ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------
NGUYỄN MAI HƢƠNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN
HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------
NGUYỄN MAI HƢƠNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............................................................................ 6
1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế................................................................................................................................... 6
1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước......................................................................................................................... 6
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.......................... ............................................................................................... 16
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................................................... 25
1.2.1. Kinh nghiệm ở một số quốc gia điển hình.............................................................. 25
1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực................................... 32
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM..................................... 35
2.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam............................. 35
2.1.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế................................................... 35
2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế........................................................................... 37
2.2. Tình hình phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ..................................................................................................................... 38
2.2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu nguồn nhân lực...................................................... 38
2.2.2. Tình hình giáo dục và đào tạo.................................................................................. 44
2.2.3. Thu nhập và mức sống...................................................................................... 57
2.2.4. Sức khỏe và dinh dưỡng................................................................................... 62
2.2.5. Vấn đề việc làm................................................................................................ 66
2.3. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình
1
hội nhập kinh tế quốc tế.............................................................................................. 68
2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực và tác động của nó đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam...................................................... 68
2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực............................................. 70
Chương 3. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI................................................................... 74
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam .. 74
3.1.1. Bối cảnh quốc tế........................................................................................................ 74
3.1.2. Bối cảnh trong nước.................................................................................................. 75
3.2. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................................................... 76
3.2.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực......................................................................... 76
3.2.2. Quan điểm định hướng............................................................................................. 77
3.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam....................................................................................................................... 79
3.3.1. Phát triển giáo dục và đào tạo.................................................................................. 79
3.3.2. Nâng cao thu nhập, mức sống và thể chất dân cư.................................................. 82
3.3.3. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp................................................................ 84
3.3.4. Phát triển thị trường lao động................................................................................... 86
3.3.5. Kiểm soát dân số....................................................................................................... 90
3.3.6. Mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế toàn diện và đa phương để phát triển nguồn nhân lực................................................................................................................................ 92
3.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực và hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực............................................. 93
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 98
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực là một nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển lực lượng
sản xuất xã hội ở mọi thời đại. Ở nước ta, nguồn nhân lực là một tiềm năng dồi
dào để tăng trưởng kinh tế, song mặt khác, chính nguồn nhân lực đó chưa đáp
ứng yêu cầu của phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Điều đó bắt nguồn từ những hạn chế về chất lượng, cơ cấu lao
động, về thể chế, chính sách huy động và sử dụng nguồn nhân lực. Hơn nữa,
trong xu thế hội nhập hiện nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công
nghệ, tri thức ngày càng trở thành động lực phát triển mang tính chất quyết định
của nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, các nhân tố sản xuất truyền thống như đất
đai, tiền vốn, nhà xưởng, máy móc là rất quan trọng nhưng đã tụt dần xuống
hàng thứ hai. Con người với khả năng nắm giữ kiến thức đang trở thành nhân tố
so sánh lớn nhất và yêu cầu họ không chỉ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
mà phải có sức khoẻ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt và tác phong công nghiệp. Nhân
tố con người trở thành mũi nhọn quyết định sức mạnh cạnh tranh của mối quốc
gia trong nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, việc làm rõ vấn đề con người có thể
đóng góp như thế nào cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và làm sao để con
người trở thành động lực, tức là xem xét con người từ góc độ phát triển nguồn
nhân lực là vấn đề cấp thiết đang đòi hỏi nghiên cứu từ khía cạnh lý luận và thực
tiễn.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có đội ngũ lao
động có chất lượng ngày càng cao, cơ cấu lao động hợp lý. Thực tiễn đòi hỏi cần
phải nghiên cứu thực trạng, đề ra định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực một cách thiết thực. Do vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” là nhằm góp
phần giải quyết vấn đề bức thiết nói trên.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam nói chung và trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng như của
một số cơ quan hoạch định chính sách của Việt Nam. Điển hình là các công trình
nghiên cứu sau:
- Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2010 - 2020. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, 1999.
- Phạm Minh Hạc (chủ biên), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Văn Lê, Phát triển khoa học về con người trong hoạt động kinh
tế - xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 3, 01/2003.
- Trần Tiến Cường, Phát triển kinh tế và đổi mới doanh nghiệp với vấn đề
giải quyết lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực, NXB Thế giới, 2001.
- Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên), Quản lý nguồn nhân
lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội,
2004.
- Vũ Bá Thể, Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Lao động - xã hội,
2005.
- Vũ Minh Mão, Hoàng Xuân Hoà, Dân số và chất lượng nguồn nhân lực
ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng
5/2004.
4
- Geoffey Hainsworth, Phát triển nguồn nhân lực: đáp ứng thách thức của
quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một “nền kinh tế dựa trên những hiểu biết
mới”, NXB Thế giới, 2001.
- Asian Development Bank (1991), Human Resourse Policy & Ecconomic
Development (Selected country Studies), Printed in the Philipin.
- Toàn cầu hoá chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều, NXB Thế giới,
2005.
- Phạm Thái Hưng, Sức ép hội nhập và sự sẵn sàng hội nhập của Việt
Nam. NXB Thế giới, 2004.
- Ngô Doãn Vịnh (chủ biên), Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành
động có tính chiến lược, NXB Chính trị quốc gia, 2007.
- Lê Văn Toan, Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá, NXB Lao
động - xã hội, 2007.
Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam là một vấn đề có nội dung và phạm vi rộng. Các công trình trên chỉ đề
cập các giác độ liên quan, chưa nghiên cứu vấn đề một cách tổng thể, hoặc các
tác giả đưa ra các giải pháp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế -
xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống từ góc độ khoa học
kinh tế chính trị, đưa ra những định hướng và giải pháp thích hợp với tình hình
mới là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ yếu về phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá thực trạng phát
triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, luận văn đưa ra quan điểm định
5
hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế
của Việt Nam trong thời gian tới.
. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển nguồn nhân lực hiện nay
và tác động của nó đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Đưa ra quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực phục vụ một cách hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Luận văn tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực của Việt Nam từ giác độ
của khoa học kinh tế chính trị trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm
gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
trừu tượng hoá khoa học, logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận chủ yếu về
phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6
- Phân tích và đưa ra đánh giá khách quan về thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua.
- Đưa ra các giải pháp thiết thực góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong thời gian tới.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về phát
triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian tới.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước
1.1.1.1. Những khái niệm cơ bản
• Nguồn nhân lực
Nguồn lực được hiểu một cách chung nhất là khả năng cung cấp các yếu
tố cần thiết được huy động cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước.
Đó là những nguồn lực vật chất như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực tài
chính và nguồn lực con người.
Nguồn nhân lực được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau phụ thuộc vào các
giác độ nghiên cứu. Theo khái niệm rộng nguồn nhân lực chỉ con người với tư
cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ
thể phát triển bình thường, không bị khiếm khuyết và dị tật bẩm sinh.
Theo khái niệm hẹp thì nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu như vậy nguồn nhân
lực bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi
lao động, thực tế có tham gia lao động .
Có một cách hiểu hẹp hơn nữa về nguồn nhân lực là yếu tố của sự phát
triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động cuả xã hội bao gồm nhóm dân cư
9
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Cách nhìn này cho thấy nguồn
nhân lực chính là nguồn lao động và nguồn lao động sẽ bao gồm dân số trong độ
tuổi lao động.
Theo tổ chức lao động quốc tế: Lực lượng lao động là bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Các cách hiểu trên về nguồn nhân lực, nguồn lao động, lực lượng lao động
chỉ khác nhau về xác định quy mô nguồn lực con người, nhưng có một điểm
chung là đều nói lên khả năng lao động của xã hội. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu
một cách khái quát nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một
nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó.
Số lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số, tốc độ tăng, tỷ lệ
giảm dân số của một quốc gia, tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động, . Quy
mô nguồn nhân lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia. Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn
nhân lực: thể lực, trí lực và tâm lực. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trình
độ phát triển kinh tế, phản ánh sự phát triển về mặt đời sống xã hội, chất lượng
nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là
nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội
nhất định.
• Phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm phát triển nguồn
nhân lực. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà có thể có những nhận thức khác nhau để
đưa ra khái niệm về phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể như:
Tổ chức UNESCO cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi
toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ với sự phát triển của đất
10
nước. Nhưng tổ chức lao động quốc tế (ILO) lại đưa ra khái niệm phát triển
nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh
ngành nghề hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở
nhận thức cho rằng con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới
có được việc làm hiệu quả cũng như sự thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống
cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong
quá trình sống và làm việc nhằm đáp ứng những kỳ vọng của con người.
Định nghĩa trong Báo cáo phát triển con người toàn cầu của chương trình
phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP) cho rằng: phát triển con người là “quá trình
mở rộng sự lựa chọn cho con người. Điều quan trọng nhất của phạm vi lựa chọn
rộng lớn đó là để con người sống một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được giáo dục
và được tiếp cận đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao” [17, tr.1].
Với các quan niệm như vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia
hay một vùng lãnh thổ chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng trên các
mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Như vậy, dù có diễn đạt khác
nhau, song các khái niệm trên đều đưa ra được phát triển nguồn nhân lực là quá
trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia hiệu quả vào quá
trình phát triển một quốc gia. Hay nói một cách khác phát triển nguồn nhân lực
chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến
bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện của bản thân con người. Điều đó có nghĩa là
phát triển nguồn nhân lực xã hội là khái niệm được hiểu ở góc độ hoàn thiện và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và điều chỉnh hợp lý số lượng nguồn nhân
lực. Để có thể phát triển nguồn nhân lực, xét từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế,
phải có các cơ chế, chính sách tác động vào nguồn nhân lực. Có thể hiểu phát
triển nguồn nhân lực xã hội là tổng thể các cơ chế chính sách và biện pháp hoàn
11
thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội (trí tuệ, thể chất, phẩm chất
tâm lý - xã hội) và điều chỉnh hợp lý về số lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng
giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là động
lực thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Kinh nghiệm
của nhiều nước công nghiệp hoá trước đây đã chỉ ra phần lớn thành quả phát
triển không phải nhờ nguồn tài chính kếch xù mà nhờ những hoàn thiện trong
năng lực của con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Đầu tư
cho phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời
sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói
chung.
1.1.1.2. Thước đo đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất của nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển
kinh tế, mà còn phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, nguồn nhân
lực của một quốc gia có chất lượng cao chứng tỏ quốc gia đó phát triển và thể
hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Để có cơ sở phân tích sự phát triển nguồn nhân lực cần hiểu rõ một số chỉ
tiêu đánh giá nguồn nhân lực sau đây:
- Chỉ tiêu phản ánh tình hình sức khoẻ của dân cư:
Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài cơ
thể con người, giữa thể chất và tinh thần. Có rất nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng
thái về sức khoẻ, Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại như sau:
Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật gì
12
Loại B: thể lực trung bình
Loại C: thể lực yếu không có khả năng lao động
(Các loại A, B, C sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn về thể lực như:
chiều cao, cân nặng, vòng ngực; mắt, tai, mũi, họng; răng hàm mặt; ngoại khoa;
thần kinh; da liễu.)
Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động, người ta
còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ của quốc gia thông qua: Tỷ lệ sinh thô,
chết thô, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ sinh thấp cân của
trẻ em...
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động: số người biết
chữ, không biết chữ; số người có trình độ học tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ
thông trung học.
- Chỉ tiêu người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học. Do đó trình độ chuyên môn nguồn nhân lực đo bằng:
+ Tỷ lệ cán bộ trung cấp;
+ Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học;
+ Tỷ lệ cán bộ trên đại học.
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ
hơn như: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ... thậm chí trong từng chuyên môn lại chia
thành những chuyên môn nhỏ hơn.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của
người đã được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được thể hiện thông
qua các chỉ tiêu:
13
+ Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông;
+ Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;
+ Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường được kết hợp chặt chẽ với nhau,
thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không đào tạo trong từng tập thể
nguồn nhân lực.
- Chỉ số tổng hợp phát triển con người - HDI (Human Development
Index):
Chỉ số này xác định bởi các chỉ tiêu:
+ Tuổi thọ bình quân
+ Thu nhập bình quân trên đầu người (GDP/người)
+ Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư)
Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà
còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ xã hội.
- Chỉ tiêu thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo:
tỷ lệ % ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với tổng ngân sách, tỷ lệ %
ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với GDP.
1.1.1.3. Những nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực
Xuất phát từ khái niệm phát triển nguồn nhân lực mang tính chất tổng hợp
nên các yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực như: biến đổi số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực khá đa dạng và phân theo những nhóm cơ
bản như sau:
- Chăm sóc sức khoẻ: Trong lao động sản xuất, con người vận dụng kết
hợp cả thể lực và trí lực. Thể lực là sức mạnh cơ thể, cơ bắp đảm bảo về mặt sinh
học cho sự tiêu hao sức lao động của con người trong lao động sản xuất. Trí lực
là sức mạnh tư duy, trí tuệ là cái có ý nghĩa quyết định nhất chất lượng của yếu
14
tố con người trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất. Tuy thể lực không phải là
yếu tố chủ chốt quyết định chất lượng lao động của con người nhưng rõ ràng
không có thể lực tốt thì con người cũng khó phát triển năng lực sáng tạo trong
sản xuất, vì thế vấn đề chăm sóc sức khoẻ nói chung, đảm bảo dinh dưỡng và
phát triển y tế nói riêng có tác động hết sức quan trọng đối với phát triển nguồn
nhân lực.
- Giáo dục và đào tạo: Giáo dục và đào tạo là nền tảng của sự phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu
trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của cả một
thế hệ hiện tại và mai sau. Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài đạt chất lượng cao là
thể hiện sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình
đổi mới.
- Văn hoá truyền thống dân tộc, mối quan hệ xã hội và gia đình: Mỗi quốc
gia nói chung hay mỗi một địa phương nói riêng đều có nét văn hoá đặc trưng và
có các mối quan hệ xã hội rất khác nhau, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình phát triển nguồn nhân lực của địa phương hay quốc gia đó. Để phát
triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ và có hệ thống Chính phủ phải định
hướng phát triển một xã hội hài hoà, tạo được khối đoàn kết đa văn hoá, đa sắc
tộc, đưa quyền lợi của người lao động lên hàng đầu, giảm sự phân biệt giàu
nghèo, màu sắc dân tộc. Đồng thời phát huy bản sắc dân tộc của quốc gia hay thế
mạnh văn hoá của từng địa phương để người lao động nhận thức được quyền lợi,
nghĩa vụ của chính mình góp sức vào quá trình phát triển của xã hội.
- Việc làm, trả công lao động, thu nhập và mức sống: Hiện nay, tình trạng
thất nghiệp và thiếu việc làm còn cao nên chúng ta đang tập trung giải quyết việc
làm đầy đủ cho toàn dân, nhưng về lâu dài vẫn phải tính đến giải quyết “việc làm
hợp lý” để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao hơn. Do sự tác động
của cung - cầu về lao động, đặc biệt là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện
15
tượng thất nghiệp và thiếu việc làm là không tránh khỏi, nó phản ánh một thực tế
của quá trình sắp xếp lại của một cấu trúc kinh tế xã hội mới. Thực tế đòi hỏi
phải có chính sách, giải pháp đồng bộ để hạn chế thất nghiệp. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa các tầng
lớp dân cư trong xã hội đang có xu hướng tăng lên trên bình diện cả nước. Điều
này cũng cho thấy khi nền kinh tế thị trường phát triển thì kéo theo là sự phân
tầng về thu nhập mức sống của người dân. Sự phân hoá giàu nghèo ở mức độ cao
sẽ có những tác động tiêu cực đến phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ một bộ phạn
dân cư rơi vào tình trạng nghèo tuyệt đối sẽ không có điều kiện để duy trì thể lực
cần thiết, không có khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục, theo đó là sự
nảy sinh của tệ nạn xã hội. Điều đó tác động xấu đến phát triển nguồn nhân lực
trong cả ngắn hạn và dài hạn. Sự nghèo đói tuyệt đối và tương đối ở mức cao sẽ
dẫn tới những bất ổn về xã hội, vì vậy tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế -
xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng. Sự gia tăng của mức thu
nhập cũng kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình, tỷ lệ chi
tiêu cho nhu cầu như: ăn uống, may mặc giảm đi để thay vào đó là tỷ lệ chi cho
việc mua sắm xây dựng nhà cửa và văn hoá giáo dục tăng nhanh. Mức thu nhập
được cải thiện cũng tác động làm giảm đi tình trạng nghèo đói của các hộ gia
đình. Cứ tính được thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia thì xét trên
góc độ nào đó đã đo lường được kết quả và đánh giá các thành tựu phát triển
kinh tế gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Mức sống được đo bằng
giá trị GDP đầu người, GDP đầu người được tính dựa trên hai yếu tố: tổng sản
phẩm trong nước và dân số trung bình.
- Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là điều kiện tiền đề
để nâng cao thu nhập và mức sống dân cư, và vì vậy là tiền đề để phát triển
nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế cao là cơ sở để tăng tích luỹ, đầu tư, thúc
đẩy tái sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu. Đẩy mạnh tái sản xuất sẽ thúc
16
đẩy phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động. Bởi lẽ, khi tốc độ tăng trưởng cao về
kinh tế, yêu cầu tốc độ chuyển dịch lao động cũng phải tăng cao để đảm bảo
cung cấp lao động cho các ngành nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, khi tăng trưởng kinh tế cao, sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ, theo ngành, vùng kinh tế
nhanh hơn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do tốc độ phát triển kinh tế đòi hỏi
và quyết định.
Phát triển nguồn nhân lực chủ yếu là những tiến bộ về chất lượng nguồn
nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc mỗi tổ chức. Ngoài yếu tố
chất lượng sức lao động của mỗi cá nhân đang sống và làm việc, chất lượng
nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào cơ cấu của đội ngũ lao động về ngành nghề,
trình độ kỹ thuật, năng lực tổ chức, quản lý và khả năng phối hợp hành động để
đạt mục tiêu đề ra. Một cơ cấu nhân lực hợp lý và tổ chức hoạt động tốt sẽ có tác
động cộng hưởng làm tăng sức mạnh của tổ chức và cá nhân để thực hiện mục
tiêu đề ra. Ngược lại, nếu cơ cấu không hợp lý, không đồng bộ và tổ chức quản
lý hoạt động không tốt sẽ không phát huy được tác dụng cộng hưởng mà đôi khi
còn làm giảm sức mạnh của tổ chức đó và triệt tiêu hoạt động của từng cá nhân.
Do đó, phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi tổ
chức phải chú ý lựa chọn một cơ cấu hợp lý và phù hợp với yêu cầu và trình độ
phát triển của mỗi giai đoạn.
- Điều tiết sự gia tăng dân số: Tỷ lệ sinh đẻ gây ảnh hưởng lớn đến nguồn
nhân lực, trên thế giới có rất nhiều quốc gia thuộc nhóm nước có dân số già do
xu thế phụ nữ không muốn sinh con, nếu sinh thì số lượng chỉ là 01. Trong khi
đó đa số các nước đang phát triển thì thuộc nhóm nước có dân số trẻ do tỷ lệ sinh
quá cao, ví dụ như Trung Quốc, Việt Nam… Các quốc gia này buộc phải đưa ra
biện pháp bắt buộc mỗi gia đình sinh đẻ trong tiêu chuẩn. Vì vậy, vấn đề điều
17
tiết sinh đẻ và chăm sóc sức khoẻ sinh sản là một trong những chiến dịch của các
quốc gia nhằm cân đối cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động để phát triển kinh tế xã
hội.
1.1.1.4. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước
Vai trò của phát triển nguồn nhân lực được thể ở một số nội dung chủ yếu
sau:
- Thứ nhất, đảm bảo cơ cấu lao động hợp lý để nâng cao năng suất lao động
Để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh thì cơ cấu lao
động phải hợp lý. Mục tiêu của phát triển nguồn nhân lực là tạo ra cơ cấu lao
động hợp lý, đảm bảo tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ lên
tuyệt đối và tương đối, giảm lao động trong ngành nông nghiệp xuống tuyệt đối
và tương đối. Sự biến đổi về cơ cấu lao động theo cơ chế thị trường là tăng lao
động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tăng lao động xuất khẩu giảm tỷ lệ thất
nghiệp, khuyến khích sự phát triển trong khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, việc
phát triển nguồn nhân lực là một cuộc cải cách mạnh mẽ về cơ cấu lao động của
một quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Năng suất lao động là sức mạnh của cạnh tranh trong xu thế hội nhập,
quyết định sự tiến bộ xã hội của mọi thời đại. Phát triển nguồn nhân lực sẽ hình
thành cơ cấu lao động hợp lý có trình độ chuyên môn cao để nâng cao năng suất lao
động trong các lĩnh vực của nền kinh ế quốc dân.
- Thứ hai, đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục
vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo ra đội ngũ những người lao động có
chuyên môn kỹ thuật đủ về số lượng và cao về chất lượng phục vụ quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
18
Sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập tạo ra một phong
cách lao động mới, người lao động có trình độ học thức và chuyên môn kỹ thuật
cao làm thay đổi nhận thức trong lao động khoa học, nhanh, chính xác, theo kịp
yêu cầu của thời đại. Nhận thức của người lao động dần dần được nâng cao, phù
hợp với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội và yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Thứ ba, đáp ứng nhu cầu lao động cho xã hội, phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi, phát triển cơ cấu lao động
nhằm đảm bảo cung, cầu lao động trên thị trường theo yêu cầu phát triền nền
kinh tế - xã hội. Đảm bảo cung lao động ở các nước đang phát triển nói chung, ở
Việt Nam mói riêng được tập trung vào cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo để
tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, có ngành nghề hợp lý theo đúng yêu
cầu của thị trường lao động. Cầu lao động được mở rộng trên cơ sở phát triển,
mở rộng ngành nghề theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực. Giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế
là mục tiêu quan trọng của nền kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực một mặt
là đảm bảo cung cấp lao động cho thị trường theo đúng yêu cầu về số lượng và
chất lượng, mặt khác làm tăng cầu lao động tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư.
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
• Các khái niệm
- Toàn cầu hoá kinh tế
19
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây
đã trở thành đề tài được rất nhiều các học giả, các tầng lớp dân chúng đặc biệt
quan tâm. Có người cho rằng quá trình toàn cầu hoá như một giải pháp cứu tinh
cho nền kinh tế, có người lại xem nó như là một mối đe dọa các quốc gia. Ở các
nước kém phát triển hay phát triển cũng có hai cách nhìn nhận như vậy. Mỗi
quốc gia có cách hiểu về nội dung toàn cầu hoá như thế nào mà xác định thời
điểm toàn cầu hoá bắt đầu và cái đích nó đi tới cùng với những hình thức đa
dạng, hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không có biên giới quốc gia
về kinh tế.
Thuật ngữ toàn cầu hoá đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961 nhưng đến
những năm 80 của thế kỷ XX nó mới được phổ biến. Thực ra trước đó người ta
đã sử dụng khái niệm hội nhập toàn cầu với ý nghĩa tương tự như toàn cầu hoá. Do
vậy có thể xem hội nhập và toàn cầu hoá là những khái niệm tương đồng.
Toàn cầu hoá và hội nhập có thể chia thành nhiều mặt như: chính trị, an
ninh, kinh tế, văn hoá... Nhưng cho tới nay, thì toàn cầu hoá và hội nhập tiến
triển mạnh nhất và rõ nét nhất là toàn cầu hoá và hội nhập về kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế chính là quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã đạt
đến trình độ đưa vào lưu thông kinh tế toàn cầu các khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội dựa trên sự phân công toàn cầu, thông qua các loại hình kinh tế khác
nhau giữa các nước và do đó khiến cho các nền kinh tế quốc gia xâm nhập và
gắn bó với nhau, chuyển hoá thành nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, toàn cầu hoá
kinh tế là kết quả của sự phát triển cao độ quốc tế hoá sản xuất và phân công
quốc tế. Đây là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bất kể
nước nào, kể cả Mỹ. Tiến trình toàn cầu hoá kinh tế xuất hiện và phát triển cùng
với sự phát triển của thị trường thế giới. Từ đó có thể nói, toàn cầu hoá kinh tế là
sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,
khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và
20
phát triển. Sự gia tăng của xu hướng này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và
quy mô mậu dịch thế giới, ở sự luân chuyển của các dòng vốn và lao động trên
quy mô toàn cầu.
Cơ sở khách quan và những nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế là:
1) Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng
khoa học công nghệ.
2) Sự phát triển manh mẽ của kinh tế thị trường
3) Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
4) Vai trò của các định chế kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực.
Toàn cầu hoá kinh tế có những đặc trưng cơ bản sau:
1) Toàn cầu hoá kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hoá
kinh tế.
2) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vận động khách quan của lịch sử.
3) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vừa hợp tác chặt chẽ vừa cạnh tranh
giữa các quốc gia
4) Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nhưng chịu sự tác động của
chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ.
5) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính hai mặt: tích cực và tiêu
cực. Toàn cầu hoá có mặt tích cực như mở ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi
cho công cuộc phát triển và chấn hưng đất nước, song nó cũng đặt ra nguy cơ về
độ an toàn của đời sống con người trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, môi trường và làm trầm trọng hơn sự phân hoá và bất bình đẳng.
- Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có liên quan trực tiếp với toàn cầu hoá kinh tế, là
quá trình đồng hành với quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Dưới tác động của xu thế
toàn cầu hoá, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng xuất hiện, không thể có toàn
21
cầu hoá kinh tế nếu không có sự tham gia ngày càng đông của các quốc gia.
Toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu, và hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một tất yếu
khách quan.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ gần
đây và cho đến nay, vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc
tế. Cách hiểu này xoay quanh hai loại ý kiến:
Một là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia tiến
hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết quốc tế song
phương, đa phương và toàn cầu về các lĩnh vực thương mại, đầu tư và các lĩnh
vực khác có liên quan nhằm đảm bảo tính tương thích giữa hệ thống kinh tế quốc
gia với hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu trên cơ sở những nguyên tắc và quy
định thống nhất. Điều thấy rõ nhất về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ quan
niệm này là việc thống nhất các chính sách, quy định pháp lý trong từng quốc gia
với những nguyên tắc, thông lệ và tập quán quốc tế.
Hai là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia loại
bỏ dần các rào cản để hoạt động thương mại, di chuyển các yếu tố sản xuất và
thanh toán quốc tế diễn ra một cách thuận lợi. Loại quan điểm này hiểu quá trình
hội nhập gắn với quá trình tự do hoá.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng quan niệm tương đối phổ
biến hiện nay là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc
gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các nước thành
viên chịu sự ràng buộc theo những quy định chung của cả khối. Nói một cách
khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình
kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế,
thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác.
22
Nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế đối với các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam là: 1) Hội nhập vào thị trường toàn cầu; 2) Hội nhập với
các luồng vốn đang lưu chuyển tự do trên toàn cầu và hệ thống tài chính, tiền tệ
toàn cầu; 3) Hội nhập với các tiêu chuẩn toàn cầu, với hệ thống pháp luật toàn
cầu liên quan đến hoạt động kinh tế; 4) Hội nhập vào nền kinh tế tri thức, phát
triển dựa trên khoa học và công nghệ cao; 5) Hội nhập với lực lượng lao động
toàn cầu.
• Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu và đang diễn ra sâu rộng
trên thế giới, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy
vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cả những thời cơ, thuận lợi và thách thức,
khó khăn.
- Cơ hội, thuận lợi:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế - xã
hội và cải cách thể chế; trước hết, thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và
chính sách của nước ta, tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và
thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu
tư và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song phương
và đa phương của nước ta với các nước trên thế giới. Thông qua việc mở cửa các
thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, giảm những hàng rào thuế quan, phi thuế
quan, những biện pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường, được tiếp cận với nhiều thị
23
trường và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đồng thời, hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
những mặt hàng truyền thống như may mặc, giầy da, đồ thủ công mỹ nghệ, xuất
khẩu lao động, phát triển du lịch… Điều này góp phần to lớn trong việc tăng thu
nhập cho người lao động, nhất là nông dân.
Ở các nước phát triển có nguồn lao động kỹ thuật được đào tạo, có tay
nghề cao, nhiều cán bộ kỹ thuật và quản lý cao cấp, có nhiều học giả tài năng
trong nhiều lĩnh vực… nhưng lại thiếu những lao động giản đơn, tiền lương thấp.
Ngược lại, các nước đang phát triển lại thừa lao động giản đơn, nhưng rất thiếu
lao động có kỹ năng và trí tuệ. Nhờ có toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
các nguồn nhân lực này có điều kiện di chuyển, trao đổi cho nhau, giúp nhau tạo
ra các lợi thế so sánh. Dòng lao động giản đơn di chuyển từ các nước đang phát
triển sang các nước phát triển. Dòng lao động lành nghề có trí tuệ di chuyển từ
các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Các công ty của các nước phát
triển cũng có thể lập nhà máy để sử dụng lao động tại các nước kém phát triển,
rồi bán hàng hoá về nước…
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội to lớn cho việc đào
tạo và sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn với những hình thức rất đa dạng: làm
gia công lắp ráp, chế biến xuất khẩu, mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy,
nghiên cứu… và đây cũng là một thời cơ lớn để các nước có thể sử dụng nguồn
lực trên phạm vi quốc tế một cách hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần không nhỏ vào việc tăng nguồn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam, cải thiện hệ thống tranh chấp về thương mại trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Vốn nước ngoài vào Việt Nam đi kèm với công nghệ
mới, tri thức, ý tưởng kinh doanh mới, kinh nghiệm quản lý v.v…, nguồn tri thức
quý báu, công nghệ mới là tài sản vô hình có giá trị lớn không thể đong đếm
được do chính sách mở cửa mang lại. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt
24
là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, người tiêu dùng trong nước có thêm sự lựa
chọn về hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, các doanh
nghiệp trong nước có thể tiếp cận nguồn nguyên liệu, đầu vào với giá cạnh tranh
hơn, có chất lượng hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất sản xuất, nâng cao chất lượng,
hiệu quả kinh doanh.
- Thách thức, khó khăn
Bên cạnh những cơ hội, thuận lợi trên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đang đặt ra những thách thức và khó khăn đối với sự phát triển của nền kinh tế
nước ta:
Thứ nhất, nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt ở cả ba giác độ: sản
phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam
sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị
trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước.
Thứ hai, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết liên quan đến
các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ,
phải xoá bỏ ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường kinh doanh
minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt giữa các loại hình doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước phải cải cách hệ thống tài chính -
ngân hàng, cải cách hành chính, đảm bảo chính sách ổn định, minh bạch, thuận
lợi, tạo môi trường đầu tư kinh doanh mang tính cạnh tranh.
Thứ ba, những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng
hoá quốc tế sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến thị trường trong nước; tiềm ẩn
nguy cơ không kiểm soát được thị trường, có thể gây ra rối loạn, thậm chí khủng
hoảng kinh tế, tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền
vững của đất nước.
25
Đơn cử cho nguy cơ này là tình trạng suy thoái giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế thế giới từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay vẫn chưa chấm dứt,
cuộc suy thoái kinh tế thế giới năm 2001 và đặc biệt là cơn bão suy thoái kinh tế
toàn cầu bắt đầu bùng nổ từ giữa năm 2008 là một bằng chứng cho thấy thách
thức này thực sự là một lo lắng toàn cầu.
Thứ tư, tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế có thể làm tăng thêm
sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng,
miền, đất nước. Có những bộ phận dân cư ít được hưởng lợi, thậm trí còn bị tác
động tiêu cực, một bộ phận doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể
tăng lên. Khoảng cách giàu nghèo, mức sống giữa nông thôn và thành thị có thể
rộng hơn, từ đó dẫn đến những yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến
định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
Thứ năm, đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ quản lý nhà nước, quản trị
doanh nghiệp và chuyên gia còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình
độ tin học, ngoại ngữ. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng
lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều.
Bên cạnh các vấn đề kinh tế còn có thể có những cái giá phải trả về môi
trường, về lối sống, về những bệnh tật .v.v. nhưng cái giá này lớn nhỏ bao nhiêu
lại do chính những chính sách của Việt Nam quy định. Những cơ hội, thách thức
nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội
không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của
chúng ta. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách th, tạo ra
cơ hội lớn hơn. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn
tuỳ thuộc vào khả năng vượt qua của chúng ta.
1.1.2.2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam
26
Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của khoa
học công nghệ và hình thành, phát triển nền kinh tế tri thức đặt ra những yêu cầu
mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực.
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có được đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước, quản trị kinh doanh và chuyên gia trong các lĩnh vực
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, mạnh về năng lực chuyên môn, phải có trình
độ tin học, ngoại ngữ, tăng nhanh về số lượng lao động có trình độ chuyên môn
và tay nghề cao.
Thứ hai, trong nền kinh tế hiện đại, sự đổi mới của công nghệ diễn ra
nhanh chóng đòi hỏi mỗi người làm việc phải thích ứng linh hoạt với những thay
đổi của công nghệ, của thị trường và không ngừng nắm bắt, học hỏi, trang bị
kiến thức mới. Tính chất và mục tiêu hoạt động của người lao động sẽ thay đổi
cơ bản về bản chất. Mục tiêu của chính sách việc làm chuyển từ phát triển theo
chiều rộng lấy toàn dụng lao động làm tiêu chuẩn chính sang đáp ứng nhu cầu về
tiền lương, thu nhập cao và tăng nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu tái sản xuất sức
lao động ngày càng cao và đa dạng.
Thứ ba, tính chất và yêu cầu của việc làm thay đổi nhanh hơn, nhiều công
việc cũ mất đi và nhanh chóng thay vào đó là những việc làm mới với những tiêu
chuẩn và đòi hỏi mới cao hơn, ngặt nghèo hơn và kèm theo đó nguy cơ xuất hiện
những rủi ro liên quan đến mất việc làm sẽ tăng lên. Vì vậy, con người phải linh
hoạt, năng động và luôn luôn sẵn sàng chấp nhận mọi sự thay đổi. Đồng thời thể
lực của người lao động cũng phải được quan tâm, tăng cường để sẵn sàng đối
phó, thích ứng với những biến đổi của thị trường.
Thứ tư, người lao động phải học tập, nâng cao trình độ nhiều hơn, nhanh
hơn, vấn đề hình thành “xã hội học tập” và “học tập suốt đời” trở thành một yêu
cầu cấp bách đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nhiều giá trị xã hội và văn hóa
bị tác động mạnh và cần phải được thích nghi, sự phân hóa xã hội diễn ra nhanh,
27
mạnh hơn. Yêu cầu này nhấn mạnh vấn đề chất lượng nguồn nhân lực phải được
quan tâm hàng đầu của sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Trước đây, sự phát triển của một quốc gia, lãnh thổ chủ yếu dựa
vào các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn tư bản, thị trường tiêu
thụ…, nhưng trong thời đại của công nghệ thông tin như hiện nay tri thức lại có
ý nghĩa hết sức lớn lao, có thể tạo nên sự thịnh vượng, giàu có cho một quốc gia,
vùng lãnh thổ một cách vững chắc, lâu dài. Và yêu cầu này đã có sự thay đổi lớn
rõ rệt là trước kia tuyển dụng lao động đòi hỏi hàng đầu là sự cần cù, tính tốt thì
nay được thay bằng tiêu chuẩn của đội ngũ lao động phải có tính sáng tạo, có khả
năng phân tích, có khả năng làm việc theo nhóm... Điều này cho thấy để đạt
được chất lượng nguồn nhân lực tốt thì công tác đào tạo nguồn nhân lực phải đạt
chuẩn, đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác đào tạo phải có trình độ chuyên
môn cao mới đáp ứng được nhu cầu xã hội trong quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó Chính phủ phải nghiên cứu và dự báo một cách thường xuyên
các dấu hiệu về thị trường lao động và thông báo kịp thời đến các sinh viên, các
doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo để định hướng về lao động, việc làm, cũng như
nâng cao chất lượng và hiệu quả của các chương trình, hình thức đào tạo và
phương thức đào tạo. Có như vậy mới đáp ứng thường xuyên nhu cầu về nguồn
nhân lực trong bối cảnh kinh tế phát triển nhanh chóng và xu thế di chuyển lao
động giữa các ngành, nghề, quốc gia.
Thứ năm, xu thế chuẩn hóa, quốc tế hóa những tiêu chuẩn về tổ chức lao
động và điều kiện làm việc, đặc biệt là những tiêu chuẩn kỹ thuật được quy định
bởi tính năng của máy móc thiết bị và được xác định ngay trong quá trình thiết
kế đòi hỏi những quốc gia nhập khẩu máy móc thiết bị phải tuân theo, đòi hỏi
con người phải được phát triển về tầm vóc và thể lực tương ứng để phù hợp và
sử dụng có hiệu quả những công cụ lao động mới, hiện đại này.
28
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình
1.2.1.1 Các nước công nghiệp hoá mới (NICs) châu Á
Các nước này đều nhận thức được rằng con người là vốn quý nhất của xã
hội, là yếu tố quyết định của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, tài chính hạn hẹp khiến cho từng người
dân ở các quốc gia này phải luôn khắc ghi một điều muốn phát triển phải chịu
khó học hỏi và làm việc cật lực, phát huy hết khả năng tiềm tàng của hai bàn tay
và khối óc. Chính vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực của các nước
thuộc khối này thông qua giáo dục - đào tạo luôn được xây dựng trên việc tận
dụng và khai thác các thế mạnh vốn có của mình, trước hết là về con người,
những giá trị văn hoá, xã hội và tinh thần tích luỹ được từ lâu trong quá trình
phát triển như tính cần cù, ham học hỏi, tôn sư trọng đạo. Việc hoạch định chính
sách phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo không chỉ là công
việc của các quan chức chính phủ, Bộ giáo dục và các Bộ liên quan mà còn có sự
cộng tác chặt chẽ, có sự tham gia rộng rãi của các chính quyền địa phương, các
doanh nghiệp, công đoàn đại diện cho giới lao động, giới tri thức, báo chí. Nhờ
sự tham gia của các cơ quan hữu quan như vậy nên cơ quan xây dựng chính sách
này hiểu được nhu cầu và tiềm năng của nhau và nhờ đó chính sách được đề ra
một cách phù hợp nhất, có tính nhu cầu của các bên cũng như yêu cầu của thị
trường và xu hướng phát triển của đất nước, để việc thực hiện đi đến thành công.
Khát vọng đuổi kịp các nước phát triển đã thúc đẩy các nước này nhanh
chóng nâng cao trình trình độ dân chúng và tạo ra đội ngũ lao động có trình độ
đồng đều và phù hợp để tiếp thu công nghệ tiên tiến. Trước tiên, chính phủ các
nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục tiểu học, gần như một nửa kinh phí giáo dục
giành cho giáo dục tiểu học, nhờ đó mà hầu hết các nền kinh tế thực hiện thành
29
công quá trình phổ cập giáo dục tiểu học, tạo nền tảng cho việc dịch chuyển lao
động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng như cho xây dựng và phát
triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Yêu
cầu của thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là nguồn nhân lực phải có
trình độ cao hơn, sau khi thực hiện thành công giáo dục tiểu học, các nền kinh tế
chuyển sang mở rộng giáo dục trung học, giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học.
Tại Hàn Quốc từ năm 1970 đến năm 1999, số các trường đại học đã tăng rất
nhanh, số giáo sư tăng hơn 7 lần, số các sinh viên trong các trường đại học đào tạo
bốn năm đã nhảy vọt từ 146.000 (năm 1970) lên tới 1.588.000 (năm 1999) [43,
tr.9].
Bảng 1.1: Sự phát triển của giáo dục Đại học ở Hàn Quốc (1970-1999)
Số các trường đại học
Số sinh viên
Số giáo sư
Năm
1970
71
146.414
7.779
1975
72
208.986
10.080
1980
85
402.979
14.458
1985
100
931.884
26.047
1990
107
1.040.166
33.340
1995
131
1.187.735
45.087
1999
158
1.587.667
57.001
Nguån: YUN, CHUNG II (2005), qu¶n lý gi¸o dôc, tµi liÖu tham kh¶o
dÞch tõ tiÕng Anh, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi.
T¹i Singapor ChÝnh phñ ®Çu t thích đáng cho giáo dục đại học, ví dụ
trường đại học quốc gia Singapor (NUS) với 13 trung tâm/viện nghiên cứu cấp
quốc gia, 11 viện/trung tâm cấp trường và 70 viện/trung tâm cấp khoa, Chính
phủ cùng NUS quyết tâm đẩy mạnh khám phá kiến thức và phát minh mới, đào
tạo sinh viên lỗi lạc và bồi dưỡng nhân tài phục vụ đất nước và xã hội. Hàng
trăm chương trình đào tạo được thiết kế với nền căn bản rộng, liên ngành và liên
khoa. Với những cố gắng đó NUS đã được quốc tế công nhận đứng vào danh
30
sách 500 trường đại học chất lượng nhất thế giới. Năm 2004, NUS đã thu hút
được 31.346 sinh viên, trong đó có 8.595 sinh viên sau đại học. Lực lượng cơ
hữu của trường gồm 2.055 giảng viên (kể cả quốc tế), 1.151 nghiên cứu viên,
856 cán bộ quản lý hành chính và 2.569 cán bộ phục vụ chung. Hàng năm chính
phủ Singapor đầu tư khoảng 990 triệu USD, nhà trường tạo thêm được khoảng
360 triệu USD từ các hoạt động khoa học, công nghệ, đào tạo, dịch vụ [20].
Bên cạnh việc mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, các nước
NICs cho rằng lực lượng lao động có tay nghề cao là cầu nối giữa các nhà khoa
học và sản xuất, là lực lượng chủ chốt trong sản xuất. Các nước này kết hợp phát
triển giáo dục nghề ban đầu ở cả cấp trung học lẫn sau trung học, cả các trường
công lẫn trường tư, cả các hệ chính quy lẫn phi chính quy, nhằm khuyến khích
học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục và đào tạo nghề. Trong nhiều
phương thức giáo dục đào tạo nghề ở các nền kinh tế, nổi trội nhất là đào tạo
nghề ngay tại nơi làm việc, tức là đào tạo ngay tại công ty. Hình thức này đặc
biệt phát triển ở Hàn Quốc, và phương thức này đã thu được thành công nhờ đào
tạo lực lượng lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nước NICs cũng rất tích cực đưa lao động tri thức ra nước ngoài học
tập, sau khi tốt nghiệp hoặc mãn khoá đa số họ trở về nước và trở thành lực
lượng lao động rất quý giá. Hàn Quốc, Singapor và các vùng lãnh thổ Đài Loan,
Hồng Kông đã rất thành công trong quá trình phát triển nguồn nhân lực để thúc
đẩy hội nhập kinh tế quốc tế do có đội ngũ lao động trí thức lớn có khả năng tiếp
thu và áp dụng hiệu quả vốn tri thức mới và công nghệ tiên tiến.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc tiến hành cải cách nền kinh tế vĩ mô gắn liền với cải cách thể
chế, tính chủ động được thể hiện mạnh mẽ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Với dân số đông hơn 1,3 tỷ người, lực lượng lao động tồn dư trong nền kinh
tế lớn do sự mất cân đối giữa sự phát triển dân số và các chính sách cơ cấu ngành
31
và khu vực trước đây. Sau khi đi vào cải cách năm 1978, Trung Quốc có chính
sách cho các thanh niên thành phố trở về khu vực thành thị sau thời gian bị bắt
buộc về nông thôn (thời kỳ cách mạng văn hoá). Khoảng hơn 20 triệu thanh niên
trở về thành phố, lực lượng này tạo sức ép về việc làm. Để giải quyết vấn đề này
nhà nước một mặt khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng nhiều
công nhân hơn, mặt khác thúc đẩy sự ra đời của các hợp tác xã, doanh nghiệp
nhỏ. Tình hình thất nghiệp được cải thiện đáng kể, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp
tình thế và tác động của nó là làm giảm hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước.
Từ những năm 1980 trở đi do sức ép của toàn cầu hoá mạnh nên Trung Quốc
buộc phải cải cách các doanh nghiệp nhà nước và đóng cửa một số doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả, sa thải hàng loạt công nhân (năm 1997 số công nhân bị
sa thải là 11,5 triệu từ các doanh nghiệp nhà nước), bên cạnh việc sa thải công
nhân các doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục cải cách, sát nhập hoặc bán, khoán
mạnh mẽ hơn. Đồng thời số lao động dư thừa ở nông thôn Trung Quốc chiếm tỷ
lệ rất lớn. Cũng như nước ta, Trung Quốc tiến hành công nghiệp hoá nên diện
tích canh tác bị thu hẹp, dân số vẫn tiếp tục tăng, khoa học kỹ thuật đổ bộ vào
sản xuất nông nghiệp tạo nên con số lao động dư thừa khoảng 200 triệu người
[39, tr.396].
Chất lượng lao động còn thấp nên chưa đáp ứng được yêu cầu của phát
triển kinh tế hiện đại. Trong tình hình bất cân đối rất lớn giữa nhu cầu việc làm
và khả năng đáp ứng việc làm, xuất hiện hiện tượng thất nghiệp mang tính cơ
cấu, có người là lao động phổ thông không có việc làm, có những việc đòi hỏi kỹ
năng chuyên môn cao rất thiếu người làm. Đồng thời sự gia tăng lực lượng lao
động mới hàng năm lớn, lực lượng lao động dư thừa tồn đọng từ quá khứ nhiều,
xu thế tăng trưởng làm giảm khả năng tạo việc làm so với trước đây và trình độ
lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực của xu thế phát triển nền
sản xuất dựa trên tri thức và phát triển kinh tế hiện đại, đã tạo ra sức ép rất lớn
32
đối với việc làm và lao động của Trung Quốc. Để tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế Trung Quốc đã tạo ra được những bước tiến mới trong vấn đề việc làm và lao
động. Nhiều việc làm với chất lượng và năng suất lao động cao hơn được tạo ra,
các xu hướng tạo việc làm nói chung và cải cách các vấn đề thể chế liên quan
đến lao động ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn, Chính phủ phải đi tới giải pháp tự
do hoá thị trường lao động, đặc biệt tự do hoá việc di cư lao động nông thôn -
thành thị góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển nông thôn - thành thị, tạo cơ
hội việc làm cho khu vực nông thôn và miền duyên hải, tiền lương cho lực lượng
lao động phổ thông có cơ hội gia tăng lớn.
Trung Quốc đưa ra chính sách hình thành các tập đoàn kinh tế nhằm nâng
cao sức cạnh tranh, và hoạch định chính sách thu hút nhân tài và xây dựng đội
ngũ các nhà doanh nghiệp, doanh nhân Trung Quốc. Chiến lược thu hút nhân tài
quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, để trở thành doanh nghiệp hàng
đầu phải có đội ngũ quản lý giỏi và những người lao động giỏi tiếp thu được
kinh nghiệm, chất xám của nước ngoài. Điều này cho phép doanh nghiệp nói
riêng hay Trung Quốc nói chung có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để giữ được các nhân tài, Trung Quốc xây dựng nền văn hoá dân chủ,
liên tục mở rộng và tạo ra các cơ sở cho các nhân tài phát triển. Bên cạnh chế độ
đãi ngộ về vật chất, danh vọng cũng là một biện pháp quan trọng để khuyến
khích nhân tài cống hiến cho đất nước. Ngoài ra, quan hệ giữa người làm công
và ông chủ cho phép họ dự báo được tương lai của mình và mức độ nhiệt tình
đối với công việc.
