BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ BÁ PHƯƠNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH

NINH THUẬN GIAI ĐOẠN 2008-2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2008

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một nền kinh tế muốn phát triển cần có các nguồn lực: vốn, khoa học – công nghệ, tài nguyên và nguồn nhân lực; muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào yếu tố con người. nếu so sánh các nguồn lực với nhau thì nguồn nhân lực có ưu thế hơn cả. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là vấn đề hết sức quan trọng, nguồn nhân lực cần phát huy tính đa dạng, phong phú về truyền thống văn hóa phương Đông như: hiếu học, trọng nhân tài, trọng tri thức, khoa học…Tuy nhiên cho đến nay, những tiềm năng quan trọng này vẫn chưa được chú ý khai thác đầy đủ, đúng mức và có thể sử dụng chưa hiệu quả về nguồn nhân lực.

Ngày nay, khi thế giới bước vào nền kinh tế tri thức thì vấn đề nhân tài đang thực sự là vấn đề cấp thiết, vì nhân tài là hạt nhân của nền kinh tế tri thức. Tuy rằng, nhân tài thời nào cũng quý cũng quan trọng nhưng ngày nay lại càng quan trọng hơn. Muốn đi tắt, đón đầu trong phát triển thì phải có nguồn nhân lực tiên tiến, không để lãng quên nhân tài và không để lãng phí nguồn nhân lực. Do vậy, các quốc gia cần phải chủ động quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo và bồi dưỡng để nguồn nhân lực phát huy đạt hiệu quả cao nhất.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những yêu cầu cơ bản trước mắt và lâu dài trong việc sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả nhất, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy những yếu tố tinh thần gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng với việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nguồn nhân lực; coi chất lượng nguồn nhân lực là một tiền đề cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của đất nước.

Các Nghị quyết của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đã đặt con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người và nguồn nhân lực là những nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Con người Việt Nam có trình độ công nghệ tiên tiến hướng tới nền kinh tế tri thức với hàm lượng chất xám (trí lực) cao và

2 hiệu quả là tiền đề quan trọng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đã trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi tổ chức, doanh nghiệp và mỗi quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và đề ra các chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm phục vụ tốt các yêu cầu phát triển trước mắt và lâu dài của mình.

Trong những thập kỷ gần đây, một số nước trong khu vực đã có những bước phát triển quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu về “Sự thần kỳ Đông Á” đều nhấn mạnh tới vai trò của nguồn nhân lực – vì nó có ý nghĩa to lớn quyết định trong việc đưa các nước này từ chỗ kém phát triển, nghèo khổ, khan hiếm về tài nguyên và kiệt quệ sau chiến tranh đã trở thành những nước công nghiệp mới, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

Chất lượng nguồn nhân lực hoặc nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực với những con người lao động có tri thức tốt, có kỹ năng cao và có tính nhân văn sâu sắc.

Kinh nghiệm cho thấy, sự cất cánh và phát triển thành công của một nước là gắn chặt với chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Có thể nói toàn bộ bí quyết thành công của một quốc gia xét cho cùng, đều nằm trong chiến lược đào tạo và phát triển con người.

2. Mục đích nghiên cứu Đề tài

Ninh Thuận là một tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ có dân số ít, kinh tế chậm phát triển so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, việc phát triển kinh tế - xã hội đã được cấp ủy, chính quyền của tỉnh đặc biệt quan tâm và đặt lên hàng đầu, đã có những biện pháp tích cực để khơi dậy những tiềm năng nhằm từng bước cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh, sớm hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước và thế giới.

Kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) cho tới nay, được sự hỗ trợ của các cơ quan Trung ương, tỉnh Ninh Thuận đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2005 – 2010 và định hướng phát triển kinh tế - xã hội thời gian 2010 – 2015; từng bước điều chỉnh cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, du lịch và dịch vụ; ổn định diện tích cây trồng, tăng năng xuất và đẩy mạnh chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp để xuất khẩu những sản phẩm mà tỉnh có thế mạnh.

Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Ninh thuận đã quy hoạch các vùng đất mà sản xuất kém hiệu quả để thành lập các khu công nghiệp với những chính sách hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến sản xuất – kinh doanh, phát triển kinh tế, làm phong phú và đa dạng những hàng hóa được sản xuất có thương hiệu tại Ninh Thuận, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, tăng việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động.

3

Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2005 – 2010 và định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2015 của tỉnh Ninh Thuận, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2008 – 2015” để nghiên cứu và xây dựng đề tài này; mục đích của đề tài là:

Thứ nhất, góp phần phân tích đánh giá tính khách quan, những khó khăn, thuận lợi và vai trò của nguồn nhân lực đối với sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp của tỉnh;

Thứ hai, phân tích những bài học kinh nghiệm trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận;

Thứ ba, trên cơ sở đó, tìm hiểu thực trạng, đề xuất một số chính sách thu hút và đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn 2008 – 2015.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận. Phương châm chủ đạo trong việc nghiên cứu, phân tích đề tài là tôn trọng hiện thực khách quan. Trên cơ sở thực tiễn về nguồn nhân lực đang diễn ra ở tỉnh Ninh Thuận; tác giả muốn khái quát thành lý luận chung nhằm soi rọi vào thực tiễn để tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận, tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế ở Ninh Thuận phát triển.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài của Luận văn thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên phương pháp sử dụng sử dụng chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp nội suy, thu thập số liệu, những thông tin thực tế đã và đang diễn ra tại Ninh Thuận để xây dựng Luận văn. Mặt khác, trên cơ sở những kiến thức đã học, những kinh nghiệm trong quá trình công tác của bản thân để đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài

Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài “Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2008 – 2015” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các cấp chính quyền của tỉnh có những thông tin cần thiết để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận; ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây:

Một là, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạch định chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam nói chung và nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận nói riêng.

4

Hai là, bằng các số liệu chứng minh, luận văn phân tích và làm sáng tỏ hiện trạng việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực tại các khu công nghiệp của tỉnh; từ đó, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận.

Ba là, vạch ra chiến lược phát triển, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh đến năm 2015, xây dựng chiến lược đào tạo và giải pháp cơ bản để đạt được mục tiêu tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh.

Bốn là, với các số liệu chứng minh về nguồn nhân lực tại các khu công nghiệp sẽ giúp cho các cấp chính quyền, các cơ quan, ban ngành của tỉnh nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh nhằm xây dựng chính sách phù hợp để xây dựng chiến lược tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và các khu công nghiệp của tỉnh nói riêng.

Ngoài ra, đề tài còn chỉ ra những kết quả đạt được những hạn chế và những nguyên nhân đào tạo, quản lý, sử dụng nguồn nhân lực và thông qua đó đề xuất những giải pháp để thu hút, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn đến năm 2015 ngày càng tốt hơn.

6. Những điểm mới của Luận văn

Luận văn được nghiên cứu độc lập, những nội dung của Đề tài hoàn toàn mới vì từ trước tới nay chưa có ai nghiên cứu nguồn nhân lực cho khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận; với kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao nhận thức về nguồn nhân lực và giúp cho các nhà quản lý của tỉnh xem xét khi quyết định chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh nói riêng trong giai đoạn từ nay tới năm 2015.

7. Kết cấu của Luận văn: Luận văn gồm có các phần sau đây:

- Mở đầu

- Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển nguồn nhân lực

cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

- Chương 2. Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở các khu

công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua.

- Chương 3. Định hướng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực cho

các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 208 – 2015.

- Kết luận.

- Tài liệu tham khảo

- Phụ lục.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1 Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực

1.1.1 Những khái niệm cơ bản

Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, đối với các nước đang phát triển giải quyết vấn đề này đang là yêu cầu được đặt ra hết sức bức xúc, nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.

Nguồn nhân lực là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển con người. Đứng về phương diện xã hội thì toàn bộ chiến lược phát triển con người cuối cùng cũng trở thành nguồn nhân lực.

Ở đây, con người xuất hiện với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản chỉ đạo toàn bộ sự phát triển đất nước” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 1997). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2001 thì lấy con người và nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Phát triển Giáo dục và Đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội; tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005 đã chỉ rõ: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động….Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc vùng miền….”.

Để làm sáng tỏ vị trí, chức năng của nguồn lao động và nguồn nhân lực

thì cần phân biệt mấy khái niệm sau:

Nguồn lao động là tổng số nhân khẩu có khả năng lao động bao gồm

nhân khẩu ở độ tuổi lao động và nhân khẩu ngoài độ tuổi lao động.

Nguồn nhân lực (nguồn lực con người) ngày nay đã trở thành một khái niệm công cụ để điều hành thực thi chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay

6 một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Lực lượng lao động bao gồm những người lao động, tức là nguồn nhân lực được sử dụng vào công việc nào động nào đó. Theo ILP, “Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp”; Theo R.Nonan, “Lực lượng lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người đang tìm việc làm”. Như vậy, những người đang thất nghiệp hoặc không có việc làm và không tìm việc làm như học sinh, sinh viên, người bệnh, những người mất khả năng lao động…thì không phải là lực lượng lao động.

Lao động kỹ thuật

Theo UNESCO, UNDP và Bộ Giáo dục và Đào tạo (Dự án VIE/89/022) thì lao động kỹ thuật là lao động qua đào tạo được cấp bằng hoặc chứng chỉ về các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.

- Nguồn nhân lực:

Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực đang được hiểu theo nhiều quan

điểm khác nhau.

* Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc thì nguồn nhân lực bao gồm những người đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.

* Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng các nhà khoa học tham gia chương trình KX – 07 thì: “Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó…”(15, tr 323).

* Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”, đó là “người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học hiện đại” (10, tr.11).

Ngoài ra, một số tác giả khác khi nghiên cứu các đề tài về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực; theo tôi, khái niệm nguồn nhân lực nên được hiểu một cách ngắn gọn là nguồn lực con người. Điều đó, cũng có nghĩa là khái niệm nguồn nhân lực cần tập trung phản ánh những vấn đề sau đây :

7

Một là, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ nguồn lực con người – yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội; hai là, nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng thể hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống và sự kết hợp giữa các yếu tố đó; ba là, nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải gắn liền với thời gian và không gian mà nó tồn tại.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản ánh một cách tổng quát khái niệm nguồn nhân lực trên cả ba phương diện : trí lực, thể lực, nhân cách, cùng với cơ sở khoa học cho sự phát triển các yếu tố đó là nền giáo dục tiên tiến gắn liền nền khoa học hiện đại.

Từ sự phân tích trên theo tôi, khái niệm nguồn nhân lực nên được hiểu

đầy đủ như sau :

Theo nghĩa rộng thì nguồn nhân lực bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thực tế đang làm việc (gồm những người trong độ tuổi lao động và những người trên độ tuổi lao động), những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm (do thất nghiệp hoặc đang làm nội trợ trong gia đình), cộng với nguồn lao động dự trữ (những người đang được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề…).

Điều đó có nghĩa là, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh quy mô, tốc độ tăng nguồn nhân lực, sự phân bố theo vùng, khu vực và lãnh thổ; trong đó, trí lực thể hiện ở trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, là yếu tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên tiềm lực sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn hóa, tinh thần của con người, vì thế nó đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực.

Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ sức khỏe cơ bắp mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt, là sức mạnh của niềm tin và ý trí, là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức vào sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ chỉ có thể phát huy được lợi thế khi thể lực con người được phát triển.

Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực cần xét đến các yếu tố nhân cách, thẩm mỹ, quan điểm sống. Đó là, sự thể hiện nét văn hóa của người lao động, được kết tinh từ một loạt các giá trị: Đạo đức, tác phong, tính tự chủ và năng động, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc khả năng hợp tác, làm việc theo nhóm, khả năng hội nhập với môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc và các tri thức khác về giá trị của cuộc sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có đức mà không có tài, làm việc gì cũng khó; nhưng có tài mà không có đức là người vô dụng”; bởi vậy, sẽ không đầy đủ khi nói đến nguồn nhân lực mà không đề cập đến sự phối hợp hài hòa giữa ba yếu tố trí lực, thể lực và nhân cách thẩm mỹ, vì nó là điều kiện tạo nên sức mạnh trong mỗi con người, trong cộng đồng và cũng là để hướng cho người lao động phát triển toàn diện.

8

- Phát triển nguồn nhân lực:

* Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu UNDP

“Phát triển nguồn nhân lực chịu sự tác động của năm yếu tố: giáo dục và đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con người. Trong quá trình tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực, những nhân tố này luôn gắn bó, hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau; trong đó, giáo dục và đào tạo là nhân tố nền tảng, là cơ sở của tất cả các nhân tố khác. Nhân tố sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và giải phóng con người là những nhân tố thiết yếu, nhằm duy trì và đáp ứng sự phát triển bền vững nguồn nhân lực”.

* Theo quan điểm sử dụng năng lực con người của ILP

“Phát triển nguồn nhân lực bao hàm không chỉ sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề, mà bên cạnh phát triển năng lực là làm cho con người có nhu cầu sử dụng năng lực đó để tiến đến có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân”.

* Theo GS – TSKH Nguyễn Minh Đường

“Phát triển nguồn nhân lực được hiểu là sự gia tăng giá trị cho con người trên các mặt trí tuệ, kỹ năng lao động, thể lực, đạo đức, tâm hồn…để họ có thể tham gia vào lực lượng lao động làm giàu cho đất nước, góp phần cải tạo xã hội, cũng như phát huy truyền thống của dân tộc và góp phần tô điểm thêm bức tranh muồn màu của nhân loại. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực phải được tiến hành trên cả 3 mặt: Phát triển nhân cách, phát triển sinh thể, đồng thời tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho nguồn lực phát triển” (11).

Kế thừa và phát huy những quan điểm trên, theo tôi dưới góc độ nghiên cứu tổng thể, phát triển nguồn nhân lực là phát triển nguồn lực con người dưới dạng tiềm năng thành “vốn con người – vốn nhân lực”. Xét ở góc độ cá nhân, đó là nâng cao tri thức, sức khỏe, kỹ năng thực hành để tăng năng suất lao động dẫn đến tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Xét ở góc độ xã hội, là quá trình tạo dựng một lực lượng lao động cả về số lượng, chất lượng và sử dụng có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ trong từng thời kỳ.

Cho nên, dù với khái niệm rộng hay hẹp thì giáo dục và đào tạo vẫn được coi là biện pháp chủ yếu và quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Trong quá trình phân tích và đánh giá Luận văn đã nêu rõ sự khác biệt giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển con người.

Phát triển nguồn nhân lực nhìn nhận con người dưới góc độ là một yếu tố của sản xuất, một nguồn lực của xã hội, mục đích là gia tăng sự đóng góp có hiệu quả của nó cho quá trình tái sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội; còn phát triển con người được nhìn nhận dưới góc độ con người là một chủ thể của tự nhiên và xã hội. Vì thế, phát triển con người là trung tâm của sự phát triển, mục đích là hướng tới sự phát triển toàn diện con người. Đó là, xác lập các quyền và tạo điều kiện thuận lợi để con người thực hiện các quyền của mình.

9 Có nghĩa là, phát triển con người không chỉ xem xét dưới góc độ là nguồn lực đóng góp cho sự phát triển xã hội, mà còn là sự thỏa mãn các nhu cầu để con người sớm có điều kiện phát triển toàn diện. Đây chính là cơ sở giúp chúng ta lý giải vì sao nhiều quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) tương đối cao (chẳng hạn như Việt Nam), nhưng lại được xếp vào những nước đang phát triển hay chậm phát triển.

1.1.2 Nội dung cơ bản của phát triển nguồn nhân lực

Xuất phát từ quan niệm về nguồn lực và phát triển nguồn nhân lực nêu

trên, theo chúng tôi, nội dung cơ bản của phát triển nguồn nhân lực bao gồm:

- Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng;

- Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.

1.1.2.1 Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng

Nguồn nhân lực của một quốc gia, vùng lãnh thổ, về mặt số lượng thể hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi. Theo đó, nguồn nhân lực được gọi là đông về số lượng khi quy mô dân số lớn, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao.

Dưới góc độ phát triển, chúng ta không thể không xét đến tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm. Nghĩa là, về mặt số lượng, nguồn nhân lực chịu ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dân số tại thời điểm gốc và chính sách phát triển dân số của các quốc gia và vùng lãnh thổ. Vấn đề này, hiện nay trên thế giới đang diễn ra hai xu hướng trái ngược nhau.

Đối với các quốc gia phát triển, đặc biệt là các quốc gia ở Bắc Âu, do nhiều yếu tố: khí hậu, di truyền, nhu cầu được tự do phát triền của mỗi cá nhân, điều kiện kinh tế và đặc biệt trợ giúp của khoa học – kỹ thuật trong ngành y…nên tỷ lệ sinh thấp (từ 0,5 % – 0,7%), trong khi đó, tuổi thọ lại cao nên dẫn đến tình trạng già hóa nguồn nhân lực. Hệ quả thiếu nguồn nhân lực đến mức báo động.

Đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển, thì lại ngược lại hoàn toàn. Tỉ lệ sinh ở các nước này thường khá cao (trên 1,5%/năm), điều kiện kinh tế, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế chậm được cải thiện, dẫn đến dự thừa lao động. hệ quả là gia tăng thất nghiệp và gây áp lực cho việc giải quyết việc làm.

1.1.2.2 Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng

Hiện nay, có hai quan điểm phổ biến xem xét chất lượng nguồn nhân lực:

Theo quan điểm thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở các mặt trí lực, thể lực và nhân cách, thẩm mỹ và yếu tố kết cấu các mặt đó. Nghĩa là, yếu tố kết cấu được tách riêng khi xem xét nguồn nhân lực.

Theo quan điểm thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên ba mặt: trí lực, thể lực và nhân cách, thẩm mỹ; nghĩa là, yếu tố đã được bao hàm trong chính nội tại ba yếu tố đó.

10

Chúng tôi tiếp cận theo quan điểm thứ hai khi xem xét chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Vì chất lượng nguồn nhân lực được xem xét ở đây là của một tập hợp người, bao gồm các những người trong và trên độ tuổi lao động có khả năng lao động, thực tế đang làm việc, chưa có việc làm hoặc đang được đào tạo. Mặt khác, khi xem xét chất lượng nguồn nhân lực, nếu tính riêng yếu tố kết cấu thì sẽ không thể phác họa được một bức tranh đầy đủ về chất lượng nguồn nhân lực.

Do vậy, thực chất của phát triển nguồn nân lực về mặt chất lượng là sự phát triển trên cả ba mặt: trí lực, thể lực và nhân cách, thẩm mỹ của người lao động.

Theo tôi, đây cũng là cơ sở để Nhà nước Việt Nam xác định: trong khi nguồn lực vật chất và tài chính còn hạn hẹp, thì cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục – đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu.

Phát triển nhân cách, thẩm mỹ là phát triển yếu tố văn hóa, tinh thần và quan điểm sống như: tính tích cực, dám nghĩ, dám làm, đạo đức, tác phong, lối sống…trong mỗi người lao động. Đó là quá trình nâng cao trình độ nhận thức các giá trị cuộc sống, tinh thần trách nhiệm, khả năng hòa hợp cộng đồng, đấu tranh với các tệ nạn xã hội để xây dựng lối sống lành mạnh và hình thành tác phong lao động công nghiệp. Thực chất là quá trình phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, quá trình này chịu ảnh hưởng của các nhân tố: Văn hóa và phong cách của người sản xuất nhỏ tiểu nông, hệ quả còn sót lại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đặc biệt là mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập.

1.1.3 Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình Công nghiệp hoá,

Hiện đại hoá.

Nguồn nhân lực giữ vai trò vô cùng quan trọng trong các hoạt động của tổ chức. Việc tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo nhân viên phải dựa vào các tiêu chuẩn nhất định nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Quản lý nguồn nhân lực xác định rõ vai trò của từng cá nhân, từng thành viên trong tổ chức, lên kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho phù hợp với quy mô của tổ chức. Nguồn nhân lực là nguồn tài sản – tài sản nhân lực; do vậy, phát triển nguồn nhân lực sẽ không được coi là toàn diện nếu không quan tâm đến vai trò của nguồn tài sản này.

Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, theo chúng tôi được đánh giá bằng mức độ toàn dụng nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng và thời gian được sử dụng; việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực đồng nhất với:

- Nâng cao hệ số sử dụng số lượng nhân lực;

- Nâng cao hiệu suất sử dụng nhân lực, hay giá trị tăng thêm được tạo ra

từ việc sử dụng nhân lực;

- Và nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động.

11

Việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là một quá trình chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tình hình cung cầu trên thị trường lao động, chất lượng nguồn nhân lực, chính sách lao động, việc làm và tiền lương của Nhà nước đối với nguồn lao động; theo đó, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực sẽ đồng biến với tốc độ giải quyết việc làm, nghịch biến với tỷ lệ thất nghiệp và phụ thuộc vào chính sách thu hút, bố trí, sử dụng và chế độ đãi ngộ. Nếu những chính sách này hợp lý sẽ kích thích được tinh thần làm việc, phát huy được khả năng sáng tạo của người lao động, là động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả và chất lượng công việc, sẽ thu hút được nhân tài cho tổ chức mình.

Do vậy, nguồn nhân lực có một vai trò hết sức quan trọng đến sự thành công hay thất bại của mỗi một doanh nghiệp, mỗi địa phương và mỗi một quốc gia, nếu tạo điều kiện cho nguồn nhân lực thể hiện tốt vai trò tiên phong của mình thì hiệu quả kinh tế - xã hội sẽ không ngừng được nâng lên cả về chất và lượng, còn nếu một nguồn nhân lực kém chất lượng thì sẽ làm cho nền kinh tế phát triển chậm hoặc thậm chí kém phát triển và tụt hậu.

Được xác định là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ một hoạt động nào trong phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tồn vong của mỗi quốc gia.

1.1.4 Các chức năng của quản lý nguồn nhân lực

Các hoạt động liên quan đến quản lý nguồn nhân lực rất đa dạng và thay đổi trong các tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, có thể phân chia các hoạt động chủ yếu của quản lý nguồn nhân lực theo 3 chức năng sau:

* Nhóm chức năng thu hút nguồn nhân lực:

Nhóm chức năng này chú trọng vấn đề đảm bảo số lượng nhân viên với các phẩm chất phù hợp cho công việc của doanh nghiệp. Để có thể tuyển đúng người vào đúng việc; trước hết, doanh nghiệp phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh và thực trạng sử dụng nhân viên trong doanh nghiệp nhằm xác định được những công việc nào cần tuyển thêm người.

Thực hiện phân tích công việc sẽ giúp cho doanh nghiệp biết cần tuyển thêm bao nhiêu nhân viên và yêu cầu tiêu chuẩn đặt ra đối với các ứng cử viên như thế nào là phù hợp? Do đó, nhóm chức năng tuyển dụng thường có các hoạt động: dự báo và hoạch định nguồn nhân lực, phân tích công việc phỏng vấn, trắc nghiệm, thu thập, lưu trữ và xử lý các thông tin về nguồn nhân lực của doanh nghiệp.

* Nhóm chức năng đào tạo và phát triển

Nhóm chức năng này chú trọng việc nâng cao năng lực của nhân viên, đảm bảo cho nhân viên trong doanh nghiệp có kỹ năng, trình độ lành nghề cần thiết để hoàn thành tốt công việc được giao và tạo điều kiện cho nhân viên được phát triển tối đa năng lực cá nhân. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng lập kế hoạch đào tạo lại nhân viên mỗi khi có sự thay đổi về nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc quy trình công nghệ kỹ thuật. Nhóm chức năng này thực hiện các

12 hoạt động như: hướng nghiệp, huấn luyện, đào tạo, kỹ năng thực hành cho nhân viên.

* Nhóm chức năng duy trì nguồn nhân lực

Nhóm chức năng này chú trọng đến công việc duy trì và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Nhóm chức năng này gồm 2 chức năng nhỏ hơn là kích thích, động viên nhân viên và duy trì, phát triển các mối quan hệ lao động tốt đẹp trong doanh nghiệp.

Chức năng kích thích, động viên liên quan đến các chính sách và các hoạt động nhằm khuyến khích, động viên nhân viên trong doanh nghiệp làm việc hăng say, tận tình, có ý thức trách nhiệm và hoàn thành công việc với chất lượng.

Chức năng quan hệ lao động liên quan đến các hoạt động nhằm hoàn thiện môi trường làm việc và các mối quan hệ trong công việc như: ký kết hợp đồng, giải quyết khiếu nại khiếu tố, tranh chấp lao động. Giao tế nhân viên, cải thiện môi trường làm việc, y tế, bảo hiểm và an toàn lao động.

1.1.4.1 Tuyển chọn nguồn nhân lực

Tuyển chọn lao động là tiến trình thu hút những người có khả năng từ nhiều nguồn khác nhau đến đăng ký, nộp đơn tìm việc làm. Khi các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải tuyển dụng thêm lao động mới. Mặt khác, để thay thế số nhân viên cũ đã có tuổi, sức lao động yếu, nhà quản trị phải căn cứ vào thực tế và tương lai của đơn vị để dự báo nhu cầu lao động trong tương lai, có kế hoạch tuyển dụng và tìm nguồn cung lao động kịp thời cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.4.2 Đào tạo và phát triển nhân lực

Đào tạo là quá trình học hỏi nhằm nâng cao kiến thức kỹ năng, thái độ và hành vi làm việc của nhân viên. Điều đó, có nghĩa là đào tạo sẽ làm thay đổi những hiểu biết, cách thức làm việc và thái độ của người lao động đối với công việc; đào tạo là định hướng vào hiện tại, chú trọng vào công việc hiện thời của cá nhân, giúp họ có ngay các kỹ năng và khả năng đặc biệt cần thiết để thực hiện tốt các công việc hiện tại.

Trong quá trình đào tạo, mỗi người sẽ được bù đắp những thiếu hụt trong học vấn, được cập nhật hóa kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết để không những hoàn thành tốt những công việc được giao mà còn có thể đương đầu với những biến đổi của môi trường xung quanh có ảnh hưởng tích cực tới việc làm của người lao động.

Các phương pháp đào tạo phổ biến hiện nay là:

* Đào tạo tại nơi làm việc :

- Kèm cặp, hướng dẫn tại chỗ.

- Luân phiên thay đổi công việc.

13

* Đào tạo ngoài nơi làm việc

- Phương pháp nghiên cứu tình huống.

- Đào tạo học nghề.

- Phương pháp xử dụng dụng cụ mô phỏng.

- Đào tạo xa nơi làm việc.

- Phương pháp hội thảo.

- Chương trình liên hệ với các trường đại học.

- Phương pháp huấn luyện theo dõi mô hình mẫu.

1.1.4.3 Trả tiền công cho lao động

Tiền lương là giá cả sức lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Trả tiền công cho lao động luôn là vấn đề thách thức nhất cho các nhà quản trị ở mọi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường có nhiều quan điểm, mục tiêu khác nhau khi xếp đặt hệ thống trả lương, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp đều hướng tới 4 mục tiêu cơ bản:

- Thu hút lao động

- Duy trì những lao động giỏi

- Kích thích động viên

- Đáp ứng nhu cầu của pháp luật.

Thu nhập của người lao động từ việc làm bao gồm: tiền lương cơ bản,

phụ cấp, tiền thưởng và các loại phúc lợi.

Tiền lương cơ bản: là tiền lương được xác định trên cơ sở tính đủ các nhu cầu cơ bản về sinh học, xã hội học về độ phức tạp và mức độ tiêu hao lao động trong những điều kiện lao động từng ngành nghề, công việc.

Phụ cấp lương: là tiền trả công lao động ngoài tiền lương cơ bản. Nó bổ sung cho lương cơ bản, bù đắp thêm cho người lao động khi họ phải làm việc trong điều kiện không ổn định hoặc không thuận lợi mà không được tính tới khi xác định lương cơ bản.

Tiền thưởng: Là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với người lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn. Có nhiều hình thức khen thưởng :

- Thưởng năng suất, chất lượng.

- Thưởng sáng kiến.

- Thưởng theo kết quả hoạt động kinh doanh chung.

- Thưởng tìm được nơi cung ứng, tiêu thụ, ký kết được hợp đồng mới.

- Thưởng đảm bảo ngày công.

- Thưởng về lòng trung thành, tận tâm với doanh nghiệp.

14

Phúc lợi: Các loại phúc lợi mà người lao động được hưởng rất đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, phúc lợi thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp đến đời sống của người lao động, có tác động kích thích được nguời lao động trung thành và gắn bó với doanh nghiệp v.v. Phúc lợi doanh nghiệp gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, hưu trí, nghỉ phép, trợ cấp của doanh nghiệp cho người lao động có hoàn cảnh khó khăn v.v.

1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa kinh tế có những tác động hết sức sâu sắc tới đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của từng nước cũng như các mối quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, sự đánh giá tác động này là rất khác nhau giữa các nước, nhóm nước và các nhóm xã hội trong mỗi nước, chủ yếu tùy thuộc vào nhận thức và lợi ích mà họ đã hưởng hoặc mất đi trong quá trình này. Có thể đề cập tới một vài tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế trong lĩnh vực lao động, việc làm, thu nhập và ổn định xã hội như sau:

1.2.1 Toàn cầu hóa kinh tế với vấn đề việc làm và thất nghiệp

Có những quan điểm khác nhau về tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối

với vấn đề việc làm.

Những người phản đối toàn cầu hóa lo ngại rằng toàn cầu hóa sẽ làm tăng nguy cơ thất nghiệp, thậm chí có ý kiến cho rằng toàn cầu hóa là nguyên nhân chính gây ra tình trạng thất nghiệp gia tăng trong một nước. Những người theo quan điểm này lập luận rằng:

Thứ nhất, sự cạnh tranh khốc liệt trong quá trình toàn cầu hóa làm cho hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp sản xuất, chuyển đổi kinh doanh hoặc phá sản và ngừng sản xuất, khiến cho nhiều người mất việc làm.

Thứ hai, cùng với sự phát triển của toàn cầu hóa, sự gia tăng các luồng di chuyển nhân công giữa các nước càng làm cho những người lao động kém thuận lợi (kém năng lực, ít được đào tạo hoặc không có điều kiện để tiếp cận sự đào tạo), đứng trước nguy cơ bị mất việc cho những người có khả năng cạnh tranh cao hơn và ngày càng khó khăn để kiến được những việc làm mới.

Thứ ba, tự do hóa thương mại và đầu tư tạo điều kiện làm gia tăng các luồng đầu tư ra nước ngoài và như vậy làm cho những người lao động trong nước mất bớt cơ hội có việc làm. Nhiều người lao động ở các nước phát triển tham gia biểu tình chống toàn cầu hóa chia sẻ quan điểm quan điểm này.

Những người ủng hộ toàn cầu hóa lại cho rằng toàn cầu hóa kinh tế không phải là nguyên nhân làm cho nạn thất nghiệp gia tăng mà trái lại nó góp phần tạo thêm nhiều việc làm hơn, bởi vì:

Thứ nhất, quá trình này thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế hợp lý hơn, nâng cao hơn năng lực cạnh tranh và phát triển thêm nhiều ngành – lĩnh vực mới, thu hút lực lượng lao động vào những ngành mới này.

Thứ hai, quá trình này làm cho những người lao động có cơ hội kiếm được việc làm phù hợp hơn với năng lực và thế mạnh của mình trên những thị trường quốc gia và quốc tế nhờ tính “lưu động” của thi trường rộng lớn.

15

Thứ ba, tự do hóa thương mại và đầu tư làm cho việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế tốt hơn, giúp tăng ngân sách cho các chính phủ đầu tư cho việc đào tạo, tái đào tạo và giúp người lao động kiếm việc làm thuận lợi hơn.

Cho đến nay, các nghiên cứu về vấn đề này chưa khẳng định được tính thuyết phục của quan điểm cho rằng toàn cầu hóa là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng tình trạng thất nghiệp ở các nước. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa có nhiều nhân tố gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp ở các nước. Việc đánh giá tác động của toàn cầu hóa đối với vấn đề này cần được xem xét trong mối quan hệ tổng thể của nhiều yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội ở mỗi nước và nhiêu yếu tố quốc tế có liên quan.

1.2.2 Toàn cầu hóa kinh tế với vấn đề thu nhập, đời sống và ổn định

xã hội

Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều cho rằng toàn cầu hóa kinh tế không phải lúc nào cũng là nguyên nhân của mọi sự bất ổn trong xã hội và bảo hộ mậu dịch không phải là đối sách thích hợp để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, cũng không thể bác bỏ được xu thế toàn cầu hóa và tự do thương mại – đầu tư sẽ đẩy nhanh sự thay đổi xã hội, làm giảm sự ổn định về việc làm và ở một chừng mực có thể khiến cho vị trí tương đối của những người lao động có kỹ năng bị xấu đi; có những lý do như sau:

Thứ nhất, toàn cầu hóa thúc đầy sự di chuyển nhanh của tư bản, công nghệ, tri thức, kinh doanh v.v, nhưng lao động thì lại di chuyển rất ít (luồng đầu tư trực tiếp trên thế giới vào năm 2006 đã tăng gấp 4,5 lần so với dòng chảy trung bình hàng năm trong giai đoạn 2001- 2005, trong khi số người di cư từ nước này sang nước khác vào thời điểm này cũng chỉ tăng trung bình 2% mỗi năm và mới chỉ chiếm 2,3% dân số thế giới).

Như vậy, lao động hầu như có xu hướng cố định tại một nước, trong khi các yếu tố sản xuất khác thì di chuyển nhanh với tốc độ ngày càng cao. Với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, ngày càng ra đời nhiều sản phẩm - công nghệ mới rút ngắn chu kỳ sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, do đó các cơ sở sản xuất cũng di chuyển nhanh từ nước này sang nước khác. Điều này, cũng có nghĩa là lợi thế so sánh của một quốc gia luôn bị đặt trong trạng thái bất ổn định.

Thứ hai, thời đại toàn cầu hóa đi liền với sự phát triển của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức, làm cho thị trường lao động thay đổi lớn về chất, trong đó ngày càng thiếu hụt lao động có trình độ cao về công nghệ thông tin và tri thức nói chung, trong khi lao động giản đơn, lao động không được tiếp cận với công nghệ thông tin thì ngày càng dự thừa. Tư liệu của World Bank (WB) cho thấy chênh lệch tiền lương của giới lao động lành nghề và lao động không lành nghề tại một số nước trên thế giới từ cuối thập niên 1980 đến nay đã có những khoảng cách đáng kể.

Vấn đề cần quan tâm đó là khả năng thích ứng của lao động trong thời đại toàn cầu hóa, các mạng lưới an sinh xã hội; các cơ hội về giáo dục và đào

16 tạo có tầm quan trọng then chốt trong việc thực hiện mục tiêu này. Giáo dục, đào tạo và đào tạo lại có tác dụng nâng cao khả năng đối phó với sự thay đổi của các cá nhân.

1.2.3 Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển nguồn

nhân lực ở Việt Nam

Hội nhập tích cực vào nền kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu mà bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới đều phải lựa chọn để phát triển. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các nước có khả năng tiếp cận với thị trường thế giới, với những công nghệ hiện đại, với những thành tựu mới trong quản lý, nhờ đó có cơ hội phát triển tăng tốc và rút ngắn được thời gian công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia kết hợp tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, phát huy được nội lực và mọi tiềm năng sáng tạo; đồng thời, tranh thủ được tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho phát triển.

Tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế đối với việc điều chỉnh và lựa chọn chiến lược phát triển của các quốc gia là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Chỉ có quốc gia nào thích ứng nhanh nhạy với xu thế này, sớm tìm được mô hình – chiến lược phát triển phù hợp và vận dụng sáng tạo – có hiệu quả vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình thì khả năng tăng trưởng và phát triển nhanh, cải thiện được vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới.

* Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường nguồn lực cho

giáo dục, thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động nhiều mặt và đặt ra những yêu cầu mới đối với việc đào tạo nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia. Hội nhập kinh tế cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ - công nghệ hiện đại dẫn đến một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội. Do đó, các quốc gia phải chuẩn bị cho mình những tiềm lực lao động đáp ứng yêu cầu của một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với xu thế thời đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia còn phải hướng đến việc đào tạo những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt và khốc liệt để phát triển. Việc đào tạo một thế hệ mới các doanh nhân – những người lao động có tri thức – khoa học – công nghệ hiện đại, tri thức – năng lực kinh doanh – năng lực cạnh tranh để dẫn dắt doanh nghiệp dành phần thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế trong và ngoài nước, phải là mục tiêu cơ bản trong chính sách giáo dục – đào tạo của các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thứ tư, việc sử dụng tiếng Anh trong giáo dục và đào tạo là một yêu cầu

thực tế mà các quốc gia phải hướng tới trong thời đại toàn cầu hóa

Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu, thứ tiếng của doanh nghiệp, của chính trị, của ngoại giao, là tiếng “mẹ đẻ” của ngôn ngữ máy tính và Internet. Sự phổ biến của tiếng Anh là sự thật không thể phủ nhận; hiện nay, có khoảng

17 200 triệu người đang sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất, 2/3 dân số thế giới dùng như ngôn ngữ thứ hai và 1/6 dân số thế giới đang học tiếng Anh. Theo dự báo thì có khoảng ½ dân số thế giới sẽ ít nhiều thông thạo tiếng Anh vào trước năm 2050. Muốn hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa thì phải biết sử dụng tiếng Anh; dĩ nhiên, việc phổ biến tiếng Anh trong giáo dục và đào tạo ở các quốc gia không có nghĩa là làm suy giảm vị thế của tiếng mẹ đẻ. Các hiệu quả để chống lại sự lạm dụng tiếng Anh là cổ súy cho việc sử dụng tiếng mẹ đẻ. Nhưng ngăn chặn tiếng Anh là điều không bao giờ làm được trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và dưới tác động của cuộc cách mạnh khoa học – công nghệ, nhu cầu và khả năng thực hiện sự hợp tác quốc tế về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ngày càng trở nên tất yếu và rõ nét. Nhiều nước coi đây là con đường cơ bản để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển với khu vực và thế giới. Việc cử cán bộ, chuyên gia, học sinh …ra nước ngoài học tập, công tác được nhiều nước quan tâm và trở thành phương thức chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực ở mỗi nước.

Việc sử dụng lao động cũng ngày càng mang tính quốc tế hóa rộng rãi. Xu hướng đầu tư trực tiếp ngày càng gia tăng và sự di chuyển ồ ạt các nguồn lực sản xuất giữa các nước làm cho quy mô của lao động tổng thể được sử dụng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, lãnh thổ. Trên thực tế, sự di chuyển nguồn nhân lực giữa các nước hiện đã trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế.

Giáo dục và Đào tạo, cùng với khoa học công nghệ phải thực sự là quốc sách hàng đầu, phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Xã hội hoá giáo dục là tạo ra và phát triển phong trào toàn dân học tập; toàn xã hội làm giáo dục. Thực hiện xã hội hoá không có nghĩa là khoán trắng cho nhà trường và giảm nhẹ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước.

Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục và đào tạo. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước giúp đỡ phát triển giáo dục – đào tạo.

Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Dành một tỷ lệ ngân sách thoả đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển; sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo.

18

* Xây dựng một xã hội học tập

Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải được đầu tư phát triển theo một phương châm mới, đó là đào tạo thường xuyên – đào tạo suốt đời.

Giáo dục và đào tạo sẽ liên quan đến toàn bộ cuộc đời chứ không phải chỉ ở tuổi trẻ. Giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp giúp con người có thể học thường xuyên – học suốt đời và giáo dục sẽ chuẩn bị cho con người về nội dung và phương pháp để học thường xuyên – học suốt đời. Học thường xuyên – học suốt đời là đặc trưng cơ bản của một nền giáo dục – đào tạo từ thấp lên cao và mang tính toàn cầu; vì thế, hệ thống đào tạo cũng dần được điều chỉnh, đổi mới căn bản toàn diện với những chương trình, kỹ năng đổi mới để đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học – công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

* Nhu cầu và cơ cấu nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng tăng về số

lượng và chất lượng

Nghiên cứu số liệu trong phụ lục số 1 cho ta thấy, để chuẩn bị lực lượng lao động cho xã hội, mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay tập trung vào việc đào tạo hướng nghiệp cho học sinh một cách thiết thực để có kỹ năng lao động cao. Tỷ lệ học sinh được hướng nghiệp cần phải tăng thêm từ khoảng 10% hiện nay lên 20% vào năm 2010 và 30% vào năm 2020.

Lao động có tay nghề cần được đào tạo theo hình thức khác nhau, phấn đấu để chứng chỉ nghề của Việt Nam được thế giới mà trước hết là Hiệp hội các nước Đông Nam Á công nhận.

1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nguồn nhân lực

trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá

1.3.1 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới

Ở những nước tiên tiến, họ xác định đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển; cho nên, chính sách nguồn nhân lực luôn là một trong những bộ phận cấu thành chủ chốt trong hầu hết các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới.

Nhật Bản coi nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tương lai của đất nước; cho nên, từ đầu thập niên 1980, Nhật Bản đã đề ra mục tiêu: đào tạo những thế hệ mới có tính năng động, sáng tạo có kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng suy nghĩ và làm việc độc lập, khả năng giao tiếp quốc tế để đáp ứng những đòi hỏi của thế giới, với sự tiến bộ không ngừng của khoa học và xu thế cạnh tranh - hợp tác toàn cầu. Qua nghiên cứu trong phụ lục số 2 thì từ năm 1995 – 2002, dân số trong độ tuổi từ 15 trở lên thì năm sau tăng hơn năm trước nhưng lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lao động thì có giảm nhưng không nhiều, điều này cho thấy mức ổn định về lực lượng lao động đã tạo cho ổn định về nguồn nhân lực trong xã hội Nhật Bản.

Luật Giáo dục của Nhật Bản chỉ rõ giáo dục được coi là nhiệm vụ của quốc gia và là quyền cơ bản của mọi người dân Nhật Bản. Giáo dục ở Nhật

19 Bản được ưu tiên đầu tư trên tất cả các cấp học; các điều luật thành lập hệ thống giáo dục mới nêu rõ rằng các gia đình phải có nhiệm vụ đặt việc học tập của con cái mình lên trên hết. Sự đầu tư còn được thấy rõ các nguồn tài trợ phát triển giáo dục, các khoản chi phí cho giáo dục và đào tạo thường chiếm từ 5-6% ngân sách hằng năm của chính phủ Trung ương.

Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một chiến lược tham gia toàn diện vào quá trình toàn cầu hoá vào giữa thập kỷ 1990, , mà trước tiên và quan trọng nhất là hệ thống giáo dục phải được cải thiện triệt để, để đào tạo một số lượng đủ những công dân trẻ, sáng tạo và dám làm, những nhà lãnh đạo tương lai của đất nước. Trong bản báo cáo của Chính phủ nước này về giáo dục mang tên “Hình ảnh Hàn Quốc trong Thế kỷ 21” đã khẳng định : “Giáo dục và Đào tạo phải hướng tới mục tiêu bồi dưỡng tính sáng tạo, tinh thần kỷ luật tự giác, tính cạnh tranh, phát triển khả năng và nhân cách bảo vệ, phát huy sức mạnh, ý chí dân tộc, năng lực trí tuệ của người Hàn Quốc lên những trình độ cao nhất, đưa Hàn Quốc trở thành một quốc gia có vai trò chủ chốt trong các vấn đề của thế giới”.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo ở Hàn Quốc luôn ở mức 18 – 20%. Hướng tới tương lai đó là mục tiêu của nền giáo dục Hàn Quốc hiện đại; cùng với sự phát triển kinh tế, người dân Hàn Quốc đang cố gắng tạo ra những điều kiện tốt nhất có thể có cho việc đào tạo thế hệ trẻ.

Từ đầu những năm 1990, Trung Quốc rất coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn lực đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và hiện đạt hoá đất nước. Phát biểu tại Hội nghị quốc gia về nhân lực, ngày 19 – 20/12/2003 do Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản và Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đồng tổ chức, Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã khẳng định: “Nhân lực là nguồn lực chủ yếu của Trung Quốc và đất nước Trung Quốc phải biến dân số hùng mạnh của mình thành một nguồn lực lớn với nguồn nhân tài phong phú”. Chính phủ Trung Quốc cho rằng chiến lược chấn hưng đất nước dựa trên phát triển nhân lực phải được coi trọng là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay của Trung Quốc.

Trong những năm đầu thập kỷ XXI, Trung Quốc tiếp tục coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ theo phương châm “4 hoá” ở giai đoạn thứ 3 là “cách mạng hoá, trẻ hoá, tri thức hóa và chuyên môn hoá (Ba giai đoạn là : Chuẩn bị, hình thành và chín muồi); đặc biệt, để tăng cường hội nhập quốc tế sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc thực hiện chủ trương bồi dưỡng, giáo dục nhân tài theo “3 hướng” là : Hướng về hiện đại hoá, hướng ra thế giới, hướng tới tương lai”. Hướng về hiện đại hoá là nói tới quan hệ giữa giáo dục và phát triển kinh tế, gắn giáo dục với việc thực hiện các nhiệm vụ chung của cả nước; hướng ra thế giới là một mối quan hệ giữa giáo dục và thế giới, vừa tuân theo những đặc trưng của nền giáo dục Trung Quốc, vừa chú ý tới xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật và giáo dục của các nước trên thế giới; hướng tới tương lai là đề cập đến mối quan hệ giữa giáo dục với tương lai, vừa nhấn mạnh việc phục vụ sự nghiệp hiện đại hoá, vừa dự kiến nhu cầu phát triển

20 trong tương lai. Mục tiêu “3 hướng” nhằm gắn giáo dục của Trung Quốc với giáo dục của nước ngoài, giáo dục hiện đại với giáo dục tương lai để bồi dưỡng nguồn nhân lực tốt hơn cho đất nước.

Chính phủ Thái Lan luôn khẳng định: Nguồn nhân lực có học vấn cao thực sự là một nhân tố thiết yếu cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, mục tiêu đề ra cho tới 2020 là nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học so với lứa tuổi ở Thái Lan lên tới 40% (tương đương với tỷ lệ của Hàn Quốc và Nhật Bản hiện nay); đồng thời, phát triển hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật nhằm tạo cơ hội học tập cho thế hệ thanh thiếu niên hiện nay. Thái Lan coi đây là một nhân tố quan trọng nhất để biến mục tiêu đạt mức GDP/người là 1.200 USD trở thành hiện thực vào năm 2020.

Ngay từ khi mới thành lập, Singapore đã đề ra chính sách phát triển giáo dục và đào tạo và chủ trương là xây dựng nền giáo dục mang nét đặc trưng của dân tộc. Chính phủ Singapore luôn coi việc khai thác và sử dụng nguồn lực là nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế. Nguyên Thủ tướng Lý Quang Diệu đã nói: “Biến tài năng trời phú của một dân tộc thành kỹ năng chuyên môn là nhân tố trọng đại quyết định thành tựu phát triển đất nước”.

Vào thập kỷ 1980, ngân sách dành cho giáo dục của Singapore mỗi năm tăng trung bình khoảng 30%. Mức chi cho giáo dục và đào tạo chỉ đứng thứ hai sau ngân sách quốc phòng, đã vượt các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản v.v; vào thập niên 1990, việc không ngừng tăng cường đầu tư cho con người, tích cực thúc đẩy cải cách và điều chỉnh giáo dục chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Singapore phát triển nhanh.

Từ năm 2005, Chính phủ Philippin đặt ra mục tiêu người dân Philippin phải được tiếp cận với một nền giáo dục (chính quy và không chính quy) giúp thể hiện toàn bộ tiềm năng của mình với tư cách là cá nhân, là thành viên của gia đình, của xã hội, của cộng đồng và của ngôi nhà chung của toàn cầu. Trong các kế hoạch phát triển trung và dài hạn của đất nước và trong từng thời kỳ Philippin luôn có kế hoạch phát triển con người. Chẳng hạn, “Kế hoạch phát triển quốc gia: hướng tới thế kỷ XXI” của Philippin đã viết “Từ năm 2005, người dân Philippin được trao quyền không chỉ khoẻ mạnh, có chế độ dinh dưỡng tốt, được giáo dục tốt, được có chỗ ở tiện lợi và an toàn về kinh tế mà họ còn được trang bị để thực hiện sự lựa chọn, được thông tin đầy đủ, được hưởng phúc lợi công bằng và quyền được lên tiêng bình đẳng trong sự phát triển của đất nước”.

1.3.2 Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Là dân tộc có truyền thống hiếu học, khả năng học tập của học sinh Việt Nam không hề thua kém học sinh các nước khác trên thế giới; song nhìn chung, do phương tiện đào tạo còn nghèo nàn, trường lớp và cơ sở vật chất lạc hậu, ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp, đội ngũ giáo viên còn có tỷ lệ chưa chuẩn đạt cao, chương trình và phương pháp dạy - học chưa được cải tiến, đời sống người giáo viên còn nhiều khó khăn v.v, đó là những

21 nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta chưa ngang bằng với các nước tiên tiến.

Phải khẳng định rằng, so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam là nước sớm có sự quan tâm tới đào tạo nguồn nhân lực; trong chiến lược phát triển của mình, Việt Nam luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Với thành tựu và sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật Việt Nam đã xác định cần phải coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, thực hiện đi tắt đón đầu trong phát triển khoa học và công nghệ; đã tăng dần tỷ trọng nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài không những chỉ là mục tiêu mà đã và đang được đẩy mạnh với quy mô ngày càng lớn ở khắp các địa phương trong cả nước, đáp ứng ngày càng cao về nguồn nhân lực tại các khu công nghiệp và phát triển nền kinh tế Việt Nam.

Những điểm tương đồng:

Thứ nhất, Việt Nam và các nước trong khu vực đều có điểm xuất phát tương đối thấp trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân số và lao động hiện nay của Việt Nam đang ở vào trình độ của các nước NIEs Đông Á vào đầu 1960 và của các nước ASEAN cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 tức là cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và phần đông lực lượng lao động vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay ở Việt Nam, thành phần chủ yếu vẫn là các loại sản phẩm sơ chế tương tự như Hàn Quốc và Đài Loan vào đầu những năm 1960. Về trình độ kỹ thuật – công nghệ, ngoại trừ một số ngành lĩnh vực riêng lẻ được trang bị công nghệ hiện đại trong những năm gần đây, trình độ kỹ thuật – công nghệ của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp, về cơ bản vẫn phải dựa chủ yếu vào các ngành sử dụng nhiều lao động có giá trị gia tăng thấp giống như các nền kinh tế khu vực trong thời kỳ đầu phát triển.

Thứ hai, Việt Nam và các nước trong khu vực đều chịu áp lực cao đối với

việc phát triển nguồn nhân lực.

Trong khu vực, đặc biệt là đối với Nhật Bản và NIEs Đông Á, áp lực cao đối với việc phát triển nguồn nhân lực xuất phát từ chỗ con người là nguồn lực dồi dào nhất mà các nền kinh tế này có được. Đối với Việt Nam hiện nay, áp lực đối với việc phát triển nguồn nhân lực một mặt xuất phát từ vấn đề lao động – việc làm; mặt khác, từ yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Mặt khác, có thể nhận xét tổng quát rằng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được đầy đủ và có hiệu quả những yêu cầu phát triển nội tại, càng không thể đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hội nhập quốc tế. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đổi mới phương thức sử dụng lao động để tận dụng có hiệu quả lợi thế lao động, tạo đà tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm và của

22 các doanh nghiệp đang được đặt ra như một điểm nút – một khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, Việt Nam và các nước trong khu vực đều có những thuận lợi cơ bản trong việc phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo, đó là:

Thuận lợi thứ nhất là, khu vực Đông Á đều chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nho giáo, với truyền thống coi trọng giáo dục, coi trọng nền tảng gia đình vững chắc, coi con người là vốn quý nhất v.v; sự thống nhất trong nhận thức của tất cả các giới liên quan trong xã hội về vai trò quyết định của yếu tố con người đã tạo ra một sự ưu tiên cao nhất cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Thuận lợi thứ hai là, con người Việt Nam cũng như ở các nước Đông Á khác đều có những quan điểm và đức tính rất cần thiết cho quá trình giáo dục và đào tạo như sự tôn vinh và coi trọng việc học tập, sự cần cù, chịu khó, ham học hỏi, cầu tiến v.v; những quan điểm và đức tính này, một mặt là sự kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, mặt khác là xuất phát từ hoàn cảnh thực tế đầy khó khăn khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển, khiến cho con người Đông Á luôn khắc ghi một điều là phải vươn lên, phải làm việc cật lực mới có cơ hội phát triển.

Thuận lợi thứ ba là, các nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa và Việt nam hiện nay đều có cơ cấu dân số tương đối trẻ. Điều này tạo thuận lợi cho quá trình học tập và đào tạo, tiếp thu kiến thức một cách năng động sáng tạo, sớm đưa đất nước hòa nhập vào quỹ đạo phát triển của nền kinh tế hiện đại.

Những khác biệt:

Những khác biệt trong bối cảnh phát triển nguồn nhân lực giữa Việt Nam hiện nay với các nước Đông Á trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa, bao gồm: Thứ nhất, áp lực và thách thức đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay là cao hơn; thứ hai, Việt Nam hiện nay có nhiều thuận lợi hơn trong việc phát triển nguồn nhân lực; thứ ba, việc đáp ứng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay cũng phức tạp hơn.

Áp lực và thách thức lớn hơn đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân: thứ nhất, Việt Nam có phần tụt hậu hơn so với một số nước trong khu vực; thứ hai, toàn thế giới đã sự nhận thức về phát triển nguồn nhân lực đã cao hơn trước; thứ ba, do nền công nghệ và tri thức trên thế giới hiện nay đã cao hơn nhiều so với cách đây hơn ba thập kỷ.

Sự tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực là một áp lực rất lớn đối với Việt Nam; do vậy, Việt Nam cần phải có một chiến lược phát triển tăng tốc trong thế kỷ XXI. Hiện nay, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đang tập trung ưu tiên cho chiến lược này nên đã gây ra những khó khăn rất lớn trong cạnh tranh để phát triển và sử dụng nguồn nhân lực. Như vậy, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay không chỉ do các yếu tố chủ quan bên trong như đói nghèo, kém phát triển ....mà còn do áp lực từ bên ngoài của trào lưu phát triển nguồn nhân lực nói chung trên thế giới.

23

Nhưng thuận lợi lớn hơn trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay so với các nước trong khu vực trước đây ở chỗ: thứ nhất, xu thế phát triển của toàn cầu và của nền kinh tế tri thức đã tạo cơ hội lớn hơn trong việc sử dụng tri thức vào mục đích phát triển của quốc gia; thứ hai, hiệu ứng lan tỏa kiến thức hiện nay là rất lớn so với trước đây (do sự bùng nổ thông tin, sự ra đời và ứng dụng các công nghệ truyền tải thông tin hiệu quả hơn, cũng như xu hướng mở cửa và giao lưu kiến thức giữa các nước ngày càng tăng). Điều này cho phép Việt Nam thuận lợi trong việc tiếp thu các công nghệ và kinh nghiệm giáo dục từ các nước khác; thứ ba, mặt bằng công nghệ và tri thức cao hơn nên nó vừa là thách thức song cũng là cơ hội đối với Việt Nam hiện nay.

Kết luận Chương 1

Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm chiến lược lâu dài nhưng cũng cần có kế hoạch cụ thể trước mắt nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước mình mà tất cả các quốc gia trên thế giới hiện đang rất quan tâm đầu tư.

Trong xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế, việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cũng mang tính toàn cầu, có thể lao động của nước này, khu vực này đến làm việc ở nước khác, khu vực khác; sự hình thành cơ chế này là do sự phát triển mãnh liệt của các công ty đa quốc gia, của sự hợp tác quốc tế, sự gia tăng dân số và thế mạnh về khả năng đào tạo của mỗi quốc gia, nhưng điều chủ yếu vẫn là do cung - cầu về lao động nói chung và nguồn nhân lực có chất lượng cao nói riêng mà mỗi quốc gia có nhu cầu; ngoài ra, còn phụ thuộc vào sự “khát” lao động hoặc chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc mà có thể dẫn đến “chảy máu chất xám”, thừa hay thiếu lao động trong nội tại mỗi quốc gia, khu vực hay thế giới. Đối với những quốc gia phát triển thì tình trạng thiếu lao động lại càng nhiều hơn, kể cả chuyên gia và lao động phổ thông; những nước đang phát triển thì có thể xuất khẩu lao động phổ thông và nhập khẩu lao động có kỹ thuật cao, chuyên gia đầu ngành v.v nhằm phục vụ quá trình phát triển kinh tế cho quốc gia nhập khẩu “chất xám”.

Ở Việt Nam, điều kiện thuận lợi là dân số đông, nguồn lao động dồi dào, khả năng cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội là rất lớn; đất nước đang trong thời kỳ hội nhập, đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì nhu cầu nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng là bài toán cần có lời giải không những đối với việc hoạch định chiến lược của Nhà nước mà chính mỗi doanh nghiệp cũng phải tự xây dựng cho mình một chiến lược với những chính sách phù hợp để không những thu hút được nhiều lao động có kỹ thuật cao mà còn giữ được lao động số lao động làm việc lâu dài trong doanh nghiệp của mình.

Do mặt bằng tri thức và công nghệ ngày càng cao thì chất lượng nguồn nhân lực cũng phải cao hơn so với trước đây để vận hành máy móc, công nghệ tiên tiến; bảo đảm cho hàng hoá tinh xảo hơn, chất lượng tốt hơn và giá cả

24 cũng rẻ hơn. Đây là, sự đòi hỏi khách quan mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi doanh nghiệp cần chú trọng để bảo đảm sự ổn định và phát triển không ngừng trong cơ chế thị trường; cho nên, giáo dục và đào tạo cần được quan tâm và đầu tư hơn nữa để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng sự đòi hỏi khách quan trong Hội nhập kinh tế Quốc tế.

25

Chương 2 THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH NINH THUẬN TRONG THỜI GIAN QUA

2.1 Giới thiệu khái quát về Ninh Thuận

2.1.1 Điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội

Về điều kiện tự nhiên:

Tỉnh Ninh Thuận thuộc khu vực Đông Nam Bộ, diện tích tự nhiên 3.360km2, có 6 đơn vị hành chính gồm một thành phố và 5 huyện; thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh. Ninh Thuận có vị trí thuận lợi nằm trên giao điểm các trục giao thông quốc gia: Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 27 đi Đà Lạt; cách thành phố Hồ Chí Minh 350km, cách thành phố Đà lạt 110 km, cách thành phố Nha Trang 100km, cách sân bay Cam Ranh 45km và cách cảng Ba ngòi (Khánh Hòa) 30km.

Địa hình Ninh Thuận thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với ba dạng địa hình: núi chiếm 63,2% gò đồi bán sơn địa chiếm 14,4%, đồng bằng ven biển chiếm 22,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.

Ninh Thuận có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình trong năm từ 26-270C, lượng mưa trung bình từ 700 - 800mm. Thời tiết có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau.

Toàn tỉnh có 27 dân tộc anh em sinh sống; trong đó, người Kinh chiếm khoảng 80% và các dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân tộc Chăm, Raglay) chiếm khoảng 20%.

Về điều kiện kinh tế - xã hội:

Năm 2006, dân số của tỉnh Ninh Thuận có 574.000 người; dự kiến đến năm 2010 có khoảng 630.000 người; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2005 khoảng 14% và đến năm 2010 có khoảng từ 25 đến 30%.

Hiện nay, tỉnh có 01 trường Cao đẳng sư phạm đào tạo trình độ Trung cấp và Cao đẳng sư phạm, 01 Trung tâm Giáo dục Thường xuyên cấp tỉnh có chức năng liên kết với các trường Đại học đào tạo ở trình độ đại học; 01 trường Trung cấp nghề đào tạo công nhân có trình độ trung cầp nghề, 01 Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp Phan Rang thực hiện đào tạo công nhân kỹ thuật bậc 3/7; đây là các cơ sở đào tạo công nhân các ngành nghề và sẽ cung cấp nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh.

Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2010 công nghiệp được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn nhằm đẩy nhanh tốc độ phát

26 triển kinh tế của tỉnh, trong đó có kế hoạch sớm đưa các khu công nghiệp của tỉnh vào hoạt động; với chiến lược phát triển này nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong tỉnh.

2.1.2 Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Thuận

Theo dự báo dân số của các ngành Thống kê và Lao động Thương binh – Xã hội của tỉnh thì quy mô dân số và nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Thuận vào năm 2010 và dự kiến năm 2015 được thể hiện qua các số liệu dự báo dân số trung bình theo giới tính và khu vực trong phụ lục số 3.

Dân số đến năm 2010 có khoảng 630.000 người, tăng 54.000 người so với năm 2006, bình quân mỗi năm tăng 10.800 người; dự báo đến năm 2015 thì dân số tỉnh Ninh Thuận là 686.000 người tăng 56.000 người so với năm 2010 và tăng 110.000 so với năm 2006, bình quân trong giai đoạn 2010 – 2015 mỗi năm tăng 11.200 người; tuy nhiên, mức tăng dân số bình quân của tỉnh là 1,63% trong khi đó mức tăng dân số bình quân của cả nước ở mức 1,3%/năm. Nếu so sánh năm 2015 với năm 2006 thì tỷ lệ nam dần dần tăng lên từ 49,2% lên 50% và tỷ lệ nữ dần dần giảm xuống từ 50,8 còn 50%; tỷ lệ thành thị cũng tăng từ 32,5% năm 2006 lên 34% năm 2010 và 36% năm 2015, điều này cho thấy việc đô thị hoá ngày càng tăng đồng nghĩa với khu vực nông thôn ngày càng giảm từ 67,5% năm 2006 còn 64% vào năm 2015.

Dân số trong độ tuổi lao động năm 2006 có là 328.400 người đến năm 2010 có 363.400 người và năm 1015 khoảng 409.734 người; giai đoạn 2006 – 2010 tăng bình quân mỗi năm khoảng 7.000 người, tốc độ tăng bình quân khoảng 2,13% và giai đoạn 2010 – 2015 tăng bình quân mỗi năm tăng 9.267 người, tốc độ tăng bình quân 2,55% số người trong độ tuổi lao động;

Bảng 2.1 Dự báo dân số tỉnh Ninh Thuận trong độ tuổi lao động từ năm 2006 -

2015

Trong đó

Năm

Đi học

Trong độ tuổi L.động Mất khả năng

L.động

Có nhu cầu làm việc

2006 2007 2008 2009 2010 2015

328.400 337.600 346.400 355.100 363.400 409.734

6.810 7.000 7.180 7.360 7.520 8.500

Nội trợ và không có nhu cầu làm việc 35.210 33.974 32.966 31.862 31.040 25.210

257.750 266.026 273.624 280.498 286.710 333.924

28.630 30.600 32.630 35.380 38.130 42.100

(Nguồn: Dự báo và điều chỉnh theo kết quả điều tra lao động, việc làm tỉnh Ninh

Thuận năm 2005)

Số người tàn tật, mất sức trong độ tuổi lao động ngày càng giảm năm 2006 chiếm 2,073%, năm 2010 chiếm 2,07% và năm 2015 cũng chiếm khoảng 2,07%; như vậy, số người mất khả năng lao động dự báo sẽ rất ổn định trong mức 2,07%, sẽ tạo điều kiện cho việc xây dựng chiến lược đào tạo và cung cấp ổn định nguồn nhân lực cho các thành phần kinh tế trong tỉnh.

27

Số người trong độ tuổi đi học ngày càng tăng, năm 2006 là 28.630 học sinh – sinh viên chiếm 8,72%, năm 2010 khoảng 38.130 học sinh – sinh viên chiếm 10,49% và năm 2015 khoảng 42.100 học sinh - sinh viên chiếm 10,28%.

Số người trong độ tuổi lao động làm công việc nội trợ và không có nhu cầu làm vịêc giảm dần, năm 2006 là 35.210 người chiếm 10,72%, năm 2010 khoảng 31.040 người chiếm 8,54% và năm 2015 khoảng 25.210 chiếm 6,15%;

Dự báo cung lực lượng lao động - nhu cầu lao động theo số liệu trong phụ lục số 5 thì số lượng lao động ngày càng tăng từ 271.663 người năm 2006 lên 303.710 người vào năm 2010 và lên 355.924 người vào năm 2015; trong đó, số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc so với tổng lực lượng lao động tăng đáng kể từ 257.750 người năm 2006 lên 286.710 người vào năm 2010 và lên 333.924 người vào năm 2015; với số lao động trong độ tuổi này sẽ cung cấp một lượng lao động phong phú cho các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động.

Bảng 2.2 Dự báo dân số tỉnh Ninh Thuận

Dự báo các giai đoạn (người)

Stt

Chỉ tiêu

Năm 2010 số người Tỷ lệ

Năm 2006

%

Tỷ lệ %

Tổng dân số

1 2 Dân số trong độ tuổi lao động 3 Lực lượng lao động (*) 4 Nhu cầu sử dụng lao động

573.925 344.714 271.663 262.400

Năm 2015 Số người 686.000 397.924 355.924 340.745

630.000 363.400 303.710 296.300

5

181.580

192.552

63,40

179.742

50,5%

6

23.620

33.713

11,10

78.303

22%

7

Lao động trong ngành Nông – Lâm, Ngư - Thủy sản Lao động trong ngành Tiểu thủ công nghiệp và Xây dựng Lao động Thương mại - Dịch vụ

57.200

70.035

23,06

88.981

25%

(Nguồn: Dự báo và điều chỉnh theo kết quả điều tra lao động, việc làm tỉnh Ninh

Thuận năm 2005)

Theo số liệu trong Bảng 2.2, thì năm 2006 nhu cầu sử dụng lao động của tỉnh là 262.400 lao động, dự báo năm 2010 là 296.300 lao động và năm 2015 khoảng 340.745 lao động; bình quân trong giai đoạn 2006 – 2010 mỗi năm tạo ra khoảng 6.780 chỗ làm việc và dự báo giai đoạn 2010 – 2015 bình quân mỗi năm sẽ tạo được 8.889 chỗ việc làm cho người lao động tăng 31,11% so với giai đoạn 2006 - 2010.

2.1.3 Sự hình thành và hệ thống các khu công nghiệp trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận

2.1.3.1 Khái quát chung về các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận.

Hiện nay, trên cơ sở ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã thành lập hai khu công nghiệp Du Long (thuộc

28 địa bàn huyện Thuận Bắc) và Phước Nam (thuộc huyện Ninh Phước) theo dự án được duyệt thì hai khu công nghiệp này có quy mô tương đối lớn so với các khu công nghiệp khác trong nước, hoạt động sản xuất đa ngành, đa lĩnh vực;

Trước khi thành lập hai khu công nghiệp thì tỉnh Ninh Thuận đã thành lập hai cụm công nghiệp, đó là: Cụm Công nghiệp Tháp Chàm và Cụm Công nghiệp Thành Hải, cả hai cụm công nghiệp này đã có một số nhà đầu tư và đang hoạt động sản xuất – kinh doanh, còn hai khu công nghiệp thì đang ở bước đầu tư hạ tầng và chuẩn bị khai thác vào cuối năm 2008; qua khảo sát tại hai Cụm công nghiệp Tháp Chàm và Thành Hải thì các doanh nghiệp (phụ lục số 7 và số 8) đều hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng quy mô còn hạn chế và còn đơn điệu về chủng loại hàng hoá.

Qua nghiên cứu tại hai cụm công nghiệp cho thấy các doanh nghiệp đầu tư chủ yếu là các doanh nghiệp trong tỉnh, có một số doanh nghiệp trong nước nhưng số vốn đầu tư thấp, tiến độ triển khai dự án chậm, quy mô sản xuất ở mức vừa và nhỏ, lực lượng lao động trong các cụm công nghiệp không nhiều.

Khác với các cụm công nghiệp, theo số liệu nghiên cứu của chúng tôi thì thì các khu công nghiệp của tỉnh có quy mô lớn hơn cả về quy mô và chủng loại hàng hoá, các nhà đầu tư có tính chuyên nghiệp và thể hiện tầm cỡ quốc tế trong hoạt động đầu tư, cụ thể như sau:

* Đối với Khu Công nghiệp Du long:

Khu Công nghiệp Du Long được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại công văn số 256/TTg- CN ngày 14/03/2005 bổ sung vào qui hoạch phát triển khu công nghiệp cả nước đến năm 2010.

Ngày 26 tháng 05 năm 2005 Bộ Xây dựng đã có quyết định số 1142/QĐ- BXD phê duyệt Quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/2000) Khu Công nghiệp Du Long với tổng diện tích 407,28 ha nằm trên địa bàn hai xã Lợi hải và Bắc Phong thuộc huyện Thuận Bắc (giai đoạn hai sẽ mở rộng lên từ 600 – 800 ha về phía tây và phía nam).

Bảng 2.3 Quy hoạch chi tiết Khu Công nghiệp Du Long

Stt

Tỷ lệ%

Loại đất

Diện tích (ha)

1 Đất xây dựng nhà máy 288,95 70,95

2 Đất xây dựng trung tâm điều hành 12,93 3,17

3 Đất xây dựng công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật 12,72 3,12

4 Đường giao thông 45,22 11,10

5 Đất cây xanh 47,46 11,65

Nguồn: Quyết định số 1142/QĐ- BXD Ngày 26 tháng 05 năm 2005 của Bộ Xây dựng.

6 Cộng 407,28 100

29

Ngày 27 tháng 04 năm 2007 Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Liên doanh Công ty Huachen Long Đức Phong (Trung Quốc) và công ty Hoàng Quân (thành phố Hồ Chí Minh) thành lập Liên danh để đầu tư và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiêp Du Long.

Ngày 30 tháng 6 năm 2008, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có Quyết định số 3848/QĐ-UBND, thành lập Khu Công nghiệp Du Long thuộc tỉnh Ninh Thuận; ngành nghề kinh doanh là: Đầu tư, xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, bao gồm cả việc xây dựng nhà xưởng, văn phòng, kho bãi trong khu công nghiệp để cho thuê hoặc bán.

Theo qui hoạch được duyệt thì Khu công nghiệp Du Long thu hút các

loại hình đầu tư như sau:

- Công nghiệp điện tử, tin học và các ngành công nghệ cao.

- Công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy.

- Công nghiệp cơ khí, chế tạo máy.

- Công nghiệp vật liệu xây dựng.

- Công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản.

- Sản xuất hàng tiêu dùng.

* Đối với Khu công nghiệp Phước Nam

Dự án Khu Công nghiệp Phước Nam, tỉnh Ninh Thuận được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số 1050/TTg ngày 06 tháng 7 năm 2006 và ngày 16 tháng 08 năm 2006 Bộ Xây dựng đã có quyết định số 1151/QĐ- BXD phê duyệt Qui hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/2000) khu công nghiệp Phước Nam với tổng diện tích 369,92 ha nằm trên địa bàn xã Phước Nam thuộc huyện Ninh Phước; cụ thể như sau:

Bảng 2.4 Quy hoạch chi tiết Khu công nghiệp Phước Nam

Stt

Loại đất

Diện tích (ha) Tỷ lệ%

1 Đất xây dựng nhà máy, kho tàng 247,20 66,82

2 Đất xây dựng trung tâm điều hành và dịch vụ 8,10 2,19

công cộng

3 Đất giao thông 43,73 11,82

4 Đất cây xanh, mặt nước 58,86 15,92

5 Đất các công trình kỹ thuật 12,03 3,25

Nguồn: Quyết định số 1151/QĐ- BXD ngày 16 tháng 08 năm 2006 Bộ Xây dựng.

6 Cộng 369,92 100

Ngày 16 tháng 3 năm 2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty Cổ phần Đầu tư Trung Quý Ninh Thuận

30 thực hiện đầu tư và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Phước Nam. Ngày 30 tháng 6 năm 2008, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có Quyết định số 3849/QĐ-UBND, thành lập Khu Công nghiệp Phước Nam thuộc tỉnh Ninh Thuận.

Theo qui hoạch thì Khu công nghiệp Phước Nam là khu công nghiệp đa

ngành thu hút các loại hình đầu tư như sau:

- Công nghiệp điện tử, tin học và các ngành công nghệ cao.

- Công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy.

- May mặc, giầy da xuất khẩu.

- Công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, thực phẩm.

- Đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu.

Đến nay, nhà đầu tư hạ tầng (Công ty Cổ phần Đầu tư Trung Quý) đang triển khai xây dựng hạ tầng trên phạm vi khu đất giai đoạn 1 là 151 ha); bao gồm các hạng mục: Đường giao thông, san lấp mặt bằng: đã hoàn thiện san lấp, lu lèn mặt bằng, trồng cây xanh, lắp đặt hệ thống điện, hệ thống thoát nước v.v.

2.1.3.2 Hệ thống tổ chức hoạt động của các khu công nghiệp

Theo quy định thì các Cụm Công nghiệp Tháp Chàm và Thành Hải cùng với các Khu Công nghiệp Du Long và Phước Nam đều đặt dưới sự quản lý về mặt nhà nước và điều hành của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận;

Tổ chức bộ máy của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp của tỉnh gồm có 01 Trưởng ban và 02 Phó Trưởng ban; hệ thống giúp việc có 20 người được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, bộ máy có 01 Văn phòng và 02 Phòng nghiệp vụ; theo kế hoạch được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt thì Ban có 02 Trung tâm trực thuộc là: Trung tâm Xúc tiến đầu tư và Dịch vụ việc làm và Trung tâm giới thiệu sản phẩm cho các Nhà đầu tư.

Căn cứ vào tình hình hoạt động, Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh sẽ thành lập văn phòng đại diện tại mỗi Khu công nghiệp và mỗi văn phòng sẽ có một số cán bộ thường trực để tổng hợp tình hình hoạt động và giải quyết những thủ tục hành chính theo quy định của Nhà nước cho các nhà đầu tư.

+ Đối với Khu Công nghiệp Du Long: Hiện nay, Liên danh Công ty TNHH Huachen Long Đức Phong (Trung Quốc) – Công ty Hoàng Quân (Việt Nam) hiện nay, Nhà đầu tư đã khởi công và đầu tư hạ tầng kỹ thuật; nhưng theo báo cáo của Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Ninh Thuận thì Khu công nghiệp Du Long đã có 25 doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đăng ký đầu tư và dự kiến hoạt động vào cuối năm 2008.

+ Đối với Khu Công nghiệp Phước Nam: Cũng giống như Khu Công nghiệp Du Long, hiện nay Công ty Cổ phần Đầu tư Trung Quý là nhà đầu tư sơ cấp đang thi công phần hạ tầng kỹ thuật, đã kêu gọi và đã có 13 doanh nghiệp trong và ngoài nước đăng ký đầu tư và dự kiến sẽ có một số doanh

31 nghiệp hoạt động vào cuối năm 2008. Việc quản lý và kêu gọi đầu tư do nhà đầu tư sơ cấp thực hiện.

2.2 Thực trạng về nguồn nhân lực trong các khu công nghiệp Du

Long và Phước Nam của tỉnh Ninh Thuận

2.2.1 Tình hình quản lý nguồn nhân lực

Như trên đã trình bày, hiện nay các Khu Công nghiệp Du Long và Phước Nam đang đầu tư cơ sở hạ tầng và kêu gọi đầu tư, do cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện nên các doanh nghiệp chưa triển khai sản xuất kinh doanh và chưa tuyển lao động.

Theo báo cáo của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh Ninh Thuận và qua khảo sát, nghiên cứu thực tế tại các Khu Công nghiệp này thì có thể đánh giá rằng, các nhà đầu tư thứ cấp đang chuẩn bị đầu tư lớn vào các ngành sản xuất công nghiệp, với mục tiêu là tạo thế mạnh để cạnh tranh với các hàng hoá nhập khẩu;

Cho nên, trong năm 2008 sẽ có nhiều Dự án đầu tư đồng bộ tại đây; nhu cầu nguồn nhân lực làm việc tại các khu công nghiệp này sẽ rất lớn, với nhiều chuyên ngành khác nhau; để có thể sớm chủ động được nguồn nhân lực có chất lượng cao, thì đòi hỏi tỉnh Ninh Thuận cần sớm có chiến lược đào tạo và thu hút nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất và kinh doanh tại các khu công nghiệp này; trước mắt, là xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực cho thời kỳ 2010 đến 2015. Theo dự báo của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh thì khả năng từ năm 2010 trở đi các nhà đầu tư thứ cấp sẽ đầu tư ồ ạt vào các khu công nghiệp này.

Theo số liệu ban đầu của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh và của các Công ty đầu tư (Công ty Cổ phần Đầu tư Trung Quý và Liên danh Công ty Huachen Long Đức Phong - Hoàng Quân) thì sau khi làm lễ khởi công thì đã có nhiều nhà đầu tư thứ cấp đăng ký với hai Công ty đầu tư sơ cấp đầu tư tại hai khu công nghiệp này, cụ thể như sau:

+ Khu Công nghiệp Du Long hiện có 25 công ty đăng ký đầu tư; bao gồm, có 24 công ty nước ngoài và 01 công ty trong nước đầu tư, số lao động cần có là 28.252 người; trong đó, số lao động sẽ có ngay sau khi thành lập là 6.308 người và số lao động cần cung cấp bổ sung là 21.944 người. Các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sau:

- Điện - điện tử - sắt thép: có 03 doanh nghiệp

- Vật liệu xây dựng: có 02 doanh nghiệp

- May mặc: có 05 doanh nghiệp

- Kim loại màu phục vụ trong ngành xây dựng: có 05 doanh nghiệp

- Kim loại màu phục vụ trong ngành công nghiệp: có 03 doanh nghiệp

- Kim loại màu phụ vụ trong ngành điện cơ: có 01 doanh nghiệp

- Kinh doanh nhà hàng: có 02 doanh nghiệp

32

- Sản xuất đồ nhựa và nghệ thuật vườn: có 01 doanh nghiệp

- Sản xuất đồ chơi và thiết bị trong công viên: có 01 doanh nghiệp

- Xuất - nhập khẩu: có 01 doanh nghiệp

- Sản xuất Ô tô các loại: có 01 doanh nghiệp.

Như vậy, với số lượng doanh nghiệp đầu tư vào Khu Công nghiệp Du Long trong giai đoạn đầu tuy chưa nhiều so với các khu công nghiệp khác trong khu vực và trong nước nhưng đã cho thấy hoạt động đầu tư tại tỉnh Ninh Thuận đã được khởi sắc, vực dậy một tiềm năng trên mãnh đất khô hạn tại khu vực phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận, dự kiến đến năm 2015 thì sẽ thu hút các nhà đầu tư đến đầu tư và có thể lấp đầy khu công nghiệp này.

Do các doanh nghiệp chưa hoạt động; cho nên, chưa có đánh giá chính xác tình hình quản lý lao động trong khu công nghiệp này. Trong giai đoạn đầu, theo số liệu báo cáo của Ban Quản lý các Khu Công nghiệp thì 100% các nhà đầu tư đã có hướng điều động một số kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và thợ có kinh nghiệm từ công ty mẹ hoặc từ các công ty thành viên đến làm việc tại Khu Công nghiệp này nhằm đảm bảo cho dây chuyền hoạt động có hiệu quả ngay từ ngày khai trương; đồng thời, đây là lực lượng quan trọng để hướng dẫn và đào tạo lại cho số kỹ thuật, thợ mà họ sẽ tuyển trên địa bàn tỉnh Ninh thuận và các tỉnh khác trong cả nước làm việc tại doanh nghiệp của họ.

Tuy mới ở giai đoạn đầu nhưng với số lao động đăng ký từ năm 2010 đến năm 2011 đã là 49.527 người, trong đó số Kỹ sư là 6.698 người, Trung cấp chuyên nghiệp là 5.875 người, công nhân nghề các loại là 39.870 người và nhân viên khác là 1.660 người (số này chủ yếu là nhân viên văn phòng, lễ tân, Maketting, lái xe, kho bãi v.v); qua đó, cho thấy quy mô sản xuất của nhà đầu tư ngày càng lớn, nhu cầu lao động tuyển làm việc trong Khu Công nghiệp này là rất lớn, với yêu cầu là số lao động làm việc tại doanh nghiệp phần lớn là đã qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng lại có kinh nghiệm thì lại càng được các doanh nghiệp coi trọng để xây dựng các chính sách thu hút lao động và đào tạo lao động cho chính doanh nghiệp mình.

Tất cả các ngành sản xuất – kinh doanh mà các doanh nghiệp đầu tư vào Khu Công nghiệp Du Long đều có những yêu cầu cao về nguồn nhân lực, nhiều ngành cần tuyển nhiều kỹ sư, đặc biệt là các ngành Điện tử, Kim loại màu trong sản xuất vật liệu xây dựng, trong sản xuất công nghiệp, sản xuất ô tô đều là những ngành mà bất kỳ các khu công nghiệp nào trong nước cũng đang rất cần; trong khi số kỹ sư này ra trường hàng năm thì rất ít, việc tuyển kỹ sư là một bài toán khó cần có hướng giải quyết và có sự can thiệp của nhà nước, của các cấp chính quyền từ Tỉnh đến Trung ương.

Trong thời gian từ nay đến năm 2011, cả Khu Công nghiệp cần khoảng 2.122 kỹ sư các loại mà khả năng các doanh nghiệp mới tự chủ động được khoảng 501 người bằng 23,6%, số cần tuyển bổ sung là 76,4%; số nhân lực có trình độ trung cấp chuyên nghiệp cần khoảng 5.875 người, khả năng doanh nghiệp có thể chủ động được khoảng 1.152 người (19,61%), số cần tuyển bổ sung là 4.723 người (80,39%); cũng như nhu cầu nhân lực có trình độ là kỹ sư

33 và trung cấp chuyên nghiệp, số lao động đã qua đào tạo nghề cần khoảng 39.870 người, khả năng doanh nghiệp chủ động được khoảng 4.460 người (11,18%), số cần tuyển bổ sung 35.410 người (88,82%).

+ Khu Công nghiệp Phước Nam dự kiến từ năm 2008 đến năm 1010 có

13 nhà đầu tư đầu tư vào các lĩnh vực sau:

- Đầu tư vào lĩnh vực chế biến sản phẩm nông nghiệp có 02 doanh

nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chế biến hải sản có 01 doanh nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực may mặc có 02 doanh nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp có 04 doanh nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hải sản có 01 doanh nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng có 02 doanh nghiệp

- Đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phụ tùng Ô tô có 01 doanh nghiệp

Qua số liệu do Ban Quản lý các Khu Công nghiệp của tỉnh cung cấp cho ta thấy, so với Khu Công nghiệp Du Long thì số nhà đầu tư vào Khu Công nghiệp Phước Nam giai đoạn 2008 – 2010 ít hơn cả về số lượng và quy mô đầu tư, với 13 nhà đầu tư và nhu cầu lao động là 32.820 người; tuy nhiên, thì đây cũng mới chỉ là ước tính cho giai đoạn đầu và khi đi vào hoạt động thì có thể sự gia tăng về đầu tư sẽ diễn ra vì chính sách thu hút đầu tư của tỉnh đang thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư.

Theo dự tính của Ban Quản lý Khu Công nghiệp thì các nhà đầu tư đăng ký đầu tư giai đoạn 2010 – 2015 sẽ tăng lên khoảng ba lần và nhu cầu lao động sẽ tăng gấp nhiều lần so với giai đoạn 2008 – 2010, dự kiến đến năm 2015 sẽ lấp đầy khu công nghiệp này. Mặc dù vậy, nhưng so với các khu công nghiệp khác trong khu vực và trong nước thì chưa phải là lớn nhưng đối với Ninh Thuận thì Khu Công nghiệp Phước Nam có một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó đã làm biến đổi cả một vùng đất khô cằn phía Nam của tỉnh; tạo được nhiều công ăn việc làm cho nhân dân trong tỉnh, nhất là vùng này lại có đông đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống.

Cũng như Khu Công nghiệp Du Long, Khu Công nghiệp Phước Nam hiện tại cũng chưa có doanh nghiệp nào hoạt động; cho nên, chưa có cơ sở đánh giá chính xác tình hình quản lý lao động trong khu công nghiệp này, nhưng điều quan trọng là ngay trong năm 2008 sẽ có 10 nhà đầu tư vào đầu tư và chính thức hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2009, có thêm 04 nhà đầu tư mới và 9 nhà đầu tư cũ mở rộng quy mô đầu tư, năm 2010 cả 13 nhà đầu tư này đều mở rộng quy mô theo đúng Dự án mà các nhà đầu tư đã cam kết với tỉnh Ninh Thuận (trong khi đó, Khu Công nghiệp Du Long thì đến năm 2010 mới có doanh nghiệp hoạt động), với kinh nghiệm hoạt động trước so với Khu Công nghiệp Du Long và chính sách kêu gọi đầu tư hấp dẫn của tỉnh cùng với cơ chế cởi mở của nhà đầu tư sơ cấp (Công ty CP đầu tư Trung Quý) thì sẽ có nhiều nhà đầu tư mới với quy mô lớn hơn, sẽ có nhiều công ty đa quốc gia đầu

34 tư và nhu cầu nguồn nhân lực sẽ là rất lớn so với khả năng cung cấp nguồn nhân lực của tỉnh.

Trong giai đoạn 2008 - 2010, theo số liệu báo cáo của Ban Quản lý các khu Công nghiệp thì 100% các doanh nghiệp ngay từ thời điểm khánh thành đã có kế hoạch điều động một số kỹ sư, kỹ thuật có trình độ trung cấp và thợ có kinh nghiệm từ công ty mẹ hoặc từ các công ty thành viên đến làm việc tại Khu Công nghiệp này nhằm đảm bảo cho dây chuyền hoạt động ngay từ ngày khai trương; đồng thời, đây là lực lượng quan trọng giúp các doanh nghiệp thực hiện việc hướng dẫn và đào tạo lại cho số cán bộ kỹ thuật và công nhân mới tuyển làm việc tại doanh nghiệp của họ.

Dự kiến từ năm 2008 đến 2010 số nhân lực làm việc trong khu công nghiệp là 32.820 người, ban đầu các nhà đầu tư đã điều động một số cán bộ và đội ngũ kỹ thuật từ các công ty của họ đến khu công nghiệp này để làm việc, dự tính khoảng 12.170 người và số cần tuyển bổ sung là 20.650 người; trong đó, số kỹ sư khoảng 1.000 người (đã có là 300 người), Trung cấp chuyên nghiệp khoảng 4.040 người (đã có 1.310 người), công nhân nghề các loại khoảng 21.300 người (đã có 7.050 người) và nhân viên khác khoảng 6.480 người (đã có 3.510 người);

Từ nay đến năm 2010 chỉ còn hai năm nhưng Khu Công nghiệp Phước Nam cần rất nhiều lao động có trình độ, cụ thể: cần khoảng 1.000 kỹ sư các loại là vô cùng lớn, trong khi khả năng các doanh nghiệp có thể tự chủ động được khoảng 300 người (bằng 30%), số còn lại cần tuyển bổ sung là 70%; số nhân lực có trình độ trung cấp chuyên nghiệp cần khoảng 4.040 người, khả năng doanh nghiệp có thể chủ động được khoảng 1.310 người (32,43%), số cần tuyển bổ sung là 2.730 người (67,57%); số lao động đã qua đào tạo nghề cần khoảng 21.300 người, khả năng doanh nghiệp chủ động được khoảng 7.050 người (33,1%), số cần tuyển bổ sung 14.250 người (66,9%).

Những doanh nghiệp sản xuất trong năm 2008, đã có kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất vào năm 2009 và năm 2010, nhu cầu tuyển lao động là rất lớn, nhất là lao động đã được đào tạo hoặc có nhiều kinh nghiệm; nên việc các doanh nghiệp điều lao động từ các doanh nghiệp khác của mình đến làm việc trong Khu Công nghiệp Phước Nam trong thời gian đầu là vô cùng hợp lý và cần thiết trong điều kiện tỉnh Ninh Thuận có dân số ít, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực đã qua đào tạo còn hạn chế, số cơ sở đào tạo còn quá mỏng như hiện nay.

Nhưng về lâu dài thì các doanh nghiệp cần chủ động trong việc liên kết với các cơ sở đào tạo trong nước để đào tạo lao động cho doanh nghiệp mình; đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tham gia vào việc xây dựng chiến lược đào tạo của tỉnh, nhất là đối với những ngành nghề mà doanh nghiệp đang cần tuyển, song song với hình thức này thì doanh nghiệp cần có các chính sách để thu hút lao động đã qua đào tạo từ các nơi khác, doanh nghiệp khác đến làm việc tại doanh nghiệp mình.

35

Các ngành sản xuất – kinh doanh mà các doanh nghiệp đầu tư vào Khu Công nghiệp Phước Nam đều có những yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực, cần tuyển nhiều kỹ sư, đặc biệt là các ngành Điện tử, Kim loại màu, sản xuất phụ tùng Ô tô; số lao động kỹ thuật này đều là những ngành mà bất kỳ các khu công nghiệp nào trong nước cũng đang rất cần; trong khi số kỹ sư này ra trường hàng năm còn rất ít, việc tuyển kỹ sư và công nhân kỹ thuật bậc cao là một bài toán khó không những đối với thị trường lao động trong nước mà đối với cả thị trường lao động ở các nước phát triển. Để làm được điều đó thì các cấp chính quyền từ tỉnh đến Trung ương phải chủ động đaư ra những giải pháp phù hợp như: thành lập mới các cơ sở đào tạo, mở rộng các cơ sở đào tạo hiện có, tăng quy mô, mở rộng loại hình và ngành nghề đào tạo nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp của cả nước nói chung và khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận nói riêng.

2.2.2 Tình hình đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực cho các Khu

công nghiệp

Hệ thống các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận còn quá mỏng so với nhu cầu học tập của nhân dân và trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài sẽ khó có thể đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh; trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận hiện nay chỉ có một số cơ sở đào tạo như sau:

- 01 Trường Cao đẳng sư phạm thực hiện đào tạo giáo viên cho ngành

giáo dục với quy mô đào tạo mỗi năm khoảng 500 học sinh – sinh viên;

- 01 Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh thực hiện liên kết với các trường Đại học tuyển sinh đào tạo hệ tại chức, chuyên tu, từ xa cho nhân dân trong tỉnh, hằng năm thực hiện liên kết tuyển sinh và đào tạo khoảng 300 sinh viên hệ tại chức ở các ngành : Kinh tế, xây dựng, điện, nông lâm, thuỷ sản v.v;

- 01 Trường Trung cấp Nghề (trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội) trung bình mỗi năm đào tạo trên 400 công nhân kỹ thuật các ngành điện công nghiệp, điện dân dụng, may công nghiệp, hàn, sữa chữa ôtô – xe máy, công nhân xây dựng v.v;

- Ngoài các đơn vị trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã giao cho Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp Phan Rang, mỗi năm đào tạo trên 200 công nhân kỹ thuật chủ yếu là các ngành: Hàn, tiện, điện dân dụng, cơ khí và sữa chữa Ôtô – xe máy.

Nhìn chung, sau khi tốt nghiệp toàn bộ số học sinh – sinh viên đều có việc làm, một số thì do các cơ quan quản lý Nhà nước cử đi học thì sau khi học xong sẽ trở lại cơ quan đó làm việc, một số thì do các doanh nghiệp cử đi học sau đó trở lại chính doanh nghiệp đó làm việc, số học sinh – sinh viên mới thì các cơ quan quản lý Nhà nước tuyển dụng hoặc các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển dụng, số khác thì học để thêm kiến thức quản lý và đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp v.v.

- Tình hình sử dụng nhân lực tại các khu công nghiệp

36

Thực tế, trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chỉ mới hình thành hai Cụm Công nghiệp, đó là: Cụm Công nghiệp Tháp Chàm và cụm Cụm Công nghiệp Thành Hải, cả hai cụm công nghiệp này đã có các doanh nghiệp đầu tư và hoạt động sản xuất – kinh doanh, còn hai Khu Công nghiệp Du Long và Phước Nam thì đang ở bước đầu tư hạ tầng và kêu gọi đầu tư; tình hình sử dụng nhân lực tại hai Cụm Công nghiệp của tỉnh như sau:

+ Cụm Công nghiệp Thành Hải:

Bảng 2.5 Số lao động làm việc trong cụm công nghiệp Thành Hải tỉnh Ninh

Thuận

Tiến độ thực hiện

Stt

Tên Nhà đầu tư

Tiến độ xây dựng

Lao động (người)

Ngành nghề sản xuất – Kinh doanh

Diện tích thuê (ha)

Vốn đầu tư (triệu đồng VND)

150

1 Công

ty CP

SX Vang Nho

21.000

2.38

2005 - 2010

Thăng Long

Hoàn thành giai đoạn 1- NM đang hoạt động

4.000

0,40

2 Công

220

SX bê tông ly tâm

2004 - 2006

Hoàn thành đang SX

ty CP Xây dựng 17- Vinaconex 17

84.070

4,54

3 Công

1.800

May CN xuất lhẩu

2005 - 2006

Hoàn thành đang SX

ty TNHH TM- XD-DV may XK Hoàng Anh - OIC

200

15.192

3,73

Chế biến đá Granite

2007 - 2008

ty CP chất sản

Đang SX và đầu tư giai đoạn 2 mở rộng nhà xưởng

4 Công địa khoáng Việt Nam

450

Hoàn thành đang SX

18.597

3,67

5

2006 - 2007

Công ty TNHH TM – Hoàng XD Nhân

Bê tông tươi - Bê tông nhựa - cấu kiện bê tông đúc sẳn - mạ kẽm Inox - Sơn tĩnh điện

1.229

1,25

120

Hoàn thành đang SX

Chế biến thạch cao

2005 - 2006

6 Xí nghiệp chế biến thạch cao (Cty muối Ninh thuận)

2.500

0,10

2007

200

Hoàn thành đang SX

7 Bưu điện tỉnh Ninh Thuận

Hoạt động dịch vụ Bưu chính - viễn thông

8 Công

12.182

1,18 Đang trình phê duyệt Dự án

500

Sản xuất thuốc lá điếu

đầu tư

ty TNHH một viên thành thuốc lá Sài Gòn

9

Cộng

158.770

17,25

3.640

Nguồn: Ban Quản lý Các Khu Công nghiệp tỉnh Ninh Thuận (tháng 5/2008)

37

Cụm Công nghiệp này nằm sát Quốc lộ IA, Tỉnh đã có nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, nhưng hiện tại cũng chỉ mới có 08 doanh nghiệp đầu tư trong cụm công nghiệp này và chủ yếu là các doanh nghiệp trong tỉnh quy mô đầu tư nhỏ; tỉnh có chủ trương đưa tất cả các nhà máy sản xuất trong khu vực nội thành của thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ra các khu hoặc cụm công nghiệp nên họ đã chuyển đến sản xuất - kinh doanh tại đây; bên cạnh đó, muốn đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước nên họ đã chuyển việc đầu tư vào các cụm công nghiệp để mở rộng ngành nghề và nâng công suất, tăng sản lượng; nhưng nhìn chung các doanh nghiệp này đều có quy mô nhỏ, có khi là rất nhỏ so với các nhà đầu tư nước ngoài như: Xí nghiệp chế biến thạch cao (Công ty muối Ninh thuận) có số vốn đầu tư chỉ có 1.229 tr.đ, tổng số lao động của Công ty này chỉ có 120 người nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, quy trình sản xuất còn đơn sơ, chưa có tính chuyên nghiệp, sản phẩm sản xuất chủ yếu dùng trong nội tỉnh, số cán bộ kỹ thuật chỉ chiếm 5% so với tổng số lao động trong doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp khác chủ yếu là gia công và chế biến thô chứ chưa có sản phẩm tham gia xuất khẩu (trừ Công ty Công ty TNHH TM-XD-DV may XK Hoàng Anh);

Công ty Công ty TNHH TM-XD-DV may Xuất khẩu Hoàng Anh, tuy là doanh nghiệp có số lao động đông nhất trong Cụm Công nghiệp Thành Hải nhưng số lao động làm việc ở đây đa số là nữ (chiếm trên 90%) số lao động đang làm việc thì chưa được đào tạo chuyên sâu hoặc chưa qua các trường chuyên nghiệp (số qua đào tạo từ 18 tháng trở lên chỉ chiếm 12%) số còn lại là đào tạo nghề ngắn hạn có thời gian dưới 3 tháng hoặc doanh nghiệp tuyển vào sau đó đào tạo tại doanh nghiệp, tức là sẽ cho đào tạo trên lớp khoảng 1 tuần sau đó cho tham gia vào các dây chuyền làm nút, khuy, gia công những hàng thông thường trong thời gian khoảng 3 tháng đầu, sau đó mới được giao máy may độc lập. Mặc dù vậy, việc tuyển dụng cũng rất khó khăn, nguyên nhân, là do công nhân phải làm việc mỗi ngày từ 10 đến 12 giờ trở lên, có khi tăng ca thời gian làm việc có thể lên tới 14 giờ/ngày, cường độ làm việc là vậy song thu nhập bình quân tại đây cũng chỉ ở mức 1,0 đến 1,2 triệu đồng/người/tháng (nếu làm đủ 30 ngày/tháng và thời gian làm việc ổn định bình quân là 11 giờ/ngày). Cho nên, nhiều công nhân sau khi làm việc ở đây một thời gian đã cảm thấy sức khoẻ không đảm bảo và với mức thu nhập thấp nên đã xin nghỉ hoặc chuyển sang doanh nghiệp khác có điều kiện làm việc tốt hơn và mức lương cao hơn.

38

+ Cụm Công nghiệp Tháp Chàm:

Bảng 2.6 Số lao động làm việc trong cụm công nghiệp Tháp Chàm tỉnh Ninh

Thuận

Tiến độ thực hiện

Stt

Tên Nhà đầu tư

Ngành nghề sản xuất – Kinh doanh

Diện tích thuê (ha)

Tiến độ xây dựng

Lao động đang làm việc (người)

Vốn đầu tư (triệu đồng)

1

1.386

1,14

2008 Hoàn

thành

150

Công ty TNHH Phú Thủy

Ép dầu từ vỏ hạt điều

đang SX

2

1.424

1,14

250

Chế biến hải sản khô

Công ty TNHH Thương mại Hải Đông

2007 - 2008

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

11.147

1,59

hoàn

205

3 Xí nghiệp XD – TM Cơ khí Ngọc Sơn

SX sản phẩm cơ khí

Chưa thành

2007 -

2008

4 Doanh nghiệp TM

5.950

2,99

trình

60

Thanh Vân

Chế biến gỗ - xay sát gạo

Đang duyệt dự án

2007 - 2008

5

biến

12.597

2,10

thành

2.100

Công ty XK Nông sản Ninh Thuận

Chế Nông sản

Hoàn đang SX

2005 - 2008

70

1.515

0,72

2007 – 2008

6 Doanh nghiệp SX TM – XD Ánh Dương

Chế biến Lâm sản và kho chứa

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

70

7 Doanh nghiệp TM –

3.500

1,39

XD Đại Vinh

2007 – 2008

Chế biến gỗ - sắt – nhôm - Inox

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

8

Cộng

37.519

11,07

2.905

Nguồn: Ban Quản lý Các Khu Công nghiệp tỉnh Ninh Thuận (tháng 5/2008)

Cụm Công nghiệp Tháp Chàm có 07 doanh nghiệp, số lượng lao động làm việc tại đây chỉ có 2.905 người, trong đó có 30 kỹ sư chuyên ngành, 15 kỹ sư làm khác ngành, 15 cử nhân các loại; trung cấp có 50 người, số lao động được đào tạo nghề từ 3 tháng đến dưới một năm có 150 người, còn lại đa số là lao động phổ thông làm theo kinh nghiệm.

Trong số các doanh nghiệp có sử dụng lao động nhiều như: Công ty Xuất khẩu Nông sản Ninh Thuận có khoảng 2.100 người thì số lao động đã qua đào tạo từ trung cấp trở lên khoảng 50 người (2,38%), số còn lại (97,62%) là lao động phổ thông làm theo thời vụ;

Cũng tương tự như Công Xuất khẩu nông sản thì Công ty TNHH Thương mại Hải Đông (Chế biến hải sản khô) có 250 lao động nhưng chỉ có 2,25% số lao động đã qua đào tạo, số còn lại là lao động phổ thông;

39

Các doanh nghiệp như: Xí nghiệp XD – TM Cơ khí Ngọc Sơn sản xuất sản phẩm cơ khí có 205 người, thì cũng không khác nhiều so với các doanh nghiệp trên, nhiều lao động chỉ làm theo kinh nghiệm truyền từ Cha, anh, em bạn bè mà có chứ chưa được đào tạo như các thợ hàn, mài, tiện, cắt sắt v.v sản phẩn cũng chỉ gia công lại máy công nông, máy gặt bằng chân, cửa sắt v.v chứ không phải là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp.

Các doanh nghiệp còn lại như Doanh nghiệp Thương mại Thanh Vân (chế biến gỗ - xay sát gạo), Doanh nghiệp SX - TM – XD Ánh Dương (Chế biến Lâm sản và kho chứa), Doanh nghiệp TM – XD Đại Vinh (chế biến gỗ- sắt – nhôm – Inox) thì cũng sản xuất nhỏ lẻ và chưa mang tính công nghiệp, số lao động chưa qua đào tạo cũng hơn 95%.

Việc sử dụng nhân lực trong cụm công nghiệp Thành Hải và Tháp Chàm đa số các doanh nghiệp chưa quản lý thành hệ thống và chưa mang tính chuyên nghiệp, nhiều công nhân đã làm việc lâu năm ở doanh nghiệp nhưng không có điều kiện đi học thêm hoặc không được chọn đi học để nâng cao trình độ cho nên đã có sự nhàm chán do không được thay đổi môi trường làm việc, không được trao đổi kinh nghiệm v.v làm việc theo kinh nghiệm và theo lối mòn là chủ yếu; đó là nguyên nhân chính chất lượng sản phẩm không được nâng lên, không cải tiến được mẫu mã, không mở rộng được thị trường; cho nên, quy mô sản xuất không được mở rộng, sản xuất cầm chừng và thu nhập của người lao động không tăng.

+ Các Khu Công nghiệp Du Long và Phước Nam là hai khu công nghiệp lớn so với các khu công nghiệp khác trong khu vực Miền Trung và Miền Đông Nam Bộ, có nhu cầu tuyển lao động lớn hơn nhiều so với hai Cụm Công nghiệp Tháp Chàm và Thành Hải nhưng do hiện nay các nhà đầu tư sơ cấp đang đầu tư hạ tầng, các nhà đầu tư thứ cấp mới đăng ký chứ chưa đi vào sản xuất – kinh doanh; cho nên, việc đánh giá sử dụng lao động tại hai khu công nghiệp này là chưa thực hiện được, vấn đề này có thể đánh giá chính xác vào khoảng thời gian sau năm 2011.

Trước hết, trong điều kiện các cơ sở đào tạo của tỉnh còn mỏng, quy mô dân số ít, việc cung cấp lao động có trình độ và tay nghề cao là khó khăn; do vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, muốn tuyển lao động có trình độ thì các doanh nghiệp có thể thông báo tuyển từ các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, các trường Nghề trong cả nước; bên cạnh đó, muốn có lao động lành nghề thì các doanh nghiệp phải có chính sách hấp dẫn để thu hút những lao động từ các doanh nghiệp khác trong nước, các cơ quan nhà nước hoặc có thể tuyển chuyên gia giỏi, tuyển lao động lành nghề từ những nước đang xuất khẩu lao động v.v đến làm việc cho doanh nghiệp mình.

40

2.2.3 Đánh giá chung về đào tạo và việc sử dụng nguồn nhân lực

trong các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua.

2.2.3.1 Những kết quả đạt được

Những năm qua, công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận đã thực sự được các cấp Uỷ Đảng và các cấp chính quyền trong tỉnh quan tâm chỉ đạo nhằm triển khai có hiệu quả quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”; những thành tựu về giáo dục và đào tạo trong giai đoạn 2001-2005 đã được thể hiện trong báo cáo của Đại Hội Tỉnh Đảng Bộ lần thứ X như sau:

Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng; tổng số học sinh đến trường trong 5 năm tăng 8,4%; trong đó, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông tăng nhanh, bình quân tăng trên 8%/năm.

Chất lượng giáo dục được chú trọng, có mặt tích cực; tỷ lệ tốt nghiệp các cấp hàng năm đều tăng, tỷ lệ học sinh khá giỏi và số học sinh đạt giải cao qua các kỳ thi tuyển học sinh giỏi quốc gia, cấp tỉnh và số trúng tuyển vào các trường đại học năm sau cao hơn năm trước. Tỷ lệ trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm đạt từ 11 đến 14% so với tổng số học sinh dự thi, tăng gần 1,5 lần so với giai đoạn 1996 – 2000; trình độ đạt chuẩn của giáo viên đạt trên 80%.

Chất lượng giáo dục miền núi có bước chuyển biến tích cực; tỷ lệ huy động trẻ vào lớp 1 đạt trên 90%, cao hơn 20% so với năm 2005; công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được trú trọng, đã đầu tư xây dựng trường nghề tỉnh và nâng cấp trung tâm dịch vụ việc làm, hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới dạy nghề giai đoạn 2006 – 2010.

Hơn 16.000 người được đào tạo các nghề ngắn, dài hạn, tăng 57% và có trên 53.000 lao động có việc làm, vượt 18,5% so với chỉ tiêu đề ra; cơ cấu lao động có bước chuyển dịch theo hướng tỷ lệ tăng lao động trong các ngành công nghiệp, thương mại – dịch vụ”.

Được chia tách từ tỉnh Thuận Hải (cũ), Ninh Thuận đã sớm xác định “Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, từ chỗ toàn tỉnh chỉ có hai trường Trung học phổ thông vào năm 1992 thì đến nay đã có 16 trường được bố trí đều khắp trên các huyện, thành phố trong tỉnh, có huyện trước đây không có trường trung học phổ thông nào thì nay đã có nhiều trường với quy mô hàng ngàn học sinh như: huyện Ninh Phước hiện nay đã có 4 trường, huyện Ninh Sơn có 3 trường; số lượng trường lớp tăng mạnh ở tất cả các cấp học; toàn tỉnh có 01 trường Cao đẳng Sư phạm, 01 Trường trung cấp Nghề, cùng với 03 Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp; công tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh đã đạt được những kết quả như sau:

- Trong công tác đào tạo nguồn nhân lực:

+ Đối với hệ phổ thông: Số học sinh các cấp học của tỉnh Ninh Thuận mỗi năm tăng bình quân gần 1.000 học sinh, từ 118.357 học sinh năm học

41 2000 – 2001 lên 124.783 học sinh năm học 2007 – 2008; riêng cấp trung học thì tăng cho cả hai cấp học, năm học 2000 - 2001, cấp Trung học cơ sở là 30.238 học sinh và ở cấp Trung học phổ thông là 10.478 học sinh thì đến năm học 2007 – 2008 cấp Trung học cơ sở là 45.476 học sinh (tăng 15.238 học sinh tỷ lệ tăng 50,39%) và cấp Trung học phổ thông 18.908 học sinh (tăng 8.430 học sinh, tỷ lệ tăng 80,45%).

Cũng lấy thời điểm năm học 2000 – 2001 và năm học 2007 – 2008 thì số trường phổ thông từ 165 trường lên 203 trường, số giáo viên trực tiếp đứng lớp từ 4.424 người lên 5.507 người.

+ Đối với hệ thống các trường chuyên nghiệp

Trước năm 2001, cả tỉnh chỉ có 01 trường Trung cấp sư phạm, chưa có cơ sở đào tạo nghề chính quy nào thì nay đã có Trường Cao đẳng sư phạm với quy mô đào tạo mỗi năm gần 1.000 sinh viên và Trường Trung cấp Nghề với quy mô đào tạo hàng năm cho tất cả các loại hình đào tạo khoảng 1.000 học sinh, ngoài nhiệm vụ đào tạo giáo viên cho ngành giáo dục, Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận còn liên kết với một số trường Đại học để mở một số lớp Đại học tại chức học tại trường như: Đại học sư phạm, Đại học Luật. Số lượng sinh viên chính quy năm học 2006 – 2007 là 772 học sinh – sinh viên và 104 sinh viên đại học Luật hệ tại chức.

+ Kết quả công tác đào tạo tại các cơ sở giáo dục và đào tạo của tỉnh

Ninh Thuận (kèm theo bảng số liệu) như sau:

* Hệ phổ thông:

Bảng 2.7 Kết quả đào tạo tại các cơ sở giáo dục và đào tạo của tỉnh Ninh Thuận

Cấp học

Kết quả

Tỷ lệ % qua các năm học

Công nhận tốt nghiệp (lớp 5)

2003 - 2004 99,90

2004 - 2005 99,62

2005 - 2006 99,71

2006 - 2007 99,72

2007 - 2008 99,72

Tiểu học

Hiệu quả đào tạo

81,6

82,76

83,99

84,20

84,60

Công nhận tốt nghiệp (lớp 9)

95,20

91,00

97,30

95,57

95,88

Trung học cơ sở

Hiệu quả đào tạo

70

69

59

62

64,6

Tốt nghiệp (lớp 12)

83,10

80,4

88,3

82,49

83,56

Trung học phổ thông

Hiệu quả đào tạo

68,98

63,83

68,32

66,89

68.56

Nguồn: Báo cáo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo từ năm học 2003 – 2004 đến

năm học 2007 – 2008.

Qua số liệu trên cho ta thấy, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tương đối ổn định, ở hầu hết các cấp học, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo đã được nâng lên theo hướng tích cực và ổn định, đáng quan tâm là ở cấp trung học (Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) vì nó là điều kiện quan trọng để phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông, với tỷ lệ tốt

42 nghiệp này sẽ giúp cho các trường chuyên nghiệp đào tạo có chất lượng hơn, đồng thời là nguồn nhân lực rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận.

* Hệ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề (không bao gồm sinh viên tại Ninh Thuận học đang ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp khác trong cả nước) được đánh giá như sau:

Hiện nay, do học sinh tiểu học và trung học cơ sở đang có chiều hướng giảm, nên nhu cầu tuyển giáo viên trung học cơ sở và tiểu học của tỉnh chủ yếu chỉ bổ sung cho một số môn còn thiếu, bổ sung cho số giáo viên về hưu, giáo viên chuyển vùng hoặc nghỉ chế độ khác, nên chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm không nhiều mà chỉ tuyển khoảng 240 sinh viên, chủ yếu đào tạo các ngành còn thiếu; hệ tại chức đang đào tạo là 445 sinh viên; năm học 2007 – 2008 có 1.321 học sinh – sinh viên.

Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Ninh Thuận: Ngoài nhiệm vụ chính là dạy Bổ túc văn hóa trung học, Trung tâm còn được giao nhiệm vụ liên kết với một số trường Đại học để mở các lớp đào tạo Đại học hệ vừa học vừa làm, mỗi năm có khoảng trên 80 học sinh – sinh viên tốt nghiệp các ngành kỹ thuật và kinh tế.

Trường Chính trị: Đây là cơ sở đào tạo trực thuộc Tỉnh Ủy, thực hiện nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị có trình độ trung cấp cho cán bộ trong tỉnh do Tỉnh ủy giao chỉ tiêu hàng năm; bên cạnh đó, do khả năng về cơ sở vật chất của trường thì những năm qua, trường này đã liên kết với một số trường Đại học, Học viện trong nước để đào tạo một số lớp Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, mỗi năm đào tạo khoảng trên 700 học sinh – sinh viên.

Trường Trung cấp nghề: Thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghề cho lao động trong tỉnh và cấp bằng đến Trung cấp nghề, có khoản 10 nghề và khoảng gần 1.000 học sinh hiện đang học tại đây, số tốt nghiệp khoảng trên 300 học sinh.

Trung tâm KTTH- HN Phan Rang: Ngoài nhiệm vụ dạy hướng nghiệp và nghề phổ phông cho học sinh phổ thông, Ủy ban nhân dân tỉnh giao chỉ tiêu có ngân sách bảo đảm để đào tạo nghề dài hạn cho lao động ngoài xã hội, mỗi năm đào tạo khoảng gần 10 nghề và với khoảng trên 200 học sinh học Công nhân kỹ thuật ra trường.

Qua đó cho thấy các cơ sở đào tạo của tỉnh tuy còn hạn chế về quy mô và loại hình đào tạo nhưng bước đầu đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn tỉnh; nếu tính năm 2001 toàn tỉnh có 49.290 người trong độ tuổi chưa có việc làm, chiếm tỷ lệ 16,84% thì đến năm 2006 giảm xuống còn 48.829 người chiếm tỷ lệ 13,62% (tức là số người chưa có việc làm giảm được 3,22%; số người có việc làm từ 243.380 người năm 2001 lên 309.632 người tăng 66.252 người năm 2006).

Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo những năm gần đây đã tăng đáng kể, một mặt là do quy mô đào tạo tăng, mặt khác là do Nhà nước

43 có các chính sách ưu tiên đối với giáo dục và đào tạo, đến nay tỷ lệ chi cho giáo dục và đào tạo ở mức gần 20% tổng chi ngân sách của cả nước, nếu năm 2002 ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo cả nước là 22.596 tỷ đồng (trong đó, chi thường xuyên là 19.588 tỷ đồng và chi xây dựng cơ bản là 3.008 tỷ đồng) thì đến năm 2007 là 66.770 tỷ đồng (trong đó, chi thường xuyên là 55.240 tỷ đồng và chi đầu tư xây dựng cơ bản là 11.530 tỷ đồng) tăng gấp 2,95 lần so với năm 2003; qua đó, ta thấy rằng nhà nước đang tập trung nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo và coi giáo dục và đào tạo là Quốc sách hàng đầu đã trở thành hiện thực.

Cũng như cả nước, ngân sách Tỉnh Ninh Thuận đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã có những chuyển biến đáng kể cả về quy mô và tính chất đầu tư, số trường học, phòng học đã được kiên cố hoá (lầu hoá) hiện nay, cả tỉnh không còn lớp học ca ba, không còn tranh tre nứa lá, không còn học nhờ. Nếu thời điểm năm 2003, ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo của tỉnh Ninh Thuận là 93,31 tỷ đồng thì đến năm 2007 là 204,85 tỷ đồng, tăng 111,54 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 119,54%; các chế độ chính sách đối với giáo viên đã được chi trả đầy đủ và đúng kỳ hạn, chấm dứt việc nợ lương và chế độ giờ vượt như những năm trước đây.

2.2.3.2 Những mặt hạn chế yếu kém và nguyên nhân

* Những hạn chế, yếu kém

Bảng 2.8 Cân đối lao động xã hội từ năm 2001 đến năm 2006 của tỉnh Ninh

Thuận

Chỉ tiêu

Theo từng năm (người)

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Tổng số

292.670 301.450 310.236 320.280 339.369 358.461

222.862 229.035 235.659

244.256 261.657

279.059

20.518

22.569

24.169

25.860

28.255

30.573

8.935

9.886

10.587

11.434

11.710

12.700

1. Số người đang làm việc trong các ngành kinh tế 2. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học - Học chuyên môn nghiệp vụ, nghề - Học phổ thông

11.583

12.683

13.582

14.426

16.545

17.873

49.290

49.846

50.408

50.164

49.457

48.829

3. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động làm nội trợ và chưa có việc làm

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận năm 2006

- Tuy số người trong độ tuổi có khả năng lao động làm nội trợ và chưa có việc làm đang có chiều hướng giảm từ 49.290 người năm 2001 xuống còn 48.829 người năm 2006 chiếm 13,62% so với tổng nguồn lao động trong tỉnh (năm 2001 là 16,84%), điều này cho thấy so với năm 2001 thì năm 2006 tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 16,84% xuống còn 13,62% bình quân mỗi năm giảm

44 0,54%, nhưng so với yêu cầu thì còn quá chậm; số người chưa có việc làm và thu nhập không ổn định còn rất lớn, trong khi tỉnh Ninh Thuận là một trong 6 tỉnh hiện đang phải nhờ Trung ương trợ cấp ngân sách (mức trợ cấp ngân sách cho tỉnh mỗi năm khoảng từ 70% – 75% tổng chi thường xuyên), tình hình tăng việc làm để thu hút lao động còn chậm so với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước.

- Việc đào tạo nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương còn nhiều hạn chế, chưa có hệ thống và thiếu sự quản lý về chỉ tiêu, về loại hình đào tạo và chưa có chiến lược về những ngành nghề cần đào tạo; nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không về tỉnh làm việc mà có khi ở lại làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc làm ở các tỉnh khác trong nước vì ở đó có cơ hội thăng tiến, thu nhập cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.

Trên thực tế, nhu cầu học thì rất lớn, nhưng số học sinh của địa phương hàng năm thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng còn rất ít, trong khi hệ thống các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh thì quá ít (chỉ có 01 trường Cao đẳng sư phạm và 01 trường trung cấp nghề).

- Hệ thống các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh còn quá mỏng chỉ có 01 trường Cao đẳng sư phạm và 01 trường Trung cấp Nghề. Số học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở hàng năm khoảng gần 10.000 học sinh, trong số này có khoảng 65% (6.500 học sinh) được tuyển vào học ở cấp Trung học phổ thông số còn lại 3.500 học sinh thì cũng chỉ có một tỷ lệ nhỏ vào học tại các trường Nghề của tỉnh; có khoảng trên 5.000 học sinh/năm tốt nghiệp Trung học phổ thông nhưng chỉ có khoảng 16,95% (847 học sinh) trúng tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng kể cả số đã trúng tuyển vào trường Cao đẳng sư phạm tỉnh.

Số học sinh vào học trường Trung cấp nghề của tỉnh và Trung tâm KTTH-HN Phan Rang khoảng gần 1.000 học sinh, số còn lại khoảng trên 3.000 học sinh đã tốt nghiệp Trung học phổ thông và khoảng 3.500 học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở chưa có điều kiện vào học tại các trường chuyên nghiệp của tỉnh và có thể coi như lao động trong độ tuổi không được đào tạo, tức là tỷ lệ lao động trong độ tuổi tìm được việc làm là rất thấp và tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn rất lớn .

- Trình độ giáo viên đã được nâng lên nhưng chủ yếu là ở Trường Cao đẳng sư phạm (100% giảng viên có trình độ đại học; trong đó, có gần 40% có trình độ Thạc Sĩ trở lên); theo số liệu ở Phụ lục số 14 thì ở Trường Trung cấp nghề và Trung tâm KTTH-HN Phan Rang thì số giáo viên có trình độ đại học trở lên có tỷ lệ thấp (năm 2007 chỉ có 1,68% Sau đại học, 42,28% Đại học, 24,37% Cao đẳng, số còn lại là 31,67% có trình độ Trung cấp và nghệ nhân). Số giáo viên chuyên sâu và trình độ cao thì chưa nhiều, đa số giáo viên còn trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm nhất là các nghề công nghệ Ôtô, Hàn, Điện tử v.v.

- Công tác dự báo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn dựa vào kinh nghiệm, chậm dự báo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất

45 kinh doanh của các doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai; chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn, tỉnh chưa có quy hoạch mạng lưới các trường chuyên nghiệp và dạy nghề.

- Cơ sở vật chất còn hạn chế, chưa phong phú về chủng loại và thiếu đồng bộ giữa đội ngũ giáo viên và máy móc trang thiết bị phục vụ trong đào tạo, nhất là đang thiếu trầm trọng đội ngũ giáo viên về công nghệ thông tin, công nghệ đóng tàu, công nghệ sinh học, công nghệ Ôtô v.v.

- Số lao động tuy đã được đào tạo nghề nhưng khả năng làm việc ở những doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là rất khó khăn vì vốn ngoại ngữ bị hạn chế, khả năng giao tiếp gặp nhiều khó khăn.

- Chưa có cơ sở thực hiện liên thông hoặc liên kết trong đào tạo nghề đối với những học sinh có nhu cầu và khả năng tiếp tục học tập để nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật để có nhiều cơ hội tìm được làm việc tốt cũng như thu nhập tốt trong các khu công nghiệp của tỉnh.

- Các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp chưa có sự phối hợp trong xác định ngành nghề đào tạo và nhu cầu tuyển dụng để nhân lực không thừa ở ngành này mà lại thiếu ở ngành kia; tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” đã diễn ra ở các địa phương trong tỉnh.

Mặc dù, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Thuận đã lập “Quy hoạch Tổng thể Ngành lao động thương binh và Xã hội giai đoạn 2001 – 2010” mỗi huyện có một trung tâm dạy nghề nhưng tính khả thi không cao vì không có vốn để đầu tư, không thể đủ giáo viên cơ hữu để giảng dạy ở các cơ sở này;

Ngoài ra, tỉnh đã có Quy hoạch nguồn lao động giai đoạn 2006 – 2010 nhưng cũng như Dự án Quy hoạch ngành, Dự án này chỉ mang tính dự báo chung chung chưa nghiên cứu sâu về nguồn nhân lực cho Ngành Công nghiệp và chưa định hướng cho việc đầu tư hệ thống các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh để chủ động cung cấp nguồn nhân lực khi nên công nghiệp của tỉnh phát triển như hiện nay.

* Nguyên nhân

- Nguyên nhân đạt được: Theo đánh giá của các ngành chức năng của tỉnh thì nguyên nhân đạt được trong công tác quy hoạch, quản lý và đào tạo trong thời gian qua như sau:

Thứ nhất, nhận thức mới và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhân dân trong việc đào tạo nguồn nhân lực đã được thể hiện trong Nghị quyết lần thứ Hai Ban Chấp hành Trung Ương Đảng (Khoá VIII) thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Thứ hai, xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh đến nhận thức của các cấp chính quyền của tỉnh trong việc quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo, với việc tăng chỉ tiêu đào tạo hàng năm cùng với nâng dần tỷ trọng ngân sách đầu tư cho giáo dục đã thúc đẩy hoạt động giáo dục và đào tạo

46 trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói riêng đã có những chuyển biến tích cực so với trước năm 2000.

Thứ ba, do nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh, kinh tế Việt Nam, kinh tế khu vực và kinh tế của tỉnh đã có bước chuyển mình quan trọng cả về số lượng và chất lượng nên đã tác động mạnh đến nhận thức của người dân trong việc tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống bản thân, gia đình và xã hội, đòi hỏi người lao động muốn có việc làm thì phải học tập để có văn hoá và học tập để có nghề nghiệp thì mới có thể tham gia vào thị trường lao động đang sôi động như hiện nay.

Thứ tư, thị trường lao động đang có sự cạnh tranh mạnh giữa các quốc gia; lợi thế cạnh tranh thuộc về quốc gia có nguồn nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Thuận nói riêng cũng không tách khỏi xu thế đó, với những thách thức lớn về lao động và việc làm nhằm phát triển kinh tế – xã hội và ổn định chính trị đã tác động mạnh đến việc quản lý điều hành hoạt động đào tạo nguồn nhân lực với quy mô ngày càng lớn và phong phú về loại hình đào tạo nhằm giảm thất nghiệp và tạo sức cạnh tranh trong thị trường lao động ngay chính mỗi địa bàn và mỗi doanh nghiệp.

Thứ năm, do chính sách mở cửa và toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy công tác xã hội hoá hoạt động đào tạo; việc này, đã tạo sự quan tâm không những đối với người học mà ngay chính những doanh nghiệp; các tổ chức cá nhân trong và ngoài tỉnh đã và đang nghiên cứu để mở rộng và phát triển các cơ sở đào tạo và tăng cường liên kết đào tạo không những đối với các trường chuyên nghiệp có uy tín trong nước mà kể cả liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín ở nước ngoài trong việc mở lớp, đầu tư xây dựng trường để đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp và địa phương.

- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém:

Thứ nhất, việc mong muốn sớm có trường đại học hơn là trường cao đẳng và trung cấp, nhưng nếu có thành lập thì sẽ không có giảng viên vì hiện nay giảng viên trong các trường chuyên nghiệp còn quá ít và trình độ còn thấp so với yêu cầu; chưa có kế hoạch tuyển dụng hoặc gửi giáo viên đi đào tạo và bồi dưỡng giáo viên để đủ điều kiện giảng dạy trong các trường này.

Thứ hai, chưa có chiến lược về thị trường lao động, việc dự báo nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường còn bị động, lúng túng và thiếu đồng bộ; các ngành: Giáo dục và Đào tạo - ngành Lao động - Thương binh và Xã hội - Kế hoạch và Đầu tư - Công Thương chưa có sự phối hợp tốt trong việc xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế mà một trong những nhiệm vụ quan trong đó là chuẩn bị nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp đang hình thành của tỉnh.

Thứ ba, do khả năng ngân sách đầu tư cho đào tạo còn hạn chế, nên việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho đào tạo còn quá ít, chấp vá, không hiện đại và thiếu đồng bộ.

Thứ tư, giáo viên giảng dạy trong các trường chuyên nghiệp của tỉnh còn thiếu trầm trọng, đa số là giáo viên dạy các ngành nghề mà các cụm, khu công

47 nghiệp đang có nhu cầu; khả năng sư phạm đối với giáo viên trường nghề và các trung tâm đào tạo của tỉnh còn hạn chế, còn nặng lý thuyết, ngại hướng dẫn thực hành cho học sinh, nhất là các ngành cơ khí, tiện, hàn v.v.

Thứ năm, tỉnh chưa có chính sách thu hút nguồn nhân lực có tay nghề cao hoặc những ngành nghề mà hiện đang thiếu nguồn nhân lực về công tác và làm việc tại tỉnh nhất là thu hút cho các cụm và khu công nghiệp; chưa có chính sách phù hợp về học phí hỗ trợ học sinh học nghề nghề, hỗ trợ nhà ở cho công nhân v.v.

Thứ sáu, các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh chưa được giao quyền đầy đủ về tự chủ nhiệm vụ, biên chế, tổ chức, bộ máy, tài chính v.v theo quy định hiện hành.

Kết luận Chương 2

Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy việc phát triển kinh tế luôn gắn liền với việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao là động lực quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước phù hợp định hướng của Đảng và Nhà nước ta trên con đường Hội nhập kinh tế Quốc tế.

Để phát triển kinh tế - xã hội thì nhu cầu nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận nói riêng đang là mối quan tâm rất lớn của Tỉnh Uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận. Tỉnh uỷ Ninh Thuận đã có Nghị Quyết chuyên đề về phát triển nguồn nhân lực; Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có các Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

Với những mặt được, những mặt còn hạn chế và những nguyên nhân về công tác đào tạo, sử dụng, thu hút nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực từ nay tới năm 2015.

Từ những kinh nghiệm của các tỉnh đi trước là điều kiện thuận lợi để tỉnh Ninh Thuận xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cung cấp không những cho các khu công nghiệp của tỉnh mà tiến tới có nguồn nhân lực chất lượng cao để tham gia vào thị trường lao động quốc tế; việc xuất khẩu nguồn nhân lực có chất lượng cao cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đây là việc làm không những cho trước mắt mà cho cả lâu dài để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá tỉnh Ninh Thuận, phù hợp với xu thế Hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam.

Do vậy, muốn phát triển mạnh cả về chính trị, kinh tế và xã hội thì tỉnh Ninh Thuận cần có những định hướng và giải pháp phù hợp để phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh nói riêng nhằm đảm bảo không những ổn định thị trường lao động trong tỉnh mà còn tham gia có hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và thế giới.

48

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH NINH THUẬN GIAI ĐOẠN 2008 – 2015

Qua nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước cho chúng ta thấy rằng, muốn phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu thì điều không thể thiếu đó là các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực luôn đóng vai trò tiên phong và cực kỳ quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Trong điều kiện tỉnh Ninh Thuận hiện đang còn khó khăn về kinh tế; nguồn nhân lực hiện đang thiếu trầm trọng và về số lượng và chất lượng, đây là vấn đề lớn mà muốn thực hiện thành công công tác này thì đòi hỏi tỉnh phải xây dựng một chiến lược căn bản về nguồn nhân lực để đảm bảo cho sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có các cụm, khu công nghiệp của tỉnh; muốn đạt được điều đó, theo tôi tỉnh Ninh Thuận cần có các định hướng và giải pháp như sau:

3.1 Định hướng, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của các Khu

công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận đến năm 2015

3.1.1 Định hướng

Phát triển kinh tế - xã hội luôn gắn chặt với việc phát triển con người, kinh tế phát triển tạo điều kiện cho con người phát triển, ngược lại khi con người phát triển toàn diện thì xã hội lại càng phát triển hơn. đó là đòn bẩy để thúc đẩy kinh tế phát triển; con người với vai trò là trung tâm của mọi hoạt động nhưng phải “vừa Hồng vừa Chuyên”; như vậy, đó mới là nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Tỉnh Ninh Thuận muốn đẩy mạnh việc phát triển kinh tế - xã hội thì một nhiệm vụ đòi hỏi vô cùng cấp bách và quan trọng là phải có những đột phá về cơ chế, chính sách và đồng bộ trong quản lý và điều hành, thực sự “coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, coi phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm không tách rời với việc phát triển kinh tế - xã hội; với quan điểm trên ta cần phân tích rõ những mục tiêu, định hướng phát triển nguồn nhân lực mà tỉnh Ninh Thuận đang đặt ra cho cả trước mắt và lâu dài, cụ thể như sau:

Cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Phấn đấu đến năm 2010 có trên 40% lao động qua đào tạo, trong đó lao động đào tạo nghề 26%, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng trở lên là 14%, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế.

Cần coi phát triển nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, gắn đào tạo với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ và tay nghề cao

49 từ các địa phương, các trường đào tạo, có thể từ nước ngoài về làm việc tại các khu công nghiệp của tỉnh;

Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất để tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội phát huy trình độ và năng lực trong lĩnh vực mà họ đảm nhận, tạo môi trường làm việc để người lao động có cơ hội thể hiện năng lực của mình, được thăng tiến, có thu nhập cao và ổn định; góp phần tạo nền móng cho ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội; đó cũng là quan điểm chung mà Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.

Quan điểm về đào tạo nguồn nhân lực cho Ninh Thuận giai đoạn 2006 – 2010 đã được thể hiện trong Nghị quyết của tỉnh Đảng Bộ lần thứ XI, như sau:

“- Huy động nhiều nguồn lực tiếp tục đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn tỉnh vào năm 2008, triển khai phổ cập giáo dục trung học phổ thông ở một số phường, xã có điều kiện; đến năm 2010 cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông cho thanh niên trong độ tuổi ở thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và một số thị trấn.

- Số lao động được giải quyết việc làm từ 55 – 60 ngàn người; bình quân

12 ngàn người/năm.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đến năm 2010 đạt 25%.

- Đến năm 2010 có 20% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia; 100% giáo viên đạt chuẩn, 95% trẻ em dưới 5 tuổi được học mẫu giáo trước khi vào lớp 1, 20% học sinh tiểu học thực hiện học 2 buổi/ngày.

- Thành lập trường trung học chuyên nghiệp và thành lập Trường Đại học

tại tỉnh.

- Tiếp tục liên kết với các trường đại học phía Nam mở các lớp đào tạo sau đại học đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao ở những ngành, lĩnh vực có điều kiện, phù hợp với quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.

Từ những định hướng trên đây cho ta thấy quan điểm chỉ đạo về phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Thuận là nhất quán phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; từ chỗ xác định đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu nên các cấp uỷ Đảng và chính quyền của tỉnh đã có chương trình hành động cụ thể để nguồn nhân lực của tỉnh không những giỏi về chuyên môn mà còn có đạo đức và tác phong công nghiệp phù hợp với xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế; mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế đến năm 2010 được thể hiện qua các chỉ tiêu như sau:

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 11 – 12%/năm

- Công nghiệp và xây dựng tăng bình quân hàng năm 24 – 25%

- Nông, Lâm, Ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm từ 8 – 8,5%

- Dịch vụ tăng bình quân hàng năm 11 – 12%

50

- Cơ cấu GDP (giá thực tế) năm 2010 đối với công nghiệp, xây dựng là

35%, Nông, Lâm, Ngư nghiệp là 30%, dịch vụ là 35%.

- Đến năm 2010, quy mô dân số đạt 630.000 người, giải quyết được 60.000 việc làm, bình quân 12.000 người/năm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn 2,5%, tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 85%, tỷ lệ lao động quan đào tạo đạt 40% lao động làm việc, trong đó đào tạo nghề là 25%, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 13% (theo tiêu chuẩn mới năm 2006).

Bảng 3.1 Dự báo dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh Ninh Thuận từ năm 2006

đến năm 2015

Trong đó

Năm

Đi học

Trong độ tuổi L.động Mất khả năng L.động

Có nhu cầu làm việc

328.400 337.600 346.400 355.100 363.400 409.734

6.810 7.000 7.180 7.360 7.520 8.500

28.630 30.600 32.630 35.380 38.130 42.100

Nội trợ và không có nhu cầu làm việc 35.210 33.974 32.966 31.862 31.040 25.210

257.750 266.026 273.624 280.498 286.710 333.924

2006 2007 2008 2009 2010 2015

(Nguồn: Dự báo và điều chỉnh theo kết quả điều tra lao động, việc làm tỉnh Ninh

Thuận năm 2005)

So với năm 2006 thì năm 2010 số người trong độ tuổi lao động trong tỉnh tăng 35.000 người, bình quân tăng 7.000 người/năm và năm 2015 so với năm 2010 tăng 46.334 người tăng bình quân 9.267 người/năm; tốc độ tăng giữa thời kỳ 2010 – 2015 so với thời kỳ 2006 – 2010 là 1,3238 lần tức là khoảng 32,38%, số người tăng là (46.334 người – 35.000 người) = 11.334 người;

Còn dân số trong thời kỳ 2006 – 2010 tăng (630.000 người – 573.925 người) = 56.075 người, tăng bình quân 11.215 người/năm, tỷ lệ sinh khoảng 1,9%/năm và thời kỳ 2010 – 2015 là (686.000 người – 630.000 người) = 56.000 người, bình quân tăng 11.200 người/năm, tỷ lệ sinh là 1,77%/năm. So sánh giữa hai thời kỳ giảm 56.000 người – 56.075 người = - 75 người (tức là tỷ lệ sinh giảm từ 1,9% xuống còn 1,77%).

Tuy nhiên, số người có việc làm trong thời kỳ 2006 – 2010 là (286.710 người – 257.750 người) = 28.960 người, tăng bình quân 5.792 người, tỷ lệ tăng là 2,24%; thời kỳ 2010 – 2015 là (333.924 người – 286.710 người) = 47.214 người, tăng bình quân 9.443 người, tỷ lệ tăng 3,29%; so sánh giữa hai thời kỳ là thì thời kỳ 2010 – 2015 tăng hơn so với thời kỳ 2006 – 2010 là (3,29 %– 2,24%) = 1,05% tức là thời kỳ sau tăng hơn so với thời trước là (9.443 người – 5.792 người) = 3.651 người.

51

Với tỷ lệ người có việc làm so với tỷ lệ tăng và tỷ lệ tăng dân số giảm thì đây là là biểu hiện tốt để ổn định dân số và tăng chất lượng nguồn nhân lực đối với tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 3.2 Dự báo cung lao động của tỉnh Ninh Thuận (lực lượng lao động - nhu

cầu lao động)

Đơn vị tính: người

Năm

Lực lượng lao động

Nhu cầu lao động

Tổng số Trong độ tuổi

Thất nghiệp ở thành thị Số người % nhu cầu

Ngoài độ tuổi

lao động

có nhu cầu việc làm 257.750 266.066 273.624 280.498 286.710 333.924

13.913 14.042 15.394 15.965 17.000 22.000

262.400 271.200 280.600 288.500 296.300 347.026

9.263 8.868 8.418 7.963 7.410 8.898

3,53 3,27 3,00 2,76 2,44 2,50

2006 2007 2008 2009 2010 2015

271.663 280.068 289.018 296.463 303.710 355.924

(Nguồn: Dự báo và điều chỉnh theo kết quả điều tra lao động, việc làm tỉnh Ninh

Thuận năm 2005)

Trên cơ sở số liệu ở Bảng 3.2 cho ta thấy số người trong độ tuổi lao động (cung lao động) năm 2006 là 257.750 người thì nhu cầu lao động (cầu lao động) là 262.400 người đạt tỷ lệ 98,23%, năm 2010 là 96,76% và năm 2015 là 96,22%.

Với số liệu trên đã thể hiện rõ tình hình cung lao động cho các ngành kinh tế của tỉnh Ninh Thuận đang có chiều hướng giảm, cụ thể năm 2010 giảm so với năm 2006 là 1,47% và năm 2015 giảm so với năm 2010 khoảng 0,54%, tuy tỷ lệ giảm có chiều hướng chững lại nhưng với những chỉ tiêu này thì tỉnh cần phải điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế hợp lý và có chính sách thu hút lao động đề bù đắp sự mất cân đối về nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn từ nay đến năm 2015.

3.1.2 Mục tiêu

Từ năm 2010 – 2015 tỷ lệ lao động lao động đang làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 63,4%, ngành công nghiệp 13,54% và thương mại và dịch vụ 23,06%. Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực được thể hiện như sau:

- Đối với đào tạo nghề

Về trình độ và loại hình đào tạo: Việc đào tạo công nhân kỹ thuật với thời gian đào tạo ngắn hạn dưới một năm và dài hạn từ hai đến ba năm, đảm bảo tỷ lệ đào tạo giữa các trình độ và tình hình phát triển công nghệ. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh và nhu cầu của các doanh nghiệp, đào tạo theo các mô hình liên kết, đặt hàng, tín chỉ, vừa học vừa làm, đào tạo mới và đào tạo lại, đào tạo tại chỗ, doanh nghiệp tự đào tạo, tái đào tạo theo mục đích sử dụng lao động.

52

Về quy mô đào tạo: Tăng quy mô đào tạo nghề hàng năm cho các cơ sở đào tạo, cần đào tạo nghề dài hạn, cơ cấu nghành nghề đào tạo phải phù hợp với các ngành công nghiệp, chế biến, dịch vụ v.v. Tập trung đào tạo nghề cho các khu, cụm công nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn có sử dụng số lượng lao động lớn, các nghề phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xuất khẩu lao động v.v.

Về mạng lưới dạy nghề: Phát triển mạnh lưới dạy nghề theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề để tăng năng lực và chất lượng dạy nghề, góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực. Giai đoạn đến năm 2010 tập trung đầu tư cơ sở 2 của trường Trung cấp Nghề và các Trung tâm dạy nghề các huyện Ninh sơn, Ninh Hải và Ninh Phước để đáp ứng nhu cầu học nghề, xuất khẩu lao động và phổ cập nghề cho thanh niên; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cơ sở dạy nghề tư thục trên địa bàn các huyện, thành phố, tại các khu, cụm công nghiệp, doanh nghiệp và các loại hình dạy nghề khác.

Về đội ngũ giáo viên và các hoạt động nghiên cứu: Phải đảm bảo đủ số lượng và chất lượng giáo viên cho các cơ sở dạy nghề; đầu tư để thu hút giáo viên giỏi và có kinh nghiệm, trước mắt bố trí đủ giáo viên cho các Trường Trung cấp Nghề và các Trung tâm dạy nghề với định mức mỗi lớp thực hành bình quân tối đa 18 học sinh và lớp học lý thuyết tối đa 35 học sinh, bình quân tối đa là 23 học sinh/giáo viên. Nâng dần tỷ lệ giáo viên có trình độ trên chuẩn, các ngành nghề điện, điện tử, điện lạnh, công nghệ Ôtô, sinh học v.v phải có giáo viên có trình độ Thạc sỹ trở lên.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hành, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất để phục vụ công tác giảng dạy và học tập; khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập các cơ sở sản xuất, dịch vụ phù hợp với ngành nghề đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động trong tỉnh.

Về quản lý: nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ sở dạy nghề, tăng cường lập kế hoạch, dự kiến nhu cầu nhân lực và cơ cấu ngành nghề đào tạo. Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo nghề, nhất là quản lý chất lượng đào tạo nghề với chương trình, giáo trình, quy chế học tập, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên.

- Đối với đào tạo trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học

Tiếp tục đào tạo giáo viên, liên kết đào tạo một số ngành còn thiếu; làm tốt công tác tư vấn, tuyển sinh cao đẳng, đại học; nâng tỷ lệ thi đỗ hàng năm vào các trường cao đẳng, đại học. Phấn đấu giai đoạn 2008 – 2010 có trên 7.000 sinh viên đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp được đào tạo trong và ngoài tỉnh.

Nâng cấp mở rộng các cơ sở đào tạo hiện có, xây dựng trường Trung cấp y tế, trường Trung cấp kinh tế, thành lập Phân hiệu trường đại học và tiến tới thành lập trường đại học trên địa bàn tỉnh để đào tạo theo hướng đa cấp, đa ngành và đa hệ nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nghệ cho các cấp, các ngành; đáp ứng nhu cầu bức xúc về nguồn nhân lực có trình độ cao

53 của tỉnh. Tạo cơ cấu hợp lý về lao động, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động qua đào tạo phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chuyển dịch cơ cấu lao động: thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động nộng nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng lao động các ngành công nghiệp dịch vụ.

3.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các Khu Công nghiệp

của tỉnh Ninh Thuận đến năm 2015

Từ mục tiêu tổng quát để phát triển kinh tế và xã hội cho đến chiến lược cụ thể để phát triển giáo dục và đào tạo của tỉnh Ninh Thuận là điều kiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế sớm theo kịp các tỉnh trong khu vực và cả nước; việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và cung cấp cho các Khu Công nghiệp Du Long và Khu Công nghiệp Phước Nam là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà tỉnh đã và đang có những bước đi phù hợp với những giải pháp đột phá để chủ động nguồn lao động được đào tạo với tay nghề cao và tiến tới có kỹ thuật đầu ngành làm việc tại Ninh Thuận, mà trước hết là số lao động này sẽ làm việc trong các Khu Công nghiệp của tỉnh. Muốn đạt được mục tiêu trên, thì tỉnh Ninh Thuận cần có những cơ chế và giải pháp đột phá như sau:

3.2.1 Mở rộng mạng lưới và loại hình đào tạo, đẩy mạnh xã hội hoá,

giao quyền tự chủ trong quản lý, đào tạo và tuyển dụng lao động.

Trước hết, cần xác định mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phải xuất phát từ các cấp học từ mầm non đến các cấp phổ thông và dạy nghề cho học sinh trong tỉnh góp phần tích cực trong việc “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” ở khắp các địa bàn trong tỉnh, cụ thể như sau:

3.2.1.1 Mở rộng lĩnh vực đào tạo đảm bảo nhu cầu về số lượng và

chất lượng lao động

Bảng 3.3 Các chỉ tiêu phát triển giáo dục Mầm non và giáo dục Phổ thông.

Cấp học

Stt

Chỉ tiêu

Mầm Non các năm (%)

Tiểu học các năm (%)

Trung học cơ sở các năm (%)

Trung học phổ thông các năm (%)

2015 2010 2015 70 50

2015 2010 2015 99,5 98

98

2010 6 67

15 75

2010 90

98

97,5

98,7

95,5

85

95

1 Đi học so với độ tuổi 2 Riêng Mẫu giáo 3

Học sinh được công nhận hoàn thành chương trình Tiểu học, THCS hoặc tốt nghiệp THPT

99,2

4 Số học sinh vào lớp 6 5 Số học sinh vào lớp 10

72,5

6 Phổ cập Giáo dục

98,8 Năm 2008

80 Năm 2015

7 Phổ cập đúng độ tuổi

Năm 2015

Năm 2015

54 20

10

30

30

70

70 10

8 Trường đạt chuẩn Quốc gia 9 Trường dạy 2 buổi/ngày 10 Số trường lớp ngoài công

50

22

45

2

4

20

lập

11 Số giáo viên đạt chuẩn 12 Số giáo viên đạt trên chuẩn

90 20

78 5

97 30

100 50

100 72

100 10

100 20

80 25

Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Thuận, Quy hoạch phát triển giáo dục và đào

tạo đến năm 2015.

- Hệ thống trường phổ thông đều được phủ khắp các địa bàn trong tỉnh, mỗi huyện đều có ít nhất một trường Trung học phổ thông; mỗi xã, phường có ít nhất một trường Trung học cơ sở và một trường Tiểu học và mỗi thôn, bản có ít nhất một trường Mầm Non.

Nhìn chung, với tốc độ phát triển giáo dục và đào tạo hiện nay thì việc phân luồng sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở là điều cần được các cấp quản lý của tỉnh quan tâm vì tỷ lệ tuyển vào lớp 10 (năm 2010 là 72,5% và năm 2015 là 80%; trong khi đó tỷ lệ này của cả nước khoảng 50%) trong khi tình hình cơ sở vật chất của tỉnh còn đang thiếu trầm trọng, số trường Tiểu học dạy 2 buổi/ngày đến năm 2015 cũng chỉ đạt khoảng 10% và số học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông thì cần định hướng cho việc học nghề và Trung cầp chuyên nghiệp để cân đối lao động tránh tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” đang diễn ra tại các cơ sở kinh tế của tỉnh như hiện nay.

Các huyện đều phải có Trung tâm Giáo dục thường xuyên để thực hiện chức năng dạy bổ túc văn hoá và hướng nghiệp nghề cho học sinh; đồng thời, thực hiện công tác phổ cập giáo dục trên địa bàn huyện, riêng Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh ngoài chức năng đào tạo hệ Bổ túc Trung học phổ thông thì tỉnh cần giao cho đơn vị chủ động liên kết với các trường Đại học, Cao đẳng trong nước đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh; ưu tiên chỉ tiêu đào tạo trình độ đại học và cao đẳng kỹ thuật.

- Đối với hệ thống trường nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và

đại học

+ Mục tiêu trong giai đoạn 2006 – 2010: Nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phấn đấu đến năm 2010 có trên 40% và năm 2015 có trên 60% lao động đã qua đào tạo, trong đó lao động được đào tạo nghề năm 2010 khoảng 26% và năm 2015 khoảng 40%, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng trở lên vào năm 2010 là 14% và năm 2015 là 20%.

+ Quy mô và cơ cấu đào tạo: Tăng quy mô đào tạo nghề hàng năm cho lao động có nhu cầu học tập, tăng dần số nghề đào tạo dài hạn, giai đoạn 2008 – 2010 đào tạo 23.000 người, bình quân mỗi năm khoảng 7.667 người, trong đó đào tạo nghề ngắn hạn 21.000 người, đào tạo nghề dài hạn là 2.000 người; giai đoạn 2010 - 2015 sẽ đào tạo 55.000 người, bình quân mỗi năm khoảng 11.000 người, trong đó đào tạo nghề ngắn hạn 50.000 người, đào tạo nghề dài hạn 5.000 người.

55

3.2.1.2 Quy hoạch mạng lưới các trường chuyên nghiệp, trường dạy

nghề và xây dựng trường Đại học đa ngành trên địa bàn tỉnh

Trên thực tế, các trường chuyên nghiệp và dạy nghề trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận còn quá ít, không đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các cụm, khu công nghiệp của tỉnh trong hiện tại và trong giai đoạn 2008 – 2010 và nhất là giai đoạn 2010 – 2015 khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp Du Long và Phước Nam là rất lớn; do vậy, việc quy hoạch lại mạng lưới các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, bao gồm cả các trường Đại học đa ngành trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nhằm chuẩn bị một nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung và cung cấp cho các cụm, khu công nghiệp của tỉnh nói riêng là hết sức cấp bách và quan trọng; do đó, trong giai đoạn 2008 – 2015 cần được quy hoạch các trường chuyên nghiệp, trường dạy nghề theo hướng như sau:

- Đầu tư và mở rộng các cơ sở đào tạo hiện có

Trường Cao đẳng sư phạm của tỉnh cần được nâng cấp, mở rộng, từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất và đầu tư theo hướng hiện đại, đủ số lượng phòng học, phòng chức năng, khu nghiên cứu và thực nghiệm, thành lập trường thực hành sư phạm với quy mô khoảng 500 – 700 học sinh trung học cơ sở, tuyển dụng giáo viên giỏi vào công tác tại trường. Tăng quy mô đào tạo hiện nay từ 500 học sinh – sinh viên lên 1.200 học sinh – sinh viên vào năm 2010 và 1.500 học sinh – sinh viên vào năm 2015; thành lập đủ các khoa và mở mã ngành để đào tạo không những các ngành sư phạm mà còn đào tạo các ngành công nghệ thông tin, ngoại ngữ, trong đó tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật, tiếng Hàn v.v cần được triển khai để đào tạo cho những lao động có nhu cầu làm việc trong các khu công nghiệp của tỉnh, không những thuận lợi trong giao tiếp với chủ doanh nghiệp mà còn tiếp cận với công nghệ mới do các doanh nghiệp từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật đầu tư vào các Khu Công nghiệp của tỉnh.

- Phát triển mạng luới các trường chuyên nghiệp:

Căn cứ Nghị quyết Tỉnh Đảng Bộ lần thứ XI thì việc quy hoạch mạng lưới hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh đã và đang được nghiên cứu và trình phương án đầu tư, việc sớm đầu tư và thành lập Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tại Ninh Thuận là một đòi hỏi khách quan, theo kế hoạch đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chấp thuận thì Đề án thành lập Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh sẽ trình Thủ tướng xem xét phê duyệt thành lập trong Quý IV/2008, dự kiến tuyển sinh vào năm học 2009 – 2010 và đào tạo đa ngành (Kinh tế nông lâm, Nông học, Lâm nghiệp, Chăn nuôi, Kế toán, Công nghệ thông tin, khuyến nông v.v). Theo kế hoạch thì đến năm học 2012 - 2013 sẽ nâng cấp Phân hiệu thành Trường Đại học Ninh Thuận, quy mô khoảng 5.000 sinh viên.

56

Cần xúc tiến xây dựng trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật và hoàn thành đưa vào sử dụng vào năm 2010 với quy mô từ 1.000 – 1.500 sinh viên/năm để đào tạo và cung cấp nguồn lao động có tay nghề cho các ngành kinh tế của tỉnh và các Khu Công nghiệp trong giai đoạn 2010 – 2015, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong tuyển dụng nguồn nhân lực có tay nghề tại địa phương.

Song song với trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thì cần ưu tiên vốn đầu tư xây dựng trường Trung cấp Y tế với quy mô đào tạo 500 học sinh/năm và đưa vào sử dụng vào cuối năm 2009 để đào tạo cán bộ y tế cung cấp cho tuyến huyện và xã, nhất là cán bộ y tế cho các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi, vùng xa xôi, hẻo lánh trong tỉnh; tăng cường tuyến y tế cơ sở để thực hiện tốt y tế dự phòng và thực hiện tốt công tác dân số trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

- Đối với hệ thống trường dạy nghề của tỉnh

Phát triển mạng lưới dạy nghề theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề để tăng năng lực và chất lượng dạy nghề góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực; giai đoạn 2008 – 2010, tập trung vốn để đầu tư cơ sở 2 của Trường Trung cấp Nghề và Trung tâm dạy nghề các huyện Ninh Sơn, Ninh Phước, Ninh Hải để đáp ứng nhu cầu học nghề cho nhân dân trong tỉnh, tham gia thị trường xuất khẩu lao động và phổ cập nghề cho thanh niên;

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cơ sở dạy nghề tư nhân trên địa bàn các huyện, thành phố, tại các khu và cụm công nghiệp, trong doanh nghiệp và các loại hình đào tạo khác; tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo nghề Tấn Tài đủ điều kiện để thành lập trường dạy nghề vào năm 2009 với quy mô đào tạo hiện nay là 300 học sinh lên 600 học sinh/năm (trong đó, đào tạo nghề dài hạn là 400 học sinh) góp phần cung cấp nguồn nhân lực đang thiếu hụt trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là tham gia vào việc cung cấp nguồn nhân lực trình độ và tay nghề cao làm việc trong các Khu Công nghiệp từ năm 2009 trở đi. Bên cạnh đó, có thể tham gia thị trường xuất khẩu lao động, nhằm thu hút một lượng ngoại tệ từ việc hợp tác lao động này.

Các công ty đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp của tỉnh có thể cử lao động của mình sang làm việc và tập huấn một thời gian tại công ty mẹ hoặc công ty thành viên ở nước ngoài để đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ lao động của mình có tay nghề cao, được học tin học và tiếng nước ngoài để thuận lợi trong giao tiếp và làm việc giữa nhà đầu tư với người lao động là người Việt Nam; đồng thời, để người lao động chủ động trong việc tiếp cận công nghệ hiện đại và dây chuyền sản xuất công nghiệp, trong điều hành sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, muốn có một nguồn nhân lực dồi dào có chất lượng cao thì điều trước hết là điều chỉnh lại quy mô đào tạo trên cơ sở đội ngũ giáo viên và hệ thống trường lớp hiện có, tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, thuế, cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh thành lập trường,

57 lớp dạy nghề trên địa bàn tỉnh. Riêng đội ngũ giáo viên trong các cơ sở đào tạo hiện nay thì cần được đào tạo và bồi dưỡng để đáp ứng nhu cầu học tập của người lao động cũng như tiếp cận được với phương pháp đào tạo tiên tiến của thế giới.

Cần chuyển từ dạy nghề theo chương trình dài hạn và ngắn hạn sang hệ thống dạy nghề với ba cấp trình độ, đội ngũ giáo viên dạy nghề phải được chuẩn hóa, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản từ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức đến hoàn thiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ giáo viên.

- Đối với các cơ sở đào tạo trong nước như: Các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp phải xây dựng và nâng cao năng lực các khoa sư phạm kỹ thuật đào tạo giáo viên dạy nghề; mở rộng chỉ tiêu đào tạo tạo giáo viên dạy nghề tối thiểu phải có trình độ đại học để đáp ứng yêu cầu đào tạo trình độ cao đẳng nghề; nâng cấp các trường Trung cấp Nghề của tỉnh thành Trường Cao đẳng Nghề; cụ thể:

+ Mở rộng ngành nghề đào tạo, đặc biệt tập trung đào tạo giáo viên các ngành, nghề đang cần như ngành: xây dựng, công nghệ thông tin, chế biến nông, lâm, hải sản; đa dạng hóa phương thức đào tạo giáo viên dạy nghề; ngoài việc đào tạo chính quy theo chuẩn như hiện nay, các trường chuyên nghiệp của tỉnh cần liên kết với Trường Đại học sư phạm kỹ thuật, các trường cao đẳng, đại học chuyên ngành, cơ sở sản xuất hoặc cơ sở dạy nghề có trang thiết bị hiện đại, tiên tiến và đào tạo sư phạm dạy nghề cho các đối tượng đã có chuyên môn kỹ thuật để làm giáo viên dạy nghề của tỉnh.

+ Thực hiện đa dạng hoá phương thức đào tạo, tập trung đào tạo nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề cho những người đã có đủ tiêu chuẩn trình độ đào tạo về chuyên môn kỹ thuật tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành (ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng những người đã có kinh nghiệm thực tế trong sản xuất) để làm giáo viên dạy nghề.

+ Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo giáo viên theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa, nhất là về kỹ năng nghề, kiến thức và kỹ năng sư phạm và bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ giáo viên dạy nghề để có đủ năng lực tiếp cận, khai thác tư liệu giảng dạy của nước ngoài và trên mạng Internet một cách có hiệu quả; đảm bảo tính liên thông giữa các trình độ đào tạo giáo viên dạy nghề; tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề thông qua việc đào tạo trình độ trên đại học.

+ Bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo viên dạy nghề thuộc Trường Trung cấp Nghề và các cơ sở dạy nghề của tỉnh; đồng thời, tham gia hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ và chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực dạy nghề với các nước trong khu vực và quốc tế, tạo điều kiện để giáo viên các cơ sở dạy nghề tham gia đào tạo ở trình độ sau đại học.

+ Tập trung xây dựng các chương trình bồi dưỡng theo hướng tiếp cận

với yêu cầu thực tế của đổi mới dạy nghề với tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.

58

+ Đa dạng hoá phương thức tổ chức bồi dưỡng theo hướng mềm dẻo và

linh hoạt; tăng cường phương thức bồi dưỡng qua thực tế và bồi dưỡng từ xa.

- Nâng cao chất lượng quản lý và hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn cho các cơ sở đào tạo nghề; bảo đảm sự phân công hợp lý giữa các cấp quản lý.

+ Thực hiện phân cấp tuyển dụng, bố trí sử dụng đội ngũ giáo viên cho các cơ sở dạy nghề trên cơ sở tự chủ về tài chính, tự quyết định ngành nghề và qui mô đào tạo, tự chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo.

+ Trên cơ sở các chính sách chung của Nhà nước, các cơ sở dạy nghề được quyền có chính sách khuyến khích riêng trong việc thu hút, sử dụng đội ngũ giáo viên dạy nghề.

- Cùng với đó, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các thể chế, chính sách về xây dựng, quản lý đội ngũ giáo viên nhằm đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và tinh thần trách nhiệm. Xây dựng tiêu chuẩn các chức danh giáo viên dạy nghề, chức danh công chức, viên chức quản lý dạy nghề các cấp; cụ thể hóa các tiêu chuẩn về nghiệp vụ công chức, viên chức làm công tác quản lý dạy nghề.

+ Xây dựng quy hoạch đội ngũ giáo viên đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ, chú trọng nâng cao kỹ năng thực hành của đội ngũ giáo viên dạy nghề; tăng cường khả năng nghiên cứu ứng dụng của giáo viên dạy nghề, tiến tới gắn kết chặt chẽ giữa giảng dạy và nghiên cứu ứng dụng, giữa giảng dạy và sản xuất - kinh doanh.

+ Xây dựng và hoàn thiện một số chế độ, chính sách cơ bản về bổ nhiệm, sử dụng, đãi ngộ, kiểm tra, đánh giá đội ngũ giáo viên một cách phù hợp; đồng thời, có chính sánh thu hút nghệ nhân, những người có kinh nghiệm và tay nghề cao làm giáo viên dạy nghề.

- Cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn lực. Thực hiện từng bước hiện đại hoá trang thiết bị các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề (phòng học lý thuyết, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm, mạng máy tính, thiết bị dạy và học hiện đại, thư viện, ký túc xá...).

- Huy động mọi năng lực, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề; quan tâm hơn đến việc tuyển giáo viên dạy nghề đi đào tạo và thực tập nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ ở nước ngoài, nhất là các ngành nghề mũi nhọn, các ngành nghề mà Việt Nam chưa có điều kiện để đào tạo giáo viên; có cơ chế thu hút chuyên gia giỏi trong và ngoài nước tham gia phát triển chương trình dạy nghề, tham gia giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực dạy nghề.

- Bảo đảm sự bình đẳng giữa các giáo viên trong các cơ sở dạy nghề công lập và tư thục, giữa giáo viên trong biên chế và hợp đồng dài hạn; có chính sách đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ giáo viên dạy nghề để đội ngũ giáo viên dạy nghề tập trung vào việc giảng dạy và nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ

59 thuật mới vào sản xuất, tạo ra đội ngũ giảng viên dạy nghề thực sự có tâm huyết với nghề nghiệp, hết lòng vì sự nghiệp dạy nghề.

- Phát triển đội ngũ giáo viên thỉnh giảng bao gồm các cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao của các doanh nghiệp, giảng viên của các trường đại học, cao đẳng, cán bộ nghiên cứu của các viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ...

Ngoài ra, cùng với đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề là hai nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo. Do đặc thù của dạy nghề gắn liền với thực tiễn sản xuất nên trang thiết bị, vật tư thực hành càng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kỹ năng nghề của người học. Việc nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cần thực hiện theo các hướng sau đây:

Thứ nhất, sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn tự có và các dự án hợp tác quốc tế để nâng cấp trang thiết bị dạy nghề, đảm bảo đủ thiết bị, vật tư cho học sinh luyện tập kỹ năng nghề. Tăng chi ngân sách Nhà nước cho dạy nghề để đạt tỷ lệ 10-12% trong ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo vào năm 2010; tập trung đầu tư, phát triển các trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề chất lượng cao, hỗ trợ phát triển các trung tâm dạy nghề, đặc biệt là các trung tâm dạy nghề ở các huyện...Đổi mới quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí của Dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo.

Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các cơ sở dạy nghề có uy tín trên thế giới mở cơ sở dạy nghề tại Ninh Thuận hoặc liên kết đào tạo với các cơ sở dạy nghề của Ninh Thuận nhằm chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới về dạy nghề.

- Xây dựng và ban hành các chính sách để khuyến khích, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các tổng công ty, các công ty, các doanh nghiệp lớn, các khu công nghiệp thành lập cơ sở đào tạo nghề; hình thành quỹ đào tạo nghề tại doanh nghiệp.

- Đổi mới chính sách tài chính, tăng hiệu quả đầu tư từ ngân sách theo hướng đầu tư có trọng điểm. Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tư cho dạy nghề, nhất là đầu tư vào các trường trung cấp và cao đẳng nghề để đổi mới trang thiết bị.

- Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo theo định hướng thị trường, phù hợp với thực tế sản xuất, vừa tiếp cận với trình độ tiên tiến về kỹ thuật công nghệ, đồng thời có tính liên thông giữa các trình độ dạy nghề và liên thông với các bậc đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.

- Cải tiến phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao kỹ năng thực hành của người học; đổi mới và chuyển nhanh phương pháp dạy nghề từ việc truyền đạt thụ động của giáo viên sang phương pháp tích cực hoá, chủ động, sáng tạo trong học tập. Từng bước đưa tin học hoá quá trình đào tạo lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng cơ bản, phát triển hình thức đào tạo từ xa v.v.

60

- Xây dựng chương trình dạy nghề theo tín chỉ hoặc mô đun đào tạo có khả năng chuyển đổi, tạo liên thông trong hệ thống dạy nghề và liên thông với các cấp học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.

- Đa dạng hoá hình thức đào tạo, chú trọng đào tạo chính quy, tăng cường đào tạo gắn với doanh nghiệp, đào tạo thường xuyên, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; tối ưu hoá công tác tổ chức, quy trình đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả của toàn bộ hệ thống dạy nghề.

- Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, đẩy mạnh hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội. Xây dựng các chương trình học liệu với các công cụ video, film, internet và các công cụ đa phương tiện khác vào quá trình giảng dạy.

3.2.1.3 Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động đào tạo

Nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thì cần phải mở rộng các loại hình đào tạo, đẩy mạnh quyền tự chủ về nhiệm vụ, biên chế, tổ chức, tài chính cho các cơ sở đào tạo, có chính sách thu hút để các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân trong tỉnh.

Ngoài chỉ tiêu đào tạo do ngân sách Nhà nước cấp thì cần mở rộng chỉ tiêu đào tạo do người học đóng học phí hoặc do các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hợp đồng đào tạo, đào tạo theo mô hình liên kết, đặt hàng, tín chỉ, vừa học - vừa làm; đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo tại chỗ.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể tự đào tạo hoặc tái đào tạo, hướng dẫn cho người lao động thêm theo ngành nghề sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài về nhân lực phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

3.2.1.4 Thực hiện quyền tự chủ trong quản lý và tuyển dụng lao

động trong các khu công nghiệp của tỉnh.

Trong cơ chế thị trường do có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trong mỗi quốc gia hoặc mỗi doanh nghiệp, việc các công ty đa quốc gia đầu tư vào các vùng, các khu vực đã làm thay đổi diện mạo về công tác đào tạo, điều hành, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực, nó khác hoàn toàn với thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp có quyền tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động theo ngành nghề và phù hợp với quy mô sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;

Việc tuyển dụng lao động không phụ thuộc vào khu vực, địa lý hoặc hộ khẩu thường trú tại Ninh Thuận mà có thể thông báo tuyển dụng lao động ở bất kỳ trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, Dạy nghề hoặc lao động ở bất kỳ địa phương nào trong nước hoặc ở ngoài nước; tuy nhiên, việc sử dụng các đối tượng này phải theo đúng các quy định của Luật pháp Việt Nam về sử dụng lao động là người nước ngoài.

61

Việc sử dụng thời gian lao động do người sử dụng lao động với người lao động thoả thuận thông qua hợp đồng lao động, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các Khu Công nghiệp của tỉnh phải thực hiện đúng Luật Lao động, Luật Bảo hiểm Xã hội, các chế độ về tiền lương, nghĩ phép, nghỉ ốm đau, thai sản v.v của Việt Nam.

3.2.1.5 Tuyển dụng lao động theo hướng chuyên môn hoá là nhân tố

nâng cao năng suất và tăng thu nhập cho người lao động.

Trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất – kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và tạo cho hàng hoá có sức cạnh tranh cao thì các nhà đầu tư cần áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất - kinh doanh, tiêu chuẩn hoá chất lượng và mẫu mã hàng hoá sẽ vô cùng cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường; muốn hoạt động sản xuất – kinh doanh đạt hiệu quả cao thì trước hết các nhà đầu tư phải quan tâm đến yếu tố con người, không những phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức mà còn phải có trình độ khoa học kỹ thuật và tay nghề cao để đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ cao và hiện đại hoá quy trình sản xuất.

Muốn có một đội ngũ lao động tinh thông và lành nghề thì các nhà đầu tư phải có phương thức và tiêu chí tuyển chọn, các nhà đầu tư phải có những phướng pháp riêng để lựa chọn nguồn nhân lực với chất lượng tốt nhất để đảm đảm bảo hàng hoá có chất lượng hơn.

Các nhà đầu tư cần quan tâm đến việc giữ người lao động ở lại làm việc lâu dài trong doanh nghiệp. Các hình thức mà chủ doanh nghiệp luôn điều chỉnh và là công cụ để điều hành người lao động đó là hình thức tăng lương, bổ nhiệm, đề bạt, tạo điều kiện cho đi đào tạo ở trong nước và nước ngoài, cho đi tham quan, nghỉ mát v.v; bên cạnh đó, còn có các chính sách khác mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thể hiện đó là chính sách tiền thưởng (thưởng khi họ có thành tích đột xuất, thưởng thường xuyên khi họ luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, doanh thu cao và ổn định v.v).

3.2.2 Đổi mới kế hoạch và chiến lược đào tạo, xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút nguồn nhân lực có trình độ và tay nghề cao về làm việc tại các khu công nghiệp của tỉnh.

3.2.2.1 Xây dựng, sửa đổi, bổ sung, thể chế hoá văn bản pháp luật về

dạy nghề.

- Trên cơ sở Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường Dạy nghề giai đoạn 2002 – 2010; Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2007 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020 v.v để thể chế hoá bằng các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với công tác quy hoạch mạng lưới các trường Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và Dạy nghề thuộc tỉnh quản lý, để triển khai công tác tuyển sinh, đào tạo, bồi dưỡng tốt và có chất lượng thì cần xây dựng chính sách hỗ trợ đối với người học; các doanh

62 nghiệp cần chủ động trong đào tạo nhằm sớm có một đội ngũ lao động có trình độ để cung cấp cho các khu công nghiệp của tỉnh.

+ Xây dựng chính sách đối với giáo viên nói chung và dạy nghề nói riêng; chuẩn bị tốt các điều kiện tiến tới thực hiện các tiêu chí kiểm định chất lượng về dạy nghề; về đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, về chương trình chuẩn dạy nghề theo 3 cấp trình độ v.v.

+ Nghiên cứu, xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế khi nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới;

+ Sửa đổi những hạn chế chính sách về học bổng, học phí, trợ cấp ưu đãi hiện hành, chính sách ưu đãi đối với cơ sở đào tạo, trong đó chú trọng các cơ sở dạy nghề và người học nghề;

+ Các doanh nghiệp phối hợp với các cơ sở trường dạy nghề để tăng quy mô đào tạo, mở rộng các ngành nghề đào tạo và thuận lợi hơn trong liên kết đào tạo nguồn nhân lực cho các Khu Công nghiệp của tỉnh;

+ Quy định về nguyên tắc xây dựng, tổ chức thực hiện và thẩm định chương trình, giáo trình đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung học nghề và cao đẳng nghề;

+ Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý về dạy

nghề các cấp, tránh chồng chéo, bỏ sót chức năng, nhiệm vụ;

+ Quy định rõ về phân luồng, liên thông giữa giáo dục và dạy nghề và

giữa các cấp học nghề.

- Đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền về Luật Dạy nghề bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau nhằm chuyển biến nhận thức và hiểu biết của xã hội về dạy nghề và các quy định của luật.

3.2.2.2 Đổi mới chính sách, cơ chế quản lý dạy nghề theo hướng tăng

quyền tự chủ, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các cơ sở dạy nghề

- Chuyển đổi cơ chế hoạt động đối với các cơ sở dạy nghề, cần giao đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, tài chính để các cơ sở thực hiện.

- Từng bước xoá bỏ việc giao chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở đào tạo, gắn với điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động, đảm bảo công bằng xã hội trong tuyển sinh, không phân biệt hình thức và văn bằng đào tạo.

Nhà nước tăng cường quản lý bằng việc kiểm định các cơ sở đào tạo, thông báo về các khoản đóng góp (học phí và các chi phí học tập) công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để cho người học lựa chọn. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở đào tạo theo số lượng học sinh tốt nghiệp hoặc hỗ trợ cho vay đối với học sinh học nghề hoặc Nhà nước đặt hàng đối

63 với cơ sở dạy nghề để đào tạo những đối tượng chính sách như: Dạy nghề cho đối tượng là con Liệt sỹ, con thương binh, người nghèo, người khuyết tật và các đối tượng chính sách khác, bộ đội xuất ngũ, người dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng cao, lao động nông thôn v.v.

- Xây dựng quỹ hỗ trợ dạy nghề với nguồn lực chính là Nhà nước, có sự đóng góp của các doanh nghiệp và toàn xã hội tạo điều kiện cho học sinh được vay với lãi suất ưu đãi để học nghề. Hoàn thiện cơ chế tài chính tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở dạy nghề thuộc các tập đoàn, các tổng công ty và công ty cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

- Xây dựng cơ chế bình đẳng trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, thu hút người học, có tích luỹ để tái đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị, đủ sức để cạnh tranh với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, bình đẳng về chỉ tiêu đào tạo, về văn bằng tốt nghiệp, về học liên thông lên cấp cao hơn, về cấp hoặc thuê đất đai, nhà xưởng.

3.2.2.3 Đổi mới công tác hoạch định chính sách và kế hoạch hoá; hoàn chỉnh mạng lưới quy hoạch các trường chuyên nghiệp và dạy nghề.

- Cần phải ban hành đầy đủ các chính sách đối với đào tạo nghề theo đặc thù của tỉnh; Bên cạnh đó, cần đổi mới và nâng cao hiệu quả và đổi mới các phương pháp lập kế hoạch ở các trường chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng tiếp cận thị trường lao động.

- Hoàn chỉnh Quy hoạch mạng lưới hệ thống các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh hợp lý về số lượng, về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, xây dựng ở mỗi huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề hoặc một trường trung cấp nghề; nâng cấp trường Trung cấp Nghề thành Trường Cao đẳng nghề để đào tạo và liên thông cả 3 cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề. Gắn quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực với quy hoạch của các ngành, lĩnh vực kinh tế và khu công nghiệp của tỉnh.

+ Lựa chọn và xây dựng một số trường chất lượng cao bao gồm cả trường phổ thông, phát triển đào tạo công nhân kỹ thuật có trình trình độ cao cung cấp theo yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội cũng như cho các Khu Công nghiệp của tỉnh.

3.2.2.4 Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong dạy nghề; ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào giảng dạy và sản xuất thực nghiệm

- Tỉnh cần bố trí một nguồn ngân sách hợp lý để đầu tư nâng cấp Trường Cao đẳng sư phạm và Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tại Ninh Thuận, nâng cấp trường Trung cấp Nghề thành Trường Cao đẳng nghề để các cơ sở này trợ thành các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật của tỉnh; xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm để triển khai các hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ với giảng dạy và doanh nghiệp.

64

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách sử dụng và đãi ngộ các nhà nghiên cứu; tạo điều kiện để các nhà nghiên cứu được tham gia giảng dạy trong các trường chuyên nghiệp của tỉnh. Cần có chính sách khuyến khích, thu hút các nhà nghiên cứu ứng dụng nước ngoài tham gia hỗ trợ, nghiên cứu ứng dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ mới vào các trường chuyên nghiệp và dạy nghề của tỉnh.

3.2.2.5 Nâng cao sức cạnh tranh đào tạo nguồn nhân lực để hội nhập

kinh tế quốc tế

- Cần xây dựng một chiến lược về đào tạo nói chung và dạy nghề nói riêng để nâng cao năng lực hợp tác, năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực trong khu vực và cả nước trong xu thế Hội nhập kinh tế quốc tế

- Nâng cao chất lượng đào tạo không chỉ về chuyên môn, mà còn tổ chức dạy tiếng nước ngoài ở tất cả các cơ sở đào tạo của tỉnh; có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cho công nhân làm việc tại các Khu Công nghiệp của tỉnh được học tin học và ngoại ngữ nhất là học tiếng các nước Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và tiếng Nga để thuận lợi trong giao tiếp và tiếp thu công nghệ mới.

- Tăng cường liên doanh, liên kết đào tạo với các cơ sở dạy nghề nước ngoài, thu hút đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực dạy nghề; khuyến khích giáo viên nước ngoài vào dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề của tỉnh; tăng cường trao đổi giáo viên giữa các cơ sở dạy nghề trong nước với cơ sở dạy nghề nước ngoài.

- Tỉnh cần có chính sách cấp học bổng để đưa học sinh học nghề ra nước ngoài để học thêm về kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao để trở về làm việc tại các khu công nghiệp của tỉnh.

- Tiếp thu có chọn lọc các chương trình dạy nghề tiên tiến của thế giới; khuyến khích các hình thức liên kết dạy nghề chất lượng cao, trao đổi giáo viên, chuyên gia nước ngoài; khuyến khích giáo viên dạy nghề là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Ninh Thuận; tăng cường công tác tư vấn giúp cho học sinh của tỉnh định hướng ngành nghề khi lựa chọn du học ở nước ngoài.

3.2.3 Xây dựng các chính sách để thu hút các nhà đầu tư trong nước

và nước ngoài đầu tư vào các Khu Công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận

Ninh Thuận là một trong số ít các tỉnh chưa có khu công nghiệp, việc hình thành các khu công nghiệp không những tạo nhiều việc làm cho lao động, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập v.v là động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.

Muốn đạt được mục đích này, việc xây dựng các chính sách thu hút đầu tư là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng cần được đặt lên hàng đầu; hiện có nhiều khó khăn do điều kiện khí hậu khắc nghiệt và dân số ít nhưng là một tỉnh đi sau về lĩnh vực đầu tư cho các khu công nghiệp nên cũng có nhiều thuận lợi trong việc tìm hiểu và học tập từ các tỉnh bạn trong nước về chính

65 sách hấp dẫn để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào tỉnh Ninh Thuận; trên cơ sở quy định khung của Chính phủ quy định, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành các chính sách để kêu gọi các dự án sau đây được hưởng ưu đãi đầu tư :

* Dự án đầu tư

+ Đầu tư khai thác và chế biến công nghiệp đối với các loại tài nguyên khoảng sản như đá Granite, cát silic, nước khoáng, sản xuất muối tinh và hoá chất sau muối.

+ Đầu tư nghiên cứu và sản xuất giống mới phục vụ sản xuất nông lâm

nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong tỉnh.

+ Đầu tư phát triển công nghệ thông tin, đầu tư sản xuất kinh doanh dịch

vụ áp dụng công nghệ cao.

* Điều kiện được hưởng ưu đãi đầu tư:

Dự án đầu tư có sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là:

+ 50 người đối với địa bàn Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.

+ 20 người đối với địa bàn các huyện Ninh Hải, Ninh Phước.

+ 15 người đối với huyện Ninh Sơn và huyện Bác Ái.

* Bảo đảm và hỗ trợ đầu tư:

Dự án đầu tư vào các huyện Thuận Bắc (trong đó có Khu Công nghiệp Du Long) và huyện Ninh Phước (trong đó có Khu Công nghiệp Phước Nam) thì được hỗ trợ tiền bồi thường thiệt hại và giải phóng mặt bằng bằng 50% chi phí, tối đa không quá 500 triệu đồng.

* Hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng:

Ngân sách tỉnh hỗ trợ kinh phí xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật từ trục chính trong khu vực đến chân hàng rào công trình, bao gồm đường giao thông, đường ống cấp nước và đường dây tải điện trung, hạ thế; trường hợp, Nhà đầu tư đã bỏ vốn thi công thì được Ngân sách Nhà nước thanh toán ngay sau khi công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, hoặc hoàn trả từ nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp mà đơn vị phải nộp.

* Hỗ trợ chuẩn bị đầu tư, xúc tiến thương mại và đào tạo nghề:

+ Dự án đầu tư sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sử dụng nguồn nguyên liệu chủ yếu từ địa phương, được hỗ trợ xúc tiến thương mại lần đầu tại các triển lãm giới thiệu sản phẩm và hội chợ trong nước. Mức hỗ trợ tuỳ theo yêu cầu và quy mô dự án nhưng không quá 100 triệu đồng.

+ Dự án đầu tư có sử dụng lao động bình quân trong năm ít nhất 30 người thì được hỗ trợ kinh phí khi đào tạo nghề trong nước lần đầu đối với lao động có hộ khẩu tại Ninh Thuận:

- Đối với lao động phổ thông : Mức hỗ trợ bằng 50% tiền học phí, tối đa

không quá 700 ngàn đồng/1 lao động.

66

- Đối với lao động có tay nghề từ bậc 2 trở lên : Mức hỗ trợ bằng 50% tiền học phí, tối đa không quá 1,3 triệu đồng nếu đào tạo trong tỉnh và 1,7 triệu đồng nếu đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc các trường dạy nghề của Trung ương.

* Đối với dự án ưu đãi đầu tư:

Các Dự án ưu đãi đầu tư được hỗ trợ đầu tư như sau :

+ Nếu vay vốn từ Ngân hàng thương mại trong tỉnh thì được hỗ trợ lãi suất đối với vốn vay đầu tư xây dựng cơ bản. Thời gian hỗ trợ bằng thời gian xây dựng cơ bản nhưng không quá 2 năm, mức hỗ trợ bằng 50% chênh lệch lãi suất tại thời điểm vay giữa ngân hàng thương mại và Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

+ Được Ngân sách tỉnh hỗ trợ kinh phí chuẩn bị đầu tư gồm chi phí khảo sát và lập dự án, khi đưa dự án vào thực hiện; mức hỗ trợ bằng 50% nhưng không quá 100 triệu đồng.

+ Được hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm trong

nước, mức tối đa là 150 triệu đồng; được hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề.

* Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp:

+ Được áp dụng thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp 15%.

+ Được miễn 4 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 7 năm tiếp theo. Nếu có số lao động sử dụng bình quân trong năm từ 15 người trở lên thì thời gian giảm 50% thuế phải nộp kéo dài thêm 2 năm.

+ Được miễn nộp thuế nhập khẩu.

+ Được miễn nộp tiền thuê đất, miễn nộp tiền sử dụng đất và tiền thuế sử

dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án.

+ Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại các cụm và khu

công nghiệp thuộc các huyện Thuận Bắc và Ninh Phước của tỉnh

+ Đối với dự án đầu tư mới: Áp dụng thuế suất 25% đối với dự án đầu

tư.

+ Đối với dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu: Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng trong thời gian dự án đầu tư được miễn thuế, giảm thuế đối với phần thu nhập tăng thêm do dự án đầu tư này mang lại.

+ Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án thành lập mới:

- Dự án đầu tư đáp ứng một trong hai điều kiện: Dự án thuộc lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư (hoặc dự án đặc biệt khuyến khích đầu) hoặc Dự án thu hút từ 15 lao động trở lên tại các đại bàn cần thu hút đầu tư thì được miễn 02 năm và giảm 50% thuế thu nhập phải nộp trong 02 năm tiếp theo. Nếu đáp ứng cả 2 điều kiện thì miễn 02 năm và giảm 50% thuế thu nhập phải nộp trong 04 năm tiếp theo.

67

- Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư mở rộng

sản xuất kinh doanh:

* Dự án thuộc lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư (hoặc dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư): thì được miễn 01 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 04 năm tiếp theo đối với phần thu nhập tăng thêm của dự án.

3.2.4 Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất, thu hút nhiều lao

động nhằm giảm tỷ lệ lao động trong độ tuổi thất nghiệp.

Trong giai đoạn đầu, theo kinh nghiệm của những tỉnh đi trước trong lĩnh vực thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp thì việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, thu hút nhiều lao động vào làm việc tại các khu công nghiệp đã được tỉnh quy định, đó là:

- Thứ nhất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được vay vốn trung hạn, có thể dài hạn đối với lãi suất ưu đãi đối với những doanh nghiệp đầu tư vào những ngành nghề thu hút được nhiều lao động làm việc.

Thứ hai, hỗ trợ đào tạo và hỗ trợ nhà đầu tư lập quỹ hỗ trợ đào tạo từ

nguồn vốn góp và tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Thứ ba, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ cân đối ngân sách địa phương để hỗ trợ nhà đầu tư đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào khu công nghiệp.

Bên cạnh những chính sách và biện pháp để tăng cường đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, thì việc xây dựng các chính sách để liên kết đào tạo và chính sách thu hút học sinh - sinh viên đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề trong nước, kể cả số lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp khác về làm việc trong các cụm, khu công nghiệp tỉnh Ninh Thuận.

Tóm lại, Việc xây dựng các chính sách để thu hút lao động cho các Khu Công nghiệp của tỉnh là vô cùng cấp bách và hết sức quan trọng để các nhà đầu tư tăng quy mô về vốn, máy móc trang thiết bị sớm đi vào sản xuất.

Hiện nay, các cơ sở đào tạo của tỉnh chưa đủ mạnh và năng lực đào tạo nhân lực còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo còn nghèo nàn và lạc hậu, trong khi các cơ sở đào tạo khác trong nước thì không những có bề dày và kinh nghiệm trong đào tạo, mà cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập lại rất hiện đại; các cơ sở đào tạo nghề ở các tỉnh, thành và các khu công nghiệp khác trong nước hiện đang đào tạo nhiều ngành nghề và phong phú về loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu cho các khu công nghiệp của cả nước thì việc thu hút số sinh viên đang học trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề trong nước, số lao động có tay nghề đang làm việc ở những tỉnh khác về làm việc trong các khu công nghiệp của tỉnh.

Muốn đạt được những nội dung trên thì tỉnh cần có thêm các chính sách

sau đây:

68

- Trước mắt, trong giai đoạn đầu số doanh nghiệp triển khai dự án chưa nhiều thì tỉnh cần đầu tư xây dựng tại mỗi Khu Công nghiệp một khu vực nhà ở cho công nhân; ước tính giai đoạn 2008 – 2010 mỗi khu công nghiệp có khoảng 20.000 công nhân làm việc tại đây, số diện tích sử dụng nhà ở khoảng 160.000 m2, tổng hai khu công nghiệp này khoảng 320.000 m2, các năm sau đó thì có thể khuyến khích các nhà đầu tư làm nhà cho công nhân và được hưởng chính sách ưu tiên vay vốn, thời gian vay kéo dài và được miễn thuế trong thời gian hai năm đầu và những năm sau được giảm 50% thuế đối với khoản thu về nhà ở.

- Ngoài các dự án đầu tư cho nhà ở thì cần có dự án đầu tư xây dựng các trường Tiểu học và Trung học cơ sở, bệnh viện khu vực, bến xe, câu lạc bộ công nhân, công viên v.v ở gần khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để công nhân yên tâm làm việc; bởi vì, số công nhân này có thể không chỉ là người có hộ khẩu trong tỉnh mà sẽ có nhiều công nhân ở ngoài tỉnh, có khi là người nước ngoài v.v.

- Đầu tư tuyến xe buýt từ Du Long - Phan Rang - Phước Nam và ngược lại để tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân đi lại với mức thu bằng 50% so với các đối tượng khác, tuyến khác.

- Chỉ đạo các cơ sở đào tạo trong tỉnh có kế hoạch liên kết với các doanh nghiệp xây dựng chương trình và thời gian để đào tạo phù hợp với đặc thù hoạt động sản xuất - kinh doanh của từng doanh nghiệp.

3.2.5 Phân định rõ chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước với

công tác đào tạo và quản lý nguồn nhân lực.

Nước ta đang đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường sang tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người tranh thủ thời cơ để tạo ra sức chuyển biến này khi nền công nghiệp đã bắt đầu hoạt động.

Khó khăn hiện nay chính là việc các đầu mối đào tạo nguồn nhân lực (trường cao đẳng, chuyên nghiệp và truờng dạy nghề) chưa coi doanh nghiệp là khách hàng mà vẫn chỉ thực hiện đào tạo theo chỉ tiêu được giao. Chính vì vậy, có rất nhiều doanh nghiệp cần nhưng lại bị thiếu hụt, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao.

Bên cạnh đó, phải kể đến kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống: thái độ làm việc, năng lực giao tiếp, tiếp thu công việc, quan hệ cộng đồng của người lao động chưa cao. Khả năng thích ứng với công việc của người mới ra trường còn chậm, trong khi đó tốc độ ứng dụng khoa học công nghệ diễn ra rất nhanh.

Hiện nay, ở Ninh Thuận rất ít trường, trung tâm đào tạo, chứ chưa nói đến đào tạo nguồn lao động cao cấp, ngay cả số công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cũng được đào tạo từ các cơ sở khác trong nước; việc đào tạo có khi còn chắp vá, doanh nghiệp phải tuyển lao động phổ thông rồi mới cho đi bồi

69 dưỡng ngắn hạn ở một số doanh nghiệp khác về nghiệp vụ để về làm việc cho doanh nghiệp mình.

Do vậy, để có thể chủ động được nguồn nhân lực có trình độ và trình độ cao thì tỉnh Ninh Thuận cần phải bố trí ngân sách đầu tư hoặc hỗ trợ kinh phí để đầu tư cho nguồn lao động cao cấp này, một số ngành nghề có tính chiến lược thì tạo điều kiện cho họ được đi học và làm việc ở nước ngoài để có điều kiện tiếp cận với công nghệ mới và phương thức lao động tiên tiến để sau khi về nước thì tỉnh đã có một đội ngũ lao động có tay nghề cao làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của tỉnh nhất là cung cấp nguồn nhân lực cho các Khu Công nghiệp của tỉnh.

Trước mắt, Tỉnh Ninh Thuận cần có chính sách đặc biệt để khuyến khích cho kiến thức, chất xám của thế giới vào Ninh Thuận càng nhiều càng tốt. Trải "thảm đỏ" để đón chất xám của thế giới qua các kênh như: tư vấn, giảng dạy, làm việc v.v; cần có nhiều ưu đãi đặc biệt cho lao động có tay nghề cao đến làm việc tại tỉnh như ưu đãi về thuế, về nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện làm việc v.v.

Sớm có quy hoạch để trình bộ Giáo dục và Đào tạo và Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập trường đại học đa ngành, các trung tâm nghiên cứu để đón kiến thức, kinh nghiệm của thế giới vào Ninh Thuận. Hơn nữa, số Việt kiều trước đây là người của tỉnh hiện đang làm việc và sinh sống ở nước ngoài có lượng chất xám rất cao; cho nên, tỉnh cần "trải thảm đỏ" với những chính sách phù hợp để đón tri thức Việt kiều chân chính về tỉnh để làm việc.

Bên cạnh đó, ngoài việc tìm được nguồn nhân lực hoặc những người có tay nghề giỏi thì điều không kém phần quan trọng là các doanh nghiệp cần có phương án chống lại “nạn săn lao động giỏi, nhân viên giỏi hoặc người quản lý giỏi”, có chính sách phù hợp về tiền lương, tiền thưởng, chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và tay nghề tại các trường đào tạo hoặc có thể cử đi nước ngoài để tu nghiệp để giữ được đội ngũ lao động giỏi làm việc trong doanh nghiệp mình.

Yếu tố tạo nguồn - yếu tố bất mãn + Yếu tố động viên = Giữ nhân viên

giỏi.

Với những phân tích trên cho ta thấy, việc xây dựng mối quan hệ và thực hiện phân định rõ chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp để không chồng chéo, không cản trở đến sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa là vô cùng quan trọng và không thể khác được. Nhà nước tạo cơ chế chính sách và định hướng chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, còn doanh nghiệp tham gia với các cơ sở đào tạo để đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình là sự kết hợp khôn khéo và thành công nhất cho cả hai bên; người có kỹ thuật, kỹ năng làm việc tốt hơn, thu nhập sẽ cao hơn và điều kiện thăng tiến sẽ thuận lợi hơn; điều không kém phần quan trọng đó là tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống,

70 ổn định xã hội, an ninh, quốc phòng, đó là điều Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới.

3.2.6 Đẩy mạnh cải cách hành chính, công khai hoá, minh bạch hoá

ở tất cả các hoạt động dịch vụ công

Công tác cải cách hành chính, công khai hoá, minh bạch hoá, ở tất cả các hoạt động dịch vụ công là hết sức cần thiết trong thời kỳ đổi mới. Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo cho các cấp chính quyền, các cơ quan Nhà nước thực hiện nghiêm túc và quyết liệt vấn đề này để tạo điều kiện cho công dân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng; đặc biệt, là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

Từ Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) cho đến Đại hội IX (năm 2001) luôn khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như: tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng.

Các nhiệm vụ và những giải pháp cần thực hiện là:

- Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước trên các lĩnh vực xây dựng cơ bản, đất đai, giải tỏa, đền bù (nhất là việc rà soát và thành lập Hội đồng giải tỏa, đền bù).

- Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Đẩy mạnh tin học hóa trong quản lý, thực hiện chương trình đào tạo chuyên viên công nghệ thông tin đến năm 2010.

- Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; triển khai thực hiện nhiệm vụ tiết kiệm kinh phí công, tiết kiệm đầu tư.

- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về cải cách hành chính, về cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trên các phương tiện thông tin đại chúng, ở cơ quan, đơn vị và cơ sở.

Việc thực hiện cải cách hành chính trong thời gian qua tuy chưa hoàn thiện nhưng bước đầu đã có những tiến bộ nhất định, việc thực hiện “một cửa” “một cửa liên thông”, “một dấu” đã giúp cho công dân đỡ phải đi lại nhiều nơi, nhiều lần và tránh được sự nhũng nhiễu của công chức thường xuyên có giao dịch với nhân dân.

Như vậy, công tác cải cách hành chính, công khai hoá, minh bạch hoá các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong thời gian

71 qua đã đáp ứng với xu thế phát triển của một đất nước đang hoà nhập sâu vào nền kinh tế thế giới; điều đó đã khẳng định sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong công tác cải cách hành chính là hết sức đúng đắn được nhân dân ủng hộ và làm hài lòng các nhà đầu tư đến kinh doanh tại Việt Nam.

3.3 Kiến nghị đối với Chính phủ, các Bộ ngành liên quan và Ủy ban

nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn sau hơn 20 năm đổi mới, ngày nay đang bước vào một thời kỳ phát triển mới sau khi đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới, với những cơ hội và thách thức chưa từng có, đòi hỏi cần phải có nguồn nhân lực thích ứng với cơ hội này.

Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất cơ hội đang đến với đất nước; thậm chí nếu không mau chóng khắc phục được yếu kém này, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức mới, sẽ kéo dài sự tụt hậu của đất nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm đó chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Tuy nhiên, để chủ động được nguồn lao động có tay nghề, tạo việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống cho người lao động, góp phần bảo đảm an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội; với những nhận định và phân tích trên, tôi xin đề xuất với các cấp, các ngành, các cơ quan từ Trung ương đến tỉnh và doanh nghiệp xem xét giải quyết những vấn đề cần đặt ra như sau:

3.3.1 Đối với Chính phủ

Tỉnh Ninh Thuận là một trong số ít tỉnh đang phải nhờ Trung Ương trợ cấp về ngân sách, việc tự chủ động tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất - kinh doanh tại các Khu Công nghiệp của tỉnh là tương đối khó khăn và không thể tránh khỏi những phức tạp phát sinh mà khả năng tỉnh không thể giải quyết được, đó là: Ngân sách để chi cho việc giải toả đền bù cho dân khi thu hồi đất sản xuất, ước tính hàng trăm tỷ đồng, trong khi đó khả năng thu ngân sách mỗi nam của tỉnh cũng chỉ được dưới 300 tỷ đồng, nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh đã trên 1.200 tỷ đồng/năm;

Do vậy, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành ưu tiên phân bổ ngân sách cho tỉnh Ninh Thuận để thanh toán tiền đền bù cho

72 những hộ gia đình phải thu hồi đất để đầu tư các khu công nghiệp để sớm giao đất cho nhà đầu tư triển khai dự án ngay trong năm 2008. Bổ sung vốn đầu tư để xây dựng hệ thống hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư đến đầu tư trong các khu công nghiệp của tỉnh.

Các cơ sở đào tạo của tỉnh hiện tại quá ít so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, thiếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, quy mô đào tạo quá nhỏ so với nhu cầu tuyển lao động của các nhà đầu tư.

Do vậy, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cần điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 về Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020, trong đó có hệ thống các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận; ưu tiên bố trí vốn để đào tạo nguồn nhân lực không những cho tỉnh Ninh Thuận mà góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực và cho cả nước.

Đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận sớm thẩm định đề án thành lập Trường Đại học đa ngành tại Ninh Thuận, tên cơ sở sát nhập Trường cao đẳng sư phạm, Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật và Trường Trung cấp Y tế để đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh.

3.3.2 Đối với các Bộ, ngành Trung ương

Tỉnh Ninh Thuận là một tỉnh có điều kiện khí hậu và địa lý không thuận lợi như các tỉnh xung quanh, nhưng để phát triển kinh tế - xã hội và sớm đủ điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế; tỉnh Ninh Thuận đang cần sự hỗ trợ của các Bộ, ngành ở Trung ương về cơ chế chính sách, nguồn nhân lực, thiết bị và công nghệ; phấn đấu từ năm 2010 đến năm 2015 có thể cân đối được ngân sách chi thường xuyên và sau năm 2015 có thể tham gia câu lạc bộ nghìn tỷ như các tỉnh trong khu vực Miền trung như Bình Thuận Lâm Đồng, Khánh Hoà v.v, với nội dung của đề tài, tôi xin được đề nghị các Bộ, ngành một số vấn đề như sau:

* Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo

- Sớm trình trình Thủ tuớng Chính phủ bổ sung quy hoạch mạng lưới các Trường Đại học, Cao đẳng tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, trong đó ưu tiên thành lập trường Đại học đa ngành tại Ninh Thuận theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

- Giao trách nhiệm cho các Trường Đại học và Cao đẳng trong khu vực Miền Trung và Đông Nam Bộ giúp đỡ cho tỉnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo đội ngũ giáo viên trung học, giảng viên có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ cung cấp cho các trường Trung học phổ thông, nhất là giảng viên cho trường Đại học đa ngành tại Ninh Thuận.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên về trình độ ngoại ngữ, trình độ sư phạm, kiến thức thực tế cùng với đầu tư cơ sở vật chất và chính sách hợp lý để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo tại tất cả các cơ sở đào tạo (công lập và ngoài công lập); xây dựng chương trình đào tạo hợp

73 lý, giáo trình phù hợp để nâng cao chất lượng đào tạo; là trung tâm điều phối giữa nhà trường, doanh nghiệp và với địa phương trong quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

- Tiếp tục thực hiện đề thi chung cho các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và thi tuyển vào Đại học, Cao đẳng. Đổi mới phương thức thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng học môn nào thi môn ấy, sớm gộp kỳ thi Đại học chung với kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông để giảm bớt chi phí của Nhà nước và nhân dân; giảm áp lực đối với việc thi cử.

Để việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và nhằm đáp ứng được nhu cầu xã hội, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, các Bộ có liên quan hướng dẫn cho các cơ sở đào tạo thực hiện đào tạo theo phương thức phối hợp giữa “3 nhà” Nhà nước – Nhà đào tạo – Nhà doanh nghiệp, cụ thể như sau:

- Về phía Nhà nước thì cần có cơ chế dành 3% - 5% thuế của doanh

nghiệp hỗ trợ cho đào tạo.

- Về phía các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và các cơ sở Dạy nghề cần củng cố chất lượng đào tạo, đội ngũ giảng viên; các trường cần có có chương trình đào tạo chất lượng cao theo nhu cầu doanh nghiệp đã được ký kết và có thể đề xuất ngay mức học phí mới.

- Về phía doanh nghiệp, cần có thông tin về nhu cầu nhân lực của mình, hỗ trợ tài chính và tham gia với các trường trong việc quản lý đào tạo, xây dựng chương trình và tổ chức cho sinh viên thực tập.

* Đối với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

Sớm trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh lại Quy hoạch mạng lưới trường Dạy nghề giai đoạn 2002 – 2010 đã được ban hành theo Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ, cho phù hợp với tình hình phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở các vùng, khu vực và các địa phương; đưa tỉnh Ninh Thuận vào diện ưu tiên đầu tư nhất là Trường Trung cấp Dạy nghề và Trung tâm dạy nghề; tạo điều kiện về ngân sách, máy móc trang thiết bị đào tạo và đội ngũ giáo viên, sớm đủ điều kiện để nâng cấp các Trường Trung cấp nghề thành Trường Cao đẳng nghề Ninh Thuận, được như vậy sẽ rất thuận lợi cho việc đào tạo theo ba cấp trình độ: Sơ cấp, Trung cấp và Cao đẳng nghề.

Trước mắt, đầu tư cho Trường Trung cấp Nghề Ninh Thuận thêm một Phân hiệu đặt tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm với quy mô bổ sung khoảng 600 chỉ tiêu và đầu tư cho 6 huyện (bao gồm cả huyện Thuận Nam mới) mỗi huyện một Trung tâm đào tạo nghề với quy mô mỗi trung tâm khoảng 250 chỉ tiêu, nâng quy mô đào tạo toàn tỉnh từ 600 chỉ tiêu hiện nay lên trên 3.000 chỉ tiêu vào năm 2010 và khoảng 4.000 chỉ tiêu vào năm 2015.

Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc xây dựng Chương trình khung cho các cơ sở đào tạo nghề, tăng cường cơ chế tự chủ, tự chịu trách

74 nhiệm trong nhiệm vụ, tổ chức và tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ- CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.

Phát triển nhiều ngành sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động giản đơn, lao động trẻ, lao động vùng nông thôn; tư vấn và đề xuất với Chính phủ có chính sách ưu tiên để các nhà đầu tư đầu tư vào tỉnh Ninh Thuận, tránh đầu tư quá nhiều vào những tỉnh, thành có điều kiện kinh tế phát triển.

Tăng cường công tác thanh, kiểm tra các cơ sở đào tạo về đào tạo và chất lượng đào tạo nghề. Sớm thành lập Cục kiểm định chất lượng về dạy nghề (như Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo) để xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng về dạy nghề và thực hiện kiểm định chất lượng sau đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề.

Cải tiến quy trình thi, cử, đánh giá kết quả đào tạo và cấp bằng nghề theo các hình thức thi tay nghề, thi thợ giỏi. Hướng dẫn cho các cơ sở dạy nghề thường xuyên liên hệ với các doanh nghiệp trong việc xây dựng loại hình đào tạo và chương trình, thời gian dạy nghề cho phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động.

* Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính

Đề nghị cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận trong việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo, ưu tiên phân bổ vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia cho Ninh Thuận để phát triển hệ thống trường chuyên nghiệp, nhất là nguồn vốn để đầu tư trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp; tăng quy mô đào tạo và ưu tiên vốn để đầu tư máy móc trang thiết bị, mở rộng ngành nghề đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho tỉnh.

Định hướng và tạo điều kiện để các nhà đầu tư đến đầu tư tại tỉnh Ninh Thuận, nhất là thu hút đầu tư nước ngoài mà Ninh Thuận có thế mạnh như chế biến Nông, Lâm, Hải sản, các tài nguyên khác của tỉnh.

3.3.3 Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận

Trên thực tế, nguồn nhân lực của tỉnh đang thiếu trầm trọng ở tất cả các trình độ (Đại học, Cao đẳng, Trung cấp và Dạy nghề) lao động có trình độ đã thiếu nhưng lao động có tay nghề cao lại càng thiếu trầm trọng hơn; chưa nói đến trình độ Tiến sỹ, Thạc sỹ; nếu khi các doanh nghiệp đầu tư mạnh vào các Cụm Công nghiệp và Khu Công nghiệp của tỉnh thì việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn đối với các cấp chính quyền của tỉnh Ninh Thuận.

Do vậy, muốn chủ động được nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực có trình độ cao để cung cấp cho các doanh nghiệp đầu tư vào các Cụm và Khu Công nghiệp của tỉnh thì ngay từ năm 2008, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần sớm phê duyệt Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực giai đoạn 2008 – 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 để các ngành, các đơn vị trong tỉnh có cơ sở thực hiện.

Để đảm bảo cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao thì Uỷ ban nhân dân tỉnh cần hoàn chỉnh Đề án thành lập Phân hiệu trường

75 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tại Ninh Thuận sớm đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ liên quan thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2008 để có thể tuyển sinh vào năm học 2009 – 2010, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đến năm 2012 có thể thành lập trường đại học đa ngành tại Ninh Thuận.

Trước hết, năm 2009 trở đi cần tăng quy mô đào tạo và đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho phép mở thêm mã ngành, nghề để đào tạo những ngành, nghề mà tỉnh đang cần và thiếu nguồn nhân lực với các cấp đào tạo khác nhau (Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề).

Tranh thủ sự ủng hộ của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội để cấp vốn đầu tư cho tỉnh sáu Trung tâm dạy nghề tại 6 huyện (kể cả huyện Thuận Nam mới thành lập) và định mức chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo từ trên 25% nhằm đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và tăng đầu tư máy móc thiết bị, chuẩn bị các điều kiện để có thể nâng cấp trường Trung cấp nghề thành Trường Cao đẳng Nghề vào năm 2010.

Đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo nguồn nhân lực, tỉnh cần có chính sách hấp dẫn như cho thuê đất với giá rẻ, thực hiện miễn hoặc giảm thuế để thu hút các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo nhất là thành lập các trường cao đẳng hoặc trung cấp nghề để đào tạo trình độ từ trung cấp trở lên, góp phần làm giảm áp lực đối với các cơ sở đào tạo hiện nay và bổ sung nguồn nhân lực có tay nghề cho các cụm, khu công nghiệp của tỉnh; giao cho các cơ sở đào tạo nghề liên kết với các trường Đại học kỹ thuật tổ chức tuyển sinh và đào tạo lao động ở trình độ Đại học hoặc liên thông các trình độ để tạo điều kiện thuận lợi cho người học ở trình độ cao hơn ngay trên quê hương Ninh Thuận; đây cũng là điều kiện tốt để giữ lao động của tỉnh đã qua đào tạo ở lại tỉnh làm việc.

Ngoài việc tự chủ động trong việc tăng chỉ tiêu tuyển sinh, mở rộng ngành nghề đào tạo tại các cơ sở đào tạo trong tỉnh, thì Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận cần giao cho Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục và Đào tạo khẩn trương liên hệ với các trường Đại học, các cơ sở đào tạo kỹ thuật, các Viện nghiên cứu khác trong nước đã và đang đào tạo trình độ Đại học, Cao đẳng để tuyên truyền các chính sách thu hút nhân lực về tỉnh Ninh Thuận làm việc; đồng thời, liên hệ với các cơ sở đào tạo này để gửi giáo viên của tỉnh đến tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn tiếp cận với các ngành nghề mà tỉnh chưa đào tạo, tiếp cận với phương pháp đào tạo mới tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới.

Các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp cần có sự phối hợp để dự báo được nhu cầu tuyển dụng giúp cho các cơ sở đào tạo có thời gian chuẩn bị giáo trình, lập phương án thực hiện; đảm bảo sau thời gian đào tạo người lao động có thể làm việc có hiệu quả cao ngay tại doanh nghiệp mà họ đã từng được thực tập hoặc họ sẽ sử dụng thành thạo máy móc thiết bị, công nghệ trong doanh nghiệp, với các làm này sẽ có lợi cho cả người lao động, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

76

Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở công lập và ngoài công lập trong việc hoạt động đào tạo trên địa bàn, chỉ cấp giấy phép đầu tư cho các tổ chức, cá nhân khi có đủ điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất trường, lớp, ánh sáng, máy móc trang thiết bị, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên cơ hữu, giáo viên trực tiếp giảng dạy, không để cho các cơ sở đào tạo tuyển sinh vượt định mức về tỷ lệ học sinh hoặc sinh viên/lớp, riêng đào tạo nghề thì không quá 20 học viên/lớp/giáo viên. Ưu tiên cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp mở các lớp đào tạo các tiếng Anh, Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc v.v tại Ninh Thuận.

Đầy mạnh việc tiển khai Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 – 2010” theo Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh. Mỗi xã, phường, thị trấn đều phải thành lập Trung tâm học tập cộng đồng; các địa phương phải đầu tư về phòng học, cơ cở vật chất để hoạt động, phân công cán bộ lãnh đạo cấp xã và lãnh đạo các trường phổ thông tham gia điều hành Trung tâm này. Động viên các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, các cơ sở từ thiện tham gia đóng góp về nguồn lực cho các Trung tâm hoạt động.

Chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh phối hợp với các địa phương thực hiện tốt Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên.

Khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động khuyến học, khuyến tài ở trong từng thôn, bản, làng, xóm, xã, phường, dòng họ; nhân rộng và phát huy tính hiệu quả các mô hình “ Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học”, “Tổ dân phố, làng văn hoá”, “ Xã, phường, thị trấn hiếu học”. Huy động, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia xây dựng xã hội học tập, góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục của tỉnh phát triển lành mạnh, vừa mang tính dân tộc nhưng cũng cần tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới.

Có chính sách hỗ trợ chi phí ăn, ở, sinh hoạt cho học sinh là người dân tộc thiểu số và thanh niên miền núi. Chính sách đột phá để thu hút giáo viên giỏi, người có trình độ cao đến giảng dạy tại các cơ sở dạy nghề và giữ chân những lao động có trình độ, kỹ thuật cao làm việc lâu dài tại Ninh Thuận.

Cho phép thành lập Quỹ hỗ trợ học nghề, đào tạo nghề từ các thành phần, các nhà hảo tâm, các tổ chức, các doanh nghiệp, cá nhân tạo điều kiện cho người lao động nghèo được đào tạo nghề.

Liên hệ với các cơ sở đào tạo, các nhà khoa học, các nhà quản lý có uy tín tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế, kiến thức pháp luật và kiến thức về quản lý trong xu thế Hội nhập kinh tế Quốc tế.

Kết luận Chương 3

Qua phân tích nội dung của Chương 3, Luận văn đã làm sáng tỏ những định hướng và giải pháp để phát triển nguồn nhân lực cho tỉnh Ninh Thuận cho giai đoạn 2008 – 2015, đó là đã dự báo được dân số trong độ tuổi lao động để định hướng cho phát triển nguồn nhân lực nói chung và cho các cụm và Khu Công nghiệp của tỉnh nói riêng.

77

Luận văn đã xây dựng mục tiêu cho phát triển nguồn nhân lực theo các trình độ, theo loại hình đào tạo mà tỉnh Ninh Thuận cần chuẩn bị để đào tạo, tuyển dụng và thu hút nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu lao động tại mỗi Cụm, khu Công nghiệp của tỉnh.

Với những giải pháp trong Chương 3 đã làm rõ những việc cần làm và cần giải quyết, nội dung đề xuất đã thể hiện những nội dung mà các cấp từ Trung ương đến, địa phương cần hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận để phát triển nguồn nhân lực; để nguồn nhân lực phát triển ổn định và bền vững thì tỉnh Ninh Thuận thì cần xây dựng một chiến lược về nguồn nhân lực; việc tăng quy mô đào tạo, mở rộng thêm ngành nghề, thành lập thêm các trường đào tạo là những việc làm cấp bách mà tỉnh Ninh Thuận đang cần có sự giúp đỡ của các cơ quan trung ương cũng như sự nỗ lực của tỉnh trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các Cụm, Khu Công nghiệp của tỉnh nói riêng.

Bên cạnh đó, tỉnh Ninh Thuận cũng cần có những chính sách đột phá để thu hút đầu tư, tăng việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập nhằm góp phần ổn định chính trị và phát triển bền vững xã hội.

78

KẾT LUẬN

Xu thế toàn cầu hoá kinh tế đưa đến những sự biến đổi to lớn trên nhiều phương diện của đời sống xã hội. Các Quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gần gũi hơn; đồng thời, sự cạnh tranh cũng càng gay gắt hơn, ưu thế hầu như thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực cao hơn và được đào tạo tốt hơn.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra một dòng chảy về vốn, công nghệ và dịch vụ tiên tiến từ các nước phát triển đổ về Việt Nam, chính vốn đầu tư và công nghệ mới đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới xuất hiện tạo điều kiện cho cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp muốn có năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt thì một yếu tố có ý nghĩa quyết định đó là chất lượng nguồn nhân lực và việc sử dụng nó một cách hiệu quả.

Để nền kinh tế không ngừng phát triển, thì trước hết phải chuẩn bị kỹ cả về mặt lượng lẫn mặt chất đối với nguồn nhân lực; nguồn nhân lực của một quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá và Hội nhập kinh tế quốc tế thì không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỹ luật cao, năng động, sáng tạo .v.v mà còn phải có khả năng giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ, biết sử dụng những phương tiện vật chất hiện đại, có sự hiểu biết sâu, rộng về pháp luật, hiểu biết thông lệ kinh doanh cả trong nước và quốc tế, có khả năng suy nghĩ và làm việc độc lập, có khả năng chuyển đổi cao, thích ứng với nền kinh tế thị trường.

Chiến lược này không những phù hợp với hoàn cảnh của mỗi nước trong cùng thời kỳ, khai thác các tiềm năng trong nước mà còn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, tận dụng được các cơ hội phát triển từ bên ngoài.

Việt Nam, hiện đang đối đầu với nhiều thách thức trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó thách thức về nguồn nhân lực đang được các cơ qquan chức năng từ trung ương đến địa phương quan tâm, tìm giải pháp thực hiện. Đây cũng được xem là khâu đột phá cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và trong tương lai. Một chính sách đào tạo nguồn nhân lực thành công sẽ giúp Việt Nam có cơ hội tìm được lợi thế về nguồn nhân lực trẻ, dồi dào; bên cạnh đó, sẽ có nguồn nhân lực đóng góp vàp việc mở cửa và hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách phát triển của Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới.

Những kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực này là rất có giá trị tham khảo đối với Viện Nam; trong quá trình phát triển và Hội nhập, “Con người” luôn là trọng tâm, là yếu tố cơ bản và quyết định. Nguồn “tài nguyên lao động” của Việt Nam hiện mới chỉ được xem là lợi thế so sánh “tĩnh” (ngắn hạn). Việt Nam cần có chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để sao cho có thể biến lợi thế “tĩnh” này thành lợi thế “động” (dài hạn). Điều này, cũng đồng nghĩa với việc biến lợi thế “cấp thấp” thành lợi thế “cấp cao”. Đây

79 là, điều kiện cơ bản và cũng là nhân tố quyết định cho sự thành công của chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Như vậy, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một doanh nghiệp, một địa phương hay sự văn minh của một đất nước; vẫn luôn được sự chú ý và quan tâm lớn của cả phía nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động; tất cả các quốc gia trên thế giới coi vấn đề nhân lực là sự tồn vong của họ, tài nguyên giàu có nhưng không được con người có tri thức sử dụng và khai thác đúng mức thì nguồn tài nguyên đó sẽ cạn kiệt và có khi nó lại chống lại con người hoặc không có tri thức thì thành quả lao động sẽ kém hiệu quả hoặc có khi thất bại do sử dụng và điều hành không khoa học.

Luận văn đã phân tích nêu rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực, mà trọng tâm là nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận; việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực có chất lượng cao nói riêng với các giải pháp đào tạo và thu hút từ nhiều nguồn khác nhau để cung cấp đủ lao động cho các Khu Công nghiệp của tỉnh không những trong giai đoạn 2008 – 2015 mà còn lâu dài trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận.

Với cơ chế thông thoáng mà tỉnh Ninh Thuận đang mời gọi thì chắc chắn sẽ có nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến đầu tư tại các khu công nghiệp của tỉnh, đó là vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn đối với tỉnh về nguồn nhân lực cho cả trước mắt và lâu dài.

Với xu thế phát triển của Đất nước và sự quyết tâm của tỉnh thì trong tương lai không xa, các Khu Công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận sẽ ngang tầm với các khu công nghiệp khác trong cả nước, đó là là tiền đề để đưa Ninh Thuận phát triển ngang tầm với các tỉnh trong khu vực và cả nước; việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển là góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm cho “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam./.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương (1999), Tài liệu phục vụ nghiên cứu những nội dung cơ bản của Hội nghị Lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Ban tuyên giáo Tỉnh Uỷ Ninh Thuận (2006), Văn kiện Đại hội tỉnh

2. Đảng Bộ Ninh Thuận lần thứ XI, Ninh Thuận.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (5 - 2005), Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm

3. học 2004 – 2005, Hà Nội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006.), Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm

4. học 2005 – 2006, Hà Nội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm

5. học 2006 – 2007, Hà Nội.

Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận, (4-2006), Niên giám thống kê năm

6. 2005, Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận.

Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận, (8-2007), Niên giám thống kê năm

7. 2006, Cục Thống kê tỉnh Ninh Thuận.

Đảng Cộng sản Việt Nam,(1997, 2001, 2006), các văn kiện Đại hội

8. VIII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban

9. Chấp hành trung ương khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Minh Đường (2002), “Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực với phương pháp tiếp cận hệ thống trong điều kiện mới”, Nghiên cứu con người - đối tượng và những hướng chủ yếu, niên giám nghiên cứu số 1 (in lần thứ 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 202 – 224.

12. Trần Khánh Đức (1998), “Phát triển nguồn nhân lực hoa học – công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH, HĐH: Bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 260 – 282.

13. Phạm Thanh Đức (2002), “Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay”, Nghiên cứu con người - Đối tượng và những xu hướng chủ yếu, niên giám nghiên cứu số 1 (in lần thứ hai), Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Cảnh Hồ (1998), “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong chiến lược chung về phát triển giáo dục đến năm 2020”, những vấn đề về chiến lược phát triển giáo dục

81 trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr. 153 - 187.

Phạm Minh Hạc (2001), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi

15. vào Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Phạm Minh Hạc (2007), “Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Bùi văn Nhơn (Chủ biên) cùng tập thể tác giả (2002), “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

19. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ, Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

20. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ, Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

21. Nghị định số 108/2006NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.

22. Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ, Quy định chi tiết thi hành Luật thu nhập doanh nghiệp.

23. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ, Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.

24. Phân viện Khoa học Lao động và Các vấn đề Xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2003), “Quy hoạch tổng thể Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2001 – 2010”, thành phố Hồ Chí Minh.

25. Hoàng An Quốc (2005), “Chính sách đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế của một số nước trong khu vực và hướng đi của Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, TP Hồ Chí Minh.

26. Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt Quy hoạch mạnh lưới trường dạy nghề giai đoạn 2002 – 2010.

27. Quyết định số 1142/QĐ-BXD ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về phê duyệt Quy hoạch chi tiết Khu Công nghiệp Du Long, tỉnh Ninh Thuận.

28. Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 – 2010”.

29. Quyết định số 1151/QĐ-BXD ngày 16 tháng 8 năm 2006 của Bộ trưởng bộ Xây dựng, về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết Khu Công nghiệp Phước nam, tỉnh Ninh Thuận.

82 30. Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020.

31. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Thuận (tháng 11-2007), Hiệu quả đào tạo giáo dục phổ thông từ năm học 2001 – 2002 đến năm học 2006 – 2007, Phan Rang – Tháp Chàm.

32. Sở Lao động Thương binh và Xã hội (tháng 01 năm 2007), Báo cáo tóm tắt Quy hoạch Phát triển nguồn lao động tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2006 – 2015 và định hướng đến năm 2020, Phan Rang – Tháp Chàm

33. Hồ Bá Thâm (tháng 3-2003), “Khoa học con người và Phát triển nguồn nhân lực”, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

34. Vũ Anh Tuấn (tháng 12 - 2004), “Cơ sở Khoa học và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Thống kê, TP Hồ Chí Minh.

35. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2008), “Tạp chí Kinh tế số 207 – tháng giêng năm 2008”, TP Hồ Chí Minh Xuân Mậu Tý.

36. Tổng cục Thống kê (2007), Niêm giám thống kê 2006, Nxb Thống kê – Hà Nội.

37. Tổng cục Thống kê (2008), Niêm giám thống kê 2007, Nxb Thống kê – Hà Nội.

38. Tổng Cục dạy nghề (2004), Các văn bản Quy phạm Pháp luật về dạy nghề, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.

39. Tổng Cục dạy nghề (tháng 9 năm 2005), Tài liệu Bồi dưỡng kiến thức Hội nhập Kinh tế Quốc tế về Dạy nghề, Đồng Nai.

40. Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận (2003), Quyết định số 39/2003/QĐ ngày 08/01/2003 về phê duyệt Quy hoạch mạng lưới dạy nghề tỉnh Ninh Thuận đến năm 2010, Phan Rang – Tháp Chàm.

41. Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận (tháng 1 năm 2005), Quyết định số 10/2005/QĐ-UB về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh Ninh Thuận thời kỳ 2001 – 2010, Phan Rang – Tháp Chàm.

83

PHỤ LỤC

Phụ lục số 1

NHU CẦU VÀ CƠ CẤU NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM

Cơ cấu đào tạo

Nhịp độ tăng trưởng bình quân/năm (%)

Cơ cấu (% trong tổng số)

1991- 1995

1996-2000

2001-2010

2000

2005

2010

Tổng số 11,2 9,4 100 100 100 7,6

Học nghề 14,5 11,7 51 59 62,4 9,0

12,7 7,9 6,7 7,0 5,9 3,3

Trung cấp chuyên nghiệp

Nguồn: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và chiến lược đào tạo nghề, Bộ Giáo

dục và Đào tạo.

Cao đẳng, Đại học 6,3 6,2 42,3 34,0 31,7 6,1

84

Phụ lục số 2

DÂN SỐ VÀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA NHẬT BẢN TỪ NĂM 1995 – 2002

Tỷ lệ tham gia lao động

Lực lượng lao động (10.000 người)

Năm

Dân số từ 15 tuổi trở lên

Số lượng

Tỷ lệ %

Thay đổi/năm

Thay đổi/năm (%)

1995 10.510 6.666 21 63,4 -0,2

1996 10.571 6.711 45 63,5 0,1

1997 10.661 6.787 76 63,7 0,2

1998 10.728 6.793 06 63,3 -0,4

1999 10.783. 6.779 -14 62,9 -0,4

2000 10.836 6.766 -13 62,4 -0,5

2001 10.886 6.752 -14 62,0 -0,4

Nguồn: Ministy of managenment, Annual Report on the Labor Survery

2002 10.929 6.741 -11 61,7 -0,3

85

Phụ lục số 3

Đơn vị tính: người

Giới tính

Khu vực

Năm

Dân số

Nam

%

Nữ

%

%

%

Thành thị

Nông thôn

2006 2007 2008 2009 2010 2015

576.000 283.400 49,2 588.000 289.300 49,2 601.000 296.900 49,4 614.000 303.300 49,4 630.000 311.200 49,4 686.000 343.000 50,0

292.600 50,8 298.700 50,8 304.100 50,6 310.700 50,6 318.800 50,6 343.000 50,0

187.200 32,5 194.000 33,0 204.300 34,0 208.800 34,0 214.200 34,0 246.960 36,0

388.800 67,5 394.000 67,0 396.700 66,0 405.200 66,0 415.800 66,0 439.040 64,0

(Nguồn: Dự báo và điều chỉnh theo kết quả điều tra lao động, việc làm tỉnh Ninh

Thuận năm 2005)

DỰ BÁO DÂN SỐ TỈNH NINH THUẬN (Dự báo trung bình theo giới tính và khu vực)

86

Phụ lục số 4

Tên Nhà đầu tư

Stt

Tiến độ thực hiện

Ngành nghề sản xuất – Kinh doanh

Tiến độ xây dựng

Vốn đầu tư (triệu đồng)

Diện tích thuê (ha)

1

CP

SX Vang Nho

21.000

2.38

Công ty Thăng Long

2005 - 2010

Hoàn thành giai đoạn 1- NM đang hoạt động

2

SX bê tông ly tâm

4.000

0,40

2004 - 2006

Hoàn thành đang SX

Công ty CP Xây dựng 17- Vinaconex 17

May CN xuất lhẩu

84.070

4,54

3

2005 - 2006

Hoàn thành đang SX

ty TNHH Công TM-XD-DV may XK Hoàng Anh - OIC

4

biến

đá

15.192

3,73

Chế Granite

2007 - 2008

Công ty CP địa chất khoáng sản Việt Nam

Đang SX và đầu tư giai đoạn 2 mở rộng nhà xưởng

5

Hoàn thành đang SX

18.597

3,67

Công ty TNHH TM – XD Hoàng Nhân

2006 - 2007

Bê tông tươi - Bê tông nhựa - cấu kiện bê tông đúc sẳn - mạ kẽm Inox - Sơn tĩnh điện

Chế biến thạch cao

1.229

1,25

2005 - 2006

Hoàn thành đang SX

6 Xí nghiệp chế biến thạch cao (Cty muối Ninh thuận)

7

tỉnh

2.500

0,10

2007

Bưu điện Ninh Thuận

Hoàn thành đang SX

Hoạt động dịch vụ Bưu chính - viễn thông

8

12.182

1,18 Đang trình phê duyệt Dự

ty TNHH thành viên

Sản xuất thuốc lá điếu

án đầu tư

Công một thuốc lá Sài Gòn

(Nguồn: Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh Ninh Thuận)

SỐ DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ TẠI CỤM CÔNG NGHIỆP THÀNH HẢI TỈNH NINH THUẬN

87

Phụ lục số 5

Tiến độ thực hiện

Stt

Tên Nhà đầu tư

Ngành nghề sản xuất – Kinh doanh

Tiến độ xây dựng

Vốn đầu tư (triệu đồng)

Diện tích thuê (ha)

1

1,386

1,14

2008 Hoàn thành đang SX

Công ty TNHH Phú Thủy

Ép dầu từ vỏ hạt điều

2

1,424

1,14

Chế biến hải sản khô

2007 - 2008

Công ty TNHH Thương mại Hải Đông

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

3

11.147

1,59

Chưa hoàn thành

Xí nghiệp XD – TM Cơ khí Ngọc Sơn

sản SX phẩm cơ khí

2007 - 2008

4

5.950

2,99

Doanh nghiệp TM Thanh Vân

Chế biến gỗ - xay sát gạo

2007 - 2008

Đang trình duyệt dự án

5

biến

12.597

2,10

Hoàn thành đang SX

Công ty XK Nông sản Ninh Thuận

Chế Nông sản

2005 - 2008

6

1.515

0,72

2007 – 2008

Doanh nghiệp SX TM – XD Ánh Dương

biến Chế Lâm sản và kho chứa

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

7

3.500

1,39

Doanh nghiệp TM – XD Đại Vinh

2007 – 2008

Chế biến gỗ - sắt – nhôm - Inox

Đang SX và tiếp tục đầu tư hoàn thiện Dự án

(Nguồn: Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh Ninh Thuận)

SỐ DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ TẠI CỤM CÔNG NGHIỆP THÁP CHÀM TỈNH NINH THUẬN

88

Phụ lục số 6

DÂN SỐ TRUNG BÌNH THEO GIỚI TÍNH VÀ PHÂN THEO THÀNH THỊ, NÔNG THÔN TỈNH NINH THUẬN

Năm

Tổng số (người)

Phân theo giới tính

Phân theo thành thị, nông thôn

Nông thôn

Nam

Nữ

Thành thị

Tỷ lệ so với D.số

(người)

(người)

(người)

(người)

(%)

Tỷ lệ so với D.số (%)

2000 519.918 256.665 263.253 133.061 25,59 386.857 74,41

2001 529.650 261.596 268.054 135.091 25,50 394.559 74,50

2002 538.966 266.197 272.769 174.602 32,40 364.364 67,60

2003 548.115 270.679 277.436 176.819 32,26 371.296 67,74

2004 556.726 274.826 281.900 179.918 32,32 376.808 67,68

2005 564.403 279.097 285.306 182.059 32,26 382.344 67,74

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận - năm 2006

2006 574.925 282.438 292.487 184.362 32,07 390.563 67,93

89

Phụ lục số 7

DÂN SỐ NĂM 2006 PHