BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH _______________

LÊ MINH ÁNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG

NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2025

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH _________________

LÊ MINH ÁNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG

NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2025

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60310102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung

thực và chưa được sử dụng để bảo vệ học hàm, học vị nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Minh Ánh

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................................. 1

2. Những nghiên cứu có liên quan đến đề tài ............................................................ 2

3. Mục đích - yêu cầu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu .......................................... 3

3.1. Mục đích ............................................................................................................. 3

3.2. Yêu cầu ............................................................................................................... 3

3.3. Nhiệm vụ ............................................................................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ............................................................... 4

4.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 4

4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 5

5.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 5

5.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 5

6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn ................................................................. 5

7. Kết cấu nội dung ................................................................................................... 6

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ

TRONG NÔNG NGHIỆP ...................................................................................... 7

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tập thể ......................................................... 7

1.1.1 Khái niệm về kinh tế tập thể ............................................................................ 7

1.1.2. Các mô hình kinh tế tập thể............................................................................. 8

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường

lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tập thể trong nông nghiệp ................... 14

1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin ............................................................. 14

1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh ........................................................... 19

1.2.3. Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam..................................... 22

1.3. Vai trò phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp .......................................... 28

1.3.1. Phát triển sản xuất lớn trong nông nghiệp ...................................................... 28

1.3.2. Góp phần thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn............................... 29

1.4. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở một số địa

phương và bài học rút ra cho Đồng Nai .................................................................... 31

1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở một số địa

phương ....................................................................................................................... 31

1.4.2. Một số bài học rút ra cho tỉnh Đồng Nai ......................................................... 36

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ

TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI

ĐOẠN 2002 – 2013 .................................................................................................. 38

2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đồng Nai ......................... 38

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên ...................................................................................... 38

2.1.2. Về điều kiện xã hội ......................................................................................... 40

2.1.3. Về điều kiện kinh tế ........................................................................................ 42

2.2. Tổng quan về kinh tế tập thể tại Đồng Nai ........................................................ 43

2.3. Các giai đoạn phát triển của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai. .................................................................................................... 47

2.3.1. Giai đoạn từ 2002 – 2005. ............................................................................... 47

2.3.2. Giai đoạn từ 2006 – 2013. ............................................................................... 50

2.4. Thực trạng phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai

thời gian qua. ............................................................................................................. 54

2.4.1. Cơ cấu ngành nghề .......................................................................................... 54

2.4.2. Đóng góp vào GDP và tăng trưởng ................................................................. 55

2.4.3. Giải quyết việc làm, nâng cao năng suất, hiệu quả, thu nhập ......................... 55

2.4.4. Góp phần xây dựng nông thôn mới ................................................................. 57

2.4.5. Những chính sách hỗ trợ của tỉnh Đồng Nai cho phát triển KTTT trong

nông nghiệp ............................................................................................................... 58

2.4.6. Vai trò lãnh đạo của các Cấp ủy đảng, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức

đoàn thể cho phát triển KTTT trong nông nghiệp .................................................... 62

2.4.7. Vai trò của Liên minh HTX tỉnh ..................................................................... 63

2.5. Kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân ......................................................... 65

2.5.1. Kết quả đạt được ............................................................................................................ 65

2.5.2. Những hạn chế ............................................................................................................... 66

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM

ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG NÔNG

NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2025 ....................... 70

3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025 ....................................................................... 70

3.1.1. Phương hướng ................................................................................................. 70

3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai đến năm 2025 ........................................................................................... 71

3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể trong

nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025 ........................................... 73

3.2.1. Đẩy mạnh công tác vận động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát

triển kinh tế tập thể cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh để mọi

người dân hiểu rõ, tự nguyện tham gia ..................................................................... 73

3.2.2. Xem xét giải thể các mô hình hoạt động không hiệu quả. Củng cố, phát

triển mới các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo đúng nguyên tắc,

phương châm và theo nhận thức mới ........................................................................ 75

3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện, thực hiện các chính sách để thúc đẩy kinh tế tập

thể trong nông nghiệp mà nòng cốt là các hợp tác xã phát triển ............................... 78

3.2.4. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ trong quá trình

sản xuất kinh doanh của các mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp ................. 81

3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là ban chỉ

đạo xây dựng và phát triển kinh tế tập thể các cấp ................................................... 82

3.2.6. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa “bốn nhà” trong

phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, đồng thời gắn với chương trình

xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh ................................................................ 84

3.2.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước và tỉnh Đồng Nai ........................................................................................ 85

3.3. Một số kiển nghị ................................................................................................. 87

3.3.1. Đối với Trung ương ........................................................................................ 87

3.3.2. Đối với tỉnh Đồng Nai ..................................................................................... 87

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CLBNSC : Câu lạc bộ năng suất cao

CNH-HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB : Chủ nghĩa tư bản

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HTX : Hợp tác xã

HTXNN : Hợp tác xã nông nghiệp

KHCN : Khoa học công nghệ

KTHT : Kinh tế hợp tác

KTTT : Kinh tế tập thể

THT : Tổ hợp tác

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1. Thông tin hợp tác xã theo từng lĩnh vực trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai

đoạn 2002 – 2013.

Bảng 2.2. Kết quả phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp từ năm 2002 – 2005.

Bảng 2.3. Kết quả phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp từ năm 2006 – 2013.

Bảng 2.4. Cơ cấu các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn

tỉnh Đồng Nai.

Bảng 2.5. Thu nhập của người lao động và cán bộ quản lý trong hợp tác xã nông

nghiệp.

Bảng 2.6. Tỷ lệ so sánh kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế

tập thể 10 năm so với giai đoạn trước đó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Bảng 2.7. Tình hình phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2006 –

2013.

Biểu 2.1. Phân loại HTXNN của tỉnh Đồng Nai năm 2013.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Với nền tảng tư tưởng hợp tác và phong trào HTX gần 200 năm qua, Kinh tế tập thể

đã trở thành một loại hình tổ chức phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, có ý nghĩa

kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội to lớn đối với từng quốc gia. Không những thế, KTTT

còn trở thành phong trào quốc tế sâu rộng, liên kết trong tổ chức Liên minh HTX quốc tế

(ICA- International Cooperative Allien). Đối với nước ta, phát triển KTTT nói chung và

phát triển KTTT trong nông nghiệp nói riêng là một tất yếu khách quan trong sự nghiệp

phát triển kinh tế- xã hội và củng cố nền quốc phòng – an ninh đất nước, là chủ trương lớn,

nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Đồng Nai là vùng đất giàu tiềm năng, là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm miền Đông Nam

Bộ: Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Tây Bắc giáp tỉnh

Bình Dương, Bình Phước, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu. Đó là những địa phương có tiềm năng phát triển nhanh và mạnh về kinh

tế, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật lớn

nhất cả nước, có khả năng cung cấp nguồn nhân lực, các dịch vụ khoa học - kỹ thuật, tài

chính - ngân hàng, các sản phẩm công nghệ cao..., đồng thời cũng là một thị trường tiêu

thụ hàng hoá lớn. Tình hình sử dụng đất của tỉnh những năm qua có ít nhiều biến động, tuy

nhiên cho đến nay, Đồng Nai vẫn là tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất ở Đông Nam

Bộ. Bên cạnh đó, các mặt hàng nông, lâm, thủy sản được xếp là một trong ba tỉnh đứng

đầu cả nước về giá trị sản xuất.

Thời gian qua, Đồng Nai đã quan tâm khá nhiều cho việc phát triển KTTT, trong đó

sự phát triển của KTTT trong nông nghiệp đã đóng góp nhất định đối với sự tăng trưởng

và phát triển kinh tế của địa phương; giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho một bộ

phận lao động trên địa bàn. Tuy nhiên trong bối cảnh tình hình sản xuất – kinh doanh của

các thành phần kinh tế trên địa bàn Đồng Nai nói chung và thành phần KTTT nói riêng

còn gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới còn tác động, Trong nông nghiệp,

2

trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng nhìn chung sản xuất nông nghiệp còn manh mún,

nặng tính tự phát, trình độ sản xuất còn hạn chế, chi phí sản xuất cao, năng suất và chất

lượng của sản phẩm nông nghiệp còn thấp so với yêu cầu. Do đó tác giả chọn đề tài “Phát

triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025” để

nghiên cứu nhằm đóng góp một phần nghiên cứu của mình, đề ra giải pháp hữu hiệu cho

tỉnh nhà để thúc đẩy thành phần KTTT nói chung và KTTT trong nông nghiệp nói riêng

ngày càng phát triển theo đúng định hướng, góp phần cùng Đảng bộ tỉnh Đồng Nai hoạch

định đường lối, chính sách phát triển KTTT trong nông nghiệp đến năm 2025 trên địa bàn

tỉnh.

2. Những nghiên cứu có liên quan đến đề tài.

Hiện nay, các đề tài liên quan đến phát triển kinh tế tập thể rất được nhiều nhà khoa

học quan tâm, nghiên cứu như:

- GS. TS Lương Xuân Quỳ, PGS.TS Nguyễn Thế Nhã với đề tài: “Đổi mới tổ

chức và quản lý các HTX trong nông nghiệp, nông thôn”, NXB Nông nghiệp, Hà

nội, 1999.

- PGS, TS Phạm Thị Quý, Đại học Kinh tế Quốc dân với đề tài nghiên cứu:

“Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia-Hà Nội

2002.

- Chu Thị Hảo, “Lý luận về HTX và quá trình phát triển Hợp tác xã nông

nghiệp ở Việt Nam”, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2003.

- PGS. TS Phạm Thị Cần, TS Vũ Văn Phúc, PGS. TS Nguyễn Văn Kỳ đồng

chủ biên đề tài nghiên cứu: “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện

nay”, NXB Chính trị Quốc gia năm 2003.

- TS Nguyễn Minh Tuấn, Trưởng khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học kinh

tế TP HCM nghiên cứu đề tài khoa học cấp trường năm 2004: “Phát triển kinh tế

tập thể ở TP. HCM, thực trạng và giải pháp”.

- TS Chử Văn Lâm, Tổng Biên tập Tạp chí nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu đề

tài: “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia-Hà Nội tháng 12/2006.

3

- PGS, TS Đào Duy Huân, Trường Đại học Kinh tế - tài chính TP. HCM với

bài nghiên cứu: “Phân tích, đánh giá kinh tế hợp tác xã tỉnh Đồng Nai và các

khuyến nghị”, đăng trên Tạp chí Phát triển và hội nhập, Tháng 01-02, năm 2014.

v.v....

Tuy nhiên từ đó đến nay có quá ít đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng cụ thể đối

với việc phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm định

hướng chung cho việc phát triển KTTT đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh.

3. Mục đích - yêu cầu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu:

3.1. Mục đích:

- Trên cơ sở khái quát lý luận, phân tích thực trạng để đề ra giải pháp thiết thực nhằm

định hướng phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

- Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả quan điểm, nhiệm vụ được nêu

trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả kinh tế tập thể, quy định của Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012, các quy định khác có

liên quan đến phát triển KTTT, đồng thời khẳng định rõ hơn vai trò, tính tất yếu khách

quan của việc phát triển KTTT, phấn đấu đưa KTTT thực sự là một trong các thành phần

kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ

sở và đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai.

- Nhằm cụ thể hoá Chỉ thị của Tỉnh uỷ Đồng Nai về tăng cường sự lãnh đạo của các

cấp ủy đảng trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong thời

gian tới. Trên cơ sở đó phát huy vai trò, trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp chặt chẽ

của các ngành, các cấp để triển khai thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy đã đề ra.

- Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để phát triển KTTT trong nông nghiệp trên địa

bàn tỉnh, cụ thể là việc thành lập, phát triển các HTX, liên hiệp HTX, tổ hợp tác tham gia

phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các chương trình, mục tiêu quan trọng của tỉnh.

3.2. Yêu cầu:

- Việc phát triển KTTT là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đồng thời cũng

là sự nghiệp hết sức khó khăn đòi hỏi phải kiên trì, xuất phát từ nhu cầu thực tế, phù hợp

với đặc điểm của từng ngành, địa phương và từng lĩnh vực kinh tế. Phải tuân thủ các quy

4

định của Luật HTX 2012 và các quy định khác có liên quan, đảm bảo HTX là tổ chức

KTTT, đồng sở hữu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm do các thành viên tự nguyện thành lập,

trên cơ sở bình đẳng, dân chủ cùng có lợi. Xây dựng và phát triển KTTT trong nông

nghiệp phải gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương.

- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao vai trò quản lý nhà nước

trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT nói chung và KTTT

trong nông nghiệp nói riêng. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về phát

triển KTTT. Phát huy vai trò của Liên minh HTX tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phát triển KTTT trong nông nghiệp.

3.3. Nhiệm vụ:

Trên cơ sở nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê Nin, của Đảng và Nhà nước ta

về phát triển KTTT và những kết quả nghiên cứu, thu thập được để phân tích đầy đủ

những điểm mạnh, điểm yếu của KTTT trong nông nghiệp và giải quyết những mâu thuẫn

vốn có trong thành phần KTTT. Từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển

KTTT trong nông nghiệp theo đúng định hướng và hoạch định chiến lược phát triển đến

năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Là những vấn đề có liên quan về lý luận và thực tiễn trong tổ chức quản lý sản xuất

và hoạt động sản xuất kinh doanh của các mô hình sản xuất trong thành phần kinh tế tập

thể, mà cụ thể là các mô hình sản xuất của KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai (công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, về vốn, tài chính,

nguồn nhân lực v.v…).

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến các hoạt động về tổ chức

quản lý, sản xuất kinh doanh, về phương thức điều hành và thực tiễn hoạt động của các mô

hình sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp trong thành phần kinh tế tập thể.

5

- Về không gian: Toàn bộ các mô hình sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp trong

thành phần kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

- Về thời gian: Đánh giá thực tế hoạt động của thành phần kinh tế tập thể trong thời

gian qua, đặc biệt từ thời điểm BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 5

(khóa IX) năm 2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Từ

đó đề ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần làm hoàn thiện hơn cơ sở lý luận và thực

tiễn cho thành phần kinh tế tập thể nói chung và kinh tế tập thể trong nông nghiệp nói riêng

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập và phát triển.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên các lý thuyết về kinh tế tập

thể và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta về phát

triển kinh tế tập thể.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp luận chung: Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính

trị, những nguyên lý, quan điểm, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là

phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, lý luận với thực tiễn vào

quá trình phân tích, đánh giá.

- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu về kinh tế tập thể

trong nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai kết hợp phương pháp quan sát, phương pháp thống

kê, so sánh số liệu, khảo sát thực tế, dự báo. Đặc biệt là phương pháp tổng hợp – phân tích

so sánh để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp,

từ đó có sự định hướng phát triển trong thời gian tới và rút ra kết luận vấn đề.

6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn:

Luận văn phân tích những nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của

kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đồng thời đề ra các giải pháp

có tính khoa học, thực tiễn về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh đến năm 2025

nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém trong công tác tổ chức, điều hành hoạt động

của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu

tham khảo để phục vụ cho công tác lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn

6

nhằm góp phần thúc đẩy quá trình phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đồng

thời có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong công tác giảng dạy ở Trường

Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị xã Long Khánh và thành

phố Biên Hòa.

Về khả năng ứng dụng, luận văn sẽ giúp các cấp lãnh đạo thấy được vấn đề cần phải

giải quyết để góp phần nâng cao vai trò của việc phát triển kinh tế tập thể trong nông

nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, trước mắt là hoạch định chiến lược phát triển kinh

tế tập thể giai đoạn 2015 – 2020 và phục vụ cho việc soạn thảo Văn kiện Đại hội Đảng bộ

tỉnh Đồng Nai lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 – 2020.

7. Kết cấu nội dung:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục. Luận văn gồm

có 03 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

Chương 2. Thực trạng phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai giai đoạn 2002 – 2013.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế

tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

7

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG

NÔNG NGHIỆP

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế tập thể.

1.1.1 Khái niệm về kinh tế tập thể.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người trải qua các hình thái

kinh tế xã hội khác nhau và ở mỗi hình thái kinh tế xã hội đó sự phát triển của lực lượng

sản xuất luôn đi cùng là một quan hệ sản xuất phù hợp. Chính vì vậy sự hợp tác giữa con

người với con người trong quá trình sản xuất là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu

cầu của sản xuất, từ nhu cầu của cuộc sống để nương tựa lẫn nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ

nhau trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Bởi lẽ, thông qua hợp tác sức lực của các

cá nhân sẽ được kết hợp lại lớn mạnh hơn để nhằm thực hiện các công việc mà mỗi cá

nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ rất khó khăn mà thậm chí là không thể làm được. Chính vì

vậy, cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người, quá trình phân công lao động và

chuyên môn hoá trong sản xuất cả về chiều sâu lẫn bề rộng đã thúc đẩy quá trình hợp tác

ngày càng tăng. Sự hợp tác không chỉ được giới hạn ở phạm vi vùng, quốc gia mà còn

được mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Một minh chứng cụ thể cho quá trình hợp tác tất yếu

phải diễn ra trên phạm vi thế giới đó là quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của các quốc

gia trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… đã làm cho sức ép cạnh

tranh ngày càng gay gắt không chỉ diễn ra ở phạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên phạm vi

toàn cầu khiến cho các doanh nghiệp đều phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh của

mình cho phù hợp với xu thế mới. Do đó kinh tế tập thể ra đời là một tất yếu khách quan.

Khái niệm kinh tế tập thể nhằm để chỉ hình thức liên kết tự nguyện của những người

lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức

mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống

mà từng hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. KTTT với nhiều hình thức hợp

tác đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến HTX, mà nòng cốt là HTX, dựa trên

sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể.

8

Đối với hình thức này, những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức cùng sản

xuất - kinh doanh theo quy định của pháp luật và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, bình

đẳng, cùng có lợi; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ.

Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập

thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo,

tiến lên làm giàu cho các thành viên. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực,

vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tế, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự

phát triển của sản xuất.

Ở Việt Nam, kinh tế tập thể là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành

phần trong nền kinh tế quốc dân, là thành phần kinh tế dựa trên hình thức liên kết tự

nguyện rộng rãi của những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp

nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, có thể kinh doanh tổng hợp, đa

ngành hoặc chuyên ngành.

Riêng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phải trên cơ sở bảo

đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát

triển gắn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn

mới; không ngừng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.

1.1.2. Các mô hình kinh tế tập thể.

1.1.2.1. Hợp tác và kinh tế hợp tác.

Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân, đơn vị để tạo ra sức mạnh lớn hơn,

sức mạnh của tập thể để thực hiện những công việc mà từng cá nhân, đơn vị riêng lẻ khó

thực hiện, không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả so với không hợp tác. Để

lao động sản xuất, người ta phải có mối liên hệ với nhau, trao đổi hoạt động cho nhau.

Theo nghĩa đó, Adam Smith – nhà kinh tế học người Anh đã nói: “Bản chất của con người

là trao đổi, loài người là một liên minh trao đổi. Chính vì vậy, trao đổi hoạt động, hợp tác

lao động là đặc tính xã hội của con người”. C.Mác viết: “Cái hình thức lao động, trong đó

có nhiều người làm việc theo kế hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong một quá

9

trình sản xuất hay trong những quá trình khác nhau nhưng gắn liền với nhau thì gọi là hợp

tác”.

Hợp tác xuất phát từ nhu cầu khách quan, là hình thức tất yếu nẩy sinh trong quá

trình lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người, C.Mác đã chỉ rõ: “Người ta

không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động

chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối

liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản

xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ và những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”.

Mặt khác, từ khi xuất hiện, loài người đã sống thành cộng đồng, có tổ chức, nhu cầu

đòi hỏi phải có sự hợp tác phối hợp hoạt động với nhau trong lao động sản xuất, trong

chinh phục tự nhiên và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khái niệm hợp tác

được dùng phổ biến cho nhiều lĩnh vực xã hội loài người. Còn kinh tế hợp tác là phạm trù

hẹp hơn, chỉ phạm vi hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, là sự hợp tác tự nguyện phối hợp, hỗ

trợ, giúp đỡ nhau giữa các chủ thể kinh tế. C.Mác đã chỉ ra rằng trong lao động sản xuất

hợp tác lao động làm nảy sinh sức sản xuất của lao động xã hội, nó có tác dụng làm tăng

năng suất lao động. So với sản xuất nhỏ cá thể (riêng lẻ) hợp tác có những ưu thế là: tiết

kiệm được tư liệu sản xuất; kích thích thi đua, do đó nâng cao năng suất lao động; tạo ra

sức sản xuất mới, sức sản xuất cộng thể; mở rộng hoặc thu hẹp không gian khi cần thiết.

Ngoài ra, nó còn đảm bảo tính liên tục đều đặn, tính thời vụ, tính khẩn trương của quá trình

sản xuất. Chính vì vậy, sự phát triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác

có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.

Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn

hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, thì nhu cầu về hợp tác lao

động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Trong lao động

sản xuất, các hình thức hợp tác diễn ra do nhu cầu tất yếu khách quan với nhiều loại hình,

tính chất hợp tác, quan hệ hợp tác cũng được nâng dần từ thấp đến cao. Cụ thể các hình

thức như sau:

+ Hợp tác giản đơn: Là loại hình hợp tác đơn giản nhất, đã xuất hiện từ xa xưa ở

nông thôn nước ta. Trong quá trình lao động sản xuất nảy sinh nhu cầu phải có sự gắn kết

10

nhau, thoạt đầu chỉ là những hình thức hợp tác đơn giản; diễn ra ngẫu nhiên, nhất thời như

vần đổi công cho nhau như trong canh tác nông nghiệp, hợp tác với nhau để cày bừa, gieo

trồng, thu hoạch nhằm đảm bảo tính mùa vụ; cùng nhau khắc phục thiên tai, sâu bệnh...

loại hình hợp tác này thường tồn tại dưới dạng tổ vạn vần đổi công, các chủ thể hợp tác đổi

công cho nhau theo từng khâu công việc, không thường xuyên, loại hình hợp tác này

không tính giá trị ngày công, họ tự nguyện thỏa thuận nhau khi có nhu cầu, không xây

dựng thành văn bản quy chế hoạt động, không mang tính pháp lý.

+ Tổ nghề nghiệp, tổ tương trợ kinh tế: là loại hình hợp tác giản đơn được hình

thành, phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản hiện nay, các tổ chức

này được thành lập tự nguyện trên cơ sở có cùng nội dung, hình thức, mục đích kinh doanh

giống nhau để nhằm trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản

xuất kinh doanh, dịch vụ, và được xây dựng dựa trên cơ sở quan hệ tình cảm tự nguyện và

cơ sở tập quán, truyền thống cộng đồng. Đây tuy là loại hình hợp tác giản đơn, song có tác

dụng tốt trong lĩnh vực hoạt động sản xuất nông nghiệp hiện nay nói chung và trong ngành

thủy sản nói riêng tồn tại dưới dạng các chi hội, câu lạc bộ nông dân như: tổ chăn nuôi (tổ

nuôi cá, tổ nuôi tôm, tổ nuôi ong…), tổ làm vườn, tổ trồng trọt, tổ dịch vụ,…. Các thành

viên trong tổ giúp nhau trao đổi kinh nghiệm, trao đổi kỹ thuật, chăm sóc, phát hiện, phòng

trừ sâu bệnh, chọn giống, giúp nhau về thông tin tiếp cận thị trường, về nhu cầu, giá cả, nơi

tiêu thụ sản phẩm.

+ Tổ kinh tế hợp tác (gọi tắt là Tổ hợp tác): Là loại hình kinh tế hợp tác giản đơn,

song khác với sự hợp tác nhất thời, ngẫu nhiên (là loại hình khi không có nhu cầu, thì tổ

hợp tác hầu như không hoạt động), mà đây là loại hình hợp tác diễn ra thường xuyên và ổn

định hơn, dựa trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất.

Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ xã hội hóa sản xuất

phát triển, nhu cầu hợp tác ngày càng tăng đòi hỏi hình thành liên kết hợp tác giữa các chủ

thể sản xuất, một số hộ chuyên sản xuất, đảm nhiệm một khâu công việc, liên kết hợp tác

với các hộ ở khâu khác trong quá trình tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Sự liên kết trong sản

xuất dần phát triển hơn, trước hết là chức năng lưu thông ở hợp tác sản xuất, dần tách ra

thành một số THT đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như chỉ chuyên làm dịch vụ

11

cung ứng vật tư đầu vào, chuyên chế biến, hay chuyên tiêu thụ sản phẩm... Vì vậy loại hình

kinh tế hợp tác này được hình thành gắn với nhiều tên gọi khác nhau tùy theo tính chất

nghề nghiệp phạm vi hoạt động mà có tên gọi như THT tín dụng, THT nuôi cá, THT nuôi

tôm, tổ trồng và bảo vệ rừng v.v.... Đặc trưng chung của loại hình hợp tác này mang tính

ổn định, thường xuyên, có cơ cấu tổ chức và bộ máy lãnh đạo quản lý, có quy chế hoạt

động được các thành viên thảo luận dân chủ và được xây dựng thành văn bản.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, và hợp tác

là một nhu cầu khách quan, là hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế hộ gia đình

có điều kiện phát triển. Chính vì vậy, quan hệ kinhh tế hợp tác phải được xây dựng trên

nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên

tham gia. Trong các loại hình kinh tế hợp tác thì hình thức THT có nội dung nguyên tắc

hoạt động gần giống với HTX nhưng THT hoạt động không có điều lệ và không có tư

cách pháp nhân.

1.1.2.2. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình kinh tế

hợp tác giản đơn. Trên bình diện thế giới, HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư

bản chủ nghĩa đầu tiên là ở nước Anh vào giữa thế kỷ XIX. Để có thể tồn tại và phát triển

trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp tác, hợp vốn

với nhau với tôn chỉ, mục đích chung để nương tựa nhau chống lại sự chèn ép, bóc lột và

bần cùng hóa của các nhà tư bản lớn, quá trình đó đã cho ra đời và hình thành các hình

thức liên kết, hợp tác có tổ chức của những người lao động, dân chủ, bình đẳng và cùng có

lợi, có nhiều đóng góp vào phúc lợi của dân chúng trong nhiều nước.

Liên minh HTX quốc tế ICA (International cooperative alliance) được thành lập vào

tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh đã xây dựng và đưa ra định nghĩa về

HTX và các nguyên tắc của nó để làm cơ sở cho các hoạt động của HTX. Đến đại hội lần

thứ 31 vào tháng 9/1995, ICA đã thông qua tuyên bố về sự xác nhận HTX, hoàn thiện định

nghĩa, các giá trị cơ bản và các nguyên tắc đã sửa đổi của HTX nhằm hướng dẫn hoạt động

của các tổ chức HTX trong giai đoạn đầu của thế kỷ XXI. Theo đó “HTX là một hiệp hội

tự chủ của những người tự nguyện liên kết với nhau để đáp ứng những nguyện vọng và

12

nhu cầu chung về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ, hoạt động thông qua một tổ chức sở

hữu chung, được quản lý và kiểm soát dân chủ bởi các xã viên” và “Hợp tác xã dựa trên ý

nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo

truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào

ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc

người khác”.

