ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------

NGUYỄN MAI HƢƠNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN

HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------***--------------

NGUYỄN MAI HƢƠNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............................................................................ 6

1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế................................................................................................................................... 6

1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước......................................................................................................................... 6

1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.......................... ............................................................................................... 16

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................................................... 25

1.2.1. Kinh nghiệm ở một số quốc gia điển hình.............................................................. 25

1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực................................... 32

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM..................................... 35

2.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam............................. 35

2.1.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế................................................... 35

2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế........................................................................... 37

2.2. Tình hình phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ..................................................................................................................... 38

2.2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu nguồn nhân lực...................................................... 38

2.2.2. Tình hình giáo dục và đào tạo.................................................................................. 44

2.2.3. Thu nhập và mức sống...................................................................................... 57

2.2.4. Sức khỏe và dinh dưỡng................................................................................... 62

2.2.5. Vấn đề việc làm................................................................................................ 66

2.3. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình

1

hội nhập kinh tế quốc tế.............................................................................................. 68

2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực và tác động của nó đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam...................................................... 68

2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực............................................. 70

Chương 3. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI................................................................... 74

3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam .. 74

3.1.1. Bối cảnh quốc tế........................................................................................................ 74

3.1.2. Bối cảnh trong nước.................................................................................................. 75

3.2. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...................................................................................................... 76

3.2.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực......................................................................... 76

3.2.2. Quan điểm định hướng............................................................................................. 77

3.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam....................................................................................................................... 79

3.3.1. Phát triển giáo dục và đào tạo.................................................................................. 79

3.3.2. Nâng cao thu nhập, mức sống và thể chất dân cư.................................................. 82

3.3.3. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp................................................................ 84

3.3.4. Phát triển thị trường lao động................................................................................... 86

3.3.5. Kiểm soát dân số....................................................................................................... 90

3.3.6. Mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế toàn diện và đa phương để phát triển nguồn nhân lực................................................................................................................................ 92

3.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực và hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực............................................. 93

KẾT LUẬN......................................................................................................................... 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 98

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nguồn nhân lực là một nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển lực lượng

sản xuất xã hội ở mọi thời đại. Ở nước ta, nguồn nhân lực là một tiềm năng dồi

dào để tăng trưởng kinh tế, song mặt khác, chính nguồn nhân lực đó chưa đáp

ứng yêu cầu của phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập

kinh tế quốc tế. Điều đó bắt nguồn từ những hạn chế về chất lượng, cơ cấu lao

động, về thể chế, chính sách huy động và sử dụng nguồn nhân lực. Hơn nữa,

trong xu thế hội nhập hiện nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công

nghệ, tri thức ngày càng trở thành động lực phát triển mang tính chất quyết định

của nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, các nhân tố sản xuất truyền thống như đất

đai, tiền vốn, nhà xưởng, máy móc là rất quan trọng nhưng đã tụt dần xuống

hàng thứ hai. Con người với khả năng nắm giữ kiến thức đang trở thành nhân tố

so sánh lớn nhất và yêu cầu họ không chỉ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao

mà phải có sức khoẻ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt và tác phong công nghiệp. Nhân

tố con người trở thành mũi nhọn quyết định sức mạnh cạnh tranh của mối quốc

gia trong nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, việc làm rõ vấn đề con người có thể

đóng góp như thế nào cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và làm sao để con

người trở thành động lực, tức là xem xét con người từ góc độ phát triển nguồn

nhân lực là vấn đề cấp thiết đang đòi hỏi nghiên cứu từ khía cạnh lý luận và thực

tiễn.

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có đội ngũ lao

động có chất lượng ngày càng cao, cơ cấu lao động hợp lý. Thực tiễn đòi hỏi cần

phải nghiên cứu thực trạng, đề ra định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân

lực một cách thiết thực. Do vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển nguồn

nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” là nhằm góp

phần giải quyết vấn đề bức thiết nói trên.

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

ở Việt Nam nói chung và trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng được

sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng như của

một số cơ quan hoạch định chính sách của Việt Nam. Điển hình là các công trình

nghiên cứu sau:

- Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội đến năm 2010 - 2020. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, 1999.

- Phạm Minh Hạc (chủ biên), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

- Nguyễn Văn Lê, Phát triển khoa học về con người trong hoạt động kinh

tế - xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 3, 01/2003.

- Trần Tiến Cường, Phát triển kinh tế và đổi mới doanh nghiệp với vấn đề

giải quyết lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực, NXB Thế giới, 2001.

- Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên), Quản lý nguồn nhân

lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội,

2004.

- Vũ Bá Thể, Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Lao động - xã hội,

2005.

- Vũ Minh Mão, Hoàng Xuân Hoà, Dân số và chất lượng nguồn nhân lực

ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng

5/2004.

4

- Geoffey Hainsworth, Phát triển nguồn nhân lực: đáp ứng thách thức của

quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một “nền kinh tế dựa trên những hiểu biết

mới”, NXB Thế giới, 2001.

- Asian Development Bank (1991), Human Resourse Policy & Ecconomic

Development (Selected country Studies), Printed in the Philipin.

- Toàn cầu hoá chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều, NXB Thế giới,

2005.

- Phạm Thái Hưng, Sức ép hội nhập và sự sẵn sàng hội nhập của Việt

Nam. NXB Thế giới, 2004.

- Ngô Doãn Vịnh (chủ biên), Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành

động có tính chiến lược, NXB Chính trị quốc gia, 2007.

- Lê Văn Toan, Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá, NXB Lao

động - xã hội, 2007.

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam là một vấn đề có nội dung và phạm vi rộng. Các công trình trên chỉ đề

cập các giác độ liên quan, chưa nghiên cứu vấn đề một cách tổng thể, hoặc các

tác giả đưa ra các giải pháp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế -

xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống từ góc độ khoa học

kinh tế chính trị, đưa ra những định hướng và giải pháp thích hợp với tình hình

mới là hết sức cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

. Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ yếu về phát triển nguồn

nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá thực trạng phát

triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, luận văn đưa ra quan điểm định

5

hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế

của Việt Nam trong thời gian tới.

. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận

chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển nguồn nhân lực hiện nay

và tác động của nó đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

- Đưa ra quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn

nhân lực phục vụ một cách hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.

Luận văn tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực của Việt Nam từ giác độ

của khoa học kinh tế chính trị trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm

gần đây.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận

của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:

trừu tượng hoá khoa học, logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…

6. Những đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận chủ yếu về

phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

6

- Phân tích và đưa ra đánh giá khách quan về thực trạng phát triển nguồn

nhân lực ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua.

- Đưa ra các giải pháp thiết thực góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

trong thời gian tới.

7

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về phát

triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian tới.

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế

1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước

1.1.1.1. Những khái niệm cơ bản

• Nguồn nhân lực

Nguồn lực được hiểu một cách chung nhất là khả năng cung cấp các yếu

tố cần thiết được huy động cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước.

Đó là những nguồn lực vật chất như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực tài

chính và nguồn lực con người.

Nguồn nhân lực được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau phụ thuộc vào các

giác độ nghiên cứu. Theo khái niệm rộng nguồn nhân lực chỉ con người với tư

cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ

thể phát triển bình thường, không bị khiếm khuyết và dị tật bẩm sinh.

Theo khái niệm hẹp thì nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân con người cụ

thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh

thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu như vậy nguồn nhân

lực bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi

lao động, thực tế có tham gia lao động .

Có một cách hiểu hẹp hơn nữa về nguồn nhân lực là yếu tố của sự phát

triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động cuả xã hội bao gồm nhóm dân cư

9

trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Cách nhìn này cho thấy nguồn

nhân lực chính là nguồn lao động và nguồn lao động sẽ bao gồm dân số trong độ

tuổi lao động.

Theo tổ chức lao động quốc tế: Lực lượng lao động là bộ phận dân số

trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.

Các cách hiểu trên về nguồn nhân lực, nguồn lao động, lực lượng lao động

chỉ khác nhau về xác định quy mô nguồn lực con người, nhưng có một điểm

chung là đều nói lên khả năng lao động của xã hội. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu

một cách khái quát nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một

nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó.

Số lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số, tốc độ tăng, tỷ lệ

giảm dân số của một quốc gia, tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động, . Quy

mô nguồn nhân lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc

gia. Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể

hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn

nhân lực: thể lực, trí lực và tâm lực. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trình

độ phát triển kinh tế, phản ánh sự phát triển về mặt đời sống xã hội, chất lượng

nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là

nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội

nhất định.

• Phát triển nguồn nhân lực

Cho đến nay chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm phát triển nguồn

nhân lực. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà có thể có những nhận thức khác nhau để

đưa ra khái niệm về phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể như:

Tổ chức UNESCO cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi

toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ với sự phát triển của đất

10

nước. Nhưng tổ chức lao động quốc tế (ILO) lại đưa ra khái niệm phát triển

nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh

ngành nghề hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở

nhận thức cho rằng con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới

có được việc làm hiệu quả cũng như sự thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống

cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong

quá trình sống và làm việc nhằm đáp ứng những kỳ vọng của con người.

Định nghĩa trong Báo cáo phát triển con người toàn cầu của chương trình

phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP) cho rằng: phát triển con người là “quá trình

mở rộng sự lựa chọn cho con người. Điều quan trọng nhất của phạm vi lựa chọn

rộng lớn đó là để con người sống một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được giáo dục

và được tiếp cận đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao” [17, tr.1].

Với các quan niệm như vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia

hay một vùng lãnh thổ chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng trên các

mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra

những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Như vậy, dù có diễn đạt khác

nhau, song các khái niệm trên đều đưa ra được phát triển nguồn nhân lực là quá

trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia hiệu quả vào quá

trình phát triển một quốc gia. Hay nói một cách khác phát triển nguồn nhân lực

chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến

bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện của bản thân con người. Điều đó có nghĩa là

phát triển nguồn nhân lực xã hội là khái niệm được hiểu ở góc độ hoàn thiện và

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và điều chỉnh hợp lý số lượng nguồn nhân

lực. Để có thể phát triển nguồn nhân lực, xét từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế,

phải có các cơ chế, chính sách tác động vào nguồn nhân lực. Có thể hiểu phát

triển nguồn nhân lực xã hội là tổng thể các cơ chế chính sách và biện pháp hoàn

11

thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội (trí tuệ, thể chất, phẩm chất

tâm lý - xã hội) và điều chỉnh hợp lý về số lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng

yêu cầu, đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng

giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là động

lực thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Kinh nghiệm

của nhiều nước công nghiệp hoá trước đây đã chỉ ra phần lớn thành quả phát

triển không phải nhờ nguồn tài chính kếch xù mà nhờ những hoàn thiện trong

năng lực của con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Đầu tư

cho phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời

sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói

chung.

1.1.1.2. Thước đo đánh giá chất lượng nguồn nhân lực

Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể

hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất của nguồn nhân lực.

Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển

kinh tế, mà còn phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, nguồn nhân

lực của một quốc gia có chất lượng cao chứng tỏ quốc gia đó phát triển và thể

hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.

Để có cơ sở phân tích sự phát triển nguồn nhân lực cần hiểu rõ một số chỉ

tiêu đánh giá nguồn nhân lực sau đây:

- Chỉ tiêu phản ánh tình hình sức khoẻ của dân cư:

Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài cơ

thể con người, giữa thể chất và tinh thần. Có rất nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng

thái về sức khoẻ, Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại như sau:

Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật gì

12

Loại B: thể lực trung bình

Loại C: thể lực yếu không có khả năng lao động

(Các loại A, B, C sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn về thể lực như:

chiều cao, cân nặng, vòng ngực; mắt, tai, mũi, họng; răng hàm mặt; ngoại khoa;

thần kinh; da liễu.)

Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động, người ta

còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ của quốc gia thông qua: Tỷ lệ sinh thô,

chết thô, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ sinh thấp cân của

trẻ em...

- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động: số người biết

chữ, không biết chữ; số người có trình độ học tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ

thông trung học.

- Chỉ tiêu người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật:

Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn

nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên

nghiệp, cao đẳng, đại học. Do đó trình độ chuyên môn nguồn nhân lực đo bằng:

+ Tỷ lệ cán bộ trung cấp;

+ Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học;

+ Tỷ lệ cán bộ trên đại học.

Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ

hơn như: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ... thậm chí trong từng chuyên môn lại chia

thành những chuyên môn nhỏ hơn.

Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của

người đã được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,

kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được thể hiện thông

qua các chỉ tiêu:

13

+ Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông;

+ Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;

+ Trình độ tay nghề theo bậc thợ.

Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường được kết hợp chặt chẽ với nhau,

thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không đào tạo trong từng tập thể

nguồn nhân lực.

- Chỉ số tổng hợp phát triển con người - HDI (Human Development

Index):

Chỉ số này xác định bởi các chỉ tiêu:

+ Tuổi thọ bình quân

+ Thu nhập bình quân trên đầu người (GDP/người)

+ Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư)

Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà

còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ xã hội.

- Chỉ tiêu thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo:

tỷ lệ % ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với tổng ngân sách, tỷ lệ %

ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với GDP.

1.1.1.3. Những nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực

Xuất phát từ khái niệm phát triển nguồn nhân lực mang tính chất tổng hợp

nên các yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực như: biến đổi số lượng,

chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực khá đa dạng và phân theo những nhóm cơ

bản như sau:

- Chăm sóc sức khoẻ: Trong lao động sản xuất, con người vận dụng kết

hợp cả thể lực và trí lực. Thể lực là sức mạnh cơ thể, cơ bắp đảm bảo về mặt sinh

học cho sự tiêu hao sức lao động của con người trong lao động sản xuất. Trí lực

là sức mạnh tư duy, trí tuệ là cái có ý nghĩa quyết định nhất chất lượng của yếu

14

tố con người trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất. Tuy thể lực không phải là

yếu tố chủ chốt quyết định chất lượng lao động của con người nhưng rõ ràng

không có thể lực tốt thì con người cũng khó phát triển năng lực sáng tạo trong

sản xuất, vì thế vấn đề chăm sóc sức khoẻ nói chung, đảm bảo dinh dưỡng và

phát triển y tế nói riêng có tác động hết sức quan trọng đối với phát triển nguồn

nhân lực.

- Giáo dục và đào tạo: Giáo dục và đào tạo là nền tảng của sự phát triển

nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu

trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của cả một

thế hệ hiện tại và mai sau. Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài đạt chất lượng cao là

thể hiện sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình

đổi mới.

- Văn hoá truyền thống dân tộc, mối quan hệ xã hội và gia đình: Mỗi quốc

gia nói chung hay mỗi một địa phương nói riêng đều có nét văn hoá đặc trưng và

có các mối quan hệ xã hội rất khác nhau, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến

quá trình phát triển nguồn nhân lực của địa phương hay quốc gia đó. Để phát

triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ và có hệ thống Chính phủ phải định

hướng phát triển một xã hội hài hoà, tạo được khối đoàn kết đa văn hoá, đa sắc

tộc, đưa quyền lợi của người lao động lên hàng đầu, giảm sự phân biệt giàu

nghèo, màu sắc dân tộc. Đồng thời phát huy bản sắc dân tộc của quốc gia hay thế

mạnh văn hoá của từng địa phương để người lao động nhận thức được quyền lợi,

nghĩa vụ của chính mình góp sức vào quá trình phát triển của xã hội.

- Việc làm, trả công lao động, thu nhập và mức sống: Hiện nay, tình trạng

thất nghiệp và thiếu việc làm còn cao nên chúng ta đang tập trung giải quyết việc

làm đầy đủ cho toàn dân, nhưng về lâu dài vẫn phải tính đến giải quyết “việc làm

hợp lý” để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao hơn. Do sự tác động

của cung - cầu về lao động, đặc biệt là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện

15

tượng thất nghiệp và thiếu việc làm là không tránh khỏi, nó phản ánh một thực tế

của quá trình sắp xếp lại của một cấu trúc kinh tế xã hội mới. Thực tế đòi hỏi

phải có chính sách, giải pháp đồng bộ để hạn chế thất nghiệp. Cùng với sự phát

triển của nền kinh tế thị trường, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa các tầng

lớp dân cư trong xã hội đang có xu hướng tăng lên trên bình diện cả nước. Điều

này cũng cho thấy khi nền kinh tế thị trường phát triển thì kéo theo là sự phân

tầng về thu nhập mức sống của người dân. Sự phân hoá giàu nghèo ở mức độ cao

sẽ có những tác động tiêu cực đến phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ một bộ phạn

dân cư rơi vào tình trạng nghèo tuyệt đối sẽ không có điều kiện để duy trì thể lực

cần thiết, không có khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục, theo đó là sự

nảy sinh của tệ nạn xã hội. Điều đó tác động xấu đến phát triển nguồn nhân lực

trong cả ngắn hạn và dài hạn. Sự nghèo đói tuyệt đối và tương đối ở mức cao sẽ

dẫn tới những bất ổn về xã hội, vì vậy tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế -

xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng. Sự gia tăng của mức thu

nhập cũng kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình, tỷ lệ chi

tiêu cho nhu cầu như: ăn uống, may mặc giảm đi để thay vào đó là tỷ lệ chi cho

việc mua sắm xây dựng nhà cửa và văn hoá giáo dục tăng nhanh. Mức thu nhập

được cải thiện cũng tác động làm giảm đi tình trạng nghèo đói của các hộ gia

đình. Cứ tính được thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia thì xét trên

góc độ nào đó đã đo lường được kết quả và đánh giá các thành tựu phát triển

kinh tế gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Mức sống được đo bằng

giá trị GDP đầu người, GDP đầu người được tính dựa trên hai yếu tố: tổng sản

phẩm trong nước và dân số trung bình.

- Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là điều kiện tiền đề

để nâng cao thu nhập và mức sống dân cư, và vì vậy là tiền đề để phát triển

nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế cao là cơ sở để tăng tích luỹ, đầu tư, thúc

đẩy tái sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu. Đẩy mạnh tái sản xuất sẽ thúc

16

đẩy phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động. Bởi lẽ, khi tốc độ tăng trưởng cao về

kinh tế, yêu cầu tốc độ chuyển dịch lao động cũng phải tăng cao để đảm bảo

cung cấp lao động cho các ngành nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, khi tăng trưởng kinh tế cao, sẽ tạo điều kiện

thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ, theo ngành, vùng kinh tế

nhanh hơn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do tốc độ phát triển kinh tế đòi hỏi

và quyết định.

Phát triển nguồn nhân lực chủ yếu là những tiến bộ về chất lượng nguồn

nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc mỗi tổ chức. Ngoài yếu tố

chất lượng sức lao động của mỗi cá nhân đang sống và làm việc, chất lượng

nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào cơ cấu của đội ngũ lao động về ngành nghề,

trình độ kỹ thuật, năng lực tổ chức, quản lý và khả năng phối hợp hành động để

đạt mục tiêu đề ra. Một cơ cấu nhân lực hợp lý và tổ chức hoạt động tốt sẽ có tác

động cộng hưởng làm tăng sức mạnh của tổ chức và cá nhân để thực hiện mục

tiêu đề ra. Ngược lại, nếu cơ cấu không hợp lý, không đồng bộ và tổ chức quản

lý hoạt động không tốt sẽ không phát huy được tác dụng cộng hưởng mà đôi khi

còn làm giảm sức mạnh của tổ chức đó và triệt tiêu hoạt động của từng cá nhân.

Do đó, phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi tổ

chức phải chú ý lựa chọn một cơ cấu hợp lý và phù hợp với yêu cầu và trình độ

phát triển của mỗi giai đoạn.

- Điều tiết sự gia tăng dân số: Tỷ lệ sinh đẻ gây ảnh hưởng lớn đến nguồn

nhân lực, trên thế giới có rất nhiều quốc gia thuộc nhóm nước có dân số già do

xu thế phụ nữ không muốn sinh con, nếu sinh thì số lượng chỉ là 01. Trong khi

đó đa số các nước đang phát triển thì thuộc nhóm nước có dân số trẻ do tỷ lệ sinh

quá cao, ví dụ như Trung Quốc, Việt Nam… Các quốc gia này buộc phải đưa ra

biện pháp bắt buộc mỗi gia đình sinh đẻ trong tiêu chuẩn. Vì vậy, vấn đề điều

17

tiết sinh đẻ và chăm sóc sức khoẻ sinh sản là một trong những chiến dịch của các

quốc gia nhằm cân đối cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động để phát triển kinh tế xã

hội.

1.1.1.4. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước

Vai trò của phát triển nguồn nhân lực được thể ở một số nội dung chủ yếu

sau:

- Thứ nhất, đảm bảo cơ cấu lao động hợp lý để nâng cao năng suất lao động

Để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh thì cơ cấu lao

động phải hợp lý. Mục tiêu của phát triển nguồn nhân lực là tạo ra cơ cấu lao

động hợp lý, đảm bảo tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ lên

tuyệt đối và tương đối, giảm lao động trong ngành nông nghiệp xuống tuyệt đối

và tương đối. Sự biến đổi về cơ cấu lao động theo cơ chế thị trường là tăng lao

động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tăng lao động xuất khẩu giảm tỷ lệ thất

nghiệp, khuyến khích sự phát triển trong khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, việc

phát triển nguồn nhân lực là một cuộc cải cách mạnh mẽ về cơ cấu lao động của

một quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Năng suất lao động là sức mạnh của cạnh tranh trong xu thế hội nhập,

quyết định sự tiến bộ xã hội của mọi thời đại. Phát triển nguồn nhân lực sẽ hình

thành cơ cấu lao động hợp lý có trình độ chuyên môn cao để nâng cao năng suất lao

động trong các lĩnh vực của nền kinh ế quốc dân.

- Thứ hai, đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục

vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo ra đội ngũ những người lao động có

chuyên môn kỹ thuật đủ về số lượng và cao về chất lượng phục vụ quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế.

18

Sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập tạo ra một phong

cách lao động mới, người lao động có trình độ học thức và chuyên môn kỹ thuật

cao làm thay đổi nhận thức trong lao động khoa học, nhanh, chính xác, theo kịp

yêu cầu của thời đại. Nhận thức của người lao động dần dần được nâng cao, phù

hợp với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội và yêu cầu của hội nhập kinh tế

quốc tế.

- Thứ ba, đáp ứng nhu cầu lao động cho xã hội, phát triển kinh tế, giải

quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.

Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi, phát triển cơ cấu lao động

nhằm đảm bảo cung, cầu lao động trên thị trường theo yêu cầu phát triền nền

kinh tế - xã hội. Đảm bảo cung lao động ở các nước đang phát triển nói chung, ở

Việt Nam mói riêng được tập trung vào cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo để

tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, có ngành nghề hợp lý theo đúng yêu

cầu của thị trường lao động. Cầu lao động được mở rộng trên cơ sở phát triển,

mở rộng ngành nghề theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực. Giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế

là mục tiêu quan trọng của nền kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực một mặt

là đảm bảo cung cấp lao động cho thị trường theo đúng yêu cầu về số lượng và

chất lượng, mặt khác làm tăng cầu lao động tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất

nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư.

1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển

nguồn nhân lực ở Việt Nam

1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế

• Các khái niệm

- Toàn cầu hoá kinh tế

19

Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây

đã trở thành đề tài được rất nhiều các học giả, các tầng lớp dân chúng đặc biệt

quan tâm. Có người cho rằng quá trình toàn cầu hoá như một giải pháp cứu tinh

cho nền kinh tế, có người lại xem nó như là một mối đe dọa các quốc gia. Ở các

nước kém phát triển hay phát triển cũng có hai cách nhìn nhận như vậy. Mỗi

quốc gia có cách hiểu về nội dung toàn cầu hoá như thế nào mà xác định thời

điểm toàn cầu hoá bắt đầu và cái đích nó đi tới cùng với những hình thức đa

dạng, hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không có biên giới quốc gia

về kinh tế.

Thuật ngữ toàn cầu hoá đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961 nhưng đến

những năm 80 của thế kỷ XX nó mới được phổ biến. Thực ra trước đó người ta

đã sử dụng khái niệm hội nhập toàn cầu với ý nghĩa tương tự như toàn cầu hoá. Do

vậy có thể xem hội nhập và toàn cầu hoá là những khái niệm tương đồng.

Toàn cầu hoá và hội nhập có thể chia thành nhiều mặt như: chính trị, an

ninh, kinh tế, văn hoá... Nhưng cho tới nay, thì toàn cầu hoá và hội nhập tiến

triển mạnh nhất và rõ nét nhất là toàn cầu hoá và hội nhập về kinh tế.

Toàn cầu hoá kinh tế chính là quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã đạt

đến trình độ đưa vào lưu thông kinh tế toàn cầu các khâu của quá trình tái sản

xuất xã hội dựa trên sự phân công toàn cầu, thông qua các loại hình kinh tế khác

nhau giữa các nước và do đó khiến cho các nền kinh tế quốc gia xâm nhập và

gắn bó với nhau, chuyển hoá thành nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, toàn cầu hoá

kinh tế là kết quả của sự phát triển cao độ quốc tế hoá sản xuất và phân công

quốc tế. Đây là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bất kể

nước nào, kể cả Mỹ. Tiến trình toàn cầu hoá kinh tế xuất hiện và phát triển cùng

với sự phát triển của thị trường thế giới. Từ đó có thể nói, toàn cầu hoá kinh tế là

sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,

khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và

20

phát triển. Sự gia tăng của xu hướng này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và

quy mô mậu dịch thế giới, ở sự luân chuyển của các dòng vốn và lao động trên

quy mô toàn cầu.

Cơ sở khách quan và những nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế là:

1) Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng

khoa học công nghệ.

2) Sự phát triển manh mẽ của kinh tế thị trường

3) Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia.

4) Vai trò của các định chế kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực.

Toàn cầu hoá kinh tế có những đặc trưng cơ bản sau:

1) Toàn cầu hoá kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hoá

kinh tế.

2) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vận động khách quan của lịch sử.

3) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vừa hợp tác chặt chẽ vừa cạnh tranh

giữa các quốc gia

4) Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nhưng chịu sự tác động của

chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ.

5) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính hai mặt: tích cực và tiêu

cực. Toàn cầu hoá có mặt tích cực như mở ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi

cho công cuộc phát triển và chấn hưng đất nước, song nó cũng đặt ra nguy cơ về

độ an toàn của đời sống con người trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn

hoá, xã hội, môi trường và làm trầm trọng hơn sự phân hoá và bất bình đẳng.

- Hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế có liên quan trực tiếp với toàn cầu hoá kinh tế, là

quá trình đồng hành với quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Dưới tác động của xu thế

toàn cầu hoá, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng xuất hiện, không thể có toàn

21

cầu hoá kinh tế nếu không có sự tham gia ngày càng đông của các quốc gia.

Toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu, và hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một tất yếu

khách quan.

Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ gần

đây và cho đến nay, vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc

tế. Cách hiểu này xoay quanh hai loại ý kiến:

Một là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia tiến

hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết quốc tế song

phương, đa phương và toàn cầu về các lĩnh vực thương mại, đầu tư và các lĩnh

vực khác có liên quan nhằm đảm bảo tính tương thích giữa hệ thống kinh tế quốc

gia với hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu trên cơ sở những nguyên tắc và quy

định thống nhất. Điều thấy rõ nhất về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ quan

niệm này là việc thống nhất các chính sách, quy định pháp lý trong từng quốc gia

với những nguyên tắc, thông lệ và tập quán quốc tế.

Hai là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia loại

bỏ dần các rào cản để hoạt động thương mại, di chuyển các yếu tố sản xuất và

thanh toán quốc tế diễn ra một cách thuận lợi. Loại quan điểm này hiểu quá trình

hội nhập gắn với quá trình tự do hoá.

Mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng quan niệm tương đối phổ

biến hiện nay là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc

gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các nước thành

viên chịu sự ràng buộc theo những quy định chung của cả khối. Nói một cách

khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình

kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế,

thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế

đối ngoại khác.

22

Nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế đối với các nước đang phát triển,

trong đó có Việt Nam là: 1) Hội nhập vào thị trường toàn cầu; 2) Hội nhập với

các luồng vốn đang lưu chuyển tự do trên toàn cầu và hệ thống tài chính, tiền tệ

toàn cầu; 3) Hội nhập với các tiêu chuẩn toàn cầu, với hệ thống pháp luật toàn

cầu liên quan đến hoạt động kinh tế; 4) Hội nhập vào nền kinh tế tri thức, phát

triển dựa trên khoa học và công nghệ cao; 5) Hội nhập với lực lượng lao động

toàn cầu.

• Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu và đang diễn ra sâu rộng

trên thế giới, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy

vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cả những thời cơ, thuận lợi và thách thức,

khó khăn.

- Cơ hội, thuận lợi:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế - xã

hội và cải cách thể chế; trước hết, thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và

chính sách của nước ta, tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và

thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và

phát triển bền vững.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu

tư và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song phương

và đa phương của nước ta với các nước trên thế giới. Thông qua việc mở cửa các

thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, giảm những hàng rào thuế quan, phi thuế

quan, những biện pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật, các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường, được tiếp cận với nhiều thị

23

trường và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Đồng thời, hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu

những mặt hàng truyền thống như may mặc, giầy da, đồ thủ công mỹ nghệ, xuất

khẩu lao động, phát triển du lịch… Điều này góp phần to lớn trong việc tăng thu

nhập cho người lao động, nhất là nông dân.

Ở các nước phát triển có nguồn lao động kỹ thuật được đào tạo, có tay

nghề cao, nhiều cán bộ kỹ thuật và quản lý cao cấp, có nhiều học giả tài năng

trong nhiều lĩnh vực… nhưng lại thiếu những lao động giản đơn, tiền lương thấp.

Ngược lại, các nước đang phát triển lại thừa lao động giản đơn, nhưng rất thiếu

lao động có kỹ năng và trí tuệ. Nhờ có toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,

các nguồn nhân lực này có điều kiện di chuyển, trao đổi cho nhau, giúp nhau tạo

ra các lợi thế so sánh. Dòng lao động giản đơn di chuyển từ các nước đang phát

triển sang các nước phát triển. Dòng lao động lành nghề có trí tuệ di chuyển từ

các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Các công ty của các nước phát

triển cũng có thể lập nhà máy để sử dụng lao động tại các nước kém phát triển,

rồi bán hàng hoá về nước…

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội to lớn cho việc đào

tạo và sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn với những hình thức rất đa dạng: làm

gia công lắp ráp, chế biến xuất khẩu, mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy,

nghiên cứu… và đây cũng là một thời cơ lớn để các nước có thể sử dụng nguồn

lực trên phạm vi quốc tế một cách hiệu quả.

Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần không nhỏ vào việc tăng nguồn đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam, cải thiện hệ thống tranh chấp về thương mại trong

quan hệ kinh tế quốc tế. Vốn nước ngoài vào Việt Nam đi kèm với công nghệ

mới, tri thức, ý tưởng kinh doanh mới, kinh nghiệm quản lý v.v…, nguồn tri thức

quý báu, công nghệ mới là tài sản vô hình có giá trị lớn không thể đong đếm

được do chính sách mở cửa mang lại. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt

24

là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, người tiêu dùng trong nước có thêm sự lựa

chọn về hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, các doanh

nghiệp trong nước có thể tiếp cận nguồn nguyên liệu, đầu vào với giá cạnh tranh

hơn, có chất lượng hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất sản xuất, nâng cao chất lượng,

hiệu quả kinh doanh.

- Thách thức, khó khăn

Bên cạnh những cơ hội, thuận lợi trên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

đang đặt ra những thách thức và khó khăn đối với sự phát triển của nền kinh tế

nước ta:

Thứ nhất, nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt ở cả ba giác độ: sản

phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam

sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị

trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước.

Thứ hai, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết liên quan đến

các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ,

phải xoá bỏ ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường kinh doanh

minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt giữa các loại hình doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước phải cải cách hệ thống tài chính -

ngân hàng, cải cách hành chính, đảm bảo chính sách ổn định, minh bạch, thuận

lợi, tạo môi trường đầu tư kinh doanh mang tính cạnh tranh.

Thứ ba, những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng

hoá quốc tế sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến thị trường trong nước; tiềm ẩn

nguy cơ không kiểm soát được thị trường, có thể gây ra rối loạn, thậm chí khủng

hoảng kinh tế, tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền

vững của đất nước.

25

Đơn cử cho nguy cơ này là tình trạng suy thoái giảm tốc độ tăng trưởng

kinh tế thế giới từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay vẫn chưa chấm dứt,

cuộc suy thoái kinh tế thế giới năm 2001 và đặc biệt là cơn bão suy thoái kinh tế

toàn cầu bắt đầu bùng nổ từ giữa năm 2008 là một bằng chứng cho thấy thách

thức này thực sự là một lo lắng toàn cầu.

Thứ tư, tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế có thể làm tăng thêm

sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng,

miền, đất nước. Có những bộ phận dân cư ít được hưởng lợi, thậm trí còn bị tác

động tiêu cực, một bộ phận doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể

tăng lên. Khoảng cách giàu nghèo, mức sống giữa nông thôn và thành thị có thể

rộng hơn, từ đó dẫn đến những yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến

định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.

Thứ năm, đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ quản lý nhà nước, quản trị

doanh nghiệp và chuyên gia còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình

độ tin học, ngoại ngữ. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng

lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều.

Bên cạnh các vấn đề kinh tế còn có thể có những cái giá phải trả về môi

trường, về lối sống, về những bệnh tật .v.v. nhưng cái giá này lớn nhỏ bao nhiêu

lại do chính những chính sách của Việt Nam quy định. Những cơ hội, thách thức

nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội

không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của

chúng ta. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách th, tạo ra

cơ hội lớn hơn. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn

tuỳ thuộc vào khả năng vượt qua của chúng ta.

1.1.2.2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn

nhân lực ở Việt Nam

26

Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của khoa

học công nghệ và hình thành, phát triển nền kinh tế tri thức đặt ra những yêu cầu

mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực.

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có được đội ngũ

cán bộ quản lý nhà nước, quản trị kinh doanh và chuyên gia trong các lĩnh vực

đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, mạnh về năng lực chuyên môn, phải có trình

độ tin học, ngoại ngữ, tăng nhanh về số lượng lao động có trình độ chuyên môn

và tay nghề cao.

Thứ hai, trong nền kinh tế hiện đại, sự đổi mới của công nghệ diễn ra

nhanh chóng đòi hỏi mỗi người làm việc phải thích ứng linh hoạt với những thay

đổi của công nghệ, của thị trường và không ngừng nắm bắt, học hỏi, trang bị

kiến thức mới. Tính chất và mục tiêu hoạt động của người lao động sẽ thay đổi

cơ bản về bản chất. Mục tiêu của chính sách việc làm chuyển từ phát triển theo

chiều rộng lấy toàn dụng lao động làm tiêu chuẩn chính sang đáp ứng nhu cầu về

tiền lương, thu nhập cao và tăng nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu tái sản xuất sức

lao động ngày càng cao và đa dạng.

Thứ ba, tính chất và yêu cầu của việc làm thay đổi nhanh hơn, nhiều công

việc cũ mất đi và nhanh chóng thay vào đó là những việc làm mới với những tiêu

chuẩn và đòi hỏi mới cao hơn, ngặt nghèo hơn và kèm theo đó nguy cơ xuất hiện

những rủi ro liên quan đến mất việc làm sẽ tăng lên. Vì vậy, con người phải linh

hoạt, năng động và luôn luôn sẵn sàng chấp nhận mọi sự thay đổi. Đồng thời thể

lực của người lao động cũng phải được quan tâm, tăng cường để sẵn sàng đối

phó, thích ứng với những biến đổi của thị trường.

Thứ tư, người lao động phải học tập, nâng cao trình độ nhiều hơn, nhanh

hơn, vấn đề hình thành “xã hội học tập” và “học tập suốt đời” trở thành một yêu

cầu cấp bách đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nhiều giá trị xã hội và văn hóa

bị tác động mạnh và cần phải được thích nghi, sự phân hóa xã hội diễn ra nhanh,

27

mạnh hơn. Yêu cầu này nhấn mạnh vấn đề chất lượng nguồn nhân lực phải được

quan tâm hàng đầu của sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế. Trước đây, sự phát triển của một quốc gia, lãnh thổ chủ yếu dựa

vào các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn tư bản, thị trường tiêu

thụ…, nhưng trong thời đại của công nghệ thông tin như hiện nay tri thức lại có

ý nghĩa hết sức lớn lao, có thể tạo nên sự thịnh vượng, giàu có cho một quốc gia,

vùng lãnh thổ một cách vững chắc, lâu dài. Và yêu cầu này đã có sự thay đổi lớn

rõ rệt là trước kia tuyển dụng lao động đòi hỏi hàng đầu là sự cần cù, tính tốt thì

nay được thay bằng tiêu chuẩn của đội ngũ lao động phải có tính sáng tạo, có khả

năng phân tích, có khả năng làm việc theo nhóm... Điều này cho thấy để đạt

được chất lượng nguồn nhân lực tốt thì công tác đào tạo nguồn nhân lực phải đạt

chuẩn, đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác đào tạo phải có trình độ chuyên

môn cao mới đáp ứng được nhu cầu xã hội trong quá trình hội nhập.

Bên cạnh đó Chính phủ phải nghiên cứu và dự báo một cách thường xuyên

các dấu hiệu về thị trường lao động và thông báo kịp thời đến các sinh viên, các

doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo để định hướng về lao động, việc làm, cũng như

nâng cao chất lượng và hiệu quả của các chương trình, hình thức đào tạo và

phương thức đào tạo. Có như vậy mới đáp ứng thường xuyên nhu cầu về nguồn

nhân lực trong bối cảnh kinh tế phát triển nhanh chóng và xu thế di chuyển lao

động giữa các ngành, nghề, quốc gia.

Thứ năm, xu thế chuẩn hóa, quốc tế hóa những tiêu chuẩn về tổ chức lao

động và điều kiện làm việc, đặc biệt là những tiêu chuẩn kỹ thuật được quy định

bởi tính năng của máy móc thiết bị và được xác định ngay trong quá trình thiết

kế đòi hỏi những quốc gia nhập khẩu máy móc thiết bị phải tuân theo, đòi hỏi

con người phải được phát triển về tầm vóc và thể lực tương ứng để phù hợp và

sử dụng có hiệu quả những công cụ lao động mới, hiện đại này.

28

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

1.2.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình

1.2.1.1 Các nước công nghiệp hoá mới (NICs) châu Á

Các nước này đều nhận thức được rằng con người là vốn quý nhất của xã

hội, là yếu tố quyết định của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các

nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, tài chính hạn hẹp khiến cho từng người

dân ở các quốc gia này phải luôn khắc ghi một điều muốn phát triển phải chịu

khó học hỏi và làm việc cật lực, phát huy hết khả năng tiềm tàng của hai bàn tay

và khối óc. Chính vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực của các nước

thuộc khối này thông qua giáo dục - đào tạo luôn được xây dựng trên việc tận

dụng và khai thác các thế mạnh vốn có của mình, trước hết là về con người,

những giá trị văn hoá, xã hội và tinh thần tích luỹ được từ lâu trong quá trình

phát triển như tính cần cù, ham học hỏi, tôn sư trọng đạo. Việc hoạch định chính

sách phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo không chỉ là công

việc của các quan chức chính phủ, Bộ giáo dục và các Bộ liên quan mà còn có sự

cộng tác chặt chẽ, có sự tham gia rộng rãi của các chính quyền địa phương, các

doanh nghiệp, công đoàn đại diện cho giới lao động, giới tri thức, báo chí. Nhờ

sự tham gia của các cơ quan hữu quan như vậy nên cơ quan xây dựng chính sách

này hiểu được nhu cầu và tiềm năng của nhau và nhờ đó chính sách được đề ra

một cách phù hợp nhất, có tính nhu cầu của các bên cũng như yêu cầu của thị

trường và xu hướng phát triển của đất nước, để việc thực hiện đi đến thành công.

Khát vọng đuổi kịp các nước phát triển đã thúc đẩy các nước này nhanh

chóng nâng cao trình trình độ dân chúng và tạo ra đội ngũ lao động có trình độ

đồng đều và phù hợp để tiếp thu công nghệ tiên tiến. Trước tiên, chính phủ các

nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục tiểu học, gần như một nửa kinh phí giáo dục

giành cho giáo dục tiểu học, nhờ đó mà hầu hết các nền kinh tế thực hiện thành

29

công quá trình phổ cập giáo dục tiểu học, tạo nền tảng cho việc dịch chuyển lao

động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng như cho xây dựng và phát

triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Yêu

cầu của thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là nguồn nhân lực phải có

trình độ cao hơn, sau khi thực hiện thành công giáo dục tiểu học, các nền kinh tế

chuyển sang mở rộng giáo dục trung học, giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học.

Tại Hàn Quốc từ năm 1970 đến năm 1999, số các trường đại học đã tăng rất

nhanh, số giáo sư tăng hơn 7 lần, số các sinh viên trong các trường đại học đào tạo

bốn năm đã nhảy vọt từ 146.000 (năm 1970) lên tới 1.588.000 (năm 1999) [43,

tr.9].

Bảng 1.1: Sự phát triển của giáo dục Đại học ở Hàn Quốc (1970-1999)

Số các trường đại học

Số sinh viên

Số giáo sư

Năm

1970

71

146.414

7.779

1975

72

208.986

10.080

1980

85

402.979

14.458

1985

100

931.884

26.047

1990

107

1.040.166

33.340

1995

131

1.187.735

45.087

1999

158

1.587.667

57.001

Nguån: YUN, CHUNG II (2005), qu¶n lý gi¸o dôc, tµi liÖu tham kh¶o

dÞch tõ tiÕng Anh, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi.

T¹i Singapor ChÝnh phñ ®Çu t thích đáng cho giáo dục đại học, ví dụ

trường đại học quốc gia Singapor (NUS) với 13 trung tâm/viện nghiên cứu cấp

quốc gia, 11 viện/trung tâm cấp trường và 70 viện/trung tâm cấp khoa, Chính

phủ cùng NUS quyết tâm đẩy mạnh khám phá kiến thức và phát minh mới, đào

tạo sinh viên lỗi lạc và bồi dưỡng nhân tài phục vụ đất nước và xã hội. Hàng

trăm chương trình đào tạo được thiết kế với nền căn bản rộng, liên ngành và liên

khoa. Với những cố gắng đó NUS đã được quốc tế công nhận đứng vào danh

30

sách 500 trường đại học chất lượng nhất thế giới. Năm 2004, NUS đã thu hút

được 31.346 sinh viên, trong đó có 8.595 sinh viên sau đại học. Lực lượng cơ

hữu của trường gồm 2.055 giảng viên (kể cả quốc tế), 1.151 nghiên cứu viên,

856 cán bộ quản lý hành chính và 2.569 cán bộ phục vụ chung. Hàng năm chính

phủ Singapor đầu tư khoảng 990 triệu USD, nhà trường tạo thêm được khoảng

360 triệu USD từ các hoạt động khoa học, công nghệ, đào tạo, dịch vụ [20].

Bên cạnh việc mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, các nước

NICs cho rằng lực lượng lao động có tay nghề cao là cầu nối giữa các nhà khoa

học và sản xuất, là lực lượng chủ chốt trong sản xuất. Các nước này kết hợp phát

triển giáo dục nghề ban đầu ở cả cấp trung học lẫn sau trung học, cả các trường

công lẫn trường tư, cả các hệ chính quy lẫn phi chính quy, nhằm khuyến khích

học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục và đào tạo nghề. Trong nhiều

phương thức giáo dục đào tạo nghề ở các nền kinh tế, nổi trội nhất là đào tạo

nghề ngay tại nơi làm việc, tức là đào tạo ngay tại công ty. Hình thức này đặc

biệt phát triển ở Hàn Quốc, và phương thức này đã thu được thành công nhờ đào

tạo lực lượng lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

Các nước NICs cũng rất tích cực đưa lao động tri thức ra nước ngoài học

tập, sau khi tốt nghiệp hoặc mãn khoá đa số họ trở về nước và trở thành lực

lượng lao động rất quý giá. Hàn Quốc, Singapor và các vùng lãnh thổ Đài Loan,

Hồng Kông đã rất thành công trong quá trình phát triển nguồn nhân lực để thúc

đẩy hội nhập kinh tế quốc tế do có đội ngũ lao động trí thức lớn có khả năng tiếp

thu và áp dụng hiệu quả vốn tri thức mới và công nghệ tiên tiến.

1.2.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc tiến hành cải cách nền kinh tế vĩ mô gắn liền với cải cách thể

chế, tính chủ động được thể hiện mạnh mẽ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế. Với dân số đông hơn 1,3 tỷ người, lực lượng lao động tồn dư trong nền kinh

tế lớn do sự mất cân đối giữa sự phát triển dân số và các chính sách cơ cấu ngành

31

và khu vực trước đây. Sau khi đi vào cải cách năm 1978, Trung Quốc có chính

sách cho các thanh niên thành phố trở về khu vực thành thị sau thời gian bị bắt

buộc về nông thôn (thời kỳ cách mạng văn hoá). Khoảng hơn 20 triệu thanh niên

trở về thành phố, lực lượng này tạo sức ép về việc làm. Để giải quyết vấn đề này

nhà nước một mặt khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng nhiều

công nhân hơn, mặt khác thúc đẩy sự ra đời của các hợp tác xã, doanh nghiệp

nhỏ. Tình hình thất nghiệp được cải thiện đáng kể, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp

tình thế và tác động của nó là làm giảm hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước.

Từ những năm 1980 trở đi do sức ép của toàn cầu hoá mạnh nên Trung Quốc

buộc phải cải cách các doanh nghiệp nhà nước và đóng cửa một số doanh nghiệp

hoạt động kém hiệu quả, sa thải hàng loạt công nhân (năm 1997 số công nhân bị

sa thải là 11,5 triệu từ các doanh nghiệp nhà nước), bên cạnh việc sa thải công

nhân các doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục cải cách, sát nhập hoặc bán, khoán

mạnh mẽ hơn. Đồng thời số lao động dư thừa ở nông thôn Trung Quốc chiếm tỷ

lệ rất lớn. Cũng như nước ta, Trung Quốc tiến hành công nghiệp hoá nên diện

tích canh tác bị thu hẹp, dân số vẫn tiếp tục tăng, khoa học kỹ thuật đổ bộ vào

sản xuất nông nghiệp tạo nên con số lao động dư thừa khoảng 200 triệu người

[39, tr.396].

Chất lượng lao động còn thấp nên chưa đáp ứng được yêu cầu của phát

triển kinh tế hiện đại. Trong tình hình bất cân đối rất lớn giữa nhu cầu việc làm

và khả năng đáp ứng việc làm, xuất hiện hiện tượng thất nghiệp mang tính cơ

cấu, có người là lao động phổ thông không có việc làm, có những việc đòi hỏi kỹ

năng chuyên môn cao rất thiếu người làm. Đồng thời sự gia tăng lực lượng lao

động mới hàng năm lớn, lực lượng lao động dư thừa tồn đọng từ quá khứ nhiều,

xu thế tăng trưởng làm giảm khả năng tạo việc làm so với trước đây và trình độ

lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực của xu thế phát triển nền

sản xuất dựa trên tri thức và phát triển kinh tế hiện đại, đã tạo ra sức ép rất lớn

32

đối với việc làm và lao động của Trung Quốc. Để tham gia hội nhập kinh tế quốc

tế Trung Quốc đã tạo ra được những bước tiến mới trong vấn đề việc làm và lao

động. Nhiều việc làm với chất lượng và năng suất lao động cao hơn được tạo ra,

các xu hướng tạo việc làm nói chung và cải cách các vấn đề thể chế liên quan

đến lao động ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn, Chính phủ phải đi tới giải pháp tự

do hoá thị trường lao động, đặc biệt tự do hoá việc di cư lao động nông thôn -

thành thị góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển nông thôn - thành thị, tạo cơ

hội việc làm cho khu vực nông thôn và miền duyên hải, tiền lương cho lực lượng

lao động phổ thông có cơ hội gia tăng lớn.