Đáp ứng nhu cầu của thị trường về nhân tài, chính phủ Trung Quốc đứng
ra thành lập thị trường nhân tài và trên thực tế thì thị trường này vận hành chưa
được tốt. Bắt đầu từ năm 2004, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách thống
nhất thị trường lao động.
33
Nhà nước Trung Quốc đã tạo sức ép các nhà doanh nghiệp phải có phương
hướng phát triển đúng đắn, phù hợp và góp phần vào sự phát triển chung của
quốc gia, mặt khác phải khai thác những thuận lợi của thị trường trong nước,
phải quan tâm tới việc tạo điều kiện để tái sử dụng lao động, tạo công ăn việc
làm và có trách nhiệm với Nhà nước. Và một điều đáng chú ý là ở Trung Quốc
hiện nay số lượng nữ doanh nhân ngày càng nhiều, nhất là lĩnh vực dịch vụ. Tuy
nhiên, phụ nữ tham gia chính trị hay học tập còn nhiều hạn chế do sự phân biệt
xã hội và phân biệt giới tính. Trong giới lãnh đạo cấp cao, tỷ lệ nữ giảm, ở nông
thôn lao động nữ được trả công thấp hơn lao động nam, những sinh viên nữ mới
ra trường khó xin việc làm hơn sinh viên nam .
Đặc biệt, trong những năm qua, Trung Quốc đã xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế 5 năm và bước sang kế hoạch 5 năm lần thứ 11. Như chúng ta thấy,
họ không còn nói về kế hoạch nữa, mà là chương trình. Điều đó chứng tỏ hiện
nay Trung Quốc đã từ bỏ rất nhiều cái giống như là kế hoạch hoá truyền thống
để xây dựng những chương trình và hiện nay là chương trình 5 năm lần thứ 11
(2006 -2010). Chương trình này chỉ bao gồm các chỉ tiêu về GDP bình
quân/người, các giá trị về dịch vụ và chỉ tiêu việc làm. Chương trình này liên
quan rất nhiều đến những chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, một trong những mục tiêu
mà Trung Quốc muốn làm là thúc đẩy giáo dục bắt buộc ở nông thôn bằng cách
miễn học phí, tăng việc làm bền vững ở khu vực thành thị. Với chính sách mới
thúc đẩy thúc đẩy giáo dục ở khu vực nông thôn - đó là cho người dân đi học mà
không cần đóng học phí, đã làm cho giáo dục của Trung Quốc ở khu vực nông
thôn đã được cải thiện rất nhiều [4, tr.217].
Ngay tại thời điểm đầu của thời kỳ mở cửa, Đảng cộng sản Trung Quốc đã
xác định “muốn phát triển nhanh nền kinh tế đất nước, cần phải dựa vào khoa
học và giáo dục, tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, làm nhiều hành động thiết
thực đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục và khoa học của đất nước”. Nhà
34
nước đưa ra chủ trương cải cách thể chế giáo dục phải áp dụng đồng bộ, theo
phương châm thúc đẩy từng bước. Chính phủ chịu hoàn toàn trách nhiệm về
công tác dạy và học, từng bước thiết lập cơ chế Chính phủ một chủ thể, tạo điều
kiện để các tổ chức xã hội cũng có thể tham gia vào nhiệm vụ quan trọng này.
Trước mắt cải cách quan trọng là điều chỉnh kết cấu giáo dục sau tiểu học, sau sơ
trung, sau cao trung ở ngành giáo dục phổ thông, song song với nỗ lực phát triển
giáo dục hướng nghiệp và giáo dục người trưởng thành. Tiếp tục tiến hành cải
cách thể chế giáo dục ở đại học và cao đẳng, hoàn thiện phân cấp quản lý, phân
cấp dạy học.
Giáo dục dạy nghề vẫn còn tồn tại một số vấn đề như: cơ cấu giáo dục còn
chưa thật gắn kết giáo dục phổ thông với giáo dục thường xuyên, giáo dục hướng
nghiệp và giáo dục người trưởng thành. Hơn nữa, chính bản thân giáo dục phổ
thông cũng không gắn bó đúng mức với việc phát triển kinh tế địa phương,
không làm cho học sinh gắn những gì họ đã học với việc làm trong tương lai nên
trong sự phát triển chung, giáo dục và kinh tế chưa thật sự gắn kết với nhau, hiệu
quả hỗ trợ phát triển chưa rõ nét. Mục tiêu chung của cải cách là xây dựng và
hình thành một cơ cấu hợp lý, trong đó các hình thức giáo dục có liên hệ gắn kết
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng của người lao
động, phục vụ hữu hiệu sự phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Trung Quốc từng bước hoàn thiện thể chế giáo dục trong những năm thực
hiện chiến lược “khoa giáo hưng quốc” với tinh thần “cần đưa giáo dục lên vị trí
chiến lược ưu tiên phát triển, nỗ lực nâng cao trình độ tư tưởng và đạo đức, văn
hoá, khoa học kỹ thuật của toàn dân tộc, đây là kế hoạch lớn cơ bản, thực hiện
hiện đại hoá Trung Quốc”. Các nhà quản lý và nghiên cứu giáo dục Trung Quốc
chủ trương kiên trì sáng tạo, đưa cải cách giáo dục vào chiều sâu, tối ưu hoá kết
cấu giáo dục, phân bổ hợp lý nguồn lực giáo dục, đào tạo nhân lực có chất lượng
cao [5, tr.153].
35
1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực
- Chú trọng áp dụng các loại hình chính sách thị trường lao động chủ
động: Việc lựa chọn áp dụng chính sách này hay chính sách khác phụ thuộc vào
điều kiện cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp, hoặc từng thời điểm. Tuy
nhiên, cho đến nay, các chính sách thị trường chủ động, nhất là chính sách đào
tạo và đào tạo lại vẫn chưa được chú trọng. Để đáp ứng đào tạo bồi dưỡng tay
nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, buộc Chính phủ phải xác định
rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu công nhân, thiếu người có tay
nghề cao, lĩnh vực cần đào tạo lúc này là kỹ năng về quản trị doanh nghiệp, các
hiểu biết về thị trường, khả năng hợp tác công việc. Đồng thời đầu tư cơ sở hạ
tầng và chế độ đãi ngộ với cán bộ giảng dạy từ cấp tiểu học cho đến đại học để
chất lượng giáo dục đạt hiệu quả cao nhất. Trung Quốc đã phát triển rất nhanh
giáo dục đại học và cách tiếp cận của họ đã không thành công. Trung Quốc đã
tạo ra rất nhiều người tốt nghiệp đại học nhưng rất nhiều trong số đó không có
khả năng tìm được việc làm, phần lớn các khoản chi cho các trường đại học đã
chi không đúng, chi sai mục tiêu. Mặc dù Trung Quốc cố gắng phát triển giáo
dục ở khu vực nông thôn nhưng trong thực tế họ lại tập trung nguồn lực cho việc
phát triển giáo dục ở khu vực thành thị, chủ yếu là giáo dục đại học và vô tình nó
đóng góp không nhiều vào quá trình phát triển của đất nước. Từ kinh nghiệm
này, Việt Nam rút ra bài học là tập trung vào tăng cường các kỹ năng công
nghiệp, cần nhiều nguồn lực để đào tạo ra các kỹ thuật viên để làm trong lĩnh
vực công nghiệp thay vì đào tạo ra quá nhiều những người có bằng đại học.
- Phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: Mô hình này Đài
Loan đã làm rất tốt - nhiều công ty nhỏ - nền kinh tế Đài Loan năng động, hiệu
suất lao động cao và thu nhập cũng rất cao. Loại hình doanh nghiệp này xuất
phát từ hộ kinh doanh cá thể, mang tính gia đình hay các làng nghề truyền thống,
các ngành nghề kinh doanh chủ yếu là dịch vụ tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp,
sản phẩm mỹ nghệ, vận tải... các doanh nghiệp này cho phép người lao động tự
36
tạo công ăn việc làm cho mình để tránh thất nghiệp, bù đắp thâm hụt về thu
nhập, rút ngắn chênh lệch cung cầu lao động trên thị trường. Bài học rút ra ở đây
là Việt Nam cần xác định có nên tiếp tục theo cơ cấu bành trướng các doanh
nghiệp nhà nước theo mô hình các tập đoàn kinh tế như hiện nay không, vì như
vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn về mặt kinh tế. Vấn đề sở hữu không đặt lên hàng đầu
mà là quản lý tốt và hoạt động tốt, Nhà nước và tư nhân đều tham gia vận hành
hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước cần có chiến lược phát triển các công ty lớn,
có kinh nghiệm, có khả năng cạnh tranh, khả năng xuất khẩu nhiều hơn nữa,
quan tâm đến các doanh nghiệp nhỏ vì tạo ra nhiều công ăn việc làm
- Thu hút và trọng dụng nhân tài là kinh nghiệm rất đáng nghiên cứu và
vận dụng vào điều kiện của Việt Nam nhằm phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình thu hút và trọng dụng nhân tài, các quốc gia trước hết
hướng tới việc thu hút nhân tài làm việc trong các khu vực công. Đây là khu vực
mà việc thu hút và trọng dụng nhân tài có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của
quốc gia nhưng lại rất khó thực hiện vì sự sơ cứng và quan liêu của chính bộ
máy công. Singapor đã thực hiện cấp học bổng tổng thống cho những cá nhân
xuất sắc với quy chế ràng buộc trở về làm việc cho khu vực nhà nước từ 4 đến 6
năm. Nhờ cách làm này, Chính phủ Singapor có thể thu hút được những nguồn
tài năng nhất trên toàn quốc gia làm việc cho Chính phủ. Hơn nữa, Singapor đã
có nhiều chính sách vô cùng linh hoạt để trả công thoả đáng cho những công
chức nói trên.
Với mục tiêu trọng dụng và thu hút tài năng vào đội ngũ cán bộ cao cấp -
cốt lõi của hệ thống công chức, Hàn Quốc đã triển khai hàng loạt các biện pháp,
trong đó, đặc biệt chú trọng cơ chế mở, minh bạch trong chọn người và dùng
người. Theo đó, người tài có thể tự ứng cử hoặc được đề cử vào các vị trí quan
trọng trong bộ máy nhà nước, kể cả vị trí Bộ trưởng.
37
Trong những năm gần đây, Trung Quốc áp dụng cơ chế tuyển chọn, bố trí
công việc tại các cơ quan nhà nước theo hướng không ràng buộc hộ khẩu, có thể
cộng tác thêm với nơi khác để tăng thêm thu nhập miễn không ảnh hưởng đến
công việc của cơ quan. Các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải thi hành chính
sách đãi ngộ nhân tài không phân biệt văn hoá, địa vị xã hội hay quốc tịch. Điều
đó đã tạo điều kiện cho nguồn nhân tài chủ động đến với khu vực công. Đồng
thời, Trung Quốc thường xuyên cử những đoàn tuyển dụng nhân tài với quy mô
lớn, đi tới những nước Châu Âu và Châu Mỹ tuyển dụng nhân là những lưu học
sinh ưu tú. Những năm gần đây, để thu hút nhân tài từ nước ngoài về nước tham
gia công việc nghiên cứu, Trung Quốc đã đề ra nhiều kế hoạch như “kế hoạch trăm
người” “kế hoạch thu hút nhân tài kiệt xuất từ nước ngoài”...
38
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
2.1.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng
cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chủ trương “chủ động hội nhập” bắt nguồn từ sự nhận thức về quá trình
toàn cầu hoá mà chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế và hội
nhập kinh tế là hai mặt của một quá trình, không thể toàn cầu hoá nếu không có
sự tham gia ngày càng đông đảo của các quốc gia. Toàn cầu hoá là xu thế khách
quan, lôi cuốn nhiều quốc gia tham gia, vừa có yếu tố tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, Vì thế, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là yếu tố
khách quan. Xu thế toàn cầu hoá tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và hội
nhập của nước ta. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định “Đẩy mạnh hoạt động
kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất”. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ
trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các
quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những
ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước phát triển, các nước có nền
kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Với sự
nhận thức mới, đúng đắn và toàn diện về phát triển nguồn nhân lực trong quá
39
trình hội nhập, chúng ta phải phát huy cao độ nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực và tương thích với trình độ phát triển của một nước công nghiệp.
Mục tiêu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,
tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010
và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Về hội nhập kinh tế quốc tế quan điểm chỉ đạo chung của Đảng là: giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ
vững định hướng xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đồng thời nhấn mạnh một số quan điểm cụ thể sau:
- Hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân. Nhân dân là chủ thể
của hội nhập và được hưởng thành quả từ hội nhập. Mọi cơ chế, chính sách phải
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo và phát huy mọi nguồn
nhân lực của toàn nhân dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn xã hội; phát huy
vai trò của đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài vào công cuọc phát triển đất nước và tăng thêm sự gắn bó của đồng bào với Tổ quốc.
- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và
hiệu quả của tăng trưởng; tăng trưởng kinh tế phải đi dôi với tiến bộ và công
bằng xã hội; giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái.
- Gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực; phát huy tối đa
nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo
thành sức mạnh quốc gia, xây dựng nền kinh tế độc lập, tực chủ trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động, tích cực tạo ra và sử dụng có hiệu quả cao các lợi thế so sánh của đất nước.
40
- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới;
đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ
trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; chủ động xây dựng các mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương, khu vực và đa phương.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai
trò của Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dânm tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Con đường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được hình thành rất
sớm và “sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”
(Thư gửi Liên hiệp quốc năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh). Ngay từ những năm
70, thế XX, Việt Nam tham gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực
tham gia phong trào không liên kết, nhóm 77, liên hiệp quốc mà một trong
những nội dung cơ bản là đấu tranh cho trật tự kinh tế thế giới công bằng. Việt
Nam ra sức thúc đẩy quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với một số nước tư bản chủ
nghĩa. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã tạo một bước ngoặt quan trọng trong nhận
thức và quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế. Với đường lối đổi mới và mở cửa
trong quan hệ đối ngoại, thực hiện phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ”. Và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh vào năm 1991,
với tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Tuyên bố này đã được chứng minh bằng việc thực hiện hợp tác với bên ngoài trong thời kỳ 1991-1995.
Năm 1993, chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền
tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Năm 1994, nước ta được công nhận là quan sát
viên của GATT - tiền thân của WTO. Ngày 1-1-1995 nước ta gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới, ngày 27-5-1995, nước ta chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
41
Thời kỳ 1996-2000, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy
mạnh. Tháng 11/1998, nước ta gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình dương (APEC), tham gia chương trình hành động tập thể (CAP), phối hợp
hành động với các thành viên khác trên lĩnh vực thông tin, phát triển nguồn nhân
lực, hải quan...
Năm 2000 đã ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, hiệp định này thực
thi năm 2001. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiến
hành thực hiện một số nội dung quan trọng trong nước như:
- Xây dựng, sửa đổi pháp luật, chính sách kinh doanh, thượng mại, đất đai,
đầu tư, tài chính...
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế: chú trọng phát triển các ngành, sản phẩm
hướng ra xuất khẩu, phát triển ngành, sản phẩm hiện đại, khuyến khích phát triển kinh tế dân doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi
trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và quản lý kinh doanh
thích nghi dần với điều kiện mới, tạo tiền đề để tiếp tục quá trình hội nhập kinh tế trong những năm tiếp theo.
Đại hội X của Đảng đánh dấu thời kỳ hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các tổ chức kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, Đại hội lần thức X của
Đảng khẳng định “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến 2010 và tầm nhìn đến
2020”. Ngày 7-11-2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
2.2. Tình hình phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu nguồn nhân lực
42
Quy mô dân số là một trong những chỉ tiêu quan trọng cho phép đánh giá
khái quát tổng số dân của một vùng, quốc gia, khu vực hay trên toàn thế giới.
Những thông tin về quy mô và tăng trưởng dân số cho phép phân tích, so sánh
các chỉ tiêu kinh tế xã hội như: mật độ dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu
người, lượng thực bình quân đầu người,.... Nhận biết quy mô dân số, chúng ta có
thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau như: tổng điều tra dân số, thống kế
thường xuyên hay dự báo dấn số. Quy mô dân số có thể tăng giảm tuỳ theo các yếu tố biến động dân số như sinh đẻ và di dân.
Năm Bảng 2: Tốc độ tăng dân số bình quân qua các năm (%) Tốc độ tăng (%) Dân số trung bình (nghìn người)
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 ước 2008 1,86 1,80 1,74 1,69 1,65 1,61 1,57 1,55 1,51 1,36 1,35 1,32 1,47 1,40 1,31 1,24 1,21 1,18 67.242,4 68.451,1 69.644,5 70.824,5 71.995,5 73.156,7 74.306,9 75.456,3 76.596,7 77.635,4 78.685,8 79.727,4 80.902,4 82.031,7 83.106,3 84.136,8 85.154,9 86.160,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niêm giám Thống kê 2007; Báo cáo
ước tính năm 2008, NXB Thống kê, Hà Nội.
43
Tốc độ tăng dân số qua các năm tăng cao và bắt đầu có xu hướng giảm dần, tốc độ tăng dân số năm 1991: 1,86%, đến năm 1995: 1,65% và đến năm 2000 tốc độ tăng dân số giảm xuống 1,36%, dân số trung bình năm 2000 tăng đến 77.635,4 nghìn người. Năm 2003,dân số cả nước đã lên đến gần mốc 81 triệu người, tốc độ tăng dân số 1,47%. Năm 2007 dân số nước ta tăng mức 85 triệu người, tốc độ tăng dân số chậm ở mức 1,21%. So với các nước trong khu vực châu Á và trên thế giới nước ta có dân số đông, năm 2008 ước tính đạt 86,16 triệu người, đông thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indônesia, Myanmar, Philipines); đứng thứ 9 ở Châu Á (trừ 3 nước trên và các nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Nhật Bản); đứng thứ 14 trên thế giới (ngoài 9 nước trên và các nước Mỹ, Brazin, Liên bang Nga, Nigieria, Mexico). Mật độ dân số năm 2008 của Việt Nam đạt 260 người/km2, cao gấp trên 6 lần mật độ của khu vực Đông Nam Á, cao gấp 6 lần mật độ của thế giới. Mặc dù tốc độ tăng dân số đã chậm lại, tăng 1,18%, tốc độ này thấp bằng hai phần ba tốc độ tăng dân số năm 1993 tăng 1,74% (sau 15 năm). Do quy mô dân số đông, nên về mặt tuyệt đối hàng năm vẫn tăng trên 1 triệu người, tương đương với một tỉnh có quy mô dân số trung bình [32, tr.39].
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Bảng 3: Dân số bình quân phân theo giới tính, thành thị nông thôn (%)
Tổng số (nghìn người)
78685.8
79727.4
80782.7
82031.7
83104.9
84108.1
85195.0
Phân theo giới tính
Nam
36684.2
39197.4
39717.3
40310.5
40845.4
41330.9
41865.1
Nữ
40001.6
40530.0
41065.4
41721.2
42259.5
42777.2
43329.9
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
19469.3
20022.1
20512,3
21737.2
22027.8
22821.3
23343.5
59216.5
59705.3
60270.4
60294.5
61077.1
61286.8
61851.5
Nông thôn Tỷ lệ tăng so với năm trước (%)
1.35
1.32
1.32
1.40
1.31
1.21
1.29
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám Thống kê 2007; Báo cáo
ước tính năm 2008, NXB. Thống kê, Hà Nội.
44
Việt Nam là một nước đông dân, lao động đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân đã tăng nhanh qua các năm. Dân số hoạt động kinh tế có xu hướng tăng
trong những năm gần đây, đồng thời dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao
động (15 đến 60 tuổi đối với nam và 15 đến 55 tuổi đối với nữ) ở các nhóm tuổi
thấp có xu hướng giảm dần qua các năm, đặc biệt là nhóm tuổi 15-19: năm 2002
nhóm tuổi 15-19 chiếm 12,6%, năm 2004 là 11,3% và năm 2006 là 9,2%. Đây là
một xu hướng tốt do nhóm dân số 15-19 tuổi đang trong độ tuổi đi học. Lao động
ở nhóm tuổi 20 đến 24 năm 2002 chiếm 12,8% trên tổng dân số cả nước, năm
2004 giảm nhẹ xuống mức 12,7%, năm 2006 tăng là 13,2%,trong đó năm 2002
lao động khu vực thành thị chiếm 11,3%, năm 2004: 11,2%, năm 2006: 11,8%,
khu vực nông thôn năm 2002: 13,3%, năm 2004: 13,2%, năm 2006: 13.7%. Lao
động ở nhóm tuổi 30 đến 34 năm 2002 chiếm 14,0% tổng dân số cả nước, năm
2004 chiếm 13,1%, năm 2006 giảm xuống còn 12,2%. Lao động từ nhóm tuổi 40
- 44 năm 2002 là 13,2%, năm 2004 tăng lên 14,5%, đến năm 2006 tiếp tục tăng
lên 14,7%. Trên thực tế cho thấy từ năm 2002 đến năm 2007 tỷ trọng của lực
lượng lao động trẻ (15 đến 34 tuổi) giảm xuống trong khi tỷ trọng của lực lượng
lao động lớn tuổi từ 35 - 44 tăng lên, điều này cho thấy lực lượng lao động cả
nước tiếp tục tăng và xu hướng già hoá dân số [16].
Bảng 4: Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi chia theo nhóm tuổi,
thành thị, nông thôn
Nông thôn (%)
Thành thị (%)
Nhóm tuổi
2002
Cả nước (%) 2004 11.3
2002 12.6
2006 9.2
2002 2004 5.1
6.9
2006 4.5
2004 14.3 13.2
2006 10.9
15-19
20-24
12.8
12.7
13.2 11.3 11.2
11.8
13.3 13.2
13.7
25-29
13.3
11.6
11.0 13.9 12.9
12.6
13.1 11.2
10.5
30-34 35-39
14.0 14.6
13.1 14.2
12.2 14.5 13.8 13.4 15.3 14.1
12.6 13.4
13.9 12.9 14.4 14.2
12.0 13.4
40-44
13.2
14.5
14.7 15.9 16.6
15.3
12.4 13.9
14.4
45
45-49
10.0
12.1
13.2 12.1 14.8
9.4 11.3
12.4
15.5
50-54
6..7
8.1
9.3
7.4
9.2
6.5
7.8
8.9
10.4
55-59
2.5
2.3
3.5
2.5
2.5
2.4
2.3
3.4
3.6
60+
0.3
0.4
0.3
0.3
0.4
0.3
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả khảo sát mức sông hộ gia đình
năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
Số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân đã tăng nhanh qua
các năm. Năm 2008 so với năm 1990, tổng số lao động đang làm việc đã tăng
15.624,9 nghìn người, bình quân một năm tăng 868 nghìn người. Mức tăng như
vậy phản ánh sự cố gắng khá lớn trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao
động. Và điều đáng quan tâm là có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành
phần kinh tế. Trong tổng số lao động tăng của toàn bộ nền kinh tế là 15624,9
nghìn người thì khu vực nhà nước tăng 657,7 nghìn người, chiếm 4,2% tổng số
tăng thêm. Xét riêng trong các loại hình doanh nghiệp, tổng số lao động tính đến
năm 2007 là 6.715,2 nghìn người, tăng 89,9% so với năm 2000, bình quân tăng 1
năm tăng 11,9%, cao gấp nhiều lần tốc độ tăng 2,3%/năm của toàn nền kinh tế
quốc dân trong thời gian tương ứng. Về số tuyệt đối, tổng số lao động làm việc
trong các doanh nghiệp tăng 3.178,2 nghìn người, trong đó doanh nghiệp nhà
nước giảm 188,6 nghìn người, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2.329 nghìn
người, chiếm 73,3% tổng số tăng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
1.307,8 nghìn người, chiếm 32,7% tổng số tăng. Cơ cấu lao động theo loại hình
doanh nghiệp chuyển dịch theo hướng tỷ trọng lao động làm việc trong các
doanh nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp
ngoài nhà nước tăng lên nhanh; tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm. Theo đó, doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp tích cực
vào vào việc thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
46
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực.