Đối với nước ta, trong quá trình xây dựng cải tạo XHCN, phát triển KTTT mà nòng

cốt là HTX là vấn đề hết sức to lớn và quan trọng đã được khẳng định trong nhiều nghị

quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Thời kỳ 1958 - 1980 KTHT với

HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây

dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc ta. Song một thời gian dài do nhận

thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan chúng ta đã đồng nhất cải tạo HTX

với tập thể hóa, hợp tác hóa; xây dựng các HTX không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự

nguyện mà thực hiện bằng các biện pháp hành chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi

thường các bước quá độ trung gian trong cải tạo XHCN. Ở thời kỳ này, nếu có các hình

thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX bậc thấp

cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung nhảy mau lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Chính vì

vậy đã tạo nên nhiều bước thăng trầm trong lịch sử quá trình phát triển tổ chức HTX. Khó

khăn nhất là thời điểm nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế mới, hàng loạt HTX

bị đổ vỡ. Song, từ nhu cầu thực tế khách quan và quá trình thực hiện Chỉ thị 100/CT/TW

của BBT Trung ương Đảng năm 1981, Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị năm

1988 và các giải pháp hiệu quả của Chính phủ đề ra hằng năm để vực dậy khu vực KTTT,

đã nảy sinh nhiều hình thức KTHT, liên kết sản xuất, song chưa được định hình về tổ

chức. Ở các địa phương, một số HTX đã tìm tòi thử nghiệm các giải pháp thiết thực để

củng cố và chuyển đổi hình thức tổ chức quản lý nhằm thích ứng cơ chế mới.

Tổng kết thực tiễn, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề ra

nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần và tháng 3/1996, Quốc hội khóa

IX đã ban hành Luật HTX với những nội dung về tổ chức, quản lý, về phương thức hoạt

13

động đối với HTX kiểm mới. Theo đó, luật HTX năm 1996 đã định nghĩa: “Hợp tác xã là

tổ chức kinh tế tự chủ, do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng

góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và

của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước”.

Trong hơn 40 năm tồn tại và phát triển, các HTX ở Việt Nam được coi là một tổ

chức có hai tính chất: Chúng vừa là tổ chức kinh tế, vừa là cộng đồng xã hội. Là tổ chức

kinh tế, các HTX tạo ra công ăn việc làm và phân phối thu nhập cho các xã viên, thực hiện

các nghĩa vụ vật chất đối với Nhà nước. Là một cộng đồng xã hội, các HTX là nơi phổ

biến các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống tinh

thần cho các xã viên, đảm bảo cuộc sống của các xã viên khi họ già yếu, ốm đau, mất sức

lao động....

Cũng với tinh thần và mục đích như vậy, Liên hiệp hợp tác xã – một tập hợp của

nhiều hợp tác xã thành viên – cũng được coi là một tổ chức kinh tế chứ không phải là tổ

chức có tính chất hiệp hội, động viên chung chung, thiếu thiết thực như các liên hiệp hợp

tác xã tiểu – thủ công nghiệp trước đây. Điều 48, khoản 1 Luật Hợp tác xã (năm 1996) quy

định rằng: “Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế, hoạt động theo nguyên tắc hợp tác xã,

nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các hợp tác xã thành

viên, hỗ trợ nhau trong hoạt động và đáp ứng các nhu cầu khác của các thành viên tham

gia”.

Qua thời gian tổ chức thực hiện, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, tại kỳ họp

thứ tư Quốc hội khóa XI ngày 18 tháng 11 năm 2003 đã thông qua Luật HTX mới đã được

bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh. Luật HTX năm 2003 đã định nghĩa “HTX là tổ chức KTTT

do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích

chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức

mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các

hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát

triển KT-XH của đất nước.

14

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy

và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”.

Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hợp tác xã ngày

20/11/2012, trong đó định nghĩa cụ thể hơn về hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã như sau:

“1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít

nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động

sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ

sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.

2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp

nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong

hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên,

trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp

tác xã.

3. Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình

thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác

xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp”.

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Kinh tế hợp tác nói chung và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nói riêng đã xuất

hiện từ lâu trong lịch sử, sự xuất hiện ấy bắt nguồn từ điều kiện đặc thù trong hoạt động

sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nó đòi hỏi những người nông dân phải liên kết lại với

nhau trên tinh thần dân chủ tự nguyện để sử dụng tốt nhất những ưu thế về sức mạnh của

tập thể cũng như từng cá nhân nhằm giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập

và nâng cao đời sống. Sự ra đời của kinh tế hợp tác và hợp tác xã không phải do ý muốn

chủ quan của con người mà nó xuất phát từ thực tế khách quan theo yêu cầu của quy luật

quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định.

15

Trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân, C.Mác-

Ph.Ăngghen và Lênin đã có nhiều tác phẩm, bài viết, bài báo và các bài nói chuyện rất có

giá trị, đặc biệt về chỉ đạo việc tổ chức và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.

Ban đầu, khi nghiên cứu công nghiệp hóa đặc thù ở nước Anh, C.Mác có dự đoán

rằng: với quá trình tách người nông dân ra khỏi ruộng đất một cách ồ ạt, thì nông dân bị

thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành những “đại điền trang” tư bản chủ nghĩa,

sử dụng lao động làm thuê, qua đó sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất mà

trước hết là ruộng đất. Nhưng sau khi nghiên cứu thực tiễn một số nước công nghiệp phát

triển, C.Mác thừa nhận dự đoán ban đầu của mình là không thích hợp ngay cả ở nước Anh

công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu khi đã “dọn sạch mặt đất” nước Anh công

nghiệp, thì nông trại gia đình trên thực tế, không sử dụng lao động làm thuê, vẫn ngày càng

phát triển và càng tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Chính vì thế, trong quyển III-Bộ Tư

bản, C.Mác đã kết luận: “...với thời gian cho đến nay đã khẳng định được hình thức lãi

nhất không phải là nông trại công nghiệp hóa, mà là nông trại gia đình, thực tế không dùng

lao động làm thuê. ở các nước chia cắt đất thành khoảnh nhỏ, giá lúa mì rẻ hơn những

nước có phương thức sản xuất tư bản”. Trên đây cũng chỉ là những ý tưởng ban đầu của

C.Mác về kinh tế hợp tác và ông cũng chưa thấy hết triển vọng của kinh tế hợp tác đối với

xã hội tương lai, chính vì thế khi khai thác tư tưởng của các nhà chủ nghĩa xã hội không

tưởng, đặc biệt là Robe-Ô-oen đã đề xướng vấn đề chủ nghĩa xã hội “hợp tác xã” tức là

dùng biện pháp tập hợp dân cư vào hợp tác xã và cũng có thể biến kẻ thù giai cấp thành

hợp tác giai cấp và biến đấu tranh giai cấp thành hòa bình giai cấp..., C.Mác và

Ph.Ăngghen kịch liệt phê phán tư tưởng nói trên, đồng thời cho rằng sau khi giai cấp vô

sản giành lấy chính quyền thì có thể chuyển trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa

cộng sản mà không cần có bước quá độ trung gian.

Nhưng sau đó xuất phát từ thực tiễn lịch sử và sự hình thành các hợp tác xã nông

nghiệp, sau cách mạng dân chủ tư sản ở Châu Âu 1868-1896, hai ông đã thấy được triển

vọng của hợp tác xã. Trong tác phẩm “vấn đề nông dân ở Pháp và Đức”, Ph.Ăngghen có

đề cập “khi chúng ta nắm được chính quyền, chúng ta không nghĩ đến dùng bạo lực để

tước đoạt tiểu nông... nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền

16

sở hữu cá thể và nền kinh doanh cá thể của họ vào con đường kinh doanh hợp tác, không

phải bằng bạo lực mà bằng những tấm gương và sự giúp đỡ của xã hội”, đồng thời ông

cũng nhấn mạnh “khi chuyển sang nền cộng sản hoàn toàn, chúng ta phải ứng dụng rộng

rãi nền kinh tế hợp tác làm khâu trung gian”.

Để chăm lo lợi ích cho người tiểu nông Ph.Ăngghen còn đưa ra luận điểm: “Chúng

ta cương quyết đứng về phía người tiểu nông; chúng ta phải tìm mọi cách để làm cho số

phận của họ được dễ chịu hơn; để cho sự chuyển sang hợp tác dễ dàng hơn; nếu họ quyết

chuyển như thế”. Còn ngược lại người tiểu nông chưa quyết định được thì theo ông nên:

“Để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ”. Đồng thời

để lôi kéo người nông dân đi vào con đường kinh tế hợp tác C.Mác cũng đã nhấn mạnh:

“Giai cấp vô sản cần phải với tư cách là chính phủ áp dụng những biện pháp thực tiễn cải

thiện tình cảnh người nông dân để tiếp tục lôi cuốn người nông dân về phía cách mạng, áp

dụng những biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn của giai đoạn quá độ từ sở hữu tư nhân

sang sở hữu tập thể về ruộng đất, vào lúc đó mới chỉ bắt đầu để người nông dân tự đi đến

phương thức đó, không được làm họ kinh sợ bằng những tuyên bố như tước bỏ quyền thừa

kế, loại bỏ sở hữu của họ”. Sau khi C.Mác qua đời, Ph.Ăngghen tiếp tục nghiên cứu vấn đề

hợp tác hóa và vấn đề quan hệ với nông dân. Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp và

Đức”, ông đã đề cập đến những vấn đề có giá trị lớn như chính sách nông nghiệp của Nhà

nước, các hình thức khoán thuê trong nông nghiệp... giúp cho những người tiểu nông thoát

khỏi cảnh bị phá sản. Lấy đất thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc lĩnh canh cho những người

nông dân không đất thuê canh tác.

Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tìm ra con đường để đưa

nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội, ông không chỉ bổ sung để hoàn thiện về mặt lý luận, mà

còn vận dụng lý luận về phát triển kinh tế hợp tác vào nước Nga Xô viết. Lý luận về phát

triển kinh tế hợp tác của V.I.Lênin có sự phát triển qua từng giai đoạn lịch sử. Năm 1908

trong cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ, khi nghiên cứu con đường phát triển của nước

Nga tư bản chủ nghĩa, Người còn cho rằng không thể phát triển nông nghiệp theo con

đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ (kiểu đại điền trang) mà phải là “một chủ trại tự do, trên

mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch tàn tích trung cổ. đó là kiểu Mỹ”.

17

Về con đường đưa nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội, ban đầu V.I.Lênin nhấn mạnh

tính tự phát tiểu tư sản của nền kinh tế tiểu nông, đó là nền kinh tế “hàng ngày, hàng giờ đẻ

ra chủ nghĩa tư bản” do đó V.I.Lênin đề ra con đường trực tiếp đưa nông dân đi lên chủ

nghĩa cộng sản. Song, từ thực tiễn nước Nga đã chứng minh giải pháp đó là không phù

hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và tâm lý nguyện vọng của nông dân, đó là chính

sách kinh tế mới và chế độ hợp tác xã.

Từ mùa xuân năm 1921, những nội dung cơ bản của mô hình kinh tế theo chính sách

kinh tế mới đã hình thành và cũng trở nên rõ nét. Mục tiêu của mô hình này là phát triển tối

đa lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,

tạo tiền đề vật chất để xã hội hóa sản xuất trong thực tế, mục tiêu cuối cùng vẫn là cải thiện

đời sống nhân dân. Nội dung chủ yếu của “chính sách kinh tế mới” đề cập đến những vấn

đề cơ bản đó là: Trao đổi hàng hóa được xem là “đòn xeo” của chính sách kinh tế mới,

được đưa lên hàng đầu do Nhà nước nắm; sử dụng và cải tạo dần cơ cấu kinh tế cũ làm

cho nó thích ứng với chủ nghĩa xã hội, chứ không đập tan nó bằng biện pháp hành chính;

phát triển chủ nghĩa tư bản trong nước và hướng nó vào tư bản chủ nghĩa Nhà nước; thu

hút tư bản nước ngoài và sử dụng nó có lợi cho chủ nghĩa xã hội dưới nhiều hình thức và

trình độ khác nhau; thu hút những người tiểu sản xuất vào các loại hình hợp tác xã, trên cơ

sở tự nguyện có sự giúp đỡ và ưu đãi của Nhà nước; sử dụng nhiều hình thức phân phối,

quan tâm đến lợi ích người lao động; chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang hạch toán

kinh tế và quản lý bằng biện pháp kinh tế là chủ yếu.

Đồng thời bằng phương pháp phân tích khoa học về nguyên nhân khách quan và chủ

quan của cuộc khủng hoảng chính trị sau nội chiến, V.I.Lênin đưa ra quan điểm là “phải

bắt đầu từ nông dân”. Người chỉ ra giải pháp phải bắt đầu từ khôi phục nông nghiệp, từ cải

thiện đời sống nông dân mà cải thiện đời sống công nhân và các tầng lớp khác. V.I.Lênin

nói: “Vì muốn cải thiện đời sống công nhân phải có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về

phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói, thì hiện nay “trở ngại” lớn

nhất là ở chỗ đó, chúng ta muốn tăng thêm sản xuất, thu hoạch lúa mì và tăng dự trữ....

bằng cách cải thiện đời sống nông dân –nâng cao năng lực sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ

nông dân”.

18

Để khôi phục nông nghiệp cải thiện đời sống nông dân V.I.Lênin đề ra chính sách

thuế lương thực, khôi phục kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp, mở rộng trao đổi hàng hóa

giữa công nghiệp với nông nghiệp. Đồng thời, V.I.Lênin cũng hết sức chú trọng đến “phát

triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp”, trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác” năm

1923, V.I.Lênin viết: “ở nước ta về chính sách Nhà nước do giai cấp công nhân nắm, mọi

tư liệu sản xuất đều do Nhà nước nắm nên trên thực tế chúng ta chỉ có việc đưa nhân dân

vào các hợp tác xã. Khi nhân dân vào các hợp tác xã tới mức đông nhất, thì chủ nghĩa xã

hội tự nó được thực hiện”. Người còn coi hợp tác xã là: “Con đường đơn giản nhất; dễ

dàng nhất và dễ tiếp thu nhất đối với nông dân”.

Vào cuối năm 1918, khi khuynh hướng mệnh lệnh để cưỡng bức nông dân xảy ra ở

nhiều nơi, để ép buộc họ thực hiện chế độ canh tác tập thể, V.I.Lênin đã kịch liệt lên án.

Trong Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Nga cũng đã gay gắt phê phán: “ở đây mà dùng bạo

lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến toàn bộ sự việc; ở đây điều cần thiết phải làm là công

tác giáo dục lâu dài... công xã phải tổ chức làm sao để chiếm được lòng tin của nông dân...

và không bao giờ được dùng mệnh lệnh”. V.I.Lênin còn chỉ ra cho Nhà nước phải có chính

sách giúp đỡ các tổ chức hợp tác hưởng một số những đặc quyền về kinh tế, tài chính,

ngân hàng... và phía Nhà nước: “Quy định tỉ mỉ một thực tiễn nữa, nghĩa là chúng ta còn

phải xác định hình thức “tiền thưởng” (và những điều kiện cấp tiền thưởng) cấp cho hợp

tác xã, hình thức làm cho chúng ta có thể giúp đỡ có hiệu quả các hợp tác xã và đào tạo

những xã viên văn minh”.

Để lôi kéo nông dân vào kinh tế hợp tác, cải thiện đời sống. V.I.Lênin chủ trương:

“Việc thu thuế phải đặc biệt được giảm nhẹ trong mọi trường hợp, không được do dự và

ngay cả trong việc giảm tổng số thuế”. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải hết sức mở rộng

việc giúp đỡ nông dân... cung cấp cho họ những sản phẩm công nghiệp (phục vụ sản xuất

và đời sống)... để bảo đảm lao động và đời sống của nông dân”. Ngoài sự giúp đỡ của Nhà

nước đối với nông dân. V.I.Lênin còn chỉ ra rằng việc xây dựng hợp tác xã là một việc làm

khó khăn, phải trải qua một quá trình lâu dài “hợp tác xã là bước quá độ sang chế độ mới”.

Cho nên muốn thành công cần phải có “cả một thời kỳ lịch sử”.

19

V.I.Lênin cũng chỉ ra nguyên tắc trong phát triển kinh tế hợp tác phải trên cơ sở: “tự

nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi” và do tính chất phức tạp trong sản xuất nông

nghiệp, V.I.Lênin còn chỉ ra hình thức tổ chức phải đa dạng, phong phú và có bước đi

thích hợp....

Nếu như trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế “Cộng sản thời chiến”, Người

chủ trương trong lĩnh vực lưu thông thành lập các hợp tác xã tiêu dùng để trưng thu, trưng

mua lương thực và phân phối sản phẩm, còn trong lĩnh vực sản xuất, tổ chức các nông

trường quốc doanh, các công xã nông nghiệp, các hiệp hội canh tác tập thể... thì đến khi

thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin chủ trương phát triển kinh tế hợp tác trên cơ

sở sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. Theo V.I.Lênin thì hợp tác phải bắt đầu từ khâu

lưu thông vì ông cho rằng thương nghiệp bán buôn có thể liên kết hàng triệu người nông

dân lại với nhau, từ đó dẫn họ đến hợp tác trong các lĩnh vực sản xuất và hình thành các

hợp tác xã trong lĩnh vực sản xuất.

Tóm lại, những tư tưởng về kinh tế hợp tác của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin

cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Từ những phương pháp luận nêu trên đã gợi mở

cho chúng ta giải quyết một cách sáng tạo những nhiệm vụ thực tiễn hiện nay, giúp chúng

ta có cơ sở khách quan để đánh giá những việc đã làm trong thời gian qua, rút ra những

điều đúng và những thiếu sót, sai lầm để trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế

hợp tác trong thời gian tới đúng với quy luật phát triển, phù hợp với điều kiện nước ta

trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm nghiên cứu về hình thức tổ chức

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta. Từ khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người

đã nghiên cứu và rất coi trọng đến vấn đề về tam nông, kế thừa những tư tưởng của chủ

nghĩa Mác-Lênin để phát triển một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước ta,

đồng thời quan tâm tới phát triển kinh tế hợp tác gắn liền với con đường đi lên CNXH ở

nước ta. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Người đã viết về vấn đề tổ chức

nông dân, đề ra đường lối xây dựng hợp tác xã. Trong tác phẩm này, Người đã hệ thống lại

lịch sử phong trào hợp tác xã trên thế giới như: Anh, Pháp, Nga, Đan Mạch, Đức, Nhật...,

20

nêu lên mục đích hợp tác xã trước hết là có lợi cho dân. Nêu cơ sở lý luận và hình thức hợp

tác như: mua bán, tín dụng, dịch vụ sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, hợp tác xã sản

xuất và các tổ chức hợp tác xã. Sau khi miền Bắc được giải phóng năm 1954 và tiến hành

cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phong trào hợp

tác hóa trong nông nghiệp và Người cũng có nhiều bài viết, bài nói về hợp tác hóa.

Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về kinh tế hợp tác là con đường giúp nông dân và

những người lao động nghèo cơ chế tiến lên giải phóng chính mình, tạo ra sức mạnh lớn

hơn để hỗ trợ lẫn nhau phát triển, chiến thắng giặc đói, giặc dốt và giặc nghèo. Bác định

nghĩa HTX là “hợp vốn, hợp sức với nhau, vốn nhiều có sức mạnh thì khó nhọc ít mà lợi

ích nhiều”. Làm HTX sẽ có lợi như quy luật tất yếu là: “Một cây làm chẳng lên non, nhiều

cây chụm lại thành hòn núi cao, đồng bào nông gia hãy hăng hái cùng nhau làm việc đó”.

Giải thích về bản chất hợp tác xã, Người viết: “Hạt nhân, trung tâm của HTX là xã

viên; xã viên hợp tác với nhau để có lợi ích thiết thực và vẫn duy trì tính độc lập của mình;

xã viên là chủ đích thực của hợp tác xã, là mục tiêu mà HTX phải phục vụ; HTX là

phương tiện để phục vụ xã viên, phải đảm bảo đem lại lợi ích cho xã viên – thực là “hợp

tác xã là nhà, xã viên là chủ””. Trong lần nói chuyện với nông dân các hợp tác xã nông

nghiệp Cầu Thành (Thái Nguyên), Người nhấn mạnh: “muốn phát triển nông nghiệp, nâng

cao đời sống nông dân phải vào tổ đổi công và hợp tác xã.... Muốn vào tổ đổi công và hợp

tác xã được tốt, phải đoàn kết mọi người, phải tự nguyện tham gia, phải bàn bạc dân chủ và

phải tính toán công bằng, hợp lý...”. Đối với cán bộ đảng viên, Người chủ trương: “phải

xung phong vào tổ đổi công, hợp tác xã và phải gương mẫu sản xuất...”. Để vận động nông

dân vào tổ đổi công và hợp tác xã, Người nói: “cán bộ phải biết chính trị và phải biết kỹ

thuật. Nếu biết kỹ thuật mà không biết chính trị thì công tác cũng không tốt... Muốn đưa

nông dân vào tổ đổi công, hợp tác xã phải tuyên truyền giải thích... Phải lấy kết quả thực tế

để nông dân thấy tận mắt, nghe tận tai....”.

Bác Hồ đã đưa ra một ví dụ cụ thể chứng minh lý do người ta cần phải tham gia hợp

tác xã, theo đó: người sản xuất, nhất là nông dân được chia sẻ lợi ích phát sinh cả trong quá

trình trao đổi, tiêu thụ sản phẩm, tạo tiết kiệm cho xã hội thông qua giảm chi phí trung

gian, tạo lợi ích cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua giá rẻ. Người có cách vận động,

21

kêu gọi thành lập HTX thật đơn giản nhưng có tính chất lý luận sâu sắc: “Ai trồng cây thì

được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây” hoặc “Nhóm lại thành giàu, chia nhau

thành khó”. Bác ví, vào HTX như là hợp tác để làm một cái nhà: Một người mang một cái

cột, một người mang một tấm tranh ở riêng mỗi người mỗi nơi thì lều chẳng ra lều, nhà

chẳng ra nhà. Nhưng nhóm những cột ấy, tranh ấy, sức ấy làm ra một cái nhà rộng rãi bề

thế... ấy là hợp tác. “... Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì sức nhỏ, mà làm không nên việc. Ví

dụ mười người muốn ǎn cơm, mỗi người riêng một nồi, nấu riêng một bếp, nấu rồi ǎn

riêng; ǎn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì mất biết bao nhiêu củi, nước, công

phu và thì giờ. Hợp tác xã là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi hao của, tốn công, lại có

nhiều phần vui vẻ...”.

Khi đưa nông dân vào kinh tế hợp tác, Người căn dặn: “Phải làm thế nào cho xã viên

hợp tác xã có thu nhập nhiều hơn thu nhập của nông dân ở tổ đổi công và tổ viên tổ đổi

công, thu nhập cao hơn thu nhập của nông dân làm ăn riêng lẻ” và Người cũng chỉ ra:

“Nông thôn ta đất hẹp người đông, kỹ thuật nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp

kém. Chỉ riêng việc tổ chức nhau lại, cải tiến kỹ thuật, quản lý cho khéo thì cũng đã nâng

cao năng suất lao động hơn làm ăn riêng lẻ”.... Người còn chỉ ra hình thức và bước đi của

kinh tế hợp tác “đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm móng xã hội

chủ nghĩa) tiến lên hợp tác xã cấp thấp (nửa xã hội chủ nghĩa) rồi tiến lên hợp tác xã cấp

cao....”.

Về nguyên tắc tổ chức: Hợp tác xã phải thật sự dân chủ, phải tôn trọng nguyên tắc tự

giác, tự nguyện và tính hiệu quả; tránh việc cạnh tranh không cần thiết giữa các HTX trên

cùng địa bàn và chú trọng sự liên kết giữa các HTX. Bác Hồ đã rất chú ý cách thức tổ chức

HTX, đặc biệt là sự hợp tác – liên kết của các HTX. Bác chỉ rõ: “Không phải làng nào

cũng phải lập mỗi làng mỗi HTX. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy HTX. Cũng

không phải có HTX này thì không lập được HTX kia. Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào

lập được HTX nào, và có khi hai HTX - mua và bán - lập chung cũng được. Do đó, quan

hệ trong HTX là dân chủ và cùng có trách nhiệm. Đã vào HTX, trở thành xã viên thì bất

kỳ góp nhiều hay góp ít, vào trước hay vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau về trách

nhiệm. Đây là sự khác nhau căn bản giữa hợp tác xã với công ty cổ phần, trong đó lá phiếu

22

tỷ lệ thuận với vốn góp. Hợp tác xã trước hết là của những người nghèo, người khó khăn,

yếu thế trong xã hội... hợp nhau lại để cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quan hệ hợp

tác hay còn gọi là chế độ hợp tác xã có thể được áp dụng cho những quan hệ rộng lớn hơn

trong xã hội nhưng để bảo đảm cho sự phát triển hợp tác xã phải có sự lãnh đạo của Đảng.

Các hợp tác xã cũng phải liên kết với nhau và liên kết với các tổ chức, loại hình kinh tế - xã

hội khác để tạo điều kiện cho sự phát triển”.

Tóm lại, tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế tập thể trong nông nghiệp được thể

hiện trên nhiều lĩnh vực không chỉ mang tính chỉ đạo chung mà còn đi sâu vào những vấn

đề cụ thể. Do đó trong tổ chức, chỉ đạo xây dựng đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu để

vận dụng tốt hơn trong từng giai đoạn cụ thể.

1.2.3. Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quan điểm, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp

được thể hiện qua các văn kiện của Đảng. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng

thành phần kinh tế này có thể được chia thành hai thời kỳ:

- Thời kỳ đầu, phát triển kinh tế hợp tác theo mô hình tập thể hóa tư liệu sản xuất

trong nông nghiệp:

Mô hình này ra đời trong lòng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, ở

miền Bắc được khởi xướng từ Đại hội III của Đảng, ở miền Nam bắt đầu từ cuối năm

1975, nguyên nhân thúc đẩy mô hình tập thể hóa ra đời xuất phát từ lý luận về sự lỗi thời

của CNTB. Tính khả thi của con đường bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và

tính quy luật quá độ tiến lên XHCN. Đồng thời trên thế giới, mô hình chủ nghĩa xã hội

được thành lập ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, được coi là hình mẫu cho

các nước giành độc lập đi lên XHCN. Tư tưởng cơ bản của đường lối xây dựng chủ nghĩa

xã hội được thông qua tại Đại hội IV của Đảng có nhấn mạnh đến việc công hữu hóa tư

liệu sản xuất và xây dựng nền kinh tế quốc doanh, tiến hành cải tạo các quan hệ sản xuất

theo chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh: “Mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và

chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế

độ sở hữu XHCN, để giải phóng sức sản xuất mở đường cho sản xuất phát triển”.

23

Do tình hình phát triển kinh tế hợp tác giữa hai miền Bắc-Nam có khoảng cách thời

gian khác nhau. Ở đây chủ yếu lấy sự chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế hợp tác ở

miền Nam làm điển hình.

