ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------

TRẦN THỊ NGOAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

Ở TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------

TRẦN THỊ NGOAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

Ở TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 6031 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS.TS. ĐINH VĂN THÔNG

Hà Nội – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận văn “Phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam

Định” là công trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham

khảo và trích dẫn đƣợc sử dụng trong Luận văn này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và đƣợc

ghi trong Danh mục các tài liệu tham khảo.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên!

LỜI CẢM ƠN

Trƣớc tiên, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hƣớng dẫn khoa

học PGS.TS. Đinh Văn Thông đã hết sức tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, và đồng hành

cùng tôi trong suốt quá trình làm Luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn các Giáo sƣ, Tiến sĩ, chuyên gia, nhà giáo đã đóng

góp nhiều ý kiến quý báu cho Luận văn của tôi thêm hoàn thiện về mặt nội dung và

hình thức. Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy/Cô giáo Khoa Kinh tế

chính trị, Trƣờng Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận

lợi về thủ tục và quy trình trong suốt quá trình làm Luận văn.

Xin đƣợc bày tỏ tình cảm tới bạn bè, đồng nghiệp - những ngƣời đã luôn

quan tâm, động viên, khích lệ cho tôi thêm động lực phấn đấu hoàn thành tốt khóa

đào tạo thạc sĩ.

Cuối cùng, xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới những ngƣời thân trong gia đình đã

luôn kề cận, động viên, giúp đỡ cả về mặt vật chất, tinh thần trong quá trình học tập

và đặc biệt là thời gian làm Luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................................. i

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ....................................................................................................................... ii

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN .......................................................................................................... 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ................................. 6

1.2. Cơ sở lí luận phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh Nam Định .................. 10

1.2.1. Quan niệm về kinh tế biển ....................................................................... 10

1.2.3 Nội dung phát triển kinh tế biển ............................................................... 24

1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế biển ................................................. 32

1.2.5. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của các quốc gia và một số địa

phương trong nước thời gian qua ...................................................................... 34

1.2.6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Nam Định nói

riêng trong xu thế phát triển kinh tế biển .......................................................... 42

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 47

2.1. Nguồn dữ liệu ................................................................................................. 47

2.2. Phƣơng pháp luận chung ................................................................................ 48

2.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng ............................................................ 48

2.2.2. Phương pháp duy vật lịch sử ................................................................... 48

2.3. Các phương pháp khác ............................................................................... 49

2.3.1 . Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu ................................... 49

2.3.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học ................................................... 50

2.3.3. Phương pháp thống kê mô tả ................................................................... 50

2.3.4. Phương pháp phân tích tổng hợp ............................................................ 51

2.3.5. Phương pháp so sánh .............................................................................. 52

2.3.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử .................................................... 52

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NAM ĐỊNH GIAI

ĐOẠNTỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA..................................... 55

3.1. Những tiềm năng và khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển của Nam

Định trong giai đoạn hiện nay ............................................................................... 55

3.1.1. Tiềm năng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .......................................... 55

3.1.2. Những lợi thế về kinh tế - xã hội .............................................................. 60

3.1.3. Những khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển ở Nam Định64

3.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến nay ..... 65

3.2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển ................................................................... 65

3.2.2. Phát triển sản phẩm ................................................................................. 68

3.2.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển. ......................................... 83

3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển ở Nam Định ............................... 85

3.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu trong quá trình phát triển kinh

tế biển ở Nam Định ............................................................................................ 85

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát

triển kinh tế biển ở Nam Định ........................................................................... 87

3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

theo hướng hiệu quả .......................................................................................... 91

CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở

NAM ĐỊNH ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030 ....................................................................... 94

4.1. Định hƣớng phát triển kinh tế biển của Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn 2030 . 94

4.1.1. Dự báo về cơ hội và thách thức đối với quá trìnhphát triển kinh tế biển ở

Nam Định ........................................................................................................... 94

4.1.2. Quan điểmphát triển các ngành kinh tế biển ở Nam Định đến năm 2020,

tầm nhìn 2030 .................................................................................................... 97

4.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 .................................................................... 99

4.2. Các nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu quả.101

4.2.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và tăng cường vai trò quản lý

của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế biển

có hiệu quả ...................................................................................................... 101

4.2.2. Nhóm giải pháp về vốn để phát triển kinh tế biển ở Nam Định ............ 105

4.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu phát triển

kinh tế biển ở Nam Địnhtheo hướng hiệu quả ................................................. 108

4.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường khảo sát,

thăm dò, đánh giá nguồn lợi và xây dựng kết cấu hạ tầng biển ở Nam Định ...... 111

4.2.5. Đảm bảo quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái ........................ 112

4.2.6. Một số các giải pháp khác và điều kiện thực thi ................................... 114

KẾT LUẬN ........................................................................................................................................ 117

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 118

DANH MỤC BẢNG

Stt Bảng Nội dung Trang

Bảng 3.1 Thống kê dân số tỉnh Nam Định từ 2011-2014 68 1

Diện tích, dân số, mật độ dân số phân theo các đơn Bảng 3.2 68 2 vị hành chính

Số ngƣời trong độ tuổi lao động tỉnh Nam Định giai Bảng 3.3 69 3 đoạn 2005-2014

Bảng 3.4 Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên so với tổng số dân 69 4

Tỷ lệ lao động trên 15 tuổi trở lên đang làm việc Bảng 3.5 70 5 trong nền kinh tế đã qua đào tạo

Diễn biến tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ giai 6 Bảng 3.6 73 đoạn 2000 – 2014

i

So sánh tổng số và công suất tàu thuyền của khu 7 Bảng 3.7 74 vực Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Stt Biểu đồ Nội dung Trang

Sơ đồ sản lƣợng thủy sản của các địa phƣơng

1 Biểu đồ 3.1 trongkhu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 84

ii

– 2011

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Biển tiềm ẩn và chứa đựng trong mình một nguồn tài nguyên vô cùng phong

phú, là môi trƣờng nuôi sống con ngƣời trong quá khứ, hiện tại và cả tƣơng lai. Xét

về mặt lịch sử phát triển của thế giới cho thấy, biển và kinh tế biển đóng vai trò đặc

biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia có biển; là nhân tố

thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Toàn bộ các biển và đại dƣơng chiếm tới 361 triệu km2( khoảng 71% diện tích bề mặt Trái đất). Có một ý kiến ví

rất hay rằng: “nhân loại nhƣ đang sống trên những hòn đảo khổng lồ” giữa các đại

dƣơng mênh mông của một quả cầu nƣớc. Hiện nay, cùng với tốc độ tăng trƣởng

kinh tế và dân số thì nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo

đƣợc trên đất liền đang ngày một cạn kiệt. Chính vì thế đặt ra một thực tế là các

quốc gia có biển đều có chiến lƣợAc phát triển hƣớng ra biển. Nhiều nhà kinh tế đã

cho rằng “ nền kinh tế tƣơng lai của loài ngƣời trƣớc hết là nền kinh tế gắn liền với

biển”, “ thế kỉ XXI là thế kỉ vƣơn ra biển”. Chính vì thế mà ngày nay, hầu nhƣ tất cả

các quốc gia có biển( kể cả các quốc gia không có biển) cũng đều chú ý đến việc

nghiên cứu khai thác nguồn lợi từ biển trong quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc. Với diện tích hơn 3,4 triệu km2, Biển Đông là một bộ phận nhỏ của Thái Bình

Dƣơng nhƣng lại có vị trí chiến lƣợc quan trọng, là nơi giao thƣơng của những

đƣờng giao thông huyết mạch đối với nhiều nƣớc, nối liền khu vực Đông Bắc Á với

Tây Thái Bình Dƣơng, Ấn Độ Dƣơng là vùng vịnh qua eo MaLacca. Biển Đông là

nơi có nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng.

Việt Nam có chủ quyền biển Đông theo công ƣớc quốc tế, với diện tích vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2( rộng gấp 3 lần diện tích đất liền), đƣờng bờ biển dài

3260 km. Chúng ta có những ƣu thế và vị trí chiến lƣợc đặc biệt quan trọng đối với

khu vực và trên thế giới. Việt Nam có một nguồn tài nguyên biển phong phú và đa

dạng, đây chính là một điều kiện vô cùng quan trọng và thuận lợi để thúc đẩy kinh

tế phát triển, mở ra cơ hội giao thƣơng với thế giới. Từ đó góp phần đắc lực phục vụ

1

cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nƣớc. Chiến lƣợc kinh tế biển của

Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối

đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, vùng ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo

thế và lực để phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của

Tổ quốc. Để đạt đƣợc mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là

xây dựng cơ cấu kinh tế vùng hƣớng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế

vùng ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Từ lợi thế về

vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc

phòng. Ngày 6/5/1993, Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03 –NQ/TW về một số nhiệm

vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trƣớc mắt. Trong đó khẳng định đẩy

mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cƣờng khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi

ích quốc gia. Ngày 22/9/1997, thì Bộ Chính Trị đã ban hành chỉ thị số 20 – CT/TW

về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hƣớng CNH, HĐH. Từ quan điểm chỉ đạo

trên, tại Hội nghị lần thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã thông qua

Nghị quyết về chiến lƣợc kinh tế biển Việt Nam đến năm 2020. Thực hiện theo

quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong hơn 20 năm đổi mới và mở cửa. Việt Nam đã và

đang ngày càng chủ động trong khai thác tiềm năng biển, sử dụng các nguồn lực

biển phục vụ tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế.

Đƣợc coi nhƣlà một trong những mắt xích quan trọng của hệ thống biển đảo

Việt Nam, Nam Định là một trong những tỉnh thành có tiềm năng lớn về lĩnh vực

phát triển kinh tế biển. Những năm gần đây, tỉnh Nam Định xác định việc phát triển

các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, khu sinh thái du lịch và nghỉ dƣỡng... là

hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển của địa phƣơng.Để thực hiện

mục tiêu đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch vùng kinh tế biển và phát

triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển. Phát triển

kinh tế biển đƣợc coi là “bệ phóng” cho mọi nền kinh tế, tập trung vào phát triển

kinh tế biển góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh Nam Định nói riêng, cũng nhƣ

góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nƣớc nói chung. Tuy nhiên, hiện nay việc

khai thác nguồn tài nguyên và lợi thế từ biển ở Nam Định mới chỉ dừng lại ở việc

2

khai thác tiềm năng, chứ chƣa có nhiều biện pháp hƣớng đến việc bảo tồn, phát

triển cho tƣơng lai theo hƣớng bền vững. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Phát triển

kinh tế biển ở Nam Định” với mục đích góp phần tạo ra những căn cứ khoa học

cho việc hoạch định các chủ trƣơng, chính sách phát triển, các kế hoạch đầu tƣ và

hợp tác, đồng thời đón nhận cơ hội đẩy nhanh quá trình phát triển, từng bƣớc đƣa

Nam Định trở thành một tỉnh mạnh về biển, xứng với những tiềm năng lớn của

nguồn tài nguyên này mà tỉnh có.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn về biển và phát triển kinh tế biển

của một số nƣớc trên thế giới và một số vùng của Việt Nam vào việc phân tích tiềm

năng và thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định. Từ đó đƣa ra phƣơng

pháp và giải pháp khả thi nhằm phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định theo

hƣớng bền vững.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày khái quát những lý luận cơ bản về kinh tế biển và những nhân tố

ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tế biển.

- Thu thập thông tin, số liệu, tƣ liệu khảo sát thực tế làm cơ sở để phân tích,

đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Địnhtrong giai đoạn từ năm

2000 đến nay.

- Căn cứ vào hiện trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định( thành quả và

hạn chế) để đƣa ra những định hƣớng nhằm phát triển kinh tế biển của tỉnh

trongtƣơng lai, đồng thời đƣa ra những giải pháp phát triển kinh tế biển một cách

hiệu quả và bền vững.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu vào các hoạt động phát triển kinh tế biển của

Nam Định trong một số ngành nhƣ: ngành thuỷ hải sản, du lịch biển, giao thông

vận tải biển, công nghiệp gắn với biển, …theo hƣớng bền vững, để từ đó làm rõ

3

những thành tựu và hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới. Trên cơ sở những

nhận thức đã có chỉ ra đƣợc định hƣớng và các giải pháp cơ bản cho quá trình phát

triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu kinh tế biển trong khuôn khổ vùng

biển tỉnh Nam Định. Để đảm bảo tính khoa học, chính xác của nhiệm vụ này, tác

giả giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào tình hình phát triển kinh tế biển ở

một số địa bàn nhƣ: Nghĩa Hƣng, Hải Hậu và Giao Thủy trong khoảng thời gian từ

2000 đến nay.

- Về thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung

nghiên cứu kinh tế biển tỉnh Nam Định trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.

4.1. Cơ sở lý luận

Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê

Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, đƣờng lối, chỉ thị, nghị quyết

của Đảng cùng những bài viết tổng kết về sự phát triển kinh tế biển Việt Nam của

các nhà quản lý, các học giả và một số công trình nghiên cứu khoa học khác.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp luận chung:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

4.2.2. Các phương pháp cụ thể:

Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mac – Lê Nin nhƣ:

- Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học.

- Phƣơng pháp logic kết hợp với phƣơng pháp lịch sử

- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.

- Phƣơng pháp so sánh.

- Phƣơng pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu, lập các bảng biểu…

4

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn:

- Đề tài luận văn đã góp phần làm rõ hơn lý luận về kinh tế biển cũng nhƣ

vai trò của nó trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và tromg nền kinh tế tỉnh Nam

Định nói riêng.

- Luận văn đã đánh giá khách quan những mặt mạnh, thành quả đạt đƣợc và

những mặt còn yếu, hạn chế của kinh tế biển ở Nam Định. Từ đó tìm ra nguyên

nhân và đề xuất những giải pháp giàu tính khả thi để góp phần phát triển kinh tế

biển nói riêng và kinh tế nói chung cho tỉnh Nam Định.

6. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần

nội dung của luận văn gồm 4 chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận chung về phát

triển kinh tế biển.

Chƣơng 2: Phương pháp nghiên cứu

Chƣơng 3:. Thực trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định giai đoạn từ

năm 2000 cho đến nay và những vấn đề đặt ra.

Chƣơng 4: Phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam

5

Định thời gian tới.

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT

TRIỂN KINH TẾ BIỂN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Trên cơ sở định hƣớng, chỉ đạo của Đảng và chính phủ về vấn đề biển đảo,

nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu sâu về kinh tế biển

với mục đích đề ra các giải pháp hiệu quả nhất cho việc phát triển chiến lƣợc biển

trong tƣơng lai.

Trƣớc hết, vấn đề kinh tế biển đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm. Để

tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần thứ tƣ Ban

chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa X) đã thông Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09

tháng 02 năm 2007 “Về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn

mạnh “Thế kỷ XXI đƣợc thế giới xem là thế kỷ của đại dƣơng”. Nghị quyết đã xác

định các quan điểm chỉ đạo về định hƣớng chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020,

đó là : Nƣớc ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở

phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ

cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với

tầm nhìn dài hạn. Trong đó cónhiều cơ quan, tổ chức đã cùng phối hợp, chủ trì các

hội thảo khoa học lớn nhƣ: “Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam”

đƣợc tổ chức ngày 11 tháng 02 năm 2007. Tại hội thảo, có nhiều bản tham luận cho

thấy một thực tế là, mặc dù thời gian vừa qua nƣớc ta đã chú trọng khai thác tiềm

năng biển, sử dụng các nguồn lực biển phục vụ tích cực cho công cuộc phát triển

kinh tế; khai thác dầu khí, thủy sản, du lịch, cảng biển,... trở thành những ngành

kinh tế quan trọng, có sức tăng trƣởng mạnh, tuy nhiên hiệu quả thu đƣợc từ trong

việc phát triển kinh tế nhờ lợi thế của biển vẫn chƣa thực sự đúng với tiềm năng

kinh tế vốn có của nó. Chính vì vậy cần phải xây dựng tầm nhìn chiến lƣợc đối với

6

việc phát triển thủy sản và kinh tế biển Việt Nam trong giai đoạn tới.

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định đã

phối hợp tổ chức hội thảo khoa học “Khai thác tiềm năng biển, đảo vì sự phát triển

bền vững của Nam Định và miền Bắc”. Hội thảo đã đề cập và thảo luận nhiều vấn

đề liên quan đến biển đảo.Trong đó tập trung đi vào trả lờimột số câu hỏi liên quan

đến việc, tại sao Việt Nam đƣợc đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn về kinh tế

biển, đảo nhƣng lại chƣa phát huy đƣợc một cách có hiệu quả? Vậy tiềm năng của

biển, đảo lớn đến đâu? Nguyên nhân nào mà chúng ta lại chƣa khai thác tốt đƣợc

tiềm năng này để phát triển nhanh và bền vững? Nhân tố nào đã tác động và chi

phối tới quá trình khai thác tiềm năng biển, đảo? Liệu truyền thống văn hóa biển

của miền Bắc nói chung có ảnh hƣởng tới xu hƣớng tiến ra biển, lấy kinh tế biển

làm trụ cột chính cho việc thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho miền Bắc

không? Để làm rõ những vấn đề trên, thì nhiều bài viết tại hội thảo đã tập trung vào

làm rõ hai nhóm vấn đề chính.

Thứ nhất, đó là những vấn đề liên quan đến các nhân tố ảnh hƣớng tới khai

thác tiềm năng, lợi thế biển, đảo nhƣ vai trò của hệ sinh thái đối với sự phát triển

bền vững của vùng; lợi thế và tiềm năng tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên và

môi trƣờng sinh thái biển, hải đảo cho sự phát triển bền vững; bàn về vị trí và những

nhân tố tác động đến sự phát triển bền vững của khu vực Bắc bộ Việt Nam.

Thứ hai, nhóm các vấn đề liên quan đến việc xem xét, đánh giá thực trạng

khai thác tiềm năng, lợi thế, định hƣớng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội biển,

đảo trên một số địa bàn nhƣ Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định…..Các

giải pháp đã tập trung vào phát triển du lịch, cảng biển, khai thác, nuôi trồng, chế

biển thủy sản, sản xuất kinh doanh dựa vào lợi thế biển, đảm bảo an ninh quốc

phòng và an toàn cho ngƣ dân vùng biển.

PGD. TS. Chu Đức Dũng với Đề tài cấp Nhà nƣớc “ Chiến lƣợc phát triển

kinh tế biển Đông của một số nƣớc Đông Á – Tác động những vấn đề đặt ra cho

Việt Nam” (Chu Đức Dũng, 2011). Trong đề tài này, tác giả đã trình bày một cách

toàn diện những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn về quản lý và phát triển kinh tế

7

biển. Một thành công lớn của đề tài làtác giả đã nêu lên một số quan điểm khá mới

mẻ về kinh tế biển nhƣ: Quản lý tổng hợp biển, phát triển trung tâm kinh tế biển,

phát triển kinh tế biển trong mối quan hệ chặt chẽ với biến đổi khí hậu, môi trƣờng

và phát triển bền vững. Tác giả đã nghiên cứu kỹ lƣỡng và sâu sắc kinh nghiệm phát

triển kinh tế biển của một số nƣớc Đông Á, điển hình là Trung Quốc và các nƣớc

Đông Nam Á, từ đó rút ra một số vấn đề chung có tính quy luật và có những gợi ý

chính sách cụ thể đối với phát triển kinh tế biển của Việt Nam.

PGS. TS. Bùi Tất Thắng, đã có nhiều bài viết về kinh tế biển. Trong bài viết

“Tầm nhìn kinh tế hải đảo: Bài học và cơ hội của Việt Nam” (Bùi Tất Thắng, Báo

Diễn đàn đầu tƣ, ngày 15/10/2012), PGS. TS. Bùi Tất Thắng đã luận giải một cách

khoa học về chiến lƣợc chính sách phát triển biển của Việt Nam đến năm 2020.

Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, trƣớc mắt cần chủ trƣơng tập trung xây

dựng mộtsố đảo có điều kiện thuận lợi và nhiều tiềm năng, từ đó tạo sự bứt phá cho

kinh tế biển, đảo, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn phù hợp với lợi thế của

vùng đảo nhƣ du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản,..nâng cao mức

đóng góp của kinh tế đảo trong kinh tế cả nƣớc. Các lĩnh vực trọng yếu cần ƣu tiên

trƣớc hết gồm: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kiên cố và hiện đại trên các đảo,

coi đây là khâu đột phá chính để thu hút đầu tƣ và khuyến khích nhân dân ra định

cƣ và lao động dài ngày trên các đảo và vùng biển quanh đảo; Phát triển một số

ngành/sản phẩm chủ lực, có lợi thế của kinh tế biển, bao gồm: Đánh bắt và chế biến

hải sản, du lịch biển, đảo, các ngành dịch vụ biển, đảo, phát triển các ngành/sản

phẩm kinh tế khai thác; Phát triển các lĩnh vực giáo dục, xã hội; Bảo vệ môi trƣờng,

phát triển bền vững, nghiên cứu khoa học – công nghệ biển; Tập trung xây dựng

một số đảo trọng điểm về kinh tế, trƣớc mắt là phát triển du lịch tạo sự bứt phá về

phát triển kinh tế biển, đảo trong thời gian tới thành các đảo có tầm cỡ khu vực và

quốc tế.

PGS.TS Trần Đình Thiên, trong bài viết “Về chiến lƣợc kinh tế biển của Việt

Nam” đã nêu rõ, đã đến lúc cần có những đột phá mới trong tƣ duy và chiến lƣợc

8

quản lý để phát triển kinh tế biển. Phải chuyển nhanh từ phƣơng thức “mò cua bắt

ốc” sang phƣơng thức kết hợp: khai thác mặt tiền + tự do hoá. Bên cạnh đó, còn có

nhiều thông tin, bài viết đƣợc đề cập đến phát triển kinh tế biển nhƣ:

- Luận án Tiến sỹ của Lại Lâm Anh về quản lý kinh tế biển: kinh nghiệm quốc tế và

vận dụng vào Việt Nam

- Ban tuyên giáo trung ƣơng: 100 câu hỏi – đáp về biển đảo

- Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam". Tuy nhiên

những nghiên cứu về chính sách phát triển kinh tế biển vẫn chƣa thỏa mãn với yêu

cầu phát triển. Hầu hết các công bố hay đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến

vấn đề này đang chỉ là những phác thảo một mặt nào đó về tiềm năng lợi thế vùng

biển, ven biển và tình hình khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển hiện

nay, đề xuất một số định hƣớng về cơ chế chính sách phát triển kinh tế biển trong

những năm tới.

Trong thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 05 tháng 09 năm

2007 về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020, tỉnh Nam Định đã xây dựng cho

mình qua các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh, các văn bản quy hoạch, chƣơng

trình phát triển kinh tế xã hội nói chung, kinh tế biển nói riêng. Đồng thời tỉnh cũng

đã ban hành nhiều chủ trƣơng, chính sách để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên để

có tính toàn diện, hệ thống cho phát triển kinh tế biển thì cần có những nghiên cứu

tổng thể mới đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, nhiều vấn đề

đƣợc đặt ra nhƣ: Tiềm năng biển và ven biển, các nguồn lực có lợi thếđể phát triển

kinh tế biển Nam Định là những gì? Điều kiện huy động các nguồn lực phát triển

kinh tế biển nhƣ thế nào? Những chính sách chủ yếu nào để khai thác tiềm năng, lợi

thế phát triển kinh tế biển của Nam Định? Những thành tựu, hạn chế và các giải

pháp chính sách cần đƣa ra? Kinh tế biển tỉnh Nam Định đóng một vai trò quan

trọng trong định hƣớng phát triển Nam Định thành trung tâm kinh tế - văn hoá của

vùng Nam đồng bằng Bắc Bộ.Do đó việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển tỉnh

Nam Định là cần thiết và phục vụ yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện hội

9

nhập và phát triển kinh tế hiện nay.

Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã phác họa một cách khá rõ nét về

hiện trạng phát triển kinh tế biển ở Việt Nam hiện nay, tuy nhiên vấn đề phát triển

bền vững kinh tế biển thì vẫn còn ít công trình khoa học đề cập và chƣa có hệ thống.

Mặt khác chƣa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu phát triển kinh biển

theo hƣớng bền vững cho Nam Định dƣới góc độ của kinh tế chính trị. Chính vì

vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng lặp với các công trình đã công bố.

1.2. Cơ sở lí luận phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh Nam Định

1.2.1. Quan niệm về kinh tế biển

1.2.1.1. Kinh tế biển là gì?

Trong xu hƣớng vận động, phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay, biển

đang là một mục tiêu mà nhiều quốc gia hƣớng tới. Với một thực tế là, các nguồn tài

nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống đã trở nên

bó hẹp, lạc hậu và không còn phù hợp nữa, nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lƣợc quay

ra biển và định hình các phƣơng án để tiến hành chiếm lĩnh biển khơi, từ đó đi vào

khai thác các nguồn lợi từ biển và hải đảo. Đồng thời biến đó thành các lãnh địa,

thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu,

năng lƣợng, thực phẩm và không gian sinh tồn của quốc gia mình trong tƣơng lai.

Chính vì thế, mà nhiều nhà chiến lƣợc kinh tế đã đánh giá thế kỉ XXI là “thế kỉ của

biển và Đại dƣơng”.

Đáp ứng xu thế chung của thời đại, với việc phê chuẩn công ƣớc của Liên Hợp

Quốc về luật biển 1982, Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết

tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích

sự phát triển và cung nhau hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8 năm 1977, Hội thảo

khoa học về biển lần thứ nhất đƣợc tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ phƣơng hƣớng

chiến lƣợc xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế biển. Trong

những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có một số Nghị quyết, chính

sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị quyết số

03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh

10

tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia” - trong đó nhấn

mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng sinh thái biển, phấn đấu trở thành

một quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển vào những năm 2020; Ngày

22/9/1997, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển

kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” chủ trƣơng phát triển đất

nƣớc thành một quốc gia mạnh lên từ biển, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia ...

Trên cơ sở của những phân tích đã có, cùng với sự tiếp thu có chọn lọc, tác giả

xin đề xuất quan niệm về kinh tế biển nhƣ sau:

“Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở

đất liền, có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ

biển.”

1.2.1.2. Cơ cấu kinh tế biển

Theo Quy đinh tại điều 43, chƣơng IV – Phát triển kinh tế biển trong “Chiến

lược biển Việt Nam”đã xác định rõ các ngành cụ thể trong cơ cấu kinh tế biển là:

“1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng

sản biển;

2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và

các dịch vụ hàng hải khác;

3. Du lịch biển và kinh tế đảo;

4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;

5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai

thác và phát triển kinh tế biển;

6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.”

Dựa trên nội dung của quy định này và căn cứ theo quan niệm về kinh tế

biển đã có, chúng ta có thể thấy rằng kinh tế biển là một ngành kinh tế đa dạng và

phong phú, bao gồm trong nó là một hệ thống các ngành kinh tế riêng lẻ có mối

quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến biển. Trong hệ thống kinh tế đặc trƣng đó bao

11

gồm những nhóm ngành cơ bản sau:

* Nhóm ngành công nghiệp biển: Nhóm ngành công nghiệp biển là các ngành

công nghiệp có liên quan mật thiết đến biển nhƣ: Công nghiệp sửa chữa đóng mới tàu

biển, công nghiệp chế biến hải sản, công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí…

*Nhóm ngành nông - lâm – ngư nghiệp biển: bao gồm các ngành kinh tế

đánh bắt, nuôi trồng thủy hái sản, làm muối, trồng và khai thác tài nguyên rừng

ngập mặn…

*Nhóm ngành dịch vụ biển:bao gồm các ngành nhƣ dịch vụ cảng biển (giao thông

vận tải biển, du lịch biển đảo, dịch vụ tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học biển…

Việc phân chia các ngành kinh tế biển nhƣ trên, về cơ bản chỉ mang tính

tƣơng đối và giúp ích cho công tác thống kê số liệu một cách tƣờng minh khoa học.

Còn về bản chất thì các ngành này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và khó phân

biệt một cách rạch ròi. Chính vì vậy trong quá trình nghiên cứu về kinh tế biển một

mặt chúng ta xét các ngành với tƣ cách là các ngành, nhóm ngành độc lập, bên cạnh

đó lại phải xem xét chúng trong một mối quan hệ biện chứng của các thành tố trong

một chỉnh thể thống nhất có mối liên hệ mật thiết ràng buộc lẫn nhau.

1.2.2. Vai trò của kinh tế biển

Với việc quan niệm kinh tế biển nhƣ trên, kinh tế biển sẽ có một vai

trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia nói chung và cho các địa phƣơng

nói riêng (trong đó có tỉnh Nam Định).

1.2.2.1. Kinh tế biển là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế

quốc dân và đồng thời là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.

Thực hiện chủ trƣơng phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nƣớc, từ năm

1986 trở lại đây, cùng với việc đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa đất nƣớc, các

lĩnh vực kinh tế biển cũng đã đƣợc tăng cƣờng và có những kết quả rất đáng khích

lệ. So với thời kỳ trƣớc, kinh tế biển của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đã có

bƣớc chuyển biến đáng kể. Kinh tế biển đã và đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng

góp phần cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế của cả nƣớc. Quy mô kinh tế biển và

vùng ven biển đang có xu hƣớng tăng lên, cơ cấu ngành, nghề có thay đổi cùng với

12

sự xuất hiện ngành kinh tế mới nhƣ khai thác dầu khí, tìm kiếm cứu hộ cứu

nạn…Năm 2000, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển bằng 47 % GDP cả nƣớc.

Năm 2005, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển bằng 48% GDP cả nƣớc, trong

đó, GDP của kinh tế biển chiếm khoảng gần 22% tổng GDP cả nƣớc. Hiện nay con

số này đã đạt ngƣỡng 50% tổng GDP cả nƣớc. Trong các ngành kinh tế biển, đóng

góp của ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, trong đó khai thác dầu khí

chiếm 67%; hải sản 14%; hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) hơn 11%; du

lịch biển hơn 9% (số liệu 2005) [2, tr.46]. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp

tới khai thác biển nhƣ đóng tàu, sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thuỷ

sản, hải sản, thông tin liên lạc…đã bƣớc đầu phát triển, nhƣng hiện tại thì quy mô

vẫn còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nƣớc).

Công nghiệp tàu biển: Trình độ, năng lực đóng, sửa chữa tàu so với trƣớc đây đã có

tiến bộ vƣợt bậc, hiện đại hoá một bƣớc theo hƣớng tập trung quy mô lớn, bƣớc đầu

có phân công chuyên môn hoá, vƣơn ra đóng tàu cỡ lớn, chuyên dùng đạt chất

lƣợng đăng kiểm quốc tế. Cơ cấu ngành nghề đang từng bƣớc có sự thay đổi lớn.

Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với

công nghệ - kỹ thuật hiện đại, ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo

theo sự phát triển của một số ngành khác nhƣ công nghiệp hoá dầu, giao thông vận

tải biển, đánh bắt xa bờ, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn...thƣơng

mại trong nƣớc và khu vực. Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan

trọng cho sự phát triển của đất nƣớc, nhất là cho xuất khẩu (dầu khí, hải sản...). Tính

đến hết năm 2010, lƣợng dầu thô xuất khẩu của nƣớc ta đạt gần 8 triệu tấn và kim

ngạch đạt 4,96 tỷ USD. Sang năm 2011 lƣợng dầu thô xuất khẩu đạt 8,24 triệu tấn,

tăng 3,3% và trị giá đạt 7,24 tỷ USD, tăng 46,1% so với năm 2010. Đơn giá xuất

khẩu bình quân đạt 879 USD/tấn (khoảng 115 USD/thùng), tăng 41,4% so với năm

trƣớc…Kinh tế biển đã đƣợc Đảng, Nhà nƣớc chú ý hơn và các công việc về biển

đã đƣợc tổ chức thực hiện nhiều hơn (hoạch định biên giới trên biển, ban hành

khung luật pháp, phát triển các hải đảo kết hợp bảo vệ quốc phòng, an ninh trên

13

biển).

1.2.2.2. “Mở rộng” kinh tế biển là đòn bẩy để khai thác các tiềm năng tự

nhiên phục vụ cho quá trình phát triển ngành và kinh tế quốc gia.

Việt Nam nằm ở rìa Biển Đông, vùng biển đƣợc đánh giá là có vị trí địa kinh

tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến

lƣợc phát triển không chỉ của các nƣớc xung quanh Biển Đông mà còn của một số

cƣờng quốc hàng hải khác trên thế giới. Ngoài ra, vùng biển Việt Nam còn có

nguồn tài nguyên phong phú và có tiềm năng lớn cho các ngành kinh tế phát triển.

Nƣớc Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn, quan trọng

của khu vực và thế giới. Theo Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982

thì Việt Nam hiện nay không chỉ có phần lục địa tƣơng đối nhỏ hẹp “hình chữ S” mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền.

Dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ

ra biển. Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, đƣợc phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với

những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lƣợc nhƣ Bạch Long Vĩ, Phú quốc,

Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trƣờng Sa...

Trong số các nguồn tài nguyên biển, trƣớc tiên phải kể đến dầu khí, một

nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ƣu thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Và thực tế

là dầu khí đã và đang có những tác động vô cùng mạnh mẽ đối với nền kinh tế của nƣớc ta. Trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt Nam, có tới 500.000 km2

nằm trong vùng triển vọng có dầu khí.

Trữ lƣợng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ

lƣợng dầu dƣới đáy Biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40.000 thùng/ngày (mỗi

thùng 159 lít), khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lƣợng dầu khí dự báo của toàn thềm

lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn quy dầu. Mặc dù so với nhiều nƣớc, nguồn tài

nguyên dầu khí chƣa phải là thật lớn, song đối với nƣớc ta nó có vị trí rất quan

14

trọng, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lƣợng khoảng 3.000 tỉ m3/năm.

Ngoài dầu và khí, dƣới đáy biển nƣớc ta còn có nhiều khoáng sản quý nhƣ:

thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nƣớc biển bình quân 3.500gr/m2. Vùng ven biển nƣớc ta

cũng có nhiều loại khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế nhƣ: than,

sắt, ti-tan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.

Nguồn lợi hải sản nƣớc ta đƣợc đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.

Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá

trị kinh tế cao với tổng trữ lƣợng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép

khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng,

trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi.Ngoài

cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao nhƣ

tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển…

Dọc ven biển có trên 370.000 ha mặt nƣớc các loại có khả năng nuôi trồng

thuỷ sản nƣớc mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu nhƣ tôm, cua, bống

bớp, rau câu… Riêng diện tích nuôi tôm nƣớc lợ có tới 300.000ha. Ngoài ra còn

hơn 500.000 ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ nhƣ vịnh Hạ Long, Bái Tử

Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trƣờng rất thuận lợi để phát triển

nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tƣơng lai có thể phát triển mạnh

ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản

lƣợng hàng chục vạn tấn/ năm.

Việt Nam cũng là quốc gia có bờ biển dài hơn 3.260km, nằm trong số 10

nƣớc trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ (không kể một số đảo). Tính bình quân cứ 100 km2 đất liền nƣớc ta có 1 km bờ

biển, con số này cao gấp sáu lần chỉ số trung bình của thế giới, đồng thời bờ biển lại

mở ra cả ba hƣớng Đông, Nam và Tây Nam, rất thuận lợi cho việc giao lƣu, thông

thƣơng với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Dọc theo bờ biển nƣớc ta có hơn 100

địa điểm có thể xây dựng hải cảng, trong đó một số nơi có thể xây dựng cảng nƣớc

sâu, quy mô tƣơng đối lớn (kể cả cảng trung chuyển quốc tế) nhƣ: Cảng Cái Lân và

15

một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La - Vũng

Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị

Vải...Riêng khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít

có khả năng xây dựng cảng biển lớn, nhƣng vẫn có thể xây dựng cảng quy mô vừa

ở Hòn Chông, Phú Quốc hoặc cảng sông Cần Thơ. Khả năng phát triển cảng và vận

tải biển là yếu tố trội cơ bản, là nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh tế biển

theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tài nguyên du lịch biển cũng là một ƣu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai

thác tổng hợp để phát triển mạnh. Dọc bờ biển Việt Nam có hàng trăm bãi tắm,

trong đó có rất nhiều bãi tắm đẹp, nƣớc biển trong xanh, cát trắng phẳng lì, có

những bãi tắm có chiều dài lên đến 15- 18km và nhiều bãi tắm có chiều dài 1-2km

đủ điều kiện thuận lợi khai thác phát triển du lịch biển. Các bãi biển của nƣớc ta

phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt các bãi

tắm đẹp nhƣ Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Lăng Cô, Mỹ Khê, Đại Lãnh,

Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên…

Chúng ta không chỉ có bờ biển dài mà còn có hệ thống đảo và quần đảo

phong phú, trải dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Theo thống kê, ven bờ nƣớc ta có 2.773 đảo lớn, nhỏ các loại với tổng diện tích vào khoảng 1.700 km2. Trong đó có 24 đảo có diện tích tƣơng đối lớn (trên 10km2), 82 đảo có diện tích lớn hơn 1km2 và khoảng 1.400 đảo chƣa có tên. Đặc biệt có ba đảo có diện tích trên 100km2 là Phú Quốc, Cái Bầu và Cát Bà.