Trong giai đoạn năm 1990 - 2008, tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp và xây
dựng tăng từ 11,2% lên đến 20,8%, tỷ lệ lao động trongngành dịch vụ cũng tăng
từ 15,7% lên dến 26,7%, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp đã giảm từ 73%
xuống 52,5%. Trong tổng số lao động tăng từ năm 1990 đến năm 2008, trong đó
nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản đã thu hút thêm 2.148,7 nghìn người,
chiếm 13,8% tổng số tăng. Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã thu hút thêm
6.079,8 nghìn người, chiếm 38,9% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ đã thu hút
thêm 7.396,4 nghìn người, chiếm 47,3% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ thu
hút được nhiều lao động, tiếp đến là công nghiệp - xây dựng, cuối cùng là nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản [32, tr.53].
1990
1995
2000
2005
2006
2007
2008
Tổng số (nghìn người)
29.412,3 33.030,6 37.609,6 42.526,9 43.318,9 44.171,9 45.037,2
Phân theo loại hình kinh tế
- Nhà nước
3.415,6
3.053,1
3.501,0
4.038,8
3.948,6
3.974,6
4.073,3
- Ngoài nhà nước
25.996,7 29.977,5 33.881,8 37.814,7 38.668,1 36.657,7 39.132,5
226,8
673,4
702,1
1.539,6
1.831,4
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Phân theo nhóm ngành kinh tế
21.476,1 23.534,8 24.481,0 24.342,5 23.927,2 23.810,8 23.624,8
- Nông lâm nghiệp và thuỷ sản
- Công nghiệp và xây dựng
3.305,1
3.755,7
4.929,7
7.739,9
8.335,8
8.825,3
9.385,5
4.630,5
5.740,1
8.189,9
10.444,5 11.075,9 11.535,8 12.026,9
- Dịch vụ
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
- Cơ cấu (%)
Phân theo loại hình kinh tế
- Nhà nước
11,6
9,2
9,3
9,5
9,1
9,0
9,0
- Ngoài nhà nước
88,4
90,8
90,1
88,9
89,3
87,5
86,9
Bảng 5: Lao động làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
47
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
0,6
1,6
1,6
3,5
4,1
Phân theo nhóm ngành kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
73,0
71,3
65,1
57,2
55,2
53,9
52,5
- Công nghiệp và xây dựng
11,2
11,4
13,1
18,2
19,2
20,0
20,8
- Dịch vụ
15,7
17,4
21,8
24,6
25,6
26,1
26,7
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám Thống kê năm 2007, NXB
Thống kê, Hà Nội.
Tính đến 1/7/2005 cả nước có 11 triệu lao động qua đào tạo, chiếm 24,8%
lực lượng lao động, trong đó có 6.755 ngàn người qua đào tạo nghề chiếm 15,2%
lực lượng lao động, 2.099 ngàn người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp chiếm
4,3% lực lượng lao động và 2.339 ngàn người có trình độ cao đẳng trở lên chiếm
5,27% lực lượng lao động. Như vậy, vẫn còn đến 74% lực lượng lao động của
của cả nước chưa qua đào tạo, tạo nên sức ép rất lớn đối với việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và cũng là trở ngại lớn cần phải nhanh chóng vượt qua để
nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Cả nước có 73% lực lượng lao động tập trung ở nông thôn và khoảng 55% lao
động làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp với trình độ trang bị kỹ
thuật thấp, lao động thủ công là chính và năng suất lao động thấp. Một trong
những yếu điểm của nguồn nhân lực nước ta là trình độ ngoại ngữ còn thấp [6].
2.2.2. Tình hình giáo dục và đào tạo
2.2.2.1. Quy mô giáo dục và đào tạo
• Số lượng học sinh, sinh viên
Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống
giáo dục quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ,
tình cảm của trẻ em Việt Nam. Vậy nên, trong những năm qua, Nhà nước đã tập
48
trung đầu tư rất lớn cho công tác giáo dục mầm non, nhằm phát triển vững chắc
bậc học nền móng này. Tuy nhiên, cùng với tốc độ gia tăng dân số và nhận thức
của người dân về sự cần thiết cho trẻ đi học mẫu giáo, thì số lượng trường mầm
non không đủ đáp ứng nhu cầu. Năm học 2000-2001, cả nước có 8.933 trường,
với 87,1 nghìn lớp học, 2.212 nghìn học sinh, 103,3 nghìn giáo viên. Năm học
2006-2007, số lượng học sinh mẫu giáo đạt 2.524,3 nghìn học sinh, số trường
học là 11.582 trường, số giáo viên tăng lên 122,9 nghìn người. Đến năm học
2007-2008, số lượng học sinh tăng đến 2.593,3 học sinh, số giáo viên tăng lên
130,4 nghìn người.
Giáo dục phổ thông: quy mô học sinh tiểu học tiếp tục giảm, tiến dần đến
ổn định. Năm học 2000-2001 cả nước có 9.741,1 nghìn học sinh đi học, năm học
2005-2006 số lượng học sinh giảm xuống còn 7.304,0 nghìn học sinh, năm 2007-
2008 số lượng học sinh đạt 6.769,3 tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi đạt 95%.
Số học sinh trung học cơ sở tăng đều trong những năm trước đây. Năm
học 2002-2003 cả nước có trên 6.400 nghìn học sinh trung học cơ sở, tăng 9,8%
so với năm học 2000-2001. Năm học 2005-2006, số lượng học sinh tăng lên
6.371,3 học sinh, nhưng đến năm học 2006-2007 số lượng học sinh trung học cơ
sở giảm xuống còn 6.152,0 nghìn học sinh và đến năm 2007-2008 số lượng học
giảm xuống còn 5.709,2 học sinh.
Số học sinh trung học phổ thông năm học 2000-2001 là 2.171,4 nghìn học
sinh, năm học 2005-2006 số học sinh đạt 2.975,3 nghìn học sinh ( tăng 803,9
nghìn học sinh), năm học 2007-2008 số học sinh đạt 2.992,9, tăng 17,6 nghìn
học sinh so với năm học 2006-2007. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 2006-
2007 đạt 80,42%.
Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đang từng
bước được mở rộng. Năm học 2000-2001 cả nước có 255,4 nghìn sinh viên cao
đẳng, đại học, số sinh viên tốt nghiệp 162,5 nghìn sinh viên. Năm học 2005-2006
49
số sinh viên tăng lên 1.387,1 nghìn sinh viên, sinh viên tốt nghiệp tăng 210,9
nghìn sinh viên (tăng 1,29%), năm 2007-2008 cả nước có 1.928, 4 nghìn sinh
viên, tăng 1,16% so với năm học 2006-2007. Số lượng học sinh ở các trường
trung cấp chuyên nghiệp gia tăng đáng kể. Năm học 2000-2001 cả nước có 225,4
nghìn học sinh, số lượng học sinh tốt nghiệp là 72,3 nghìn học sinh, năm 2005-
2006 số học sinh đạt 500,3 nghìn học sinh, tốt nghiệp 180,4 nghìn học sinh, năm
2007-2008 số học sinh là 515,7 nghìn học sinh, tăng 1,03% so với năm học
2006-2007, số học sinh tuyển mới là 15,4 nghìn học sinh, tốt nghiệp 163,5 nghìn
học sinh [32].
Bảng 6: Số học sinh mẫu giáo, tiểu học, phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp
Số học sinh (nghìn)
2000-
2005-
2006-
2007-
2001
2006
2007
2008
1. Mẫu giáo (30/9)
2.212
2.426,9
2.524,3
2.593,3
2. Phổ thông (30/9)
- Tiểu học
9.741,1
7.304,0
7.029,4
6.769,3
- Trung học cơ sở
5.863,6
6.371,3
6.152,0
5.709,2
- Trung học phổ thông
2.171,4
2.975,3
3.075,2
2.972,2
3. Trung cấp chuyên nghiệp
(31/12)
- Số học sinh (nghìn)
500,3
515,7
621,1
255,4
- Số học sinh tốt nghiệp (nghìn)
180,4
163,5
72,3
4. Cao đẳng, đại học (nghìn SV)
- Số sinh viên
1.387,1
1.666,2
1.928,4
899,5
- Số sinh viên tốt nghiệp
210,9
232,5
162,5
và số sinh viên cao đẳng, đại học qua các năm học
Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, Hµ Néi.
• M¹ng l íi tr êng häc
50
HÖ thèng gi¸o dôc cña ViÖt Nam còng nh hÖ thèng gi¸o dôc cña c¸c n íc
Ch©u Á. Chính phủ quản lý các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, tỉnh, thành phố quản lý giáo dục trung học, giáo dục tiểu học do quận,
huyện quản lý. Năm học 2000-2001 cả nước có 8.933 trường mầm non, năm
2005-2006 số lượng trường mầm non tăng đến 10.927 trường, năm 2007-2008 số
trường tăng lên là 11.696 trường, số lớp học năm 2000-2001 là 87,1 nghìn lớp,
năm 2005-2006 tăng lên 93,9 nghìn lớp, năm 2007-2008, tăng 99,7 nghìn lớp
(tăng 1,06%)
Mỗi làng, xã đều có ít nhất một trường tiểu học hoặc trung học cơ sở. Số
trường phổ thông trong cả nước tăng liên tục, năm 2000-2001 có 24.692 trường,
năm 2005-2006 có 27.227 trường, năm 2006-2007 có 27.593 trường, năm 2007-
2008 có 28.220 (tăng 627 trường so với năm học 2006-2007, tỷ lệ tăng 1,03%).
Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng tập trung ở các thành phố lớn, hệ
thống các trường cao đẳng sư phạm ở khắp các tỉnh trong cả nước đào tạo giáo
viên phổ thông cho địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người học và gắn với
nhu cầu sử dụng lao động, xoá tình trạng trắng trường dạy nghề ở cấp tỉnh. Theo
số liệu thống kê năm 2005 cả nước có 93 trường đại học, 137 trường cao đẳng,
đến năm học 2006-2007 cả nước có 345 trường đại học, cao đẳng, trong đó số
trường đại học là 139 trường, và cao đẳng là 166 trường, tăng 1,4%.
Hiện nay, ngoài hệ thống các trường đại học công lập, các trường dân lập
được mở ra ở bậc đại học và đào tạo nghề, các trường tư thục cũng được mở ra
cho giáo dục phổ thông và mầm non nhưng con số vẫn còn khiêm tốn, nhất là ở
các địa phương. Cho tới nay, cả nước có 39 trường bậc cao đẳng, đại học ngoài
công lập, hầu hết tập trung ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Cơ sở
vật chất kỹ - thuật của các cơ sở đào tạo được tăng cường, từng bước đổi mới,
hiện đại hoá. Nhiều cơ sở được xây dựng, mở rộng tương đối khang trang (chủ
yếu là 14 trường đại học trọng điểm và 40 trường dạy nghề chất lượng cao).
Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, thí nghiệm và thực hành được đầu tư. Một số
51
trường đại học trọng điểm được đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tương đối
hiện đại phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin.
Bảng 7: Số trường phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp
Loại trường
2000-2001 2005-2006
2006-2007 2007-2008
Phổ thông (30/9)
24.692
27.227
27.593
28.220
Trung cấp chuyên nghiệp
(31/12)
253
284
269
273
Cao đẳng, đại học
178
230
322
345
và cao đẳng, đại học qua các năm
Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, Sè liÖu
tæng quan cña Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o n¨m 2006.
52
• §éi ngò gi¸o viªn
§Ó c¶i c¸ch gi¸o dôc mét c¸ch ®ång bé, ®éi ngò gi¸o viªn mÇm non, phæ
th«ng ®· ph¸t triÓn vÒ sè l îng vµ t¨ng c êng chÊt l îng theo h íng chuÈn ho¸.
N¨m häc 2005-2006 ®éi ngò gi¸o viªn phæ th«ng ®¹t 780,5 ngh×n gi¸o viªn,
trong ®ã hÖ tiÓu häc lµ 354,8 ngh×n ng êi, hÖ trung häc c¬ së: 3.102,0 ngh×n
ng êi, hÖ trung häc phæ th«ng: 115,5 ngh×n ng êi, ®éi ngò gi¶ng viªn cao ®¼ng,
®¹i häc lµ 48,6 ngh×n ng êi, gi¸o viªn trung cÊp chuyªn nghiÖp lµ 14,2 ngh×n
ng êi. N¨m häc 2006-2007, sè l îng gi¸o viªn phæ th«ng t¨ng lªn 789,6 ngh×n
ng êi, t¨ng 1,01%, sè l îng gi¶ng viªn cao ®¼ng, ®¹i häc t¨ng lªn 53,4 ngh×n
ng êi, t¨ng 1,09% nh ng sè l îng gi¸o viªn trung cÊp chuyªn nghiÖp chØ t¨ng
0,2%, sè l îng lµ 14,5 ngh×n ng êi. MÆc dï sè gi¸o viªn b×nh qu©n ®· t¨ng lªn
®¸ng kÓ nh ng nÕu so víi ®Þnh møc th× n íc ta vÉn thiÕu nhiÒu gi¸o viªn phæ
th«ng vµ d¹y nghÒ, ®Æc biÖt lµ ë c¸c tØnh miÒn nói vµ c¸c ®Þa ph ¬ng cã ®iÒu kiÖn
kinh tÕ kÐm ph¸t triÓn.
Gi¶ng viªn ®¹i häc vµ cao ®¼ng liªn tôc t¨ng vÒ sè l îng vµ tr×nh ®é tõng
b íc ® îc n©ng lªn. N¨m häc 2000 - 2001 c¶ n íc cã 32.205 gi¶ng viªn, trong
®ã sè gi¶ng viªn cao ®¼ng lµ 7.843 ng êi, gi¸o s ®¹t 4 ng êi chiÕm 0,05% trªn
tèng sè gi¶ng viªn cao ®¼ng, phã gi¸o s ®¹t 9 ng êi chiÕm 0,11%, tr×nh ®é tiÕn
sü: 109 ng êi chiÕm 1%, th¹c sü 1.468 ng êi chiÕm 18.7%, tr×nh ®é chuyªn khoa
I vµ II 56 ng êi chiÕm 0,71%, tr×nh ®é ®¹i häc, cao ®¼ng 6.083 ng êi chiÕm
77,55%, tr×nh ®é kh¸c 152 ng êi chiÕm 1,97%; sè gi¶ng viªn ®¹i häc lµ 24.362
ng êi, trong ®ã sè l îng gi¸o s 310 ng êi chiÕm 1% trong tèng sè gi¶ng viªn
®¹i häc, phã gi¸o s 1.131 ng êi chiÕm 4,%, gi¶ng viªn ®¹t tr×nh ®é tiÕn sü 4.454
chiÕm 18%, tr×nh ®é th¹c sü 6.596 ng êi chiÕm 27,0%, tr×nh ®é chuyªn khoa I vµ
II 659 ng êi chiÕm 2%, tr×nh ®é ®¹i häc cao ®¼ng 12.422 ng êi chiÕm 50,0%, sè
gi¶ng viªn ë tr×nh ®é kh¸c 321 ng êi chiÕm 1,0%. N¨m häc 2005 - 2006 c¶ n íc
cã 48.579 gi¶ng viªn ®¹i häc - cao ®¼ng, trong ®ã gi¶ng viªn cao ®¼ng: 14.285
53
ng êi, gi¶ng viªn ®¹i häc: 34.294 ng êi. N¨m häc 2006 - 2007, tæng sè gi¶ng
viªn t¨ng lªn 53.518 ng êi. Gi¶ng viªn cao ®¼ng 15.381 ng êi, t¨ng 1,07% so víi
n¨m häc 2005 - 2006, sè l îng gi¶ng viªn lµ gi¸o s t¨ng tõ 30 lªn ®Õn 35 ng êi,
phã gi¸o s tõ 10 ng êi lªn 18 ng êi, gi¶ng vien lµ tiÕn sÜ l¹i gi¶m tõ 293 ng êi
xuèng cßn 216 ng êi, th¹c sü t¨ng tõ 3.422 ng êi lªn ®Õn 3.669 ng êi vµ tr×nh ®é
®¹i häc vµ cao ®¼ng t¨ng tõ 10.200 ng êi lªn 10.996 ng êi, tr×nh ®é chuyªn
khoa I vµ II t¨ng tõ 57 ng êi lªn ®Õn 110 ng êi, gi¶ng viªn ë tr×nh ®é kh¸c t¨ng
tõ 313 ng êi lªn 319 ng êi. Sè gi¶ng viªn ®¹i häc n¨m häc 2006 - 2007 lµ:
38.137 ng êi t¨ng 1,11% so víi n¨m häc 2005 - 2006, trong ®ã sè l îng gi¶ng
viªn tr×nh ®é phã gi¸o s t¨ng tõ 432 ng êi lªn 445 ng êi, gi¸o s t¨ng tõ 2.084
ng êi lªn 2.432 ng êi, sè gi¶ng viªn tr×nh ®é tiÕn sü gi¶m tõ 5.744 xuèng cßn
5.666 ng êi, sè l îng gi¶ng viªn cã tr×nh ®é th¹c sü t¨ng tõ 12.248 ng êi lªn
14.603 ng êi, chuyªn khoa I, II t¨ng kh«ng ®¸ng kÓ tõ 361 lªn 362 ng êi, tr×nh
®é ®¹i häc vµ cao ®¼ng t¨ng tõ 15.732 ng êi lªn 17.271 ng êi (Xem b¶ng 8).
Lùc l îng c¸n bé khoa häc cã tr×nh ®é cao ®· gãp phÇn to lín trong
nghiªn cøu khoa häc vµ ®µo t¹o, nh÷ng kÕt qu¶ nghiªn cøu khoa häc ®· gãp phÇn
vµo sù nghiÖp ®æi míi kinh tÕ x· héi, t¹o tiÒn ®Ò cho nÒn kinh tÕ tri thøc, nguån
nh©n lùc chÊt l îng cao trong qu¸ tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ.
54
2000- 2001
2001- 2002
2002- 2003
2003- 2004
2004- 2005
2005- 2006
2006- 2007
B¶ng 8: Sè gi¶ng viªn cao ®¼ng, ®¹i häc qua c¸c n¨m
32205
35938
38608
39985
47646
48579
53518
GIẢNG VIÊN
1. Cao đẳng
7843
10392
11215
11551
13677
14285
15381
- Phó giáo sư
9
11
5
4
4
10
18
- Giáo sư
4
3
20
23
33
30
35
- Tiến sĩ
109
158
190
182
246
293
216
- Thạc sĩ
1468
1960
2272
2509
3079
3422
3669
56
32
94
19
15
57
110
- Chuyên khoa I và II
6083
7987
8346
8557
9985
10200
10996
- Đại học, cao đẳng
- Trình độ khác
152
255
313
284
352
313
390
2. Đại học
24362
25546
27393
28434
33969
34294
38137
- Phó giáo sư
1131
1160
1310
1408
1838
432
445
- Giáo sư
310
303
319
302
413
2084
2432
- Tiến sĩ
4454
4812
5286
5179
5977
5744
5666
- Thạc sĩ
6596
7583
8326
9210
11460
12248
14603
569
586
540
529
507
361
362
- Chuyên khoa I và II
12422
12361
12893
13288
15613
15732
17271
- Đại học, cao đẳng
- Trình độ khác
321
204
348
228
412
209
235
Nguồn: Số liệu tổng quan về giáo dục năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo (http://www.moet.gov.vn)
Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi tích cực trên thì quy mô công suất
đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động kỹ thuật cho phát triển kinh tế -
55
xã hội trong nước, yêu cầu hội nhập quốc tế (bao gồm cả nhu cầu đào tạo nhân
lực cho xuất khẩu lao động) và nhu cầu học tập, đào tạo nâng cao trình độ nghề
nghiệp của nhân dân.
Cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và ngành nghề chưa hợp lý, chưa phù
hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng đào tạo còn thấp kém, bất cập
so với yêu cầu của thực tế và thấp kém chung so với trình độ chung của thế giới.
Trang thiết bị, phòng thí nghiệm, cơ sở thực nghiệm, công cụ giảng dạy
cũ, lạc hậu, thiếu, không đồng bộ, sử dụng kém hiệu quả. Hầu hết các cơ sở đào
tạo nhân lực chưa đạt chuẩn quốc tế và chưa được quốc tế công nhận (theo điều
tra cho thấy đối với cấp dạy nghề vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 51% số
xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm, chỉ có 20% số trường được trang bị một
số thiết bị ở mức độ công nghệ khá, còn lại mới chỉ được trang bị cho thực hành
cơ bản; chưa hình thành được các trường dạy nghề chất lượng cao).
Cơ cấu giảng viên không đồng bộ và trình độ chuyên môn còn nhiều bất
cập (năm 2007 có 30.181/ 61.321 giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ Thạc
sỹ trở lên (chiếm 49%) và mới có 30 - 40% giáo viên dạy nghề đạt chuẩn), kiến
thức nặng về lý thuyết, gắn với thực tiễn chưa sâu, chưa ngang tầm nhiệm vụ và
trình độ quốc tế. Việc hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên còn
hạn chế nên năng lực sáng tạo chưa được phát huy, chậm được cập nhật và nâng
cao kiến thức, thiếu đội ngũ giảng viên đầu đàn... [32, tr.556].
2.2.2.2. Kết quả và chất lượng giáo dục và đào tạo
Chất lượng của lực lượng lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chất lượng của lực lượng lao động về cơ bản
đã được hình thành thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo. Việc đầu tư cho giáo
dục đã làm thay đổi đáng kể chất lượng giáo dục của nước ta.
56
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm học 2003-2004 đến
năm học 2005-2006 tỷ lệ học sinh tiểu học bỏ học dao động từ 2,25%-3,33%,
đến năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh tiểu học bỏ học giảm đáng kể là 0,19%.
Tỷ lệ học sinh cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông bỏ học tính từ năm
học 2003-2004 đến năm học 2005-2006 dao động từ 6,29%-7,59%, năm học
2006-2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 2,07%.
Tính đến tháng 12/2007, tổng số học sinh cấp trung học sơ sở bỏ học trên
cả nước là 63.729 em, chiếm tỷ lệ 1,1% so với tổng học sinh của bậc này, tổng
số học sinh cấp trung học phổ thông bỏ học là 50.309 em, chiếm 1,66%. ở cấp
trung học cơ sở, tỉnh Trà Vinh là địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất
10,75% (5.450 em), tiếp theo là An Giang 7,8% (8.803 em), Kiên Giang 5,02%
(5.077 em), Tây Ninh 4,1% (2.064 em). Một số tỉnh, tỷ lệ bỏ học tương đương tỷ
lệ bình quân chung cả nước nhưng có số lượng học sinh bỏ học lớn: Nghệ An
1,56%, Đăk Lăk 2,04%, Thanh Hóa 1,06%, Hà Giang 2,42%. Cấp trung học phổ
thông có tỉnh An Giang là địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất 19,31%
(8.600 em), tiếp theo là Tuyên Quang 11,07% (3.409 em), Đăk Lăk 9,29%
(7.398 em)...
Tỷ lệ hoàn thành cấp học tăng đối với tiểu học và trung học cơ sở. Riêng
trung học phổ thông, tuy tỷ lệ tốt nghiệp cao nhưng số được tuyển vào đại học
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp vẫn còn thấp.
Đào tạo lao động có trình độ đại học, cao đẳng những năm qua có sự gia
tăng, năm học 2000-2001 số sinh viên tốt nghiệp là 162,5 nghìn sinh viên, năm
học 2006-2007 số lượng sinh viên tốt nghiệp là 232,5 sinh viên, tăng 1,43%. Số
học sinh tốt nghiệp hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp tăng không
đồng đều, năm 2000-2001 tốt nghiệp 72,3 nghìn học sinh, năm học 2005-2006 số
học sinh tốt nghiệp tăng lên 180,4 nghìn học sinh (tăng gấp 2,5 lần so với năm
học 2000-2001), năm học 2006-2007 số lượng học sinh tốt nghiệp là 163,5 nghìn
57
học sinh, tăng gấp 2,2 lần so với năm học 2000-2001). Tính vào thời điểm năm
2005, lực lượng lao động phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật ở trình độ cao
đẳng, đại học chiếm 5,27% tổng lực lượng lao động xã hội (tăng 0,44% so với
năm 2004), lực lượng đã qua đào tạo chiếm 24,79% (tăng 2,26% so với năm
2004), trình độ nghề và công nhân kỹ thuật chiếm 15,22% (tăng 1,85%) so với
năm 2004.
Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực,
tiến bộ. Nhiều ngành nghề đào tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế.
Giáo dục và đào tạo mang lại cơ hội lớn hơn về việc làm cho người lao
động, theo báo cáo của Tổng cục dạy nghề, hiện nay mạng lưới dạy nghề đã phát
triển rộng khắp toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và các loại hình đào tạo,
đủ khả năng đào tạo các cấp trình độ khác nhau, đa dạng hóa các loại ngành
nghề, thời gian và hình thức đào tạo, học sinh sau một năm tốt nghiệp tại các cơ
sở dạy nghề có khoảng 85% có việc làm. Xác suất để một lao động qua đào tạo
nghề tìm được việc làm, ăn lương đầy đủ khả quan hơn rất nhiều so với những
lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Với trình độ văn hóa chưa tốt nghiệp
tiểu học, xác suất để họ có được một công việc làm công ăn lương chỉ khoảng
23,5%. Trong khi với lao động qua đào tạo nghề, cơ hội kiếm việc tương đối lớn
48,2% so với lao động chưa qua đào tạo, để có việc làm chính, đủ thời gian lao
động, lao động qua đào tạo nghề có cơ hội gấp 2,5 lần so với những người tốt
nghiệp trung học phổ thông và gấp 12 lần so với người chỉ tốt nghiệp trung học
cơ sở.
Tuy nhiên, tính hiệu quả của đào tạo là chưa cao, học sinh tốt nghiệp tại
các cơ sở đào tạo nghề rất lúng túng khi bắt đầu làm việc, bắt buộc các cơ sở sử
dụng lao động phải tiếp tục đào tạo thêm. Theo đánh giá của Tổng cục dạy nghề
chỉ có 1/3 học sinh tốt nghiệp học nghề có kiến thức chuyên môn và năng lực
58
thực hành loại khá trở lên, 53% yếu về năng lực phân tích, giải quyết vấn đề,
26,5% yếu về năng lực làm việc độc lập, 58,8% trung bình về năng lực giao tiếp
xã hội. Điều tra lần theo dấu vết sinh viên đại học cho thấy có đến 60% sinh viên
tốt nghiệp đại học phải đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức trước khi có được việc
làm.
Đào tạo đại học - trung cấp chuyên nghiệp và sử dụng chưa ăn khớp, một
số đáng kể người tốt nghiệp không làm đúng ngành nghề hoặc không chịu đến
làm việc ở những nơi có nhu cầu. Số lượng danh mục ngành, nghề đào tạo còn ít,
thiếu so với yêu cầu thực tiễn. Danh mục đào tạo ở cấp đại học, cao đẳng có 129
ngành thuộc 34 nhóm ngành được ban hành từ năm 1990. Danh mục ngành đào
tạo trung cấp chuyên nghiệp có 70 ngành thuộc 25 nhóm ngành. Dạy nghề còn ít,
chỉ có hơn 226 nghề thuộc 56 nhóm nghề, trong khi đó thị trường lao động đòi
hỏi rất nhiều ngành nghề khác nhau. Mặt khác, số lượng thợ, kỹ sư thì đông,
song kỹ sư giỏi và thợ lành nghề lại ít, do vậy nhiều ngành nghề thực tế chỉ chọn
hình thức gia công. Kỹ sư của ta làm việc theo công nghệ, mẫu mã của nước
ngoài còn tự mình thiết kế sản phẩm, sáng tạo mẫu mã mới rất ít. Đây là một
thực tế kéo dài rất nhiều năm nay chưa được khắc phục. Không ít doanh nghiệp
hiện nay than phiền tìm kiếm không được người lao động do thị trường khan
hiếm nguồn nhân lực có kinh nghiệm, trình độ. Thị trường lao động hiện nay
đang khan hiếm tất cả các lao động ở các vị trí giám đốc, chuyên gia trên lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, kỹ thuật, marketing... Đây là một câu hỏi cho việc đào
tạo nhân lực với chất lượng sản phẩm đầu ra có đáp ứng được yêu cầu của thị
trường hay không. Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ
Chí Minh, số lao động tốt nghiệp đại học chưa xin được việc làm hiện tại vào
khoảng 8.000 - 10.000 nghìn người, nhưng số sinh viên ra trường đáp ứng được
việc làm cho các doanh ghiệp chỉ chiếm khoảng 25%, số còn lại phải làm trái
ngành nghề đã học hoặc phải chờ việc.
59
Hiện nay, đào tạo nhân lực trình độ cao có một yếu điểm là chất lượng của
Luận án Tiến sỹ hầu như bị thả nổi, có khoảng 2.500 tiến sỹ trình độ yếu không
trực tiếp tham gia giảng dạy, nghiên cứu, bằng cấp chỉ là phương tiện đánh bóng
hồ sơ (số liệu theo báo cáo của Bộ Giáo dục - Đào tạo tại hội nghị tổng kết đào
tạo sau đại học - 5/1/2006). Đào tạo nhân lực ở nước ta thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng và bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền. Lao động
phổ thông còn dư thừa lớn, song lại thiếu hụt nghiêm trọng lao động có trình độ
cao nên đã hạn chế việc tiếp thu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới, tạo nên
năng suất lao động thấp, bằng 50% của Trung Quốc, 25% của Thái Lan.
2.2.2.3. Hệ thống tổ chức quản lý đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Hệ thống quản lý nhà nước về phát triển nhân lực hiện nay mang tính trực
tiếp và phân tán. Trên thực tế, có rất nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý
đối với cơ sở đào tạo nguồn nhân lực. Các cơ quan tham gia quản lý đào tạo
nguồn nhân lực gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân tỉnh. Việc quản lý thực hiện
theo cơ quan chủ quản, quản lý theo lãnh thổ, quản lý theo ngành, theo thành
phần kinh tế,... Mỗi Bộ, ngành, mỗi địa phương đều có chức năng và thẩm quyền
toàn diện và riêng biệt về phát triển nguồn nhân lực thuộc phạm vi mình quản lý
mà không có một cơ quan điều phối thống nhất chung theo cấp quốc gia và vùng
lãnh thổ nào. Điều đó dẫn đến tình trạng cát cứ, chồng chéo, buông lỏng. Do đó,
hầu như không có sự phối hợp liên ngành và giữa trung ương địa phương trên
mỗi vùng lãnh thổ trong tổ chức các hoạt động đào tạo nhân lực theo một quy
hoạch chung, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự lộn xộn, mất cân đối, bất hợp
lý trong phát triển nhân lực ở nước ta hiện nay. Phương pháp quản lý chủ yếu là
phương pháp tổ chức, mệnh lệnh hành chính hơn là kinh tế. Chưa sử dụng rộng
rãi và hiệu quả các công cụ của thị trường lao động trong phát triển nhân lực, sử
dụng công nghệ thông tin còn hạn chế...
60
Trong quá trình quản lý còn thiếu sự phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản
lý với tổ chức đào tạo nhân lực và cơ sở sử dụng nhân lực. Vì vậy, việc quản lý
chưa thực hiện được vai trò định hướng và liên kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực.
2.2.2.4. Ngân sách cho giáo dục và đào tạo
Nhà nước ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và
đào tạo, huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển
giáo dục và đào tạo theo định hướng xã hội hoá. Mức chi cho giáo dục và đào tạo
tăng lên đáng kể, ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo năm
20006 là 12.677 tỷ đồng chiếm 11,63% tổng chi ngân sách nhà nước của cả nước,
năm 2002 ngân sách chi 17.844 tỷ đồng chiếm 12,04%, năm 2003 chi ngân sách cho
giáo dục tăng lên 22.881 tỷ đồng chiếm 12,63% tổng chi của cả nước, năm 2006 chi
ngân sách cho giáo dục đào tạo tăng lên đến 37.332 tỷ dồng chiếm 12,12% tổng chi
cho cả nước. [32, tr. 87].
Bảng 9: Quyết toán chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo
Năm
Ngân sách (tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
11,63
2000
12.677
12,04
2002
17.844
12,63
2003
22.881
11,83
2004
25.343
10,89
2005
28.611
12,12
2006
37.332
Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, NXB
Thèng kª, Hµ Néi.
C¬ cÊu chi cho gi¸o dôc theo h íng t¨ng: t¨ng chi ng©n s¸ch cho c¸c bËc
häc phæ cËp, chi chotiÓu häc vµ trung häc c¬ së chiÕm 52,6% tæng chi th êng
61
xuyªn cho gi¸o dôc. Ngoµi ng©n s¸ch nhµ n íc, ChÝnh phñ ®Çu t cho gi¸o dôc
®µo t¹o b»ng nguån kinh phÝ tõ c¸c dù ¸n ODA, vµ phÇn lín ®Çu t cho gi¸o dôc
c¬ b¶n: tiÓu häc, trung häc c¬ së, trung häc phæ th«ng.
§Æc biÖt, Nhµ n íc thùc hiÖn chÝnh s¸ch c«ng b»ng trong tiÕp cËn gi¸o
dôc, nhÊt lµ ®èi víi trÎ em d©n téc Ýt ng êi vµ trÎ em c¸c vïng cã ®iÒu kiÖn kinh
tÕ - x· héi khã kh¨n. ChÝnh phñ ViÖt nam ®· thùc hiÖn mét sè chÝnh s¸ch u tiªn
cho c¸c vïng nµy; Nhµ n íc ban hµnh tiªu chÝ vÒ chÊt l îng tèi thiÓu nh»m x©y
dùng m« h×nh tr êng tiÓu häc ®¹t chuÈn chÊt l îng c¬ b¶n phï hîp víi ®iÒu kiÖn
kinh tÕ cña c¸c vïng khã kh¨m; ph¸t hµnh c«ng tr¸i gi¸o dôc ®Ó hç trî cho c¸c
tØnh miÒn nói, c¸c tØnh khoa kh¨n thùc hiÖn môc tiªu xo¸ phßng häc 3 ca vµ tranh
tre nøa vµo n¨m 2005. ChÝnh phñ ®· ký QuyÕt ®Þnh sè 07/2008/Q§-TTg ngµy
10/1/2008 vÒ Ch ¬ng tr×nh môc tiªu Quèc gia vÒ Gi¸o dôc vµ §µo t¹o ®Õn n¨m
2010, ch ¬ng tr×nh hç trî gi¸o dôc vµ ®µo t¹o cho c¸c tØnh miÒn nói, vïng s©u,
vïng xa vµ c¸c vïng ®Æc biÖt khã kh¨n víi tæng kinh phÝ 3.000 tû ®ång nh»m
hoµn thiÖn c¬ së vËt chÊt cho 48 tr êng phæ th«ng d©n téc néi tró theo h íng
chuÈn ho¸. Hç trî x©y dùng nhµ ë, bÕp vµ c¸c trang thiÕt bÞ thiÕt yÕu cho ®êi
sèng néi tró cña gÇn 900 tr êng phæ th«ng d©n téc néi tró nh»m t¹o thªm ®iÒu
kiÖn cho gi¸o dôc phæ cËp bËc tiÓu häc vµ trung cÊp c¬ së.
2.2.3. Thu nhËp vµ møc sèng
§êi sèng vËt chÊt vµ tinh thÇn cña phÇn lín d©n c cña n íc ta ®· cã sù
thay ®æi vµ tiÕn bé râ rÖt. Thu nhËp cña c¸c tÇng líp d©n c tiÕp tôc ® îc c¶i
thiÖn so víi c¸c n¨m tr íc. ViÖt Nam ®¹t tèc ®é t¨ng tr ëng GDP cao vµ t ¬ng
®èi æn ®Þnh, ®ã lµ yÕu tè quan träng ®Ó n©ng cao thu nhËp vµ møc sèng cña nh©n
d©n. Tèc ®é t¨ng tr ëng GDP trong nh÷ng n¨m gÇn ®©y lµ: n¨m 2000 ®¹t 6,79%,
n¨m 2001 ®¹t 6,89%, n¨m 2002 ®¹t 7,08%, n¨m 2003 ®¹t 7,26%, n¨m 2004:
7,7%, n¨m 2005: 8,44%, n¨m 2006: 8,23% vµ n¨m 2007: 8,48%, n¨m 2008:
6,23%. TÝnh chung trªn ph¹m vi c¶ n íc, thu nhËp b×nh qu©n ®Çu ng êi mét
th¸ng n¨m 2001-2002 theo gi¸ thùc tÕ ®¹t 356,1 ngh×n ®ång t¨ng 21% so víi n¨m
62
1999, khu vùc n«ng th«n ®¹t 275 ngh×n ®ång, t¨ng 22,2%, năm 2004 thu nhập
bình quân đầu người đạt 484,4 nghìn đồng, tăng 13,6%, năm 2006 thu nhập bình
quân 1 người 1 tháng đạt 636 nghìn đồng, tăng 31,4% so với năm 2004. Trong
thời kỳ 2004-2006 thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành tăng
bình quân 14,6%, thấp hơn mức tăng 16,6% mỗi năm của thời kỳ 2002-2004.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế thời kỳ 2004-2006 tăng 6,2%,
thấp hơn mức tăng thu nhập thực tế 10,7% của thời kỳ 2002-2004. Thu nhập của
năm 2006 tăng là do tháng 10/2005 Nhà nước tăng mức lương tối thiểu, kéo theo
tiền công thuê ngoài xã hội cũng tăng; đồng thời sản xuất thời kỳ này tiếp tục
tăng: sản lượng cây trồng, đặc biệt sản lượng lúa tăng; giá nông sản, thuỷ sản
như thóc, cà phê, cao su, điều, lợn hơi, tôm, cá đều tăng so với 2004. Tốc độ tăng
thu nhập thời kỳ 2004-2006 không bằng thời kỳ 2002-2004 do tốc độ tăng thu nhập
từ sản xuất nông nghiệp và sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp giảm.
Năm 2006, thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đều tăng. Thu nhập
bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 1.058 nghìn đồng, tăng 29,8%;
khu vực nông thôn đạt 506 nghìn đồng, tăng 33,8% so với năm 2004 và tăng
nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn
cao hơn nông thôn. Chênh lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 1999;
2002; 2004, 2006 của khu vực thành thị so với khu vực nông thôn tương ứng các
năm là: 2,30; 2,26 ; 2,14 và 2,09 lần và có xu hướng thu hẹp dần.
Năm 2006, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của nhóm hộ nghèo nhất
(nhóm 1) đạt 184 nghìn đồng, tăng 29,9%, của nhóm hộ giàu nhất (nhóm 5) đạt
1.542 nghìn đồng, tăng 30,4% so với năm 2004. Mức chênh lệch thu nhập bình
quân 1 người 1 tháng giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 8,37 lần, tăng nhẹ so với năm 2004
Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2006 theo giá hiện hành của các
vùng đều tăng khá cao so với năm 2004. Ba vùng có tốc độ tăng nhanh nhất là
Đông Bắc Bộ tăng 34,6%, Tây Bắc Bộ tăng 40,2%, Tây Nguyên tăng 33,9% là do
63
giá cà phê và một số hàng nông sản tăng khá so năm 2004 và do tác động của các
chính sách của Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên, đặc biệt việc giải quyết đất
sản xuất cho đồng bào dân tộc tại chỗ, Nhà nước cấp nhà ở, cấp vật liệu làm nhà,
bao cấp về y tế, giáo dục và do tác động của chính sách phát triển kinh tế - xã hội
ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, thu nhập giữa các vùng
còn có sự chênh lệch. Vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông
Nam Bộ, cao gấp 2,86 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là
vùng Tây Bắc Bộ (năm 2004 con số này là 2,63 lần).
Bảng 10: Thu nhập bình quân đầu người một tháng
và chênh lệch theo giá thực tế
1999
2002
2004
2006
I. Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng (nghìn đồng)
295,0
356,1
484,4
636
Phân theo thành thị/nông thôn
- Thành thị
516,7
622,1
815,4
1.058
- Nông thôn
225,0
275,1
378,1
506
Phân theo vùng
- Đông Bắc Bộ
210
268,8
379,9
511
- Tây Bắc Bộ
197
265,7
373
- Bắc Trung Bộ
212,4
235,4
317,1
418
- Tây Nguyên
344,7
244,0
390,2
522
- Đông Nam Bộ
527,8
619,7
833,0
1.065
Phân theo 5 nhóm thu nhập (mỗi nhóm bằng 20% tổng số người)
- Nhóm 1 (thấp nhất)
97,0
107,7
141,8
184
- Nhóm 2 (dưới trung bình)
181,4
178,3
240,7
319
- Nhóm 3 (trung bình)
257,0
251,0
347,0
459
- Nhóm 4 (khá)
346,7
370,5
514,2
679
- Nhóm 5 (cao nhất)
741,6
872,9
1.542
II. Chênh lệch (lần)
- Thành thị/nông thôn
2,30
2,26
2,16
2,09
64
- Vùng cao nhất/vùng thấp nhất
2,51
3,15
3,14
2,86
- Nhóm thu nhập cao nhất, nhóm thấp nhất
7,65
8,1
8,34
8,40
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Kết quả
điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
Do thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng khá, đời sống các tầng lớp
dân cư ở các vùng, đặc biệt tầng lớp nghèo tiếp tục được cải thiện nên số hộ nghèo
tiếp tục giảm. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2006 tính theo chuẩn nghèo mới của
Chính phủ (200 ngàn đồng cho khu vực nông thôn và 260 ngàn đồng cho khu vực
thành thị) là 15,5%; con số này của năm 2004 là 18,1%. Tỷ lệ hộ nghèo của thành
thị, nông thôn và các vùng năm 2006 đều giảm so với năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là 13,5%.
Không những mức sống của dân cư khu vực thành thị được nâng lên mà
mức sống của dân cư khu vực nông thôn cũng tăng lên rõ rệt. Ví dụ năm 2006
mức sống tại khu vực nông thôn được cải thiện trước tiên là do những thay đổi
về thu nhập từ nông nghiệp. Những thay đổi thu nhập từ hoạt động kinh doanh phi
nông nghiệp của từng hộ gia đình, nguồn thu từ hoạt động thương nghiệp và thu từ
hoạt động dịch vụ. Cơ hội việc làm phi nông nghiệp cho người dân tại các địa phương ngày càng nhiều, thúc đẩy giải quyết công ăn việc làm.
Cùng với thu nhập là mức chi tiêu cho đời sống người dân thay đổi nhanh
chóng, bình quân đầu người 1 tháng khu vực nông thôn đạt 359 nghìn đồng, năm
2006 tăng 27% so với năm 2004; khu vực thành thị đạt 738 nghìn đồng, tăng
24% so năm 2004. Mức chi tiêu cho đời sống khu vực thành thị gấp 2,06 lần khu
vực nông thôn (thời kỳ 2002-2004 là 2,1 lần). So năm 2004 chi tiêu cho đời sống
của nhóm hộ nghèo nhất tăng 26,3% (thấp hơn mức tăng 30,1% của thời kỳ
2002-2004); nhóm hộ giàu nhất tăng 28,3% (thời kỳ 2002-2004 là 30,4%). Chi
tiêu đời sống của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 4,54 lần nhóm hộ nghèo nhất (hệ số này năm 2004 và 2002 đều là 4,45 lần) [16, tr.32] [30][31][32]
Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch tiếp tục tăng. Hầu hết các loại đồ dùng lâu
bền hiện có của các hộ đều tăng ở cả khu vực thành thị, nông thôn, các vùng và
65
các nhóm thu nhập. Tuy nhiên số hộ có đồ dùng lâu bền ở thành thị vẫn cao hơn
nhiều so với hộ ở nông thôn, ví dụ có 72% số hộ thành thị có xe máy trong khi chỉ
có 46% số hộ nông thôn có xe máy; tương ứng 67% và 21% đối với điện thoại;
53% và 11% đối với tủ lạnh; 92% và 73% đối với máy thu hình; 20% và 3% đối
với máy vi tính [16, tr.34].
Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh, theo tiêu chuẩn quốc gia, thì
tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống 12% năm 2003. Còn theo
chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm
2002. Đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo còn 7% theo tiêu chuẩn của Việt nam
giai đoạn 2001-2005, vậy Việt Nam được xem là nước xoá đói giảm nghèo thành
công so với cộng đồng quốc tế. Tháng 1 năm 2006, Việt Nam áp dụng chuẩn
nghèo mới, tỷ lệ hộ nghèo tăng từ 7% đến 22% (cả nước sẽ có khoảng 4 triệu hộ
nghèo). áp dụng theo chuẩn mới năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước là
18,1%, trong đó khu vực thành thị là 8,6%, khu vực nông thôn là 21,2%. Năm
2006 tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước giảm xuống 15,5%, trong đó khu vực thành thị giảm xuống 7,7%, khu vực nông thôn giảm xuống 17% [16], [34, tr.78].
Bảng 11: Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004 và năm 2006 theo chuẩn mới
2004
2006
của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 quy về giá tháng 1/2004
Chung cả nước
18,1
15,5
Thành thị - Nông thôn
Thành thị
8,6
7,7
Nông thôn
21,2
17
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
12,9
10,1
Đông Bắc
23,2
22,2
Tây Bắc
46,1
39,4
Bắc Trung Bộ
29,4
26,6
Nam Trung Bộ
21,3
17,2
Tây Nguyên
29,2
24,0
66
Đông Nam Bộ
6,1
4,6
Đồng bằng sông Cửu Long
15,3
13,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình
năm 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội.
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng cao và thực hiện khá đồng bộ, công tác
xoá đói giảm nghèo đã đạt được hiệu quả nhất định, năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo
giảm xuống còn 14,8%, năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 13,5%. Tỷ lệ hộ
nghèo năm 2008 tuy giảm nhưng không đáng kể, không đạt được mục tiêu 12%
như đầu năm đặt ra do ảnh hưởng của biến động giá cả và ảnh hưởng của bệnh dịch, thiên tai và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Có thể nói mức thu nhập và đời sống của nhân dân tăng là một dấu hiệu
đáng mừng cho nền kinh tế, xét ở một khía cạnh khách quan thì xu hướng toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Tuy nhiên
bên cạnh những dấu hiệu tích cực là các hiệu ứng, thách thức phải đối mặt, đó là
lạm phát, suy thoái kinh tế toàn cầu… sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển nền
kinh tế trong nước và khu vực buộc Chính phủ phải đưa ra những đối sách quyết liệt để đảm bảo ổn định nền kinh tế hài hoà, bền vững.
2.2.4. Sức khoẻ và dinh dưỡng
Người Việt Nam nhìn chung có thể lực kém, thể hiện qua các chỉ số về
cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Người thiếu cân nặng và người lớn suy
dinh dưỡng chiếm tỷ lệ khoảng gần 50%, rất ảnh hưởng đến năng suất lao động và tuổi thọ của mỗi người.
Cũng xuất phát từ thể trạng yếu nên chúng ta xem lại chế độ dinh dưỡng
và chăm sóc sức khoẻ của người dân những năm qua như thế nào. Nước ta là
một nước còn nghèo nên tỷ trọng này còn cao, nhưng đã có xu hướng giảm rõ
rệt: Chi ăn uống trong chi tiêu đời sống từ 57% năm 2002, năm 2004 xuống đến
53,5% và năm 2006 chỉ là 52,8%. Tỷ trọng này năm 2006 của khu vực thành thị, nông thôn và hầu hết các nhóm thu nhập đều thấp hơn năm 2004. Tình hình bữa
ăn thiếu thốn và kém chất lượng kéo dài ảnh hưởng đến dinh dưỡng chúng và sự
67
phát triển của con người. Do tình trạng ăn uống nên phụ nữ có thai thiếu máu, trẻ
em sinh ra thiếu cân, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi. Tình trạng này
hiện còn đang tác động đến sự phát triển về thể lực, trí lực của nguồn nhân lực trong thời kỳ đất nước ta thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về y tế và chăm sóc sức khoẻ cũng có những dấu hiệu đáng mừng. Năm 2000, cả nước có 835 bệnh viện với 192 nghìn giường bệnh, bình quân 24,7 giường bệnh/1 vạn dân. Số bệnh viện năm 2005 là 878 (tăng 1,05% so với năm 2000), 197,2 nghìn giường bệnh, bình quân 23,7 giường bệnh/1 vạn dân, năm 2007 số bệnh viện lên đến con số 956 bệnh viện với số giường bệnh là 210,8 nghìn giường, bình quân 24,8 giường bệnh/1 vạn dân. Ngành y tế đã thiết lập được mạng lưới y tế xã, phường rộng khắp từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng đến vùng cao, hải đảo. Năm 2000 cả nước có 10.271 trạm y tế, năm 2005 tăng lên 10.613 trạm y tế và đến năm 2007 là 10.851 trạm y tế xã, phường, thị trấn.
Số lượng bác sĩ, y tá phục vụ khám, chữa bệnh ngày càng được nhân rộng và có chất lượng hơn. Năm 2007 so với năm 2000, số lượng bác sỹ tăng 1,4%, y tá tăng 1,31%, nữ hộ sinh tăng 1,46 %. [32], [16].
Bảng 12: Cơ sở khám, chữa bệnh nhân dân qua các năm
2000
2005
2006
2007
I. Số cơ sở khám, chữa bệnh (công lập)
13.117
13.243 13.232 13.438
- Bệnh viện
878
903
956
835
- Phòng khám đa khoa, khu vực
880
847
829
935
- Trạm y tế xã, phường, thị trấn
10.271
10.613 10.672 10.851
2. Số giường bệnh (nghìn người)
197,2
198,4
210,8
192
- Bình quân 1 vạn dân (giường)
23,7
23,6
24,8
24,7
3. Số cán bộ y tế
- Bác sĩ
51,5
52,8
54,8
39,2
- Y tá
51,6
55,4
60,3
50,8
- Nữ hộ sinh
18,1
19,0
20,8
14,2
68
Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007: Kết quả
điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội.
Tỷ lệ khám/chữa bệnh của thành viên hộ gia đình tăng, trong đó tỷ lệ
khám/chữa bệnh ngoại trú tăng nhưng tỷ lệ khám chữa bệnh nội trú giảm nhẹ.
Nhóm hộ giàu nhất có tỷ lệ lượt người khám chữa bệnh cao hơn nhóm hộ nghèo
nhất (36% so với 34%).
Tuy nhiên, so với người dân thành thị thì người dân nông thôn có ít hơn cơ
hội được khám chữa bệnh tại các bệnh viện nhà nước. Năm 2006 chỉ có 74%
lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại các bệnh viện nhà
nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 89%. Thay vào đó họ đã đến điều
trị nội trú tại các trạm y tế xã. Nhóm hộ giàu nhất có tỷ lệ khám chữa bệnh nội
trú tại các bệnh viện nhà nước cao hơn nhóm hộ nghèo nhất. Chênh lệch này còn cao hơn đối với khám chữa bệnh ngoại trú.
Theo kết quả kết quả khảo sát mức sống năm 2006, đã có trên 50% số
người có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí khi đi khám,
chữa bệnh, tăng đáng kể so 2004, kể cả ở nông thôn. Đặc biệt đã có 71% số
người thuộc nhóm hộ nghèo nhất có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa
bệnh miễn phí trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ có 61%. Những vùng nghèo nhất
như Tây Bắc và Tây Nguyên, những nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ này cao nhất cả nước.
Chi phí cho điều trị nội trú và ngoại trú năm 2006 đều tăng hơn so với năm 2004. Chi phí điều trị nội trú và ngoại trú bình quân 1 người khám chữa bệnh của các hộ ở khu vực thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn và ở nhóm hộ giàu cao hơn gấp nhiều lần so với nhóm hộ nghèo.[16, tr.26-27].
Sự cải thiện về dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ và y tế đã dẫn tới tăng tuổi
thọ bình quân của người dân Việt Nam. Nếu năm 1997, tuổi thọ bình quân của
người Việt Nam là 67,4 tuổi (cũng trong năm này, tuổi thọ bình quân ở các nước
đang phát triển nói chung là 64,4 tuổi, các nước chậm phát triển nhất là 51,7 tuổi,
69
vùng Nam Sahara Châu Phi là 48,9 tuổi), thì năm 2005 tuổi thọ của Việt Nam là 71,5 tuổi, năm 2008 là 72 tuổi.
70
Loại Bảo hiểm y tế
Khi nhận thẻ BHYT số tháng còn sử dụng
Tỷ lệ người được hưởng dẫn sử dụng BHYT
Chung (%)
Bắt buộc(%)
Ngời nghèo (%)
Tự nguyện khác (%)
Loại khác/ (%)
BHYT bắt buộc (Số tháng)
BHYT tự nguyện
Đối tượng chính sách (%)
Tự nguyện học sinh (%)
BHYT bắt buộc (%)
BHYT tự nguyện (%)
Bảng 13: Tỷ lệ người có bảo hiểm y tế phân theo thành thị, nông thôn, vùng của hộ và loại bảo hiểm y tế
Cả n íc
82.6
13.7
28.3
53.2
3.8
71.8
23.8
22.3
86.7
84.6
9.9
Thành thị - Nông thôn
Thành thị
57.2
3.0
92.5
32.7
67.4
11.0
16.9
80.9
79.8
9.7
4.6
Nông thôn
51.7
4.1
78.6
26.5
73.6
28.9
24.9
88.7
87.1
10.0
17.4
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
49.5
5.5
86.6
34.4
65.6
12.9
19.9
87.4
85.7
9.8
7.9
Đông Bắc
66.4
3.4
80.4
19.4
80.7
33.8
22.7
86.6
85.9
10.3
16.2
Tây Bắc
81.7
2.6
87.2
5.6
94.4
67.5
55.8
87.4
82.1
10.8
10.2
Bắc Trung Bộ
58.6
4.9
80.0
28.0
72.1
29.7
28.6
85.9
84.4
9.7
15.2
Duyên hải Nam Trung Bộ
58.2
3.0
83.0
36.1
64.1
18.7
18.3
84.4
81.6
10.1
14.1
Tây Nguyên
65.6
1.9
68.0
20.7
79.3
29.8
28.4
85.1
82.4
9.5
30.2
Đông Nam Bộ
47.2
2.8
89.2
33.8
66.4
10.2
13.4
85.2
81.8
9.6
8.1
Đồng bằng sông Cửu Long
40.5
3.3
81.1
29.9
70.1
21.7
21.0
10.2
90.1
88.2
15.5
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2007.
71
2.2.5. Vấn đề việc làm
Hiện nay, nước ta có khoảng 75% lao động làm việc ở nông thôn, khoảng
53% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp. Trong quá trình đổi mới avf
hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giải quyết việc làm của Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Trong 5 năm (1986-1990) nước ta có thêm 4,2 triệu
lao động tìm được việc làm mới. Giai đoạn năm 1996-2001 có thêm 6,1 triệu lao
động được thu hút vào làm việc. Giai đoạn 2001-2005 số lao động có việc làm
tăng lên 7,54 triệu, tăng 23,6% so với giai đoạn 1996-2000, năm 2006 tạo được
1,65 triệu lao động có việc làm, năm 2007 là 1,68 triệu [33, tr.78].
Mặc dù vậy, do dân số tăng nhanh và sự khan hiếm các nguồn lực cho thu
hút lao động cùng một số nguyên nhân khác nên tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc làm ở nước ta trong những năm qua còn đang tồn tại ở mức độ cao.
Bảng 14: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi theo khu vực thành thị (%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Chung cả nước
6,42
6,30
6,01
5,78
5,60
5,31
4,82
4,64
Đồng bằng Sông Hồng
6,64
6,38
6,03
5,60
6,42
5,74
7,34
7,1
Đông Bắc
6,10
5,93
5,45
5,12
4,32
3,97
6,49
6,7
Tây Bắc
5,11
5,19
5,30
4,91
3,89
3,42
6,02
5,6
Bắc Trung Bộ
5,82
5,45
5,35
4,98
5,50
4,92
6,87
6,7
Duyên hải Nam trung Bộ
5,50
5,46
5,70
5,52
5,36
4,99
6,31
6,2
Tây Nguyên
4,90
4,39
5,43
4,23
2,38
2,11
5,16
5,6
Đông Nam Bộ
6,30
6,08
5,92
5,62
5,47
4,83
6,16
5,9
Đồng bằng Sông Cửu Long
6,15
5,50
5,26
5,03
4,87
4,52
4,03
6,1
Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007, NXB
Thống kê, Hà Nội.
72
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước ở khu vực thành thị năm 2000 ở mức
6,42%, giảm xuống còn 6,3% năm 2001, năm 2002 ở mức 6,01%, đến năm 2007
giảm xuống còn 4,64%. Nổi bật nhất là sự sụt giảm ở khu vực Đồng bằng sông
Hồng. Tỷ lệ thất nghiệp ở đây cao hơn hẳn các vùng miền khác trong cả nước,
với 7,34%, năm 2000, con số này giảm mạnh nhất, xuống chỉ còn 5,6% năm
2005, tương đương với tỷ lệ ở Đông Nam Bộ, nhưng đến năm 2007 lại tăng nhẹ
lên 5,74% [32].
Tuy nhiên, 5,74% vẫn là tỷ lệ cao nhất nước hiện nay. Do đó, tiếp tục tạo
thêm nhiều việc làm mới vẫn là nhiệm vụ bức thiết của chính quyền các địa
phương ở khu vực này trong năm 2007. Nhiệm vụ này hết sức quan trọng ở vùng
kinh tế trọng điểm còn lại là khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, khi tỷ lệ thất
nghiệp vẫn còn tới 4,99%, đã giảm so với con số năm 2006 là 5,36%. Ở chiều
ngược lại, tuy chỉ giảm nhẹ, song tỷ lệ thất nghiệp ở Tây Nguyên vẫn nằm mức
thấp nhất nước, với chỉ 2,11%. Nằm trong nhóm có tỷ lệ thất nghiệp thấp hiện
nay còn phải kể đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Bắc, ở mức
3,42% và 3,97%.
Ở các khu vực còn lại, tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị cũng đều giảm so với
năm trước, Bắc Trung bộ chỉ còn 4,920%, Tây Bắc 4,03% [32].
Tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng ở khu vực nông thôn vẫn còn
cao. Năm 2000 là 25,8%, năm 2001 là 25,7%, năm 2002: 24,7%, năm 2003:
22,8%, năm 2004: 79,4%, năm 2005: 19,4%, năm 2006: 16,3% [32] [31].
Một vấn đề nan giải của lực lượng lao động đi xuất khẩu lao động chủ yếu
là phổ thông chưa qua đào tạo, do vậy nâng cao chất lượng lao động cho công
tác xuất khẩu là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn tới. Công tác quản lý lao động
xuất khẩu tại nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn là lao động bỏ trốn tại nước
ngoài đã gây ảnh hưởng lớn đến hợp tác quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia, ảnh
73
hưởng đến an ninh, chính trị của quốc gia xuất khẩu lao động và quốc gia nhập
khẩu lao động.
2.3. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực và tác động
của nó đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Nhìn lại sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa, nước ta đã đạt những thành
tựu to lớn trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng
nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những thành tựu đạt được thể
hiện ở một số mặt sau:
- Thứ nhất, chỉ số phát triển con người của Việt Nam được cải thiện đáng
kể, năm 2001 chỉ số HDI là 0,682 và xếp hạng 101/173 quốc gia, năm 2003 là
0,704 (108/177), năm 2004 là 0,709 (109/177), năm 2005 là 0,733 (105/177).
- Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng được nâng
cao theo hướng đáp ứng tốt hơn những yêu cầu phức tạp của công việc. So với
khả năng đáp ứng công việc của nguồn nhân lực Việt nam những năm 80, 90 thì
lực lượng lao động hiện nay đã có chuyển biến rất tích cực, tính kỷ luật trong
công việc, tinh thần trách nhiệm, tính chuyên nghiệp và hiệu quả công việc đã
được khẳng định. Từ giới lãnh đạo Đảng, nhà nước và cán bộ công chức đã biết
áp dụng công nghệ thông tin trong lãnh đạo và điều hành công việc, tiếp cận tri
thức mới và sử dụng thành tựu của khoa học công nghệ cao trong các ngành
công, nông, y tế... Một thành quả đáng chú ý là sau 10 năm đưa mạng internet
vào Việt Nam, đã có hơn 20% người dân đã biết sử dụng và khai thác mạng tri
thức toàn cầu này để phục vụ công việc và đời sống. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều
so với những nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam.
- Thứ ba, cơ cấu của nền kinh tế có những bước tiến bộ rõ rệt, năm 2008
tỷ trọng công nghiệp đạt trên 39%, dịch vụ trên 38% và nông lâm ngư nghiệp
74
trên 21%, cơ cấu lao động có chuyển biến tích cực (lao động trong nhóm ngành
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm tưg 73,0% năm 1990 xuống còn 52,5% năm
2008), tạo thêm được hơn 1 triệu công ăn việc làm mỗi năm, đời sống nhân dân
không ngừng được cải thiện (tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18,1% năm 2004 xuống còn
13,5% năm 2008, tuổi thọ trung bình tăng lên), từng bước tạo ra được một nền
kinh tế mở, năng động, có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra trong nền
kinh tế thế giới.
- Thứ tư, là các thế mạnh về nguồn nhân lực của Việt Nam được củng cố
và khai thác tốt hơn. Hiện nay, chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ lao
động trẻ cao trong tổng lực lượng lao động đã được khai thác là một lợi thế của
nguồn nhân lực Việt Nam, vì bên cạnh ưu thế về thể chất, lao động trẻ là đội ngũ
có học thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, dễ tiếp thu các kỹ năng và kiến
thức mới. Số lượng nhân lực qua đào tạo ở Việt Nam ngày càng tăng qua các
năm. Sự gia tăng này là kết quả đáng ghi nhận trong quá trình phát triền nguồn
nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong giai đoạn 2004-2008 có sự xuất hiện về
nguồn nhân lực trong những ngành nghề mới và theo hướng tiếp cận hiện đại
như: ngành chứng khoán, ngành công nghệ thông tin, ngành công nghệ sinh học,
ngành công nghệ vũ trụ... Bên cạnh, đội ngũ nhân lực được đào tạo theo phương
pháp đào tạo hiện đại của thế giới ngày càng nhiều ở Việt Nam, bằng các hình
thức du học, du học tại chỗ... có khả năng cạnh cao với nhân lực các quốc gia
trong khu vực và thế giới.
Nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể về thể lực, trí lực và tâm lực, đã
trở thành yếu tố quyết định sự thành công của quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế:
- Nguồn nhân lực với chất lượng được nâng cao đáng kể (kể cả nguồn
nhân lực quản lý và nguồn nhân lực sản xuất, kinh doanh) đã góp phần to lớn
vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm trên
75
thị trường trong nước và quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên
trong những năm gần đây, năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,5 tỷ USD, năm
2000 đạt 14,14 tỷ USD, năm 2001: 15,029 tỷ USD, năm 2002: 16,70 tỷ USD,
năm 2003: 20,19 tỷ USD, năm 2004: 26,48 tỷ USD, năm 2005: 32,44 tỷ USD,
năm 2006: 39,82 tỷ USD, năm 2007: 48,56 tỷ USD, năm 2008: 62,9 tỷ USD
[32].
- Quá trình phát triển nguồn nhân lực đã tạo ra được đội ngũ các nhà quản
lý vĩ mô cũng như vi mô, quản lý nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp, dần
thích ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Đội ngũ cán bộ làm việc
trong các tổ chức, định chế kinh tế khu vực và quốc tế mà Việt Nam có tham gia,
đội ngũ các nhà doanh nghiệp, đội ngũ các nhà khoa học, các kỹ sư, các công
nhân lành nghề, những người dân sản xuất hàng hoá... là động lực chính thúc đẩy
và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế cảu Việt Nam.
- Những tiến bộ đạt được trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho tới nay là điều kiện tiền đề, quyết định sự thành công trong hội nhập kinh tế
quốc tế trong dài hạn. Bởi lẽ những cải thiện đáng kể về sức khoẻ và dinh dưỡng
đối với bà mẹ và trẻ em, những thành tựu đã đạt được trong giáo dục từ mầm
non đến tiểu học và các cấp cao hơn không chỉ về trình độ học vấn, năng lực
chuyên môn mà cả về phẩm chât nhân văn, đạo đức, lối sống mới, tác phong
công nghiệp, ý thức cộng đồng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Những thành tựu nêu trên trong quá trình phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam là rất to lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là thành tựu đạt được so với chính bản thân
lực lượng lao động so với thời gian trước đây. Nếu so với nhu cầu phát triển kinh
tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là so với trình độ của nguồn
nhân lực các nước trong khu vực và thế giới, nguồn nhân lực nước ta còn rất
nhiều hạn chế và bất cập.
76
2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực
- Về cơ cấu kin tế còn rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các nước
phát triển. Do quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh trên thế giới, sự phân công lao
động quốc tế dần hình thành và có những diễn biến bất lợi cho các nước đang
phát triển như nước ta. Hiện nay, xu hướng phát triển nhanh của nền kinh tế tri
thức, nền kinh tế có cơ cấu dịch vụ và công nghiệp với công nghệ kỹ thuật cao
đang là ưu thế của các nước phát triển. Các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam có nguy cơ phải tiếp quản các ngành sản xuất vật chất mang tính
truyền thống và kém phát triển như nông nghiệp, công nghiệp dệt may, thuộc
da... Các ngành này có đầu vào phải sử dụng nhiều lao động phổ thông giá rẻ, sử
dụng tài nguyên một cách cạn kiệt (những ngành thâm dụng tài nguyên), trong
quá trình sản xuất dễ gây ô nhiễm môi trường, nhưng sản phẩm đầu ra có hàm
lượng kỹ thuật và giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông
nghiệp còn rất cao (hơn 52%).
- Nhìn chung lao động Việt Nam hạn chế cả về thể lực và trí lực, phần lớn
là lao động thủ công. Lực lượng lao động kế thừa từ nền kinh tế kế hoạch hoá
bao cấp còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, tính kỷ luật chưa cao, chậm
thay đổi với môi trường sản xuất mới, tỷ lệ lao động dư thừa từ nông thôn
chuyển dịch ra thành phố tăng nhanh trong khi chưa có sự chuẩn bị về chuyên
môn và tác phong công nghiệp.
- Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, đang là một vấn đề nổi cộm nhất
của xã hội, đã xuất hiện hình thái thất nghiệp chính thức của một bộ phận không
nhỏ lao động nông nghiệp bị thu hồi đất cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bất
bình đẳng về thu nhập, phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các
vùng ở mức cao và có xu hướng gia tăng, kết quả xoá đói giảm nghèo thiếu vững
77
chắc, môi trường bị ô nhiễm nặng nề ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của nhân
dân.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, chất lượng lao động qua đào tạo không
đáp ứng tốt yêu cầu công việc mang tính chuyên nghiệp cao. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo còn ít so với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã gây lên
tình trạng khan hiếm lao động ở một số bộ phận và một số ngành kinh tế như:
nhân lực cao cấp trong các doanh nghiệp, nhân lực tài chính - ngân hàng, nhân
lực công nghệ thông tin, công nhân lành nghề.
Bên cạnh sự thiếu hụt về số lượng lao động qua đào tạo, thì chất lượng lao
động qua đào tạo mới là nguyên nhân chính làm giảm khả năng cạnh tranh của
nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế này
không chỉ tồn tại trong ngành công nghệ thông tin mà còn tồn tại trong rất nhiều
ngành nghề khác. Nhìn chung, tính không chuyên nghiệp của nguồn nhân lực
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập thể hiện ở sự thiếu kiến thức chuyên ngành,
thiếu kinh nghiệm thực hành, yếu về ngoại ngữ, thiếu khả năng làm việc nhóm,
thiếu khả năng làm việc độc lập... Như vậy, xét cả về quy mô và chất lượng,
nguồn nhân lực qua đào tạo của nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức
to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào thế giới.
Như vậy, xét cả về quy mô và chất lượng, nguồn nhân lực của nước ta vẫn
đang đứng trước những thách thức to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu hoá.
Nguyên nhân của những hạn chế và bất cập về phát triển nguồn nhân lực
trong thời gian qua tập trung ở một số vấn đề sau:
- Việt Nam tiến hành đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế từ một
nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp, vì thế qua thời gian dài đổi mới và
mở cửa, tàn dư của cơ chế cũ vẫn tồn tại, trong đó có nhận thức về vai trò của
nguồn nhân lực, có tư tưởng ỷ lại vào nhà nước của không ít người lao động và
78
cán bộ quản lý trong phát triển nguồn nhân lực. Tư duy của cơ chế cũ cũng thể
hiện ở không ít chính sách về phát triển kinh tế nói chung, phát triển nguồn nhân
lực nói riêng.
- Việt Nam tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện nền kinh tế
về cơ bản là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mặt khác dân số tiếp
tục gia tăng. Vì vậy, đầu tư các nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực gặp rất
nhiều khó khăn.
- Sự hạn chế, bất cập trong hoạch định và thực thi một số chính sách đã
làm hạn chế hiệu quả của phát triển nguồn nhân lực: Chính sách đầu tư cho giáo
dục và đào tạo, những bất cập trong cải cách giáo dục; chính sách phát triển nông
nghiệp, nông thôn; chính sách giải quyết việc làm; chính sách đối với nông dân
bị thu hồi đất cho công nghiệp hoá, đô thị hoá; sai lệch trong thực hiện chủ
trương xã hội hoá giáo dục, y tế; chính sách phát triển các loại thị trường, trong
đó có thị trường sức lao động, chính sách tiền lương...
- Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, về phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng trong cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế.