Trên cơ sở đề ra đường lối công hữu hóa tư liệu sản xuất Đảng ta chủ trương đưa cả

nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên CNXH, mục tiêu “tất cả vì chủ nghĩa xã

hội, vì hạnh phúc của nhân dân” cho nên trong lĩnh vực nông nghiệp, Nghị quyết Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ IV có ghi “tiến hành hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa và cơ

giới hóa, coi trọng xây dựng hợp tác xã và xây dựng nông trường quốc doanh, gắn liền xây

dựng hợp tác xã với xây dựng huyện...”. Nghị quyết nêu rõ: “Phấn đấu đến năm 1980 hoàn

thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam”.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 2 (khóa IV) chỉ ra: “Tiến hành cải tạo XHCN đối với nông nghiệp các tỉnh

phía Nam, mục đích cải tạo là đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, xóa bỏ bóc lột và

nguồn gốc sinh ra bóc lột, tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống

ở nông thôn”. Tiếp theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IV) chủ trương: “ở miền Nam

xúc tiến mạnh mẽ công cuộc cải tạo XHCN trong tất cả các ngành kinh tế... tích cực chuẩn

bị cho việc mở rộng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Nam: làm thật tốt thí

điểm các hợp tác xã nông nghiệp đồng thời nhanh chóng đưa đại bộ phận nông dân đi vào

các hình thức hiệp tác quá độ tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất”.

Đến năm 1980, toàn miền Nam đã xây dựng được 1.518 hợp tác xã, trong đó có

1.005 hợp tác xã bậc cao và 9.350 tổ, đội sản xuất. Việc tập thể hóa nông nghiệp ở miền

Nam diễn ra nhanh chóng đã gây ra hậu quả là: cuối năm 1979 nhiều hợp tác xã, tập đoàn

sản xuất và tổ đội sản xuất bị tan rã, hoặc chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Nền kinh tế hàng hóa

ở miền Nam bị triệt tiêu, tình hình kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng, đời sống

nhân dân vô cùng khó khăn.

Tháng 01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 100/CT/TW, nội

dung nói về “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động”. Chỉ thị nêu rõ mục

đích là: “phát triển sản xuất nâng cao hiệu quả kinh tế, lôi cuốn người lao động hăng hái

sản xuất, sử dụng tốt đất đai, tư liệu sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và

24

nâng cao đời sống xã viên”. Chỉ thị ra đời là một bước đổi mới trong lĩnh vực quản lý và

một phần về tổ chức của mô hình hợp tác hóa nông nghiệp. Người nông dân nhận phần đất

khoán, họ có quan tâm hơn đối với mảnh ruộng, miếng vườn, từ đó năng suất lao động có

một bước tiến mới, một số đơn vị kinh tế tập thể đã ăn nên làm ra. Chỉ thị 100/CT/TW đã

tạo nên không khí phấn khởi trong nông dân và nông thôn, người nông dân hăng hái nhiệt

tình hơn đối với kinh tế hợp tác.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Đảng ta xác định: nền kinh tế nước ta hiện

nay phổ biến vẫn là sản xuất nông nghiệp, cho nên Đảng ta coi: “Nông nghiệp là mặt trận

hàng đầu và đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”, đối với vấn đề

hợp tác hóa nông nghiệp ở Nam bộ, Nghị quyết nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công tác

hợp tác hóa nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam... đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội

chủ nghĩa, xây dựng nông thôn mới. Khắc phục xu hướng chần chừ do dự, thiếu tích cực...

đồng thời tránh nóng vội... cùng với việc phát triển tập đoàn sản xuất, hợp tác xã nông

nghiệp, phát triển các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng...”.

- Thời kỳ sau, thời kỳ phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp theo tinh

thần đổi mới:

Sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, đến Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đánh giá: “Mười năm qua, hai kỳ đại hội Đảng

đều ghi vào Nghị quyết nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nhiệm

kỳ đó, song đều chưa thực hiện được. Cuộc sống cho ta bài học thấm thía là, không thể

nóng vội làm trái quy luật. Nay phải sửa lại cho đúng như sau: đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ

nghĩa, là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

với những hình thức bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và

trình độ của lực lượng sản xuất”. Như vậy, Nghị quyết Đại hội VI đã thừa nhận nền kinh tế

nước ta còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế tham gia sản

xuất hàng hóa, tự hạch toán kinh doanh và có sự quản lý của nhà nước.

Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, Nghị quyết đề cập: “giải quyết đúng đắn mối

quan hệ giữa nhà nước, kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, đồng thời cải tiến quản lý nội bộ

hợp tác xã, hoàn thiện phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và

25

người lao động, gắn liền xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

với xây dựng nông thôn mới. Các tập đoàn sản xuất Nam bộ phải được củng cố theo đúng

tính chất kinh tế tập thể. Việc đưa tập đoàn sản xuất lên bậc cao, quy mô lớn phải căn cứ

vào các điều kiện cụ thể đã chín muồi, không làm vội vã”.

Có thể nói, từ khi có Chỉ thị 100/CT/TW của BBT Trung ương Đảng, đã phát huy

tác dụng một thời gian, nhưng sau đó lại bộc lộ một số hạn chế do cơ chế khoán tuy có tạo

ra được động lực kích thích sản xuất, nhưng nó vẫn nằm trong tổng thể của cơ chế “tập

trung quan liêu”, thu nhập của kinh tế hộ nông dân vẫn thấp.... Do đó ngày 05/4/1988, Bộ

Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (gọi tắt

Nghị quyết 10), quan điểm Nghị quyết 10 thể hiện: “hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế

tự chủ. Hợp tác xã giao khoán ruộng đất cho hộ gia đình xã viên ổn định 15 năm”. Nghị

quyết 10 ra đời, thật sự giải phóng sức sản xuất ở nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời từ

đó kinh tế nông nghiệp, xã hội nông thôn và đời sống nông dân có sự chuyển biến rõ nét.

Sau đó, Đại hội VII và VIII của Đảng có nhấn mạnh thêm về hình thức nội dung và

bước đi của KTHT trong nông nghiệp “KTHT mà nòng cốt là HTX là hình thức liên kết tự

nguyện của người lao động, nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của

tập thể để giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Phát triển KTHT

với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng

có lợi và quản lý dân chủ. HTX xây dựng trên cơ sở đóng góp vốn cổ phần và lao động

trực tiếp của xã viên. Phân phối theo lao động và vốn cổ phần...”.

Đến Đại hội IX, Đảng ta xác định: “Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức

hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt”, ‘kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập

thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Theo hướng đó,

cần củng cố những THT và HTX hiện có, tiếp tục phát triển rộng rãi kinh tế hợp tác xã với

hiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực địa bàn có điều kiện.

Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là các THT và HTX; trong lĩnh vực nông nghiệp,

trước hết tập trung làm các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh

của các hộ thành viên, từng bước mở rộng ngành nghề, sản xuất, kinh doanh, tổng hợp;

trong lĩnh vực phi nông nghiệp, vừa tổ chức sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ. Mở rộng các

26

hình thức liên doanh, liên kết kinh tế giữa các THT, HTX với các doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần kinh tế, nhất là với doanh nghiệp nhà nước. Khi HTX phát triển đến trình độ

cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của HTX, các liên hiệp HTX.

Nghị quyết TW 5 (khoá IX) tiếp tục nêu rõ quản điểm cơ bản cho mô hình tổ chức

HTX là: “Trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng

phát triển các hình thức hợp tác và HTX cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho

kinh tế hộ gia đình và trang trại … Khẳng định nguyên tắc: hợp tác tự nguyện, dân chủ,

bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi, hợp tác phát triển công

đồng. Đặt ra mục tiêu đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể với nhiều cơ

chế chính sách hỗ trợ HTX phát triển...”. Đặc biệt là thống nhất nhận thức về các quan

điểm phát triển kinh tế tập thể:

+ Một là, kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác

xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao

động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần

kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định

riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo

nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm các thể nhân và

pháp nhân, cả người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng

nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.

+ Hai là, kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành

viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói,

giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả

kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu

quả của tập thể và của các thành viên.

+ Ba là, tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn, trong đó

trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế tập thể trong nông

nghiệp, nông thôn phải trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ

đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển; gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

27

nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao

năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao vai trò quản lý của

Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Nhà

nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát

triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ,

nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ

tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong

hợp tác xã. Phát huy vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, của Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân (Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh...) trong việc tuyên truyền, vận động quần

chúng tham gia kinh tế tập thể. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Bảo đảm công tác

kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

+ Năm là, phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc,

xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển

của sản xuất, tránh duy ý chí, nóng vội, gò ép, áp đặt; đồng thời không buông lỏng lãnh

đạo để mặc cho tình hình phát triển tự phát, chậm nắm bắt và đáp ứng nhu cầu về phát

triển kinh tế hợp tác của nhân dân.

Như vậy, các chủ trương, đường lối về hợp tác xã của Đảng và Nhà nước đều thể

hiện sự nhất quán, khẳng định sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

bao gồm kinh tế tập thể và hợp tác xã trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã khẳng định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế

tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân. Hợp tác xã ở nước ta đã được xác định vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã

hội, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là hình thức

tổ chức quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên

kết với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Tiếp

tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành

28

phần kinh tế…. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng

cốt là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện Luật Hợp tác xã.

Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho

việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình kinh tế tập thể

khác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện

phát triển các trang trại ở nông thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại”.

Như vậy với quan điểm đúng đắn của Đảng, có thể nói từ khi thực hiện đường lối đổi

mới đến nay, nhận thức trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về kinh tế tập thể

đã có bước chuyển biến rõ nét. Hiệu quả hoạt động của các mô hình kinh tế tập thể trong

nông nghiệp ngày càng khả quan, đạt được những thành quả nhất định, góp phần thúc đẩy

nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng và góp phần thực hiện có hiệu quả chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trong cả nước.

1.3. Vai trò phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

1.3.1. Phát triển sản xuất lớn trong nông nghiệp.

Trước thời kỳ đổi mới, việc tập trung quá mức vào thực hiện tập thể hóa nông nghiệp

đã làm thui chột kinh tế hộ nông dân và vai trò của loại hình kinh tế này. Chỉ từ sau Nghị

quyết số 10-NQ/TW về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” của Bộ Chính trị (năm

1988) cùng với sự đổi mới toàn diện trong quản lý kinh tế nông nghiệp, kinh tế hộ nông

dân mới thực sự được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó tiềm năng, động lực của

kinh tế hộ được khơi dậy và phát triển; hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và đời sống

nông dân đã có những tiến bộ vượt bậc so với trước, nước ta đã trở thành quốc gia xuất

khẩu gạo của thế giới.

Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hộ nông dân ngày càng gắn chặt với thị trường

trong và ngoài nước. Trong những năm qua, nông nghiệp nước ta đạt nhiều thành tựu to

lớn, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Đó là quá trình hội

nhập thế giới trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, những cơ hội lớn cho sự phát triển do hội

nhập kinh tế quốc tế mang lại diễn ra cùng với những thách thức không nhỏ như cạnh

tranh quyết liệt hơn, nguy cơ tụt hậu, nghèo đói gia tăng, cách biệt mở rộng, đặc biệt hàng

triệu hộ gia đình nông dân, cơ sở sản xuất nhỏ và kể cả không ít doanh nghiệp sẽ đứng

29

trước nguy cơ phá sản và bị gạt ra ngoài rìa sự phát triển. Để thích ứng với thị trường, hộ

nông dân buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên cơ sở thường

xuyên cải tiến kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải thâm canh,

đa dạng hóa sản xuất để tránh những rủi ro của thị trường đưa lại, đặc biệt trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong nước và nước ta với nước

ngoài như hiện nay.

Những thách thức đó đã đặt ra yêu cầu đối với những người lao động riêng lẻ nói

chung và hộ nông dân nói riêng phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Sản

xuất hàng hóa càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu hợp tác càng lớn bấy nhiêu. Sự hợp tác

mang lại cho kinh tế hộ nông dân thêm vốn, nhân lực, kinh nghiệm sản xuất, từ đó tạo ra

thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, mở rộng thị

trường…, bởi lẽ đó là hình thức hiệu quả để chống lại sự chèn ép mua rẻ, bán đắt của tư

thương, chống tình cảnh cho vay nặng lãi của những người kinh doanh – tiền tệ, chống tình

trạng mua bán lúa non và các hình thức bóc lột khác. Như vậy, kinh tế tập thể trong nông

nghiệp đã trở thành một trong những hình thức hợp tác hiệu quả giúp nông dân vượt qua

thách thức của kinh tế thị trường, là nhịp cầu đưa kinh tế hộ nông dân từ sản xuất nhỏ lên

sản xuất lớn có sức cạnh tranh, là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ đắc lực cho

sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.

1.3.2. Góp phần thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Theo số liệu thống kê, Việt Nam với khoảng 70% dân số là nông dân, do đó nền

kinh tế nước ta từ trước đến nay chủ yếu là nông nghiệp. Chúng ta muốn đưa đất nước tiến

lên giàu mạnh, sánh vai kịp với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi

phải chọn cho mình một hướng đi đúng. Hướng đi đó, không thể không tiến hành công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng điểm xuất phát phải bắt đầu từ nông nghiệp. Song nông

nghiệp không thể tự mình đổi mới cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ, không có khả

năng tăng trưởng đủ nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phải có

tác động mạnh của công nghiệp, dịch vụ; phát huy vai trò hạt nhân của các đô thị trên từng

vùng, từng địa bàn. Nhưng muốn có tác động của công nghiệp, dịch vụ thì ngoài sự hỗ trợ

của nhà nước, cần phát huy nội lực từ nông nghiệp. Để làm được điều đó, trong giai đoạn

30

hiện nay khu vực nông thôn phải phát triển kinh tế tập thể, nhất là các hợp tác xã, tổ hợp

tác....

Bởi vì, nếu để người nông dân cá thể (nhất là tầng lớp tiểu nông) chuyển đổi hình

thức lao động từ thủ công và lạc hậu về kỹ thuật sang một phương thức sản xuất tiên tiến

hiện đại, thì đó là việc làm hết sức khó khăn và phải trải qua một thời gian rất lâu dài. Nếu

ta tiến hành phát triển kinh tế tập thể, nó sẽ cho phép người nông dân sử dụng sức mạnh

của cá nhân và của tập thể trên nhiều lĩnh vực (vốn, khoa học công nghệ, cơ giới hóa, thủy

lợi hóa...) để thay đổi phương thức sản xuất của mình, từ đó thúc đẩy các hộ nông dân áp

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Các mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp như các hợp tác xã, tổ hợp tác,

CLBNSC, các trang trại v.v... sẽ tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông

nghiệp và nông thôn, trước hết là đa dạng hóa các loại cây trồng và vật nuôi, phát triển các

ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến các loại hàng nông sản

thực phẩm, phát triển nhiều loại hình dịch vụ đa dạng để phục vụ cho sản xuất và đời sống.

Kinh tế tập thể cũng có vai trò quan trọng xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn như

đường sá, điện, nước, thông tin liên lạc, các trạm, bệnh viện, trường học... theo phương

châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Như vậy, phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp không chỉ có vai trò để giúp

những người nông dân sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của doanh

nghiệp lớn mà về lâu dài cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế

quốc dân, góp phần thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế tập

thể không chỉ vì mục đích kinh tế, mà còn có mục đích xã hội là tạo việc làm, tăng thu

nhập, xoá đói giảm nghèo, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, góp phần xây dựng

nông thôn mới theo định hướng XHCN.... Vì lẽ đó, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phát

triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và

về lâu dài là một nhu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, làm cho các mô hình này phát

huy được những vai trò to lớn của mình đã và đang là thách thức lớn cần được nghiên cứu

giải quyết.

31

1.4. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở một số

địa phương và bài học rút ra cho Đồng Nai.

1.4.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở một số

địa phương.

1.4.1.1. Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ năm 2002 đến nay, việc phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn

TP.HCM đã có bước tiến khá rõ rệt, nhiều mô hình kinh tế tập thể ra đời, phát triển và đạt

được những kết quả như sau:

- Đối với mô hình Tổ hợp tác: Đến nay trên địa bàn thành phố có 216 tổ hợp tác, với

4.846 tổ viên, bình quân 15 người/tổ, trong đó có 89 THT thủy sản, chiếm 41,2%; 47 THT

chăn nuôi, chiếm 21,7%; 23 THT sản xuất rau an toàn, chiếm 10,6%. Tổ hợp tác thủy sản -

chủ yếu là tổ nuôi nghêu theo thời vụ, tập trung tại huyện Cần Giờ; THT chăn nuôi, rau an

toàn, tập trung tại huyện Củ Chi, Hóc Môn và Bình Chánh…

Về ưu điểm: Hầu hết các THT đã tích cực chủ động trong sản xuất kinh doanh ứng

dụng những mô hình mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới đem lại hiệu quả cho

kinh tế tập thể, góp phần nâng cao thu nhập cho tổ viên và người lao động; Tổ viên có

niềm tin lớn đối với tổ hợp tác, đoàn kết trong nội bộ, nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ

đối với tổ hợp tác; Tổ viên thấy được lợi ích của THT trong sản xuất nông nghiệp.

Tuy nhiên, trong hoạt động, các THT vẫn còn những hạn chế như: Quy mô diện tích

và số lượng tổ viên ít, hoạt động THT chỉ ở mức độ như câu lạc bộ khuyến nông (học tập,

trao đổi kinh nghiệm sản xuất) chưa phát huy được sức mạnh của từng tổ viên và sức

mạnh của kinh tế tập thể; Trình độ quản lý của ban điều hành tổ hợp tác còn hạn chế chưa

thật sự là nòng cốt để tập hợp các tổ viên tham gia hoạt động kinh tế, chưa nhận thức rõ vai

trò, thực chất của kinh tế tập thể; Chưa có kế hoạch, phương án hoạt động cụ thể nên bị

động trong việc thực hiện các dịch vụ đầu vào, đầu ra sản phẩm.

- Đối với mô hình Hợp tác xã:

Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 47 HTX nông nghiệp, hoạt động trên nhiều lĩnh

vực như dịch vụ nông nghiệp, sản xuất rau an toàn, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, tiểu thủ

công nghiệp; kinh doanh tổng hợp, hoa lan cây kiểng,….Trong đó huyện Củ Chi chiếm đa

32

số với 17 HTX nông nghiệp chiếm 36,1% số HTX nông nghiệp của thành phố, huyện

Bình Chánh 10 HTX (chiếm 21,2%).

Về ưu điểm: Các HTXNN hoạt động trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, hoạt

động dịch vụ đầu vào - đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân trong

vùng; HTXNN được hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi,

quản lý dân chủ và bình đẳng, đổi mới quan hệ sản xuất cả về quan hệ sở hữu, quan hệ

quản lý và quan hệ phân phối nhằm tạo ra sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là trong tình hình phát triển đô thị hóa ở

ngoại thành; Các HTXNN đã tổ chức thực hiện đúng trình tự, thủ tục về chuyển đổi, có

đánh giá lại giá trị tài sản, tiền vốn, công nợ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh ...

và thực hiện tương đối tốt điều lệ của HTX đã được cấp thẩm quyền phê duyệt; Hoạt động

sản xuất kinh doanh của các HTX thực hiện theo phương án và ngành nghề đã đăng ký,

không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ xã viên (như kiểu cũ)

mà chỉ ở từng khâu công việc, từng công đoạn nhằm phát huy và hỗ trợ cho các hộ xã

viên. Bộ máy quản lý các HTX được tổ chức gọn nhẹ, có hiệu quả hơn. Cán bộ quản lý,

ban chủ nhiệm các HTX, tổ hợp tác tuy trình độ văn hóa và nghiệp vụ hạn chế nhưng là

những người có uy tín, kinh nghiệm, được xã viên tin tưởng, đã gắn bó với tổ chức và

đồng ruộng nhiều năm.

Bên cạnh đó, hoạt động của các HTXNN cũng còn những hạn chế nhất định, đó là:

Nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của hầu hết các cán bộ cơ sở và nông dân chưa

thấu đáo và chưa quán triệt đầy đủ, mặt khác trên thực tế việc chuyển đổi và thành lập mới

HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả; Vốn,

cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX còn yếu kém đang là một trong những khó khăn lớn ảnh

hưởng không nhỏ đến hoạt động của HTX trong quá trình chuyển đổi và xây dựng mới. Số

vốn góp không đủ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Trụ sở và mặt bằng sản xuất

kinh doanh đều phải thuê mướn (đối với các HTX thành lập mới); Trình độ cán bộ quản lý

HTXNN còn bất cập so với cơ chế quản lý mới: sau khi chuyển đổi, bộ máy quản lý HTX

đã tinh giảm gọn nhẹ hơn, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết hoạt động

theo kinh nghiệm thực tế, không được đào tạo cơ bản, ít được bồi dưỡng tập huấn. Mặt

33

khác, năng lực nắm bắt thông tin, khả năng dự báo thị trường, sự nhạy cảm linh hoạt để

đáp ứng những yêu cầu đa dạng phức tạp của cơ chế thị trường còn có nhiều hạn chế. Một

đặc điểm khác của đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN không vào quy hoạch, thường xuyên

thay đổi, do đó, họ không an tâm công tác. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ quản lý luôn ở

trong tình trạng thiếu cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong công tác quản lý; Đầu tư

phát triển ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các HTX còn phân tán, đa dạng,

chưa xác định sản phẩm chủ lực và mục tiêu lâu dài; hoạt động phục vụ trực tiếp cho sản

xuất nông nghiệp còn hạn chế. Một số HTX ngưng hoạt động hoặc tự giải thể do lúng túng

về phương án sản xuất kinh doanh; khó khăn về vốn, tài sản; nhận thức của xã viên; Các

chủ trương, chính sách còn chậm đến các cơ sở. Nhiều chính sách được ban hành nhưng

đến nay các HTXNN chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó. Việc thực hiện các chủ

trương chính sách ưu tiên cho HTX chưa được thực hiện đồng bộ, chưa mang tính đột phá.

Từ thực trạng trên, thành phố Hồ Chí Minh đã tổng kết đánh giá và rút ra những bài

học kinh nghiệm cần quan tâm như sau:

+ Phát triển kinh tế tập thể là hướng đi phù hợp trong sản xuất nông nghiệp với quy

mô nhỏ lẻ như hiện nay, kinh tế tập thể giải quyết những vấn đề mà hộ gia đình khó thực

hiện hoặc thực hiện không hiệu quả so với THT, HTX.

+ Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp nhằm từng bước chuyển đổi tập quán

sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất để đẩy mạnh sản xuất

hàng hóa trong nông nghiệp nông thôn.

+ Từng bước tổ chức tốt các dịch vụ đầu vào - đầu ra đáp ứng được nhu cầu của

người tham gia hợp tác, tạo động lực để thu hút nông dân vào làm ăn tập thể.

+ Để kinh tế tập thể cạnh tranh với các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực,

đòi hỏi đội ngũ quản lý THT, HTX phải chuyên nghiệp, có chuyên môn kỹ thuật giỏi; có

trình độ, kinh nghiệm và phải có tâm huyết vì lợi ích của hợp tác xã và xã viên.

1.4.1.2. Tỉnh Bến Tre.

Với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp; sản xuất hàng hóa ngày càng phong phú, đa

dạng; nhưng sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, tự phát và mang tính chất hộ gia đình là

chính, không mang tính sản xuất hàng hóa cao. Ngoài một ít tổ, nhóm được hình thành

34

mang tính chất trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ ngày công, còn lại thiếu sự tổ chức sản xuất

tập thể.

Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, để phát triển mạnh, bền vững là

phải hướng đến sản xuất hàng hóa tập trung. Do đó, những năm qua, Bến Tre đã tích cực

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa; đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp dựa trên cơ sở nhu cầu, tự

nguyện, xây dựng và nhân rộng các mô hình làm kinh tế phù hợp với thực tiễn địa phương

như: kinh tế trang trại, tổ hợp tác, Hợp tác xã…

Đến nay, toàn tỉnh Bến Tre đã xây dựng và phát triển 35 hợp tác xã, tổng số xã viên

hợp tác xã: 13.103, trong đó xã viên mới: 26; bình quân 374 xã viên/hợp tác xã. Hoạt động

nổi bật của Hợp tác xã là phát triển những Hợp tác xã cùng ngành nghề như: Hợp tác xã

quản lý và khai thác nghêu, Hợp tác xã cây giống, Hợp tác xã lúa… doanh thu năm hàng

năm đạt trên 180.000.000 đồng, lợi nhuận trên 100.000.000 đồng. Riêng các Hợp tác xã đa

dạng ngành nghề thì còn hạn chế: chưa tìm ra được ngành nghề làm mục tiêu chính để đột

phá trong hoạt động kinh doanh, nguyên nhân vì không xây dựng được mục tiêu, kế

hoạch, định hướng và tổ chức sản xuất từng khâu, từng ngành nghề.

Vì vậy, trong những năm qua các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp ở Bến Tre

có phát triển nhưng hiệu quả thấp, đa số thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh,

công tác tổ chức quản lý yếu và còn nhiều lúng túng trong hoạt động.

Do đó, tỉnh Bến tre đã rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục phát triển kinh tế

tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh như sau:

- Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã dựa trên

sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ

sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế.

- Phát triển kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành

viên và lợi ích tập thể, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên,

phát triển cộng đồng.

- Phát triển kinh tế tập thể cũng phải nhằm vào việc bảo vệ tài nguyên. Nhân dân địa

phương cần phải được tham gia trong việc bảo vệ và quản lý lâu bền các nguồn tài nguyên

35

thiên nhiên. Họ cần phải được chia sẻ những lợi ích của các nguồn tài nguyên thiên nhiên

từ các khu vực mà họ sinh sống. Vì vậy, để phát triển bền vững các đơn vị kinh tế tập thể

phải gắn kết được lợi ích của mình với lợi ích cộng đồng.

1.4.1.3. Tỉnh Đồng Tháp.

Từ năm 2002 đến nay, kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã có những bước

phát triển tích cực cả về số lượng lẫn chất lượng, nhiều mô hình mới hoạt động có hiệu

quả… Tuy nhiên, phần lớn tổ chức kinh tế tập thể vẫn còn quy mô nhỏ lẻ; lợi ích mang lại

cho xã viên, thành viên, người lao động còn hạn chế; chưa đáp ứng nhiều về nhu cầu sản

xuất, đời sống của xã viên và cộng đồng; năng lực nội tại yếu, khả năng cạnh tranh kém,

chưa theo kịp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế.

Kinh tế tập thể tại Đồng Tháp hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nông nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp, tín dụng và vận tải. Toàn tỉnh hiện có 205 hợp tác xã (HTX), Liên

hiệp HTX, riêng lĩnh vực nông nghiệp có 158 HTX, trong đó chủ yếu là loại hình HTX

làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp và một số loại hình HTX chuyên ngành như: HTX thủy

sản, HTX trái cây, HTX hoa kiểng, HTX sản xuất tiêu thụ rau an toàn với trên 19 nghìn xã

viên, vốn hoạt động trên 127,8 tỷ đồng, phục vụ 13% tổng diện tích đất canh tác nông

nghiệp của tỉnh. Cùng với loại hình HTX, tỉnh còn có 1.478 tổ hợp tác các loại với gần

45,5 nghìn tổ viên, hoạt động trên 28 loại hình khác nhau và canh tác trên 105 ha tổng diện

tích gieo trồng trong toàn tỉnh. Hoạt động của các HTX đa dạng, có hiệu quả, hỗ trợ tích

cực cho kinh tế hộ phát triển đem lại giá trị sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng cao trong

cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các địa phương trong tỉnh.

