ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN THỊ NGOAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ở TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN THỊ NGOAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ở TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 6031 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS.TS. ĐINH VĂN THÔNG
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận văn “Phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam
Định” là công trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham
khảo và trích dẫn đƣợc sử dụng trong Luận văn này đều nêu rõ xuất xứ tác giả và đƣợc
ghi trong Danh mục các tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên!
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hƣớng dẫn khoa
học PGS.TS. Đinh Văn Thông đã hết sức tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, và đồng hành
cùng tôi trong suốt quá trình làm Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các Giáo sƣ, Tiến sĩ, chuyên gia, nhà giáo đã đóng
góp nhiều ý kiến quý báu cho Luận văn của tôi thêm hoàn thiện về mặt nội dung và
hình thức. Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy/Cô giáo Khoa Kinh tế
chính trị, Trƣờng Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận
lợi về thủ tục và quy trình trong suốt quá trình làm Luận văn.
Xin đƣợc bày tỏ tình cảm tới bạn bè, đồng nghiệp - những ngƣời đã luôn
quan tâm, động viên, khích lệ cho tôi thêm động lực phấn đấu hoàn thành tốt khóa
đào tạo thạc sĩ.
Cuối cùng, xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới những ngƣời thân trong gia đình đã
luôn kề cận, động viên, giúp đỡ cả về mặt vật chất, tinh thần trong quá trình học tập
và đặc biệt là thời gian làm Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................................. i
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ....................................................................................................................... ii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN .......................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ................................. 6
1.2. Cơ sở lí luận phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh Nam Định .................. 10
1.2.1. Quan niệm về kinh tế biển ....................................................................... 10
1.2.3 Nội dung phát triển kinh tế biển ............................................................... 24
1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế biển ................................................. 32
1.2.5. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của các quốc gia và một số địa
phương trong nước thời gian qua ...................................................................... 34
1.2.6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Nam Định nói
riêng trong xu thế phát triển kinh tế biển .......................................................... 42
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 47
2.1. Nguồn dữ liệu ................................................................................................. 47
2.2. Phƣơng pháp luận chung ................................................................................ 48
2.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng ............................................................ 48
2.2.2. Phương pháp duy vật lịch sử ................................................................... 48
2.3. Các phương pháp khác ............................................................................... 49
2.3.1 . Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu ................................... 49
2.3.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học ................................................... 50
2.3.3. Phương pháp thống kê mô tả ................................................................... 50
2.3.4. Phương pháp phân tích tổng hợp ............................................................ 51
2.3.5. Phương pháp so sánh .............................................................................. 52
2.3.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử .................................................... 52
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NAM ĐỊNH GIAI
ĐOẠNTỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA..................................... 55
3.1. Những tiềm năng và khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển của Nam
Định trong giai đoạn hiện nay ............................................................................... 55
3.1.1. Tiềm năng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .......................................... 55
3.1.2. Những lợi thế về kinh tế - xã hội .............................................................. 60
3.1.3. Những khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển ở Nam Định64
3.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến nay ..... 65
3.2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển ................................................................... 65
3.2.2. Phát triển sản phẩm ................................................................................. 68
3.2.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển. ......................................... 83
3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển ở Nam Định ............................... 85
3.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu trong quá trình phát triển kinh
tế biển ở Nam Định ............................................................................................ 85
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát
triển kinh tế biển ở Nam Định ........................................................................... 87
3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
theo hướng hiệu quả .......................................................................................... 91
CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở
NAM ĐỊNH ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030 ....................................................................... 94
4.1. Định hƣớng phát triển kinh tế biển của Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn 2030 . 94
4.1.1. Dự báo về cơ hội và thách thức đối với quá trìnhphát triển kinh tế biển ở
Nam Định ........................................................................................................... 94
4.1.2. Quan điểmphát triển các ngành kinh tế biển ở Nam Định đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 .................................................................................................... 97
4.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 .................................................................... 99
4.2. Các nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu quả.101
4.2.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và tăng cường vai trò quản lý
của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế biển
có hiệu quả ...................................................................................................... 101
4.2.2. Nhóm giải pháp về vốn để phát triển kinh tế biển ở Nam Định ............ 105
4.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu phát triển
kinh tế biển ở Nam Địnhtheo hướng hiệu quả ................................................. 108
4.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường khảo sát,
thăm dò, đánh giá nguồn lợi và xây dựng kết cấu hạ tầng biển ở Nam Định ...... 111
4.2.5. Đảm bảo quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái ........................ 112
4.2.6. Một số các giải pháp khác và điều kiện thực thi ................................... 114
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................ 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 118
DANH MỤC BẢNG
Stt Bảng Nội dung Trang
Bảng 3.1 Thống kê dân số tỉnh Nam Định từ 2011-2014 68 1
Diện tích, dân số, mật độ dân số phân theo các đơn Bảng 3.2 68 2 vị hành chính
Số ngƣời trong độ tuổi lao động tỉnh Nam Định giai Bảng 3.3 69 3 đoạn 2005-2014
Bảng 3.4 Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên so với tổng số dân 69 4
Tỷ lệ lao động trên 15 tuổi trở lên đang làm việc Bảng 3.5 70 5 trong nền kinh tế đã qua đào tạo
Diễn biến tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ giai 6 Bảng 3.6 73 đoạn 2000 – 2014
i
So sánh tổng số và công suất tàu thuyền của khu 7 Bảng 3.7 74 vực Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Stt Biểu đồ Nội dung Trang
Sơ đồ sản lƣợng thủy sản của các địa phƣơng
1 Biểu đồ 3.1 trongkhu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 84
ii
– 2011
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển tiềm ẩn và chứa đựng trong mình một nguồn tài nguyên vô cùng phong
phú, là môi trƣờng nuôi sống con ngƣời trong quá khứ, hiện tại và cả tƣơng lai. Xét
về mặt lịch sử phát triển của thế giới cho thấy, biển và kinh tế biển đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia có biển; là nhân tố
thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Toàn bộ các biển và đại dƣơng chiếm tới 361 triệu km2( khoảng 71% diện tích bề mặt Trái đất). Có một ý kiến ví
rất hay rằng: “nhân loại nhƣ đang sống trên những hòn đảo khổng lồ” giữa các đại
dƣơng mênh mông của một quả cầu nƣớc. Hiện nay, cùng với tốc độ tăng trƣởng
kinh tế và dân số thì nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo
đƣợc trên đất liền đang ngày một cạn kiệt. Chính vì thế đặt ra một thực tế là các
quốc gia có biển đều có chiến lƣợAc phát triển hƣớng ra biển. Nhiều nhà kinh tế đã
cho rằng “ nền kinh tế tƣơng lai của loài ngƣời trƣớc hết là nền kinh tế gắn liền với
biển”, “ thế kỉ XXI là thế kỉ vƣơn ra biển”. Chính vì thế mà ngày nay, hầu nhƣ tất cả
các quốc gia có biển( kể cả các quốc gia không có biển) cũng đều chú ý đến việc
nghiên cứu khai thác nguồn lợi từ biển trong quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc. Với diện tích hơn 3,4 triệu km2, Biển Đông là một bộ phận nhỏ của Thái Bình
Dƣơng nhƣng lại có vị trí chiến lƣợc quan trọng, là nơi giao thƣơng của những
đƣờng giao thông huyết mạch đối với nhiều nƣớc, nối liền khu vực Đông Bắc Á với
Tây Thái Bình Dƣơng, Ấn Độ Dƣơng là vùng vịnh qua eo MaLacca. Biển Đông là
nơi có nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng.
Việt Nam có chủ quyền biển Đông theo công ƣớc quốc tế, với diện tích vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2( rộng gấp 3 lần diện tích đất liền), đƣờng bờ biển dài
3260 km. Chúng ta có những ƣu thế và vị trí chiến lƣợc đặc biệt quan trọng đối với
khu vực và trên thế giới. Việt Nam có một nguồn tài nguyên biển phong phú và đa
dạng, đây chính là một điều kiện vô cùng quan trọng và thuận lợi để thúc đẩy kinh
tế phát triển, mở ra cơ hội giao thƣơng với thế giới. Từ đó góp phần đắc lực phục vụ
1
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nƣớc. Chiến lƣợc kinh tế biển của
Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối
đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, vùng ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo
thế và lực để phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của
Tổ quốc. Để đạt đƣợc mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là
xây dựng cơ cấu kinh tế vùng hƣớng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế
vùng ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Từ lợi thế về
vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng. Ngày 6/5/1993, Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03 –NQ/TW về một số nhiệm
vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trƣớc mắt. Trong đó khẳng định đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cƣờng khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi
ích quốc gia. Ngày 22/9/1997, thì Bộ Chính Trị đã ban hành chỉ thị số 20 – CT/TW
về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hƣớng CNH, HĐH. Từ quan điểm chỉ đạo
trên, tại Hội nghị lần thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã thông qua
Nghị quyết về chiến lƣợc kinh tế biển Việt Nam đến năm 2020. Thực hiện theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong hơn 20 năm đổi mới và mở cửa. Việt Nam đã và
đang ngày càng chủ động trong khai thác tiềm năng biển, sử dụng các nguồn lực
biển phục vụ tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế.
Đƣợc coi nhƣlà một trong những mắt xích quan trọng của hệ thống biển đảo
Việt Nam, Nam Định là một trong những tỉnh thành có tiềm năng lớn về lĩnh vực
phát triển kinh tế biển. Những năm gần đây, tỉnh Nam Định xác định việc phát triển
các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, khu sinh thái du lịch và nghỉ dƣỡng... là
hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển của địa phƣơng.Để thực hiện
mục tiêu đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch vùng kinh tế biển và phát
triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển. Phát triển
kinh tế biển đƣợc coi là “bệ phóng” cho mọi nền kinh tế, tập trung vào phát triển
kinh tế biển góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh Nam Định nói riêng, cũng nhƣ
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nƣớc nói chung. Tuy nhiên, hiện nay việc
khai thác nguồn tài nguyên và lợi thế từ biển ở Nam Định mới chỉ dừng lại ở việc
2
khai thác tiềm năng, chứ chƣa có nhiều biện pháp hƣớng đến việc bảo tồn, phát
triển cho tƣơng lai theo hƣớng bền vững. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Phát triển
kinh tế biển ở Nam Định” với mục đích góp phần tạo ra những căn cứ khoa học
cho việc hoạch định các chủ trƣơng, chính sách phát triển, các kế hoạch đầu tƣ và
hợp tác, đồng thời đón nhận cơ hội đẩy nhanh quá trình phát triển, từng bƣớc đƣa
Nam Định trở thành một tỉnh mạnh về biển, xứng với những tiềm năng lớn của
nguồn tài nguyên này mà tỉnh có.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn về biển và phát triển kinh tế biển
của một số nƣớc trên thế giới và một số vùng của Việt Nam vào việc phân tích tiềm
năng và thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định. Từ đó đƣa ra phƣơng
pháp và giải pháp khả thi nhằm phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định theo
hƣớng bền vững.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái quát những lý luận cơ bản về kinh tế biển và những nhân tố
ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tế biển.
- Thu thập thông tin, số liệu, tƣ liệu khảo sát thực tế làm cơ sở để phân tích,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Địnhtrong giai đoạn từ năm
2000 đến nay.
- Căn cứ vào hiện trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định( thành quả và
hạn chế) để đƣa ra những định hƣớng nhằm phát triển kinh tế biển của tỉnh
trongtƣơng lai, đồng thời đƣa ra những giải pháp phát triển kinh tế biển một cách
hiệu quả và bền vững.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào các hoạt động phát triển kinh tế biển của
Nam Định trong một số ngành nhƣ: ngành thuỷ hải sản, du lịch biển, giao thông
vận tải biển, công nghiệp gắn với biển, …theo hƣớng bền vững, để từ đó làm rõ
3
những thành tựu và hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới. Trên cơ sở những
nhận thức đã có chỉ ra đƣợc định hƣớng và các giải pháp cơ bản cho quá trình phát
triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu kinh tế biển trong khuôn khổ vùng
biển tỉnh Nam Định. Để đảm bảo tính khoa học, chính xác của nhiệm vụ này, tác
giả giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào tình hình phát triển kinh tế biển ở
một số địa bàn nhƣ: Nghĩa Hƣng, Hải Hậu và Giao Thủy trong khoảng thời gian từ
2000 đến nay.
- Về thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung
nghiên cứu kinh tế biển tỉnh Nam Định trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, đƣờng lối, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng cùng những bài viết tổng kết về sự phát triển kinh tế biển Việt Nam của
các nhà quản lý, các học giả và một số công trình nghiên cứu khoa học khác.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp luận chung:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4.2.2. Các phương pháp cụ thể:
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mac – Lê Nin nhƣ:
- Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học.
- Phƣơng pháp logic kết hợp với phƣơng pháp lịch sử
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.
- Phƣơng pháp so sánh.
- Phƣơng pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu, lập các bảng biểu…
4
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Đề tài luận văn đã góp phần làm rõ hơn lý luận về kinh tế biển cũng nhƣ
vai trò của nó trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và tromg nền kinh tế tỉnh Nam
Định nói riêng.
- Luận văn đã đánh giá khách quan những mặt mạnh, thành quả đạt đƣợc và
những mặt còn yếu, hạn chế của kinh tế biển ở Nam Định. Từ đó tìm ra nguyên
nhân và đề xuất những giải pháp giàu tính khả thi để góp phần phát triển kinh tế
biển nói riêng và kinh tế nói chung cho tỉnh Nam Định.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung của luận văn gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận chung về phát
triển kinh tế biển.
Chƣơng 2: Phương pháp nghiên cứu
Chƣơng 3:. Thực trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định giai đoạn từ
năm 2000 cho đến nay và những vấn đề đặt ra.
Chƣơng 4: Phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam
5
Định thời gian tới.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trên cơ sở định hƣớng, chỉ đạo của Đảng và chính phủ về vấn đề biển đảo,
nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu sâu về kinh tế biển
với mục đích đề ra các giải pháp hiệu quả nhất cho việc phát triển chiến lƣợc biển
trong tƣơng lai.
Trƣớc hết, vấn đề kinh tế biển đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm. Để
tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần thứ tƣ Ban
chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa X) đã thông Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09
tháng 02 năm 2007 “Về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn
mạnh “Thế kỷ XXI đƣợc thế giới xem là thế kỷ của đại dƣơng”. Nghị quyết đã xác
định các quan điểm chỉ đạo về định hƣớng chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020,
đó là : Nƣớc ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở
phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ
cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với
tầm nhìn dài hạn. Trong đó cónhiều cơ quan, tổ chức đã cùng phối hợp, chủ trì các
hội thảo khoa học lớn nhƣ: “Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam”
đƣợc tổ chức ngày 11 tháng 02 năm 2007. Tại hội thảo, có nhiều bản tham luận cho
thấy một thực tế là, mặc dù thời gian vừa qua nƣớc ta đã chú trọng khai thác tiềm
năng biển, sử dụng các nguồn lực biển phục vụ tích cực cho công cuộc phát triển
kinh tế; khai thác dầu khí, thủy sản, du lịch, cảng biển,... trở thành những ngành
kinh tế quan trọng, có sức tăng trƣởng mạnh, tuy nhiên hiệu quả thu đƣợc từ trong
việc phát triển kinh tế nhờ lợi thế của biển vẫn chƣa thực sự đúng với tiềm năng
kinh tế vốn có của nó. Chính vì vậy cần phải xây dựng tầm nhìn chiến lƣợc đối với
6
việc phát triển thủy sản và kinh tế biển Việt Nam trong giai đoạn tới.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định đã
phối hợp tổ chức hội thảo khoa học “Khai thác tiềm năng biển, đảo vì sự phát triển
bền vững của Nam Định và miền Bắc”. Hội thảo đã đề cập và thảo luận nhiều vấn
đề liên quan đến biển đảo.Trong đó tập trung đi vào trả lờimột số câu hỏi liên quan
đến việc, tại sao Việt Nam đƣợc đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn về kinh tế
biển, đảo nhƣng lại chƣa phát huy đƣợc một cách có hiệu quả? Vậy tiềm năng của
biển, đảo lớn đến đâu? Nguyên nhân nào mà chúng ta lại chƣa khai thác tốt đƣợc
tiềm năng này để phát triển nhanh và bền vững? Nhân tố nào đã tác động và chi
phối tới quá trình khai thác tiềm năng biển, đảo? Liệu truyền thống văn hóa biển
của miền Bắc nói chung có ảnh hƣởng tới xu hƣớng tiến ra biển, lấy kinh tế biển
làm trụ cột chính cho việc thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho miền Bắc
không? Để làm rõ những vấn đề trên, thì nhiều bài viết tại hội thảo đã tập trung vào
làm rõ hai nhóm vấn đề chính.
Thứ nhất, đó là những vấn đề liên quan đến các nhân tố ảnh hƣớng tới khai
thác tiềm năng, lợi thế biển, đảo nhƣ vai trò của hệ sinh thái đối với sự phát triển
bền vững của vùng; lợi thế và tiềm năng tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên và
môi trƣờng sinh thái biển, hải đảo cho sự phát triển bền vững; bàn về vị trí và những
nhân tố tác động đến sự phát triển bền vững của khu vực Bắc bộ Việt Nam.
Thứ hai, nhóm các vấn đề liên quan đến việc xem xét, đánh giá thực trạng
khai thác tiềm năng, lợi thế, định hƣớng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội biển,
đảo trên một số địa bàn nhƣ Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định…..Các
giải pháp đã tập trung vào phát triển du lịch, cảng biển, khai thác, nuôi trồng, chế
biển thủy sản, sản xuất kinh doanh dựa vào lợi thế biển, đảm bảo an ninh quốc
phòng và an toàn cho ngƣ dân vùng biển.
PGD. TS. Chu Đức Dũng với Đề tài cấp Nhà nƣớc “ Chiến lƣợc phát triển
kinh tế biển Đông của một số nƣớc Đông Á – Tác động những vấn đề đặt ra cho
Việt Nam” (Chu Đức Dũng, 2011). Trong đề tài này, tác giả đã trình bày một cách
toàn diện những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn về quản lý và phát triển kinh tế
7
biển. Một thành công lớn của đề tài làtác giả đã nêu lên một số quan điểm khá mới
mẻ về kinh tế biển nhƣ: Quản lý tổng hợp biển, phát triển trung tâm kinh tế biển,
phát triển kinh tế biển trong mối quan hệ chặt chẽ với biến đổi khí hậu, môi trƣờng
và phát triển bền vững. Tác giả đã nghiên cứu kỹ lƣỡng và sâu sắc kinh nghiệm phát
triển kinh tế biển của một số nƣớc Đông Á, điển hình là Trung Quốc và các nƣớc
Đông Nam Á, từ đó rút ra một số vấn đề chung có tính quy luật và có những gợi ý
chính sách cụ thể đối với phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
PGS. TS. Bùi Tất Thắng, đã có nhiều bài viết về kinh tế biển. Trong bài viết
“Tầm nhìn kinh tế hải đảo: Bài học và cơ hội của Việt Nam” (Bùi Tất Thắng, Báo
Diễn đàn đầu tƣ, ngày 15/10/2012), PGS. TS. Bùi Tất Thắng đã luận giải một cách
khoa học về chiến lƣợc chính sách phát triển biển của Việt Nam đến năm 2020.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, trƣớc mắt cần chủ trƣơng tập trung xây
dựng mộtsố đảo có điều kiện thuận lợi và nhiều tiềm năng, từ đó tạo sự bứt phá cho
kinh tế biển, đảo, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn phù hợp với lợi thế của
vùng đảo nhƣ du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản,..nâng cao mức
đóng góp của kinh tế đảo trong kinh tế cả nƣớc. Các lĩnh vực trọng yếu cần ƣu tiên
trƣớc hết gồm: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kiên cố và hiện đại trên các đảo,
coi đây là khâu đột phá chính để thu hút đầu tƣ và khuyến khích nhân dân ra định
cƣ và lao động dài ngày trên các đảo và vùng biển quanh đảo; Phát triển một số
ngành/sản phẩm chủ lực, có lợi thế của kinh tế biển, bao gồm: Đánh bắt và chế biến
hải sản, du lịch biển, đảo, các ngành dịch vụ biển, đảo, phát triển các ngành/sản
phẩm kinh tế khai thác; Phát triển các lĩnh vực giáo dục, xã hội; Bảo vệ môi trƣờng,
phát triển bền vững, nghiên cứu khoa học – công nghệ biển; Tập trung xây dựng
một số đảo trọng điểm về kinh tế, trƣớc mắt là phát triển du lịch tạo sự bứt phá về
phát triển kinh tế biển, đảo trong thời gian tới thành các đảo có tầm cỡ khu vực và
quốc tế.
PGS.TS Trần Đình Thiên, trong bài viết “Về chiến lƣợc kinh tế biển của Việt
Nam” đã nêu rõ, đã đến lúc cần có những đột phá mới trong tƣ duy và chiến lƣợc
8
quản lý để phát triển kinh tế biển. Phải chuyển nhanh từ phƣơng thức “mò cua bắt
ốc” sang phƣơng thức kết hợp: khai thác mặt tiền + tự do hoá. Bên cạnh đó, còn có
nhiều thông tin, bài viết đƣợc đề cập đến phát triển kinh tế biển nhƣ:
- Luận án Tiến sỹ của Lại Lâm Anh về quản lý kinh tế biển: kinh nghiệm quốc tế và
vận dụng vào Việt Nam
- Ban tuyên giáo trung ƣơng: 100 câu hỏi – đáp về biển đảo
- Ban Tuyên giáo Trung ƣơng (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam". Tuy nhiên
những nghiên cứu về chính sách phát triển kinh tế biển vẫn chƣa thỏa mãn với yêu
cầu phát triển. Hầu hết các công bố hay đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến
vấn đề này đang chỉ là những phác thảo một mặt nào đó về tiềm năng lợi thế vùng
biển, ven biển và tình hình khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển hiện
nay, đề xuất một số định hƣớng về cơ chế chính sách phát triển kinh tế biển trong
những năm tới.
Trong thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 05 tháng 09 năm
2007 về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020, tỉnh Nam Định đã xây dựng cho
mình qua các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh, các văn bản quy hoạch, chƣơng
trình phát triển kinh tế xã hội nói chung, kinh tế biển nói riêng. Đồng thời tỉnh cũng
đã ban hành nhiều chủ trƣơng, chính sách để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên để
có tính toàn diện, hệ thống cho phát triển kinh tế biển thì cần có những nghiên cứu
tổng thể mới đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, nhiều vấn đề
đƣợc đặt ra nhƣ: Tiềm năng biển và ven biển, các nguồn lực có lợi thếđể phát triển
kinh tế biển Nam Định là những gì? Điều kiện huy động các nguồn lực phát triển
kinh tế biển nhƣ thế nào? Những chính sách chủ yếu nào để khai thác tiềm năng, lợi
thế phát triển kinh tế biển của Nam Định? Những thành tựu, hạn chế và các giải
pháp chính sách cần đƣa ra? Kinh tế biển tỉnh Nam Định đóng một vai trò quan
trọng trong định hƣớng phát triển Nam Định thành trung tâm kinh tế - văn hoá của
vùng Nam đồng bằng Bắc Bộ.Do đó việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển tỉnh
Nam Định là cần thiết và phục vụ yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là trong điều kiện hội
9
nhập và phát triển kinh tế hiện nay.
Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã phác họa một cách khá rõ nét về
hiện trạng phát triển kinh tế biển ở Việt Nam hiện nay, tuy nhiên vấn đề phát triển
bền vững kinh tế biển thì vẫn còn ít công trình khoa học đề cập và chƣa có hệ thống.
Mặt khác chƣa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu phát triển kinh biển
theo hƣớng bền vững cho Nam Định dƣới góc độ của kinh tế chính trị. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng lặp với các công trình đã công bố.
1.2. Cơ sở lí luận phát triển kinh tế biển trên địa bàn tỉnh Nam Định
1.2.1. Quan niệm về kinh tế biển
1.2.1.1. Kinh tế biển là gì?
Trong xu hƣớng vận động, phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay, biển
đang là một mục tiêu mà nhiều quốc gia hƣớng tới. Với một thực tế là, các nguồn tài
nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống đã trở nên
bó hẹp, lạc hậu và không còn phù hợp nữa, nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lƣợc quay
ra biển và định hình các phƣơng án để tiến hành chiếm lĩnh biển khơi, từ đó đi vào
khai thác các nguồn lợi từ biển và hải đảo. Đồng thời biến đó thành các lãnh địa,
thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu,
năng lƣợng, thực phẩm và không gian sinh tồn của quốc gia mình trong tƣơng lai.
Chính vì thế, mà nhiều nhà chiến lƣợc kinh tế đã đánh giá thế kỉ XXI là “thế kỉ của
biển và Đại dƣơng”.
Đáp ứng xu thế chung của thời đại, với việc phê chuẩn công ƣớc của Liên Hợp
Quốc về luật biển 1982, Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết
tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích
sự phát triển và cung nhau hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8 năm 1977, Hội thảo
khoa học về biển lần thứ nhất đƣợc tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ phƣơng hƣớng
chiến lƣợc xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế biển. Trong
những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có một số Nghị quyết, chính
sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị quyết số
03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh
10
tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia” - trong đó nhấn
mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng sinh thái biển, phấn đấu trở thành
một quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển vào những năm 2020; Ngày
22/9/1997, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển
kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” chủ trƣơng phát triển đất
nƣớc thành một quốc gia mạnh lên từ biển, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia ...
Trên cơ sở của những phân tích đã có, cùng với sự tiếp thu có chọn lọc, tác giả
xin đề xuất quan niệm về kinh tế biển nhƣ sau:
“Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở
đất liền, có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ
biển.”
1.2.1.2. Cơ cấu kinh tế biển
Theo Quy đinh tại điều 43, chƣơng IV – Phát triển kinh tế biển trong “Chiến
lược biển Việt Nam”đã xác định rõ các ngành cụ thể trong cơ cấu kinh tế biển là:
“1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng
sản biển;
2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và
các dịch vụ hàng hải khác;
3. Du lịch biển và kinh tế đảo;
4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;
5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai
thác và phát triển kinh tế biển;
6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.”
Dựa trên nội dung của quy định này và căn cứ theo quan niệm về kinh tế
biển đã có, chúng ta có thể thấy rằng kinh tế biển là một ngành kinh tế đa dạng và
phong phú, bao gồm trong nó là một hệ thống các ngành kinh tế riêng lẻ có mối
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến biển. Trong hệ thống kinh tế đặc trƣng đó bao
11
gồm những nhóm ngành cơ bản sau:
* Nhóm ngành công nghiệp biển: Nhóm ngành công nghiệp biển là các ngành
công nghiệp có liên quan mật thiết đến biển nhƣ: Công nghiệp sửa chữa đóng mới tàu
biển, công nghiệp chế biến hải sản, công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí…
*Nhóm ngành nông - lâm – ngư nghiệp biển: bao gồm các ngành kinh tế
đánh bắt, nuôi trồng thủy hái sản, làm muối, trồng và khai thác tài nguyên rừng
ngập mặn…
*Nhóm ngành dịch vụ biển:bao gồm các ngành nhƣ dịch vụ cảng biển (giao thông
vận tải biển, du lịch biển đảo, dịch vụ tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học biển…
Việc phân chia các ngành kinh tế biển nhƣ trên, về cơ bản chỉ mang tính
tƣơng đối và giúp ích cho công tác thống kê số liệu một cách tƣờng minh khoa học.
Còn về bản chất thì các ngành này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và khó phân
biệt một cách rạch ròi. Chính vì vậy trong quá trình nghiên cứu về kinh tế biển một
mặt chúng ta xét các ngành với tƣ cách là các ngành, nhóm ngành độc lập, bên cạnh
đó lại phải xem xét chúng trong một mối quan hệ biện chứng của các thành tố trong
một chỉnh thể thống nhất có mối liên hệ mật thiết ràng buộc lẫn nhau.
1.2.2. Vai trò của kinh tế biển
Với việc quan niệm kinh tế biển nhƣ trên, kinh tế biển sẽ có một vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia nói chung và cho các địa phƣơng
nói riêng (trong đó có tỉnh Nam Định).
1.2.2.1. Kinh tế biển là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế
quốc dân và đồng thời là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
Thực hiện chủ trƣơng phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nƣớc, từ năm
1986 trở lại đây, cùng với việc đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa đất nƣớc, các
lĩnh vực kinh tế biển cũng đã đƣợc tăng cƣờng và có những kết quả rất đáng khích
lệ. So với thời kỳ trƣớc, kinh tế biển của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đã có
bƣớc chuyển biến đáng kể. Kinh tế biển đã và đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng
góp phần cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế của cả nƣớc. Quy mô kinh tế biển và
vùng ven biển đang có xu hƣớng tăng lên, cơ cấu ngành, nghề có thay đổi cùng với
12
sự xuất hiện ngành kinh tế mới nhƣ khai thác dầu khí, tìm kiếm cứu hộ cứu
nạn…Năm 2000, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển bằng 47 % GDP cả nƣớc.
Năm 2005, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển bằng 48% GDP cả nƣớc, trong
đó, GDP của kinh tế biển chiếm khoảng gần 22% tổng GDP cả nƣớc. Hiện nay con
số này đã đạt ngƣỡng 50% tổng GDP cả nƣớc. Trong các ngành kinh tế biển, đóng
góp của ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, trong đó khai thác dầu khí
chiếm 67%; hải sản 14%; hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) hơn 11%; du
lịch biển hơn 9% (số liệu 2005) [2, tr.46]. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp
tới khai thác biển nhƣ đóng tàu, sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thuỷ
sản, hải sản, thông tin liên lạc…đã bƣớc đầu phát triển, nhƣng hiện tại thì quy mô
vẫn còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nƣớc).
Công nghiệp tàu biển: Trình độ, năng lực đóng, sửa chữa tàu so với trƣớc đây đã có
tiến bộ vƣợt bậc, hiện đại hoá một bƣớc theo hƣớng tập trung quy mô lớn, bƣớc đầu
có phân công chuyên môn hoá, vƣơn ra đóng tàu cỡ lớn, chuyên dùng đạt chất
lƣợng đăng kiểm quốc tế. Cơ cấu ngành nghề đang từng bƣớc có sự thay đổi lớn.
Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với
công nghệ - kỹ thuật hiện đại, ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo
theo sự phát triển của một số ngành khác nhƣ công nghiệp hoá dầu, giao thông vận
tải biển, đánh bắt xa bờ, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn...thƣơng
mại trong nƣớc và khu vực. Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan
trọng cho sự phát triển của đất nƣớc, nhất là cho xuất khẩu (dầu khí, hải sản...). Tính
đến hết năm 2010, lƣợng dầu thô xuất khẩu của nƣớc ta đạt gần 8 triệu tấn và kim
ngạch đạt 4,96 tỷ USD. Sang năm 2011 lƣợng dầu thô xuất khẩu đạt 8,24 triệu tấn,
tăng 3,3% và trị giá đạt 7,24 tỷ USD, tăng 46,1% so với năm 2010. Đơn giá xuất
khẩu bình quân đạt 879 USD/tấn (khoảng 115 USD/thùng), tăng 41,4% so với năm
trƣớc…Kinh tế biển đã đƣợc Đảng, Nhà nƣớc chú ý hơn và các công việc về biển
đã đƣợc tổ chức thực hiện nhiều hơn (hoạch định biên giới trên biển, ban hành
khung luật pháp, phát triển các hải đảo kết hợp bảo vệ quốc phòng, an ninh trên
13
biển).
1.2.2.2. “Mở rộng” kinh tế biển là đòn bẩy để khai thác các tiềm năng tự
nhiên phục vụ cho quá trình phát triển ngành và kinh tế quốc gia.
Việt Nam nằm ở rìa Biển Đông, vùng biển đƣợc đánh giá là có vị trí địa kinh
tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến
lƣợc phát triển không chỉ của các nƣớc xung quanh Biển Đông mà còn của một số
cƣờng quốc hàng hải khác trên thế giới. Ngoài ra, vùng biển Việt Nam còn có
nguồn tài nguyên phong phú và có tiềm năng lớn cho các ngành kinh tế phát triển.
Nƣớc Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn, quan trọng
của khu vực và thế giới. Theo Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982
thì Việt Nam hiện nay không chỉ có phần lục địa tƣơng đối nhỏ hẹp “hình chữ S” mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền.
Dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ
ra biển. Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, đƣợc phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với
những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lƣợc nhƣ Bạch Long Vĩ, Phú quốc,
Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trƣờng Sa...
Trong số các nguồn tài nguyên biển, trƣớc tiên phải kể đến dầu khí, một
nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ƣu thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Và thực tế
là dầu khí đã và đang có những tác động vô cùng mạnh mẽ đối với nền kinh tế của nƣớc ta. Trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt Nam, có tới 500.000 km2
nằm trong vùng triển vọng có dầu khí.
Trữ lƣợng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ
lƣợng dầu dƣới đáy Biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40.000 thùng/ngày (mỗi
thùng 159 lít), khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lƣợng dầu khí dự báo của toàn thềm
lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn quy dầu. Mặc dù so với nhiều nƣớc, nguồn tài
nguyên dầu khí chƣa phải là thật lớn, song đối với nƣớc ta nó có vị trí rất quan
14
trọng, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lƣợng khoảng 3.000 tỉ m3/năm.
Ngoài dầu và khí, dƣới đáy biển nƣớc ta còn có nhiều khoáng sản quý nhƣ:
thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nƣớc biển bình quân 3.500gr/m2. Vùng ven biển nƣớc ta
cũng có nhiều loại khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế nhƣ: than,
sắt, ti-tan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nƣớc ta đƣợc đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá
trị kinh tế cao với tổng trữ lƣợng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép
khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng,
trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi.Ngoài
cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao nhƣ
tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển…
Dọc ven biển có trên 370.000 ha mặt nƣớc các loại có khả năng nuôi trồng
thuỷ sản nƣớc mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu nhƣ tôm, cua, bống
bớp, rau câu… Riêng diện tích nuôi tôm nƣớc lợ có tới 300.000ha. Ngoài ra còn
hơn 500.000 ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ nhƣ vịnh Hạ Long, Bái Tử
Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trƣờng rất thuận lợi để phát triển
nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tƣơng lai có thể phát triển mạnh
ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản
lƣợng hàng chục vạn tấn/ năm.
Việt Nam cũng là quốc gia có bờ biển dài hơn 3.260km, nằm trong số 10
nƣớc trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ (không kể một số đảo). Tính bình quân cứ 100 km2 đất liền nƣớc ta có 1 km bờ
biển, con số này cao gấp sáu lần chỉ số trung bình của thế giới, đồng thời bờ biển lại
mở ra cả ba hƣớng Đông, Nam và Tây Nam, rất thuận lợi cho việc giao lƣu, thông
thƣơng với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Dọc theo bờ biển nƣớc ta có hơn 100
địa điểm có thể xây dựng hải cảng, trong đó một số nơi có thể xây dựng cảng nƣớc
sâu, quy mô tƣơng đối lớn (kể cả cảng trung chuyển quốc tế) nhƣ: Cảng Cái Lân và
15
một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La - Vũng
Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị
Vải...Riêng khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít
có khả năng xây dựng cảng biển lớn, nhƣng vẫn có thể xây dựng cảng quy mô vừa
ở Hòn Chông, Phú Quốc hoặc cảng sông Cần Thơ. Khả năng phát triển cảng và vận
tải biển là yếu tố trội cơ bản, là nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh tế biển
theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tài nguyên du lịch biển cũng là một ƣu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai
thác tổng hợp để phát triển mạnh. Dọc bờ biển Việt Nam có hàng trăm bãi tắm,
trong đó có rất nhiều bãi tắm đẹp, nƣớc biển trong xanh, cát trắng phẳng lì, có
những bãi tắm có chiều dài lên đến 15- 18km và nhiều bãi tắm có chiều dài 1-2km
đủ điều kiện thuận lợi khai thác phát triển du lịch biển. Các bãi biển của nƣớc ta
phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt các bãi
tắm đẹp nhƣ Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Lăng Cô, Mỹ Khê, Đại Lãnh,
Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên…
Chúng ta không chỉ có bờ biển dài mà còn có hệ thống đảo và quần đảo
phong phú, trải dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Theo thống kê, ven bờ nƣớc ta có 2.773 đảo lớn, nhỏ các loại với tổng diện tích vào khoảng 1.700 km2. Trong đó có 24 đảo có diện tích tƣơng đối lớn (trên 10km2), 82 đảo có diện tích lớn hơn 1km2 và khoảng 1.400 đảo chƣa có tên. Đặc biệt có ba đảo có diện tích trên 100km2 là Phú Quốc, Cái Bầu và Cát Bà.