79
Chương 3
QUAN ĐIỂM ĐINH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực
của Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức trên
phạm vi toàn cầu: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đưa nền kinh
tế dựa chủ yếu vào tài nguyên, lao động và máy móc chuyển mạnh sang kinh tế
dựa vào trí tuệ con người là chính dẫn đến hình thành nền kinh tế tri thức. Tri
thức trở thành yếu tố quyết định lực lượng sản xuất, là nguồn lực hàng đầu tạo
nên sự tăng trưởng và đem lại giá trị gia tăng nhiều nhất. Các lĩnh vực mũi nhọn
của khoa học - công nghệ thế giới tập trung vào tự động hoá, công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và năng lượng mới, công nghệ
hàng không vũ trụ, công nghệ đại dương, công nghệ nanô. Tốc độ đổi mới sản
phẩm rất nhanh. Hàm lượng khoa học, công nghệ trong các sản phẩm dịch vụ
chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng. Nền kinh tế tri thức phát triển và lan rộng
trên toàn thế giới. Trong nền kinh tế tri thức, những yêu cầu về nhân lực cũng
80
thay đổi. Về mục tiêu chính sách, thu nhập và tiền lương cao sẽ thay thế cho toàn
dụng lao động; về kỹ năng, kỹ năng rộng và đa ngành sẽ thay thế cho kỹ năng
riêng, đặc thù của từng công việc; về yêu cầu đối với giáo dục đào tạo, học suốt
đời sẽ thay thế cho bằng cấp về trình độ, kỹ năng; về quản lý quan hệ lao động,
hợp tác sẽ thay thế cho đối đầu và về tính chất của việc làm, thì tính năng động
sẽ thay thế cho sự ổn định. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là thách thức, song
cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng những lợi thế về nhân lực với truyền thống
hiếu học và trí thông minh để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước tiến
tiến trên thế giới, bởi vì đầu tư đúng và mạnh vào nguồn vốn con người chính là
tiền đề rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tiến hành hội
nhập kinh tế toàn cầu.
- Hình thành và phát triển xã hội thông tin: Công nghệ thông tin, máy tính
hoá và công nghệ truyền tin... không chỉ làm thay đổi phương pháp tư duy, cách
thức tổ chức công việc, phương pháp việc làm mà còn chi phối những thói quen
trong sinh hoạt hàng ngày, học tập và nghỉ ngơi giải trí của con người. Điều đó
vừa nâng cao sự độc lập của mỗi con người, song lại đòi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ và nghiêm ngặt.
- Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế: Toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hoá thương mại sẽ được đẩy mạnh cả về chiều
rộng và chiều sâu. Đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn
ngày càng được mở rộng. Với việc trở thành thành viên đầy đủ của nhiều tổ chức
quốc tế và khu vực, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều cam kết quốc tế và hội nhập
ngày càng sâu, rộng vào quá trình toàn cầu hoá, trong đó có vấn đề nguồn nhân lực.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân
81
lực nói riêng là cơ sở tiền đề vững chắc cho phát triển nguồn nhân lực trong thời gian
tới.
Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng quá trình
này tạo cơ hội và điều kiện quan trọng nhất để tiếp tục phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội to lớn, đồng thời là những
thách thức không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế nói chung, với phát triển
nguồn nhân lực nói riêng. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực thông qua mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và xuất khẩu lao
động, thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài, và vì vậy, có nhiều cơ hội về việc
làm, nâng cao đời sống của người lao động; thông qua hợp tác quốc tế trong giáo
dục và đào tạo tiến dần đến chuẩn khu vực và quốc tế; thông qua phối hợp quốc
tế trong xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường,... Tất cả những yếu tố đó đều
góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam. Những thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn
nhân lực cũng hết sức trực tiếp và ngày càng thể hiện rõ nét trên thực tế. Cạnh
tranh khốc liệt hơn cả trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế tất yếu
dẫn đến một bộ phận doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể dẫn đến
thất nghiệp có thể gia tăng ở cả thành thị và nông thôn. Những biến động tiêu
cực của các nền kinh tế phát triển sẽ tác động nhanh chóng tới nền kinh tế Việt
Nam. Cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu, xuất phát từ Mỹ và các nước phát triển
diễn ra từ giữa năm 2008, đã, đang và sẽ tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế -
xã hội của Việt Nam, một quốc gia đang phát triển phụ thuộc nhiều vào thị
trường các nước phát triển. Thực tế cho thấy, do suy thoái kinh tế toàn cầu, GDP
của Việt Nam đã giảm từ 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008. Theo
đó, đời sống dân cư khó khăn hơn, thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên, đầu tư
82
cho phát triển nguồn nhân lực cũng bị hạn chế. Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy
giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, mặt tiêu cực ở đây là cùng với dòng đầu tư
nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên, trao đổi thương mại ngày càng mở rộng là
sự du nhập ngày càng nhiều, với tốc độ ngày một tăng của những yếu tố không
phù hợp với văn hoá, lối sống tốt đẹp, có bản sắc độc đáo của Việt Nam. Điều đó
ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, làm cho quá trình
phát triển nguồn nhân lực gặp nhiều khó khăn hơn.
3.2. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.2.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nước ta đến năm 2020 là có được đội
ngũ nhân lực đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ các nước
tiên tiến trên thế giới; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý có đủ
năng lực đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kém phát triển, không
ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
đảm bảo an ninh, quốc phòng, con người Việt Nam được phát triển toàn diện về
trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức,... có kiến thức và kỹ năng toàn cầu, năng
động, chủ động, có năng lực tự học, tự đào tạo cao, khả năng thích nghi nhanh
chóng với môi trường không ngừng biến đổi.
Đặc biệt, trong toàn bộ nguồn nhân lực của cả nước, xây dựng được một
bộ phận nhân lực đỉnh cao trong các lĩnh vực quản lý (quản lý nhà nước, quản lý
xã hội, hoạch định chính sách, quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh), khoa học
- công nghệ, giáo dục - đào tạo và văn hoá có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển cao, bền vững của đất nước trong những năm tiếp theo, nâng cao hơn nữa vị
thế và tiềm lực kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế.
83
Xây dựng được xã hội học tập và học tập suốt đời, đảm bảo cho tất cả các
công dân Việt Nam thực hiện phương châm “Học để biết, học để làm việc, học
để sống với nhau và học để tồn tại” (UNESCO).
3.2.2. Quan điểm định hướng
- Phát triển nguồn nhân lực là một bước đột phá, là quốc sách hàng đầu,
phát triển nguồn nhân lực là nội dung quan trọng và phải gắn kết với phát triển
con người, góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển con người.
- Hiện đại hoá hệ thống phát triển nguồn nhân lực để nâng cao năng lực
cạnh tranh, hội nhập toàn cầu của nhân lực Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam và
nâng cao hiệu quả của hệ thống phát triển con người.
- Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề.
Đào tạo nguồn nhân lực theo hướng phát triển toàn diện kỹ năng và nghề nghề
cụ thể theo “cầu” của thị trường lao động, đảm bảo chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong thời gian tới cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao theo hướng chuẩn khu vực và quốc tế cả về chương trình đào
tạo lẫn chất lượng đào tạo, với lộ trình và bước đi cụ thể. Áp dụng phương pháp
đào tạo hiện đại, tiên tiến, đổi mới căn bản phương pháp giảng dạy, phương pháp
kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
truyền thông trong đào tạo. Đồng thời, tiếp tục hình thành và phát triển các
trường đại học chất lượng cao nhằm đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực thích ứng
cho nền kinh tế. Đối với việc phát triển các trường Đại học chất lượng cao cần có
cơ chế thông thoáng, minh bạch trong huy động nguồn đầu tư phát triển.
- Xây dựng và phát triển cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý và năng động về
ngành nghề, đa dạng và chất lượng đa tầng, đa cấp có năng lực nhanh chóng
thích ứng với nhu cầu phát triển trong nước và tình hình thế giới không ngừng
thay đổi. Nâng cao trình độ phát triển nhân lực lên ngang tầm với các nước tiên
84
tiến trong khu vực và thế giới đảm bảo nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh
của Việt Nam trên trường quốc tế, hội nhập vững chắc, có hiệu quả; đồng thời
trú trọng đến yêu cầu thông suốt thị trường lao động Việt Nam và quốc tế (đưa
người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài).
- Phát triển nhân lực với cơ cấu hợp lý, hài hoà theo vùng, miền đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm của mỗi vùng, miền. Phát triển
nhân lực cân đối, hài hoà theo các dân tộc, đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát
triển. Đồng thời tập trung ưu tiên phát triển nhân lực đặc thù: nhân lực khoa học
- công nghệ, nhân lực lãnh đạo, quản lý (lãnh đạo nhà nước và quản lý kinh
doanh), nhân lực các vùng lạc hậu, kém phát triển, dân tộc thiểu số hiện còn ở
trình độ thấp và đang gặp rất nhiều khó khăn.
- Đảm bảo thực hiện công bằng xã hội trong phát triển nguồn nhân lực với
sự kết hợp hài hoà giữa giải quyết vấn đề đảm bảo phúc lợi xã hội trong giáo dục
- đào tạo với tác động của cơ chế thị trường và hiệu quả kinh tế - xã hội trong
phát triển nguồn nhân lực. Quy mô, chất lượng phải do nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội quyết định, không được áp đặt cứng nhắc quy mô đào tạo; chất lượng,
trình độ phải đa cấp độ để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng trong đời sống kinh tế -
xã hội của cả đất nước, các vùng lãnh thổ và nhu cầu về nâng cao học vấn và
nghề nghiệp của các tầng lớp dân cư.
- Phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của toàn xã hội. Mỗi người dân,
mỗi tổ chức kinh tế, xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm và tham gia tích
cực, có hiệu quả vào phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước quản lý vĩ mô, định
hướng, dẫn dắt bằng hệ thống khuôn khổ pháp luật và chính sách khuyến khích,
kích thích phát triển, thực hiện sự hỗ trợ tích cực để phát triển các nhóm nhân
lực đặc thù, nhất là đối với những đối tượng xã hội..., kết hợp hài hoà với việc sử
dụng cơ chế và những công cụ của kinh tế thị trường trong phát triển nguồn nhân
85
lực (phát huy tính độc lập, sáng kiến của các cơ sở, huy động mọi nguồn lực
trong nước và ngoài nước trong phát triển nguồn nhân lực)
3.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam
3.3.1. Phát triển giáo dục và đào tạo
- Cải tiến hệ thống giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề nghiệp, kỹ
năng cho người lao động.
Một trong những mục tiêu lớn nhất cần đạt được để nâng cao khả năng hội
nhập của lao động Việt Nam trong thời gian tới là đảm bảo để người lao động có
kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả thiết
thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ; là xây
dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà
kinh doanh, nhà quản lý giỏi đạt trình độ khu vực và quốc tế. Điều này chỉ có thể
có được thông qua các biện pháp phát triển giáo dục đào tạo theo hướng cải tiến
về căn bản hệ thống này.
Hiện nay, công cuộc phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở đang là
lĩnh vực ưu tiên, đây cũng là biện pháp quan trọng giúp đông đảo người nghèo,
trước hết là trẻ em nghèo, có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản, bằng cách đó giúp
nâng cao năng lực phát triển chung nguồn nhân lực.
Song hành với đổi mới giáo dục cấp cơ sở thì đối với các bậc giáo dục và
đào tạo cao hơn, các chính sách cần được Nhà nước xây dựng theo hướng phát
huy mạnh hơn nữa tính tích cực của chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục,
đào tạo, cho phép chia sẻ về tài chính giữa Nhà nước, các chủ thể xã hội khác và
chính bản thân người được hưởng thụ tri thức. Sự hỗ trợ tài chính mang tính ưu
tiên của Nhà nước, nếu có, chỉ nên dành cho một số ít trường hợp đặc biệt, chủ
yếu là cho những học sinh, sinh viên xuất sắc.
86
Tăng cường các hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông;
Tăng cường và đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Đổi mới
nội dung chương trình và phương pháp giáo dục, đào tạo như đổi mới sách giáo
khoa và tài liệu giảng dạy theo hướng tiếp thu có chọn lọc và tiếp cận trình độ
các nước tiên tiến trên thế giới. Nghiên cứu sử dụng trực tiếp sách giáo khoa và
tài liệu giảng dạy của các nước tiên tiến đối với một số môn học thuộc ngành
khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Đồng thời cải tiến phương pháp dạy và học ngoại
ngữ, trước mắt là tiếng Anh trong hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực. Từng
bước mở rộng việc dạy và học song ngữ trong trường phổ thông, trước hết là ở
những nơi có điều kiện như khu vực thành thị, các thành phố lớn, khu kinh tế...
Đổi mới đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động
của người học và sử dụng rộng rãi công nghệ mới, công nghệ thông tin trong đào
tạo. Mở rộng các phương pháp tổ chức đào tạo tiên tiến: đào tạo theo tín chỉ, đào
tạo liên thông, đào tạo từ xa.. để tạo điều kiện thuận lợi, mở rộng cơ hội đào tạo
cho mọi người dân.
Đi cùng với đổi mới đào tạo là xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên
trình độ cao. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới và phương
pháp giảng dạy mới cho đội ngũ giáo viên phổ thông các cấp. Tập trung tăng
cường giáo viên để hoàn thiện cơ cấu giáo viên theo môn học đảm bảo học sinh
được giáo dục toàn diện, phát triển năng khiếu và chuẩn bị cho nền giáo dục đại
học trình độ cao đạt đẳng cấp quốc tế trong tương lai (giáo viên ngoại ngữ, giáo
viên các bộ môn năng khiếu, giáo dục thể chất...). Chuẩn hoá đội ngũ giáo viên:
đến năm 2010 về cơ bản 100% giáo viên phổ thông các cấp đạt chuẩn. Tăng
cường đào tạo giáo viên dạy nghề. Đảm bảo đến năm 2010 có được 70.000 giáo
viên dạy nghề để đảm bảo tỷ lệ học sinh/giáo viên theo định mức. Tăng nhanh số
lượng giảng viên đại học-cao đẳng để đảm bảo tỷ lệ sinh viên/giảng viên đúng
87
định mức. Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên: đến năm 2010 có ít nhất 40%
thạc sỹ, 25% tiến sỹ; đến năm 2020 có ít nhất 60% thạc sỹ, 35% tiến sỹ.
- Năng lực cạnh tranh và hội nhập của đội ngũ lao động Việt Nam chỉ có
thể được nâng cao khi khoảng cách hiện tại giữa các hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng nghề nghiệp cho người lao động và nhu cầu thực tế của thị trường lao
động được thu hẹp. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, hoạt động đào tạo nghề,
đào tạo công nhân kỹ thuật, bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề (đào tạo
lại) và đào tạo các ngành nghề mới phải được hết sức chú trọng. Để có thể thu
hẹp dần khoảng cách giữa các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tay nghề với nhu
cầu hiện có của thị trường lao động, những biện pháp nên được xem xét là:
+ Xác định rõ ràng theo tín hiệu thị trường theo các lĩnh vực, ngành nghề
hiện đang thiếu nhân công, thiếu lao động có trình độ và kỹ năng cần thiết để có
thể quy hoạch lại hệ thống đào tạo nghề theo hướng đồng bộ từ cơ cấu ngành đến
cơ cấu vùng, địa phương, giúp xử lý hài hoà quan hệ giữa đào tạo các ngành
công nghệ cao (thông tin, bưu chính viễn thông, cơ - điện tử, dầu khí, hàng
không,.. ), với các ngành sử dụng nhiều lao động (may, mặc, chế biến nông sản,
thuỷ sản...); hoặc giữa đào tạo nghề cho thành thị, với đào tạo nghề cho nông
thôn.
+ Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ
năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề
được đăng ký chính thức, và các loại văn bằng chứng chỉ do họ cấp phải được cơ
quan quản lý Nhà nước công nhận.
+ Kết hợp đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản ở các trường dạy nghề, các
trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng với việc nâng cao kỹ năng nghề
nghiệp tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Huy động các chuyên gia làm việc tại
các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung đào tạo
đại học và giáo dục nghề nghiệp.
88
- Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục - đào tạo với nước ngoài . Cần mở
rộng giao lưu về giáo dục với các nước, tiếp cận với mô hình giáo dục tiên tiến
nhất, để vận dụng sáng tạo vào nước ta. Có chính sách tuyển cử đông đảo giáo
viên, sinh viên đi học tập, nghiên cứu và làm việc ở các nước phát triển và thu
hút nhiều giáo sư, chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi
kinh nghiệm, mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết các trường đại học nước ta
với các trường đại học nước ngoài để đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn
quốc tế, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các đại học quốc tế ở
trong nước.
3.3.2. Nâng cao thu nhập, mức sống và thể chất của dân cư
- Nâng cao thu nhập mức sống: Trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng lạm phát, thất nghiệp cục bộ (thất
nghiệp cơ cấu) là khó tránh khỏi, thu nhập của người lao động lúc này được quan
tâm hơn cả. Lao động tri thức hay lao động giản đơn đều hướng tới nơi nào trả
lương thoả đáng để họ đầu quân làm việc nhằm mục đích có được thu nhập cao
để trang trải cuộc sống và tích luỹ. Chính vì vậy Chính phủ cần phải giải được
bài toán nâng cao thu nhập cho người dân. Nên áp dụng chế độ lương cạnh tranh
trên cơ sở trả đúng với lao động bỏ ra có khả năng tạo dựng sự cam kết của
người lao động với tổ chức, doanh nghiệp. Trả lương cạnh tranh có thể tạo ra
động lực làm việc và khuyến khích người lao động học tập nâng cao tay nghề,
nhưng điều này chỉ có thể xảy ra trong khu vực sản xuất hiện đại, tuy nhiên trong
những khu vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ nông nghiệp việc trả lương theo
thời gian và áp dụng chế độ thưởng theo sản phẩm, doanh thu cũng là động lực
để người lao động chuyên tâm với công việc. Bên cạnh đó, Chính phủ phải đưa
được công nghệ tiên tiến, hiện đại tới các khu vực nông thôn để tăng hiệu suất
lao động, chú trọng đào tạo tay nghề cho lao đông phổ thông nhằm rút ngắn
khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đầu tư cơ sở hạ tầng:
89
điện, đường, chợ, bưu điện, trường học... cho khu vực miền núi, nông thôn nhằm
đẩy mạnh thương mại dịch vụ nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư, thoát
khỏi và đoạn tuyệt với đói nghèo.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nhà
nước phải tạo môi trường thuận lợi khuyến khích mọi người dân vươn lên làm
giàu chính đáng và giúp đỡ nhứng người nghèo. Thực hiện tốt an sinh xã hội,
trong đó có bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội... Hạn chế tái đói nghèo, đói nghèo
dai dẳng, thực hiện xoá đói giảm nghèo vững chắc. Giải pháp mang tính tổng thể
và bao trùm để nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư là đảm bảo tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định kinh tế, đồng thời, thực hiện công bằng trong phân
phối thông qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, theo hiệu quả kinh
tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Cùng với việc nâng cao mức sống dân cư là những giải pháp để nhanh
chóng cải thiện và nâng cao thể lực của nhân dân, đó là:
- Đổi mới hệ thống y tế, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một
trong những hướng chủ yếu để nâng cao chất lượng lao động. Xây dựng mạng
lưới y tế đến tận cấp thôn, bản, để đảm bảo 100% xã có trạm xá, củng cố và nâng
cấp mạng lưới y tế ở nông thôn.
- Thực hiện chương trình tổng hợp và chăm sóc, bảo vệ và nâng cao thể
lực cho phụ nữ. Mở rộng các hoạt động tư vấn về sức khoẻ sinh sản về hạn chế sinh
đẻ.
- Tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực
phẩm; Tăng khẩu phần dinh dưỡng và cải thiện cơ cấu bữa ăn hàng ngày của
nhân dân nhằm từng bước hợp lý hoá cơ cấu dinh dưỡng.
- Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ. Trong
đó ưu tiên cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cho các biện pháp phòng
bệnh, nhất là các bệnh dịch như sốt rét, bại liệt, bướu cổ; các chương trình cung
90
cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh thực phẩm; thu hút sự tham gia của
khu vực tư nhân vào lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ người dân.
- Mở rộng hoạt động đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ
y tế cho các vùng nông thôn, miền núi;
- Tăng cường giáo dục thể lực trong các trường, lớp, cơ sở đào tạo: nâng cao
chất lượng và tăng thời lượng cho giáo dục thể lực, đặc biệt ngay từ bậc phổ thông.
3.3.3. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp
Để giải quyết việc làm và hạn chế tình trạng thất nghiệp chúng ta cần đẩy
mạnh và thực hiện các nội dung:
Thứ nhất, thông qua các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn.
- Tập trung thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là ở những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp
hàng hóa, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại, đảm bảo việc làm cho
khoảng 23 - 25 triệu lao động;
- Khai thác các vùng đất trống, đồi núi trọc, phát triển trồng rừng, cây
công nghiệp, cây ăn quả, tạo và ổn định việc làm cho 4-5 triệu lao động;
- Đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi
trồng thuỷ sản; khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt ngoài khơi, tạo việc
làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. Đảm bảo việc làm cho khoảng 2-3 triệu lao động;
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh
mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử
dụng lao động.
Thứ hai, thông qua các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ.
- Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở
các vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để
tăng sức cạnh tranh;
91
- Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các
khu du lịch;
- Các chương trình, công trình trọng điểm kinh tế-xã hội của Nhà nước thu
hút nhiều lao động.
Thứ ba, thông qua các chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,
làng nghề
- Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Luật Doanh nghiệp;
- Chương trình phát triển các làng nghề truyền thống, và làng nghề mới
thủ công mỹ nghệ, tạo việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động;
- Chương trình phát triển việc làm phi nông nghiệp từng bước rút dần lao
động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp.
Thứ tư, thông qua các chương trình dạy nghề gắn với việc làm, ưu tiên đối
với người dân tộc, nông dân (đặc biệt ưu tiên cho những vùng có tỷ lệ cao đất
nông nghiệp bị nhà nước thu hồi phục vụ cho công nghiệp hoá, đô thị hoá).
- Dạy nghề ngắn hạn gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
các khu vực nhà nước thu hồi đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất, gắn với các
chương trình xuất khẩu lao động;
- Hỗ trợ các dự án vay vốn hỗ trợ việc làm cho các đối tượng là người dân
tộc thiểu số;
- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn thu hút lao động là nông
dân ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp. Tổ chức dạy nghề ngay tại các đơn
vị, doanh nghiệp để người lao động có thể tiếp thu kiến thức và có việc làm
Thứ năm, giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động.
nhanh nhất.
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư cho đào tạo lao động về tay
nghề, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật phục vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia.
92
Đưa đào tạo lao động và chuyên gia xuất khẩu vào trong chương trình đào tạo
nghề của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đào tạo
ngoại ngữ trong trường phổ thông. Có chính sách khuyến khích người lao động
tự đào tạo, doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo để tăng nguồn lao động và chuyên
gia;
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động xuất
khẩu lao động và chuyên gia; thực hiện công khai và giảm tối đa các khoản
người lao động đóng góp khi đi làm việc ở nước ngoài. Cải cách thủ tục hành
chính, tạo sự thông thoáng và giảm phiền hà cho người lao động và doanh
nghiệp;
3.3.4. Phát triển thị trường lao động
Để có thể từng bước giải quyết những bất cập nhằm phát triển thị trường
lao động ở Việt Nam, có thể kể đến một số đặc diểm nổi bật của thị trường lao
động hiện nay:
- Thứ nhất, nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào, trẻ, có tốc độ tăng trưởng
cao, nhưng cơ cấu thực sự bất hợp lý.
- Thứ hai, có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và khu vực kinh
tế theo hướng tiến bộ nhưng còn chậm chạp và không thực sự vững chắc.
- Thứ ba, xuất khẩu lao động là một trong những hướng đi cơ bản nhằm
giải quyết việc làm cho người lao động.
- Thứ tư, tính mất cân đối cung cầu của thị trường lao động Việt Nam còn
cao, đặc trưng nổi bật là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động
trên thị trường cả về tổng thể và cơ cấu, đã tạo ra áp lực lớn về việc làm.
- Thứ năm, quy mô và mức độ tham gia vào thị trường lao động còn thấp.
Hiện nay, thị trường lao động chỉ thực sự hoạt động ở các khu vực đô thị lớn như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các trung tâm công nghiệp mới.
93
- Thứ sáu, hạn chế các chính sách và thể chế thị trường đã làm ngăn cản sự
phát triển của thị trường lao động vốn đã bị phân tán, di chuyển yếu và không
linh hoạt.