Song bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế tập thể trên lĩnh vực nông nghiệp ở

Đồng Tháp vẫn còn một số mặt hạn chế như: đa số các HTX nông nghiệp có quy mô hoạt

động nhỏ (chủ yếu quy mô ấp); hoạt động dịch vụ đơn điệu, có gần 67,7% số HTX chỉ tổ

chức được 2-3 dịch vụ và chỉ có 5,7% (9 HTX) tổ chức được từ 4 dịch vụ trở lên. Nhiều

HTX nông nghiệp chưa có giải pháp để huy động nguồn vốn từ xã viên cũng như các

nguồn vốn khác để đầu tư phát triển.

Hiệu quả và lợi ích kinh tế - xã hội đem lại cho xã viên chưa nhiều, do đó chưa tạo

được mối liên kết chặt chẽ giữa HTX với xã viên. Trong tổng số HTX nông nghiệp được

36

phân loại, có 2,9% đạt loại tốt, 36% đạt loại khá, 54,4% loại trung bình và 6,6% loại yếu.

Đồng thời giữa các HTX thiếu sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Chưa tạo

được mối liên kết, hợp tác giữa các HTX với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

nông nghiệp để đầu tư vật tư và tìm đầu ra cho nông sản hàng hóa.

Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp còn thấp, Kỹ năng

lập kế hoạch, lập phương án sản xuất kinh doanh còn yếu; cơ sở vật chất, phương tiện phục

vụ cho hoạt động của các HTX nông nghiệp còn thiếu, vẫn còn 58,6% số HTX nông

nghiệp chưa có trụ sở làm việc…

Từ thực trạng trên, tỉnh Đồng Tháp đã tổng kết, đánh giá và rút ra những bài học

kinh nghiệm như sau:

- Những yếu kém trong công tác quản lý cũng như việc tiếp cận nguồn vốn và đổi

mới công nghệ là những khó khăn cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động của các hợp tác xã

nông nghiệp trên địa bàn.

- Cần quan tâm nhiều hơn về cơ chế chính sách, nhất là các chính sách về thuế, về

đất đai, về tín dụng… tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế tập thể trong nông

nghiệp đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động.

- Liên minh HTX và các ngành ở tỉnh cần thống nhất trong cách nghĩ, cách làm, đổi

mới phương pháp làm việc và có đánh giá chính xác những vướng mắc, tồn đọng. Đặc biệt

chú ý đến khó khăn của các HTX nông nghiệp, HTX ngành nghề và các quỹ tín dụng, qua

đó từng bước củng cố hoạt động, giải quyết những khó khăn hướng đến xây dựng nền sản

xuất quy mô lớn.

1.4.2. Một số bài học rút ra cho tỉnh Đồng Nai.

- Một là, phát triển kinh tế tập thể là hướng phát triển bền vững trong sản xuất nông

nghiệp. Do đó phải luôn tạo điều kiện cho loại hình kinh tế tập thể phát triển, nhất là trong

lĩnh vực nông nghiệp.

- Hai là, để đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp thì cần phải phát

huy tính năng động và sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, địa phương và các

doanh nghiệp.

37

- Ba là, nơi nào coi trọng việc chỉ đạo xây dựng và tổng kết các mô hình HTX theo

đúng bản chất, tôn trọng các giá trị và đảm bảo các nguyên tắc HTX trong hoạt động; xoá

bỏ những mặc cảm không tốt về HTX đang tồn tại hiện nay, thì nơi đó kinh tế tập thể sẽ

phát triển hiệu quả, đời sống nhân dân được nâng cao.

- Bốn là, để KTTT trong nông nghiệp có khả năng phát triển phong phú, đa dạng,

hiệu quả và đứng vững trong cơ chế thị trường thì cần phải làm tốt công tác tuyên truyền,

vận động để đông đảo nhân dân tham gia; đồng thời phải nâng cao vai trò lãnh đạo của

Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước ở địa phương; thường xuyên, kịp thời hỗ

trợ và giải quyết những khó khăn, vướng mắc làm cản trở sự phát triển của kinh tế tập thể.

- Năm là, HTX phát triển và phát huy tác dụng tích cực đối với xã viên chỉ trên cơ sở

tự nguyện của xã viên, đa dạng và phong phú về hình thức trên cơ sở yêu cầu của xã viên

và cộng đồng, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ.

- Sáu là, mục đích của HTX là gắn bó để cùng nhau tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp

ứng yêu cầu của xã viên và hoạt động xã hội vì cộng đồng. Do đó, xã viên cần có sự nhận

thức và hiểu biết rõ ràng về sự cần thiết của HTX đối với họ và những dịch vụ mà HTX

cung cấp là phương tiện để họ cải thiện đời sống kinh tế của mình. Ngoài ra, các xã viên và

cán bộ lãnh đạo HTX cần phải có kiến thức và sự hiểu biết cơ bản về các nguyên tắc HTX

và việc điều hành một HTX.

- Bảy là, để HTX hoạt động có hiệu quả, cần chú trọng công tác cán bộ lãnh đạo,

quản lý. Đội ngũ cán bộ quản lý HTX phải có trình độ hiểu biết, phải thật sự cần, kiệm,

liêm, chính, chí công, vô tư; phải thật sự năng động, sáng tạo, tâm huyết với HTX.

- Tám là, huy động và sử dụng tốt các nguồn lực để phát triển kinh tế tập thể trong

nông nghiệp. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt là rất cần thiết như đẩy mạnh

công tác khuyền nông khuyến ngư; chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất, nhất là về giống mới, kỹ thuật canh tác, cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí

hóa…nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và hiệu quả sản xuất. Đồng thời thực

hiện một cách hiệu quả sự liên kết 4 nhà (nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh

nghiêp) sẽ tạo điều kiện cho nông dân đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nâng cao

thu nhập.

38

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG NÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI GIAI ĐOẠN 2002 – 2013

2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đồng Nai.

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên.

- Vị trí địa lý:

Tỉnh Đồng Nai được thành lập vào tháng 1/1976 trên cơ sở sát nhập 3 tỉnh cũ là Biên

Hòa, Tân Phú và Bà Rịa – Long Khánh. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, hiện

nay tỉnh có 11 đơn vị hành chính gồm 9 huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa.

Nằm ở tọa độ địa lý từ 10o31’ đến 11o34’ vĩ độ Bắc và từ 106o41’ đến 107o 34’

kinh độ Đông, Đồng Nai là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm miền Đông Nam Bộ: Phía Đông

giáp tỉnh Bình Thuận, Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương,

Bình Phước, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu.

- Địa hình:

Đồng Nai có địa hình trung du chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung bộ đến đồng

bằng Nam bộ. Độ cao trung bình thấp hơn 100m so với mực nước biển, giảm dần từ Đông

Bắc sang Tây Nam. Có 03 dạng Địa hình chính là: Đồng bằng (chiếm 12%), gò đồi (chiếm

80%) và núi thấp (chiếm 8% diện tích tự nhiên). Địa hình Đồng Nai tương đối bằng phẳng,

thuận lợi cho phát triển nông nghiệp (giao thông nông thôn, thủy lợi, canh tác...) và xây

dựng các công trình, các khu công nghiệp.

- Đất đai, thổ nhưỡng:

Đồng Nai có diện tích tự nhiên 5.895 km2, chiếm 1,79% diện tích tự nhiên cả nước

và chiếm 25,6% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Tổng diện tích toàn tỉnh có:

589.473 ha. Bao gồm: Diện tích đất nông nghiệp: 302.845 ha; đất lâm nghiệp: 179.807 ha;

đất chuyên dùng: 68.018 ha; đất ở: 10.546 ha; đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá:

28.255 ha.

39

Đất đai rất đa dạng, phong phú, bao gồm 10 loại đất chính, trong đó: Loại đất xám

chiếm tỷ lệ 40,05% diện tích tự nhiên (DTTN), thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, công

nghiệp và xây dựng; đất đen chiếm 22,44% DTTN, thích hợp trồng các loại cây hàng năm;

đất đỏ chiếm 19,27% DTTN, rất thích hợp trồng các loại cây công nghiệp dài ngày, cây ăn

quả có giá trị kinh tế cao.

Ngoài ra còn có các loại đất khác như: Đất phù sa ven sông Đồng Nai, đất Gley

(9,32%), thích hợp cho trồng lúa, hoa màu và các loại cây khác, đất nâu (1,94%), đất tầng

mỏng (0,54%), đất đá bọt (0,41%), đất cát (0,1%), đất có tầng loang lổ chỉ chiếm 0,02%.

Diện tích đất có chất lượng (độ phì, tầng dày) từ trung bình đến cao chiếm 44%. Đất có

tầng mỏng dưới 50cm, chất lượng kém chiếm 40% tổng quỹ đất.

- Khí tượng, thủy văn:

Đồng Nai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với hai mùa tương phản nhau

(mùa khô và mùa mưa). Nhiệt độ trung bình hằng năm 23,9 - 29oC. Nhiệt độ cao tuyệt

đối 30,8oC, thấp tuyệt đối 20,5oC, độ ẩm không khí bình quân 83,5%. Khí tượng điều hòa,

ít bị tác động của bão, lụt nên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Lượng mưa tương đối

lớn và phân bố theo vùng và theo vụ khoảng từ 1.500 – 2.700mm/năm, lượng mưa trung

bình từ 1.800 -1.860mm/năm.

Trên địa bàn tỉnh có hơn 60 sông, suối, kênh, rạch hình thành hai thủy vực chính là

hệ thống sông Đồng Nai và hệ thống các sông ngắn trực tiếp đổ ra biển đông. Về mùa khô,

lượng nước các sông thấp, chỉ chiếm 20% lưu lượng nước cả năm. Toàn tỉnh có 23 hồ,

trong đó có hồ Trị An với diện tích 323 ha, dung tích 2,8 tỷ m3… tạo cho Đồng Nai có

khối lượng nước khổng lồ, vừa có tác dụng điều hòa môi trường, vừa cung cấp nước cho

canh tác, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất điện năng.

- Tài nguyên:

Đồng Nai là địa bàn có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, bao gồm tài nguyên

rừng, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản…. Trong đó tài nguyên rừng là tài nguyên

quan trọng, là một trong những thế mạnh của tỉnh. Rừng Đồng Nai có đặc trưng cơ bản

của rừng nhiệt đới, có tài nguyên động thực vật phong phú và đa dạng, có nhiều lâm thổ

sản quý hiếm. Tài nguyên nước rất phong phú, chủ yếu là nguồn nước sông Đồng Nai, với

40

lưu lượng lớn nhất là 880 m3/s, nhỏ nhất là 130 m3/s, đảm bảo đủ cung cấp cho sản suất

nông nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt các khu dân cư đô thị trên địa bàn. Tài nguyên

khoáng sản tương đối phong phú về chủng loại với 214 mỏ, điểm quặng, điểm khoáng.

2.1.2. Về điều kiện xã hội.

- Dân số và dân cư:

Dân số của Đồng Nai tăng nhanh, lúc mới giải phóng (1975), toàn tỉnh có 1.223.683

người. Sau khi tách 3 huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc về tỉnh Bà Rịa - Vũng

Tàu, đến năm 1991, Đồng Nai có 1.697.217 người. Đến cuối năm 1993 là 1.822.913

người. Bình quân tăng mỗi năm là 3,7%, trong đó ở thành thị 488.540 người, nông thôn

1.334.733 người, mật độ dân cư đến năm 1993: 305 người/ km2. Theo kết quả tổng điều

tra dân số ngày 1/4/1999, dân số toàn tỉnh có 1.989.541 người, trong đó 993.039 nam và

996.502 nữ; Dân số thành thị là 612.000 người, nông thôn là 1.377.000 người; có

1.194.000 người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2005, dân số toàn tỉnh có 2.218.900

người. Trong đó dân số thành thị chiếm 38%. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009,

tỉnh có 2.483.211 người; Trong đó: Phân theo khu vực: Thành thị là: 825.335 người; Nông

thôn là: 1.657.876 người. Phân theo giới tính: Nam: 1.232.182 người; Nữ: 1.251.029

người. So với cả nước, Đồng Nai là tỉnh đứng thứ 5 về đông dân số (sau các địa phương:

Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An); Đứng thứ hai so với miền Đông

Nam Bộ (sau Thành phố Hồ Chí Minh). Dân số tập trung nhiều nhất là ở TP. Biên Hòa.

Đồng Nai có hơn 30 dân tộc anh em cùng chung sống, đông nhất là người Kinh

(chiếm trên 90%) còn lại là các dân tộc khác: Hoa, Nùng, Mạ, Châu Ro, X.tiêng, K.ho,

Mường, Tày…mỗi dân tộc có tín ngưỡng riêng, khiến nơi đây có rất nhiều tôn giáo. Ở

Đồng Nai có cả 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, công giáo, tin lành, hồi giáo, cao đài, hòa hảo.

Trong đó, Thiên chúa giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính, chiếm gần 60% dân số.

- Lao động:

Hiện Đồng Nai có hơn 1,2 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó có hàng triệu

người có trình độ văn hóa trung học và hàng chục ngàn người có trình độ trung học chuyên

nghiệp, cao đẳng, đại học và trên Đại học. Đây là nguồn lực rất quan trọng cho quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

41

Theo số liệu thống kê của tỉnh, bình quân giai đoạn 2001 - 2005 tăng trưởng lực

lượng lao động là 3%/năm và tăng trưởng lao động đang làm việc là 3,4%/năm; bình quân

giai đoạn 2006 - 2010, các chỉ số này tương ứng là 3,9%/năm và 4,3%/năm. Lao động

công nghiệp, dịch vụ có chiều hướng tăng lên, chiếm 69,8% tổng số lao động đang làm

việc trong nền kinh tế. Chất lượng lao động cũng được nâng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo

nghề tăng từ 18% năm 2000 lên 40% năm 2010, cao hơn nhiều so với mức trung bình cả

nước (khoảng 23%). Từ năm 2000 đến nay, mỗi năm, giải quyết việc làm cho khoảng

65.000 – 70.000 lao động.

- Giáo dục đào tạo, y tế:

Về Giáo dục đào tạo: đến năm 1998, tỉnh đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và

phổ cập tiểu học. Năm 2002, có 100% xã, phường đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học;

124/163 xã, phường phổ cập THCS. Mỗi năm tỉnh có 20.000 học sinh tốt nghiệp phổ

thông trung học. Hệ thống đào tạo cũng có bước phát triển. Đến nay trên địa bàn tỉnh có: 5

trường Đại học; 3 trường cao đẳng; 8 trường trung học chuyên nghiệp; 529 trường phổ

thông các cấp, 395 trường mẫu giáo và 93 đơn vị dạy nghề.

Về Y tế: Hệ thống y tế ở Đồng Nai có bước phát triển. Đến nay trên địa bàn tỉnh có

10 bệnh viện; 13 phòng khám của các huyện, 11 trung tâm y tế huyện, thành phố, thị xã;

171 trạm y tế phường, xã với tổng số 3.430 giường bệnh, 860 bác sỹ. Bình quân có 1 bác

sĩ/2.540 dân, đạt 39% chuẩn quốc tế.

- Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân:

Số hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giảm mạnh; thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh.

Phân hóa giàu nghèo ở Đồng Nai chưa thực sự gay gắt. Tuy nhiên đời sống của người dân

nông thôn, đặc biệt là của người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, còn

nhiều khó khăn. Chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn còn khá lớn.

- Bộ máy Nhà nước:

Đồng Nai có bộ máy chính quyền năng động, nhưng việc phối hợp hoạt động giữa

các cơ quan hành chính Nhà nước chưa chủ động, chưa đồng bộ. Công tác cải cách thủ tục

hành chính có nơi làm chưa tốt, nhiều thủ tục chậm được cải tiến. Trình độ của đội ngũ cán

42

bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế so với yêu cầu phát triển trong giai đoạn

hiện nay.

- Điều kiện xã hội khác:

Đồng Nai có nhiều làng nghề truyền thống (như: nghề làm đá; nghề gốm; nghề chế

biến lương thực, thực phẩm; nghề thủ công và buôn bán…) và có nhiều di tích lịch sử, văn

hóa (hiện có trên 20 di tích lịch sử - văn hóa được công nhận cấp quốc gia) có tiềm năng

lớn để phát triển kinh tế du lịch.

2.1.3. Về điều kiện kinh tế.

- Tăng trưởng kinh tế:

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh được duy trì ở mức rất cao

(trong giai đoạn 2001 – 2005, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân 12,8%; giai

đoạn 2005 – 2010 tăng 13,2%/năm; giai đoạn 2011 – 2013 tăng bình quân 11,9%/năm, cao

hơn nhiều so với mức bình quân của cả nước.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Năm 2005, tỷ trọng GDP trong các ngành: Công nghiệp và xây dựng là 57%;

Nông, lâm nghiệp, thủy sản là 15%; Dịch vụ là 28%. Đến năm 2010, tỷ trọng trong các

ngành: Công nghiệp và xây dựng là 57,2%; Nông, lâm nghiệp, thủy sản là 8,7%; Dịch vụ

là 34,1%. Đến cuối năm 2013, tỷ trọng GDP ngành Công nghiệp và xây dựng chiếm

56,9%; Nông, lâm nghiệp, thủy sản là 6,3%; Dịch vụ là 36,8%. Các thành phần kinh tế

trên địa bàn tỉnh cũng có những chuyển biến tích cực khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, trình độ

công nghệ của các doanh nghiệp trong nước nhìn chung còn thấp. Bên cạnh đó, đại bộ

phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Kết cấu hạ tầng kinh tế:

Kết cấu hạ tầng kinh tế khá phát triển. Hệ thống giao thông phát triển đa dạng, bao

gồm cả đường bộ, đường thủy, đường sắt và hàng không. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, hệ

thống kết cấu hạ tầng kinh tế ở tỉnh vẫn thiếu đồng bộ, năng lực chưa thật cao. Đặc biệt, hệ

thống kết cấu hạ tầng ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn rất hạn chế.

43

Tóm lại, tất cả các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nói trên tạo thành tiềm năng to

lớn để Đồng Nai khai thác, huy động vào trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh, trong đó phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp luôn được ưu tiên hàng đầu,

nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH và thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

2.2. Tổng quan về kinh tế tập thể tại Đồng Nai.

Quá trình phát triển kinh tế tập thể tại Đồng Nai luôn được tỉnh quan tâm và bắt đầu

ngay sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, chịu sự tác động chi phối của những

chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà

nước ta trong từng giai đoạn cụ thể, nhất là từ khi có luật HTX năm 1996 và đặc biệt là từ

khi Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành Nghị quyết số 13 – NQ/TW, ngày

18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Đến nay, sau khi sắp xếp lại theo Nghị định số 151/NĐ-CP, toàn tỉnh có 726 tổ hợp

tác và 15 Liên hiệp câu lạc bộ năng suất cao (CLBNSC), với hơn 19.380 thành viên tham

gia, tổng số vốn góp trên 2.230 triệu đồng. Các tổ hợp tác, Liên hiệp Câu lạc bộ năng suất

cao hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề như nông nghiệp, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ,

dệt thổ cẩm, đúc gang, hàng mộc xuất khẩu, … Nội dung hoạt động của các tổ hợp tác,

Liên hiệp Câu lạc bộ năng suất cao ngày càng đa dạng, thiết thực hơn, từng bước nâng giá

trị sản phẩm, tăng thu nhập cho các hộ thành viên.

Đối với mô hình hợp tác xã, hiện nay toàn tỉnh có 261 hợp tác xã và 2 Liên hiệp Hợp

tác xã (tăng 165 hợp tác xã so với năm 2002), với hơn 76.000 thành viên, vốn điều lệ gần

1.123 tỷ đồng (tăng trên 1.100 tỷ đồng so với năm 2002); vốn điều lệ bình quân/Hợp tác xã

gần 4,3 tỷ đồng (tăng hơn 21 lần so với vốn điều lệ bình quân của hợp tác xã năm 2002).

Trong số 261 hợp tác xã, có 83 hợp tác xã và 01 liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh

vực nông, dịch vụ nông nghiệp; 57 hợp tác xã và 01 liên hiệp hợp tác xã thương mại dịch

vụ; 21 hợp tác xã dịch vụ vận tải; 14 hợp tác xã Xây dựng ; 04 hợp tác xã Bốc xếp; 21 hợp

tác xã Dịch vụ vệ sinh môi trường; 25 hợp tác xã Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; 01

hợp tác xã Giáo dục mầm non; 35 Quỹ tín dụng nhân dân. Trong 9 lĩnh vực ngành nghề

trên, đa số các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, tiểu thủ công nghiệp, thương

44

mại dịch vụ hoạt động đạt hiệu quả cao, các hợp tác xã thuộc nông nghiệp, dịch vụ nông

nghiệp đa số hoạt động chưa hiệu quả. Kết quả đến cuối năm 2013, toàn tỉnh có 53 hợp tác

xã điển hình tiên tiến (22,6%), 86 hợp tác xã khá (36,8%), 55 hợp tác xã trung bình (đạt

23,5%), 26 hợp tác xã yếu cần củng cố (11,1%), còn lại 41 hợp tác xã chưa xếp loại vì mới

được thành lập trong năm 2012 và năm 2013.

Bảng 2.1. Thông tin hợp tác xã theo từng lĩnh vực trên địa bàn tỉnh Đồng

Nai giai đoạn 2002 – 2013.

Số HTX Số HTX Số lượng HTX Tỷ

Lĩnh vực hoạt động đầu năm đến cuối tăng (giảm) so lệ Số

TT 2002 năm 2013 với đầu năm (%)

2002

1 Nông nghiệp, dịch vụ 36 84 48 233

nông nghiệp

2 Xây dựng 1 14 13 1,4

3 Dịch vụ vận tải 14 21 7 150

4 Xếp dỡ hàng hóa 7 4 -3 57

5 Thương mại dịch vụ 12 58 46 483

6 Tiểu thủ công nghiệp 6 25 19 417

7 Vệ sinh môi trường 2 21 19 1,05

8 Quỹ tín dụng nhân dân 19 35 16 184

9 Giáo dục mầm non 0 1 1

97 TỔNG CỘNG 263

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

Theo đánh giá sơ bộ, quy mô vốn góp ngày càng tăng, lĩnh vực, ngành nghề hoạt

động ngày càng đa dạng, rộng khắp các địa phương trên địa bàn tỉnh. Chất lượng hoạt

động của các tổ chức kinh tế tập thể ngày càng đi vào thực chất hơn, hiệu quả hơn, đã xuất

hiện nhiều mô hình hợp tác xã điển hình tiên tiến, hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ hợp tác xã

khá, giỏi chiếm trên 53% tổng số hợp tác xã trên địa bàn. Đội ngũ cán bộ quản lý ở các tổ

chức kinh tế tập thể đã có một bước chuyển biến về năng lực, trình độ quản lý hoạt động

45

sản xuất - kinh doanh và đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà; đã tập trung đầu tư chiều sâu, tăng vốn, tài sản và ứng

dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất để nâng cao hiệu quả hoạt động; sản

phẩm hàng hóa của các tổ chức kinh tế tập thể ngày càng nhiều và đa dạng, chất lượng sản

phẩm ngày càng tốt hơn. Tổ chức kinh tế tập thể đã từng bước khai thác, huy động được

các nguồn lực trong nhân dân và xã hội; giải quyết lao động nhàn rỗi ở nông thôn, góp

phần tích cực vào chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo

an ninh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở, xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh. Để kịp thời

khuyến khích loại hình kinh tế tập thể phát triển, căn cứ các quy định của Chính phủ,

UBND tỉnh đã ban hành nhiều quyết định (Quyết định số 1328/QĐ-UBND về “thực hiện

Đề án xây dựng và phát triển hợp tác xã đến năm 2010”; Quyết định số 2890/QĐ-UBND

về “kế hoạch phát triển kinh tế tập thể đến năm 2010”, … ), quy định định việc thực hiện

các chính sách hỗ trợ về: đất đai, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực quản lý cho

hợp tác xã, đào tạo lao động, xúc tiến thương mại,…. Đồng thời, ban hành Quy định mức

chi hỗ trợ, khuyến khích thành lập mới hợp tác xã, tổ hợp tác v.v....

Có thể nói, hiện nay nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân về vai

trò, ý nghĩa, tính tất yếu của kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã (HTX) trong nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN được đổi mới và nâng lên rõ rệt; cán bộ các ngành,

các cấp đã hiểu sâu hơn về vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tập thể đối với phát triển

kinh tế- xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự trên địa bàn tỉnh; nhận thức của người dân

về mô hình hợp tác xã kiểu mới, sự hoài nghi về mô hình Hợp tác xã kiểu cũ dần được xoá

bỏ, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dần được cải thiện và nâng cao, ngày càng

thu hút được đông đảo lực lượng nhân dân tham gia xây dựng hợp tác xã. Xuất phát từ

nhận thức trên, các cấp, các ngành đã xây dựng nhiều giải pháp thiết thực để đổi mới

phương pháp hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, nâng cao chất lượng hoạt động của

kinh tế tập thể theo đúng chủ trương Nghị quyết Trung ương 5 đã đề ra.

Tuy nhiên, mặc dù tỉnh đã kịp thời ban hành các cơ chế hỗ trợ các loại hình kinh tế

tập thể phát triển, nhưng hiệu quả hoạt động của loại hình kinh tế tập thể vẫn chưa tương

xứng, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của tỉnh. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo

46

tổ chức thực hiện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian

tới đó là: công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ và chính quyền địa phương chưa

thật sự được quan tâm đúng mức; công tác tuyên truyền, giải thích về sự cần thiết phát

triển kinh tế tập thể trong hội nhập quốc tế chưa được sâu rộng, chưa phong phú và chưa

phù hợp với từng đối tượng người dân ở từng khu vực, từng địa bàn, nhất là trong nông

dân, nông thôn, do đó người dân vẫn còn hoài nghi, mặc cảm với mô hình hợp tác xã kiểu

cũ trước đây, nên thiếu tích cực tham gia và chưa tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của

hợp tác xã. Việc nhân rộng mô hình hợp tác xã điển hình tiên tiến còn yếu. Lực lượng cán

bộ làm công tác quản lý kinh tế tập thể từ cấp xã đến huyện, tỉnh thiếu ổn định, dẫn đến

chưa theo dõi kịp thời, sát sao; một số địa phương và một số ngành chức năng chưa thật sự

quan tâm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho kinh tế tập thể; nhiều cơ chế, chính sách ưu

đãi của Nhà nước đã ban hành nhưng không đi vào thực tiễn, kinh tế tập thể khó tiếp cận.

Tỷ trọng kinh tế tập thể trong cơ cấu tổng giá trị sản phẩm quốc nội của tỉnh còn thấp so

với mục tiêu Nghị quyết đề ra. Bản thân các tổ chức kinh tế tập thể có quy mô hoạt động,

vốn góp, tài sản, công nghệ mặc dù có tăng, nhưng chưa tương xứng; còn nhiều tổ chức

kinh tế tập thể hoạt động tự phát, thiếu kế hoạch, phương án, định hướng, nên hoạt động

thiếu tính bền vững; sản phẩm hàng hóa của nhiều tổ chức kinh tế tập thể chưa đảm bảo về

chất lượng, số lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường, đặc biệt là thị trường xuất

khẩu. Hiệu quả hoạt động và lợi ích kinh tế, xã hội đem lại cho thành viên vẫn còn thấp,

chưa thật sự hấp dẫn người dân tham gia, vv ….