Trên cơ sở của những tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng, việc mở rộng và

phát triển quy mô các ngành kinh tế biển đã giúp chúng ta phát huy đƣợc những thế

mạnh của mình so với các quốc gia khác. Phát triển kinh tế biển sẽ khai thác đƣợc

nhiều nguồn lợi từ thiên nhiên cụ thể là:

* Khai thác và nuôi trồng thuỷ, hải sản: Đây là nghề biển truyền thống có

thế mạnh của nƣớc ta, với vùng biển có nguồn sinh vật đa dạng, phong phú, hàng

năm có thể khai thác 1,5 - 1,67 triệu tấn, đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5

vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá [2, tr.228]. Số

16

lƣợng tàu tăng liên tục qua các năm. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản cho thấy,

2002, toàn ngành đánh bắt hải sản có khoảng 81.800 tàu, thuyền với tổng công suất

4,038 triệu CV, bình quân 49 CV/tàu, tăng 1.904 tàu so với năm 2001. Trong đó, cả

nƣớc có 6.675 tàu khai thác hải sản xa bờ, tăng 75 tàu so với năm 2001. Và tính đến

năm 2011 chúng ta có 130.000 tàu với công suất 7 triệu mã lực (CV). Chỉ tính riêng

năm 2012 tổng sản lƣợng thuỷ sản đạt 5,96 triệu tấn, tăng 7,9% so với năm 2011 và

tăng 2,9% so với kế hoạch. Tổng sản lƣợng khai thác thủy sản đạt hơn 2,65 triệu tấn

(tăng 6,0% so với cùng kỳ), trong đó, khai thác hải sản đạt 2,44 triệu tấn, tăng gần

6,1% so với năm 2011.

Cùng với đó, những năm qua, nghề nuôi trồng thủy hải sản Việt Nam cũng

có sự tăng trƣởng rất mạnh, thể hiện diện tích nuôi trồng hải sản năm 2012 tăng lên

115,4 % so với năm 2011. Nghề nuôi trồng hải sản đã có bƣớc phát triển khá, tăng

nhanh cả diện tích nuôi trồng lẫn sản lƣợng, ở cả 3 vùng nƣớc lợ, mặn, ngọt ven

biển (sản lƣợng nuôi trồng đã tăng 16%/năm). Nuôi trồng hải sản đã góp phần đáng

kể vào chuyển đổi mạnh trong cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển; chất lƣợng và giá

trị của sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ngày càng cao, nhất là tôm, đảm bảo

an ninh thực phẩm, đáp ứng nguyên liệu cho chế biến. Với những điều kiện khách

quan và chủ quan mới đầy thách thức, ngƣ dân đã không chỉ nuôi trồng thuỷ sản

trên đất liền mà còn mở rộng nuôi trồng thuỷ sản trên biển. Chỉ tính riêng hình thức

nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2001- 2004, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã

tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2001, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 23.989 chiếc, đến

năm 2004 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng lên 38.965 lồng, trong đó

nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là 8.850 lồng. Sản lƣợng nuôi lồng bè nƣớc

mặn năm 2001 đạt 2.635 tấn, năm 2004 đạt hơn 10.000 tấn .Thuỷ sản nuôi trên biển

có chất lƣợng và giá trị hàng hoá cao, có thị trƣờng tiêu thụ rộng mở, đƣợc khách

hàng thế giới ƣa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển đóng góp quan trọng cho xuất

khẩu. Nuôi trồng thuỷ sản biển còn giúp ngƣời dân có điều kiện tăng thu nhập, xoá

đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải

đảo. Từ đó là nhân tố đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế

17

chung của đất nƣớc.

*Công nghiệp chế biến hải sản, đặc biệt chế biến xuất khẩu trong những năm

qua đã đƣợc chú trọng đầu tƣ hơn, do vậy đã làm tốt vai trò mở đƣờng và cầu nối,

tạo thị trƣờng để nuôi trồng khai thác thủy hải sản phát triển. Đến nay, ở nƣớc ta đã

có 390 nhà máy chế biến thuỷ hải sản, trong đó có hàng trăm nhà máy đƣợc công

nhận đạt tiêu chuẩn, và 60% cơ sở chế biến đƣợc công nhận tiêu chuẩn vệ sinh an

toàn thực phẩm của ngành. Năm 2012, xuất khẩu thủy sản đạt trên 6 tỷ USD, gấp

11,7 lần năm 1998.

* Công nghiệp đóng tàu và các ngành công nghiệp phụ trợ: Vai trò của phát

triển kinh tế biển trong phát triển công nghiệp phụ trợ thể hiện rõ nhất là phát triển

ngành giao thông vận tải. Phát triển giao thông vận tải biển sẽ mang lại những lợi

ích nhƣ: phát triển giao thông vận tải biển giúp nối liền với nhiều quốc gia và có chi

phí vận tải thấp nhất nhƣng lại có thể đáp ứng khối lƣợng vận tải lớn nhất. Nhƣ vậy

chính sự phát triển của vận tải biển đã thúc đẩy thƣơng mại giữa các quốc gia và

vùng lãnh thổ ngày càng trở lên chiếm ƣu thế trong toàn ngành. Phát triển vận tải

biển thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động lực thúc đẩy phát triển cả

quá trình kinh tế.Vận tải bằng đƣờng biển hầu nhƣ không phải làm đƣờng mà chỉ

xây dựng cảng và mua sắm phƣơng tiện vận tải và trang bị hệ thống nhà xƣởng kho

bãi để lƣu trữ hàng hóa.

Song song cùng nhiệm vụ phát triển công nghiệp đóng tàu, ngành vận tải

biển còn thúc đẩy việc xây dựng hàng loạt cảng biển. Vì thế số lƣợng cảng ngày

càng tăng. Tính đến cuối năm 1995 nƣớc ta chỉ có hơn 70 bến cảng biển, và con số

này năm 2005 là 126 thì đến nay Việt Nam đã có 30 cảng biển hoạt động với 166

bến cảng, 350 cầu cảng với tổng chiều dài 45.000m, trải dài từ bắc chí nam gồm 6

nhóm: 1) nhóm cảng biển phía bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai,

v.v.); 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ (các cảng quan trọng là Nghi Sơn, Vũng

Áng); 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm

các cảng chính Hòn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất); 4) nhóm cảng biển Nam

Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha Trang, tƣơng lai

18

là Vân Phong); 5) Nhóm cảng vùng Đông nam Bộ (cảng Sài Gòn, Vũng Tàu - Thị

Vải và cảng Cái mép đang xây dựng) và 6) nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long,

có 4 cảng có công suất trên 10 triệu tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu

tấn/năm, còn lại đều là cảng quy mô nhỏ, khả năng neo đậu đƣợc tàu 3.000 tấn trở

xuống. Khối lƣợng hàng hoá qua cảng tăng nhanh, năm 1991 là 17,9 triệu tấn; năm

1995 tổng năng lực thông qua là 52,40 triệu tấn/năm; năm 1999 đạt 63 triệu tấn và

đến hết năm 2012, tổng công suất qua cảng của Việt Nam hơn 68 triệu tấn/năm, tốc

độ tăng bình quân 17%/năm. Bƣớc đầu hiện đại hoá phƣơng tiện xếp dỡ, qui hoạch

và sắp xếp lại kho bãi, xây dựng và nâng cấp thêm các cầu cảng nên năng lực xếp

dỡ đƣợc nâng cao, giải phóng tàu nhanh. Một số cảng đã và đang đƣợc nâng cấp và

mở rộng nhƣ Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần

Thơ. So với nhiều nƣớc trên thế giới thì nhìn chung quy mô cảng còn nhỏ nhƣng

thời gian qua hệ thống cảng biển Việt Nam đã đảm nhiệm thông qua hầu hết lƣợng

hàng ngoại thƣơng của ta và hỗ trợ một phần việc trung chuyển hàng hoá xuất nhập

khẩu của Lào, góp phần đƣa nƣớc ta từng bƣớc tiếp cận và hội nhập với khu vực và

thế giới. Hơn 80% khối lƣợng hàng xuất nhập khẩu đƣợc vận chuyển thông qua hệ

thống cảng biển. Hệ thống cảng biển phát triển, đẩy nhanh sự phát triển giao thông

vận tải biển. Đó là minh chứng rõ rệt việc kinh tế biển khai thác vị trí ven biển

thuận lợi của nƣớc ta.

* Nghề làm muối: Nƣớc ta với lợi thếđƣờng bờ biển dài 3.260 km, đã có 20

tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích 15.000 ha . Đã sản xuất

đƣợc bình quân 800 ngàn tấn đến 1,2 triệu tấn/năm, tạo việc làm hơn 90 nghìn lao

động. Đóng góp giá trị tƣơng đối lớn cho nền kinh tế. Sản lƣợng muối biển của

nƣớc ta giữ đƣợc mức tăng đều qua các năm.

*Công nghiệp dầu khí: Ngành dầu khí đƣợc xác định là một trong những

ngành chủ lực của kinh tế biển, có đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế quốc

dân. Qua các cuộc thăm dò đã xác định tiềm năng và trữ lƣợng dầu khí của Việt

Nam khoảng 3 - 4 tỷ m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỉ m3 dầu và 2100 - 2800 tỷ

m3 khí. Năm 2003 đã thác 17,6 triệu tấn dầu thô và 2,17 tỷ m3 khí; xuất khẩu dầu

19

thô đạt 17, 143 triệu tấn.

Với mức khai thác năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí, sản

phẩm dầu thô hầu nhƣ xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,44 tỷ USD,xét

trong toàn nền kinh tế thì dầu khí là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế

biển hiện nay. Từ năm 1990 đến năm 2006, Việt Nam đã khai thác và xuất khẩu

hơn 190 triệu tấn dầu thô, doanh thu từ xuất khẩu dầu thô giai đoạn 1991- 2000 đạt

trên 11,6 tỷ USD, đóng góp quan trọng cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế đất

nƣớc.

Hoạt động kinh doanh dịch vụ dầu khí cũng từng bƣớc phát triển theo hƣớng

hiện đại. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành nhƣ: dịch

vụ căn cứ, dịch vụ tàu thuyền, dịch vụ sửa chữa thiết bị dầu khí, dịch vụ dung dịch

khoan, vật tƣ, hoá phẩm cho khoan, dịch vụ phân tích các loại mẫu, gia công chế

tạo, lắp ráp các khối chân đế giàn khoan, xây lắp và bảo dƣỡng các công trình biển,

xây lắp các đƣờng ống dẫn dầu khí; bảo hiểm dầu khí, cung cấp lao động và dịch vụ

sinh hoạt đã đƣợc xây dựng.

* Du lịch biển: Vùng biển và ven biển Việt Nam tập trung tới ba phần tƣ khu

du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch của cả nƣớc. Trong những năm gần đây, các

địa phƣơng có lợi thế biển, đặc biệt là những địa phƣơng có vùng biển đẹp đã và

đang chọn mô hình phát triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn, tăng nguồn thu,

giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế

đầu tƣ, thƣơng mại, văn hoá, xã hội cho địa phƣơng mình.

* Giá trị hệ sinh thái biển: Ngày nay, giá trị kinh tế của các hệ sinh thái đƣợc

tính là tổng số của các nguồn lợi và tài nguyên không (hoặc chƣa sử dụng) gồm: Đa

dạng sinh học, du lịch, nghỉ ngơi, khoa học, giáo dục, chức năng sinh thái - bảo vệ

và bảo tồn… Vậy chúng ta thử đặt ra 1 câu hỏi: “1 ha rừng ngập mặn có giá bao

nhiêu?” Cách đây hơn 50 năm, các chuyên gia xếp đất rừng ngập mặn thuộc dạng

đất hoang và giá trị đất đai không đáng kể. Ngày nay, chỉ với giá trị mặt bằng đã

đƣợc các chuyên gia định giá khoảng 160 - 530 USD/ha/năm. Các nguồn lợi sử

dụng và nuôi hải sản, làm du lịch… đã tăng giá của rừng ngập mặn lên khoảng 95 -

20

98 nghìn USD/ha/năm. Còn giá trị chức năng sinh thái của hệ rừng ngập mặn có thể

nói là vô giá, tác dụng của rừng ngập mặn là phòng chống giảm nhẹ thiên tai, bảo

vệ đất ven sông, ven biển và cửa sông. Bên cạnh đó rừng ngập mặn vừa ngăn chặn

có hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho trầm

tích lắng đọng giữ hoa, lá, cành rụng trên mặt bùn và phân huỷ tại chỗ nên bảo vệ

đƣợc đất, tạo nên đất bồi ven biển, mở rộng đất liền ra biển, là nơi cƣ trú các loài

chim, khỉ, cá…tạo nên hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Theo kết quả nghiên cứu

của Viện Hải dƣơng học trong dự án “Đánh giá giá trị kinh tế - sinh thái của các rạn

san hô Đông Nam Á” (Việt Nam, Philíppin, Inđônêxia); kết quả bƣớc đầu, giá trị

tính ra đô la Mỹ trên diện tích 1 km2 của hệ sinh thái san hô Hòn Mun tại vịnh Nha

Trang (Lƣu ý là chỉ tại Hòn Mun, nơi có hệ sinh thái có đa dạng sinh học san hô cao

nhất Việt Nam hiện nay là 350 loài) , giá trị do khai thác cá là 36,207 nghìn USD,

giá trị do thu từ du lịch là 15 nghìn USD, còn giá trị chức năng sinh thái, bảo vệ bờ

là 60,145 nghìn. Tổng cộng là 111,352 nghìn USD/km2 . Đây là con số gây nhiều

ấn tƣợng nhƣng cũng chỉ bằng 37,9% so với tổng thu nhập từ hệ sinh thái rạn san hô

ở Maricanban của Philíppin (đạt đến 293,796 nghìn USD). Đây là điều mà tất cả

chúng ta phải suy nghĩ. Giá trị chức năng sinh thái của các vùng biển sẽ tạo ra

nguồn thu nhập cho con ngƣời cao hơn hàng chục lần, nếu không nói đến hàng

nghìn lần, so với những gì mà ngƣời dân ven biển đang nhặt nhạnh đƣợc hàng ngày

nhƣ hiện nay. Thực tế này đặt ra yêu cầu chúng ta cần phải có những biện pháp,

chính sách phù hợp để phát triển và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên sinh thái

biển.

1.2.2.3. “Kinh tế biển” là một biện pháp huy động, sử dụng và tổ chức phát

triển nguồn nhân lực địa phương một cách có hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hóa

và khu vực hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ.

Là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế nên việc phát triển kinh

tế biển sẽ góp phần huy động, sử dụng và tổ chức phát triển tối đa nguồn nhân lực

trong nƣớc và ở địa phƣơng. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những số liệu cụ

thể nhƣ: Cả nƣớc ta có khoảng 1/3 dân số sinh sống ven biển, trong đó 40% các

21

hoạt động kinh tế liên quan đến biển. Dân cƣ ven biển đƣợc đánh giá là một tiềm

năng lao động dồi dào của đất nƣớc. Hoạt động đánh bắt thủy hải sản đã tạo việc

làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá.

Du lịch biển đã tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cƣ ven biển.

Nghề muối củng tạo việc làm hơn 90 nghìn lao động.

Quá trình phát triển kinh tế biển hiện nay đã đặt ra những yêu cầu cấp bách

về khoa học công nghệ, kĩ thuật. Cùng với đó nhiều ngành mới trong kinh tế biển

cũng đƣợc ra đời để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng này, tất cả các nhân tố kể

trên đã làm cho kinh tế biển trở thành một nhóm ngành thu hút và giải quyết nhiều

việc làm cho nguồn cung lao động khá dồi dào của nƣớc ta, đặc biệt là ở các tỉnh

thành phố ven biển. Mặt khác nó cũng đã tổ chức nguồn nhân lực theo các hƣơng

chuyên môn hóa sâu sắc về các lĩnh vực cụ thể và tác động vào sự vận động, phát

triển trong chất lƣợng nguồn nhân lực để có thể chiếm lĩnh công nghệ khoa học, kĩ

thuật mới của ngành.

1.2.2.4. Phát triển kinh tế biển sẽ góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng,

giữ vững chủ quyền biển đảo quốc gia.

Biển là một không gian chiến lƣợc đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng an

ninh của đất nƣớc. Việt Nam có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài, địa hình bờ biển

quanh co, khúc khuỷu, có nhiều dãy núi chạy lan ra biển, chiều ngang đất liền có

nơi chỉ rộng 50 km (Quảng Bình), mạng lƣới sông ngòi dày đặc chảy theo hƣớng

Tây Bắc – Đông Nam. Với đặc điểm quy định của điều kiện tự nhiên mang tính

hƣớng ra biển rõ rệt nên việc bảo vệ phòng thủ biển đảo của Tổ quốc luôn mang

tính chiến lƣợc. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nƣớc ta cùng với dải đất

liền ven biển là một yếu tố thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự, điểm

tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp.

Ngày nay, trong công cuộc phát triển kinh tế xây dựng quốc gia, biển đảo đất nƣớc

gắn liền với vùng thềm lục địa đang triển khai mạnh công nghiệp, thăm dò và khai

thác dầu khí cùng với vùng đặc quyền kinh tế biển rộng lớn, Những điều đó đã tiềm

ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp quốc tế và âm mƣu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và

22

đặc quyền kinh tế biển Việt Nam. Vì thế, việc kết hợp kinh tế với an ninh quốc

phòng trên vùng này trở nên vô cùng thiết yếu, một "điểm nóng" trong chiến lƣợc

kinh tế biển Việt Nam là tất yếu khách quan để tồn tại và phát triển của đất nƣớc.

Phải có quan điểm toàn diện về an ninh - quốc phòng bao gồm: an ninh chính trị,

kinh tế, tài chính, thƣơng mại, văn hóa - xã hội, môi trƣờng sinh thái; chống diễn

biến hòa bình và chiến tranh kinh tế tài chính, chống xâm lƣợc, bảo vệ chủ quyền và

toàn vẹn lãnh thổ. Quan điểm này phải đƣợc quán triệt trong toàn bộ các khâu, các

bƣớc quy hoạch phát triển từ ban đầu đến khi triển khai thực hiện để tạo nên sức

mạnh tổng hợp của một địa bàn kinh tế trọng điểm có hai bộ phận là đất liền và

biển. Các vùng, các địa phƣơng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế phải luôn nâng

cao ý thức phục vụ an ninh - quốc phòng bằng những sản phẩm và công nghệ cao

của mình, chủ động đề xuất kế hoạch và khả năng của mình trong thời bình và thời

chiến, sẵn sàng ứng phó khi có "động viên". Ngƣợc lại các xí nghiệp, đơn vị an ninh

quốc phòng của Bộ và của địa phƣơng cũng phải có kế hoạch tham gia phát triển

kinh tế trong thời bình theo truyền thống của ông cha ta. Sự kết hợp hài hòa này bao

gồm cả trên Bộ, Biển, Không, cả tinh thần và vật chất, biến vùng này đồng thời

thành một khu vực phòng thủ chiến lƣợc vững chắc trong thời bình và thời chiến.

1.2.2.5. Phát triển “kinh tế biển” là bàn đạp để quốc gia đẩy mạnh hội nhập

kinh tế quốc tế.

Nƣớc ta có vị trí địa lý khá nhạy cảm do đó lĩnh vực kinh tế biển Việt Nam

có tính quốc tế cao nhất, bởi vì vùng biển của ta giáp với nhiều nƣớc, với đƣờng

hàng hải quốc tế, có các vùng biển tranh chấp lớn nhƣ Hoàng Sa, Trƣờng Sa, cho

nên vùng biển Việt Nam có tính quốc tế từ rất lâu. Các lĩnh vực dầu khí, hải sản, du

lịch, các hải cảng lớn nổi tiếng đều có liên quan đến quan hệ quốc tế.Nếu dừng quan

hệ quốc tế, kinh tế biển Việt Nam sẽ ngƣng trệ, không phát huy hết đƣợc tiềm năng,

thế mạnh của nó. Ngƣợc lại, khi quan hệ quốc tế đƣợc mở rộng, kinh tế biển sẽ phát

triển cao, giải quyết đƣợc thoả đáng các vấn đề tranh chấp tại Biển Đông, khai thác

và tiêu thụ các nguồn dầu khí và hải sản có hiệu quả, thu hút khách du lịch quốc tế...

Chúng ta đã có nhiều cố gắng đổi mới các chính sách thu hút FDI, thƣơng mại, hải

23

quan... Tuy nhiên chúng ta vẫn chƣa khai thác đƣợc đáng kể lợi thế địa kinh tế này.

Từ đó, vƣơn ra biển, khai thác và bảo vệ biển là sự lựa chọn có tính chất sống còn

của dân tộc Việt Nam, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá

X) đã ra Nghị quyết về “Chiến lƣợc biển Việt Nam đến 2020” Nhằm nhanh chóng

đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc mạnh về biển, bên cạnh đó còn đề ra các mục tiêu

và những giải pháp chiến lƣợc xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền

kinh tế thế giới. Hiện nay nƣớc ta đã xây dựng và có đƣợc quan hệ thƣơng mại song

phƣơng với trên 100 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ,

tham gia các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF), Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu

Á- Thái Bình Dƣơng (APEC), Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO)…Trong tƣơng

lai không xa, các hoạt động hợp tác song phƣơng, đa phƣơng sẽ diễn sâu rộng trong

nhiều lĩnh vực cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại…bên cạnh những

thuận lợi sẽ luôn tiềm ẩn những thách thức đòi hỏi chúng ta phải luôn có những

chính sách linh hoạt, mềm dẻo trƣớc tình hình thế giới biến động hết sức phức tạp

nhƣ hiện nay. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là tích cực hợp tác và đấu tranh

để thực hiện các cam kết quốc tế về biển. Đồng thời kiên quyết bảo vệ chủ quyền

vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trƣờng thuận lợi để nƣớc ta

mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật,đầu tƣ, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá

trang bị cho quốc phòng-an ninh; tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia

thành viên trong khu vực và quốc tế…, với mục đích cao nhất là ổn định để phát

trển đất nƣớc, sử dụng biển tƣơng xứng với tầm vóc của nó trong cơ cấu kinh tế

cũng nhƣ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.2.3Nội dung phát triển kinh tế biển

1.2.3.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển:

Để phát triển nền kinh tế nói chung thì một yếu tố cơ bản và giữ vai trò tiên

quyết đó chính là phát triển cơ sở hạ tầng. Và lĩnh vực phát triển kinh tế biển cũng

không nằm ngoài điều tất yếu đó.Cơ sở hạ tầng đƣợc xác định là một trong những

24

nhân tố rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế biển. Nó cũng chính là

yếu tố bảo đảm về điều kiện cho mọi hoạt động trong quá trình phát triển kinh tế

biển đƣợc thực hiện. Phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm các nội dung nhƣ: phát triển

hệ thống cơ sở lƣu trú, phát triển hệ thống nhà hàng; phát triển các trung tâm mua

sắm, các khu bán hàng lƣu niệm, các khu vui chơi, giải trí; phát triển các công ty

kinh doanh du lịch…Nhƣ vậy để phát triển kinh tế biển thì phải có hệ thống cơ sở

hạ tầng phát triển. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng thì phải có vốn, sự hỗ trợ từ Trung

Ƣơng hoặc sự đầu tƣ của các tổ chức, tập đoàn nƣớc ngoài.Những năm gần đây,

tỉnh Nam Định xác định việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển,

cảng biển... là hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển của địa

phƣơng.Theo đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch vùng kinh tế biển và

phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển.

1.2.3.2. Phát triển sản phẩm

Thứ nhất, phát triển số lƣợng sản phẩm riêng lẻ bằng cách: Gia tăng số

lƣợng các sản phẩm mới, đa dạng đồng thời duy trì, bổ sung, hoàn thiện và phát

triển những sản phẩm hiện có. Tạo ra sự liên kết nhiều dịch vụ thành sản phẩm

trọn gói mới nhƣ: Nhà nghỉ - tắm biển – thể thao – mua sắm; Nghỉ dƣỡng – tắm

biển – thể thao – hội thảo,….

Thứ hai, tiến hành nâng cao chất lƣợng sản phẩm kinh tế biển. Chất lƣợng

sản phẩm kinh tế biển đƣợc thể hiện qua những thuộc tính độc đáo, đặc thù, sự thân

thiện, … mang lại sự thích thú, hài lòng cho khách hàng khi sử dụng các sản phẩm

dịch vụ. Việc nâng cao chất lƣợng sản phẩm đƣợc thể hiện qua những khía cạnh

nhƣ: gia tăng số lƣợng các dịch vụ; gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng.

Một số sản phẩm điển hình của kinh tế biển:

* Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản

Với lợi thế về tự nhiên và tiềm năng sông, biển, bãi triều mặt nƣớc và nuôi

trồng thuỷ sản, ngành hải sản Việt Nam đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng

trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với nông nghiệp và lâm nghiệp thì ngành thuỷ hải

sản đã cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho toàn xã hội. Theo số liệu đã công bố

25

của Tổng Cục thống kê năm 2012, Tỷ trọng GDP của hải sản trong tổng GDP của

toàn quốc liên tục tăng, năm 2011 đạt 15.279 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2.6% GDP

trong toàn quốc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết TW4

(khoá X) về chiến lƣợc biển Việt Nam 2020 đã tiếp tục khẳng định ngành thuỷ sản

là một ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng phát triển mạnh nhất là về nuôi trồng,

cần phấn đấu vƣơn lên hàng đầu trong khu vực. Các địa phƣơng có biển đã nhận

thấy điều kiện phát triển thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lƣợc phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh mình. Từ chỗ chỉ là một nghề phụ trong sản xuất

nông nghiệp, ngành Thủy hải sản đã dần hình thành và phát triển nhƣ một ngành

kinh tế-kỹ thuật có đóng góp ngày càng lớn cho đất nƣớc và đã trở thành ngành kinh

tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ tăng trƣởng cao trong khối nông,

lâm nghiệp và thủy sản (4,48 % năm 2012, Tổng cục Thống kê). Đến nay, Thủy hải

sản Việt Nam đã có đƣợc một vị trí cao trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ

12 về khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản và thứ 4 về giá trị xuất khẩu thủy sản.

Từ đó, cũng chính sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy hải sản đã đóng góp vai trò

rất lớn vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền trên vùng lãnh hải và vùng đặc

quyền kinh tế của đất nƣớc. Cụ thể là, phát triển kinh tế biển nói chung và tăng

trƣởng kinh tế thủy sản nói riêng đã thu hút lực lƣợng dân sự hiện diện thƣờng xuyên

trên biển góp phần đảm bảo anh ninh quốc phòng. Ngƣợc lại, việc đảm bảo an ninh

quốc phòng sẽ tạo điều kiện để bà con ngƣ dân yên tâm vƣơn khơi bám biển để tiến

hành sản xuất, phát triển kinh tế thủy hải sản. Có thể khẳng định, sự hiện diện dân sự

của ngƣ dân trên biển đã và đang có vai trò hết sức quan trọng trong việc đồng thời

thực hiện phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc, đặc

biệt là trong giai đoạn vấn đề biển đảo đang trở thành vấn đề “nóng” và phức tạp nhƣ

hiện nay.

* Du lịch biển và kinh tế đảo

Việt Nam có tiềm năng to lớn về phát triển du lịch biển, với trên 3000km bờ

biển, hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, hàng loạt những bãi tắm cát trắng, nƣớc trong

xanh trải dài trên ven biển Việt Nam. Điều đó tạo những thuận lợi cho du lịch biển

26

Việt Nam phát triển. Việt Nam là 1 trong hơn 20 quốc gia có vịnh “đẹp nhất thế

giới”, đó là: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và vịnh Nha Trang (Khánh Hòa). Vịnh

Hạ Long (2 lần đƣợc UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới và đang

nằm trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên thế giới), vịnh Nha Trang –đƣợc

đánh giá là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng đƣợc Tạp

chí Forber bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh… Tính đến năm

2007, Việt Nam đƣợc UNESCO công nhận 6 “khu dự trữ sinh quyển thế giới” đó

là: Cát Bà (Hải Phòng), khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng trên địa bàn 2

huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Giao Thủy (Nam Định), Cần Giờ (TPHCM), vƣờn

quốc gia Cát Tiên thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai, biển Kiên Giang và khu vực Tây

Nghệ An cũng đã nói lên sức hút của biển Việt Nam đối với du khách trong và

ngoài nƣớc. Bên cạnh những giá trị tự nhiên, thì các yếu tố nhân văn giàu bản sắc

văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc: Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm…của vùng ven

biển cũng có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển du lịch biển. Nhiều địa bàn ven

biển và hải đảo nhƣ Hải Phòng - Quảng Ninh, Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam… hội

tụ đủ những giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn có giá trị tạo nên sức hấp

dẫn lớn về du lịch... Thực trạng phát triển du lịch biển trong những năm gần đây

cho thấy, vùng biển hàng năm thu hút khoảng 70% số lƣợng khách du lịch quốc tế

đến Việt Nam, trên 50% số lƣợt khách du lịch nội địa, khoảng 70% tổng thu nhập từ

du lịch của cả nƣớc. Dọc ven biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi

cho việc phát triển du lịch, trên 30 bãi biển đã đƣợc đầu tƣ và khai thác [3, tr.54]. .

Để du lịch biển Việt Nam ngày càng phát triển theo hƣớng bền vững, có nhiều bãi

biển, vùng biển đẹp mang tầm cỡ quốc tế, tổng cục Du lịch cần xây dựng các tiêu

chí về du lịch biển phân theo lợi thế vùng nhƣ: du lịch nghỉ dƣỡng, chữa bệnh; du

lịch thể thao giải trí biển; du lịch biển dã ngoại; du lịch biển nghiên cứu, thăm dò,

khám phá; du lịch biển bình dân; du lịch biển phức hợp... Các địa phƣơng muốn

khai thác du lịch biển sẽ dựa vào những tiêu chí ấy để quy hoạch, khai thác đảm bảo

phát triển kinh tế biển bền vững; Còn các cơ quan quản lý nhà nƣớc sẽ căn cứ vào

những tiêu chí đó để đánh giá, xếp hạng... cho từng vùng du lịch biển, từng khu du

27

lịch cũng dễ dàng hơn.

* Kinh tế hàng hải

Kinh tế hàng hải là một ngành kinh tế chủ yếu và quan trọng trong các ngành

kinh tế biển, bao gồm: Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền,

phƣơng tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác. Lịch sử phát triển của thế giới

cho thấy rằng những đột phá phát triển mang tầm thế giới cho đến nay hầu nhƣ đều

bắt nguồn từ những quốc gia – biển, nhƣ Italia vào thế kỷ XIV – XV, Nhật Bản nửa

cuối thế kỷ XX, và gần đây hơn hẳn là sự bùng nổ của một nƣớc Singapor bé nhỏ

và một Trung quốc khổng lồ. Dựa trên nền tảng là những lợi thế của biển, các nƣớc

này đã thi hành chiến lƣợc kinh tế mở và tạo ra những đột phá thành công. Kinh

nghiệm thế giới cũng cho thấy rằng mỗi thời đại phát triển lớn đều gắn với các đại

dƣơng. Những điều này cho thấy vai trò của biển đối với sự phát triển của một quốc

gia là quan trọng nhƣ thế nào. Tuy nhiên một đặc điểm chung là hầu hết các quốc

gia này đều có ngành hàng hải phát triển. Ngành hàng hải có lịch sử phát triển rất

lâu đời, song song cùng với sự phát triển của ngoại thƣơng trên thế giới. Sự ra đời

của ngành hàng hải giống nhƣ một sự khẳng định vững chắc thêm rằng biển và đại

dƣơng không những là cầu nối giữa các châu lục, các quốc gia, mà còn là tài sản vô

cùng quý giá của trái đất. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, với xu thế hội nhập quốc

tế thì hƣớng ra biển là một chiến lƣợc quan trọng đối với những quốc gia có biển,

trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu

thuyền cũng là một lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận và đóng góp lớn cho ngân

sách quốc gia. Các dịch vụ cảng biển cũng mang lại nguồn thu khá lớn cho các

doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Ngoài ra đây còn là lĩnh vực dịch vụ,

rất có điều kiện phát triển và mang lại lợi nhuận cao. Thứ hai, kinh tế hàng hải thúc

đẩy hình thành các trung tâm công nghiệp lớn và có sự liên kết chặt chẽ, thực tế ở

nƣớc ta có thể chứng minh điều này, nhƣ sự ra đời cụm cảng Cái Lân- Hải Phòng,

Cảng biển nƣớc sâu và khu công nghiệp Dung Quất – Quãng Ngãi, và gần đây nhất

là Khu công nghiệp Vũng Áng – Hà Tĩnh,... Thứ ba, Kinh tế hàng hải còn thúc đẩy

các ngành khác phát triển nhƣ : ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,... thông

28

qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Thứ tƣ, Sự phát triển của kinh tế hàng hải

tạo ra khối lƣợng việc làm lớn, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong những năm qua, số

lƣợng việc làm trong ngành hàng hải vẫn không ngừng tăng lên, nhu cầu về thuyền

viên luôn gia tăng cùng với sự gia tăng số tàu biển. Điều này góp phần quan trọng

trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Với đƣờng bờ biển dài trên 70km từ cửa Ba Lạt giáp tỉnh Thái Bình đến cửa

Đáy giáp tỉnh Ninh Bình, tỉnh Nam Định nằm ở vị trí trung chuyển khu vực phía

Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, có hệ thống giao thông đƣờng sông, đƣờng

bộ, đƣờng sắt nối liền với các vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Bắc. Nam Định

là tỉnh có nhiều lợi thế trong việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ cho các tỉnh, thành phố

trong khu vực. Nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển trên

địa bàn tỉnh và khu vực lân cận. Tỉnh Nam Định đƣợc Chính phủ cho phép đầu tƣ

xây dựng cảng biển Hải Thịnh để tiếp nhận tàu biển ra, vào làm hàng, dự kiến sản

lƣợng hàng hoá thông qua cảng từ 2 đến 3 triệu tấn/năm.

Căn cứ vào tình hình phát triển của khu vực, để thực hiện chức năng quản lý

nhà nƣớc về hàng hải tại khu vực cảng biển Nam Định, ngày 14/4/1998, Cục trƣởng

Cục Hàng hải Việt Nam đã ký Quyết định số 73/QĐ/TCCB-LĐ thành lập Cảng vụ

Hải Thịnh (nay là Cảng vụ hàng hải Nam Định). Cảng vụ hàng hải Nam Định có

trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về hàng hải theo Quyết định số 17/2008/QĐ-BGTVT

ngày 16/9/2008 của Bộ trƣởng bộ Giao thông vận tải về việc công bố vùng nƣớc

cảng biển thuộc địa phận tỉnh Nam Định và khu vực quản lý của Cảng vụ hàng hải

Nam Định. Trong đó có công bố vùng đón trả hoa tiêu cho tàu thuyền đến, rời cảng

biển Nam Định và mở rộng vùng nƣớc cảng biển Nam Định đến hạ lƣu chân cầu

Châu Thịnh để đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải và tạo điều kiện thuận lợi cho tàu

thuyền đến, rời và hoạt động trong khu vực cảng biển Nam Định.

* Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên,

khoáng sản biển

Tài nguyên biển rất đa dạng và phong phú. Trong số các nguồn tài nguyên

biển, trƣớc tiên phải kể đến dầu khí, đây là một nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ƣu

29

thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt

Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lƣợng dầu khí

ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lƣợng dầu dƣới đáy Biển

Đông. Có thể khai thác từ 30-40 nghìn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít), khoảng 20

triệu tấn/năm. Trữ lƣợng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10

tỷ tấn quy dầu [30]. Đối với nhiều nƣớc, có thể nguồn tài nguyên dầu khí chƣa phải

là thật lớn, song đối với nƣớc ta, nó lại có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai

đoạn đất nƣớc ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt

Nam còn có khí đốt với trữ lƣợng khoảng 3 nghìn tỷ m3/năm. Ngoài dầu và khí,

dƣới đáy biển nƣớc ta còn có nhiều khoáng sản quý nhƣ: thiếc, ti-tan, đi-ri-con,

thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa

trong nƣớc biển bình quân 3.500gr/m2. Vùng ven biển nƣớc ta cũng có nhiều loại

khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế nhƣ: than, sắt, ti-tan, cát thuỷ

tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.

* Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ về khai

thác và phát triển kinh tế biển

Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam đƣợc đánh giá là khá phong phú và

đa dạng, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nƣớc. Chính

vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ đƣợc xác định là

nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy nền kinh tế biển phát triển mạnh

mẽ hơn. Hiện nay, chúng ta đã tập hợp, liệt kê đƣợc hệ thống số liệu về điều kiện tự

nhiên nhƣ địa hình, địa mạo, địa chất, khí tƣợng, hải văn, các hệ sinh thái và sinh

vật biển đảo. Từ đó đƣa ra những đánh giá, dự báo triển vọng và định hƣớng tìm

kiếm khoáng sản biển, nhất là dầu mỏ, khí đốt và hydrate; các loại năng lƣợng biển

nhƣ (nhiệt độ, gió, thủy triều và sinh khối); tiềm năng sử dụng nƣớc và đất ngập

mặn ven bờ. Hệ thống sinh thái biển, vùng bờ biển và hải đảo với hơn 12 nghìn loài,

phân bố của các khu hệ sinh thái, những đặc trƣng cơ bản về đa dạng sinh học và

một số quá trình sinh học, năng suất sinh học các vùng biển... Xây dựng hệ thống

phân tích đánh giá môi trƣờng nhƣ xây dựng các thông số kỹ thuật, các quy trình

30

giám sát và quan trắc môi trƣờng; ứng phó tràn dầu trên biển; cung cấp cơ sở cho

soạn thảo và ban hành các kế hoạch chiến lƣợc, các quy chuẩn quốc gia về tài

nguyên môi trƣờng biển...Bên cạnh đó các nhà khoa học của Việt Nam còn tham gia

trong các chƣơng trình hợp tác quốc tế nghiên cứu biển dƣới các hình thức song

phƣơng, đa phƣơng, các chƣơng trình quốc tế, các nhiệm vụ nghị định thƣ nhà

nƣớc; hợp tác nghiên cứu đƣợc ký kết giữa cấp viện và trƣờng đại học với nhiều

hình thức hợp tác khá đa dạng và phong phú. Ðồng thời, tham gia với các tổ chức

và mạng lƣới nghiên cứu quốc tế nhƣ ủy ban Hải Dƣơng học Liên chính phủ; Hội

Khoa học Thái Bình Dƣơng, Tiểu ban Môi trƣờng biển Ðông - Nam Á... với nhiều

chuyến khảo sát đƣợc thực hiện ở vùng biển Việt Nam và Biển Ðông. Tuy nhiên,

thực tế cho thấy, hiện nay chất lƣợng nghiên cứu khoa học công nghệ biển chƣa

đồng đều và tính ứng dụng chƣa cao. Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên

nhân là do chúng ta chậm có chiến lƣợc phát triển khoa học công nghệ biển dẫn đến

hạn chế về tầm cỡ, quy mô, trọng tâm, tính liên tục, tính kế thừa của các nhiệm vụ

nghiên cứu. Từ đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến độ và tiềm lực phát triển khoa

học công nghệ biển thời gian qua. Ðội ngũ cán bộ khoa học biển tuy đã đƣợc hình

thành, nhƣng vẫn còn yếu về cơ cấu chuyên môn, hạn chế về cả số lƣợng và chất

lƣợng, nhất là thiếu các chuyên gia có trình độ cao do hầu hết cán bộ từ đầu không

đƣợc đào tạo về khoa học công nghệ biển. Cơ sở hạ tầng còn yếu, phƣơng tiện,

trang thiết bị phần lớn lạc hậu, cũ kỹ; thiếu nền tảng tài liệu quan trắc, điều tra cơ

bản và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Ðầu tƣ kinh phí hạn chế, nguồn vốn chủ yếu

vẫn là từ nguồn ngân sách nhà nƣớc; chính sách khuyến khích, hỗ trợ cán bộ khoa

học công nghệ biển, nhất là chế độ ƣu đãi nhằm thu hút cán bộ nghiên cứu trẻ về

công tác trong lĩnh vực này vẫn chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mức.

1.2.3.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển

Đứng trƣớc những tiềm năng to lớn về biển, hải đảo tổ quốc, vấn đề phát

triển kinh tế biển, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đặc biệt trong bối

cảnh hiện nay là ứng phó với biến đổi khí hậu. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn xác định

phát triển con ngƣời là một đặc trƣng không thể thiếu đƣợc trong sự nghiệp của xã

31

hội xã hội chủ nghĩa. Thông qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng, Đảng ta đã nhận thức

đầy đủ và sâu sắc hơn con ngƣời và những kiến thức khoa học đƣợc trang bị cho

con ngƣời chính là nguồn vốn quý giá nhất, quyết định đến sự phát triển của xã hội,

ngay từ trƣớc đây, Bác Hồ đã có câu nói kim chỉ nam là “muốn xây dựng chủ nghĩa

xã hội phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa”. Tại hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành

TW khoá 10 đã thông qua nghị quyết về chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020,

trong đó vấn đề phát triển nguồn nhân lực biển đƣợc xác định là một giải pháp có

tầm quan trọng đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng biển

và vùng ven biển.Cụ thể bao gồm các việc nhƣ: đào tạo các cán bộ nghiên cứu khoa

học, cán bộ quản lý, các chuyên gia đầu ngành và đội ngũ lao động có trình độ

nghiệp vụ chuyên môn cao đƣợc đào tạo chuyên sâu về các ngành nghề, đi đôi với

nó là các cơ chế chính sách hợp lý khuyến khích các cán bộ khoa học và quản lý

công tác tại các vùng biển, hải đảo xa xôi. Đứng trƣớc yêu cầu, nhiệm vụ chính trị

đặc biệt đặt ra trong tình hình mới, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam - một cơ

quan quản lỳ nhà nƣớc về biển và hải đảo cần nhận rõ vai trò trách nhiệm to lớn của

mình trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng và tiếp cận cán bộ phụ vụ công tác quản lý

nhà nƣớc tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo đánh giá kỹ thực trạng đội ngũ

cán bộ và xác định nhu cầu đào tạo, đề ra các phƣơng hƣớng, giải pháp thích hợp

trong qui hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành Tài nguyên – Môi

trƣờng để từng bƣớc sớm vƣợt qua những tồn tại, khó khăn hiện nay về đội ngũ cán

bộ khoa học và quản lý, tránh tụt hậu trong tƣơng lai đối với lĩnh vực này trong giai

đoạn 2015-2020.

1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế biển

1.2.4.1. Hiệu quả kinh tế

Tăng trƣởng kinh tế đƣợc hiểu là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong

một khoảng thời gian nhất định. Và sự gia tăng này thể hiện ở quy mô và tốc độ.

Trong đó, quy mô tăng trƣởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng

trƣởng thì lại phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm qua các thời kỳ. Phát triển kinh

tế đƣợc hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó nhƣ là quá trình biến

32

đổi cả về lƣợng và chất của nền kinh tế, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn

thiện của hai vấn đề: kinh tế -xã hội ở mỗi một quốc gia. Tăng trƣởng kinh tế có thể

là yếu tố trọng tâm để đạt đƣợc phát triển kinh tế, nhƣng để phát triển kinh tế thì cần

phải có nhiều yếu tố nữa, chứ không chỉ đơn thuần là chỉ có tăng trƣởng. Không chỉ

là mức thu nhập đầu ngƣời mà còn là cách thức để tạo ra những thu nhập ấy. Những

nguồn thu nhập ấy đƣợc tiêu dùng, và đƣợc phân phối ra sao đó sẽ là tiêu chí quan

trọng để xác định kết quả phát triển. Kinh tế biển là một phần rất quan trọng trong

nền kinh tế nói chung. Những năm gần đây kinh tế biển và vùng ven biển đã đóng

góp gần 50% tỷ trọng trong tổng giá trị GDP của cả nƣớc.

1.2.4.2. Hiệu quả về mặt xã hội

Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả xã hội của phát triển kinh tế biển

nhƣ sau: Số lao động có việc làm tăng thêm. Đây là một trong những chỉ tiêu khá

quan trọng trong hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế. Nếu số lƣợng việc làm tăng

thêm tức là tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống và khi ngƣời lao động đã có việc làm,

có thu nhập thì tất yếu tệ nạn xã hội sẽ giảm đi,..Bằng nguồn vốn ngân sách nhà

nƣớc, huy động dân cƣ và viện trợ, tài trợ của các tổ chức nƣớc ngoài, lĩnh vực xã

hội thƣờng xuyên đƣợc quan tâm phát triển. Các chƣơng trình quốc gia: phổ cập

giáo dục, xoá đói giảm nghèo, nƣớc sạch nông thôn,... đã góp phần nâng cao đời

sống nhân dân và đổi mới bộ mặt của vùng kinh tế nông thôn, vùng biền và ven

biển. Cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn đƣợc đầu tƣ phát triển tƣơng đối đồng

bộ.Công tác chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã mang lại nhiều kết quả

tích cực. Các chƣơng trình kế hoạch hoá đầu tƣ từ cộng đồng đƣợc chú trọng tiến

hành, có sự tham gia ý kiến của nhân dân vào các khâu: quy hoạch, tiến hành đầu

tƣ, triển khai dự án…về các công trình phúc lợi chung nhƣ: điện, đƣờng, trƣờng,

trạm, vệ sinh nƣớc sạch, chợ, thuỷ lợi nhỏ. Các tác động khác nhƣ: Chi tiêu cải

thiện đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời dân, cải thiện chất lƣợng hàng tiêu

dùng và cơ cấu hàng tiêu dùng của xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện

33

môi trƣờng sinh thái, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và sức khoẻ…

1.2.5. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của các quốc gia và một số địa phương

trong nước thời gian qua

Trong kỉ nguyên vƣơn ra khơi của các quốc gia có biển, nhiều nƣớc đã và

đang đẩy nhanh quá trình khai thác, phát triển kinh tế biển của mình nhằm tạo tiền

đề cho sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Mỗi nƣớc đã lựa chọn và tìm một

con đƣờng một hƣớng đi riêng cho mình và thông qua việc nghiên cứu những con

đƣờng đó, chúng ta sẽ lựa chọn cho mình một hƣớng đi thực sự đúng đắn, khoa học

và phù hợp.

1.2.5.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của một số quốc gia trên thế giới

Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của Trung Quốc

Trung Quốc có khoảng 4 triệu lao động đang làm hoặc công tác trong các

lĩnh vực liên quan đến biển, khoảng 300 nghìn tàu thuyền các loại, giá trị các sản

phẩm biển từ 8 tỉ NDT năm 1980 tăng lên tới 350 tỉ NDT năm 1999, trình độ khoa

học kỹ thuật biển không ngừng đƣợc nâng cao, công tác nghiên cứu, thăm dò đã

tiến vào Thái Bình Dƣơng, Nam cực và Bắc cực; tính đến năm 2006 giá trị tổng sản

lƣợng hải sản đã đạt trên 2.095 tỉ NDT, đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế

quốc gia. Để đạt đƣợc những kết quả đó, Trung Quốc đã xây dựng cho mình một

chiến lƣợc biển mang tính định hƣớng lâu dài.

Với ƣu thế của một quốc gia có tiềm năng về kinh tế biển, Trung Quốc đã và

đang có chính sách hƣớng biến điển hình ở khu vực Đông Á. Với diện tích hơn 9, 5

triệu km² , kết cấu địa hình cơ bản là núi non, cao nguyên, sa mạc và bình nguyên

châu thổ, đặc biệt đã đƣợc các chế độ trƣớc đây khai thác triệt để, chính vì thế vƣơn

ra chinh phục và khai thác biển đƣợc xác định là con đƣờng sống còn của quốc gia

này. Đƣờng bờ biển dài hơn 14 nghìn km đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc

lấn biển của quốc gia này trong những năm gần đây.Trung Quốc đã đƣa ra một

chiến lƣợc phát triển kinh tế biển khá cụ thể.

Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình, Trung Quốc xác định “Đại

khai phá miền Tây” và “Trở thành cƣờng quốc biển” là hai nhiệm vụ trọng tâm

34

trong thế kỉ XXI. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ, tiến hành đồng thời để

làm bàn đạp và tiền đề cơ sở cho nhau để cùng đƣợc thực hiện. Bên cạnh đó để bảo

đảm cho chiến lƣợc kinh tế biển đƣợc thực thi, Trung Quốc cũng tiến hành đồng

thời cả chƣơng trình an ninh quốc phòng biển đảo, phát triển khoa học công nghệ

biển và bồi dƣờng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế biển quốc gia.

Chúng ta có thể thấy nội dung cơ bản chiến lƣợc biển của Trung Quốc đƣợc thể

hiện khá rõ ràng ở các chính sách kinh tế vĩ mô.

Từ khi cải cách nền kinh tế, mở cửa kinh tế quốc gia này đã chú trọng tập

trung vào phát triển kinh tế - xã hội của các thành phố cảng chạy dọc dải ven biển

nhƣ: Thƣợng Hải, Thiên Tân, Quảng Châu, Vũ Hán, Thẩm Quyến, Sán Đầu….; Có

thể thấy rằng Trung Quốc chú trọng đầu tƣ phát triển các thành phố ven biển này để

làm cửa ngõ giao lƣu thƣơng mại quốc tế và làm đầu tàu kéo toàn bộ nền kinh tế

phát triển, đây là bài học quý giá trong việc phát huy yếu tố lợi thế của biển và vùng

ven biển.

Trong quá trình phát triển, kinh tế của các thành phố ven biển tạo thành đòn

bẩy cho toàn bộ nền kinh tế, Trung Quốc đã chủ trƣơng không ngừng nâng cao trình

độ mở cửa, chuyển sang trạng thái hƣớng ngoại bằng việc thực hiện chính sách “3

ngoài cộng 1 trong” – vốn, khoa học công nghệ, thị trƣờng nƣớc ngoài kết hợp với

nguồn nhân lực trong nƣớc. Nguồn vồn FDI đầu tƣ cho các thành phố ven biển để

phát triển các ngành trọng điểm nhƣ: thƣơng mại, du lịch, dịch vụ gắn với cảng

biển…ngày càng có xu hƣớng tăng lên. Qua những phân tích trên cho ta thấy, Trung

Quốc đang rất tích cực và chủ động trong việc khai thác tiềm lực biển của quốc gia

để thực hiện thành công chiến lƣợc phát triển kinh tế biển của mình.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của Singapore

Nằm ở cực nam bán đảo Mã-Lai, với 54 hòn đảo, tổng diện tích chỉ có 692,7

km2, số dân 4,240 triệu ngƣời, Singapore hầu nhƣ không có nguồn tài nguyên gì

đáng kể, về nguyên liệu cũng rất ít loại, nghèo cả về số lƣợng lẫn trữ lƣợng, chỉ có ít

than, chì, nham thạch, đất sét. Không có nƣớc ngọt, đất canh tác hẹp, nông nghiệp

không phát triển, hằng năm phải nhập lƣơng thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở

35

trong nƣớc.Nhƣng Singapore đƣợc mệnh danh là quốc đảo nhỏ đầy năng động. Có

đƣợc kết quả này là do Singapore đã tận dụng toàn bộ những thuận lợi về vị trí địa

lý của mình để làm tiền đề phát triển kinh tế xã hội một cách có hiệu quả cao nhất.

Có bờ biển dài 193 km, nằm trên vị trí “ngã tƣ phƣơng Đông”, Singapore đã

xây dựng đƣợc một cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng

đầu châu Á và thế giới nhƣ: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công

nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore còn là trung tâm lọc

dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Khai thác những ƣu thế về biển,

quốc đảo này đã tập trung cao độ cho việc phát triển lĩnh vực cảng biển. Từ năm

1986 cho đến nay, số lƣợng tàu và trọng tải tàu biển cập cảng, quá cảnh…ở

Singapore luôn đứng ở tốp đầu thế giới.Đây cũng là một kho chứa hàng lớn, một

trạm trung chuyển trọng yếu và là một trung tâm phân phối hàng hóa. Các tàu thủy

thuộc hơn 700 tuyến vận chuyển hàng hải qua lại bến cảng này để nối Singapore với

khoảng 600 hải cảng quốc tế khác .Theo thống kê đã có tới hơn 500 công ty tàu biển

trên thế giới sử dụng dịch vụ hoặc neo đậu tại các cảng của Singapore.Ngay từ năm

1991, đã có hơn “70.000 tàu biển cập bến cảng này với tổng trọng tải đăng kí là 570

triệu tấn. Thành tựu trên khiến quốc gia này đƣợc tôn vinh là: “ hải cảng nhộn nhịp

nhất thế giới”

Cục cảng vụ hải cảng Singapore có 6 bến tàu và cứ 15 km là có một cầu tàu,

chủ yếu đƣợc trang bị hoàn thiện, hiện đại, hiệu suất xử lý hàng hóa rất cao, thực

hiện việc bốc dỡ hàng hóa và hàng container và có khả năng tiếp nhận tàu biển với

mọi cỡ trọng tải. Trong những năm trở lại đây, lƣợng bốc xếp hàng hóa ở các cảng

Singapore đã vƣợt trên con số 200 triệu tấn, và đứng ở vị trí thứ 2 trên thế giới sau

cảng Rotecdam (Hà Lan). Kể từ năm 1993, Singapore đã đứng thứ hai thế giới sau

Hồng Kong về hàng hóa container.

Bên cạnh việc phát triển về cảng biển, ngành đóng và sửa chữa tàu biển cũng

đƣợc quốc đảo này chú trọng đầu tƣ phát triển.Ngành đóng tàu và sửa chữa tàu của

Singapore cũng đã phát triển từ lâu, sau khi nƣớc này giành đƣợc độc lập.Bộ mặt

của ngành đóng tàu ở Singapore đƣợc tạo lên chủ yếu bởi ba xƣởng đóng tàu lớn -

36

Keppel, Sembawang và Jurong - trong đó hầu hết là vốn nhà nƣớc đảm đƣơng phần

lớn dịch vụ đóng và sửa chữa tàu.Ngoài ra còn nhiều xƣởng đóng tàu tƣ nhân chiếm

khoảng 10% thị phần trong lĩnh vực này. Đội ngũ của đoàn tàu buôn của Singapore

xếp hàng 15 trên thế giới với hơn 1.000 tàu thuyền thuộc đủ các loại, từ tàu chở

hàng rời, tàu chở container, tàu dầu, tàu khách. Trong số này có cả những tàu trọng

tải trên 100.000 tấn, một cỡ tàu vận tải xếp vào loại “siêu đại” trên thế giới Bên

cạnh việc chú trọng phát triển các lĩnh vực vốn là truyền thống, thì quốc gia này

cũng đã chú ý đến việc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch biển đảo. Đất nƣớc

Singapore nhỏ bé với tổng diện tích chƣa đến 700 km vuông và rất ít danh lam

thắng cảnh tự nhiên nhƣng lại có đƣợc doanh thu khổng lồ, gần 19 tỷ đô la trong

năm 2012 từ ngành du lịch và khách sạn. Không chỉ có thế mà số lƣợng khách du

lịch đến Singapore còn không ngừng tăng lên trong những năm qua, từ con số 7,7

triệu lƣợt khách vào năm 2000 đến 9 triệu lƣợt khách năm 2005, dự kiến lên đến

khoảng 14,8 triệu lƣợt khách vào năm 2013. Năm yếu tố tạo thành công cho du lịch

Singapore bắt nguồn từ năm chữ "A" trong tiếng Anh là: điểm thắng cảnh

(Attractions), phƣơng tiện giao thông (Accessibility), cơ sở tiện nghi (Amenities),

các dịch vụ hỗ trợ (Ancillary services) và sự điều chỉnh (Adjustment). Nghe đơn

giản nhƣng đó là một thách thức lớn về chiến lƣợc và quá trình thực thi. Du lịch

biển đảo của Singapore là một ví dụ cụ thể cho sự kết hợp của 5 yếu tố này.Nói đến

du lịch đảo ở quốc gia này chắc chắn không thể không nói đến du lịch Đảo Sentosa.

Các điểm thu hút trên đảo này gồm: bãi biển dài 2 km, pháo đài Siloso, hai sân golf

và 2 khách sạn 5 sao. Đảo này có diện tích 5 ki-lô-mét vuông, nằm cách bờ biển

phía nam của lục địa Singapore 0,5 km. Đây là đảo lớn thứ 4 của Singapore (không

kể đảo chính). 70% hòn đảo này đƣợc bao phủ rừng trồng xanh tƣơi, là nơi sinh

sống của nhiều loài động vật nhƣ tắc kè, khỉ, công, vẹt cũng nhƣ nhiều loại động

thực vật khác.Một phần đáng kể diện tích đảo đƣợc tạo ra từ lấn biển.Tọa lạc tại

Sentosa, Thế giới nƣớc là một khu vui chơi tuyệt vời với vẻ đẹp thật ấn tƣợng của

một thế giới hoàn toàn khác lạ dƣới đại dƣơng. Từ những bãi biển và những hồ cạn

có nhiều đá tảng, du khách bắt đầu đi xuống dốc sâu, qua những rặng san hô rực rỡ

37

sắc màu và đời sống thực vật sinh động trƣớc khi đặt chân lên đƣờng hầm di động

ngoạn mục bằng nhựa acrylic dài 83m, nơi chốn của những đàn cá, các loài dã thú

rình mồi và những cƣ dân đại dƣơng ngoại lai khác.

Singapore cũng là một quốc gia luôn biết cách tận dụng và phát huy triệt để

các nguồn tài nguyên thiên nhiên biển của mình để phát triển kinh tế.Trong số các

tài nguyên thì khoáng sản biển có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của quốc gia

này phải kể đến dầu mỏ.Dầu mỏ và hóa dầu là một cơ sở khác cho đời sống kinh tế

và công nghiệp của Singapore.Vào cuối thập niên 1980, Singapore là trung tâm mậu

dịch về dầu mỏ lớn hàng thứ ba thế giới, và cũng là trung tâm lọc dầu xếp hạng thứ

ba toàn cầu.Nƣớc này cũng xếp hàng thứ hai thế giới về lắp đặt giàn khoan dầu.

Những tiện ích để sửa chữa và bảo trì giàn khoan và bể chứa dầu có sức cạnh tranh

lớn nhất ở vùng Đông Á. Những thành tựu này đã đóng góp không nhỏ vào sự phát

triển kinh tế nói chung của Singapore.

1.2.5.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của một số địa phương trong nước

Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở Quảng Ninh

Quảng Ninh là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, có hơn 250km bờ

biển, diện tích mặt biển rộng trên 6.000 km và trên 40.000ha bãi triều, 20.000ha eo

vịnh, 2.077 hòn đảo, diện tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên. Tỉnh có

10/14 địa phƣơng giáp biển, tạo ra lợi thế liên hoàn trong phát triển kinh tế - xã hội,

đảm bảo quốc phòng an ninh của tỉnh, cũng nhƣ vùng Đông Bắc của Tổ quốc.Với

đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, Quảng Ninh đƣợc Đảng, Nhà nƣớc đặc

biệt quan tâm trong Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 theo tinh thần Nghị

quyết số 09/NQ-TW của Hội nghị Trung ƣơng 4, khoá X. Thực hiện mục tiêu sớm

xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm các lĩnh vực liên quan đến hoạt động

kinh tế biển, BCH Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã đề ra Chƣơng trình hành động để

tập trung nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh giàu

mạnh về kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với phát triển kinh tế - xã hội

chung. Phát huy, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của biển, ven biển,

vùng biển đảo để phát triển các ngành kinh tế.Xác định đƣợc vị trí và tầm quan

38

trọng đó, Quảng Ninh đã ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

vùng biển đảo và ven biển của tỉnh đến năm 2020; Tỉnh cũng đã đề xuất một số cơ

chế chính sách phát triển vùng biển đảo và ven biển tỉnh Quảng Ninh trình Chính

phủ phê duyệt; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng biển đảo Cô Tô

đến năm 2020. Đây là những căn cứ phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển

kinh tế - xã hội đối với các ngành, địa phƣơng tại địa bàn vùng biển, ven biển nhằm

phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; xây dựng phƣơng hƣớng phát triển kinh tế -

xã hội phù hợp, gắn với bảo vệ an ninh quốc phòng đối với vùng biển đảo, nhằm

phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đảo, tạo bƣớc đột phá trong

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Với tiềm năng lớn về du lịch biển, những năm qua ngành Du lịch đã có bƣớc

tiến quan trọng, diện mạo, cơ sở hạ tầng của ngành đƣợc thay đổi nhanh chóng, đã

hình thành 4 trung tâm du lịch lớn của tỉnh nhƣ: Trung tâm du lịch tâm linh và di

tích lịch sử tại Đông Triều - Uông Bí - Quảng Yên; Trung tâm du lịch di sản thiên

nhiên tại Hạ Long; Trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lƣợng cao và Trung

tâm du lịch biên giới gắn với du lịch mua sắm hàng hoá. Đi đôi với các hoạt động

đầu tƣ kết cấu hạ tầng của tỉnh và của các đơn vị liên doanh, các thành phần kinh tế

cũng tập trung đầu tƣ khai thác tiềm năng du lịch trên địa bàn, làm tăng sức thu hút

du khách... Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có trên 972 cơ sở lƣu trú cho khách du lịch

đáp ứng đủ nhu cầu của khách du lịch. Tổng doanh thu ngành Du lịch ƣớc đạt trên

4.000 tỷ đồng.

Cùng với việc phát triển du lịch, thời gian qua Quảng Ninh đã thực hiện tốt

các chủ trƣơng, chính sách về ƣu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế thuỷ sản. Đặc

biệt, tỉnh tạo điều kiện cho các đơn vị, cá nhân vay vốn giải quyết việc làm nhƣ cho

vay vốn nuôi tôm, trai ngọc, nhuyễn thể, cá lồng ở dọc tuyến biển và các huyện

đảo… Nhiều dự án đã phát huy hiệu quả cao sau quá trình đầu tƣ. Sản lƣợng thuỷ

sản năm 2011 đạt trên 52.000 tấn, tăng 20% so với năm 2007, giá trị kim ngạch

xuất khẩu đạt 27,27 triệu USD, tăng hơn 60% so với năm 2007. Bên cạnh đó, các

dự án đầu tƣ xây dựng hệ thống neo đậu tránh trú gió bão cho tàu thuyền tại các

39

huyện, thị xã, thành phố đƣợc cấp vốn từ Trung ƣơng và vốn đối ứng của tỉnh do

UBND cấp huyện làm chủ đầu tƣ đã đƣợc phê duyệt và đang triển khai thi công

nhằm hạn chế những thiệt hại do thiên tai và tăng cƣờng khả năng phối hợp, liên kết

trong khai thác, và tiêu thụ sản phẩm cho việc đánh bắt và khai thác trên biển...

Lĩnh vực hàng hải mặc dù chƣa đạt kế hoạch đề ra nhƣng đã có những bƣớc

phát triển rất đáng khích lệ, khối lƣợng hàng hoá thông qua cảng tang dần theo từng

năm, doanh thu dịch vụ tăng, các dịch vụ sau cảng cũng từng bƣớc đƣợc mở rộng

nhƣ: Hệ thống kho bãi, các dịch vụ xếp dỡ, vận tải, cung ứng và đại lý hàng hải...

góp phần tăng doanh thu ngành kinh tế cảng biển và giải quyết việc làm cho trên

1.000 lao động/năm. Theo lộ trình thực hiện tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành rà soát

và quy hoạch lại hệ thống cảng biển địa phƣơng và các bến thuỷ nội địa mang tầm

cỡ quốc tế và khu vực, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả

nhất và đảm bảo môi trƣờng trong tƣơng lai.

Có thể thấy, sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết 09/NQ-TW về Chiến lƣợc

biển Việt Nam đến năm 2020, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đã có

đƣợc những chuyển biến tích cực trên mọi mặt. Qua đó khẳng định tính hiệu quả

khi thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc biển đối với địa bàn của tỉnh, tạo ra niềm tin

và cơ hội nhằm khuyến khích đầu tƣ từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tƣ trong

nƣớc và quốc tế… Trên cơ sở đó tạo đà và cơ sở đƣa Quảng Ninh trở thành tỉnh

mạnh về biển, làm giàu từ biển, phấn đấu là trung tâm kinh tế biển của khu vực và

cả nƣớc.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở Thanh Hoá

Tỉnh Thanh Hóa có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong khai thác kinh tế biển,

với khoảng 1/5 dân số có việc làm và hƣởng lợi từ nghề biển. Theo số liệu của cơ

quan chức năng địa phƣơng, trong lĩnh vực vận tải biển, từ năm 2005 trở lại đây,

sản lƣợng hàng hóa và số lƣợt tầu cập bến qua cảng Nghi Sơn và Lễ Môn của

Thanh Hóa đã tăng lên đáng kể. Nếu nhƣ năm 2005 mới có 2.151.855 tấn/2.102

lƣợt, năm 2007 là 3.032.047 tấn/2.294 lƣợt, thì đến năm 2009 đã đạt trên 3.200.000

tấn/2.400 lƣợt. Thu ngân sách Nhà nƣớc lên tới hàng trăm tỷ đồng, giải quyết việc

40

làm cho hàng ngàn lao động. Vận tải đƣờng biển (VTĐB) đã góp phần hạ giá thành

vận tải, giảm sức ép cho giao thông đƣờng bộ từ đó giảm tai nạn giao thông và kéo

dài thời gian sử dụng cho các tuyến đƣờng bộ qua tỉnh Thanh Hóa.

Đối với lĩnh vực khai thác kinh tế từ nguồn lợi biển, Thanh Hóa là tỉnh có

nhiều tiềm năng, trong đó thị xã Sầm Sơn là địa phƣơng có nhiều loại hình khai thác

kinh tế từ nguồn lợi biển. Các lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản và kinh doanh du

lịch ở đây đang đóng vai trò rất quan trọng. Theo thống kê của UBND thị xã Sầm

Sơn, Chỉ tính riêng năm 2009, thị xã này có gần 1.200 phƣơng tiện khai thác, đánh

bắt thủy, hải sản. Sản lƣợng khai thác đã đạt đƣợc 14.700 tấn hải sản, có giá trị

khoảng 169 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 4.000 lao động thƣờng xuyên. Tuy

nhiên, thu nhập bình quân vẫn còn khá thấp. Do thu nhập thấp, tại xã Quảng Tiến,

thị xã Sầm Sơn, nơi có tới 90% dân số làm nghề đi biển, vừa qua đã có 850 cặp vợ

chồng bỏ nghề đi biển vào các tỉnh phía Nam kiếm kế sinh nhai.

Trong lĩnh vực du lịch thì du lịch biển là lĩnh vực có lợi thế hơn, mỗi năm có

nhiều triệu lƣợt khách về Sầm Sơn để nghỉ dƣỡng. Theo thống kê của ngành chức

năng địa phƣơng, năm 2009 thị xã này thu ƣớc 535 tỷ đồng từ các nhà nghỉ, khách

sạn và các dịch vụ khác, tạo công ăn việc làm cho 4.270 lao động. Từ các loại hình

kinh tế có liên quan đến lĩnh vực du lịch biển, đã đem lại mức thu nhập khoảng gần

20 triệu đồng/ ngƣời/năm.

Để nâng cao hiệu quả khai thác hải sản, trung tuần tháng 9/2009, Sầm Sơn đã

tổ chức hội thảo về khai thác kinh tế biển, đến cuối năm 2009 đã xây dựng đề án

“Vƣợt biển đông và cải tiến ngƣ lƣới cụ” đƣa ngƣ dân vào vùng biển phía Nam khai

thác hải sản để tránh va chạm trên vùng biển chung và hợp đồng với Viện Hải

dƣơng học Nha Trang để thực hiện dự án “Nuôi ốc hƣơng tại khu vực Âu thuyền xã

Quảng Tiến”.

Mặc dù lĩnh vực khai thác hải sản của tỉnh Thanh Hóa vẫn còn gặp không ít

khó khăn, nhƣng số lƣợng tàu thuyền và sản lƣợng đánh bắt, khai thác vẫn không

ngừng tăng lên. Theo thống kê của địa phƣơng, năm 2008, tổng sản lƣợng hải sản

toàn tỉnh là 63.150 tấn với 8.505 tầu thuyền khai thác, thì năm 2009 thu đƣợc 64.100

41

tấn của 9.020 tầu thuyền khai thác. Hiện nay chính quyền tỉnh Thanh Hóa vẫn luôn có

những biện pháp tác động kịp thời để giúp nhân dân yên tâm bám biển, phát triển

kinh tế biển nói riêng cũng nhƣ phát triển kinh tế xã hội nói chung của tỉnh.

1.2.6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Nam Định nói

riêng trong xu thế phát triển kinh tế biển

Với xu thế phát triển của thời đại về việc hƣớng ra biển ngày một rõ nét, với

tƣ cách là một quốc gia đi sau, Việt Nam cần học hỏi, tham khảo những kinh

nghiệm thành công của các nƣớc để xây dựng một chiến lƣợc phát triển kinh tế biển

cho mình một cách phù hợp và có hiệu quả nhất.

Từ kinh nghiệm thực tế của các quốc gia và các địa phƣơng trong nƣớc đƣợc

phân tích ở trên cho thấy, trong quá trình thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế

biển, ở Nam Định cần tham khảo, vận dụng một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, thống nhất quan điểm xuyên suốt “phát triển kinh tế biển là hướng

đi tất yếu khách quan” và phải có một chiến lược toàn diện.

Cho đến nay hầu hết các quốc gia đều đã phát triển theo hƣớng chiều rộng là

khai thác một cách triệt để các tài nguyên khoáng sản thiên nhiên trên lãnh thổ.

Chính điều đó, đã làm cho đất liền trở nên nghèo nàn và “khô cằn” hơn bao giờ hết.

Đối lập với tình trạng này, biển lại là một nới chứa đựng nhiều nguồn tài sản phong

phú mà loài ngƣời mới chỉ khai thác và biết đến phần nào mà thôi. Với xu thế quốc

tế hóa, khu vực hóa ngày càng sâu rộng nhƣ hiện nay, biển ngày càng có một vị thế

quan trọng không chỉ đối với lĩnh vực kinh tế mà còn cả chính trị, an ninh quốc

phòng, và văn hóa xã hội. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của biển đối với sự sống

còn của đất nƣớc, tất cả các quốc gia có biển và gần biển đều đang tìm mọi cách để

phát triển chiến lƣợc biển của mình nhằm biến nó thành một nguồn lực phong phú

vững chắc cho sự phát triển kinh tế của quốc gia mình. Chiến lƣợc biển của các

quốc gia đều đã đƣợc xây dựng một cách hoàn chỉnh và có hệ thống. Điều này đòi

hỏi một quốc gia, có lợi thế đi sau nhƣ Việt Nam cần phải có sự tiếp thu chon lọc,

học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trƣớc để xây dựng cho mình một hệ thống

42

chiến lƣợc kinh tế biển cụ thể để có thể bắt kịp và tiến xa hơn các nƣớc đi trƣớc

trong thời gian ngắn nhất và biến biển thành một nguồn lực hiệu quả cho sự phát

triển đất nƣớc.

Thứ hai, đầu tư theo hướng mà quốc gia có lợi thế so sánh.

Trong chiến lƣợc biển của các nƣớc, chúng ta thấy một điểm nổi bật rất rõ

nét đó là hƣớng đầu tƣ của các nƣớc đều tập trung cho những nội dung mà quốc gia

mình có lợi thế. Ví dụ điển hình có thể thấy rõ nhất chính là Singapore. Với ƣu thế

là một quốc gia nằm ở vị thế cầu nối trung tâm, giữa các vùng kinh tế lớn của thế

giới, lại là một quốc đảo nằm trên biển, quốc gia này có lợi thế biển hơn hẳn các

quốc gia khác trong khu vực, chính lí do đó đã biến Singapore trở thành một quốc

gia có kinh tế cảng biển lớn mạnh và uy tín trên thế giới cũng nhƣ trong khu vực.

Cũng biết phát triển ƣu thế về chất lƣợng nguồn lao động ven biển của mình, Trung

Quốc không chỉ xây dựng cho mình một hệ thống cảng biển tối tân, mà còn tập

trung xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển, các khu kinh tế tiềm năng để vừa

khai thác chất lƣợng nguồn nhân lực hiệu quả, vừa tạo ra lợi thế về dịch vụ hậu cần

cho sản xuất cho việc hƣớng biển của mình.

Thứ ba, tập trung xây dựng và phát triển cho hai nguồn lực có ý nghĩa tiên

quyết đối với quá trình hướng biển đó là vốn và nguồn nhân lực.

Vốn là một trong những yếu tố quan trọng của bất kì ngành kinh tế nào. Là

cơ sở, nền tảng cho sƣ phát triển nhƣng cũng đồng thời là động lực của sự phát triển

kinh tế. Hơn thế, kinh tế biển là một ngành bao gồm một hệ thống các ngành có liên

quan chặt chẽ với nhau, chính vì vậy mà vốn lại trở thành một vấn đề rất cần thiết.

Cùng với vốn đó là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao tham

gia trực tiếp vào quá trình khai thác và phát triển kinh tế biển. Để khai thác và phát

triển kinh tế từ biển một cách có hiệu quả, không để lãng phí vốn, cũng nhƣ các

nguồn lực khác nguồn lực con ngƣời phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hầu hết ở các

thành phố ven biển của Singapore, Thái Lan hay các trung tâm kinh tế, các đặc khu

kinh tế biển của Trung Quốc hầu hết đều có các trƣờng đại học có uy tín trong khu

vực cũng nhƣ trên quốc tế cắm chốt. Việc xây dựng các trƣờng đại học, cao đẳng,

43

trƣờng nghề tại các địa điểm này, một phần đã tăng cƣờng công tác giáo dục, nâng

cao trình độ văn hóa cho dân cƣ nói chung, nhƣng đồng thời nó cũng đã đáp ứng

nhu cầu về nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho các ngành

kinh tế biển tại địa phƣơng nói riêng.

Ngoài những bài học kinh nghiệm trên, Nam Định cũng cần chú ý một số

vấn đề cốt lõi trong việc phát triển kinh tế biển địa phƣơng nhƣ:

Một là, phát triển kinh tế biển một cách toàn diện, nhƣng vẫn có sự chú trọng

phát triển một số mặt có ƣu thế truyền thống, sớm đƣa ngành kinh tế thuỷ hải sản

thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của địa phƣơng. Đẩy mạnh đánh bắt

xa bờ đồng thời với nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản. Tận dụng và phát huy các bến

bãi, các bãi bồi và vƣờn sinh thái. Chú trọng khai thác, phát triển công nghiệp đóng,

sửa chữa tàu thuyền và du lịch biển.