Trung Quốc đưa ra chính sách hình thành các tập đoàn kinh tế nhằm nâng

cao sức cạnh tranh, và hoạch định chính sách thu hút nhân tài và xây dựng đội

ngũ các nhà doanh nghiệp, doanh nhân Trung Quốc. Chiến lược thu hút nhân tài

quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, để trở thành doanh nghiệp hàng

đầu phải có đội ngũ quản lý giỏi và những người lao động giỏi tiếp thu được

kinh nghiệm, chất xám của nước ngoài. Điều này cho phép doanh nghiệp nói

riêng hay Trung Quốc nói chung có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Để giữ được các nhân tài, Trung Quốc xây dựng nền văn hoá dân chủ,

liên tục mở rộng và tạo ra các cơ sở cho các nhân tài phát triển. Bên cạnh chế độ

đãi ngộ về vật chất, danh vọng cũng là một biện pháp quan trọng để khuyến

khích nhân tài cống hiến cho đất nước. Ngoài ra, quan hệ giữa người làm công

và ông chủ cho phép họ dự báo được tương lai của mình và mức độ nhiệt tình

đối với công việc.

Đáp ứng nhu cầu của thị trường về nhân tài, chính phủ Trung Quốc đứng

ra thành lập thị trường nhân tài và trên thực tế thì thị trường này vận hành chưa

được tốt. Bắt đầu từ năm 2004, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách thống

nhất thị trường lao động.

33

Nhà nước Trung Quốc đã tạo sức ép các nhà doanh nghiệp phải có phương

hướng phát triển đúng đắn, phù hợp và góp phần vào sự phát triển chung của

quốc gia, mặt khác phải khai thác những thuận lợi của thị trường trong nước,

phải quan tâm tới việc tạo điều kiện để tái sử dụng lao động, tạo công ăn việc

làm và có trách nhiệm với Nhà nước. Và một điều đáng chú ý là ở Trung Quốc

hiện nay số lượng nữ doanh nhân ngày càng nhiều, nhất là lĩnh vực dịch vụ. Tuy

nhiên, phụ nữ tham gia chính trị hay học tập còn nhiều hạn chế do sự phân biệt

xã hội và phân biệt giới tính. Trong giới lãnh đạo cấp cao, tỷ lệ nữ giảm, ở nông

thôn lao động nữ được trả công thấp hơn lao động nam, những sinh viên nữ mới

ra trường khó xin việc làm hơn sinh viên nam .

Đặc biệt, trong những năm qua, Trung Quốc đã xây dựng kế hoạch phát

triển kinh tế 5 năm và bước sang kế hoạch 5 năm lần thứ 11. Như chúng ta thấy,

họ không còn nói về kế hoạch nữa, mà là chương trình. Điều đó chứng tỏ hiện

nay Trung Quốc đã từ bỏ rất nhiều cái giống như là kế hoạch hoá truyền thống

để xây dựng những chương trình và hiện nay là chương trình 5 năm lần thứ 11

(2006 -2010). Chương trình này chỉ bao gồm các chỉ tiêu về GDP bình

quân/người, các giá trị về dịch vụ và chỉ tiêu việc làm. Chương trình này liên

quan rất nhiều đến những chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, một trong những mục tiêu

mà Trung Quốc muốn làm là thúc đẩy giáo dục bắt buộc ở nông thôn bằng cách

miễn học phí, tăng việc làm bền vững ở khu vực thành thị. Với chính sách mới

thúc đẩy thúc đẩy giáo dục ở khu vực nông thôn - đó là cho người dân đi học mà

không cần đóng học phí, đã làm cho giáo dục của Trung Quốc ở khu vực nông

thôn đã được cải thiện rất nhiều [4, tr.217].

Ngay tại thời điểm đầu của thời kỳ mở cửa, Đảng cộng sản Trung Quốc đã

xác định “muốn phát triển nhanh nền kinh tế đất nước, cần phải dựa vào khoa

học và giáo dục, tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, làm nhiều hành động thiết

thực đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục và khoa học của đất nước”. Nhà

34

nước đưa ra chủ trương cải cách thể chế giáo dục phải áp dụng đồng bộ, theo

phương châm thúc đẩy từng bước. Chính phủ chịu hoàn toàn trách nhiệm về

công tác dạy và học, từng bước thiết lập cơ chế Chính phủ một chủ thể, tạo điều

kiện để các tổ chức xã hội cũng có thể tham gia vào nhiệm vụ quan trọng này.

Trước mắt cải cách quan trọng là điều chỉnh kết cấu giáo dục sau tiểu học, sau sơ

trung, sau cao trung ở ngành giáo dục phổ thông, song song với nỗ lực phát triển

giáo dục hướng nghiệp và giáo dục người trưởng thành. Tiếp tục tiến hành cải

cách thể chế giáo dục ở đại học và cao đẳng, hoàn thiện phân cấp quản lý, phân

cấp dạy học.

Giáo dục dạy nghề vẫn còn tồn tại một số vấn đề như: cơ cấu giáo dục còn

chưa thật gắn kết giáo dục phổ thông với giáo dục thường xuyên, giáo dục hướng

nghiệp và giáo dục người trưởng thành. Hơn nữa, chính bản thân giáo dục phổ

thông cũng không gắn bó đúng mức với việc phát triển kinh tế địa phương,

không làm cho học sinh gắn những gì họ đã học với việc làm trong tương lai nên

trong sự phát triển chung, giáo dục và kinh tế chưa thật sự gắn kết với nhau, hiệu

quả hỗ trợ phát triển chưa rõ nét. Mục tiêu chung của cải cách là xây dựng và

hình thành một cơ cấu hợp lý, trong đó các hình thức giáo dục có liên hệ gắn kết

với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng của người lao

động, phục vụ hữu hiệu sự phát triển kinh tế, xã hội địa phương.

Trung Quốc từng bước hoàn thiện thể chế giáo dục trong những năm thực

hiện chiến lược “khoa giáo hưng quốc” với tinh thần “cần đưa giáo dục lên vị trí

chiến lược ưu tiên phát triển, nỗ lực nâng cao trình độ tư tưởng và đạo đức, văn

hoá, khoa học kỹ thuật của toàn dân tộc, đây là kế hoạch lớn cơ bản, thực hiện

hiện đại hoá Trung Quốc”. Các nhà quản lý và nghiên cứu giáo dục Trung Quốc

chủ trương kiên trì sáng tạo, đưa cải cách giáo dục vào chiều sâu, tối ưu hoá kết

cấu giáo dục, phân bổ hợp lý nguồn lực giáo dục, đào tạo nhân lực có chất lượng

cao [5, tr.153].

35

1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực

- Chú trọng áp dụng các loại hình chính sách thị trường lao động chủ

động: Việc lựa chọn áp dụng chính sách này hay chính sách khác phụ thuộc vào

điều kiện cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp, hoặc từng thời điểm. Tuy

nhiên, cho đến nay, các chính sách thị trường chủ động, nhất là chính sách đào

tạo và đào tạo lại vẫn chưa được chú trọng. Để đáp ứng đào tạo bồi dưỡng tay

nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, buộc Chính phủ phải xác định

rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu công nhân, thiếu người có tay

nghề cao, lĩnh vực cần đào tạo lúc này là kỹ năng về quản trị doanh nghiệp, các

hiểu biết về thị trường, khả năng hợp tác công việc. Đồng thời đầu tư cơ sở hạ

tầng và chế độ đãi ngộ với cán bộ giảng dạy từ cấp tiểu học cho đến đại học để

chất lượng giáo dục đạt hiệu quả cao nhất. Trung Quốc đã phát triển rất nhanh

giáo dục đại học và cách tiếp cận của họ đã không thành công. Trung Quốc đã

tạo ra rất nhiều người tốt nghiệp đại học nhưng rất nhiều trong số đó không có

khả năng tìm được việc làm, phần lớn các khoản chi cho các trường đại học đã

chi không đúng, chi sai mục tiêu. Mặc dù Trung Quốc cố gắng phát triển giáo

dục ở khu vực nông thôn nhưng trong thực tế họ lại tập trung nguồn lực cho việc

phát triển giáo dục ở khu vực thành thị, chủ yếu là giáo dục đại học và vô tình nó

đóng góp không nhiều vào quá trình phát triển của đất nước. Từ kinh nghiệm

này, Việt Nam rút ra bài học là tập trung vào tăng cường các kỹ năng công

nghiệp, cần nhiều nguồn lực để đào tạo ra các kỹ thuật viên để làm trong lĩnh

vực công nghiệp thay vì đào tạo ra quá nhiều những người có bằng đại học.

- Phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: Mô hình này Đài

Loan đã làm rất tốt - nhiều công ty nhỏ - nền kinh tế Đài Loan năng động, hiệu

suất lao động cao và thu nhập cũng rất cao. Loại hình doanh nghiệp này xuất

phát từ hộ kinh doanh cá thể, mang tính gia đình hay các làng nghề truyền thống,

các ngành nghề kinh doanh chủ yếu là dịch vụ tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp,

sản phẩm mỹ nghệ, vận tải... các doanh nghiệp này cho phép người lao động tự

36

tạo công ăn việc làm cho mình để tránh thất nghiệp, bù đắp thâm hụt về thu

nhập, rút ngắn chênh lệch cung cầu lao động trên thị trường. Bài học rút ra ở đây

là Việt Nam cần xác định có nên tiếp tục theo cơ cấu bành trướng các doanh

nghiệp nhà nước theo mô hình các tập đoàn kinh tế như hiện nay không, vì như

vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn về mặt kinh tế. Vấn đề sở hữu không đặt lên hàng đầu

mà là quản lý tốt và hoạt động tốt, Nhà nước và tư nhân đều tham gia vận hành

hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước cần có chiến lược phát triển các công ty lớn,

có kinh nghiệm, có khả năng cạnh tranh, khả năng xuất khẩu nhiều hơn nữa,

quan tâm đến các doanh nghiệp nhỏ vì tạo ra nhiều công ăn việc làm

- Thu hút và trọng dụng nhân tài là kinh nghiệm rất đáng nghiên cứu và

vận dụng vào điều kiện của Việt Nam nhằm phát triển nguồn nhân lực trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong quá trình thu hút và trọng dụng nhân tài, các quốc gia trước hết

hướng tới việc thu hút nhân tài làm việc trong các khu vực công. Đây là khu vực

mà việc thu hút và trọng dụng nhân tài có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của

quốc gia nhưng lại rất khó thực hiện vì sự sơ cứng và quan liêu của chính bộ

máy công. Singapor đã thực hiện cấp học bổng tổng thống cho những cá nhân

xuất sắc với quy chế ràng buộc trở về làm việc cho khu vực nhà nước từ 4 đến 6

năm. Nhờ cách làm này, Chính phủ Singapor có thể thu hút được những nguồn

tài năng nhất trên toàn quốc gia làm việc cho Chính phủ. Hơn nữa, Singapor đã

có nhiều chính sách vô cùng linh hoạt để trả công thoả đáng cho những công

chức nói trên.

Với mục tiêu trọng dụng và thu hút tài năng vào đội ngũ cán bộ cao cấp -

cốt lõi của hệ thống công chức, Hàn Quốc đã triển khai hàng loạt các biện pháp,

trong đó, đặc biệt chú trọng cơ chế mở, minh bạch trong chọn người và dùng

người. Theo đó, người tài có thể tự ứng cử hoặc được đề cử vào các vị trí quan

trọng trong bộ máy nhà nước, kể cả vị trí Bộ trưởng.

37

Trong những năm gần đây, Trung Quốc áp dụng cơ chế tuyển chọn, bố trí

công việc tại các cơ quan nhà nước theo hướng không ràng buộc hộ khẩu, có thể

cộng tác thêm với nơi khác để tăng thêm thu nhập miễn không ảnh hưởng đến

công việc của cơ quan. Các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải thi hành chính

sách đãi ngộ nhân tài không phân biệt văn hoá, địa vị xã hội hay quốc tịch. Điều

đó đã tạo điều kiện cho nguồn nhân tài chủ động đến với khu vực công. Đồng

thời, Trung Quốc thường xuyên cử những đoàn tuyển dụng nhân tài với quy mô

lớn, đi tới những nước Châu Âu và Châu Mỹ tuyển dụng nhân là những lưu học

sinh ưu tú. Những năm gần đây, để thu hút nhân tài từ nước ngoài về nước tham

gia công việc nghiên cứu, Trung Quốc đã đề ra nhiều kế hoạch như “kế hoạch trăm

người” “kế hoạch thu hút nhân tài kiệt xuất từ nước ngoài”...

38

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

2.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

2.1.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế

Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ

đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng

cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm

mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện

dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Chủ trương “chủ động hội nhập” bắt nguồn từ sự nhận thức về quá trình

toàn cầu hoá mà chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế và hội

nhập kinh tế là hai mặt của một quá trình, không thể toàn cầu hoá nếu không có

sự tham gia ngày càng đông đảo của các quốc gia. Toàn cầu hoá là xu thế khách

quan, lôi cuốn nhiều quốc gia tham gia, vừa có yếu tố tích cực, vừa có mặt tiêu

cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, Vì thế, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là yếu tố

khách quan. Xu thế toàn cầu hoá tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và hội

nhập của nước ta. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định “Đẩy mạnh hoạt động

kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao

nhất”. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ

trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các

quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những

ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước phát triển, các nước có nền

kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Với sự

nhận thức mới, đúng đắn và toàn diện về phát triển nguồn nhân lực trong quá

39

trình hội nhập, chúng ta phải phát huy cao độ nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực và tương thích với trình độ phát triển của một nước công nghiệp.

Mục tiêu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,

tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những

nhiệm vụ nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010

và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.

Về hội nhập kinh tế quốc tế quan điểm chỉ đạo chung của Đảng là: giữ

vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ

vững định hướng xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đồng thời nhấn mạnh một số quan điểm cụ thể sau:

- Hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân. Nhân dân là chủ thể

của hội nhập và được hưởng thành quả từ hội nhập. Mọi cơ chế, chính sách phải

nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo và phát huy mọi nguồn

nhân lực của toàn nhân dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn xã hội; phát huy

vai trò của đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài vào công cuọc phát triển đất nước và tăng thêm sự gắn bó của đồng bào với Tổ quốc.

- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và

hiệu quả của tăng trưởng; tăng trưởng kinh tế phải đi dôi với tiến bộ và công

bằng xã hội; giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái.

- Gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực; phát huy tối đa

nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo

thành sức mạnh quốc gia, xây dựng nền kinh tế độc lập, tực chủ trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động, tích cực tạo ra và sử dụng có hiệu quả cao các lợi thế so sánh của đất nước.

40

- Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới;

đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ

trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; chủ động xây dựng các mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương, khu vực và đa phương.

- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai

trò của Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dânm tôn trọng và phát

huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết

toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Con đường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được hình thành rất

sớm và “sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”

(Thư gửi Liên hiệp quốc năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh). Ngay từ những năm

70, thế XX, Việt Nam tham gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực

tham gia phong trào không liên kết, nhóm 77, liên hiệp quốc mà một trong

những nội dung cơ bản là đấu tranh cho trật tự kinh tế thế giới công bằng. Việt

Nam ra sức thúc đẩy quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với một số nước tư bản chủ

nghĩa. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã tạo một bước ngoặt quan trọng trong nhận

thức và quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế. Với đường lối đổi mới và mở cửa

trong quan hệ đối ngoại, thực hiện phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá

quan hệ”. Và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh vào năm 1991,

với tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế

giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Tuyên bố này đã được chứng minh bằng việc thực hiện hợp tác với bên ngoài trong thời kỳ 1991-1995.

Năm 1993, chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền

tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Năm 1994, nước ta được công nhận là quan sát

viên của GATT - tiền thân của WTO. Ngày 1-1-1995 nước ta gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới, ngày 27-5-1995, nước ta chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN.

41

Thời kỳ 1996-2000, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy

mạnh. Tháng 11/1998, nước ta gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái

Bình dương (APEC), tham gia chương trình hành động tập thể (CAP), phối hợp

hành động với các thành viên khác trên lĩnh vực thông tin, phát triển nguồn nhân

lực, hải quan...

Năm 2000 đã ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, hiệp định này thực

thi năm 2001. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tiến

hành thực hiện một số nội dung quan trọng trong nước như:

- Xây dựng, sửa đổi pháp luật, chính sách kinh doanh, thượng mại, đất đai,

đầu tư, tài chính...

- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế: chú trọng phát triển các ngành, sản phẩm

hướng ra xuất khẩu, phát triển ngành, sản phẩm hiện đại, khuyến khích phát triển kinh tế dân doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi

trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và quản lý kinh doanh

thích nghi dần với điều kiện mới, tạo tiền đề để tiếp tục quá trình hội nhập kinh tế trong những năm tiếp theo.

Đại hội X của Đảng đánh dấu thời kỳ hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với

các tổ chức kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, Đại hội lần thức X của

Đảng khẳng định “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình

phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến 2010 và tầm nhìn đến

2020”. Ngày 7-11-2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

2.2. Tình hình phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế

2.2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu nguồn nhân lực

42

Quy mô dân số là một trong những chỉ tiêu quan trọng cho phép đánh giá

khái quát tổng số dân của một vùng, quốc gia, khu vực hay trên toàn thế giới.

Những thông tin về quy mô và tăng trưởng dân số cho phép phân tích, so sánh

các chỉ tiêu kinh tế xã hội như: mật độ dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu

người, lượng thực bình quân đầu người,.... Nhận biết quy mô dân số, chúng ta có

thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau như: tổng điều tra dân số, thống kế

thường xuyên hay dự báo dấn số. Quy mô dân số có thể tăng giảm tuỳ theo các yếu tố biến động dân số như sinh đẻ và di dân.

Năm Bảng 2: Tốc độ tăng dân số bình quân qua các năm (%) Tốc độ tăng (%) Dân số trung bình (nghìn người)

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 ước 2008 1,86 1,80 1,74 1,69 1,65 1,61 1,57 1,55 1,51 1,36 1,35 1,32 1,47 1,40 1,31 1,24 1,21 1,18 67.242,4 68.451,1 69.644,5 70.824,5 71.995,5 73.156,7 74.306,9 75.456,3 76.596,7 77.635,4 78.685,8 79.727,4 80.902,4 82.031,7 83.106,3 84.136,8 85.154,9 86.160,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niêm giám Thống kê 2007; Báo cáo

ước tính năm 2008, NXB Thống kê, Hà Nội.

43

Tốc độ tăng dân số qua các năm tăng cao và bắt đầu có xu hướng giảm dần, tốc độ tăng dân số năm 1991: 1,86%, đến năm 1995: 1,65% và đến năm 2000 tốc độ tăng dân số giảm xuống 1,36%, dân số trung bình năm 2000 tăng đến 77.635,4 nghìn người. Năm 2003,dân số cả nước đã lên đến gần mốc 81 triệu người, tốc độ tăng dân số 1,47%. Năm 2007 dân số nước ta tăng mức 85 triệu người, tốc độ tăng dân số chậm ở mức 1,21%. So với các nước trong khu vực châu Á và trên thế giới nước ta có dân số đông, năm 2008 ước tính đạt 86,16 triệu người, đông thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indônesia, Myanmar, Philipines); đứng thứ 9 ở Châu Á (trừ 3 nước trên và các nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Nhật Bản); đứng thứ 14 trên thế giới (ngoài 9 nước trên và các nước Mỹ, Brazin, Liên bang Nga, Nigieria, Mexico). Mật độ dân số năm 2008 của Việt Nam đạt 260 người/km2, cao gấp trên 6 lần mật độ của khu vực Đông Nam Á, cao gấp 6 lần mật độ của thế giới. Mặc dù tốc độ tăng dân số đã chậm lại, tăng 1,18%, tốc độ này thấp bằng hai phần ba tốc độ tăng dân số năm 1993 tăng 1,74% (sau 15 năm). Do quy mô dân số đông, nên về mặt tuyệt đối hàng năm vẫn tăng trên 1 triệu người, tương đương với một tỉnh có quy mô dân số trung bình [32, tr.39].

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Bảng 3: Dân số bình quân phân theo giới tính, thành thị nông thôn (%)

Tổng số (nghìn người)

78685.8

79727.4

80782.7

82031.7

83104.9

84108.1

85195.0

Phân theo giới tính

Nam

36684.2

39197.4

39717.3

40310.5

40845.4

41330.9

41865.1

Nữ

40001.6

40530.0

41065.4

41721.2

42259.5

42777.2

43329.9

Phân theo thành thị, nông thôn

Thành thị

19469.3

20022.1

20512,3

21737.2

22027.8

22821.3

23343.5

59216.5

59705.3

60270.4

60294.5

61077.1

61286.8

61851.5

Nông thôn Tỷ lệ tăng so với năm trước (%)

1.35

1.32

1.32

1.40

1.31

1.21

1.29

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám Thống kê 2007; Báo cáo

ước tính năm 2008, NXB. Thống kê, Hà Nội.

44

Việt Nam là một nước đông dân, lao động đang làm việc trong nền kinh tế

quốc dân đã tăng nhanh qua các năm. Dân số hoạt động kinh tế có xu hướng tăng

trong những năm gần đây, đồng thời dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao

động (15 đến 60 tuổi đối với nam và 15 đến 55 tuổi đối với nữ) ở các nhóm tuổi

thấp có xu hướng giảm dần qua các năm, đặc biệt là nhóm tuổi 15-19: năm 2002

nhóm tuổi 15-19 chiếm 12,6%, năm 2004 là 11,3% và năm 2006 là 9,2%. Đây là

một xu hướng tốt do nhóm dân số 15-19 tuổi đang trong độ tuổi đi học. Lao động

ở nhóm tuổi 20 đến 24 năm 2002 chiếm 12,8% trên tổng dân số cả nước, năm

2004 giảm nhẹ xuống mức 12,7%, năm 2006 tăng là 13,2%,trong đó năm 2002

lao động khu vực thành thị chiếm 11,3%, năm 2004: 11,2%, năm 2006: 11,8%,

khu vực nông thôn năm 2002: 13,3%, năm 2004: 13,2%, năm 2006: 13.7%. Lao

động ở nhóm tuổi 30 đến 34 năm 2002 chiếm 14,0% tổng dân số cả nước, năm

2004 chiếm 13,1%, năm 2006 giảm xuống còn 12,2%. Lao động từ nhóm tuổi 40

- 44 năm 2002 là 13,2%, năm 2004 tăng lên 14,5%, đến năm 2006 tiếp tục tăng

lên 14,7%. Trên thực tế cho thấy từ năm 2002 đến năm 2007 tỷ trọng của lực

lượng lao động trẻ (15 đến 34 tuổi) giảm xuống trong khi tỷ trọng của lực lượng

lao động lớn tuổi từ 35 - 44 tăng lên, điều này cho thấy lực lượng lao động cả

nước tiếp tục tăng và xu hướng già hoá dân số [16].

Bảng 4: Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi chia theo nhóm tuổi,

thành thị, nông thôn

Nông thôn (%)

Thành thị (%)

Nhóm tuổi

2002

Cả nước (%) 2004 11.3

2002 12.6

2006 9.2

2002 2004 5.1

6.9

2006 4.5

2004 14.3 13.2

2006 10.9

15-19

20-24

12.8

12.7

13.2 11.3 11.2

11.8

13.3 13.2

13.7

25-29

13.3

11.6

11.0 13.9 12.9

12.6

13.1 11.2

10.5

30-34 35-39

14.0 14.6

13.1 14.2

12.2 14.5 13.8 13.4 15.3 14.1

12.6 13.4

13.9 12.9 14.4 14.2

12.0 13.4

40-44

13.2

14.5

14.7 15.9 16.6

15.3

12.4 13.9

14.4

45

45-49

10.0

12.1

13.2 12.1 14.8

9.4 11.3

12.4

15.5

50-54

6..7

8.1

9.3

7.4

9.2

6.5

7.8

8.9

10.4

55-59

2.5

2.3

3.5

2.5

2.5

2.4

2.3

3.4

3.6

60+

0.3

0.4

0.3

0.3

0.4

0.3

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả khảo sát mức sông hộ gia đình

năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.

Số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân đã tăng nhanh qua

các năm. Năm 2008 so với năm 1990, tổng số lao động đang làm việc đã tăng

15.624,9 nghìn người, bình quân một năm tăng 868 nghìn người. Mức tăng như

vậy phản ánh sự cố gắng khá lớn trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao

động. Và điều đáng quan tâm là có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành

phần kinh tế. Trong tổng số lao động tăng của toàn bộ nền kinh tế là 15624,9

nghìn người thì khu vực nhà nước tăng 657,7 nghìn người, chiếm 4,2% tổng số

tăng thêm. Xét riêng trong các loại hình doanh nghiệp, tổng số lao động tính đến

năm 2007 là 6.715,2 nghìn người, tăng 89,9% so với năm 2000, bình quân tăng 1

năm tăng 11,9%, cao gấp nhiều lần tốc độ tăng 2,3%/năm của toàn nền kinh tế

quốc dân trong thời gian tương ứng. Về số tuyệt đối, tổng số lao động làm việc

trong các doanh nghiệp tăng 3.178,2 nghìn người, trong đó doanh nghiệp nhà

nước giảm 188,6 nghìn người, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2.329 nghìn

người, chiếm 73,3% tổng số tăng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng

1.307,8 nghìn người, chiếm 32,7% tổng số tăng. Cơ cấu lao động theo loại hình

doanh nghiệp chuyển dịch theo hướng tỷ trọng lao động làm việc trong các

doanh nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp

ngoài nhà nước tăng lên nhanh; tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm. Theo đó, doanh nghiệp

ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp tích cực

vào vào việc thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

46

Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực.

Trong giai đoạn năm 1990 - 2008, tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp và xây

dựng tăng từ 11,2% lên đến 20,8%, tỷ lệ lao động trongngành dịch vụ cũng tăng

từ 15,7% lên dến 26,7%, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp đã giảm từ 73%

xuống 52,5%. Trong tổng số lao động tăng từ năm 1990 đến năm 2008, trong đó

nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản đã thu hút thêm 2.148,7 nghìn người,

chiếm 13,8% tổng số tăng. Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã thu hút thêm

6.079,8 nghìn người, chiếm 38,9% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ đã thu hút

thêm 7.396,4 nghìn người, chiếm 47,3% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ thu

hút được nhiều lao động, tiếp đến là công nghiệp - xây dựng, cuối cùng là nông,

lâm nghiệp và thuỷ sản [32, tr.53].

1990

1995

2000

2005

2006

2007

2008

Tổng số (nghìn người)

29.412,3 33.030,6 37.609,6 42.526,9 43.318,9 44.171,9 45.037,2

Phân theo loại hình kinh tế

- Nhà nước

3.415,6

3.053,1

3.501,0

4.038,8

3.948,6

3.974,6

4.073,3

- Ngoài nhà nước

25.996,7 29.977,5 33.881,8 37.814,7 38.668,1 36.657,7 39.132,5

226,8

673,4

702,1

1.539,6

1.831,4

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Phân theo nhóm ngành kinh tế

21.476,1 23.534,8 24.481,0 24.342,5 23.927,2 23.810,8 23.624,8

- Nông lâm nghiệp và thuỷ sản

- Công nghiệp và xây dựng

3.305,1

3.755,7

4.929,7

7.739,9

8.335,8

8.825,3

9.385,5

4.630,5

5.740,1

8.189,9

10.444,5 11.075,9 11.535,8 12.026,9

- Dịch vụ

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

- Cơ cấu (%)

Phân theo loại hình kinh tế

- Nhà nước

11,6

9,2

9,3

9,5

9,1

9,0

9,0

- Ngoài nhà nước

88,4

90,8

90,1

88,9

89,3

87,5

86,9

Bảng 5: Lao động làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm

47

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

0,6

1,6

1,6

3,5

4,1

Phân theo nhóm ngành kinh tế

- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

73,0

71,3

65,1

57,2

55,2

53,9

52,5

- Công nghiệp và xây dựng

11,2

11,4

13,1

18,2

19,2

20,0

20,8

- Dịch vụ

15,7

17,4

21,8

24,6

25,6

26,1

26,7

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám Thống kê năm 2007, NXB

Thống kê, Hà Nội.

Tính đến 1/7/2005 cả nước có 11 triệu lao động qua đào tạo, chiếm 24,8%

lực lượng lao động, trong đó có 6.755 ngàn người qua đào tạo nghề chiếm 15,2%

lực lượng lao động, 2.099 ngàn người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp chiếm

4,3% lực lượng lao động và 2.339 ngàn người có trình độ cao đẳng trở lên chiếm

5,27% lực lượng lao động. Như vậy, vẫn còn đến 74% lực lượng lao động của

của cả nước chưa qua đào tạo, tạo nên sức ép rất lớn đối với việc nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực và cũng là trở ngại lớn cần phải nhanh chóng vượt qua để

nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế. Cả nước có 73% lực lượng lao động tập trung ở nông thôn và khoảng 55% lao

động làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp với trình độ trang bị kỹ

thuật thấp, lao động thủ công là chính và năng suất lao động thấp. Một trong

những yếu điểm của nguồn nhân lực nước ta là trình độ ngoại ngữ còn thấp [6].

2.2.2. Tình hình giáo dục và đào tạo

2.2.2.1. Quy mô giáo dục và đào tạo

• Số lượng học sinh, sinh viên

Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống

giáo dục quốc dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ,

tình cảm của trẻ em Việt Nam. Vậy nên, trong những năm qua, Nhà nước đã tập

48

trung đầu tư rất lớn cho công tác giáo dục mầm non, nhằm phát triển vững chắc

bậc học nền móng này. Tuy nhiên, cùng với tốc độ gia tăng dân số và nhận thức

của người dân về sự cần thiết cho trẻ đi học mẫu giáo, thì số lượng trường mầm

non không đủ đáp ứng nhu cầu. Năm học 2000-2001, cả nước có 8.933 trường,

với 87,1 nghìn lớp học, 2.212 nghìn học sinh, 103,3 nghìn giáo viên. Năm học

2006-2007, số lượng học sinh mẫu giáo đạt 2.524,3 nghìn học sinh, số trường

học là 11.582 trường, số giáo viên tăng lên 122,9 nghìn người. Đến năm học

2007-2008, số lượng học sinh tăng đến 2.593,3 học sinh, số giáo viên tăng lên

130,4 nghìn người.

Giáo dục phổ thông: quy mô học sinh tiểu học tiếp tục giảm, tiến dần đến

ổn định. Năm học 2000-2001 cả nước có 9.741,1 nghìn học sinh đi học, năm học

2005-2006 số lượng học sinh giảm xuống còn 7.304,0 nghìn học sinh, năm 2007-

2008 số lượng học sinh đạt 6.769,3 tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi đạt 95%.

Số học sinh trung học cơ sở tăng đều trong những năm trước đây. Năm

học 2002-2003 cả nước có trên 6.400 nghìn học sinh trung học cơ sở, tăng 9,8%

so với năm học 2000-2001. Năm học 2005-2006, số lượng học sinh tăng lên

6.371,3 học sinh, nhưng đến năm học 2006-2007 số lượng học sinh trung học cơ

sở giảm xuống còn 6.152,0 nghìn học sinh và đến năm 2007-2008 số lượng học

giảm xuống còn 5.709,2 học sinh.

Số học sinh trung học phổ thông năm học 2000-2001 là 2.171,4 nghìn học

sinh, năm học 2005-2006 số học sinh đạt 2.975,3 nghìn học sinh ( tăng 803,9

nghìn học sinh), năm học 2007-2008 số học sinh đạt 2.992,9, tăng 17,6 nghìn

học sinh so với năm học 2006-2007. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 2006-

2007 đạt 80,42%.

Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đang từng

bước được mở rộng. Năm học 2000-2001 cả nước có 255,4 nghìn sinh viên cao

đẳng, đại học, số sinh viên tốt nghiệp 162,5 nghìn sinh viên. Năm học 2005-2006

49

số sinh viên tăng lên 1.387,1 nghìn sinh viên, sinh viên tốt nghiệp tăng 210,9

nghìn sinh viên (tăng 1,29%), năm 2007-2008 cả nước có 1.928, 4 nghìn sinh

viên, tăng 1,16% so với năm học 2006-2007. Số lượng học sinh ở các trường

trung cấp chuyên nghiệp gia tăng đáng kể. Năm học 2000-2001 cả nước có 225,4

nghìn học sinh, số lượng học sinh tốt nghiệp là 72,3 nghìn học sinh, năm 2005-

2006 số học sinh đạt 500,3 nghìn học sinh, tốt nghiệp 180,4 nghìn học sinh, năm

2007-2008 số học sinh là 515,7 nghìn học sinh, tăng 1,03% so với năm học

2006-2007, số học sinh tuyển mới là 15,4 nghìn học sinh, tốt nghiệp 163,5 nghìn

học sinh [32].

Bảng 6: Số học sinh mẫu giáo, tiểu học, phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp

Số học sinh (nghìn)

2000-

2005-

2006-

2007-

2001

2006

2007

2008

1. Mẫu giáo (30/9)

2.212

2.426,9

2.524,3

2.593,3

2. Phổ thông (30/9)

- Tiểu học

9.741,1

7.304,0

7.029,4

6.769,3

- Trung học cơ sở

5.863,6

6.371,3

6.152,0

5.709,2

- Trung học phổ thông

2.171,4

2.975,3

3.075,2

2.972,2

3. Trung cấp chuyên nghiệp

(31/12)

- Số học sinh (nghìn)

500,3

515,7

621,1

255,4

- Số học sinh tốt nghiệp (nghìn)

180,4

163,5

72,3

4. Cao đẳng, đại học (nghìn SV)

- Số sinh viên

1.387,1

1.666,2

1.928,4

899,5

- Số sinh viên tốt nghiệp

210,9

232,5

162,5

và số sinh viên cao đẳng, đại học qua các năm học

Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, Hµ Néi.

• M¹ng l íi tr êng häc

50

HÖ thèng gi¸o dôc cña ViÖt Nam còng nh hÖ thèng gi¸o dôc cña c¸c n íc

Ch©u Á. Chính phủ quản lý các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp, tỉnh, thành phố quản lý giáo dục trung học, giáo dục tiểu học do quận,

huyện quản lý. Năm học 2000-2001 cả nước có 8.933 trường mầm non, năm

2005-2006 số lượng trường mầm non tăng đến 10.927 trường, năm 2007-2008 số

trường tăng lên là 11.696 trường, số lớp học năm 2000-2001 là 87,1 nghìn lớp,

năm 2005-2006 tăng lên 93,9 nghìn lớp, năm 2007-2008, tăng 99,7 nghìn lớp

(tăng 1,06%)

Mỗi làng, xã đều có ít nhất một trường tiểu học hoặc trung học cơ sở. Số

trường phổ thông trong cả nước tăng liên tục, năm 2000-2001 có 24.692 trường,

năm 2005-2006 có 27.227 trường, năm 2006-2007 có 27.593 trường, năm 2007-

2008 có 28.220 (tăng 627 trường so với năm học 2006-2007, tỷ lệ tăng 1,03%).

Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng tập trung ở các thành phố lớn, hệ

thống các trường cao đẳng sư phạm ở khắp các tỉnh trong cả nước đào tạo giáo

viên phổ thông cho địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người học và gắn với

nhu cầu sử dụng lao động, xoá tình trạng trắng trường dạy nghề ở cấp tỉnh. Theo

số liệu thống kê năm 2005 cả nước có 93 trường đại học, 137 trường cao đẳng,

đến năm học 2006-2007 cả nước có 345 trường đại học, cao đẳng, trong đó số

trường đại học là 139 trường, và cao đẳng là 166 trường, tăng 1,4%.

Hiện nay, ngoài hệ thống các trường đại học công lập, các trường dân lập

được mở ra ở bậc đại học và đào tạo nghề, các trường tư thục cũng được mở ra

cho giáo dục phổ thông và mầm non nhưng con số vẫn còn khiêm tốn, nhất là ở

các địa phương. Cho tới nay, cả nước có 39 trường bậc cao đẳng, đại học ngoài

công lập, hầu hết tập trung ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Cơ sở

vật chất kỹ - thuật của các cơ sở đào tạo được tăng cường, từng bước đổi mới,

hiện đại hoá. Nhiều cơ sở được xây dựng, mở rộng tương đối khang trang (chủ

yếu là 14 trường đại học trọng điểm và 40 trường dạy nghề chất lượng cao).

Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, thí nghiệm và thực hành được đầu tư. Một số

51

trường đại học trọng điểm được đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tương đối

hiện đại phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin.

Bảng 7: Số trường phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp

Loại trường

2000-2001 2005-2006

2006-2007 2007-2008

Phổ thông (30/9)

24.692

27.227

27.593

28.220

Trung cấp chuyên nghiệp

(31/12)

253

284

269

273

Cao đẳng, đại học

178

230

322

345

và cao đẳng, đại học qua các năm

Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, Sè liÖu

tæng quan cña Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o n¨m 2006.

52

• §éi ngò gi¸o viªn

§Ó c¶i c¸ch gi¸o dôc mét c¸ch ®ång bé, ®éi ngò gi¸o viªn mÇm non, phæ

th«ng ®· ph¸t triÓn vÒ sè l îng vµ t¨ng c êng chÊt l îng theo h íng chuÈn ho¸.

N¨m häc 2005-2006 ®éi ngò gi¸o viªn phæ th«ng ®¹t 780,5 ngh×n gi¸o viªn,

trong ®ã hÖ tiÓu häc lµ 354,8 ngh×n ng êi, hÖ trung häc c¬ së: 3.102,0 ngh×n

ng êi, hÖ trung häc phæ th«ng: 115,5 ngh×n ng êi, ®éi ngò gi¶ng viªn cao ®¼ng,

®¹i häc lµ 48,6 ngh×n ng êi, gi¸o viªn trung cÊp chuyªn nghiÖp lµ 14,2 ngh×n

ng êi. N¨m häc 2006-2007, sè l îng gi¸o viªn phæ th«ng t¨ng lªn 789,6 ngh×n

ng êi, t¨ng 1,01%, sè l îng gi¶ng viªn cao ®¼ng, ®¹i häc t¨ng lªn 53,4 ngh×n

ng êi, t¨ng 1,09% nh ng sè l îng gi¸o viªn trung cÊp chuyªn nghiÖp chØ t¨ng

0,2%, sè l îng lµ 14,5 ngh×n ng êi. MÆc dï sè gi¸o viªn b×nh qu©n ®· t¨ng lªn

®¸ng kÓ nh ng nÕu so víi ®Þnh møc th× n íc ta vÉn thiÕu nhiÒu gi¸o viªn phæ

th«ng vµ d¹y nghÒ, ®Æc biÖt lµ ë c¸c tØnh miÒn nói vµ c¸c ®Þa ph ¬ng cã ®iÒu kiÖn

kinh tÕ kÐm ph¸t triÓn.

Gi¶ng viªn ®¹i häc vµ cao ®¼ng liªn tôc t¨ng vÒ sè l îng vµ tr×nh ®é tõng

b íc ® îc n©ng lªn. N¨m häc 2000 - 2001 c¶ n íc cã 32.205 gi¶ng viªn, trong

®ã sè gi¶ng viªn cao ®¼ng lµ 7.843 ng êi, gi¸o s ®¹t 4 ng êi chiÕm 0,05% trªn

tèng sè gi¶ng viªn cao ®¼ng, phã gi¸o s ®¹t 9 ng êi chiÕm 0,11%, tr×nh ®é tiÕn

sü: 109 ng êi chiÕm 1%, th¹c sü 1.468 ng êi chiÕm 18.7%, tr×nh ®é chuyªn khoa

I vµ II 56 ng êi chiÕm 0,71%, tr×nh ®é ®¹i häc, cao ®¼ng 6.083 ng êi chiÕm

77,55%, tr×nh ®é kh¸c 152 ng êi chiÕm 1,97%; sè gi¶ng viªn ®¹i häc lµ 24.362

ng êi, trong ®ã sè l îng gi¸o s 310 ng êi chiÕm 1% trong tèng sè gi¶ng viªn

®¹i häc, phã gi¸o s 1.131 ng êi chiÕm 4,%, gi¶ng viªn ®¹t tr×nh ®é tiÕn sü 4.454

chiÕm 18%, tr×nh ®é th¹c sü 6.596 ng êi chiÕm 27,0%, tr×nh ®é chuyªn khoa I vµ

II 659 ng êi chiÕm 2%, tr×nh ®é ®¹i häc cao ®¼ng 12.422 ng êi chiÕm 50,0%, sè

gi¶ng viªn ë tr×nh ®é kh¸c 321 ng êi chiÕm 1,0%. N¨m häc 2005 - 2006 c¶ n íc

cã 48.579 gi¶ng viªn ®¹i häc - cao ®¼ng, trong ®ã gi¶ng viªn cao ®¼ng: 14.285

53

ng êi, gi¶ng viªn ®¹i häc: 34.294 ng êi. N¨m häc 2006 - 2007, tæng sè gi¶ng

viªn t¨ng lªn 53.518 ng êi. Gi¶ng viªn cao ®¼ng 15.381 ng êi, t¨ng 1,07% so víi

n¨m häc 2005 - 2006, sè l îng gi¶ng viªn lµ gi¸o s t¨ng tõ 30 lªn ®Õn 35 ng êi,

phã gi¸o s tõ 10 ng êi lªn 18 ng êi, gi¶ng vien lµ tiÕn sÜ l¹i gi¶m tõ 293 ng êi

xuèng cßn 216 ng êi, th¹c sü t¨ng tõ 3.422 ng êi lªn ®Õn 3.669 ng êi vµ tr×nh ®é

®¹i häc vµ cao ®¼ng t¨ng tõ 10.200 ng êi lªn 10.996 ng êi, tr×nh ®é chuyªn

khoa I vµ II t¨ng tõ 57 ng êi lªn ®Õn 110 ng êi, gi¶ng viªn ë tr×nh ®é kh¸c t¨ng

tõ 313 ng êi lªn 319 ng êi. Sè gi¶ng viªn ®¹i häc n¨m häc 2006 - 2007 lµ:

38.137 ng êi t¨ng 1,11% so víi n¨m häc 2005 - 2006, trong ®ã sè l îng gi¶ng

viªn tr×nh ®é phã gi¸o s t¨ng tõ 432 ng êi lªn 445 ng êi, gi¸o s t¨ng tõ 2.084

ng êi lªn 2.432 ng êi, sè gi¶ng viªn tr×nh ®é tiÕn sü gi¶m tõ 5.744 xuèng cßn

5.666 ng êi, sè l îng gi¶ng viªn cã tr×nh ®é th¹c sü t¨ng tõ 12.248 ng êi lªn

14.603 ng êi, chuyªn khoa I, II t¨ng kh«ng ®¸ng kÓ tõ 361 lªn 362 ng êi, tr×nh

®é ®¹i häc vµ cao ®¼ng t¨ng tõ 15.732 ng êi lªn 17.271 ng êi (Xem b¶ng 8).

Lùc l îng c¸n bé khoa häc cã tr×nh ®é cao ®· gãp phÇn to lín trong

nghiªn cøu khoa häc vµ ®µo t¹o, nh÷ng kÕt qu¶ nghiªn cøu khoa häc ®· gãp phÇn

vµo sù nghiÖp ®æi míi kinh tÕ x· héi, t¹o tiÒn ®Ò cho nÒn kinh tÕ tri thøc, nguån

nh©n lùc chÊt l îng cao trong qu¸ tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ.

54

2000- 2001

2001- 2002

2002- 2003

2003- 2004

2004- 2005

2005- 2006

2006- 2007

B¶ng 8: Sè gi¶ng viªn cao ®¼ng, ®¹i häc qua c¸c n¨m

32205

35938

38608

39985

47646

48579

53518

GIẢNG VIÊN

1. Cao đẳng

7843

10392

11215

11551

13677

14285

15381

- Phó giáo sư

9

11

5

4

4

10

18

- Giáo sư

4

3

20

23

33

30

35

- Tiến sĩ

109

158

190

182

246

293

216

- Thạc sĩ

1468

1960

2272

2509

3079

3422

3669

56

32

94

19

15

57

110

- Chuyên khoa I và II

6083

7987

8346

8557

9985

10200

10996

- Đại học, cao đẳng

- Trình độ khác

152

255

313

284

352

313

390

2. Đại học

24362

25546

27393

28434

33969

34294

38137

- Phó giáo sư

1131

1160

1310

1408

1838

432

445

- Giáo sư

310

303

319

302

413

2084

2432

- Tiến sĩ

4454

4812

5286

5179

5977

5744

5666

- Thạc sĩ

6596

7583

8326

9210

11460

12248

14603

569

586

540

529

507

361

362

- Chuyên khoa I và II

12422

12361

12893

13288

15613

15732

17271

- Đại học, cao đẳng

- Trình độ khác

321

204

348

228

412

209

235

Nguồn: Số liệu tổng quan về giáo dục năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào

tạo (http://www.moet.gov.vn)

Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi tích cực trên thì quy mô công suất

đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động kỹ thuật cho phát triển kinh tế -

55

xã hội trong nước, yêu cầu hội nhập quốc tế (bao gồm cả nhu cầu đào tạo nhân

lực cho xuất khẩu lao động) và nhu cầu học tập, đào tạo nâng cao trình độ nghề

nghiệp của nhân dân.

Cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và ngành nghề chưa hợp lý, chưa phù

hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng đào tạo còn thấp kém, bất cập

so với yêu cầu của thực tế và thấp kém chung so với trình độ chung của thế giới.

Trang thiết bị, phòng thí nghiệm, cơ sở thực nghiệm, công cụ giảng dạy

cũ, lạc hậu, thiếu, không đồng bộ, sử dụng kém hiệu quả. Hầu hết các cơ sở đào

tạo nhân lực chưa đạt chuẩn quốc tế và chưa được quốc tế công nhận (theo điều

tra cho thấy đối với cấp dạy nghề vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 51% số

xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm, chỉ có 20% số trường được trang bị một

số thiết bị ở mức độ công nghệ khá, còn lại mới chỉ được trang bị cho thực hành

cơ bản; chưa hình thành được các trường dạy nghề chất lượng cao).

Cơ cấu giảng viên không đồng bộ và trình độ chuyên môn còn nhiều bất

cập (năm 2007 có 30.181/ 61.321 giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ Thạc

sỹ trở lên (chiếm 49%) và mới có 30 - 40% giáo viên dạy nghề đạt chuẩn), kiến

thức nặng về lý thuyết, gắn với thực tiễn chưa sâu, chưa ngang tầm nhiệm vụ và

trình độ quốc tế. Việc hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên còn

hạn chế nên năng lực sáng tạo chưa được phát huy, chậm được cập nhật và nâng

cao kiến thức, thiếu đội ngũ giảng viên đầu đàn... [32, tr.556].

2.2.2.2. Kết quả và chất lượng giáo dục và đào tạo

Chất lượng của lực lượng lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chất lượng của lực lượng lao động về cơ bản

đã được hình thành thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo. Việc đầu tư cho giáo

dục đã làm thay đổi đáng kể chất lượng giáo dục của nước ta.

56

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm học 2003-2004 đến

năm học 2005-2006 tỷ lệ học sinh tiểu học bỏ học dao động từ 2,25%-3,33%,

đến năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh tiểu học bỏ học giảm đáng kể là 0,19%.

Tỷ lệ học sinh cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông bỏ học tính từ năm

học 2003-2004 đến năm học 2005-2006 dao động từ 6,29%-7,59%, năm học

2006-2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 2,07%.

Tính đến tháng 12/2007, tổng số học sinh cấp trung học sơ sở bỏ học trên

cả nước là 63.729 em, chiếm tỷ lệ 1,1% so với tổng học sinh của bậc này, tổng

số học sinh cấp trung học phổ thông bỏ học là 50.309 em, chiếm 1,66%. ở cấp

trung học cơ sở, tỉnh Trà Vinh là địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất

10,75% (5.450 em), tiếp theo là An Giang 7,8% (8.803 em), Kiên Giang 5,02%

(5.077 em), Tây Ninh 4,1% (2.064 em). Một số tỉnh, tỷ lệ bỏ học tương đương tỷ

lệ bình quân chung cả nước nhưng có số lượng học sinh bỏ học lớn: Nghệ An

1,56%, Đăk Lăk 2,04%, Thanh Hóa 1,06%, Hà Giang 2,42%. Cấp trung học phổ

thông có tỉnh An Giang là địa phương có tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất 19,31%

(8.600 em), tiếp theo là Tuyên Quang 11,07% (3.409 em), Đăk Lăk 9,29%

(7.398 em)...

Tỷ lệ hoàn thành cấp học tăng đối với tiểu học và trung học cơ sở. Riêng

trung học phổ thông, tuy tỷ lệ tốt nghiệp cao nhưng số được tuyển vào đại học

cao đẳng và trung học chuyên nghiệp vẫn còn thấp.

Đào tạo lao động có trình độ đại học, cao đẳng những năm qua có sự gia

tăng, năm học 2000-2001 số sinh viên tốt nghiệp là 162,5 nghìn sinh viên, năm

học 2006-2007 số lượng sinh viên tốt nghiệp là 232,5 sinh viên, tăng 1,43%. Số

học sinh tốt nghiệp hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp tăng không

đồng đều, năm 2000-2001 tốt nghiệp 72,3 nghìn học sinh, năm học 2005-2006 số

học sinh tốt nghiệp tăng lên 180,4 nghìn học sinh (tăng gấp 2,5 lần so với năm

học 2000-2001), năm học 2006-2007 số lượng học sinh tốt nghiệp là 163,5 nghìn

57

học sinh, tăng gấp 2,2 lần so với năm học 2000-2001). Tính vào thời điểm năm

2005, lực lượng lao động phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật ở trình độ cao

đẳng, đại học chiếm 5,27% tổng lực lượng lao động xã hội (tăng 0,44% so với

năm 2004), lực lượng đã qua đào tạo chiếm 24,79% (tăng 2,26% so với năm

2004), trình độ nghề và công nhân kỹ thuật chiếm 15,22% (tăng 1,85%) so với

năm 2004.

Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực,

tiến bộ. Nhiều ngành nghề đào tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế.

Giáo dục và đào tạo mang lại cơ hội lớn hơn về việc làm cho người lao

động, theo báo cáo của Tổng cục dạy nghề, hiện nay mạng lưới dạy nghề đã phát

triển rộng khắp toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và các loại hình đào tạo,

đủ khả năng đào tạo các cấp trình độ khác nhau, đa dạng hóa các loại ngành

nghề, thời gian và hình thức đào tạo, học sinh sau một năm tốt nghiệp tại các cơ

sở dạy nghề có khoảng 85% có việc làm. Xác suất để một lao động qua đào tạo

nghề tìm được việc làm, ăn lương đầy đủ khả quan hơn rất nhiều so với những

lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Với trình độ văn hóa chưa tốt nghiệp

tiểu học, xác suất để họ có được một công việc làm công ăn lương chỉ khoảng

23,5%. Trong khi với lao động qua đào tạo nghề, cơ hội kiếm việc tương đối lớn

48,2% so với lao động chưa qua đào tạo, để có việc làm chính, đủ thời gian lao

động, lao động qua đào tạo nghề có cơ hội gấp 2,5 lần so với những người tốt

nghiệp trung học phổ thông và gấp 12 lần so với người chỉ tốt nghiệp trung học

cơ sở.

Tuy nhiên, tính hiệu quả của đào tạo là chưa cao, học sinh tốt nghiệp tại

các cơ sở đào tạo nghề rất lúng túng khi bắt đầu làm việc, bắt buộc các cơ sở sử

dụng lao động phải tiếp tục đào tạo thêm. Theo đánh giá của Tổng cục dạy nghề

chỉ có 1/3 học sinh tốt nghiệp học nghề có kiến thức chuyên môn và năng lực

58

thực hành loại khá trở lên, 53% yếu về năng lực phân tích, giải quyết vấn đề,

26,5% yếu về năng lực làm việc độc lập, 58,8% trung bình về năng lực giao tiếp

xã hội. Điều tra lần theo dấu vết sinh viên đại học cho thấy có đến 60% sinh viên

tốt nghiệp đại học phải đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức trước khi có được việc

làm.

Đào tạo đại học - trung cấp chuyên nghiệp và sử dụng chưa ăn khớp, một

số đáng kể người tốt nghiệp không làm đúng ngành nghề hoặc không chịu đến

làm việc ở những nơi có nhu cầu. Số lượng danh mục ngành, nghề đào tạo còn ít,

thiếu so với yêu cầu thực tiễn. Danh mục đào tạo ở cấp đại học, cao đẳng có 129

ngành thuộc 34 nhóm ngành được ban hành từ năm 1990. Danh mục ngành đào

tạo trung cấp chuyên nghiệp có 70 ngành thuộc 25 nhóm ngành. Dạy nghề còn ít,

chỉ có hơn 226 nghề thuộc 56 nhóm nghề, trong khi đó thị trường lao động đòi

hỏi rất nhiều ngành nghề khác nhau. Mặt khác, số lượng thợ, kỹ sư thì đông,

song kỹ sư giỏi và thợ lành nghề lại ít, do vậy nhiều ngành nghề thực tế chỉ chọn

hình thức gia công. Kỹ sư của ta làm việc theo công nghệ, mẫu mã của nước

ngoài còn tự mình thiết kế sản phẩm, sáng tạo mẫu mã mới rất ít. Đây là một

thực tế kéo dài rất nhiều năm nay chưa được khắc phục. Không ít doanh nghiệp

hiện nay than phiền tìm kiếm không được người lao động do thị trường khan

hiếm nguồn nhân lực có kinh nghiệm, trình độ. Thị trường lao động hiện nay

đang khan hiếm tất cả các lao động ở các vị trí giám đốc, chuyên gia trên lĩnh

vực tài chính, ngân hàng, kỹ thuật, marketing... Đây là một câu hỏi cho việc đào

tạo nhân lực với chất lượng sản phẩm đầu ra có đáp ứng được yêu cầu của thị

trường hay không. Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ

Chí Minh, số lao động tốt nghiệp đại học chưa xin được việc làm hiện tại vào

khoảng 8.000 - 10.000 nghìn người, nhưng số sinh viên ra trường đáp ứng được

việc làm cho các doanh ghiệp chỉ chiếm khoảng 25%, số còn lại phải làm trái

ngành nghề đã học hoặc phải chờ việc.

59

Hiện nay, đào tạo nhân lực trình độ cao có một yếu điểm là chất lượng của

Luận án Tiến sỹ hầu như bị thả nổi, có khoảng 2.500 tiến sỹ trình độ yếu không

trực tiếp tham gia giảng dạy, nghiên cứu, bằng cấp chỉ là phương tiện đánh bóng

hồ sơ (số liệu theo báo cáo của Bộ Giáo dục - Đào tạo tại hội nghị tổng kết đào

tạo sau đại học - 5/1/2006). Đào tạo nhân lực ở nước ta thiếu về số lượng, yếu về

chất lượng và bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền. Lao động

phổ thông còn dư thừa lớn, song lại thiếu hụt nghiêm trọng lao động có trình độ

cao nên đã hạn chế việc tiếp thu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới, tạo nên

năng suất lao động thấp, bằng 50% của Trung Quốc, 25% của Thái Lan.

2.2.2.3. Hệ thống tổ chức quản lý đào tạo phát triển nguồn nhân lực

Hệ thống quản lý nhà nước về phát triển nhân lực hiện nay mang tính trực

tiếp và phân tán. Trên thực tế, có rất nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý

đối với cơ sở đào tạo nguồn nhân lực. Các cơ quan tham gia quản lý đào tạo

nguồn nhân lực gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương

binh và Xã hội, các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân tỉnh. Việc quản lý thực hiện

theo cơ quan chủ quản, quản lý theo lãnh thổ, quản lý theo ngành, theo thành

phần kinh tế,... Mỗi Bộ, ngành, mỗi địa phương đều có chức năng và thẩm quyền

toàn diện và riêng biệt về phát triển nguồn nhân lực thuộc phạm vi mình quản lý

mà không có một cơ quan điều phối thống nhất chung theo cấp quốc gia và vùng

lãnh thổ nào. Điều đó dẫn đến tình trạng cát cứ, chồng chéo, buông lỏng. Do đó,

hầu như không có sự phối hợp liên ngành và giữa trung ương địa phương trên

mỗi vùng lãnh thổ trong tổ chức các hoạt động đào tạo nhân lực theo một quy

hoạch chung, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự lộn xộn, mất cân đối, bất hợp

lý trong phát triển nhân lực ở nước ta hiện nay. Phương pháp quản lý chủ yếu là

phương pháp tổ chức, mệnh lệnh hành chính hơn là kinh tế. Chưa sử dụng rộng

rãi và hiệu quả các công cụ của thị trường lao động trong phát triển nhân lực, sử

dụng công nghệ thông tin còn hạn chế...

60

Trong quá trình quản lý còn thiếu sự phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản

lý với tổ chức đào tạo nhân lực và cơ sở sử dụng nhân lực. Vì vậy, việc quản lý

chưa thực hiện được vai trò định hướng và liên kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực.

2.2.2.4. Ngân sách cho giáo dục và đào tạo

Nhà nước ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và

đào tạo, huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển

giáo dục và đào tạo theo định hướng xã hội hoá. Mức chi cho giáo dục và đào tạo

tăng lên đáng kể, ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo năm

20006 là 12.677 tỷ đồng chiếm 11,63% tổng chi ngân sách nhà nước của cả nước,

năm 2002 ngân sách chi 17.844 tỷ đồng chiếm 12,04%, năm 2003 chi ngân sách cho

giáo dục tăng lên 22.881 tỷ đồng chiếm 12,63% tổng chi của cả nước, năm 2006 chi

ngân sách cho giáo dục đào tạo tăng lên đến 37.332 tỷ dồng chiếm 12,12% tổng chi

cho cả nước. [32, tr. 87].

Bảng 9: Quyết toán chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo

Năm

Ngân sách (tỷ đồng)

Cơ cấu (%)

11,63

2000

12.677

12,04

2002

17.844

12,63

2003

22.881

11,83

2004

25.343

10,89

2005

28.611

12,12

2006

37.332

Nguån: Tæng côc Thèng kª (2008), Niªn gi¸m thèng kª n¨m 2007, NXB

Thèng kª, Hµ Néi.

C¬ cÊu chi cho gi¸o dôc theo h íng t¨ng: t¨ng chi ng©n s¸ch cho c¸c bËc

häc phæ cËp, chi chotiÓu häc vµ trung häc c¬ së chiÕm 52,6% tæng chi th êng

61

xuyªn cho gi¸o dôc. Ngoµi ng©n s¸ch nhµ n íc, ChÝnh phñ ®Çu t cho gi¸o dôc

®µo t¹o b»ng nguån kinh phÝ tõ c¸c dù ¸n ODA, vµ phÇn lín ®Çu t cho gi¸o dôc

c¬ b¶n: tiÓu häc, trung häc c¬ së, trung häc phæ th«ng.

§Æc biÖt, Nhµ n íc thùc hiÖn chÝnh s¸ch c«ng b»ng trong tiÕp cËn gi¸o

dôc, nhÊt lµ ®èi víi trÎ em d©n téc Ýt ng êi vµ trÎ em c¸c vïng cã ®iÒu kiÖn kinh

tÕ - x· héi khã kh¨n. ChÝnh phñ ViÖt nam ®· thùc hiÖn mét sè chÝnh s¸ch u tiªn

cho c¸c vïng nµy; Nhµ n íc ban hµnh tiªu chÝ vÒ chÊt l îng tèi thiÓu nh»m x©y

dùng m« h×nh tr êng tiÓu häc ®¹t chuÈn chÊt l îng c¬ b¶n phï hîp víi ®iÒu kiÖn

kinh tÕ cña c¸c vïng khã kh¨m; ph¸t hµnh c«ng tr¸i gi¸o dôc ®Ó hç trî cho c¸c

tØnh miÒn nói, c¸c tØnh khoa kh¨n thùc hiÖn môc tiªu xo¸ phßng häc 3 ca vµ tranh

tre nøa vµo n¨m 2005. ChÝnh phñ ®· ký QuyÕt ®Þnh sè 07/2008/Q§-TTg ngµy

10/1/2008 vÒ Ch ¬ng tr×nh môc tiªu Quèc gia vÒ Gi¸o dôc vµ §µo t¹o ®Õn n¨m

2010, ch ¬ng tr×nh hç trî gi¸o dôc vµ ®µo t¹o cho c¸c tØnh miÒn nói, vïng s©u,

vïng xa vµ c¸c vïng ®Æc biÖt khã kh¨n víi tæng kinh phÝ 3.000 tû ®ång nh»m

hoµn thiÖn c¬ së vËt chÊt cho 48 tr êng phæ th«ng d©n téc néi tró theo h íng

chuÈn ho¸. Hç trî x©y dùng nhµ ë, bÕp vµ c¸c trang thiÕt bÞ thiÕt yÕu cho ®êi

sèng néi tró cña gÇn 900 tr êng phæ th«ng d©n téc néi tró nh»m t¹o thªm ®iÒu

kiÖn cho gi¸o dôc phæ cËp bËc tiÓu häc vµ trung cÊp c¬ së.

2.2.3. Thu nhËp vµ møc sèng

§êi sèng vËt chÊt vµ tinh thÇn cña phÇn lín d©n c cña n íc ta ®· cã sù

thay ®æi vµ tiÕn bé râ rÖt. Thu nhËp cña c¸c tÇng líp d©n c tiÕp tôc ® îc c¶i

thiÖn so víi c¸c n¨m tr íc. ViÖt Nam ®¹t tèc ®é t¨ng tr ëng GDP cao vµ t ¬ng

®èi æn ®Þnh, ®ã lµ yÕu tè quan träng ®Ó n©ng cao thu nhËp vµ møc sèng cña nh©n

d©n. Tèc ®é t¨ng tr ëng GDP trong nh÷ng n¨m gÇn ®©y lµ: n¨m 2000 ®¹t 6,79%,

n¨m 2001 ®¹t 6,89%, n¨m 2002 ®¹t 7,08%, n¨m 2003 ®¹t 7,26%, n¨m 2004:

7,7%, n¨m 2005: 8,44%, n¨m 2006: 8,23% vµ n¨m 2007: 8,48%, n¨m 2008:

6,23%. TÝnh chung trªn ph¹m vi c¶ n íc, thu nhËp b×nh qu©n ®Çu ng êi mét

th¸ng n¨m 2001-2002 theo gi¸ thùc tÕ ®¹t 356,1 ngh×n ®ång t¨ng 21% so víi n¨m

62

1999, khu vùc n«ng th«n ®¹t 275 ngh×n ®ång, t¨ng 22,2%, năm 2004 thu nhập

bình quân đầu người đạt 484,4 nghìn đồng, tăng 13,6%, năm 2006 thu nhập bình

quân 1 người 1 tháng đạt 636 nghìn đồng, tăng 31,4% so với năm 2004. Trong

thời kỳ 2004-2006 thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành tăng

bình quân 14,6%, thấp hơn mức tăng 16,6% mỗi năm của thời kỳ 2002-2004.

Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế thời kỳ 2004-2006 tăng 6,2%,

thấp hơn mức tăng thu nhập thực tế 10,7% của thời kỳ 2002-2004. Thu nhập của

năm 2006 tăng là do tháng 10/2005 Nhà nước tăng mức lương tối thiểu, kéo theo

tiền công thuê ngoài xã hội cũng tăng; đồng thời sản xuất thời kỳ này tiếp tục

tăng: sản lượng cây trồng, đặc biệt sản lượng lúa tăng; giá nông sản, thuỷ sản

như thóc, cà phê, cao su, điều, lợn hơi, tôm, cá đều tăng so với 2004. Tốc độ tăng

thu nhập thời kỳ 2004-2006 không bằng thời kỳ 2002-2004 do tốc độ tăng thu nhập

từ sản xuất nông nghiệp và sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp giảm.

Năm 2006, thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đều tăng. Thu nhập

bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 1.058 nghìn đồng, tăng 29,8%;

khu vực nông thôn đạt 506 nghìn đồng, tăng 33,8% so với năm 2004 và tăng

nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn

cao hơn nông thôn. Chênh lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 1999;

2002; 2004, 2006 của khu vực thành thị so với khu vực nông thôn tương ứng các

năm là: 2,30; 2,26 ; 2,14 và 2,09 lần và có xu hướng thu hẹp dần.

Năm 2006, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của nhóm hộ nghèo nhất

(nhóm 1) đạt 184 nghìn đồng, tăng 29,9%, của nhóm hộ giàu nhất (nhóm 5) đạt

1.542 nghìn đồng, tăng 30,4% so với năm 2004. Mức chênh lệch thu nhập bình

quân 1 người 1 tháng giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 8,37 lần, tăng nhẹ so với năm 2004

Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2006 theo giá hiện hành của các

vùng đều tăng khá cao so với năm 2004. Ba vùng có tốc độ tăng nhanh nhất là

Đông Bắc Bộ tăng 34,6%, Tây Bắc Bộ tăng 40,2%, Tây Nguyên tăng 33,9% là do

63

giá cà phê và một số hàng nông sản tăng khá so năm 2004 và do tác động của các

chính sách của Nhà nước đối với vùng Tây Nguyên, đặc biệt việc giải quyết đất

sản xuất cho đồng bào dân tộc tại chỗ, Nhà nước cấp nhà ở, cấp vật liệu làm nhà,

bao cấp về y tế, giáo dục và do tác động của chính sách phát triển kinh tế - xã hội

ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, thu nhập giữa các vùng

còn có sự chênh lệch. Vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông

Nam Bộ, cao gấp 2,86 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là

vùng Tây Bắc Bộ (năm 2004 con số này là 2,63 lần).

Bảng 10: Thu nhập bình quân đầu người một tháng

và chênh lệch theo giá thực tế

1999

2002

2004

2006

I. Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng (nghìn đồng)

295,0

356,1

484,4

636

Phân theo thành thị/nông thôn

- Thành thị

516,7

622,1

815,4

1.058

- Nông thôn

225,0

275,1

378,1

506

Phân theo vùng

- Đông Bắc Bộ

210

268,8

379,9

511

- Tây Bắc Bộ

197

265,7

373

- Bắc Trung Bộ

212,4

235,4

317,1

418

- Tây Nguyên

344,7

244,0

390,2

522

- Đông Nam Bộ

527,8

619,7

833,0

1.065

Phân theo 5 nhóm thu nhập (mỗi nhóm bằng 20% tổng số người)

- Nhóm 1 (thấp nhất)

97,0

107,7

141,8

184

- Nhóm 2 (dưới trung bình)

181,4

178,3

240,7

319

- Nhóm 3 (trung bình)

257,0

251,0

347,0

459

- Nhóm 4 (khá)

346,7

370,5

514,2

679

- Nhóm 5 (cao nhất)

741,6

872,9

1.542

II. Chênh lệch (lần)

- Thành thị/nông thôn

2,30

2,26

2,16

2,09

64

- Vùng cao nhất/vùng thấp nhất

2,51

3,15

3,14

2,86

- Nhóm thu nhập cao nhất, nhóm thấp nhất

7,65

8,1

8,34

8,40

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Kết quả

điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.

Do thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng khá, đời sống các tầng lớp

dân cư ở các vùng, đặc biệt tầng lớp nghèo tiếp tục được cải thiện nên số hộ nghèo

tiếp tục giảm. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2006 tính theo chuẩn nghèo mới của

Chính phủ (200 ngàn đồng cho khu vực nông thôn và 260 ngàn đồng cho khu vực

thành thị) là 15,5%; con số này của năm 2004 là 18,1%. Tỷ lệ hộ nghèo của thành

thị, nông thôn và các vùng năm 2006 đều giảm so với năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là 13,5%.

Không những mức sống của dân cư khu vực thành thị được nâng lên mà

mức sống của dân cư khu vực nông thôn cũng tăng lên rõ rệt. Ví dụ năm 2006

mức sống tại khu vực nông thôn được cải thiện trước tiên là do những thay đổi

về thu nhập từ nông nghiệp. Những thay đổi thu nhập từ hoạt động kinh doanh phi

nông nghiệp của từng hộ gia đình, nguồn thu từ hoạt động thương nghiệp và thu từ

hoạt động dịch vụ. Cơ hội việc làm phi nông nghiệp cho người dân tại các địa phương ngày càng nhiều, thúc đẩy giải quyết công ăn việc làm.

Cùng với thu nhập là mức chi tiêu cho đời sống người dân thay đổi nhanh

chóng, bình quân đầu người 1 tháng khu vực nông thôn đạt 359 nghìn đồng, năm

2006 tăng 27% so với năm 2004; khu vực thành thị đạt 738 nghìn đồng, tăng

24% so năm 2004. Mức chi tiêu cho đời sống khu vực thành thị gấp 2,06 lần khu

vực nông thôn (thời kỳ 2002-2004 là 2,1 lần). So năm 2004 chi tiêu cho đời sống

của nhóm hộ nghèo nhất tăng 26,3% (thấp hơn mức tăng 30,1% của thời kỳ

2002-2004); nhóm hộ giàu nhất tăng 28,3% (thời kỳ 2002-2004 là 30,4%). Chi

tiêu đời sống của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 4,54 lần nhóm hộ nghèo nhất (hệ số này năm 2004 và 2002 đều là 4,45 lần) [16, tr.32] [30][31][32]

Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch tiếp tục tăng. Hầu hết các loại đồ dùng lâu

bền hiện có của các hộ đều tăng ở cả khu vực thành thị, nông thôn, các vùng và

65

các nhóm thu nhập. Tuy nhiên số hộ có đồ dùng lâu bền ở thành thị vẫn cao hơn

nhiều so với hộ ở nông thôn, ví dụ có 72% số hộ thành thị có xe máy trong khi chỉ

có 46% số hộ nông thôn có xe máy; tương ứng 67% và 21% đối với điện thoại;

53% và 11% đối với tủ lạnh; 92% và 73% đối với máy thu hình; 20% và 3% đối

với máy vi tính [16, tr.34].

Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh, theo tiêu chuẩn quốc gia, thì

tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống 12% năm 2003. Còn theo

chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm

2002. Đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo còn 7% theo tiêu chuẩn của Việt nam

giai đoạn 2001-2005, vậy Việt Nam được xem là nước xoá đói giảm nghèo thành

công so với cộng đồng quốc tế. Tháng 1 năm 2006, Việt Nam áp dụng chuẩn

nghèo mới, tỷ lệ hộ nghèo tăng từ 7% đến 22% (cả nước sẽ có khoảng 4 triệu hộ

nghèo). áp dụng theo chuẩn mới năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước là

18,1%, trong đó khu vực thành thị là 8,6%, khu vực nông thôn là 21,2%. Năm

2006 tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước giảm xuống 15,5%, trong đó khu vực thành thị giảm xuống 7,7%, khu vực nông thôn giảm xuống 17% [16], [34, tr.78].

Bảng 11: Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004 và năm 2006 theo chuẩn mới

2004

2006

của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 quy về giá tháng 1/2004

Chung cả nước

18,1

15,5

Thành thị - Nông thôn

Thành thị

8,6

7,7

Nông thôn

21,2

17

Vùng

Đồng bằng sông Hồng

12,9

10,1

Đông Bắc

23,2

22,2

Tây Bắc

46,1

39,4

Bắc Trung Bộ

29,4

26,6

Nam Trung Bộ

21,3

17,2

Tây Nguyên

29,2

24,0

66

Đông Nam Bộ

6,1

4,6

Đồng bằng sông Cửu Long

15,3

13,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình

năm 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội.

Do tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng cao và thực hiện khá đồng bộ, công tác

xoá đói giảm nghèo đã đạt được hiệu quả nhất định, năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo

giảm xuống còn 14,8%, năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 13,5%. Tỷ lệ hộ

nghèo năm 2008 tuy giảm nhưng không đáng kể, không đạt được mục tiêu 12%

như đầu năm đặt ra do ảnh hưởng của biến động giá cả và ảnh hưởng của bệnh dịch, thiên tai và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Có thể nói mức thu nhập và đời sống của nhân dân tăng là một dấu hiệu

đáng mừng cho nền kinh tế, xét ở một khía cạnh khách quan thì xu hướng toàn cầu

hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Tuy nhiên

bên cạnh những dấu hiệu tích cực là các hiệu ứng, thách thức phải đối mặt, đó là

lạm phát, suy thoái kinh tế toàn cầu… sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển nền

kinh tế trong nước và khu vực buộc Chính phủ phải đưa ra những đối sách quyết liệt để đảm bảo ổn định nền kinh tế hài hoà, bền vững.

2.2.4. Sức khoẻ và dinh dưỡng

Người Việt Nam nhìn chung có thể lực kém, thể hiện qua các chỉ số về

cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Người thiếu cân nặng và người lớn suy

dinh dưỡng chiếm tỷ lệ khoảng gần 50%, rất ảnh hưởng đến năng suất lao động và tuổi thọ của mỗi người.

Cũng xuất phát từ thể trạng yếu nên chúng ta xem lại chế độ dinh dưỡng

và chăm sóc sức khoẻ của người dân những năm qua như thế nào. Nước ta là

một nước còn nghèo nên tỷ trọng này còn cao, nhưng đã có xu hướng giảm rõ

rệt: Chi ăn uống trong chi tiêu đời sống từ 57% năm 2002, năm 2004 xuống đến

53,5% và năm 2006 chỉ là 52,8%. Tỷ trọng này năm 2006 của khu vực thành thị, nông thôn và hầu hết các nhóm thu nhập đều thấp hơn năm 2004. Tình hình bữa

ăn thiếu thốn và kém chất lượng kéo dài ảnh hưởng đến dinh dưỡng chúng và sự

67

phát triển của con người. Do tình trạng ăn uống nên phụ nữ có thai thiếu máu, trẻ

em sinh ra thiếu cân, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi. Tình trạng này

hiện còn đang tác động đến sự phát triển về thể lực, trí lực của nguồn nhân lực trong thời kỳ đất nước ta thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Về y tế và chăm sóc sức khoẻ cũng có những dấu hiệu đáng mừng. Năm 2000, cả nước có 835 bệnh viện với 192 nghìn giường bệnh, bình quân 24,7 giường bệnh/1 vạn dân. Số bệnh viện năm 2005 là 878 (tăng 1,05% so với năm 2000), 197,2 nghìn giường bệnh, bình quân 23,7 giường bệnh/1 vạn dân, năm 2007 số bệnh viện lên đến con số 956 bệnh viện với số giường bệnh là 210,8 nghìn giường, bình quân 24,8 giường bệnh/1 vạn dân. Ngành y tế đã thiết lập được mạng lưới y tế xã, phường rộng khắp từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng đến vùng cao, hải đảo. Năm 2000 cả nước có 10.271 trạm y tế, năm 2005 tăng lên 10.613 trạm y tế và đến năm 2007 là 10.851 trạm y tế xã, phường, thị trấn.

Số lượng bác sĩ, y tá phục vụ khám, chữa bệnh ngày càng được nhân rộng và có chất lượng hơn. Năm 2007 so với năm 2000, số lượng bác sỹ tăng 1,4%, y tá tăng 1,31%, nữ hộ sinh tăng 1,46 %. [32], [16].

Bảng 12: Cơ sở khám, chữa bệnh nhân dân qua các năm

2000

2005

2006

2007

I. Số cơ sở khám, chữa bệnh (công lập)

13.117

13.243 13.232 13.438

- Bệnh viện

878

903

956

835

- Phòng khám đa khoa, khu vực

880

847

829

935

- Trạm y tế xã, phường, thị trấn

10.271

10.613 10.672 10.851

2. Số giường bệnh (nghìn người)

197,2

198,4

210,8

192

- Bình quân 1 vạn dân (giường)

23,7

23,6

24,8

24,7

3. Số cán bộ y tế

- Bác sĩ

51,5

52,8

54,8

39,2

- Y tá

51,6

55,4

60,3

50,8

- Nữ hộ sinh

18,1

19,0

20,8

14,2

68

Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007: Kết quả

điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội.

Tỷ lệ khám/chữa bệnh của thành viên hộ gia đình tăng, trong đó tỷ lệ

khám/chữa bệnh ngoại trú tăng nhưng tỷ lệ khám chữa bệnh nội trú giảm nhẹ.

Nhóm hộ giàu nhất có tỷ lệ lượt người khám chữa bệnh cao hơn nhóm hộ nghèo

nhất (36% so với 34%).

Tuy nhiên, so với người dân thành thị thì người dân nông thôn có ít hơn cơ

hội được khám chữa bệnh tại các bệnh viện nhà nước. Năm 2006 chỉ có 74%

lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại các bệnh viện nhà

nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 89%. Thay vào đó họ đã đến điều

trị nội trú tại các trạm y tế xã. Nhóm hộ giàu nhất có tỷ lệ khám chữa bệnh nội

trú tại các bệnh viện nhà nước cao hơn nhóm hộ nghèo nhất. Chênh lệch này còn cao hơn đối với khám chữa bệnh ngoại trú.

Theo kết quả kết quả khảo sát mức sống năm 2006, đã có trên 50% số

người có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí khi đi khám,

chữa bệnh, tăng đáng kể so 2004, kể cả ở nông thôn. Đặc biệt đã có 71% số

người thuộc nhóm hộ nghèo nhất có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa

bệnh miễn phí trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ có 61%. Những vùng nghèo nhất

như Tây Bắc và Tây Nguyên, những nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ này cao nhất cả nước.

Chi phí cho điều trị nội trú và ngoại trú năm 2006 đều tăng hơn so với năm 2004. Chi phí điều trị nội trú và ngoại trú bình quân 1 người khám chữa bệnh của các hộ ở khu vực thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn và ở nhóm hộ giàu cao hơn gấp nhiều lần so với nhóm hộ nghèo.[16, tr.26-27].

Sự cải thiện về dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ và y tế đã dẫn tới tăng tuổi

thọ bình quân của người dân Việt Nam. Nếu năm 1997, tuổi thọ bình quân của

người Việt Nam là 67,4 tuổi (cũng trong năm này, tuổi thọ bình quân ở các nước

đang phát triển nói chung là 64,4 tuổi, các nước chậm phát triển nhất là 51,7 tuổi,

69

vùng Nam Sahara Châu Phi là 48,9 tuổi), thì năm 2005 tuổi thọ của Việt Nam là 71,5 tuổi, năm 2008 là 72 tuổi.

70

Loại Bảo hiểm y tế

Khi nhận thẻ BHYT số tháng còn sử dụng

Tỷ lệ người được hưởng dẫn sử dụng BHYT

Chung (%)

Bắt buộc(%)

Ngời nghèo (%)

Tự nguyện khác (%)

Loại khác/ (%)

BHYT bắt buộc (Số tháng)

BHYT tự nguyện

Đối tượng chính sách (%)

Tự nguyện học sinh (%)

BHYT bắt buộc (%)

BHYT tự nguyện (%)

Bảng 13: Tỷ lệ người có bảo hiểm y tế phân theo thành thị, nông thôn, vùng của hộ và loại bảo hiểm y tế

Cả n íc

82.6

13.7

28.3

53.2

3.8

71.8

23.8

22.3

86.7

84.6

9.9

Thành thị - Nông thôn

Thành thị

57.2

3.0

92.5

32.7

67.4

11.0

16.9

80.9

79.8

9.7

4.6

Nông thôn

51.7

4.1

78.6

26.5

73.6

28.9

24.9

88.7

87.1

10.0

17.4

Vùng

Đồng bằng sông Hồng

49.5

5.5

86.6

34.4

65.6

12.9

19.9

87.4

85.7

9.8

7.9

Đông Bắc

66.4

3.4

80.4

19.4

80.7

33.8

22.7

86.6

85.9

10.3

16.2

Tây Bắc

81.7

2.6

87.2

5.6

94.4

67.5

55.8

87.4

82.1

10.8

10.2

Bắc Trung Bộ

58.6

4.9

80.0

28.0

72.1

29.7

28.6

85.9

84.4

9.7

15.2

Duyên hải Nam Trung Bộ

58.2

3.0

83.0

36.1

64.1

18.7

18.3

84.4

81.6

10.1

14.1

Tây Nguyên

65.6

1.9

68.0

20.7

79.3

29.8

28.4

85.1

82.4

9.5

30.2

Đông Nam Bộ

47.2

2.8

89.2

33.8

66.4

10.2

13.4

85.2

81.8

9.6

8.1

Đồng bằng sông Cửu Long

40.5

3.3

81.1

29.9

70.1

21.7

21.0

10.2

90.1

88.2

15.5

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình 2006, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2007.

71

2.2.5. Vấn đề việc làm

Hiện nay, nước ta có khoảng 75% lao động làm việc ở nông thôn, khoảng

53% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp. Trong quá trình đổi mới avf

hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giải quyết việc làm của Việt Nam đã đạt được

những thành tựu đáng kể. Trong 5 năm (1986-1990) nước ta có thêm 4,2 triệu

lao động tìm được việc làm mới. Giai đoạn năm 1996-2001 có thêm 6,1 triệu lao

động được thu hút vào làm việc. Giai đoạn 2001-2005 số lao động có việc làm

tăng lên 7,54 triệu, tăng 23,6% so với giai đoạn 1996-2000, năm 2006 tạo được

1,65 triệu lao động có việc làm, năm 2007 là 1,68 triệu [33, tr.78].

Mặc dù vậy, do dân số tăng nhanh và sự khan hiếm các nguồn lực cho thu

hút lao động cùng một số nguyên nhân khác nên tình trạng thất nghiệp và thiếu

việc làm ở nước ta trong những năm qua còn đang tồn tại ở mức độ cao.

Bảng 14: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi theo khu vực thành thị (%)

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Chung cả nước

6,42

6,30

6,01

5,78

5,60

5,31

4,82

4,64

Đồng bằng Sông Hồng

6,64

6,38

6,03

5,60

6,42

5,74

7,34

7,1

Đông Bắc

6,10

5,93

5,45

5,12

4,32

3,97

6,49

6,7

Tây Bắc

5,11

5,19

5,30

4,91

3,89

3,42

6,02

5,6

Bắc Trung Bộ

5,82

5,45

5,35

4,98

5,50

4,92

6,87

6,7

Duyên hải Nam trung Bộ

5,50

5,46

5,70

5,52

5,36

4,99

6,31

6,2

Tây Nguyên

4,90

4,39

5,43

4,23

2,38

2,11

5,16

5,6

Đông Nam Bộ

6,30

6,08

5,92

5,62

5,47

4,83

6,16

5,9

Đồng bằng Sông Cửu Long

6,15

5,50

5,26

5,03

4,87

4,52

4,03

6,1

Nguồn: Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007, NXB

Thống kê, Hà Nội.

72

Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước ở khu vực thành thị năm 2000 ở mức

6,42%, giảm xuống còn 6,3% năm 2001, năm 2002 ở mức 6,01%, đến năm 2007

giảm xuống còn 4,64%. Nổi bật nhất là sự sụt giảm ở khu vực Đồng bằng sông

Hồng. Tỷ lệ thất nghiệp ở đây cao hơn hẳn các vùng miền khác trong cả nước,

với 7,34%, năm 2000, con số này giảm mạnh nhất, xuống chỉ còn 5,6% năm

2005, tương đương với tỷ lệ ở Đông Nam Bộ, nhưng đến năm 2007 lại tăng nhẹ

lên 5,74% [32].

Tuy nhiên, 5,74% vẫn là tỷ lệ cao nhất nước hiện nay. Do đó, tiếp tục tạo

thêm nhiều việc làm mới vẫn là nhiệm vụ bức thiết của chính quyền các địa

phương ở khu vực này trong năm 2007. Nhiệm vụ này hết sức quan trọng ở vùng

kinh tế trọng điểm còn lại là khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, khi tỷ lệ thất

nghiệp vẫn còn tới 4,99%, đã giảm so với con số năm 2006 là 5,36%. Ở chiều

ngược lại, tuy chỉ giảm nhẹ, song tỷ lệ thất nghiệp ở Tây Nguyên vẫn nằm mức

thấp nhất nước, với chỉ 2,11%. Nằm trong nhóm có tỷ lệ thất nghiệp thấp hiện

nay còn phải kể đến khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Bắc, ở mức

3,42% và 3,97%.

Ở các khu vực còn lại, tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị cũng đều giảm so với

năm trước, Bắc Trung bộ chỉ còn 4,920%, Tây Bắc 4,03% [32].

Tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng ở khu vực nông thôn vẫn còn

cao. Năm 2000 là 25,8%, năm 2001 là 25,7%, năm 2002: 24,7%, năm 2003:

22,8%, năm 2004: 79,4%, năm 2005: 19,4%, năm 2006: 16,3% [32] [31].

Một vấn đề nan giải của lực lượng lao động đi xuất khẩu lao động chủ yếu

là phổ thông chưa qua đào tạo, do vậy nâng cao chất lượng lao động cho công

tác xuất khẩu là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn tới. Công tác quản lý lao động

xuất khẩu tại nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn là lao động bỏ trốn tại nước

ngoài đã gây ảnh hưởng lớn đến hợp tác quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia, ảnh

73

hưởng đến an ninh, chính trị của quốc gia xuất khẩu lao động và quốc gia nhập

khẩu lao động.

2.3. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực và tác động

của nó đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Nhìn lại sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa, nước ta đã đạt những thành

tựu to lớn trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng

nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những thành tựu đạt được thể

hiện ở một số mặt sau:

- Thứ nhất, chỉ số phát triển con người của Việt Nam được cải thiện đáng

kể, năm 2001 chỉ số HDI là 0,682 và xếp hạng 101/173 quốc gia, năm 2003 là

0,704 (108/177), năm 2004 là 0,709 (109/177), năm 2005 là 0,733 (105/177).

- Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng được nâng

cao theo hướng đáp ứng tốt hơn những yêu cầu phức tạp của công việc. So với

khả năng đáp ứng công việc của nguồn nhân lực Việt nam những năm 80, 90 thì

lực lượng lao động hiện nay đã có chuyển biến rất tích cực, tính kỷ luật trong

công việc, tinh thần trách nhiệm, tính chuyên nghiệp và hiệu quả công việc đã

được khẳng định. Từ giới lãnh đạo Đảng, nhà nước và cán bộ công chức đã biết

áp dụng công nghệ thông tin trong lãnh đạo và điều hành công việc, tiếp cận tri

thức mới và sử dụng thành tựu của khoa học công nghệ cao trong các ngành

công, nông, y tế... Một thành quả đáng chú ý là sau 10 năm đưa mạng internet

vào Việt Nam, đã có hơn 20% người dân đã biết sử dụng và khai thác mạng tri

thức toàn cầu này để phục vụ công việc và đời sống. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều

so với những nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam.

- Thứ ba, cơ cấu của nền kinh tế có những bước tiến bộ rõ rệt, năm 2008

tỷ trọng công nghiệp đạt trên 39%, dịch vụ trên 38% và nông lâm ngư nghiệp

74

trên 21%, cơ cấu lao động có chuyển biến tích cực (lao động trong nhóm ngành

nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm tưg 73,0% năm 1990 xuống còn 52,5% năm

2008), tạo thêm được hơn 1 triệu công ăn việc làm mỗi năm, đời sống nhân dân

không ngừng được cải thiện (tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18,1% năm 2004 xuống còn

13,5% năm 2008, tuổi thọ trung bình tăng lên), từng bước tạo ra được một nền

kinh tế mở, năng động, có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra trong nền

kinh tế thế giới.

- Thứ tư, là các thế mạnh về nguồn nhân lực của Việt Nam được củng cố

và khai thác tốt hơn. Hiện nay, chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ lao

động trẻ cao trong tổng lực lượng lao động đã được khai thác là một lợi thế của

nguồn nhân lực Việt Nam, vì bên cạnh ưu thế về thể chất, lao động trẻ là đội ngũ

có học thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, dễ tiếp thu các kỹ năng và kiến

thức mới. Số lượng nhân lực qua đào tạo ở Việt Nam ngày càng tăng qua các

năm. Sự gia tăng này là kết quả đáng ghi nhận trong quá trình phát triền nguồn

nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong giai đoạn 2004-2008 có sự xuất hiện về

nguồn nhân lực trong những ngành nghề mới và theo hướng tiếp cận hiện đại

như: ngành chứng khoán, ngành công nghệ thông tin, ngành công nghệ sinh học,

ngành công nghệ vũ trụ... Bên cạnh, đội ngũ nhân lực được đào tạo theo phương

pháp đào tạo hiện đại của thế giới ngày càng nhiều ở Việt Nam, bằng các hình

thức du học, du học tại chỗ... có khả năng cạnh cao với nhân lực các quốc gia

trong khu vực và thế giới.

Nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể về thể lực, trí lực và tâm lực, đã

trở thành yếu tố quyết định sự thành công của quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế:

- Nguồn nhân lực với chất lượng được nâng cao đáng kể (kể cả nguồn

nhân lực quản lý và nguồn nhân lực sản xuất, kinh doanh) đã góp phần to lớn

vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm trên

75

thị trường trong nước và quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên

trong những năm gần đây, năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,5 tỷ USD, năm

2000 đạt 14,14 tỷ USD, năm 2001: 15,029 tỷ USD, năm 2002: 16,70 tỷ USD,

năm 2003: 20,19 tỷ USD, năm 2004: 26,48 tỷ USD, năm 2005: 32,44 tỷ USD,

năm 2006: 39,82 tỷ USD, năm 2007: 48,56 tỷ USD, năm 2008: 62,9 tỷ USD

[32].

- Quá trình phát triển nguồn nhân lực đã tạo ra được đội ngũ các nhà quản

lý vĩ mô cũng như vi mô, quản lý nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp, dần

thích ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Đội ngũ cán bộ làm việc

trong các tổ chức, định chế kinh tế khu vực và quốc tế mà Việt Nam có tham gia,

đội ngũ các nhà doanh nghiệp, đội ngũ các nhà khoa học, các kỹ sư, các công

nhân lành nghề, những người dân sản xuất hàng hoá... là động lực chính thúc đẩy

và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế cảu Việt Nam.

- Những tiến bộ đạt được trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

cho tới nay là điều kiện tiền đề, quyết định sự thành công trong hội nhập kinh tế

quốc tế trong dài hạn. Bởi lẽ những cải thiện đáng kể về sức khoẻ và dinh dưỡng

đối với bà mẹ và trẻ em, những thành tựu đã đạt được trong giáo dục từ mầm

non đến tiểu học và các cấp cao hơn không chỉ về trình độ học vấn, năng lực

chuyên môn mà cả về phẩm chât nhân văn, đạo đức, lối sống mới, tác phong

công nghiệp, ý thức cộng đồng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Những thành tựu nêu trên trong quá trình phát triển nguồn nhân lực ở Việt

Nam là rất to lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là thành tựu đạt được so với chính bản thân

lực lượng lao động so với thời gian trước đây. Nếu so với nhu cầu phát triển kinh

tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là so với trình độ của nguồn

nhân lực các nước trong khu vực và thế giới, nguồn nhân lực nước ta còn rất

nhiều hạn chế và bất cập.

76

2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực

- Về cơ cấu kin tế còn rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các nước

phát triển. Do quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh trên thế giới, sự phân công lao

động quốc tế dần hình thành và có những diễn biến bất lợi cho các nước đang

phát triển như nước ta. Hiện nay, xu hướng phát triển nhanh của nền kinh tế tri

thức, nền kinh tế có cơ cấu dịch vụ và công nghiệp với công nghệ kỹ thuật cao

đang là ưu thế của các nước phát triển. Các nước đang phát triển, trong đó có

Việt Nam có nguy cơ phải tiếp quản các ngành sản xuất vật chất mang tính

truyền thống và kém phát triển như nông nghiệp, công nghiệp dệt may, thuộc

da... Các ngành này có đầu vào phải sử dụng nhiều lao động phổ thông giá rẻ, sử

dụng tài nguyên một cách cạn kiệt (những ngành thâm dụng tài nguyên), trong

quá trình sản xuất dễ gây ô nhiễm môi trường, nhưng sản phẩm đầu ra có hàm

lượng kỹ thuật và giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông

nghiệp còn rất cao (hơn 52%).

- Nhìn chung lao động Việt Nam hạn chế cả về thể lực và trí lực, phần lớn

là lao động thủ công. Lực lượng lao động kế thừa từ nền kinh tế kế hoạch hoá

bao cấp còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, tính kỷ luật chưa cao, chậm

thay đổi với môi trường sản xuất mới, tỷ lệ lao động dư thừa từ nông thôn

chuyển dịch ra thành phố tăng nhanh trong khi chưa có sự chuẩn bị về chuyên

môn và tác phong công nghiệp.

- Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị

và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, đang là một vấn đề nổi cộm nhất

của xã hội, đã xuất hiện hình thái thất nghiệp chính thức của một bộ phận không

nhỏ lao động nông nghiệp bị thu hồi đất cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bất

bình đẳng về thu nhập, phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các

vùng ở mức cao và có xu hướng gia tăng, kết quả xoá đói giảm nghèo thiếu vững

77

chắc, môi trường bị ô nhiễm nặng nề ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của nhân

dân.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, chất lượng lao động qua đào tạo không

đáp ứng tốt yêu cầu công việc mang tính chuyên nghiệp cao. Tỷ lệ lao động qua

đào tạo còn ít so với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã gây lên

tình trạng khan hiếm lao động ở một số bộ phận và một số ngành kinh tế như:

nhân lực cao cấp trong các doanh nghiệp, nhân lực tài chính - ngân hàng, nhân

lực công nghệ thông tin, công nhân lành nghề.

Bên cạnh sự thiếu hụt về số lượng lao động qua đào tạo, thì chất lượng lao

động qua đào tạo mới là nguyên nhân chính làm giảm khả năng cạnh tranh của

nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế này

không chỉ tồn tại trong ngành công nghệ thông tin mà còn tồn tại trong rất nhiều

ngành nghề khác. Nhìn chung, tính không chuyên nghiệp của nguồn nhân lực

Việt Nam trong bối cảnh hội nhập thể hiện ở sự thiếu kiến thức chuyên ngành,

thiếu kinh nghiệm thực hành, yếu về ngoại ngữ, thiếu khả năng làm việc nhóm,

thiếu khả năng làm việc độc lập... Như vậy, xét cả về quy mô và chất lượng,

nguồn nhân lực qua đào tạo của nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức

to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào thế giới.

Như vậy, xét cả về quy mô và chất lượng, nguồn nhân lực của nước ta vẫn

đang đứng trước những thách thức to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào nền

kinh tế toàn cầu hoá.

Nguyên nhân của những hạn chế và bất cập về phát triển nguồn nhân lực

trong thời gian qua tập trung ở một số vấn đề sau:

- Việt Nam tiến hành đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế từ một

nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp, vì thế qua thời gian dài đổi mới và

mở cửa, tàn dư của cơ chế cũ vẫn tồn tại, trong đó có nhận thức về vai trò của

nguồn nhân lực, có tư tưởng ỷ lại vào nhà nước của không ít người lao động và

78

cán bộ quản lý trong phát triển nguồn nhân lực. Tư duy của cơ chế cũ cũng thể

hiện ở không ít chính sách về phát triển kinh tế nói chung, phát triển nguồn nhân

lực nói riêng.

- Việt Nam tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện nền kinh tế

về cơ bản là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mặt khác dân số tiếp

tục gia tăng. Vì vậy, đầu tư các nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực gặp rất

nhiều khó khăn.

- Sự hạn chế, bất cập trong hoạch định và thực thi một số chính sách đã

làm hạn chế hiệu quả của phát triển nguồn nhân lực: Chính sách đầu tư cho giáo

dục và đào tạo, những bất cập trong cải cách giáo dục; chính sách phát triển nông

nghiệp, nông thôn; chính sách giải quyết việc làm; chính sách đối với nông dân

bị thu hồi đất cho công nghiệp hoá, đô thị hoá; sai lệch trong thực hiện chủ

trương xã hội hoá giáo dục, y tế; chính sách phát triển các loại thị trường, trong

đó có thị trường sức lao động, chính sách tiền lương...

- Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, về phát triển kinh tế - xã hội nói

chung, phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói

riêng trong cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế.

79

Chương 3

QUAN ĐIỂM ĐINH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI

3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực

của Việt Nam

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức trên

phạm vi toàn cầu: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đưa nền kinh

tế dựa chủ yếu vào tài nguyên, lao động và máy móc chuyển mạnh sang kinh tế

dựa vào trí tuệ con người là chính dẫn đến hình thành nền kinh tế tri thức. Tri

thức trở thành yếu tố quyết định lực lượng sản xuất, là nguồn lực hàng đầu tạo

nên sự tăng trưởng và đem lại giá trị gia tăng nhiều nhất. Các lĩnh vực mũi nhọn

của khoa học - công nghệ thế giới tập trung vào tự động hoá, công nghệ thông

tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và năng lượng mới, công nghệ

hàng không vũ trụ, công nghệ đại dương, công nghệ nanô. Tốc độ đổi mới sản

phẩm rất nhanh. Hàm lượng khoa học, công nghệ trong các sản phẩm dịch vụ

chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng. Nền kinh tế tri thức phát triển và lan rộng

trên toàn thế giới. Trong nền kinh tế tri thức, những yêu cầu về nhân lực cũng

80

thay đổi. Về mục tiêu chính sách, thu nhập và tiền lương cao sẽ thay thế cho toàn

dụng lao động; về kỹ năng, kỹ năng rộng và đa ngành sẽ thay thế cho kỹ năng

riêng, đặc thù của từng công việc; về yêu cầu đối với giáo dục đào tạo, học suốt

đời sẽ thay thế cho bằng cấp về trình độ, kỹ năng; về quản lý quan hệ lao động,

hợp tác sẽ thay thế cho đối đầu và về tính chất của việc làm, thì tính năng động

sẽ thay thế cho sự ổn định. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là thách thức, song

cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng những lợi thế về nhân lực với truyền thống

hiếu học và trí thông minh để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước tiến

tiến trên thế giới, bởi vì đầu tư đúng và mạnh vào nguồn vốn con người chính là

tiền đề rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tiến hành hội

nhập kinh tế toàn cầu.