Nguyên nhân: nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, đảng viên, đặc biệt

là người đứng đầu về lãnh đạo kinh tế tập thể chưa đầy đủ; đánh giá về kinh tế tập thể chưa

toàn diện, chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tập thể trong phát triển kinh

tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng ở địa phương. Công tác quản lý nhà nước về

kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ quản lý thiếu ổn định; các cấp chính

quyền ở một số địa phương còn lúng túng trong tổ chức chỉ đạo, chưa tổ chức thực hiện tốt

các chính sách hỗ trợ, chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của kinh

tế tập thể; chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực thi

nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể.

47

2.3. Các giai đoạn phát triển của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai.

2.3.1. Giai đoạn từ 2002 – 2005.

Sau khi Luật Hợp tác xã (năm 1996) được Quốc hội thông qua, Ban Bí thư Trung

ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 24/5/1996 về phát triển

KTHT trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban

hành Chỉ thị số 27-CT/TU về phát triển KTHT, HTX trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở tổng kết

thực tiễn phát triển HTX và thực hiện Luật HTX, ngày 18/3/2002 Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát

triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể nhằm thống nhất nhận thức về các quan điểm,

giải pháp phát triển KTTT. Đảng ta xác định: “Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình

thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt”, “kinh tế nhà nước cùng với kinh tế

tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Theo hướng đó,

cần củng cố những THT và HTX hiện có, tiếp tục phát triển rộng rãi kinh tế HTX với hiều

hình thức, quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực địa bàn có điều kiện.

Ngày 16/5/2002, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (khóa VII) đã thông qua

Chương trình hành động số 24/CTr–TU thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng. Trên cơ sở đó, ngày 11/01/2003 Hội đồng nhân dân tỉnh

Đồng Nai đã ban hành Nghị quyết số 48/2003/NQ-HĐND thông qua Đề án phát triển

HTX trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2010, theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số

13-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Luật HTX đã được sửa đổi và

được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 nhằm tạo khung pháp lý phù hợp hơn cho các

HTX phát triển. Những cơ chế chính sách trên ra đời là động lực to lớn thúc đẩy KTTT nói

chung và KTTT trong nông nghiệp nói riêng ở Đồng Nai có bước phát triển mới và đạt

được kết quả khả quan hơn.

Nhìn chung, giai đoạn trước năm 2002, số lượng các đơn vị KTTT trong nông

nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng không nhiều, hầu hết các HTX có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất

kỹ thuật thiếu thốn, lạc hậu, chắp vá, phần lớn đội ngũ cán bộ HTX chưa được đào tạo;

nhiều HTX vẫn còn lúng túng trong tổ chức quản lý và trong xác định nội dung hoạt động.

48

Số lượng HTX hoạt động hiệu quả rất ít (vị thế của HTX thấp, lợi ích kinh tế, xã hội mà

HTX đem lại cho xã viên còn ít); HTX chưa tạo được sự hấp dẫn, chưa thu hút được sự

quan tâm, tham gia của người dân; chiếm tỷ trọng trong GDP của tỉnh rất thấp. Từ năm

2002 và những năm tiếp sau đó, với sự ra đời của Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể;

Chương trình hành động số 24/Ctr–TU của Tỉnh ủy Đồng Nai thực hiện Nghị quyết số 13-

NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng …, các chủ trương, chính sách và hỗ trợ

phát triển HTX rõ ràng hơn, cụ thể hơn, thiết thực hơn. Nhờ đó khu vực KTTT ở Đồng

Nai có những chuyển biến rõ nét hơn: số lượng THT, HTX gia tăng; chất lượng được cải

thiện. Năm 2002, toàn tỉnh có 1.920 THT và 36 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp; với tổng vốn điều lệ là 7,19 tỷ đồng và 708 xã viên. Vốn điều lệ bình quân/HTX là

200 triệu đồng. Đến năm 2005, toàn tỉnh có 2.385 THT và 50 HTX hoạt động trong lĩnh

vực nông nghiệp; với tổng vốn điều lệ là 15,6 tỷ đồng và 810 xã viên. Vốn điều lệ bình

quân/HTX là 310 triệu đồng.

Trong giai đoạn 2002 – 2005, các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa phương

nhìn chung đã đóng góp một phần vào quá trình thành lập và hoạt động của các HTX, nhất

là các ban, ngành cấp huyện. Kinh nghiệm cho thấy, chính quyền nhân dân cấp huyện nào

quan tâm, hỗ trợ HTXNN bằng các chính sách cụ thể đã được Đảng và Nhà nước ban

hành về đất đai, tài chính, tín dụng, khoa học công nghệ... thì các HTXNN của địa phương

đó làm ăn có hiệu quả như: HTX chăn nuôi Xuân Phú, HTX dịch vụ nông nghiệp Phước

Khánh v.v....

Tuy nhiên trong giai đoạn này, khu vực KTTT trong nông nghiệp chủ yếu tăng lên

về số lượng mà ít chuyển biến về chất lượng hoạt động. Vì vậy, đây vẫn là khu vực kinh tế

nhỏ bé về quy mô vốn, lao động, giá trị sản xuất; phát triển chậm và không ổn định so với

các khu vực kinh tế khác. Những mô hình THT, HTX làm ăn ổn định, có hiệu quả vẫn

chưa được xác định. Nhiều HTX còn lúng túng trong phương thức hoạt động sản xuất kinh

doanh, chậm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, phát triển ngành

nghề... cũng như mở ra các dịch vụ đầu ra như: đại lý thu mua, chế biến và tiêu thụ sản

phẩm của HTX và sự liên doanh, liên kết giữa hộ xã viên và HTX với các doanh nghiệp

49

Nhà nước để hình thành mạng lưới vệ tinh, đại lý. Vì vậy chưa phát huy đầy đủ các điều

kiện về đất đai, lao động và cơ sở vật chất hiện có.

Bảng 2.2 Kết quả phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp từ năm

2002 – 2005.

Số

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

tính

2002

2003

2004

2005

1

Tổng số lượng HTXNN

HTX

36

41

48

50

2

Tổng số thành viên

Người

708

724

830

810

3

Tổng số lao động t/xuyên

Người

505

610

780

804

4

Doanh thu bình quân 1 HTX

Tr.đồng 175

288

296

384

5

Lợi nhuận bình quân 1 HTX

Tr.đồng 39

50

65

85

6

Tỷ lệ tổng giá trị dịch vụ

%

4,0

4,5

6,0

8,0

HTX cung cấp cho xã viên

7

Thu nhập bình quân của xã

Tr.đồng 8,3

9,2

10,2

11,4

viên HTX

8

Thu nhập bình quân của lao

Tr.đồng 11

12

13

15

động thường xuyên trong

HTX

9

Tỷ lệ cán bộ QL HTX đã qua

%

7,0

9,0

9,0

12,0

đào tạo đạt trình độ trung cấp

10

Tỷ lệ CB QL HTX đã qua đào

%

4,0

4,5

5,2

7,0

tạo đạt trình độ ĐH trở lên

11

Tổng số lượng THT

THT

1.920

2.041

2.217

2.385

12

Tổng số thành viên

Người 23.152

24.054

25.022

26.301

13

Lợi nhuận bình quân của

Tr.đồng 4,3

4,9

5,7

6,2

T/viên THT

14

Thu nhập bình quân của

Tr.đồng 15

15,5

16,4

17

T/viên THT

15

Tỷ trọng trong GDP

%

0,15

0,19

0,23

0,25

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

50

Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN còn thấp, chưa được đào tạo

bài bản, chủ yếu là qua tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày. Số cán bộ quản lý HTXNN có

trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm khoảng 12%; trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 7%.

Số cán bộ đã qua tập huấn, đào tạo bồi dưỡng chỉ chiếm 50%. Kỹ năng lập kế hoạch sản

xuất hàng năm, trung và dài hạn, lập phương án sản xuất kinh doanh còn yếu. Vì vậy rất

khó khăn trong nâng cao chất lượng hoạt động của các HTX, nâng cao trình độ quản lý

điều hành của tổ chức kinh tế trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế

thị trường. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, phục vụ cho hoạt động của đa số các HTXNN còn

thiếu, vẫn còn nhiều HTCNN chưa có trụ sở làm việc; các phương tiện phục vụ cho công

tác quản lý hầu như chưa có… Vì vậy, hiệu quả và lợi ích kinh tế - xã hội đem lại cho xã

viên chưa nhiều, do đó chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa HTX với xã viên.

2.3.2. Giai đoạn từ 2006 – 2013.

Đảng và Nhà nước đã ban hành thêm nhiều văn bản chính sách nhằm tăng cường chỉ

đạo và thúc đẩy phát triển KTTT ở nước ta, trong đó đáng chú ý nhất là việc ban hành Luật

HTX năm 2012. Trên cơ sở đó, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Đồng Nai đã cụ thể hóa

thành các chính sách, kế hoạch và biện pháp phát triển KTTT trên địa bàn, nên giai đoạn

2006 – 2013, sự phát triển KTTT trong nông nghiệp ở Đồng Nai có bước phát triển mới và

cao hơn. Kết quả cho thấy:

- Về số lượng, cơ cấu, quy mô và chất lượng hoạt động:

+ Từ năm 2006 – 2009, khu vực KTTT trong nông nghiệp ở Đồng Nai tiếp tục tăng

lên đáng kể về số lượng. Đến cuối năm 2009, toàn tỉnh có 70 HTXNN (so với năm 2005

tăng hơn 20 hợp tác xã, tương đương 40%) và 606 THT (so với năm 2005 giảm hơn 1.700

THT, do nhu cầu phát triển thành HTX).

+ Từ năm 2009 – 2013, tiếp tục tăng lên về quy mô, số lượng các HTX. Đến cuối

năm 2013, toàn tỉnh có 84 HTX, liên hiệp HTXNN (tăng 48 HTX so với năm 2002).

Trong đó có 53 HTX thuộc loại hình dịch vụ nông nghiệp, 10 HTX nuôi trồng thủy sản, 12

HTX trồng rau sạch và cây ăn trái, 07 HTX hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi và 02 HTX

sinh vật cảnh. Tổng số vốn điều lệ đăng ký trên 344 tỷ đồng với 1.940 thành viên, bình

51

quân 23 người/HTX và 1.472 lao động thường xuyên, bình quân 17 người/HTX. Ngoài ra

còn có 726 THT với 19.381 thành viên.

Bên cạnh việc phát triển, thành lập mới, đa số các HTX cũng đã tập trung nâng cao

chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các ngành nghề kinh doanh; các HTX đã từng bước

khắc phục những tồn tại, yếu kém, dần dần hoạt động ổn định và hiệu quả như: HTX Nuôi

trồng thủy hải sản Xuân Tâm, HTX Chăn nuôi Xuân Phú v.v.... Các HTX dịch vụ nông

nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ cho

kinh tế hộ xã viên như dịch vụ cung ứng phân bón, thuốc trừ sâu, thu mua nông sản, mua

bán cây con giống, thức ăn gia súc, gia cầm; quản lý công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu,

nước sạch nông thôn; trồng rừng… góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của xã viên và lao động nông thôn.

Một số HTX đã ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu trong thời kỳ hội nhập

và được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn và các sở, ban ngành, đơn

vị có liên quan đã chủ động đăng ký xây dựng thương hiệu hàng hóa và các tiêu chuẩn sản

phẩm như: HTX Nông nghiệp dịch vụ thương mại và du lịch Suối Lớn, HTX Bưởi Tân

Triều được cấp chứng nhận VIETGAP và GLOBALGAP; HTX Rau an toàn Trường An,

hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Xuân Thanh – Long Khánh và HTX Rau an toàn Trảng

Dài sản xuất theo tiêu chuẩn VIETGAP. Tuy nhiên, các HTX chưa chú trọng công tác vận

động các hộ sản xuất tham gia xã viên HTX nên diện tích rất thấp; do đó sản phẩm theo

tiêu chuẩn đăng ký còn thấp về số lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường; việc

trích lập các quỹ của HTX theo luật HTX 2003 và mới đây là luật HTX 2012 không được

các HTX tuân thủ, vì vậy, khi tái chứng nhận các tiêu chuẩn HTX không có kinh phí để

thực hiện mà hoàn toàn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Có HTX lợi dụng sự hỗ trợ

của Nhà nước trong việc xây dựng tiêu chuẩn GAP để trục lợi cho một bộ phận cán bộ

quản lý HTX, gian lận thương mại trong kinh doanh như HTX Rau sạch Trảng Dài đã bị

xử lý và dần khắc phục.

- Về mức độ thu hút thành viên tham gia: Trên thực tế, sự phát triển của khu vực

KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn nhiều khó khăn, nhất là khó khăn

về vốn, kỹ thuật, trình độ cán bộ… nên vẫn còn không ít HTX hoạt động chưa hiệu quả do

52

vốn góp thấp, trình độ Ban quản trị HTX còn hạn chế, thụ động trong công tác định hướng

phát triển sản xuất kinh doanh, có tư tưởng trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước. Có thể nói,

cho đến hiện nay khu vực KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn chưa có nhiều

mô hình điển hình tiên tiến; tính đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong các HTX và

giữa các HTX nông nghiệp chưa cao; chưa tích cực hỗ trợ và giải quyết tốt những khó

khăn trong hoạt động cho xã viên; ngoài ra, có một số HTX dù đã được củng cố nhiều lần

nhưng hoạt động vẫn không hiệu quả, do đó, mức độ thu hút các thành viên tham gia kinh

tế tập thể chưa cao.

Hiện tại, còn nhiều hộ nông dân chưa có nhu cầu và động lực tham gia hợp tác, cộng

với tâm lý sợ mất tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tâm lý mặc cảm, định kiến và hoài

nghi đối với mô hình HTXNN kiểu cũ, trong khi nguyên tắc tham gia HTX là tự nguyện,

dân chủ, hộ nông dân chưa thấy rõ lợi ích kinh tế nên chưa có động lực vào HTXNN.

Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa

học - công nghệ, các HTX đã tạo thêm nhiều việc làm mới, mở nhiều lớp tập huấn để nâng

cao trình độ chuyên môn cho bà con nông dân, xây dựng và nâng cấp hạ tầng cơ sở nông

thôn như điện, đường, trường, trạm, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, xây

dựng và phát triển các dịch vụ sinh hoạt cộng đồng, phòng chống các tệ nạn xã hội, xây

dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

- Về bộ máy quản lý và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN: Sự chỉ đạo

phát triển HTXNN của các ban ngành, Liên minh HTX tỉnh và chính quyền cơ sở còn

nhiều mặt hạn chế cả về tuyên truyền giáo dục, tổ chức, cơ chế chính sách, điều hành cụ

thể. Chính quyền cơ sở ở nhiều nơi vẫn duy trì HTXNN một cách hình thức với nhiều lý

do khác nhau và do đó tạo nên sự trì trệ đối với việc phát triển HTXNN.

Chủ nhiệm HTX, ban quản trị chưa được tuyển chọn, bồi dưỡng phù hợp với điều

kiện quản lý kinh doanh nông nghiệp trong kinh tế thị trường. Dẫn đến tình trạng HTXNN

hoạt động kinh doanh còn nhiều hạn chế, chưa thích ứng với sản xuất hàng hóa và chưa

nêu gương về mô hình tổ chức sản xuất thành công và hiệu quả, đại bộ phận HTXNN vẫn

hoạt động theo nếp cũ, chưa quan tâm nhiều đến mục tiêu hiệu quả kinh tế, mà nặng về

mặt chính trị - xã hội.

53

Bảng 2.3. Kết quả phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp từ năm

2006 – 2013.

Số

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

tính

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

1

Tổng số lượng HTXNN

HTX

64

66

71

70

72

72

80

84

2

Tổng số thành viên

Người 890

1.354

1.350

1.407

1.413 1.525

1.750 1.940

3

Tổng số lao động

Người 950

1.110

1.258

1.320

1.546 1.345

1.650 1.472

t/xuyên

4 Doanh thu bình quân 1

Tr.đồng 538

754

1.055

1.477

2.068

2.895

2.930

3.000

HTX

5

Lợi nhuận bình quân 1

Tr.đồng 97

136

190

266

372

421

450

470

HTX

6

Tỷ lệ tổng giá trị dịch

%

12,0

13,0

15,0

16,0

18,0

18,0

22,0

26,0

vụ HTX cung cấp cho

xã viên

7

Thu nhập bình quân của

Tr.đồng 12,6

14,0

15,5

17,2

19,1

21,2

24

30

xã viên HTX

8

Thu nhập bình quân của

Tr.đồng 16

18

19

21

24

26

30

33

lao động thường xuyên

trong HTX

9

Tỷ lệ cán bộ QL HTX

%

15,0

18,0

25,0

27,0

32,0

37,0

38,0

38,8

đã qua đào tạo đạt trình

độ trung cấp

10 Tỷ lệ CB QL HTX đã

%

7,8

10,0

13,0

14,0

15,0

21,0

21,7

22,2

qua đào tạo đạt trình độ

ĐH trở lên

11 Tổng số lượng THT

THT

2.513 2.713

806

606

806

650

665

726

27.350 28.612

30.274 14.515 15.840 17.621

18.395 19.381

12 Tổng số thành viên

Người

13 Lợi nhuận bình quân

Tr.đồng 6,8

7,8

8,5

9,7

11,2

12,6

14,5

17,0

của T/viên THT

14 Thu nhập bình quân của

Tr.đồng 17,5

19,7

22,2

24,0

28,5

32,0

33,5

35,0

T/viên THT

15 Tỷ trọng trong GDP

%

0,28

0,28

0,31

0,27

0,25

0,29

0,3

0,32

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

54

2.4. Thực trạng phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Đồng

Nai thời gian qua.

2.4.1. Cơ cấu ngành nghề.

Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, các HTX tích cực tham gia chuyển dịch cơ cấu

nông nghiệp, kinh tế nông thôn, mạnh dạn đầu tư mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động

cung cấp dịch vụ phát triển kinh tế hộ thành viên như tiếp nhận ứng dụng tiến bộ khoa học

kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao sản lượng, chất lượng cây trồng, vật nuôi; triển khai thực

hiện các chương trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP), thu mua sản phẩm nông nghiệp,

mua bán cây con giống, thức ăn gia súc, gia cầm; quản lý công trình thủy lợi phục vụ tưới

tiêu, nước sạch nông thôn; thu gom vận chuyển rác thải sinh hoạt; trồng rừng,... góp phần

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và từng bước nâng cao chất lượng cuộc

sống của xã viên và lao động nông thôn. Đến nay, có 84 hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã

hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (tăng 47 hợp tác xã so với đầu năm 2002). Trong đó

có 53 hợp tác xã thuộc loại hình dịch vụ nông nghiệp, 10 hợp tác xã nuôi trồng thủy sản,

12 hợp tác xã trồng rau sạch và cây ăn trái, 07 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực chăn

nuôi và 02 hợp tác xã sinh vật cảnh. Tổng số vốn điều lệ đăng ký trên 344 tỷ đồng với

1.940 thành viên, bình quân 23 người/HTX và 1.472 lao động thường xuyên, bình quân 17

người/HTX.

Bảng 2.4. Cơ cấu các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai.

STT Lĩnh vực hoạt động Số HTX Tỉ lệ % Ghi chú

Dịch vụ nông nghiệp 1 53 63,0

Nuôi trồng thủy sản 2 10 12,0

Trồng rau sạch, cây ăn trái 3 12 14,3

4 Chăn nuôi 7 8,3

5 Sinh vật cảnh 2 2,4

TỔNG CỘNG 84

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

55

Mặc dù đã có những chuyển biến nhất định, nhưng nhìn chung lĩnh vực nông nghiệp

và dịch vụ nông nghiệp hoạt động khó khăn nhất. Do sản xuất còn manh mún, công tác

quy hoạch vùng chuyên canh triển khai chậm, số lượng sản phẩm chưa nhiều, chất lượng

chưa đồng đều, chưa xây dựng được mối liên kết bền vững giữa các HTX với nhau và

giữa HTX với các thành phần kinh tế khác nên đầu ra sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế,

giá trị lao động kết tinh trong sản phẩm chưa cao.

2.4.2. Đóng góp vào GDP và tăng trưởng.

Do đặc thù của tỉnh Đồng Nai là một trong những tỉnh có nguồn thu tương đối dồi

dào, tiềm lực kinh tế từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lớn. Mặc dù đã ban hành nhiều

chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, nhưng nhìn chung đóng góp của

các tổ chức kinh tế tập thể vào tổng giá trị sản phẩm quốc nội của tỉnh rất thấp so với yêu

cầu (trong năm 2013 tỷ lệ đóng góp vào GDP toàn tỉnh của khu vực KTTT chiếm 0,71%,

riêng trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 0,32%). Bởi trên thực tế, kinh tế tập thể và đặc

biệt là hệ thống các HTXNN là tổ chức của tầng lớp dân cư đông đảo nhất của tỉnh nhưng

hiệu quả kinh tế đạt đuợc là không cao, nếu xét về giá trị đóng góp vào giá trị tổng sản

phẩm vào cơ cấu chung của tỉnh là rất thấp nhưng nếu xét về khía cạnh xã hội mà HTXNN

mang lại là rất lớn, thông qua hệ thống HTXNN đã phần nào giải quyết được công ăn việc

làm cho người lao động, góp phần giải quyết an ninh lương thực quốc gia và đặc biệt là ổn

định tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa phương.

2.4.3. Giải quyết việc làm, nâng cao năng suất, hiệu quả, thu nhập.

Thông qua hoạt động của các mô hình KTTT trong nông nghiệp (bao gồm các tổ

hợp tác, HTX...) đã góp phần giải quyết việc làm cho 2.025 lao động thường xuyên và hơn

65 ngàn lao động thời vụ, đặc biệt là lực lượng lao động ở khu vực nông thôn, vùng sâu,

vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số với thu nhập ổn định, góp phần nâng cao chất lượng

cuộc sống của người dân nông thôn, ổn định chính trị, giữ vững an ninh trật tự ở địa

phương; nhất là các HTX hoạt động ổn định. Ngoài ra, hoạt động của hệ thống Quỹ tín

dụng nhân dân với cơ cấu cho vay bình quân trên 53% đầu tư lĩnh vực nông nghiệp, đã tạo

điều kiện cho các hộ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn vay phát triển sản xuất, kinh doanh;

góp phần xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Cụ thể

56

đến cuối năm 2013, thu nhập bình quân của thành viên HTX đạt 30 triệu đồng/năm, tăng

361% so với đầu năm 2002; thu nhập bình quân của thành viên THT đạt 35 triệu đồng/

năm, tăng 233% so với đầu năm 2002. Một số HTXNN hoạt động khá như HTX DVNN

Xuân Phú (Xuân Lộc) doanh thu bình quân hàng năm đạt trên 15 tỷ đồng, thu nhập bình

quân của người lao động đạt 50 triệu đồng/người/năm, HTX DVNN Xuân Thanh (Long

Khánh) doanh thu bình quân hàng năm đạt trên 02 tỷ đồng, thu nhập bình quân của người

lao động đạt 30 triệu đồng/người/năm.... Ngoài việc chăm lo đời sống xã viên và người lao

động, các HTX còn tích cực tham gia phong trào xã hội như: ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa,

quỹ vì người nghèo, xây dựng nhà tình thương với số tiền hàng chục tỷ đồng.

Tuy nhiên hiện nay, quy mô hoạt động của HTXNN còn quá nhỏ, thiếu vốn, thiếu cơ

sở vật chất, nội dung hoạt động còn đơn điệu, trong giấy phép đăng ký kinh doanh đa số

HTX mới chỉ thực hiện được 1 đến 2 ngành nghề, một số HTXNN chưa mở thêm được

dịch vụ phục vụ đời sống cho hộ xã viên và cộng đồng dân cư, chưa khai thác hết được

yêu cầu thực tế của hộ nông dân..., từ đó dẫn đến thu nhập của cán bộ quản lý, xã viên và

người lao động còn quá thấp, không thu hút được sự tham gia của đông đảo người dân.

Bảng 2.5. Thu nhập của người lao động và cán bộ quản lý trong HTXNN.

Số

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm

TT

tính

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1 Lương cán bộ

Tr.đồng 1,03

1,26

8,46

8,49 9,13

13,25 20,07

quản lý HTX

bình quân/

người/ năm

2 Thu nhập bình

Tr.đồng 18

19

21

24

26

30

33

quân lao động

thường xuyên/

năm

3 Thu nhập bình

Tr.đồng 14,0

15,5

17,2

19,1

21,2

24

30

quân xã viên/

năm

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

57

2.4.4. Góp phần xây dựng nông thôn mới.

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tính đến cuối

năm 2013 toàn tỉnh Đồng Nai đã có 18 xã đạt từ 15-19 tiêu chí nông thôn mới; 62 xã đạt

10-12 tiêu chí, 49 xã đạt từ 5-9 tiêu chí và có 7 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Đồng thời có 38 xã

hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới và có 46 xã hoàn thành đề án xây dựng

nông thôn mới. So với mức độ đạt các tiêu chí của các xã, phân theo tỉnh của khu vực phía

Nam, Đồng Nai là tỉnh dẫn đầu về xây dựng nông thôn mới.

Trong đó phát triển KTTT nói chung và phát triển KTTT trong nông nghiệp nói

riêng càng có ý nghĩa to lớn khi đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá

mức độ hoàn thành các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới (tiêu chí số 13 về các hình thức

tổ chức sản xuất, trong đó đánh giá hiệu quả hoạt động của các THT và các HTX). KTTT

là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hóa cao hơn kinh tế cá thể hộ gia đình, là

nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức tập

thể và đoàn kết cộng đồng. Ngoài mục tiêu kinh tế, KTTT còn thực hiện các mục tiêu xã

hội quan trọng. HTX góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương thân

tương ái, xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo,

bảo vệ an ninh trật tự xã hội, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Hiện nay ở Đồng Nai, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển KTTT

trong đó HTXNN làm nòng cốt trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại,

hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển gắn với tiến trình CNH-HĐH nông

nghiệp, nông thôn. Ngoài ra còn giúp được các hộ nghèo, góp phần giải quyết việc làm,

góp phần ngăn chặn nạn sang bán đất, hạn chế được nông dân bần cùng hóa, góp phần đẩy

mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn, tăng cường đoàn kết cộng đồng tình làng nghĩa xóm, xây

dựng nông thôn mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thời gian qua, Tỉnh đã quan tâm xây

dựng, phát triển và nhân rộng các mô hình liên kết giữa hộ nông dân với các thành phần

kinh tế ở nông thôn, các doanh nghiệp, tổ chức khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng

và thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn, từng bước

khai thác, huy động được các nguồn lực to lớn trong nhân dân và xã hội, góp phần giải

quyết lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Đặc biệt, xây dựng tiêu chí đánh giá THT, HTX có

58

hiệu quả, góp phần quan trọng trong phát triển nông nghiệp và nâng cao các tiêu chí phục

vụ chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới trên địa bàn.

