đề đặt ra như: tiềm năng biển và ven biển, các nguồn
7
lực có lợi thế nhất để phát triển kinh tế biển, ngành nghề lĩnh vực trọng điểm trong
phát triển kinh tế biển của huyện, chính sách chủ yếu để khai thác tiềm năng, lợi thế
về biển của huyện, thành tựu đạt được, hạn chế cần khắc phục và giải pháp cần đưa
ra không chỉ cho hiện tại mà còn trong tương lai xa. Có như vậy, đề tài nghiên cứu
của luận văn mới đạt hiệu quả cao và thiết thực nhất. Tuy nhiên, trong phạm vi luận
văn tác giả đề cập trong giới hạn nghiên cứu kinh tế biển của huyện Gò Công Đông
tỉnh Tiền Giang từ nằm 2010 đến 2015 về những vấn đề, bộ phận của kinh tế biển
như ngành thủy hải sản, du lịch biển, vấn đề môi trường biển.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế biển, phân tích thực trạng kinh tế
biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang. Từ đó đưa ra giải pháp phát triển
kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030.
- Khái quát lý luận về phát triển kinh tế biển.
- Đánh giá thực trạng kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang và
nêu lên nguyên nhân thành công hạn chế ở địa phương.
- Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền
Giang đến năm 2030.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: kinh tế biển nằm trong tổng thể nền kinh tế
của tỉnh nhưng trọng tâm là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và các mối quan
hệ kinh tế xã hội trong kinh tế biển huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang.
Phạm vi nghiên cứu: dưới góc nhìn Kinh tế chính trị về kinh tế biển huyện Gò
Công Đông tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2005 – 2015 và tầm nhìn đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin kết hợp phương pháp thống kê, phân tích – so sánh, tổng hợp,
vận dụng các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp, nông thôn để giải quyết các vấn đề nêu ra trong luận văn.
8
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Xem x t, đánh giá
một cách khách quan, toàn diện vấn đề kinh tế biển của huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang trong các giai đoạn cụ thể, gắn với đối tượng cụ thể.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Dựa vào thực tiễn quá trình phát triển
kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang, rút ra các ưu điểm và những
hạn chế của địa phương từ đó đề ra những giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển
kinh tế biển trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Phương pháp thống kê: Tập hợp các dữ liệu thống kê về chương trình phát
triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang trong 2 giai đoạn: 2005
– 2010; 2010 – 2015 về: diện tích nuôi trồng thủy hải sản, số hộ ngư dân, số du
khách đến hàng năm, quy mô và số lượng tàu thuyền đánh bắt cá…. trên địa bàn
huyện.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Dựa trên cơ sở các số liệu thu thập được về
tình hình phát triển kinh tế biển của huyện, tiến hành phân tích, đánh giá thành tựu
và hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế biển từ đưa ra những luận giải về vấn
đề nghiên cứu.
6. Nguồn thông tin nghiên cứu
Nguồn thông tin phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu là các số liệu thứ cấp, thông
qua các báo cáo, thống kê từ các phòng ban liên quan ở huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang, Bộ NN&PTNT Việt Nam, Tổng Cục Thủy Sản, Viện kinh tế & quy
hoạch thủy sản… và các tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài “Phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công
Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng, giúp cho huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang có những thông tin cần thiết
để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển cho địa phương mình; ý nghĩa khoa
học và tính thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây:
9
Một là, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế biển và vai trò của
kinh tế biển trong nền kinh tế huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang, rộng ra hơn
đối với nước ta.
Hai là, bằng các số liệu chứng minh, tiểu phân tích và làm sáng tỏ thực trạng
việc phát triển kinh tế biển tại huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang; từ đó, rút ra
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế biển cho địa phương.
- Ba là, qua phân tích và đánh giá thực trạng đề tài cũng chỉ ra những mặt
mạnh, mặt yếu của kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang, để từ đó
giúp cho các nhà hoạch định chính sách có được bức tranh tổng thể để xây dựng
những chính sách phát triển kinh tế cho huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang nói
riêng và nước ta nói chung.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia
làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và lý luận chung về phát triển kinh tế biển
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền
Giang giai đoạn 2005 – 2015
Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền
Giang đến năm 2030
10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1.1. Kinh tế biển
Hiện nay, việc xác định nội dung của kinh tế biển vẫn đang còn là vấn đề để
ngỏ. Tuy nhiên trên thực tế, trong phân tích và thống kê kinh tế, việc quy ước về nội
dung kinh tế biển lại không phải là vấn đề gây tranh cãi về mặt học thuật. Về cơ bản
kinh tế biển là khái niệm mang tính thực tiễn, nghĩa là người ta có thể không tranh
cãi nhiều về bản thân các ngành nghề thuộc kinh tế biển, mà phần bàn luận nhiều
hơn lại thuộc về các lĩnh vực liên quan và không phải diễn ra trên biển. Do tính đặc
thù của môi trường biển đều liên quan mật thiết và được quyết định từ trong đất liền
nên không thể nói kinh tế biển mà không nói tới những hoạt động liên quan tới biển.
Theo Tiến sĩ Trương Quang Khải, Học viện Chính trị Khu vực IV: “Kinh tế
biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn
ra trên đất liền nhưng liên quan trực tiếp đến khai thác biển”, còn theo Giáo sư
Nguyễn Văn Hường: “Kinh tế biển là một lĩnh vực bao trùm gồm nhiều ngành hoạt
động liên quan đến biển như du lịch, giao thông vận tải, dầu khí, khai thác khoáng
sản, thủy sản… nhằm khai thác toàn bộ lợi ích mà biển mang lại để phát triển đất
nước”.
Như vậy, để hiểu đơn giản và có một khái niệm mang tính quy ước, có thể định
nghĩa kinh tế biển như sau: “Kinh tế biển là những hoạt động kinh tế dựa trên việc
khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường biển”.
Kinh tế biển bao gồm:
Toàn bộ các hoạt động diễn ra trên biển như:
Kinh tế Hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển);
Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản);
Khai thác dầu khí ngoài khơi;
Du lịch biển;
11
Làm muối;
Dịch vụ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn;
Kinh tế đảo.
Các hoạt động kinh tế trực tiếp đến khai thác biển, có thể không diễn ra trên
biển nhưng lại nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế
biển ở đất liền ven biển:
Đóng và sửa chữa tàu biển;
Công nghiệp chế biến dầu khí;
Công nghiệp chế biến tàu thủy, hải sản;
Cung cấp dịch vụ biển;
Thông tin liên lạc biển;
Nghiên cứu khoa học, công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế biển.
1.1.2. Phát triển kinh tế biển
- Đầu tiên, phát triển kinh tế chính là quá trình thay đổi theo hướng tiến bộ về
mọi mặt kinh tế xã hội của một quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng
trưởng. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính
bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh
tế phụ thuộc vào hai quá trình: sự tích luỹ tài sản (như vốn, lao động, và đất đai) và
đầu tư những tài sản này một cách có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng
tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính
phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng phát triển kinh tế thể hiện sự bao
quát hơn tăng trưởng kinh tế bởi nó thể hiện quá trình lớn lên và tăng tiến về mọi
mặt của nền kinh tế, về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Còn tăng trưởng kinh tế
12
chỉ là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của nền kinh tế trong một thời
gian nhất định, có thể là quý hoặc theo năm.
- Kinh tế biển cũng hoàn toàn giống như nền kinh tế nói chung. Do vậy, phát
triển kinh tế biển là sự gia tăng một cách toàn diện nền kinh tế biển theo chiều
hướng tiến bộ bao gồm sự phát triển toàn diện đồng thời của các ngành kinh tế biển
với lĩnh vực văn hóa - xã hội tại khu vực ven biển dựa trên một chiến lược phát triển
kinh tế biển và phương thức quản lý kinh tế biển một cách hiệu quả.
- Phát triển kinh tế biển còn có thể hiểu là sự biến đổi kinh tế biển theo chiều
hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng các yếu tố cấu thành
của nền kinh tế biển. Nó bao gồm sự tăng trưởng về mọi mặt của các ngành nghề,
lĩnh vực liên quan đến kinh tế biển. Đó là một quá trình, bao gồm sự thay đổi về số
lượng và chất lượng kinh tế, xã hội liên quan đến kinh tế biển tương đối ổn định và
dần đi vào hiệu quả thể hiện qua cơ sở hạ tầng kinh tế biển, số lượng và chất lượng
sản phẩm kinh tế biển, nguồn nhân lực biển.
- Kinh tế biển có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế chung của một nước vì
vậy ngày nay mỗi một quốc gia có biển hay một vùng của quốc gia có biển cũng
đang phát triển kinh tế biển kết hợp với nhiều lĩnh vực như phát triển tổng hợp kinh
tế biển và bảo vệ tài nguyên môi trường biển, phát triển kinh tế biển, đảo gắn với
đảm bảo quốc phòng an ninh, phát triển bền vững nền kinh tế biển, hay phát triển
kinh tế biển đảo gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia.
1.1.3. Phát triển bền vững về kinh tế biển
1.1.3.1. Phát triển bền vững
- Cùng với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng dân cư,
hoạt động phát triển đã và đang làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ra
tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường, sinh thái. Một thực tế không thể phủ
nhận là nguồn tài nguyên thiên nhiên của Trái đất không thể là vô hạn và trong khi
việc khai thác bừa bãi, không thể kiểm soát được không chỉ làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà còn gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, làm mất cân
13
bằng sinh thái; gây ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển của xã hội loài người
trong tương lai. Chính vì thực tế này đã xuất hiện một khái niệm mới về phát triển
và xu thế phát triển này đang được tất cả các nước trên thế giới, kể các các nước
phát triển cũng như các nước đang phát triển quan tâm; đó là: “Phát triển bền
vững”.
- Khái niệm bền vững áp dụng cho phát triển là một khái niệm tương đối mới
nhằm định nghĩa cho một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo
đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu
hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã
hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với
quốc gia đó.
- Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và
Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển
của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
- Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland
(còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế
giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ:
Phát triển bền vững là: "Sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện
tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ tương lai...".
- Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu
quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này,
tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt
tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi
trường.
14
1.1.3.2. Phát triển bền vững kinh tế biển
- Trên thực tế, phát triển bền vững và phát triển kinh tế biển bền vững đều liên
quan tới môi trường. Trong kinh tế biển, môi trường mang một hàm ý rộng. Đó là
môi trường kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội; là yếu tố quan trọng để tạo nên các
sản phẩm của các ngành kinh tế biển một cách đa dạng, độc đáo. Rõ ràng nếu không
có bảo vệ môi trường thì sự phát triển sẽ bị suy giảm, nhưng nếu không có phát
triển thì việc bảo vệ môi trường sẽ thất bại. Chính vì vậy, chúng ta cần phát triển
kinh tế biển nhưng không được làm tổn hại tới tài nguyên, không làm ảnh hưởng
tiêu cực tới môi trường.
- Ngoài sự phát triển thân thiện với môi trường, khái niệm bền vững còn bao
hàm cách tiếp cận kinh tế biển thừa nhận vai trò của cộng đồng địa phương, phương
thức đối xử với người lao động và mong muốn tối đa hóa lợi ích của kinh tế cộng
đồng địa phương. Nói cách khác, kinh tế biển bền vững không có bảo vệ môi trường
mà còn quan tâm tới khả năng tăng cường kinh tế dài hạn và công bằng xã hội. Kinh
tế biển bền vững không thể tách rời với phát triển bền vững.
+ Mục tiêu của kinh tế biển bền vững:
. Phát triển, gia tăng sự đóng góp của kinh tế biển.
. Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển.
. Cải thiện chất lượng cuộc sống của công đồng bản địa.
. Đáp ứng được độ cao nhu cầu của thị trường.
. Duy trì chất lượng môi trường.
+ Các chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững kinh tế biển:
- Sự bền vững của kinh tế biển có thể được đánh giá bằng những chỉ tiêu nhất
định về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, chất lượng môi trường và tình trạng xã hội:
Về kinh tế: trong xã hội bền vững, việc đầu tư và phát triển kinh tế biển nói
chung phải đem lại lợi nhuận, gia tăng tổng sản phẩm trong nước.
Về tài nguyên biển: trong kinh tế biển bền vững, tài nguyên biển cần phải sử
dụng trong phạm vi khôi phục được về số lượng lẫn chất lượng; sử dụng một cách
15
tiết kiệm, hạn chế và bổ sung thường xuyên bằng các con đường tự nhiên hoặc nhân
tạo.
Về chất lượng môi trường: : trong kinh tế biển bền vững môi trường – không
khí – nước – đất – cảnh quan liên quan tới sức khỏe, tiện nghi, yêu cầu thẩm mỹ,
tâm lý của con người nhìn chung không bị các hoạt động của con người làm ô
nhiễm; các nguồn phế thải phải được xử lý và tái chế kịp thời.
Về văn hóa – xã hội: kinh tế biển bền vững phải là một phần đề đóng góp cho
xã hội trong đó phát triển kinh tế biển phải đi đôi với công bằng xã hội, giáo dục,
đào tạo, y tế; phúc lợi xã hội phải được chăm lo, các giá trị về văn hóa, đạo đức của
dân tộc và công đồng phải đuôc bảo vệ và phát huy. Ngoài ra, biển còn góp phần
vào bảo vệ an ninh quốc gia, kinh tế biển bền vững phải tạo ra sự vững mạnh về an
ninh quốc phòng cho đất nước.
- Với xu thế hiện nay, để đánh giá sự phát triển của kinh tế biển, người ta chủ
yếu dựa vào 4 điều kiện cần và đủ nói trên. Nếu thiếu 1 trong 4 điều kiện trên thì sự
phát triển kinh tế biển sẽ đứng trước nguy cơ mất bền vững.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ BIỂN
1.2.1. Kinh tế biển là một lĩnh vực kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm nhiều
ngành nhiều nghề khác nhau và có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau:
Kinh tế biển bao gồm nhiều ngành như nuôi trồng, khai thác đánh bắt thủy sản,
du lịch biển, giao thông vận tải, sửa chữa đóng tàu,… Những ngành này luôn có
mối quan hệ với nhau, không bao giờ đứng riêng lẻ bởi chúng luôn hỗ trợ với nhau
như có nuôi trồng, đánh bắt thủy sản thì mới có nền du lịch biển tốt hơn, chất lượng
hơn về hải sản tại nơi du lịch; sửa chữa đóng tàu giúp cho giao thông vận tải biển
hoạt động đều đặn, thường xuyên. Nếu như không có tàu thuyền thì không thể duy
trì giao thông vận tải biển, cũng như không có những nghề nuôi trồng hải sản, làm
muối thì sẽ không thể cung cấp đầy đủ dịch vụ cho du lịch biển đúng nghĩa.
16
1.2.2. Quá trình phát triển của kinh tế biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện về
vị trí địa lí, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển, thời tiết và khí hậu:
Một quốc gia có lợi thế về biển đảo thì sẽ mang đến một nền kinh tế biển phát
triển hơn những quốc gia khác. Thậm chí đối với hai quốc gia hay hai vùng đều có
biển nhưng một nơi lại có tiềm năng lớn hơn như nhiều bãi biển đẹp, nguồn hải sản
phong phú, thời tiết khí hậu mát mẻ quanh năm,… thì chắc chắn rằng quốc gia ấy sở
hữu một nền kinh tế biển phát triển hơn quốc gia còn lại. Chính vì vậy quá trình
phát triển của kinh tế biển luôn phụ thuộc vào điều kiện vị trí địa lí, nguồn tài
nguyên hay thời tiết khí hậu của từng vùng và quá trình phát triển này luôn khác
nhau giữa các vùng trên thế giới.
1.2.3. Kinh tế biển chịu sự tác động rất lớn của thiên nhiên, bão lũ.
: Quá trình phát triển kinh tế biển phụ thuộc vào thời tiết khí hậu cũng chính là
chịu tác động của thiên nhiên bão lũ vì thời tiết khí hậu ở mỗi quốc gia khác nhau
và thường xảy ra bão lũ, thiên tai khác nhau. Đối với những vùng thường xuyên
chịu ảnh hưởng của gió bão, thiên tai sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế
biển và ngược lại.
1.2.4. Kinh tế biển là ngành kinh tế chủ yếu nhờ vào việc khai thác tài nguyên,
khoáng sản là chính
: Khai thác dầu khí, du lịch, đánh bắt thủy sản, nguồn tài nguyên biển vô cùng
phong phú và nếu biết cách khai thác hiệu quả thì nó sẽ vô tận cho con người, vì
vậy kinh tế biển phát triển nhất đối với việc khai thác tài nguyên như dầu khí, hải
sản, du lịch bởi chúng mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế.
1.2.5. Hoạt động kinh tế biển mang tính liên vùng:
Biểu hiện thông qua vận tải biển, khai thác đánh bắt thủy sản không chỉ dừng
lại trong phạm vi vùng biển của địa phương mà diễn ra trên phạm vi thềm lục địa
thuộc chủ quyền Việt Nam. Vùng biển đảo của quốc gia này nhưng lại liền kề với
quốc gia khác nên luôn có sự liên kết với nhau. Hơn nữa, muốn có giao thương, vận
17
tải thì tất nhiên không thể chỉ diễn ra trong nước mà còn tầm quốc tế, chính vì vậy,
phạm vi của hoạt động kinh tế biển liên vùng trên nhiều quốc gia, vùng biển khác.
Có sự giao thương, trao đổi buôn bán trên biển giữa các quốc gia hay giữa các vùng
thì mới có sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng.
Kinh tế biển là ngành kinh tế mà ở đó mọi hoạt động chủ yếu diễn ra trên biển
và ven biển. Do vậy, tác động rất lớn đến môi trường sinh thái biển. Khi con người
khai thác đánh bắt nuôi trồng thủy sản hay du lịch biển, dịch vụ đóng tàu, sửa
chữa,… đều liên quan đến biển và ven biển gây nên tác động không nhỏ đến biển,
đại dương. Môi trường sinh thái biển chính là nơi bị ảnh hưởng trực tiếp và lớn
nhất, có thể gây ra hậu quả khôn lường đối với tất cả những gì liên quan đến biển
cả.
- Trong kinh tế biển doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đầu tàu trong một số
ngành trọng yếu của kinh tế biển như: tìm kiếm, khai thác, chế biến dầu khí; khai
thác khoáng sản biển và ven biển; cảng biển...Với vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động
và công nghệ chất lượng cao, kinh tế biển yêu cầu cao về các tổ chức lớn để khai
thác hiệu quả tài nguyên biển, hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển, từ đó mang lại
đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, cho sự phát triển nền kinh tế chung của cả
nước và tổ chức có vai trò lớn nhất luôn là các doanh nghiệp nhà nước.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ BIỂN
- Theo văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam “Những định
hướng phát triển biển” là:
Một là, xây dựng các trung tâm kinh tế biển: Trung tâm kinh tế biển là các khu
đô thị nằm trên các vùng ven biển, các hải đảo quan trọng có dân số và nguồn lực,
bao gồm cả cơ sở vật chất, kỹ thuật và lao động nghề biển có khả năng vận dụng
nguồn lực để khai thác có hiệu quả tài nguyên biển, ven biển và hải đảo.
Hai là, xây dựng hệ thống các khu kinh tế, khu công nghiệp và các cảng biển,
để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho kinh tế biển như: Đóng tàu, các phương tiện
vật tư, kỹ thuật phục vụ cho khai thác, đánh bắt hải sản; phục vụ khai thác tiềm
năng du lịch, vận tải biển; và là nơi trung chuyển, chế biển các sản phẩm được khai
18
thác từ biển. Vì thế, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI cũng đã nhấn mạnh: “Xây
dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven biển
gắn với phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, khai thác, chế biển dầu khí,
vận tải biển, du lịch biển,…”
Ba là, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp, đóng tàu, chế biển và dịch
vụ kinh tế biển: Các ngành công nghiệp, đóng tàu, chế biến và dịch vụ kinh tế biển
có thể coi là một trong những ngành có tiềm năng, là mũi nhọn và là động lực quan
trọng của kinh tế biển Việt Nam. Trong những năm vừa qua, các ngành kinh tế nêu
trên cũng đã có bước tiến quan trọng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
kinh tế biển nước ta. Vì thế, trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng đã
nhấn mạnh: “Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên
phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi măng, chế biến thủy sản
chất lượng cao… gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có
giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ
cảng và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng mới và
sửa chữa tàu biển… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế
của từng đảo”.
1.4. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Nội dung phát triển kinh tế biển bao gồm:
1.4.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển
- Theo kinh tế chính trị, cơ sở hạ tầng chính là tổng hợp quan hệ sản xuất tạo
thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội ở một
giai đoạn nhất định gồm ba loại quan hệ sản xuất như quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Còn đối với khái niệm
thông thường, cơ sở hạ tầng chính là cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng trong đời sống
như điện, đường, công trình xây dựng như nhà ở, khách sạn, trung tâm thương
mại,…được sử dụng chủ yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt.
- Phát triển cơ sở hạ tầng chính là không ngừng nâng cấp, nâng cao chất lượng
của cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng để đưa đến nền tảng tốt hơn, phục vụ đời sống
19
con người, mang đến cuộc sống chất lượng hơn vì cơ sở hạ tầng là một nhân tố
quan trọng, góp phần không nhỏ đối với bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế.
- Trong phát triển kinh tế biển, cơ sở hạ tầng cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn
và cần được chú trọng. Nó cũng chính là yếu tố đảm bảo về điều kiện cho mọi hoạt
động trong quá trình phát triển kinh tế biển được thực hiện.
- Phát triển cơ sở hạ tầng chính là phát triển hệ thống cơ sở lưu trú như khách
sạn, nhà nghỉ; phát triển hệ thống nhà hàng; phát triển các trung tâm mua sắm, các
khu bán hàng lưu niệm, các khu vui chơi, giải trí; phát triển các công ty kinh doanh
du lịch, hệ thống cảng biển. Có thể thấy rằng những nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng,
sở hữu cơ sở hạ tầng tốt, đầy đủ tiện nghi thì sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc phát
triển kinh tế biển ở chính nơi đấy. Cụ thể như du lịch biển có cơ sở hạ tầng, các khu
nhà nghỉ khách sạn sang trọng, tiện nghi hay các khu vui chơi giải trí, mua sắm đầy
đủ thì chắc chắn sẽ thu hút đông đúc du khách. Đối với đánh bắt nuôi trồng hải sản,
với tàu thuyền tốt, bền bỉ, với khu nuôi trồng được xây dựng thiết kế chuẩn, giúp
ngư dân dễ dàng thực hiện tốt các hoạt động đánh bắt nuôi trồng của chính họ, đưa
lại sự phát triển đáng kể đối với kinh tế biển…
- Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những chiến lược, chính sách nhất định nhằm
đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng biển. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020,
với mục tiêu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, chú trọng quan tâm
đến nền kinh tế biển, cũng như bảo đảm vững chắc chủ quyền và lãnh thổ trên biển
đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị
quyết nhấn mạnh việc đến năm 2020 phải có bước đột phá, phát triển thành công về
kinh tế biển và ven biển, kinh tế hàng hải phải đứng thứ hai trong các ngành kinh tế
biển. Để thực hiện và thành công trong chiến lược của Nghị quyết của Đảng, nước
ta đã ban hành, chỉ đạo tập trung phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển theo đúng định
hướng đó là tổ chức quản lí hạ tầng cảng biển đồng bộ; phát triển dịch vụ logistic,
hạ tầng ngành hàng hải.