- Hình thành và phát triển xã hội thông tin: Công nghệ thông tin, máy tính

hoá và công nghệ truyền tin... không chỉ làm thay đổi phương pháp tư duy, cách

thức tổ chức công việc, phương pháp việc làm mà còn chi phối những thói quen

trong sinh hoạt hàng ngày, học tập và nghỉ ngơi giải trí của con người. Điều đó

vừa nâng cao sự độc lập của mỗi con người, song lại đòi hỏi phải có sự phối hợp

chặt chẽ và nghiêm ngặt.

- Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế: Toàn cầu hoá và hội

nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hoá thương mại sẽ được đẩy mạnh cả về chiều

rộng và chiều sâu. Đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn

ngày càng được mở rộng. Với việc trở thành thành viên đầy đủ của nhiều tổ chức

quốc tế và khu vực, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều cam kết quốc tế và hội nhập

ngày càng sâu, rộng vào quá trình toàn cầu hoá, trong đó có vấn đề nguồn nhân lực.

3.1.2. Bối cảnh trong nước

Những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập

kinh tế quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân

81

lực nói riêng là cơ sở tiền đề vững chắc cho phát triển nguồn nhân lực trong thời gian

tới.

Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp tục hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng quá trình

này tạo cơ hội và điều kiện quan trọng nhất để tiếp tục phát triển nguồn nhân lực

đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội to lớn, đồng thời là những

thách thức không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế nói chung, với phát triển

nguồn nhân lực nói riêng. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho phát triển

nguồn nhân lực thông qua mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và xuất khẩu lao

động, thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài, và vì vậy, có nhiều cơ hội về việc

làm, nâng cao đời sống của người lao động; thông qua hợp tác quốc tế trong giáo

dục và đào tạo tiến dần đến chuẩn khu vực và quốc tế; thông qua phối hợp quốc

tế trong xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường,... Tất cả những yếu tố đó đều

góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt

Nam. Những thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn

nhân lực cũng hết sức trực tiếp và ngày càng thể hiện rõ nét trên thực tế. Cạnh

tranh khốc liệt hơn cả trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế tất yếu

dẫn đến một bộ phận doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể dẫn đến

thất nghiệp có thể gia tăng ở cả thành thị và nông thôn. Những biến động tiêu

cực của các nền kinh tế phát triển sẽ tác động nhanh chóng tới nền kinh tế Việt

Nam. Cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu, xuất phát từ Mỹ và các nước phát triển

diễn ra từ giữa năm 2008, đã, đang và sẽ tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế -

xã hội của Việt Nam, một quốc gia đang phát triển phụ thuộc nhiều vào thị

trường các nước phát triển. Thực tế cho thấy, do suy thoái kinh tế toàn cầu, GDP

của Việt Nam đã giảm từ 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008. Theo

đó, đời sống dân cư khó khăn hơn, thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên, đầu tư

82

cho phát triển nguồn nhân lực cũng bị hạn chế. Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy

giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, mặt tiêu cực ở đây là cùng với dòng đầu tư

nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên, trao đổi thương mại ngày càng mở rộng là

sự du nhập ngày càng nhiều, với tốc độ ngày một tăng của những yếu tố không

phù hợp với văn hoá, lối sống tốt đẹp, có bản sắc độc đáo của Việt Nam. Điều đó

ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, làm cho quá trình

phát triển nguồn nhân lực gặp nhiều khó khăn hơn.

3.2. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển nguồn nhân lực

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

3.2.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực

Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nước ta đến năm 2020 là có được đội

ngũ nhân lực đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ các nước

tiên tiến trên thế giới; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý có đủ

năng lực đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kém phát triển, không

ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,

đảm bảo an ninh, quốc phòng, con người Việt Nam được phát triển toàn diện về

trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức,... có kiến thức và kỹ năng toàn cầu, năng

động, chủ động, có năng lực tự học, tự đào tạo cao, khả năng thích nghi nhanh

chóng với môi trường không ngừng biến đổi.

Đặc biệt, trong toàn bộ nguồn nhân lực của cả nước, xây dựng được một

bộ phận nhân lực đỉnh cao trong các lĩnh vực quản lý (quản lý nhà nước, quản lý

xã hội, hoạch định chính sách, quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh), khoa học

- công nghệ, giáo dục - đào tạo và văn hoá có ý nghĩa quyết định đến sự phát

triển cao, bền vững của đất nước trong những năm tiếp theo, nâng cao hơn nữa vị

thế và tiềm lực kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế.

83

Xây dựng được xã hội học tập và học tập suốt đời, đảm bảo cho tất cả các

công dân Việt Nam thực hiện phương châm “Học để biết, học để làm việc, học

để sống với nhau và học để tồn tại” (UNESCO).

3.2.2. Quan điểm định hướng

- Phát triển nguồn nhân lực là một bước đột phá, là quốc sách hàng đầu,

phát triển nguồn nhân lực là nội dung quan trọng và phải gắn kết với phát triển

con người, góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển con người.

- Hiện đại hoá hệ thống phát triển nguồn nhân lực để nâng cao năng lực

cạnh tranh, hội nhập toàn cầu của nhân lực Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam và

nâng cao hiệu quả của hệ thống phát triển con người.

- Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề.

Đào tạo nguồn nhân lực theo hướng phát triển toàn diện kỹ năng và nghề nghề

cụ thể theo “cầu” của thị trường lao động, đảm bảo chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế. Trong thời gian tới cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân

lực chất lượng cao theo hướng chuẩn khu vực và quốc tế cả về chương trình đào

tạo lẫn chất lượng đào tạo, với lộ trình và bước đi cụ thể. Áp dụng phương pháp

đào tạo hiện đại, tiên tiến, đổi mới căn bản phương pháp giảng dạy, phương pháp

kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,

truyền thông trong đào tạo. Đồng thời, tiếp tục hình thành và phát triển các

trường đại học chất lượng cao nhằm đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực thích ứng

cho nền kinh tế. Đối với việc phát triển các trường Đại học chất lượng cao cần có

cơ chế thông thoáng, minh bạch trong huy động nguồn đầu tư phát triển.

- Xây dựng và phát triển cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý và năng động về

ngành nghề, đa dạng và chất lượng đa tầng, đa cấp có năng lực nhanh chóng

thích ứng với nhu cầu phát triển trong nước và tình hình thế giới không ngừng

thay đổi. Nâng cao trình độ phát triển nhân lực lên ngang tầm với các nước tiên

84

tiến trong khu vực và thế giới đảm bảo nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh

của Việt Nam trên trường quốc tế, hội nhập vững chắc, có hiệu quả; đồng thời

trú trọng đến yêu cầu thông suốt thị trường lao động Việt Nam và quốc tế (đưa

người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài).

- Phát triển nhân lực với cơ cấu hợp lý, hài hoà theo vùng, miền đáp ứng

nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm của mỗi vùng, miền. Phát triển

nhân lực cân đối, hài hoà theo các dân tộc, đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát

triển. Đồng thời tập trung ưu tiên phát triển nhân lực đặc thù: nhân lực khoa học

- công nghệ, nhân lực lãnh đạo, quản lý (lãnh đạo nhà nước và quản lý kinh

doanh), nhân lực các vùng lạc hậu, kém phát triển, dân tộc thiểu số hiện còn ở

trình độ thấp và đang gặp rất nhiều khó khăn.

- Đảm bảo thực hiện công bằng xã hội trong phát triển nguồn nhân lực với

sự kết hợp hài hoà giữa giải quyết vấn đề đảm bảo phúc lợi xã hội trong giáo dục

- đào tạo với tác động của cơ chế thị trường và hiệu quả kinh tế - xã hội trong

phát triển nguồn nhân lực. Quy mô, chất lượng phải do nhu cầu phát triển kinh tế

- xã hội quyết định, không được áp đặt cứng nhắc quy mô đào tạo; chất lượng,

trình độ phải đa cấp độ để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng trong đời sống kinh tế -

xã hội của cả đất nước, các vùng lãnh thổ và nhu cầu về nâng cao học vấn và

nghề nghiệp của các tầng lớp dân cư.

- Phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của toàn xã hội. Mỗi người dân,

mỗi tổ chức kinh tế, xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm và tham gia tích

cực, có hiệu quả vào phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước quản lý vĩ mô, định

hướng, dẫn dắt bằng hệ thống khuôn khổ pháp luật và chính sách khuyến khích,

kích thích phát triển, thực hiện sự hỗ trợ tích cực để phát triển các nhóm nhân

lực đặc thù, nhất là đối với những đối tượng xã hội..., kết hợp hài hoà với việc sử

dụng cơ chế và những công cụ của kinh tế thị trường trong phát triển nguồn nhân

85

lực (phát huy tính độc lập, sáng kiến của các cơ sở, huy động mọi nguồn lực

trong nước và ngoài nước trong phát triển nguồn nhân lực)

3.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam

3.3.1. Phát triển giáo dục và đào tạo

- Cải tiến hệ thống giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề nghiệp, kỹ

năng cho người lao động.

Một trong những mục tiêu lớn nhất cần đạt được để nâng cao khả năng hội

nhập của lao động Việt Nam trong thời gian tới là đảm bảo để người lao động có

kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả thiết

thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ; là xây

dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà

kinh doanh, nhà quản lý giỏi đạt trình độ khu vực và quốc tế. Điều này chỉ có thể

có được thông qua các biện pháp phát triển giáo dục đào tạo theo hướng cải tiến

về căn bản hệ thống này.

Hiện nay, công cuộc phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở đang là

lĩnh vực ưu tiên, đây cũng là biện pháp quan trọng giúp đông đảo người nghèo,

trước hết là trẻ em nghèo, có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản, bằng cách đó giúp

nâng cao năng lực phát triển chung nguồn nhân lực.

Song hành với đổi mới giáo dục cấp cơ sở thì đối với các bậc giáo dục và

đào tạo cao hơn, các chính sách cần được Nhà nước xây dựng theo hướng phát

huy mạnh hơn nữa tính tích cực của chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục,

đào tạo, cho phép chia sẻ về tài chính giữa Nhà nước, các chủ thể xã hội khác và

chính bản thân người được hưởng thụ tri thức. Sự hỗ trợ tài chính mang tính ưu

tiên của Nhà nước, nếu có, chỉ nên dành cho một số ít trường hợp đặc biệt, chủ

yếu là cho những học sinh, sinh viên xuất sắc.

86

Tăng cường các hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông;

Tăng cường và đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Đổi mới

nội dung chương trình và phương pháp giáo dục, đào tạo như đổi mới sách giáo

khoa và tài liệu giảng dạy theo hướng tiếp thu có chọn lọc và tiếp cận trình độ

các nước tiên tiến trên thế giới. Nghiên cứu sử dụng trực tiếp sách giáo khoa và

tài liệu giảng dạy của các nước tiên tiến đối với một số môn học thuộc ngành

khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Đồng thời cải tiến phương pháp dạy và học ngoại

ngữ, trước mắt là tiếng Anh trong hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực. Từng

bước mở rộng việc dạy và học song ngữ trong trường phổ thông, trước hết là ở

những nơi có điều kiện như khu vực thành thị, các thành phố lớn, khu kinh tế...

Đổi mới đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động

của người học và sử dụng rộng rãi công nghệ mới, công nghệ thông tin trong đào

tạo. Mở rộng các phương pháp tổ chức đào tạo tiên tiến: đào tạo theo tín chỉ, đào

tạo liên thông, đào tạo từ xa.. để tạo điều kiện thuận lợi, mở rộng cơ hội đào tạo

cho mọi người dân.

Đi cùng với đổi mới đào tạo là xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên

trình độ cao. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới và phương

pháp giảng dạy mới cho đội ngũ giáo viên phổ thông các cấp. Tập trung tăng

cường giáo viên để hoàn thiện cơ cấu giáo viên theo môn học đảm bảo học sinh

được giáo dục toàn diện, phát triển năng khiếu và chuẩn bị cho nền giáo dục đại

học trình độ cao đạt đẳng cấp quốc tế trong tương lai (giáo viên ngoại ngữ, giáo

viên các bộ môn năng khiếu, giáo dục thể chất...). Chuẩn hoá đội ngũ giáo viên:

đến năm 2010 về cơ bản 100% giáo viên phổ thông các cấp đạt chuẩn. Tăng

cường đào tạo giáo viên dạy nghề. Đảm bảo đến năm 2010 có được 70.000 giáo

viên dạy nghề để đảm bảo tỷ lệ học sinh/giáo viên theo định mức. Tăng nhanh số

lượng giảng viên đại học-cao đẳng để đảm bảo tỷ lệ sinh viên/giảng viên đúng

87

định mức. Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên: đến năm 2010 có ít nhất 40%

thạc sỹ, 25% tiến sỹ; đến năm 2020 có ít nhất 60% thạc sỹ, 35% tiến sỹ.

- Năng lực cạnh tranh và hội nhập của đội ngũ lao động Việt Nam chỉ có

thể được nâng cao khi khoảng cách hiện tại giữa các hoạt động đào tạo, bồi

dưỡng nghề nghiệp cho người lao động và nhu cầu thực tế của thị trường lao

động được thu hẹp. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, hoạt động đào tạo nghề,

đào tạo công nhân kỹ thuật, bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề (đào tạo

lại) và đào tạo các ngành nghề mới phải được hết sức chú trọng. Để có thể thu

hẹp dần khoảng cách giữa các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tay nghề với nhu

cầu hiện có của thị trường lao động, những biện pháp nên được xem xét là:

+ Xác định rõ ràng theo tín hiệu thị trường theo các lĩnh vực, ngành nghề

hiện đang thiếu nhân công, thiếu lao động có trình độ và kỹ năng cần thiết để có

thể quy hoạch lại hệ thống đào tạo nghề theo hướng đồng bộ từ cơ cấu ngành đến

cơ cấu vùng, địa phương, giúp xử lý hài hoà quan hệ giữa đào tạo các ngành

công nghệ cao (thông tin, bưu chính viễn thông, cơ - điện tử, dầu khí, hàng

không,.. ), với các ngành sử dụng nhiều lao động (may, mặc, chế biến nông sản,

thuỷ sản...); hoặc giữa đào tạo nghề cho thành thị, với đào tạo nghề cho nông

thôn.

+ Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ

năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề

được đăng ký chính thức, và các loại văn bằng chứng chỉ do họ cấp phải được cơ

quan quản lý Nhà nước công nhận.

+ Kết hợp đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản ở các trường dạy nghề, các

trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng với việc nâng cao kỹ năng nghề

nghiệp tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Huy động các chuyên gia làm việc tại

các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung đào tạo

đại học và giáo dục nghề nghiệp.

88

- Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục - đào tạo với nước ngoài . Cần mở

rộng giao lưu về giáo dục với các nước, tiếp cận với mô hình giáo dục tiên tiến

nhất, để vận dụng sáng tạo vào nước ta. Có chính sách tuyển cử đông đảo giáo

viên, sinh viên đi học tập, nghiên cứu và làm việc ở các nước phát triển và thu

hút nhiều giáo sư, chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi

kinh nghiệm, mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết các trường đại học nước ta

với các trường đại học nước ngoài để đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn

quốc tế, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các đại học quốc tế ở

trong nước.

3.3.2. Nâng cao thu nhập, mức sống và thể chất của dân cư

- Nâng cao thu nhập mức sống: Trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế

quốc tế nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng lạm phát, thất nghiệp cục bộ (thất

nghiệp cơ cấu) là khó tránh khỏi, thu nhập của người lao động lúc này được quan

tâm hơn cả. Lao động tri thức hay lao động giản đơn đều hướng tới nơi nào trả

lương thoả đáng để họ đầu quân làm việc nhằm mục đích có được thu nhập cao

để trang trải cuộc sống và tích luỹ. Chính vì vậy Chính phủ cần phải giải được

bài toán nâng cao thu nhập cho người dân. Nên áp dụng chế độ lương cạnh tranh

trên cơ sở trả đúng với lao động bỏ ra có khả năng tạo dựng sự cam kết của

người lao động với tổ chức, doanh nghiệp. Trả lương cạnh tranh có thể tạo ra

động lực làm việc và khuyến khích người lao động học tập nâng cao tay nghề,

nhưng điều này chỉ có thể xảy ra trong khu vực sản xuất hiện đại, tuy nhiên trong

những khu vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ nông nghiệp việc trả lương theo

thời gian và áp dụng chế độ thưởng theo sản phẩm, doanh thu cũng là động lực

để người lao động chuyên tâm với công việc. Bên cạnh đó, Chính phủ phải đưa

được công nghệ tiên tiến, hiện đại tới các khu vực nông thôn để tăng hiệu suất

lao động, chú trọng đào tạo tay nghề cho lao đông phổ thông nhằm rút ngắn

khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đầu tư cơ sở hạ tầng:

89

điện, đường, chợ, bưu điện, trường học... cho khu vực miền núi, nông thôn nhằm

đẩy mạnh thương mại dịch vụ nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư, thoát

khỏi và đoạn tuyệt với đói nghèo.

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nhà

nước phải tạo môi trường thuận lợi khuyến khích mọi người dân vươn lên làm

giàu chính đáng và giúp đỡ nhứng người nghèo. Thực hiện tốt an sinh xã hội,

trong đó có bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội... Hạn chế tái đói nghèo, đói nghèo

dai dẳng, thực hiện xoá đói giảm nghèo vững chắc. Giải pháp mang tính tổng thể

và bao trùm để nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư là đảm bảo tăng

trưởng kinh tế cao và ổn định kinh tế, đồng thời, thực hiện công bằng trong phân

phối thông qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, theo hiệu quả kinh

tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

Cùng với việc nâng cao mức sống dân cư là những giải pháp để nhanh

chóng cải thiện và nâng cao thể lực của nhân dân, đó là:

- Đổi mới hệ thống y tế, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một

trong những hướng chủ yếu để nâng cao chất lượng lao động. Xây dựng mạng

lưới y tế đến tận cấp thôn, bản, để đảm bảo 100% xã có trạm xá, củng cố và nâng

cấp mạng lưới y tế ở nông thôn.

- Thực hiện chương trình tổng hợp và chăm sóc, bảo vệ và nâng cao thể

lực cho phụ nữ. Mở rộng các hoạt động tư vấn về sức khoẻ sinh sản về hạn chế sinh

đẻ.

- Tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực

phẩm; Tăng khẩu phần dinh dưỡng và cải thiện cơ cấu bữa ăn hàng ngày của

nhân dân nhằm từng bước hợp lý hoá cơ cấu dinh dưỡng.

- Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ. Trong

đó ưu tiên cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cho các biện pháp phòng

bệnh, nhất là các bệnh dịch như sốt rét, bại liệt, bướu cổ; các chương trình cung

90

cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh thực phẩm; thu hút sự tham gia của

khu vực tư nhân vào lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ người dân.

- Mở rộng hoạt động đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ

y tế cho các vùng nông thôn, miền núi;

- Tăng cường giáo dục thể lực trong các trường, lớp, cơ sở đào tạo: nâng cao

chất lượng và tăng thời lượng cho giáo dục thể lực, đặc biệt ngay từ bậc phổ thông.

3.3.3. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp

Để giải quyết việc làm và hạn chế tình trạng thất nghiệp chúng ta cần đẩy

mạnh và thực hiện các nội dung:

Thứ nhất, thông qua các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn.

- Tập trung thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là ở những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp

hàng hóa, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại, đảm bảo việc làm cho

khoảng 23 - 25 triệu lao động;

- Khai thác các vùng đất trống, đồi núi trọc, phát triển trồng rừng, cây

công nghiệp, cây ăn quả, tạo và ổn định việc làm cho 4-5 triệu lao động;

- Đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi

trồng thuỷ sản; khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt ngoài khơi, tạo việc

làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. Đảm bảo việc làm cho khoảng 2-3 triệu lao động;

- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh

mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử

dụng lao động.

Thứ hai, thông qua các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ.

- Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở

các vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để

tăng sức cạnh tranh;

91

- Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các

khu du lịch;

- Các chương trình, công trình trọng điểm kinh tế-xã hội của Nhà nước thu

hút nhiều lao động.

Thứ ba, thông qua các chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,

làng nghề

- Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Luật Doanh nghiệp;

- Chương trình phát triển các làng nghề truyền thống, và làng nghề mới

thủ công mỹ nghệ, tạo việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động;

- Chương trình phát triển việc làm phi nông nghiệp từng bước rút dần lao

động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp.

Thứ tư, thông qua các chương trình dạy nghề gắn với việc làm, ưu tiên đối

với người dân tộc, nông dân (đặc biệt ưu tiên cho những vùng có tỷ lệ cao đất

nông nghiệp bị nhà nước thu hồi phục vụ cho công nghiệp hoá, đô thị hoá).

- Dạy nghề ngắn hạn gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn

các khu vực nhà nước thu hồi đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất, gắn với các

chương trình xuất khẩu lao động;

- Hỗ trợ các dự án vay vốn hỗ trợ việc làm cho các đối tượng là người dân

tộc thiểu số;

- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn thu hút lao động là nông

dân ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp. Tổ chức dạy nghề ngay tại các đơn

vị, doanh nghiệp để người lao động có thể tiếp thu kiến thức và có việc làm

Thứ năm, giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động.

nhanh nhất.

- Xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư cho đào tạo lao động về tay

nghề, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật phục vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia.

92

Đưa đào tạo lao động và chuyên gia xuất khẩu vào trong chương trình đào tạo

nghề của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đào tạo

ngoại ngữ trong trường phổ thông. Có chính sách khuyến khích người lao động

tự đào tạo, doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo để tăng nguồn lao động và chuyên

gia;

- Xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động xuất

khẩu lao động và chuyên gia; thực hiện công khai và giảm tối đa các khoản

người lao động đóng góp khi đi làm việc ở nước ngoài. Cải cách thủ tục hành

chính, tạo sự thông thoáng và giảm phiền hà cho người lao động và doanh

nghiệp;

3.3.4. Phát triển thị trường lao động

Để có thể từng bước giải quyết những bất cập nhằm phát triển thị trường

lao động ở Việt Nam, có thể kể đến một số đặc diểm nổi bật của thị trường lao

động hiện nay:

- Thứ nhất, nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào, trẻ, có tốc độ tăng trưởng

cao, nhưng cơ cấu thực sự bất hợp lý.

- Thứ hai, có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và khu vực kinh

tế theo hướng tiến bộ nhưng còn chậm chạp và không thực sự vững chắc.

- Thứ ba, xuất khẩu lao động là một trong những hướng đi cơ bản nhằm

giải quyết việc làm cho người lao động.

- Thứ tư, tính mất cân đối cung cầu của thị trường lao động Việt Nam còn

cao, đặc trưng nổi bật là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động

trên thị trường cả về tổng thể và cơ cấu, đã tạo ra áp lực lớn về việc làm.

- Thứ năm, quy mô và mức độ tham gia vào thị trường lao động còn thấp.

Hiện nay, thị trường lao động chỉ thực sự hoạt động ở các khu vực đô thị lớn như

thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các trung tâm công nghiệp mới.

93

- Thứ sáu, hạn chế các chính sách và thể chế thị trường đã làm ngăn cản sự

phát triển của thị trường lao động vốn đã bị phân tán, di chuyển yếu và không

linh hoạt.

Từ thực tế của thị trường lao động, để phát triển nguồn nhân lực theo

hướng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc hình thành và phát triển thị trường

lao động là một điều kiện quan trọng. Việc tạo lập điều kiện này có thể được

thực hiện thông qua một số giải pháp chính sau đây:

- Các giải pháp liên qua đến cung lao động

Duy trì các kết quả đạt được liên quan đến chương trình dân số và kế

hoạch hoá gia đình, nhằm hạn chế tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động. Nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi cấp bách để có thể tiến tới hội

nhập khu vực và quốc tế.