2.4.5. Những chính sách hỗ trợ của tỉnh Đồng Nai cho phát triển KTTT

trong nông nghiệp.

- Về hỗ trợ, khuyến khích thành lập hợp tác xã:

Thực hiện Quyết định số 34/2012/QĐ-UBND ngày 07/6/2012 của UBND tỉnh, các

HTX thành lập sau ngày 30/6/2012 (thời điểm Quyết định có hiệu lực), đã hướng dẫn thủ

tục để nhận hỗ trợ kinh phí thành lập mới. Đến nay đã hỗ trợ cho 15 HTX với kinh phí hỗ

trợ trên 390 triệu đồng và đang hướng dẫn hoàn chỉnh thủ tục cho 39 HTX.

- Về hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực:

Công tác đào tạo cán bộ luôn được tỉnh triển khai thực hiện tốt, ngân sách địa

phương hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo cán bộ quản lý và kế toán cho HTX. Tỉnh đã mở

nhiều lớp tập huấn và bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ KTTT, đã làm chuyển biến

một bước chất lượng cán bộ quản lý HTX. Đây là một trong những tiền đề quan trọng tạo

nên những chuyển biến cả về nhận thức cũng như chất lượng hoạt động của KTTT.

Đến nay đã tổ chức 202 lớp đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý HTX, quỹ tín dụng

nhân dân cho các đối tượng là Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc, Kế toán trưởng,

Trưởng ban kiểm soát các quỹ tín dụng nhân dân; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và thành

viên Ban quản trị, Ban kiểm soát của các HTX với trên 4.200 lượt học viên tham gia; lớp

đào tạo nghề cho trên 6.500 người là thành viên và người lao động; lớp tập huấn về luật

hợp tác xã cho cán bộ các phòng nông nghiệp, kinh tế và một số tổ chức đoàn thể của các

huyện; tổ chức nhiều buổi giảng bài, giới thiệu về HTX cho cán bộ xã, phường, thị trấn.

Kết quả, đến nay có 38,8% cán bộ quản lý HTX đạt trình độ trung cấp và 22,2% cán bộ

quản lý HTX đạt trình độ đại học trở lên. Sau khi đào tạo, tập huấn, cơ bản đã góp phần

nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ hợp tác xã; từ đó giúp các hợp tác xã chủ

động xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh và hoạt động hiệu quả hơn; việc

theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiệp vụ kế toán cũng ngày càng chặt chẽ hơn.

- Hỗ trợ về đất đai: Đến nay có 120 HTX, Liên hiệp HTX có văn phòng làm

việc ổn định với diện tích 26.564 m2 (diện tích bình quân văn phòng HTX 221 m2),

59

chiếm 47% trên tổng số HTX, tăng 324% so với cuối năm 2001. Trong đó 13

HTXNN được cấp và cho thuê 7.300 m2 đất làm văn phòng và 27 HTXNN được

chính quyền địa phương tạo điều kiện cho mượn cơ sở làm trụ sở làm việc. Một số

địa phương đã tích cực thực hiện công tác hỗ trợ đất xây dựng văn phòng cho HTX,

điển hình như: huyện Xuân Lộc, Trảng Bom, Tân Phú, Cẩm Mỹ, Nhơn Trạch,....

Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, nhiều HTX sau thời gian hoạt động hiệu quả đã

tự mua đất để xây dựng văn phòng làm việc.

Riêng về đất sản xuất, đến nay toàn tỉnh đã có 63 HTX, Liên hiệp HTX được

các địa phương cho mượn đất, thuê đất sản xuất với diện tích 574 ha, tăng 450% so

với cuối năm 2001. Trong đó có 07 HTXNN được cho thuê 14,75 ha đất để tổ chức

sản xuất kinh doanh, 05 HTXNN hoạt động trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản được

các địa phương hỗ trợ bằng hình thức giao quản lý khai thác mặt hồ với diện tích

767,3 ha. Một số địa phương điển hình trong công tác giao đất sản xuất cho HTX

như huyện Xuân Lộc, Tân Phú, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu và

thành phố Biên Hòa. Tuy nhiên, qua thống kê, đến nay toàn tỉnh vẫn còn nhiều

HTX (tập trung ở các huyện: Trảng Bom, Thống Nhất, Long Thành, Vĩnh Cửu và

thành phố Biên Hòa) có nhu cầu hỗ trợ về đất xây dựng văn phòng làm việc và đất

sản xuất kinh doanh, nhưng chưa được hỗ trợ.

- Hỗ trợ về tài chính - tín dụng:

Tỉnh thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có

HTX; thành lập quỹ trợ vốn phát triển cho HTX; triển khai thực hiện Quyết định số

80/TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa

thông qua hợp đồng.... Hệ thống Ngân hàng Đồng Nai đã tích cực triển khai kịp thời các

chủ trương, chính sách của Nhà nước để bổ sung hoàn thiện hoạt động của Quỹ tín dụng

như: triển khai Nghị định số 177/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số điều Luật

HTX; triển khai Nghị định số 202/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.

60

Trong giai đoạn 2002 – 2013, các tổ chức tín dụng và hệ thống ngân hàng thương

mại đã cho các HTX vay vốn với tổng số tiền 261.310 triệu đồng để phát triển sản xuất

kinh doanh, tăng 580% so với cuối năm 2001. Trong đó:

* Quỹ trợ vốn phát triển hợp tác xã: Được thành lập năm 2008 với số vốn được

UBND tỉnh giao là 30 tỷ đồng; đến 30/11/2013, tổng doanh số cho vay của Quỹ đạt

111.211 tỷ đồng; trong đó đã giải ngân cho 172 lượt hợp tác xã vay 71,87 tỷ đồng và 2.450

lượt xã viên với tổng cho vay 39,341 tỷ đồng. Hoạt động của Quỹ trợ vốn hợp tác xã đã

giúp các hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động và đến nay chưa xảy ra tình trạng nợ xấu.

* Hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác: Các ngân hàng

thương mại và các tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn như ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội, Quỹ bảo vệ môi trường, Quỹ đầu tư

phát triển tỉnh, Quỹ hỗ trợ người dân của Trung ương Hội nông dân Việt Nam,... đã cho

vay đối với các hợp tác xã, tổ hợp tác và xã viên trên 135 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi

(từ 8% đến 10%/năm); trong đó cơ cấu vốn vay chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực

nông nghiệp.

- Hỗ trợ xúc tiến thương mại:

Thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại hàng năm của tỉnh, các sở, ngành liên quan

đã lập kế hoạch và hướng dẫn cho HTX tham gia hội chợ triển lãm trong nước từ Quỹ xúc

tiến thương mại của tỉnh và Trung ương. Đồng thời tổ chức hỗ trợ các HTX kết nối các

doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn mở rộng liên kết, liên doanh với các HTX trong việc

cung ứng vật tư cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Kết quả, đã hỗ trợ cho 81 lượt HTX tham gia hội chợ triển lãm; qua đó, giúp các

HTX quảng bá thương hiệu, sản phẩm của mình đến người tiêu dùng; trong đó tập trung ở

các HTX hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nông

nghiệp. Đến nay có nhiều HTX mở rộng được thị trường cho các sản phẩm như: bưởi Tân

Triều, chôm chôm, xoài.... Ngoài ra, một số HTX đã tổ chức liên doanh, liên kết, cung cấp

hàng hóa cho các doanh nghiệp, hệ thống siêu thị như HTXDVNN Xuân Thanh, thị xã

Long Khánh, HTX rau an toàn Trường An, huyện Xuân Lộc,... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều

61

HTX hoạt động trong lĩnh vực sản phẩm nông nghiệp đang mong đợi các cấp, các ngành

hộ trợ kết nối, giới thiệu để tiêu thụ sản phẩm của mình.

- Hỗ trợ ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, khuyến nông, khuyến

ngư:

Trong những năm qua, tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành chuyên môn hỗ trợ cho 13

lượt HTX xây dựng Website, 35 lượt HTX xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, 08 HTX xây

dựng tiêu chuẩn GAP, 03 HTX xây dựng kiểu dáng công nghiệp và 02 HTX sáng chế.

Ngoài ra, đã chuyển giao khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản, cây con, giống; hỗ

trợ xây dựng đề án sản xuất thử sản phẩm mới (nấm mèo); đề án xây dựng và phát triển

hợp tác xã trang trại trên địa bàn tỉnh,....

- Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng thành

viên và tham gia các chương trình kinh tế - xã hội:

Đây là chương trình quan trọng đặc biệt mà hàng năm tỉnh tập trung ngân sách đầu

tư khá lớn và chuyển giao cho HTX quản lý, khai thác như: giao thông nông thôn, điện,

nước, trường học, trạm y tế, chợ, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, thủy lợi kênh

mương nội đồng,... Kết quả, trong 10 năm qua tỉnh đã chuyển 25 chợ, 10 công trình nước

sạch nông thôn, 3 mặt nước hồ thủy lợi, 4 công trình dịch vụ vệ sinh môi trường và 2 công

trình cây xanh nội ô cho HTX quản lý, khai thác và đầu tư. Sau khi nhận chuyển giao, các

HTX đã tổ chức quản lý chặt chẽ hơn, do đó nâng cao hiệu quả khai thác các công trình đã

nhận chuyển giao.

- Về thông tin:

Hàng năm Sở Công thương phối hợp với Liên minh HTX và các sở, ban, ngành và

các đơn vị liên quan tổ chức gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn;

qua đó thông tin các nhu cầu của các doanh nghiệp để các HTX tìm hiểu xây dựng mối

liên kết cung ứng sản phẩm. Ngoài ra, hàng tháng Liên minh HTX tỉnh xuất bản Thông tin

doanh nghiệp, đặc san Thông tin doanh nghiệp hàng năm với các nội dung như: chính sách

pháp luật, thị trường, khoa học công nghệ, các thông tin về thực hiện luật doanh nghiệp,

những doanh nghiệp, doanh nhân điển hình, những thành tựu đạt được của khu vực kinh tế

tập thể và dân doanh trong năm trên địa bàn tỉnh…. Qua đó, giúp đỡ các HTX và doanh

62

nghiệp ngoài quốc doanh có điều kiện để tìm hiểu, đặt quan hệ hợp tác kinh tế với nhau;

giới thiệu những mô hình tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả của các

HTX và doanh nghiệp.

- Hỗ trợ tư vấn hợp tác xã:

Hướng dẫn, cung cấp dịch vụ liên quan đến tài chính, kế toán như dịch vụ liên quan

đến thuế và pháp luật, dịch vụ kế toán và kiểm toán; dịch vụ liên quan đến pháp luật như

hướng dẫn giải đáp pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật; khiếu nại khiếu

tố; đại diện ủy quyền trong tranh chấp về tài sản... Đồng thời, tư vấn, hỗ trợ xây dựng lập

dự án phát triển sản xuất kinh doanh; thiết kế, lập dự án đầu tư xây dựng cơ bản; thủ tục

giao đất, thuê đất làm văn phòng và đất cho sản xuất kinh doanh.

Nhìn chung, việc thực hiện tốt cơ chế, chính sách đã có tác động tích cực đến hoạt

động của loại hình KTTT nói chung và các mô hình KTTT trong nông nghiệp nói riêng; số

lượng HTX không ngừng tăng lên, quy mô HTX ngày càng lớn, lĩnh vực hoạt động của

HTX ngày càng rộng, hiệu quả ngày càng cao và đã đáp ứng nhu cầu của các thành viên

HTX. Khu vực KTTT từng bước khẳng định vai trò, vị trí của mình trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH – HĐH. Tuy nhiên, bước cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ của Trung ương và tỉnh

còn chậm, ngân sách hỗ trợ chưa nhiều, việc triển khai thực hiện ở các địa phương cấp

huyện còn nhiều bất cập, có một số chính sách giao cấp huyện hỗ trợ chậm hoặc chưa

được triển khai, nhất là chính sách về đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng....

2.4.6. Vai trò lãnh đạo của các Cấp ủy đảng, Mặt trận tổ quốc và các tổ

chức đoàn thể cho phát triển KTTT trong nông nghiệp.

Thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy, các cấp ủy, các ngành, Mặt trận tổ

quốc và các tổ chức đoàn thể đã xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện ở cấp mình. Song

song với việc lập kế hoạch, chương trình thực hiện ở cấp mình, ngành mình, các cấp ủy,

Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã tập trung công tác tuyên truyền, nhằm làm

chuyển biến nhận thức về tính tất yếu khách quan, sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể, sự

khác nhau về mô hình HTX kiểu cũ và mô hình HTX kiểu mới cho cán bộ chủ chốt, đặc

biệt là ở cấp xã. Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn thể đã tích cực tuyên truyền, vận động

63

đoàn viên, hội viên tham gia thành lập THT và HTX. Ngoài công tác tuyên truyền vận

động cán bộ, hội viên nông dân tham gia các tổ chức KTTT, các cấp Hội còn ưu tiên

nguồn vốn do Hội quản lý cho các tổ chức KTTT vay vốn hoạt động; đây cũng là một

trong những chỉ tiêu thi đua quan trọng hàng năm của các cấp Hội. Đồng thời, phối hợp

với chính quyền địa phương thành lập 156 tổ vay vốn và triển khai chương trình hỗ trợ

đoàn viên thanh niên thành lập HTX; chương trình “phát huy vai trò của thanh niên trong

việc xây dựng và phát triển HTX giai đoạn 2005-2010”.... Ngoài ra, để tăng cường lãnh

đạo chỉ đạo của Đảng trong khu vực KTTT, trong thời gian qua, các cấp ủy đảng đã phát

triển 09 tổ chức cơ sở đảng với 81 đảng viên trong khu vực KTTT; xây dựng 42 tổ chức

công đoàn cơ sở với số lượng 322 đoàn viên, 03 tổ chức Hội Cựu chiến binh, 05 tổ chức

Đoàn Thanh niên và 01 tổ chức Hội phụ nữ.

2.4.7. Vai trò của Liên minh HTX tỉnh.

Ngoài nhiệm vụ hỗ trợ, cung cấp dịch vụ cho các tổ chức KTTT, thực hiện các

nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các tổ chức KTTT theo chức năng, nhiệm vụ được

giao; Liên minh HTX tỉnh còn thực hiện công tác tuyên truyền, tập huấn, đào tạo cán bộ

cho KTTT. Kết quả trong giai đoạn 2002 – 2013, đã tổ chức 145 đợt tuyên truyền cho hơn

12.000 lượt học viên tham dự. Tổ chức biên soạn các chủ trương của Đảng, chính sách của

Nhà nước về xây dựng KTTT thành bộ tài liệu và bộ câu hỏi vấn đáp phục vụ công tác

tuyên truyền. Đồng thời, tư vấn cho HTX xây dựng đề án, điều lệ, lập dự án mở rộng sản

xuất - kinh doanh; liên doanh, liên kết, cho HTX vay vốn ưu đãi từ quy hỗ trợ phát triển

hợp tác xã, hỗ trợ xây dựng thương hiệu; đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá; hỗ trợ thủ

tục xin giao đất, thuê đất, hoặc đề xuất lên cấp trên kịp thời tháo gỡ khó khăn cho khu vực

kinh tế tập thể.... Tuy nhiên đến nay hoạt động quản lý của Liên minh HTX tỉnh vẫn gặp

một số khó khăn nhất định, nhất là đối với các HTXNN được thành lập mang nặng hình

thức, chủ quan của địa phương để lấy số lượng, chạy theo chỉ tiêu được cấp trên phân

công. Kết quả hoạt động còn rời rạc, nguồn vốn góp bằng tiền không nhiều mà thường là

vốn tự quản của gia đình xã viên gồm đất đai, tài sản trên đất và nguồn vốn này không thể

mang ra thế chấp để tăng quy mô hoạt động của HTX; một số HTXNN không khai báo

thuế và làm nghĩa vụ thuế theo quy định....

64

Bảng 2.6. Tỷ lệ so sánh kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển

kinh tế tập thể 10 năm so với giai đoạn trước đó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Thời gian

CHỈ TIÊU

ĐVT

Số TT

Tỷ lệ (%)

Đến năm 2001

Từ đầu năm 2002 đến năm 2013

Trong đó: được Nhà nước hỗ trợ

Trong đó: được Nhà nước hỗ trợ

HTX HTX HTX HTX HTX Tr.đồng Tr.đồng Tr.đồng

37 12 14 3 9 45.000 - -

120 39 63 22 69 261.031 126.031 135.000

324 325 450 733 767 580 - -

I Đất 1 Đất văn phòng 2 Đất sản xuất II Tài chính – Tín dụng

- Vay vốn - Số vốn vay - Phân chia nguồn vốn vay + Quỹ trợ vốn liên minh + Các tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại khác

III Khoa học – công nghệ

Lượt HTX Lượt HTX

Lượt HTX

- - - -

13 35 8 3

- - - -

- Hỗ trợ xây dựng Website - Hỗ trợ xây dựng thương hiệu - Hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn GAP HTX - Hỗ trợ xây dựng kiểu dáng công nghệ - Hỗ trợ xây dựng sáng chế

Lượt HTX HTX HTX

- 7 2

2 94 81

- 1.343 4.050

IV Xúc tiến thương mại - Hỗ trợ thông tin - Tham gia hội chợ triển lãm V Chuyển giao các công trình công

HTX HTX

- -

25 10

- -

trợ - Nhận chuyển giao chợ - Nhận chuyển giao công trình nước - Nhận quản lý khai thác hồ, đập - Diện tích hồ, đập - Dịch vụ vệ sinh môi trường - Công trình cây xanh nội ô

VI Tổ chức cơ sở đảng

- Có tổ chức cơ sở đảng - Số lượng đảng viên

HTX ha C.trình C.trình HTX đảng viên HTX HTX HTX HTX

1 150 - - - - - - - -

4 463 14 2 9 81 3 42 5 1

400 309 - - - - - - - -

VII Các tổ chức đoàn thể CTrị-XHội - Có tổ chức Cựu chiến binh - Có tổ chức công đoàn - Có tổ chức Đoàn thanh niên - Có tổ chức Hội phụ nữ (Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

65

2.5. Kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân.

2.5.1. Kết quả đạt được.

Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn do cơ chế, nhận thức cũng như những thách thức

trước sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhưng thời gian qua việc phát

triển KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả sau:

- Thứ nhất, các HTXNN ở Đồng Nai trong hoạt động bước đầu đã thể hiện được các

nguyên tắc cơ bản theo Luật HTX; đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của các thành viên

về giải quyết việc làm, tạo thu nhập cũng như có những hỗ trợ nhất định đối với các thành

viên trong việc phát triển kinh tế.

- Thứ hai, khu vực KTTT trong nông nghiệp ở Đồng Nai đã tăng lên đáng kể về mặt

lượng, đồng thời có những chuyển biến tích cực trên các mặt: số lượng và thành phần

thành viên tham gia, vốn góp, lĩnh vực hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh, tạo việc

làm, tăng thu nhập cho người lao động; góp phần làm tăng tỷ trọng của khu vực KTTT

trong tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh.

- Thứ ba, KTTT trong nông nghiệp đã có những đóng góp tích cực nhất định vào

phát triển kinh tế, phát triển ngành nghề nông thôn, đáp ứng nhu cầu của người lao động và

kinh tế hộ, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, thúc đẩy chuyển giao tiến bộ

khoa học kỹ thuật công nghệ trong nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Đặc biệt là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn và cải thiện đời sống

nông dân, tạo những chuyển biến mới, tích cực, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

- Thứ tư, KTTT trong nông nghiệp góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề

văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, góp phần tích

cực trong việc quản lý các vấn đề xã hội ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

- Thứ năm, phát triển KTTT trong nông nghiệp góp phần củng cố chính quyền cơ sở

và góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh.

Những kết quả trên, tuy chưa nhiều và mới chỉ là bước đầu nhưng đã khẳng định

được vị trí, vai trò và xu hướng tất yếu của KTTT trong nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế

66

nhiều thành phần cũng như trong quá trình phát triển của tỉnh, đặc biệt là khu vực nông

nghiệp, nông thôn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Những thành tựu nói trên của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản sau:

- Một là, nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế của nông dân, nông hộ ngày càng thiết

thực hơn.

- Hai là, có những tác động tích cực từ sự mở rộng hợp tác phát triển kinh tế - xã hội

giữa nước ta và các nước khác trên thế giới.

- Ba là, những tác động tích cực từ phía Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng, chính

quyền và đoàn thể trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

- Bốn là, Những tác động tích cực từ chính thực tế hoạt động của khu vực KTTT trên

địa bàn tỉnh.

2.5.2. Những hạn chế.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển KTTT trong nông nghiệp thời gian

qua bộc lộ một số hạn chế, khó khăn nhất định:

- Thứ nhất, hầu hết các mô hình KTTT trong nông nghiệp, đặc biệt là các HTXNN

đều thiếu vốn, thiếu tài sản và cơ sở vật chất kỹ thuật để triển khai các hoạt động sản xuất

kinh doanh. Số lượng HTXNN tăng không đáng kể so với các loại hình HTX khác, số

HTX thành lập mới tương đương số HTX giải thể trong năm, dẫn đến tỷ lệ HTXNN trên

địa bàn tỉnh ngày càng thấp.

+ Thứ hai, quy mô của HTXNN nhỏ; hoạt động còn đơn điệu, chưa phong phú đa

dạng; trình độ, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ yếu, đa số các HTXNN thiếu đội ngũ

cán bộ có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển HTX trong cơ chế thị trường.

+ Thứ ba, chất lượng, hiệu quả hoạt động của KTTT trong nông nghiệp ở Đồng Nai

còn thấp; nhiều HTX, THT hoạt động mang nặng tính gia đình, chưa bảo đảm các nguyên

tắc của Luật HTX, quản lý thu - chi lỏng lẻo, không đáp ứng nhu cầu sản xuất và bảo đảm

quyền lợi của xã viên; chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ mà HTX cung ứng cho xã

viên, kinh tế xã viên chưa cao; vai trò của HTX đối với xã viên còn hạn chế; quan hệ hợp

67

tác xã - xã viên thiếu gắn kết chặt chẽ, vẫn còn tồn tại khá phổ biến tình trạng xã viên danh

nghĩa; số lượng HTXNN xếp loại khá còn khá thấp so với yêu cầu.

Bảng 2.7. Tình hình phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ

năm 2006 – 2013.

Số

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm

TT

tính

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

1 Tổng số HTX

HTX

153

176

199

205

212

232

244

261

2 Số HTXNN

HTX

64

66

71

70

72

72

80

84

3 Tỷ lệ HTXNN/

%

41,83 37,50 35,68 34,15 33,96 31,03 32,78 32,18

tổng số

4 Số HTXNN

HTX

2

4

11

4

9

8

10

5

thành lập mới

5 Số HTXNN giải

HTX

3

2

6

5

7

8

2

1

thể

6 Xếp loại HTXNN

Khá

HTX

10

11

11

14

17

22

30

32

Trung bình

HTX

20

21

19

23

23

21

25

35

Yếu kém

HTX

15

10

16

15

13

11

9

8

Ngưng hoạt động HTX

23

18

16

8

10

5

4

2

Chưa xếp loại

4

6

9

10

9

13

12

7

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

+ Thứ tư, tốc độ tăng trưởng của KTTT trong nông nghiệp chậm, thiếu ổn định…

nên đóng góp của nó trong GDP và giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn trên địa bàn

tỉnh còn thấp, chưa có sức hấp dẫn cao đối với nông dân.

+ Thứ năm, còn có những HTX vi phạm các nguyên tắc HTX, vi phạm các quy

định của Luật HTX và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác, thậm chí có những

HTX là sự trá hình của kinh tế tư nhân nhằm hưởng những ưu đãi mà Nhà nước dành cho

HTX; và có một số ít HTX đã có hiện tượng tổ chức hoạt động theo hình thức công ty, vì

mục đích là chạy theo cổ tức mà xem nhẹ nhiệm vụ hỗ trợ kinh tế hộ xã viên, chưa coi

trọng thu hút xã viên và giải quyết lao động cho xã hội.

68

+ Thứ sáu, nhiều THT, CLBNSC hoạt động còn tự phát, mang tính hình thức; chưa

đăng ký hoạt động với chính quyền địa phương nên gặp nhiều khó khăn trong giao dịch

kinh tế và giải quyết vấn đề tranh chấp trong nội bộ THT và giữa THT với các thành phần

kinh tế khác…, do đó hoạt động của THT chưa thực sự trở thành bước đệm để phát triển

thành HTX. Mặt khác về phía Nhà nước chưa có quy định cụ thể về THT; chưa có văn bản

dưới luật hướng dẫn thực hiện các điều khoản quy định về THT…, vì vậy hoạt động THT

chủ yếu là sự vận dụng và tinh thần trách nhiệm của chính quyền cơ sở.

Biểu 2.1. Phân loại HTXNN của tỉnh Đồng Nai năm 2013.

(Nguồn: Báo cáo của Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai)

Những hạn chế nói trên cho thấy, KTTT trong nông nghiệp ở Đồng Nai trong những

năm qua chủ yếu mới tăng về số lượng mà ít chuyển biến, thay đổi về chất lượng; những

mô hình HTX làm ăn có hiệu quả còn quá ít, đa số các HTX hoạt động còn yếu kém nhiều

mặt: mang nặng tính hình thức, nhỏ bé vế quy mô (vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận),

thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, không có tài sản thế chấp vay ngân hàng, công nghệ

lạc hậu, yếu kém về trình độ quản lý; nội dung hoạt động đơn điệu, chưa thiết thực;

phương thức kinh doanh giản đơn, chậm đổi mới theo đòi hỏi của thị trường, không đáp

ứng được yêu cầu dịch vụ của kinh tế hộ xã viên, sản phẩm làm ra ít có khả năng cạnh

tranh nên tiêu thụ khó khăn, hiệu quả kinh tế thấp, ít có khả năng tích lũy để tái đầu tư phát

triển; chưa xây dựng được phương án kinh doanh khả thi nên khó thu hút và huy động vốn

từ xã viên; chưa trở thành chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho xã viên nên xã viên cũng chưa

69

gắn bó với HTX; chưa có thị trường đầu ra sản phẩm ổn định… do đó, chưa đủ sức cạnh

tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Những hạn chế, yếu kém trên của kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở Đồng Nai do

nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:

- Một là, sự bất cập trong nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý nhà

nước, cán bộ quản lý điều hành KTTT và người dân về Luật HTX; về bản chất và vai trò

của KTTT nói chung và KTTT trong nông nghiệp nói riêng.

- Hai là, do công tác tuyên truyền, công tác vận động cùng với sự quan tâm, lãnh đạo,

chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp chưa đầy đủ, chưa thường xuyên, sâu

rộng; hình thức tổ chức và biện pháp thực hiện chưa hiệu quả, nên chưa đủ sức để làm

chuyển biến nhận thức và hành động trong đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân.

- Ba là, điều lệ HTX là văn bản pháp lý nội bộ rất quan trọng mà từng xã viên phải

được thảo luận, tham gia ý kiến và được phổ biến rộng rãi đến xã viên để thực hiện, nhưng

rất ít HTX tổ chức để xã viên đóng góp. Một số xã viên, do nhận thức chưa đầy đủ về Luật

HTX nên khi tham gia HTX không chịu đóng góp hoặc góp không đủ vốn tối thiểu; còn

coi việc quản lý, điều hành HTX là nhiệm vụ của Ban quản trị, từ đó chưa thể hiện tính tự

nguyện, chưa nhận thức được yêu cầu và nguyên tắc của mô hình HTX mới; chưa thấy

được lợi ích và trách nhiệm của mình khi tham gia HTX.

- Bốn là, năng lực và trình độ quản lý của một số Ban quản trị HTX còn hạn chế,

chất lượng hoạt động chưa cao; còn lúng túng trong xây dựng phương án hoạt động mang

định hướng lâu dài; hoạt động còn đơn điệu, chủ yếu cung cấp dịch vụ đầu vào cho xã

viên, các hoạt động đầu ra như thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa thực hiện tốt.

- Năm là, một số cán bộ chưa nhiệt tình, tâm huyết làm ảnh hưởng đến sự phát triển

KTTT; đặc biệt, thiếu cán bộ trẻ có năng lực, trình độ tham gia quản lý HTX.

- Sáu là, Sự phối hợp trong thực hiện chủ trương, chính sách về phát triển KTTT

chưa đồng bộ, nhiều chính sách hỗ trợ chậm thực hiện hoặc thực hiện chưa hiệu quả.

70

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH PHÁT

TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2025

3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

3.1.1. Phương hướng.

Trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, giai đoạn mà Đồng Nai cùng cả nước tập

trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội để thực hiện mục tiêu của Đảng là đưa nước ta cơ

bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020; đến năm 2050, phấn đấu trở thành

nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN. Trong đó, phát triển KTTT trong

nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để góp phần thúc đẩy phát

triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng

nông thôn mới mà Đảng ta đã xác định rõ trong các Văn kiện Đại hội Đảng gần đây. Do

đó, cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau:

- Thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập môi trường đầu tư

kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng; tháo gỡ các khó khăn thúc đẩy

đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao

động theo hướng CNH, HĐH; khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành

phần kinh tế phát triển, trong đó đặc biệt quan tâm đối với phát triển KTTT trong nông

nghiệp, nhất là các HTXNN, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển sản xuất, tạo thêm

việc làm, cải thiện đời sống người lao động.

- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của BCH TW Đảng

(Khóa IX), Chương trình hành động số 24- CTr/TU ngày 16/6/2002 của Tỉnh ủy Đồng Nai

về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

- Tập trung củng cố các THT và HTXNN hiện có trên cơ sở khuyến khích và tạo

điều kiện để mở rộng sản xuất – kinh doanh dịch vụ tổng hợp, đa ngành hướng vào mục

tiêu hỗ trợ kinh tế hộ xã viên, chú trọng tìm đầu ra cho sản phẩm của xã viên và nông dân,

71

khai thác mọi nguồn lực để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động

của các mô hình KTTT trong nông nghiệp.

- Phải xác định đúng phương châm phát triển KTTT trong nông nghiệp là xuất phát

từ nhu cầu thực tế, đi từ thấp đến cao; phát triển hiệu quả, vững chắc, tránh chủ quan, duy ý

chí, nóng vội, gò ép, chạy theo số lượng. Kiên quyết không phát triển theo số lượng và

phong trào mà gắn chặt với nhu cầu hợp tác hóa của cư dân địa phương, gắn chặt sản xuất

và kinh doanh theo hướng kinh tế thị trường, khai thác có hiệu quả các điển hình tiên tiến.

Xây dựng các HTXNN mới ở những nơi có đủ điều kiện chín muồi, các xã nông thôn mới,

quan tâm tới những THT, CLBNSC, các trang trại..., cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ, quy

định mốc thời gian, thời điểm hỗ trợ thích hợp để vận động thành lập mới HTXNN.

3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn

tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

- Phát huy tốt những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, nhanh chóng khắc phục

những tồn tại, hạn chế nhằm thực hiện có hiệu quả, đúng định hướng đối với việc phát

triển kinh tế trong nông nghiệp; tập trung xây dựng và phát triển mô hình kinh tế HTXNN

ngày càng vững mạnh; đưa KTTT của Đồng Nai thật sự cùng kinh tế Nhà nước dần trở

thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Kiên quyết giải thể các HTXNN ngưng hoạt

động, hoạt động không hiệu quả, phấn đấu đến năm 2020 nâng tổng số HTXNN hoạt động

khá lên 50%, số HTXNN trung bình 50%,; đến năm 2025 nâng tổng số HTXNN hoạt

động khá lên 70%, số HTXNN trung bình 30%, không còn HTXNN yếu kém.

- Tiếp tục quán triệt tư tưởng và nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và tính tất yếu

khách quan của thành phần KTTT, đặc biệt là KTTT trong nông nghiệp trong quá trình

đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, vấn

đề cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt trong từng hoạt động sản xuất, kinh doanh, cho

nên từng hộ sản xuất, kinh doanh cá thể không thể hoạt động riêng lẻ mà phải liên kết với

nhau. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển KTTT phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình

đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ; phải kiên trì vận động đi đôi với xây dựng và nhân

rộng điển hình tiên tiến; phải giúp đỡ, hỗ trợ và tạo điều kiện để cho mọi người dân thấy rõ

tính ưu việt của KTTT để vận động họ tham gia. KTTT lấy lợi ích kinh tế làm chính

72

nhưng phải coi trọng lợi ích xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng

cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Việc đánh giá hiệu quả KTTT phải trên quan

điểm toàn diện, cả về kinh tế, chính trị và xã hộị, cả về hiệu quả của tập thể và của xã viên.

- Tập trung phát triển KTTT trong nông nghiệp gắn với tiến trình CNH-HĐH nông

nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới; hình thành các vùng sản xuất tập trung; gắn

sản xuất với chế biến; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao giá trị sản

phẩm hàng hóa; tập trung hỗ trợ để kinh tế tập thể trong nông nghiệp không ngừng phát

triển và hoạt động có chất lượng, hiệu quả cao. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, đào tạo

chuyên môn cho cán bộ quán lý trong các HTXNN.

- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa các THT, CLBNSC và HTXNN với các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Khuyến khích hình thức liên doanh, liên kết giữa các

HTXNN với nhau và giữa HTXNN với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế

trong sản xuất, kinh doanh, nhưng trước hết tập trung vào khâu chế biến và tiêu thụ sản

phẩm. Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ

đông của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản để ngày càng mở rộng lĩnh vực

sản xuất, kinh doanh và các ngành nghề trong nông nghiệp.

- Khi các THT hội đủ điều kiện thì vận động thành lập HTXNN; khi các HTXNN

phát triển ở trình độ cao, quy mô lớn, hoạt động hiệu quả thì vận động thành lập các doanh

nghiệp trực thuộc HTXNN hoặc Liên hiệp HTX trong nông nghiệp, hoặc tham gia thành

lập doanh nghiệp, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác liên quan trực tiếp đến sản xuất

của xã viên. Trên cơ sở đó vận động thành lập mới, nâng số HTXNN đến năm 2020 lên

khoảng 140 – 150 HTX; phấn đấu đến năm 2025, tăng số lượng HTXNN lên khoảng 200

– 220 HTX (tăng bình quân 8 – 10 HTXNN/năm). Thành lập mới Quỹ tín dụng nhân dân

ở nơi có nhu cầu và đủ điều kiện, đặc biệt là ở những địa bàn huyện chưa thành lập.

- Quan tâm xây dựng mô hình điểm, cụ thể là chọn một số THT, CLBNSC, và

HTXNN hoạt động có hiệu quả để xây dựng điển hình tiên tiến trên địa bàn, từ đó tổ chức

học tập, tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến để đẩy mạnh phát triển KTTT trong

nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng được 13-15 HTXNN điển hình, đến năm

2025 xây dựng được 20-25 HTXNN điển hình tiên tiến.

73

3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể

trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025.

3.2.1. Đẩy mạnh công tác vận động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về

phát triển kinh tế tập thể cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh để mọi

người dân hiểu rõ, tự nguyện tham gia.

Trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới cơ chế quản lý, vai trò tự chủ trong sản xuất

kinh doanh của người nông dân ngày càng phát huy, đây là một trong những nhân tố quan

trọng đem lại sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp. Từ khi được giao

quyền sử dụng đất lâu dài, người nông dân đã mạnh dạn mua sắm nông cụ máy móc, đầu

tư thâm canh, chủ động áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ chế cây

trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, nhu cầu xã hội để đem lại hiệu quả cao hơn.

Tuy nhiên trong quá trình phát triển sản xuất, người nông dân thấy rằng việc sản xuất riêng

lẻ có những khó khăn nhất định nên đã tự phát hình thành những hình thức hợp tác đa dạng

trong nông thôn như THT, CLBNSC, tổ nông dân liên kết v.v.... Từ đó cho thấy nếu được

hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ thì những hình thức hợp tác đã có cũng có thể dần dần

phát triển thành những HTX trong nông thôn một cách khách quan. Do vậy cần nắm bắt

thực tế sản xuất, các ngành nghề, các nhu cầu dịch vụ thiết thực trong khu vực nông thôn

để có định hướng trong công tác tuyên truyền, xây dựng điển hình, khuyến khích phát triển

những HTX kiểu mới phù hợp với bước đi và thực trạng hiện có. Cụ thể:

- Tiếp tục xây dựng kế hoạch, chuyên mục tuyên truyền sâu rộng, thiết thực và hiệu

quả về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc phát triển KTTT trên địa bàn tỉnh. Công tác

thông tin, tuyên truyền cần được thực hiện thường xuyên và có sự tham gia của nhiều cơ

quan, nhất là các cơ quan thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình…). Trong

đó tổ chức tuyên truyền về Luật HTX, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT và HTX đến các cấp, các ngành,

các tổ chức kinh tế, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong tỉnh để nâng cao nhận

thức về phát triển KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn. Điều quan trọng là xoá đi những

tư tưởng, nhận thức không đúng của một bộ phận lớn cán bộ và nhân dân về KTTT và

HTX, xác định rõ tầm quan trọng của KTTT trong nền kinh tế của đất nước. Phấn đấu đến

74

năm 2020, toàn bộ cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã, phường, thị trấn và nông dân trên địa

bàn tỉnh đều quán triệt chủ trương, chính sách về KTTT của Đảng và Nhà nước.

Tăng cường tuyên truyền, vận động chỉ đạo điểm, hỗ trợ nông dân phát triển

HTXNN, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc phương châm hợp tác của Đảng, đúng Luật

HTX. Tạo điều kiện cho ban quản trị các HTX và nông dân học tập thực tế là cách làm tốt

nhất trong việc đẩy mạnh vận động, khuyến khích nông dân phát triển KTHT và HTX.

- Tổng kết các mô hình hoạt động có hiệu quả để kết hợp tuyên truyền, phổ biến và

nhân rộng; tổ chức tham quan các mô hình KTTT làm ăn có hiệu quả ở trong và ngoài

tỉnh, ở trong nước và ngoài nước để tạo sự tin tưởng, lôi cuốn người dân tham gia KTTT.

Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng được 13-15 HTXNN điển hình, đến năm 2025 xây

dựng được 20-25 HTXNN điển hình là các HTXNN xếp loại khá nhiều năm liền hoặc các

HTXNN đã qua củng cố, hiện đang đi vào hoạt động ổn định trên các vùng trọng điểm cây

trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh.

Tiến hành điều tra tổng kết đánh giá các loại hình KTHT mới đã có ở địa phương để

giúp đỡ phát triển đúng hướng và hoạt động có hiệu quả. Đồng thời tổ chức giới thiệu các

mô hình hợp tác mới để nông dân lựa chọn và thành lập phù hợp với trình độ quản lý và

nhu cầu hợp tác của họ.

- Đối với những khu vực mà sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn, trình độ canh

tác thấp thì nên giới thiệu các hình thức hợp tác giản đơn, mà nội dung hợp tác chủ yếu là

giúp nhau kinh nghiệm làm ăn tổ chức vần đổi công, liên kết vay vốn hỗ trợ các khâu canh

tác tưới tiêu... để bà con nông dân học tập. Riêng những khu vực có nhu cầu cao hơn, trình

độ canh tác cao hơn thì giới thiệu mô hình là các tổ chức góp vốn hình thành những THT

sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ cho sản xuất mà quy mô hợp tác không nhất thiết phải

lớn từ đầu. Nội dung hoạt động cần xuất phát từ nhu cầu thực tế, có thế hợp tác phát triển

ngành nghề, dịch vụ một hay nhiều khâu trong quá trình sản xuất để các hộ nông dân tìm

hiểu. Những nơi hình thành sản xuất phát triển, để tạo điều kiện cho nông hộ phát triển sản

xuất tốt hơn nhờ những hoạt động tập thể hỗ trợ, qua những sáng lập viên có thể vận động,

thành lập những hợp tác xã mới theo Luật HTX. Không được gò ép, áp đặt, song khi thực

tế có nhu cầu thì cần hướng dẫn và tạo điều kiện cho HTX phát triển, nhất là có những

75

chính sách khuyến khích miễn giảm thuế cho những hoạt động dịch vụ của HTX, khuyến

nông, trợ giúp vốn thông qua các dự án, đào tạo cán bộ....

- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý hướng dẫn hỗ trợ của chính

quyền, và vai trò tuyên truyền vận động của các đoàn thể nhân dân, đây là nhân tố quyết

định sự phát triển KTTT nói chung và KTTT trong nông nghiệp nói riêng. Thực tiễn cho

thấy rất rõ nơi nào có sự kiên định và thường xuyên quan tâm lãnh đạo quản lý hỗ trợ vận

động của cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân thì nơi đó KTTT không

những được giữ vững mà còn phát triển và ngược lại. Vì vậy để phát triển KTTT trong

nông nghiệp, đòi hỏi phải luôn quan tâm tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý

hướng dẫn hỗ trợ của chính quyền các cấp và vai trò tuyên truyền vận động của các đoàn

thể nhân dân, nhất là ở cơ sở.

3.2.2. Xem xét giải thể các mô hình hoạt động không hiệu quả. Củng cố,

phát triển mới các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo đúng nguyên tắc,

phương châm và theo nhận thức mới.

Trên địa bàn Đồng Nai hiện nay, các HTXNN yếu kém thực chất chỉ tồn tại hình

thức, đa số không còn hoạt động nhưng chưa giải thể được vì vướng phải các vấn đề liên

quan đến đất đai, công nợ, tài sản chưa được giải quyết dứt điểm, rạch ròi, xã viên không

còn tha thiết với HTX vì HTX không giúp được gì cho họ. Tuy chưa giải thể hẳn nhưng

bản thân các xã viên cũng tự làm ăn riêng lẻ trên diện tích đất HTX giao khoán trước đây,

có nơi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có nơi chưa được cấp, hoặc trên diện

tích tự mình phục hóa thêm. Bản thân Ban quản lý HTX có nơi còn duy trì những hoạt

động cho chính quyền là chủ yếu, có nơi cũng không còn duy trì, mỗi người tự lo sản xuất

riêng. Tài sản của các HTX này không còn gì quan trọng ngoài một số tài sản không còn

giá trị, văn phòng làm việc, sân kho hư hỏng..., vốn hầu như bị xã viên chiếm dụng.

Do đó, đối với những HTX yếu kém nhưng xã viên ở đó thấy còn nhu cầu hợp tác để

giúp cho sản xuất tốt hơn như thủy lợi, khuyến nông... thì có thể chuyển sang hình thức

hợp tác phù hợp với điều kiện tổ chức của mình như tập đoàn sản xuất, THT v.v.... Riêng

đối với các HTX quá yếu kém và thực tế ở đó chưa cần duy trì các hình thức hợp tác thì

nên giải quyết giải thể, vì nếu cố gắng duy trì, chuyển đổi cũng sẽ tiếp tục gặp khó khăn,

76

những điều kiện đổi mới cho HTX ở đây quá hạn chế, phải cần nhiều thời gian khắc phục.

Cần chú trọng tiến hành các bước cần thiết giải quyết những tồn tại trước khi chuyển sang

hình thức khác hoặc giải thể. Những HTX giải thể cần được chính quyền quan tâm giúp

giải quyết tồn tại và hướng dẫn sản xuất, sau này nơi nào có những nhu cầu hợp tác thì

hướng dẫn họ hình thành những hình thức hợp tác phù hợp như tổ hợp tác dịch vụ một

khâu nào đó, tổ đoàn kết vay vốn... hoặc vươn lên thành lập HTX một cách tự nguyện của

bản thân những người sản xuất có nhu cầu. Quá trình này cũng phù hợp nguyện vọng của

bà con xã viên và quy luật hình thành phát triển các HTX.

Về củng cố các HTXNN hiện có, trước tiên kiện toàn đội ngũ quản lý như ban quản

trị, ban kiểm soát, kế toán...; tăng vốn điều lệ, tăng số lượng xã viên, nhất là đối với các xã

viên có tiềm lực kinh tế; bổ sung ngành nghề kinh doanh hoặc chuyển đổi phương án sản

xuất kinh doanh; xây dựng cơ sở chế biến, gia công các mặt hàng nông sản, nâng cao chất

lượng dịch vụ; xây dựng thương hiệu cho các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực của các

HTXNN; xây dựng vùng chuyên canh và chế biến gắn liền với thế mạnh của từng địa

phương. Ngoài ra, các ngành chức năng cần tăng cường công tác khuyến nông, lâm, ngư

để HTXNN mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế;

ưu tiên xây dựng các mô hình trình diễn về giống, kỹ thuật thâm canh, mô hình nông

nghiệp công nghệ cao cho HTXNN.

Đối với việc phát triển, thành lập các HTXNN phải dựa trên nguyên tắc, mô hình của

HTX kiểu mới. Trong đó chú trọng đến tính bền vững, từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đơn

lẻ từng khâu, tiến lên làm dịch vụ tổng hợp. Đặc biệt tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc,

phương châm về phát triển KTHT mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa ra, đó là:

- Thứ nhất là tự nguyện. Nguyên tắc này không phải là một thủ thuật đối với tâm lý

nông dân, để lôi cuốn nông dân, mà trước hết phụ thuộc vào sự phát triển tự nhiên của quá

trình kinh tế - xã hội ở nông thôn. Sự phát triển tự nhiên của kinh tế - xã hội đòi hỏi cần có

sự hợp tác, vì sự hợp tác ấy đưa lại lợi ích thiết thân cho nông dân. Sự tác động của nhà

nước chỉ có thể đẩy nhanh quá trình phát triển tự nhiên của kinh tế - xã hội và làm cho

nông dân thấy rõ lợi ích thiết thân của mình để tự nguyện hợp tác. Sự can thiệp nếu trái với

77

tiến trình phát triển tự nhiên sẽ gây nên những tác hại, trái với nguyện vọng và tính tự

nguyện hợp tác của nông dân, vi phạm tiến trình phát triển tự nhiên của kinh tế - xã hội.

- Thứ hai là sự giúp đỡ của nhà nước chuyên chính vô sản đối với nông dân về tài

chính, cung cấp những tư liệu sản xuất có trình độ kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là việc nâng

cao trình độ trí thức văn hóa, đào tạo những cán bộ, xã viên hợp tác xã văn minh. Chế độ

hợp tác muốn hình thành không thể thiếu được sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhà

nước chuyên chính vô sản. Nhưng suy đến cùng đây là sự nghiệp do chính nông dân thực

hiện. Vì vậy, người nông dân phải đạt được trình độ văn hóa nhất định, trở thành chủ thể tự

giác, tự giải phóng mình. Sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhà nước chuyên chính vô

sản chủ yếu nhằm làm cho nông dân tự giác sáng tạo.

- Thứ ba là, hợp tác phải tiến hành từng bước. Điều đó nhằm một mặt làm cho nông

dân thích nghi với phương thức làm ăn mới; mặt khác, cơ bản hơn là để cho phù hợp với

tính đặc thù phát triển của kinh tế nông dân và hình thái xã hội nông dân.

- Thứ tư là, hình thức và biện pháp hợp tác hóa phải thiết thực, cụ thể, hết sức tránh

những biện pháp và hình thức cao xa, mơ hồ. Nông nghiệp là một lĩnh vực sản xuất đặc

thù, phức tạp. Quá trình sản xuất của nó không những gắn với từng loại đất đai, cây, con

khác nhau, mà còn chịu ảnh hướng của những phong tục tập quán khác nhau của mỗi

vùng, mỗi làng, xóm. Vì vậy, biện pháp và hình thức hợp tác phải thiết thực, cụ thể phù

hợp với những điều kiện nhất định. Biện pháp chính để thực hiện thành công hợp tác, theo

Lênin, chính là mức độ kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc nhà

nước kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, là mức độ làm cho lợi ích tư nhân phục từng lợi ích

chung. Và mức độ ấy lại phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, có quan hệ trực tiếp đến

cuộc sống hàng ngày.

- Thứ năm là, hợp tác hóa là quá trình thực hiện liên minh công nông do giai cấp

công nhân lãnh đạo, trong đó liên minh kinh tế là chủ yếu. Liên minh kinh tế thể hiện qua

trao đổi hàng hóa, liên doanh, liên kết kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa kinh

tế quốc doanh với các HTX và nông dân, thể hiện qua những hợp đồng giữa nhà nước với

các HTX và nông dân. Hợp tác hóa chính là quá trình thiết lập ngày càng bền vững sự liên

minh kinh tế. Trong sự liên minh ấy nông dân là một chủ thể sản xuất hàng hóa, bình đẳng

78

trước pháp luật và quan hệ thị trường. Thông qua sự giúp đỡ kinh tế, sự kiểm soát của nhà

nước, giai cấp công nhân thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với nông dân.

Từ nay đến năm 2025, phấn đấu xây dựng mới khoảng 100-130 HTXNN (đến năm

2020 xây dựng mới 50-60 HTX), chú trọng vận động từ các tổ hợp tác, CLBNSC đề thành

lập HTXNN; nâng tổng số HTXNN hoạt động khá lên 70%, số HTXNN trung bình 30%

trở lên; tiếp tục hoàn thiện quy hoạch phát triển HTXNN ở những vùng sản xuất hàng hóa

tập trung, gắn vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến, các vùng có hồ chứa nước lớn có

các công trình thủy lợi, công trình nước sinh hoạt ở nông thôn; vận động doanh nghiệp có

vốn nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có chương trình gắn với

HTXNN thông qua hình thức góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết, từng bước mở rộng

mô hình này và xem đó là phương thức chủ yếu để củng cố và mở rộng mối quan hệ giữa

HTX và doanh nghiệp.

Riêng về chính sách hỗ trợ thành lập mới và củng cố HTXNN: các HTX chuẩn bị

thành lập được hỗ trợ theo đúng nội dung chi và mức chi quy định tại Khoản 2, Khoản 3,

Mục II, Thông tư số 66/2006/ TT-BTC ngày 17/7/2006 của Bộ Tài chính về hướng dẫn

thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về chế độ tài chính

hỗ trợ các sáng lập viên HTX chuẩn bị thành lập, các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của

HTX và chi từ nguồn ngân sách hàng năm của huyện. Để củng cố các HTXNN hoạt động

chưa hiệu quả, UBND cấp huyện, Liên minh HTX tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, các cơ

quan chức năng có liên quan cùng phối hợp trong công tác củng cố các HTXNN hoạt động

chưa hiệu quả từ nguồn chi sự nghiệp hàng năm của đơn vị mình.

3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện, thực hiện các chính sách để thúc đẩy kinh tế

tập thể trong nông nghiệp mà nòng cốt là các hợp tác xã phát triển.

Nhà nước cần bổ sung, ban hành thêm một số chính sách và thực hiện một số giải

pháp mang tính hỗ trợ về kinh tế, để khuyến khích, tạo thuận lợi cho thành phần KTTT

phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong tình hình hiện nay, sau khi luật HTX

2012 đã có hiệu lực thi hành, Nhà nước phải khẩn trương nghiên cứu, ban hành các hướng

dẫn cụ thể về các chính sách khuyến khích phát triển HTX, bảo đảm đồng bộ, phù hợp với

hoạt động của các tổ hợp tác, HTX nông–lâm–ngư nghiệp. Ngoài ra, chính quyền các cấp

79

cần hỗ trợ giúp đỡ theo hướng lấy HTX làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân trong

việc tổ chức thực hiện dự án, làm đại lý cung ứng vật tư và thu gom nguyên liệu, làm cơ sở

chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật... như là điểm tựa cho xây dựng nông thôn mới và

đào tạo cán bộ cho cơ sở.

Trong quá trình tổ chức phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các mô hình

KTTT trong nông nghiệp, cần đánh giá kết quả thực hiện chính sách, bổ sung các chính

sách cho phù hợp với thực tiễn, bảo đảm chính sách đến được với các THT, HTX; chú

trọng thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với KTTT trong nông nghiệp như

chính sách về đất đai; chính sách ưu đãi về vốn, thuế, tín dụng; chính sách thị trường và

chính sách đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý,

công tác khoa học - kỹ thuật.... Bổ sung, hoàn thiện cơ chế thoáng hơn cho các THT, HTX,

mở rộng các hình thức góp vốn, hình thức sản xuất kinh doanh, phương thức phân phối lợi

nhuận. Quan tâm xây dựng tổ chức đảng, công đoàn và các tổ chức quần chúng trong các

hợp tác xã để thúc đẩy KTTT trong nông nghiệp phát triển.

Hiện tại các chính sách để hỗ trợ cho phát triển KTTT trong nông nghiệp mà nòng

cốt là các HTX trên địa bàn tỉnh cần thực hiện như sau:

- Thực hiện các chính sách ưu đãi về sử dụng đất đối với HTX đã được quy định tại

các nghị định, văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể

kinh tế xã hội của địa phương, UBND tỉnh cấp quyết định giao đất, cho thuê đất cho các

HTXNN lập cơ sở sản xuất kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với

diện tích không quá 100 m2 cho HTX làm trụ sở làm việc; Chủ động bố trí và thỏa thuận

địa điểm cho HTXNN làm trụ sở làm việc, mọi chi phí đền bù giải tỏa (nếu có) do ngân

sách cấp huyện chi trả đối với diện tích không quá 100 m2. Đây là diện tích đất hỗ trợ, là tài

sản không chia của HTXNN, trường hợp các HTXNN bị giải thể, UBND cấp huyện có

trách nhiệm thu hồi, sung vào quỹ đất công của địa phương. Trường hợp HTXNN có nhu

cầu sử dụng đất để sử dụng vào mục đích thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực

hiện dự án, Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí để thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng.

- Chính sách tài chính - tín dụng: thực hiện chính sách về thuế và tín dụng theo quy

định tại Điều 6, 8, Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ; HTXNN

80

có dự án thuộc danh mục vay vốn tín dụng đầu tư, có hợp đồng xuất khẩu thuộc danh mục

vay vốn tín dụng xuất khẩu quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của

Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu được vay vốn theo quy định của Nghị

định này và các văn bản có liên quan. HTXNN được vay vốn theo các quy định tại Quyết

định số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ

nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản và các văn bản có liên quan.

- Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường: HTXNN có sản phẩm

tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và nước ngoài được UBND các cấp, các đơn vị

chức năng sử dụng ngân sách sự nghiệp hỗ trợ theo quy định; HTXNN tham gia chương

trình xúc tiến thương mại quốc gia được hỗ trợ các nội dung theo quy định tại Quyết định

số 72/2010/QĐ-TTg ngày 15/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy

chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại Quốc gia; HTXNN

được các đơn vị chức năng sử dụng ngân sách sự nghiệp hỗ trợ chi phí đăng ký nhãn hiệu

hàng hóa, xây dựng Website theo quy định.

- Chính sách khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công, ứng dụng, chuyển giao khoa

học - công nghệ: ngân sách các cấp hỗ trợ chi phí cho các chương trình khuyến nông,

khuyến ngư, khuyến công theo quy định tại Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày

08/01/2010 của Chính phủ về khuyến nông; Thông tư liên tịch số 183/2010/TTLT-BTC-

BNN ngày 15/11/2010 của Bộ Tài chính-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về

hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cấp đối với hoạt động

khuyến nông; Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09/6/2004 của Chính phủ về khuyến

khích phát triển công nghiệp nông thôn và việc ứng dụng, chuyển giao khoa học - công

nghệ của Nhà nước, của tỉnh và địa phương ưu tiên thực hiện tại các HTXNN; Thông tư

liên tịch số 125/2009/TTLT-BTC- BCT ngày 17/6/2009 của Bộ Tài chính - Bộ Công

thương về việc quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với

Chương trình khuyến công; HTXNN được ưu tiên vay vốn từ Quỹ đầu tư Phát triển hoặc

hỗ trợ lãi suất khi có dự án đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư vào các ngành sản xuất, chế

biến các loại nông sản, hàng xuất khẩu.

81

- Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: ngân sách nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở

hạ tầng bao gồm đường giao thông, điện, nước, thủy lợi cho những nơi có nhiều HTX, xã

viên, cơ sở sản xuất chế biến nông lâm sản của HTXNN gắn với quy hoạch xây dựng

thuộc chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

- Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực: các chức danh trong Ban quản trị, Ban

chủ nhiệm, Ban kiểm soát, kế toán trưởng, cán bộ, xã viên làm việc chuyên môn, nghiệp

vụ của HTXNN đáp ứng điều kiện của cơ sở chiêu sinh do HTXNN cử đi học được hỗ trợ

theo quy định tại Mục III, Thông tư số 66/2006/ TT-BTC ngày 17/7/2006 của Bộ Tài

chính về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của

Chính phủ về chế độ tài chính hỗ trợ các sáng lập viên hợp tác xã chuẩn bị thành lập, các

đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của hợp tác xã.

Từ việc xây dựng, ban hành đến khi triển khai tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách

trong thực tế là cả một vấn đề. Do đó, để thúc đẩy phát triển KTTT trong nông nghiệp cần

phải có sự thống nhất, đồng bộ trong hoạch định chính sách, xây dựng và triển khai các cơ

chế, chính sách của các cấp, các ngành, và địa phương. Chính sách của Nhà nước và của

địa phương về KTTT cần phải thông thoáng hơn, nhất là các chính sách về đất đai, về tín

dụng, chính sách về thuế về thị trường.... Cơ chế chính sách đưa ra phải xuất phát từ những

khó khăn, vướng mắc để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy KTTT trong nông nghiệp phát triển.

3.2.4. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ trong quá

trình sản xuất kinh doanh của các mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

Trong giai đoạn 2002 – 2013, việc ứng dụng kỹ thuật và khoa học tiên tiến trong sản

xuất nông nghiệp đã được Đồng Nai đặc biệt chú trọng. Hiện nay, các khâu làm đất gần

100% dùng máy móc. Các khâu khác như tưới tiêu, sơ chế, chế biến sản phẩm nông

nghiệp dần được làm bằng máy tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển một bộ phận lao

động nông nghiệp sang hoạt động các ngành công nghiệp, dịch vụ. Hiện số máy kéo, máy

xới, máy bơm nước, máy tuốt, máy gặt, sơ chế nông sản... toàn tỉnh có hơn 100 nghìn

chiếc. Bên cạnh đó, với mục tiêu, đưa nông nghiệp Đồng Nai phát triển theo hướng sản

xuất hàng hóa để nông sản làm ra dễ dàng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu nâng cao đời

sống cho nông dân, Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch 97-KH/TU về “tam nông” và UBND

82

tỉnh đã có Quyết định 43/QĐ-UBND về “cây trồng chủ lực”. Trên cơ sở đó, các huyện, thị,

thành phố hiện đang từng bước quy hoạch và hình thành các vùng chuyên canh để chuyển

giao kỹ thuật, đưa máy móc vào sản xuất, giảm chi phí đầu vào….

Để thực hiện được điều này, các địa phương trong tỉnh cần phải tập trung phát triển

KTTT trong nông nghiệp, tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả các mô hình

KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn. Đặc biệt là, tỉnh cần phải quan tâm hỗ trợ KTTT

đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là giống, công nghệ sinh

học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin..., qua hoạt động của hệ thống

khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công của tỉnh.

Tập trung đầu tư nâng cao năng lực một số trung tâm nghiên cứu và chuyển giao

KHCN ở tỉnh, nhằm hỗ trợ các mô hình KTTT và hộ nông dân. Khuyến khích các cơ quan

nghiên cứu KHCN liên kết với các THT, HTX, chuyển giao các thành tựu KHCN mới cho

các THT, HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn

nguyên liệu sẵn có của địa phương. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm,

thủy sản, phát triển làng nghề... ở nông thôn; hướng dẫn và giúp đỡ các THT, HTX nông

nghiệp đổi mới công nghệ đa dạng hóa sản phẩm, hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh.

3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là ban

chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế tập thể các cấp.

Từ thực trạng phát triển KTTT trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, trong

thời gian tới, để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trên địa bàn, Đồng

Nai cần phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là Ban

chỉ đạo xây dựng và phát triển KTTT. Cụ thể là, nhanh chóng củng cố lại Ban chỉ đạo xây

dựng và phát triển KTTT tỉnh để có đủ năng lực tham mưu giúp Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân

tỉnh theo dõi, hướng dẫn thực hiện các chính sách, nghiệp vụ đối với khu vực kinh tế này.

Tích cực, chủ động triển khai các nhiệm vụ đã được phân công trong chương trình hành

động của tỉnh, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể trong quá trình thực hiện và

căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương để có các giải pháp phù hợp, nhằm tháo gỡ khó

khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích các hình thức KTHT, HTX phát

triển nhanh, vững chắc, hiệu quả.

83

Phải căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển KTTT đến năm 2025 để xây

dựng chương trình hành động phù hợp, có phân kỳ, xây dựng lại quy chế làm việc của

Ban, có phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên Ban; có chế độ họp hàng tháng,

hàng quý để giải quyết những tồn tại khó khăn hoặc đề xuất giải quyết những vướng mắc

của KTTT; có quy định chế độ kiểm tra trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên Ban đối

với nhiệm vụ được phân công; xây dựng tốt kế hoạnh để tổ chức cho các THT, CLBNSC,

HTX đi nghiên cứu thị trường, học tập điển hình tiên tiến ở trong và ngoài tỉnh hoặc trong

và ngoài nước; đào tạo cán bộ HTX đủ tầm để đảm bảo hoạt động.

Liên minh HTX tỉnh cần tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh ban hành chính sách hỗ

trợ thành lập mới các mô hình KTTT trong nông nghiệp như THT, HTXNN trên địa bàn

tỉnh. Phối hợp cùng các ngành, các cấp tập trung rà soát lại tất cả các chủ trương của Trung

ương, của tỉnh về phát triển kinh tế tập thể; kịp thời đề xuất và giải quyết những khó khăn

cho từng vấn đề cụ thể ở cơ sở, thông qua đó đề xuất UBND tỉnh kịp thời ban hành, điều

chỉnh, bổ sung, sửa đổi các quy định cho phù hợp với tình hình thực tế, hoặc kiến nghị với

Trung ương những vấn đề bất cập về cơ chế, chính sách trong thực hiện hỗ trợ phát triển

KTTT. Làm tốt công tác quản lý Nhà nước về KTTT, huy động mọi nguồn lực của toàn xã

hội kể cả cán bộ có năng lực tham gia vào phát triển KTTT mà nòng cốt là HTX.

Tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của chính

quyền các cấp trong công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước

về KTTT đến xã viên và người lao động; có những quyết sách kịp thời, giải quyết khó

khăn cho khu vực KTTT, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo

an sinh xã hội; đặc biệt là nâng cao vai trò quản lý kinh tế của chính quyền cấp xã trong

việc xác lập các nguyên tắc cho các hoạt động kinh tế ở xã, trên cơ sở khảo sát tiềm năng,

nhu cầu của các hộ, THT và HTX trên địa bàn. Điều này bao gồm từ việc xây dựng các

thủ tục về đăng ký kinh doanh, xét, duyệt các đề án kinh doanh và cấp giấy phép cho các

THT và HTX hoạt động; đề ra các biện pháp để kiểm tra những hoạt động và hợp đồng

kinh tế, đến việc xác định những ngành nghề được phép hay không được phép kinh doanh

ở xã; nó còn bao gồm cả việc thiết lập quy chế bảo vệ môi trường, quy chế xử phạt những

vi phạm của các tổ chức kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh hoạt

84

động; giám sát, kiểm tra và là trọng tài cho các hoạt động kinh tế ở xã; tích cực hỗ trợ và

tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các hộ dân cư, các THT và HTX trên địa bàn xã.

3.2.6. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa “bốn nhà”

trong phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, đồng thời gắn với chương

trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

Liên kết bốn nhà: nhà nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp là mô hình

liên kết nhằm mục đích:

- Thứ nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của “các nhà”, tận dụng có hiệu quả nhất

tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp của nước ta nhằm tạo ra ngày càng

nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, xuất khẩu thu nguồn

ngoại tệ lớn cho đất nước, đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.

- Thứ hai, thông qua đó tăng cường cải tiến quản lý nhà nước cải cách hành chính

làm cho nền hành chính thực sự vì dân phục vụ dân chủ. Mặt khác, từ đó phát triển

KHCN, gắn khoa học với sản xuất nông nghiệp, đưa các nhà khoa học về trực tiếp phục vụ

nông dân, nông thôn.

- Thứ ba, tăng cường sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh (doanh

nghiệp) hướng vào mục tiêu, đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp - là nhà

nông, và thông qua đó mà tạo điều kiện để mọi nhà kinh doanh đều phát triển kinh doanh

có hiệu quả.

- Thứ tư, về phương thức hành động không phải chỉ liên kết song phương (từng

“nhà” riêng biệt với nhà nông) mà còn liên kết tổng hợp, tác động qua lại giữa các “nhà”

với nhau, hỗ trợ cho mỗi nhà thực hiện tốt vai trò, chức năng hoạt động của mình.

Nhìn chung, trong giai đoạn 2002 – 2013, trên địa bàn tỉnh, mô hình liên kết “bốn

nhà” trong phát triển KTTT nói chung và phát triển KTTT trong nông nghiệp nói riêng

chưa chặt chẽ, chưa có hiệu quả cao; cơ chế phối hợp giữa bốn nhà còn lỏng lẻo, chưa nhịp

nhàng, linh hoạt…. Do đó, chưa đem lại nhiều lợi ích cho từng nhà, nhất là nhà nông. Vì

vậy, trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, cần quan tâm xây dựng, phát triển và nhân rộng

các mô hình liên kết giữa hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn, các doanh

nghiệp, tổ chức khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản

85

phẩm nhằm tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Đồng thời, xây dựng tiêu chí đánh giá

THT, HTX, để phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới.

Trong cơ chế phối hợp giữa bốn nhà, cần quan tâm thực hiện tốt vai trò của từng nhà:

Nhà nước phải nâng cao hiệu quả đầu tư, hỗ trợ vốn, khoa học kỹ thuật, cơ chế chính

sách... cho người nông dân, giúp bà con khắc phục những khó khăn cố hữu của mình để

đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà khoa học phải chuyển giao cho

nông dân quy trình kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với sản xuất và nhu cầu của người dân. Về

phía người nông dân phải tuyệt đối tuân thủ quy trình kỹ thuật trong sản xuất. Nhà doanh

nghiệp được giao kinh doanh những mặt hàng và bao tiêu sản phẩm do nhà nông làm ra.

Đồng thời, phải thực hiện tăng hiệu quả mối liên kết “4 nhà” trong đó lợi ích của các bên

được gắn liền trong mối quan hệ hài hòa.

3.2.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước và tỉnh Đồng Nai.

Hiện nay, nhìn chung trình độ cán bộ quản lý kinh tế, đặc biệt là ở khu vực KTTT

trong nông nghiệp còn nhiều bất cập, hoạt động của cán bộ theo kinh nghiệm, nhiệt tình là

chủ yếu, chưa được bồi dưỡng phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Mặc khác, đội ngũ

cán bộ quản lý KTHT và HTX thường hay thay đổi; công tác thu hút cán bộ về làm việc

tại khu vực KTTT chưa khả thi. Ngoài ra, do mức lương thấp nên chưa phát huy hết khả

năng, tâm huyết của một số cán bộ quản lý KTHT và HTX. Công tác đào tạo mới chỉ đáp

ứng được một phần nhu cầu của cán bộ quản lý và chất lượng đào tạo ở một số nội dung

chưa sát với nhu cầu thực tế. Việc quy hoạch, đầu tư cho công tác đào tạo chưa được quan

tâm tương xứng với yêu cầu phát triển của khu vực KTTT. Bản thân các đơn vị KTTT

chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến công tác đào tạo cán bộ. Cơ sở vật chất còn nghèo nàn,

quy mô nhỏ, chi phí tài chính phục vụ cho công tác đào tạo còn nhiều hạn chế….

Theo thống kê của Liên minh HTX tỉnh, tính đến hết năm 2013, đội ngũ cán bộ quản

lý KTTT trên địa bàn tỉnh có trình độ đại học trở lên mới chỉ đạt 22,2%, số cán bộ HTX có

trình độ trung cấp là 38,8%, số còn lại là trình độ phổ thông (cấp II và III...). Đội ngũ quản

lý, kế toán vừa thiếu, vừa yếu. Sự hạn chế về trình độ và năng lực của cán bộ chủ chốt ảnh

hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của KTTT. Vì vậy, phần lớn các

86

đơn vị chỉ mới xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm mà chưa đề ra được

định hướng, chiến lược kinh doanh dài hạn để phát triển bền vững. Trong khi đó, những

chủ trương, chính sách ưu đãi đối với KTTT của Ðảng và Nhà nước chưa được các cấp,

các ngành triển khai thực hiện đồng bộ. Do đó, có một đội ngũ cán bộ có năng lực, đủ kinh

nghiệm luôn là vấn đề đặt ra trong việc phát triển KTTT ở Đồng Nai. Điều đó, đòi hỏi tỉnh

cần phải quan tâm thực hiện tốt một số vấn đề sau:

- Đối với công tác cán bộ, cần thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, động

viên khen thưởng và có chế độ phụ cấp hợp lý để ổn định đội ngũ cán bộ quản lý HTX.

Các cấp, các ngành thuộc hệ thống Liên minh HTX và các đơn vị kinh tế tập thể, các tổ

chức thành viên cần có nhận thức đúng về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trong KTTT; chú ý đặt vấn đề một cách toàn

diện cả xã viên, người lao động, cán bộ chuyên môn cũng như cán bộ quản lý KTTT,

không nên coi nhẹ đối tượng nào, từ đó có chương trình, kế hoạch, quy hoạch theo từng

giai đoạn và phân công, phân cấp hợp lý.

- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

cán bộ chuyên trách cấp huyện và bán chuyên trách cấp xã theo dõi phát triển KTTT. Cần

có kế hoạch đào tạo và sử dụng ổn định cán bộ quản lý có tâm huyết và đủ trình độ, năng

lực đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2025, tỷ lệ cán bộ quản lý HTXNN đã qua

đào tạo có trình độ từ cao đẳng trở lên phải đạt 70% và trình độ trung cấp đạt 30%.

Cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và quản lý THT, HTX phải là những người

nhiệt thành, có tâm huyết, bản lĩnh, năng động… mới thúc đẩy được phong trào làm ăn tập

thể, thúc đẩy KTTT phát triển. Kinh nghiệm cho thấy, HTX là nơi tập hợp cho người

nghèo làm ăn nên những thành viên sáng lập, những người đứng đầu phải là người giỏi, là

người dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đó là những người, trong hoạt động điều hành,

quản lý phải biết phối hợp lãnh đạo để có hướng cho HTX hoạt động. Kết hợp làm kinh tế

với phục vụ nhân dân, vì vậy phải gần dân, hiểu dân, vận động dân và phục vụ dân; phải

luôn gắn phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, để đảm bảo ổn định và vững mạnh

trong hoạt động.

87

3.3. Một số kiến nghị.

3.3.1. Đối với Trung ương.

Để tạo điều kiện thực hiện tốt các giải pháp nêu trên cũng như góp phần thúc đẩy

pháp triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, xin được kiến nghị

với Đảng, Nhà nước và Liên minh HTX Việt Nam một số vấn đề sau:

+ Nâng cao hiệu quả quản lý, thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với

KTTT trong nông nghiệp như chính sách về đất đai; chính sách ưu đãi về vốn, thuế, tín

dụng; chính sách đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác quản lý, khoa học - kỹ

thuật... Bổ sung, hoàn thiện cơ chế thoáng hơn cho HTXNN, mở rộng các hình thức góp

vốn, hình thức sản xuất kinh doanh, phương thức phân phối lợi nhuận... của HTX.

+ Trong quá trình tổ chức phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX,

cần đánh giá kết quả thực hiện chính sách, bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực

tiễn, bảo đảm chính sách đến được với các tổ hợp tác, hợp tác xã.

+ Xây dựng khung khổ pháp lý để thực hiện việc bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm sản

xuất, xây dựng quỹ hỗ trợ rủi ro cho các HTX nông nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu xây

dựng khung khổ pháp lý để thực hiện việc kiểm toán đối với khu vực HTX.

+ Sửa đổi chính sách đất đai trong nông nghiệp theo hướng nâng cao mức hạn điền

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển nông nghiệp

sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

+ Liên minh HTX Việt Nam cần cung cấp thông tin, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp

vụ về lĩnh vực KTTT cho các liên minh HTX và doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh và

thành phố. Đồng thời, xem xét giới thiệu và chuyển giao các chương trình, dự án phát triển

kinh tế, xã hội, các dự án hỗ trợ của nước ngoài cho Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai.

3.3.2. Đối với tỉnh Đồng Nai.

+ Kinh tế tập thể trong nông nghiệp là một bộ phận không thể tách rời của quá trình

phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Vì vậy đề nghị

các cấp, các ngành của tỉnh khi cân đối, bố trí chiến lược hay trong xây dựng các chương

trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh cần có biện pháp

lồng ghép với phát triển kinh tế tập thể và cân đối các nguồn lực để thực hiện.

88

+ Phải coi sự chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể là một nhiệm vụ trọng tâm và thường

xuyên; tạo sự đồng thuận và nhận thức đúng đắn trong Đảng và quần chúng nhân dân về vị

trí, vai trò của kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong phát triển nông

nghiệp, nông thôn và nông dân, về mô hình HTX kiểu mới, về bản chất, giá trị và các

nguyên tắc HTX; coi trọng công tác kiểm tra và định kỳ sơ kết, có giải pháp thiết thực thúc

đẩy kinh tế tập thể phát triển theo đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà

nước.

+ Các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh phải tạo điều kiện hỗ trợ cho

HTX (hỗ trợ thành lập mới, mặt bằng, vốn, cơ chế, thông tin, đào tạo cán bộ…) vì lợi ích

của xã viên. Đặc biệt là Liên minh HTX tỉnh cần chủ động tham mưu, tăng cường tư vấn,

hỗ trợ HTX, coi sự phát triển của HTX là trách nhiệm, là nhiệm vụ của mình.

+ Một việc làm không thể thiếu hay qua loa trong nội bộ hợp tác xã, đòi hỏi tỉnh cần

phải quan tâm, đó là công tác thông tin và chuẩn hóa các quy trình kiểm toán hợp tác xã

phải được xem là một việc làm mang tính nguyên tắc. Vì, sự hiểu biết giữa xã viên và ban

quản trị, sự minh bạch trong hoạt động của hợp tác xã sẽ giải tỏa được các mâu thuẩn

không đáng có trong từng hợp tác xã.

+ Cần có những biện pháp tích cực hơn để nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động

của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân; đồng thời

nâng cao vai trò của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX để HTX vay vốn đầu tư sản xuất, kinh

đoanh đạt hiệu quả cao hơn. Quan tâm mở rộng phạm vi hoạt động của hệ thống QTDND

đến tận tổ dân cư, tạo điệu kiện giải quyết vốn vay cho người nghèo và đồng bào dân tộc,

vùng sâu vùng xa, giúp họ tiếp cận được các nguồn vốn để phát triển kinh tế, nâng cao đời

sống và thoát nghèo.

+ Quan tâm dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là người lao động

nghèo, lao động ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để họ an tâm và chủ

động tham gia vào kinh tế tập thể.

89

KẾT LUẬN

Trong thời đại mới, xu thế toàn cầu hóa đưa các nước trên thế giới xích lại gần nhau

theo hướng hợp tác hóa, liên hợp hóa (tiêu biểu như tổ chức WTO, tổ chức ASEAN). Có

như vậy thế giới mới phát triển ổn định trong hòa bình. Rõ ràng hợp tác hóa là điều kiện

không thể thiếu được trong việc phát triển lâu dài và ổn định. Từ đó chúng ta lại càng

khẳng định một điều rằng, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đang trên đà phát triển

sẽ không thể và không bao giờ xóa bỏ một cách sạch trơn mô hình kinh tế tập thể; kinh tế

tập thể vẫn tồn tại như một thực tế khách quan, xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế.

CNXH muốn phát triển phải dựa trên sức mạnh cộng đồng, hay đó chính là sức mạnh dân

tộc. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã khẳng định 4 thành phần kinh

tế trong nền kinh tế nước ta, đó là: Thành phần kinh tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập

thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành

phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước

trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ

nghĩa.

Thực tế cho thấy, việc đưa nhân dân vào con đường kinh tế hợp tác và hợp tác xã

chính là quan điểm phù hợp của Đảng ta trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

Khi và chỉ khi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nghiệm ra rằng, chỉ có con

đường tất yếu hợp tác kinh tế mới đủ khả năng cứu vãn và bảo tồn được tài sản của nhân

dân, mà phần lớn là những người còn đầu óc tư hữu nhỏ, lẻ. Do đó, hợp tác hoá trong nông

nghiệp là con đường tất yếu, khách quan trong quá trình sản xuất của nông dân, nhất là từ

khi tiến lên sản xuất nông sản phẩm hàng hoá theo hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Vấn đề đặt ra là việc thuyết phục, vận động nông dân không phải là điều dễ dàng, người

nông dân thường thấy những lợi ích thiết thực cụ thể trước mắt, để họ làm theo, để họ thực

hiện không thể chỉ bằng những khẩu hiệu tuyên truyền chung chung, không chỉ là những

phong trào hình thức, không thể bằng sự áp đặt, mệnh lệnh mà đòi hởi ở tính hiệu quả,

thiết thực. Từ thực trạng phát triển kinh tế tập thể ở Đồng Nai trong giai đoạn 2002 – 2013

cho thấy: kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới dưới nhiều hình thức, trình độ

90

khác nhau trong nông nghiệp ở Đồng Nai đã đáp ứng một phần nhu cầu của những người

lao động, hộ sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh. Nhất là trong thời điểm Đồng Nai đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu

quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn Đồng Nai hiện nay còn

nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn chế; số hợp tác xã làm ăn có hiệu quả còn ít; lợi

ích đem lại cho thành viên chưa nhiều; chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội,

chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc của nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Đáng chú ý là

với một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nhưng đến nay toàn tỉnh chỉ có

84 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp. Đây thực sự là rào cản rất lớn để hướng nông dân

vào làm ăn tập thể, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Vì vậy trong thời gian từ nay đến năm 2025, để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng

cao hiệu quả kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, cần xác định và

nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân: Phát triển kinh tế tập thể mà nòng

cốt là hợp tác xã là quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì trong chính sách phát triển, đồng

thời phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề liên quan, kết hợp ý thức tự giác, tự nguyện tổ

chức và tham gia HTX của các cá nhân, hộ sản xuất – kinh doanh, sự nỗ lực phấn đấu

vươn lên của bản thân các HTX dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; đảm

bảo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Trong đó, sự lãnh đạo, quản lý của

Đảng bộ và chính quyền các cấp trong tỉnh có vai trò đặc biệt quan trọng và trực tiếp thông

qua việc tạo lập môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, môi trường

tâm lý – xã hội… để HTX hình thành và phát triển; tổng kết thực tiễn quá trình phát triển

HTX trên địa bàn để kịp thời đưa ra hoặc kiến nghị Nhà nước sửa đổi, bổ sung cơ chế

chính sách và biện pháp phát triển HTX phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh,

trong từng giai đoạn phát triển./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo thực trạng và giải pháp hỗ trợ phát triển HTXNN trong thời gian

tới (2006), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

2. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 và Kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 (2005), Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

3. Báo cáo tình hình một năm thực hiện Luật HTX và các Nghị định của Chính

phủ trong lĩnh vực nông nghiệp (2000), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

4. Báo cáo tóm tắt tổng kết khoa học và kỹ thuật Đề tài: “HTX ở Đồng Nai:

Vấn đề, xu hướng và lựa chọn” - Viện kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh.

5. Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Đồng

Nai qua các năm, Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai.

6. C.Mác, Ph.Ăngghen(1996), Toàn tập, T23, NXB CTQG, Hà Nội.

7. Chu Thị Hảo, Naoto Imagawa (2003), “Quá trình phát triển của hợp tác xã

nông nghiệp ở Việt Nam”, NXB nông nghiệp.

8. Chử Văn Lâm (2006), “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nhà xuất bản chính trị quốc

gia.

9. Đào Duy Huân (2014), “Phân tích, đánh giá kinh tế hợp tác xã tỉnh Đồng

Nai và các khuyến nghị”, Tạp chí Phát triển và hội nhập.

10. Đề án định hướng chiến lược phát triển hợp tác xã đến năm 2020 (2008),

Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

11. Hồ Văn Vĩnh và Nguyễn Quốc Thái (2005), “Mô hình phát triển hợp tác

xã nông nghiệp ở Việt Nam”, NXB nông nghiệp.

12. Nguyễn Minh Tuấn (2004), “Phát triển kinh tế tập thể ở TP. HCM, thực

trạng và giải pháp”, Trường Đại học kinh tế TP HCM.

13. Nguyễn Văn Bích (1997), “Phát triển và đổi mới quản lý hợp tác xã theo

Luật hợp tác xã”, NXB chính trị quốc gia.

14. Nguyễn Văn Bích và tập thể tác giả (1999), “Báo cáo chiến lược phát

triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở Việt Nam đến năm 2010”, Chuyên đề kinh tế

hợp tác.

15. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỳ (2003), “Kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia.

16. Phạm Thị Quý (2002)“Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam”, Nhà xuất

bản chính trị quốc gia.

17. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp tác

xã, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hợp tác

xã, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Hợp tác

xã, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX, nhiệm kỳ

2010 – 2015.

21. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VII, VIII,

IX, X, XI.

22. Vũ Văn Phúc (2001), “Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.