20
- Để phát triển và khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng cảng biển, việc phát triển kết
cấu hạ tầng cảng biển và cơ sở hạ tầng biển luôn là yếu tố then chốt. Với những
mục tiêu, định hướng phát triển cơ sở hạ tầng biển như vậy, nền kinh tế biển đã dần
phát triển, mang đến lợi ích to lớn cho nền kinh tế của nước ta. Trong thời gian tới,
nền kinh tế biển cũng cần tăng cường nâng cao nỗ lực và quyết tâm cảu ngành, sự
quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành liên
quan nhằm phát triển hơn nữa nền kinh tế biển và góp phần thiết thực đưa nước ta
trở thành quốc gia giàu mạnh về biển.
1.4.2. Phát triển sản phẩm biển
- Sản phẩm biển ở đây chính là hải sản, dịch vụ du lịch biển, giao thông vận tải
biển, các dịch vụ khác liên quan đến biển như cứu hộ, cứu nạn, tìm thông tin liên
lạc… Các sản phẩm biển chính là những thứ không thể thiếu nếu muốn phát triển
kinh tế biển bởi nó liên quan trực tiếp đến biển. Nếu các sản phẩm biển được chú
trọng, phát triển hơn sẽ kéo theo việc đẩy mạnh lợi nhuận thu được từ biển, phát
huy tối đa tiềm năng, lợi ích của biển.
- Phát triển sản phẩm biển bằng cách phát triển số lượng sản phẩm, loại hình có
trong kinh tế biển, nâng cao chất lượng sản phẩm kinh tế biển, thường xuyên giới
thiệu, tung ra những sản phẩm mới mẻ, độc đáo, có tính hấp dẫn cao.
+ Thứ nhất, phát triển số lượng sản phẩm chính là gia tăng số lượng các sản
phẩm mới, tạo nên sự đa dạng, phong phú hơn cho người tiêu dùng nhưng cũng
đồng thời duy trì, bổ sung, hoàn thiện và phát triển những sản phẩm hiện có. Ngoài
ra, có thể kết hợp liên kết nhiều dịch vụ thành sản phẩm trọn gói mới như: nghỉ
dưỡng - tắm biển - thể thao - hội thảo hay nhà nghỉ - tắm biển - thể thao - mua
sắm đối với những nơi có lợi thế về du lịch biển.
+ Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phầm kinh tế biển chính là nâng cao thuộc
tính đặc thù của chính sản phẩm. Cụ thể đối với nguồn hải sản phải tươi ngon, an
toàn vệ sinh thực phẩm; các dịch vụ du lịch biển phải có chất lượng cao về cơ sở hạ
tầng cũng như sự chào đón, phục vụ mang đến sự hài lòng cho khách hàng.
21
Một số sản phẩm điển hình của kinh tế biển, có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế biển:
Đánh bắt, nuôi trồng và chế biển hải sản
Du lịch biển và kinh tế đảo
Kinh tế hàng hải
Tìm kiếm thăm dò, khai thác chế biến dầu khí, khoáng sản biển
Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ về khai
thác và phát triển kinh tế biển
1.5. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.5.1 Hiệu quả về mặt kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định, thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng
phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm qua các thời kỳ. Tăng trưởng kinh tế thường phản ánh một khía
cạnh chứ không toàn diện của nền kinh tế.
- Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế, thể
hiện ở mọi khía cạnh của nền kinh tế. Đó là quá trình biến đổi cả về lượng và chất
của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai
vấn đề: kinh tế -xã hội ở mỗi một quốc gia. Nếu chỉ xét về kinh tế thì không thể
xem là phát triển kinh tế mà phải xem xét cả vấn đề xã hội mới hoàn thiện nhất. Do
vậy, tăng trưởng kinh tế có thể là trọng tâm để đạt được phát triển kinh tế, nhưng để
phát triển kinh tế cần có nhiều yếu tố, chứ không chỉ đơn thuần là tăng trưởng. Cách
thức thu nhập, cách tiêu dùng hay được phân phối cũng góp phần xác định kết quả
của phát triển. Một nền kinh tế của một quốc gia phát triển thì tất nhiên trong đó
kinh tế biển của quốc gia đấy cũng chắc chắn sẽ phát triển, bởi kinh tế biển là phần
không nhỏ, đóng vai trò to lớn đối với nền kinh tế của bất kì quốc gia vùng biển
nào.
22
Tăng trưởng kinh tế thể hiện qua thu nhập quốc nội (GDP) là giá trị tính bằng
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh
thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Còn nếu phạm vi là
toàn quốc gia thì gọi là tổng sản phẩm quốc nội.
- Nói một cách khác tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế biển dựa vào việc theo
dõi GDP tăng trưởng kinh tế biển:
GDP kinh tế biển năm (0 — GDP kinh tế biển năm (i — 1)
GDP kinh tế tỉnh năm (0 — GDP kinh tế tỉnh năm (i — 1)
1.5.2. Hiệu quả về mặt xã hội
- Phát triển nền kinh tế biển cũng cần xem x t đến hiệu quả về mặt xã hội để
đánh giá sự phát triển toàn diện nhất. Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả xã
hội của phát triển kinh tế biển thường là số lao động có việc làm, chất lượng cuộc
sống của người dân, cơ sở hạ tầng, môi trường làm việc hay sức khỏe, y tế cho mọi
người…
- Nếu số lao động có việc làm tăng tức là tỉ lệ thất nghiệp ngày càng giảm, tệ
nạn xã hội cũng giảm cho thấy xã hội phát triển tốt hơn cùng nền kinh tế. Bên cạnh
đó, nếu lao động tăng tức là chất lượng cuộc sống của người dân cũng khá hơn,
những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân lao động đang trở nên
tốt hơn. Đặc biệt là đối với người dân vùng biển, nếu cuộc sống tốt, các dịch vụ đáp
ứng cho họ đầy đủ, cơ sở hạ tầng tiện nghi về trường học, bệnh viện, khu vui chơi,
mua sắm, môi trường làm việc an toàn, tốt hơn, đảm bảo sức khỏe của mọi người
lao động sẽ chứng tỏ nền kinh tế biển phát triển tác động tích cực.
1.6. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Việc phát triển kinh tế biển có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế hiện nay
góp phần vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và phát triển các thành phần kinh
tế, các loại hình doanh nghiệp.
- Thứ nhất, phát triển kinh tế biển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế của đất nước
23
+ Kinh tế biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế của cả nước. Kinh tế biển phát triển sẽ dẫn đến quy mô kinh tế
biển và vùng ven biển tăng lên, cơ cấu ngành nghề thay đổi cùng với sự xuất hiện
của các ngành nghề mới.
+ Kinh tế biển phát triển kéo theo sự xuất hiện các ngành nghề gắn với công
nghệ - kỹ thuật hiện đại, ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự
phát triển của một số ngành khác như công nghiệp hóa dầu, giao thông vận tải biển,
đánh bắt xa bờ, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ… thương mại trong nước và
khu vực. Việc khai thác nguồn lợi từ biển đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển
của đất nước, nhất là cho xuất khẩu. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế biển sẽ
tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, mang
lại một nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia, thực hiện phân công lao động theo
đúng hướng có hiệu quả. Đồng thời, phát triển kinh tế biển góp phần sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tăng sức cạnh tranh và tạo động lực mãnh mẽ thúc
đẩy khoa học công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, phát triển kinh tế biển góp phần khai thác có hiệu quả những tiềm
năng nguồn lực của biển và ven biển
+ Phát triển khai thác và chế biến dầu khí: Phát triển khai thác và chế biến dầu
khí đồng nghĩa với việc đẩy nhanh công tác tìm kiếm dò tìm các mỏ dầu khí, đẩy
nhanh khai thác và chế biến cho ra đời các sản phẩm. Phục vụ đáp ứng một phần
nhu cầu trong nước làm giảm áp lực nhiên liệu khi dầu khí là một trong những
nguồn nhiên liệu có giá trị hàng đầu trên thị trường thế giới. Dầu khí là món hàng
xuất khẩu mang lại một nguồn thu ngoại tệ lớn chongân sách nhà nước, góp phần ổn
định tình hình kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế quốc dân. Phát
triển kinh tế hàng hải: Vai trò của phát triển kinh tế hàng hải thể hiện rõ nhất là phát
triển giao thông vận tải, dầu khí, điện lực và khai thác khoáng sản. Phát triển giao
thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận tải thấp nhất nhưng lại có
thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất. Vì vậy chính vận tải biển phát triển đã thúc
24
đẩy thương mại các quốc gia, ngày càng trở nên có hiệu quả. Phát triển vận tải biển
thúc đẩy quá trính xuất nhập khẩu hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển công
nghiệp. Là nền tảng cho sự ra đời của ngành công nghiệp cảng biển, công nghiệp
đóng và sửa chữa tàu. Sự phát triển một cách nhanh chóng của công nghệ đóng và
sửa chữa tàu biển thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của cả một nền kinh tế.
+ Phát triển đánh bắt nuôi trồng và chế biến thủy hải sản: Đây là nghề biển
truyền thống có thế mạnh của nước ta, hàng năm có thể khai thác 1,5 - 1,67 triệu tấn
đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao
động dịch vụ nghề cá với số lượng tàu thuyền tăng liêntục qua các năm. Từ việc
chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản trong những
năm qua góp phần gia tăng sản lượng thủy sản, tăng kim ngạch xuất khẩu liên tục
qua các năm. Nuôi trồng hải sản đã có góp phần đáng kể vào chuyển đổi mạnh
trong cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển. Chế biến thủy hải sản là biện pháp giải
quyết một phần sản lượng thủy hải sản đánh bắt một vai trò nữa của nó đó là giúp
giải quyết công ăn việc làm tại chỗ cho người dân, tạo thêm thu nhập ổn định cuộc
sống, xóa đói giảm nghèo thay đổi cơ cấu kinh tế, góp phần bảo vệ an ninh vùng
biển và hải đảo.
+ Phát triển du lịch biển, kinh tế đảo: Phát triển du lịch biển không chỉ tăng
nguồn thu từ du khách về với biển mà còn mang lại những tour du lịch cho các địa
điểm khác trong vùng trong khu vực. Nó là động lực thúc đẩy sự phát triển các
ngành kinh tế đầu tư, thương mại, văn hóa, xã hội. Không ít đảo có lợi thế địa lý có
thể xây dựng thành trung tâm kinh tế hải sản, với cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ
biển xa hiện đại. Đặc biệt, trongvùng quần đảo san hô có tới 1 triệu ha đầm phá chỉ
có độ sâu từ 1-6m, thuộc các rạn san hô vòng có môi trường thuận lợi nuôi trồng hải
sản. Chính vì vậy, mà việc phát triển kinh tế đảo có vai trò quan trọng không chỉ
thúc đẩy kinh tế biển phát triển mà kinh tế của cả nền kinh tế cũng có tăng trưởng.
+ Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất ven biển gắn với
phát triển các khu đô thị ven biển: Các khu kinh tế ven biển này sẽ là những hạt
nhân để góp phần hình thành các khu kinh tế năng động, thúc đẩy sự phát triển
25
chung, nhất là đối với các vùng nghèo trên các vùng ven biển của Việt Nam; đồng
thời tạo tiền đề thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước
ngoài để phát triển kinh tế biển. Như vậy, sứ mệnh của các khu kinh tế ven biển này
chủ yếu là cùng với các thành phố lớn ven biển hiện có tạo thành những trung tâm
kinh tế biển mạnh, vươn ra biển xa. Các khu công nghiệp, khu công xưởng vùng
ven biển có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng
cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của ngành kinh tế biển qua đó góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Thứ ba, phát triển kinh tế biển góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn; phát triển cơ sở hạ tầng
+ Kinh tế biển không chỉ tạo ra việc làm tạo thu nhập cho lao động sống ở vùng
biển và vùng ven biển mà phát triển kinh tế biển còn tạo ra việc làm và thu nhập cho
lao động từ các vùng miền khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế
biển phải cần một lực lượng lao động đủ mạnh để đáp ứng kịp thời những nhu cầu
sản xuất. Trong hoàn cảnh như vậy, khả năng tạo việc làm tại chỗ thông qua các
ngành nghề, lĩnh vực của kinh tế biển là một hướng đi quan trọng có hiệu quả phù
hợp với tâm lý và lợi ích người lao động. Phát triển kinh tế biển làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống cho người lao động,
góp phần thức tỉnh tiềm năng nguồn lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Bên
cạnh đó các ngành nghề về khai thác chế biến dầu khí, đóng sửa chữa tàu biển, giao
thông vận tải biển, du lịch biển … cần một đội ngũ quản lý tốt có trình độ cao khả
năng nắm bắt thị trường nhanh nhẹn, một lực lượng lao động có tay nghề chuyên
môn nghiệp vụ, có kỹ năng, phẩm chất cao đáp ứng yêu cầu của công việc. Sự phát
triển của kinh tế biển đã tạo nên một đội ngũ lao động có công ăn việc làm ổn định
mà còn giúp hình thành đội ngũ lao động công nhân, trí thức lành nghề cho xã hội,
góp phần ổn định tình hình văn hóa - xã hội chung cho đất nước.
Thứ tư, phát triển kinh tế biển sẽ góp phần đảm bảo an nhinh quốc phòng, giữ
vững chủ quyền quốc gia
26
+ Biển là một không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng an
ninh của đất nước. Phát triển kinh tế biển góp phần cũng cố quốc phòng an ninh
vùng biển, đảo, bảo vệ chủ quyền và quyền lợi quốc gia trên biển. Những đặc điểm
về địa hình địa thế và thủy triều khiến vùng biển nước ta chi phối và ảnh hưởng một
cách hết sức chặt chẽ, có ý nghĩa sống còn đối với nền an ninh, quốc phòng trong
phạm vi toàn quốc cũng như đối với từng khu vực, từng địa phương trong cả nước.
Đứng trên vùng biển đảo của nước ta có thể quan sát, khống chế hệ thống giao
thông huyết mạch của Đông Nam Á. Đây cũng là nơi đang có những vụ tranh chấp
quyết liệt, phức tạp về chủ quyền của các quốc gia trong vùng biển Đông. Chính vì
vị trí đặc biệt này, việc phát triển kinh tế biển hiện nay luôn gắn liền với nhiệm vụ
giữ vững an ninh, chủ quyền quốc gia. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển
nước ta cùng với dải đất liền ven biển thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân
sự, điểm tựa, pháo đài, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp. Ngày nay
trong quá trình phát triển kinh tế xây dựng đất nước, vùng biển đảo gắn liền với
vùng thềm lục địa đang triển khai mạnh công nghiệp, thăm dò và khai thác dầu khí
cùng với vùng đặc quyền kinh tế biển rộng lớn, chứa đựng nhiều nguy cơ tranh
chấp quốc tế và âm mưu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và đặc quyền kinh tế biển
Việt Nam. Vì thế việc kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng trên vùng này trở nên
vô cùng thiết yếu, một điểm nóng trong chiến lược kinh tế biển Việt Nam là tất yếu
khách quan để tồn tại và phát triển của đất nước.
Thứ năm, phát triển kinh tế biển là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
+ Phát triển kinh tế biển đồng nghĩa với việc giao thương khắp thế giới, chúng
ta sẽ được tiếp xúc với những nền kinh tế trên thế giới. Được buôn bán, cọ xát và
tiếp cận với những nền kinh tế biển khác nhau. Đó chính là những cơ hội để chúng
ta học hỏi được những nét tiên tiến và rút ra cho mình những kinh nghiệm trong
phát triển kinh tế biển của đất nước. Ngược lại khi quan hệ kinh tế được mở rộng
kinh tế biển sẽ phát triển cao, giải quyết tốt các vấn đề an ninh, tranh chấp quyền lợi
trên biển Đông, khai thác và tiêu thụ các nguồn dầu khí và hải sản có hiệu quả, thu
hút khách du lịch quốc tế. Mở rộng quan hệ kinh tế, hình thành quan hệ ngoại giao
27
chính trị sẽ là con đường thuận lợi thúc đẩy không chỉ cho sự phát triển của kinh tế
biển mà còn cả cho sự phát triển của cả nền kinh tế quốc dân.
Vai trò to lớn của kinh tế biển đang ngày càng được phát huy trong việc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Trong tương lai không xa sự phát triển kinh tế biển sẽ là
động lực là bệ phóng vững chắc đưa nền kinh tế nước ta tiến xa và mạnh hơn nữa.
1.6. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.6.1. Tài nguyên của biển và vùng ven biển
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước cùa mọi dân tộc, biển có vai trò rất quan
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Ngày
nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, vị trí,
vai trò của biển lại càng quan trọng hơn. Các nước có biển đều vươn ra biển, xây
dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để chỉnh phục và khai thác biển.
Như chúng ta đã biết mọi sự thành công hay thất bại đều do con người mà ra, nguồn
lực con người quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Nhưng
ngoài nguồn lực con người để phát triển kinh tế xã hội, thì yếu tố về lợi thế tài
nguyên là động lực quan trọng thúc đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững. Việt
Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km, là quốc gia có nguồn tài nguyên biển khá
phong phú, sẽ tạo điều kiện cho ngành kinh tế biển phát triển.
- Biển Việt Nam có hệ sinh thái phong phú và đa dạng, là nhân tố quan trọng để
phát triển nuôi trồng, đánh bắt hải sản, cung cấp ngày càng nhiều và đa dạng các
loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như: cá, tôm, cua, sò, mực, rong, ngọc
trai... dưới dạng đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng. Như vậy, phát triển nuôi trồng và
đánh bắt hải sản ở nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
của đất nước nói chung và công nghiệp nói riêng. Ngành công nghiệp chế biến thuỷ
sản đã trở thành ngành mũi nhọn đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho
ngư dân và cho nền kinh tế quốc dân giải quyết nhiều công ăn việc làm.
- Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội. Kinh tế du lịch
đã và đang trở thành ngành kinh tế quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng
28
trong thu nhập kinh tế quốc dân. Vì vậy, các nước đều quan tâm phát triển du lịch,
có quốc gia đặt du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn đối với cơ cấu
thu nhập quốc dân. Đặc biệt, biển và vùng ven biển gắn chặt với du lịch và tạo điều
kiện thuận lợi phát triển mạnh cho du lịch.
- Mặc dù so với nhiều nước, nguồn tài nguyên dầu khí chưa thật sự lớn, song
đối với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn khởi động nền
kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngoài dầu mỏ, biển và ven bờ biển
Việt Nam còn có nhiều khoáng sản quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp như
than, sắt, titan, cát thủy tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và khoảng 5-6 vạn ha
ruộng muối biển... Tiềm năng về khí-điện-đạm và năng lượng biển cũng rất lớn như
năng lượng gió, năng lượng mặt trời, thủy triều, sóng và cả thuỷ nhiệt.
- Có thể nói, tài nguyên trên biển và vùng ven biển có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển các ngành, nghề, tạo ra nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu
cuộc sống cho con người, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần phải đánh thức các tiềm năng tài
nguyên của biển và ven biển mang lại, đưa ra giải pháp, chiến lược khai thác có
hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên ban tặng phục vụ cho quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sớm đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020.
1.6.2. Vốn, công nghệ
- Vốn và công nghệ là đòn bẩy của quá trình sản xuất và kinh doanh, nâng cao
năng suất và hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất, kinh doanh, có vai trò rất quan
trọng đến phát triển kinh tế, xã hội. Vốn cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh
tế biển. Để khai thác tiềm năng thế mạnh từ biển góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng và sớm đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp, giàu lên từ biển, những năm vừa qua Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc đàu tư, huy động các nguồn vốn và công nghệ cho việc phát triển kinh tế
biển.
1.6.3. Nguồn nhân lực
29
Như chúng ta đã biết nguồn lực vô cùng quan trọng đối với phát triển kinh tế,
xã hội. Tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị cho sản phẩm hàng hoá. Do vậy,
nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế
nói chung và kinh tế biển nói riêng. Ở nước ta có lợi thế nguồn nhân lực dồi dào
ven biển là một nhân tố quan trọng hàng đàu quyết định kết quả khai thác tiềm năng
nguồn lợi biển, vùng ven biển.
1.6.4. Thị trường
Thị trường là nơi trao đổi sản phẩm hàng hoá, là sự gặp gỡ giữa người bán
và người mua, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Một trong những quan điểm
của đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước hiện nay là thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá. Từ đó, đã tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước hợp tác kinh doanh, mở rộng đầu tư phát triển, thúc
đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển. Sản phẩm hàng hoá của Việt Nam
có điều kiện xâm nhập và cạnh tranh thị trường thế giới. Do vậy, thị trường có vai
trò rất quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế biển.
1.6.5. Cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách ảnh hưởng rất lớn đến phát triển các ngành kinh tế nói
chung, kinh tế biển nói riêng. Cơ chế chính sách có thể thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự
phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, có ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế biển.
Ngoài việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách về biển, cần tăng cường phối hợp
giữa các cấp, các ngành và các địa phương, chỉ đạo sát sao công cuộc xây dựng phát
triển kinh tế biển và cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, tài nguyên củng như bảo vệ
nguồn lợi và môi trường biển. Chúng ta ngày càng nhận thức rằng nguồn tài nguyên
“rừng vàng biển bạc” không phải vô tận và không thể thụ động ngồi chờ biển chờ
rừng, đưa đến sự giàu có mà buông lỏng việc bảo vệ, quản lý và khai thác. Chính
sách quản lý, khai thác biển của nhà nước ta dựa trên cơ sở hài hoà hợp lý mối quan
hệ giữa các lợi ích quốc phòng an ninh, chính trị, ngoại giao và phát triển kinh tế
30
biển. Kinh tế biển Việt Nam cho tới nay vẫn còn đang phát triển dưới tiềm năng của
nó. Lý do chủ yếu vẫn là cơ chế, chính sách chưa đủ thông thoáng để mở cửa vùng
biển hội nhập với khu vực và thế giới.
1.6.6. Sự hoạt động của các thành phần kinh tế trong kinh tế biển
- Một trong những nét nổi bật và khác biệt so với các ngành kinh tế khác là kinh
tế biển là một ngành kinh tế đa ngành, đa nghề. Do đó, các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đều tham gia vào quá trình hoạt động của kinh tế biển. Nhưng vị
trí, vai trò của các doanh nghiệp thuộc các thành phàn kinh tế có khác nhau:
+ Doanh nghiệp nhà nước với vai trò chủ thể tham gia vào các lĩnh vực khai
thác, sản xuất trọng yếu. Có nguồn vốn lớn, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực
trình độ chất lượng cao, giá trị đóng góp lớn cho nền kinh tế. Cụ thể là khai thác và
chế biến dầu khí, đóng tàu, phát triển cầu cảng... Trong những năm gần đây, ngành
dầu khí chủ yếu do các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước đã duy trì
mức đóng góp từ 20 đến 25% tổng thu ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng
đưa nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế trong những năm đầu thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương đổi mới đất nước do
Đảng ta khởi xướng.
+ Các thành phần kinh tế khác tham gia khai thác tối đa và có hiệu quả tài
nguyên, khoáng sản, phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, tạo nên sự đa dạng hoá
ngành, nghề, giải quyết tốt việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề
xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho họ, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm,
cung cấp nguồn nguyên liệu phục cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là
các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình và kinh tế hợp tác có vai trò quan trọng trong
nuôi trồng, khai thác thủy sản.
**** Mặc dù tiềm năng phát triển kinh tế biển là vô cùng lớn nhưng không phải
quốc gia nào có biển cũng có thể tận dụng hết những lợi thế đó. Có rất nhiều nhân
tố để quyết định kinh tế biển của 1 quốc gia có thể phát triển mạnh và phát huy
được vai trò của mình hay không. Cũng như kinh tế nói chung và các ngành kinh tế
khác nói riêng, kinh tế biển cũng chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố: vốn và công
31
nghệ, nguồn nhân lực, thị trường, cơ chế chính sách, pháp luật và sự hoạt động của
các thành phần trong kinh tế biển. Các yếu tố này có vững chắc thì mới có thể làm
cơ sở, nền tảng để thúc đẩy kinh ế biển phát huy hết được tiềm năng của mình.
Ngược lại chúng sẽ trở thành những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển đó.
- Ngoài ra, do đặc thù kinh tế biển còn chịu sự tác động của các yếu tố tài
nguyên biển: Sự đa dạng, phong ph, số lượng các tài nguyên, khoáng sản từ biển
ảnh hưởng một cách trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế biển. Lượng khoáng sản
lớn, có giá trị, nhiều loài thủy sản phong phú sẽ mang lại nhiều lợi thế cho các quốc
gia sở hữu. Ngược lại vùng biển mà các quốc gia sở hữu lại nghèo nàn, ít khoáng
sản hoặc nhiều nhưng lượng ít không đủ khai thác hay không có giá trị cao, vùng
biển hiểm trở, gây khó khăn cho việc khai thác sẽ cản trở cho việc phát triển kinh tế
biển.
1.7. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VÀ BÀI HỌC CHO
HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG
1.7.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí
Minh
Huyện Cần Giờ là một huyện ven biển nằm ở phía đông nam của thành phố Hồ
Chí Minh, cách trung tâm khoảng 50km. huyện Cần Giờ tiếp cận với biển Đông, sở
hữu một khu rừng ngập mặn đan xen với hệ thống sông dày đặc, chứa hệ sinh thái
đa dạng sinh học cao. Cần Giờ là huyện duy nhất của thành phố HCM có bốn bề là
sông và biển nên tiềm năng kinh tế biển khá lớn. Cần Giờ có tổng diện tích tự nhiên
vượt trội với 70.421 ha, chiếm khoảng 1/3 diện tích toàn TP, chủ yếu là đất lâm
nghiệp, nông nghiệp, đất sông rạch. Cần Giờ là vùng ngập mặn chiếm tới 56,7%
diện tích toàn huyện, tạo nên hệ sinh thái rừng ngập mặn độc đáo, phong phú về
thực vật cũng như động vật. Rừng ngập mặn Cần Giờ rộng 35.000ha, ngoài chức
năng chính là rừng phòng hộ, nguồn tài nguyên này còn mở ra triển vọng to lớn về
phát triển du lịch sinh thái. Từ những năm 2000, rừng ngập mặn Cần Giờ đã được
32
UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh quyển” thế giới đầu tiên tại Việt Nam.
Những bài học rút ra từ phát triển kinh tế biển của huyện Cần Giờ:
- Phát triển kinh tế biển một cách toàn diện, có trọng tâm, lấy ngành du lịch sinh
thái biển làm chính.
- Định hướng phát triển theo hướng du lịch kinh tế biển, ưu tiên mô hình nghỉ
dưỡng kết hợp sinh thái.
- Xây dựng, nâng cao cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở lưu trú phục vụ du lịch trên
địa bàn.
- Đa dạng hóa loại hình sản phẩm du lịch và kết hợp các loại hình với nhau như
du lịch sinh thái biển, du lịch sinh thái rừng ngập mặn, du lịch văn hóa tín ngưỡng,
du lịch đường sông biển.
1.7.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang
Thị xã Hà Tiên nằm về hướng Tây - Bắc của tỉnh Kiên Giang. Thị xã Hà Tiên
có vị trí địa lí lí tưởng đó là phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông giáp huyện Giang
Thành, phía Nam giáp huyện Kiên Lương, phía Tây giáp huyện đảo Phú Quốc và
vịnh Thái Lan, có đường biên giới trên đất liền dài 13,7 km, đường bờ biển dài 26
km. Thị xã Hà Tiên là một dải đất có vị trí nằm nơi cửa sông, ven biển, có nhiều
dạng địa hình như: vũng, vịnh, đồng bằng, đồi núi, sông rạch, hang động, hải đảo...
Thị xã có 09 di tích được công nhận trong đó có 05 di tích cấp Quốc gia và 04 di
tích cấp Tỉnh nên đây luôn là vùng trọng điểm về du lịch của tỉnh Kiên Giang và
vùng Tây Nam bộ. Ngoài ra, Hà Tiên còn là cửa ngõ đường biển đến một số nước
trong khu vực như Campuchia, Thái Lan, Maylaysia. Kinh nghiệm rút ra từ phát
triển kinh tế biển của thị xã Hà Tiên:
- Phát triển du lịch gắn với kinh tế biển, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
đô thị, hoàn chỉnh hệ thống giao thông, mạng lưới điện nước để phục vụ phát triển
du lịch gắn với phát triển kinh tế ven biển.
33
- Khai thác tiềm năng, thế mạnh vùng biển, hải đảo và ven biển đối với thị xã
Hà Tiên. Đó là giao thông vận tải biển với Campuchia, Thái Lan Malaysia khi là
cửa ngõ đường biển đến những quốc gia này.
- Tập trung cải tạo, nâng cấp mở rộng các khu du lịch, điểm du lịch biển hiện có
như các bãi biển, mở rộng các cơ sở dịch vụ du lịch, đầu tư các khu vui chơi giải trí,
mang đến nhiều sản phẩm du lịch đa dạng về biển.
1.7.3. Bài học kinh nghiệm cho huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang
- Xác định trọng tâm của phát triển kinh tế biển của vùng và cần chú trọng để
phát triển trọng tâm như du lịch biển đảo hay nuôi trồng đánh bắt hải sản…
- Sau khi xác định được vấn đề trọng tâm, thể hiện lợi thế của kinh tế biển, phải
có kế hoạch tập trung khai thác tiềm năng của chính biển mang lại để phát huy tối
đa lợi ích do kinh tế biển mang lại cho địa phương.
+ Về tiềm năng du lịch sinh thái biển: tập trung phát triển du lịch theo mô hình
du lịch sinh thái ngập mặn kết hợp với văn hóa lịch sử của huyện, đầu tư xây dựng
các hạng mục công trình phù hợp với cảnh quan môi trường.
+ Về nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản: quy hoạch sản xuất thủy sản với quan
điểm khai thác có hiệu quả, bền vững nguồn tài nguyên, không làm ảnh hưởng đến
nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời phát triển các xí
nghiệp chế biến thủy hải sản để đảm bảo cho chất lượng thủy hải sản được khai thác
trước khi tới thị trường tiêu thụ. Phát huy tốt năng lực của cơ sở hạ tầng đã được
đầu tư trước đó, nâng cao quy mô lẫn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản nhằm mang lại
hiệu quả kinh tế, thực hiện một số quy định chung về thời gian và khu vực ngư
trường khai thác trong năm nhằm khai thác và bảo vệ tốt tài nguyên thiên nhiên của
biển.
- Đầu tư, xây dựng dự án kế hoạch cải tạo, nâng cao chất lượng và làm đa dạng
phong phú sản phẩm biển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội toàn diện nhất.
- Tập trung, tổ chức lại sản xuất phục vụ phát triển kinh tế biển, vùng ven biển.
34
- Phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa xã hội, tạo
nền tản phát triển đội ngũ lao động tại huyện.
- Phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ chủ quyền biển Đông của tổ quốc,
gắn với an ninh quốc phòng của quốc gia.
- Phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao ý
thức khai thác đánh bắt tài nguyên biển một cách hiệu quả nhất cũng như có ý thức
bảo vệ tài nguyên biển, ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm môi trường biển.
Tóm tắt chương 1
Trong chương tác giả đã nêu lên những lý luận chung về phát triển kinh tế biển
như: khái niệm về phát triển kinh tế biển, đặc điểm kinh tế biển, nội dung phát triển
kinh tế biển, chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế biển, vai trò của phát triển kinh tế
biển, những nhân tố ảnh hưởng phát triển kinh tế biển nói chung. Trong chương 1,
tác giả cũng đưa ra kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở huyện Cần Giờ thành phố
Hồ Chí Minh và kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên
Giang. Từ đó tác giả xác định bài học kinh nghiệm cho huyện Gò Công Đông, tỉnh
Tiền Giang.
35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN
GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG GIAI ĐOẠN NĂM 2005 – 2015
2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý:
- Với ưu thế của hệ thống sông ngòi, có hai cửa sông lớn Soài Rạp, Cửa Tiểu
thông ra biển Đông, có tuyến đê chạy dọc bờ biển dài 18,5km; giao thông vận tải cả
đường thủy và đường bộ của huyện khá thuận lợi khi cách trung tâm Thành phố của
tỉnh 41km, thành phố Hồ Chí Minh 58 km. Đặc điểm địa lý này được xác định là lợi
thế nổi bật đã tạo nên vị thế của huyện trong phát triển kinh tế biển, phát triển giao
thông vận tải thủy - bộ kết nối ra biển đã đưa huyện trở thành vùng kinh tế động lực
của tỉnh, có tác động thúc đẩy sự giao thương hàng hoá trong và ngoài nước.
- Gò Công Đông là 1 trong 2 huyện giáp biển của tỉnh Tiền Giang, có 26km bờ
biển và 2 cửa sông lớn ở hai đầu Nam, Bắc thông ra biển Đông. Phía Đông nối liền
biển Cần Giờ, Cảng Hiệp Phước (TP. Hồ Chí Minh) qua sông Soài Rạp và tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu; phía Nam tiếp giáp với huyện Tân Phú Đông và tỉnh Bến Tre.
- Tuyến đê biển vừa phục vụ chiến lược quốc phòng, phòng chống bão, triều
cường vừa kết nối giao thông toàn vùng. Đó là những tiền đề cho Gò Công Đông
khẳng định vị thế kinh tế biển của tỉnh Tiền Giang.
- Khí hậu:
Nói một cách tổng quát, Gò Công có những đặc tính của khí hậu Đồng bằng
sông Cửu Long, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 2 mùa
mưa và nắng rõ rệt; cho nên, rất thuận lợi cho phát triển nông ngư nghiệp.
36
+ Nhiệt độ: do vị trí vùng ở gần xích đạo nên nhiệt độ tương đối ổn định,
nóng ẩm, không khác biệt theo mùa rõ rệt. Nhiệt độ trong năm tương đối cao từ 15
– 39 độ C, trung bình khoảng 27,9 độ C.
+ Mưa: Vũ lượng trung bình hàng năm 1.200 mm, giảm nhẹ từ Gò Công Tây
sang Gò Công Đông. Mùa nắng bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, trùng với
gió Đông Bắc mang đặc tính khô lạnh xen kẽ gió Đông Nam(gió Chướng) làm thời
tiết mát mẻ, và mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11 với gió Tây Nam (gió mùa), tốc
độ trung bình 2,5 – 6m/s.
+Ẩm độ: trong năm ẩm độ trung bình là 79,2%, cao nhất là 98% mùa mưa,
thấp nhất 48% mùa khô, nước bốc hơi mạnh vào mùa nnag81 và thấp nhất vào mùa
mưa, gây ảnh hưởng nhiều đến tình trạng sinh trưởng và phát triển của thảo mộc.
- Nói chung Gò Công Đông chịu nhiều ảnh hưởng từ vùng nhiệt đới gió mủa
với các đặc điểm chung của khí hậu là nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5 đến hết tháng 11, với lượng mưa trung bình trên 1.000mm và mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến hết tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 280C - 300C. Mực
nước thủy triều lên xuống 02/lần ngày theo chế độ bán nhật triều (cao nhất vào
tháng 10 và 11 Âl và thấp nhất vào tháng 6 và tháng 7 Âl), là khu vực ven biển nên
lượng cá, tôm tự nhiên nơi đây cũng rất dồi dào và yếu tố “ruộng đồng – đánh bắt
tôm cá – khai thác rừng ngập mặn” đã mang tính truyền thống nhiều đời nay, mang
tính kế thừa lẫn tất yếu trong đấu tranh, cải tạo thiên nhiên và tồn tại của người
dân.
2.1.2. Các tài nguyên thiên nhiên
2.1.2.1. Địa hình, địa mạo, địa chất
Gò Công có 3 nhóm đất chính:
- Nhóm đất phù sa: Gồm một phần đất của huyện Gò Công Tây do phù sa
sông Tiền Giang (Cửu Long) bồi đắp, có nước ngọt rất phù hợp cho phát triển nông
nghiệp lâu đời. Thành phần đất đai nhẹ rất thích hơp cho trồng cây ăn quả và làm
nương rẫy cung cấp rau cải cho các thị trấn.
37
- Nhóm đất mặn: Lọai đất đai này thuận lợi như nhóm đất phù sa, nhưng
bị nhiễm mặn từng thời kỳ hoặc thường xuyên. Nếu được rửa mặn, loại đất này sẽ
thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp với cây trồng tương đối đa dạng hoặc có
thể phát triển nuôi trồng thủy sản (tôm sú, cá, sò, ốc, nghêu
Đất rừng ngập mặn và đất mặn nhiều thường khó cải tạo nên được khai thác
nuôi trồng thủy sản. Còn đất mặn ít và trung bình được trồng lúa vào mùa mưa hay
những loại cây chịu mặn. Vùng này, đặc biệt Gò Công Đông đã được ngọt hóa nên
nông dân có thể trồng 2 hoặc 3 vụ lúa và rau cải mỗi năm.
- Nhóm đất cát giồng: tập trung nhiều nhất ở huyện Gò Công Đông. Đất cát
giồng có địa hình cao, mầu mỡ, có mạch nước ngọt quanh năm, thành phần đất cát
nhẹ; nên chủ yếu được dùng làm đất thổ cư và canh tác cây ăn trái, rau hoa. Các
giồng đất nổi tiếng như gò Sơn Quy (Tân Trung), gò Khổng Tước gò Tre (Thị xã Gò
Công), gò Cát (xã Yên Luông), giồng ông Huê (xã Vĩnh Bình), giồng Tháp (xã Tân
Tây), giồng ông Nguyên (xã Tân Tây), giồng ông Nâu (xã An Hòa), giồng Chùa,
giồng Lãnh (xã Tân Đông), giồng Bà Lẫy (xã Tăng Hòa), giồng Đình (xã Tân
Thành), giồng Bà Canh, giồng Lức (xã Tân Đông), giồng Trôm (xã Bình Long),
giồng Ông Đi (xã Thạnh Nhựt)...
Tóm lại, đất đai của cả huyện Gò Công đã được khai thác triệt để trong các
ngành nông, lâm và ngư nghiệp; đó là nhờ thực hiện các chương trình ngọt hóa,
phát triển thủy hải sản và công nghiệp hóa; nhưng còn rất hạn chế. Riêng nông
nghiệp, phần lớn nông dân trồng lúa 2-3 vụ mỗi năm, làm vườn cây ăn trái và sản
xuất rau hoa, mang về lợi tức đáng kể cho các gia đình nông dân. Tuy nhiên, vì hệ
thống thị trường còn nhiều bất cập, giá cả bất định và sự thao túng của các thương
lái nên đời sống nông dân và nông thôn chưa được cải thiện nhiều.
2.1.2.1. Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên ven biển khá phong phú với hệ thống thực vật đặc trưng cho nhiều
kiểu lập địa của rừng ngập mặn (đước, mắm, vẹt, sú). Các loài thủy sinh vật ven
biển cũng rất phong phú, trong đó có đối tượng quan trọng có khả năng khai thác
38
kinh tế là nghêu, tôm và các loài cá biển; sinh vật trong các kênh rạch nội đồng
cũng có khuynh hướng thay đổi thành phần loài theo hướng phù hợp môi trường
nước dưới tác động của việc đóng cống ngăn mặn. với hệ thống tài nguyên sinh vật
đa dạng và phong phú đẩy mạnh tiềm năng phát triển kinh tế biển của huyện.
2.1.2.2. Tài nguyên nước:
Có mật độ dòng chảy khá dầy, hai sông chính chảy qua địa bàn huyện là sông
Cửa Tiểu và Sông Ta, chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đồng đều
của Biển Đông. Ngoài ra còn có Kênh 14, Rạch Gò Gừa, rạch vàm Giồng, Kênh
Bình Phan ... ăn sâu vào nội đồng cung cấp nước trãi dài qua các cánh đồng của
huyện thông qua hệ thống kênh mương nội đồng. Điều này làm cho việc phát triển
ngành vận tải đường biển, nuôi trồng thủy hải sản được mớ rộng diện tích, gia tăng
tiềm năng kinh tế biển cho huyện Gò Công Đông, tình Tiền Giang.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội
Tình hình phát triển kinh tế
Nền kinh tế huyện Gò Công Đông đến nay vẫn phát triển theo hướng nông
ngư nghiệp, mặc dù vẫn có một bộ phận công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và
thương mại dịch vụ quan trọng. Tuy nhiên, ngành công nghiệp phát triển còn khá
chậm chạp do sự thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng và nguồn vốn đầu tư. Hệ thống
canh tác nông nghiệp, mặc dù còn chịu tác động mạnh từ điều kiện tự nhiên (nhất
là điều kiện về thời tiết và chế độ thủy văn) nhưng nhìn chung, cả trồng trọt, chăn
nuôi và đánh bắt thủy hải sản trên địa bàn tăng trưởng khá ổn định về cơ cấu mùa
vụ, kỹ thuật canh tác, khai thác và hệ thống thu mua. Riêng lĩnh vực nuôi trồng
thủy sản là ngành tăng trưởng nhanh nhất, song chưa thật sự ổn định về phương
diện hệ thống canh tác và độ bền vững. Nền thương mại-dịch vụ tăng trưởng
nhanh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục như: hệ thống chợ, vựa
và cơ sở dịch vụ còn tương đối nhỏ, một số nơi đã bắt đầu quá tải.
39
Bảng 2.1: GDP huyện Gò Công Đông từ năm 2010 – 2015
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
GDP (giá HH) 2.322.186 2.937.579 3.040.092 3.172.435 3.257.294 3.429.191
GDP (giáSS 94) 1.070.952 1.196.912 1.759.230 1.774.639 1.857.033 1.973.292
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
Bảng 2.1 cho thấy trong toàn nền kinh tế tỉnh Tiền Giang, nền kinh tế huyện
Gò Công Đông hiện phát triển khá nhanh, có quy mô lớn so với toàn tỉnh, và đang
có nhiều tiềm năng đột phá về thủy hải sản và công thương nghiệp.
Về cơ cấu thành phần trong GDP, kinh tế nhà nước chỉ còn chiếm tỷ trọng
nhỏ trong ngành điện, nước và một số cơ sở công nghiệp, còn lại toàn bộ là kinh
tế ngoài quốc doanh. Trên địa bàn chưa có cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Cơ cấu kinh tế huyện đã có sự thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực
3, khu vực 2 và giảm dần tỷ trọng khu vực 1. Sự thay đổi này diễn ra chậm, song
cũng thể hiện được sự chuyển mình trong quá trình phát triển kinh tế. Và cũng
chính sự thay đổi trên đã thể hiện được phần nào sự quan tâm của các cấp lãnh
đạo trong việc chăm lo đời sống người dân và bước đầu thực hiện hiệu quả công
cuộc đổi mới đất nước trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Về cơ cấu kinh tế của Huyện nhìn chung đã có sự chuyển dịch đáng kể theo
hướng phát triển toàn diện, trong đó nông ngư nghiệp đóng vai trò chủ lực. Phát
huy lợi thế của vùng kinh tế biển, cùng với chương trình ngọt hóa Gò Công đã khai
thác tiềm năng và phát triển kinh tế.
40
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế huyện Gò Công Đông từ năm 2010 – 2015
( Đơn vị: %)
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
2015
KV1
74,2
72,9
72,3
70,0
70,0
69,0
KV2
7,8
8,7
8,8
8,0
8,7
8,8
KV3
18
18,4
18,9
22,0
21,3
22,2
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
Bảng 2.2 cho thấy cơ cấu kinh tế của huyện Gò Công Đông, huyện Gò Công
Đông trước đây là một vùng đất nhiễm mặn phèn lâu đời, thường xuyên nên hàng
năm chỉ sản xuất được 01 vụ lúa mùa năng suất thấp, bấp bênh do đó đời sống
nhân dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Sau vụ mùa nhân dân phải đi làm thuê
mướn nới khác để tìm nguồn thu nhập thêm. Trước tình hình đó, được Trung
ương và Tỉnh quan tâm đầu tư thực hiện dự án ngọt hóa Gò Công đã tạo sự
chuyển biến tột bậc cho vùng Gò Công, trong đó có huyện Gò Công Đông.
Nhìn chung, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm. Mặc dù tỷ trọng giảm
nhưng ngành nông lâm ngư nghiệp vẫn còn chiếm một tỷ lệ cao. Tỷ lệ trên cho
thấy đây là khu vực kinh tế trọng điểm của Huyện, có tác động mạnh mẽ đến đời
sống người dân trong huyện và huyện Gò Công Đông vẫn còn là một huyện thuần
nông. Tuy tỷ trọng của khu vực 1 có sự biến động qua các năm nhưng về giá trị
đóng góp của ngành thì luôn tăng.
Riêng ngành thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh do phát triển nuôi trồng
thủy sản. Trong đó nuôi tôm sú vẫn giữ vai trò chủ đạo với số lượng con giống thả
nuôi gần 300 triệu con đã tạo nguồn thu nhập đáng kể. Hoạt động đánh bắt hải sản
giảm số phương tiện do nguồn lợi thủy sản ven bờ cạn kiệt, ngư dân thiếu vốn tích
lũy để đầu tư cải tạo, đóng mới phương tiện đánh bắt xa bờ. Diện tích nuôi tôm
tăng lên một cách đáng kể đã góp phần tích cực trong vấn đề cải thiện đời sống
người dân. Thêm vào đó là sự tăng giá một số mặt hàng được coi là chủ lực trong
nuôi trồng thủy hải sản của Huyện là nghêu, tôm càng xanh…Và cũng do sự tăng
nhanh của ngành thủy hải sản trong thời gian gần đây đã gây ảnh hưởng không nhỏ
41
đến sự phát triển của hệ thống rừng phòng hộ ven biển của huyện, hiện ngành lâm
nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong giá trị tăng thêm trong khu vực 1. Ngành
chăn nuôi phát triển chậm và chiếm một tỷ lệ nhỏ, tốc độ tăng trưởng trong những
năm gần đây có khuynh hướng chựng lại do sự giảm sút của đàn lợn và đàn gia
cầm dưới tác động của tình hình giá cả thị trường, dịch bệnh. Các sản phẩm chính
theo thứ tự là lợn, đại gia súc và gia cầm.
Gò Công Đông đất chuyên thủy sản, đây là một lợi thế của huyện mà không
phải huyện nào cũng có được và đây cũng là lí do để giải thích vì sao huyện được
chọn là địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế biển của Tỉnh.
Tình hình xã hội
Dân cư và nguồn lao động
Hiện trạng dân số huyện cho thấy, dân số huyện Gò Công Đông tăng chậm.
Nguyên nhân chính của sự biến động này chính là do một số đông dân cư từ nơi
khác đến đây lập nghiệp, chủ yếu là gia tăng cơ giới. Sự gia tăng trên đã cho thấy
điều kiện kinh tế của huyện đã có nhiều khởi sắc tạo một sức hút lớn về dân số.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm. Đây là một tính hiệu vui trong công tác quản
lý và việc thực hiện biện pháp kế hoạch hóa gia đình đã đạt kết quả khả quan.
Thêm một nguyên nhân khác góp phần làm giảm tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên nơi
đây là do trong dân số giảm cơ học rất lớn, chủ yếu là đi làm công nơi khác do
điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.
Dân số đô thị tăng rất chậm, dân số nông thôn tăng nhanh và tăng liên tục. Dân
số nông thôn tăng đều k o theo sự gia tăng dân số của huyện. Sự thay đổi về dân số
thành thị và nông thôn đã dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu dân số thành thị và
nông thôn cho thấy huyện Gò Công Đông có tốc độ đô thị hóa rất chậm.
Trình độ dân trí.
Kết cấu dân số theo trình độ văn hoá phản ánh trình độ dân trí và học vấn của
dân cư, là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống con người.
Trình độ dân trí của dân cư cao là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, nâng cao
42
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy các mặt khác của đời sống xã
hội. Trên địa bàn huyện Gò Công Đông, số xã phường được công nhận xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu họclà 100% (18 xã phường được công nhân). Song
thực tế không hẳn toàn diện như vậy, tỷ lệ dân biết đọc-biết viết đạt 97,6%; tuy
nhiên tỷ lệ nhập học các cấp phổ thông chỉ ạt 74,6%, tỷ lệ này thấp hơn nhiều so
với các huyện khác trong tỉnh. Nhưng nhìn chung, tình trạng giáo dục của Huyện
đã có sự tiến triển khá tích cực.
Về đào tạo hiện nay, huyện chưa có trường Trung học chuyên nghiệp và
trường dạy nghề. Việc đào tạo tại huyện thông qua Trung tâm hướng nghiệp dạy
nghề chủ yếu dành cho trường Trung học phổ thông. Tuy nhiên hàng năm huyện
đều có học viên theo học tại các trường dạy nghề tại Mỹ Tho, TX Gò Công, cũng
như xuất khẩu lao động để được đào tạo.
Tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội:
- Kinh tế của huyện phát triển theo hướng nông - ngư nghiệp - công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ, trong đó nông ngư nghiệp đóng vai trò chủ lực. Tốc độ phát triển kinh tế hàng năm khá cao và ổn định, bình quân tăng
10,5%.
- Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản với vật nuôi chủ lực là tôm sú, cá nước lợ và các
loài nhuyễn thể đang phát triển theo mô hình nuôi công nghiệp. Huyện có 2.150 ha
nuôi nghêu, sò, 618 ha nuôi tôm…là đặc sản biển của huyện. Với 701 phương tiện
đánh bắt hải sản đã khai thác tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và chế
biến làng nghề thủy sản của địa phương.
- Huyện đã triển khai xây dựng nông thôn mới ở 11 xã, trong đó có 02/11 xã
điểm của tỉnh Tiền Giang (Bình Nghị, Tân Điền).
43
- Lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tập trung chủ yếu vào công
nghiệp chế biến thủy, hải sản và sản phẩm nông nghiệp. Nhìn chung, lĩnh vực này
đang trong giai đoạn chuyển mình, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.
- Theo quy hoạch huyện có trên 2.000 ha để phát triển khu công nghiệp, hiện tại
trên địa bàn huyện có 01 khu công nghiệp với các dự án triển khai như:
+ Tổng kho xăng dầu của Công ty Cổ phần Thương mại Hiệp Phước
+ Khu công nghiệp Dịch vụ dầu khí Soài Rạp
+ Nhà máy chế tạo ống th p (22,9ha) của công ty Cổ phần Sản xuất ống th p
Dầu khí Việt Nam
+ Dự án Tổng kho của Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Nam Việt
+ Dự án Kho cảng của công ty TNHH Một thành viên Dầu khí TPHCM: đã
hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư. Tổ liên ngành tỉnh đang
xem x t, đề xuất UBND tỉnh.
+ Dự án Cảng quốc tế Nam Sài Gòn
- Lĩnh vực thương mại, dịch vụ đang từng bước phát triển với các loại hình kinh
doanh nhỏ lẻ, nhà hành khách sạn. Huyện có nhiều tiềm năng phát triển về công
nghiệp- dịch vụ phát triển kinh tế biển như: đóng tàu, khu công nghiệp, cảng biển,
các loại hình dịch vụ hậu cần nghề cá, sơ chế và chế biến thủy sản, du lịch nghĩ
dưỡng vùng ven biển.
- Trên địa bàn huyện có 01 khu du lịch sinh thái biển Tân Thành quy hoạch
80,36 ha. Trong đó, dự án Khu du lịch sinh thái biển Tân Thành giai đoạn 1
(11,7ha) của Công ty TNHH Một thành viên Vạn Bình An đã hoàn thành các hạng
mục chính và đưa vào hoạt động ổn định.
44
- Về cơ sở hạ tầng: Huyện có mạng lưới đường giao thông khá thuận lợi: có 3
tuyến Tỉnh lộ, 07 tuyến Huyện lộ, cùng với tuyến đê biển đã kết nối phủ khắp toàn
vùng. Đến nay cơ bản đường huyện được nhựa hóa, bêtông hóa đạt trên 90%.
Đường giao thông nông thôn được nhựa hóa, bêtông hóa đạt trên 80%.
- Lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả tích
cực, an sinh xã hội được bảo đảm, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân. Toàn
huyện có 45 đơn vị trường học trực thuộc, trong đó có 10 trường đạt chuẩn quốc
gia; có 04 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Có 5/13 xã văn hóa và 101/101 ấp khu
phố văn hóa. Tổng số hộ nghèo toàn huyện hiện có là 1.970 hộ/35.789 hộ, chiếm tỷ
lệ 5,5%.
2.2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG
2.2.1. Nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản
2.2.1.1 Nuôi trồng thủy hải sản
Gò Công Đông là huyện biển có thế mạnh về nuôi trồng thủy hải sản. Đây
cũng là vùng được tỉnh Tiền Giang xác định là huyện trọng điểm về nuôi thủy sản
xuất khẩu. Và từ năm 1993 đến nay, huyện đã thực hiện Nghị quyết của Trung
ương nhằm phát triển ngành thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó đặc
biệt chú ý đến sản xuất, nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Tiền Giang đã thực hiện đầu tư
nhiều dự án lớn trên địa bàn huyện Gò Công Đông. Các dự án này đã có tác động tích
cực đến người nông dân trong nghề, khuyến khích họ mạnh dạn đầu tư vào nuôi trồng
thủy sản.
Ngoài những tiềm năng trên, còn phải kể đến hàng chục ngàn ha đất cồn, bãi
bồi cửa sông thuộc các xã: Tân Thành, Tân Điền, Kiểng Phước, Vàm Láng... có
điều kiện hết sức thuận lợi phát triển nuôi trồng thủy hải sản có giá trị xuất khẩu cao
như: nghêu, sò huyết, tôm sú, tôm thẻ, cá chẻm... Để khai thác tốt tiềm năng và thế
mạnh kinh tế biển trên tinh thần Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
45
2020 của Trung ương và cụ thể hóa chương trình hành động của Tỉnh ủy Tiền
Giang về khai thác các tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề để phát triển kinh tế
- xã hội đặc biệt là vươn ra biển Đông, thời gian qua Gò Công Đông chú trọng
khuyếch trương đồng bộ hai lợi thế đặc thù: nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản gắn
với mở mang công nghiệp chế biến xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và an sinh xã
hội, tăng nhanh nguồn hàng hóa dồi dào có giá trị cao chiếm lĩnh thị trường trong
ngoài nước. Định hướng đúng đã nhận được sự đồng thuận của các cấp, các ngành
và mọi tầng lớp nhân dân đồng thời tạo động lực cho miền đất duyên hải Gò Công
vốn một thời trước đây hết sức khó khăn đổi mới và đi lên bền vững.
Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản cũng trở thành mũi nhọn kinh tế thứ hai mang
lại nguồn lợi lớn nhờ thuận lợi về địa bàn, thổ nhưỡng, điều kiện thiên nhiên và
trình độ tay nghề của nhân dân trong huyện. Huyện đã thành công với qui trình sản
xuất nghêu giống bằng phương pháp nhân tạo nhằm chủ động nguồn con giống cho
vùng nuôi tập trung. Tiếp sau con nghêu chính là con tôm sú và những đối tượng
thủy sản nuôi có giá trị kinh tế lớn. Về hình thức nuôi tôm, hình thức nuôi công
nghiệp và bán công nghiệp chỉ mới được áp dụng trong thời gian gần đây. Trong đó
diện tích nuôi công nghiệp tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao. Còn riêng diện tích nuôi
theo hình thức bán công nghiệp lại tăng giảm qua từng năm. Trước đây, hình thức
nuôi tôm chủ yếu là quảng canh cải tiến, với hình thức nuôi này, diện tích nuôi giảm
nhanh. Đáng chú ý là mô hình nuôi trồng thủy sản gồm cả nước lợ, mặn đang được
nông dân trong huyện phát triển mạnh. Hiện nay, huyện Gò Công Đông đang quan
tâm chuyển dịch nội bộ ngành nuôi thủy sản theo hướng bền vững, hiệu quả, đa
dạng hóa các đối tượng nuôi ngay trên ao nuôi tôm sú, tiến tới vùng nuôi tập trung,
cung ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Cụ thể, huyện
đang khuyến khích nông dân sau khi thu hoạch tôm sú chính vụ xong cải tạo ao đầm
thả luân vụ thêm cá kèo, tôm càng xanh, với mục đích là cải tạo môi trường nước và
đáy ao, ngăn chặn được mầm bệnh tồn lưu, tạo điều kiện cho vụ tôm sú mới bội
thu, tăng thêm lợi nhuận cho nông dân và nguồn hàng chế biến. Tôm sú Gò Công
là sản phẩm ưa chuộng của nhiều thị trường trong và ngoài nước.
46
Bảng 2.3: Diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông
từ năm 2010 – 2015
Đơn vị tính: ha
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
2015
DT lợ mặn
6.876
6.897
7.133
7.254
7.396
7.586
(ha)
- Tôm
4.688
4.696
4.855
4.966
4.968
4.972
- Nghêu
2.186
2.198
2.273
2.283
2.369
2.604
- Thủy sản
2
3
5
5
5
10
khác
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
- Dựa vào bảng 2.3 ta có thể thấy rõ diện tích nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò
Công Đông từ năm 2010 đến năm 2015 tăng dần đều. Diện tích nuôi trồng chủ yếu
tập trung vào 2 loại tôm và nghêu, một số loài thủy sản khác cũng tăng nhẹ và
chiếm diện tích khá nhỏ trong tổng tỷ trọng diện tích lợ, mặn.
47
Bảng 2.4: Sản lượng nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công Đông
từ năm 2010 – 2015
Đơn vị tính: tấn
Năm
2010
2011
2012
2013
2014
2015
SL
nuôi
35.257
37.220
42.163
45.756
47.608
53.979
lợ, mặn
Tôm
9.257
10.220
11.651
13.706
15.068
16.679
Nghêu
24.800
25.000
26.378
27.794
30.000
33.054
Thủy sản 1.200 2.000 4.134 4.256 2.540 4.246 khác
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
Nhìn vào bảng 2.4 ta thấy, tình hình nuôi thủy sản lợ, mặn huyện Gò Công
Đông từ năm 2010 – 2015 luôn phát triển theo từng năm. Đặc biệt, nghêu là loài
thủy sản mang lại sản lượng lớn nhất cho huyện Gò Công Đông
Trong cơ cấu sản lượng nuôi đã có hướng chuyển dịch rõ rệt: Chuyển từ chủ
yếu khai thác tự nhiên đến đầu tư nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao ở
các vùng đất ven sông – ven biển và đất bãi bồi ven biển, hình thành các vùng nuôi
tập trung như ở Rạch Xẻo – Kiểng Phước, Phú Đông – Phú Tân – Vàm Láng –
Phước Trung – Bình Đông – Bình Xuân với phương thức nuôi chuyển dần từ mô
hình quảng canh sang nuôi thâm canh với hiệu quả ngày càng cao. Chính điều kiện
tự nhiên ưu đãi đã kích thích ngành nuôi thủy sản ở Gò Công Đông không ngừng
phát triển, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao cũng như nguồn
ngân sách của huyện từ nguồn lợi thủy sản này mang lại. Thêm vào đó là nguồn thu
từ nguồn nghêu giống của địa phương. Đây là một lợi thế mà không phải nơi nào
cũng có được vì việc nghêu, sò sinh sản rất hiếm xảy ra. Nghêu giống thường xuất
48
hiện cuối mùa khô, đầu mùa mưa; nghêu cám thường xuất hiện tháng 5 đến tháng 7,
đến tháng10 thì nghêu trở thành nghêu giống. Nghêu giống xuất hiện trên các bãi
không đều, có sự khác biệt lớn về sinh lượng giữa các cồn bãi. Sự xuất hiện của
nghêu giống thường không đồng đều và vị trí bãi giống cũng không cố định qua các
năm. Đặc biệt, cồn Ông Mão và cồn Ông Liễu vào thời điểm này rất phù hợp với
nhiệt độ và nồng độ muối (đầu mùa mưa, nồng độ muối giảm) tạo điều kiện cho
nghêu giống sinh sản. Đồng thời vùng ven biển tại các xã ven biển như Tân Thành –
Tân Điền – Phú Tân diện tích các cồn nổi gần 8000 ha (gần cồn Ông Liễu, cồn Ông
Mão – cồn Ngang – cồn Vượt) thuận lợi cho việc hình thành đai rừng sinh thái để
thúc đẩy nhanh quá trình bồi tụ phù sa, kết hợp với xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
cho công tác quốc phòng tuần tra vùng cửa biển. Hầu hết các bãi bồi đã được đưa
vào khai thác, tuy nhiên để đảm bảo khai thác hiệu quả và bền vững, cần có sự hỗ
trợ của tỉnh và các ngành chức năng để thống nhất định hướng khai thác và sử dụng
trong thời gian tới.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển, tập trung đầu tư hạ
tầng nuôi thủy sản cho vùng ven biển và các dịch vụ phục vụ hậu cần…coi đây là
khâu đột phá, mang tính bền vững lâu dài cho vùng kinh tế biển trọng điểm của tỉnh.
Đầu tư cho sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất giống thủy sản có chất
lượng và giá trị cao, đặc biệt là tôm giống và nghêu giống, và làm tốt công tác dịch
vụ hậu cần nghề cá, dự báo môi trường và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tăng cường
năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Nhiều dự án nuôi trồng thủy sản lớn đang được triển khai tại đây: Dự án nuôi
thủy sản Bắc Gò Công, dự án Nam Gò Công, Dự án qui hoạch vùng giống nhuyễn
thể hai mãnh võ...Huyện đã mở rộng diện tích nuôi thủy sản lên trên 3.000 ha; trong
đó có gần 500 ha tôm, trên 2.000 ha nghêu, gần 600 ha cá và các loại thủy sản khác
cho sản lượng thu hoạch mỗi năm gần 55.000 tấn. Gò Công Đông cũng là địa
phương có nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản lớn nhất tỉnh Tiền Giang hiện nay
đã đóng góp trên 35% tổng cơ cấu GDP hàng năm. Huyện phấn đấu đến 2020 nâng
tỉ lệ đóng góp của ngành thủy sản nói chung lên 45% trong tổng GDP địa phương.
49
Để đạt mục tiêu, Gò Công Đông thực hiện nhiều chính sách thích hợp hỗ trợ phát
triển ngành nghề đánh bắt trên biển đặc biệt là các nghề khai thác khơi xa, mở mang
nuôi trồng thủy sản, kiện toàn cơ sở hạ tầng vùng nuôi, gắn nuôi trồng với phát triển
du lịch sinh thái biển...Trong đó, quan tâm chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng, khuyến
khích nông dân nuôi theo ngưỡng an toàn sinh học, đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy
sản, xây dựng những mô hình nuôi phù hợp, tổ chức sắp xếp lại nghề cá, hình thành
những tổ liên kết đánh bắt và tổ Quản lý cộng đồng nuôi tôm... Các mô hình liên kết
trong đánh bắt khơi xa, quản lý cộng đồng vùng nuôi tôm thời gian qua mang lại kết
quả tốt được địa phương tổng kết, nhân rộn trong thời gian tới. Chỉ riêng về nuôi
tôm, đã hình thành được 4 tổ Quản lý công đồng nuôi tôm trên diện tích gần 200 ha.
Mô hình này giúp bà con hỗ trợ nhau một cách đắc lực trong việc tổ chức sản xuất,
bảo vệ an ninh trật tự, phòng gian, bảo vệ được môi trường vùng nuôi...Ngoài ra,
thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển nghề cá, huyện Gò Công Đông đã giải ngân
trên 50 triệu đồng hỗ trợ ngư dân đồng thời đang tiếp tục xem xét 38 hồ sơ với số
tiền giải ngân dự kiến trên 32 triệu đồng trong khuôn khổ Quyết định 289/QĐ-TTg
ngày 18/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Hướng ra biển Đông – Đó là con đường
đi lên và là lợi thế phát triển của huyện miền biển Gò Công Đông. Khai thác tốt lợi
thế trên giúp nhân dân miền đất đầy khó khăn một thời trở thành điểm sáng về kinh
tế - văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng ở tuyến ven biển Nam bộ ngày nay.
2.2.1.2. Đánh bắt thủy hải sản
Ngành thủy hải sản biển huyện Gò Công Đông trước năm 2000 phát triển chủ
yếu trong lĩnh vực khai thác thủy hải sản. Sau năm 2000, ngành nuôi trồng thủy sản
mặn, lợ phát triển nhanh. Trong cơ cấu kinh tế khu vực 1, ngành thủy sản chiếm tỷ
trọng đến 39% và đạt tốc độ tăng trưởng rất nhanh, đạt 16,5%/năm. Đây là nghề đã
được hình thành và phát triển lâu đời do lợi thế ven biển của huyện Gò Công Đông.
Theo ông Nguyễn Chí Trung, Bí thư Huyện ủy Gò Công Đông, toàn huyện hiện có
nhiều phương tiện khai thác hải sản với tổng công suất trên 113.000 CV, thu hút
hàng chục nghìn lao động. Trung bình mỗi năm, sản lượng đánh bắt của địa phương
đạt gần 70.000 tấn tôm cá các loại phục vụ tiêu dùng và chế biến xuất khẩu. Chỉ tính
50
riêng 6 tháng đầu năm, huyện khai thác được trên 44.000 tấn hải sản các loại. Nghề
biển gồm đánh bắt xa bờ, cào, đáy song cầu, câu mực...cũng là nghề truyền thống có
từ lâu đời tại địa phương, tập trung ở Vàm Láng, Kiểng Phước, Gia Thuận, Tân
Thành, Tân Điền...Nghề khai thác thủy sảnkhông chỉ tạo nguồn nguyên liệu có giá
trị chế biến xuất khẩu mà còn giúp cho ngành sơ chế, làm khô, mắm, xay bột cá, lột
ghẹ, xẽ khô...nở rộ tại Gò Công Đông với trên 150 cơ sở tư nhân lớn nhỏ thu hút
gần 2.000 lao động tham gia.
Bảng 2.5: Hiện trạng ngành thủy sản huyện Gò Công Đông
từ năm 2010 – 2015
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
915 930 950 980 991 1095 1. Số tàu thuyền (chiếc)
79578 89178 100178 105280 113654 124635 Tổng công suất (CV)
100 100 101 103 105 105 Bq số CV/chiếc
37491 38800 46254 47746 49329 51600 2. SL đánh bắt (tấn)
Cá 9100 10100 12125 17016 18933 20808
Tôm 4550 5000 6734 6696 7289 8704
Thủy sản khác 26841 26700 23395 26034 28555 30829
Bq tấn/ CV 0.32 0.32 0.53 0.34 0.35 0.36
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
Dựa vào bảng 2.5 ta thấy được sản lượng đánh bắt cá là chủ yếu, sau đó đến
51
tôm, ghẹ, các loại thủy sản khác. Nhìn chung, sản lượng khai thác cá, tôm đều tăng;
trong đó, sản lượng khai thác cá tăng. Riêng những tháng vào vụ (từ tháng 2 đến
tháng 4), số lượng ruốc thường tăng lên gấp 3 lần. Loại hải sản này được các thương
lái mua, bán lại cho các hộ dân trong vùng có ao nuôi tôm, cua, cá. Đây là điều đáng
mừng, đem lại một nguồn thu quan trọng cho ngư dân vùng biển. Hiện tại, ở địa
phương có nhiều thuyền đáy chạy và thuyền cào m , làm ra hàng chục tấn tôm, cá
và ruốc trong ngày, trong đó nhiều nhất là con ruốc. Chính quyền địa phương quan
tâm tạo điều kiện cho ngư dân địa phương có nghề truyền thống này vay vốn ngân
hàng chính sách của huyện, ngư dân có điều kiện tu sửa tàu thuyền và trang bị thêm
các phương tiện đánh bắt tốt. Tuy nhiên, giá nhiên liệu tăng làm chi phí mỗi chuyến
đi biển của ngư dân tăng thêm k o theo hiệu quả kinh tế đạt được không cao, càng
làm tăng thêm nỗi lo cho người dân vùng biển.
Về cơ cấu nghề khai thác, nghề hoạt động chủ lực tập trung vào ba họ nghề
chính: họ k o lưới (đặc biệt là k o đơn), họ câu và họ lưới vây. Họ lưới k o và vây
có xu hướng tăng dần. Họ câu và nghề khác có sự biến động theo xu thế giảm dần.
Đánh bắt thủy hải sản bao gồm hai loại hình: đánh bắt ven bờ chủ yếu là sử
dụng các phương tiện nhỏ dưới 20 mã lực và các phương tiện đăng đáy trên sông
Cửa Tiểu, sông Cửa Đại, Sông Soài Rạp, các kênh rạch nhằm khai thác nguồn lợi
thủy sản nội địa, năng suất và sản lượng khai thác thấp. Đánh bắt biển bao gồm tàu
đang hoạt động với công suất lớn hơn, đánh bắt xa bờ, khai thác nguồn lợi thủy hải
sản ngoài khơi. Sản lượng đánh bắt biển huyện thuộc vào loại cao nhất tỉnh. Trên
địa bàn huyện, sản lượng đánh bắt nội địa giảm và đã không còn do nguồn tài
nguyên nội địa đã cạn kiệt dần. Hình thức khai thác biển vẫn còn duy trì nhịp độ,
sản lượng khai thác biển tăng, sản lượng đánh bắt giảm. Ai cũng biết, nghề đánh bắt
xa bờ trong vài năm trở lại đây gặp vô vàng khó khăn do nguồn tài nguyên biển đã
bị khai thác nhiều dẫn đến tình trạng khan hiếm, trong khi số số lượng tàu đánh bắt
không ngừng tăng lên, trang thiết bị thăm dò của thuyền đánh bắt chưa được đáp
ứng. Đã vậy, các loại hình đánh bắt biến hóa “muôn hình vạn trạng”, chưa kể trong
đó có nhiều cách làm tận diệt nguồn thủy sản. Và nguyên nhân quan trọng nhất là do
52
điều kiện tự nhiên, những cơn bão đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành đánh bắt nói
riêng và cả sự phát triển kinh tế -xã hội toàn huyện Gò Công Đông.
Hình 2.1: Sản lượng và số lượng tàu thuyền đánh bắt thủy hải sản huyện
GCD từ năm 2010 đến năm 2015
Dựa vào hình 2.1 ta có thể thấy mức độ tăng tương quan giữa sản lượng đánh
bắt thủy hải sản và lượng tàu thuyền đánh bắt, mức tương quan này phát triển gia
tăng theo chiều thuận, điều này cho thấy mức độ quan trọng của việc phát triển cơ
sở vật chất trong ngành đánh bắt thủy hải sản.
Tình hình chế biến thủy hải sản
Ngành chế biến thủy sản đông lạnh phát triển dưới dạng sơ chế vì tình trạng
thiếu nước sạch. Sản lượng của thủy sản đông lạnh còn nhỏ.
Ngành chế biến cá khô phát triển tại Vàm Láng và là làng nghề truyền thống,
sản xuất thủ công nên chất lượng chưa cao.
Ngành chế biến bột cá mới phát triển, sản lượng tương đối khá, tăng trong
những năm gần đây.
Hiện nay, tình hình chế biến và sơ chế thủy sản các loại có chiều hướng phát
triển, có hộ đầu tư với hình thức như mua cá tươi về phơi trên sân và làm lò sấy khô
xay bột cá, lột ghẹ, xẻ khô, làm mắm,…tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động với
53
hơn nhiều hộ hoạt động trên lĩnh vực sơ chế thủy hải sản. Tuy nhiên, việc sơ chế
biến thủy hải sản của huyện còn ở quy mô nhỏ chủ yếu ở dạng thủ công, chưa đảm
bảo được các yêu cầu về chế biến thủy hải sản.
Bảng 2.6: Hiện trạng các cơ sở dịch vụ phục vụ thủy sản năm 2015
Số STT Tên nghề Lao động Công suất
cơ sở
10 1 Sản xuất nước đá 50 5000 cây/ngày
140 2 Sản xuất khô các loại 700 4000 T/năm
13 3 Sơ chế ghẹ Hơn 1300 400T/năm
4 Sản xuất cá phân Các hộ dân 2500T/năm
90 5 Sản xuất ruốc 310 1000T/năm
25 6 Cơ khí sửa chữa nhỏ 95
40 7 Sửa chữa tàu thuyền
3 8 Sơ chế nghêu 40
Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm
Dựa vào Bảng 2.6 ta có thể thấy được hiện trạng các cơ sở dịch vụ phục vụ thủy
sản năm 2015. Hiện trạng này biểu hiện ở số cơ sở, số lượng lao động và công xuất
cụ thể của một số ngành dịch vụ phục vụ tủy sản trong đó sản xuất khô các loại có
số lượng cơ sở nhiều nhất, chiếm lượng lao động chủ yếu là các cơ sợ sản xxuat61
ghẹ với hơn 1300 lao động tham gia ngành....
Phục vụ cho ngành đánh bắt thủy hải sản, các ngành dịch vụ hậu cần nghề cá,
sơ chế thủy hải sản đều được nhà nước khuyến khích hỗ trợ và nhân dân quan tâm
đầu tư phát triển. Hầu hết các cơ sở dịch vụ và chế biến tập trung ở các xã Vàm
Láng – Đèn Đỏ - Tân Thành và ở Phước Trung. Tuy nhiên, các cơ sở này đều có
quy mô nhỏ, trang thiết bị thô sơ, nguyên liệu sơ chế là những sản phẩm thủy sản có
giá trị thấp, do vậy hiệu quả đạt được còn nhiều hạn chế.
54
Thị trấn Vàm Láng nơi cửa Soài Rạp, trên sông Vàm Cỏ hiện là một trong
những trung tâm hậu cần nghề cá quan trọng bậc nhất của huyện Gò Công Đông.
Nơi đây có hệ thống cảng cá, làng nghề chế biến hải sản, các doanh nghiệp chuyên
doanh trên lĩnh vực chế biến và tiêu thụ hải sản trong nước lẫn xuất khẩu.
Địa phương xác định khai thác hải sản trên biển là mũi nhọn kinh tế của huyện,
không chỉ giúp đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo nông thôn, giúp tăng trưởng kinh tế
mà còn góp phần gìn giữ chủ quyền biển đảo quê hương. Ngư dân chủ yếu tập trung
các nghề: lưới k o đơn, lưới k o đôi, lưới rê, lưới vây kết hợp ánh sáng, cào xiêm…
Để phát huy tiềm năng và thế mạnh trên, Gò Công Đông khuyến khích ngư dân
đóng mới phương tiện có công suất lớn, cải hoán phương tiện cũ, trang bị thêm
những phương tiện kỹ thuật hiện đại đồng thời hình thành các tổ đội hợp tác, liên
kết trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả nghề khai thác hải sản trên biển. Mục
tiêu vươn ra những ngư trường khơi xa đánh bắt ngày càng nhiều tôm cá đáp ứng
tiêu dùng và chế biến xuất khẩu.
Đến nay, Gò Công Đông đã hình thành được khoảng 20 tổ đội hợp tác khai thác
hải sản đang hoạt động hiệu quả. Các tàu thuyền khai thác phần lớn được trang bị
phương tiện kỹ thuật chuyên dùng hiện đại như máy thông tin liên lạc tầm xa, máy
dò ngang Sonar, máy Rada hàng hải giúp thuyền trưởng quan sát tốt các chướng
ngại vật trên biển trong mọi điều kiện thời tiết; máy liên lạc tầm xa có tích hợp với
định vị vệ tinh GPS giúp ngư dân chủ động liên hệ với các tàu đang đánh bắt trên
biển cũng như với đất liền, máy định vị, máy tầm ngư…
Ngoài ra, nhóm còn phân công một phương tiện đảm bảo hậu cần trên biển,
chuyên đảm nhiệm vận chuyển sản phẩm đánh bắt từ biển vào đất liền tiêu thụ,
cung ứng ngư lưới cụ, vật tư thiết yếu, nhiên liệu cho các phương tiện đang bám
ngư trường khai thác… Từ đó, làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, đời sống ngư dân
cải thiện thấy rõ.
Huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang khuyến khích ngư dân phát huy ngành
nghề truyền thống, hiện đại hóa đội tàu cũng như đóng mới phương tiện có công
suất lớn vươn ra các ngư trường khơi xa. Đồng thời gắn việc phát triển đội tàu đánh
55
bắt hiện đại với thực hiện nhiều biện pháp đảm bảo an toàn cho người và phương
tiện trong khi hành nghề, nhất là những mùa bão tố, biển động… Mục tiêu của tỉnh
phấn đấu đến năm 2020, 100% phương tiện khai thác hải sản của địa phương đều
tham gia vào các tổ, nhóm liên kết sản xuất.
2.2.2. Du lịch biển
Ngoài lợi thế về nguồn lợi thủy hải sản, huyện Gò Công Đông có nhiều tiềm
năng phát triển du lịch biển với những điểm du lịch đặc trưng mang sắc thái đặc
trưng và đậm đà hương vị vùng biển.
- Tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch biển huyện Gò Công Đông:
Về điều kiện tự nhiên, tuy hạn chế nước biển không trong xanh như Vũng Tàu
và biển các nơi khác, nhưng bù lại biển Gò Công có rất nhiều chủng loài thuỷ hải
sản, khí hậu mát mẽ, gió biển trong lành, nhất là vào mùa gió chướng tháng giêng
đến tháng 3 hàng năm, đây là nơi lý tưởng để phát triển du lịch sinh thái, vui chơi,
giải trí vào những ngày cuối tuần, lễ, tết… Nước biển tại đây có độ mặn không vượt
quá 30%, sóng trung bình khoảng 1-1,2 mét rất thích hợp cho hoạt động vui chơi,
tắm biển, giải trí...Đây là một lợi thế mà thiên nhiên ban tặng cho huyện Gò Công
Đông. Dọc theo bờ biển huyện Gò Công Đông có nhiều khu rừng tái sinh, rừng
ngập mặn, rặng phi lao xanh tốt, cảnh quan thiên nhiên đẹp, không khí trong lành
tạo thuận lợi... Huyện Gò Công Đông có 32 km bờ biển, ngoài các khu vực gần bờ
có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn là cồn Ông Mão, bãi biển Tân Thành (những
vùng nầy hiện đang nuôi trồng thuỷ sản), huyện còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn
phân bổ ven biển và gần các cửa sông Soài Rạp, Vàm Cỏ Đông, Cửa Tiểu; đặc biệt
có rừng phòng hộ chạy dọc ven biển khoảng 20 km với nhiều hệ động - thực vật
sinh sống. Đấy là lợi thế mà huyện Gò Công Đông có thể khai thác và đầu tư để xây
dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng (Resort), khu du lịch sinh thái, công viên... Tạo
thêm cảnh quan cho du khách tham quan du lịch.
Gò Công Đông có hệ sinh thái rừng ngập mặn phân bổ ven biển và gần các cửa
sông có rừng phòng hộ dọc bờ biển Gò Công Đông khoảng 20km dần dần đã có
56
sinh vật về trú ẩn.
ó thể nói, ngoài những đóng góp nguồn lợi đáng kể từ kinh tế biển, biển Tân
Thành còn là loại hình du lịch thiên nhiên hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn môi
trường tự nhiên và các giá trị lịch sử, văn hoá sở tại. Đồng thời, góp phần phát triển
cộng đồng như tạo công ăn việc làm, tiêu thụ sản phẩm… đặc biệt kêu gọi người
dân địa phương cùng làm du lịch, nhất là tạo mọi điều kiện để các ngành, các doanh
nghiệp cùng bỏ vốn đầu tư xây dựng phát triển khu du lịch biển Tân thành.
UBND tỉnh Tiền Giang ban hành quyết định số 643/QĐ-UBND phê duyệt qui
hoạch chi tiết xây dựng khu du lịch sinh thái biển Tân Thành với diện tích 80,36 ha
(nằm cạnh khu du lịch biển Tân Thành đang hoạt động), do Công ty TNHH Xây
dựng- Kiến trúc miền Nam (ACSA) lập qui hoạch. Theo đó, khu du lịch sinh thái
biển Tân Thành được xây dựng thành khu du lịch sinh thái phát triển đồng bộ, có hệ
thống hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, với các khu nghỉ dưỡng, khu sinh hoạt, giải trí,
thể dục thể thao, khu hành chính… Tổng nguồn vốn đầu tư hơn 35,8 tỉ đồng. Đây là
khu du lịch sinh thái ngập mặn phục vụ nhu cầu tham quan nghỉ biển, vui chơi giải
trí…
- Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch biển:
Bảng 2.7: Lượng khách du lịch biển huyện Gò Công Đông
từ năm 2010 – 2015
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Khách tham 87.657 90.761 95.750 100.122 107.925 117.207 quan
Khách lưu trú 943 1.039 1.150 1.278 1.425 1.593
lưu Vòng
1.00 1.00 1.00 1.00 1.00 1.00 khách
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015 - Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
(ngày/người)
57
Bảng 2.7 cho thấy lượng khách du lịch đến với huyện có chiều hướng gia tăng,
trong đó khách lưu trú chỉ tăng nhẹ và vòng lưu khách rất thấp. Đây là một khuyết
điểm của ngành du lịch biển của huyện cần phải thay đổi, tạo sức hút du khách đến
tham quan thì chưa đủ mà điều quan trọng là phải giữ khách.
Tài nguyên biển được khai thác nhằm mục đích phát triển du lịch của địa bàn
chỉ hấp dẫn được du khách nội địa (chỉ một phần nhỏ dân số) và tập trung vào dịp
lễ, tết. Họ đến tham quan biển, ngắm nhìn biển, thưởng thức các đặc sản biển.
Những du khách có nhu cầu ở lại cũng chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng
vì số nhà trọ, khách sạn không nhiều. Vào những dịp cao điểm như tết, lượng khách
tham quan biển tăng lên một cách đột biến thì khả năng “đáp ứng” của biển trở nên
quá tải. Đa phần du khách nội địa tham gia hoạt động du lịch ở đây đều diễn ra
trong ngày, thường là vào dịp cuối tuần. Nếu được hỏi tại sao lại có tình trạng trên
xảy ra thì câu trả lời từ phía đấu tư là việc đầu tư kinh phí xây dựng nhà hàng,
khách sạn ở đây không hiệu quả, khả năng thu hồi vốn rất chậm; còn về phía du
khách thì ngược lại. họ nói rằng các nhà trọ ở đây không tốt, khách sạn thì mắc và ở
lại đây cũng không biết làm gì vì các sản phẩm du lịch trên địa bàn đã được tiêu thụ
hết trong một ngày.
Bảng 2.8: Cơ sở vật chất ngành du lịch huyện Gò Công Đông
Năm 2010 2011 2012 2013 2014
1. Số khách sạn, nhà trọ 3 3 4 5 5
Trong đó: tiếp khách quốc tế 1 1 2 2 3
a. Số phòng 50 60 75 85 105
Trong đó: tiếp khách quốc tế 30 35 40 40 50
b. Số giường 100 110 160 90 190
Trong đó: tiếp khách quốc tế 30 40 45 50 60
2. Số nhà hàng 3 3 4 5 6
Số chỗ ngồi 40 50 60 80 100
3. Số điểm ăn uống 25 35 40 58 70
58
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2014- Phòng thống kê huyện Gò Công Đông
Bảng 2.8 đưa ra các con số về cơ sở vật chất ngành du lịch biển huyện Gò Công
Đông từ năm 2010 đến năm 2014, số liệu trên cho thấy cơ sở hạ tầng của ngành u
lịch tăng không mạnh, chủ yếu tăng trong gia đoạn từ năm 2013 đến năm 2014.
Nhìn chung, tuy phát triển, hiệu quả kinh tế có sự tăng trưởng khả quan, nhưng do
đầu tư ít nên hoạt động du lịch còn quá nhỏ lẻ, hầu hết là do các hộ kinh doanh tham
gia cho thuê nhà trọ, cung cấp dịch vụ ăn uống, chất lượng phục vụ thấp. Thêm vào
đó là hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất ngành du lịch huyện còn thiếu đồng
bộ nên khó thu hút du khách và cả nhà đầu tư.
Để tạo điều kiện thuận lợi phục vụ khách tham quan cũng như giới thiệu quảng
bá, mời gọi các nhà đầu tư, công tác nghiên cứu lập qui hoạch chi tiết khu vực dọc
theo bờ biển nầy cần được các ngành chức năng thực hiện sớm. Việc lập qui hoạch
chi tiết xây dựng khu du lịch sinh thái biển Tân Thành là bước đầu khẳng định vị trí
du lịch đã được mọi người biết đến.
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG
2.3.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
Nhờ có những lợi thế nhất định về điều kiện tự nhiên cũng như con người,
huyện Gò Công Đông đã phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh
tế biển. Thị trấn Vàm Láng, xã Kiểng Phước, xã Tân Phước, xã Tân Thành, xã Tân
Điền, thị trấn Tân Hòa... là những cái nôi của nghề khai thác biển, nổi tiếng khắp
trong, ngoài tỉnh với nghề đóng đáy song cầu, nghề cào xiêm, nghề lưới k o đơn,
k o đôi, lưới rê, lưới vây kết hợp ánh sáng...
Nghề đánh bắt truyền thống của địa phương đã góp phần tạo công ăn việc làm
cho hàng nghìn lao động miền biển. Ngoài ra, còn thu hút lao động tại chỗ trong
việc phát triển ngành nghề nông thôn: làm khô mắm, cung ứng vật tư nghề cá, ngư
lưới cụ, kinh doanh và tiêu thụ thủy hải sản... tạo sự phồn thịnh cho một số làng
nghề truyền thống như nghề vá lưới ở Kiểng Phước, nghề làm khô mắm ở thị trấn
59
Vàm Láng, ở Đèn Đỏ (xã Tân Thành, Gò Công Đông)... Huyện Gò Công Đông xác
định các xã duyên hải: thị trấn Vàm Láng, Gia Thuận, Tân Phước, Kiểng Phước,
Tân Điền, Tân Thành khuyếch trương thế mạnh kinh tế biển làm mũi nhọn nền kinh
tế trong đó thị trấn Vàm Láng được xem là đô thị biển có chức năng đa dạng: hậu
cần nghề cá, công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, làng nghề truyền thống
chuyên làm khô mắm đặc sản Gò Công...
Giá trị tăng thêm hàng năm 11,5%/năm. Nhiều dự án công nghiệp, du lịch đang
đi vào hoạt động như: Nhà máy chế tạo ống thép, Tổng kho xăng dầu Hiệp Phước,
du lịch sinh thái biển Tân Thành và một số dự án còn lại trong giai đoạn lập dự án
đầu tư
Thời gian qua huyện thường xuyên bổ sung phương án bảo vệ các khu vực biển,
duy trì tổ chức diễn tập huy động nhân lực tàu thuyền và phương tiện dân sự tham
gia bảo vệ quyền, chủ quyền các vùng biển của nước ta.
Việc xây dựng khu vực phòng thủ và phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc đã đem lại hiệu quả thiết thực. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân
luôn phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an, Biên phòng, Quân sự trong công tác
giữ gìn an ninh trật tự nói chung và vùng ven biển nói riêng.
Tăng cường quản lý, kiểm soát biên phòng trong công tác phòng, chống buôn
lậu, tạo môi trường thuận lợi ra vào cửa biển cho các phương tiện đánh bắt, sản
xuất, kinh doanh, làm dịch vụ hậu cần nghề cá để nhân dân yên tâm bám biển, bám
ngư trường, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc.
Tăng thu nhập nhờ đánh bắt xa bờ.
Ngoài lợi ích kinh tế, việc đánh bắt khơi xa theo mô hình tổ, nhóm sản xuất trên
biển là hướng đi tích cực, bền vững, mở ra tương lai mới cho nghề đánh bắt hải sản
vốn là nghề truyền thống của các huyện vùng duyên hải Gò Công của tỉnh Tiền
Giang như Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công.
60
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
- Bên cạnh những mặt đạt được trong khai thác tiềm năng lợi thế về biển, huyện
cũng còn nhiều mặt hạn chế như:
2.3.2.1. Tiềm năng đầu tư không tương xứng với lợi thế của huyện
Tiềm lực đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một huyện ven
biển. Các dự án trong khu công nghiệp, khu du lịch triển khai chậm, đầu tư cơ sở hạ
tầng chưa đồng bộ. Trong khi đó, quy trình khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi
thủy – hải sản và hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá chủ yếu với quy mô nhỏ, lạc
hậu. Cảng cá Vàm Láng lại đã quá tải. Cuộc sống người dân phải chịu nhiều rủi ro
do thiên tai…
Vì vậy, để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, cũng như khắc phục một
số hạn chế trong việc phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh, huyện
xác định trong thời gian tiếp theo, kinh tế biển vẫn là mũi nhọn, công nghiệp, du
lịch là động lực của sự phát triển kinh tế.
Kế hoạch phát triển kinh tế gắn với xây dựng tiềm lực quốc phòng – an ninh,
huy động mọi nguồn lực để đầu tư và phát triển kinh tế biển ở các xã, thị trấn ven
biển. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn dân về tầm
quan trọng của biển đối với phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng – an ninh.
Bên cạnh đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi và phối hợp chặt chẽ với các nhà đầu tư
trong việc cung cấp thông tin, các thủ tục hành chính thực hiện các dự án.
Tập trung xúc tiến mời gọi đầu tư vào khu công nghiệp Dịch vụ Dầu khí và 2
cụm công nghiệp: Gia Thuận 1, Gia Thuận 2, chú trọng việc đầu tư cảng biển và các
dịch vụ phụ trợ, trước mắt đôn đốc nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự
án như: Tổng kho của Công ty CP Lọc hóa dầu Nam Việt, Cảng biển tổng hợp Cảng
quốc tế Nam Sài Gòn, Cảng biển tổng hợp và dịch vụ hậu cần cảng, dự án khu neo
đậu tránh trú bão cho tàu cá cửa sông Soài Rạp kết hợp cảng cá Vàm Láng; dự án
gây bồi, trồng rừng chống sạt lở.
61
Nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông. Xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ
nhu cầu dân sinh, phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng – an ninh và các khả năng
ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, nhất là bão, triều cường và xâm thực của
nước biển.
Song song với đó, huyện cũng tiếp tục thu hút, mời gọi đầu tư cơ sở hạ tầng
phát triển các dự án du lịch, đặc biệt khu du lịch ven biển Tân Thành; mở rộng và
phát triển liên kết vùng các tuyến du lịch sinh thái biển. Tăng cường vai trò lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng và năng lực quản lý Nhà nước về biển và bảo vệ môi trường
biển. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển kỹ thuật tiên tiến trong
khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy – hải sản.
2.3.2.2. Phương tiện đánh bắt thủy hải sản thô sơ, khâu chế biến và tiêu thụ sản
phẩm còn hạn chế
Hơn nữa, sẽ thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho các phương tiện đánh bắt xa bờ,
huy động các nguồn lực để đóng mới, cải hoán tàu thuyền, đầu tư các thiết bị cần
thiết để ngư dân an tâm bám biển. Phát triển và nhân rộng các nghiệp đoàn, xây
dựng hợp tác xã nghề cá, các tổ, đội tàu vận tải, đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin
ngư trường đánh bắt, tránh trú bão an toàn.
Khai thác, nâng cao chất lượng và tiêu thụ sản phẩm sau đánh bắt, phát huy
nguồn lực tại chỗ và thu hút các thành phần kinh tế đầu tư khai thác, phát triển dịch
vụ hậu cần nghề cá, chế biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản, nhất là đẩy mạnh hợp tác
mở rộng ngành nghề, làng nghề chế biến thủy sản: Cá khô, làm mắm và đan lưới…
Để phát huy thế mạnh phát triển kinh tế tỉnh sẽ khuyến khích ngư dân phát huy
ngành nghề truyền thống, hiện đại hóa đội tàu cũng như đóng mới phương tiện có
công suất lớn vươn ra các ngư trường khơi xa.
Đồng thời, gắn việc phát triển đội tàu đánh bắt hiện đại với thực hiện nhiều biện
pháp đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trong khi hành nghề, nhất là những
mùa bão tố, biển động…. Mục tiêu của tỉnh phấn đấu đến năm 2020, 100% phương
62
tiện khai thác hải sản của địa phương đều tham gia vào các tổ, nhóm liên kết sản
xuất.
Tóm tắt chương 2
Trong chương 2, tác giả phân tích thực trạng phát triển kinh tế biển huyện gò
công đông tỉnh tiền giang giai đoạn năm 2005 – 2015 thông qua các nội dung sau:
Đầu tiên, tác giả xác định tiềm năng kinh tế biển của huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang thông qua nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, các tài nguyên thiên nhiên,
đặc điểm kinh tế xã hội. Tiếp đến, tác giả đánh giá tình hình phát triển kinh tế biển
ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang thông qua việc nghiên cứu và phân tích về
tình hình nuôi trồng, khai thác, đánh bắt thủy hải sản và du lịch biển. Từ đó, tác giả
đánh giá về phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang với
những thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân, và cũng từ đó đưa ra
những định hướng cho tiến trình phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang như: phát triển cơ sở hạ tầng, ổn định và nâng cao chất lượng thủy hải
sản thêm vào đó là đổi mới phương thức nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản; Phát
triển tập trung và có đầu tư cho ngành du lịch biển của huyện Gò Công Đông tỉnh
Tiền Giang ; Bảo vệ, cải tạo rừng ngập mặn nói riêng và bảo vệ môi trường sinh
thái ở huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
63
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM
2030
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030
3.1.1. Cơ hội trong việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền
Giang
3.1.1.1. Cơ hội từ điều kiện tự nhiên
Huyện Gò Công Đông nằm trên địa bàn ba huyện phía Đông tỉnh Tiền
Giang, trung tâm huyện cách TP Hồ Chí Minh chỉ vào khoảng 68km, đồng thời vị
trí nằm sát biển Đông, và với các trục giao thông quan trọng (đường tỉnh 862, 871;
tuyến sông Soài Rạp và sông Tiền), về phương diện địa lý kinh tế có thể nói huyện
Gò Công Đông là huyện trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh Tiền Giang
(nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, hậu cần nghề cá, du lịch sinh thái biển), là cửa ngõ
quan trọng hướng ra biển Đông và về TP Hồ Chí Minh. Với một tầm nhìn dài hạn,
sau khi Thị xã mở rộng ranh giới ra phía Bắc, huyện Gò Công Đông mất đi vị trí
cửa ngõ đường bộ hướng về TP Hồ Chí Minh; tuy nhiên tầm quan trọng của thế cửa
ngõ đường thủy tăng lên nhờ vào sự phát triển kinh tế ven biển. Với cửa ngõ phía
Đông là biển Đông, sông Cửa Đại phía Nam, sông Soài Rạp phía Bắc và Đông Bắc;
huyện Gò Công Đông có lợi thế lớn về phương diện địa lý kinh tế, trở thành huyện
trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh.
Là một huyện có tới 32km bờ biển trông giống như một vành đai hướng ra biển
Đông và là địa phương có tiềm năng kinh tế biển lớn nhất tỉnh Tiền Giang. Với các
loài thủy sinh vật biển rất phong phú, trong đó các đối tượng quan trọng có khả
năng khai thác kinh tế là nghêu, tôm và các loài cá biển. Thêm vào đó là điều kiện
tự nhiên thuận lợi để phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản khá đa dạng trên
nhiều loại hình thủy vực và nhiều phương thức nuôi trồng (nuôi tôm chuyên công
64
nghiệp, nuôi tôm chuyên quảng canh cải tiến, nuôi tôm xen lúa và rừng, nuôi nghêu,
cua …).
- Mũi nhọn kinh tế: thị trấn Vàm Láng - đầu cửa sông Soài Rạp, hiện là một
trong những trung tâm hậu cần nghề cá quan trọng bậc nhất của huyện Gò Công
Đông. Nơi đây có hệ thống cảng cá, làng nghề chế biến hải sản, các DN chuyên
doanh trên lĩnh vực chế biến và tiêu thụ hải sản trong nước lẫn xuất khẩu. Thị trấn
Vàm Láng án ngữ nơi cửa Soài Rạp, trên sông Vàm Cỏ hiện là một trong những
trung tâm hậu cần nghề cá quan trọng bậc nhất của huyện Gò Công Đông với hệ
thống cảng cá, làng nghề chế biến hải sản, các doanh nghiệp chuyên doanh trên lĩnh
vực chế biến và tiêu thụ hải sản trong nước lẫn xuất khẩu. Địa phương xác định khai
thác hải sản trên biển chính là mũi nhọn kinh tế của huyện không chỉ giúp đẩy
nhanh tốc độc giảm nghèo nông thôn, đưa huyện sớm đi lên phồn thịnh mà còn thiết
thực góp phần gìn giữ chủ quyền biển đảo quê hương. Ngư dân chủ yếu tập trung
cho các nghề: Lưới k o đơn, lưới k o đôi, lưới rê, lưới vây kết hợp ánh sáng, cào
Xiêm.
- Nghêu ở vùng biển Gò Công có tiềm năng, lợi thế không thua bất kỳ địa
phương nào, chưa kể đến lợi thế quan trọng là đi trước trong việc sản xuất, ương
nghêu giống nhân tạo, con nghêu đã trở thành đặc sản vùng biển được kiểm soát thu
hoạch chặt chẽ, giá trị dinh dưỡng cao và là mặt hàng xuất khẩu với kim ngạch xuất
khẩu hàng năm hàng chục triệu USD, riêng Tiền Giang năm 2008 đạt gần 10 triệu
USD.
- Đặc biệt bãi biển Tân thành khá nổi tiếng không chỉ mang lại nguồn thủy hải
sản, với trên 2.000ha biển nuôi nghêu, trong đó, có 350ha là bãi sinh nghêu giống tự
nhiên tập trung tại xã Tân Thành, ven vàm Cửa Tiểu. Hàng năm cung ứng trên
20.000 tấn nghêu cho thị trường, đặc biệt là từ khi “con nghêu” được xuất khẩu thì
thế mạnh này đang được khai thác triệt để hơn. Việc cào nghêu và nuôi con giống
nghêu trên biển không những mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho bà con nơi đây
65
mà còn cho huyện tiềm năng thu hút phát triển về du lịch biển. Ngoài ra bãi biển
Tân Thành cũng là một trong những bãi cát đen đẹp nhất Việt Nam nên việc thu hút
du lịch là tất yếu.
3.1.1.2. Cơ hội từ điều kiện xã hội
Dân số của huyện tính đến nửa đầu năm 2016 là hơn 200 nghìn người, trong đó
số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 65 % dân số của huyện (theo thống
kê của trang giadinhphapluat.vn). Đây là nguồn lao động dồi dào đáp ứng được nhu
cầu của các ngành nghề đang có sự tăng trưởng nhanh. Bên cạnh đó, đại bộ phận
dân số lao động có kinh nghiệm trong các ngành kinh tế biển (theo hướng lao động
gia đình) nhất là ngành thủy hải sản.
3.1.2. Thách thức trong việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông
Khi Việt Nam hội nhập toàn diện với AFTA và WTO, Tiền Giang nói chung,
Gò Công Đông nói riêng, sẽ chịu nhiều áp lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội
địa của Tỉnh, nhất là các mặt hàng nông thủy sản chưa đủ khả năng tranh bán với
hàng nhập khẩu, cũng như chưa chuẩn bị đầy đủ để sẵn sàng hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
3.1.2.1. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường
Do nhiệt độ Trái đất ngày càng tăng, băng ở hai cực tan ra, nước biển ngày càng
dân cao, diện tích đất canh tác sẽ mất dần do bị chìm trong nước biển, nhất là những
vùng đất ven biển. Thêm vào đó là sự gia tăng ngày càng nhiều của các cơn bão với
tần suất hoạt động ngày càng tăng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của con
người, đặc biệt là những cư dân ven biển và cư dân vùng biển huyện Gò Công Đông
cũng không ngoại lệ. Biến đổi khí hậu tác động đến nguồn tài nguyên môi trường
biển, do đó ảnh hưởng đến các ngành kinh tế biển chính yếu như khai thác hải sản,
du lịch biển và giao lưu thương mại.
Những năm gần đây, con nghêu chết hàng loạt không rõ nguyên nhân làm hầu
hết bà con phá sản, lâm vào cảnh nợ nần.
66
Dòng chảy thay đổi, rừng ngập mặn ven biển bị phá hoại, nước biển mặn lên bất
thường được coi là nguyên nhân chính cho việc hàng loạt những cơ sở nuôi hải sản
bị chết liên tục trong nhiều năm nay. Việc hút bùn, cát để làm sân nuôi nghêu làm
cho cả trăm hecta rừng ngập mặn đang có nguy cơ dần biến mất.
Ô nhiễm môi trường biển (sự cố tràn dầu, thức ăn tôm, rác thải…) cũng là một
trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng và chất lượng thủy hải
sản của địa phương, kể cả môi trường du lịch cũng bị ảnh hưởng.
3.1.2.2. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ vào kinh tế biển
còn yếu kém
Nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản hiện còn một số những hạn chế cần khắc
phục như: các loại hình nuôi chưa ổn định, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật nuôi
trồng chưa thật sự chắc chắn, còn nhiều vấn đề về độ bền vững của nuôi trồng –
khai thác chưa được giải quyết, tín dụng cho phát triển thủy sản còn ít, năng suất
đánh bắt đang có khuynh hướng giảm sút. Thêm vào đó là các cơ sỏ hạ tầng phục
vụ cho nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với các cơ sở hậu cần nghề cá tương ứng
trên địa bàn có quy mô nhỏ, phân tán, chưa có bến trú bão vũng chắc. Tăng trưởng
kinh tế chủ yếu là dựa vào các nhân tố phát triển theo rộng, chủ yếu là khai thác tài
nguyên, phụ thuộc nhiều vào quy mô mở rộng diện tích, công suất tàu thuyền, năng
suất tăng chậm nên hiệu quả của các sản phẩm còn thấp, có nguy cơ dẫn đến phát
triển không bền vững. Và tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư để khai thác các
sản phẩm tươi sống, nhất là tôm cá, nếu với hàm lượng công nghệ thấp, giá trị thấp,
dẫn đến kém ổn định về thị trường và rất dễ vướng những rào cản kỹ thuật trong
tương lai khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Ngành du lịch tuy phát triển khá, hiệu quả kinh tế cao, nhưng do đầu tư ít nên
hoạt động du lịch còn quá nhỏ lẻ, hầu hết là các hộ kinh doanh tham gia cho thuê
nhà trọ, cung cấp dịch vụ ăn uống, chất lượng phục vụ chưa cao. Cơ sở hạ tầng và
cơ sở vật chất ngành du lịch biển còn thiếu đồng bộ nên khó thu hút khách và nhà
đầu tư.
67
Tuyến đê biển Đông nối liền 3 trung tâm quan trọng về phát triển kinh tế biển là
Vàm Láng, Tân Thành, Đèn Đỏ mới chỉ được nhựa hóa một phần (ĐT 862 từ Tân
Thành đến Đèn Đỏ), phần còn lại vẫn là đê biển, khả năng thông xe k m ảnh hưởng
đến việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa trên thị trường.
3.1.2.3. “Đầu ra” sản phẩm không ổn định
Mặc dù sản lượng thu được cao, năng suất trung bình là 20 – 25 tấn/ha nhưng
trong thời gian gần đây, người nuôi nghêu vẫn bị thất thu, nguyên nhân là do giá
nghêu thịt sụt giảm do các thương lái p giá. Vì từ trước đến nay, người nuôi nghêu
tại địa phương chưa được trang bị thông tin về giá cả sản phẩm cũng như không
trực tiếp mua bán với khách hàng tiêu thụ, chỉ bán qua thương lái với giá cả do
thương lái quy định cho nên đầu ra cho con nghêu vùng biển chưa được ổn định..
3.1.2.4. Đội ngũ lao động thiếu chuyên môn
Nhưng trên hết, nguồn nhân lực tuy dồi dào về số lượng nhưng trình độ chuyên
môn kỹ thuật có văn bằng chứng chỉ còn thấp, nếu kể cả lao động được truyền nghề
thì cũng chỉ chiếm 13,9% (so với bình quân của Tỉnh là 23%). Lao động chưa được
đào tạo theo kịp nhu cầu phát triển của ngành, chưa kể lực lượng được đào tạo thì bị
thu hút đi nơi khác hoặc bỏ nghề do nguồn thu nhập thấp, không đủ trang trải cho
cuôc sống gia đình.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA
HUYỆN GÒ CÔNG ĐONG TÌNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030
3.2.1. Định hướng phát triển chung
3.2.1.1. Văn kiện Đại Hội Đảng XII về phát triển kinh tế biển
Do tầm quan trọng của việc đưa ra phương hướng phát triển của việc phát
triển kinh tế biển mà trong các văn kiện Đại Hội Đảng qua các thời kì định hướng
phát triển kinh tế biển được đưa ra để tương ứng trong từng giai đoạn cụ thể trong
văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ XII, phương châm phát triển kinh tế biển được nêu
rõ cụ thể như sau: Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế
quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trong đó, chú trọng phát triển các ngành
68
công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh
doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Do
đó, cần có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền
vững. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.
3.2.1.2. Định hướng phát triển kinh tế biển của tỉnh Tiền Giang
- Trong Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tiền
Giang đến năm 2020 về phát triển kinh tế biển:
Phát triển thủy sản theo hướng quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, thâm
canh tăng năng suất, đa dạng hóa đối tượng nuôi, kết hợp chặt chẽ khâu nuôi, bảo
quản chế biến và quản lý bảo vệ môi trường, chú trọng phát triển các loài thủy sản
có giá trị tiêu dùng nội địa và xuất khẩu như cá, tôm, nghêu, cá bè, sò, cua... trên
sông Tiền, các Cồn, bãi bồi ven biển. Giảm đánh bắt gần bờ để bảo vệ tài nguyên,
tăng đánh bắt xa bờ theo hướng tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng lực và hiện đại
hóa các đội tàu đánh bắt xa bờ.
Nâng cấp và xây dựng mới các trung tâm sản xuất giống trên địa bàn tỉnh gắn
với các trung tâm sản xuất của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Xây dựng khu neo đậu, trú bão tàu thủy sản; nâng cấp và xây
dựng mới các cụm cảng cá, chợ đầu mối về thủy sản gắn với phát triển dịch vụ hậu
cần nghề cá.
Tiếp tục đầu tư và hoàn thiện các trục thoát lũ từ Bắc Quốc lộ 1, dự án ngọt hóa
Gò Công, nâng cấp các đê biển Gò Công, đê kênh chợ gạo, hệ thống kiểm soát lũ
vườn cây ăn trái gắn với hệ thống kiểm soát lũ của tỉnh và vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Tăng cường hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội ở
nông thôn gắn liền với chương trình đầu tư xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở
69
vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, góp phần ổn định đời sống dân cư và thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông nghiệp - nông thôn.
Phấn đấu giá trị gia tăng toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn 2006 -
2020 tăng bình quân trên 4,0%/năm; trong đó giai đoạn 2006 - 2010, ngành nông,
lâm nghiệp tăng bình quân 4,3%/năm và ngành thuỷ sản tăng 6,0%/năm; đến năm
2020 tỷ trọng chăn nuôi chiếm trên 32% giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp và
thủy sản chiếm trên 21% giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội tổng hợp, định hướng tổ chức lãnh thổ
kinh tế biển đến năm 2030 như sau:
Sau khi điều chỉnh ranh giới với Thị xã Gò Công và thành lập huyện mới với 6
xã cù lao, diện tích tự nhiên của huyện Gò Công Đông tính đến nửa đầu năm 2016
là 26.768,16 ha, mục đích sử dụng đất có nhiều thay đổi. Đất có mặt nước nuôi
trồng thủy sản giảm mạnh do quá trình hình thành các khu công nghiệp, chủ yếu là
nuôi tôm nước mặn lợ và nuôi nghêu tại khu vực ven biển. Cùng chung tình hình
trên, đất lâm nghiệp giảm do mất đất cho các khu công nghiệp ven biển, chủ yếu chỉ
phát triển thêm một ít trên phần bãi triều được bồi. Nhất là diện tích đất làm muối từ
sau năm 2005, ngành làm muối đã mất hẳn.
Phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy sản theo hướng chất lượng, hiệu quả, phù
hợp với các đặc điểm thủy vực, điều kiện chế biến, tiêu thụ và tích cực bảo vệ môi
trường nuôi, môi trường sinh thái vùng bãi triều. Tập trung xây dựng các vùng nuôi
nước mặn, lợ với tỷ lệ thâm canh thích hợp; gia tăng hiệu quả khai thác thủy hải sản
theo hướng tăng tỷ trọng đánh bắt xa bờ và nâng cao chất lượng thủy hải sản đánh
bắt kết hợp với bảo vệ an ninh quốc gia trên biển. Tích cực bảo vệ nguồn lợi thủy
sản nội địa và ven bờ.
Ngành du lịch đặt trọng tâm vào hoạt động thu hút du khách nghỉ dưỡng cuối
tuần, du lịch ven biển… gắn với các tuyến du lịch của tỉnh, Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, thu hút đầu tư, phát triển hệ thống lưu trú và cơ sở phục vụ ăn uống, giải
trí… tại bãi biển Tân Thành, Đèn Đỏ; phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch, tăng
cường đầu tư hạ tầng du lịch.
70
Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động kỹ thuật và
quản lý đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của dải ven biển; Đẩy mạnh phát triển
khoa học công nghệ hướng vào những lĩnh vực có lợi thế của vùng.
Kế hoạch phát triển kinh tế biển gắn với xây dựng tiềm lực quốc phòng - an
ninh, huy động mọi nguồn lực để đầu tư và phát triển các cụm kinh tế biển ở các xã,
thị trấn ven biển. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn dân
về tầm quan trọng của biển đối với phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng - an
ninh.
3.1.2.3. Định hướng của huyện Gò Công Đông trong phát triển kinh tế biển
Trong Nghị quyết về phát triển Kinh tế - Xã hội 5 năm 2016 – 2020 của Hội
Đồng Nhân Dân tỉnh Tiền Giang khóa VIII – Kỳ họp thứ 14 đưa ra những nội dung
chính trong định hướng phát triển kinh tế biển của huyện Gò Công Đông như sau:
- Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền
quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển. Khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và
sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần
nghề cá; du lịch biển. Xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung ven biển và
định hướng xây dựng Khu kinh tế Gò Công. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển. Xây dựng các cơ sở hậu cần nghề cá,
tránh trú bão, hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ và hoạt động dài ngày trên
biển. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu nạn và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển.
3.2.2. Định hướng phát triển cơ cấu ngành
3.2.2.1. Ngành thủy, hải sản
Định hướng đối với nuôi trồng thủy sản đến năm 2030:
Đối tượng nuôi chính ở vùng mặn lợ là tôm sú (nuôi bán công nghiệp- công
nghiệp và quảng canh cải tiến), nghêu sò (nuôi vùng bãi bồi ven biển và đầm lầy
mặn). Do đó, trên cơ sở mục tiêu phát triển bền vững, ổn định và ngày càng nâng
cao chất lượng sản phẩm nuôi trồng, sẽ ổn định các loại hình nuôi tôm nước mặn lợ
71
trên các địa bàn thích nghi sau khi tách phần diện tích đất ven biển để xây dựng các
khu công nghiệp, xác định vùng nuôi trồng cụ thể cho các phương thức nuôi tôm,
trong đó chú trọng kiểm soát môi trường nuôi nhằm tiến đến sản xuất bền vững
vùng nuôi tôm bán công nghiệp - công nghiệp. Ở loại hình nuôi trồng này với tiến
độ thích hợp theo khả năng chủ động giống xác nhận, xây dựng kết cấu hạ tầng, cải
thiện kỹ thuật nuôi, kiểm soát dịch bệnh và môi trường nước nhằm tạo thế bền
vững, ổn định của phương thức nuôi trồng này cũng như từng bước nâng cao chất
lượng sản phẩm, đạt kích cỡ và các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm theo yêu cầu của
từng loại thị trường.
Đồng thời ổn định một số diện tích nuôi quảng canh cải tiến, từng bước tiếp cận
và tiến tới hình thức nuôi sinh thái. Bên cạnh đó, khai thác ổn định và bền vững
vùng nuôi nghêu, sò; phát triển đa dạng các loại hình nuôi thủy sản mặn, lợ khác
(cua, cá kèo, cá luân canh trong vuông tôm…).
Định hướng đối với ngành đánh bắt thủy sản đến năm 2030:
Đối với ngành đánh bắt, cải thiện phương tiện và phương thức đánh bắt, đa
dạng hóa thủy vực và loại hình đánh bắt, trong đó chú trọng phát triển các loại hình
đánh bắt chuyên loại và đánh bắt theo tổ hợp có phân công trong phạm vi xa bờ
nhằm gia tăng năng suất lẫn chất lượng sản phẩm đánh bắt.
Đồng thời giảm dần quy mô đánh bắt nội địa nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản
sông rạch.
Trọng tâm của ngành đánh bắt thủy hải sản là cải thiện năng suất đánh bắt
(thông qua hiện đại hóa phương tiện, cải thiện kỹ năng lao động và đa dạng hóa ngư
trường theo mùa) kết hợp với nâng cao chất lượng sản phẩm (thông qua việc từng
bước gia tăng dần các loại hình đánh bắt chuyên loài, tổ chức đội tàu thuyền chuyên
dụng và kết hợp đánh bắt-tồn trữ dài ngày).
Để phát triển ổn định và bền vững ngành thủy hải sản, cần chú trọng các cơ sở
hạ tầng sau:
- Hình thành khu liên hợp cảng cá-khu tránh bão-cụm công nghiệp-chợ đầu mối
thủy sản trên địa bàn xã Vàm Láng (sau này là thị trấn Vàm Láng) trên cơ sở nạo
72
vét rạch Cần Lộc hình thành âu tàu và đắp đất tạo nền hạ công trình, bao gồm các
khu chức năng sau:
+ Cảng cá Cần Lộc kể cả âu tàu tránh bão.
+ Dãy phố thị và cụm công nghiệp hậu cần nghề cá (hệ thống kho, các cơ sớ
chế biến thủy sản, chế biến nước mắm, khô, bột cá, sản xuất nước đá, sữa chữa và
đóng tàu thuyền, sữa chữa ngư cụ, cung ứng và đào tạo lao động…)
+ Chợ đầu mối thủy sản.
- Ổn định và phát triển bền vững vùng nuôi trồng thủy sản trong bối cảnh phát
triển công nghiệp vùng ven biển, có gắn kết chặt chẽ với thị trường, cơ sở chế biến,
chợ vựa. Đưa nhanh khoa học kỹ thuật tiên tiến ứng dụng vào việc nuôi trồng nhằm
cải thiện chất lượng nuôi và chất lượng sản phẩm, tạo sản phẩm với chất lượng và
quy cách đồng nhất.
- Tăng cường năng lực đánh bắt theo hướng cải thiện chất lượng đánh bắt và
chất lượng sản phẩm, phát triển các cơ sở hậu cần nghề cá.
3.2.2.2. Ngành du lịch
Ngành du lịch của huyện đặt trọng tâm vào hoạt động thu hút du khách nghỉ
dưỡng cuối tuần. Định hướng phát triển ngành du lịch trong thời gian trước mắt
cũng như lâu dài là đa dạng hóa các loại hình du lịch, phát triển mạnh du lịch sinh
thái ven biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, kêu gọi đầu tư trong và ngoài tỉnh
và khuyến khích phát triển du lịch tư nhân.
Ngành sẽ thu hút đầu tư phát triển hệ thống lưu trú và cơ sở phục vụ ăn uống,
giải trí đạt tiêu chuẩn tại khu du lịch Tân Thành – Đèn Đỏ, đầu tư xây dựng hoàn
chỉnh kết cấu hạ tầng giao thông tuyến đê biển song song với xây dựng bãi tắm, cơ
sở dịch vụ phục vụ, các vườn cây ăn trái đặc sản ven biển, các sản phẩm du lịch
nhằm thu hút du khách du lịch mang bản sắc xứ biển. Đến năm 2010 xây dựng khu
du lịch Tân Thành-Hàng Dương quy mô 80 ha từ đó lan tỏa dần đến Đèn Đỏ. Ngoài
ra, ngành còn có thể tổ chức tham quan các cồn bãi còn nguyên sinh thái tự nhiên
như cồn Ngang, cồn Cống, cồn Ông Mão.
73
Trong thời kỳ 2010-2030, huyện sẽ hình thành bộ phận chuyên trách du lịch
trong phòng kinh tế, đẩy mạnh việc liên kết với công ty du lịch Tỉnh và các công ty
du lịch lữ hành của Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển các tuyến và điểm
du lịch, tập trung đầu tư và xây dựng khu Tân Thành-Đèn Đỏ làm điểm đột phá và
từng bước hoàn chỉnh.
Với định hướng như trên, Huyện sẽ khuyến khích đầu tư nâng cấp các nhà trọ
hiện có và mở mới một khách sạn có quy mô tiêu chuẩn, nhà hàng có khả năng phục
vụ cùng lúc 300 khách trở lên, phương tiện vận tải, cửa hàng du lịch bán hàng lưu
niệm và đặc sản của huyện, của tỉnh Tiền Giang, kết hợp với chợ đầu mối thủy hải
sản Vàm Láng, chợ vựa thủy sản Đèn Đỏ.
Đẩy nhanh công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ nhân viên lành nghề, có tác
phong và cung cách phục vụ tốt du khách, tạo sản phẩm du lịch hoàn hảo.
Chương trình phát triển du lịch huyện Gò Công Đông:
Xây dựng hoàn chỉnh khu du lịch Tân Thành – Đèn Đỏ, khuyến khích xây dựng
một số khách sạn có quy mô tiêu chuẩn, có khả năng tiếp nhận khách quốc tế, các
nhà đầu tư nước ngoài.
Nối kết các tour du lịch lữ hành của Tỉnh đến tham quan, nghỉ dưỡng cuối tuần
tại khu du lịch.
Chương trình này bao gồm:
- Các dự án đầu tư vào khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận tải.
- Xây dựng chợ, trung tâm thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của du
khách.
Chương trình này được hỗ trợ bằng các chính sách
- Chính sách về vốn (vay tín dụng của ngân hàng).
- Chính sách bảo tồn, khai thác hỗ trợ ngành văn hóa thông tin.
Tóm lại, các nhóm dự án thuộc chương trình phát triển du lịch đã thể hiện được
tầm quan trọng của ngành trong tương lai, và chúng ta có thể khẳng định đây là một
bước đi rất phù hợp với xu thế chung của cả nước.
74
3.2.2.3. Bảo vệ môi trường biển
Thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế biển gắn với xây dựng tiềm lực quốc
phòng - an ninh và chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Sở thủy
sản tỉnh Tiền Giang tổ chức thả tôm sú xuống sông Cửa Tiểu. Tôm sú giống này do
các trại giống của các hộ dân tại huyện Gò Công Đông hỗ trợ. Việc thả nuôi thủy
sản xuống sông rạch được Sở thủy sản tổ chức hàng năm nhằm bảo vệ, tái tạo
nguồn lợi thủy sản đang bị cạn kiệt và góp phần giáo dục, tuyên truyền, vận động
người dân khai thác thủy sản hợp lý.
Tạo dựng môi trường biển trong sạch và bền vững là một trong những bí quyết
để phát triển ngành du lịch biển, là góp phần bảo vệ môi trường biển. Bởi ở đó tạo
cho du khách sự an toàn về môi trường khi nghỉ ngơi, tham quan. Ở đó tạo cho du
khách môi trường trong sạch để tái tạo, tăng cường sức khỏe. Vì vậy, con người cần
tránh những can thiệp quá sâu về cải tạo thiên nhiên đối với những nơi đang diễn ra
hoạt động du lịch, tránh xả rác bừa bãi và tận diệt các nguồn thủy hải sản.
Phát triển ngành lâm nghiệp trên địa bàn huyện Gò Công Đông chủ yếu là
phòng hộ môi trường ven biển, tạo cảnh quan và cải thiện môi trường cho các công
trình công cộng, khu công nghiệp, các khu vực xây dựng đô thị và tận dụng quỹ đất
trong khu vực kinh tế vườn.
Phương hướng chung của ngành lâm nghiệp là:
Bảo vệ diện tích rừng ngập mặn phòng hộ sau khi đã chuyển một phần đất cho
khu công nghiệp, tích cực mở rộng thêm diện tích rừng mới tại khu vực đầm lầy
mặn và bãi bồi ven biển theo tiến độ lấn biển, kết hợp với trồng mới đai rừng ngập
mặn tại các khu vực xung yếu xói lở, nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường ven biển,
chống xói lở và đẩy mạnh quá trình bồi lắng ven bờ, phục hồi và phát triển hệ sinh
thái ngập mặn, giảm dần diện tích nuôi tôm trong lâm phần. Diện tích định hình 670
ha (trong đó giao quản lý rừng 480 ha).
Xây dựng một số khu vực rừng sản xuất xen canh tôm sinh thái, diện tích trong
khoảng 50 ha.
75
Tập trung trồng mới cây phân tán trên các bờ bao vùng và tiểu vùng thuỷ lợi,
đặc biệt chú trọng vành đai cây xanh cách ly các cụm khu công nghiệp nhằm đảm
bảo độ che phủ và năn chặn bụi từ công nghiệp sữa chữa và đóng tàu. Tổng số
lượng cây phân tán trồng mới hàng năm vào khoảng 693 ngàn cây năm 2020 và 769
ngàn cây năm 2030.
Sản lượng khai thác chủ yếu là cây phân tán và tỉa thưa rừng, năm 2020 dự kiến
khai thác 1010 m3 gỗ, 6122 xite củi và 495000 tre trúc, và năm 2030 dự kiến khai
thác 1283 m3 gỗ, 5985 xite củ và 538000 tre trúc.
3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN GÒ CÔNG
ĐÔNG TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN NĂM 2030
Sự phát triển kinh tế biển của huyện Gò Công Đông trong những năm qua có
tiến bộ nhưng chưa thực sự tương xứng với vai trò, tiềm năng và lợi thế của biển. Vì
vậy, cần phải đề ra những giải pháp, chiến lược đúng đắn cho sự phát triển kinh tế
biển trong đến năm 2030. Một số giải pháp cần được chú trọng như sau:
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý và phát triển kinh tế biển
Trong thời gian qua dù đã có nhiều chính sách quản lí và phát triển kinh tế
biển được đề ra bởi Chính phủ và các ngành, các cấp nhưng vẫn chưa có một hệ
thống chính sách đồng bộ toàn diện trong một chiến lược thống nhất để quản lí, khai
thác và bảo vệ tài nguyên biển, vẫn còn tình trạng chia cắt, cục bộ trong quản lí,
thiếu sự kết hợp của các ngành và các xã trong huyện. Chính điều này đã làm hạn
chế việc phát triển kinh tế biển, làm suy giảm nguồn tài nguyên đang có của huyện
và gây ô nhiễm môi trường sinh thái biển.
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trước tiên chính là hoàn thiện hệ thống
chính sách và cơ chế tổ chức khai thác biển phù hợp với đặc thù của tài nguyên
biển, ngành nghề, quy mô và trình độ khai thác sử dụng tài nguyên biển để phát
triển kinh tế biển của huyện Gò Công Đông.
Ủy ban nhân dân huyện cần dựa trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
76
2020 và chương trình hành động của Tỉnh ủy khóa VIII để đề ra chương trình hành
động về chiến lược kinh tế biển của địa phương. Từ đó xây dựng kế hoạch và triển
khai khoa học, phổ biến đến người dân - những người có vai trò quan trọng trong
việc phát triển lợi thế, tiềm năng biển ở nơi đây. Áp dụng linh hoạt các hình thức
quản lí mới để khuyến khích và phối hợp với hoạt động khai thác biển. Ủy ban nhân
dân huyện Gò Công Đông phải ra sức, có trách nhiệm xây dựng và triển khai kế
hoạch thực hiện cùng ban ngành để theo dõi, đôn đốc kiểm tra thường xuyên việc
thực hiện thúc đẩy phát triển kinh tế biển và báo cáo định kì.
Tạo môi trường đầu tư hấp dẫn bằng các cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến
khích trong việc thuê đất, hỗ trợ kinh phí trong giải tỏa đền phù, giải phóng mặt
bằng; có cơ chế phối hợp cụ thể với quy hoạch sử dụng đất, đảm bảo hài hòa giữa
quốc phòng và kinh tế.
Đối với Nhà nước cần phải xúc tiến, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện hơn
nữa bộ Luật biển để làm cơ sở tốt cho việc tổ chức và quản lí thống nhất các hoạt
động kinh tế biển trong khuôn khổ hệ thống pháp luật chung của Nhà nước.
3.3.2. Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính quyền
Bộ máy chính quyền luôn luôn có vai trò quan trọng bậc nhất đối với việc
quản lí và điều tiết sự phát triển của bất cứ lĩnh vực hay ngành kinh tế nào. Chính vì
thế, phát triển kinh tế biển cũng cần có một bộ máy chính quyền quản lí có năng lực
và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, đưa nền kinh tế biển đi lên. Huyện Gò Công Đông
cần phải nâng cao năng lực quản lí của bộ máy chính quyền theo pháp luật để tạo
thuận lợi, phát huy tối đa nhất tiềm năng, lợi thế về kinh tế biển của địa phương.
Nâng cao năng lực quản lí của bộ máy chính quyền mang lại nhiều lợi ích cho
phát triển kinh tế biển qua sự năng động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của bộ
máy quản lí, đưa ra những kế hoạch, định hướng cụ thể, tốt nhất và tương xứng với
tiềm năng lớn của biển tại địa phương. Chính vì vậy, phải thường xuyên tổ chức
giảng dạy, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ; cần tuyển chọn những người có
năng lực và ý thức trách nhiệm tốt đối với ngành nghề; xây dựng chương trình và đa
77
dạng hóa hình thức đào tạo phù hợp cho cán bộ, đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ lao
động quản lí, đội ngũ doanh nhân; có chính sách hấp dẫn để khuyến khích đội ngũ
lao động có chuyên môn nghiệp vụ giỏi tham gia, thu hút các chuyên gia, lao động
có trình độ cao từ bên ngoài; củng cố nâng cấp, nâng cao chất lượng của các trường
dạy nghề liên quan đến ngành nghề phục vụ dịch vụ du lịch biển, chế biến hải sản.
Nâng cao năng lực của bộ máy chính quyền cũng chính là nâng cao tinh thần
trách nhiệm, phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Từ đấy, hiện tượng quan liêu, bảo thủ,
cửa quyền, vô trách nhiệm cũng sẽ giảm bớt, mang đến tác động tích cực nhất cho
kinh tế biển.
Ngoài ra, để nâng cao năng lực quản lí của bộ máy chính quyền, cần phải:
Tăng cường vai trò quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương trong
quản lí và phát triển kinh tế, cải tiến công tác kế hoạch hóa định hướng, tăng cường
công tác nghiên cứu.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Rà soát các văn bản ở các ngành, các cấp quản lí để xóa bỏ các quy chế
không cần thiết và giảm bớt các thủ tục hành chính.
Khuyến khích phát triển và đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh đối với
các hoạt động khai thác biển.
Cần áp cụng cơ chế đặc biệt đối với những khu vực trọng tâm như Vàm
Láng, Tân Thành.
3.3.3. Huy động vốn đầu tư trong và ngoài huyện trong việc phát triển kinh tế
biển
Xây dựng nền tài chính có tiềm lực mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ sẽ
đảm bảo chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và đủ sức phát triển, hội
nhập kinh tế cũng như thu hút ngoại lực, quản lí, nâng cao hiệu quả của quá trình
hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội. Đối với kinh tế biển cũng vậy, cần
phải có nền tài chính đủ tiềm lực, thu hút được sự đầu tư thì mới có hi vọng phát
78
triển, vươn lên tầm cao hơn. Muốn vậy, huyện Gò Công Đông cần tích cực huy
động vốn đầu tư trong và ngoài huyện.
Một số biện pháp để huy động vốn đầu tư trong và ngoài huyện để phát triển
kinh tế biển như:
Phấn đấu huy động thuế và phí vào ngân sách
Cải cách hành chính triệt để để tạo điều kiện tốt nhất cho mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển.
Xây dựng, ban hành đầy đủ các quy chế, chính sách đảm bảo phát huy dân
chủ, sáng kiến để hệ thống đáp ứng yêu cầu phát triển.
Đa dạng các hình thức huy động, tạo vốn trong huyện vì đây là nguồn vốn có
ý nghĩa lâu dài, đảm bảo đủ năng lực nội tại để tiếp nhận đầu tư trong và ngoài
nước.
Huy động tối đa nguồn lực của địa phương, đồng thời thu hút vốn đầu tư của
các tỉnh lân cận và nước ngoài bằng nhiều hình thức.
Nếu ngân sách của địa phương có hạn, cần khai thác tối đa nguồn vốn đầu tư,
hỗ trợ của Trung ương được Chính phủ phê duyệt cũng như tranh thủ nguồn vốn
Trung ương hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng.
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lí vốn
để tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng vốn kịp thời.
Cần đầu tư có trọng điểm để mang lại hiệu quả thiết thực nhất trong điều
kiện nguồn vốn có hạn.
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút nguồn lực đầu tư phát triển các
ngành, lĩnh vực có lợi thế và tiềm năng, có vị trí gần thành phố Hồ Chí Minh của
huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang.
Huy động nhiều nguồn vốn khác nhau như nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ
Trung ương, vốn tín dụng ưu đãi, vốn vay nước ngoài trả chậm, vốn FDI, ODA
cũng như sử dụng hiệu quả, xử lí đồng bộ các nguồn vốn trung hạn và dài hạn.
Huy động vốn không chỉ trong tỉnh Tiền Giang mà còn trong vùng lân cận và
cả nước, nhất là vốn trong dân cư hiện có.
79
Cần phải có chính sách tín dụng hợp lí để đảm bảo sự kết hợp hài hòa lợi ích
giữa người có vốn và các doanh nghiệp có thể vay. Đó là:
- Nguồn vốn từ quỹ đất: sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng
cần thiết cho ngành kinh tế biển.
- Nguồn vốn ngân sách: nguồn vốn này được khai thác từ nguồn vốn đầu tư
trực tiếp, vốn ưu đãi của Trung ương cần được ưu tiên cho đầu tư phát triển kinh tế
biển. Nguồn vốn ngân sách cần tập trung vào đầu tư kết cấu hạ tầng.
- Nguồn vốn tín dụng: tăng cường huy động vốn ở địa phương, mở rộng vốn
tín dụng đầu tư phát triển trung và dài hạn cho các thành phần kinh tế để đảm bảo
tín dụng tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả.
- Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp: có những chính sách khuyến khích
thu hút cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, nhà đầu tư tập trung
vốn đầu tư phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI: chủ động kêu gọi, tìm kiếm đối tác đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Việc đầu tư FDI phải hướng vào ngành công nghiệp công
nghệ cao, đạt trình độ tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo sức cạnh tranh và đạt trình độ
tiêu chuẩn quốc tế.
- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: nguồn vốn này cần được ưu
tiên cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
- Nguồn vốn đầu tư của người Việt định cứ nước ngoài: kêu gọi nguồn vốn
này thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kêu gọi khuyến khích cộng đồng
người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là đồng bào quê hương Gò Công.
3.3.4. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế biển
Trong mọi sự phát triển của nền kinh tế nói chung hay bất kì lĩnh vực, ngành
nghề nào của nền kinh tế, nguồn nhân lực đều luôn là một trong những yếu tố mang
tính quyết định. Nguồn nhân lực có trình độ cao, chất lượng tốt sẽ mang lại những
điều kiện tốt nhất cho sự phát triển. Đối với kinh tế biển, nguồn nhân lực cũng
không ngoại lệ. Bởi con người luôn có vai trò quan trọng hàng đầu và mang tính
80
quyết định trong việc phát triển kinh tế biển bên cạnh những nguồn tài nguyên sẵn
có từ biển. Vì vậy, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cũng cần được ưu tiên,
coi trọng, xem nó như là biện pháp cấp bách cần tiến hành thực hiện. Một số triển
khai huyện Gò Công Đông cần triển khai nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của kinh tế biển như:
- Khẩn trương điều tra, sắp xếp lại lực lượng cán bộ có kĩ thuật, chuyên môn
về biển. Đối với đội ngũ cán bộ hiện có, phải có kế hoạch đào tạo lại và sử dụng
hợp lí với cơ chế chính sách thích hợp để đáp ứng yêu cầu to lớn và khẩn trương
cảu công cuộc phát triển kinh tế biển.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực mới, có khả năng xử lý tổng hợp
các vấn đề về khai thác và quản lí biển, luôn có chính sách thỏa đáng và chế độ ưu
đãi tốt để thu hút nhân tài.
- Chú trọng công tác giáo dục, đào tạo nâng cao dân trí, nhận thức về biển, về
quản lí, khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường biển cho người dân toàn huyện,
nhất là dân cư vùng biển. Có như vậy mới thực sự mang đến hiệu quả trong khai
thác, đồng thời nguồn tài nguyên luôn được duy trì, đảm bảo công ăn việc làm cho
mọi người.
- Xây dựng, nâng cấp và mở rộng thêm các trường, cơ sở đào tạo, mở rộng các
ngành nghề mới liên quan đến biển, đồng thời đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ
dạy nghề để nâng cao chất lượng, số lượng đào tạo đi đôi với việc liên kết, thu hút
đội ngũ giảng viên có chuyên môn cao. Cụ thể ở huyện Gò Công Đông, cần đầu tư
nâng cấp Trường Đại học Tiền Giang, Trường Cao đẳng nghề Tiền Giang và các cơ
sở đào tạo khác ở tỉnh; không chỉ đầu tư về cơ sở vật chất mà còn về đội ngũ giáo
viên, chương trình đào tạo. Ngoài ra còn có chính sách khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư thành lập các trường đào tạo nghề từ công nhân kỹ thuật trung
cấp ở khu vực Gò Công, khuyến khích thành lập cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn và
trung tâm tư vấn việc làm để định hướng nghề cho lao động ở địa phương, hướng
đến phát triển kinh tế biển ở địa phương.
81
- Có những chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm giữ và thu hút nhân tài. Tăng
cường hợp tác với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam về đào tạo, tuyển dụng. Cụ thể như đối với tốt nghiệp kĩ sư,
cử nhân khá giỏi được thưởng tiền, nếu về huyện sẽ được hỗ trợ thêm chi phí tàu xe,
nhà ở tập thể; đối với lao động phổ thông sẽ được đào tạo, hưởng lương tối thiểu
cộng thềm tiền phụ cấp vùng sâu, khó khăn.
- Tạo điều kiện tham quan, học tập, giao lưu học hỏi với nước ngoài để nắm
bắt kịp thời các thông tin về thị trường, công nghề ứng dụng đối với địa phương.
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo cán bộ quản lí doanh nghiệp để nâng cao
trình độ quản lí doanh nghiệp, đồng thời cũng rèn luyện, nâng cao phẩm chất, tinh
thần làm việc của đội ngũ cán bộ.
3.3.5. Phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là những hoạt động khoa học và công nghệ gồm các
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học để cải tiến
kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất và đưa ngành nghề lĩnh vực liên quan phát triển. Đối
với kinh tế biển, khoa học công nghệ có thể hiểu là ứng dụng trong sửa chữa, đóng
tàu; kĩ thuật đánh bắt, nuôi trồng hải sản,… Khoa học công nghệ tiên tiến, có sự ứng
dụng, sáng tạo vào mỗi ngành nghề thuộc kinh tế biển sẽ tạo hiệu quả, chất lượng
cao hơn nhiều so với thời điểm còn thô sơ, sơ sài về khoa học công nghệ. Trong
kinh tế biển, muốn phát triển cũng cần có sự phát triển về khoa học công nghệ. Một
số giải pháp về phát triển khoa học công nghệ đối với phát triển kinh tế biển là:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về quản lí, phát triển
kinh tế biển nhằm khai thác, sử dụng bền vững, hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển.
- Có biện pháp kịp thời ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tối đa sự suy
thoái tài nguyên biển, giữ gìn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển.
82
- Triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực
liên quan đến biển, đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng
với đặc thù của địa phương
- Nhạy bén trong tiếp cận các thành tựu khoa học công nghệ cao và ứng dụng
vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, chế biển sản phẩm biển như công
nghệ đánh bắt, nuôi trồng, chế biến hải sản, công nghệ sinh học biển, dược phẩm
biển…
- Tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu đánh giá tiềm năng tài
nguyên biển, dự báo biến cố tự nhiên, nâng cao công nghệ quan trắc các yếu tố tự
nhiên và môi trường nhằm phục vụ công tác phòng tránh giảm nhẹ thiên tai hiệu
quả, vừa đảm bảo sự an toàn cho lao động.
- Đưa khoa học công nghệ biển ứng dụng trong cải tạo ngành nghề biển truyền
thống như nuôi trồng hải sản, ứng dụng công nghệ nhân giống, bảo tồn sinh vật
biển.
- Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, đào tạo đội ngũ khoa
học công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ, quản trị, bảo vệ môi trường; đầu tư
thiết bị phục vụ khoa học, đổi mới công tác nghiên cứu và cơ chế quản lí khoa học.
- Có đầu tư ngân sách theo quy định cho việc nghiên cứu khoa học công nghệ,
thực hiện chức năng động lực gia tăng phát triển kinh tế của công tác khoa học công
nghệ.
3.3.6. Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế biển
Thực hiện theo Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tỉnh Tiền
Giang đã nhanh chóng triển khai hành động về chiến lược biển. Các ngành, ban xã
vùng có biển đã tiến hành việc lập chi tiết cụ thể theo định hướng chung của
phương án quy hoạch tổng thể. Sở kế hoạch đầu tư và ban ngành liên quan phối hợp
chặt chẽ với nhau, xây dựng các dự án cho công trình trọng điểm nhằm thu hút đầu
tư. Cụ thể
83
- Quy hoạch về thủy sản: tăng cường quản lí, bảo vệ, phát triển nguồn giống
hải sản như nghêu, sò huyết, hến ở các thủy vực trên địa bàn huyện và tỉnh. Các
vùng cần xét tình hình thực tế nguồn sinh giống loài thủy sản cần được bảo vệ ở Gò
Công Đông đó là:
+ Khu vực 1 có diện tích 196ha, thuộc ấp Tân Phú, phía đông giáp biển Đông,
phía tây giáp rừng phòng hộ, phía nam giáp sân nghêu ông Nguyễn Văn Săn và phía
bắc giáp ranh giới xã Tân Điền.
+ Khu vực 2 có diện tích 30ha thuộc ấp Cây Bàng, phía đông giáp cồn nghêu
giống, phía tây giáp bãi biển, phía nam giáp sông Cửa Tiểu và phía bắc giáp sân
nghêu ông Võ Minh Hùng.
+ Vùng biển thuộc ấp Hộ, xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, có diện tích
600ha, phía đông giáp biển, phía tây giáp rừng, phía nam giáp ranh giới xã Tân
Thành, phía bắc giáp bãi biển.
+ Vùng ven sông thuộc xã Phước Trung - huyện Gò Công Đông có diện tích
20 ha, thuộc 2 khu vực. Khu vực 1 có diện tích 10ha, thuộc ấp Nghĩa Chí – xã
Phước Trung - huyện Gò Công Đông, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp
sông Cửa Tiểu, phía nam giáp xã Phú Đông, phía bắc giáp ấp Nghĩa Chí. Khu vực
2 rộng 10ha, thuộc ấp Dương Hòa - xã Phước Trung - huyện Gò Công Đông, phía
đông giáp tuyến sông về ấp Nghĩa Chí, phía tây giáp tuyến sông về ấp Bình Tân,
phía nam giáp xã Phú Thạnh, phía bắc giáp ấp Dương Hòa.
+ Vùng bãi thuộc xã Kiểng Phước diện tích 100ha, phía đông giáp biển, phía
tây giáp đê biển, phía nam giáp xã Tân Điền, phía Bắc giáp xã Vàm Láng.
- Quy hoạch về du lịch biển: đối với quy hoạch về du lịch biển, từ năm 2005
đến 2007, UBND huyện đã tiến hành một số quy hoạch chi tiết. Cụ thể trong năm
2005-2006, UBND huyện đã tiến hành quy hoạch chi tiết xây dựng khu du lịch
sinh thái biển Tân Thành. Với diện tích rộng 80,36 ha, kéo dài 3km từ cửa hàng du
lịch Tân Thành thuộc công ty Du lịch Tiền Giang đến Ban quản lí Cồn bãi huyện,
UBND huyện đã phê duyệt quy hoạch vùng đất này và triển khai công tác thực
84
hiện quy hoạch chi tiết xây dựng khu du lịch sinh thái biển Tân Thành. Với nguồn
vốn hơn 35,8 tỉ đồng, khu du lịch sẽ được phát triển đồng bộ, có hệ thống hạ tầng
kĩ thuật hoàn chỉnh gồm các khu nghỉ dưỡng, khu sinh hoạt giải trí, thể dục thể
thao sẽ đưa đến một khu du lịch sinh thái ngập mặn phục vụ nhu cầu về du lịch
biển cũng như vui chơi giải trí, dã ngoại, cắm trại, mua sắm… Tiếp đó Sở Thương
mại - Du lịch đã xây dựng 100m bờ kè biển theo công nghệ mới tại khu vực biển
Tân Thành với kinh phí trên 1,7 tỉ đồng. Năm 2007 Sở Thương mại - Du lịch thi
công thêm 200m kè biển và Trung tâm thông tin du lịch tại khu du lịch sinh thái
biển Tân Thành với kinh phí trên 3,5 tỉ đồng.
- Danh mục các chương trình, đề án, dự án nghiên cứu đầu tư (ban hành kèm
theo Quyết định số 1337/QĐ-UBND ngày 28 tháng 05 năm 2015 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Tiền Giang) trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH
huyện Gò Công Đông đến năm 2020
. Chương trình phát triển thủy sản (2015 – 2020).
. Đề án xây dựng Khu kinh tế Gò Công (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
. Dự án Cảng cá Vàm láng kết hợp trú bão (2015 – 2020).
. Khu Du lịch sinh thái Hàng Dương ( 2015 -2020)
. Khu Du lịch sinh thái biển Tân Thành (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
. Đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch khu vực biển Gò Công: Xây dựng đường giao
thông, kè đề biển, cầu tàu du lịch (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
- Danh mục các dự án ưu tiên đầu tư ban hành kèm theo Quyết định số
1337/QĐ-UBND ngày 28 tháng 05 năm 2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh Tiền Giang) trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH huyện Gò Công
Đông đến năm 2020
. Dự án nâng cấp đê biển Gò Công (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
. Tiểu dự án nâng cấp hệ thống kiểm soát xâm nhập mặn vùng Gò Công (
2015 -2020)
. Các công trình đê kè, di dân phòng chống sạt lở (2015 – 2020) – (2021 –
2030).
85
. Dự án gây bồi rừng phòng hộ ven biển bằng công nghệ kè mềm tại huyện
Gò Công Đông ( 2015 -2020).
. Dự án trồng rừng phòng hộ trên đất chưa sử dụng, ven sông Cửa Tiểu
huyện Gò Công Đông (2015 – 2020).
. Dự án chống xói lở, gây bồi và trồng cây chắn sóng bảo vệ tuyến đê biển
Gò Công, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang (2015 – 2020) – (2021 –
2030).
. Dự án chống úng Tân Thành (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
. Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Cửa sông Soài Rạp kết hợp bến Cá
Vàm Láng (2015 – 2020) – (2021 – 2030).
. Dự án đầu tư nâng cấp hệ thống công trình phục vụ dự án nuôi trồng thủy
sản Nam Gò Công (2015 – 2020).
. Dự án xây dựng hệ thống kênh lấy, tháo nước bên trong vùng nuôi tôm
giữa kênh Ba và đê biển kết nối với các cống dưới đê dự phòng và đê nhánh
(2015 – 2020).
. Chợ thủy sản Đèn Đỏ (2015 – 2020).
. Biến đổi khí hậu đối với sinh trưởng Con nghêu Gò Công (2015 – 2020) –
(2021 – 2030).
. Công trình phục vụ chiến đấu các Đồn Biên Phòng và Hải đội 2 (2021 –
2030).
3.3.7. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trong việc phát triển kinh tế biển
Vai trò quản lí của Nhà nước trong bất cứ lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh
tế không bao giờ có thể phủ nhận. Đối với kinh tế biển, cần quản lí tổng hợp về biển
nước ta rộng lớn, lại mang tính liên ngành, trong khi đó vẫn chưa thực sự có cơ
quản lí Nhà nước thống nhất quản lí mà còn phân tán lẻ tẻ ở nhiều bộ ngành và cơ
quan khác nhau gây thiếu tập trung, lõng lẻo. Vì vậy, cần nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lí của nhà nước về biển và kinh tế biển. Một số giải pháp cần ưu tiên trong
tăng cường vai trò quản lí Nhà nước trong việc phát triển kinh tế biển như:
86
- Xây dựng đường lối chủ trương đúng đắn, đi đôi với tăng cường giáo dục
nâng cao nhận thức, tăng cường tiềm lực bảo vệ biển trên các lĩnh vực.
- Đẩy mạnh quá trình nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống các chiến lược, kế
hoạch, quy hoạch và chính sách phát triển kinh tế xã hội cũng như kinh tế biển.
- Xây dựng phương thức tổ chức, chính sách và cơ chế phù hợp với nền kinh
tế nhiều thành phần và phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế biển có sự quản lí
của nhà nước.
- Đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lí các lĩnh vực liên quan
đến kinh tế biển. Đội ngũ cán bộ chuyên môn phải có trình độ nghiệp vụ cao, am
hiểu về các quan điểm, pháp luật.
- Mỗi vùng, địa phương có nền kinh tế biển phải được quản lí chặt chẽ, riêng
biệt bởi cơ quan Nhà nước nhất định, tránh chồng chéo, phân bổ không rõ ràng.
3.3.8. Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với bảo vệ môi trường
Chiến lược phát triển kinh tế biển nhất thiết phải gắn liền với chiến lược bảo
vệ tài nguyên môi trường theo hướng phát triển bền vững. Đảng ta đã đề ra chiến
lược biển đó là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, đảm
bảo chủ quyền quốc gia trên biển đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu chính là xây dựng và phát triển toàn diện các
lĩnh vực kinh tế xã hội, khoa học công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng an
ninh, bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có chiến lược và các
chương trình phát triển cụ thể mạnh mẽ để phát triển toàn diện tiềm năng tài nguyên
biển phục vụ phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường. Quy mô kinh tế biển ở địa
phương còn nhỏ bé, chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, các công trình hạ tầng kĩ thuật biển
còn yếu k m nên chưa thực sự chú trọng đến việc bảo vệ môi trường cũng như tài
nguyên biển. Để đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường lên tầm quan trọng xứng
đáng của nó, cần phải có chiến lược và các chương trình phát triển cụ thể, mạnh mẽ,
toàn diện; cũng như ra sức phát huy những thành tựu đạt được, đồng thời khắc phục
yếu kém, hạn chế mắc phải trong quá trình bảo vệ tài nguyên môi trường biển. Đi
87
đôi với tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
bảo vệ môi trường, cải thiện đáng kể tình hình môi trường cho nhân dân vùng biển.
Muốn phát triển kinh tế biển tốt cũng như bảo vệ môi trường, các giải pháp về phát
triển kinh tế biển như nguồn nhân lực, công nghệ khoa học, trình độ năng lực quản
lí của đội ngũ cán bộ… cần được quan tâm, chú trọng. Nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao, hiểu biết về pháp luật biển, tầm quan trọng của môi trường biển,
tài nguyên biển đối với phát triển kinh tế cũng như khoa học công nghệ luôn phải
gắn liền với bảo vệ môi trường biển mới đạt hiệu quả tốt nhất. Phát triển kinh tế nói
chung hay phát triển kinh tế biển nói riêng đều phải dựa vào nhiều yếu tố bên ngoài,
phải theo quy hoạch kế hoạch cần thiết, chứ không phải phát triển bằng mọi giá.
3.3.9. Phát triển kinh tế biển phải đi đôi với an ninh quốc phòng
An ninh quốc phòng luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu của một quốc gia bởi
an ninh quốc phòng được đảm bảo thì mọi hoạt động kinh tế của quốc gia hay cuộc
sống của người dân mới tốt nhất. Chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia không chỉ là
đất liền mà còn có thể gồm biển đảo, chính vì vậy, biển đảo luôn là một phần không
thể tách rời và cần được bảo vệ gìn giữ. Hoạt động kinh tế biển không chỉ làm giàu
cho đất nước, mà còn góp phần vào bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, gìn giữ trật tự an
ninh quốc phòng. Trong quá trình phát triển từ trước tới nay, nước ta đã hình thành
các trung tâm đô thị và kinh tế ven biển như Hạ Long, Hải Phòng, Vinh, Đồng Hới,
Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Hà Tiên… đưa nguồn nhân lực ven biển lên 25 triệu
người, trong đó có 13 triệu lao động tạo cơ sở hạ tầng, nguồn lực phục vụ quốc
phòng an ninh bảo vệ biển đảo.
Phát huy tiếp chủ trương, đường lối phát triển kinh tế biển đảo được đề ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm trong Đại hội XI của Đảng vào
tháng 1 năm 2011 nhấn mạnh: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế
và tiềm năng của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng an
ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.”
88
Để phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng an ninh, các chính quyền địa
phương cần:
- Đổi mới tư duy về biển đảo và kinh tế biển đảo, gắn kinh tế với quốc phòng,
có tầm nhìn xa trông rộng, vững vàng tư tưởng vươn ra biển lớn, gắn kết đất liền
với đại dương để xây dựng và phát triển văn hóa biển đảo, nhằm phát triển bền
vững và ổn định.
- Thực hiện tốt công tác quy hoạch bảo đảm cho sự phát triển chủ động. Chính
quyền địa phương cần phát huy năng lực, ra sức sáng tạp, phát huy lợi thế của mỗi
ngành, địa phương nhưng vẫn luôn có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên bảo vệ quốc
phòng an ninh.
- Tăng cường sự gắn bó giữa ngư dân, diêm dân, các tầng lớp dân cư vùng
biển ở huyện Gò Công Đông với các lực lượng vũ trang, nhất là Bộ đội Biên phòng
để giúp nhau sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tạo dựng lòng dân vững chắc cho
việc bảo vệ vùng biển và đảo của Tổ quốc.
- Nâng cao nhận thức của cán bộ các cấp ở địa phương về vai trò, vị trí và tầm
quan trọng của biển để họ ý thực được ý nghĩa, mối liên hệ mật thiết của việc phát
triển kinh tế biển và quốc phòng an ninh.
- Đẩy mạnh công tác kahro sát điều tra kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng
cường quốc phòng an ninh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
- Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển để khai thác có
hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế biển đồng thời bảo đảm tốt nhiệm vụ quốc phòng an
ninh trong mọi tình huống, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Phát triển kinh tế biển, đảo gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an ninh nhằm
hướng tới khai thác, quản lý, giữ gìn và bảo vệ biển, đảo một cách bền vững nhằm
góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là trách nhiệm không phải
của riêng ai mà chính là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến
địa phương.
89
Tóm tắt chương 3
Trong chương 3 tác giả đã chỉ ra cơ hội và thách thức trong việc phát triển
kinh tế biển của huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030. Đồng thời,
tác giả đưa ra định hướng trong việc phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông
tỉnh Tiền Giang đến năm 2030. Sau đó, tác giả đã nghiên cứu 9 giải pháp phát triển
kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang đến năm 2030 bao gồm: Hoàn
thiện hệ thống chính sách quản lý và phát triển kinh tế biển, Nâng cao năng lực
quản lý của bộ máy chính quyền, Huy động vốn đầu tư trong và ngoài huyện trong
việc phát triển kinh tế biển, Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho việc phát
triển kinh tế biển, Phát triển khoa học công nghệ, Tổ chức thực hiện quy hoạch phát
triển kinh tế biển, Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trong việc phát triển kinh
tế biển, Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với bảo vệ môi trường, Phát triển kinh
tế biển phải đi đôi với an ninh quốc phòng.
90
KẾT LUẬN
Sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, đặc biệt với chính sách mở cửa của Đảng
và Nhà nước ta, đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, các lĩnh
vực kinh tế tiếp tục phát huy sức mạnh của mình. Trong mỗi giai đoạn kinh tế nước
ta luôn có sự điều chỉnh để phù hợp từng giai đoạn. Bước vào thời kỳ mới dưới sự
lạnh đạo của Đảng đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế biển, "chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020" đã có nhiều thành tựu. So với mỗi giai đoạn, kinh tế biển Việt
Nam trong những năm đổi mới vừa qua đã có sự chuyển biển về chất và lượng. Đó
là sự cơ cấu ngành đã hợp lý hơn, đã xuất hiện những ngành kinh tế biển gắn với
khoa học - kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt thuỷ sản xa bờ, vận tải
biển, công nghiệp tàu biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Bên
cạnh đó những nghề truyền thống không bị mai một mà lại phát triển đi vào áp dụng
khoa học hiện đại, đã đưa lại năng suất chất lượng cao, tạo thêm nhiều việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động.
Với việc khai thác các nguồn lợi từ biển đã góp to lớn trong sự phát triển của
đất nước, nhất là xuất khẩu dầu, hải sản và du lịch, dịch vụ... đã đưa về ngoại tệ
lớn cho quốc gia. Trong bối cảnh chung đó có kinh tế biển của huyện Gò Công
Đông tỉnh Tiền Giang chủ yếu dựa vào phát triển du lịch, dịch vụ và khai
thác tài nguyên thuỷ sản đây là những mặt mạnh của tỉnh, đã góp phần quan trọng
vào sự nghiệp CNH,HĐH và xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người
lao động, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân trong tỉnh. Mặc dù
vậy, kinh tế biển huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang trọng tâm là du lịch và khai
thác và đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, hải sản xuất khẩu, kết quả mặt kinh tế - xã
hội là rất to lớn, tuy nhiên, kinh tế biển huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang vẫn
đang phát triển về chiều rộng, chưa có chiều sâu, dẫn đến tăng trưởng chưa
vững chắc. Như ngành du lịch còn bộc lộ những yếu điểm, lực lượng sản xuất
chưa chuyên nghiệp, trình độ chưa cao, còn mang tính thời vụ, dịch vụ đơn điệu
chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành đặt ra, về ngành thuỷ sản chủ yếu là
khai thác tài nguyên sẵn có, việc đầu tư khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công
91
nghệ còn nhiều hạn chế, việc nuôi trồng, đánh bắt mang tính nhỏ lẻ không có sự liên
kết đã cho thấy kinh tế biển phát triển là chưa bền vững. Bên cạnh đó, phát triển
kinh tế biển lại ít chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái và phá vỡ cảnh quan dẫn
đến nhiều tiềm ẩn, thách thức đe doạ sự phát triển bền vững của kinh tế biển. Nếu
không quan tâm có giải pháp kịp thời trong thời gian tới, có thể phải đầu tư rất
nhiều đê giả quyết môi trường sinh thái biển.
Kinh tế biển là kinh tế đa ngành nó gắn trực tiếp với đất liền và môi trường
biển, mà nền tảng đó là hệ sinh thái biển, rừng ngập mặn, cùng với công nghệ hiện
đại. Với đặc trưng của kinh tế biển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta cần duy trì những tiềm năng kinh tế biển một cách lâu dài và khai thác hiểu quả
phục vụ cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững. Kinh tế biển huyện Gò Công
Đông tỉnh Tiền Giang luôn phải hướng tới phát triển bền vững cho hôm nay và cho
mai sau, không thể vì trước mắt mà chúng ta làm cạn kiệt môi trường biển, mà phải
duy trì cho thế hệ mai sau. Đó là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình phát triển của
mình đáp ứng yêu cầu "chủ trương phát triển kinh tế biển ở huyện Gò Công Đông
tỉnh Tiền Giang đến 2030 và trở thành tỉnh có kinh tế biển phát triển vào năm
2030"
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương - Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng
(2015), Biển và hải đảo Việt Nam.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2015), Tình hình biển, đảo ở nước ta hiện nay
và một số giải phảp chủ yếu tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển góp phần
thực hiện thẳng lợi chiến lược biển Việt Nam đến 2020.
3. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (1996), Sổ tay biển, đảo Việt Nam.
4. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (2016), Một số vấn đề phát triển kinh tế
biển của Việt Nam.
5. "Biển và đảo Việt Nam” (2014), Tạp chí Công tác tư tưởng văn hóa.
6. Bộ Thuỷ sản (1996), Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội.
7. Bộ Thủy sản (2015), Báo cáo tổng kết 20 năm.
8. Chủ quyền trên hai quản đảo Hoàng Sa và Trường Sa (2015), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2005-2010), Niên giảm thống kê tỉnh Kiên
Giang 2005-2010.
10. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2011-2016), Niên giảm thống kê tỉnh Kiên
Giang 2011-2016.
11. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2015), Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang.
12. Dương Văn Hồng (2008) “Kinh tế biển Trà Vinh”, luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội.
13. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Kiên
Giang lần thứ XII.
14. Đỗ Thị Hà Thương (2016), “Huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế biển
tỉnh Thanh Hóa”, Luận án tiến sĩ kinh tế.
15. Đoàn Vĩnh Tường (2008), “Giải pháp về vốn đối với phát triển kinh tế biển
tỉnh Khánh Hòa”, Luận án tiến sĩ kinh tế.
16. Lê Thu Hoa (2007), Kình tế vùng ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn, Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội.
17. Lê Văn Lợi (2014) , trường đại học Kinh tế, đại học Quốc gia Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế “Khai thác hải sản ở tỉnh Quảng Bình theo hướng bền
vững”.
18. Lý Kim Thụy (2011), Luận văn thạc sĩ địa lý học “Phát triển kinh tế biển tỉnh
Cà Mau – thực trạng và giải pháp”.
19. Mạnh Hùng (2007), "Chiến lược biển Việt Nam tầm nhìn 2020", Tạp chí
Đảng Cộng sản.
20. Lê Thị Thanh Huyền (2007), "Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế biển
ở Đà Nẵng trong điều kiện hội nhập hiện nay", Tạp chí Kỉnh tế và phát triển,
(305).
21. Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc tỉnh
Kiên Giang, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
22. Hoàng Văn Thái (2009), “Kinh tế biển Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc
tế”.
23. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), Kình tể du lịch ở tỉnh Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Ngân Loan (2007), "Phát triển thị trường nguyên liệu của ngành
thủy sản Việt Nam trong quá trình hội nhập", Nghiên cứu kinh tế, (350).
25. Nguyễn Thụy Ngọc Trang (2011), “Tiềm năng, thực trạng và định hướng
phát triển kinh tế biển tỉnh Ninh Thuận”, Luận văn thạc sĩ Địa lí học.
26. Luật bảo vệ và phát triển rừng (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quan Văn Út (2013), Luận văn Thạc sĩ địa lí học, trường đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh “Phát triển kinh tế biển tỉnh Bạc Liêu: tiềm năng, thực
trạng và giải pháp”
28. Tạ Quang Ngọc (2007), “Để Việt Nam sớm trở thành một quốc gia mạnh về
biển và giàu lên từ biển”, Tạp chí Cộng sản, (777).
29. Trần Thị Thơm (2011), “Phát triển bền vững ngành thủy sản thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
30. Trịnh Huy Hồng (2014), “Phát triển kinh tế biển ở Hải Phòng”, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.