Nâng cao trình độ của những người dưới độ tuổi lao động bằng cách phát

triển mạnh giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các miền,

vùng của đất nước, nhất là vùng núi, trung du và hải đảo, đặc biệt là con em

người nghèo thuộc diện đối tượng chính sách bằng cac loại hình thích hợp như

bán trú, dân tộc nội trú, lớp học tình thương... thuộc các thành phần kinh tế như

mở lớp, trường dân lập, bán công, quốc lập.

Nhanh chóng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động,

thông qua đào tạo lao động kỹ thuật gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm

hình thành cơ cấu lao động mới phù hợp với nền kinh tế hiện đại.

Đẩy mạnh công tác dạy nghề bằng mọi cách. Các hình thức dạy nghề từ

trung ương đến các địa phương cần được mở rộng, nâng cao chất lượng và đa

dạng hoá. Cần có các loại hình, hệ đào tạo thích hợp như thông qua các trường

lớp chính quy, không chính quy, dài hạn và ngắn hạn ở thành thị và đặc biệt ở

nông thôn. Cần ưu tiên đào tạo đại trà các nghề phổ biến ngắn hạn cho lao động

94

nông thôn để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn thích

ứng với yêu cầu của thị trường lao động.

Đổi mới công tác giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp,

cần điều phối tốt công tác đào tạo để có một cơ cấu đào tạo hợp lý giữa các bậc

và các chuyên môn.Tăng cường chất lượng cung cấp nguồn nhân lực từ các cơ

sở đào tạo. Coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương

pháp, các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên... đạt trình độ khu vực và

tiến dần đến trình độ quốc tế để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia một

cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế giới.

- Mở rộng quy mô và chất lượng cầu lao động.

Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp là một trong những ưu tiên

hàng đầu hướng về cầu lao động động. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao

động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát

triển các ngành kinh tế truyền thống, có lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam, là

một trong các hướng đi được đánh giá hiệu quả và hợp thời.

Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển

kinh tế tư nhân và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra môi trường

cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút việc làm.

Về công tác xuất khẩu, trước tiên cần phải tạo được nhận thức đúng đắn

trong các cấp và toàn xã hội về xuất khẩu lao động và chuyên gia, từ đó thiết lập

được sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở và các doanh nghiệp xuất

khẩu lao động. Ngoài ra công tác phát triển thị trường phải được đặc biệt chú

trọng, cần xây dựng và thực hiện các đề án riêng, phù hợp với đặc điểm của từng

thị trường. Chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường và có sự tuyển

chọn cũng như đào tạo đội ngũ này một cách kỹ lưỡng. Vấn đề đào tạo cho

người lao động trước khi đi xuất khẩu lao động là khâu quan trọng có tính chất

quyết định để tổ chức xuất khẩu giữ vững và phát triển thị trường. Liên quan đến

95

xuất khẩu lao động, cần tạo ra tính liên thông giữa thị trường lao động trong

nước với thị trường lao động ngoài nước. Tính liên thông bắt đầu từ sự gắn kết

từng bước cung, cầu và giá cả sức lao động Việt Nam với cung, cầu, giá cả sức

lao động của thị trường lao động khu vực và thế giới. Tính liên thông trên thị

trường lao động đòi hỏi không phân biệt đối xử trong sử dụng nhân lực và cần tôn

trọng nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong sử dụng nguồn nhân lực thuộc các quốc

gia khác nhau.

- Hoàn thiện chính sách và thể chế thị trường lao động

Tạo đủ điều kiện để thị trường lao động vận hành có hiệu quả. Pháp luật

về lao động cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng mở rộng phạm vi điều

chỉnh của Bộ luật lao động. Các quy định về hợp đồng lao động, thoả ước lao

động tập thể, việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, bộ máy, cơ chế giải

quyết tranh chấp lao động... cần được coi trọng để bảo vệ quyền lợi cho cả người

lao động và người sử dụng.

Các tổ chức giao dịch về lao động và việc làm cần có cơ chế để có thể hoạt

động tích cực hơn, người lao động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp

cận với nhau, đặc biệt tại các nơi có mật độ dân cư cao và tỷ lệ người tìm việc

lớn để giúp cho người lao động có thể tiếp cận đến việc làm một cách thuận lợi,

cần hình thành hệ thống thông tin - thống kê về thị trường lao động, nắm bắt

thường xuyên, cập nhật kịp thời về tình hình cung - cầu lao động theo vùng,

ngành.

Về công tác tiền lương, nên giảm sự can thiệp của Nhà nước trong công

tác tiền lượng đặc biệt với các doanh nghiệp nhà nước. Cần hoàn chỉnh chế độ

tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất tiền lương cho mọi loại

hình doanh nghiệp, trước hết là thống nhất mức tiền lương tối thiểu, các nội dung

khác nhà nước chỉ nên hướng dẫn, còn giao quyền cho các doanh nghiệp tự

96

quyết định. Trong các doanh nghiệp, cần có cơ chế để mức tiền lương và cách trả

lương thực sự là sự thoả thuận giữa đôi bên.

- Phát huy tiềm năng hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ “lao

động chất xám”

Hiện nay ở nước ta việc áp dụng các công cụ khuyến khích thích hợp đối

với lao động chất xám, kể cả lao động khoa học công nghệ và lao động quản lý,

có thể giúp phát huy mạnh hơn nữa các tiềm năng của lao động chất xám, làm

tăng khả năng cạnh tranh của loại lao động này trên thị trường lao động. Để đạt

được mục tiêu này, chúng ta nên khuyến khích cả vật chất lẫn tinh thần sự sáng

tạo của cá nhân và tập thể các nhà khoa học, các nhà quản lý kinh doanh bằng

cách tạo điều kiện tốt về cuộc sống và làm việc cho lực lượng này trên tinh thần

trọng dụng nhân tài.

Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho các phòng thí nghiệm,

một số viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn ở các trường đại học ở mức

tiên tiến trong khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện cho các

trường đại học, các viện nghiên cứu;

Việc tạo lập thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ của lao động khoa học

công nghệ và quản lý cũng là một trong những yếu có thể làm tăng tính cạnh

tranh của lực lượng lao động này. Tính chất thị trường trong các chính sách và

biện pháp quản lý hoạt động lao động chất xám cần được thể hiện sao cho các

sản phẩm của hoạt động công nghệ, nghiên cứu cũng như triển khai được, trao

đổi như hàng hoá.

3.3.5. Kiểm soát dân số

Hiện nay dân số nước ta đã đứng hàng thứ 13 trên thế giới, trong những

năm tới, dân số vẫn tiếp tục tăng, trung bình mỗi năm tăng thêm một triệu người,

bằng dân số của một tỉnh trung bình.

97

Mật độ dân số năm 2007 tăng lên tới 254 người/km2, thuộc nhóm có mật độ

dân số cao nhất thế giới, gấp 1,8 lần mật độ dân số Trung Quốc (143 người/km2).

Diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng thu hẹp, hiện nay

chỉ còn dưới 0, 1 ha/người, chỉ bằng 2/5 mức diện tích canh tác tối thiểu để bảo

đảm an ninh lương thực theo tiêu chuẩn của Tổ chức lương thực thế giới.

Trong điều kiện phải đối mặt với hàng loạt khó khăn như vậy, chúng ta

cần phải thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế - xã hội và biện pháp nhằm

kiểm soát và gia tăng dân số. Có thể kể ra đây một số chính sách cơ bản:

- Các chính sách tăng trưởng và phát triển kinh tế.

- Các chính sách hạn chế bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

- Các chính sách xóa đói giảm nghèo, cải thiện các dịch vụ xã hội cho

người nghèo.

- Các chính sách tạo cơ hội để phụ nữ được tham gia vào các hoạt động

kinh tế và xã hội.

- Các chính sách giảm tỷ lệ trẻ em tử vong.

Trong giai đoạn tới, công tác DS-KHHGÐ tập trung vào các nhiệm vụ

trọng tâm sau:

Tập trung mọi nỗ lực, kiểm soát bằng được tốc độ gia tăng dân số, để tỷ lệ

tăng dân số là 1,14 % và quy mô dân số dưới 89 triệu người vào năm 2010.

Giảm nhanh tỷ lệ sinh, phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào trước năm

2015 đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh cao, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên,

giãn khoảng cách sinh để chủ động kiểm soát tốc độ gia tăng dân số đối với

nhóm 18 tỉnh đông dân có mức sinh chưa ổn định, duy trì vững chắc mức sinh

thay thế đối với nhóm 23 tỉnh có mức sinh thấp [45]

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số. Ðây là yếu tố quyết định sự

thành công của công tác dân số. Nhận thức rõ tính chất khó khăn, phức tạp lâu

98

dài của công tác dân số, kiên quyết chống tư tưởng chủ quan thỏa mãn, thiếu

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp các ngành,

đoàn thể nhân dân.

Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện công tác

dân số. Củng cố tổ chức bộ máy và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác dân số

kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh, huyện, xã, đặc biệt là cán bộ ở các xã, phường, thị

trấn, cộng tác viên dân số ở các thôn, làng, cụm dân cư.

Một nhiệm vụ rất quan trọng là, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục

và tư vấn. Tích cực vận động và giáo dục chính sách pháp luật về dân số, cung

cấp kiến thức, kỹ năng thực hành cho các nhóm đối tượng sử dụng đồng bộ và có

hiệu quả các kênh truyền thông. Nâng cao vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân

số ở cơ sở để đưa các nội dung về dân số kế hoạch hóa gia đình đến từng người

dân và từng gia đình. Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình có thành

công hay không, có đạt được mục tiêu mong đợi hay không chỉ khi nó được thực

hiện đồng thời với các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Nếu không thực hiện

được sự kết hợp này thì chương trình kế hoạch hoá gia đình chỉ có tác dụng ở

khu vực thành thị mà thôi.

3.3.6. Mở rộng hợp tác quốc tế toàn diện và đa phương để phát triển

nhân lực

Tận dụng, mở rộng những cơ hội, khả năng và hình thức hợp tác quốc tế

để phát triển nhân lực ở trình độ cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và đào tạo những

ngành nghề trình độ cao mà Việt Nam chưa có hoặc đào tạo chưa đạt yêu cầu.

Trên cơ sở Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, tiếp tục có những cơ chế, chính sách

cụ thể để tạo môi trường thông thoáng và hấp dẫn để thu hút mạnh các nguồn

đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển nguồn nhân lực. Ưu tiên, khuyến khích các

nhà đầu tư nước ngoài thành lập các cơ sở đào tạo nhân lực trình độ cao, đạt tiêu

99

chuẩn quốc tế: Lĩnh vực ngành nghề ưu tiên như công nghệ tin học, cơ khí và tự

động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu mới...

Có chính sách hấp dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thu hút

chuyên gia quốc tế giỏi và Việt kiều giỏi làm việc ở Việt Nam để đào tạo nhân

lực. Đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở đào tạo, nghiên cứu - triển khai và

doanh nghiệp trong việc thu hút chuyên gia Việt Kiều giỏi: thực hiện trả lương

xứng đáng với đóng góp, điều kiện và môi trường làm việc, nhà cửa... Tạo điều

kiện thuận lợi và tốt cho các thành viên trong gia đình chuyên gia Việt kiều sinh

sống và học tập tai Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết là cơ

quan có chức năng nghiên cứ hoạch định chính sách được thuê chuyên gia nước

ngoài làm cố vấn trong những trường hợp cụ thể. Các tổ chức sự nghiệp công lập

và doanh nghiệp nhà nước được tự quyết định trong việc tuyển dụng hoặc thuê

chuyên gia nước ngoài và Việt Kiều làm việc thường xuyên hoặc theo từng công

việc cụ thể.

Tăng cường gửi người đi học và làm việc ở nước ngoài. Tăng quy mô gửi

đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Tranh thủ thông qua các

hình thức viện trợ, hợp tác song phương và đa phương. Khuyến khích và tạo điều

kiện thuận lợi cho nhân dân đi học tự túc ở nước ngoài, các tổ chức, doanh

nghiệp gửi đi học nước ngoài, đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí của

mình. Những người du học ở nước ngoài được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục

học tập, nghiên cứu hoặc làm việc sau khi tốt nghiệp, tạo điều kiện để tìm kiếm

học bổng để tiếp tục học tập hoặc làm việc ở nước ngoài theo hạn định. Bên cạnh

cúng phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo lao động cho đi xuất

khẩu lao động để tăng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trước khi đi làm việc ở

nước ngoài. Cùng với việc từng bước đầu tư ra nước ngoài, cần có kế hoạch đào

tạo người lao động Việt Nam đạt chuẩn quốc tế để đưa đi làm trong các doanh

nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài.

100

Các cơ sở đào tạo trong nước được quyền trực tiếp liên hệ, xác lập và mở

rộng các hình thức hợp tác với các cơ sở đào tạo, các tổ chức kinh tế, xã hội...

nước ngoài nhằm đổi mới, hiện đại hóa, tăng cường năng lực của hệ thống giáo

dục - đào tạo, nâng cao trình đọ và chất lượng giáo dục, đào tạo. Các cơ sở đào

tạo nhân lực không phân biệt công lập hay tư thục được tiếp nhận ODA để đầu

tư chiều sâu, hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật trong việc thực hiện những

nhiệm vụ cụ thể do Chính phủ giao về phát triển nguồn nhân lực.

3.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển

nguồn nhân lực và hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực.

3.3.7.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển

nguồn nhân lực

- Xây dựng Luật dạy nghề, nghiên cứu, bổ sung đưa vào luật dạy nghề các

điều khoản quy định về thuế dạy nghề để khuyến khích và huy động sự tham gia

tích cực và nhiều hơn của các các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động qua

đào tạo vào phát triển nguồn nhân lực.

- Xây dựng chính sách phát triển trí lực và kỹ năng của nguồn nhân lực.

Để hoàn thiện chính sách này chúng ta phải xây dựng được chính sách phát triển

giáo dục cơ sở. Giáo dục cơ sở có ý nghĩa tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền

đề càn thiết cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của

phát triển nguồn nhân lực. Trong việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của

một quốc gia, trước hết dựa vào trình độ phát triển giáo dục phổ thông, coi đây là

nhân tố thuận lợi hay khó khăn ban đầu cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh.

Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực phụ thuộc vào các nhóm chính sách như:

Chính sách về quy mô đào tạo: mục tiêu là nhằm điều tiết quy mô đào tạo

chung và từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích mở rộng

hoặc thu hẹp quy mô đào tạo ở một cấp độ nhất định nào đó.

101

Chính sách về cơ cấu đào tạo: Mục tiêu chính của chính sách này là nhằm

điều tiết hai loại hình cơ cấu đào tạo là cơ cấu về trình độ đào tạo và cơ cấu

ngành nghề đào tạo.

Chính sách tài chính trong cho đào tạo nguồn nhân lực. Chính sách này có

những nội dung chủ yếu là đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động ngày

càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo và ưu tiên tăng

chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực.

- Chính sách thu hút và sử dụng lao động: Có thể nói nhóm chính sách này

tác động trực tiếp đến quá trình quản lý nguồn nhân lực. Cùng với sự phát triển

kinh tế thị trường, các chính sách thu hút và sử dụng lao động đã được đổi mới

từng bước nhằm đáp ứng và thích nghi với cơ chế thị trường. Sự đổi mới này

được thể hiện vừa cả trong nội dung, phạm vi và phương pháp tác động của nó,

theo đó vừa tăng cường vai trò của Nhà nước, vừa sử dụng rộng rãi các công cụ

của thị trường trong quản lý nguồn nhân lực. Nhà nước không còn đóng vai trò

là nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm nữa mà chỉ thực hiện chính sách

khuyến khích và hỗ trợ bằng khuôn khổ pháp lý, tài chính, kinh nghiệm, các

thành phần kinh tế sẽ tạo việc làm cho người lao động.

Nhà nước có chính sách ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan

toả tác dộng đến các thành phần kinh tế khác tạo việc làm và có chính sách hỗ

trợ các thành phần kinh tế, mọi người dân tự tạo việc làm cho mình và cho mọi

người.

Thông qua chính sách đầu tư, Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải

pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng, lãnh

thổ... để tạo việc làm sẽ có ý nghĩa quyết định và tác động liên ngành, liên vùng,

nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu việc làm với ba hình thức cơ cấu

chính là cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu việc làm theo trình độ trang thiết bị

kỹ thuật và cơ cấu việc làm theo khu vực lãnh thổ.

102

- Trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề nhân quyền của người lao

động phải được chú trọng cao, Nhà nước phải ban hành và điều tiết thời gian và

tiền công cho người lao động theo quan hệ cung cầu và giá cả sức lao động trên

thị trường, ban hành những chuẩn mực về sinh - an toàn lao động.

- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách về thị trường lao động (như

đã trình bày ở mục 3.3.4).

Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách về thị trường khoa học -

công nghệ. Khuyến khích phát triển các khu công nghệ cao ở các vùng kinh tế

trọng điểm Bắc bộ, Trung Bộ và Nam bộ để tăng nhanh nhu cầu lao động động

qua đào tạo, nhất là lao động trình độ cao làm cơ sở hình thành và phát triển thị

trường lao động khoa học - công nghệ, khuyến khích, thúc đẩy phát triển đào tạo

trình độ cao.

Thực hiện nghiêm Luật sở hữu trí tuệ, cải tiến thủ tục đăng ký bản quyền

tác giả và có những quy định để bảo vệ quyền lợi của nhân lực khoa học công

nghệ và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ trong nước và gắn

kết, mở rộng với thị trường khoa học công nghệ quốc tế. Đây là giải pháp quan

trọng để phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong nước và thu hút

nhân lực khoa học - công nghệ quốc tế vào phát triển kinh tế của Việt Nam.

3.3.7.2. Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng hệ thống cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thống nhất quản lý

phát triển nguồn nhân lực, trong đó tập trung vào việc hoạch định chính sách

phát triển nguồn nhân lực, tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá kết quả thực hiện

các chính sách phát triển nguồn nhân lực.

Tổ chức và củng cố các tổ chức xã hội trực tiếp tác động đến hoạt động

đào tạo nhân lực (Hội khuyến học, Tổng Liên đoàn lao động, Hiệp hội các

ngành, Hội Nông dân...) từ Trung ương đến địa phương để nâng cao vai trò giám

103

sát xã hội đối với hoạt động đào tạo nhân lực, qua đó tích cực tham gia vào việc

quản lý phát triển nguồn nhân lực.

Thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình quản lý

đào tạo và phát triển nhân lực (các doanh nghiệp đều có trách nhiệm và trực tiếp

tổ chức đào tạo nhân lực trong quá trình người lao động có việc làm trong doanh

nghiệp).

104

KẾT LUẬN

Toàn cầu hoá kinh tế diễn ra như một xu thế tất yếu đối với mọi nền kinh

tế trên thế giới. Là nước đang phát triển, Việt Nam đã sớm đặt vấn đề chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế với quan điểm “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa

hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách

thức, do đó cần tỉnh táo khôn khéo và linh hoạt xử lý tính hai mặt của hội nhập”

(Nghị quyết Bộ chính trị, số 7 năm 2002). Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh

tế quốc tế tác động gián tiếp và trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.

Nguồn nhân lực là nội lực cơ bản thể hiện vai trò chủ thể trong mọi quá

trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực nhằm

đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chính là

quá trình không ngừng nâng cao thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động.

Thực hiện đề tài “Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế của Việt Nam”, tác giả đã cố gắng hệ thống hoá và góp phần làm rõ cơ

sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Trên cơ sở đó, luận văn đã xác định rõ mục tiêu, quan điểm định hướng

phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, đưa ra các giải pháp nhằm phát triển

nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam một cách toàn diện và

bền vững.

Vấn đề quan trọng là ở chỗ cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải

pháp phát triển nguồn nhân lực trong thực hiện hiệu quả tổng thể các giải pháp

phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Asian Development Bank (1991), Human Resourse Policy & Ecconomic

Development (Selected country Studies), Printed in the Philipin.

2. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2008), Giáo trình Kinh tế quốc tế,

Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (12/2007), Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc

nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011 - 2020.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bàn về chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội của Việt Nam trong thời kỳ tới.

5. Nguyễn Văn Căn (2007), Quá trình cải cách giáo dục ở Cộng hoà nhân

dân Trung Hoa thời kỳ 1978 - 2003, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2005: Những kết

quả chủ yếu (2005), Nxb. Thống kê, Hà Nội.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp

hành Trung ương khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Giáo dục Đại học Việt Nam (2000), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

9. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin ( 2005), Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

10. Nguyễn Thu Hà (biên dịch - 2006), Kinh nghiệm của Trung Quốc trên con

đường gia nhập WTO, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

11. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Phạm Thái Hưng (2004), Sức ép hội nhập và sự sẵn sàng hội nhập của

Việt Nam, Nxb Thế giới.

106

13. Vũ Văn Hiền, Đinh Xuân Lý (2007), Quán triệt, vận dụng quan điểm đại

hội X của Đảng vào giảng dạy các môn lý luận chính trị, Nxb Chính trị

quốc gia.

14. Phát triển nguồn nhân lực Giáo dục Đại học Việt Nam (2001), Nxb. Chính

trị quốc gia.

15. Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI (2004), Nxb. Thống kê,

Hà Nội.

16. Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006 (2006), Nxb. Thống kê,

Hà Nội.

17. Liên hiệp Quốc (1990), Báo cáo phát triển con người 1990.

18. Võ Đại Lược (2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới

thời cơ và thách thức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Võ Đại Lược (2007), Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển, Nxb Thế

giới.

20. Mai Trọng Nhuận (2005), Báo cáo kết quả đoàn công tác tại Singapor,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên - 2004.), Quản lý nguồn

nhân lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb khoa

học xã hội, Hà Nội.

22. Đoàn Kim Thắng (2006), Cơ sở và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

dân số theo nguyên tắc mới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Phạm Quý Thọ (2000), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu thế hội nhập

kinh tế quốc tế, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

24. Tài liệu Hội nghị toàn quốc quán triệ và thực hiện Nghị quyết số 07-

NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế (2002), Nxb Chính trị

quốc gia.

107

25. Toàn cầu hoá chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều (2005), Nxb Thế giới.

26. Thời cơ và thách thách khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế

giới (2006), Nxb. Lao động - Xã hội.

27. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2005, 2006, 2007

(2007), Nxb. Thống kê, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Kế Tuấn (2007), Kinh tế Việt Nam năm

2007 - Năm đầu tiên gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới, Nxb. Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

29. Lê Văn Toan (2007), Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá, Nxb

Lao động - xã hội, Hà Nội.

30. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Nxb. Thống kê,

Hà Nội.

31. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Nxb. Thống kê,

Hà Nội.

32. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2007, Nxb. Thống kê,

Hà Nội.

33. Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (2008), Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Vai trò lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

34. Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (2008), Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập quốc tế 1986-2007.

35. Nguyễn Anh Tuấn (2008), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân

lực chất lượng cao, Báo khoa học công nghệ, số 4/2008.

36. Ngô Doãn Vịnh (2007), Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành động

có tính chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia.

108

37. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào

tạo nhân tài, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với

việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

39. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - UNDP (2004) Cơ sở phát

triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, tập 2, Nxb. Giao

thông vận tải, Hà Nội.

40. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Một số vấn đề

phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến

năm 2010 - 2020.

41. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc

(2007), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 những thay đổi và xu

hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia.

42. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH- HĐH, Nxb.

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

43. YUN, CHUNG II (2005), Quản lý giáo dục, tài liệu tham khảo dịch từ

tiếng Anh, ĐHQGHN

44. WTO (2006), Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của

Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. WTO thuận lợi và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam (2006), Nxb.

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

46. http://vietbao.vn (Sín chéng đẩy lùi đói nghèo bằng học tập, 13/6/2007)

47. http://vietbao.vn (Lơ mơ về kiến thức dân số - gia đình, 14/6/2006; Điều

đáng lưu ý về tình hình dân số nước ta, 01/8/2008, Kiểm soát gia tăng dân

số, giảm nhanh tỷ lệ sinh, 11/7/2008).

109

48. http://www. moet.gov.vn (Số liệu tổng quan về giáo dục đào tạo năm

2006, Bộ giáo dục và Đào tạo)

49. http://www.gso.gov.vn (Số giáo viên các trường đại học, cao đẳng phân

theo trình độ chuyên môn)

50. http://www.molisa.gov.vn (Tỷ lệ hộ nghèo năm 2007, 9/10/2007)

110