Trên cơ sở của những tiềm năng mà thiên nhiên ban tặng, việc mở rộng và
phát triển quy mô các ngành kinh tế biển đã giúp chúng ta phát huy đƣợc những thế
mạnh của mình so với các quốc gia khác. Phát triển kinh tế biển sẽ khai thác đƣợc
nhiều nguồn lợi từ thiên nhiên cụ thể là:
* Khai thác và nuôi trồng thuỷ, hải sản: Đây là nghề biển truyền thống có
thế mạnh của nƣớc ta, với vùng biển có nguồn sinh vật đa dạng, phong phú, hàng
năm có thể khai thác 1,5 - 1,67 triệu tấn, đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5
vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá [2, tr.228]. Số
16
lƣợng tàu tăng liên tục qua các năm. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản cho thấy,
2002, toàn ngành đánh bắt hải sản có khoảng 81.800 tàu, thuyền với tổng công suất
4,038 triệu CV, bình quân 49 CV/tàu, tăng 1.904 tàu so với năm 2001. Trong đó, cả
nƣớc có 6.675 tàu khai thác hải sản xa bờ, tăng 75 tàu so với năm 2001. Và tính đến
năm 2011 chúng ta có 130.000 tàu với công suất 7 triệu mã lực (CV). Chỉ tính riêng
năm 2012 tổng sản lƣợng thuỷ sản đạt 5,96 triệu tấn, tăng 7,9% so với năm 2011 và
tăng 2,9% so với kế hoạch. Tổng sản lƣợng khai thác thủy sản đạt hơn 2,65 triệu tấn
(tăng 6,0% so với cùng kỳ), trong đó, khai thác hải sản đạt 2,44 triệu tấn, tăng gần
6,1% so với năm 2011.
Cùng với đó, những năm qua, nghề nuôi trồng thủy hải sản Việt Nam cũng
có sự tăng trƣởng rất mạnh, thể hiện diện tích nuôi trồng hải sản năm 2012 tăng lên
115,4 % so với năm 2011. Nghề nuôi trồng hải sản đã có bƣớc phát triển khá, tăng
nhanh cả diện tích nuôi trồng lẫn sản lƣợng, ở cả 3 vùng nƣớc lợ, mặn, ngọt ven
biển (sản lƣợng nuôi trồng đã tăng 16%/năm). Nuôi trồng hải sản đã góp phần đáng
kể vào chuyển đổi mạnh trong cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển; chất lƣợng và giá
trị của sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ngày càng cao, nhất là tôm, đảm bảo
an ninh thực phẩm, đáp ứng nguyên liệu cho chế biến. Với những điều kiện khách
quan và chủ quan mới đầy thách thức, ngƣ dân đã không chỉ nuôi trồng thuỷ sản
trên đất liền mà còn mở rộng nuôi trồng thuỷ sản trên biển. Chỉ tính riêng hình thức
nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2001- 2004, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã
tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2001, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 23.989 chiếc, đến
năm 2004 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng lên 38.965 lồng, trong đó
nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là 8.850 lồng. Sản lƣợng nuôi lồng bè nƣớc
mặn năm 2001 đạt 2.635 tấn, năm 2004 đạt hơn 10.000 tấn .Thuỷ sản nuôi trên biển
có chất lƣợng và giá trị hàng hoá cao, có thị trƣờng tiêu thụ rộng mở, đƣợc khách
hàng thế giới ƣa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển đóng góp quan trọng cho xuất
khẩu. Nuôi trồng thuỷ sản biển còn giúp ngƣời dân có điều kiện tăng thu nhập, xoá
đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải
đảo. Từ đó là nhân tố đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
17
chung của đất nƣớc.
*Công nghiệp chế biến hải sản, đặc biệt chế biến xuất khẩu trong những năm
qua đã đƣợc chú trọng đầu tƣ hơn, do vậy đã làm tốt vai trò mở đƣờng và cầu nối,
tạo thị trƣờng để nuôi trồng khai thác thủy hải sản phát triển. Đến nay, ở nƣớc ta đã
có 390 nhà máy chế biến thuỷ hải sản, trong đó có hàng trăm nhà máy đƣợc công
nhận đạt tiêu chuẩn, và 60% cơ sở chế biến đƣợc công nhận tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm của ngành. Năm 2012, xuất khẩu thủy sản đạt trên 6 tỷ USD, gấp
11,7 lần năm 1998.
* Công nghiệp đóng tàu và các ngành công nghiệp phụ trợ: Vai trò của phát
triển kinh tế biển trong phát triển công nghiệp phụ trợ thể hiện rõ nhất là phát triển
ngành giao thông vận tải. Phát triển giao thông vận tải biển sẽ mang lại những lợi
ích nhƣ: phát triển giao thông vận tải biển giúp nối liền với nhiều quốc gia và có chi
phí vận tải thấp nhất nhƣng lại có thể đáp ứng khối lƣợng vận tải lớn nhất. Nhƣ vậy
chính sự phát triển của vận tải biển đã thúc đẩy thƣơng mại giữa các quốc gia và
vùng lãnh thổ ngày càng trở lên chiếm ƣu thế trong toàn ngành. Phát triển vận tải
biển thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động lực thúc đẩy phát triển cả
quá trình kinh tế.Vận tải bằng đƣờng biển hầu nhƣ không phải làm đƣờng mà chỉ
xây dựng cảng và mua sắm phƣơng tiện vận tải và trang bị hệ thống nhà xƣởng kho
bãi để lƣu trữ hàng hóa.
Song song cùng nhiệm vụ phát triển công nghiệp đóng tàu, ngành vận tải
biển còn thúc đẩy việc xây dựng hàng loạt cảng biển. Vì thế số lƣợng cảng ngày
càng tăng. Tính đến cuối năm 1995 nƣớc ta chỉ có hơn 70 bến cảng biển, và con số
này năm 2005 là 126 thì đến nay Việt Nam đã có 30 cảng biển hoạt động với 166
bến cảng, 350 cầu cảng với tổng chiều dài 45.000m, trải dài từ bắc chí nam gồm 6
nhóm: 1) nhóm cảng biển phía bắc (cảng Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Hòn Gai,
v.v.); 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ (các cảng quan trọng là Nghi Sơn, Vũng
Áng); 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm
các cảng chính Hòn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất); 4) nhóm cảng biển Nam
Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha Trang, tƣơng lai
18
là Vân Phong); 5) Nhóm cảng vùng Đông nam Bộ (cảng Sài Gòn, Vũng Tàu - Thị
Vải và cảng Cái mép đang xây dựng) và 6) nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long,
có 4 cảng có công suất trên 10 triệu tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu
tấn/năm, còn lại đều là cảng quy mô nhỏ, khả năng neo đậu đƣợc tàu 3.000 tấn trở
xuống. Khối lƣợng hàng hoá qua cảng tăng nhanh, năm 1991 là 17,9 triệu tấn; năm
1995 tổng năng lực thông qua là 52,40 triệu tấn/năm; năm 1999 đạt 63 triệu tấn và
đến hết năm 2012, tổng công suất qua cảng của Việt Nam hơn 68 triệu tấn/năm, tốc
độ tăng bình quân 17%/năm. Bƣớc đầu hiện đại hoá phƣơng tiện xếp dỡ, qui hoạch
và sắp xếp lại kho bãi, xây dựng và nâng cấp thêm các cầu cảng nên năng lực xếp
dỡ đƣợc nâng cao, giải phóng tàu nhanh. Một số cảng đã và đang đƣợc nâng cấp và
mở rộng nhƣ Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần
Thơ. So với nhiều nƣớc trên thế giới thì nhìn chung quy mô cảng còn nhỏ nhƣng
thời gian qua hệ thống cảng biển Việt Nam đã đảm nhiệm thông qua hầu hết lƣợng
hàng ngoại thƣơng của ta và hỗ trợ một phần việc trung chuyển hàng hoá xuất nhập
khẩu của Lào, góp phần đƣa nƣớc ta từng bƣớc tiếp cận và hội nhập với khu vực và
thế giới. Hơn 80% khối lƣợng hàng xuất nhập khẩu đƣợc vận chuyển thông qua hệ
thống cảng biển. Hệ thống cảng biển phát triển, đẩy nhanh sự phát triển giao thông
vận tải biển. Đó là minh chứng rõ rệt việc kinh tế biển khai thác vị trí ven biển
thuận lợi của nƣớc ta.
* Nghề làm muối: Nƣớc ta với lợi thếđƣờng bờ biển dài 3.260 km, đã có 20
tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích 15.000 ha . Đã sản xuất
đƣợc bình quân 800 ngàn tấn đến 1,2 triệu tấn/năm, tạo việc làm hơn 90 nghìn lao
động. Đóng góp giá trị tƣơng đối lớn cho nền kinh tế. Sản lƣợng muối biển của
nƣớc ta giữ đƣợc mức tăng đều qua các năm.
*Công nghiệp dầu khí: Ngành dầu khí đƣợc xác định là một trong những
ngành chủ lực của kinh tế biển, có đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân. Qua các cuộc thăm dò đã xác định tiềm năng và trữ lƣợng dầu khí của Việt
Nam khoảng 3 - 4 tỷ m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỉ m3 dầu và 2100 - 2800 tỷ
m3 khí. Năm 2003 đã thác 17,6 triệu tấn dầu thô và 2,17 tỷ m3 khí; xuất khẩu dầu
19
thô đạt 17, 143 triệu tấn.
Với mức khai thác năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí, sản
phẩm dầu thô hầu nhƣ xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,44 tỷ USD,xét
trong toàn nền kinh tế thì dầu khí là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế
biển hiện nay. Từ năm 1990 đến năm 2006, Việt Nam đã khai thác và xuất khẩu
hơn 190 triệu tấn dầu thô, doanh thu từ xuất khẩu dầu thô giai đoạn 1991- 2000 đạt
trên 11,6 tỷ USD, đóng góp quan trọng cho tăng trƣởng và phát triển kinh tế đất
nƣớc.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ dầu khí cũng từng bƣớc phát triển theo hƣớng
hiện đại. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành nhƣ: dịch
vụ căn cứ, dịch vụ tàu thuyền, dịch vụ sửa chữa thiết bị dầu khí, dịch vụ dung dịch
khoan, vật tƣ, hoá phẩm cho khoan, dịch vụ phân tích các loại mẫu, gia công chế
tạo, lắp ráp các khối chân đế giàn khoan, xây lắp và bảo dƣỡng các công trình biển,
xây lắp các đƣờng ống dẫn dầu khí; bảo hiểm dầu khí, cung cấp lao động và dịch vụ
sinh hoạt đã đƣợc xây dựng.
* Du lịch biển: Vùng biển và ven biển Việt Nam tập trung tới ba phần tƣ khu
du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch của cả nƣớc. Trong những năm gần đây, các
địa phƣơng có lợi thế biển, đặc biệt là những địa phƣơng có vùng biển đẹp đã và
đang chọn mô hình phát triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn, tăng nguồn thu,
giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế
đầu tƣ, thƣơng mại, văn hoá, xã hội cho địa phƣơng mình.
* Giá trị hệ sinh thái biển: Ngày nay, giá trị kinh tế của các hệ sinh thái đƣợc
tính là tổng số của các nguồn lợi và tài nguyên không (hoặc chƣa sử dụng) gồm: Đa
dạng sinh học, du lịch, nghỉ ngơi, khoa học, giáo dục, chức năng sinh thái - bảo vệ
và bảo tồn… Vậy chúng ta thử đặt ra 1 câu hỏi: “1 ha rừng ngập mặn có giá bao
nhiêu?” Cách đây hơn 50 năm, các chuyên gia xếp đất rừng ngập mặn thuộc dạng
đất hoang và giá trị đất đai không đáng kể. Ngày nay, chỉ với giá trị mặt bằng đã
đƣợc các chuyên gia định giá khoảng 160 - 530 USD/ha/năm. Các nguồn lợi sử
dụng và nuôi hải sản, làm du lịch… đã tăng giá của rừng ngập mặn lên khoảng 95 -
20
98 nghìn USD/ha/năm. Còn giá trị chức năng sinh thái của hệ rừng ngập mặn có thể
nói là vô giá, tác dụng của rừng ngập mặn là phòng chống giảm nhẹ thiên tai, bảo
vệ đất ven sông, ven biển và cửa sông. Bên cạnh đó rừng ngập mặn vừa ngăn chặn
có hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho trầm
tích lắng đọng giữ hoa, lá, cành rụng trên mặt bùn và phân huỷ tại chỗ nên bảo vệ
đƣợc đất, tạo nên đất bồi ven biển, mở rộng đất liền ra biển, là nơi cƣ trú các loài
chim, khỉ, cá…tạo nên hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Theo kết quả nghiên cứu
của Viện Hải dƣơng học trong dự án “Đánh giá giá trị kinh tế - sinh thái của các rạn
san hô Đông Nam Á” (Việt Nam, Philíppin, Inđônêxia); kết quả bƣớc đầu, giá trị
tính ra đô la Mỹ trên diện tích 1 km2 của hệ sinh thái san hô Hòn Mun tại vịnh Nha
Trang (Lƣu ý là chỉ tại Hòn Mun, nơi có hệ sinh thái có đa dạng sinh học san hô cao
nhất Việt Nam hiện nay là 350 loài) , giá trị do khai thác cá là 36,207 nghìn USD,
giá trị do thu từ du lịch là 15 nghìn USD, còn giá trị chức năng sinh thái, bảo vệ bờ
là 60,145 nghìn. Tổng cộng là 111,352 nghìn USD/km2 . Đây là con số gây nhiều
ấn tƣợng nhƣng cũng chỉ bằng 37,9% so với tổng thu nhập từ hệ sinh thái rạn san hô
ở Maricanban của Philíppin (đạt đến 293,796 nghìn USD). Đây là điều mà tất cả
chúng ta phải suy nghĩ. Giá trị chức năng sinh thái của các vùng biển sẽ tạo ra
nguồn thu nhập cho con ngƣời cao hơn hàng chục lần, nếu không nói đến hàng
nghìn lần, so với những gì mà ngƣời dân ven biển đang nhặt nhạnh đƣợc hàng ngày
nhƣ hiện nay. Thực tế này đặt ra yêu cầu chúng ta cần phải có những biện pháp,
chính sách phù hợp để phát triển và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên sinh thái
biển.
1.2.2.3. “Kinh tế biển” là một biện pháp huy động, sử dụng và tổ chức phát
triển nguồn nhân lực địa phương một cách có hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hóa
và khu vực hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ.
Là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế nên việc phát triển kinh
tế biển sẽ góp phần huy động, sử dụng và tổ chức phát triển tối đa nguồn nhân lực
trong nƣớc và ở địa phƣơng. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những số liệu cụ
thể nhƣ: Cả nƣớc ta có khoảng 1/3 dân số sinh sống ven biển, trong đó 40% các
21
hoạt động kinh tế liên quan đến biển. Dân cƣ ven biển đƣợc đánh giá là một tiềm
năng lao động dồi dào của đất nƣớc. Hoạt động đánh bắt thủy hải sản đã tạo việc
làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá.
Du lịch biển đã tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cƣ ven biển.
Nghề muối củng tạo việc làm hơn 90 nghìn lao động.
Quá trình phát triển kinh tế biển hiện nay đã đặt ra những yêu cầu cấp bách
về khoa học công nghệ, kĩ thuật. Cùng với đó nhiều ngành mới trong kinh tế biển
cũng đƣợc ra đời để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng này, tất cả các nhân tố kể
trên đã làm cho kinh tế biển trở thành một nhóm ngành thu hút và giải quyết nhiều
việc làm cho nguồn cung lao động khá dồi dào của nƣớc ta, đặc biệt là ở các tỉnh
thành phố ven biển. Mặt khác nó cũng đã tổ chức nguồn nhân lực theo các hƣơng
chuyên môn hóa sâu sắc về các lĩnh vực cụ thể và tác động vào sự vận động, phát
triển trong chất lƣợng nguồn nhân lực để có thể chiếm lĩnh công nghệ khoa học, kĩ
thuật mới của ngành.
1.2.2.4. Phát triển kinh tế biển sẽ góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng,
giữ vững chủ quyền biển đảo quốc gia.
Biển là một không gian chiến lƣợc đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng an
ninh của đất nƣớc. Việt Nam có vùng biển rộng lớn, bờ biển dài, địa hình bờ biển
quanh co, khúc khuỷu, có nhiều dãy núi chạy lan ra biển, chiều ngang đất liền có
nơi chỉ rộng 50 km (Quảng Bình), mạng lƣới sông ngòi dày đặc chảy theo hƣớng
Tây Bắc – Đông Nam. Với đặc điểm quy định của điều kiện tự nhiên mang tính
hƣớng ra biển rõ rệt nên việc bảo vệ phòng thủ biển đảo của Tổ quốc luôn mang
tính chiến lƣợc. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nƣớc ta cùng với dải đất
liền ven biển là một yếu tố thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự, điểm
tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp.
Ngày nay, trong công cuộc phát triển kinh tế xây dựng quốc gia, biển đảo đất nƣớc
gắn liền với vùng thềm lục địa đang triển khai mạnh công nghiệp, thăm dò và khai
thác dầu khí cùng với vùng đặc quyền kinh tế biển rộng lớn, Những điều đó đã tiềm
ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp quốc tế và âm mƣu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và
22
đặc quyền kinh tế biển Việt Nam. Vì thế, việc kết hợp kinh tế với an ninh quốc
phòng trên vùng này trở nên vô cùng thiết yếu, một "điểm nóng" trong chiến lƣợc
kinh tế biển Việt Nam là tất yếu khách quan để tồn tại và phát triển của đất nƣớc.
Phải có quan điểm toàn diện về an ninh - quốc phòng bao gồm: an ninh chính trị,
kinh tế, tài chính, thƣơng mại, văn hóa - xã hội, môi trƣờng sinh thái; chống diễn
biến hòa bình và chiến tranh kinh tế tài chính, chống xâm lƣợc, bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ. Quan điểm này phải đƣợc quán triệt trong toàn bộ các khâu, các
bƣớc quy hoạch phát triển từ ban đầu đến khi triển khai thực hiện để tạo nên sức
mạnh tổng hợp của một địa bàn kinh tế trọng điểm có hai bộ phận là đất liền và
biển. Các vùng, các địa phƣơng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế phải luôn nâng
cao ý thức phục vụ an ninh - quốc phòng bằng những sản phẩm và công nghệ cao
của mình, chủ động đề xuất kế hoạch và khả năng của mình trong thời bình và thời
chiến, sẵn sàng ứng phó khi có "động viên". Ngƣợc lại các xí nghiệp, đơn vị an ninh
quốc phòng của Bộ và của địa phƣơng cũng phải có kế hoạch tham gia phát triển
kinh tế trong thời bình theo truyền thống của ông cha ta. Sự kết hợp hài hòa này bao
gồm cả trên Bộ, Biển, Không, cả tinh thần và vật chất, biến vùng này đồng thời
thành một khu vực phòng thủ chiến lƣợc vững chắc trong thời bình và thời chiến.
1.2.2.5. Phát triển “kinh tế biển” là bàn đạp để quốc gia đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nƣớc ta có vị trí địa lý khá nhạy cảm do đó lĩnh vực kinh tế biển Việt Nam
có tính quốc tế cao nhất, bởi vì vùng biển của ta giáp với nhiều nƣớc, với đƣờng
hàng hải quốc tế, có các vùng biển tranh chấp lớn nhƣ Hoàng Sa, Trƣờng Sa, cho
nên vùng biển Việt Nam có tính quốc tế từ rất lâu. Các lĩnh vực dầu khí, hải sản, du
lịch, các hải cảng lớn nổi tiếng đều có liên quan đến quan hệ quốc tế.Nếu dừng quan
hệ quốc tế, kinh tế biển Việt Nam sẽ ngƣng trệ, không phát huy hết đƣợc tiềm năng,
thế mạnh của nó. Ngƣợc lại, khi quan hệ quốc tế đƣợc mở rộng, kinh tế biển sẽ phát
triển cao, giải quyết đƣợc thoả đáng các vấn đề tranh chấp tại Biển Đông, khai thác
và tiêu thụ các nguồn dầu khí và hải sản có hiệu quả, thu hút khách du lịch quốc tế...
Chúng ta đã có nhiều cố gắng đổi mới các chính sách thu hút FDI, thƣơng mại, hải
23
quan... Tuy nhiên chúng ta vẫn chƣa khai thác đƣợc đáng kể lợi thế địa kinh tế này.
Từ đó, vƣơn ra biển, khai thác và bảo vệ biển là sự lựa chọn có tính chất sống còn
của dân tộc Việt Nam, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá
X) đã ra Nghị quyết về “Chiến lƣợc biển Việt Nam đến 2020” Nhằm nhanh chóng
đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc mạnh về biển, bên cạnh đó còn đề ra các mục tiêu
và những giải pháp chiến lƣợc xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Hiện nay nƣớc ta đã xây dựng và có đƣợc quan hệ thƣơng mại song
phƣơng với trên 100 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ,
tham gia các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á- Thái Bình Dƣơng (APEC), Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO)…Trong tƣơng
lai không xa, các hoạt động hợp tác song phƣơng, đa phƣơng sẽ diễn sâu rộng trong
nhiều lĩnh vực cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại…bên cạnh những
thuận lợi sẽ luôn tiềm ẩn những thách thức đòi hỏi chúng ta phải luôn có những
chính sách linh hoạt, mềm dẻo trƣớc tình hình thế giới biến động hết sức phức tạp
nhƣ hiện nay. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là tích cực hợp tác và đấu tranh
để thực hiện các cam kết quốc tế về biển. Đồng thời kiên quyết bảo vệ chủ quyền
vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trƣờng thuận lợi để nƣớc ta
mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật,đầu tƣ, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá
trang bị cho quốc phòng-an ninh; tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia
thành viên trong khu vực và quốc tế…, với mục đích cao nhất là ổn định để phát
trển đất nƣớc, sử dụng biển tƣơng xứng với tầm vóc của nó trong cơ cấu kinh tế
cũng nhƣ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.3Nội dung phát triển kinh tế biển
1.2.3.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển:
Để phát triển nền kinh tế nói chung thì một yếu tố cơ bản và giữ vai trò tiên
quyết đó chính là phát triển cơ sở hạ tầng. Và lĩnh vực phát triển kinh tế biển cũng
không nằm ngoài điều tất yếu đó.Cơ sở hạ tầng đƣợc xác định là một trong những
24
nhân tố rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế biển. Nó cũng chính là
yếu tố bảo đảm về điều kiện cho mọi hoạt động trong quá trình phát triển kinh tế
biển đƣợc thực hiện. Phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm các nội dung nhƣ: phát triển
hệ thống cơ sở lƣu trú, phát triển hệ thống nhà hàng; phát triển các trung tâm mua
sắm, các khu bán hàng lƣu niệm, các khu vui chơi, giải trí; phát triển các công ty
kinh doanh du lịch…Nhƣ vậy để phát triển kinh tế biển thì phải có hệ thống cơ sở
hạ tầng phát triển. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng thì phải có vốn, sự hỗ trợ từ Trung
Ƣơng hoặc sự đầu tƣ của các tổ chức, tập đoàn nƣớc ngoài.Những năm gần đây,
tỉnh Nam Định xác định việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển,
cảng biển... là hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển của địa
phƣơng.Theo đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch vùng kinh tế biển và
phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển.
1.2.3.2. Phát triển sản phẩm
Thứ nhất, phát triển số lƣợng sản phẩm riêng lẻ bằng cách: Gia tăng số
lƣợng các sản phẩm mới, đa dạng đồng thời duy trì, bổ sung, hoàn thiện và phát
triển những sản phẩm hiện có. Tạo ra sự liên kết nhiều dịch vụ thành sản phẩm
trọn gói mới nhƣ: Nhà nghỉ - tắm biển – thể thao – mua sắm; Nghỉ dƣỡng – tắm
biển – thể thao – hội thảo,….
Thứ hai, tiến hành nâng cao chất lƣợng sản phẩm kinh tế biển. Chất lƣợng
sản phẩm kinh tế biển đƣợc thể hiện qua những thuộc tính độc đáo, đặc thù, sự thân
thiện, … mang lại sự thích thú, hài lòng cho khách hàng khi sử dụng các sản phẩm
dịch vụ. Việc nâng cao chất lƣợng sản phẩm đƣợc thể hiện qua những khía cạnh
nhƣ: gia tăng số lƣợng các dịch vụ; gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng.
Một số sản phẩm điển hình của kinh tế biển:
* Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản
Với lợi thế về tự nhiên và tiềm năng sông, biển, bãi triều mặt nƣớc và nuôi
trồng thuỷ sản, ngành hải sản Việt Nam đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với nông nghiệp và lâm nghiệp thì ngành thuỷ hải
sản đã cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho toàn xã hội. Theo số liệu đã công bố
25
của Tổng Cục thống kê năm 2012, Tỷ trọng GDP của hải sản trong tổng GDP của
toàn quốc liên tục tăng, năm 2011 đạt 15.279 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2.6% GDP
trong toàn quốc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết TW4
(khoá X) về chiến lƣợc biển Việt Nam 2020 đã tiếp tục khẳng định ngành thuỷ sản
là một ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng phát triển mạnh nhất là về nuôi trồng,
cần phấn đấu vƣơn lên hàng đầu trong khu vực. Các địa phƣơng có biển đã nhận
thấy điều kiện phát triển thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lƣợc phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh mình. Từ chỗ chỉ là một nghề phụ trong sản xuất
nông nghiệp, ngành Thủy hải sản đã dần hình thành và phát triển nhƣ một ngành
kinh tế-kỹ thuật có đóng góp ngày càng lớn cho đất nƣớc và đã trở thành ngành kinh
tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ tăng trƣởng cao trong khối nông,
lâm nghiệp và thủy sản (4,48 % năm 2012, Tổng cục Thống kê). Đến nay, Thủy hải
sản Việt Nam đã có đƣợc một vị trí cao trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ
12 về khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản và thứ 4 về giá trị xuất khẩu thủy sản.
Từ đó, cũng chính sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy hải sản đã đóng góp vai trò
rất lớn vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền trên vùng lãnh hải và vùng đặc
quyền kinh tế của đất nƣớc. Cụ thể là, phát triển kinh tế biển nói chung và tăng
trƣởng kinh tế thủy sản nói riêng đã thu hút lực lƣợng dân sự hiện diện thƣờng xuyên
trên biển góp phần đảm bảo anh ninh quốc phòng. Ngƣợc lại, việc đảm bảo an ninh
quốc phòng sẽ tạo điều kiện để bà con ngƣ dân yên tâm vƣơn khơi bám biển để tiến
hành sản xuất, phát triển kinh tế thủy hải sản. Có thể khẳng định, sự hiện diện dân sự
của ngƣ dân trên biển đã và đang có vai trò hết sức quan trọng trong việc đồng thời
thực hiện phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc, đặc
biệt là trong giai đoạn vấn đề biển đảo đang trở thành vấn đề “nóng” và phức tạp nhƣ
hiện nay.
* Du lịch biển và kinh tế đảo
Việt Nam có tiềm năng to lớn về phát triển du lịch biển, với trên 3000km bờ
biển, hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, hàng loạt những bãi tắm cát trắng, nƣớc trong
xanh trải dài trên ven biển Việt Nam. Điều đó tạo những thuận lợi cho du lịch biển
26
Việt Nam phát triển. Việt Nam là 1 trong hơn 20 quốc gia có vịnh “đẹp nhất thế
giới”, đó là: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và vịnh Nha Trang (Khánh Hòa). Vịnh
Hạ Long (2 lần đƣợc UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới và đang
nằm trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên thế giới), vịnh Nha Trang –đƣợc
đánh giá là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng đƣợc Tạp
chí Forber bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh… Tính đến năm
2007, Việt Nam đƣợc UNESCO công nhận 6 “khu dự trữ sinh quyển thế giới” đó
là: Cát Bà (Hải Phòng), khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng trên địa bàn 2
huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Giao Thủy (Nam Định), Cần Giờ (TPHCM), vƣờn
quốc gia Cát Tiên thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai, biển Kiên Giang và khu vực Tây
Nghệ An cũng đã nói lên sức hút của biển Việt Nam đối với du khách trong và
ngoài nƣớc. Bên cạnh những giá trị tự nhiên, thì các yếu tố nhân văn giàu bản sắc
văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc: Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm…của vùng ven
biển cũng có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển du lịch biển. Nhiều địa bàn ven
biển và hải đảo nhƣ Hải Phòng - Quảng Ninh, Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam… hội
tụ đủ những giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn có giá trị tạo nên sức hấp
dẫn lớn về du lịch... Thực trạng phát triển du lịch biển trong những năm gần đây
cho thấy, vùng biển hàng năm thu hút khoảng 70% số lƣợng khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam, trên 50% số lƣợt khách du lịch nội địa, khoảng 70% tổng thu nhập từ
du lịch của cả nƣớc. Dọc ven biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi
cho việc phát triển du lịch, trên 30 bãi biển đã đƣợc đầu tƣ và khai thác [3, tr.54]. .
Để du lịch biển Việt Nam ngày càng phát triển theo hƣớng bền vững, có nhiều bãi
biển, vùng biển đẹp mang tầm cỡ quốc tế, tổng cục Du lịch cần xây dựng các tiêu
chí về du lịch biển phân theo lợi thế vùng nhƣ: du lịch nghỉ dƣỡng, chữa bệnh; du
lịch thể thao giải trí biển; du lịch biển dã ngoại; du lịch biển nghiên cứu, thăm dò,
khám phá; du lịch biển bình dân; du lịch biển phức hợp... Các địa phƣơng muốn
khai thác du lịch biển sẽ dựa vào những tiêu chí ấy để quy hoạch, khai thác đảm bảo
phát triển kinh tế biển bền vững; Còn các cơ quan quản lý nhà nƣớc sẽ căn cứ vào
những tiêu chí đó để đánh giá, xếp hạng... cho từng vùng du lịch biển, từng khu du
27
lịch cũng dễ dàng hơn.
* Kinh tế hàng hải
Kinh tế hàng hải là một ngành kinh tế chủ yếu và quan trọng trong các ngành
kinh tế biển, bao gồm: Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền,
phƣơng tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác. Lịch sử phát triển của thế giới
cho thấy rằng những đột phá phát triển mang tầm thế giới cho đến nay hầu nhƣ đều
bắt nguồn từ những quốc gia – biển, nhƣ Italia vào thế kỷ XIV – XV, Nhật Bản nửa
cuối thế kỷ XX, và gần đây hơn hẳn là sự bùng nổ của một nƣớc Singapor bé nhỏ
và một Trung quốc khổng lồ. Dựa trên nền tảng là những lợi thế của biển, các nƣớc
này đã thi hành chiến lƣợc kinh tế mở và tạo ra những đột phá thành công. Kinh
nghiệm thế giới cũng cho thấy rằng mỗi thời đại phát triển lớn đều gắn với các đại
dƣơng. Những điều này cho thấy vai trò của biển đối với sự phát triển của một quốc
gia là quan trọng nhƣ thế nào. Tuy nhiên một đặc điểm chung là hầu hết các quốc
gia này đều có ngành hàng hải phát triển. Ngành hàng hải có lịch sử phát triển rất
lâu đời, song song cùng với sự phát triển của ngoại thƣơng trên thế giới. Sự ra đời
của ngành hàng hải giống nhƣ một sự khẳng định vững chắc thêm rằng biển và đại
dƣơng không những là cầu nối giữa các châu lục, các quốc gia, mà còn là tài sản vô
cùng quý giá của trái đất. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, với xu thế hội nhập quốc
tế thì hƣớng ra biển là một chiến lƣợc quan trọng đối với những quốc gia có biển,
trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu
thuyền cũng là một lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận và đóng góp lớn cho ngân
sách quốc gia. Các dịch vụ cảng biển cũng mang lại nguồn thu khá lớn cho các
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Ngoài ra đây còn là lĩnh vực dịch vụ,
rất có điều kiện phát triển và mang lại lợi nhuận cao. Thứ hai, kinh tế hàng hải thúc
đẩy hình thành các trung tâm công nghiệp lớn và có sự liên kết chặt chẽ, thực tế ở
nƣớc ta có thể chứng minh điều này, nhƣ sự ra đời cụm cảng Cái Lân- Hải Phòng,
Cảng biển nƣớc sâu và khu công nghiệp Dung Quất – Quãng Ngãi, và gần đây nhất
là Khu công nghiệp Vũng Áng – Hà Tĩnh,... Thứ ba, Kinh tế hàng hải còn thúc đẩy
các ngành khác phát triển nhƣ : ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,... thông
28
qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Thứ tƣ, Sự phát triển của kinh tế hàng hải
tạo ra khối lƣợng việc làm lớn, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong những năm qua, số
lƣợng việc làm trong ngành hàng hải vẫn không ngừng tăng lên, nhu cầu về thuyền
viên luôn gia tăng cùng với sự gia tăng số tàu biển. Điều này góp phần quan trọng
trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Với đƣờng bờ biển dài trên 70km từ cửa Ba Lạt giáp tỉnh Thái Bình đến cửa
Đáy giáp tỉnh Ninh Bình, tỉnh Nam Định nằm ở vị trí trung chuyển khu vực phía
Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, có hệ thống giao thông đƣờng sông, đƣờng
bộ, đƣờng sắt nối liền với các vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Bắc. Nam Định
là tỉnh có nhiều lợi thế trong việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ cho các tỉnh, thành phố
trong khu vực. Nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển trên
địa bàn tỉnh và khu vực lân cận. Tỉnh Nam Định đƣợc Chính phủ cho phép đầu tƣ
xây dựng cảng biển Hải Thịnh để tiếp nhận tàu biển ra, vào làm hàng, dự kiến sản
lƣợng hàng hoá thông qua cảng từ 2 đến 3 triệu tấn/năm.
Căn cứ vào tình hình phát triển của khu vực, để thực hiện chức năng quản lý
nhà nƣớc về hàng hải tại khu vực cảng biển Nam Định, ngày 14/4/1998, Cục trƣởng
Cục Hàng hải Việt Nam đã ký Quyết định số 73/QĐ/TCCB-LĐ thành lập Cảng vụ
Hải Thịnh (nay là Cảng vụ hàng hải Nam Định). Cảng vụ hàng hải Nam Định có
trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về hàng hải theo Quyết định số 17/2008/QĐ-BGTVT
ngày 16/9/2008 của Bộ trƣởng bộ Giao thông vận tải về việc công bố vùng nƣớc
cảng biển thuộc địa phận tỉnh Nam Định và khu vực quản lý của Cảng vụ hàng hải
Nam Định. Trong đó có công bố vùng đón trả hoa tiêu cho tàu thuyền đến, rời cảng
biển Nam Định và mở rộng vùng nƣớc cảng biển Nam Định đến hạ lƣu chân cầu
Châu Thịnh để đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải và tạo điều kiện thuận lợi cho tàu
thuyền đến, rời và hoạt động trong khu vực cảng biển Nam Định.
* Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên,
khoáng sản biển
Tài nguyên biển rất đa dạng và phong phú. Trong số các nguồn tài nguyên
biển, trƣớc tiên phải kể đến dầu khí, đây là một nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ƣu
29
thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt
Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lƣợng dầu khí
ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lƣợng dầu dƣới đáy Biển
Đông. Có thể khai thác từ 30-40 nghìn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít), khoảng 20
triệu tấn/năm. Trữ lƣợng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10
tỷ tấn quy dầu [30]. Đối với nhiều nƣớc, có thể nguồn tài nguyên dầu khí chƣa phải
là thật lớn, song đối với nƣớc ta, nó lại có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai
đoạn đất nƣớc ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt
Nam còn có khí đốt với trữ lƣợng khoảng 3 nghìn tỷ m3/năm. Ngoài dầu và khí,
dƣới đáy biển nƣớc ta còn có nhiều khoáng sản quý nhƣ: thiếc, ti-tan, đi-ri-con,
thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa
trong nƣớc biển bình quân 3.500gr/m2. Vùng ven biển nƣớc ta cũng có nhiều loại
khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế nhƣ: than, sắt, ti-tan, cát thuỷ
tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.
* Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ về khai
thác và phát triển kinh tế biển
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam đƣợc đánh giá là khá phong phú và
đa dạng, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nƣớc. Chính
vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ đƣợc xác định là
nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy nền kinh tế biển phát triển mạnh
mẽ hơn. Hiện nay, chúng ta đã tập hợp, liệt kê đƣợc hệ thống số liệu về điều kiện tự
nhiên nhƣ địa hình, địa mạo, địa chất, khí tƣợng, hải văn, các hệ sinh thái và sinh
vật biển đảo. Từ đó đƣa ra những đánh giá, dự báo triển vọng và định hƣớng tìm
kiếm khoáng sản biển, nhất là dầu mỏ, khí đốt và hydrate; các loại năng lƣợng biển
nhƣ (nhiệt độ, gió, thủy triều và sinh khối); tiềm năng sử dụng nƣớc và đất ngập
mặn ven bờ. Hệ thống sinh thái biển, vùng bờ biển và hải đảo với hơn 12 nghìn loài,
phân bố của các khu hệ sinh thái, những đặc trƣng cơ bản về đa dạng sinh học và
một số quá trình sinh học, năng suất sinh học các vùng biển... Xây dựng hệ thống
phân tích đánh giá môi trƣờng nhƣ xây dựng các thông số kỹ thuật, các quy trình
30
giám sát và quan trắc môi trƣờng; ứng phó tràn dầu trên biển; cung cấp cơ sở cho
soạn thảo và ban hành các kế hoạch chiến lƣợc, các quy chuẩn quốc gia về tài
nguyên môi trƣờng biển...Bên cạnh đó các nhà khoa học của Việt Nam còn tham gia
trong các chƣơng trình hợp tác quốc tế nghiên cứu biển dƣới các hình thức song
phƣơng, đa phƣơng, các chƣơng trình quốc tế, các nhiệm vụ nghị định thƣ nhà
nƣớc; hợp tác nghiên cứu đƣợc ký kết giữa cấp viện và trƣờng đại học với nhiều
hình thức hợp tác khá đa dạng và phong phú. Ðồng thời, tham gia với các tổ chức
và mạng lƣới nghiên cứu quốc tế nhƣ ủy ban Hải Dƣơng học Liên chính phủ; Hội
Khoa học Thái Bình Dƣơng, Tiểu ban Môi trƣờng biển Ðông - Nam Á... với nhiều
chuyến khảo sát đƣợc thực hiện ở vùng biển Việt Nam và Biển Ðông. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, hiện nay chất lƣợng nghiên cứu khoa học công nghệ biển chƣa
đồng đều và tính ứng dụng chƣa cao. Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên
nhân là do chúng ta chậm có chiến lƣợc phát triển khoa học công nghệ biển dẫn đến
hạn chế về tầm cỡ, quy mô, trọng tâm, tính liên tục, tính kế thừa của các nhiệm vụ
nghiên cứu. Từ đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến độ và tiềm lực phát triển khoa
học công nghệ biển thời gian qua. Ðội ngũ cán bộ khoa học biển tuy đã đƣợc hình
thành, nhƣng vẫn còn yếu về cơ cấu chuyên môn, hạn chế về cả số lƣợng và chất
lƣợng, nhất là thiếu các chuyên gia có trình độ cao do hầu hết cán bộ từ đầu không
đƣợc đào tạo về khoa học công nghệ biển. Cơ sở hạ tầng còn yếu, phƣơng tiện,
trang thiết bị phần lớn lạc hậu, cũ kỹ; thiếu nền tảng tài liệu quan trắc, điều tra cơ
bản và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Ðầu tƣ kinh phí hạn chế, nguồn vốn chủ yếu
vẫn là từ nguồn ngân sách nhà nƣớc; chính sách khuyến khích, hỗ trợ cán bộ khoa
học công nghệ biển, nhất là chế độ ƣu đãi nhằm thu hút cán bộ nghiên cứu trẻ về
công tác trong lĩnh vực này vẫn chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mức.
1.2.3.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển
Đứng trƣớc những tiềm năng to lớn về biển, hải đảo tổ quốc, vấn đề phát
triển kinh tế biển, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay là ứng phó với biến đổi khí hậu. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn xác định
phát triển con ngƣời là một đặc trƣng không thể thiếu đƣợc trong sự nghiệp của xã
31
hội xã hội chủ nghĩa. Thông qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng, Đảng ta đã nhận thức
đầy đủ và sâu sắc hơn con ngƣời và những kiến thức khoa học đƣợc trang bị cho
con ngƣời chính là nguồn vốn quý giá nhất, quyết định đến sự phát triển của xã hội,
ngay từ trƣớc đây, Bác Hồ đã có câu nói kim chỉ nam là “muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa”. Tại hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
TW khoá 10 đã thông qua nghị quyết về chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020,
trong đó vấn đề phát triển nguồn nhân lực biển đƣợc xác định là một giải pháp có
tầm quan trọng đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội vùng biển
và vùng ven biển.Cụ thể bao gồm các việc nhƣ: đào tạo các cán bộ nghiên cứu khoa
học, cán bộ quản lý, các chuyên gia đầu ngành và đội ngũ lao động có trình độ
nghiệp vụ chuyên môn cao đƣợc đào tạo chuyên sâu về các ngành nghề, đi đôi với
nó là các cơ chế chính sách hợp lý khuyến khích các cán bộ khoa học và quản lý
công tác tại các vùng biển, hải đảo xa xôi. Đứng trƣớc yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
đặc biệt đặt ra trong tình hình mới, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam - một cơ
quan quản lỳ nhà nƣớc về biển và hải đảo cần nhận rõ vai trò trách nhiệm to lớn của
mình trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng và tiếp cận cán bộ phụ vụ công tác quản lý
nhà nƣớc tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo đánh giá kỹ thực trạng đội ngũ
cán bộ và xác định nhu cầu đào tạo, đề ra các phƣơng hƣớng, giải pháp thích hợp
trong qui hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành Tài nguyên – Môi
trƣờng để từng bƣớc sớm vƣợt qua những tồn tại, khó khăn hiện nay về đội ngũ cán
bộ khoa học và quản lý, tránh tụt hậu trong tƣơng lai đối với lĩnh vực này trong giai
đoạn 2015-2020.
1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế biển
1.2.4.1. Hiệu quả kinh tế
Tăng trƣởng kinh tế đƣợc hiểu là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định. Và sự gia tăng này thể hiện ở quy mô và tốc độ.
Trong đó, quy mô tăng trƣởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng
trƣởng thì lại phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm qua các thời kỳ. Phát triển kinh
tế đƣợc hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó nhƣ là quá trình biến
32
đổi cả về lƣợng và chất của nền kinh tế, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn
thiện của hai vấn đề: kinh tế -xã hội ở mỗi một quốc gia. Tăng trƣởng kinh tế có thể
là yếu tố trọng tâm để đạt đƣợc phát triển kinh tế, nhƣng để phát triển kinh tế thì cần
phải có nhiều yếu tố nữa, chứ không chỉ đơn thuần là chỉ có tăng trƣởng. Không chỉ
là mức thu nhập đầu ngƣời mà còn là cách thức để tạo ra những thu nhập ấy. Những
nguồn thu nhập ấy đƣợc tiêu dùng, và đƣợc phân phối ra sao đó sẽ là tiêu chí quan
trọng để xác định kết quả phát triển. Kinh tế biển là một phần rất quan trọng trong
nền kinh tế nói chung. Những năm gần đây kinh tế biển và vùng ven biển đã đóng
góp gần 50% tỷ trọng trong tổng giá trị GDP của cả nƣớc.
1.2.4.2. Hiệu quả về mặt xã hội
Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả xã hội của phát triển kinh tế biển
nhƣ sau: Số lao động có việc làm tăng thêm. Đây là một trong những chỉ tiêu khá
quan trọng trong hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế. Nếu số lƣợng việc làm tăng
thêm tức là tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống và khi ngƣời lao động đã có việc làm,
có thu nhập thì tất yếu tệ nạn xã hội sẽ giảm đi,..Bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nƣớc, huy động dân cƣ và viện trợ, tài trợ của các tổ chức nƣớc ngoài, lĩnh vực xã
hội thƣờng xuyên đƣợc quan tâm phát triển. Các chƣơng trình quốc gia: phổ cập
giáo dục, xoá đói giảm nghèo, nƣớc sạch nông thôn,... đã góp phần nâng cao đời
sống nhân dân và đổi mới bộ mặt của vùng kinh tế nông thôn, vùng biền và ven
biển. Cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn đƣợc đầu tƣ phát triển tƣơng đối đồng
bộ.Công tác chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã mang lại nhiều kết quả
tích cực. Các chƣơng trình kế hoạch hoá đầu tƣ từ cộng đồng đƣợc chú trọng tiến
hành, có sự tham gia ý kiến của nhân dân vào các khâu: quy hoạch, tiến hành đầu
tƣ, triển khai dự án…về các công trình phúc lợi chung nhƣ: điện, đƣờng, trƣờng,
trạm, vệ sinh nƣớc sạch, chợ, thuỷ lợi nhỏ. Các tác động khác nhƣ: Chi tiêu cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời dân, cải thiện chất lƣợng hàng tiêu
dùng và cơ cấu hàng tiêu dùng của xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện
33
môi trƣờng sinh thái, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và sức khoẻ…
1.2.5. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của các quốc gia và một số địa phương
trong nước thời gian qua
Trong kỉ nguyên vƣơn ra khơi của các quốc gia có biển, nhiều nƣớc đã và
đang đẩy nhanh quá trình khai thác, phát triển kinh tế biển của mình nhằm tạo tiền
đề cho sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Mỗi nƣớc đã lựa chọn và tìm một
con đƣờng một hƣớng đi riêng cho mình và thông qua việc nghiên cứu những con
đƣờng đó, chúng ta sẽ lựa chọn cho mình một hƣớng đi thực sự đúng đắn, khoa học
và phù hợp.
1.2.5.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của một số quốc gia trên thế giới
Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của Trung Quốc
Trung Quốc có khoảng 4 triệu lao động đang làm hoặc công tác trong các
lĩnh vực liên quan đến biển, khoảng 300 nghìn tàu thuyền các loại, giá trị các sản
phẩm biển từ 8 tỉ NDT năm 1980 tăng lên tới 350 tỉ NDT năm 1999, trình độ khoa
học kỹ thuật biển không ngừng đƣợc nâng cao, công tác nghiên cứu, thăm dò đã
tiến vào Thái Bình Dƣơng, Nam cực và Bắc cực; tính đến năm 2006 giá trị tổng sản
lƣợng hải sản đã đạt trên 2.095 tỉ NDT, đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế
quốc gia. Để đạt đƣợc những kết quả đó, Trung Quốc đã xây dựng cho mình một
chiến lƣợc biển mang tính định hƣớng lâu dài.
Với ƣu thế của một quốc gia có tiềm năng về kinh tế biển, Trung Quốc đã và
đang có chính sách hƣớng biến điển hình ở khu vực Đông Á. Với diện tích hơn 9, 5
triệu km² , kết cấu địa hình cơ bản là núi non, cao nguyên, sa mạc và bình nguyên
châu thổ, đặc biệt đã đƣợc các chế độ trƣớc đây khai thác triệt để, chính vì thế vƣơn
ra chinh phục và khai thác biển đƣợc xác định là con đƣờng sống còn của quốc gia
này. Đƣờng bờ biển dài hơn 14 nghìn km đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc
lấn biển của quốc gia này trong những năm gần đây.Trung Quốc đã đƣa ra một
chiến lƣợc phát triển kinh tế biển khá cụ thể.
Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình, Trung Quốc xác định “Đại
khai phá miền Tây” và “Trở thành cƣờng quốc biển” là hai nhiệm vụ trọng tâm
34
trong thế kỉ XXI. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ, tiến hành đồng thời để
làm bàn đạp và tiền đề cơ sở cho nhau để cùng đƣợc thực hiện. Bên cạnh đó để bảo
đảm cho chiến lƣợc kinh tế biển đƣợc thực thi, Trung Quốc cũng tiến hành đồng
thời cả chƣơng trình an ninh quốc phòng biển đảo, phát triển khoa học công nghệ
biển và bồi dƣờng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế biển quốc gia.
Chúng ta có thể thấy nội dung cơ bản chiến lƣợc biển của Trung Quốc đƣợc thể
hiện khá rõ ràng ở các chính sách kinh tế vĩ mô.
Từ khi cải cách nền kinh tế, mở cửa kinh tế quốc gia này đã chú trọng tập
trung vào phát triển kinh tế - xã hội của các thành phố cảng chạy dọc dải ven biển
nhƣ: Thƣợng Hải, Thiên Tân, Quảng Châu, Vũ Hán, Thẩm Quyến, Sán Đầu….; Có
thể thấy rằng Trung Quốc chú trọng đầu tƣ phát triển các thành phố ven biển này để
làm cửa ngõ giao lƣu thƣơng mại quốc tế và làm đầu tàu kéo toàn bộ nền kinh tế
phát triển, đây là bài học quý giá trong việc phát huy yếu tố lợi thế của biển và vùng
ven biển.
Trong quá trình phát triển, kinh tế của các thành phố ven biển tạo thành đòn
bẩy cho toàn bộ nền kinh tế, Trung Quốc đã chủ trƣơng không ngừng nâng cao trình
độ mở cửa, chuyển sang trạng thái hƣớng ngoại bằng việc thực hiện chính sách “3
ngoài cộng 1 trong” – vốn, khoa học công nghệ, thị trƣờng nƣớc ngoài kết hợp với
nguồn nhân lực trong nƣớc. Nguồn vồn FDI đầu tƣ cho các thành phố ven biển để
phát triển các ngành trọng điểm nhƣ: thƣơng mại, du lịch, dịch vụ gắn với cảng
biển…ngày càng có xu hƣớng tăng lên. Qua những phân tích trên cho ta thấy, Trung
Quốc đang rất tích cực và chủ động trong việc khai thác tiềm lực biển của quốc gia
để thực hiện thành công chiến lƣợc phát triển kinh tế biển của mình.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của Singapore
Nằm ở cực nam bán đảo Mã-Lai, với 54 hòn đảo, tổng diện tích chỉ có 692,7
km2, số dân 4,240 triệu ngƣời, Singapore hầu nhƣ không có nguồn tài nguyên gì
đáng kể, về nguyên liệu cũng rất ít loại, nghèo cả về số lƣợng lẫn trữ lƣợng, chỉ có ít
than, chì, nham thạch, đất sét. Không có nƣớc ngọt, đất canh tác hẹp, nông nghiệp
không phát triển, hằng năm phải nhập lƣơng thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở
35
trong nƣớc.Nhƣng Singapore đƣợc mệnh danh là quốc đảo nhỏ đầy năng động. Có
đƣợc kết quả này là do Singapore đã tận dụng toàn bộ những thuận lợi về vị trí địa
lý của mình để làm tiền đề phát triển kinh tế xã hội một cách có hiệu quả cao nhất.
Có bờ biển dài 193 km, nằm trên vị trí “ngã tƣ phƣơng Đông”, Singapore đã
xây dựng đƣợc một cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng
đầu châu Á và thế giới nhƣ: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công
nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore còn là trung tâm lọc
dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Khai thác những ƣu thế về biển,
quốc đảo này đã tập trung cao độ cho việc phát triển lĩnh vực cảng biển. Từ năm
1986 cho đến nay, số lƣợng tàu và trọng tải tàu biển cập cảng, quá cảnh…ở
Singapore luôn đứng ở tốp đầu thế giới.Đây cũng là một kho chứa hàng lớn, một
trạm trung chuyển trọng yếu và là một trung tâm phân phối hàng hóa. Các tàu thủy
thuộc hơn 700 tuyến vận chuyển hàng hải qua lại bến cảng này để nối Singapore với
khoảng 600 hải cảng quốc tế khác .Theo thống kê đã có tới hơn 500 công ty tàu biển
trên thế giới sử dụng dịch vụ hoặc neo đậu tại các cảng của Singapore.Ngay từ năm
1991, đã có hơn “70.000 tàu biển cập bến cảng này với tổng trọng tải đăng kí là 570
triệu tấn. Thành tựu trên khiến quốc gia này đƣợc tôn vinh là: “ hải cảng nhộn nhịp
nhất thế giới”
Cục cảng vụ hải cảng Singapore có 6 bến tàu và cứ 15 km là có một cầu tàu,
chủ yếu đƣợc trang bị hoàn thiện, hiện đại, hiệu suất xử lý hàng hóa rất cao, thực
hiện việc bốc dỡ hàng hóa và hàng container và có khả năng tiếp nhận tàu biển với
mọi cỡ trọng tải. Trong những năm trở lại đây, lƣợng bốc xếp hàng hóa ở các cảng
Singapore đã vƣợt trên con số 200 triệu tấn, và đứng ở vị trí thứ 2 trên thế giới sau
cảng Rotecdam (Hà Lan). Kể từ năm 1993, Singapore đã đứng thứ hai thế giới sau
Hồng Kong về hàng hóa container.
Bên cạnh việc phát triển về cảng biển, ngành đóng và sửa chữa tàu biển cũng
đƣợc quốc đảo này chú trọng đầu tƣ phát triển.Ngành đóng tàu và sửa chữa tàu của
Singapore cũng đã phát triển từ lâu, sau khi nƣớc này giành đƣợc độc lập.Bộ mặt
của ngành đóng tàu ở Singapore đƣợc tạo lên chủ yếu bởi ba xƣởng đóng tàu lớn -
36
Keppel, Sembawang và Jurong - trong đó hầu hết là vốn nhà nƣớc đảm đƣơng phần
lớn dịch vụ đóng và sửa chữa tàu.Ngoài ra còn nhiều xƣởng đóng tàu tƣ nhân chiếm
khoảng 10% thị phần trong lĩnh vực này. Đội ngũ của đoàn tàu buôn của Singapore
xếp hàng 15 trên thế giới với hơn 1.000 tàu thuyền thuộc đủ các loại, từ tàu chở
hàng rời, tàu chở container, tàu dầu, tàu khách. Trong số này có cả những tàu trọng
tải trên 100.000 tấn, một cỡ tàu vận tải xếp vào loại “siêu đại” trên thế giới Bên
cạnh việc chú trọng phát triển các lĩnh vực vốn là truyền thống, thì quốc gia này
cũng đã chú ý đến việc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch biển đảo. Đất nƣớc
Singapore nhỏ bé với tổng diện tích chƣa đến 700 km vuông và rất ít danh lam
thắng cảnh tự nhiên nhƣng lại có đƣợc doanh thu khổng lồ, gần 19 tỷ đô la trong
năm 2012 từ ngành du lịch và khách sạn. Không chỉ có thế mà số lƣợng khách du
lịch đến Singapore còn không ngừng tăng lên trong những năm qua, từ con số 7,7
triệu lƣợt khách vào năm 2000 đến 9 triệu lƣợt khách năm 2005, dự kiến lên đến
khoảng 14,8 triệu lƣợt khách vào năm 2013. Năm yếu tố tạo thành công cho du lịch
Singapore bắt nguồn từ năm chữ "A" trong tiếng Anh là: điểm thắng cảnh
(Attractions), phƣơng tiện giao thông (Accessibility), cơ sở tiện nghi (Amenities),
các dịch vụ hỗ trợ (Ancillary services) và sự điều chỉnh (Adjustment). Nghe đơn
giản nhƣng đó là một thách thức lớn về chiến lƣợc và quá trình thực thi. Du lịch
biển đảo của Singapore là một ví dụ cụ thể cho sự kết hợp của 5 yếu tố này.Nói đến
du lịch đảo ở quốc gia này chắc chắn không thể không nói đến du lịch Đảo Sentosa.
Các điểm thu hút trên đảo này gồm: bãi biển dài 2 km, pháo đài Siloso, hai sân golf
và 2 khách sạn 5 sao. Đảo này có diện tích 5 ki-lô-mét vuông, nằm cách bờ biển
phía nam của lục địa Singapore 0,5 km. Đây là đảo lớn thứ 4 của Singapore (không
kể đảo chính). 70% hòn đảo này đƣợc bao phủ rừng trồng xanh tƣơi, là nơi sinh
sống của nhiều loài động vật nhƣ tắc kè, khỉ, công, vẹt cũng nhƣ nhiều loại động
thực vật khác.Một phần đáng kể diện tích đảo đƣợc tạo ra từ lấn biển.Tọa lạc tại
Sentosa, Thế giới nƣớc là một khu vui chơi tuyệt vời với vẻ đẹp thật ấn tƣợng của
một thế giới hoàn toàn khác lạ dƣới đại dƣơng. Từ những bãi biển và những hồ cạn
có nhiều đá tảng, du khách bắt đầu đi xuống dốc sâu, qua những rặng san hô rực rỡ
37
sắc màu và đời sống thực vật sinh động trƣớc khi đặt chân lên đƣờng hầm di động
ngoạn mục bằng nhựa acrylic dài 83m, nơi chốn của những đàn cá, các loài dã thú
rình mồi và những cƣ dân đại dƣơng ngoại lai khác.
Singapore cũng là một quốc gia luôn biết cách tận dụng và phát huy triệt để
các nguồn tài nguyên thiên nhiên biển của mình để phát triển kinh tế.Trong số các
tài nguyên thì khoáng sản biển có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của quốc gia
này phải kể đến dầu mỏ.Dầu mỏ và hóa dầu là một cơ sở khác cho đời sống kinh tế
và công nghiệp của Singapore.Vào cuối thập niên 1980, Singapore là trung tâm mậu
dịch về dầu mỏ lớn hàng thứ ba thế giới, và cũng là trung tâm lọc dầu xếp hạng thứ
ba toàn cầu.Nƣớc này cũng xếp hàng thứ hai thế giới về lắp đặt giàn khoan dầu.
Những tiện ích để sửa chữa và bảo trì giàn khoan và bể chứa dầu có sức cạnh tranh
lớn nhất ở vùng Đông Á. Những thành tựu này đã đóng góp không nhỏ vào sự phát
triển kinh tế nói chung của Singapore.
1.2.5.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của một số địa phương trong nước
Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, có hơn 250km bờ
biển, diện tích mặt biển rộng trên 6.000 km và trên 40.000ha bãi triều, 20.000ha eo
vịnh, 2.077 hòn đảo, diện tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên. Tỉnh có
10/14 địa phƣơng giáp biển, tạo ra lợi thế liên hoàn trong phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh của tỉnh, cũng nhƣ vùng Đông Bắc của Tổ quốc.Với
đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, Quảng Ninh đƣợc Đảng, Nhà nƣớc đặc
biệt quan tâm trong Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 theo tinh thần Nghị
quyết số 09/NQ-TW của Hội nghị Trung ƣơng 4, khoá X. Thực hiện mục tiêu sớm
xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm các lĩnh vực liên quan đến hoạt động
kinh tế biển, BCH Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã đề ra Chƣơng trình hành động để
tập trung nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh giàu
mạnh về kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với phát triển kinh tế - xã hội
chung. Phát huy, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của biển, ven biển,
vùng biển đảo để phát triển các ngành kinh tế.Xác định đƣợc vị trí và tầm quan
38
trọng đó, Quảng Ninh đã ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
vùng biển đảo và ven biển của tỉnh đến năm 2020; Tỉnh cũng đã đề xuất một số cơ
chế chính sách phát triển vùng biển đảo và ven biển tỉnh Quảng Ninh trình Chính
phủ phê duyệt; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng biển đảo Cô Tô
đến năm 2020. Đây là những căn cứ phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
kinh tế - xã hội đối với các ngành, địa phƣơng tại địa bàn vùng biển, ven biển nhằm
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; xây dựng phƣơng hƣớng phát triển kinh tế -
xã hội phù hợp, gắn với bảo vệ an ninh quốc phòng đối với vùng biển đảo, nhằm
phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đảo, tạo bƣớc đột phá trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Với tiềm năng lớn về du lịch biển, những năm qua ngành Du lịch đã có bƣớc
tiến quan trọng, diện mạo, cơ sở hạ tầng của ngành đƣợc thay đổi nhanh chóng, đã
hình thành 4 trung tâm du lịch lớn của tỉnh nhƣ: Trung tâm du lịch tâm linh và di
tích lịch sử tại Đông Triều - Uông Bí - Quảng Yên; Trung tâm du lịch di sản thiên
nhiên tại Hạ Long; Trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lƣợng cao và Trung
tâm du lịch biên giới gắn với du lịch mua sắm hàng hoá. Đi đôi với các hoạt động
đầu tƣ kết cấu hạ tầng của tỉnh và của các đơn vị liên doanh, các thành phần kinh tế
cũng tập trung đầu tƣ khai thác tiềm năng du lịch trên địa bàn, làm tăng sức thu hút
du khách... Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có trên 972 cơ sở lƣu trú cho khách du lịch
đáp ứng đủ nhu cầu của khách du lịch. Tổng doanh thu ngành Du lịch ƣớc đạt trên
4.000 tỷ đồng.
Cùng với việc phát triển du lịch, thời gian qua Quảng Ninh đã thực hiện tốt
các chủ trƣơng, chính sách về ƣu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế thuỷ sản. Đặc
biệt, tỉnh tạo điều kiện cho các đơn vị, cá nhân vay vốn giải quyết việc làm nhƣ cho
vay vốn nuôi tôm, trai ngọc, nhuyễn thể, cá lồng ở dọc tuyến biển và các huyện
đảo… Nhiều dự án đã phát huy hiệu quả cao sau quá trình đầu tƣ. Sản lƣợng thuỷ
sản năm 2011 đạt trên 52.000 tấn, tăng 20% so với năm 2007, giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt 27,27 triệu USD, tăng hơn 60% so với năm 2007. Bên cạnh đó, các
dự án đầu tƣ xây dựng hệ thống neo đậu tránh trú gió bão cho tàu thuyền tại các
39
huyện, thị xã, thành phố đƣợc cấp vốn từ Trung ƣơng và vốn đối ứng của tỉnh do
UBND cấp huyện làm chủ đầu tƣ đã đƣợc phê duyệt và đang triển khai thi công
nhằm hạn chế những thiệt hại do thiên tai và tăng cƣờng khả năng phối hợp, liên kết
trong khai thác, và tiêu thụ sản phẩm cho việc đánh bắt và khai thác trên biển...
Lĩnh vực hàng hải mặc dù chƣa đạt kế hoạch đề ra nhƣng đã có những bƣớc
phát triển rất đáng khích lệ, khối lƣợng hàng hoá thông qua cảng tang dần theo từng
năm, doanh thu dịch vụ tăng, các dịch vụ sau cảng cũng từng bƣớc đƣợc mở rộng
nhƣ: Hệ thống kho bãi, các dịch vụ xếp dỡ, vận tải, cung ứng và đại lý hàng hải...
góp phần tăng doanh thu ngành kinh tế cảng biển và giải quyết việc làm cho trên
1.000 lao động/năm. Theo lộ trình thực hiện tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành rà soát
và quy hoạch lại hệ thống cảng biển địa phƣơng và các bến thuỷ nội địa mang tầm
cỡ quốc tế và khu vực, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả
nhất và đảm bảo môi trƣờng trong tƣơng lai.
Có thể thấy, sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết 09/NQ-TW về Chiến lƣợc
biển Việt Nam đến năm 2020, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đã có
đƣợc những chuyển biến tích cực trên mọi mặt. Qua đó khẳng định tính hiệu quả
khi thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc biển đối với địa bàn của tỉnh, tạo ra niềm tin
và cơ hội nhằm khuyến khích đầu tƣ từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tƣ trong
nƣớc và quốc tế… Trên cơ sở đó tạo đà và cơ sở đƣa Quảng Ninh trở thành tỉnh
mạnh về biển, làm giàu từ biển, phấn đấu là trung tâm kinh tế biển của khu vực và
cả nƣớc.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển ở Thanh Hoá
Tỉnh Thanh Hóa có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong khai thác kinh tế biển,
với khoảng 1/5 dân số có việc làm và hƣởng lợi từ nghề biển. Theo số liệu của cơ
quan chức năng địa phƣơng, trong lĩnh vực vận tải biển, từ năm 2005 trở lại đây,
sản lƣợng hàng hóa và số lƣợt tầu cập bến qua cảng Nghi Sơn và Lễ Môn của
Thanh Hóa đã tăng lên đáng kể. Nếu nhƣ năm 2005 mới có 2.151.855 tấn/2.102
lƣợt, năm 2007 là 3.032.047 tấn/2.294 lƣợt, thì đến năm 2009 đã đạt trên 3.200.000
tấn/2.400 lƣợt. Thu ngân sách Nhà nƣớc lên tới hàng trăm tỷ đồng, giải quyết việc
40
làm cho hàng ngàn lao động. Vận tải đƣờng biển (VTĐB) đã góp phần hạ giá thành
vận tải, giảm sức ép cho giao thông đƣờng bộ từ đó giảm tai nạn giao thông và kéo
dài thời gian sử dụng cho các tuyến đƣờng bộ qua tỉnh Thanh Hóa.
Đối với lĩnh vực khai thác kinh tế từ nguồn lợi biển, Thanh Hóa là tỉnh có
nhiều tiềm năng, trong đó thị xã Sầm Sơn là địa phƣơng có nhiều loại hình khai thác
kinh tế từ nguồn lợi biển. Các lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản và kinh doanh du
lịch ở đây đang đóng vai trò rất quan trọng. Theo thống kê của UBND thị xã Sầm
Sơn, Chỉ tính riêng năm 2009, thị xã này có gần 1.200 phƣơng tiện khai thác, đánh
bắt thủy, hải sản. Sản lƣợng khai thác đã đạt đƣợc 14.700 tấn hải sản, có giá trị
khoảng 169 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 4.000 lao động thƣờng xuyên. Tuy
nhiên, thu nhập bình quân vẫn còn khá thấp. Do thu nhập thấp, tại xã Quảng Tiến,
thị xã Sầm Sơn, nơi có tới 90% dân số làm nghề đi biển, vừa qua đã có 850 cặp vợ
chồng bỏ nghề đi biển vào các tỉnh phía Nam kiếm kế sinh nhai.
Trong lĩnh vực du lịch thì du lịch biển là lĩnh vực có lợi thế hơn, mỗi năm có
nhiều triệu lƣợt khách về Sầm Sơn để nghỉ dƣỡng. Theo thống kê của ngành chức
năng địa phƣơng, năm 2009 thị xã này thu ƣớc 535 tỷ đồng từ các nhà nghỉ, khách
sạn và các dịch vụ khác, tạo công ăn việc làm cho 4.270 lao động. Từ các loại hình
kinh tế có liên quan đến lĩnh vực du lịch biển, đã đem lại mức thu nhập khoảng gần
20 triệu đồng/ ngƣời/năm.
Để nâng cao hiệu quả khai thác hải sản, trung tuần tháng 9/2009, Sầm Sơn đã
tổ chức hội thảo về khai thác kinh tế biển, đến cuối năm 2009 đã xây dựng đề án
“Vƣợt biển đông và cải tiến ngƣ lƣới cụ” đƣa ngƣ dân vào vùng biển phía Nam khai
thác hải sản để tránh va chạm trên vùng biển chung và hợp đồng với Viện Hải
dƣơng học Nha Trang để thực hiện dự án “Nuôi ốc hƣơng tại khu vực Âu thuyền xã
Quảng Tiến”.
Mặc dù lĩnh vực khai thác hải sản của tỉnh Thanh Hóa vẫn còn gặp không ít
khó khăn, nhƣng số lƣợng tàu thuyền và sản lƣợng đánh bắt, khai thác vẫn không
ngừng tăng lên. Theo thống kê của địa phƣơng, năm 2008, tổng sản lƣợng hải sản
toàn tỉnh là 63.150 tấn với 8.505 tầu thuyền khai thác, thì năm 2009 thu đƣợc 64.100
41
tấn của 9.020 tầu thuyền khai thác. Hiện nay chính quyền tỉnh Thanh Hóa vẫn luôn có
những biện pháp tác động kịp thời để giúp nhân dân yên tâm bám biển, phát triển
kinh tế biển nói riêng cũng nhƣ phát triển kinh tế xã hội nói chung của tỉnh.
1.2.6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và Nam Định nói
riêng trong xu thế phát triển kinh tế biển
Với xu thế phát triển của thời đại về việc hƣớng ra biển ngày một rõ nét, với
tƣ cách là một quốc gia đi sau, Việt Nam cần học hỏi, tham khảo những kinh
nghiệm thành công của các nƣớc để xây dựng một chiến lƣợc phát triển kinh tế biển
cho mình một cách phù hợp và có hiệu quả nhất.
Từ kinh nghiệm thực tế của các quốc gia và các địa phƣơng trong nƣớc đƣợc
phân tích ở trên cho thấy, trong quá trình thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế
biển, ở Nam Định cần tham khảo, vận dụng một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, thống nhất quan điểm xuyên suốt “phát triển kinh tế biển là hướng
đi tất yếu khách quan” và phải có một chiến lược toàn diện.
Cho đến nay hầu hết các quốc gia đều đã phát triển theo hƣớng chiều rộng là
khai thác một cách triệt để các tài nguyên khoáng sản thiên nhiên trên lãnh thổ.
Chính điều đó, đã làm cho đất liền trở nên nghèo nàn và “khô cằn” hơn bao giờ hết.
Đối lập với tình trạng này, biển lại là một nới chứa đựng nhiều nguồn tài sản phong
phú mà loài ngƣời mới chỉ khai thác và biết đến phần nào mà thôi. Với xu thế quốc
tế hóa, khu vực hóa ngày càng sâu rộng nhƣ hiện nay, biển ngày càng có một vị thế
quan trọng không chỉ đối với lĩnh vực kinh tế mà còn cả chính trị, an ninh quốc
phòng, và văn hóa xã hội. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của biển đối với sự sống
còn của đất nƣớc, tất cả các quốc gia có biển và gần biển đều đang tìm mọi cách để
phát triển chiến lƣợc biển của mình nhằm biến nó thành một nguồn lực phong phú
vững chắc cho sự phát triển kinh tế của quốc gia mình. Chiến lƣợc biển của các
quốc gia đều đã đƣợc xây dựng một cách hoàn chỉnh và có hệ thống. Điều này đòi
hỏi một quốc gia, có lợi thế đi sau nhƣ Việt Nam cần phải có sự tiếp thu chon lọc,
học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trƣớc để xây dựng cho mình một hệ thống
42
chiến lƣợc kinh tế biển cụ thể để có thể bắt kịp và tiến xa hơn các nƣớc đi trƣớc
trong thời gian ngắn nhất và biến biển thành một nguồn lực hiệu quả cho sự phát
triển đất nƣớc.
Thứ hai, đầu tư theo hướng mà quốc gia có lợi thế so sánh.
Trong chiến lƣợc biển của các nƣớc, chúng ta thấy một điểm nổi bật rất rõ
nét đó là hƣớng đầu tƣ của các nƣớc đều tập trung cho những nội dung mà quốc gia
mình có lợi thế. Ví dụ điển hình có thể thấy rõ nhất chính là Singapore. Với ƣu thế
là một quốc gia nằm ở vị thế cầu nối trung tâm, giữa các vùng kinh tế lớn của thế
giới, lại là một quốc đảo nằm trên biển, quốc gia này có lợi thế biển hơn hẳn các
quốc gia khác trong khu vực, chính lí do đó đã biến Singapore trở thành một quốc
gia có kinh tế cảng biển lớn mạnh và uy tín trên thế giới cũng nhƣ trong khu vực.
Cũng biết phát triển ƣu thế về chất lƣợng nguồn lao động ven biển của mình, Trung
Quốc không chỉ xây dựng cho mình một hệ thống cảng biển tối tân, mà còn tập
trung xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển, các khu kinh tế tiềm năng để vừa
khai thác chất lƣợng nguồn nhân lực hiệu quả, vừa tạo ra lợi thế về dịch vụ hậu cần
cho sản xuất cho việc hƣớng biển của mình.
Thứ ba, tập trung xây dựng và phát triển cho hai nguồn lực có ý nghĩa tiên
quyết đối với quá trình hướng biển đó là vốn và nguồn nhân lực.
Vốn là một trong những yếu tố quan trọng của bất kì ngành kinh tế nào. Là
cơ sở, nền tảng cho sƣ phát triển nhƣng cũng đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế. Hơn thế, kinh tế biển là một ngành bao gồm một hệ thống các ngành có liên
quan chặt chẽ với nhau, chính vì vậy mà vốn lại trở thành một vấn đề rất cần thiết.
Cùng với vốn đó là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao tham
gia trực tiếp vào quá trình khai thác và phát triển kinh tế biển. Để khai thác và phát
triển kinh tế từ biển một cách có hiệu quả, không để lãng phí vốn, cũng nhƣ các
nguồn lực khác nguồn lực con ngƣời phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hầu hết ở các
thành phố ven biển của Singapore, Thái Lan hay các trung tâm kinh tế, các đặc khu
kinh tế biển của Trung Quốc hầu hết đều có các trƣờng đại học có uy tín trong khu
vực cũng nhƣ trên quốc tế cắm chốt. Việc xây dựng các trƣờng đại học, cao đẳng,
43
trƣờng nghề tại các địa điểm này, một phần đã tăng cƣờng công tác giáo dục, nâng
cao trình độ văn hóa cho dân cƣ nói chung, nhƣng đồng thời nó cũng đã đáp ứng
nhu cầu về nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao cho các ngành
kinh tế biển tại địa phƣơng nói riêng.
Ngoài những bài học kinh nghiệm trên, Nam Định cũng cần chú ý một số
vấn đề cốt lõi trong việc phát triển kinh tế biển địa phƣơng nhƣ:
Một là, phát triển kinh tế biển một cách toàn diện, nhƣng vẫn có sự chú trọng
phát triển một số mặt có ƣu thế truyền thống, sớm đƣa ngành kinh tế thuỷ hải sản
thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của địa phƣơng. Đẩy mạnh đánh bắt
xa bờ đồng thời với nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản. Tận dụng và phát huy các bến
bãi, các bãi bồi và vƣờn sinh thái. Chú trọng khai thác, phát triển công nghiệp đóng,
sửa chữa tàu thuyền và du lịch biển.
.Hai là, tập trung phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, với các
loại hình đa dạng nhƣ: du lịch tắm biển gắn với thể thao dƣới nƣớc; công viên hải
dƣơng; du lịch sinh thái. Chú ý phát triển các ngành nghề theo định hƣớng phục vụ
du lịch. Ngành thủy sản phát triển theo hƣớng khai thác và kết hợp với nuôi trồng các
loại thủy đặc sản vừa phục vụ nhu cầu của ngành du lịch, vừa cho xuất khẩu.
Ba là, hệ thống kết cấu hạ tầng đƣợc quy hoạch đầu tƣ phát triển theo hƣớng
hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, phục vụ cho
phát triển du lịch, dịch vụ.
Bốn là, nêu cao ý thức bảo vệ tài nguyên biển của nhân dân. Ngăn chặn các
hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trƣờng biển, bảo vệ đa dạng sinh học
Năm là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền Biển Đông của Tổ
quốc. Tăng cƣờng tuyên truyền nâng cao trình độ pháp luật về biển, Luật biển quốc
tế, những quy định bắt buộc đối với ngƣ dân khi ra khơi. Trang bị cho ngƣ dân
nghiệp vụ thông tin cứu nạn tàu thuyền đánh cá. Tăng cƣờng tuyên truyền về vị trí,
tầm quan trọng của thềm lục địa đối với phát triển kinh tế - xã hội trong tƣơng lai. Ý
thức của nhân dân trên một số lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên
biển chƣa thấu đáo nên hệ quả là hiểu về pháp luật, chấp hành luật trên biển còn
44
yếu, còn vi phạm pháp luật do không có kiến thức khi hoạt động ở vùng đánh cá
chung, ở khu phân định trên vịnh Bắc Bộ và không thông hiểu luật pháp quốc tế khi
tránh bão ở biển nƣớc ngoài. Thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá trong việc bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của đất nƣớc. Mỗi ngƣ dân là tai, là mắt tinh tƣờng trên vùng biển
trời của Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ quyền lãnh hải, đi đôi với
đấu tranh chống các quan điểm sai trái, kịp thời định hƣớng dƣ luận, bác bỏ luận
điệu xuyên tạc chống lại các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc ta về vấn
đề biển đảo.
Tiểu kết chương1
Biển là cửa ngõ giao lƣu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập
khẩu hàng hoá thuận lợi với chi phí thấp. Cùng với đó kinh tế biển bao gồm một hệ
thống các ngành bộ phận nhƣ: dầu khí, thuỷ sản, du lịch, giao thông biển…thúc đẩy
các ngành kinh tế này lớn mạnh sẽ đóng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh
tế của đất nƣớc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhƣ hiện nay thì
biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của quốc
gia và của ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển còn là nơi cung cấp nguyên liệu phong
phú, đa dạng cho công nghiệp chế biến. Chính vì thế mà kinh tế biển ngày càng giữ
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và trở thành động lực
thúc đẩy phát triển mỗi ngành kinh tế nói riêng. Mặt khác, phát triển kinh tế biển
cũng đồng thời tạo điều kiện giữ vững chủ quyền và an ninh của quốc gia.
Tuy nhiên, các nghề mới nhƣ khai thác dầu khí, nuôi trồng hải sản đặc sản,
du lịch biển, công nghiệp phụ trợ biển… đang trong quá trình phát triển bƣớc đầu.
Các nghề biển hƣớng tới tƣơng lai nhƣ năng lƣợng sóng thuỷ triều, dƣợc liệu biển,
khai thác khoáng sản dƣới lòng nƣớc sâu, hoá chất và dƣợc liệu biển... ở Việt Nam
chƣa đƣợc đầu tƣ nghiên cứu nhiều. Kỹ thuật tổng thể khai thác kinh tế biển vẫn
còn ở trình độ rất thấp, thô sơ nên hiệu quả đạt đƣợc chƣa cao. Ô nhiễm biển, đặc
biệt các vùng biển tập trung tài nguyên, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, vận tải biển
và công nghiệp ven bờ... đang gây ra nhiều vấn đề đối với phát triển bền vững.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập, tức phải cạnh tranh quốc tế để tồn tại và phát
45
triển, so với sự phát triển kinh tế biển của thế giới đƣơng đại, thì thấy rất rõ rằng, cơ
sở hạ tầng biển và các công trình kỹ thuật khác của biển còn nhiều yếu kém, lạc
hậu. Vấn đề kết hợp phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh quốc phòng chƣa
đƣợc chú ý đúng mức. Điều này đòi hỏi Việt Nam nói chung và các địa phƣơng cần
có hoạch định cho mình một cách rõ ràng và phù hợp để có thể phát triển kinh tế
46
biển có hiệu quả tối đa.
CHƢƠNG 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguồn dữ liệu
Để tiến hành thu thập dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả xác
định thông tin phải tuân thủ các yêu cầu: Những thông tin chứa đựng trong dữ liệu
phải phù hợp và đủ làm rõ mục tiêu nghiên cứu. Trên cơ sở đó, thông tin đƣợc thu
thập một cách chính xác, hợp lý và có giá trị, việc xác định dữ liệu các loại cũng
phải rõ ràng và xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài chủ yếu sử dụng và phân tích các số liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp là
dữ liệu do ngƣời khác thu thập, sử dụng cho các mục đích có thể là khác với mục
đích nghiên cứu của đề tài. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chƣa xử lý (còn gọi là
dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Ƣu điểm của dữ liệu thứ cấp là dễ tìm kiếm và
tìm kiếm nhanh. Đó là do dữ liệu thứ cấp đã tồn tại sẵn và vấn đề chỉ đơn thuần là
phát hiện ra chúng. Thời gian tập hợp dữ liệu thứ cấp chỉ mất vài giờ hoặc vài ngày.
Chi phí tiêu tốn cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với dữ liệu sơ
cấp. Dữ liệu thứ cấp phần lớn có trong các thƣ viện, các nguồn dữ liệu từ Chính phủ
thông qua các báo cáo, các dự án... Dữ liệu thứ cấp còn góp phần làm tăng giá trị
của những dữ liệu sơ cấp hiện hữu. Tác dụng này chủ yếu đƣợc thể hiện ở chỗ việc
thu thập dữ liệu thứ cấp ban đầu đã giúp cho việc định hƣớng và xác định mục tiêu
thu thập dữ liệu sơ cấp của nhà nghiên cứu. Vì những ƣu điểm đó, tác giả thu thập
các dữ liệu thứ cấp để tiến hành nghiên cứu đề tài.
Những số liệu thứ cấp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các luận văn
đã nghiên cứu trƣớc có cùng hoặc gần chủ đề, các nghiên cứu trên các phƣơng tiện
truyền thông, các báo cáo của các cấp ban ngành liên quan, văn kiện, nghị quyết,
niên giám thống kê qua các năm, sách, báo, tạp chí, các công trình đã đƣợc xuất
bản, các số liệu về tình hình cơ bản của tỉnh Nam Định, số liệu thống kê Nam Định
từ năm 2010 đến năm 2015 về cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế biển trong nông nghiệp, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội
47
của tỉnh Nam Định. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công
bố của các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học. Sử dụng các số liệu đƣợc thu
thập có trích dẫn tài liệu tham khảo theo quy định.
2.2. Phƣơng pháp luận chung
2.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng
Phƣơng pháp biện chứng duy vật là phƣơng pháp cơ bản của chủ nghĩa
MácLênin đƣợc sử dụng đối với nhiều môn khoa học khác nhau. Phƣơng pháp này
đòi hỏi khi xem xét các hiện tƣợng, các quá trình nghiên cứu phải đặt trong mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thƣờng xuyên vận động, phát triển không ngừng,
chứ không phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy về lƣợng dẫn
đến thay đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi
khi xem xét các hiện tƣợng và quá trình kinh tế gắn liền với những điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể.
Luận văn đã sử dụng phƣơng pháp này xuyên suốt quá trình thực hiện.Tác
giả luận văn luôn đặt vấn đề phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định trong trạng
thái vận động và phát triển qua từng năm,từng giai đoạn.Sự phát triển đó đƣợc thể
hiện ở tất cả các mặt từ chủ trƣơng đƣờng lối,kế hoạch ,chính sách thực hiện cũng
nhƣ những kết quả và thành tựu đạt đƣợc.Song song với việc đẩy mạnh phát triển
kinh tế biển thì tỉnh Nam Định cũng đồng thời đẩy mạnh đầu tƣ phát triển những
ngành nghề lĩnh vực khác nhƣ:nông nghiệp nông thôn,công nghiệp chế biến nông
lâm thủy hải sản,giáo dục y tế……….Và rồi khi đi vào phân tích mổ xẻ vấn đề ấy
thì lại luôn đặt nó trong mối quan hệ và tác động qua lại với các nội dung phát triển
kinh tế khác của tỉnh Nam Định nói riêng và cả nƣớc nói chung.
2.2.2. Phương pháp duy vật lịch sử
Vận dụng phƣơng pháp luận của duy vật lịch sử,luận văn nghiên cứu vấn đề
phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định trong bối cảnh lịch sử xác định qua từng
48
giai đoạn,từng thời kì cụ thể và đạt đƣợc những thành tựu lớn.
2.3. Các phương pháp khác
2.3.1 . Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu
Thu thập thông tin và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần
thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học
luôn đọc và tra cứu tài liệu có trƣớc để làm nền tảng cho nghiên cứu khoa học. Đây
là nguồn kiến thức quí giá đƣợc tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử
lâu dài. Vì vậy, mục đích của việc thu thập và nghiên cứu tài liệu nhằm:
- Nắm đƣợc phƣơng pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trƣớc đây.
- Làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình.
- Giúp ngƣời nghiên cứu có phƣơng pháp luận hay luận cứ chặt chẽ hơn.
- Có thêm kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu.
- Tránh trùng lập với các nghiên cứu trƣớc đây.
Để thu thập số liệu trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tài liệu thứ
cấp, bao gồm:
+ Các bộ luật, Nghị Quyết Trung ƣơng về kinh tế biển đảo, các Quyết định của Bộ
văn hoá, bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đề án của tỉnh Nam Định về kinh
tế biển
+ Các cuốn sách, giáo trình tài liệu viết về kinh tế biển
+ Các báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất về kinh tế biển của các Sở ban ngành có
liên quan đến kinh tế biển nhƣ: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định,
Sở Văn hoá – Du lịch Nam Định, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Nam Định,….
- Các tài liệu, số liệu từ các ấn phẩm và các websites chuyên ngành.
Phƣơng pháp thu thập thông tin đƣợc sử dụng cho chƣơng 1 nhằm xây dựng một
khung khổ lý thuyết cho vấn đề phát triển kinh tế biển một cách có hệ thống làm cơ
sở cho việc nghiên cứu ở chƣơng 3. Ở chƣơng 3, tác giả sử dụng phƣơng pháp này
nhằm tập hợp các số liệu tại các phòng ban chức năng liên quan đến quá trình phát
triển kinh tế biển ở Nam Định, sau đó phân tích, tổng hợp để có đƣợc các đánh giá,
49
kết luận khách quan và khoa học.
2.3.2. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học là phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù
của khoa học Kinh tế chính trị. Phƣơng pháp trừu tƣợng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ
những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong các quá trình và các hiện tƣợng đƣợc nghiên
cứu, tách ra những cái ổn định, điển hình trong các hiện tƣợng và quá trình đó, trên
cơ sở ấy nắm đƣợc bản chất của các hiện tƣợng, từ bản chất cấp một tiến đến bản
chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh
những bản chất đó. Quá trình này cũng chính là quá trình từ nhận thức cảm tính
nâng lên nhận thức lý tính, là quá trình lựa chọn sàng lọc những tƣ liệu phong phú,
vứt bỏ cái giả giữ lại cái thật, từ nội dung này tới nội dung kia, từ ngoài vào trong
để hình thành hệ thống khái niệm và lý luận.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn phát hiện nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn đôi khi chƣa phản ảnh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu. Do đó, phải sử
dụng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học để giữ lại những yếu tố bản chất trong
phân tích thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh. Sử dụng phƣơng pháp này,luận
văn đã tạm gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tƣợng đƣợc nghiên cứu nhũng
cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời. Tạm gác lại một số nhân tố, coi nhƣ không tồn
tại nhũng nhân tố đó để nhằm tách ra vấn đề điển hình đó chính là vấn đề phát triển
kinh tế biển tỉnh Nam Định.
2.3.3. Phương pháp thống kê mô tả
Đây là phƣơng pháp rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu các hiện
tƣợng kinh tế. Dựa vào phƣơng pháp này tác giả có đƣợc những thông tin cần thiết
để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Việc thống kê đƣợc thực hiện dựa trên những
số liệu, tài liệu có độ tin cậy cao. Từ đó, quá trình mô tả đƣợc tiến hành để làm rõ
những yếu tố tác động đến đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp này sử dụng nhiều ở
chƣơng 1, chƣơng 2 và chƣơng 3 của luận văn.
Trong chƣơng 1, luận văn thống kê mô tả các công trình nghiên cứu đã công
bố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, cơ sở lý luận về kinh tế biển, cơ cấu
50
kinh tế biển. Ở chƣơng 2, luận văn mô tả các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử
dụng cùng với nội dung phƣơng pháp, ý nghĩa của phƣơng pháp đối với việc đạt
đƣợc mục tiêu nghiên cứu.
Đối với chƣơng 3, sau khi thu thập số liệu, tiến hành thống kê, mô tả và tổng
hợp các số liệu, dữ liệu, luận văn đƣa ra những đánh giá về thực trạng phát triển
kinh tế biển. Trên cơ sở thống kê mô tả các số liệu, tình hình phát triển kinh tế biển
ở Nam Định đƣợc làm rõ, từ đó định hình đƣợc xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế biển ở đây. Đề tài sử dụng các bảng thống kê số liệu để mô tả hiện trạng cơ cấu
kinh tế biển, cũng nhƣ đánh giá tác động của các nhân tố tới chuyển dịch cơ cấu
kinh tế biển ở Nam Định trong những điều kiện, thời gian cụ thể.
2.3.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phân tích, trƣớc hết là phân chia cái toàn thể của đối tƣợng nghiên cứu thành
những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, từ
đó phát hiện ra những thuộc tính bản chất của từng yếu tố đó. Nhiệm vụ của phân
tích là thông qua cái riêng để tìm ra cái chung, thông qua hiện tƣợng để tìm ra bản
chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Tổng hợp là quá trình ngƣợc lại
với quá trình phân tích, nhƣng nó lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái
chung và cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để
có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra đƣợc bản chất, quy luật vận động
của đối tƣợng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phƣơng pháp gắn bó chặt chẽ, quy định và bổ
sung cho nhau trong nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính
quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn
tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tƣợng nghiên cứu bộ phận có
ý nghĩa rất quan trọng. Trong tổng hợp, vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên
kết các kết quả cụ thể (có lúc ngƣợc nhau) từ sự phân tích, khả năng trừu tƣợng,
khái quát nắm bắt đƣợc định tính từ rất nhiều khía cạnh định lƣợng khác nhau.
Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng chủ yếu trong chƣơng 3 và chƣơng 4
của luận văn. Ở chƣơng 3, phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế
51
biển ở Nam Định, tập trung vào các yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội. Đặc biệt, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để phân tích thực trạng phát
triển kinh tế biển, bao gồm: Phát triển ngành thủy hải sản, du lịch biển, phát triển
giao thông vận tải, đóng tàu biển.... Ở chƣơng 4, phƣơng pháp phân tích đƣợc sử
dụng để phân tích định hƣớng và dự báo xu hƣớng phát triển kinh tế biển ở tỉnh
Nam Định, trên cơ sở đó đƣa ra những giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế biển ở
tỉnh Nam Định trong thời gian tới.
Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng chủ yếu trong chƣơng 1 nhằm xây
dựng khung khổ lý thuyết cho đề tài nghiên cứu trên cơ sở những nghiên cứu trƣớc
đó. Ở chƣơng 3, phƣơng pháp tổng hợp cũng đƣợc sử dụng khi đánh giá những kết
quả đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết về vấn đề phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam Định.
2.3.5. Phương pháp so sánh
Thông qua nguồn số liệu thứ cấp đã thu thập, tiến hành so sánh với các tiêu
chí cụ thể để xem xét sự phát triển kinh tế biển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển ở
tỉnh Nam Định. Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện trên cơ sở so sánh giữa các
năm, so sánh tỷ trọng kinh tế giữa các ngành trong kinh tế biển… Từ đó, xác định
rõ thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Nam Định. Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử
dụng trong chƣơng 3 khi phân tích tình hình phát triển kinh tế biển ở Nam Định.
2.3.6. Phương pháp kết hợp logic với lịch sử
Phƣơng pháp kết hợp logic với lịch sử là phƣơng pháp xem xét sự vật, hiện
tƣợng theo đúng trật tự thời gian nhƣ nó đã từng diễn ra trong quá khứ (phát sinh,
phát triển và kết thúc). Là phƣơng pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển
của sự vật, hiện tƣợng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều góc cạnh, nhiều
mặt trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tƣợng khác. Phƣơng pháp này hƣớng đến
mục tiêu tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện tƣợng thể hiện ở mô
tả đầy đủ, cụ thể tính chất quanh co, phức tạp, bao gồm những cái ngẫu nhiên, cái
tất yếu và tính đa dạng. Yêu cầu đối với phƣơng pháp lịch sử là đảm bảo tính liên
tục về thời gian của các sự kiện, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển
52
và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự
việc xung quanh. Phƣơng pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và
hình thành ra nó, làm rõ quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
hoàn thiện của các sự vật hiện tƣợng. Đồng thời, đặt quá trình phát triển của sự vật,
hiện tƣợng trong mối quan hệ với nhiều sự vật hiện tƣợng tác động qua lại, thúc đẩy
hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Phƣơng pháp lịch sử
là phƣơng pháp quan trọng trong nghiên cứu, vì khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện
tƣợng phải coi trọng các quan điểm lịch sử, các sự vật, hiện tƣợng tƣơng đồng đã
xảy ra trƣớc đó.
Nhƣng lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tƣ duy cũng cần bắt đầu từ đó, nhƣng
lịch sử thƣờng xuất hiện những bƣớc nhảy hoặc quanh co khúc khuỷu nên cần phải
có phƣơng pháp logic. Phƣơng pháp logic là phƣơng pháp xem xét, nghiên cứu các
sự kiện lịch sử dƣới dạng tổng quan, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hƣớng tất yếu,
quy luật vận động của lịch sử. Theo đó, phƣơng pháp logic có thể thoát khỏi hình
thức lịch sử trực quan và tính ngẫu nhiên phức tạp, tiến hành suy lý logic. Nhƣng
suy lý logic không phải là suy lý trừu tƣợng thuần túy tách rời quá trình lịch sử,
ngƣợc lại, suy lý logic cần phải kết hợp với sự phát triển từ thấp đến cao của lịch sử,
thông qua suy lý tƣ duy, bằng hình thức lý luận khái quát, từ khái niệm đơn giản
đến khái niệm phức tạp, tái hiện lại độ chân thực của lịch sử. Phƣơng pháp locgic
cũng phản ánh quá trình lịch sử nhƣng phản ánh dƣới hình thức trừu tƣợng và khách
quan bằng lý luận, có nghĩa là phƣơng pháp logic trình bày sự kiện một cách khái
quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ những chi tiết không cơ bản. Chính vì
vậy, phƣơng pháp logic phải thống nhất hữu cơ với phƣơng pháp lịch sử. Theo
Ăngghen, phƣơng pháp logic không phải là cái gì khác phƣơng pháp lịch sử, chỉ có
điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên, pha trộn.
Theo đó, đề tài đã vận dụng phƣơng pháp kết hợp logic với lịch sử để nghiên
cứu quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định qua các thời kỳ, giai đoạn gắn với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Trên cơ sở đó, đƣa ra những
giải pháp nhằm tiếp tục phát triển kinh tế biển ở Nam Định trong thời gian tới. Quá
53
trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đƣợc nghiên cứu theo một trình tự liên tục,
đƣợc xem xét trên nhiều mặt. Từ đó, làm rõ các điều kiện, các vấn đề, các chính
sách, chủ trƣơng, nhân tố… tác động đến quá trình phát triển kinh tế biển của tỉnh.
Đồng thời, đặt vấn đề phát triển kinh tế biển trong quan hệ tƣơng tác qua lại, thúc
đẩy hoặc cản trở lẫn nhau với các ngành khác trong quá trình phát triển. Với đó,
luận văn cung cấp một cái nhìn toàn diện về phát triển kinh tế biển ở Nam Định
hiện nay.
Trên cơ sở đảm bảo tính liên tục của việc nghiên cứu phát triển kinh tế biển
trong cả giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chú ý đến sự vận động logic của phát triển
kinh tế - xã hội gắn với triển khai chính sách về phát triển kinh tế biển, luận văn
trình bày các sự việc và đƣa ra những nhận định, những quy luật vận động của cơ
cấu kinh tế biển, từ đó rút ra xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu kinh biển ở Nam Định.
Ngoài các chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc cũng nhƣ địa phƣơng, phát triển
kinh tế biển còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, dân cƣ – lao
động… của địa phƣơng nên trong việc đƣa ra xu hƣớng, quy luật của phát triển kinh
tế biển. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong chƣơng 3 và chƣơng 4 của luận văn
54
nhằm tập trung phân tích các nội dung phát triển và đƣa ra các giải pháp phù hợp.
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NAM ĐỊNH
GIAI ĐOẠNTỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Những tiềm năng và khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển của Nam
Định trong giai đoạn hiện nay
3.1.1. Tiềm năng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Lợi thế về vị trí địa lý
Nam Định là tỉnh ở phía Nam châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Thái
Bình và Hà Nam, phía Tây và Tây Nam giáp Ninh Bình, phía Đông và Nam giáp
biển Đông. Trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của tỉnh là thành phố Nam Định,
cách Hà Nội 90 km.
Nam Định nằm trong vùng ảnh hƣởng trực tiếp của Tam giác tăng trƣởng Hà
Nội - Hải Phòng - Hạ Long và tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai - Hà
Nội - Hải Phòng, Hành lang Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và Vành
đai kinh tế ven vịnh Bắc Bộ, có mạng lƣới đƣờng bộ (QL 1, QL 10, QL 21), đƣờng
sắt xuyên Việt dài 45 km với 5 nhà ga, đƣờng biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi
cho giao lƣu kinh tế, có bờ biển dài trên 72 km và vùng thềm lục địa rộng lớn. Đặc
biệt chỉ cách Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng khoảng 90 km. Đây là những thị
trƣờng tiêu thụ rộng lớn (nhất là nông sản thực phẩm và lao động), đồng thời cũng
là những trung tâm hỗ trợ đầu tƣ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công
nghệ và cung cấp thông tin cho Nam Định.
Vị trí địa lý nhƣ trên tạo điều kiện thuận lợi cho Nam Định phát triển sản
xuất hàng hoá quy mô lớn và mở rộng giao lƣu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong
vùng, cả nƣớc và quốc tế. Song mặt khác cũng là một thách thức lớn đối với Nam
Định trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
Với đƣờng biển dài 72 km, nối tiếp với hai cửa biển và hai dòng sông lớn là
sông Hồng và sông Đáy, vì vậy Nam Định có một tầm quan trọng về quân sự, kinh
55
tế, chính trị, văn hóa và du lịch. Địa hình của tỉnh chủ yếu là vùng đồng bằng
chiêm trũng, vùng đồng bằng ven biển, bãi bồi cồn cát lƣợn sóng. Ngoài ra, còn có
vùng đồi núi và nửa đồi núi. Tỉnh có 2 hệ thống sông lớn là sông Hồng, sông Đáy
và nhiều sông nhỏ khác giúp cho giao thông đƣờng thủy rất thuận lợi. Hệ thống
đƣờng bộ, đƣờng sắt tƣơng đối phát triển. Đất đai có độ phì nhiêu cao thuận lợi cho
việc phát triển nông nghiệp. Dọc bờ biển có tới 5 cửa sông, có rất nhiều bãi cá lớn,
có 2 cảng lớn là cảng sông Nam Định và cảng biển Hải Thịnh.
3.1.1.2. Lợi thế về tài nguyên
Khí hậu nhiệt đới chia 2 mùa: mùa khô từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 4
năm sau, mùa mƣa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình khoảng 23°c. Nam
Định là tỉnh có tiềm năng về trồng cây lƣơng thực, kinh tế biển, nuôi trồng và đánh
bắt hải sản.Trên thềm lục địa bờ biển Nam Định còn có nhiều khả năng khai thác
các nguồn tài nguyên quý giá khác. Nam Định là một tỉnh giàu tiềm năng về du lịch.
Những di tích lịch sử của tỉnh đồng thời là danh lam thắng cảnh. Đến Nam Định, du
khách sẽ có dịp đến thăm khu di tích đời Trần, chùa Tháp Phổ Minh, chùa Cổ Lễ,
Phủ Giày,...Vùng biển của tỉnh có bãi tắm Thịnh Long, Quất Lâm, sân chim cồn Lu,
cồn Ngạn, nơi quy tụ nhiều loại chim hiếm đã đƣợc các nhà sinh học nổi tiếng về
đây nghiên cứu.
Địa hình Nam Định có thể chia thành 3 vùng:
- Vùng đồng bằng thấp trũng: gồm các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam
Trực, Trực Ninh, Xuân Trƣờng. Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát
triển nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí và
các ngành nghề truyền thống.
- Vùng đồng bằng ven biển: gồm các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu và Nghĩa
Hƣng; có bờ biển dài 72 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế
tổng hợp ven biển.
- Vùng trung tâm công nghiệp – dịch vụ thành phố Nam Định: có các ngành
công nghiệp dệt may, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, các ngành nghề
truyền thống, các phố nghề… cùng với các ngành dịch vụ tổng hợp, dịch vụ chuyên
56
ngành hình thành và phát triển từ lâu. Thành phố Nam Định từng là một trong
những trung tâm công nghiệp dệt của cả nƣớc và trung tâm thƣơng mại - dịch vụ,
cửa ngõ phía Nam của đồng bằng sông Hồng.
Đất đai :
Về thổ nhƣỡng, đất ở Nam Định đƣợc chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đất cổ ở
phía Bắc gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và thành phố Nam Định. Vùng
đất trẻ ở phía Nam, gồm các huyện Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trƣờng, Hải Hậu,
Nghĩa Hƣng, Giao Thuỷ và đất ngập mặn ở ven biển. Đất tại tỉnh Nam Định chủ
yếu là đất phù sa sông bồi lắng, có độ phì khá, có những nơi hàng năm còn đƣợc bồi
đắp, nhất là ven biển Giao Thủy, Nghĩa Hƣng. Thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến
trung bình, khả năng giữ nƣớc và giữ chất dinh dƣỡng tốt thuận lợi cho phát triển
các loại cây trồng.
Tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Nam Định năm 2011 là 165.217 ha, so với
năm 2000, diện tích đất tự nhiên năm 2005 tăng 1.477,02 ha, chủ yếu là do khu vực
bãi bồi ven biển ở hai huyện Giao Thuỷ và Nghĩa Hƣng tiếp tục đƣợc bồi lắng. Bao
gồm các loại: đất cát (ven sông và ven biển), đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất
feralít, đất sỏi đá và đất mới biến đổi. Trong đó đáng chú ý nhất là loại đất cát ven
sông đã tạo ra những cánh đồng dâu bạt ngàn làm nên làng nghề trồng dâu, nuôi
tằm, dệt sợi nhuộm nổi tiếng từ thời phong kiến và phát triển cực điểm vào thời
Pháp thuộc, thời kinh tế bao cấp với hệ thống các nhà máy dệt sợi, nhuộm, may lớn
nhất Miền Bắc. Lợi thế về nghề dệt may đƣợc phát huy tối đa tạo nên nét đặc trƣng
của thành phố Nam Định- thành phố dệt và đƣa tỉnh Nam Định trở thành một trong
ba cực phát triển (Hà Nội-Nam Định-Hải Phòng) của Miền Bắc trong nhiều thập kỷ.
Cơ cấu sử dụng nguồn tài nguyên đất của tỉnh theo thống kê năm 2011 gồm:
đất nông nghiệp 113.517 ha (chiếm 68,74% diện tích toàn tỉnh), trong đó diện tích
đất sản xuất nông nghiệp là 93.426 ha, đất lâm nghiệp có rừng 4.250 ha, đất nuôi
trồng thủy sản là 14.609 ha; đất phi nông nghiệp chiếm 47.971 ha (29,04%) và đất
chƣa sử dụng chiếm 2,22% với 3.674 ha. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu
ngƣời của tỉnh Nam Định rất thấp (509,6 m2/ngƣời) [1]. Tuy nhiên, đất lại khá màu
57
mỡ, có khả năng thâm canh cao, nhất là trồng lúa và các loại cây màu, cây công
nghiệp ngắn ngày, tạo nên nguồn nguyên liệu tƣơng đối dồi dào cho phát triển các
làng nghề chế biến lƣơng thực thực phẩm. Vùng ven biển Giao Thuỷ, Nghĩa Hƣng
đất đang đƣợc bồi tụ ra biển với tốc độ rất nhanh, bình quân mỗi năm tiến ra biển
đƣợc 80 - 120 m và có khả năng tăng thêm từ 1.500 - 2.000 ha sau 5 năm. Hiện là
những vùng nuôi trồng thuỷ sản quan trọng và trồng cói (~ 100 ha) - cung cấp
nguồn nguyên liệu cho các làng nghề dệt cói với nhiều sản phẩm khác nhau.
Tài nguyên rừng và hệ sinh thái:
- Rừng: Theo kết quả tổng kiểm kê đất đai tính đến năm 2000 toàn tỉnh có
4.723 ha rừng các loại, chủ yếu là diện tích rừng trồng 4.723 ha. Tỷ lệ che phủ đạt
2,9%. Rừng ở Nam Định chủ yếu là rừng phòng hộ, cây trồng chính là sú, vẹt, phi
lao, bần. Rừng góp phần làm trong lành không khí cho khu vực.
- Hệ sinh thái: Nam Định thuộc hệ sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới khá đa
dạng, phong phú. Hệ thực vật chiếm khoảng 50%, hệ động vật chiếm khoảng 40%
cả nƣớc. Đặc biệt là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Cồn Lu, Cồn Ngạn (nay
đã đƣợc công nhận là Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ), hệ động thực vật khá đa dạng
phong phú.
Du lịch
Nam Định là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và văn hóa và những danh lam
thắng cảnh đẹp, tạo thành nhiều quần thể du lịch hấp dẫn du khách.
Lợi thế về tài nguyên biển:
Vùng đồng bằng ven biển của tỉnh Nam Định gồm các huyện Giao Thủy, Hải
Hậu và Nghĩa Hƣng; có bờ biển dài hơn 70 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế tổng hợp ven biển. Giao Thủy, Hải Hậu và Nghĩa Hƣng là ba
tỉnh giàu tiềm năng phát triển kinh tế biển.Có 3 cửa sông lớn là cửa Ba Lạt (sông
Hồng), cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ), cửa Đáy (sông Đáy). Ngoài khơi các cửa
sông của Nam Định hình thành nhiều bãi cá,bãi tôm lớn của vịnh Bắc Bộ (bãi cá
ngoài khơi từ cửa Ba Lạt đến Hải Phòng; bãi cá từ cửa Ba Lạt đến ngang Lạch
58
Trƣờng- Thanh Hoá; bãi tôm từ cửa Ba Lạt đến ngoài khơi đảo Cát Bà- Hải Phòng).
Huyện Giao Thủy có 32 km bờ biển, có hai cửa sông lớn, nơi sông Hồng và
sông Sò đổ ra biển. Với vùng đất bãi bồi ven biển, nơi đây có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển các ngành kinh tế nhƣ khai thác, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp
đóng tàu và du lịch.
Huyện Hải Hậu có đƣờng bờ biển dài 32km chạy dọc theo thị trấn Thịnh
Long, các xã Hải Hòa , Hải Triều, Hải Chính, Hải Lý, Hải Đông. Cảng biển quy mô
lớn Thịnh Long , là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển . Đƣợc
,
hình thành trên dải đất phù sa màu mỡ cuối vù ng đồng bằng châu thổ sông Hồng Hải Hậu còn là vựa lúa của toàn tỉnh, là một trong những đơn vị đầu tiên đạt năng
suất lúa 5 tấn/ha và nổi tiếng với gạo tám, nếp hƣơng, dự.
Nghĩa Hƣng là huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nam
Đi ̣nh. Huyện có có 12km chiều dài bờ biển. Phía trong đê biển san sát nhƣ̃ng hồ chƣ́ a, ao, đầm nuôi trồng thủy sản, phía ngoài đê là khoảng 3.500 ha bãi ngập triều.
Ven biển Nam Định có những khu rừng ngập mặn thu hút nhiều loài chim
trên thế giới đến trú đông, ƣớc tính đến 30.000 con. Khu bảo tồn thiên nhiên Giao Thuỷ rộng 120 km2, đã đƣợc thế giới công nhận là khu bảo vệ theo công ƣớc
quốc tế Ramsar đầu tiên ở Đông Nam Á.
Nƣớc biển Nam Định có độ mặn cao, ven biển có nhiều cánh đồng muối
lớn, tiêu biểu là đồng muối Văn Lý, với sản lƣợng muối hàng năm vào loại cao của
cả nƣớc.Sóng biển Nam Định không dữ dội, có nhiều bãi tắm lý tƣởng, cát trắng
mịn nhƣ bãi tắm Thịnh Long, Giao Lâm, Quất Lâm...
Biển Nam Định nông và bằng phẳng. Độ sâu tăng dần từ trong ra ngoài
khoảng 3-100 m. Biển Nam Định mỗi năm lùi ra khoảng 100-200 m, do phù sa sông
Hồng bồi đắp ở cửa Ba Lạt, Lạch Giang tạo thêm diện tích khoảng 400 ha/năm.
Bình quân mỗi năm quai thêm đƣợc 150 ha đất ở cao trình 0,5-0,8 m trở lên. Bờ
biển Nam Định bị chia cắt khá mạnh mẽ bởi nhiều cửa sông lớn, vùng ven biển
nông và bằng phẳng với độ sâu tăng dần từ từ.
Diện tích cũng nhƣ điều kiện tự nhiên đem lại cho các địa phƣơng ven biển
59
của Nam Định là những yếu tố để tạo nên tiềm năng phát triển kinh tế biển của tỉnh
Nam Định. Diện tích đƣờng bờ biển không hề nhỏ tạo nên mối liên kết chặt chẽ với
biển. Chính nhờ yếu tố địa hình đã giúp tạo ra ngành nghề truyền thống của ngƣời
dân nơi đây. Với điều kiện “ bám biển” nên cuộc sống ngƣời dân chủ yếu là các
công việc gắn với biển. Do tính chất gắn bó lâu năm với biển nên khi tập trung đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển ở các địa phƣơng này cũng thuận lợi và dễ dàng hơn.
3.1.2. Những lợi thế về kinh tế - xã hội
3.1.2.1 Lợi thế về nguồn lao động dồi dào và có chất lượng tốt
Theo điều tra dân số 01/04/2014 Nam Định có 1,805,771 ngƣời với mật độ
dân số 1,196 ngƣời/km².. Về mặt hành chính đƣợc chia thành 10 đơn vị hành chính,
bao gồm thành phố Nam Định và 9 huyện, tính từ bắc xuống nam là Mỹ Lộc, Vụ
Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trƣờng, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa
Hƣng với 230 xã, phƣờng, thị trấn.
Bảng 3.1. Thống kê dân số tỉnh Nam Định từ 2011-2014
Năm Diện tích(*) Dân số trung bình Mật độ dân số
(Km2) (Nghìn ngƣời) (Ngƣời/km2)
2011 1.651,4 1.833,5 1.110,3
2012 1.652,6 1.835,1 1.110,4
2013 1.652,8 1.839,9 1.113,2
2014 1.653,2 1.845,6 1.116,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 3.2. Diện tích, dân số, mật độ dân số phân theo các đơn vị hành chính
của Nam Định năm 2011
Đơn vị hành chính
Diện tích (km2) Dân số (ngƣời) Mật độ dân số (ngƣời/km2)
1.652,17 1.833.500 1.110 Tổng số
46,23 245.667 5.314 TP. Nam Định
73,65 69.350 942 H. Mỹ Lộc
60
148,00 129.863 877 H. Vụ Bản
H. Ý Yên 241,21 227.541 943
H. Nghĩa Hƣng 254,43 178.868 703
H. Nam Trực 161,70 192.694 1.192
H. Trực Ninh 143,54 176.877 1.232
H. Xuân Trƣờng 114,97 166.058 1.444
H. Giao Thuỷ 238,24 189.195 794
H. Hải Hậu 230,20 257.387 1.118
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nam Định có nguồn nhân lực khá dồi dào và đa dạng về ngành nghề. Hiện
nay Nam Định có khoảng 1.157.835 ngƣời trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở
lên). Lực lƣợng lao động chiếm tỷ lệ khá cao, cao hơn mức trung bình của cả nƣớc,
cũng nhƣ khu vực đồng bằng sông Hồng.
Bảng 3.3. Số ngƣời trong độ tuổi lao động tỉnh Nam Định giai đoạn 2005-2014
Năm 2005 2007 2009 2010 2011 2013 Sơ bộ
2014
994,0 1.083,1 1.075,1 1.070,1 1.082,2 1.145,4 1.157,8 Số lao động
( nghìn ngƣời)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 3. 4. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên so với tổng số dân
Đơn vị: %
2005 2007 2008 2010 2011 2012 2013 Sơ bộ
2014
51,9 53,7 54,6 56,4 57,3 57,9 58,2 58,1 CẢ NƢỚC
56,7 Đồng bằng sông Hồng 53,9 55,1 54,7 56,6 56,7 57,0 57,3
52,0 56,2 54,5 58,1 55,1 56,7 56,7 57,1 Bắc Ninh
61
51,8 53,8 53,4 55,4 57,0 58,0 59,4 57,5 Quảng Ninh
59,8 57,3 56,9 60,1 61,7 60,4 60,8 58,3 Hải Dƣơng
52,7 52,4 52,6 55,3 55,4 55,2 55,9 55,8 Hải Phòng
56,6 57,6 57,0 59,9 60,8 60,4 60,5 59,9 Hƣng Yên
51,2 57,3 57,6 57,2 58,3 59,9 61,4 61,8 Nam Định
Nguồn: Tổng cục thống kê
Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tiếp tục đƣợc
mở rộng, bình quân hàng năm có trên 1,75 vạn lao động đƣợc đào tạo ở các trình độ
khác nhau, đƣa tổng số lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2005 đạt 39% (trong đó tỉ
lệ lao động qua đào tạo nghề chuyên môn đạt 25,5%).
Bảng 3.5. Tỷ lệ lao động trên 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế đã qua đào tạo
Đơn vị: %
2008 2009 2010 2011 2012 2013 Sơ bộ 2014
14,3 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 CẢ NƢỚC
18,1 20,9 20,7 21,1 24,0 24,9 25,9 Đồng bằng sông Hồng
25,1 32,0 27,8 28,3 32,1 32,5 36,1 Quảng Ninh
15,1 14,7 14,1 13,4 14,7 13,4 15,0 Hải Dƣơng
23,1 23,3 22,4 23,6 24,0 26,6 27,6 Hải Phòng
11,5 13,7 13,0 13,2 16,8 17,7 20,0 Hƣng Yên
12,0 11,9 10,8 11,7 13,3 15,7 11,0 Nam Định
Nguồn: Tổng cục thống kê
Với một đội ngũ lao động lớn có trình độ khoa học kĩ thuật, trong đó có khoảng
30 nghìn ngƣời có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học cộng thêm tính cách cần
cù, năng động, sáng tạo của ngƣời Nam Định sẽ là một nhân tố quan trọng trong phát
triển kinh tế đặc biệt là ngành kinh tế biển có lợi thế so sánh của Nam Định.
3.1.2.2. Tiểm năng về kết cấu hạ tầng
Trong những năm qua, Nam Định luôn xác định phát triển hạ tầng giao thông
là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)
62
của tỉnh.
* Về giao thông: Thời gian quaNam Định đã tập trung đầu tƣ cải tạo, nâng
cấp, xây dựng mới các tuyến đƣờng giao thông huyết mạch nhằm tạo bƣớc đột phá
trong cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và phát triển KT-XH. Trong 5 năm qua, tổng vốn
đầu tƣ phát triển xã hội của tỉnh đạt 108,9 nghìn tỷ đồng, gấp 2,91 lần so với giai
đoạn 2006-2010, chỉ tính riêng huy động vốn đầu tƣ xây dựng hạ tầng giao thông
nông thôn giai đoạn 2011-2014 đạt 5.367 tỷ đồng. Nam Định đã hoàn thành việc
đầu tƣ cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới và đƣa vào sử dụng 172 km đƣờng quốc lộ;
110 km đƣờng tỉnh lộ và hàng ngàn km đƣờng liên thôn, liên xã nhƣ: quốc lộ 21,
quốc lộ 37B, quốc lộ 38B, tỉnh lộ 490C, tỉnh lộ 485, tỉnh lộ 488C, tỉnh lộ 489... Đặc
biệt tuyến đƣờng bộ mới Nam Định - Phủ Lý đã đƣợc Bộ GTVT chính thức đƣa vào
quy hoạch mạng lƣới đƣờng cao tốc quốc gia.Đây là tuyến đƣờng chiến lƣợc kết nối
giao thông Nam Định và các tỉnh trong vùng giao thƣơng với cửa ngõ Thủ đô; giúp
cải thiện đáng kể môi trƣờng đầu tƣ và tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc.
Hạ tầng giao thông đƣờng thủy cũng đƣợc quan tâm phát triển với dự án cải
tạo cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ) - một trong những hợp phần của dự án WB6
đƣợc khởi công đầu năm 2014 và đang thực hiện thi công với tổng mức đầu tƣ 80
triệu USD. Dự án kênh kết nối sông Đáy - Ninh Cơ dự kiến đƣợc triển khai thi công
vào năm 2016. Đây là một trong những dự án giao thông đƣờng thủy có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy hiệu quả khai thác giao thông thủy nội địa và kết nối giao thông
thủy nội địa quốc gia thông qua hình thức vận tải pha sông biển, giúp cho tàu phà
sông biển có trọng tải 1.000 - 3.000 tấn đến cảng Ninh Phúc và các cảng trên sông
Hồng, sông Ninh Cơ.
* Bưu chính, viễn thông: Hệ thống bƣu chính viễn thông của Nam Định
không ngừng đƣợc cải tạo, nâng cấp, đầu tƣ mới, có thể liên lạc khá thuận tiện giữa
các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nƣớc.
* Điện, nước: Hệ thống điện và cấp nƣớc của tỉnh đã, đang đƣợc cải tạo nâng
cấp. Nam Định gần các nguồn năng lƣợng lớn nhƣ thủy điện Hòa Bình 1.920 MW,
63
nhiệt điện Phả Lại có quy mô trên 800 MW, gần vùng than Quảng Ninh với trữ
lƣợng khá, chính là điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lƣợng cho
sản xuất công nghiệp và các hoạt động dịch vụ.Ngoài ra hiện nay Nam Định đang
bắt đầu triển khai xây dựng nhà máy nhiệt điện với tổng công suất 2.400MW. Dự
kiến khi đi vào hoạt động sẽ đóng góp cho ngân sách tỉnh Nam Định 2-3 nghìn tỉ
đồng mỗi năm.
* Kết cấu hạ tầng khác: Nam Định hiện nay có nhiều cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ nhu cầu của các ngành kinh tế tỉnh, đặc biệt là kinh tế biển. Hiện
tại ở tỉnh có 3 trƣờng đại học (Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Nam Định, Đại học Điều
dƣỡng Nam Định, , Đại học Dân lập Lƣơng Thế Vinh); 4 viện nghiên cứu: Thủy
sản, Hải sản, Y học biển, phân viện Hải dƣơng học, 3 trƣờng cao đẳng chuyên
nghiệp (Cao đẳng Công nghiệp, Cao đẳng Xây dựng, Cao đẳng Sƣ phạm) và có 40
cơ sở đào tạo dạy nghề gồm các hệ cao đẳng, trung học, công nhân kĩ thuật, sơ cấp
nghề. Những cơ sở đào tạo này có khả năng đào tạo đƣợc đội ngũ lao động ở nhiều
trình độ, nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó đặc biệt là các ngành hàng hải,
thƣơng mại, giao thông vận tải, thủy sản, du lịch và các ngành dịch vụ khác.
3.1.3. Những khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Tỉnh Nam Định có nhiều tiềm năng và lơ ̣i thế để phát triển kinh tế biển. Theo tinh thần Nghi ̣ quyết Đa ̣i hô ̣i đại biểu Đảng bô ̣ tỉnh lần thƣ́ XVIII xác đi ̣nh "kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nho ̣n ". Trong những năm qua kinh tế biển củ a tỉnh Nam Đi ̣nh đã đa ̣t đƣơ ̣c nhiều thành tích đáng khích lê ̣ , đánh bắt, nuôi trồng thuỷ , hải sản đã có bƣớc nhảy vọt . Điều quan tro ̣ng là đã chuyển đổi thành công nhiều vù ng đất nhiễm mă ̣n, nhiều vù ng đất trũng không có khả năng cấy lú a thành nhƣ̃ng trang tra ̣i
nuôi thuỷ hải sản đa ̣t hiê ̣u quả kinh tế cao.
Bên cạnh những lợi thế, tiềm năng để phát triển kinh tế biển, Nam Định cũng
đã và đang gặp phải những khó khăn to lớn. Đó là khó khăn về những bất lợi của tự
nhiên, về cơ chế chính sách, về nguồn lực đầu tƣ:
Thứ nhất,sự biến đổi khí hậu từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, Nam
Định đã h ứng chịu khoảng 30 trận bão, 1 trận lốc, 4 trận lũ gây thiệt hại lớn về
64
ngƣời và của, ƣớc tính hàng nghìn t ỷ đồng. Các hiện tƣợng thời tiết cực đoan, nhƣ
nhiệt độ tăng cao, nắng nóng kéo dài , lƣợng mƣa thay đổi bất thƣờ ng , mức độ rét
đậm, rét hại, áp thấp nhiệt đới, bão lũ, hạn hán, sạt lở đất, dịch bệnh... kết hợp với
nƣớc biển dâng, xâm nhập mặn... đã gây nhiều khó khăn cho trồng tro ̣t , chăn nuôi,
khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản;
Thứ hai, Nam Định có tiềm năng du lịch tự nhiên và du lịch sinh thái.Tuy
nhiên tiềm năng này lại bị hạn chế vì khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, trong đó có
mùa đông lạnh. Điều này đã làm cho các quần thể du lịch nhƣ Thịnh Long, Quất
Lâm, vƣờn quốc gia Xuân Thủy – các trọng tâm du lịch biển của tỉnh mang tính
mùa vụ rõ rệt chứ không đƣợc khai thác quanh năm một cách triệt để nhƣ các khu
du lịch biển ở Nam Trung bộ, Đông Nam bộ…
Thứ ba, trong thời kì đổi mới, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nam Định đạt
tốc độ khá song chƣa đảm bảo tính bền vững. Tỉ trọng dịch vụ trong GDP cũng đã
tăng dần, song chƣa tƣơng xứng với tiềm năng lợi thế của tỉnh (năm 2004: 49,8%,
năm 2005: 50,4%, năm 2006: khoảng 51%). Nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh
còn phụ thuộc vào môi trƣờng bên ngoài, tỉ lệ nội địa hóa còn thấp, giá trị gia tăng
chƣa cao.Sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và của các doanh
nghiệp cũng nhƣ nền kinh tế tỉnh còn thấp.Số lƣợng, chủng loại hàng hóa dịch vụ có
khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng chƣa nhiều.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chậm, chƣa thực sƣ tạo ra
thế và lực cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành có tiềm năng, thế mạnh nhƣ dịch vụ
cảng biển, du lịch…
Thứ năm, kết cấu hạ tầng kĩ thuật của Nam Định mặc dù từng bƣớc đƣợc cải
thiện đáng kể, tuy nhiên chất lƣợng còn chƣa đƣợc đảm bảo, đặc biệt kết cấu hạ
tầng du lịch về cơ bản mới chỉ đáp ứng yêu cầu nội địa.
3.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến nay
3.2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng biển
Những năm gần đây, tỉnh Nam Định xác định việc phát triển các khu kinh tế,
khu công nghiệp ven biển, cảng biển... là hƣớng đi phù hợp để thúc đẩy phát triển
65
kinh tế biển của địa phƣơng.Theo đó, Nam Định đã nỗ lực nghiên cứu, quy hoạch
vùng kinh tế biển và phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế biển.
Trong quy hoạch vùng kinh tế biển, Nam Định đã quy hoạch Khu kinh tế
Ninh Cơ với quy mô 13.950ha trên địa bàn hai huyện Hải Hậu và Nghĩa Hƣng. Đặc
biệt, mới đây, Thủ tƣớng Chính phủ cũng đã đồng ý thành lập và bổ sung Khu kinh
tế Ninh Cơ vào Quy hoạch tổng thể phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam
đến năm 2020.
Theo đó, Khu kinh tế Ninh Cơ đƣợc xây dựng theo các tiêu chí về khu công
nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Hiện nay, UBND tỉnh Nam Định tiếp tục khảo
sát, nghiên cứu để hoàn thiện đề án trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định. Theo
quy hoạch, Khu kinh tế Ninh Cơ có cảng biển nƣớc sâu, kết nối thuận lợi với trục
giao thông huyết mạch của quốc gia, quốc tế.Đến năm 2020, Khu kinh tế Ninh Cơ
đóng góp khoảng 20% GDP của tỉnh.Khu kinh tế Ninh Cơ đƣợc kỳ vọng trở thành
trung tâm lớn trong giao thƣơng quốc tế về công nghiệp, thƣơng mại, du lịch và
cảng biển của vùng nam Đồng bằng sông Hồng.
Là một phần của Khu kinh tế Ninh Cơ, Khu công nghiệp Dệt may Rạng
Đông (huyện Nghĩa Hƣng) có quy mô giai đoạn I là 600ha. Hiện nay, tỉnh Nam
Định đang tập trung cao độ cho công tác giải phóng mặt bằng để có thể khởi công
trong tháng 5-2015. Sau khi hoàn thiện và đi vào hoạt động, Khu công nghiệp Dệt
may Rạng Đông sẽ tạo ra khoảng 1 tỷ mét vải mỗi năm, đáp ứng đáng kể nhu cầu
của thị trƣờng trong nƣớc, tạo việc làm cho khoảng 10 vạn lao động, đóng góp hơn
2.000 tỷ đồng cho ngân sách địa phƣơng.
Về cơ sở hạ tầng, ông Lê Nguyên Khính, Giám đốc Sở Giao thông vận tải
tỉnh Nam Định, cho biết: Để tạo động lực cũng nhƣ các điều kiện hạ tầng cần thiết
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế biển, chính quyền tỉnh Nam Định đang tập trung
cao độ cho các dự án hạ tầng giao thông quan trọng nhằm kết nối vùng kinh tế ven
biển của tỉnh với các vùng kinh tế khác trong khu vực và cả nƣớc.
Nam Định đã khởi công dự án đƣờng trục phát triển nối vùng kinh tế biển
66
tỉnh với đƣờng cao tốc Cầu Giẽ-Ninh Bình trong quý III-2015. Tuyến đƣờng trên
dài hơn 45km, có tổng mức đầu tƣ hơn 5.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, trong tháng 9
năm 2015, Nam Định cũng đã khởi công dự án cầu Thịnh Long, nối hai bờ sông
Ninh Cơ và là một phần của tuyến quốc lộ ven biển qua địa bàn tỉnh Nam Định.
Cùng với đó, công trình đƣờng thủy Lạch Giang, kênh nối sông Ninh Cơ và
sông Đáy (tiểu hợp phần A2 thuộc Dự án phát triển giao thông vận tải khu vực
Đồng bằng Bắc Bộ có tổng vốn đầu tƣ hơn 210 triệu USD do Bộ Giao thông vận tải
làm chủ đầu tƣ) đang đƣợc triển khai. Công trình cửa Lạch Giang gồm 8 gói thầu
với các hạng mục chính là xây dựng đê chắn sóng, nạo vét và bảo vệ luồng, có tổng
mức đầu tƣ hơn 1.600 tỷ đồng.
Với một loạt dự án lớn đƣợc triển khai trong những năm qua, Nam Định sẽ
có điều kiện thuận lợi để phát triển các dịch vụ vận tải thủy, cảng nƣớc sâu... Theo
đó, trong tƣơng lai không xa, kinh tế biển của Nam Định sẽ đƣợc thúc đẩy với các
khu công nghiệp cùng các đô thị ven biển hình thành, tạo cho Nam Định một diện
mạo mới.
Mặt khác,trong những năm qua, mạng lƣới cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch
và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Nam
Định từng bƣớc phát triển đáp ứng đƣợc tốt hơn cho nhu cầu của khách du lịch. Các
cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đã tham gia phục vụ các hoạt động quốc tế
(Seagame22), hội nghị toàn quốc tổ chức tại Nam Định.
Các cơ sở lƣu trú tập trung chủ yếu tại khu vực thành phố Nam Định và hai
khu du lịch biển Thịnh Long, Quất Lâm.
Hiện nay tại địa bàn thành phố có 27 khách sạn, nhà nghỉ với 475 phòng
trong đó có 7 khách sạn, nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn với 267 phòng (01 khách sạn đƣợc
xếp hạng 3 sao), chiếm 56% tổng số phòng toàn thành phố; có 5 khách sạn, nhà
nghỉ xây dựng phòng họp, phòng hội thảo trong đó: 1 phòng họp có quy mô 150
ghế; 2 phòng họp có quy mô trên 100 ghế; 4 phòng họp có quy mô trên 60 ghế.
Nhìn chung cơ sở lƣu trú du lịch có khả năng đáp ứng nhu cầu tổ chức các hội nghị,
hội thảo với quy mô 500-600 đại biểu.
67
Những năm gần đây, hệ thống các nhà khách, nhà nghỉ tại khu vực Thịnh
Long, Quất Lâm phát triển nhanh chóng cả về số lƣợng và chất lƣợng, đã góp phần
đáp ứng nhu cầu buồng phòng tăng cao trong các tháng cao điểm. Tuy nhiên, về lâu
dài thì hệ thống này cần đƣợc kiểm soát chặt chẽ, vì nó chƣa đƣợc đầu tƣ một cách
đồng bộ để có đầy đủ các điều kiện phục vụ khách du lịch; các nhà nghỉ, nhà khách
ở các khu du lịch biển chủ yếu hoạt động sôi nổi vào các tháng mùa hè. Những
tháng hè các nhà nghỉ, nhà khách luôn trong tình trạng đông khách, thậm chí là hết
và thiếu phòng. Từ đó kéo theo các dịch vụ mua bán, ẩm thực rất phát triển. Trên
địa bàn tỉnh Nam Định mạng lƣới phục vụ ăn uống tƣ nhân khá phát triển và đa
dạng về chủng loại, đáp ứng đƣợc nhu cầu của du khách.Tuy nhiên còn các tháng
khác trong năm lại chỉ hoạt động cầm chừng nên hiệu quả kinh doanh thấp, lãng phí
vốn đầu tƣ và không có đủ điều kiện để nâng cao chất lƣợng của dịch vụ lƣu trú,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Thực tế này đòi hỏi các cấp lãnh đạo
của tỉnh, huyện cũng nhƣ chủ các khu du lịch phải tính toán và đƣa ra những
phƣơng án tối ƣu nhất để khắc phục đƣợc hạn chế trên, từ đó góp phần phát triển
kinh tế biển tỉnh Nam Định mạnh mẽ và hiệu quả hơn.
3.2.2. Phát triển sản phẩm
3.2.2.1. Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản Đánh bắt thủy hải sản
Những năm gần đây, chính quyền tỉnh đã có nhiều chính sách phù hợp nhằm
đẩy mạnh phát triển ngành khai thác hải sản một cách hiệu quả đi đôi với bảo vệ và
tái tạo nguồn lợi trên cơ sở hợp lý hoá các đội tàu khai thác, tăng cƣờng năng lực đội
tàu khai thác xa bờ, giảm dần số lƣợng tàu thuyền nhỏ khai thác gần bờ.Tập trung
hoàn thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá, đặc biệt ƣu tiên đầu tƣ các khu neo đậu
tránh trú bão tàu cá, các cảng cá, chợ cá, bến cá.
Bảng 3.6. Diễn biến tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ
giai đoạn 2000 - 2014
Nội dung 2000 2003 2006 2007 2009 2011 2012 2013 Sơ bộ
68
2014
50 56 78 89 118 159 168 306 320 Số tàu (chiếc)
16,6 18,7 12,8 14,6 24,0 31,2 32,3 43,5 49,9 Công suất
(nghìn CV)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Trong những năm trở lại đây, năng lực khai thác thuỷ hải sản xa bờ của tỉnh
đã không ngừng đƣợc tăng lên, cơ sở dịch vụ hậu cần thủy sản ngày càng đƣợc tập
trung củng cố mở rộng. Hiện, toàn tỉnh có 2.006 tàu thuyền khai thác thủy sản,
trong đó có 320 tàu khai thác xa bờ, tăng 270 tàu so với năm 2000, tập trung chủ
yếu ở các huyện nhƣ: Giao Thuỷ, Hải Hậu và Nghĩa Hƣng.
Về sản lƣợng khai thác có xu hƣớng tăng dần sản lƣợng đánh bắt ngoài khơi,
từ năm 2000 đến nay bình quân mỗi năm tăng từ 6-10%, năm 2014 khai thác đƣợc
44.500 tấn.
Bảng 3.7. So sánh tổng số và công suất tàu thuyền của
khu vực Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011
Đơn vị: Chiếc; Nghìn CV
2000 2005 2011
Nội dung Số tàu Công suất Số tàu Công suất Số tàu Công suất
CẢ NƢỚC 9.766 1.385,100 20.537 2.801,100 28.424 5.264,300
ĐB sông Hồng 263 59,255 108,500 129,600 936 991
Quảng Ninh 54 10,055 147 22,600 195 28,100
Hải Phòng 113 19,900 682 57,300 536 45,200
Thái Bình 38 10,570 66 16,300 99 24,200
Nam Định 50 16,610 23 800 159 31,200
(Nguồn: Trang web của Tổng cục thống kê)
Nam Định đã thành lập 41 tổ, đội, tập đoàn khai thác thủy sản trên biển, hỗ
trợ nhau trong khai thác, cung ứng dịch vụ hậu cần nhƣ: cung cấp xăng dầu, nƣớc
đá, ngƣ lƣới cụ, thiết bị thông tin hàng hải, phụ tùng máy thủy, sửa chữa tàu thuyền,
phƣơng tiện của tỉnh. Qua đó góp phần giảm chi phí, tăng thời gian bám biển, nâng
69
cao hiệu quả sản xuất và tăng cƣờng công tác cứu hộ, cứu nạn khi có sự cố xảy
ra...So sánh về lực lƣợng và công suất tàu thuyền khai xa bờ, Nam Định là tỉnh thứ
haicủa khu vực đồng bằng sông Hồng, chỉ sau Hải Phòng từ năm 2000 cho đến
nay.Để tạo ra bƣớc đột phá mới trong khai thác thủy sản với mục tiêu rộng hơn, sâu
hơn và xa hơn, UBND tỉnh đã chỉ đạo các huyện ven biển tăng cƣờng quản lý hoạt
động nghề cá trên biển. Tổ chức hƣớng dẫn ngƣ dân thành lập các tổ, đội khai thác
thủy sản với chủ trƣơng phát huy tốt năng lực tàu khai thác theo hình thức tổ, đội,
đoàn và liên kết với dịch vụ hậu cần nghề cá; kịp thời hỗ trợ nhau về giá nhiên liệu,
vật tƣ, giá bán sản phẩm… trong sản xuất cũng nhƣ hoạt động cứu trợ khi gặp sự
cố, thiên tai trên biển. Đến nay, toàn tỉnh đã thành lập đƣợc 41 đoàn, tổ, đội khai
thác thủy sản với 1.185 tàu đang hoạt động, chiếm 61,24% tổng số tàu khai thác
toàn tỉnh và 3.187 lao động trực tiếp đánh bắt. Chính sự hợp tác sản xuất trên biển
đã động viên và tạo ra khí thế thi đua giúp ngƣ dân tích cực bám biển khai thác
cũng nhƣ tìm kiếm ngƣ trƣờng mới… nên càng về cuối năm sản lƣợng khai thác
càng cao. Việc đầu tƣ phát triển nghề khai thác cũng tạo ra sự thay đổi tích cực.
Hiện, loại tàu công suất nhỏ dƣới 20CV giảm xuống chỉ còn 1.311 chiếc; loại tàu
công suất từ 50 đến dƣới 90CV là 97 chiếc; tàu công suất lớn, loại 90CV trở lên
tăng 357 chiếc tham gia đánh bắt xa bờ, khai thác trên biển dài ngày. Cơ cấu nghề
cũng có sự thay đổi, một số tàu, thuyền của huyện Nghĩa Hƣng , Hải Hậu đã chuyển
đổi sang đánh bắt kiêm nghề nhƣ : Tổ hợp tác nghề lƣới rê kết hợp chụp mực của xã
Hải Lý , Hải Chính , Hải Triều (Hải Hậu ), mỗi chuyến biển có lãi từ 30 - 40 triệu
đồng; cá biệt có tàu thu lãi 150 - 200 triệu đồng. Nghề lƣới kéo đôi của xã Giao
Phong, Thị trấn Quất Lâm (Giao Thủy) lãi từ 8 - 15 triê ̣u đồng/tháng/tàu.Sở NN và
PTNT đã phối hợp với các địa phƣơng ven biển , các đồn , trạm kiểm soát biên
phòng bám sát địa bàn , tiến hành rà soát, thống kê, phân loại tàu cá. Công tác đăng
ký, đăng kiểm và cấp giấy phép khai thác thủy sản cũng đã đi vào nền nếp để thực
hiện các biện pháp quản lý bảo vệ an toàn cho các tàu, thuyền đánh cá và phƣơng
tiện thủy hoạt động trên biển, gắn sản xuất với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh
vùng biển. Hiện nay, tỉnh có 1 cảng cá và khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão tại
70
cửa Ninh Cơ, huyện Hải Hậu. Dự án Khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão tại cửa
Ninh Cơ, huyện Nghĩa Hƣng đã đƣa âu thuyền số 1 vào sử dụng. Năm 2014, tỉnh
khởi công xây dựng khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão kết hợp bến cá tại cửa Hà
Lạn, huyện Giao Thủy và 5 bến cá tại 3 huyện ven biển. Cùng với đó, 105 cơ sở thu
mua, chế biến hải sản và 9 cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu cá tại địa phƣơng hoạt
động tích cực tạo điều kiện cho khai thác phát triển. Trong năm 2014, tổng số tàu,
thuyền khai thác của toàn tỉnh là 1.964 chiếc, giảm 125 chiếc so với năm 2013 (chủ
yếu là giảm số tàu công suất nhỏ, đánh bắt gần bờ) sản lƣợng khai thác vẫn đạt
44.500 tấn, tăng 5,05% so với năm 2013 cho thấy hiệu quả rõ nét của đầu tƣ đánh
bắt xa bờ.
Nuôi trổng thuỷ hải sản
Năm 2014, sản xuất thủy sản của tỉnh Nam Định tiếp tục phát triển theo
hƣớng sản xuất hàng hoá, sức cạnh tranh cao phù hợp với hệ sinh thái, khai thác tối
đa lợi thế của địa phƣơng; nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Chính quyền tỉnh đã
có sự quan tâm đầu tƣ xây dựng, nâng cấp các cơ sở sản xuất giống đặc biệt là
giống tôm biển, cua biển, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển... đáp ứng giống thuỷ sản
một cách chủ động cho nhu cầu nuôi; Tiếp nhận công nghệ sản xuất các con giống
có giá trị kinh tế và phù hợp với địa phƣơng. Tổng sản lƣợng thủy sản cả năm đạt
110,4 nghìn tấn, tăng 9,5% so với năm 2013; trong đó sản lƣợng nuôi trồng đạt
65.900ha, sản lƣợng khai thác đạt 44.500ha.
Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS), toàn tỉnh đã đƣa 15.859ha diện tích mặt
nƣớc vào nuôi thả.Diện tích nuôi vùng mặn lợ là 6.451ha, sản lƣợng đạt 34.050 tấn.
Hiện có hơn 2.000 hộ nuôi tôm sú, diện tích nuôi tuy giảm nhiều so với trƣớc đây
song từng vùng nuôi đã chuyển sang phƣơng thức quảng canh cải tiến và nuôi xen
canh với các đối tƣợng khác nhƣ cá bống bớp, cua nên đã khắc phục đƣợc tình trạng
tôm bị bệnh. Sản lƣợng tôm sú đạt 925 tấn; năng suất bình quân đạt từ 0,2 - 0,5
tấn/ha. Tôm thẻ chân trắng đã đƣợc đƣa vào nuôi thả trên diện rộng với tổng diện
tích 621ha, tăng 134,7ha so với năm 2013, chủ yếu nuôi với hình thức thâm canh và
bán thâm canh. Sản lƣợng tôm thẻ chân trắng đạt 3.250 tấn, tăng 370 tấn so với năm
71
2013.Năng suất bình quân của các mô hình nuôi thâm canh đạt 8 - 10 tấn/ha.
Cùng với nuôi tôm thẻ chân trắng, hoạt động nuôi ngao tiếp tục khẳng định
là thế mạnh của tỉnh cho hiệu quả kinh tế cao với diện tích nuôi toàn tỉnh đạt
1.537ha. Ngoài nguyên nhân từng bƣớc chủ động ngao giống bằng sinh sản nhân
tạo, mô hình quản lý cộng đồng nuôi ngao do tổ chức MCD hỗ trợ giúp các hộ nuôi
nắm vững kỹ thuật chọn bãi, cải tạo nền đáy bãi nuôi, tạo môi trƣờng đáy thuận lợi,
chọn thời điểm thả giống, quản lý sản phẩm… nên năng suất tăng lên rõ rệt, đạt 15 -
20 tấn/ha; sản lƣợng ƣớc đạt 24.370 tấn, tăng 2.198 tấn, tƣơng đƣơng 9,91% so với
năm 2013. Cua biển và cá bớp vẫn là 2 đối tƣợng nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao
cho nông dân; sản lƣợng cua biển đạt 1.245 tấn, sản lƣợng cá bống bớp 1.140 tấn
cho lãi ròng 300-500 triệu đồng/ha. Một số đối tƣợng nuôi mới nhƣ cá song, cá
vƣợc, cá chim biển vây vàng cũng đƣợc mở rộng diện tích ở vùng mặn lợ. Riêng
diện tích nuôi cá song, cá vƣợc trong năm 2014 đạt 323ha, sản lƣợng đạt 1.560 tấn,
cho thu lãi 250 - 400 triệu đồng/ha/năm, đây là hƣớng phát triển mới cho NTTS
nƣớc lợ.
Nuôi thủy sản nƣớc ngọt (vùng nuôi nội đồng) cũng tiếp tục phát triển, diện
tích nuôi đạt 9.408ha, sản lƣợng 31.850 tấn, bằng 109,86% so với năm 2013. Ngoài
nuôi cá truyền thống cho hiệu quả kinh tế khá, ít rủi ro, sản phẩm có thể thu tỉa, thả
bù quanh năm, thị trƣờng tiêu thụ ổn định, nhiều hộ nông dân ở Giao Thủy, Nghĩa
Hƣng, Hải Hậu, Trực Ninh, Mỹ Lộc… đã đƣa vào nuôi các loài thủy đặc sản có giá
trị cao nhƣ: ba ba, ếch, rắn, cá tra…; sản lƣợng đạt trên 200 tấn. Các đối tƣợng nuôi
mới có hiệu quả kinh tế cao nhƣ cá lóc bông, cá diêu hồng… tiếp tục đƣợc mở rộng.
Chế biến thủy hải sản
Chế biến xuất khẩu thủy sản là tồn tại yếu kém lớn nhất của ngành thủy sản
nói chung và Nam Định nói riêng. Tổng giá trị xuất khẩu còn thấp, do nhiều nguyên
nhân nhƣ sản phẩm chế biến chất lƣợng thấp, điều kiện vệ sinh thực phẩm chƣa đảm
bảo, sản phẩm chủ yếu ở dạng thủ công và các thiết bị máy móc cũ và lạc hậu. Sản
phẩm xuất khẩu không cạnh tranh đƣợc với thị trƣờng, giá cả thủy sản thấp, chủ yếu
tiêu thụ trong nội địa.Một trong những khó khăn lớn nhất của ngành thủy sản Nam
72
Định là vấn đề về vốn, về nguồn lợi hải sản và khu chế biến xuất khẩu thủy
sản.Những năm gần đây chính quyền tỉnh Nam Định đã chú trọng đầu tƣ vốn, khoa
học công nghệ, xây dựng khu chế biến thủy hải sản ngay gần bến tàu thuyền.Để
không phải mất thời gian lâu vận chuyển thủy hải sản từ nơi đánh bắt đến nơi chế
biến, từ đó tạo ra sản phẩm chất lƣợng cao, cạnh tranh đƣợc với sản phẩm của các
tỉnh khác trong nƣớc cũng nhƣ của các nƣớc và khu vực khác.
Năm 2013, sản lƣợng khai thác thuỷ hải sản của tỉnh đạt gần 40 nghìn tấn,
trong đó, 75% sản lƣợng tiêu thụ ngay tại thị trƣờng nội địa qua các cảng cá, bến cá
và là nguyên liệu phục vụ hoạt động chế biến tiêu thụ trong nƣớc và xuất khẩu.
Trong năm, các doanh nghiệp, cơ sở chế biến thuỷ sản trong tỉnh đã chế biến 300
tấn sản phẩm đông lạnh, hàng triệu lít nƣớc mắm và mắm tôm các loại bảo đảm chất
lƣợng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong hai năm trở lại đây với hình thức cổ phần hóa các doanh nghiệp một
số công ty cổ phần để ra đời nhƣ công ty mới tiêu biểu nhƣ công ty nƣớc mắm Ninh
Cơ, xí nghiệp chế biến thủy sản Xuân Thủy... thu hút rất nhiều lao động tham gia
sản xuất tạo việc làm cho ngƣời dân trong vùng, với sự giao lƣu thuận tiện của vùng
với các vùng khác trong tỉnh cũng nhƣ với các tỉnh khác nên sản lƣợng đánh bắt hay
nuôi trồng thủy sản dễ dàng đi vào các thị trƣờng mà không phải gặp những khó
khăn nào.
Dịch vụ hậu cần nghề cá.
Các hoạt động dịch vụ, hậu cần nghề cá bao gồm: Thu mua, sơ chế thủy sản,
bảo quản thủy sản; cung ứng xăng dầu, nƣớc đá, vật tƣ trang thiết bị phục vụ tàu cá
và khai thác thủy sản; các vật dụng phục vụ sinh hoạt của ngƣ dân. Đƣợc sự quan
tâm của tỉnh, thời gian qua các cảng cá, dịch vụ hậu cần nghề cá đƣợc đầu tƣ xây
dựng và đi vào hoạt động đã cung ứng kịp thời nhiên liệu, nhu yếu phẩm cho tàu
thuyền đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, kinh doanh các
sản phẩm hải sản. Hiện nay, cùng với cảng cá, mạng lƣới dịch vụ hậu cần nghề cá
đƣợc hình thành với hơn 100 cơ sở thu mua, chế biến, tiêu thụ thủy hải sản, dịch vụ
xăng dầu, gia công lƣới phục vụ khai thác, đánh bắt; 10 cơ sở đóng tàu có năng lực
73
đóng mới, sửa chữa 30-50 tàu mỗi năm, phân bổ đều ở cả 3 huyện ven biển Giao
Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hƣng, bƣớc đầu đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển nghề cá
trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt gần đây nhất, vào ngày 12/8, tại Nam Định, Tổng công ty
Công nghiệp tàu thủy (SBIC) và Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định đã tổ chức hội
nghị triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP, giới thiệu đóng mới tàu cá vỏ thép và
phát triển khai thác xa bờ.
Dịch vụ hậu cần nghề cá mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và xã hội, giải
quyết việc làm cho hơn 6.000 lao động với mức thu nhập trung bình khoảng 2 triệu
đồng/ngƣời/tháng. Tuy nhiên để dịch vụ hậu cần nghề cá thực sự phát triển, ngoài
việc đầu tƣ cơ sở hạ tầng, cần khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện
đa dạng hóa dịch vụ, áp dụng mô hình cung cấp thông tin dự báo nguồn thuỷ sản
của từng vùng biển và thông tin thị trƣờng thuỷ hải sản... cho ngƣ dân.
3.2.2.2. Phát triển du lịch biển và kinh tế đảo
Lƣợng khách du lịch đến Nam Định ngày càng tăng. Năm 2011, tổng lƣợng
khách đến tham quan các điểm du lịch đạt 1,6 triệu lƣợt khách; doanh thu xã hội từ
hoạt động du lịch, dịch vụ ƣớc đạt 230 tỷ đồng.
Toàn tỉnh hiện có hơn 300 cơ sở lƣu trú với 3.839 buồng phòng, trong đó, hai
khu du lịch biển là Quất Lâm và Thịnh Long có gần 300 cơ sở kinh doanh với 1.960
buồng phòng. Nhìn chung, các cơ sở lƣu trú tại các khu du lịch biển ngày càng đƣợc
nâng cấp về trang thiết bị, chất lƣợng phòng nghỉ, tình hình an ninh trật tự đƣợc bảo
đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch lƣu trú trong quá trình tham quan,
nghỉ dƣỡng.
Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nƣớc về du lịch tại các khu du lịch biển
có chuyển biến. Hiện nay, khu du lịch biển Thịnh Long đang trong giai đoạn mở
rộng giai đoạn 2 với tổng diện tích toàn khu là 361ha; khu du lịch Quất Lâm có diện
tích 151,44ha.
Mặc dù số lƣợt khách du lịch đến tỉnh tăng, năm sau cao hơn năm trƣớc,
song xét về cơ cấu thì chỉ có 30% lƣợng khách có nhu cầu ăn nghỉ, tham quan, mua
sắm; còn lại 70% là khách du lịch lễ hội, đi lại trong ngày, mức chi tiêu bình quân
74
thấp. Điều này cho thấy, dù lƣợng khách đến tham quan các điểm du lịch của tỉnh
đông, nhƣng hiệu quả hoạt động du lịch dịch vụ còn hạn chế. Nguyên nhân là do cơ
sở hạ tầng, hệ thống kỹ thuật du lịch còn yếu và thiếu đồng bộ; kinh nghiệm quản
lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, lao động ngành du lịch còn nhiều
bất cập. Hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ thiếu các dịch vụ chất lƣợng cao nhƣ sân
tennis, bể bơi, phòng tập đa năng; các cơ sở kinh doanh du lịch chƣa có các mặt
hàng, sản phẩm du lịch mang tính đặc trƣng.
Do yếu tố mùa vụ, phần lớn các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh tại khu
du lịch biển Quất Lâm, Thịnh Long, vì muốn tiết kiệm chi phí nhân công nên chủ
yếu thuê lao động hợp đồng ngắn hạn và lao động phổ thông tại địa phƣơng chƣa
qua đào tạo.
Hiện nay, ngành du lịch của huyện Giao Thủy đang rất thiếu nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn nghề nghiệp và trình độ quản lý. Trên địa bàn huyện hiện
có 167 cơ sở kinh doanh lƣu trú du lịch, trong đó có 44 nhà nghỉ, khách sạn. Tổng
số lao động trong ngành du lịch khoảng hơn 1.390 ngƣời, trong đó lao động qua đào
tạo thấp, đối tƣợng đƣợc đào tạo chủ yếu là chủ các cơ sở kinh doanh và ngƣời quản
lý các nhà hàng, khách sạn; hình thức đào tạo chủ yếu qua các lớp tập huấn, bồi
dƣỡng ngắn hạn.
Do đó đa số lực lƣợng lao động trong ngành còn thiếu chuyên nghiệp; văn
hoá ứng xử và trình độ nghiệp vụ chƣa đáp ứng yêu cầu. Để phát triển du lịch bền
vững, huyện Giao Thủy đã xây dựng đề án phát triển du lịch huyện Giao Thủy giai
đoạn 2011-2015 tầm nhìn đến năm 2020. Huyện tập trung phát triển du lịch bền
vững, hiệu quả kinh tế cao gắn với bảo vệ môi trƣờng và đảm bảo vững chắc an
ninh - quốc phòng; đa dạng hoá sản phẩm du lịch, chú trọng đào tạo lực lƣợng lao
động tại chỗ, không ngừng nâng cao chất lƣợng dịch vụ, từng bƣớc phát triển du
lịch theo hƣớng chuyên nghiệp nhằm tăng sức hấp dẫn cho du lịch Giao Thủy.
Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đƣợc nâng cấp từ Khu bảo tồn đất ngập nƣớc
Xuân Thủy theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ Cộng
75
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2003.
Vƣờn quốc gia Xuân Thủy nằm ở phía Đông Nam huyện Giao Thủy, tỉnh
Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt của sông Hồng. Khu vực vùng lõi của vƣờn là diện
tích đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là cồn Ngạn, cồn Lu và cồn Xanh thuộc
xã Giao Thiện. Toàn bộ vùng đệm và vùng lõi của Vƣờn nằm trên địa phận các xã
Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải. Diện tích toàn bộ vƣờn
khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha diện tích đất nổi có rừng và 4.000 ha đất rừng ngập
mặn.
Hàng năm có tới khoảng 100 loài chim di cƣ chọn nơi đây là điểm lƣu trú
trên đƣờng di cƣ về phƣơng Nam trú đông, trong đó có tới 1/5 số lƣợng cò mỏ thìa
của toàn thế giới. Tại Vƣờn ƣớc tính có 215 loài chim nƣớc sinh sống, tiêu biểu
nhƣ: Cò thìa, Rẽ mỏ thìa, Choắt chân vàng, Mòng bể đầu đen, Giang Sen, và Choắt
chân màng lớn..
Trên vùng đất ngập mặn này, dƣới làn nƣớc thủy triều có khoảng 165 loài
động vật nổi và 154 loài động vật đáy, tổng cộng khoảng 500 loài động vật.
Về thực vật, Vƣờn hiện có 120 loài thực vật bậc cao, trong đó có nhiều loài
rong tảo có giá trị kinh tế cao.
Đây là điểm du lịch sinh thái độc đáo hấp dẫn khách tham quan du lịch trong
nƣớc và quốc tế, đặc biệt là vào mùa đông- mùa chim di trú từ phƣơng Bắc.
3.2.2.3. Kinh tế hàng hải
Giao thông vận tải biển
Nam Định vốn có hệ thống giao thông đƣờng thủy nội địa đa dạng, tổng
chiều dài sông kênh của tỉnh là 536 km (chƣa kể 1.130 km kênh nội đồng); có 4
cảng sông, 2 cảng biển, 100 bến khách, 82 phƣơng tiện chở khách ngang sông…
Hiện nay dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng
đƣợc các nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân với nhiều loại phƣơng
tiện đa dạng và phong phú. Tuy nhiên hiện nay mức tăng trƣởng về vận tải hàng hóa
và hành khách vẫn còn thấp.Trong những giai đoạn sau cần phải có kế hoạch nâng
76
cao quản lý Nhà nƣớc và chất lƣợng hoạt động dịch vụ vận tải; đa dạng các phƣơng
thức vận tải, đáp ứng sự phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân; nâng cao chất
lƣợng các loại phƣơng tiện và đảm bảo an toàn giao thông, vệ sinh môi trƣờng.
Công nghiệp đóng tàu và các ngành phụ trợ
Ngành công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành công nghiệp đƣợc
xác định mũi nhọn trong chiến lƣợc phát triển công nghiệp của nƣớc ta, cũng nhƣ
của tỉnh Nam Định. Trong những năm trở lại đây với mục tiêu phấn đấu trở thành
một trong những trung tâm lớn về công nghiệp đóng tàu cộng với nỗ lực không
ngừng vƣơn lên tiếp nhận và làm chủ những kỹ thuật công nghệ sản xuất tiên tiến
hiện đại, các nhà máy đóng tàu Nam Định đã dần khẳng định đƣợc thƣơng hiệu và
vị thế của mình trong nƣớc cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế. Tuy nhiên do cơ chế kiểm
soát của tỉnh còn lỏng lẻo, chƣa sát sao dẫn đến sự phát triển “nóng” và đi vào
khủng hoảng của ngành công nghiệp đóng tàu trong khoảng những năm 2008 –
2012. Nhiều ngƣời gọi đó là hiện tƣợng đóng tàu, nhà nhà đóng tàu, ngƣời ngƣời
đóng tàu.
Nam Định là tỉnh có lợi thế cho ngành công nghiệp đóng tàu phát triểnnhƣ:
có nhiều bãi sông, cửa biển; có truyền thống sản xuất cơ khí và nguồn nhân lực có
tay nghề. Vài năm trở lại đây, tỉnh lại có cơ chếkhuyến khích ngành đóng tàu, việc
vay vốn ngân hàng đƣợc nới rộng, đóngtàu đƣợc hoàn thuế giá trị gia tăng và hơn
thế là "có đầu ra"...nênngành đóng tàu ở Nam Định phát triển "nóng". Nếu nhƣ
trƣớc đây, sốdoanh nghiệp đóng tàu ở Nam Định chỉ đếm trên đầu ngón tay thì từ
năm2006 số đơn vị đóng tàu bắt đầu tăng mạnh, đến đầu năm 2008 toàn tỉnhđã có
102 đơn vị (nhiều đơn vị hiện đang ở giai đoạn đầu tƣ cơ sở hạtầng, chƣa đi vào sản
xuất). Khắp các triền sông, cửa biển tại 9/10huyện, thành phố ở Nam Định đều có
đơn vị đóng tàu. Các khu vực nhƣ:Thị trấn Xuân Trƣờng, xã Xuân Hùng (huyện
Xuân Trƣờng), Cát Thành(huyện Trực Ninh), Nghĩa Sơn (Nghĩa Hƣng)...trở thành
những "đại côngxƣởng đóng tàu". Không chỉ các doanh nghiệp có truyền thống về
cơ khímà ngay cả những ngƣời trƣớc đây chƣa từng biết đến ngành đóng tàu làgì
nay cũng đăng ký, vay vốn, đầu tƣ đóng tàu. Trong số 102 đơn vị đóngtàu ở Nam
77
Định, có tới 21 đơn vị chỉ là các hộ sản xuất.
Đỉnhđiểm phát triển của ngành đóng tàu ở Nam Định là năm 2007, với
sảnlƣợng cả năm đạt 500 con tàu (loại trọng tải từ 5.000 tấn trở xuống)đƣợc hạ
thuỷ, xuất bến. Ngành đóng tàu ở Nam Định đã tạo việc làm chohơn 11.000 lao
động với mức thu nhập đạt bình quân từ 2 đến 3 triệuđồng/ngƣời/tháng. Các chủ
doanh nghiệp đã trở nên giàu cóhơn, những chiếc xe sang trọng, những căn biệt thự
đắt tiền của các chủdoanh nghiệp đóng tàu xuất hiện ngày một nhiều. Chính vì vậy,
có lãnh đạo tỉnh còn lạc quan nói rằng: Nam Định sẽ trở thành một trung tâm đóng
tàu của cả nƣớc... Tuy nhiên từ tháng 4 năm 2008, hàng loạt khách hàng thông báo
rút đơn đặt hàng hoặc đề nghị giãn thời gian thực hiện hợp đồng mà trên thực tế là
hoãn hợp đồng vô thời hạn. Tuy không ai thông tin chính thức nguyên nhân của tình
trạng trên, hoặc nếu có thì cũng đổ lỗi cho lạm phát, giá cả vật liệu, nhân công tăng,
ngân hàng thắt chặt việc cho vay...song nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đình
đốn của ngành đóng tàu ở Nam Định chính là do việc xuất lậu than bị ngăn chặn.
Qua tìm hiểu đƣợc biết, phần lớn số tàu do các đơn vị ở Nam Định sản xuất ra là
phục vụ cho việc vận chuyển than lậu ra nƣớc ngoài hoặc theo con đƣờng than lậu,
các tàu đƣợc đƣa ra nƣớc ngoài bán cùng với than. Do đó, khi việc xuất lậu than bị
ngăn chặn thì ngành đóng tàu ở Nam Định trở nên đình đốn. Hiện nay trên toàn tỉnh
vẫn còn khoảng gần 400tàu vẫn đang thực hiện dở dang hoặc hoàn thiện rồi nhƣng
chƣa có chủ nhận nên vẫn nằm trên bãi... Hiện, hầu hết các đơn vị đóng tàu ở Nam
Định chỉ sản xuất cầm chừng hoặc đã tạm dừng sản xuất, với số lao động đƣợc giữ
lại trung bình chỉ 40-50%, nhƣ vậy đã có khoảng 4.000 đến 5.000 công nhân phải
nghỉ việc. Hiện nay, với sự quyết tâm của toàn tỉnh, một mặt quản lý chặt chẽ hơn
việc đóng tàu mới, mặt khác từng bƣớc hỗ trợ các doanh nghiệp đóng tàu tháo gỡ
khó khăn nên ngành đóng tàu của tỉnh Nam Định đã và đang có những dấu hiệu khả
quan của sự phục hồi 2015 theo ghi nhâ ̣n củ a . Trong nhƣ̃ng tháng đầu năm
Namdinh24h trong giờ đi làm lƣơ ̣ng cán bô ̣ công nhân viên khá đông và tinh thần khả quan phấn khởi khi tham gia lao động.
3.2.2.4. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên
78
khoáng sản biển
Nam Định là tỉnh nghèo và gần nhƣ là không có về tài nguyên dầu, khí và
các loại tài nguyên khoáng sản biển. Khoáng sản của Nam Định không nhiều, có trữ
lƣợng thấp, chủng loại nghèo. Đáng kể và có giá trị hơn cả đối với sự phát triển của
các làng nghề là các khoáng sản phi kim loại nhƣ cát, đất sét. Cát xây dựng tập
trung ở các bãi bồi ven sông (sông Hồng, sông Đáy, sông Đào, sông Ninh Cơ) do
quá trình bồi lắng tự nhiên và dọc chiều dài 25 km bờ biển. Riêng ở khu vực thị trấn
Quất Lâm (Giao Thuỷ) các bãi cát dày 2,5–3m, rộng 20-30 m có thể khai thác đƣợc
500.000m3/năm. Các nguyên liệu sét bao gồm: Đất sét để sản xuất gạch ngói nung
có tổng trữ lƣợng 25-30 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 300.000 m3/năm.
Hiện tại tỉnh có năm mỏ đất sét quy mô nhỏ nằm rải rác ở các bãi ven sông và đang
đƣợc khai thác nhƣ Đồng Côi (Nam Giang - Nam Trực), trữ lƣợng 2 triệu tấn; Sa
Cao (Xuân Châu - Xuân Trƣờng) trữ lƣợng 5 – 10 triệu tấn; Hiển Khánh (Vụ Bản);
Nghĩa Thịnh (Nghĩa Hƣng); thị trấn Cồn (Hải Hậu) và một mỏ chƣa khai thác ở thị
trấn Ngô Đồng (Giao Thủy). Đây là nguồn nguyên liệu tại chỗ của các làng nghề
sản xuất vật liệu xây dựng. Đất sét làm gốm sứ phân bố tại núi Phƣơng Nhi (Yên
Minh - Ý Yên) và núi Gôi (Vụ Bản) đã đƣợc khai thác phục vụ xí nghiệp gốm sứ
Bảo Đài. Sét làm bột màu có ở Nam Hồng (Nam Trực) phân bổ trong bể trầm tích
hệ tầng Thái Bình với diện tích 1000m2, dày 0,2–0,3m, màu vàng nghệ, vàng
chanh. Các mỏ sét mới đƣợc nghiên cứu sơ bộ, chƣa đánh giá chính xác về quy mô,
trữ lƣợng, chất lƣợng.Ngoài ra, còn có sa khoáng inmemit và ziricom ở ven biển
Hải Hậu, khí đốt đang đƣợc thăm dò ở Giao Thủy. Tài nguyên khoáng sản hạn chế
là một khó khăn của Nam Định trong việc phát triển các ngành khai thác khoáng
sản, công nghiệp chế biến…
3.2.2.5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ
về khai thác và phát triển kinh tế biển
Kết quả dự án hợp tác quốc tế
Tổng số trên 8 đề tài, dự án (ĐTDA) hợp tác quốc tế đã-đang và sẽ triển khai liên
quan đến vùng biển Nam Định, nổi bật là các dự án: Bảo tồn vùng đất ngập nƣớc
79
của tổ chức DANIDA; Nghiên cứu và sử dụng hợp lý vùng đới bờ; Bảo tồn và phát
triển các vùng trọng điểm Khu Dự trữ sinh quyển thuộc vƣờn quốc gia Xuân Thủy
do Tổ chức Hợp tác kỹ thuật quốc tế Đan Mạch thực hiện từ nguồn kinh phí tài trợ
của cơ quan Phát triển Quốc tế Úc (AusAID) từ 2008-2014 và sẽ tiếp tục giai đoạn
2014-2017 thuộc Chƣơng trình Bảo vệ tổng hợp vùng ven biển (ICMP) tại 5 tỉnh
ĐBSH; Xây dựng đê và phục hồi rừng ngập mặn ven biển Nam Định bằng nguồn
vốn ngân hàng Tái thiết Đức (KFW); Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã quốc tế
(WAR) tài trợ: xây dựng khu vực cứu hộ động vật hoang dã tại Cồn Lu, Cồn Ngạn
thuộc vƣờn quốc gia Xuân Thủy của huyện Giao Thủy, nghiên cứu bảo tồn đa dạng
sinh học Vƣờn Quốc gia Xuân Thủyvà khu sinh thái Rạng Đông của huyện Nghĩa
Hƣng;…
Thông qua các dự án này: đã bƣớc đầu đánh giá đa dạng động, thực vật tại cácvùng
biển của Nam Định; nghiên cứu rừng ngập mặn ven biển; nghiên cứu đánh giá hiện
trạng sự xói lở và bồi lắng phù sa ven biển; nghiên cứu môi trƣờng và đa dạng sinh
học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy; Xây dựng mô hình sử dụng đất bền vững trong hệ
thống canh tác kết hợp nông-lâm-ngƣ ở vùng ven biển; Các khóa tập huấn, đào tạo
ngắn hạn docác dự án tổ chức đã góp phần nâng cao ý thức về bảo vệ môi trƣờng và
tàinguyên thiên nhiên, nâng cao nhận thức về khoa học, kỹ thuật trong sản xuất cho
cộngđồng địa phƣơng. Ngoài ra, năng lực lãnh đạo các cấp, các thành phần có lien
quan đƣợc tăng lên đáng kể thông qua việc cùng tham gia triển khai hoạt động
tạihiện trƣờng cũng nhƣ có ý kiến đóng góp trong khâu tổ chức và triển khai
cáchoạt động tại các vùng kinh tế biển; Xây dựng và thử nghiệm kế hoạch quản lý
tàinguyên thiên nhiên và hƣớng dẫn duy trì và cải thiện đa dạng sinh học;
Hƣớngdẫn kỹ thuật đƣợc xây dựng và thử nghiệm phòng và chữa cháy rừng ở Vƣờn
quốc gia Xuân Thủy;Xây dựng năng lực về lập kế hoạch, thiết kế dự án và quản lý
đƣợc cải thiện,những lợi ích này cũng làm xuất hiện các cơ hội tạo thu nhập thay
thế mới. Cácsản phẩm, kết quả của dự án cũng góp phần vào việc xây dựng chính
sách,hƣớng dẫn nhằm giúp bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại Nam Định
mang tính hiệu quả.
80
Kết quả dự án cấp nhà nước
Trong tổng số 11 dự án Nhà nƣớc thuộc Chƣơng trình Nông thôn miền núi (NTMN)
có 05 dự án triển khai thực hiện ở vùng biển Nam Định. Các dự án thuộc Chƣơng
trình NTMN đã thúc đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật vào xây dựng các mô hình sản xuất nông-lâm- ngƣ nghiệp, nâng cao
năng suất, chất lƣợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị
trƣờng; góp phần tham gia thị trƣờng khoa học và công nghệ; huy động các nguồn
lực xã hội, góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, tạo thêm việc làm
cho nông dân, thực hiện mục tiêu tăng trƣởng và xoá đói, giảm nghèo; đào tạo và
bồi dƣỡng cho cán bộ kỹ thuật cơ sở và ngƣời dân,... Qua các dự án NTMN, nhận
thức về trình độ kỹ thuật của ngƣời dân nông thôn vùng ven biển cũng nhƣ đội ngũ
cán bộ kỹ thuật địa phƣơng trong việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông-lâm-
ngƣ nghiệp đƣợc nâng lên. Hiệu quả các mô hình của các dự án NTMN đã góp phần
không nhỏ trong việc cải thiện chất lƣợng sản phẩm, tăng năng suất, tăng thu nhập
cho nông dân nông thôn và hƣớng đến sản xuất nông nghiệp sạch, thân thiện với
môi trƣờng. Các dự án NTMN đã góp phần tăng cƣờng sự hợp tác giữa địa phƣơng
với các đơn vị nghiên cứu chuyển giao công nghệ.
Kết quả đề tài, dự án khoa học cấp tỉnh
Trên tinh thần triển khai thực hiện Kế hoạch số 51/KH-UNND ngày 14/9/2007 về
Chiến lƣợc biển Việt Nam đến 2020, Với chức năng nhiệm vụ của sở Khoa học và
Công nghệ, đã tham mƣu cho UBND tỉnh Nam Định xác định các nhiệm vụ thông
qua việc quản lý, tổ chức triền khai các đề tài, dự án khoa học cấp tỉnh hằng năm, từ
2007 đến nay nhƣ sau: trong tổng số 160 đề tài, dự án cấp tỉnh có 28 đề tài, dự án
triển khai thực hiện ở vùng biển Nam Định.
- Trong nuôi, trồng thủy sản: chính quyền tỉnh đã tổ chức tuyên truyền, tập huấn
cho các doanh nghiệp, cơ sở nuôi thủy sản, khai thác thủy sản áp dụng các biện
pháp kỹ thuật tiên tiến để bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ môi trƣờng và đáp ứng yêu cầu
xuất khẩu sản phẩm hàng hóa thủy sản trong tỉnh, áp dụng các quy phạm nông
nghiệp tốt (GAP, VietGAP, GlobalGAP). Thời gian qua đã áp dụng trên các đối
81
tƣợng nhƣ tôm sú, thẻ chân trắng, ngao ở Giao Thủy; cá song, cá bống bớp tại
Nghĩa Hƣng, nƣớc mắm, rau tại huyện Hải Hậu…Đã nghiên cứu thành công hệ
thống lấy nƣớc biển qua phục vụ nuôi trồng thủy sản, mở ra tiềm năng phát triển
diện tích nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới.
- Trong canh tác lúa vùng ven biển: Thực hiện tốt cơ chế, chính sách khuyến nông,
tỉnh đã hỗ trợ phát triển sản xuất giống, nâng sản lƣợng lúa giống đạt chất lƣợng
cao, chống chịu mặn, kháng sâu bệnh chính, tỷ lệ sử dụng giống xác nhận trên 70%.
Đã áp dụng mô hình cánh đồng lớn vào sản xuất lúa theo hƣớng VietGAP với tổng
diện tích gieo sạ từ 2012 đến nay là trên 8.000 ha; triển khai các chƣơng trình quản
lý dịch hại tổng hợp (IPM), chƣơng trình ICM (quản lý dinh dƣỡng); chƣơng trình 3
giảm 3 tăng, 1 phải – 5 giảm,… đã thực hiện thƣờng xuyên, đào tạo, tập huấn kỹ
thuật và phổ biến rộng khắp cho hầu hết các địa phƣơng trong tỉnh. Các chƣơng
trình và các hoạt động áp dụng kỹ thuật đã góp phần tích cực nâng cao trình độ và
nhận thức về ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trƣờng biển.
- Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm: đã nhận chuyển giao và hỗ trợ xây dựng các
điểm trình diễn nuôi gà theo hƣớng an toàn sinh học và điểm trình nuôi heo theo
hƣớng nạc. Các mô hình đã thực hiện đều cho hiệu quả cao về mặt kỹ thuật, kinh tế
và môi trƣờng và hiện nay đang tiếp tục triển khai nhân rộng cho các địa phƣơng
vùng ven biển trong tỉnh.
- Trong phát triển rừng, bảo vệ môi trƣờng, tài nguyên thiên nhiên: Tỉnh Nam Định
đã triển khai các chính sách hỗ trợ giao khoán, chăm sóc, bảo vệ rừng ngập mặn kết
hợp nuôi trồng thủy sản hợp lý, triển khai nghiên cứu về bồi lắng ven biển, thực
hiện các giai pháp bảo vệ đê biển,… Qua đó, diện tích rừng trồng mới đã tăng lên,
nhiều điểm rừng phòng hộ ven biển đƣợc trồng phục hồi. Thông qua chính sách chi
trả dịch vụ môi trƣờng rừng đãthu hút sự tham gia tích cực của 15 cơ sở sử dụng
dịch vụ môi trƣờng rừng để kinh doanh du lịch sinh thái. Ngành nông nghiệp đang
tiếp tục xây dựng và thực hiện đề án cho thuê môi trƣờng rừng nhằm thực hiện
chính sách khuyến khích thực hiện các dự án du lịch sinh thái kết hợp bảo vệ môi
82
trƣờng rừng tại Vƣờn quốc gia Xuân Thủy.
3.2.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Lao động cũng có thể đƣợc coi là một dạng tài nguyên của kinh tế vùng ven biển, tài
nguyên về nhân lực, cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nguồn lao động ở các vùng ven
biển có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế biển. Đa phần các cƣ dân ven
biển đều là những nhà kinh tế tài ba.Đối với họ, nghề biển là nghề truyền thống của
gia đình (đánh cá, nghề làm muối), đƣợc truyền lại từ đời ông cha họ, từ đời này qua
đời khác. Nhƣng ngày nay, ngƣời lao động không chỉ cần có kinh nghiệm mà còn cần
phải tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động. Những ngành
kinh tế biển mới cũng đòi hỏi ngƣời lao động phải có trình độ cao. Do đó, đào tạo
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển là một yêu cầu cần thiết.
Nam Định luôn khuyến khích bằng các ƣu đãi cụ thể (tạo mặt bằng xây dựng, đất đai,
vay vốn ƣu đãi, chính sách thu nộp và sử dụng phí, lệ phí ...đơn giản hoá các thủ tục
hành chính trong việc thành lập các cơ sơ ngoài công lập theo quy định, thực hiện cơ
chế hậu kiểm....) cho các tổ chức trong và ngoài nƣớc thành lập các trƣờng, trung tâm
đào tạo nhân lực trên địa bàn tỉnh.
Chú trọng thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ
về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, Nghị định
69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa
đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
trƣờng nhằm huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đào tạo nhân lực.
UBND tỉnh đã thực hiện một số cơ chế chính sách để hỗ trợ đào tạo nhân lực của
tỉnh: Quyết định số 3852/QĐ-UBND ngày 14/12/2005: trợ cấp cho cán bộ, công
chức, viên chức, đi học sau đại học và trợ cấp 1 lần cho ngƣời có trình độ tiến sĩ, thạc
sĩ, bác sĩ, dƣợc sĩ chuyên khoa cấp II về công tác tại tỉnh; Thực hiện chính sách hỗ
trợ đào tạo nghề nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg; hỗ trợ cho công nhân đi
đào tạo thực hiện công nghệ mới và làm việc lâu dài tại doanh nghiệp trong Khu công
nghiệp Hoà xá Nam Định đã có Quyết định số 2702/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của
UBND tỉnh; Nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu phát
83
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng. Hiện nay
tỉnh Nam Định vẫn tiếp tục tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho các trƣờng học;
nâng cao trình độ giáo viên theo chuẩn quốc gia, đa dạng hóa các hình thức đào tạo
để đảm bảo quyền và nghĩa vụ học tập của mọi ngƣời dân, thực hiện công bằng trong
giáo dục, đào tạo.
Ƣu tiên đào tạo một số ngành nghề đặc trƣng cho phát triển kinh tế biển; nghiên cứu
đầu tƣ khu đào tạo nhân lực chất lƣợng cao đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao
động; tiếp tục nâng cao chất lƣợng các trung tâm giáo dục thƣờng xuyên.
Bên cạnh đó, một số cơ sở đào tạo, doanh nghiệp đã tự chủ động trong công tác đào
tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu cho sản xuất kinh doanh. Các cơ sở đào tạo đã nâng cấp
trang thiết bị, đào tạo đội ngũ giáo viên đủ năng lực, trình độ, cải tiến nội dung –
phƣơng pháp để đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay.
Về thực trạng sử dụng nhân lực cho phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định hiện
nay thì khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản: có 618,2 ngàn ngƣời chiếm 64,4% so
với tổng số ngƣời đang làm việc, giảm 13,7% so với năm 2005, bình quân mỗi năm
giảm 2,7%/năm, trong khi đó, trong 5 năm ( 2001 - 2005) chỉ giảm mỗi năm giảm
1,6%. Số lao động này chuyển sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ và chuyển sang lao
động ở các tỉnh khác.
Tuy nhiên, trong khu vực này thì ngành thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn ngành
nông, lâm nghiệp nên trong 5 năm ( 2006-2010) số lao động tăng mỗi năm đƣợc
2,5%/năm, trong khi đó 5 năm 2001-2005 mỗi năm tăng tới 17,5%/năm. Có tình
trạng trên là do: sản xuất ngành thuỷ sản với yêu cầu kỹ thuật cao, vốn đầu tƣ lớn, thị
trƣờng chƣa mở rộng và có xu hƣớng dẫn bão hòa, hiệu quả đầu tƣ giảm dần nên tốc
độ tăng lao động của chu kỳ 5 năm qua thấp hơn chu kỳ trƣớc 5 năm trƣớc. Số lao
động tăng trong ngành thủy sản chủ yếu do lao động từ ngành nông, lâm nghiệp
chuyển sang và một số ít là lao động từ học sinh THCS và THPT không đi học tiếp
84
chuyển sang lao động.
3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển ở Nam Định
3.3.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu trong quá trình phát triển kinh
tế biển ở Nam Định
3.3.1.1. Những thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Thứ nhất, các chỉ số kinh tế trongnhiều ngành kinh tế biển của tỉnh luôn giữ
được tốc độ tăng trưởng một cách ổn định.
Từ năm 2000 đến nay, các ngành kinh tế biển có thể tăng, giảm về các chỉ số
kinh tế tuyệt đối nhƣng về tƣơng đối vẫn luôn thể hiện xu hƣớng phát triển. Có thể
giữ vững đƣợc mức độ tăng trƣởng các chỉ số với điều kiện kinh tế trong nƣớc và
quốc tế đang có nhiều biến động và khó khăn nhƣ hiện nay là một thành tích quan
trong mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định đạt đƣợc.
Thứ hai, cơ cấu ngành kinh tế biển khá phong phú đa dạng.
Nam Định là một trong số ít các địa phƣơng có một hệ thống các ngành kinh
tế biển phong phú và đa dạng. Hệ thống các ngành kinh tế biển của tỉnh đƣợc phát
triển một cách đa dạng nhằm khai thác một cách toàn diện và triệt để các lợi thế tự
nhiên cũng nhƣ kinh tế xã hội. Lợi thế biển, đảo, ven biển đã giúp thành phố vừa
xây dựng đƣợc một hệ thống cảng biển khá đồ sộ, cộng với đó là một hệ thống các
trung tâm đóng tàu, vận tải biển. Trên cơ sở lợi thế về kinh tế xã hội là việc phát
triển của các ngành dịch vụ biển và dịch vụ cảng biển,… Không chỉ có thế, kinh tế
biển Nam Định còn phát triển cả những ngành kinh tế truyền thống vốn có của các
tỉnh thành duyên hải nhƣ khai thác nuôi trồng thủy hải sản, diêm nghiệp, trồng rừng
ngập mặn…
Thứ ba, Nam Định luôn duy trì được vị trí là một trong những trung tâm của
khu vực đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Bắc bộ về kinh tế biển.
Hầu hết cả chỉ số đánh giá kinh tế biển của Nam Định so với các tỉnh thành
trong khu vực luôn nằm trong top đầu. Sản lƣợng thủy sản phân theo địa phƣơng
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011, Nam Định luôn duy trì ở vị trí cao
85
trong khu vực đồng bằng sông Hồng.
120000
100000
Hà Nội
80000
Quảng Ninh
60000
Hải Phòng
Thái Bình
40000
Nam Định
20000
Ninh Bình
0
2000
2005
2008
2009
2010
2011
Biểu đồ 3.1. Sơ đồ sản lƣợng thủy sản của các địa phƣơng trong
khu vực đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2000 – 2011
Thứ tư, kinh tế biển của Nam Định góp phần quan trọng trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động.
Nếu xét nhóm ngành nông lâm, thủy sản năm 2011, lực lƣợng lao động
trong khu vực này chiếm 29,9% tổng số lao động toàn tỉnh, còn ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo là 22% trong đó đóng góp không nhỏ của các ngành kinh tế liên
quan trực tiếp đến biển. Ngƣời dân của huyện ven biển có nhiều cơ hội việc làm
hơn rất nhiều so với ngƣời dân của các huyện không có biển. Hầu hết là nhà nhà,
ngƣời ngƣời đi biển hoặc kinh doanh buôn bán các sản phẩm liên quan đến biển.
Nhờ đó mà đời sống kinh tế của ngƣời dân đƣợc nâng lên rõ rệt. Ngoài ra kinh tế
biển cũng tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là việc
nghiên cứu ứng dụng khoa học liên quan đến biển…
3.3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế biển
của Nam Định
Để đạt đƣợc những thành tựu nêu trên trong quá trình phát triển kinh tế biển
86
ở Nam Định có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, từ năm 1986 trở lại đây với đƣờng lối đổi mới của Đảng ta đã thúc
đẩy nền kinh tế của cả nƣớc nói chung, cũng nhƣ của tỉnh tăng trƣởng và phát triển,
các ngành và lĩnh vực kinh tế đã đƣợc mở rộng trong đó có ngành kinh tế biển.
Hai là, những năm vừa qua Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định vị trí, vai trò
của biển rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội và vấn đề an ninh, quốc
phòng. Do vậy, phát triển kinh tế biển luôn đƣợc quan tâm đúng mức và đƣợc xác
định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có vai trò nhất định cho tăng
trƣởng và phát triển kinh tế, xã hội. Cũng chính từ việc xác định vai trò quan trọng
đó, các Chỉ thị, Nghị quyết và cơ chế chính sách thuận lợi đảm bảo cho kinh tế biển
phát triển đã đƣợc ban hành.
Ba là, về phía lãnh đạo Đảng và chính quyền tỉnh đã có sự phối hợp nhịp
nhàng với các Bộ, Ngành Trung ƣơng nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn
vƣớng mắc, nhanh chóng triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các chính
sách và pháp luật của nhà nƣớc về chiến lƣợc kinh tế biển. Trên cơ sở đó các cấp
các ngành của tỉnh đã xây dựng quy hoạch và hoàn thiện chiến lƣợc phát triển kinh
tế biển phù hợp với đặc trƣng của Nam Định.
Bốn là, cơ sở hạ tầng, kinh tế kĩ thuật vùng ven biển đƣợc các cấp lãnh đạo
của tỉnh quan tâm đầu tƣ đúng mức. Số lƣợng doanh nghiệp đầu tƣ cho khai thác
kinh tế biển ngày càng tăng cả về quy mô lẫn số lƣợng, từ đó đã tạo tiền đề cho việc
mở rộng và phát triển các ngành kinh tế biển của địa phƣơng. Mặt khác, việc cải
tiến kĩ thuật áp dụng nhanh những thành tựu của khoa học - kĩ thuật đã làm cho
năng suất, hiệu quả và chất lƣợng sản phẩm không ngừng đƣợc nâng cao.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát
triển kinh tế biển ở Nam Định
3.3.2.1. Hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Bên cạnh những thành tựulớn mà Nam Định đã gặt hái đƣợc trong những
năm gần đây, kinh tế biển của tỉnh vẫn còn tồn tại một số hạn chế cơ bản cần đƣợc
87
sớm khắc phục đó là:
Quy mô của nhiều ngành kinh tế biển Nam Định còn chƣa lớn, thiếu sự đồng
bộ, cơ cấu ngành nghề còn nhiều bất cập, chƣa hợp lý, đặc biệt chƣa xứng với tiềm
năng thế mạnh của kinh tế biển Nam Định. So với các địa phƣơng khác trong khu
vực,Nam Định có nhiều lợi thế hơn hẳn, tuy nhiên quy mô của nhiều ngành kinh tế
biển của tỉnh lại còn khá khiêm tốn so với các tỉnh thành trong khu vực. Cùng với
đó, một số ngành kinh tế biển còn mới ở dạng tiềm năng hoặc chƣa có đóng góp
nhiều vào tỉ trọng của giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh nhƣ diêm nghiệp, lâm
nghiệp biển (trồng rừng ngập mặn), nghiên cứu khoa học biển… Cơ cấu ngành kinh
tế biển của tỉnh vẫn phát triển cơ bản theo hƣớng truyền thống và chƣa có hƣớng
tiếp cận hiện đại và bền vững. Đánh giá tổng thể quá trình phát triển kinh tế biển
của Nam Định vẫn chƣa sử dụng và phát huy hết thế mạnh của mình.
Phát triển kinh tế biển của Nam Định còn mang tính chất manh mún, nhỏ lẻ,
phân tán, đậm chất tƣ nhân tự phát cùng với đó là sự thiếu quy hoạch và liên kết
giữa các ngành kinh tế liên quan. Sự manh mún nhỏ lẻ và phân tán đƣợc thể hiện rõ
nét nhất trong lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Hình thức sản xuất cơ
bản trong lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản cơ bản vẫn là kinh tế cá thể - hộ gia đình,
chƣa có nhiều các thành phần kinh tế có năng lực lớn hơn tham gia. Cùng với đó
giữa các ngành chƣa có sự liên kết chặt chẽ và mật thiết. Từ khâu sản xuất đến chế
biến và tiêu dùng còn bị “chặt khúc” gián đoạn và thông qua nhiều khâu trung gian.
Chính điều này đã làm cho giá thành của các sản phẩm lên cao nhƣng thu nhập của
ngƣời sản xuất trực tiếp lại không hề tăng.
Xét về góc độ quản lý nhân lực, trình độ lực lƣợng lao động trong các ngành
kinh tế biển của Nam Định về cơ bản còn chƣa cao. Điển hình là ngành đánh bắt
nuôi trồng thủy hải sản. Hầu hết lực lƣợng lao động trong lĩnh vực này phần nhiều
không đƣợc đào tạo bài bản hoặc thông qua trƣờng lớp nào. Họ hầu hết chỉ đƣợc
truyền thụ kinh nghiệm theo hình thức cha truyền con nối. Một số ít đã đƣợc đào tạo
ngắn hạn hoặc bổ sung kiến thực thông qua các đợt tập huấn do ban ngành đoàn thể
88
các cấp tổ chức.
Nam Định chịu nhiều ảnh hƣởng của điều kiện tự nhiên cũng nhƣ kinh tế xã
hội, chính vì thế nhiều ngành kinh tế biển của điạ phƣơng cũng mang tính mùa vụ
nhất định. Trong các ngành kinh tế biển, du lịch biển và đánh bắt nuôi trồng thủy
hải sản chịu nhiều tác động rõ rệt từ thiên nhiên. Du lịch biển Nam Định chủ yếu
phát triển vào mùa hè (từ khoảng tháng 4 đến tháng 10 hàng năm), về mùa đông các
hoạt động lữ hành cũng nhƣ kinh doanh dịch vụ lƣu trú biển có phần giảm cả về
tƣơng đối lẫn tuyệt đối. Cùng chịu hoàn cảnh tƣơng tự chính là ngành đắt bắt nuôi
trồng thủy hải sản. Vào mùa mƣa bão nhiều nhiều bà con ngƣ dân đã gặp phải
không ít khó khắn trong việc vƣơn khơi bám biển, hoạt động nuôi trồng thủy hải sản
ven bờ cũng gặp không ít khó khăn mỗi khi mùa mƣa bão về. Đây là một trong
những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế biển của tỉnh.
Một hạn chế nữa cũng cần phải đƣợc đề cập đó chính là trong quá trình phát
triển kinh tế biển của địa phƣơng đã làm biến động không nhỏ đến môi trƣờng sinh
thái tự nhiên. Với việc tăng năng suất sản lƣợng thủy sản nƣớc mặn nƣớc lợ thu
đƣợc, cũng là dấu hiệu cho thấy nguy cơ cạn kiệt của các loại thủy hải sản ven gần
bờ. Mặt khác, quá trình nuôi thủy sản nƣớc lợ, nuôi hải sản bằng lồng bè trên biển
không đƣợc giải quyết triệt để, vấn đề chất thải không đƣợc xử lý. Cùng với đó là
các vụ tai nạn của các tàu chở dàu, chở nguyên nhiên liệu cũng đã phần nào hủy
hoại môi trƣờng sống của các loại sinh vật tự nhiên. Không chỉ có trong ngành thủy
sản, vận tải biển mới ảnh hƣởng đến môi trƣờng sinh thái. Hiện nay du lịch biển
cũng mang lại những nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng. Nhiều du khách trong quá trình
du lịch đã xả một lƣợng không nhỏ rác thải ra môi trƣờng biển. Nếu những chất thải
của quá trình khai thác kinh tế biển không đƣợc xử lý và xử lý một cách triệt để sẽ
ảnh hƣởng trực tiếp đến môi trƣờng sinh thái và cuộc sống của con ngƣời trong
tƣơng lai.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế biển ở
Nam Định
Về phía khách quan, những hạn chế trên xuất phát từ một số lý do chính sau:
89
Nằm trong khu vực biển có tính khắc nghiệt về mặt thời tiết, khí hậu nên nƣớc ta
thƣờng xuyên chịu nhiều rủi ro thiên tai. Trung bình mỗi năm nƣớc ta có từ 8 – 10
cơn bão, cƣờng độ thiên tai bão lũ diễn ra thƣờng xuyên, phần nào đã tác động trực
tiếp đến hiệu quả phát triển của kinh tế biển của cả nƣớc nói chung cũng nhƣ của
tỉnh Nam Định nói riêng. Nguy cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh vực khai
thác thuỷ sản, du lịch và vận tải biển do những ảnh hƣởng tiềm tàng của biến đổi
khí hậu có thể sẽ rất lớn.. Thêm vào đó, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm của các ngành
trong kinh tế biển thiếu ổn định, bị giới hạn bởi các rào cản kỹ thuật của các nƣớc
phát triển; giá xăng dầu thế giới tăng giảm thất thƣờng gây khó khăn cho sự
tăng trƣởng, phát triển của nền kinh tế nói chung và cho kinh tế biển nói riêng. Măt
khác, cơ quan quản lý về biển chƣa có sự thống nhất từ Trung ƣơng đến địa
phƣơng, tuy những năm vừa qua Đảng và Nhà nƣớc đã có những cơ chế, chính
sách, chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển. Tuy vậy, vẫn chƣa đủ thông thoáng,
chƣa tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế biển.
Về phía nguyên nhân chủ quan:Một là, nhận thức về vị trí, vai trò của biển
đối với cuộc sống và sự phát triển kinh tế, an ninh-quốc phòng của các cấp, các
ngành và quần chúng nhân dân chƣa thực sự đƣợc đề cao. Việc quản lý và khai thác
biển kém hiệu quả nhƣ hiện nay, đã gây lãng phí tiềm năng biển của quốc gia cũng
nhƣ của các địa phƣơng trong đó có tỉnhNam Định. Nguyên nhân cốt lõi và mang
tính tiền đề, nổi bật nhất trong bối cảnh hiện nay xuất phát từ chính tƣ duy tiểu
nông, tầm nhìn tự cung, tự cấp bị bó hẹp trong không gian làng xã, trình độ của
ngƣời lao động và công nghệ còn nhiều hạn chế. Hai là, Nam Địnhchƣa thực sự
khai thác tốt các nguồn lực để đầu tƣ phát triển kinh tế biển cho địa phƣơng, nguồn
vốn đầu tƣ cho phát triển kinh tế biển nhìn chung còn thấp. Mặt khác, tỉnh cũng
chƣa quan tâm đúng mức các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ về phát triển kinh tế biển, chƣa có những dự báo chuẩn xác về nguồn lợi, diễn
biến môi trƣờng, thiên tai từ biển. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của địa phƣơng
chƣa đảm bảo trình độ và năng lực, cộng với trình độ ngƣ dân ven biển còn thấp,
khả năng tiếp thu khoa học công nghệ còn hạn chế, và ý thức sản xuất cộng đồng
90
chƣa cao làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng nuôi cũng nhƣ tái tạo lại nguồn lợi thủy
sản. Ba là, tƣ tƣởng ỷ lại, thụ động trông chờ của ngƣời dân, doanh nghiệp đối với
nguồn vốn cho đầu tƣ phát triển, chế biến, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá từ
kinh tế biển.
3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
theo hướng hiệu quả
Từ thực trạng phát triển kinh tế biển của Nam Định chúng ta dễ dàng nhận
thấy có 3 vấn đề đặt ra cần đƣợc giải quyết để tạo động lực cho quá trình phát triển
kinh tế ở tỉnhmột cách có hiệu quả, đó là:
Vấn đề thứ nhất, đó chính là việc giải quyết mâu thuẫn giữa đầu tư phát
triển kinh tế biển với nguồn lực có hạn.
Chúng ta biết rằng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội luôn có giới hạn
song với nhu cầu của sự phát triển không bao giờ có điểm dừng của nó, đồng thời
nhu cầu của con ngƣời lại rất đa dạng và phong phú. Chính vì thế trong bất kì một
hoạch định phát triển kinh tế xã hội nào đều phải đƣợc xem xét đặt lên bàn cân tính
toán về hiệu quả và phát triển kinh tế biển ở Nam Định cũng không thể nằm ngoài
quy luật đó.
Trong tổng thể của quá trình phát triển kinh tế biển, với một hiện thực rõ
ràng là nguồn lực có hạn, chúng ta cẩn phải xác định đầu tƣ có trọng tâm trọng
điểm. Tìm và đầu tƣ phát triển cho các ngành kinh tế biển có thế mạnh thực sự và
nó phải thể hiện đƣợc xu hƣớng phát triển của thời đại. Đồng thời cần phát triển
kinh tế biển theo tính hệ thống, có nghĩa là cần chú ý phát triển ngành cơ sở, có sức
kéo là đầu tàu và có khả năng thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác cùng phát triển
theo. Đây là một đòi hỏi hết sức khó khăn cho Nam Định trong giai đoạn tới.
Vấn đề thứ hai, đó là mâu thuẫn giữa đầu tư phát triển kinh tế biển với năng
lực tổ chức, quản lý của nhà nước cũng như tại địa phương.
Cho đến nay, cả nƣớc cũng nhƣ địa phƣơng chƣa có một cơ quan Nhà nƣớc
nào thống nhất quản lý, quy hoạch, phát triển kinh tế biển cho nên còn rất nhiều
lúng túng, buông lỏng, chồng chéo. Mặt khác kinh tế biển lại là một tổ hợp các
91
ngành kinh tế có liên quan mật thiết với nhau, chính vì vậy nếu không có sự thống
nhất quản lý cũng nhƣ tổ chức phát triển thì khó có thể đạt đƣợc hiệu quả ở cấp địa
phƣơng chứ chƣa nói gì đến phạm vi quốc gia.
Vấn đề thứ ba, đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh và hiệu quả,
với yêu cầu là khai thác triệt để các tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế
biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Bài toán này là câu hỏi không chỉ riêng cho Nam Định mà còn là câu hỏi
chung cho rất nhiều địa phƣơng ven biển khác trong cả nƣớc. Trong nền kinh tế thị
trƣờng hiện nay, bài toán lựa chọn và chi phí cơ hội đánh đổi đòi hỏi chúng ta một
lần nữa phải thực hiện sự cân nhắc, phân tích, đánh giá xem xét để đƣa ra một quyết
định phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế biển của Nam Định một cách có hiệu
quả.
Tiểu kết chương 3
Trong những năm vừa qua, đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ban
ngành, kinh tế biển của Nam Định về cơ bản đã có một bƣớc phát triển đáng khích
lệ, góp phần không nhỏ vào sự tăng trƣởng, phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh-
quốc phòng của thành phố cũng nhƣ của cả nƣớc. Trên cơ sở của việc khai thác
tiềm năng thế mạnh từ biển, thu hút nguồn nhân lực vùng ven phục vụ cho phát
triển kinh tế biển đã góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Các ngành kinh tế biển đã thực sự phát huy vai trò của mình
và hình thành các ngành kinh tế biển đóng vai trò là ngành mũi nhọn của tỉnh, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng cũng nhƣ một số tỉnh lân cận,
đồng thời đảm bảo nguyên nhiên vật liệu cho chế biến xuất khẩu và là nguồn thu
ngoại tệ ổn định cho Nam Định.
Tuy vậy, kinh tế biển ở Nam Định có quy mô phát triển chƣa thực sự tƣơng
xứng với tiềm năng, lợi thế phát triển của mình, cơ sở hạ tầng và trình độ lao động
tham gia hoạt động kinh tế biển còn hạn chế trong một số lĩnh vực. Cơ cấu phát
triển của các ngành trong kinh tế biển không đồng đều, thiếu đồng bộ, chƣa tạo sự
92
liên kết để phát triển. Các ngành nhƣ du lịch biển, công nghiệp chế biến, hoạt động
nghiên cứu khoa học biển phát triển còn khá khiêm tốn, chƣa khai thác hết tiềm
năng, thế mạnh hiện có.
Bên cạnh đó, Nam Định cũng đang đứng trƣớc hàng loạt các vấn đề thách
thức cần đƣợc nhanh chóng giải quyết. Để có thể thực hiện thắng lợi chiến lƣợc
phát triển kinh tế biển, và đƣa tỉnh trở thành địa phƣơng có kinh tế biển phát triển
mạnh mẽ của cả nƣớc, cần phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp nhằm phát
huy tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu quả
93
trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
CHƢƠNG 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ở NAM ĐỊNH ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030
4.1. Định hướng phát triển kinh tế biển của Nam Định đến năm 2020, tầm nhìn 2030
4.1.1. Dự báo về cơ hội và thách thức đối với quá trìnhphát triển kinh tế biển ở
Nam Định
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn có nhiều thay đổi nhanh
chóng và to lớn. Chính những thay đổi này đã tạo ra những cơ hội và thách thức đối
với quá trình phát triển kinh tế của đất nƣớc nói chung và kinh tế biển nói riêng ở
Nam Định. Để có thể đƣa ra những định hƣớng, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho quá
trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định, trƣớc hết chúng ta cần phải đánh giá đúng
mức tác động của những cơ hội và thách thức đó.
4.1.1.1. Những cơ hội đối với quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Một là, Trung ƣơng và tỉnh ngày càng nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn về vị
trí, vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phƣơng cũng nhƣ vùng duyên hải Bắc Bộ. Tập trung đầu tƣ cho phát triển kinh tế
biển của Nam Định, không chỉ vì riêng Nam Định mà còn vì sự phát triển chung
của vùng và của cả miền Bắc đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Nam Định thu
hút thêm nhiều nguồn vốn khác cho đầu tƣ phát triển.
Hai là, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua không chỉ để lại những tiêu
cực mà cũng tạo ra nhiều cơ hội. Trong đó nổi lên hai cơ hội lớn đó là thúc đẩy về:
tƣ duy cải cách, tái cấu trúc kinh tế và đón đầu để tăng trƣởng kinh tế.
Vừa qua Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế
gắn với chuyển đổi mô hình tăng trƣởng theo hƣớng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020; tỉnh cũng đã xây dựng, bàn thảo về
Đề án điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trƣởng, nâng cao sức cạnh
tranh nền kinh tế tỉnh đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020,
94
định hƣớng đến năm 2025. Đây chính là các căn cứ quan trọng để Nam Định điều
chỉnh sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển kinh tế biển của tỉnh
trong thời gian tới.
Ba là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
giúp Nam Định có những cơ hội rất lớn để phát triển thƣơng mại và đầu tƣ, đặc biệt
là các lĩnh vực kinh tế biển (vốn đã có sức thu hút đầu tƣ rất lớn), bởi các luồng vốn
đầu tƣ vào tỉnh sẽ ngày càng nhiều và đa dạng.
Bốn là, nguồn lực và không gian cho phát triển kinh tế ngày càng đƣợc mở
rộng. Những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh ngày càng đƣợc đánh giá đúng hơn và
khai thác tốt hơn. Bên cạnh đó, nhiều nguồn lực mới đƣợc phát hiện nhƣ các tiềm
năng về thủy điện triều, về dầu khí… Với vị trí thuận lợi và hệ thống giao thông
ngày càng đồng bộ, Nam Định ngày càng có sự liên kết chặt chẽ hơn với các địa
phƣơng xung quanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Năm là, những thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới đã góp phần nâng
cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất của kinh tế Việt Nam thông qua
chuyển giao công nghệ. Xu hƣớng chuyển các cơ sở nghiên cứu và triển khai từ các
nƣớc phát triển sang các quốc gia đang phát triển đem lại cơ hội tiếp cận khoa học,
công nghệ mới cho tỉnh đặc biệt là khoa học, công nghệ biển.
Sáu là, các dự án trọng điểm về xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cảng biển
của tỉnh đang đƣợc đẩy nhanh thực hiện sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành
của kinh tế biển.
4.1.1.2. Những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Dƣới tác động của xu thế toàn cầu hóa và những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, đã tạo ra những cơ hội to lớn cho quá trình phát
triển kinh tế biển ở Nam Định nhƣng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức,
khó khăn không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng nhƣ
phát triển kinh tế biển nói riêng của tỉnh. Những thách thức cụ thể là:
Thứ nhất, trƣớc độ mở lớn và hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế
trong tiến trình toàn cầu hóa, Nam Định sẽ bị phụ thuộc và chịu tác động lớn từ
95
những diễn biến bên ngoài, đặc biệt là những tác động tiêu cực của khủng hoảng
kinh tế toàn cầu. Hiện nay, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng
đang đi vào suy thoái, khả năng phục hồi còn chậm, chƣa rõ nét.
Mặt khác, toàn cầu hóa đem lại cơ hội phát triển cho các nền kinh tế. Do vậy,
mức độ cạnh tranh để giành lấy cơ hội sẽ ngày càng trở nên khốc liệt và mang tính
toàn cầu hơn. Bên cạnh đó, Nam Định còn phải cạnh tranh với các tỉnh, thành phố
có tốc độ tăng trƣởng tốt trong vùng về thu hút lao động có trình độ, nhƣ Hà Nội,
Hƣng Yên, Quảng Ninh… Nam Định đang có nguy cơ tụt hậu so với một số tỉnh
khác trong khu vực cũng nhƣ trong cả nƣớc.
Thứ hai, tự do hóa thƣơng mại, tài chính và các thị trƣờng khác gia tăng, thì
việc các nƣớc sử dụng ngày càng nhiều các chính sách bảo hộ và các rào cản kỹ
thuật tinh vi càng trở nên phổ biến.
Thứ ba, trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới đang tái cấu trúc, việc các nguồn
vốn vận hành ngƣợc trở lại các nƣớc phát triển có thể sẽ là một xu hƣớng bất lợi đối với
quá trình phát triển kinh tế, phát triển kinh tế biển của Nam Định ở chỗ sẽ khó khăn hơn
trong việc thu hút các nguồn vốn FDI. Đối với nguồn vốn ODA, nhiều nhà tài trợ đang
và sẽ có những điều chỉnh chính sách trong quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam.
Các khoản viện trợ không hoàn lại sẽ tập trung nhiều hợp vào hỗ trợ kĩ thuật, chuyển
giao công nghệ, tăng cƣờng năng lực, đồng thời xuất hiện thêm nhiều kênh tín dụng mới
kém ƣu đãi hơn. Ngoài ra, phƣơng thức cung cấp viên trợ cũng có những thay đổi nhất
định nhƣ áp dụng nhiều hơn phƣơng pháp tiếp cận theo chƣơng trình ngành, hỗ trợ ngân
sách chung và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu,…
Thứ tƣ, sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nƣớc
ngày càng trở nên phổ biến; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu
hƣớng chuyển giao công nghệ lạc hậu sang các nƣớc đang phát triển đặt Nam Định
trƣớc thách thức phải lựa chọn công nghệ và có chính sách thu hút công nghệ hợp lý
96
nếu không muốn trở thành bãi rác công nghệ của thế giới.
Thứ năm, nguồn lực đầu tƣ của Nhà nƣớc cũng nhƣ tƣ nhân vốn đã hạn chế,
nay lại càng khó khăn hơn do ảnh hƣởng của khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, đầu tƣ
cho các địa phƣơng trong đó có Nam Định nói chung sẽ khó có những tăng trƣởng
đột biến.
Thứ sáu, vấn đề đầu tƣ các khu đô thị tràn lan, sử dụng đất thiếu hiệu quả,
tạo ra những khu vực dân cƣ không ngành nghề và thiếu các dịch vụ an sinh xã hội,
các công trình văn hóa, y tế, giáo dục đi kèm; không đảm bảo tỷ lệ các khoảng
xanh, cây xanh theo tiêu chuẩn đô thị sinh thái kinh tế. Xuất hiện tắc nghẽn giao
thông đô thị. Sự phát triển đô thị, cùng với quá trình đô thị hóa đã phá vỡ cơ cấu sử
dụng nguồn vốn tài nguyên đất, tài nguyên nƣớc, tài nguyên khoáng sản, phá vỡ hệ
sinh thái và đa dạng sinh học vùng bờ biển liên quan trực tiếp đến chất lƣợng sống
của con ngƣời…
Thứ bảy, Nam Định hiện đang đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu
nhƣ: nguy cơ thiếu nguồn nƣớc an toàn và hợp vệ sinh, tác động của biến đổi khí
hậu và nƣớc biển dâng, nguy cơ ô nhiễm từ chất thải đô thị, nông thôn, các khu
công nghiệp, ô nhiễm các vùng biển, ven biển, lƣu vực sông, cảng biển,...trong khi
năng lực quản lý, đặc biệt là quản lý biển chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu.
Thứ tám, tình hình an ninh chính trị trên thế giới và khu vực có nhiều diễn
biến phức tạp, đặc biệt là tình hình căng thẳng ở Biển Đông; âm mƣu diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch ngày càng tinh vi.
4.1.2. Quan điểmphát triển các ngành kinh tế biển ở Nam Định đến năm 2020,
tầm nhìn 2030
Trƣớc những thế mạnh về tiềm năng để phát triển kinh tế biển, lãnh đạo tỉnh
Nam Định tiếp nhận ý kiến chỉ đạo của chỉnh phủ đã đƣa ra những quyết định, chiến
lƣợc về phƣơng hƣớng phát triển kinh tế biển của tỉnh nhà.
Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộitỉnh Nam Định đến
năm 2020, định hƣớng đến năm 2030
Tập trung phát triển lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản theo hƣớng sản xuất
97
hàng hóa, chất lƣợng cao, bền vững. Ƣu tiên ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt
là công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm. Phát huy
lợi thế các tiểu vùng sinh thái (vùng đồng bằng ven sông, vùng ven biển) để hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các cánh đồng mẫu lớn quy mô từ 30-
50ha, khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với hệ thống chế biến,
phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Phấn đấu tốc độ tăng trƣởng bình quân đạt 2,9%
thời kỳ 2011-2020 và đạt 2,2% thời kỳ 2021-2030.
Về thủy sản: tập trung quản lý và thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh tế
thủy sản; hình thành các vùng nuôi tập trung theo phƣơng thức bán thâm canh và
thâm canh, áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến cho năng suất cao và an toàn.
Phát triển lĩnh vực thƣơng mại, dịch vụ bền vững, hiệu quả đáp ứng nhu cầu
phát triển ngày càng cao của xã hội, tạo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch; phấn đấu tốc độ tăng trƣởng đạt khoảng 12,2%/năm cho cả giai đoạn.Hoàn
chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở kỹ thuật phục vụ thƣơng mại theo hƣớng
kết hợp giữa phát triển thƣơng mại tại khu vực đô thị với phát triển thị trƣờng nông
thôn; phát triển các khu chợ đầu mối để thu mua sản phẩm của ngƣời dân; hình
thành các cụm thƣơng mại - dịch vụ kết nối với vùng sản xuất hàng hóa nông
nghiệp tập trung hoặc gắn với các khu, cụm công nghiệp; quy hoạch hệ thống chợ
phù hợp với phân bố dân cƣ, chú trọng công tác vệ sinh, an toàn thực phẩm tại các
khu chợ. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trƣờng
dịch vụ trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Về du lịch: cần đổi mới chính sách đầu tƣ, quản lý về du lịch nhằm thu hút
các thành phần kinh tế tham gia đầu tƣ, nâng cấp hạ tầng du lịch; phát triển du lịch
theo loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng; du lịch văn hóa, tâm linh... hình thành
các tuyến du lịch liên tỉnh, nhằm khai thác tốt hơn những tiềm năng về du lịch của
Nam Định cũng nhƣ của cả nƣớc.
Tập trung phát triển hạ tầng giao thông theo hƣớng hiện đại, đồng bộ đáp
ứng nhu cầu vận tải của toàn xã hội với chất lƣợng ngày càng cao; đảm bảo an toàn
giao thông, bảo vệ môi trƣờng trong quá trình xây dựng và khai thác giao thông vận
98
tải. Kết hợp phát triển giao thông nội tỉnh với giao thông liên tỉnh của vùng và quốc
gia. Kết hợp chắt chẽ với hệ thống giao thông thông qua các loại đƣờng để đạt mục
đích tối ƣu hóa phƣơng tiện phục vụ thuận lợi cho phát triển du lịch, cũng nhƣ đẩy
mạnh giao lƣu giữa các vùng kinh tế biển lân cận.
Ƣu tiên phát triển các vùng kinh tế biển, bao gồm các huyện Giao Thủy, Hải
Hậu và phía nam huyện Nghĩa Hƣng (từ đƣờng 56 xuống biển). Định hƣớng tiếp tục
nghiên cứu để thành lập Khu kinh tế Ninh Cơ khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật nhằm tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và
phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh Nam Định.
4.1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Mục tiêu tổng quát của phát triển kinh tế biển ởNam Định đƣợc thể hiện ở 2
điểm cơ bản:
Thứ nhất, phát huy tối đa mọi tiềm năng, lợi thế, nhanh chóng xây dựng Nam
Định trở thành địa phƣơng mạnh về biển, giàu từ biển, một trọng điểm thực hiện
Chiến lƣợc biển Việt Nam, một trung tâm kinh tế biển của khu vực kinh tế Vịnh
Bắc Bộ và cả nƣớc.
Thứ hai, xây dựng kinh tế biển trở thành động lực chính, “là 'hạt nhân' tạo sự
chuyển biến cơ bản và toàn diện kinh tế tỉnh để xây dựng, phát triển bền vững, hài
hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, bảo vệ môi trƣờng; trở thành
trung tâm mạnh về khoa học công nghệ biển, trung tâm chuyển giao công nghệ về
kinh tế biển, đóng góp ngày càng lớn vào phát triển của khu vực phía Bắc và cả
nƣớc; từng bƣớc trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ hàng hải và vận tải
biển lớn của Việt Nam, trọng điểm du lịch quốc gia, trung tâm thƣơng mại - tài
chính của khu vực Đông Nam Á; một cực tăng trƣởng quan trọng của vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ; pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng, an ninh.”
Mục tiêu cụ thể: trên cơ sở của việc xác định mục tiêu tổng quát, chính
quyền tỉnh Nam Định cũng đã chỉ ra những mục tiêu cụ thể trên các mặt các lĩnh
99
vực. Cùng với đó, trong mục tiêu cụ thể cần xác định rõ mục tiêu cụ thể đối với toàn
bộ nền kinh tế biển địa phƣơng đồng thời phải chú ý đến từng địa phƣơng cụ thể
nhất là các địa bàn trực tiếp liên quan đến biển nhƣ các vùng ven biển.
Mục tiêu cụ thể của việc phát triển kinh tế biển xét trên phạm vi toàn bộ quy
mô cơ cấu kinh tế của tỉnh đó là:
- Phát triển nhanh kinh tế biển để góp phần đƣa tỷ trọng GDP Nam Định
trong GDP cả nƣớc đạt khoảng6,8% vào năm 2020. Tốc độ tăng trƣởng GDP bình
quân giai đoạn 2015 – 2020 là 10 - 12%, cao hơn mức tăng của Vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ khoảng 1,1 lần; GDP bình quân đầu ngƣời đạt 2.000 - 2.200 USD vào
năm 2015 và 2.900 - 3.000 USD vào năm 2020.
- Trong cơ cấu các ngành kinh tế biển phải hình thành đƣợc một số ngành, sản
phẩm mũi nhọn đặc trƣng của biển, đồng thời có đóng góp cao về giá trị xuất khẩu để tốc
độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân đạt 19 - 20% giai đoạn 2016 - 2020.
- Ngành du lịch phấn đấu đón 3,5 triệu lƣợt khách du lịch vào năm 2015
(khách quốc tế đạt 1 triệu lƣợt), 4,9 triệu lƣợt khách vào năm 2020 (khách quốc tế
đạt 1 triệu lƣợt trở lên).
- Ngành thủy sản duy trì tốc độ tăng trƣởng bình quân giá trị sản xuất từ 9 -
10% thời kỳ 2016 - 2020. Đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, đảm bảo giá trị xuất khẩu
năm 2015 đạt 150 triệu USD và 220 triệu USD vào năm 2020. Đặc biệt nâng cao
chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển và mở rộng của ngành này
trong tƣơng lai.
Cùng với việc xác định mục tiêu cụ thể cho toàn bộ hệ thống, Nam Định
cũng chú ý hƣớng tới việc phát triển các khu vực đặc biệt quan trong và là điểm
then chốt trong chiến lƣợc phát triển kinh tế biển của địa phƣơng:
Đối với khu vực các xã, phƣờng tiếp giáp và liền kề biển: phải phát huy triệt
để lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, thu hút đầu tƣ, lao động và phát triển các lĩnh
vực kinh tế, dân sinh, tạo ra sự phát triển năng động của toàn khu vực. Đồng thời
phấn đấu thu nhập bình quân đầu ngƣời khu vực này cao gấp 1,3 - 1,5 lần thu nhập
bình quân đầu ngƣời toàn tỉnh và dải ven biển cả nƣớc vào năm 2015 và gấp 1,4-
100
1,6 lần vào năm 2020; thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo.
Đối với ba huyện Nghĩa Hƣng, Hải Hậu, Giao Thủy: Xây dựng thành trung
tâm du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng, chữa bệnh tầm cỡ quốc gia và quốc tế; trung tâm
dịch vụ thủy sản và hậu cần nghề cá của vùng Vịnh Bắc Bộ; phấn đấu tốc độ tăng
trƣởng GDP đạt 16,5% vào năm 2015; trên 17% giai đoạn 2016 - 2020. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hƣớng Dịch vụ - Nông nghiệp - Công nghiệp.
4.2. Các nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển ở Nam Định theo hƣớng hiệu
quả.
4.2.1. Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và tăng cường vai trò quản lý
của nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế biển
có hiệu quả
Trong thời kì kinh tế đất nƣớc đang bƣớc vào giai đoạn hội nhập quốc tế nhƣ
hiện nay, thể chế chính sách có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế quốc gia nói chung và kinh tế biển nói riêng. Với ý nghĩa là hệ thống các
quy tắc, chuẩn mực, luật lệ; thể chế, chính sách chính là những định hƣớng, hƣớng
dẫn mang tính pháp quy, tạo ra khuôn khổ cho việc tổ chức, hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế xã hội. Đối với kinh tế biển, thể chế, chính sách kinh tế cũng chính là
những hƣớng dẫn, định hƣớng hành vi và tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức
hoạt động kinh tế biển. Vai trò quản lý của nhà nƣớc nói chung và chính quyền tỉnh
Nam Định nói riêng đối với phát triển kinh tế biển, cụ thể là:
Một là, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển phù hợp với chiến lƣợc
phát triển kinh tế biển của cả nƣớc nói chung.
Hai là, huy động cao nhất các nguồn lực để phát triển hiệu quả. Ƣu tiên phát
triển và xây dựng thƣơng hiệu các sản phẩm chủ lực của tỉnh có khả năng cạnh
tranh cao, tạo nguốn thu cho ngân sách.
Ba là, phát triển kinh tế biển gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giảm nghèo nhanh, tạo việc làm.
Bốn là, phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ môi trƣờng, chủ động ứng
101
phó với biến đổi khí hậu.
Năm là, phát triển kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, giữ
vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Sáu là, Quy hoạch phát triển kinh tế vùng biển đảo thuộc địa bàn tỉnh mình.
Đồng thời định hƣớng cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc về các lĩnh vực, dự
án đầu tƣ sản xuất kinh doanh tại vùng biển của tỉnh mình.
Nhƣ vậy có thể thấy, thể chế, chính sách có tác động to lớn đến sự lựa chọn
và việc quyết định sản xuất cái gì, đầu tƣ nhƣ thế nào, đầu tƣ ra sao, ở đâu…của các
chủ thể trong việc phát triển kinh tế biển. Các thể chế chính sách không chỉ có tác
dụng hƣớng dẫn điều tiết hành vi của con ngƣời với tƣ liệu sản xuất mà còn hƣớng
dẫn điều chỉnh hành vi của con ngƣời với con ngƣời trong mối tác động qua lại của
quá trình kinh tế. Ngoài ra, thể chế chính sách còn có nhiều vai trò khác đối với quá
trình phát triển kinh tế biển. Chính vì vai trò hết sức đặc biệt này, mà trong giai
đoạn tới, Nam Định cần phải thực hiện một số giải pháp trên mặt thể chế chính sách
đó là:
Một là, thực hiện chính sách tái cơ cấu các ngành kinh tế biển theo hướng
hiện đại và phát triển hiệu quả, tập trung phát triển một số ngành mũi nhọn, có tính
chất đột phá, khai thác tốt mọi lợi thế, tiềm năng để tăng trưởng nhanh, hỗ trợ các
ngành khác trong nhóm ngành kinh tế biển.
Quá trình tái cơ cấu cần chú ý vào cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế,
cụ thể:
Cơ cấu ngành kinh tế biển: Trong nhóm ngành công nghiệp biển, tập trung
phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, khoa học công nghệ cao về biển, giữ
vững vai trò của các ngành công nghiệp truyền thống nhƣ đóng tàu, công nghiệp
chế biến thủy hải sản. Trong nhóm ngành nông nghiệp biển, chú trọng các sản phẩm
sử dụng công nghệ sinh học hiện đại, các sản phẩm sạch, phát triển cơ sở sản xuất
tập trung quy mô lớn vừa đảm bảo hiệu quả đầu tƣ và thuận lợi xử lý môi trƣờng.
Phát triển hệ thống gia trại, trang trại tại các vùng ven biển, quan tâm phát triển sản
xuất giống… Trong nhóm ngành dịch vụ biển, coi trọng các doanh nghiệp hoạt
102
động dịch vụ gắn với cảng, vận tải biển, logistic, du lịch.
Đối với tái cơ cấu thành phần kinh tế để phát triển kinh tế biển, cần phải xây
dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm tăng cƣờng huy động nguồn lực trong
dân và coi trọng vai trò kinh tế tƣ nhân, chú trọng doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài, hoàn thành việc đổi mới, sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc.
Để làm đƣợc điều này, các cấp, các ngành, các cơ quan cần tăng cƣờng công tác
tuyên truyền của tỉnh, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để nâng cao nhận
thức về chủ quyền biển, tiềm năng, lợi thế, vị trí, vai trò của biển, vùng bờ biển, hải
đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên nhận thức mới, sâu sắc
về vị thế - xã hội – chính trị - quốc phòng, an ninh của Nam Địnhtrong phát triển
kinh tế biển, đề cao trách nhiệm và ý thức thực thi pháp luật, đồng thuận hành động
để phát triển kinh tế biển.
Hai là, tăng cường thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút đầu
tư trong các lĩnh vực kinh tế biển
Thực tế trong những năm vừa qua cũng nhƣ bài học kinh nghiệm của các
địa phƣơng trong cả nƣớc, việc thực hiện các chính sách ƣu đãi nhằm thu hút các
nhà đầu tƣ trong lĩnh vực kinh tế biển đã đem lại những hiệu quả bƣớc đầu. Chính
vì vậy để phát triển kinh tế biển của Nam Định, chúng ta cũng cần thực hiện một số
cơ chế và chính sách ƣu đãi để tăng lƣợng vốn đầu tƣ và số lƣợng các nhà đầu tƣ.
Để tạo đƣợc môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn nhất chính là trong vấn đề sử dụng đất
để thực hiện các dự án kinh tế biển. Ở những ngành lĩnh vực cần thiết, hoặc đặc biệt
quan trọng có thể hỗ trợ một phần kinh phí giải toả đền bù, giải phóng mặt bằng cho
các doanh nghiệp đầu tƣ. Cùng với đó cũng cần phải tăng cƣờng công tác xúc tiến đầu
tƣ để thu hút các nguồn lực của các địa phƣơng trong cả nƣớc cũng nhƣ nƣớc ngoài.
Hiện nay, ngƣời Việt Nam ở hải ngoại cũng đã dần đạt đƣợc những chỗ đứng nhất định
tại nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc khẳng định bản thân tại các quốc gia mà
mình sinh sống, nguyện vọng đóng góp cho quê hƣơng trong họ luôn luôn cháy bỏng,
chính vì thế thành phố cần thiết phải chú ý đến nguồn lực này trong quá trình phát triển
kinh tế biển địa phƣơng bằng cách đƣa ra chính sách cơ chế ƣu đãi hơn. Việc thu đƣợc
103
các nguồn lực tổng hợp một cách mạnh mẽ sẽ giúp cho tỉnh Nam Định đủ sức vƣơn ra
biển khơi theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên cũng cần chú ý khi tổng hợp
nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế chúng ta cần phải đảm bảo tính công bằng.
Ba là, có cơ chế, chính sách khuyến khích, nhân rộng mô hình “xã hội hóa
xây dựng hạ tầng kĩ thuật” đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển
Về cơ bản, cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc phát triển kinh tế biển của Nam
Địnhcòn nhiều yếu kém và hạn chế.Để khắc phục điều đó, cần chính quyền tỉnh ban
hành các chính sách kích cầu để khuyến khích các chủ thể kinh tế từ mọi tầng lớp
nhân dân đầu tƣ vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế
biển. Mô hình xã hội hóa nhà nƣớc và nhân dân cùng làm là một mô hình khá hiệu
quả, tối đa hóa nguồn lực trong xã hội cũng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế
của địa phƣơng.
Bốn là, hình thành cơ chế và xây dựng chính sách phát triển đồng bộ hệ thống
các yếu tố của thị trường cho các ngành kinh tế biển
Khi xem xét những hạn chế của kinh tế biển, sự phát triển chƣa đồng đều giữa
các ngành có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó chính là sự nhỏ
hẹp của thị trƣờng và cung cấp thông tin thị trƣờng đầy đủ và chính xác. Do vậy,
việc ban hành chính sách hỗ trợ các ngành, doanh nghiệp trực tiếp và gián tiếp của
kinh tế biển, cung cấp các dịch vụ thông tin về thị trƣờng, các dịch vụ hạ tầng khác
là rất cần thiết. Đồng thời các ban ngành lãnh đạo phải quan tâm mở rộng thị trƣờng
trong và ngoài nƣớc, giảm giá thành, nâng cao chất lƣợng... quan tâm hơn việc
quảng bá về chính sách đầu tƣ các lĩnh vực kinh tế biển. Khuyến khích hỗ trợ các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tìm kiếm thị trƣờng.
Năm là, thực hiện các chính sách ưu tiên với một số ngành kinh tế biển “trẻ”,
có tiềm năng nhưng chưa thực sự phát triển
Sự phát triển không đồng đều giữa các ngành kinh tế biển, ngoài vấn đề thị
trƣờng thì cũng chịu sự ảnh hƣởng của lịch sử các ngành kinh tế. Những ngành kinh
tế mới thƣờng có quy mô nhỏ bé và khả năng cạnh tranh thấp hơn so với các ngành
104
kinh tế vốn có truyền thống của Nam Định, chính vì vậy cơ chế, chính sách cần thể
hiện rõ sự hỗ trợ và phát triển những ngành công nghiệp mới, những ngành có khả
năng tạo đột phá phát triển kinh tế, xã hội vùng ven biển.
Cùng với việc xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể cho các ngành kinh tế
biển trên các lĩnh vực đầu tƣ, thu hút nguồn lực, phát triển thị trƣờng, xây dựng cơ
cấu ngành kinh tế…cũng cần phải chú ý đến việc tăng cƣờng hợp tác với các tỉnh,
thành phố khác và các nƣớc trong khu vực, trong tất cá các lĩnh vực để phát triển
kinh tế biển của địa phƣơng.
Ngoài ra, cơ chế chính sách để phát triển kinh tế của tỉnh cũng cần khắc phục
nhanh chóng những hạn chế mang tính chất chung nhƣ: giảm tính không nhất quán,
thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ và chồng chéo. Mặt khác, cơ chế chính sách phát triển
kinh tế biển cần cụ thể hóa hành động cho tất cả các ngành, lĩnh vực và đối tƣợng
kinh tế…Nhƣ vậy sẽ làm cho các chính sách cơ chế đó mới thực sự ý nghĩa, có hiệu
quả và đi vào đời sống của nhân dân.
4.2.2. Nhóm giải pháp về vốn để phát triển kinh tế biển ở Nam Định
Nguồn vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất và kinh doanh đối với
doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung . Nó quyết định quy mô
mở rộng đầu tƣ, tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng nhƣ tổ
chức và quản lý của nhà nƣớc. Riêng đối với việc phát triển kinh tế biển của Nam
Địnhvốn lại càng trở thành một yếu tố quan trọng mang ý nghĩa tiên quyết. Tất cả
các ngành kinh tế biển của thành phố về cơ bản đều trong tình trạng mâu thuẫn giữa
một bên là năng lực dồi dào và một bên là sự hạn hẹp và khan hiếm về vốn. Với lí
do này mà vốn đối với phát triển kinh tế biển ở Nam Địnhđã trở thành một yêu cầu
bức thiết của tất yếu khách quan.
Khi nói đến vấn đề vốn, chúng ta hay nhắc đến nhiều câu hỏi quan trọng nhƣ:
Huy động vốn bằng cách nào? Sử dụng vốn ra sao? Quản lý vốn nhƣ thế nào? Đây
là câu hỏi quan trọng vì nếu trả lời đƣợc thì vấn đề này thì vốn cho quá trình phát
triển kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng mới phát huy hết ý nghĩa của nó.
Nhận thức đƣợc điều này, để phát triển kinh tế biển của Nam Định, giải pháp cụ thể
105
cho từng góc độ nhƣ sau:
Đối với huy động vốn:
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
phát triển kinh tế, vốn đầu tƣ phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế biển
nói riêng, căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh thực tế của từng địa phƣơng, doanh
nghiệp, hộ kinh doanh mà lựa chọn hình thức huy động vốn cho phù hợp. Tuy nhiên
để đạt đƣợc hiệu quả cao nhất cũng nhƣ sự biến động của nguồn vốn cần đa dạng
hoá các hình thức huy động vốn đầu tƣ và. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tƣ từ nhiều
nguồn trong và ngoài nƣớc để phát triển những ngành mũi nhọn, tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển.
Trong thực tế phát triển kinh tế biển của Nam Địnhhiện nay nguồn vốn đến với
các chủ thể kinh tế thông qua 2 nguồn chính: nguồn vốn trong nƣớc và nguồn vốn
từ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
Nguồn vốn thứ nhất - nguồn vốn trong nƣớc, các doanh nghiệp có đƣợc nhờ 3
hƣớng sau: vốn vay từ các ngân hàng, các quỹ tín dụng nhân dân; ngân sách hỗ trợ
phát triển của nhà nƣớc, nguồn vốn sẵn có. Ở mỗi một hình thức cũng có những hạn
chế nhất định của nó, chính vì vậy trong việc huy động vốn ở mỗi hình thức này
cũng cần chú ý:
- Mở rộng mạng lƣới hoạt động của các ngân hàng bằng cách hình thành càng
chuỗi chi nhánh, phục vụ tại chỗ, tiếp đó là nâng cao thời gian giao dịch, thời gian
nhận gửi, thu hồi, và thời gian vay phải thích hợp với từng giai đoạn của dân chúng,
doanh nghiệp. Bên cạnh đó,đi đôi với đẩy mạnh công tác tuyên truyền tạo niềm tin
với khách hàng. Cải cách thủ tục hành chính tạo mọi điều kiện, nhanh gọn cho
khách hàng khi đến vay hoặc gửi tiền mà vẫn đảm bảo chính xác an toàn và độ bảo
mật cao.
- Đối với mạng lƣới tín dụng, nhận thấy đặc trƣng của các ngành kinh tế biển
chính là tính mùa vụ cao và thời gian thu hồi vốn lâu dài cũng nhƣ sự chịu tác động
của thiên nhiên nên vốn vay tín dụng trung va dài hạn dành cho phát triển kinh tế
biển phải đủ lớn. Bên cạnh đó việc đầu tƣ phải đƣợc thẩm định kỹ càng, với những
106
dự án mang tính khả thi có hiệu quả kinh tế - xã hội cao để góp phần thúc đẩy kinh
tế biển, đảm bảo đúng nguồn vốn tín dụng. Trong quá trình đầu tƣ phải hết sức kịp
thời và linh hoạt để có thể phù hợp với đặc trƣng của sản xuất kinh tế biển mang
tính mùa vụ, vốn đầu tƣ cao…
- Đối với nguồn vốn sẵn có trong dân cƣ, phát huy mọi nguồn lực, truyền
thống tự lực, tự cƣờng để huy động toàn bộ nguồn lực trong nhân dân và địa
phƣơng, đặc biệt cần hình thành các tổ đội sản xuất, các hợp tác xã tự đóng góp,
điều hành và quản lý. Đồng thời cần sự giúp đỡ rất quan trọng của Trung ƣơng, của
tỉnh, sự giúp đỡ của kiều bào nƣớc ngoài, liên doanh, liên kết của các tổ chức trong
và ngoài tỉnh, với phƣơng châm phát triển kinh tế biển và vùng ven biển.
Nguồn vốn thứ hai là nguồn vốn từ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào các ngành
kinh tế biển. Trong các hình thức thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, FDI luôn dành
đƣợc sự quan tâm hàng đầu. Bởi vì, FDI không kèm theo các điều kiện chính trị,
thƣơng mại…và thƣờng mang lại kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, tổ chức
hiện đại. Đối với các ngành kinh tế biển, nguồn vốn FDI có một ý nghĩa rất quan
trọng. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế biển của nƣớc ta nói chung và Nam
Địnhnói riêng còn rất mới mẻ vì vậy khi thu hút đƣợc FDI cũng đồng thời chúng ta
sẽ làm giàu thêm cho mình kinh nghiệm, kỹ thuật, khoa học, công nghệ quản lý và
nhất là về chất lƣợng sản phẩm của các ngành kinh tế biển, tiến kịp và hiệu quả với
trình độ phát triển kinh tế biển của các quốc gia có biển trên thế giới. Để có thể đáp
ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong lĩnh vực kinh tế biển của Nam
Định, các giải pháp cơ bản trong thu hút FDI vào các ngành kinh tế biển của thành
phố là: Chủ động tích cực tham gia hội thảo, hội nghị về hợp tác quốc tế cả ở trong
và ngoài nƣớc; cử các nhóm đầu tƣ ra nƣớc ngoài tiếp thị; sử dụng internet để quảng
bá thông tin, giới thiệu thị trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực kinh tế biển, các lợi thế cạnh
tranh của các ngành kinh tế biển của Nam Địnhso với những địa phƣơng khác trong
cả nƣớc…
Trên cơ sở của hai nguồn vốn chính, việc huy động nguồn vốn từ ngân sách
của tỉnh, Trung ƣơng và viện trợ nƣớc ngoài để đầu tƣ phát triển kết cấu hạ tầng
107
kinh tế biển, các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn nhƣ cảng, đƣờng giao thông,
các khu đô thị, khu công nghiệp…sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng cần nhận thây rằng
nguồn vốn này để có thể nhận đƣợc là một điều cũng khá khó khăn do ngân sách là
có hạn, mà nhiều địa phƣơng, nhiều nơi, nhiều ngành cũng cần, chính vì thế trong
quá trình phát triển kinh tế biển của mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nên xây dựng
đƣợc các chiến lƣợc hoạch định đầy đủ, đúng đắn và thực sự có hiệu quả và tác
động tích cực lớn khi hoàn thiện. Chỉ khi làm đƣợc những điều đó thì khả năng, cơ
hội sử dụng nguồn vốn này mới trở thành hiện thực.
Sử dụng và quản lý nguồn vốn:
Đối với vấn đề sử dụng vốn, cần có chính sách tập trung đầu tƣ đúng mức,
đồng bộ và dứt điểm nhằm phát huy cao nhất năng lực và hiệu quả khai thác, đặc
biệt là đối với khu công nghiệp, cảng, hạ tầng du lịch, các cơ sở sản xuất và dịch vụ
nhằm tạo sức bật nhanh cho phát triển kinh tế biển và vùng ven biển ở Nam Định.
Thực tế hiện nay một vấn đề nổi cộm đó chính là việc sử dụng sai mục đích, và
không hiệu quả nguồn vốn, với lý do này, mà khi thực hiện phát triển kinh tế biển
địa phƣơng cần phải tăng cƣờng công tác kiểm tra giám sát, thẩm định hiệu quả
cũng nhƣ tính khả thi của các dự án.Đối với các dự án sai mục đích, không đảm bảo
hiệu quả cần đƣợc nhanh chóng chấm dứt để tránh thất thoát, lãng phí của cải cũng
nhƣ công sức của nhà nƣớc, tỉnh và nhân dân.
Trong quá trình sử dụng vốn để phát triển kinh tế biển của Nam Địnhcần giao
quyền chủ động cho các chủ thể kinh tế nhƣ làm cái gì, làm nhƣ thế nào…Song hành
cùng với tính chủ động khi sử dụng vốn, cũng cần tăng cƣờng trách nhiệm đặc biệt là
trách nhiệm pháp lý các cho tổ chức cá nhân trong quá trình sử dụng vốn khi tổ chức
không thực hiện, bị thất thoát hay lãng phí. Chỉ có nhƣ vậy thì cả phía chủ nguồn vốn
và ngƣời sử dụng nguồn vốn mới đạt đƣợc lợi ích đồng thuận cho cả hai phía.
4.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu phát triển kinh
tế biển ở Nam Địnhtheo hướng hiệu quả
Nƣớc ta nói chung và Nam Địnhnói riêng hiện nay đang trong quá trình phát
triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa dƣới bối cảnh mà nền kinh tế
108
quốc tế đang chịu nhiều tác động từ xu thế toàn cầu hóa. Trong sự nghiệp cách
mạng quan trọng ấy, nguồn nhân lực đã đƣợc xác định là nguồn lực cơ bản của mọi
nguồn lực, đầu tƣ vào nguồn nhân lực là đầu tƣ cho sự phát triển. Hơn thế nữa, kinh
tế biển nƣớc ta phát triển muộn hơn so với nhiều nƣớc điều đó đòi hỏi nguồn lực lao
động phải không ngừng nhanh chóng nâng cao chất lƣợng của mình. Ở Nam
Địnhđể nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển
có thể tập trung theo một số hƣớng sau:
Thứ nhất, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực tại chỗ của tỉnh
Xây dựng chƣơng trình và đa dạng hoá hình thức đào tạo. Chƣơng trình đào
tạo phải đảm bảo phù hợp với từng đối tƣợng và định hƣớng phát triển kinh tế – xã
hội vùng biển, ven biển, trong đó chú ý đến chƣơng trình đào tạo chuyên sâu cho
đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động quản lý, đội ngũ doanh nhân. Chƣơng trình
đào tạo phải đảm bảo tính khoa học và hiện đại, cập nhật đƣợc những thành tựu về
khoa học công nghệ mới nhất trên thế giới và của Việt Nam liên quan đến biển và
các vấn đề kinh tế biển. Trên cơ sở một chƣơng trình đào tạo chuẩn, tổ chức các
hình thức đào tạo hoặc dạy nghề (chính quy, tập trung, tại chức, ngắn hạn, dài hạn,
bổ túc)…hoặc phối kết hợp các hình thức này để có hiệu quả nhất.
Đẩy mạnh xã hội hoá và mở rộng hợp tác quốc tế về công tác đào tạo. Xã hội
hóa giáo dục và mở rộng hợp tác quốc tế về công tác đào tạo ở nƣớc ta trong những
năm qua đã gặt hái đƣợc những thành công bƣớc đầu. Chính vì thế để nâng cao
trình độ chất lƣợng nguồn lao động cho phát triển kinh tế biển, chúng ta phải tận
dụng và nắm bắt xu thế đó. Hình thức xã hội hóa để nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế biển không chỉ dừng lại ở việc nhà nƣớc tổ chức
đào tạo, mà có thể các doanh nghiệp cùng giúp sức, thực hiện đào tạo trong doanh
nghiệp, kết hợp học đi đôi với hành. Mặt khác, thƣờng xuyên đào tạo, bồi dƣỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Không
chỉ có vậy mà ngay bản thân mỗi ngƣời lao động cũng cần tự ý thức vào việc nâng
cao trình độ của mình.
Chú trọng phát triển và có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề liên quan đến biển đối
109
với lao động vùng nông thôn thu hồi đất do quá trình đô thị hoá và phát triển các ngành
phi nông nghiệp và các lao động khác có nhu cầu học. Trong những năm tới đây, việc
phát triển kinh tế biển cần một lƣợng lớn ngƣời lao động có chuyên môn nghiệp vụ liên
quan đến ngành kinh tế biển. Việc chúng ta đón đầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
cho phát triển kinh tế biển ngay từ bây giờ sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế trong
tƣơng lai không bị gián đoạn mà phát triển một cách liên tục và ổn định. Ngoài ra để
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực thông qua đào tạo và bôi dƣỡng thành phố cũng
cần chú ý đầu tƣ vào việc phát triển quy mô và chất lƣợng của các trƣờng đại học, cao
đẳng trung cấp chuyên nghiệp và nghề trên địa bàn tỉnh nhƣ Đại học Sƣ Phạm Kỹ
Thuật Nam Định, Đại học Điều Dƣỡng Nam Định, Đại học Dân Lập Lƣơng Thế Vinh,
Cao đẳng Công Nghiệp Nam Định, Cao đẳng Sƣ Phạm Nam Định, Cao đẳng Xây
Dựng Nam Định... Đặc biệt trong đó phải chú ý đến ngành, lĩnh vực đáp ứng cho yêu
cầu phát triển kinh tế biển ở hiện tại và trong tƣơng lai.
Thứ hai, bên cạnh việc đào tạo, để phát triển kinh tế biển Nam Địnhcũng cần
chú ý đến việc thu hút, khuyến khích nhân tài từ các địa phương khác trong cả nước
thông qua chính sách sử dụng nhân tài của mình.
Nam Địnhcần phải có cơ chế chính sách hấp dẫn để khuyến khích đội ngũ lao
động có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; Thu hút các chuyên gia, lao động trình độ cao
từ bên ngoài vào những lĩnh vực ƣu tiên mà lực lƣợng tại chỗ còn thiếu nhƣ:hỗ trợ
về học phí, phƣơng tiện đi lại, điều kiện sống… cho những lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật.
Thứ ba, Nam Địnhcó thể thực hiện đổi mới cơ cấu lao động của mình.
Trên cơ sở việc xác định nhu cầu về số lƣợng lao động trong từng lĩnh vực và
tình hình thực tế của nguồn nhân lực tại địa phƣơng, chúng ta có thể tiến hành
chuyển dịch cơ cấu lao động bằng cách chuyển một phần lao đông dƣ thừa trong
nông nghiêp ở các dải ven biển sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ theo
hƣớng tăng lao động giản đơn sang lao động phức tạp có chuyên môn trình độ và đã
110
qua đào tạo.
4.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường khảo sát,
thăm dò, đánh giá nguồn lợi và xây dựng kết cấu hạ tầng biển ở Nam Định
Nếu nhƣ nguồn nhân lực là cơ sở quan trọng của sự phát triển kinh tế biển thì
khoa học công nghệ lại là động lực quan trọng. Trong các ngành kinh tế nói chung,
khoa học và công nghệ đã thực sự thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao
chất lƣợng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con ngƣời. Nó
còn trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cƣờng độ lao động,
giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất
xám trong cấu tạo sản phẩm,…Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa
năng, mẫu mã đẹp, kích thƣớc nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng đƣợc rút ngắn
đáng kể. Tuy nhiên, trình độ khoa học công nghệ hiện nay trong lĩnh vực kinh tế
biển còn hạn chế, để có thể vƣợt ra khỏi tình trạng này và để khoa học công nghệ
khoa học có thể phát huy hết ý nghĩa của mình, trong thời gian tới Nam Địnhcần:
Nhanh, nhạy tiếp nhận các thành tựu KHCN cao và sớm ứng dụng vào sản
xuất, khai thác, chế biến sản phẩm từ biển nhƣ: công nghệ đánh bắt, nuôi trồng và
chế biến hải sản, công nghệ sinh học biển, công nghệ dƣợc phẩm biển, công nghệ
hoá học, phát triển nguồn năng lƣợng thuỷ triều và năng lƣợng sóng biển,... Đồng
thời trong công nghiệp biển cũng tăng cƣờng ứng dụng và đổi mới KHCN trong các
ngành, lĩnh vực kinh tế biển và ven biển nhƣ: công nghệ cơ khí chế tạo tàu biển,
công nghệ vận tải biển, xây dựng công trình trên biển, ven biển, công nghệ xử lý
chất thải,...
Tăng cƣờng công tác nghiên cứu cơ bản, giải quyết các vấn đề mang tính công
nghệ quan trọng nhƣ nghiên cứu đánh giá tiềm năng tài nguyên, dự báo các biến cố tự
nhiên... Nâng cao công nghệ, quan sát các yếu tố tự nhiên và môi trƣờng nhằm phục vụ
hiệu quả công tác phòng tránh giảm nhẹ thiên tai. Tăng cƣờng đào tạo, đầu tƣ trang
thiết bị phục vụ khoa học, đổi mới công tác nghiên cứu và cơ chế quản lý khoa học.
Trên cơ sở của khoa học và công nghệ, tỉnh cần tiến hành công tác khảo sát,
thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển của Nam Định, cụ thể là: Quan tâm đến công tác
111
khảo sát, thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển để bổ sung số liệu, dữ liệu cơ bản về
biển Nam Định, phục vụ cho định hƣớng phát triển các ngành kinh tế biển phù hợp
hơn. Tăng cƣờng hợp tác với các cơ quan khoa học trong và ngoài nƣớc để ứng
dụng thành tựu mới về khoa học kỹ thuật trong công tác khảo sát, thăm dò, đánh giá
nguồn lợi biển. Hằng năm cần đầu tƣ kinh phí thích đáng cho công tác khảo sát,
thăm dò, đánh giá nguồn lợi biển.
Cùng với đó, chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng biển phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế biển của thành phố theo hƣớng hiệu quả và bền vững.
4.2.5. Đảm bảo quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái
Để có thể thực hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa IX) về chiến lƣợc
bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới và các nghị quyết khác về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế
biển với tiềm lực quốc phòng – an ninh, trong thời gian tới Nam Địnhcần:
Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với quốc phòng - an ninh. Cần nhận thức
đầy đủ về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh và quốc
phòng – an ninh với kinh tế biển trên cơ sở tạo điều kiện cho kinh tế biển phát triển.
Tăng cƣờng tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia ở cả đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo trong mọi tình huống.
Chú trọng công tác giáo dục quốc phòng, xây dựng lực lƣợng công an, quân
đội, dân quân tự vệ, dự bị động viên, giữ vững và tăng cƣờng xây dựng thế trận
quốc phòng – an ninh, cơ sở quốc phòng tại các địa bàn chiến lƣợc trọng yếu nhƣ
các đô thị ven biển, các đảo quan trọng của tỉnh, không để bị động, bất ngờ.
Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên biển, ven biển gắn với hƣớng, tuyến
và khu vực phòng thủ biển, gắn kết cảng quân sự với hệ thống cảng biển trên địa
bàn tỉnh.
Quan hệ tốt với các quốc gia có biển liền với vùng biển của địa phƣơng; hạn
chế đến mức thấp nhất các yếu tố dẫn đến xung đột; ngăn chặn và làm thất bại mọi
ý đồ, hành động xâm phạm vùng biển, đảo.
112
Chủ động chuẩn bị chu đáo từ xây dựng, bố trí lực lƣợng, thế trận phù hợp
nhằm sẵn sàng đối phó, ngăn chặn có hiệu quả các xung đột có thể xảy ra trên biển
để giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nƣớc; phát huy
sức mạnh tổng hợp về lực lƣợng và cơ sở vật chất trong quản lý bảo vệ vùng biển;
Bên cạnh việc phát triển công tác quốc phòng – an ninh, trong quá trình phát
triển kinh tế biển của Nam Địnhcũng cần chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trƣờng sinh
thái biển cụ thể là: chú trọng và quan tâm giải quyết kịp thời mối quan hệ giữa tăng
trƣởng và môi trƣờng. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trƣờng, gắn mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế với nhiệm vụ bảo vệ môi trƣờng. Các quy hoạch, dự án đầu tƣ mới
phải đảm bảo yêu cầu về môi trƣờng, thực hiện nghiêm quy trình, lộ trình xử lý ô
nhiễm môi trƣờng. Hạn chế các nguồn thải từ đất liền ra biển, ngăn chặn tình trạng
phá rừng ngập mặn ven biển, hạn chế sự cố môi trƣờng biển và ven biển, nâng cao
năng lực phòng tránh, ứng phó và khắc phục các sự cố môi trƣờng. Ngăn chặn ô
nhiễm và suy thoái môi trƣờng biển, bảo vệ phát triển bền vững các hệ sinh thái
biển và ven biển. Ngăn chặn tình trạng sử dụng các công cụ, phƣơng tiện huỷ diệt,
không có chọn lọc trong khai thác thuỷ sản, tăng tính bền vững trong nuôi trồng
thuỷ sản, canh tác nông nghiệp ven biển. Hạn chế nạn xói lở, sụt lở, xâm lấn bờ
biển, đánh giá tác động môi trƣờng đối với các dự án đầu tƣ phát triển, tuân thủ các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trƣờng hiện hành. Chú ý phát triển kinh tế
biển gắn liền với kinh tế xanh, thân thiện với môi trƣờng, từng bƣớc phát triển năng
lƣợng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Nhất là trong thời gian gần đây trên cả
nƣớc luôn xảy ra tình trạng nhiều công ty, doanh nghiệp đã xả trực tiếp nƣớc thải,
chất thải độc hại chƣa qua xử lý ra môi trƣờng dẫn đến ảnh hƣởng nghiêm trọng tới
môi trƣờng sinh thái, sức khỏe của ngƣời dân. Và gần đây nhất là vụ xả thải vô cùng
nghiêm trọng của công ty Formosa Hà Tĩnh đã gây chấn động dƣ luận cả trong và
ngoài nƣớc. Đó đƣợc coi là hành vi chống lại môi trƣờng sống của con ngƣời, cũng
có nghĩa là chống lại nhân loại tiến bộ. Vậy làm thế nào để vừa phát triển kinh tế,
thu hút đầu tƣ, nhƣng không phá hủy môi trƣờng? Đó đang là một bài toán rất cần
lời giải thỏa đáng cho tỉnh Nam Định nói riêng và các tỉnh thành khác trong cả nƣớc
113
nói chung. Đặc biệt là Nam Định đang trong giai đoạn đầu cấp phép cho xây dựng
khu công nghiệp Rạng Đông thuộc địa bàn huyện Nghĩa Hƣng, khi hoàn thiện sẽ là
khu công nghiệp dệt may lớn nhất Việt Nam, thì vấn đề bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt
là môi trƣờng sinh thái biển càng phải đƣợc đặt lên hàng đầu.
Về vấn đề này, Chủ tịch UBND tỉnh Nam Địn h, ông Đoàn Hồng Phong cho
biết, xây dƣ̣ng thành công KCN Dê ̣t may Ra ̣ng Đông là ý chí và quyết tâm củ a Tỉnh. Đây là dƣ̣ án lớ n nằm trong tổng thể Khu kinh tế Ninh Cơ đã đƣơ ̣c quy hoa ̣ch , do vâ ̣y tỉnh yêu cầu nhà đầu tƣ cần thƣ̣c hiê ̣n tốt các nô ̣i dung : Bảo đảm môi trƣờng, đă ̣c biê ̣t là xƣ̉ lý nƣớ c thải củ a các nhà máy dê ̣t nhuô ̣m theo quy chuẩn củ a Viê ̣t Nam và thế giớ i; đối với nhà đầu tƣ thƣ́ cấp phải lựa cho ̣n các doanh nghiê ̣p có công nghê ̣ cao, chủ yếu là các nƣớc Đức , Nhâ ̣t Bản; không đƣa lao đô ̣ng phổ thông ngƣờ i nƣớ c ngoài vào làm viê ̣c ta ̣i KCN ; phải xây dựng nơi đây trở thành KCN đô thị có
đầy đủ nhà máy, trƣờ ng ho ̣c, khu ăn, nghỉ cho ngƣời lao động.
Chủ tịch UBND tỉnh cũng khẳng định , sẽ sớ m giải quyết các đề nghi ̣ củ a chủ
đầu tƣ về xây dƣ̣ng các tuyến đƣờ ng giao thông đến KCN phù hơ ̣p vớ i quy hoa ̣ch mạng lƣới giao thông của tỉnh và quốc gia . Yêu cầu huyê ̣n Nghĩa Hƣng sớ m thƣ̣c hiê ̣n công tác giải phóng mă ̣t bằng theo đú ng trình tƣ̣ pháp luâ ̣t , coi đây là nhiê ̣m vu ̣ chính trị hàng đầu của huyện thời điểm hiện nay .
Tỉnh sẽ thành lập Ban Chỉ đạo triể n khai dƣ̣ án , trong đó Sở Tài chính chịu
trách nhiệm tham mƣu về khung giá đất ; Sở TN và MT xƣ̉ lý các vấn đề đất đai ; Sở Xây dƣ̣ng hƣớ ng dẫn , thƣ̣c hiê ̣n thẩm đi ̣nh và quy hoa ̣ch chi tiết ; Ban quản lý các KCN tỉnh là cơ quan thƣ ờng trực giúp UBND tỉnh đôn đốc , thƣ̣c hiê ̣n đúng tiến đô ̣
công viê ̣c theo kế hoạch đã đề ra nhằm sớ m đƣa KCN Dê ̣t may Ra ̣ng Đông vào hoa ̣t
, tạo việc làm , thu đô ̣ng, góp phần thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế
nhâ ̣p cho nhiều lao đô ̣ng.
4.2.6. Một số các giải pháp khác và điều kiện thực thi
Một là, tăng cường hợp tác với các địa phương trong vùng, cả nước và hợp
tác quốc tế
Nhƣ đã phân tích, phát triển kinh tế biển của Nam Địnhcòn gặp rất nhiều khó
114
khăn thách thức. Mỗi địa phƣơng lại có thế mạnh và cách thức phát triển kinh tế
biển riêng của mình, chính vì vậy việc tăng cƣờng hợp tác với các địa phƣơng trong
vùng cả nƣớc và quốc tế, một mặt vừa cho ta thấy năng lực của bản thân. Mặt khác
lại cho ta tận dụng đƣợc sức mạnh và học hỏi kinh nghiệm từ các bạn đối tác của
mình để phát triển kinh tế nói chung và kinh tế biển địa phƣơng nói riêng.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, hợp tác cần dựa trên nguyên tắc tôn
trọng, bình đẳng và cùng có lợi. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong quá trình hợp tác
giữa các bên liên quan để cùng đạt đƣợc mục đích mình mong muốn. Trong quá
trình hợp tác, cũng chú ý xây dựng mối liên kết vùng, phát huy đƣợc sức mạnh của
dải đồng bằng ven biển Quảng Ninh – Hải Phòng – Thái Bình – Nam Định – Ninh
Bình…
Hai là, phát huy sức mạnh và vai trò của các lực lượng kinh tế hoạt động
trong các lĩnh vực kinh tế biển
Để thực hiện thành công phát triển kinh tế biển đòi hỏi không chỉ từ phía các
cơ quan nhà nƣớc mà phải có sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức kinh tế, năng
lực của các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào kinh tế biển - đây là giải pháp
quan trọng nhằm tiếp tục thúc đẩy kinh tế biển phát triển. Vì đây là lực lƣợng chính,
trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế biển.
Trƣớc hết lực lƣợng này phải tự ý về vai trò quan trọng của mình trong quá
trình phát triển kinh tế biển từ đó tích cực chủ động trong tham gia phát triển kinh tế
của địa phƣơng. Trên cơ sở đó chính quyền tỉnh cần phải củng cố nâng cao chất
lƣợng cá nhân, tổ chức doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh tế biển, mà trƣớc
hết là tuyên truyền, giáo dục chiến lƣợc biển, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò
của kinh tế biển đối với quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng và
chủ quyền quốc gia.
Để những giải pháp trên có thể thực hiện đƣợc cần có một số điều kiện sau:
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà Nƣớc cùng các cấp và vai
trò của Mặt trận, các đoàn thể.
Tăng cƣờng sự lạnh đạo và giám sát của các cấp trong việc phát triển kinh tế -
115
xã hội, an ninh - quốc phòng vùng biển và ven biển. Chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục sâu rộng, tới các cấp, ngành và tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng của
biển trong phát triển kinh tế cũng nhƣ quốc phòng, để từ đó mọi ngƣời nắm vững
quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, tạo sự thống
nhất ý chí và hành động của Đảng cùng sự đồng thuận cao của toàn xã hội, từ đó khơi
dậy tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cƣờng, quyết tâm thúc đẩy phát triển kinh tế biển,
vùng ven biển thành hiện thực. Nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền từ
cấp tỉnh đến cấp cơ sở, đặc biệt là các địa phƣơng ven biển, rà soát, điều chỉnh, tránh
chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo tính thống nhất trong quản lý cũng nhƣ
điều hành phát triển kinh tế biển một cách bền vững và hiểu quả.
Phát huy vai trò của mặt trận cùng các đoàn thể chính trị - xã hội trong công
cuộc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong thanh tra, kiểm ta, giám sát, đẩy mạnh
phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội của vùng biển và ven biển, làm cho mọi tầng lớp nhân dân đƣợc hƣởng lợi từ
116
phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách thiết thực nhất.
KẾT LUẬN
Nam Định là một trong những tỉnh, thành phố có tiềm năng lớn mạnh về phát
triển kinh tế biển. Địa hình cũng nhƣ nguồn tài nguyên về biển phong phú là cơ sở để
có thể phát triển kinh tế biển của tỉnh Nam Định. Bên cạnh đó tỉnh còn biết tận dụng
phát triển các dịch vụ đi theo biển nhƣ các khu du lịch, sinh thái…. Trong nhiều năm
qua, tình hình phát triển kinh tế biển của NamĐịnh từng bƣớc đƣợc nâng cao thể hiện
trong những thành tựu kinh tế đáng kể và đang tiếp tục thực hiện những dự án nhằm
nâng cao chất lƣợng các khu du lịch biển của tỉnh nhà. Bên cạnh đó, cũng thực hiện
những chính sách an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống cho ngƣời dân vùng biển duy trì
những ngành nghề truyền thống và tập trung phát triển kinh tế biển.
Mặc dù đã biết cách khai thác những nguồn lợi đang có song bên cạnh đó
tỉnh cũng gặp không ít khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế biển tƣơng
xứng với tiềm năng đang nắm trong tay. Cơ sở vật chất kĩ thuật cũng nhƣ các hình
thức tổ chức quản lý kinh tế còn tồn tại nhiều bất cập chƣa bắt kịp với bƣớc phát
triển của thời đại. Nam Định là một trong những tỉnh thành có nhiều tiềm năng, lợi
thế về phát triển kinh tế biển vì vậy cần đẩy mạnh hơn nữa những chiến lƣợc thu hút
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và lƣợng khách du lịch
đến với các khu du lịch của tỉnh nhà. Trong thời buổi hội nhập nhƣ hiện nay, đó là
một trong những cách giúp thúc đẩy phát triển kinh tế biển nói riêng hay nền kinh tế
Việt Nam nói chung.
Thời đại của hội nhập và sự giao lƣu đang nóng hơn bao giờ hết vì vậy khi có
trong tay những tiềm năng phát triển kinh tế, chúng ta cần biết nắm bắt cơ hội và
tạo nên bƣớc đột phát trong sự phát triển kinh tế. Bên cạnh việc đƣa ra những thành
tựu mà Nam Định đã đạt đƣợc trong quá trình phát triển thì đề tài cũng chỉ ra những
thực trạng còn bất cập mà quá trình phát triển kinh tế biển ở Nam Định đang gặp
phải và đã đóng góp những ý kiến về việc thay đổi thực trạng này cũng nhƣ nêu ra
một số giải pháp cho các vấn đề này, góp phần đóng góp những ý kiến nhằm xây
117
dựng vào chủ đề kinh tế biển nói chung mà nhiều đề tài đã và đang hƣớng tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Trung tâm thông tin công tác tƣ tƣởng, 2007.Biển
và hải đảo Việt Nam.Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Bon, 2008.Kinh tế biển Sóc Trăng. Luận văn thạc sĩ kinh tế. Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy Nam Định (Khoá XIII), 2009. Nghị quyết số 27-
NQ/TU “Về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020”. Hà Nội.
4. Bộ Thuỷ sản, 2006.Báo cáo thực hiện kế hoạch 2005 và phương hướng, nhiệm
vụ KT-XH của ngành thuỷ sản. Hà Nội: Nxb Hà Nội.
5. Bộ Thuỷ sản, 2006.Báo cáo tổng kết 20 năm. Hà Nội.
6. Bộ Thuỷ sản, 2007.Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2006 và
chỉ tiêu, biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2007 của ngành
thuỷ sản. Hà Nội: Nxb Hà Nội.
7. Chu Văn Cấp, 2003.Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá
trình hội nhập của khu vực và quốc tế.Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốcgia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8.Cục thống kê tỉnh Nam Định (2002-2012), Niên giám thống kê tỉnh Nam Định
(2002, 2007, 2009, 2010, 2011), Nxb.Thống kê, Hà Nội.
9. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, Nxb.Văn hóa, Hà Nội, 1962, T.II, tr.156.
10. UBND tỉnh Nam Định (2005), Nam Định, thế và lực trong thế kỉ XXI, Nxb.
CTQG, Hà Nội.
11. Lê Kim Chung, 2003.Công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngành thuỷ hải sản ở
duyên hải Nam Trung Bộ.Luận án tiến sĩ kinh tế. Học viện Chính trị quốc gia Hồ
ChíMinh, Hà Nội.
118
12.Phạm Dũng, 2007. Biển và kinh tế biển.Tạp chí Cộng sản, số 20, trang36-38..
13..Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần X. Hà
Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
14.Đảng Cộng sản Việt Namm, 2007.Nghị quyết hội nghị lần 4 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá X. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
15.Thế Đạt, 2009. Nền kinh tế các vùng biển Việt Nam. Hà Nội: Nxb Lao động.
16.Lê Cao Đoàn, 1999.Về đổi mới và phát triển kinh tế vùng biển. Hà Nội: Nxb
Chính trị quốc gia.
17. Đào Duy Quát, 2008. Biển và hải đảo. Báo Tuyên giáo, số 9, trang 19.
18. Bùi Tất Thắng, 2007. Về chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển Việt Nam.Tạp
chí kinh tế và dự báo, số 8, trang5-7.
19. Tỉnh Ủy- Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2004), Địa chí
Nam Định, Nxb. CTQG, Hà Nội.
20. Tỉnh uỷ Nam Định (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVIII( nhiệm kỳ 2010 – 2015).
21. Sở Nông nghiệp và PTNT Nam Định (2012), Thực trạng ngành nghề nông thôn
tỉnh Nam Định - kết quả thực hiện năm 2012; nhiệm vụ, giải pháp năm 2013 và giai
119
đoạn 2013-2015.5.