.Hai là, tập trung phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, với các

loại hình đa dạng nhƣ: du lịch tắm biển gắn với thể thao dƣới nƣớc; công viên hải

dƣơng; du lịch sinh thái. Chú ý phát triển các ngành nghề theo định hƣớng phục vụ

du lịch. Ngành thủy sản phát triển theo hƣớng khai thác và kết hợp với nuôi trồng các

loại thủy đặc sản vừa phục vụ nhu cầu của ngành du lịch, vừa cho xuất khẩu.

Ba là, hệ thống kết cấu hạ tầng đƣợc quy hoạch đầu tƣ phát triển theo hƣớng

hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, phục vụ cho

phát triển du lịch, dịch vụ.

Bốn là, nêu cao ý thức bảo vệ tài nguyên biển của nhân dân. Ngăn chặn các

hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trƣờng biển, bảo vệ đa dạng sinh học

Năm là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền Biển Đông của Tổ

quốc. Tăng cƣờng tuyên truyền nâng cao trình độ pháp luật về biển, Luật biển quốc

tế, những quy định bắt buộc đối với ngƣ dân khi ra khơi. Trang bị cho ngƣ dân

nghiệp vụ thông tin cứu nạn tàu thuyền đánh cá. Tăng cƣờng tuyên truyền về vị trí,

tầm quan trọng của thềm lục địa đối với phát triển kinh tế - xã hội trong tƣơng lai. Ý

thức của nhân dân trên một số lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên

biển chƣa thấu đáo nên hệ quả là hiểu về pháp luật, chấp hành luật trên biển còn

44

yếu, còn vi phạm pháp luật do không có kiến thức khi hoạt động ở vùng đánh cá

chung, ở khu phân định trên vịnh Bắc Bộ và không thông hiểu luật pháp quốc tế khi

tránh bão ở biển nƣớc ngoài. Thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá trong việc bảo vệ chủ

quyền biển, đảo của đất nƣớc. Mỗi ngƣ dân là tai, là mắt tinh tƣờng trên vùng biển

trời của Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ quyền lãnh hải, đi đôi với

đấu tranh chống các quan điểm sai trái, kịp thời định hƣớng dƣ luận, bác bỏ luận

điệu xuyên tạc chống lại các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc ta về vấn

đề biển đảo.

Tiểu kết chương1

Biển là cửa ngõ giao lƣu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập

khẩu hàng hoá thuận lợi với chi phí thấp. Cùng với đó kinh tế biển bao gồm một hệ

thống các ngành bộ phận nhƣ: dầu khí, thuỷ sản, du lịch, giao thông biển…thúc đẩy

các ngành kinh tế này lớn mạnh sẽ đóng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh

tế của đất nƣớc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhƣ hiện nay thì

biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của quốc

gia và của ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển còn là nơi cung cấp nguyên liệu phong

phú, đa dạng cho công nghiệp chế biến. Chính vì thế mà kinh tế biển ngày càng giữ

vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và trở thành động lực

thúc đẩy phát triển mỗi ngành kinh tế nói riêng. Mặt khác, phát triển kinh tế biển

cũng đồng thời tạo điều kiện giữ vững chủ quyền và an ninh của quốc gia.

Tuy nhiên, các nghề mới nhƣ khai thác dầu khí, nuôi trồng hải sản đặc sản,

du lịch biển, công nghiệp phụ trợ biển… đang trong quá trình phát triển bƣớc đầu.

Các nghề biển hƣớng tới tƣơng lai nhƣ năng lƣợng sóng thuỷ triều, dƣợc liệu biển,

khai thác khoáng sản dƣới lòng nƣớc sâu, hoá chất và dƣợc liệu biển... ở Việt Nam

chƣa đƣợc đầu tƣ nghiên cứu nhiều. Kỹ thuật tổng thể khai thác kinh tế biển vẫn

còn ở trình độ rất thấp, thô sơ nên hiệu quả đạt đƣợc chƣa cao. Ô nhiễm biển, đặc

biệt các vùng biển tập trung tài nguyên, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, vận tải biển

và công nghiệp ven bờ... đang gây ra nhiều vấn đề đối với phát triển bền vững.

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập, tức phải cạnh tranh quốc tế để tồn tại và phát

45

triển, so với sự phát triển kinh tế biển của thế giới đƣơng đại, thì thấy rất rõ rằng, cơ

sở hạ tầng biển và các công trình kỹ thuật khác của biển còn nhiều yếu kém, lạc

hậu. Vấn đề kết hợp phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh quốc phòng chƣa

đƣợc chú ý đúng mức. Điều này đòi hỏi Việt Nam nói chung và các địa phƣơng cần

có hoạch định cho mình một cách rõ ràng và phù hợp để có thể phát triển kinh tế

46

biển có hiệu quả tối đa.

CHƢƠNG 2

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Nguồn dữ liệu

Để tiến hành thu thập dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả xác

định thông tin phải tuân thủ các yêu cầu: Những thông tin chứa đựng trong dữ liệu

phải phù hợp và đủ làm rõ mục tiêu nghiên cứu. Trên cơ sở đó, thông tin đƣợc thu

thập một cách chính xác, hợp lý và có giá trị, việc xác định dữ liệu các loại cũng

phải rõ ràng và xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu.

Đề tài chủ yếu sử dụng và phân tích các số liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp là

dữ liệu do ngƣời khác thu thập, sử dụng cho các mục đích có thể là khác với mục

đích nghiên cứu của đề tài. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chƣa xử lý (còn gọi là

dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Ƣu điểm của dữ liệu thứ cấp là dễ tìm kiếm và

tìm kiếm nhanh. Đó là do dữ liệu thứ cấp đã tồn tại sẵn và vấn đề chỉ đơn thuần là

phát hiện ra chúng. Thời gian tập hợp dữ liệu thứ cấp chỉ mất vài giờ hoặc vài ngày.

Chi phí tiêu tốn cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với dữ liệu sơ

cấp. Dữ liệu thứ cấp phần lớn có trong các thƣ viện, các nguồn dữ liệu từ Chính phủ

thông qua các báo cáo, các dự án... Dữ liệu thứ cấp còn góp phần làm tăng giá trị

của những dữ liệu sơ cấp hiện hữu. Tác dụng này chủ yếu đƣợc thể hiện ở chỗ việc

thu thập dữ liệu thứ cấp ban đầu đã giúp cho việc định hƣớng và xác định mục tiêu

thu thập dữ liệu sơ cấp của nhà nghiên cứu. Vì những ƣu điểm đó, tác giả thu thập

các dữ liệu thứ cấp để tiến hành nghiên cứu đề tài.

Những số liệu thứ cấp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các luận văn

đã nghiên cứu trƣớc có cùng hoặc gần chủ đề, các nghiên cứu trên các phƣơng tiện

truyền thông, các báo cáo của các cấp ban ngành liên quan, văn kiện, nghị quyết,

niên giám thống kê qua các năm, sách, báo, tạp chí, các công trình đã đƣợc xuất

bản, các số liệu về tình hình cơ bản của tỉnh Nam Định, số liệu thống kê Nam Định

từ năm 2010 đến năm 2015 về cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế biển trong nông nghiệp, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội

47

của tỉnh Nam Định. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công

bố của các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học. Sử dụng các số liệu đƣợc thu

thập có trích dẫn tài liệu tham khảo theo quy định.

2.2. Phƣơng pháp luận chung

2.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng

Phƣơng pháp biện chứng duy vật là phƣơng pháp cơ bản của chủ nghĩa

MácLênin đƣợc sử dụng đối với nhiều môn khoa học khác nhau. Phƣơng pháp này

đòi hỏi khi xem xét các hiện tƣợng, các quá trình nghiên cứu phải đặt trong mối

quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thƣờng xuyên vận động, phát triển không ngừng,

chứ không phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy về lƣợng dẫn

đến thay đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự

thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi

khi xem xét các hiện tƣợng và quá trình kinh tế gắn liền với những điều kiện và

hoàn cảnh cụ thể.

Luận văn đã sử dụng phƣơng pháp này xuyên suốt quá trình thực hiện.Tác

giả luận văn luôn đặt vấn đề phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định trong trạng

thái vận động và phát triển qua từng năm,từng giai đoạn.Sự phát triển đó đƣợc thể

hiện ở tất cả các mặt từ chủ trƣơng đƣờng lối,kế hoạch ,chính sách thực hiện cũng

nhƣ những kết quả và thành tựu đạt đƣợc.Song song với việc đẩy mạnh phát triển

kinh tế biển thì tỉnh Nam Định cũng đồng thời đẩy mạnh đầu tƣ phát triển những

ngành nghề lĩnh vực khác nhƣ:nông nghiệp nông thôn,công nghiệp chế biến nông

lâm thủy hải sản,giáo dục y tế……….Và rồi khi đi vào phân tích mổ xẻ vấn đề ấy

thì lại luôn đặt nó trong mối quan hệ và tác động qua lại với các nội dung phát triển

kinh tế khác của tỉnh Nam Định nói riêng và cả nƣớc nói chung.

2.2.2. Phương pháp duy vật lịch sử

Vận dụng phƣơng pháp luận của duy vật lịch sử,luận văn nghiên cứu vấn đề

phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định trong bối cảnh lịch sử xác định qua từng

48

giai đoạn,từng thời kì cụ thể và đạt đƣợc những thành tựu lớn.

2.3. Các phương pháp khác

2.3.1 . Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu

Thu thập thông tin và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần

thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học

luôn đọc và tra cứu tài liệu có trƣớc để làm nền tảng cho nghiên cứu khoa học. Đây

là nguồn kiến thức quí giá đƣợc tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử

lâu dài. Vì vậy, mục đích của việc thu thập và nghiên cứu tài liệu nhằm:

- Nắm đƣợc phƣơng pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trƣớc đây.

- Làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình.

- Giúp ngƣời nghiên cứu có phƣơng pháp luận hay luận cứ chặt chẽ hơn.

- Có thêm kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu.

- Tránh trùng lập với các nghiên cứu trƣớc đây.

Để thu thập số liệu trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tài liệu thứ

cấp, bao gồm:

+ Các bộ luật, Nghị Quyết Trung ƣơng về kinh tế biển đảo, các Quyết định của Bộ

văn hoá, bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đề án của tỉnh Nam Định về kinh

tế biển

+ Các cuốn sách, giáo trình tài liệu viết về kinh tế biển

+ Các báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất về kinh tế biển của các Sở ban ngành có

liên quan đến kinh tế biển nhƣ: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định,

Sở Văn hoá – Du lịch Nam Định, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Nam Định,….

- Các tài liệu, số liệu từ các ấn phẩm và các websites chuyên ngành.

Phƣơng pháp thu thập thông tin đƣợc sử dụng cho chƣơng 1 nhằm xây dựng một

khung khổ lý thuyết cho vấn đề phát triển kinh tế biển một cách có hệ thống làm cơ

sở cho việc nghiên cứu ở chƣơng 3. Ở chƣơng 3, tác giả sử dụng phƣơng pháp này

nhằm tập hợp các số liệu tại các phòng ban chức năng liên quan đến quá trình phát

triển kinh tế biển ở Nam Định, sau đó phân tích, tổng hợp để có đƣợc các đánh giá,

49

kết luận khách quan và khoa học.

2.3.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học

Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học là phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù

của khoa học Kinh tế chính trị. Phƣơng pháp trừu tƣợng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ

những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong các quá trình và các hiện tƣợng đƣợc nghiên

cứu, tách ra những cái ổn định, điển hình trong các hiện tƣợng và quá trình đó, trên

cơ sở ấy nắm đƣợc bản chất của các hiện tƣợng, từ bản chất cấp một tiến đến bản

chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh

những bản chất đó. Quá trình này cũng chính là quá trình từ nhận thức cảm tính

nâng lên nhận thức lý tính, là quá trình lựa chọn sàng lọc những tƣ liệu phong phú,

vứt bỏ cái giả giữ lại cái thật, từ nội dung này tới nội dung kia, từ ngoài vào trong

để hình thành hệ thống khái niệm và lý luận.

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn phát hiện nhiều vấn đề lý luận và thực

tiễn đôi khi chƣa phản ảnh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu. Do đó, phải sử

dụng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học để giữ lại những yếu tố bản chất trong

phân tích thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh. Sử dụng phƣơng pháp này,luận

văn đã tạm gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tƣợng đƣợc nghiên cứu nhũng

cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời. Tạm gác lại một số nhân tố, coi nhƣ không tồn

tại nhũng nhân tố đó để nhằm tách ra vấn đề điển hình đó chính là vấn đề phát triển

kinh tế biển tỉnh Nam Định.

2.3.3. Phương pháp thống kê mô tả

Đây là phƣơng pháp rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu các hiện

tƣợng kinh tế. Dựa vào phƣơng pháp này tác giả có đƣợc những thông tin cần thiết

để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Việc thống kê đƣợc thực hiện dựa trên những

số liệu, tài liệu có độ tin cậy cao. Từ đó, quá trình mô tả đƣợc tiến hành để làm rõ

những yếu tố tác động đến đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp này sử dụng nhiều ở

chƣơng 1, chƣơng 2 và chƣơng 3 của luận văn.

Trong chƣơng 1, luận văn thống kê mô tả các công trình nghiên cứu đã công

bố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, cơ sở lý luận về kinh tế biển, cơ cấu

50

kinh tế biển. Ở chƣơng 2, luận văn mô tả các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử

dụng cùng với nội dung phƣơng pháp, ý nghĩa của phƣơng pháp đối với việc đạt

đƣợc mục tiêu nghiên cứu.

Đối với chƣơng 3, sau khi thu thập số liệu, tiến hành thống kê, mô tả và tổng

hợp các số liệu, dữ liệu, luận văn đƣa ra những đánh giá về thực trạng phát triển

kinh tế biển. Trên cơ sở thống kê mô tả các số liệu, tình hình phát triển kinh tế biển

ở Nam Định đƣợc làm rõ, từ đó định hình đƣợc xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu kinh

tế biển ở đây. Đề tài sử dụng các bảng thống kê số liệu để mô tả hiện trạng cơ cấu

kinh tế biển, cũng nhƣ đánh giá tác động của các nhân tố tới chuyển dịch cơ cấu

kinh tế biển ở Nam Định trong những điều kiện, thời gian cụ thể.

2.3.4. Phương pháp phân tích tổng hợp

Phân tích, trƣớc hết là phân chia cái toàn thể của đối tƣợng nghiên cứu thành

những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, từ

đó phát hiện ra những thuộc tính bản chất của từng yếu tố đó. Nhiệm vụ của phân

tích là thông qua cái riêng để tìm ra cái chung, thông qua hiện tƣợng để tìm ra bản

chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Tổng hợp là quá trình ngƣợc lại

với quá trình phân tích, nhƣng nó lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái

chung và cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để

có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra đƣợc bản chất, quy luật vận động

của đối tƣợng nghiên cứu.

Phân tích và tổng hợp là hai phƣơng pháp gắn bó chặt chẽ, quy định và bổ

sung cho nhau trong nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính

quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn

tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tƣợng nghiên cứu bộ phận có

ý nghĩa rất quan trọng. Trong tổng hợp, vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên

kết các kết quả cụ thể (có lúc ngƣợc nhau) từ sự phân tích, khả năng trừu tƣợng,

khái quát nắm bắt đƣợc định tính từ rất nhiều khía cạnh định lƣợng khác nhau.

Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng chủ yếu trong chƣơng 3 và chƣơng 4

của luận văn. Ở chƣơng 3, phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế

51

biển ở Nam Định, tập trung vào các yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã

hội. Đặc biệt, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để phân tích thực trạng phát

triển kinh tế biển, bao gồm: Phát triển ngành thủy hải sản, du lịch biển, phát triển

giao thông vận tải, đóng tàu biển.... Ở chƣơng 4, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử

dụng để phân tích định hƣớng và dự báo xu hƣớng phát triển kinh tế biển ở tỉnh

Nam Định, trên cơ sở đó đƣa ra những giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế biển ở

tỉnh Nam Định trong thời gian tới.

Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng chủ yếu trong chƣơng 1 nhằm xây

dựng khung khổ lý thuyết cho đề tài nghiên cứu trên cơ sở những nghiên cứu trƣớc

đó. Ở chƣơng 3, phƣơng pháp tổng hợp cũng đƣợc sử dụng khi đánh giá những kết

quả đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và những vấn đề

đặt ra cần giải quyết về vấn đề phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam Định.

2.3.5. Phương pháp so sánh

Thông qua nguồn số liệu thứ cấp đã thu thập, tiến hành so sánh với các tiêu

chí cụ thể để xem xét sự phát triển kinh tế biển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển ở

tỉnh Nam Định. Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện trên cơ sở so sánh giữa các

năm, so sánh tỷ trọng kinh tế giữa các ngành trong kinh tế biển… Từ đó, xác định

rõ thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam Định. Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử

dụng trong chƣơng 3 khi phân tích tình hình phát triển kinh tế biển ở Nam Định.

2.3.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử

Phƣơng pháp kết hợp logic với lịch sử là phƣơng pháp xem xét sự vật, hiện

tƣợng theo đúng trật tự thời gian nhƣ nó đã từng diễn ra trong quá khứ (phát sinh,

phát triển và kết thúc). Là phƣơng pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển

của sự vật, hiện tƣợng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều góc cạnh, nhiều

mặt trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tƣợng khác. Phƣơng pháp này hƣớng đến

mục tiêu tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện tƣợng thể hiện ở mô

tả đầy đủ, cụ thể tính chất quanh co, phức tạp, bao gồm những cái ngẫu nhiên, cái

tất yếu và tính đa dạng. Yêu cầu đối với phƣơng pháp lịch sử là đảm bảo tính liên

tục về thời gian của các sự kiện, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển

52

và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự

việc xung quanh. Phƣơng pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và

hình thành ra nó, làm rõ quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến

hoàn thiện của các sự vật hiện tƣợng. Đồng thời, đặt quá trình phát triển của sự vật,

hiện tƣợng trong mối quan hệ với nhiều sự vật hiện tƣợng tác động qua lại, thúc đẩy

hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Phƣơng pháp lịch sử

là phƣơng pháp quan trọng trong nghiên cứu, vì khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện

tƣợng phải coi trọng các quan điểm lịch sử, các sự vật, hiện tƣợng tƣơng đồng đã

xảy ra trƣớc đó.

Nhƣng lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tƣ duy cũng cần bắt đầu từ đó, nhƣng

lịch sử thƣờng xuất hiện những bƣớc nhảy hoặc quanh co khúc khuỷu nên cần phải

có phƣơng pháp logic. Phƣơng pháp logic là phƣơng pháp xem xét, nghiên cứu các

sự kiện lịch sử dƣới dạng tổng quan, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hƣớng tất yếu,

quy luật vận động của lịch sử. Theo đó, phƣơng pháp logic có thể thoát khỏi hình

thức lịch sử trực quan và tính ngẫu nhiên phức tạp, tiến hành suy lý logic. Nhƣng

suy lý logic không phải là suy lý trừu tƣợng thuần túy tách rời quá trình lịch sử,

ngƣợc lại, suy lý logic cần phải kết hợp với sự phát triển từ thấp đến cao của lịch sử,

thông qua suy lý tƣ duy, bằng hình thức lý luận khái quát, từ khái niệm đơn giản

đến khái niệm phức tạp, tái hiện lại độ chân thực của lịch sử. Phƣơng pháp locgic

cũng phản ánh quá trình lịch sử nhƣng phản ánh dƣới hình thức trừu tƣợng và khách

quan bằng lý luận, có nghĩa là phƣơng pháp logic trình bày sự kiện một cách khái

quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ những chi tiết không cơ bản. Chính vì

vậy, phƣơng pháp logic phải thống nhất hữu cơ với phƣơng pháp lịch sử. Theo

Ăngghen, phƣơng pháp logic không phải là cái gì khác phƣơng pháp lịch sử, chỉ có

điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên, pha trộn.

Theo đó, đề tài đã vận dụng phƣơng pháp kết hợp logic với lịch sử để nghiên

cứu quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định qua các thời kỳ, giai đoạn gắn với

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Trên cơ sở đó, đƣa ra những

giải pháp nhằm tiếp tục phát triển kinh tế biển ở Nam Định trong thời gian tới. Quá

53

trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đƣợc nghiên cứu theo một trình tự liên tục,

đƣợc xem xét trên nhiều mặt. Từ đó, làm rõ các điều kiện, các vấn đề, các chính

sách, chủ trƣơng, nhân tố… tác động đến quá trình phát triển kinh tế biển của tỉnh.

Đồng thời, đặt vấn đề phát triển kinh tế biển trong quan hệ tƣơng tác qua lại, thúc

đẩy hoặc cản trở lẫn nhau với các ngành khác trong quá trình phát triển. Với đó,

luận văn cung cấp một cái nhìn toàn diện về phát triển kinh tế biển ở Nam Định

hiện nay.

Trên cơ sở đảm bảo tính liên tục của việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển

trong cả giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên

của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chú ý đến sự vận động logic của phát triển

kinh tế - xã hội gắn với triển khai chính sách về phát triển kinh tế biển, luận văn

trình bày các sự việc và đƣa ra những nhận định, những quy luật vận động của cơ

cấu kinh tế biển, từ đó rút ra xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu kinh biển ở Nam Định.

Ngoài các chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc cũng nhƣ địa phƣơng, phát triển

kinh tế biển còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, dân cƣ – lao

động… của địa phƣơng nên trong việc đƣa ra xu hƣớng, quy luật của phát triển kinh

tế biển. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong chƣơng 3 và chƣơng 4 của luận văn

54

nhằm tập trung phân tích các nội dung phát triển và đƣa ra các giải pháp phù hợp.

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NAM ĐỊNH

GIAI ĐOẠNTỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Những tiềm năng và khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển của Nam

Định trong giai đoạn hiện nay

3.1.1. Tiềm năng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

3.1.1.1 Lợi thế về vị trí địa lý

Nam Định là tỉnh ở phía Nam châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Thái

Bình và Hà Nam, phía Tây và Tây Nam giáp Ninh Bình, phía Đông và Nam giáp

biển Đông. Trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của tỉnh là thành phố Nam Định,

cách Hà Nội 90 km.

Nam Định nằm trong vùng ảnh hƣởng trực tiếp của Tam giác tăng trƣởng Hà

Nội - Hải Phòng - Hạ Long và tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai - Hà

Nội - Hải Phòng, Hành lang Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và Vành

đai kinh tế ven vịnh Bắc Bộ, có mạng lƣới đƣờng bộ (QL 1, QL 10, QL 21), đƣờng

sắt xuyên Việt dài 45 km với 5 nhà ga, đƣờng biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi

cho giao lƣu kinh tế, có bờ biển dài trên 72 km và vùng thềm lục địa rộng lớn. Đặc

biệt chỉ cách Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng khoảng 90 km. Đây là những thị

trƣờng tiêu thụ rộng lớn (nhất là nông sản thực phẩm và lao động), đồng thời cũng

là những trung tâm hỗ trợ đầu tƣ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công

nghệ và cung cấp thông tin cho Nam Định.

Vị trí địa lý nhƣ trên tạo điều kiện thuận lợi cho Nam Định phát triển sản

xuất hàng hoá quy mô lớn và mở rộng giao lƣu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong

vùng, cả nƣớc và quốc tế. Song mặt khác cũng là một thách thức lớn đối với Nam

Định trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

Với đƣờng biển dài 72 km, nối tiếp với hai cửa biển và hai dòng sông lớn là

sông Hồng và sông Đáy, vì vậy Nam Định có một tầm quan trọng về quân sự, kinh

55

tế, chính trị, văn hóa và du lịch. Địa hình của tỉnh chủ yếu là vùng đồng bằng

chiêm trũng, vùng đồng bằng ven biển, bãi bồi cồn cát lƣợn sóng. Ngoài ra, còn có

vùng đồi núi và nửa đồi núi. Tỉnh có 2 hệ thống sông lớn là sông Hồng, sông Đáy

và nhiều sông nhỏ khác giúp cho giao thông đƣờng thủy rất thuận lợi. Hệ thống

đƣờng bộ, đƣờng sắt tƣơng đối phát triển. Đất đai có độ phì nhiêu cao thuận lợi cho

việc phát triển nông nghiệp. Dọc bờ biển có tới 5 cửa sông, có rất nhiều bãi cá lớn,

có 2 cảng lớn là cảng sông Nam Định và cảng biển Hải Thịnh.

3.1.1.2. Lợi thế về tài nguyên

Khí hậu nhiệt đới chia 2 mùa: mùa khô từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 4

năm sau, mùa mƣa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình khoảng 23°c. Nam

Định là tỉnh có tiềm năng về trồng cây lƣơng thực, kinh tế biển, nuôi trồng và đánh

bắt hải sản.Trên thềm lục địa bờ biển Nam Định còn có nhiều khả năng khai thác

các nguồn tài nguyên quý giá khác. Nam Định là một tỉnh giàu tiềm năng về du lịch.

Những di tích lịch sử của tỉnh đồng thời là danh lam thắng cảnh. Đến Nam Định, du

khách sẽ có dịp đến thăm khu di tích đời Trần, chùa Tháp Phổ Minh, chùa Cổ Lễ,

Phủ Giày,...Vùng biển của tỉnh có bãi tắm Thịnh Long, Quất Lâm, sân chim cồn Lu,

cồn Ngạn, nơi quy tụ nhiều loại chim hiếm đã đƣợc các nhà sinh học nổi tiếng về

đây nghiên cứu.

Địa hình Nam Định có thể chia thành 3 vùng:

- Vùng đồng bằng thấp trũng: gồm các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam

Trực, Trực Ninh, Xuân Trƣờng. Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát

triển nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí và

các ngành nghề truyền thống.

- Vùng đồng bằng ven biển: gồm các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu và Nghĩa

Hƣng; có bờ biển dài 72 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế

tổng hợp ven biển.

- Vùng trung tâm công nghiệp – dịch vụ thành phố Nam Định: có các ngành

công nghiệp dệt may, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, các ngành nghề

truyền thống, các phố nghề… cùng với các ngành dịch vụ tổng hợp, dịch vụ chuyên

56

ngành hình thành và phát triển từ lâu. Thành phố Nam Định từng là một trong

những trung tâm công nghiệp dệt của cả nƣớc và trung tâm thƣơng mại - dịch vụ,

cửa ngõ phía Nam của đồng bằng sông Hồng.

Đất đai :

Về thổ nhƣỡng, đất ở Nam Định đƣợc chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đất cổ ở

phía Bắc gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và thành phố Nam Định. Vùng

đất trẻ ở phía Nam, gồm các huyện Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trƣờng, Hải Hậu,

Nghĩa Hƣng, Giao Thuỷ và đất ngập mặn ở ven biển. Đất tại tỉnh Nam Định chủ

yếu là đất phù sa sông bồi lắng, có độ phì khá, có những nơi hàng năm còn đƣợc bồi

đắp, nhất là ven biển Giao Thủy, Nghĩa Hƣng. Thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến

trung bình, khả năng giữ nƣớc và giữ chất dinh dƣỡng tốt thuận lợi cho phát triển

các loại cây trồng.

Tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Nam Định năm 2011 là 165.217 ha, so với

năm 2000, diện tích đất tự nhiên năm 2005 tăng 1.477,02 ha, chủ yếu là do khu vực

bãi bồi ven biển ở hai huyện Giao Thuỷ và Nghĩa Hƣng tiếp tục đƣợc bồi lắng. Bao

gồm các loại: đất cát (ven sông và ven biển), đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất

feralít, đất sỏi đá và đất mới biến đổi. Trong đó đáng chú ý nhất là loại đất cát ven

sông đã tạo ra những cánh đồng dâu bạt ngàn làm nên làng nghề trồng dâu, nuôi

tằm, dệt sợi nhuộm nổi tiếng từ thời phong kiến và phát triển cực điểm vào thời

Pháp thuộc, thời kinh tế bao cấp với hệ thống các nhà máy dệt sợi, nhuộm, may lớn

nhất Miền Bắc. Lợi thế về nghề dệt may đƣợc phát huy tối đa tạo nên nét đặc trƣng

của thành phố Nam Định- thành phố dệt và đƣa tỉnh Nam Định trở thành một trong

ba cực phát triển (Hà Nội-Nam Định-Hải Phòng) của Miền Bắc trong nhiều thập kỷ.

Cơ cấu sử dụng nguồn tài nguyên đất của tỉnh theo thống kê năm 2011 gồm:

đất nông nghiệp 113.517 ha (chiếm 68,74% diện tích toàn tỉnh), trong đó diện tích

đất sản xuất nông nghiệp là 93.426 ha, đất lâm nghiệp có rừng 4.250 ha, đất nuôi

trồng thủy sản là 14.609 ha; đất phi nông nghiệp chiếm 47.971 ha (29,04%) và đất

chƣa sử dụng chiếm 2,22% với 3.674 ha. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu

ngƣời của tỉnh Nam Định rất thấp (509,6 m2/ngƣời) [1]. Tuy nhiên, đất lại khá màu

57

mỡ, có khả năng thâm canh cao, nhất là trồng lúa và các loại cây màu, cây công

nghiệp ngắn ngày, tạo nên nguồn nguyên liệu tƣơng đối dồi dào cho phát triển các

làng nghề chế biến lƣơng thực thực phẩm. Vùng ven biển Giao Thuỷ, Nghĩa Hƣng

đất đang đƣợc bồi tụ ra biển với tốc độ rất nhanh, bình quân mỗi năm tiến ra biển

đƣợc 80 - 120 m và có khả năng tăng thêm từ 1.500 - 2.000 ha sau 5 năm. Hiện là

những vùng nuôi trồng thuỷ sản quan trọng và trồng cói (~ 100 ha) - cung cấp

nguồn nguyên liệu cho các làng nghề dệt cói với nhiều sản phẩm khác nhau.

Tài nguyên rừng và hệ sinh thái:

- Rừng: Theo kết quả tổng kiểm kê đất đai tính đến năm 2000 toàn tỉnh có

4.723 ha rừng các loại, chủ yếu là diện tích rừng trồng 4.723 ha. Tỷ lệ che phủ đạt

2,9%. Rừng ở Nam Định chủ yếu là rừng phòng hộ, cây trồng chính là sú, vẹt, phi

lao, bần. Rừng góp phần làm trong lành không khí cho khu vực.

- Hệ sinh thái: Nam Định thuộc hệ sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới khá đa

dạng, phong phú. Hệ thực vật chiếm khoảng 50%, hệ động vật chiếm khoảng 40%

cả nƣớc. Đặc biệt là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Cồn Lu, Cồn Ngạn (nay

đã đƣợc công nhận là Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ), hệ động thực vật khá đa dạng

phong phú.

Du lịch

Nam Định là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và văn hóa và những danh lam

thắng cảnh đẹp, tạo thành nhiều quần thể du lịch hấp dẫn du khách.

Lợi thế về tài nguyên biển:

Vùng đồng bằng ven biển của tỉnh Nam Định gồm các huyện Giao Thủy, Hải

Hậu và Nghĩa Hƣng; có bờ biển dài hơn 70 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm

năng phát triển kinh tế tổng hợp ven biển. Giao Thủy, Hải Hậu và Nghĩa Hƣng là ba

tỉnh giàu tiềm năng phát triển kinh tế biển.Có 3 cửa sông lớn là cửa Ba Lạt (sông

Hồng), cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ), cửa Đáy (sông Đáy). Ngoài khơi các cửa

sông của Nam Định hình thành nhiều bãi cá,bãi tôm lớn của vịnh Bắc Bộ (bãi cá

ngoài khơi từ cửa Ba Lạt đến Hải Phòng; bãi cá từ cửa Ba Lạt đến ngang Lạch

58

Trƣờng- Thanh Hoá; bãi tôm từ cửa Ba Lạt đến ngoài khơi đảo Cát Bà- Hải Phòng).

Huyện Giao Thủy có 32 km bờ biển, có hai cửa sông lớn, nơi sông Hồng và

sông Sò đổ ra biển. Với vùng đất bãi bồi ven biển, nơi đây có nhiều điều kiện thuận

lợi để phát triển các ngành kinh tế nhƣ khai thác, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp

đóng tàu và du lịch.

Huyện Hải Hậu có đƣờng bờ biển dài 32km chạy dọc theo thị trấn Thịnh

Long, các xã Hải Hòa , Hải Triều, Hải Chính, Hải Lý, Hải Đông. Cảng biển quy mô

lớn Thịnh Long , là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển . Đƣợc

,

hình thành trên dải đất phù sa màu mỡ cuối vù ng đồng bằng châu thổ sông Hồng Hải Hậu còn là vựa lúa của toàn tỉnh, là một trong những đơn vị đầu tiên đạt năng

suất lúa 5 tấn/ha và nổi tiếng với gạo tám, nếp hƣơng, dự.

Nghĩa Hƣng là huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nam

Đi ̣nh. Huyện có có 12km chiều dài bờ biển. Phía trong đê biển san sát nhƣ̃ng hồ chƣ́ a, ao, đầm nuôi trồng thủy sản, phía ngoài đê là khoảng 3.500 ha bãi ngập triều.

Ven biển Nam Định có những khu rừng ngập mặn thu hút nhiều loài chim

trên thế giới đến trú đông, ƣớc tính đến 30.000 con. Khu bảo tồn thiên nhiên Giao Thuỷ rộng 120 km2, đã đƣợc thế giới công nhận là khu bảo vệ theo công ƣớc

quốc tế Ramsar đầu tiên ở Đông Nam Á.

Nƣớc biển Nam Định có độ mặn cao, ven biển có nhiều cánh đồng muối

lớn, tiêu biểu là đồng muối Văn Lý, với sản lƣợng muối hàng năm vào loại cao của

cả nƣớc.Sóng biển Nam Định không dữ dội, có nhiều bãi tắm lý tƣởng, cát trắng

mịn nhƣ bãi tắm Thịnh Long, Giao Lâm, Quất Lâm...

Biển Nam Định nông và bằng phẳng. Độ sâu tăng dần từ trong ra ngoài

khoảng 3-100 m. Biển Nam Định mỗi năm lùi ra khoảng 100-200 m, do phù sa sông

Hồng bồi đắp ở cửa Ba Lạt, Lạch Giang tạo thêm diện tích khoảng 400 ha/năm.

Bình quân mỗi năm quai thêm đƣợc 150 ha đất ở cao trình 0,5-0,8 m trở lên. Bờ

biển Nam Định bị chia cắt khá mạnh mẽ bởi nhiều cửa sông lớn, vùng ven biển

nông và bằng phẳng với độ sâu tăng dần từ từ.

Diện tích cũng nhƣ điều kiện tự nhiên đem lại cho các địa phƣơng ven biển

59

của Nam Định là những yếu tố để tạo nên tiềm năng phát triển kinh tế biển của tỉnh

Nam Định. Diện tích đƣờng bờ biển không hề nhỏ tạo nên mối liên kết chặt chẽ với

biển. Chính nhờ yếu tố địa hình đã giúp tạo ra ngành nghề truyền thống của ngƣời

dân nơi đây. Với điều kiện “ bám biển” nên cuộc sống ngƣời dân chủ yếu là các

công việc gắn với biển. Do tính chất gắn bó lâu năm với biển nên khi tập trung đẩy

mạnh phát triển kinh tế biển ở các địa phƣơng này cũng thuận lợi và dễ dàng hơn.

3.1.2. Những lợi thế về kinh tế - xã hội

3.1.2.1 Lợi thế về nguồn lao động dồi dào và có chất lượng tốt

Theo điều tra dân số 01/04/2014 Nam Định có 1,805,771 ngƣời với mật độ

dân số 1,196 ngƣời/km².. Về mặt hành chính đƣợc chia thành 10 đơn vị hành chính,

bao gồm thành phố Nam Định và 9 huyện, tính từ bắc xuống nam là Mỹ Lộc, Vụ

Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trƣờng, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa

Hƣng với 230 xã, phƣờng, thị trấn.

Bảng 3.1. Thống kê dân số tỉnh Nam Định từ 2011-2014

Năm Diện tích(*) Dân số trung bình Mật độ dân số

(Km2) (Nghìn ngƣời) (Ngƣời/km2)

2011 1.651,4 1.833,5 1.110,3

2012 1.652,6 1.835,1 1.110,4

2013 1.652,8 1.839,9 1.113,2

2014 1.653,2 1.845,6 1.116,0

Nguồn: Tổng cục thống kê

Bảng 3.2. Diện tích, dân số, mật độ dân số phân theo các đơn vị hành chính

của Nam Định năm 2011

Đơn vị hành chính

Diện tích (km2) Dân số (ngƣời) Mật độ dân số (ngƣời/km2)

1.652,17 1.833.500 1.110 Tổng số

46,23 245.667 5.314 TP. Nam Định

73,65 69.350 942 H. Mỹ Lộc

60

148,00 129.863 877 H. Vụ Bản

H. Ý Yên 241,21 227.541 943

H. Nghĩa Hƣng 254,43 178.868 703

H. Nam Trực 161,70 192.694 1.192

H. Trực Ninh 143,54 176.877 1.232

H. Xuân Trƣờng 114,97 166.058 1.444

H. Giao Thuỷ 238,24 189.195 794

H. Hải Hậu 230,20 257.387 1.118

Nguồn: Tổng cục thống kê

Nam Định có nguồn nhân lực khá dồi dào và đa dạng về ngành nghề. Hiện

nay Nam Định có khoảng 1.157.835 ngƣời trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở

lên). Lực lƣợng lao động chiếm tỷ lệ khá cao, cao hơn mức trung bình của cả nƣớc,

cũng nhƣ khu vực đồng bằng sông Hồng.

Bảng 3.3. Số ngƣời trong độ tuổi lao động tỉnh Nam Định giai đoạn 2005-2014

Năm 2005 2007 2009 2010 2011 2013 Sơ bộ

2014

994,0 1.083,1 1.075,1 1.070,1 1.082,2 1.145,4 1.157,8 Số lao động

( nghìn ngƣời)

Nguồn: Tổng cục thống kê

Bảng 3. 4. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên so với tổng số dân

Đơn vị: %

2005 2007 2008 2010 2011 2012 2013 Sơ bộ

2014

51,9 53,7 54,6 56,4 57,3 57,9 58,2 58,1 CẢ NƢỚC

56,7 Đồng bằng sông Hồng 53,9 55,1 54,7 56,6 56,7 57,0 57,3

52,0 56,2 54,5 58,1 55,1 56,7 56,7 57,1 Bắc Ninh

61

51,8 53,8 53,4 55,4 57,0 58,0 59,4 57,5 Quảng Ninh

59,8 57,3 56,9 60,1 61,7 60,4 60,8 58,3 Hải Dƣơng

52,7 52,4 52,6 55,3 55,4 55,2 55,9 55,8 Hải Phòng

56,6 57,6 57,0 59,9 60,8 60,4 60,5 59,9 Hƣng Yên

51,2 57,3 57,6 57,2 58,3 59,9 61,4 61,8 Nam Định

Nguồn: Tổng cục thống kê

Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tiếp tục đƣợc

mở rộng, bình quân hàng năm có trên 1,75 vạn lao động đƣợc đào tạo ở các trình độ

khác nhau, đƣa tổng số lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2005 đạt 39% (trong đó tỉ

lệ lao động qua đào tạo nghề chuyên môn đạt 25,5%).

Bảng 3.5. Tỷ lệ lao động trên 15 tuổi trở lên đang làm việc

trong nền kinh tế đã qua đào tạo

Đơn vị: %

2008 2009 2010 2011 2012 2013 Sơ bộ 2014

14,3 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 CẢ NƢỚC

18,1 20,9 20,7 21,1 24,0 24,9 25,9 Đồng bằng sông Hồng

25,1 32,0 27,8 28,3 32,1 32,5 36,1 Quảng Ninh

15,1 14,7 14,1 13,4 14,7 13,4 15,0 Hải Dƣơng

23,1 23,3 22,4 23,6 24,0 26,6 27,6 Hải Phòng

11,5 13,7 13,0 13,2 16,8 17,7 20,0 Hƣng Yên

12,0 11,9 10,8 11,7 13,3 15,7 11,0 Nam Định

Nguồn: Tổng cục thống kê

Với một đội ngũ lao động lớn có trình độ khoa học kĩ thuật, trong đó có khoảng

30 nghìn ngƣời có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học cộng thêm tính cách cần

cù, năng động, sáng tạo của ngƣời Nam Định sẽ là một nhân tố quan trọng trong phát

triển kinh tế đặc biệt là ngành kinh tế biển có lợi thế so sánh của Nam Định.

3.1.2.2. Tiểm năng về kết cấu hạ tầng

Trong những năm qua, Nam Định luôn xác định phát triển hạ tầng giao thông

là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)

62

của tỉnh.

* Về giao thông: Thời gian quaNam Định đã tập trung đầu tƣ cải tạo, nâng

cấp, xây dựng mới các tuyến đƣờng giao thông huyết mạch nhằm tạo bƣớc đột phá

trong cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và phát triển KT-XH. Trong 5 năm qua, tổng vốn

đầu tƣ phát triển xã hội của tỉnh đạt 108,9 nghìn tỷ đồng, gấp 2,91 lần so với giai

đoạn 2006-2010, chỉ tính riêng huy động vốn đầu tƣ xây dựng hạ tầng giao thông

nông thôn giai đoạn 2011-2014 đạt 5.367 tỷ đồng. Nam Định đã hoàn thành việc

đầu tƣ cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới và đƣa vào sử dụng 172 km đƣờng quốc lộ;

110 km đƣờng tỉnh lộ và hàng ngàn km đƣờng liên thôn, liên xã nhƣ: quốc lộ 21,

quốc lộ 37B, quốc lộ 38B, tỉnh lộ 490C, tỉnh lộ 485, tỉnh lộ 488C, tỉnh lộ 489... Đặc

biệt tuyến đƣờng bộ mới Nam Định - Phủ Lý đã đƣợc Bộ GTVT chính thức đƣa vào

quy hoạch mạng lƣới đƣờng cao tốc quốc gia.Đây là tuyến đƣờng chiến lƣợc kết nối

giao thông Nam Định và các tỉnh trong vùng giao thƣơng với cửa ngõ Thủ đô; giúp

cải thiện đáng kể môi trƣờng đầu tƣ và tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ

trong và ngoài nƣớc.

Hạ tầng giao thông đƣờng thủy cũng đƣợc quan tâm phát triển với dự án cải

tạo cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ) - một trong những hợp phần của dự án WB6

đƣợc khởi công đầu năm 2014 và đang thực hiện thi công với tổng mức đầu tƣ 80

triệu USD. Dự án kênh kết nối sông Đáy - Ninh Cơ dự kiến đƣợc triển khai thi công

vào năm 2016. Đây là một trong những dự án giao thông đƣờng thủy có ý nghĩa

quan trọng thúc đẩy hiệu quả khai thác giao thông thủy nội địa và kết nối giao thông

thủy nội địa quốc gia thông qua hình thức vận tải pha sông biển, giúp cho tàu phà

sông biển có trọng tải 1.000 - 3.000 tấn đến cảng Ninh Phúc và các cảng trên sông

Hồng, sông Ninh Cơ.

* Bưu chính, viễn thông: Hệ thống bƣu chính viễn thông của Nam Định

không ngừng đƣợc cải tạo, nâng cấp, đầu tƣ mới, có thể liên lạc khá thuận tiện giữa

các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nƣớc.

* Điện, nước: Hệ thống điện và cấp nƣớc của tỉnh đã, đang đƣợc cải tạo nâng

cấp. Nam Định gần các nguồn năng lƣợng lớn nhƣ thủy điện Hòa Bình 1.920 MW,

63

nhiệt điện Phả Lại có quy mô trên 800 MW, gần vùng than Quảng Ninh với trữ

lƣợng khá, chính là điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lƣợng cho

sản xuất công nghiệp và các hoạt động dịch vụ.Ngoài ra hiện nay Nam Định đang

bắt đầu triển khai xây dựng nhà máy nhiệt điện với tổng công suất 2.400MW. Dự

kiến khi đi vào hoạt động sẽ đóng góp cho ngân sách tỉnh Nam Định 2-3 nghìn tỉ

đồng mỗi năm.

* Kết cấu hạ tầng khác: Nam Định hiện nay có nhiều cơ sở đào tạo nguồn

nhân lực phục vụ nhu cầu của các ngành kinh tế tỉnh, đặc biệt là kinh tế biển. Hiện

tại ở tỉnh có 3 trƣờng đại học (Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Nam Định, Đại học Điều

dƣỡng Nam Định, , Đại học Dân lập Lƣơng Thế Vinh); 4 viện nghiên cứu: Thủy

sản, Hải sản, Y học biển, phân viện Hải dƣơng học, 3 trƣờng cao đẳng chuyên

nghiệp (Cao đẳng Công nghiệp, Cao đẳng Xây dựng, Cao đẳng Sƣ phạm) và có 40

cơ sở đào tạo dạy nghề gồm các hệ cao đẳng, trung học, công nhân kĩ thuật, sơ cấp

nghề. Những cơ sở đào tạo này có khả năng đào tạo đƣợc đội ngũ lao động ở nhiều

trình độ, nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó đặc biệt là các ngành hàng hải,

thƣơng mại, giao thông vận tải, thủy sản, du lịch và các ngành dịch vụ khác.

3.1.3. Những khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Tỉnh Nam Định có nhiều tiềm năng và lơ ̣i thế để phát triển kinh tế biển. Theo tinh thần Nghi ̣ quyết Đa ̣i hô ̣i đại biểu Đảng bô ̣ tỉnh lần thƣ́ XVIII xác đi ̣nh "kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nho ̣n ". Trong những năm qua kinh tế biển củ a tỉnh Nam Đi ̣nh đã đa ̣t đƣơ ̣c nhiều thành tích đáng khích lê ̣ , đánh bắt, nuôi trồng thuỷ , hải sản đã có bƣớc nhảy vọt . Điều quan tro ̣ng là đã chuyển đổi thành công nhiều vù ng đất nhiễm mă ̣n, nhiều vù ng đất trũng không có khả năng cấy lú a thành nhƣ̃ng trang tra ̣i

nuôi thuỷ hải sản đa ̣t hiê ̣u quả kinh tế cao.

Bên cạnh những lợi thế, tiềm năng để phát triển kinh tế biển, Nam Định cũng

đã và đang gặp phải những khó khăn to lớn. Đó là khó khăn về những bất lợi của tự

nhiên, về cơ chế chính sách, về nguồn lực đầu tƣ:

Thứ nhất,sự biến đổi khí hậu từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, Nam

Định đã h ứng chịu khoảng 30 trận bão, 1 trận lốc, 4 trận lũ gây thiệt hại lớn về

64

ngƣời và của, ƣớc tính hàng nghìn t ỷ đồng. Các hiện tƣợng thời tiết cực đoan, nhƣ

nhiệt độ tăng cao, nắng nóng kéo dài , lƣợng mƣa thay đổi bất thƣờ ng , mức độ rét

đậm, rét hại, áp thấp nhiệt đới, bão lũ, hạn hán, sạt lở đất, dịch bệnh... kết hợp với

nƣớc biển dâng, xâm nhập mặn... đã gây nhiều khó khăn cho trồng tro ̣t , chăn nuôi,

khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản;

Thứ hai, Nam Định có tiềm năng du lịch tự nhiên và du lịch sinh thái.Tuy

nhiên tiềm năng này lại bị hạn chế vì khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, trong đó có

mùa đông lạnh. Điều này đã làm cho các quần thể du lịch nhƣ Thịnh Long, Quất

Lâm, vƣờn quốc gia Xuân Thủy – các trọng tâm du lịch biển của tỉnh mang tính

mùa vụ rõ rệt chứ không đƣợc khai thác quanh năm một cách triệt để nhƣ các khu

du lịch biển ở Nam Trung bộ, Đông Nam bộ…

Thứ ba, trong thời kì đổi mới, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nam Định đạt

tốc độ khá song chƣa đảm bảo tính bền vững. Tỉ trọng dịch vụ trong GDP cũng đã

tăng dần, song chƣa tƣơng xứng với tiềm năng lợi thế của tỉnh (năm 2004: 49,8%,

năm 2005: 50,4%, năm 2006: khoảng 51%). Nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh

còn phụ thuộc vào môi trƣờng bên ngoài, tỉ lệ nội địa hóa còn thấp, giá trị gia tăng

chƣa cao.Sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và của các doanh

nghiệp cũng nhƣ nền kinh tế tỉnh còn thấp.Số lƣợng, chủng loại hàng hóa dịch vụ có

khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng chƣa nhiều.

Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chậm, chƣa thực sƣ tạo ra

thế và lực cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành có tiềm năng, thế mạnh nhƣ dịch vụ

cảng biển, du lịch…

Thứ năm, kết cấu hạ tầng kĩ thuật của Nam Định mặc dù từng bƣớc đƣợc cải

thiện đáng kể, tuy nhiên chất lƣợng còn chƣa đƣợc đảm bảo, đặc biệt kết cấu hạ

tầng du lịch về cơ bản mới chỉ đáp ứng yêu cầu nội địa.

3.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến nay

3.2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển

Những năm gần đây, tỉnh Nam Định xác định việc phát triển các khu kinh tế,

khu công nghiệp ven biển, cảng biển... là hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển

65

kinh tế biển của địa phƣơng.Theo đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch

vùng kinh tế biển và phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển

kinh tế biển.

Trong quy hoạch vùng kinh tế biển, Nam Định đã quy hoạch Khu kinh tế

Ninh Cơ với quy mô 13.950ha trên địa bàn hai huyện Hải Hậu và Nghĩa Hƣng. Đặc

biệt, mới đây, Thủ tƣớng Chính phủ cũng đã đồng ý thành lập và bổ sung Khu kinh

tế Ninh Cơ vào Quy hoạch tổng thể phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam

đến năm 2020.

Theo đó, Khu kinh tế Ninh Cơ đƣợc xây dựng theo các tiêu chí về khu công

nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Hiện nay, UBND tỉnh Nam Định tiếp tục khảo

sát, nghiên cứu để hoàn thiện đề án trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định. Theo

quy hoạch, Khu kinh tế Ninh Cơ có cảng biển nƣớc sâu, kết nối thuận lợi với trục

giao thông huyết mạch của quốc gia, quốc tế.Đến năm 2020, Khu kinh tế Ninh Cơ

đóng góp khoảng 20% GDP của tỉnh.Khu kinh tế Ninh Cơ đƣợc kỳ vọng trở thành

trung tâm lớn trong giao thƣơng quốc tế về công nghiệp, thƣơng mại, du lịch và

cảng biển của vùng nam Đồng bằng sông Hồng.

Là một phần của Khu kinh tế Ninh Cơ, Khu công nghiệp Dệt may Rạng

Đông (huyện Nghĩa Hƣng) có quy mô giai đoạn I là 600ha. Hiện nay, tỉnh Nam

Định đang tập trung cao độ cho công tác giải phóng mặt bằng để có thể khởi công

trong tháng 5-2015. Sau khi hoàn thiện và đi vào hoạt động, Khu công nghiệp Dệt

may Rạng Đông sẽ tạo ra khoảng 1 tỷ mét vải mỗi năm, đáp ứng đáng kể nhu cầu

của thị trƣờng trong nƣớc, tạo việc làm cho khoảng 10 vạn lao động, đóng góp hơn

2.000 tỷ đồng cho ngân sách địa phƣơng.

Về cơ sở hạ tầng, ông Lê Nguyên Khính, Giám đốc Sở Giao thông vận tải

tỉnh Nam Định, cho biết: Để tạo động lực cũng nhƣ các điều kiện hạ tầng cần thiết

phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế biển, chính quyền tỉnh Nam Định đang tập trung

cao độ cho các dự án hạ tầng giao thông quan trọng nhằm kết nối vùng kinh tế ven

biển của tỉnh với các vùng kinh tế khác trong khu vực và cả nƣớc.

Nam Định đã khởi công dự án đƣờng trục phát triển nối vùng kinh tế biển

66

tỉnh với đƣờng cao tốc Cầu Giẽ-Ninh Bình trong quý III-2015. Tuyến đƣờng trên

dài hơn 45km, có tổng mức đầu tƣ hơn 5.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, trong tháng 9

năm 2015, Nam Định cũng đã khởi công dự án cầu Thịnh Long, nối hai bờ sông

Ninh Cơ và là một phần của tuyến quốc lộ ven biển qua địa bàn tỉnh Nam Định.

Cùng với đó, công trình đƣờng thủy Lạch Giang, kênh nối sông Ninh Cơ và

sông Đáy (tiểu hợp phần A2 thuộc Dự án phát triển giao thông vận tải khu vực

Đồng bằng Bắc Bộ có tổng vốn đầu tƣ hơn 210 triệu USD do Bộ Giao thông vận tải

làm chủ đầu tƣ) đang đƣợc triển khai. Công trình cửa Lạch Giang gồm 8 gói thầu

với các hạng mục chính là xây dựng đê chắn sóng, nạo vét và bảo vệ luồng, có tổng

mức đầu tƣ hơn 1.600 tỷ đồng.

Với một loạt dự án lớn đƣợc triển khai trong những năm qua, Nam Định sẽ

có điều kiện thuận lợi để phát triển các dịch vụ vận tải thủy, cảng nƣớc sâu... Theo

đó, trong tƣơng lai không xa, kinh tế biển của Nam Định sẽ đƣợc thúc đẩy với các

khu công nghiệp cùng các đô thị ven biển hình thành, tạo cho Nam Định một diện

mạo mới.

Mặt khác,trong những năm qua, mạng lƣới cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch

và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Nam

Định từng bƣớc phát triển đáp ứng đƣợc tốt hơn cho nhu cầu của khách du lịch. Các

cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đã tham gia phục vụ các hoạt động quốc tế

(Seagame22), hội nghị toàn quốc tổ chức tại Nam Định.

Các cơ sở lƣu trú tập trung chủ yếu tại khu vực thành phố Nam Định và hai

khu du lịch biển Thịnh Long, Quất Lâm.

Hiện nay tại địa bàn thành phố có 27 khách sạn, nhà nghỉ với 475 phòng

trong đó có 7 khách sạn, nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn với 267 phòng (01 khách sạn đƣợc

xếp hạng 3 sao), chiếm 56% tổng số phòng toàn thành phố; có 5 khách sạn, nhà

nghỉ xây dựng phòng họp, phòng hội thảo trong đó: 1 phòng họp có quy mô 150

ghế; 2 phòng họp có quy mô trên 100 ghế; 4 phòng họp có quy mô trên 60 ghế.

Nhìn chung cơ sở lƣu trú du lịch có khả năng đáp ứng nhu cầu tổ chức các hội nghị,

hội thảo với quy mô 500-600 đại biểu.

67

Những năm gần đây, hệ thống các nhà khách, nhà nghỉ tại khu vực Thịnh

Long, Quất Lâm phát triển nhanh chóng cả về số lƣợng và chất lƣợng, đã góp phần

đáp ứng nhu cầu buồng phòng tăng cao trong các tháng cao điểm. Tuy nhiên, về lâu

dài thì hệ thống này cần đƣợc kiểm soát chặt chẽ, vì nó chƣa đƣợc đầu tƣ một cách

đồng bộ để có đầy đủ các điều kiện phục vụ khách du lịch; các nhà nghỉ, nhà khách

ở các khu du lịch biển chủ yếu hoạt động sôi nổi vào các tháng mùa hè. Những

tháng hè các nhà nghỉ, nhà khách luôn trong tình trạng đông khách, thậm chí là hết

và thiếu phòng. Từ đó kéo theo các dịch vụ mua bán, ẩm thực rất phát triển. Trên

địa bàn tỉnh Nam Định mạng lƣới phục vụ ăn uống tƣ nhân khá phát triển và đa

dạng về chủng loại, đáp ứng đƣợc nhu cầu của du khách.Tuy nhiên còn các tháng

khác trong năm lại chỉ hoạt động cầm chừng nên hiệu quả kinh doanh thấp, lãng phí

vốn đầu tƣ và không có đủ điều kiện để nâng cao chất lƣợng của dịch vụ lƣu trú,

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo

của tỉnh, huyện cũng nhƣ chủ các khu du lịch phải tính toán và đƣa ra những

phƣơng án tối ƣu nhất để khắc phục đƣợc hạn chế trên, từ đó góp phần phát triển

kinh tế biển tỉnh Nam Định mạnh mẽ và hiệu quả hơn.

3.2.2. Phát triển sản phẩm

3.2.2.1. Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản Đánh bắt thủy hải sản

Những năm gần đây, chính quyền tỉnh đã có nhiều chính sách phù hợp nhằm

đẩy mạnh phát triển ngành khai thác hải sản một cách hiệu quả đi đôi với bảo vệ và

tái tạo nguồn lợi trên cơ sở hợp lý hoá các đội tàu khai thác, tăng cƣờng năng lực đội

tàu khai thác xa bờ, giảm dần số lƣợng tàu thuyền nhỏ khai thác gần bờ.Tập trung

hoàn thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá, đặc biệt ƣu tiên đầu tƣ các khu neo đậu

tránh trú bão tàu cá, các cảng cá, chợ cá, bến cá.

Bảng 3.6. Diễn biến tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ

giai đoạn 2000 - 2014

Nội dung 2000 2003 2006 2007 2009 2011 2012 2013 Sơ bộ

68

2014

50 56 78 89 118 159 168 306 320 Số tàu (chiếc)

16,6 18,7 12,8 14,6 24,0 31,2 32,3 43,5 49,9 Công suất

(nghìn CV)

Nguồn: Tổng cục thống kê

Trong những năm trở lại đây, năng lực khai thác thuỷ hải sản xa bờ của tỉnh

đã không ngừng đƣợc tăng lên, cơ sở dịch vụ hậu cần thủy sản ngày càng đƣợc tập

trung củng cố mở rộng. Hiện, toàn tỉnh có 2.006 tàu thuyền khai thác thủy sản,

trong đó có 320 tàu khai thác xa bờ, tăng 270 tàu so với năm 2000, tập trung chủ

yếu ở các huyện nhƣ: Giao Thuỷ, Hải Hậu và Nghĩa Hƣng.

Về sản lƣợng khai thác có xu hƣớng tăng dần sản lƣợng đánh bắt ngoài khơi,

từ năm 2000 đến nay bình quân mỗi năm tăng từ 6-10%, năm 2014 khai thác đƣợc

44.500 tấn.

Bảng 3.7. So sánh tổng số và công suất tàu thuyền của

khu vực Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011

Đơn vị: Chiếc; Nghìn CV

2000 2005 2011

Nội dung Số tàu Công suất Số tàu Công suất Số tàu Công suất

CẢ NƢỚC 9.766 1.385,100 20.537 2.801,100 28.424 5.264,300

ĐB sông Hồng 263 59,255 108,500 129,600 936 991

Quảng Ninh 54 10,055 147 22,600 195 28,100

Hải Phòng 113 19,900 682 57,300 536 45,200

Thái Bình 38 10,570 66 16,300 99 24,200

Nam Định 50 16,610 23 800 159 31,200

(Nguồn: Trang web của Tổng cục thống kê)

Nam Định đã thành lập 41 tổ, đội, tập đoàn khai thác thủy sản trên biển, hỗ

trợ nhau trong khai thác, cung ứng dịch vụ hậu cần nhƣ: cung cấp xăng dầu, nƣớc

đá, ngƣ lƣới cụ, thiết bị thông tin hàng hải, phụ tùng máy thủy, sửa chữa tàu thuyền,

phƣơng tiện của tỉnh. Qua đó góp phần giảm chi phí, tăng thời gian bám biển, nâng

69

cao hiệu quả sản xuất và tăng cƣờng công tác cứu hộ, cứu nạn khi có sự cố xảy

ra...So sánh về lực lƣợng và công suất tàu thuyền khai xa bờ, Nam Định là tỉnh thứ

haicủa khu vực đồng bằng sông Hồng, chỉ sau Hải Phòng từ năm 2000 cho đến

nay.Để tạo ra bƣớc đột phá mới trong khai thác thủy sản với mục tiêu rộng hơn, sâu

hơn và xa hơn, UBND tỉnh đã chỉ đạo các huyện ven biển tăng cƣờng quản lý hoạt

động nghề cá trên biển. Tổ chức hƣớng dẫn ngƣ dân thành lập các tổ, đội khai thác

thủy sản với chủ trƣơng phát huy tốt năng lực tàu khai thác theo hình thức tổ, đội,

đoàn và liên kết với dịch vụ hậu cần nghề cá; kịp thời hỗ trợ nhau về giá nhiên liệu,

vật tƣ, giá bán sản phẩm… trong sản xuất cũng nhƣ hoạt động cứu trợ khi gặp sự

cố, thiên tai trên biển. Đến nay, toàn tỉnh đã thành lập đƣợc 41 đoàn, tổ, đội khai

thác thủy sản với 1.185 tàu đang hoạt động, chiếm 61,24% tổng số tàu khai thác

toàn tỉnh và 3.187 lao động trực tiếp đánh bắt. Chính sự hợp tác sản xuất trên biển

đã động viên và tạo ra khí thế thi đua giúp ngƣ dân tích cực bám biển khai thác

cũng nhƣ tìm kiếm ngƣ trƣờng mới… nên càng về cuối năm sản lƣợng khai thác

càng cao. Việc đầu tƣ phát triển nghề khai thác cũng tạo ra sự thay đổi tích cực.

Hiện, loại tàu công suất nhỏ dƣới 20CV giảm xuống chỉ còn 1.311 chiếc; loại tàu

công suất từ 50 đến dƣới 90CV là 97 chiếc; tàu công suất lớn, loại 90CV trở lên

tăng 357 chiếc tham gia đánh bắt xa bờ, khai thác trên biển dài ngày. Cơ cấu nghề

cũng có sự thay đổi, một số tàu, thuyền của huyện Nghĩa Hƣng , Hải Hậu đã chuyển

đổi sang đánh bắt kiêm nghề nhƣ : Tổ hợp tác nghề lƣới rê kết hợp chụp mực của xã

Hải Lý , Hải Chính , Hải Triều (Hải Hậu ), mỗi chuyến biển có lãi từ 30 - 40 triệu

đồng; cá biệt có tàu thu lãi 150 - 200 triệu đồng. Nghề lƣới kéo đôi của xã Giao

Phong, Thị trấn Quất Lâm (Giao Thủy) lãi từ 8 - 15 triê ̣u đồng/tháng/tàu.Sở NN và

PTNT đã phối hợp với các địa phƣơng ven biển , các đồn , trạm kiểm soát biên

phòng bám sát địa bàn , tiến hành rà soát, thống kê, phân loại tàu cá. Công tác đăng

ký, đăng kiểm và cấp giấy phép khai thác thủy sản cũng đã đi vào nền nếp để thực

hiện các biện pháp quản lý bảo vệ an toàn cho các tàu, thuyền đánh cá và phƣơng

tiện thủy hoạt động trên biển, gắn sản xuất với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh

vùng biển. Hiện nay, tỉnh có 1 cảng cá và khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão tại

70

cửa Ninh Cơ, huyện Hải Hậu. Dự án Khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão tại cửa

Ninh Cơ, huyện Nghĩa Hƣng đã đƣa âu thuyền số 1 vào sử dụng. Năm 2014, tỉnh

khởi công xây dựng khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão kết hợp bến cá tại cửa Hà

Lạn, huyện Giao Thủy và 5 bến cá tại 3 huyện ven biển. Cùng với đó, 105 cơ sở thu

mua, chế biến hải sản và 9 cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu cá tại địa phƣơng hoạt

động tích cực tạo điều kiện cho khai thác phát triển. Trong năm 2014, tổng số tàu,

thuyền khai thác của toàn tỉnh là 1.964 chiếc, giảm 125 chiếc so với năm 2013 (chủ

yếu là giảm số tàu công suất nhỏ, đánh bắt gần bờ) sản lƣợng khai thác vẫn đạt

44.500 tấn, tăng 5,05% so với năm 2013 cho thấy hiệu quả rõ nét của đầu tƣ đánh

bắt xa bờ.

Nuôi trổng thuỷ hải sản

Năm 2014, sản xuất thủy sản của tỉnh Nam Định tiếp tục phát triển theo

hƣớng sản xuất hàng hoá, sức cạnh tranh cao phù hợp với hệ sinh thái, khai thác tối

đa lợi thế của địa phƣơng; nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Chính quyền tỉnh đã

có sự quan tâm đầu tƣ xây dựng, nâng cấp các cơ sở sản xuất giống đặc biệt là

giống tôm biển, cua biển, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển... đáp ứng giống thuỷ sản

một cách chủ động cho nhu cầu nuôi; Tiếp nhận công nghệ sản xuất các con giống

có giá trị kinh tế và phù hợp với địa phƣơng. Tổng sản lƣợng thủy sản cả năm đạt

110,4 nghìn tấn, tăng 9,5% so với năm 2013; trong đó sản lƣợng nuôi trồng đạt

65.900ha, sản lƣợng khai thác đạt 44.500ha.

Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS), toàn tỉnh đã đƣa 15.859ha diện tích mặt

nƣớc vào nuôi thả.Diện tích nuôi vùng mặn lợ là 6.451ha, sản lƣợng đạt 34.050 tấn.

Hiện có hơn 2.000 hộ nuôi tôm sú, diện tích nuôi tuy giảm nhiều so với trƣớc đây

song từng vùng nuôi đã chuyển sang phƣơng thức quảng canh cải tiến và nuôi xen

canh với các đối tƣợng khác nhƣ cá bống bớp, cua nên đã khắc phục đƣợc tình trạng

tôm bị bệnh. Sản lƣợng tôm sú đạt 925 tấn; năng suất bình quân đạt từ 0,2 - 0,5

tấn/ha. Tôm thẻ chân trắng đã đƣợc đƣa vào nuôi thả trên diện rộng với tổng diện

tích 621ha, tăng 134,7ha so với năm 2013, chủ yếu nuôi với hình thức thâm canh và

bán thâm canh. Sản lƣợng tôm thẻ chân trắng đạt 3.250 tấn, tăng 370 tấn so với năm

71

2013.Năng suất bình quân của các mô hình nuôi thâm canh đạt 8 - 10 tấn/ha.

Cùng với nuôi tôm thẻ chân trắng, hoạt động nuôi ngao tiếp tục khẳng định

là thế mạnh của tỉnh cho hiệu quả kinh tế cao với diện tích nuôi toàn tỉnh đạt

1.537ha. Ngoài nguyên nhân từng bƣớc chủ động ngao giống bằng sinh sản nhân

tạo, mô hình quản lý cộng đồng nuôi ngao do tổ chức MCD hỗ trợ giúp các hộ nuôi

nắm vững kỹ thuật chọn bãi, cải tạo nền đáy bãi nuôi, tạo môi trƣờng đáy thuận lợi,

chọn thời điểm thả giống, quản lý sản phẩm… nên năng suất tăng lên rõ rệt, đạt 15 -

20 tấn/ha; sản lƣợng ƣớc đạt 24.370 tấn, tăng 2.198 tấn, tƣơng đƣơng 9,91% so với

năm 2013. Cua biển và cá bớp vẫn là 2 đối tƣợng nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao

cho nông dân; sản lƣợng cua biển đạt 1.245 tấn, sản lƣợng cá bống bớp 1.140 tấn

cho lãi ròng 300-500 triệu đồng/ha. Một số đối tƣợng nuôi mới nhƣ cá song, cá

vƣợc, cá chim biển vây vàng cũng đƣợc mở rộng diện tích ở vùng mặn lợ. Riêng

diện tích nuôi cá song, cá vƣợc trong năm 2014 đạt 323ha, sản lƣợng đạt 1.560 tấn,

cho thu lãi 250 - 400 triệu đồng/ha/năm, đây là hƣớng phát triển mới cho NTTS

nƣớc lợ.

Nuôi thủy sản nƣớc ngọt (vùng nuôi nội đồng) cũng tiếp tục phát triển, diện

tích nuôi đạt 9.408ha, sản lƣợng 31.850 tấn, bằng 109,86% so với năm 2013. Ngoài

nuôi cá truyền thống cho hiệu quả kinh tế khá, ít rủi ro, sản phẩm có thể thu tỉa, thả

bù quanh năm, thị trƣờng tiêu thụ ổn định, nhiều hộ nông dân ở Giao Thủy, Nghĩa

Hƣng, Hải Hậu, Trực Ninh, Mỹ Lộc… đã đƣa vào nuôi các loài thủy đặc sản có giá

trị cao nhƣ: ba ba, ếch, rắn, cá tra…; sản lƣợng đạt trên 200 tấn. Các đối tƣợng nuôi

mới có hiệu quả kinh tế cao nhƣ cá lóc bông, cá diêu hồng… tiếp tục đƣợc mở rộng.

Chế biến thủy hải sản

Chế biến xuất khẩu thủy sản là tồn tại yếu kém lớn nhất của ngành thủy sản

nói chung và Nam Định nói riêng. Tổng giá trị xuất khẩu còn thấp, do nhiều nguyên

nhân nhƣ sản phẩm chế biến chất lƣợng thấp, điều kiện vệ sinh thực phẩm chƣa đảm

bảo, sản phẩm chủ yếu ở dạng thủ công và các thiết bị máy móc cũ và lạc hậu. Sản

phẩm xuất khẩu không cạnh tranh đƣợc với thị trƣờng, giá cả thủy sản thấp, chủ yếu

tiêu thụ trong nội địa.Một trong những khó khăn lớn nhất của ngành thủy sản Nam

72

Định là vấn đề về vốn, về nguồn lợi hải sản và khu chế biến xuất khẩu thủy

sản.Những năm gần đây chính quyền tỉnh Nam Định đã chú trọng đầu tƣ vốn, khoa

học công nghệ, xây dựng khu chế biến thủy hải sản ngay gần bến tàu thuyền.Để

không phải mất thời gian lâu vận chuyển thủy hải sản từ nơi đánh bắt đến nơi chế

biến, từ đó tạo ra sản phẩm chất lƣợng cao, cạnh tranh đƣợc với sản phẩm của các

tỉnh khác trong nƣớc cũng nhƣ của các nƣớc và khu vực khác.

Năm 2013, sản lƣợng khai thác thuỷ hải sản của tỉnh đạt gần 40 nghìn tấn,

trong đó, 75% sản lƣợng tiêu thụ ngay tại thị trƣờng nội địa qua các cảng cá, bến cá

và là nguyên liệu phục vụ hoạt động chế biến tiêu thụ trong nƣớc và xuất khẩu.

Trong năm, các doanh nghiệp, cơ sở chế biến thuỷ sản trong tỉnh đã chế biến 300

tấn sản phẩm đông lạnh, hàng triệu lít nƣớc mắm và mắm tôm các loại bảo đảm chất

lƣợng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Trong hai năm trở lại đây với hình thức cổ phần hóa các doanh nghiệp một

số công ty cổ phần để ra đời nhƣ công ty mới tiêu biểu nhƣ công ty nƣớc mắm Ninh

Cơ, xí nghiệp chế biến thủy sản Xuân Thủy... thu hút rất nhiều lao động tham gia

sản xuất tạo việc làm cho ngƣời dân trong vùng, với sự giao lƣu thuận tiện của vùng

với các vùng khác trong tỉnh cũng nhƣ với các tỉnh khác nên sản lƣợng đánh bắt hay

nuôi trồng thủy sản dễ dàng đi vào các thị trƣờng mà không phải gặp những khó

khăn nào.

Dịch vụ hậu cần nghề cá.

Các hoạt động dịch vụ, hậu cần nghề cá bao gồm: Thu mua, sơ chế thủy sản,

bảo quản thủy sản; cung ứng xăng dầu, nƣớc đá, vật tƣ trang thiết bị phục vụ tàu cá

và khai thác thủy sản; các vật dụng phục vụ sinh hoạt của ngƣ dân. Đƣợc sự quan

tâm của tỉnh, thời gian qua các cảng cá, dịch vụ hậu cần nghề cá đƣợc đầu tƣ xây

dựng và đi vào hoạt động đã cung ứng kịp thời nhiên liệu, nhu yếu phẩm cho tàu

thuyền đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, kinh doanh các

sản phẩm hải sản. Hiện nay, cùng với cảng cá, mạng lƣới dịch vụ hậu cần nghề cá

đƣợc hình thành với hơn 100 cơ sở thu mua, chế biến, tiêu thụ thủy hải sản, dịch vụ

xăng dầu, gia công lƣới phục vụ khai thác, đánh bắt; 10 cơ sở đóng tàu có năng lực

73

đóng mới, sửa chữa 30-50 tàu mỗi năm, phân bổ đều ở cả 3 huyện ven biển Giao

Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hƣng, bƣớc đầu đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển nghề cá

trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt gần đây nhất, vào ngày 12/8, tại Nam Định, Tổng công ty

Công nghiệp tàu thủy (SBIC) và Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định đã tổ chức hội

nghị triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP, giới thiệu đóng mới tàu cá vỏ thép và

phát triển khai thác xa bờ.

Dịch vụ hậu cần nghề cá mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và xã hội, giải

quyết việc làm cho hơn 6.000 lao động với mức thu nhập trung bình khoảng 2 triệu

đồng/ngƣời/tháng. Tuy nhiên để dịch vụ hậu cần nghề cá thực sự phát triển, ngoài

việc đầu tƣ cơ sở hạ tầng, cần khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện

đa dạng hóa dịch vụ, áp dụng mô hình cung cấp thông tin dự báo nguồn thuỷ sản

của từng vùng biển và thông tin thị trƣờng thuỷ hải sản... cho ngƣ dân.

3.2.2.2. Phát triển du lịch biển và kinh tế đảo

Lƣợng khách du lịch đến Nam Định ngày càng tăng. Năm 2011, tổng lƣợng

khách đến tham quan các điểm du lịch đạt 1,6 triệu lƣợt khách; doanh thu xã hội từ

hoạt động du lịch, dịch vụ ƣớc đạt 230 tỷ đồng.

Toàn tỉnh hiện có hơn 300 cơ sở lƣu trú với 3.839 buồng phòng, trong đó, hai

khu du lịch biển là Quất Lâm và Thịnh Long có gần 300 cơ sở kinh doanh với 1.960

buồng phòng. Nhìn chung, các cơ sở lƣu trú tại các khu du lịch biển ngày càng đƣợc

nâng cấp về trang thiết bị, chất lƣợng phòng nghỉ, tình hình an ninh trật tự đƣợc bảo

đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch lƣu trú trong quá trình tham quan,

nghỉ dƣỡng.

Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nƣớc về du lịch tại các khu du lịch biển

có chuyển biến. Hiện nay, khu du lịch biển Thịnh Long đang trong giai đoạn mở

rộng giai đoạn 2 với tổng diện tích toàn khu là 361ha; khu du lịch Quất Lâm có diện

tích 151,44ha.

Mặc dù số lƣợt khách du lịch đến tỉnh tăng, năm sau cao hơn năm trƣớc,

song xét về cơ cấu thì chỉ có 30% lƣợng khách có nhu cầu ăn nghỉ, tham quan, mua

sắm; còn lại 70% là khách du lịch lễ hội, đi lại trong ngày, mức chi tiêu bình quân

74

thấp. Điều này cho thấy, dù lƣợng khách đến tham quan các điểm du lịch của tỉnh

đông, nhƣng hiệu quả hoạt động du lịch dịch vụ còn hạn chế. Nguyên nhân là do cơ

sở hạ tầng, hệ thống kỹ thuật du lịch còn yếu và thiếu đồng bộ; kinh nghiệm quản

lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, lao động ngành du lịch còn nhiều

bất cập. Hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ thiếu các dịch vụ chất lƣợng cao nhƣ sân

tennis, bể bơi, phòng tập đa năng; các cơ sở kinh doanh du lịch chƣa có các mặt

hàng, sản phẩm du lịch mang tính đặc trƣng.

Do yếu tố mùa vụ, phần lớn các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh tại khu

du lịch biển Quất Lâm, Thịnh Long, vì muốn tiết kiệm chi phí nhân công nên chủ

yếu thuê lao động hợp đồng ngắn hạn và lao động phổ thông tại địa phƣơng chƣa

qua đào tạo.

Hiện nay, ngành du lịch của huyện Giao Thủy đang rất thiếu nguồn nhân lực

có trình độ chuyên môn nghề nghiệp và trình độ quản lý. Trên địa bàn huyện hiện

có 167 cơ sở kinh doanh lƣu trú du lịch, trong đó có 44 nhà nghỉ, khách sạn. Tổng

số lao động trong ngành du lịch khoảng hơn 1.390 ngƣời, trong đó lao động qua đào

tạo thấp, đối tƣợng đƣợc đào tạo chủ yếu là chủ các cơ sở kinh doanh và ngƣời quản

lý các nhà hàng, khách sạn; hình thức đào tạo chủ yếu qua các lớp tập huấn, bồi

dƣỡng ngắn hạn.

Do đó đa số lực lƣợng lao động trong ngành còn thiếu chuyên nghiệp; văn

hoá ứng xử và trình độ nghiệp vụ chƣa đáp ứng yêu cầu. Để phát triển du lịch bền

vững, huyện Giao Thủy đã xây dựng đề án phát triển du lịch huyện Giao Thủy giai

đoạn 2011-2015 tầm nhìn đến năm 2020. Huyện tập trung phát triển du lịch bền

vững, hiệu quả kinh tế cao gắn với bảo vệ môi trƣờng và đảm bảo vững chắc an

ninh - quốc phòng; đa dạng hoá sản phẩm du lịch, chú trọng đào tạo lực lƣợng lao

động tại chỗ, không ngừng nâng cao chất lƣợng dịch vụ, từng bƣớc phát triển du

lịch theo hƣớng chuyên nghiệp nhằm tăng sức hấp dẫn cho du lịch Giao Thủy.

Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đƣợc nâng cấp từ Khu bảo tồn đất ngập nƣớc

Xuân Thủy theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ Cộng

75

hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2003.

Vƣờn quốc gia Xuân Thủy nằm ở phía Đông Nam huyện Giao Thủy, tỉnh

Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt của sông Hồng. Khu vực vùng lõi của vƣờn là diện

tích đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là cồn Ngạn, cồn Lu và cồn Xanh thuộc

xã Giao Thiện. Toàn bộ vùng đệm và vùng lõi của Vƣờn nằm trên địa phận các xã

Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải. Diện tích toàn bộ vƣờn

khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha diện tích đất nổi có rừng và 4.000 ha đất rừng ngập

mặn.

Hàng năm có tới khoảng 100 loài chim di cƣ chọn nơi đây là điểm lƣu trú

trên đƣờng di cƣ về phƣơng Nam trú đông, trong đó có tới 1/5 số lƣợng cò mỏ thìa

của toàn thế giới. Tại Vƣờn ƣớc tính có 215 loài chim nƣớc sinh sống, tiêu biểu

nhƣ: Cò thìa, Rẽ mỏ thìa, Choắt chân vàng, Mòng bể đầu đen, Giang Sen, và Choắt

chân màng lớn..

Trên vùng đất ngập mặn này, dƣới làn nƣớc thủy triều có khoảng 165 loài

động vật nổi và 154 loài động vật đáy, tổng cộng khoảng 500 loài động vật.

Về thực vật, Vƣờn hiện có 120 loài thực vật bậc cao, trong đó có nhiều loài

rong tảo có giá trị kinh tế cao.

Đây là điểm du lịch sinh thái độc đáo hấp dẫn khách tham quan du lịch trong

nƣớc và quốc tế, đặc biệt là vào mùa đông- mùa chim di trú từ phƣơng Bắc.

3.2.2.3. Kinh tế hàng hải

Giao thông vận tải biển

Nam Định vốn có hệ thống giao thông đƣờng thủy nội địa đa dạng, tổng

chiều dài sông kênh của tỉnh là 536 km (chƣa kể 1.130 km kênh nội đồng); có 4

cảng sông, 2 cảng biển, 100 bến khách, 82 phƣơng tiện chở khách ngang sông…

Hiện nay dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng

đƣợc các nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân với nhiều loại phƣơng

tiện đa dạng và phong phú. Tuy nhiên hiện nay mức tăng trƣởng về vận tải hàng hóa

và hành khách vẫn còn thấp.Trong những giai đoạn sau cần phải có kế hoạch nâng

76

cao quản lý Nhà nƣớc và chất lƣợng hoạt động dịch vụ vận tải; đa dạng các phƣơng

thức vận tải, đáp ứng sự phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân; nâng cao chất

lƣợng các loại phƣơng tiện và đảm bảo an toàn giao thông, vệ sinh môi trƣờng.

Công nghiệp đóng tàu và các ngành phụ trợ

Ngành công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành công nghiệp đƣợc

xác định mũi nhọn trong chiến lƣợc phát triển công nghiệp của nƣớc ta, cũng nhƣ

của tỉnh Nam Định. Trong những năm trở lại đây với mục tiêu phấn đấu trở thành

một trong những trung tâm lớn về công nghiệp đóng tàu cộng với nỗ lực không

ngừng vƣơn lên tiếp nhận và làm chủ những kỹ thuật công nghệ sản xuất tiên tiến

hiện đại, các nhà máy đóng tàu Nam Định đã dần khẳng định đƣợc thƣơng hiệu và

vị thế của mình trong nƣớc cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế. Tuy nhiên do cơ chế kiểm

soát của tỉnh còn lỏng lẻo, chƣa sát sao dẫn đến sự phát triển “nóng” và đi vào

khủng hoảng của ngành công nghiệp đóng tàu trong khoảng những năm 2008 –

2012. Nhiều ngƣời gọi đó là hiện tƣợng đóng tàu, nhà nhà đóng tàu, ngƣời ngƣời

đóng tàu.

Nam Định là tỉnh có lợi thế cho ngành công nghiệp đóng tàu phát triểnnhƣ:

có nhiều bãi sông, cửa biển; có truyền thống sản xuất cơ khí và nguồn nhân lực có

tay nghề. Vài năm trở lại đây, tỉnh lại có cơ chếkhuyến khích ngành đóng tàu, việc

vay vốn ngân hàng đƣợc nới rộng, đóngtàu đƣợc hoàn thuế giá trị gia tăng và hơn

thế là "có đầu ra"...nênngành đóng tàu ở Nam Định phát triển "nóng". Nếu nhƣ

trƣớc đây, sốdoanh nghiệp đóng tàu ở Nam Định chỉ đếm trên đầu ngón tay thì từ

năm2006 số đơn vị đóng tàu bắt đầu tăng mạnh, đến đầu năm 2008 toàn tỉnhđã có

102 đơn vị (nhiều đơn vị hiện đang ở giai đoạn đầu tƣ cơ sở hạtầng, chƣa đi vào sản

xuất). Khắp các triền sông, cửa biển tại 9/10huyện, thành phố ở Nam Định đều có

đơn vị đóng tàu. Các khu vực nhƣ:Thị trấn Xuân Trƣờng, xã Xuân Hùng (huyện

Xuân Trƣờng), Cát Thành(huyện Trực Ninh), Nghĩa Sơn (Nghĩa Hƣng)...trở thành

những "đại côngxƣởng đóng tàu". Không chỉ các doanh nghiệp có truyền thống về

cơ khímà ngay cả những ngƣời trƣớc đây chƣa từng biết đến ngành đóng tàu làgì

nay cũng đăng ký, vay vốn, đầu tƣ đóng tàu. Trong số 102 đơn vị đóngtàu ở Nam

77

Định, có tới 21 đơn vị chỉ là các hộ sản xuất.

Đỉnhđiểm phát triển của ngành đóng tàu ở Nam Định là năm 2007, với

sảnlƣợng cả năm đạt 500 con tàu (loại trọng tải từ 5.000 tấn trở xuống)đƣợc hạ

thuỷ, xuất bến. Ngành đóng tàu ở Nam Định đã tạo việc làm chohơn 11.000 lao

động với mức thu nhập đạt bình quân từ 2 đến 3 triệuđồng/ngƣời/tháng. Các chủ

doanh nghiệp đã trở nên giàu cóhơn, những chiếc xe sang trọng, những căn biệt thự

đắt tiền của các chủdoanh nghiệp đóng tàu xuất hiện ngày một nhiều. Chính vì vậy,

có lãnh đạo tỉnh còn lạc quan nói rằng: Nam Định sẽ trở thành một trung tâm đóng

tàu của cả nƣớc... Tuy nhiên từ tháng 4 năm 2008, hàng loạt khách hàng thông báo

rút đơn đặt hàng hoặc đề nghị giãn thời gian thực hiện hợp đồng mà trên thực tế là

hoãn hợp đồng vô thời hạn. Tuy không ai thông tin chính thức nguyên nhân của tình

trạng trên, hoặc nếu có thì cũng đổ lỗi cho lạm phát, giá cả vật liệu, nhân công tăng,

ngân hàng thắt chặt việc cho vay...song nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đình

đốn của ngành đóng tàu ở Nam Định chính là do việc xuất lậu than bị ngăn chặn.

Qua tìm hiểu đƣợc biết, phần lớn số tàu do các đơn vị ở Nam Định sản xuất ra là

phục vụ cho việc vận chuyển than lậu ra nƣớc ngoài hoặc theo con đƣờng than lậu,

các tàu đƣợc đƣa ra nƣớc ngoài bán cùng với than. Do đó, khi việc xuất lậu than bị

ngăn chặn thì ngành đóng tàu ở Nam Định trở nên đình đốn. Hiện nay trên toàn tỉnh

vẫn còn khoảng gần 400tàu vẫn đang thực hiện dở dang hoặc hoàn thiện rồi nhƣng

chƣa có chủ nhận nên vẫn nằm trên bãi... Hiện, hầu hết các đơn vị đóng tàu ở Nam

Định chỉ sản xuất cầm chừng hoặc đã tạm dừng sản xuất, với số lao động đƣợc giữ

lại trung bình chỉ 40-50%, nhƣ vậy đã có khoảng 4.000 đến 5.000 công nhân phải

nghỉ việc. Hiện nay, với sự quyết tâm của toàn tỉnh, một mặt quản lý chặt chẽ hơn

việc đóng tàu mới, mặt khác từng bƣớc hỗ trợ các doanh nghiệp đóng tàu tháo gỡ

khó khăn nên ngành đóng tàu của tỉnh Nam Định đã và đang có những dấu hiệu khả

quan của sự phục hồi 2015 theo ghi nhâ ̣n củ a . Trong nhƣ̃ng tháng đầu năm

Namdinh24h trong giờ đi làm lƣơ ̣ng cán bô ̣ công nhân viên khá đông và tinh thần khả quan phấn khởi khi tham gia lao động.

3.2.2.4. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên

78

khoáng sản biển

Nam Định là tỉnh nghèo và gần nhƣ là không có về tài nguyên dầu, khí và

các loại tài nguyên khoáng sản biển. Khoáng sản của Nam Định không nhiều, có trữ

lƣợng thấp, chủng loại nghèo. Đáng kể và có giá trị hơn cả đối với sự phát triển của

các làng nghề là các khoáng sản phi kim loại nhƣ cát, đất sét. Cát xây dựng tập

trung ở các bãi bồi ven sông (sông Hồng, sông Đáy, sông Đào, sông Ninh Cơ) do

quá trình bồi lắng tự nhiên và dọc chiều dài 25 km bờ biển. Riêng ở khu vực thị trấn

Quất Lâm (Giao Thuỷ) các bãi cát dày 2,5–3m, rộng 20-30 m có thể khai thác đƣợc

500.000m3/năm. Các nguyên liệu sét bao gồm: Đất sét để sản xuất gạch ngói nung

có tổng trữ lƣợng 25-30 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 300.000 m3/năm.

Hiện tại tỉnh có năm mỏ đất sét quy mô nhỏ nằm rải rác ở các bãi ven sông và đang

đƣợc khai thác nhƣ Đồng Côi (Nam Giang - Nam Trực), trữ lƣợng 2 triệu tấn; Sa

Cao (Xuân Châu - Xuân Trƣờng) trữ lƣợng 5 – 10 triệu tấn; Hiển Khánh (Vụ Bản);

Nghĩa Thịnh (Nghĩa Hƣng); thị trấn Cồn (Hải Hậu) và một mỏ chƣa khai thác ở thị

trấn Ngô Đồng (Giao Thủy). Đây là nguồn nguyên liệu tại chỗ của các làng nghề

sản xuất vật liệu xây dựng. Đất sét làm gốm sứ phân bố tại núi Phƣơng Nhi (Yên

Minh - Ý Yên) và núi Gôi (Vụ Bản) đã đƣợc khai thác phục vụ xí nghiệp gốm sứ

Bảo Đài. Sét làm bột màu có ở Nam Hồng (Nam Trực) phân bổ trong bể trầm tích

hệ tầng Thái Bình với diện tích 1000m2, dày 0,2–0,3m, màu vàng nghệ, vàng

chanh. Các mỏ sét mới đƣợc nghiên cứu sơ bộ, chƣa đánh giá chính xác về quy mô,

trữ lƣợng, chất lƣợng.Ngoài ra, còn có sa khoáng inmemit và ziricom ở ven biển

Hải Hậu, khí đốt đang đƣợc thăm dò ở Giao Thủy. Tài nguyên khoáng sản hạn chế

là một khó khăn của Nam Định trong việc phát triển các ngành khai thác khoáng

sản, công nghiệp chế biến…

3.2.2.5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ

về khai thác và phát triển kinh tế biển

Kết quả dự án hợp tác quốc tế

Tổng số trên 8 đề tài, dự án (ĐTDA) hợp tác quốc tế đã-đang và sẽ triển khai liên

quan đến vùng biển Nam Định, nổi bật là các dự án: Bảo tồn vùng đất ngập nƣớc

79

của tổ chức DANIDA; Nghiên cứu và sử dụng hợp lý vùng đới bờ; Bảo tồn và phát

triển các vùng trọng điểm Khu Dự trữ sinh quyển thuộc vƣờn quốc gia Xuân Thủy

do Tổ chức Hợp tác kỹ thuật quốc tế Đan Mạch thực hiện từ nguồn kinh phí tài trợ

của cơ quan Phát triển Quốc tế Úc (AusAID) từ 2008-2014 và sẽ tiếp tục giai đoạn

2014-2017 thuộc Chƣơng trình Bảo vệ tổng hợp vùng ven biển (ICMP) tại 5 tỉnh

ĐBSH; Xây dựng đê và phục hồi rừng ngập mặn ven biển Nam Định bằng nguồn

vốn ngân hàng Tái thiết Đức (KFW); Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã quốc tế

(WAR) tài trợ: xây dựng khu vực cứu hộ động vật hoang dã tại Cồn Lu, Cồn Ngạn

thuộc vƣờn quốc gia Xuân Thủy của huyện Giao Thủy, nghiên cứu bảo tồn đa dạng

sinh học Vƣờn Quốc gia Xuân Thủyvà khu sinh thái Rạng Đông của huyện Nghĩa

Hƣng;…

Thông qua các dự án này: đã bƣớc đầu đánh giá đa dạng động, thực vật tại cácvùng

biển của Nam Định; nghiên cứu rừng ngập mặn ven biển; nghiên cứu đánh giá hiện

trạng sự xói lở và bồi lắng phù sa ven biển; nghiên cứu môi trƣờng và đa dạng sinh

học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy; Xây dựng mô hình sử dụng đất bền vững trong hệ

thống canh tác kết hợp nông-lâm-ngƣ ở vùng ven biển; Các khóa tập huấn, đào tạo

ngắn hạn docác dự án tổ chức đã góp phần nâng cao ý thức về bảo vệ môi trƣờng và

tàinguyên thiên nhiên, nâng cao nhận thức về khoa học, kỹ thuật trong sản xuất cho

cộngđồng địa phƣơng. Ngoài ra, năng lực lãnh đạo các cấp, các thành phần có lien

quan đƣợc tăng lên đáng kể thông qua việc cùng tham gia triển khai hoạt động

tạihiện trƣờng cũng nhƣ có ý kiến đóng góp trong khâu tổ chức và triển khai

cáchoạt động tại các vùng kinh tế biển; Xây dựng và thử nghiệm kế hoạch quản lý

tàinguyên thiên nhiên và hƣớng dẫn duy trì và cải thiện đa dạng sinh học;

Hƣớngdẫn kỹ thuật đƣợc xây dựng và thử nghiệm phòng và chữa cháy rừng ở Vƣờn

quốc gia Xuân Thủy;Xây dựng năng lực về lập kế hoạch, thiết kế dự án và quản lý

đƣợc cải thiện,những lợi ích này cũng làm xuất hiện các cơ hội tạo thu nhập thay

thế mới. Cácsản phẩm, kết quả của dự án cũng góp phần vào việc xây dựng chính

sách,hƣớng dẫn nhằm giúp bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại Nam Định

mang tính hiệu quả.

80

Kết quả dự án cấp nhà nước

Trong tổng số 11 dự án Nhà nƣớc thuộc Chƣơng trình Nông thôn miền núi (NTMN)

có 05 dự án triển khai thực hiện ở vùng biển Nam Định. Các dự án thuộc Chƣơng

trình NTMN đã thúc đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển giao tiến

bộ kỹ thuật vào xây dựng các mô hình sản xuất nông-lâm- ngƣ nghiệp, nâng cao

năng suất, chất lƣợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị

trƣờng; góp phần tham gia thị trƣờng khoa học và công nghệ; huy động các nguồn

lực xã hội, góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, tạo thêm việc làm

cho nông dân, thực hiện mục tiêu tăng trƣởng và xoá đói, giảm nghèo; đào tạo và

bồi dƣỡng cho cán bộ kỹ thuật cơ sở và ngƣời dân,... Qua các dự án NTMN, nhận

thức về trình độ kỹ thuật của ngƣời dân nông thôn vùng ven biển cũng nhƣ đội ngũ

cán bộ kỹ thuật địa phƣơng trong việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông-lâm-

ngƣ nghiệp đƣợc nâng lên. Hiệu quả các mô hình của các dự án NTMN đã góp phần

không nhỏ trong việc cải thiện chất lƣợng sản phẩm, tăng năng suất, tăng thu nhập

cho nông dân nông thôn và hƣớng đến sản xuất nông nghiệp sạch, thân thiện với

môi trƣờng. Các dự án NTMN đã góp phần tăng cƣờng sự hợp tác giữa địa phƣơng

với các đơn vị nghiên cứu chuyển giao công nghệ.

Kết quả đề tài, dự án khoa học cấp tỉnh

Trên tinh thần triển khai thực hiện Kế hoạch số 51/KH-UNND ngày 14/9/2007 về

Chiến lƣợc biển Việt Nam đến 2020, Với chức năng nhiệm vụ của sở Khoa học và

Công nghệ, đã tham mƣu cho UBND tỉnh Nam Định xác định các nhiệm vụ thông

qua việc quản lý, tổ chức triền khai các đề tài, dự án khoa học cấp tỉnh hằng năm, từ

2007 đến nay nhƣ sau: trong tổng số 160 đề tài, dự án cấp tỉnh có 28 đề tài, dự án

triển khai thực hiện ở vùng biển Nam Định.

- Trong nuôi, trồng thủy sản: chính quyền tỉnh đã tổ chức tuyên truyền, tập huấn

cho các doanh nghiệp, cơ sở nuôi thủy sản, khai thác thủy sản áp dụng các biện

pháp kỹ thuật tiên tiến để bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ môi trƣờng và đáp ứng yêu cầu

xuất khẩu sản phẩm hàng hóa thủy sản trong tỉnh, áp dụng các quy phạm nông

nghiệp tốt (GAP, VietGAP, GlobalGAP). Thời gian qua đã áp dụng trên các đối

81

tƣợng nhƣ tôm sú, thẻ chân trắng, ngao ở Giao Thủy; cá song, cá bống bớp tại

Nghĩa Hƣng, nƣớc mắm, rau tại huyện Hải Hậu…Đã nghiên cứu thành công hệ

thống lấy nƣớc biển qua phục vụ nuôi trồng thủy sản, mở ra tiềm năng phát triển

diện tích nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới.

- Trong canh tác lúa vùng ven biển: Thực hiện tốt cơ chế, chính sách khuyến nông,

tỉnh đã hỗ trợ phát triển sản xuất giống, nâng sản lƣợng lúa giống đạt chất lƣợng

cao, chống chịu mặn, kháng sâu bệnh chính, tỷ lệ sử dụng giống xác nhận trên 70%.

Đã áp dụng mô hình cánh đồng lớn vào sản xuất lúa theo hƣớng VietGAP với tổng

diện tích gieo sạ từ 2012 đến nay là trên 8.000 ha; triển khai các chƣơng trình quản

lý dịch hại tổng hợp (IPM), chƣơng trình ICM (quản lý dinh dƣỡng); chƣơng trình 3

giảm 3 tăng, 1 phải – 5 giảm,… đã thực hiện thƣờng xuyên, đào tạo, tập huấn kỹ

thuật và phổ biến rộng khắp cho hầu hết các địa phƣơng trong tỉnh. Các chƣơng

trình và các hoạt động áp dụng kỹ thuật đã góp phần tích cực nâng cao trình độ và

nhận thức về ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất phát triển

kinh tế và bảo vệ môi trƣờng biển.

- Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm: đã nhận chuyển giao và hỗ trợ xây dựng các

điểm trình diễn nuôi gà theo hƣớng an toàn sinh học và điểm trình nuôi heo theo

hƣớng nạc. Các mô hình đã thực hiện đều cho hiệu quả cao về mặt kỹ thuật, kinh tế

và môi trƣờng và hiện nay đang tiếp tục triển khai nhân rộng cho các địa phƣơng

vùng ven biển trong tỉnh.

- Trong phát triển rừng, bảo vệ môi trƣờng, tài nguyên thiên nhiên: Tỉnh Nam Định

đã triển khai các chính sách hỗ trợ giao khoán, chăm sóc, bảo vệ rừng ngập mặn kết

hợp nuôi trồng thủy sản hợp lý, triển khai nghiên cứu về bồi lắng ven biển, thực

hiện các giai pháp bảo vệ đê biển,… Qua đó, diện tích rừng trồng mới đã tăng lên,

nhiều điểm rừng phòng hộ ven biển đƣợc trồng phục hồi. Thông qua chính sách chi

trả dịch vụ môi trƣờng rừng đãthu hút sự tham gia tích cực của 15 cơ sở sử dụng

dịch vụ môi trƣờng rừng để kinh doanh du lịch sinh thái. Ngành nông nghiệp đang

tiếp tục xây dựng và thực hiện đề án cho thuê môi trƣờng rừng nhằm thực hiện

chính sách khuyến khích thực hiện các dự án du lịch sinh thái kết hợp bảo vệ môi

82

trƣờng rừng tại Vƣờn quốc gia Xuân Thủy.

3.2.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.

Lao động cũng có thể đƣợc coi là một dạng tài nguyên của kinh tế vùng ven biển, tài

nguyên về nhân lực, cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nguồn lao động ở các vùng ven

biển có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế biển. Đa phần các cƣ dân ven

biển đều là những nhà kinh tế tài ba.Đối với họ, nghề biển là nghề truyền thống của

gia đình (đánh cá, nghề làm muối), đƣợc truyền lại từ đời ông cha họ, từ đời này qua

đời khác. Nhƣng ngày nay, ngƣời lao động không chỉ cần có kinh nghiệm mà còn cần

phải tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động. Những ngành

kinh tế biển mới cũng đòi hỏi ngƣời lao động phải có trình độ cao. Do đó, đào tạo

nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển là một yêu cầu cần thiết.

Nam Định luôn khuyến khích bằng các ƣu đãi cụ thể (tạo mặt bằng xây dựng, đất đai,

vay vốn ƣu đãi, chính sách thu nộp và sử dụng phí, lệ phí ...đơn giản hoá các thủ tục

hành chính trong việc thành lập các cơ sơ ngoài công lập theo quy định, thực hiện cơ

chế hậu kiểm....) cho các tổ chức trong và ngoài nƣớc thành lập các trƣờng, trung tâm

đào tạo nhân lực trên địa bàn tỉnh.

Chú trọng thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ

về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, Nghị định

69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa

đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi

trƣờng nhằm huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đào tạo nhân lực.

UBND tỉnh đã thực hiện một số cơ chế chính sách để hỗ trợ đào tạo nhân lực của

tỉnh: Quyết định số 3852/QĐ-UBND ngày 14/12/2005: trợ cấp cho cán bộ, công

chức, viên chức, đi học sau đại học và trợ cấp 1 lần cho ngƣời có trình độ tiến sĩ, thạc

sĩ, bác sĩ, dƣợc sĩ chuyên khoa cấp II về công tác tại tỉnh; Thực hiện chính sách hỗ

trợ đào tạo nghề nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg; hỗ trợ cho công nhân đi

đào tạo thực hiện công nghệ mới và làm việc lâu dài tại doanh nghiệp trong Khu công

nghiệp Hoà xá Nam Định đã có Quyết định số 2702/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của

UBND tỉnh; Nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu phát

83

triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng. Hiện nay

tỉnh Nam Định vẫn tiếp tục tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho các trƣờng học;

nâng cao trình độ giáo viên theo chuẩn quốc gia, đa dạng hóa các hình thức đào tạo

để đảm bảo quyền và nghĩa vụ học tập của mọi ngƣời dân, thực hiện công bằng trong

giáo dục, đào tạo.

Ƣu tiên đào tạo một số ngành nghề đặc trƣng cho phát triển kinh tế biển; nghiên cứu

đầu tƣ khu đào tạo nhân lực chất lƣợng cao đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao

động; tiếp tục nâng cao chất lƣợng các trung tâm giáo dục thƣờng xuyên.

Bên cạnh đó, một số cơ sở đào tạo, doanh nghiệp đã tự chủ động trong công tác đào

tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu cho sản xuất kinh doanh. Các cơ sở đào tạo đã nâng cấp

trang thiết bị, đào tạo đội ngũ giáo viên đủ năng lực, trình độ, cải tiến nội dung –

phƣơng pháp để đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay.

Về thực trạng sử dụng nhân lực cho phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định hiện

nay thì khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản: có 618,2 ngàn ngƣời chiếm 64,4% so

với tổng số ngƣời đang làm việc, giảm 13,7% so với năm 2005, bình quân mỗi năm

giảm 2,7%/năm, trong khi đó, trong 5 năm ( 2001 - 2005) chỉ giảm mỗi năm giảm

1,6%. Số lao động này chuyển sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ và chuyển sang lao

động ở các tỉnh khác.

Tuy nhiên, trong khu vực này thì ngành thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn ngành

nông, lâm nghiệp nên trong 5 năm ( 2006-2010) số lao động tăng mỗi năm đƣợc

2,5%/năm, trong khi đó 5 năm 2001-2005 mỗi năm tăng tới 17,5%/năm. Có tình

trạng trên là do: sản xuất ngành thuỷ sản với yêu cầu kỹ thuật cao, vốn đầu tƣ lớn, thị

trƣờng chƣa mở rộng và có xu hƣớng dẫn bão hòa, hiệu quả đầu tƣ giảm dần nên tốc

độ tăng lao động của chu kỳ 5 năm qua thấp hơn chu kỳ trƣớc 5 năm trƣớc. Số lao

động tăng trong ngành thủy sản chủ yếu do lao động từ ngành nông, lâm nghiệp

chuyển sang và một số ít là lao động từ học sinh THCS và THPT không đi học tiếp

84

chuyển sang lao động.

3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển ở Nam Định

3.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu trong quá trình phát triển kinh

tế biển ở Nam Định

3.3.1.1. Những thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Thứ nhất, các chỉ số kinh tế trongnhiều ngành kinh tế biển của tỉnh luôn giữ

được tốc độ tăng trưởng một cách ổn định.

Từ năm 2000 đến nay, các ngành kinh tế biển có thể tăng, giảm về các chỉ số

kinh tế tuyệt đối nhƣng về tƣơng đối vẫn luôn thể hiện xu hƣớng phát triển. Có thể

giữ vững đƣợc mức độ tăng trƣởng các chỉ số với điều kiện kinh tế trong nƣớc và

quốc tế đang có nhiều biến động và khó khăn nhƣ hiện nay là một thành tích quan

trong mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định đạt đƣợc.

Thứ hai, cơ cấu ngành kinh tế biển khá phong phú đa dạng.

Nam Định là một trong số ít các địa phƣơng có một hệ thống các ngành kinh

tế biển phong phú và đa dạng. Hệ thống các ngành kinh tế biển của tỉnh đƣợc phát

triển một cách đa dạng nhằm khai thác một cách toàn diện và triệt để các lợi thế tự

nhiên cũng nhƣ kinh tế xã hội. Lợi thế biển, đảo, ven biển đã giúp thành phố vừa

xây dựng đƣợc một hệ thống cảng biển khá đồ sộ, cộng với đó là một hệ thống các

trung tâm đóng tàu, vận tải biển. Trên cơ sở lợi thế về kinh tế xã hội là việc phát

triển của các ngành dịch vụ biển và dịch vụ cảng biển,… Không chỉ có thế, kinh tế

biển Nam Định còn phát triển cả những ngành kinh tế truyền thống vốn có của các

tỉnh thành duyên hải nhƣ khai thác nuôi trồng thủy hải sản, diêm nghiệp, trồng rừng

ngập mặn…

Thứ ba, Nam Định luôn duy trì được vị trí là một trong những trung tâm của

khu vực đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Bắc bộ về kinh tế biển.

Hầu hết cả chỉ số đánh giá kinh tế biển của Nam Định so với các tỉnh thành

trong khu vực luôn nằm trong top đầu. Sản lƣợng thủy sản phân theo địa phƣơng

trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011, Nam Định luôn duy trì ở vị trí cao

85

trong khu vực đồng bằng sông Hồng.

120000

100000

Hà Nội

80000

Quảng Ninh

60000

Hải Phòng

Thái Bình

40000

Nam Định

20000

Ninh Bình

0

2000

2005

2008

2009

2010

2011

Biểu đồ 3.1. Sơ đồ sản lƣợng thủy sản của các địa phƣơng trong

khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011

Thứ tư, kinh tế biển của Nam Định góp phần quan trọng trong việc giải

quyết việc làm cho người lao động.

Nếu xét nhóm ngành nông lâm, thủy sản năm 2011, lực lƣợng lao động

trong khu vực này chiếm 29,9% tổng số lao động toàn tỉnh, còn ngành công nghiệp

chế biến, chế tạo là 22% trong đó đóng góp không nhỏ của các ngành kinh tế liên

quan trực tiếp đến biển. Ngƣời dân của huyện ven biển có nhiều cơ hội việc làm

hơn rất nhiều so với ngƣời dân của các huyện không có biển. Hầu hết là nhà nhà,

ngƣời ngƣời đi biển hoặc kinh doanh buôn bán các sản phẩm liên quan đến biển.

Nhờ đó mà đời sống kinh tế của ngƣời dân đƣợc nâng lên rõ rệt. Ngoài ra kinh tế

biển cũng tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là việc

nghiên cứu ứng dụng khoa học liên quan đến biển…

3.3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế biển

của Nam Định

Để đạt đƣợc những thành tựu nêu trên trong quá trình phát triển kinh tế biển

86

ở Nam Định có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản sau:

Một là, từ năm 1986 trở lại đây với đƣờng lối đổi mới của Đảng ta đã thúc

đẩy nền kinh tế của cả nƣớc nói chung, cũng nhƣ của tỉnh tăng trƣởng và phát triển,

các ngành và lĩnh vực kinh tế đã đƣợc mở rộng trong đó có ngành kinh tế biển.

Hai là, những năm vừa qua Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định vị trí, vai trò

của biển rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội và vấn đề an ninh, quốc

phòng. Do vậy, phát triển kinh tế biển luôn đƣợc quan tâm đúng mức và đƣợc xác

định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có vai trò nhất định cho tăng

trƣởng và phát triển kinh tế, xã hội. Cũng chính từ việc xác định vai trò quan trọng

đó, các Chỉ thị, Nghị quyết và cơ chế chính sách thuận lợi đảm bảo cho kinh tế biển

phát triển đã đƣợc ban hành.

Ba là, về phía lãnh đạo Đảng và chính quyền tỉnh đã có sự phối hợp nhịp

nhàng với các Bộ, Ngành Trung ƣơng nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn

vƣớng mắc, nhanh chóng triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các chính

sách và pháp luật của nhà nƣớc về chiến lƣợc kinh tế biển. Trên cơ sở đó các cấp

các ngành của tỉnh đã xây dựng quy hoạch và hoàn thiện chiến lƣợc phát triển kinh

tế biển phù hợp với đặc trƣng của Nam Định.

Bốn là, cơ sở hạ tầng, kinh tế kĩ thuật vùng ven biển đƣợc các cấp lãnh đạo

của tỉnh quan tâm đầu tƣ đúng mức. Số lƣợng doanh nghiệp đầu tƣ cho khai thác

kinh tế biển ngày càng tăng cả về quy mô lẫn số lƣợng, từ đó đã tạo tiền đề cho việc

mở rộng và phát triển các ngành kinh tế biển của địa phƣơng. Mặt khác, việc cải

tiến kĩ thuật áp dụng nhanh những thành tựu của khoa học - kĩ thuật đã làm cho

năng suất, hiệu quả và chất lƣợng sản phẩm không ngừng đƣợc nâng cao.

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát

triển kinh tế biển ở Nam Định

3.3.2.1. Hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Bên cạnh những thành tựulớn mà Nam Định đã gặt hái đƣợc trong những

năm gần đây, kinh tế biển của tỉnh vẫn còn tồn tại một số hạn chế cơ bản cần đƣợc

87

sớm khắc phục đó là:

Quy mô của nhiều ngành kinh tế biển Nam Định còn chƣa lớn, thiếu sự đồng

bộ, cơ cấu ngành nghề còn nhiều bất cập, chƣa hợp lý, đặc biệt chƣa xứng với tiềm

năng thế mạnh của kinh tế biển Nam Định. So với các địa phƣơng khác trong khu

vực,Nam Định có nhiều lợi thế hơn hẳn, tuy nhiên quy mô của nhiều ngành kinh tế

biển của tỉnh lại còn khá khiêm tốn so với các tỉnh thành trong khu vực. Cùng với

đó, một số ngành kinh tế biển còn mới ở dạng tiềm năng hoặc chƣa có đóng góp

nhiều vào tỉ trọng của giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh nhƣ diêm nghiệp, lâm

nghiệp biển (trồng rừng ngập mặn), nghiên cứu khoa học biển… Cơ cấu ngành kinh

tế biển của tỉnh vẫn phát triển cơ bản theo hƣớng truyền thống và chƣa có hƣớng

tiếp cận hiện đại và bền vững. Đánh giá tổng thể quá trình phát triển kinh tế biển

của Nam Định vẫn chƣa sử dụng và phát huy hết thế mạnh của mình.

Phát triển kinh tế biển của Nam Định còn mang tính chất manh mún, nhỏ lẻ,

phân tán, đậm chất tƣ nhân tự phát cùng với đó là sự thiếu quy hoạch và liên kết

giữa các ngành kinh tế liên quan. Sự manh mún nhỏ lẻ và phân tán đƣợc thể hiện rõ

nét nhất trong lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Hình thức sản xuất cơ

bản trong lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản cơ bản vẫn là kinh tế cá thể - hộ gia đình,

chƣa có nhiều các thành phần kinh tế có năng lực lớn hơn tham gia. Cùng với đó

giữa các ngành chƣa có sự liên kết chặt chẽ và mật thiết. Từ khâu sản xuất đến chế

biến và tiêu dùng còn bị “chặt khúc” gián đoạn và thông qua nhiều khâu trung gian.

Chính điều này đã làm cho giá thành của các sản phẩm lên cao nhƣng thu nhập của

ngƣời sản xuất trực tiếp lại không hề tăng.

Xét về góc độ quản lý nhân lực, trình độ lực lƣợng lao động trong các ngành

kinh tế biển của Nam Định về cơ bản còn chƣa cao. Điển hình là ngành đánh bắt

nuôi trồng thủy hải sản. Hầu hết lực lƣợng lao động trong lĩnh vực này phần nhiều

không đƣợc đào tạo bài bản hoặc thông qua trƣờng lớp nào. Họ hầu hết chỉ đƣợc

truyền thụ kinh nghiệm theo hình thức cha truyền con nối. Một số ít đã đƣợc đào tạo

ngắn hạn hoặc bổ sung kiến thực thông qua các đợt tập huấn do ban ngành đoàn thể

88

các cấp tổ chức.

Nam Định chịu nhiều ảnh hƣởng của điều kiện tự nhiên cũng nhƣ kinh tế xã

hội, chính vì thế nhiều ngành kinh tế biển của điạ phƣơng cũng mang tính mùa vụ

nhất định. Trong các ngành kinh tế biển, du lịch biển và đánh bắt nuôi trồng thủy

hải sản chịu nhiều tác động rõ rệt từ thiên nhiên. Du lịch biển Nam Định chủ yếu

phát triển vào mùa hè (từ khoảng tháng 4 đến tháng 10 hàng năm), về mùa đông các

hoạt động lữ hành cũng nhƣ kinh doanh dịch vụ lƣu trú biển có phần giảm cả về

tƣơng đối lẫn tuyệt đối. Cùng chịu hoàn cảnh tƣơng tự chính là ngành đắt bắt nuôi

trồng thủy hải sản. Vào mùa mƣa bão nhiều nhiều bà con ngƣ dân đã gặp phải

không ít khó khắn trong việc vƣơn khơi bám biển, hoạt động nuôi trồng thủy hải sản

ven bờ cũng gặp không ít khó khăn mỗi khi mùa mƣa bão về. Đây là một trong

những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế biển của tỉnh.

Một hạn chế nữa cũng cần phải đƣợc đề cập đó chính là trong quá trình phát

triển kinh tế biển của địa phƣơng đã làm biến động không nhỏ đến môi trƣờng sinh

thái tự nhiên. Với việc tăng năng suất sản lƣợng thủy sản nƣớc mặn nƣớc lợ thu

đƣợc, cũng là dấu hiệu cho thấy nguy cơ cạn kiệt của các loại thủy hải sản ven gần

bờ. Mặt khác, quá trình nuôi thủy sản nƣớc lợ, nuôi hải sản bằng lồng bè trên biển

không đƣợc giải quyết triệt để, vấn đề chất thải không đƣợc xử lý. Cùng với đó là

các vụ tai nạn của các tàu chở dàu, chở nguyên nhiên liệu cũng đã phần nào hủy

hoại môi trƣờng sống của các loại sinh vật tự nhiên. Không chỉ có trong ngành thủy

sản, vận tải biển mới ảnh hƣởng đến môi trƣờng sinh thái. Hiện nay du lịch biển

cũng mang lại những nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng. Nhiều du khách trong quá trình

du lịch đã xả một lƣợng không nhỏ rác thải ra môi trƣờng biển. Nếu những chất thải

của quá trình khai thác kinh tế biển không đƣợc xử lý và xử lý một cách triệt để sẽ

ảnh hƣởng trực tiếp đến môi trƣờng sinh thái và cuộc sống của con ngƣời trong

tƣơng lai.

3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế biển ở

Nam Định

Về phía khách quan, những hạn chế trên xuất phát từ một số lý do chính sau:

89

Nằm trong khu vực biển có tính khắc nghiệt về mặt thời tiết, khí hậu nên nƣớc ta

thƣờng xuyên chịu nhiều rủi ro thiên tai. Trung bình mỗi năm nƣớc ta có từ 8 – 10

cơn bão, cƣờng độ thiên tai bão lũ diễn ra thƣờng xuyên, phần nào đã tác động trực

tiếp đến hiệu quả phát triển của kinh tế biển của cả nƣớc nói chung cũng nhƣ của

tỉnh Nam Định nói riêng. Nguy cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh vực khai

thác thuỷ sản, du lịch và vận tải biển do những ảnh hƣởng tiềm tàng của biến đổi

khí hậu có thể sẽ rất lớn.. Thêm vào đó, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm của các ngành

trong kinh tế biển thiếu ổn định, bị giới hạn bởi các rào cản kỹ thuật của các nƣớc

phát triển; giá xăng dầu thế giới tăng giảm thất thƣờng gây khó khăn cho sự

tăng trƣởng, phát triển của nền kinh tế nói chung và cho kinh tế biển nói riêng. Măt

khác, cơ quan quản lý về biển chƣa có sự thống nhất từ Trung ƣơng đến địa

phƣơng, tuy những năm vừa qua Đảng và Nhà nƣớc đã có những cơ chế, chính

sách, chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển. Tuy vậy, vẫn chƣa đủ thông thoáng,

chƣa tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế biển.

Về phía nguyên nhân chủ quan:Một là, nhận thức về vị trí, vai trò của biển

đối với cuộc sống và sự phát triển kinh tế, an ninh-quốc phòng của các cấp, các

ngành và quần chúng nhân dân chƣa thực sự đƣợc đề cao. Việc quản lý và khai thác

biển kém hiệu quả nhƣ hiện nay, đã gây lãng phí tiềm năng biển của quốc gia cũng

nhƣ của các địa phƣơng trong đó có tỉnhNam Định. Nguyên nhân cốt lõi và mang

tính tiền đề, nổi bật nhất trong bối cảnh hiện nay xuất phát từ chính tƣ duy tiểu

nông, tầm nhìn tự cung, tự cấp bị bó hẹp trong không gian làng xã, trình độ của

ngƣời lao động và công nghệ còn nhiều hạn chế. Hai là, Nam Địnhchƣa thực sự

khai thác tốt các nguồn lực để đầu tƣ phát triển kinh tế biển cho địa phƣơng, nguồn

vốn đầu tƣ cho phát triển kinh tế biển nhìn chung còn thấp. Mặt khác, tỉnh cũng

chƣa quan tâm đúng mức các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công

nghệ về phát triển kinh tế biển, chƣa có những dự báo chuẩn xác về nguồn lợi, diễn

biến môi trƣờng, thiên tai từ biển. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của địa phƣơng

chƣa đảm bảo trình độ và năng lực, cộng với trình độ ngƣ dân ven biển còn thấp,

khả năng tiếp thu khoa học công nghệ còn hạn chế, và ý thức sản xuất cộng đồng

90

chƣa cao làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng nuôi cũng nhƣ tái tạo lại nguồn lợi thủy

sản. Ba là, tƣ tƣởng ỷ lại, thụ động trông chờ của ngƣời dân, doanh nghiệp đối với

nguồn vốn cho đầu tƣ phát triển, chế biến, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá từ

kinh tế biển.

3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

theo hướng hiệu quả

Từ thực trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định chúng ta dễ dàng nhận

thấy có 3 vấn đề đặt ra cần đƣợc giải quyết để tạo động lực cho quá trình phát triển

kinh tế ở tỉnhmột cách có hiệu quả, đó là:

Vấn đề thứ nhất, đó chính là việc giải quyết mâu thuẫn giữa đầu tư phát

triển kinh tế biển với nguồn lực có hạn.

Chúng ta biết rằng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội luôn có giới hạn

song với nhu cầu của sự phát triển không bao giờ có điểm dừng của nó, đồng thời

nhu cầu của con ngƣời lại rất đa dạng và phong phú. Chính vì thế trong bất kì một

hoạch định phát triển kinh tế xã hội nào đều phải đƣợc xem xét đặt lên bàn cân tính

toán về hiệu quả và phát triển kinh tế biển ở Nam Định cũng không thể nằm ngoài

quy luật đó.

Trong tổng thể của quá trình phát triển kinh tế biển, với một hiện thực rõ

ràng là nguồn lực có hạn, chúng ta cẩn phải xác định đầu tƣ có trọng tâm trọng

điểm. Tìm và đầu tƣ phát triển cho các ngành kinh tế biển có thế mạnh thực sự và

nó phải thể hiện đƣợc xu hƣớng phát triển của thời đại. Đồng thời cần phát triển

kinh tế biển theo tính hệ thống, có nghĩa là cần chú ý phát triển ngành cơ sở, có sức

kéo là đầu tàu và có khả năng thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác cùng phát triển

theo. Đây là một đòi hỏi hết sức khó khăn cho Nam Định trong giai đoạn tới.

Vấn đề thứ hai, đó là mâu thuẫn giữa đầu tư phát triển kinh tế biển với năng

lực tổ chức, quản lý của nhà nước cũng như tại địa phương.

Cho đến nay, cả nƣớc cũng nhƣ địa phƣơng chƣa có một cơ quan Nhà nƣớc

nào thống nhất quản lý, quy hoạch, phát triển kinh tế biển cho nên còn rất nhiều

lúng túng, buông lỏng, chồng chéo. Mặt khác kinh tế biển lại là một tổ hợp các

91

ngành kinh tế có liên quan mật thiết với nhau, chính vì vậy nếu không có sự thống

nhất quản lý cũng nhƣ tổ chức phát triển thì khó có thể đạt đƣợc hiệu quả ở cấp địa

phƣơng chứ chƣa nói gì đến phạm vi quốc gia.

Vấn đề thứ ba, đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh và hiệu quả,

với yêu cầu là khai thác triệt để các tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế

biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Bài toán này là câu hỏi không chỉ riêng cho Nam Định mà còn là câu hỏi

chung cho rất nhiều địa phƣơng ven biển khác trong cả nƣớc. Trong nền kinh tế thị

trƣờng hiện nay, bài toán lựa chọn và chi phí cơ hội đánh đổi đòi hỏi chúng ta một

lần nữa phải thực hiện sự cân nhắc, phân tích, đánh giá xem xét để đƣa ra một quyết

định phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế biển của Nam Định một cách có hiệu

quả.

Tiểu kết chương 3

Trong những năm vừa qua, đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ban

ngành, kinh tế biển của Nam Định về cơ bản đã có một bƣớc phát triển đáng khích

lệ, góp phần không nhỏ vào sự tăng trƣởng, phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh-

quốc phòng của thành phố cũng nhƣ của cả nƣớc. Trên cơ sở của việc khai thác

tiềm năng thế mạnh từ biển, thu hút nguồn nhân lực vùng ven phục vụ cho phát

triển kinh tế biển đã góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân. Các ngành kinh tế biển đã thực sự phát huy vai trò của mình

và hình thành các ngành kinh tế biển đóng vai trò là ngành mũi nhọn của tỉnh, đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng cũng nhƣ một số tỉnh lân cận,

đồng thời đảm bảo nguyên nhiên vật liệu cho chế biến xuất khẩu và là nguồn thu

ngoại tệ ổn định cho Nam Định.

Tuy vậy, kinh tế biển ở Nam Định có quy mô phát triển chƣa thực sự tƣơng

xứng với tiềm năng, lợi thế phát triển của mình, cơ sở hạ tầng và trình độ lao động

tham gia hoạt động kinh tế biển còn hạn chế trong một số lĩnh vực. Cơ cấu phát

triển của các ngành trong kinh tế biển không đồng đều, thiếu đồng bộ, chƣa tạo sự

92

liên kết để phát triển. Các ngành nhƣ du lịch biển, công nghiệp chế biến, hoạt động

nghiên cứu khoa học biển phát triển còn khá khiêm tốn, chƣa khai thác hết tiềm

năng, thế mạnh hiện có.

Bên cạnh đó, Nam Định cũng đang đứng trƣớc hàng loạt các vấn đề thách

thức cần đƣợc nhanh chóng giải quyết. Để có thể thực hiện thắng lợi chiến lƣợc

phát triển kinh tế biển, và đƣa tỉnh trở thành địa phƣơng có kinh tế biển phát triển

mạnh mẽ của cả nƣớc, cần phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp nhằm phát

huy tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu quả

93

trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế.

CHƢƠNG 4

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

Ở NAM ĐỊNH ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030

4.1. Định hướng phát triển kinh tế biển của Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn 2030

4.1.1. Dự báo về cơ hội và thách thức đối với quá trìnhphát triển kinh tế biển ở

Nam Định

Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn có nhiều thay đổi nhanh

chóng và to lớn. Chính những thay đổi này đã tạo ra những cơ hội và thách thức đối

với quá trình phát triển kinh tế của đất nƣớc nói chung và kinh tế biển nói riêng ở

Nam Định. Để có thể đƣa ra những định hƣớng, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho quá

trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định, trƣớc hết chúng ta cần phải đánh giá đúng

mức tác động của những cơ hội và thách thức đó.

4.1.1.1. Những cơ hội đối với quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Một là, Trung ƣơng và tỉnh ngày càng nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn về vị

trí, vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa

phƣơng cũng nhƣ vùng duyên hải Bắc Bộ. Tập trung đầu tƣ cho phát triển kinh tế

biển của Nam Định, không chỉ vì riêng Nam Định mà còn vì sự phát triển chung

của vùng và của cả miền Bắc đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Nam Định thu

hút thêm nhiều nguồn vốn khác cho đầu tƣ phát triển.

Hai là, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua không chỉ để lại những tiêu

cực mà cũng tạo ra nhiều cơ hội. Trong đó nổi lên hai cơ hội lớn đó là thúc đẩy về:

tƣ duy cải cách, tái cấu trúc kinh tế và đón đầu để tăng trƣởng kinh tế.

Vừa qua Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế

gắn với chuyển đổi mô hình tăng trƣởng theo hƣớng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả

và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020; tỉnh cũng đã xây dựng, bàn thảo về

Đề án điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trƣởng, nâng cao sức cạnh

tranh nền kinh tế tỉnh đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020,

94

định hƣớng đến năm 2025. Đây chính là các căn cứ quan trọng để Nam Định điều

chỉnh sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển kinh tế biển của tỉnh

trong thời gian tới.

Ba là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng

giúp Nam Định có những cơ hội rất lớn để phát triển thƣơng mại và đầu tƣ, đặc biệt

là các lĩnh vực kinh tế biển (vốn đã có sức thu hút đầu tƣ rất lớn), bởi các luồng vốn

đầu tƣ vào tỉnh sẽ ngày càng nhiều và đa dạng.

Bốn là, nguồn lực và không gian cho phát triển kinh tế ngày càng đƣợc mở

rộng. Những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh ngày càng đƣợc đánh giá đúng hơn và

khai thác tốt hơn. Bên cạnh đó, nhiều nguồn lực mới đƣợc phát hiện nhƣ các tiềm

năng về thủy điện triều, về dầu khí… Với vị trí thuận lợi và hệ thống giao thông

ngày càng đồng bộ, Nam Định ngày càng có sự liên kết chặt chẽ hơn với các địa

phƣơng xung quanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Năm là, những thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới đã góp phần nâng

cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất của kinh tế Việt Nam thông qua

chuyển giao công nghệ. Xu hƣớng chuyển các cơ sở nghiên cứu và triển khai từ các

nƣớc phát triển sang các quốc gia đang phát triển đem lại cơ hội tiếp cận khoa học,

công nghệ mới cho tỉnh đặc biệt là khoa học, công nghệ biển.

Sáu là, các dự án trọng điểm về xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cảng biển

của tỉnh đang đƣợc đẩy nhanh thực hiện sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành

của kinh tế biển.

4.1.1.2. Những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Dƣới tác động của xu thế toàn cầu hóa và những thành tựu của cuộc cách

mạng khoa học công nghệ hiện đại, đã tạo ra những cơ hội to lớn cho quá trình phát

triển kinh tế biển ở Nam Định nhƣng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức,

khó khăn không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng nhƣ

phát triển kinh tế biển nói riêng của tỉnh. Những thách thức cụ thể là:

Thứ nhất, trƣớc độ mở lớn và hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế

trong tiến trình toàn cầu hóa, Nam Định sẽ bị phụ thuộc và chịu tác động lớn từ

95

những diễn biến bên ngoài, đặc biệt là những tác động tiêu cực của khủng hoảng

kinh tế toàn cầu. Hiện nay, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng

đang đi vào suy thoái, khả năng phục hồi còn chậm, chƣa rõ nét.

Mặt khác, toàn cầu hóa đem lại cơ hội phát triển cho các nền kinh tế. Do vậy,

mức độ cạnh tranh để giành lấy cơ hội sẽ ngày càng trở nên khốc liệt và mang tính

toàn cầu hơn. Bên cạnh đó, Nam Định còn phải cạnh tranh với các tỉnh, thành phố

có tốc độ tăng trƣởng tốt trong vùng về thu hút lao động có trình độ, nhƣ Hà Nội,

Hƣng Yên, Quảng Ninh… Nam Định đang có nguy cơ tụt hậu so với một số tỉnh

khác trong khu vực cũng nhƣ trong cả nƣớc.

Thứ hai, tự do hóa thƣơng mại, tài chính và các thị trƣờng khác gia tăng, thì

việc các nƣớc sử dụng ngày càng nhiều các chính sách bảo hộ và các rào cản kỹ

thuật tinh vi càng trở nên phổ biến.

Thứ ba, trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới đang tái cấu trúc, việc các nguồn

vốn vận hành ngƣợc trở lại các nƣớc phát triển có thể sẽ là một xu hƣớng bất lợi đối với

quá trình phát triển kinh tế, phát triển kinh tế biển của Nam Định ở chỗ sẽ khó khăn hơn

trong việc thu hút các nguồn vốn FDI. Đối với nguồn vốn ODA, nhiều nhà tài trợ đang

và sẽ có những điều chỉnh chính sách trong quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam.

Các khoản viện trợ không hoàn lại sẽ tập trung nhiều hợp vào hỗ trợ kĩ thuật, chuyển

giao công nghệ, tăng cƣờng năng lực, đồng thời xuất hiện thêm nhiều kênh tín dụng mới

kém ƣu đãi hơn. Ngoài ra, phƣơng thức cung cấp viên trợ cũng có những thay đổi nhất

định nhƣ áp dụng nhiều hơn phƣơng pháp tiếp cận theo chƣơng trình ngành, hỗ trợ ngân

sách chung và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu,…

Thứ tƣ, sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nƣớc

ngày càng trở nên phổ biến; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu

hƣớng chuyển giao công nghệ lạc hậu sang các nƣớc đang phát triển đặt Nam Định

trƣớc thách thức phải lựa chọn công nghệ và có chính sách thu hút công nghệ hợp lý

96

nếu không muốn trở thành bãi rác công nghệ của thế giới.

Thứ năm, nguồn lực đầu tƣ của Nhà nƣớc cũng nhƣ tƣ nhân vốn đã hạn chế,

nay lại càng khó khăn hơn do ảnh hƣởng của khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, đầu tƣ

cho các địa phƣơng trong đó có Nam Định nói chung sẽ khó có những tăng trƣởng

đột biến.

Thứ sáu, vấn đề đầu tƣ các khu đô thị tràn lan, sử dụng đất thiếu hiệu quả,

tạo ra những khu vực dân cƣ không ngành nghề và thiếu các dịch vụ an sinh xã hội,

các công trình văn hóa, y tế, giáo dục đi kèm; không đảm bảo tỷ lệ các khoảng

xanh, cây xanh theo tiêu chuẩn đô thị sinh thái kinh tế. Xuất hiện tắc nghẽn giao

thông đô thị. Sự phát triển đô thị, cùng với quá trình đô thị hóa đã phá vỡ cơ cấu sử

dụng nguồn vốn tài nguyên đất, tài nguyên nƣớc, tài nguyên khoáng sản, phá vỡ hệ

sinh thái và đa dạng sinh học vùng bờ biển liên quan trực tiếp đến chất lƣợng sống

của con ngƣời…

Thứ bảy, Nam Định hiện đang đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu

nhƣ: nguy cơ thiếu nguồn nƣớc an toàn và hợp vệ sinh, tác động của biến đổi khí

hậu và nƣớc biển dâng, nguy cơ ô nhiễm từ chất thải đô thị, nông thôn, các khu

công nghiệp, ô nhiễm các vùng biển, ven biển, lƣu vực sông, cảng biển,...trong khi

năng lực quản lý, đặc biệt là quản lý biển chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu.

Thứ tám, tình hình an ninh chính trị trên thế giới và khu vực có nhiều diễn

biến phức tạp, đặc biệt là tình hình căng thẳng ở Biển Đông; âm mƣu diễn biến hòa

bình, bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch ngày càng tinh vi.

4.1.2. Quan điểmphát triển các ngành kinh tế biển ở Nam Định đến năm 2020,

tầm nhìn 2030

Trƣớc những thế mạnh về tiềm năng để phát triển kinh tế biển, lãnh đạo tỉnh

Nam Định tiếp nhận ý kiến chỉ đạo của chỉnh phủ đã đƣa ra những quyết định, chiến

lƣợc về phƣơng hƣớng phát triển kinh tế biển của tỉnh nhà.

Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộitỉnh Nam Định đến

năm 2020, định hƣớng đến năm 2030

Tập trung phát triển lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản theo hƣớng sản xuất

97

hàng hóa, chất lƣợng cao, bền vững. Ƣu tiên ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt

là công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm. Phát huy

lợi thế các tiểu vùng sinh thái (vùng đồng bằng ven sông, vùng ven biển) để hình

thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các cánh đồng mẫu lớn quy mô từ 30-

50ha, khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với hệ thống chế biến,

phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Phấn đấu tốc độ tăng trƣởng bình quân đạt 2,9%

thời kỳ 2011-2020 và đạt 2,2% thời kỳ 2021-2030.

Về thủy sản: tập trung quản lý và thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh tế

thủy sản; hình thành các vùng nuôi tập trung theo phƣơng thức bán thâm canh và

thâm canh, áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến cho năng suất cao và an toàn.

Phát triển lĩnh vực thƣơng mại, dịch vụ bền vững, hiệu quả đáp ứng nhu cầu

phát triển ngày càng cao của xã hội, tạo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng, minh

bạch; phấn đấu tốc độ tăng trƣởng đạt khoảng 12,2%/năm cho cả giai đoạn.Hoàn

chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở kỹ thuật phục vụ thƣơng mại theo hƣớng

kết hợp giữa phát triển thƣơng mại tại khu vực đô thị với phát triển thị trƣờng nông

thôn; phát triển các khu chợ đầu mối để thu mua sản phẩm của ngƣời dân; hình

thành các cụm thƣơng mại - dịch vụ kết nối với vùng sản xuất hàng hóa nông

nghiệp tập trung hoặc gắn với các khu, cụm công nghiệp; quy hoạch hệ thống chợ

phù hợp với phân bố dân cƣ, chú trọng công tác vệ sinh, an toàn thực phẩm tại các

khu chợ. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trƣờng

dịch vụ trên địa bàn tỉnh Nam Định.

Về du lịch: cần đổi mới chính sách đầu tƣ, quản lý về du lịch nhằm thu hút

các thành phần kinh tế tham gia đầu tƣ, nâng cấp hạ tầng du lịch; phát triển du lịch

theo loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng; du lịch văn hóa, tâm linh... hình thành

các tuyến du lịch liên tỉnh, nhằm khai thác tốt hơn những tiềm năng về du lịch của

Nam Định cũng nhƣ của cả nƣớc.

Tập trung phát triển hạ tầng giao thông theo hƣớng hiện đại, đồng bộ đáp

ứng nhu cầu vận tải của toàn xã hội với chất lƣợng ngày càng cao; đảm bảo an toàn

giao thông, bảo vệ môi trƣờng trong quá trình xây dựng và khai thác giao thông vận

98

tải. Kết hợp phát triển giao thông nội tỉnh với giao thông liên tỉnh của vùng và quốc

gia. Kết hợp chắt chẽ với hệ thống giao thông thông qua các loại đƣờng để đạt mục

đích tối ƣu hóa phƣơng tiện phục vụ thuận lợi cho phát triển du lịch, cũng nhƣ đẩy

mạnh giao lƣu giữa các vùng kinh tế biển lân cận.

Ƣu tiên phát triển các vùng kinh tế biển, bao gồm các huyện Giao Thủy, Hải

Hậu và phía nam huyện Nghĩa Hƣng (từ đƣờng 56 xuống biển). Định hƣớng tiếp tục

nghiên cứu để thành lập Khu kinh tế Ninh Cơ khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy

định của pháp luật nhằm tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và

phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh Nam Định.

4.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Mục tiêu tổng quát của phát triển kinh tế biển ởNam Định đƣợc thể hiện ở 2

điểm cơ bản:

Thứ nhất, phát huy tối đa mọi tiềm năng, lợi thế, nhanh chóng xây dựng Nam

Định trở thành địa phƣơng mạnh về biển, giàu từ biển, một trọng điểm thực hiện

Chiến lƣợc biển Việt Nam, một trung tâm kinh tế biển của khu vực kinh tế Vịnh

Bắc Bộ và cả nƣớc.

Thứ hai, xây dựng kinh tế biển trở thành động lực chính, “là 'hạt nhân' tạo sự

chuyển biến cơ bản và toàn diện kinh tế tỉnh để xây dựng, phát triển bền vững, hài

hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, bảo vệ môi trƣờng; trở thành

trung tâm mạnh về khoa học công nghệ biển, trung tâm chuyển giao công nghệ về

kinh tế biển, đóng góp ngày càng lớn vào phát triển của khu vực phía Bắc và cả

nƣớc; từng bƣớc trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ hàng hải và vận tải

biển lớn của Việt Nam, trọng điểm du lịch quốc gia, trung tâm thƣơng mại - tài

chính của khu vực Đông Nam Á; một cực tăng trƣởng quan trọng của vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ; pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng, an ninh.”

Mục tiêu cụ thể: trên cơ sở của việc xác định mục tiêu tổng quát, chính

quyền tỉnh Nam Định cũng đã chỉ ra những mục tiêu cụ thể trên các mặt các lĩnh

99

vực. Cùng với đó, trong mục tiêu cụ thể cần xác định rõ mục tiêu cụ thể đối với toàn

bộ nền kinh tế biển địa phƣơng đồng thời phải chú ý đến từng địa phƣơng cụ thể

nhất là các địa bàn trực tiếp liên quan đến biển nhƣ các vùng ven biển.

Mục tiêu cụ thể của việc phát triển kinh tế biển xét trên phạm vi toàn bộ quy

mô cơ cấu kinh tế của tỉnh đó là:

- Phát triển nhanh kinh tế biển để góp phần đƣa tỷ trọng GDP Nam Định

trong GDP cả nƣớc đạt khoảng6,8% vào năm 2020. Tốc độ tăng trƣởng GDP bình

quân giai đoạn 2015 – 2020 là 10 - 12%, cao hơn mức tăng của Vùng kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ khoảng 1,1 lần; GDP bình quân đầu ngƣời đạt 2.000 - 2.200 USD vào

năm 2015 và 2.900 - 3.000 USD vào năm 2020.

- Trong cơ cấu các ngành kinh tế biển phải hình thành đƣợc một số ngành, sản

phẩm mũi nhọn đặc trƣng của biển, đồng thời có đóng góp cao về giá trị xuất khẩu để tốc

độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân đạt 19 - 20% giai đoạn 2016 - 2020.

- Ngành du lịch phấn đấu đón 3,5 triệu lƣợt khách du lịch vào năm 2015

(khách quốc tế đạt 1 triệu lƣợt), 4,9 triệu lƣợt khách vào năm 2020 (khách quốc tế

đạt 1 triệu lƣợt trở lên).

- Ngành thủy sản duy trì tốc độ tăng trƣởng bình quân giá trị sản xuất từ 9 -

10% thời kỳ 2016 - 2020. Đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, đảm bảo giá trị xuất khẩu

năm 2015 đạt 150 triệu USD và 220 triệu USD vào năm 2020. Đặc biệt nâng cao

chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển và mở rộng của ngành này

trong tƣơng lai.

Cùng với việc xác định mục tiêu cụ thể cho toàn bộ hệ thống, Nam Định

cũng chú ý hƣớng tới việc phát triển các khu vực đặc biệt quan trong và là điểm

then chốt trong chiến lƣợc phát triển kinh tế biển của địa phƣơng:

Đối với khu vực các xã, phƣờng tiếp giáp và liền kề biển: phải phát huy triệt

để lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, thu hút đầu tƣ, lao động và phát triển các lĩnh

vực kinh tế, dân sinh, tạo ra sự phát triển năng động của toàn khu vực. Đồng thời

phấn đấu thu nhập bình quân đầu ngƣời khu vực này cao gấp 1,3 - 1,5 lần thu nhập

bình quân đầu ngƣời toàn tỉnh và dải ven biển cả nƣớc vào năm 2015 và gấp 1,4-

100

1,6 lần vào năm 2020; thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo.

Đối với ba huyện Nghĩa Hƣng, Hải Hậu, Giao Thủy: Xây dựng thành trung

tâm du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng, chữa bệnh tầm cỡ quốc gia và quốc tế; trung tâm

dịch vụ thủy sản và hậu cần nghề cá của vùng Vịnh Bắc Bộ; phấn đấu tốc độ tăng

trƣởng GDP đạt 16,5% vào năm 2015; trên 17% giai đoạn 2016 - 2020. Cơ cấu kinh

tế chuyển dịch theo hƣớng Dịch vụ - Nông nghiệp - Công nghiệp.

4.2. Các nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu

quả.

4.2.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và tăng cường vai trò quản lý

của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế biển

có hiệu quả

Trong thời kì kinh tế đất nƣớc đang bƣớc vào giai đoạn hội nhập quốc tế nhƣ

hiện nay, thể chế chính sách có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển

kinh tế quốc gia nói chung và kinh tế biển nói riêng. Với ý nghĩa là hệ thống các

quy tắc, chuẩn mực, luật lệ; thể chế, chính sách chính là những định hƣớng, hƣớng

dẫn mang tính pháp quy, tạo ra khuôn khổ cho việc tổ chức, hoạt động của toàn bộ

nền kinh tế xã hội. Đối với kinh tế biển, thể chế, chính sách kinh tế cũng chính là

những hƣớng dẫn, định hƣớng hành vi và tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức

hoạt động kinh tế biển. Vai trò quản lý của nhà nƣớc nói chung và chính quyền tỉnh

Nam Định nói riêng đối với phát triển kinh tế biển, cụ thể là:

Một là, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển phù hợp với chiến lƣợc

phát triển kinh tế biển của cả nƣớc nói chung.

Hai là, huy động cao nhất các nguồn lực để phát triển hiệu quả. Ƣu tiên phát

triển và xây dựng thƣơng hiệu các sản phẩm chủ lực của tỉnh có khả năng cạnh

tranh cao, tạo nguốn thu cho ngân sách.

Ba là, phát triển kinh tế biển gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;

giảm nghèo nhanh, tạo việc làm.

Bốn là, phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ môi trƣờng, chủ động ứng

101

phó với biến đổi khí hậu.

Năm là, phát triển kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, giữ

vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Sáu là, Quy hoạch phát triển kinh tế vùng biển đảo thuộc địa bàn tỉnh mình.

Đồng thời định hƣớng cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc về các lĩnh vực, dự

án đầu tƣ sản xuất kinh doanh tại vùng biển của tỉnh mình.

Nhƣ vậy có thể thấy, thể chế, chính sách có tác động to lớn đến sự lựa chọn

và việc quyết định sản xuất cái gì, đầu tƣ nhƣ thế nào, đầu tƣ ra sao, ở đâu…của các

chủ thể trong việc phát triển kinh tế biển. Các thể chế chính sách không chỉ có tác

dụng hƣớng dẫn điều tiết hành vi của con ngƣời với tƣ liệu sản xuất mà còn hƣớng

dẫn điều chỉnh hành vi của con ngƣời với con ngƣời trong mối tác động qua lại của

quá trình kinh tế. Ngoài ra, thể chế chính sách còn có nhiều vai trò khác đối với quá

trình phát triển kinh tế biển. Chính vì vai trò hết sức đặc biệt này, mà trong giai

đoạn tới, Nam Định cần phải thực hiện một số giải pháp trên mặt thể chế chính sách

đó là:

Một là, thực hiện chính sách tái cơ cấu các ngành kinh tế biển theo hướng

hiện đại và phát triển hiệu quả, tập trung phát triển một số ngành mũi nhọn, có tính

chất đột phá, khai thác tốt mọi lợi thế, tiềm năng để tăng trưởng nhanh, hỗ trợ các

ngành khác trong nhóm ngành kinh tế biển.

Quá trình tái cơ cấu cần chú ý vào cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế,

cụ thể:

Cơ cấu ngành kinh tế biển: Trong nhóm ngành công nghiệp biển, tập trung

phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, khoa học công nghệ cao về biển, giữ

vững vai trò của các ngành công nghiệp truyền thống nhƣ đóng tàu, công nghiệp

chế biến thủy hải sản. Trong nhóm ngành nông nghiệp biển, chú trọng các sản phẩm

sử dụng công nghệ sinh học hiện đại, các sản phẩm sạch, phát triển cơ sở sản xuất

tập trung quy mô lớn vừa đảm bảo hiệu quả đầu tƣ và thuận lợi xử lý môi trƣờng.

Phát triển hệ thống gia trại, trang trại tại các vùng ven biển, quan tâm phát triển sản

xuất giống… Trong nhóm ngành dịch vụ biển, coi trọng các doanh nghiệp hoạt

102

động dịch vụ gắn với cảng, vận tải biển, logistic, du lịch.

Đối với tái cơ cấu thành phần kinh tế để phát triển kinh tế biển, cần phải xây

dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm tăng cƣờng huy động nguồn lực trong

dân và coi trọng vai trò kinh tế tƣ nhân, chú trọng doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài, hoàn thành việc đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc.

Để làm đƣợc điều này, các cấp, các ngành, các cơ quan cần tăng cƣờng công tác

tuyên truyền của tỉnh, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để nâng cao nhận

thức về chủ quyền biển, tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò của biển, vùng bờ biển, hải

đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên nhận thức mới, sâu sắc

về vị thế - xã hội – chính trị - quốc phòng, an ninh của Nam Địnhtrong phát triển

kinh tế biển, đề cao trách nhiệm và ý thức thực thi pháp luật, đồng thuận hành động

để phát triển kinh tế biển.

Hai là, tăng cường thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút đầu

tư trong các lĩnh vực kinh tế biển

Thực tế trong những năm vừa qua cũng nhƣ bài học kinh nghiệm của các

địa phƣơng trong cả nƣớc, việc thực hiện các chính sách ƣu đãi nhằm thu hút các

nhà đầu tƣ trong lĩnh vực kinh tế biển đã đem lại những hiệu quả bƣớc đầu. Chính

vì vậy để phát triển kinh tế biển của Nam Định, chúng ta cũng cần thực hiện một số

cơ chế và chính sách ƣu đãi để tăng lƣợng vốn đầu tƣ và số lƣợng các nhà đầu tƣ.

Để tạo đƣợc môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn nhất chính là trong vấn đề sử dụng đất

để thực hiện các dự án kinh tế biển. Ở những ngành lĩnh vực cần thiết, hoặc đặc biệt

quan trọng có thể hỗ trợ một phần kinh phí giải toả đền bù, giải phóng mặt bằng cho

các doanh nghiệp đầu tƣ. Cùng với đó cũng cần phải tăng cƣờng công tác xúc tiến đầu

tƣ để thu hút các nguồn lực của các địa phƣơng trong cả nƣớc cũng nhƣ nƣớc ngoài.

Hiện nay, ngƣời Việt Nam ở hải ngoại cũng đã dần đạt đƣợc những chỗ đứng nhất định

tại nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc khẳng định bản thân tại các quốc gia mà

mình sinh sống, nguyện vọng đóng góp cho quê hƣơng trong họ luôn luôn cháy bỏng,

chính vì thế thành phố cần thiết phải chú ý đến nguồn lực này trong quá trình phát triển

kinh tế biển địa phƣơng bằng cách đƣa ra chính sách cơ chế ƣu đãi hơn. Việc thu đƣợc

103

các nguồn lực tổng hợp một cách mạnh mẽ sẽ giúp cho tỉnh Nam Định đủ sức vƣơn ra

biển khơi theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên cũng cần chú ý khi tổng hợp

nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế chúng ta cần phải đảm bảo tính công bằng.

Ba là, có cơ chế, chính sách khuyến khích, nhân rộng mô hình “xã hội hóa

xây dựng hạ tầng kĩ thuật” đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển

Về cơ bản, cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc phát triển kinh tế biển của Nam

Địnhcòn nhiều yếu kém và hạn chế.Để khắc phục điều đó, cần chính quyền tỉnh ban

hành các chính sách kích cầu để khuyến khích các chủ thể kinh tế từ mọi tầng lớp

nhân dân đầu tƣ vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế

biển. Mô hình xã hội hóa nhà nƣớc và nhân dân cùng làm là một mô hình khá hiệu

quả, tối đa hóa nguồn lực trong xã hội cũng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế

của địa phƣơng.

Bốn là, hình thành cơ chế và xây dựng chính sách phát triển đồng bộ hệ thống

các yếu tố của thị trường cho các ngành kinh tế biển

Khi xem xét những hạn chế của kinh tế biển, sự phát triển chƣa đồng đều giữa

các ngành có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó chính là sự nhỏ

hẹp của thị trƣờng và cung cấp thông tin thị trƣờng đầy đủ và chính xác. Do vậy,

việc ban hành chính sách hỗ trợ các ngành, doanh nghiệp trực tiếp và gián tiếp của

kinh tế biển, cung cấp các dịch vụ thông tin về thị trƣờng, các dịch vụ hạ tầng khác

là rất cần thiết. Đồng thời các ban ngành lãnh đạo phải quan tâm mở rộng thị trƣờng

trong và ngoài nƣớc, giảm giá thành, nâng cao chất lƣợng... quan tâm hơn việc

quảng bá về chính sách đầu tƣ các lĩnh vực kinh tế biển. Khuyến khích hỗ trợ các

doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tìm kiếm thị trƣờng.

Năm là, thực hiện các chính sách ưu tiên với một số ngành kinh tế biển “trẻ”,

có tiềm năng nhưng chưa thực sự phát triển

Sự phát triển không đồng đều giữa các ngành kinh tế biển, ngoài vấn đề thị

trƣờng thì cũng chịu sự ảnh hƣởng của lịch sử các ngành kinh tế. Những ngành kinh

tế mới thƣờng có quy mô nhỏ bé và khả năng cạnh tranh thấp hơn so với các ngành

104

kinh tế vốn có truyền thống của Nam Định, chính vì vậy cơ chế, chính sách cần thể

hiện rõ sự hỗ trợ và phát triển những ngành công nghiệp mới, những ngành có khả

năng tạo đột phá phát triển kinh tế, xã hội vùng ven biển.

Cùng với việc xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể cho các ngành kinh tế

biển trên các lĩnh vực đầu tƣ, thu hút nguồn lực, phát triển thị trƣờng, xây dựng cơ

cấu ngành kinh tế…cũng cần phải chú ý đến việc tăng cƣờng hợp tác với các tỉnh,

thành phố khác và các nƣớc trong khu vực, trong tất cá các lĩnh vực để phát triển

kinh tế biển của địa phƣơng.

Ngoài ra, cơ chế chính sách để phát triển kinh tế của tỉnh cũng cần khắc phục

nhanh chóng những hạn chế mang tính chất chung nhƣ: giảm tính không nhất quán,

thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ và chồng chéo. Mặt khác, cơ chế chính sách phát triển

kinh tế biển cần cụ thể hóa hành động cho tất cả các ngành, lĩnh vực và đối tƣợng

kinh tế…Nhƣ vậy sẽ làm cho các chính sách cơ chế đó mới thực sự ý nghĩa, có hiệu

quả và đi vào đời sống của nhân dân.

4.2.2. Nhóm giải pháp về vốn để phát triển kinh tế biển ở Nam Định

Nguồn vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất và kinh doanh đối với

doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung . Nó quyết định quy mô

mở rộng đầu tƣ, tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng nhƣ tổ

chức và quản lý của nhà nƣớc. Riêng đối với việc phát triển kinh tế biển của Nam

Địnhvốn lại càng trở thành một yếu tố quan trọng mang ý nghĩa tiên quyết. Tất cả

các ngành kinh tế biển của thành phố về cơ bản đều trong tình trạng mâu thuẫn giữa

một bên là năng lực dồi dào và một bên là sự hạn hẹp và khan hiếm về vốn. Với lí

do này mà vốn đối với phát triển kinh tế biển ở Nam Địnhđã trở thành một yêu cầu

bức thiết của tất yếu khách quan.

Khi nói đến vấn đề vốn, chúng ta hay nhắc đến nhiều câu hỏi quan trọng nhƣ:

Huy động vốn bằng cách nào? Sử dụng vốn ra sao? Quản lý vốn nhƣ thế nào? Đây

là câu hỏi quan trọng vì nếu trả lời đƣợc thì vấn đề này thì vốn cho quá trình phát

triển kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng mới phát huy hết ý nghĩa của nó.

Nhận thức đƣợc điều này, để phát triển kinh tế biển của Nam Định, giải pháp cụ thể

105

cho từng góc độ nhƣ sau:

Đối với huy động vốn:

Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động

phát triển kinh tế, vốn đầu tƣ phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế biển

nói riêng, căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh thực tế của từng địa phƣơng, doanh

nghiệp, hộ kinh doanh mà lựa chọn hình thức huy động vốn cho phù hợp. Tuy nhiên

để đạt đƣợc hiệu quả cao nhất cũng nhƣ sự biến động của nguồn vốn cần đa dạng

hoá các hình thức huy động vốn đầu tƣ và. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tƣ từ nhiều

nguồn trong và ngoài nƣớc để phát triển những ngành mũi nhọn, tạo điều kiện cho

nền kinh tế phát triển.

Trong thực tế phát triển kinh tế biển của Nam Địnhhiện nay nguồn vốn đến với

các chủ thể kinh tế thông qua 2 nguồn chính: nguồn vốn trong nƣớc và nguồn vốn

từ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.

Nguồn vốn thứ nhất - nguồn vốn trong nƣớc, các doanh nghiệp có đƣợc nhờ 3

hƣớng sau: vốn vay từ các ngân hàng, các quỹ tín dụng nhân dân; ngân sách hỗ trợ

phát triển của nhà nƣớc, nguồn vốn sẵn có. Ở mỗi một hình thức cũng có những hạn

chế nhất định của nó, chính vì vậy trong việc huy động vốn ở mỗi hình thức này

cũng cần chú ý:

- Mở rộng mạng lƣới hoạt động của các ngân hàng bằng cách hình thành càng

chuỗi chi nhánh, phục vụ tại chỗ, tiếp đó là nâng cao thời gian giao dịch, thời gian

nhận gửi, thu hồi, và thời gian vay phải thích hợp với từng giai đoạn của dân chúng,

doanh nghiệp. Bên cạnh đó,đi đôi với đẩy mạnh công tác tuyên truyền tạo niềm tin

với khách hàng. Cải cách thủ tục hành chính tạo mọi điều kiện, nhanh gọn cho

khách hàng khi đến vay hoặc gửi tiền mà vẫn đảm bảo chính xác an toàn và độ bảo

mật cao.

- Đối với mạng lƣới tín dụng, nhận thấy đặc trƣng của các ngành kinh tế biển

chính là tính mùa vụ cao và thời gian thu hồi vốn lâu dài cũng nhƣ sự chịu tác động

của thiên nhiên nên vốn vay tín dụng trung va dài hạn dành cho phát triển kinh tế

biển phải đủ lớn. Bên cạnh đó việc đầu tƣ phải đƣợc thẩm định kỹ càng, với những

106

dự án mang tính khả thi có hiệu quả kinh tế - xã hội cao để góp phần thúc đẩy kinh

tế biển, đảm bảo đúng nguồn vốn tín dụng. Trong quá trình đầu tƣ phải hết sức kịp

thời và linh hoạt để có thể phù hợp với đặc trƣng của sản xuất kinh tế biển mang

tính mùa vụ, vốn đầu tƣ cao…

- Đối với nguồn vốn sẵn có trong dân cƣ, phát huy mọi nguồn lực, truyền

thống tự lực, tự cƣờng để huy động toàn bộ nguồn lực trong nhân dân và địa

phƣơng, đặc biệt cần hình thành các tổ đội sản xuất, các hợp tác xã tự đóng góp,

điều hành và quản lý. Đồng thời cần sự giúp đỡ rất quan trọng của Trung ƣơng, của

tỉnh, sự giúp đỡ của kiều bào nƣớc ngoài, liên doanh, liên kết của các tổ chức trong

và ngoài tỉnh, với phƣơng châm phát triển kinh tế biển và vùng ven biển.

Nguồn vốn thứ hai là nguồn vốn từ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào các ngành

kinh tế biển. Trong các hình thức thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, FDI luôn dành

đƣợc sự quan tâm hàng đầu. Bởi vì, FDI không kèm theo các điều kiện chính trị,

thƣơng mại…và thƣờng mang lại kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, tổ chức

hiện đại. Đối với các ngành kinh tế biển, nguồn vốn FDI có một ý nghĩa rất quan

trọng. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế biển của nƣớc ta nói chung và Nam

Địnhnói riêng còn rất mới mẻ vì vậy khi thu hút đƣợc FDI cũng đồng thời chúng ta

sẽ làm giàu thêm cho mình kinh nghiệm, kỹ thuật, khoa học, công nghệ quản lý và

nhất là về chất lƣợng sản phẩm của các ngành kinh tế biển, tiến kịp và hiệu quả với

trình độ phát triển kinh tế biển của các quốc gia có biển trên thế giới. Để có thể đáp

ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong lĩnh vực kinh tế biển của Nam

Định, các giải pháp cơ bản trong thu hút FDI vào các ngành kinh tế biển của thành

phố là: Chủ động tích cực tham gia hội thảo, hội nghị về hợp tác quốc tế cả ở trong

và ngoài nƣớc; cử các nhóm đầu tƣ ra nƣớc ngoài tiếp thị; sử dụng internet để quảng

bá thông tin, giới thiệu thị trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực kinh tế biển, các lợi thế cạnh

tranh của các ngành kinh tế biển của Nam Địnhso với những địa phƣơng khác trong

cả nƣớc…

Trên cơ sở của hai nguồn vốn chính, việc huy động nguồn vốn từ ngân sách

của tỉnh, Trung ƣơng và viện trợ nƣớc ngoài để đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng

107

kinh tế biển, các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn nhƣ cảng, đƣờng giao thông,

các khu đô thị, khu công nghiệp…sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng cần nhận thây rằng

nguồn vốn này để có thể nhận đƣợc là một điều cũng khá khó khăn do ngân sách là

có hạn, mà nhiều địa phƣơng, nhiều nơi, nhiều ngành cũng cần, chính vì thế trong

quá trình phát triển kinh tế biển của mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nên xây dựng

đƣợc các chiến lƣợc hoạch định đầy đủ, đúng đắn và thực sự có hiệu quả và tác

động tích cực lớn khi hoàn thiện. Chỉ khi làm đƣợc những điều đó thì khả năng, cơ

hội sử dụng nguồn vốn này mới trở thành hiện thực.

Sử dụng và quản lý nguồn vốn:

Đối với vấn đề sử dụng vốn, cần có chính sách tập trung đầu tƣ đúng mức,

đồng bộ và dứt điểm nhằm phát huy cao nhất năng lực và hiệu quả khai thác, đặc

biệt là đối với khu công nghiệp, cảng, hạ tầng du lịch, các cơ sở sản xuất và dịch vụ

nhằm tạo sức bật nhanh cho phát triển kinh tế biển và vùng ven biển ở Nam Định.

Thực tế hiện nay một vấn đề nổi cộm đó chính là việc sử dụng sai mục đích, và

không hiệu quả nguồn vốn, với lý do này, mà khi thực hiện phát triển kinh tế biển

địa phƣơng cần phải tăng cƣờng công tác kiểm tra giám sát, thẩm định hiệu quả

cũng nhƣ tính khả thi của các dự án.Đối với các dự án sai mục đích, không đảm bảo

hiệu quả cần đƣợc nhanh chóng chấm dứt để tránh thất thoát, lãng phí của cải cũng

nhƣ công sức của nhà nƣớc, tỉnh và nhân dân.

Trong quá trình sử dụng vốn để phát triển kinh tế biển của Nam Địnhcần giao

quyền chủ động cho các chủ thể kinh tế nhƣ làm cái gì, làm nhƣ thế nào…Song hành

cùng với tính chủ động khi sử dụng vốn, cũng cần tăng cƣờng trách nhiệm đặc biệt là

trách nhiệm pháp lý các cho tổ chức cá nhân trong quá trình sử dụng vốn khi tổ chức

không thực hiện, bị thất thoát hay lãng phí. Chỉ có nhƣ vậy thì cả phía chủ nguồn vốn

và ngƣời sử dụng nguồn vốn mới đạt đƣợc lợi ích đồng thuận cho cả hai phía.

4.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu phát triển kinh

tế biển ở Nam Địnhtheo hướng hiệu quả

Nƣớc ta nói chung và Nam Địnhnói riêng hiện nay đang trong quá trình phát

triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa dƣới bối cảnh mà nền kinh tế

108

quốc tế đang chịu nhiều tác động từ xu thế toàn cầu hóa. Trong sự nghiệp cách

mạng quan trọng ấy, nguồn nhân lực đã đƣợc xác định là nguồn lực cơ bản của mọi

nguồn lực, đầu tƣ vào nguồn nhân lực là đầu tƣ cho sự phát triển. Hơn thế nữa, kinh

tế biển nƣớc ta phát triển muộn hơn so với nhiều nƣớc điều đó đòi hỏi nguồn lực lao

động phải không ngừng nhanh chóng nâng cao chất lƣợng của mình. Ở Nam

Địnhđể nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển

có thể tập trung theo một số hƣớng sau:

Thứ nhất, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực tại chỗ của tỉnh

Xây dựng chƣơng trình và đa dạng hoá hình thức đào tạo. Chƣơng trình đào

tạo phải đảm bảo phù hợp với từng đối tƣợng và định hƣớng phát triển kinh tế – xã

hội vùng biển, ven biển, trong đó chú ý đến chƣơng trình đào tạo chuyên sâu cho

đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động quản lý, đội ngũ doanh nhân. Chƣơng trình

đào tạo phải đảm bảo tính khoa học và hiện đại, cập nhật đƣợc những thành tựu về

khoa học công nghệ mới nhất trên thế giới và của Việt Nam liên quan đến biển và

các vấn đề kinh tế biển. Trên cơ sở một chƣơng trình đào tạo chuẩn, tổ chức các

hình thức đào tạo hoặc dạy nghề (chính quy, tập trung, tại chức, ngắn hạn, dài hạn,

bổ túc)…hoặc phối kết hợp các hình thức này để có hiệu quả nhất.

Đẩy mạnh xã hội hoá và mở rộng hợp tác quốc tế về công tác đào tạo. Xã hội

hóa giáo dục và mở rộng hợp tác quốc tế về công tác đào tạo ở nƣớc ta trong những

năm qua đã gặt hái đƣợc những thành công bƣớc đầu. Chính vì thế để nâng cao

trình độ chất lƣợng nguồn lao động cho phát triển kinh tế biển, chúng ta phải tận

dụng và nắm bắt xu thế đó. Hình thức xã hội hóa để nâng cao chất lƣợng nguồn

nhân lực trong phát triển kinh tế biển không chỉ dừng lại ở việc nhà nƣớc tổ chức

đào tạo, mà có thể các doanh nghiệp cùng giúp sức, thực hiện đào tạo trong doanh

nghiệp, kết hợp học đi đôi với hành. Mặt khác, thƣờng xuyên đào tạo, bồi dƣỡng để

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Không

chỉ có vậy mà ngay bản thân mỗi ngƣời lao động cũng cần tự ý thức vào việc nâng

cao trình độ của mình.

Chú trọng phát triển và có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề liên quan đến biển đối

109

với lao động vùng nông thôn thu hồi đất do quá trình đô thị hoá và phát triển các ngành

phi nông nghiệp và các lao động khác có nhu cầu học. Trong những năm tới đây, việc

phát triển kinh tế biển cần một lƣợng lớn ngƣời lao động có chuyên môn nghiệp vụ liên

quan đến ngành kinh tế biển. Việc chúng ta đón đầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ

cho phát triển kinh tế biển ngay từ bây giờ sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế trong

tƣơng lai không bị gián đoạn mà phát triển một cách liên tục và ổn định. Ngoài ra để

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thông qua đào tạo và bôi dƣỡng thành phố cũng

cần chú ý đầu tƣ vào việc phát triển quy mô và chất lƣợng của các trƣờng đại học, cao

đẳng trung cấp chuyên nghiệp và nghề trên địa bàn tỉnh nhƣ Đại học Sƣ Phạm Kỹ

Thuật Nam Định, Đại học Điều Dƣỡng Nam Định, Đại học Dân Lập Lƣơng Thế Vinh,

Cao đẳng Công Nghiệp Nam Định, Cao đẳng Sƣ Phạm Nam Định, Cao đẳng Xây

Dựng Nam Định... Đặc biệt trong đó phải chú ý đến ngành, lĩnh vực đáp ứng cho yêu

cầu phát triển kinh tế biển ở hiện tại và trong tƣơng lai.

Thứ hai, bên cạnh việc đào tạo, để phát triển kinh tế biển Nam Địnhcũng cần

chú ý đến việc thu hút, khuyến khích nhân tài từ các địa phương khác trong cả nước

thông qua chính sách sử dụng nhân tài của mình.

Nam Địnhcần phải có cơ chế chính sách hấp dẫn để khuyến khích đội ngũ lao

động có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; Thu hút các chuyên gia, lao động trình độ cao

từ bên ngoài vào những lĩnh vực ƣu tiên mà lực lƣợng tại chỗ còn thiếu nhƣ:hỗ trợ

về học phí, phƣơng tiện đi lại, điều kiện sống… cho những lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật.

Thứ ba, Nam Địnhcó thể thực hiện đổi mới cơ cấu lao động của mình.

Trên cơ sở việc xác định nhu cầu về số lƣợng lao động trong từng lĩnh vực và

tình hình thực tế của nguồn nhân lực tại địa phƣơng, chúng ta có thể tiến hành

chuyển dịch cơ cấu lao động bằng cách chuyển một phần lao đông dƣ thừa trong

nông nghiêp ở các dải ven biển sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ theo

hƣớng tăng lao động giản đơn sang lao động phức tạp có chuyên môn trình độ và đã

110

qua đào tạo.

4.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường khảo sát,

thăm dò, đánh giá nguồn lợi và xây dựng kết cấu hạ tầng biển ở Nam Định

Nếu nhƣ nguồn nhân lực là cơ sở quan trọng của sự phát triển kinh tế biển thì

khoa học công nghệ lại là động lực quan trọng. Trong các ngành kinh tế nói chung,

khoa học và công nghệ đã thực sự thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao

chất lƣợng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con ngƣời. Nó

còn trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cƣờng độ lao động,

giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất

xám trong cấu tạo sản phẩm,…Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa

năng, mẫu mã đẹp, kích thƣớc nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng đƣợc rút ngắn

đáng kể. Tuy nhiên, trình độ khoa học công nghệ hiện nay trong lĩnh vực kinh tế

biển còn hạn chế, để có thể vƣợt ra khỏi tình trạng này và để khoa học công nghệ

khoa học có thể phát huy hết ý nghĩa của mình, trong thời gian tới Nam Địnhcần:

Nhanh, nhạy tiếp nhận các thành tựu KHCN cao và sớm ứng dụng vào sản

xuất, khai thác, chế biến sản phẩm từ biển nhƣ: công nghệ đánh bắt, nuôi trồng và

chế biến hải sản, công nghệ sinh học biển, công nghệ dƣợc phẩm biển, công nghệ

hoá học, phát triển nguồn năng lƣợng thuỷ triều và năng lƣợng sóng biển,... Đồng

thời trong công nghiệp biển cũng tăng cƣờng ứng dụng và đổi mới KHCN trong các

ngành, lĩnh vực kinh tế biển và ven biển nhƣ: công nghệ cơ khí chế tạo tàu biển,

công nghệ vận tải biển, xây dựng công trình trên biển, ven biển, công nghệ xử lý

chất thải,...

Tăng cƣờng công tác nghiên cứu cơ bản, giải quyết các vấn đề mang tính công

nghệ quan trọng nhƣ nghiên cứu đánh giá tiềm năng tài nguyên, dự báo các biến cố tự

nhiên... Nâng cao công nghệ, quan sát các yếu tố tự nhiên và môi trƣờng nhằm phục vụ

hiệu quả công tác phòng tránh giảm nhẹ thiên tai. Tăng cƣờng đào tạo, đầu tƣ trang

thiết bị phục vụ khoa học, đổi mới công tác nghiên cứu và cơ chế quản lý khoa học.

Trên cơ sở của khoa học và công nghệ, tỉnh cần tiến hành công tác khảo sát,

thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển của Nam Định, cụ thể là: Quan tâm đến công tác

111

khảo sát, thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển để bổ sung số liệu, dữ liệu cơ bản về

biển Nam Định, phục vụ cho định hƣớng phát triển các ngành kinh tế biển phù hợp

hơn. Tăng cƣờng hợp tác với các cơ quan khoa học trong và ngoài nƣớc để ứng

dụng thành tựu mới về khoa học kỹ thuật trong công tác khảo sát, thăm dò, đánh giá

nguồn lợi biển. Hằng năm cần đầu tƣ kinh phí thích đáng cho công tác khảo sát,

thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển.

Cùng với đó, chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng biển phục vụ cho quá trình

phát triển kinh tế biển của thành phố theo hƣớng hiệu quả và bền vững.

4.2.5. Đảm bảo quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái

Để có thể thực hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa IX) về chiến lƣợc

bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng thành khu vực phòng thủ vững chắc trong

tình hình mới và các nghị quyết khác về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế

biển với tiềm lực quốc phòng – an ninh, trong thời gian tới Nam Địnhcần:

Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với quốc phòng - an ninh. Cần nhận thức

đầy đủ về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh và quốc

phòng – an ninh với kinh tế biển trên cơ sở tạo điều kiện cho kinh tế biển phát triển.

Tăng cƣờng tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ quốc gia ở cả đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo trong mọi tình huống.

Chú trọng công tác giáo dục quốc phòng, xây dựng lực lƣợng công an, quân

đội, dân quân tự vệ, dự bị động viên, giữ vững và tăng cƣờng xây dựng thế trận

quốc phòng – an ninh, cơ sở quốc phòng tại các địa bàn chiến lƣợc trọng yếu nhƣ

các đô thị ven biển, các đảo quan trọng của tỉnh, không để bị động, bất ngờ.

Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên biển, ven biển gắn với hƣớng, tuyến

và khu vực phòng thủ biển, gắn kết cảng quân sự với hệ thống cảng biển trên địa

bàn tỉnh.

Quan hệ tốt với các quốc gia có biển liền với vùng biển của địa phƣơng; hạn

chế đến mức thấp nhất các yếu tố dẫn đến xung đột; ngăn chặn và làm thất bại mọi

ý đồ, hành động xâm phạm vùng biển, đảo.

112

Chủ động chuẩn bị chu đáo từ xây dựng, bố trí lực lƣợng, thế trận phù hợp

nhằm sẵn sàng đối phó, ngăn chặn có hiệu quả các xung đột có thể xảy ra trên biển

để giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nƣớc; phát huy

sức mạnh tổng hợp về lực lƣợng và cơ sở vật chất trong quản lý bảo vệ vùng biển;

Bên cạnh việc phát triển công tác quốc phòng – an ninh, trong quá trình phát

triển kinh tế biển của Nam Địnhcũng cần chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trƣờng sinh

thái biển cụ thể là: chú trọng và quan tâm giải quyết kịp thời mối quan hệ giữa tăng

trƣởng và môi trƣờng. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trƣờng, gắn mục tiêu, nhiệm vụ

phát triển kinh tế với nhiệm vụ bảo vệ môi trƣờng. Các quy hoạch, dự án đầu tƣ mới

phải đảm bảo yêu cầu về môi trƣờng, thực hiện nghiêm quy trình, lộ trình xử lý ô

nhiễm môi trƣờng. Hạn chế các nguồn thải từ đất liền ra biển, ngăn chặn tình trạng

phá rừng ngập mặn ven biển, hạn chế sự cố môi trƣờng biển và ven biển, nâng cao

năng lực phòng tránh, ứng phó và khắc phục các sự cố môi trƣờng. Ngăn chặn ô

nhiễm và suy thoái môi trƣờng biển, bảo vệ phát triển bền vững các hệ sinh thái

biển và ven biển. Ngăn chặn tình trạng sử dụng các công cụ, phƣơng tiện huỷ diệt,

không có chọn lọc trong khai thác thuỷ sản, tăng tính bền vững trong nuôi trồng

thuỷ sản, canh tác nông nghiệp ven biển. Hạn chế nạn xói lở, sụt lở, xâm lấn bờ

biển, đánh giá tác động môi trƣờng đối với các dự án đầu tƣ phát triển, tuân thủ các

quy định của pháp luật về bảo vệ môi trƣờng hiện hành. Chú ý phát triển kinh tế

biển gắn liền với kinh tế xanh, thân thiện với môi trƣờng, từng bƣớc phát triển năng

lƣợng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Nhất là trong thời gian gần đây trên cả

nƣớc luôn xảy ra tình trạng nhiều công ty, doanh nghiệp đã xả trực tiếp nƣớc thải,

chất thải độc hại chƣa qua xử lý ra môi trƣờng dẫn đến ảnh hƣởng nghiêm trọng tới

môi trƣờng sinh thái, sức khỏe của ngƣời dân. Và gần đây nhất là vụ xả thải vô cùng

nghiêm trọng của công ty Formosa Hà Tĩnh đã gây chấn động dƣ luận cả trong và

ngoài nƣớc. Đó đƣợc coi là hành vi chống lại môi trƣờng sống của con ngƣời, cũng

có nghĩa là chống lại nhân loại tiến bộ. Vậy làm thế nào để vừa phát triển kinh tế,

thu hút đầu tƣ, nhƣng không phá hủy môi trƣờng? Đó đang là một bài toán rất cần

lời giải thỏa đáng cho tỉnh Nam Định nói riêng và các tỉnh thành khác trong cả nƣớc

113

nói chung. Đặc biệt là Nam Định đang trong giai đoạn đầu cấp phép cho xây dựng

khu công nghiệp Rạng Đông thuộc địa bàn huyện Nghĩa Hƣng, khi hoàn thiện sẽ là

khu công nghiệp dệt may lớn nhất Việt Nam, thì vấn đề bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt

là môi trƣờng sinh thái biển càng phải đƣợc đặt lên hàng đầu.

Về vấn đề này, Chủ tịch UBND tỉnh Nam Địn h, ông Đoàn Hồng Phong cho

biết, xây dƣ̣ng thành công KCN Dê ̣t may Ra ̣ng Đông là ý chí và quyết tâm củ a Tỉnh. Đây là dƣ̣ án lớ n nằm trong tổng thể Khu kinh tế Ninh Cơ đã đƣơ ̣c quy hoa ̣ch , do vâ ̣y tỉnh yêu cầu nhà đầu tƣ cần thƣ̣c hiê ̣n tốt các nô ̣i dung : Bảo đảm môi trƣờng, đă ̣c biê ̣t là xƣ̉ lý nƣớ c thải củ a các nhà máy dê ̣t nhuô ̣m theo quy chuẩn củ a Viê ̣t Nam và thế giớ i; đối với nhà đầu tƣ thƣ́ cấp phải lựa cho ̣n các doanh nghiê ̣p có công nghê ̣ cao, chủ yếu là các nƣớc Đức , Nhâ ̣t Bản; không đƣa lao đô ̣ng phổ thông ngƣờ i nƣớ c ngoài vào làm viê ̣c ta ̣i KCN ; phải xây dựng nơi đây trở thành KCN đô thị có

đầy đủ nhà máy, trƣờ ng ho ̣c, khu ăn, nghỉ cho ngƣời lao động.

Chủ tịch UBND tỉnh cũng khẳng định , sẽ sớ m giải quyết các đề nghi ̣ củ a chủ

đầu tƣ về xây dƣ̣ng các tuyến đƣờ ng giao thông đến KCN phù hơ ̣p vớ i quy hoa ̣ch mạng lƣới giao thông của tỉnh và quốc gia . Yêu cầu huyê ̣n Nghĩa Hƣng sớ m thƣ̣c hiê ̣n công tác giải phóng mă ̣t bằng theo đú ng trình tƣ̣ pháp luâ ̣t , coi đây là nhiê ̣m vu ̣ chính trị hàng đầu của huyện thời điểm hiện nay .

Tỉnh sẽ thành lập Ban Chỉ đạo triể n khai dƣ̣ án , trong đó Sở Tài chính chịu

trách nhiệm tham mƣu về khung giá đất ; Sở TN và MT xƣ̉ lý các vấn đề đất đai ; Sở Xây dƣ̣ng hƣớ ng dẫn , thƣ̣c hiê ̣n thẩm đi ̣nh và quy hoa ̣ch chi tiết ; Ban quản lý các KCN tỉnh là cơ quan thƣ ờng trực giúp UBND tỉnh đôn đốc , thƣ̣c hiê ̣n đúng tiến đô ̣

công viê ̣c theo kế hoạch đã đề ra nhằm sớ m đƣa KCN Dê ̣t may Ra ̣ng Đông vào hoa ̣t

, tạo việc làm , thu đô ̣ng, góp phần thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế

nhâ ̣p cho nhiều lao đô ̣ng.

4.2.6. Một số các giải pháp khác và điều kiện thực thi

Một là, tăng cường hợp tác với các địa phương trong vùng, cả nước và hợp

tác quốc tế

Nhƣ đã phân tích, phát triển kinh tế biển của Nam Địnhcòn gặp rất nhiều khó

114

khăn thách thức. Mỗi địa phƣơng lại có thế mạnh và cách thức phát triển kinh tế

biển riêng của mình, chính vì vậy việc tăng cƣờng hợp tác với các địa phƣơng trong

vùng cả nƣớc và quốc tế, một mặt vừa cho ta thấy năng lực của bản thân. Mặt khác

lại cho ta tận dụng đƣợc sức mạnh và học hỏi kinh nghiệm từ các bạn đối tác của

mình để phát triển kinh tế nói chung và kinh tế biển địa phƣơng nói riêng.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, hợp tác cần dựa trên nguyên tắc tôn

trọng, bình đẳng và cùng có lợi. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong quá trình hợp tác

giữa các bên liên quan để cùng đạt đƣợc mục đích mình mong muốn. Trong quá

trình hợp tác, cũng chú ý xây dựng mối liên kết vùng, phát huy đƣợc sức mạnh của

dải đồng bằng ven biển Quảng Ninh – Hải Phòng – Thái Bình – Nam Định – Ninh

Bình…

Hai là, phát huy sức mạnh và vai trò của các lực lượng kinh tế hoạt động

trong các lĩnh vực kinh tế biển

Để thực hiện thành công phát triển kinh tế biển đòi hỏi không chỉ từ phía các

cơ quan nhà nƣớc mà phải có sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức kinh tế, năng

lực của các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào kinh tế biển - đây là giải pháp

quan trọng nhằm tiếp tục thúc đẩy kinh tế biển phát triển. Vì đây là lực lƣợng chính,

trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế biển.

Trƣớc hết lực lƣợng này phải tự ý về vai trò quan trọng của mình trong quá

trình phát triển kinh tế biển từ đó tích cực chủ động trong tham gia phát triển kinh tế

của địa phƣơng. Trên cơ sở đó chính quyền tỉnh cần phải củng cố nâng cao chất

lƣợng cá nhân, tổ chức doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh tế biển, mà trƣớc

hết là tuyên truyền, giáo dục chiến lƣợc biển, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò

của kinh tế biển đối với quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng và

chủ quyền quốc gia.

Để những giải pháp trên có thể thực hiện đƣợc cần có một số điều kiện sau:

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà Nƣớc cùng các cấp và vai

trò của Mặt trận, các đoàn thể.

Tăng cƣờng sự lạnh đạo và giám sát của các cấp trong việc phát triển kinh tế -

115

xã hội, an ninh - quốc phòng vùng biển và ven biển. Chú trọng công tác tuyên truyền,

giáo dục sâu rộng, tới các cấp, ngành và tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng của

biển trong phát triển kinh tế cũng nhƣ quốc phòng, để từ đó mọi ngƣời nắm vững

quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, tạo sự thống

nhất ý chí và hành động của Đảng cùng sự đồng thuận cao của toàn xã hội, từ đó khơi

dậy tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cƣờng, quyết tâm thúc đẩy phát triển kinh tế biển,

vùng ven biển thành hiện thực. Nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền từ

cấp tỉnh đến cấp cơ sở, đặc biệt là các địa phƣơng ven biển, rà soát, điều chỉnh, tránh

chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo tính thống nhất trong quản lý cũng nhƣ

điều hành phát triển kinh tế biển một cách bền vững và hiểu quả.

Phát huy vai trò của mặt trận cùng các đoàn thể chính trị - xã hội trong công

cuộc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong thanh tra, kiểm ta, giám sát, đẩy mạnh

phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn

xã hội của vùng biển và ven biển, làm cho mọi tầng lớp nhân dân đƣợc hƣởng lợi từ

116

phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách thiết thực nhất.

KẾT LUẬN

Nam Định là một trong những tỉnh, thành phố có tiềm năng lớn mạnh về phát

triển kinh tế biển. Địa hình cũng nhƣ nguồn tài nguyên về biển phong phú là cơ sở để

có thể phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định. Bên cạnh đó tỉnh còn biết tận dụng

phát triển các dịch vụ đi theo biển nhƣ các khu du lịch, sinh thái…. Trong nhiều năm

qua, tình hình phát triển kinh tế biển của NamĐịnh từng bƣớc đƣợc nâng cao thể hiện

trong những thành tựu kinh tế đáng kể và đang tiếp tục thực hiện những dự án nhằm

nâng cao chất lƣợng các khu du lịch biển của tỉnh nhà. Bên cạnh đó, cũng thực hiện

những chính sách an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống cho ngƣời dân vùng biển duy trì

những ngành nghề truyền thống và tập trung phát triển kinh tế biển.

Mặc dù đã biết cách khai thác những nguồn lợi đang có song bên cạnh đó

tỉnh cũng gặp không ít khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế biển tƣơng

xứng với tiềm năng đang nắm trong tay. Cơ sở vật chất kĩ thuật cũng nhƣ các hình

thức tổ chức quản lý kinh tế còn tồn tại nhiều bất cập chƣa bắt kịp với bƣớc phát

triển của thời đại. Nam Định là một trong những tỉnh thành có nhiều tiềm năng, lợi

thế về phát triển kinh tế biển vì vậy cần đẩy mạnh hơn nữa những chiến lƣợc thu hút

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và lƣợng khách du lịch

đến với các khu du lịch của tỉnh nhà. Trong thời buổi hội nhập nhƣ hiện nay, đó là

một trong những cách giúp thúc đẩy phát triển kinh tế biển nói riêng hay nền kinh tế

Việt Nam nói chung.

Thời đại của hội nhập và sự giao lƣu đang nóng hơn bao giờ hết vì vậy khi có

trong tay những tiềm năng phát triển kinh tế, chúng ta cần biết nắm bắt cơ hội và

tạo nên bƣớc đột phát trong sự phát triển kinh tế. Bên cạnh việc đƣa ra những thành

tựu mà Nam Định đã đạt đƣợc trong quá trình phát triển thì đề tài cũng chỉ ra những

thực trạng còn bất cập mà quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đang gặp

phải và đã đóng góp những ý kiến về việc thay đổi thực trạng này cũng nhƣ nêu ra

một số giải pháp cho các vấn đề này, góp phần đóng góp những ý kiến nhằm xây

117

dựng vào chủ đề kinh tế biển nói chung mà nhiều đề tài đã và đang hƣớng tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Trung tâm thông tin công tác tƣ tƣởng, 2007.Biển

và hải đảo Việt Nam.Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Bon, 2008.Kinh tế biển Sóc Trăng. Luận văn thạc sĩ kinh tế. Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

3. Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy Nam Định (Khoá XIII), 2009. Nghị quyết số 27-

NQ/TU “Về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến

năm 2020”. Hà Nội.

4. Bộ Thuỷ sản, 2006.Báo cáo thực hiện kế hoạch 2005 và phương hướng, nhiệm

vụ KT-XH của ngành thuỷ sản. Hà Nội: Nxb Hà Nội.

5. Bộ Thuỷ sản, 2006.Báo cáo tổng kết 20 năm. Hà Nội.

6. Bộ Thuỷ sản, 2007.Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2006 và

chỉ tiêu, biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2007 của ngành

thuỷ sản. Hà Nội: Nxb Hà Nội.

7. Chu Văn Cấp, 2003.Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá

trình hội nhập của khu vực và quốc tế.Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốcgia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

8.Cục thống kê tỉnh Nam Định (2002-2012), Niên giám thống kê tỉnh Nam Định

(2002, 2007, 2009, 2010, 2011), Nxb.Thống kê, Hà Nội.

9. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, Nxb.Văn hóa, Hà Nội, 1962, T.II, tr.156.

10. UBND tỉnh Nam Định (2005), Nam Định, thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb.

CTQG, Hà Nội.

11. Lê Kim Chung, 2003.Công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngành thuỷ hải sản ở

duyên hải Nam Trung Bộ.Luận án tiến sĩ kinh tế. Học viện Chính trị quốc gia Hồ

ChíMinh, Hà Nội.

118

12.Phạm Dũng, 2007. Biển và kinh tế biển.Tạp chí Cộng sản, số 20, trang36-38..

13..Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần X. Hà

Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

14.Đảng Cộng sản Việt Namm, 2007.Nghị quyết hội nghị lần 4 Ban chấp hành

Trung ương Đảng khoá X. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.

15.Thế Đạt, 2009. Nền kinh tế các vùng biển Việt Nam. Hà Nội: Nxb Lao động.

16.Lê Cao Đoàn, 1999.Về đổi mới và phát triển kinh tế vùng biển. Hà Nội: Nxb

Chính trị quốc gia.

17. Đào Duy Quát, 2008. Biển và hải đảo. Báo Tuyên giáo, số 9, trang 19.

18. Bùi Tất Thắng, 2007. Về chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển Việt Nam.Tạp

chí kinh tế và dự báo, số 8, trang5-7.

19. Tỉnh Ủy- Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2004), Địa chí

Nam Định, Nxb. CTQG, Hà Nội.

20. Tỉnh uỷ Nam Định (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ

XVIII( nhiệm kỳ 2010 – 2015).

21. Sở Nông nghiệp và PTNT Nam Định (2012), Thực trạng ngành nghề nông thôn

tỉnh Nam Định - kết quả thực hiện năm 2012; nhiệm vụ, giải pháp năm 2013 và giai

119

đoạn 2013-2015.5.