Từ thực tế của thị trường lao động, để phát triển nguồn nhân lực theo
hướng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc hình thành và phát triển thị trường
lao động là một điều kiện quan trọng. Việc tạo lập điều kiện này có thể được
thực hiện thông qua một số giải pháp chính sau đây:
- Các giải pháp liên qua đến cung lao động
Duy trì các kết quả đạt được liên quan đến chương trình dân số và kế
hoạch hoá gia đình, nhằm hạn chế tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi cấp bách để có thể tiến tới hội
nhập khu vực và quốc tế.
Nâng cao trình độ của những người dưới độ tuổi lao động bằng cách phát
triển mạnh giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các miền,
vùng của đất nước, nhất là vùng núi, trung du và hải đảo, đặc biệt là con em
người nghèo thuộc diện đối tượng chính sách bằng cac loại hình thích hợp như
bán trú, dân tộc nội trú, lớp học tình thương... thuộc các thành phần kinh tế như
mở lớp, trường dân lập, bán công, quốc lập.
Nhanh chóng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động,
thông qua đào tạo lao động kỹ thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm
hình thành cơ cấu lao động mới phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Đẩy mạnh công tác dạy nghề bằng mọi cách. Các hình thức dạy nghề từ
trung ương đến các địa phương cần được mở rộng, nâng cao chất lượng và đa
dạng hoá. Cần có các loại hình, hệ đào tạo thích hợp như thông qua các trường
lớp chính quy, không chính quy, dài hạn và ngắn hạn ở thành thị và đặc biệt ở
nông thôn. Cần ưu tiên đào tạo đại trà các nghề phổ biến ngắn hạn cho lao động
94
nông thôn để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn thích
ứng với yêu cầu của thị trường lao động.
Đổi mới công tác giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp,
cần điều phối tốt công tác đào tạo để có một cơ cấu đào tạo hợp lý giữa các bậc
và các chuyên môn.Tăng cường chất lượng cung cấp nguồn nhân lực từ các cơ
sở đào tạo. Coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương
pháp, các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên... đạt trình độ khu vực và
tiến dần đến trình độ quốc tế để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia một
cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế giới.
- Mở rộng quy mô và chất lượng cầu lao động.
Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp là một trong những ưu tiên
hàng đầu hướng về cầu lao động động. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao
động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát
triển các ngành kinh tế truyền thống, có lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam, là
một trong các hướng đi được đánh giá hiệu quả và hợp thời.
Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra môi trường
cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút việc làm.
Về công tác xuất khẩu, trước tiên cần phải tạo được nhận thức đúng đắn
trong các cấp và toàn xã hội về xuất khẩu lao động và chuyên gia, từ đó thiết lập
được sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở và các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động. Ngoài ra công tác phát triển thị trường phải được đặc biệt chú
trọng, cần xây dựng và thực hiện các đề án riêng, phù hợp với đặc điểm của từng
thị trường. Chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường và có sự tuyển
chọn cũng như đào tạo đội ngũ này một cách kỹ lưỡng. Vấn đề đào tạo cho
người lao động trước khi đi xuất khẩu lao động là khâu quan trọng có tính chất
quyết định để tổ chức xuất khẩu giữ vững và phát triển thị trường. Liên quan đến
95
xuất khẩu lao động, cần tạo ra tính liên thông giữa thị trường lao động trong
nước với thị trường lao động ngoài nước. Tính liên thông bắt đầu từ sự gắn kết
từng bước cung, cầu và giá cả sức lao động Việt Nam với cung, cầu, giá cả sức
lao động của thị trường lao động khu vực và thế giới. Tính liên thông trên thị
trường lao động đòi hỏi không phân biệt đối xử trong sử dụng nhân lực và cần tôn
trọng nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong sử dụng nguồn nhân lực thuộc các quốc
gia khác nhau.
- Hoàn thiện chính sách và thể chế thị trường lao động
Tạo đủ điều kiện để thị trường lao động vận hành có hiệu quả. Pháp luật
về lao động cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng mở rộng phạm vi điều
chỉnh của Bộ luật lao động. Các quy định về hợp đồng lao động, thoả ước lao
động tập thể, việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, bộ máy, cơ chế giải
quyết tranh chấp lao động... cần được coi trọng để bảo vệ quyền lợi cho cả người
lao động và người sử dụng.
Các tổ chức giao dịch về lao động và việc làm cần có cơ chế để có thể hoạt
động tích cực hơn, người lao động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp
cận với nhau, đặc biệt tại các nơi có mật độ dân cư cao và tỷ lệ người tìm việc
lớn để giúp cho người lao động có thể tiếp cận đến việc làm một cách thuận lợi,
cần hình thành hệ thống thông tin - thống kê về thị trường lao động, nắm bắt
thường xuyên, cập nhật kịp thời về tình hình cung - cầu lao động theo vùng,
ngành.
Về công tác tiền lương, nên giảm sự can thiệp của Nhà nước trong công
tác tiền lượng đặc biệt với các doanh nghiệp nhà nước. Cần hoàn chỉnh chế độ
tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất tiền lương cho mọi loại
hình doanh nghiệp, trước hết là thống nhất mức tiền lương tối thiểu, các nội dung
khác nhà nước chỉ nên hướng dẫn, còn giao quyền cho các doanh nghiệp tự
96
quyết định. Trong các doanh nghiệp, cần có cơ chế để mức tiền lương và cách trả
lương thực sự là sự thoả thuận giữa đôi bên.
- Phát huy tiềm năng hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ “lao
động chất xám”
Hiện nay ở nước ta việc áp dụng các công cụ khuyến khích thích hợp đối
với lao động chất xám, kể cả lao động khoa học công nghệ và lao động quản lý,
có thể giúp phát huy mạnh hơn nữa các tiềm năng của lao động chất xám, làm
tăng khả năng cạnh tranh của loại lao động này trên thị trường lao động. Để đạt
được mục tiêu này, chúng ta nên khuyến khích cả vật chất lẫn tinh thần sự sáng
tạo của cá nhân và tập thể các nhà khoa học, các nhà quản lý kinh doanh bằng
cách tạo điều kiện tốt về cuộc sống và làm việc cho lực lượng này trên tinh thần
trọng dụng nhân tài.
Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho các phòng thí nghiệm,
một số viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn ở các trường đại học ở mức
tiên tiến trong khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện cho các
trường đại học, các viện nghiên cứu;
Việc tạo lập thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ của lao động khoa học
công nghệ và quản lý cũng là một trong những yếu có thể làm tăng tính cạnh
tranh của lực lượng lao động này. Tính chất thị trường trong các chính sách và
biện pháp quản lý hoạt động lao động chất xám cần được thể hiện sao cho các
sản phẩm của hoạt động công nghệ, nghiên cứu cũng như triển khai được, trao
đổi như hàng hoá.
3.3.5. Kiểm soát dân số
Hiện nay dân số nước ta đã đứng hàng thứ 13 trên thế giới, trong những
năm tới, dân số vẫn tiếp tục tăng, trung bình mỗi năm tăng thêm một triệu người,
bằng dân số của một tỉnh trung bình.
97
Mật độ dân số năm 2007 tăng lên tới 254 người/km2, thuộc nhóm có mật độ
dân số cao nhất thế giới, gấp 1,8 lần mật độ dân số Trung Quốc (143 người/km2).
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng thu hẹp, hiện nay
chỉ còn dưới 0, 1 ha/người, chỉ bằng 2/5 mức diện tích canh tác tối thiểu để bảo
đảm an ninh lương thực theo tiêu chuẩn của Tổ chức lương thực thế giới.
Trong điều kiện phải đối mặt với hàng loạt khó khăn như vậy, chúng ta
cần phải thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế - xã hội và biện pháp nhằm
kiểm soát và gia tăng dân số. Có thể kể ra đây một số chính sách cơ bản:
- Các chính sách tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Các chính sách hạn chế bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
- Các chính sách xóa đói giảm nghèo, cải thiện các dịch vụ xã hội cho
người nghèo.
- Các chính sách tạo cơ hội để phụ nữ được tham gia vào các hoạt động
kinh tế và xã hội.
- Các chính sách giảm tỷ lệ trẻ em tử vong.
Trong giai đoạn tới, công tác DS-KHHGÐ tập trung vào các nhiệm vụ
trọng tâm sau:
Tập trung mọi nỗ lực, kiểm soát bằng được tốc độ gia tăng dân số, để tỷ lệ
tăng dân số là 1,14 % và quy mô dân số dưới 89 triệu người vào năm 2010.
Giảm nhanh tỷ lệ sinh, phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào trước năm
2015 đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh cao, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên,
giãn khoảng cách sinh để chủ động kiểm soát tốc độ gia tăng dân số đối với
nhóm 18 tỉnh đông dân có mức sinh chưa ổn định, duy trì vững chắc mức sinh
thay thế đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh thấp [45]
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số. Ðây là yếu tố quyết định sự
thành công của công tác dân số. Nhận thức rõ tính chất khó khăn, phức tạp lâu
98
dài của công tác dân số, kiên quyết chống tư tưởng chủ quan thỏa mãn, thiếu
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp các ngành,
đoàn thể nhân dân.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện công tác
dân số. Củng cố tổ chức bộ máy và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác dân số
kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh, huyện, xã, đặc biệt là cán bộ ở các xã, phường, thị
trấn, cộng tác viên dân số ở các thôn, làng, cụm dân cư.
Một nhiệm vụ rất quan trọng là, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục
và tư vấn. Tích cực vận động và giáo dục chính sách pháp luật về dân số, cung
cấp kiến thức, kỹ năng thực hành cho các nhóm đối tượng sử dụng đồng bộ và có
hiệu quả các kênh truyền thông. Nâng cao vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân
số ở cơ sở để đưa các nội dung về dân số kế hoạch hóa gia đình đến từng người
dân và từng gia đình. Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình có thành
công hay không, có đạt được mục tiêu mong đợi hay không chỉ khi nó được thực
hiện đồng thời với các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Nếu không thực hiện
được sự kết hợp này thì chương trình kế hoạch hoá gia đình chỉ có tác dụng ở
khu vực thành thị mà thôi.
3.3.6. Mở rộng hợp tác quốc tế toàn diện và đa phương để phát triển
nhân lực
Tận dụng, mở rộng những cơ hội, khả năng và hình thức hợp tác quốc tế
để phát triển nhân lực ở trình độ cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và đào tạo những
ngành nghề trình độ cao mà Việt Nam chưa có hoặc đào tạo chưa đạt yêu cầu.
Trên cơ sở Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, tiếp tục có những cơ chế, chính sách
cụ thể để tạo môi trường thông thoáng và hấp dẫn để thu hút mạnh các nguồn
đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển nguồn nhân lực. Ưu tiên, khuyến khích các
nhà đầu tư nước ngoài thành lập các cơ sở đào tạo nhân lực trình độ cao, đạt tiêu
99
chuẩn quốc tế: Lĩnh vực ngành nghề ưu tiên như công nghệ tin học, cơ khí và tự
động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu mới...
Có chính sách hấp dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thu hút
chuyên gia quốc tế giỏi và Việt kiều giỏi làm việc ở Việt Nam để đào tạo nhân
lực. Đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở đào tạo, nghiên cứu - triển khai và
doanh nghiệp trong việc thu hút chuyên gia Việt Kiều giỏi: thực hiện trả lương
xứng đáng với đóng góp, điều kiện và môi trường làm việc, nhà cửa... Tạo điều
kiện thuận lợi và tốt cho các thành viên trong gia đình chuyên gia Việt kiều sinh
sống và học tập tai Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết là cơ
quan có chức năng nghiên cứ hoạch định chính sách được thuê chuyên gia nước
ngoài làm cố vấn trong những trường hợp cụ thể. Các tổ chức sự nghiệp công lập
và doanh nghiệp nhà nước được tự quyết định trong việc tuyển dụng hoặc thuê
chuyên gia nước ngoài và Việt Kiều làm việc thường xuyên hoặc theo từng công
việc cụ thể.
Tăng cường gửi người đi học và làm việc ở nước ngoài. Tăng quy mô gửi
đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Tranh thủ thông qua các
hình thức viện trợ, hợp tác song phương và đa phương. Khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân đi học tự túc ở nước ngoài, các tổ chức, doanh
nghiệp gửi đi học nước ngoài, đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí của
mình. Những người du học ở nước ngoài được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục
học tập, nghiên cứu hoặc làm việc sau khi tốt nghiệp, tạo điều kiện để tìm kiếm
học bổng để tiếp tục học tập hoặc làm việc ở nước ngoài theo hạn định. Bên cạnh
cúng phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo lao động cho đi xuất
khẩu lao động để tăng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trước khi đi làm việc ở
nước ngoài. Cùng với việc từng bước đầu tư ra nước ngoài, cần có kế hoạch đào
tạo người lao động Việt Nam đạt chuẩn quốc tế để đưa đi làm trong các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài.
100
Các cơ sở đào tạo trong nước được quyền trực tiếp liên hệ, xác lập và mở
rộng các hình thức hợp tác với các cơ sở đào tạo, các tổ chức kinh tế, xã hội...
nước ngoài nhằm đổi mới, hiện đại hóa, tăng cường năng lực của hệ thống giáo
dục - đào tạo, nâng cao trình đọ và chất lượng giáo dục, đào tạo. Các cơ sở đào
tạo nhân lực không phân biệt công lập hay tư thục được tiếp nhận ODA để đầu
tư chiều sâu, hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật trong việc thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể do Chính phủ giao về phát triển nguồn nhân lực.
3.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển
nguồn nhân lực và hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực.
3.3.7.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển
nguồn nhân lực
- Xây dựng Luật dạy nghề, nghiên cứu, bổ sung đưa vào luật dạy nghề các
điều khoản quy định về thuế dạy nghề để khuyến khích và huy động sự tham gia
tích cực và nhiều hơn của các các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động qua
đào tạo vào phát triển nguồn nhân lực.
- Xây dựng chính sách phát triển trí lực và kỹ năng của nguồn nhân lực.
Để hoàn thiện chính sách này chúng ta phải xây dựng được chính sách phát triển
giáo dục cơ sở. Giáo dục cơ sở có ý nghĩa tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền
đề càn thiết cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của
phát triển nguồn nhân lực. Trong việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của
một quốc gia, trước hết dựa vào trình độ phát triển giáo dục phổ thông, coi đây là
nhân tố thuận lợi hay khó khăn ban đầu cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh.
Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực phụ thuộc vào các nhóm chính sách như:
Chính sách về quy mô đào tạo: mục tiêu là nhằm điều tiết quy mô đào tạo
chung và từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích mở rộng
hoặc thu hẹp quy mô đào tạo ở một cấp độ nhất định nào đó.
101
Chính sách về cơ cấu đào tạo: Mục tiêu chính của chính sách này là nhằm
điều tiết hai loại hình cơ cấu đào tạo là cơ cấu về trình độ đào tạo và cơ cấu
ngành nghề đào tạo.
Chính sách tài chính trong cho đào tạo nguồn nhân lực. Chính sách này có
những nội dung chủ yếu là đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động ngày
càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo và ưu tiên tăng
chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực.
- Chính sách thu hút và sử dụng lao động: Có thể nói nhóm chính sách này
tác động trực tiếp đến quá trình quản lý nguồn nhân lực. Cùng với sự phát triển
kinh tế thị trường, các chính sách thu hút và sử dụng lao động đã được đổi mới
từng bước nhằm đáp ứng và thích nghi với cơ chế thị trường. Sự đổi mới này
được thể hiện vừa cả trong nội dung, phạm vi và phương pháp tác động của nó,
theo đó vừa tăng cường vai trò của Nhà nước, vừa sử dụng rộng rãi các công cụ
của thị trường trong quản lý nguồn nhân lực. Nhà nước không còn đóng vai trò
là nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm nữa mà chỉ thực hiện chính sách
khuyến khích và hỗ trợ bằng khuôn khổ pháp lý, tài chính, kinh nghiệm, các
thành phần kinh tế sẽ tạo việc làm cho người lao động.
Nhà nước có chính sách ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan
toả tác dộng đến các thành phần kinh tế khác tạo việc làm và có chính sách hỗ
trợ các thành phần kinh tế, mọi người dân tự tạo việc làm cho mình và cho mọi
người.
Thông qua chính sách đầu tư, Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải
pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng, lãnh
thổ... để tạo việc làm sẽ có ý nghĩa quyết định và tác động liên ngành, liên vùng,
nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu việc làm với ba hình thức cơ cấu
chính là cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu việc làm theo trình độ trang thiết bị
kỹ thuật và cơ cấu việc làm theo khu vực lãnh thổ.
102
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề nhân quyền của người lao
động phải được chú trọng cao, Nhà nước phải ban hành và điều tiết thời gian và
tiền công cho người lao động theo quan hệ cung cầu và giá cả sức lao động trên
thị trường, ban hành những chuẩn mực về sinh - an toàn lao động.
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách về thị trường lao động (như
đã trình bày ở mục 3.3.4).
Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách về thị trường khoa học -
công nghệ. Khuyến khích phát triển các khu công nghệ cao ở các vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ, Trung Bộ và Nam bộ để tăng nhanh nhu cầu lao động động
qua đào tạo, nhất là lao động trình độ cao làm cơ sở hình thành và phát triển thị
trường lao động khoa học - công nghệ, khuyến khích, thúc đẩy phát triển đào tạo
trình độ cao.
Thực hiện nghiêm Luật sở hữu trí tuệ, cải tiến thủ tục đăng ký bản quyền
tác giả và có những quy định để bảo vệ quyền lợi của nhân lực khoa học công
nghệ và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ trong nước và gắn
kết, mở rộng với thị trường khoa học công nghệ quốc tế. Đây là giải pháp quan
trọng để phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong nước và thu hút
nhân lực khoa học - công nghệ quốc tế vào phát triển kinh tế của Việt Nam.
3.3.7.2. Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng hệ thống cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thống nhất quản lý
phát triển nguồn nhân lực, trong đó tập trung vào việc hoạch định chính sách
phát triển nguồn nhân lực, tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Tổ chức và củng cố các tổ chức xã hội trực tiếp tác động đến hoạt động
đào tạo nhân lực (Hội khuyến học, Tổng Liên đoàn lao động, Hiệp hội các
ngành, Hội Nông dân...) từ Trung ương đến địa phương để nâng cao vai trò giám
103
sát xã hội đối với hoạt động đào tạo nhân lực, qua đó tích cực tham gia vào việc
quản lý phát triển nguồn nhân lực.
Thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình quản lý
đào tạo và phát triển nhân lực (các doanh nghiệp đều có trách nhiệm và trực tiếp
tổ chức đào tạo nhân lực trong quá trình người lao động có việc làm trong doanh
nghiệp).
104
KẾT LUẬN
Toàn cầu hoá kinh tế diễn ra như một xu thế tất yếu đối với mọi nền kinh
tế trên thế giới. Là nước đang phát triển, Việt Nam đã sớm đặt vấn đề chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế với quan điểm “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa
hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách
thức, do đó cần tỉnh táo khôn khéo và linh hoạt xử lý tính hai mặt của hội nhập”
(Nghị quyết Bộ chính trị, số 7 năm 2002). Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế tác động gián tiếp và trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.
Nguồn nhân lực là nội lực cơ bản thể hiện vai trò chủ thể trong mọi quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chính là
quá trình không ngừng nâng cao thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động.
Thực hiện đề tài “Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam”, tác giả đã cố gắng hệ thống hoá và góp phần làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn đã xác định rõ mục tiêu, quan điểm định hướng
phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, đưa ra các giải pháp nhằm phát triển
nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam một cách toàn diện và
bền vững.
Vấn đề quan trọng là ở chỗ cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải
pháp phát triển nguồn nhân lực trong thực hiện hiệu quả tổng thể các giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Asian Development Bank (1991), Human Resourse Policy & Ecconomic
Development (Selected country Studies), Printed in the Philipin.
2. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2008), Giáo trình Kinh tế quốc tế,
Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (12/2007), Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc
nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011 - 2020.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bàn về chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam trong thời kỳ tới.
5. Nguyễn Văn Căn (2007), Quá trình cải cách giáo dục ở Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa thời kỳ 1978 - 2003, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2005: Những kết
quả chủ yếu (2005), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Giáo dục Đại học Việt Nam (2000), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin ( 2005), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
10. Nguyễn Thu Hà (biên dịch - 2006), Kinh nghiệm của Trung Quốc trên con
đường gia nhập WTO, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
11. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Phạm Thái Hưng (2004), Sức ép hội nhập và sự sẵn sàng hội nhập của
Việt Nam, Nxb Thế giới.
106
13. Vũ Văn Hiền, Đinh Xuân Lý (2007), Quán triệt, vận dụng quan điểm đại
hội X của Đảng vào giảng dạy các môn lý luận chính trị, Nxb Chính trị
quốc gia.
14. Phát triển nguồn nhân lực Giáo dục Đại học Việt Nam (2001), Nxb. Chính
trị quốc gia.
15. Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI (2004), Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
16. Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006 (2006), Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
17. Liên hiệp Quốc (1990), Báo cáo phát triển con người 1990.
18. Võ Đại Lược (2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới
thời cơ và thách thức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Võ Đại Lược (2007), Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển, Nxb Thế
giới.
20. Mai Trọng Nhuận (2005), Báo cáo kết quả đoàn công tác tại Singapor,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên - 2004.), Quản lý nguồn
nhân lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội.
22. Đoàn Kim Thắng (2006), Cơ sở và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
dân số theo nguyên tắc mới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Phạm Quý Thọ (2000), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
24. Tài liệu Hội nghị toàn quốc quán triệ và thực hiện Nghị quyết số 07-
NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế (2002), Nxb Chính trị
quốc gia.
107
25. Toàn cầu hoá chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều (2005), Nxb Thế giới.
26. Thời cơ và thách thách khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (2006), Nxb. Lao động - Xã hội.
27. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2005, 2006, 2007
(2007), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Kế Tuấn (2007), Kinh tế Việt Nam năm
2007 - Năm đầu tiên gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới, Nxb. Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
29. Lê Văn Toan (2007), Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá, Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội.
30. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
31. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
32. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
33. Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (2008), Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Vai trò lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
34. Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (2008), Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế 1986-2007.
35. Nguyễn Anh Tuấn (2008), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, Báo khoa học công nghệ, số 4/2008.
36. Ngô Doãn Vịnh (2007), Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành động
có tính chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia.
108
37. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào
tạo nhân tài, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với
việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
39. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - UNDP (2004) Cơ sở phát
triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, tập 2, Nxb. Giao
thông vận tải, Hà Nội.
40. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Một số vấn đề
phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2010 - 2020.
41. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc
(2007), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 những thay đổi và xu
hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia.
42. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH- HĐH, Nxb.
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
43. YUN, CHUNG II (2005), Quản lý giáo dục, tài liệu tham khảo dịch từ
tiếng Anh, ĐHQGHN
44. WTO (2006), Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. WTO thuận lợi và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam (2006), Nxb.
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
46. http://vietbao.vn (Sín chéng đẩy lùi đói nghèo bằng học tập, 13/6/2007)
47. http://vietbao.vn (Lơ mơ về kiến thức dân số - gia đình, 14/6/2006; Điều
đáng lưu ý về tình hình dân số nước ta, 01/8/2008, Kiểm soát gia tăng dân
số, giảm nhanh tỷ lệ sinh, 11/7/2008).
109
48. http://www. moet.gov.vn (Số liệu tổng quan về giáo dục đào tạo năm
2006, Bộ giáo dục và Đào tạo)
49. http://www.gso.gov.vn (Số giáo viên các trường đại học, cao đẳng phân
theo trình độ chuyên môn)
50. http://www.molisa.gov.vn (Tỷ lệ hộ nghèo năm 2007, 9/10/2007)
110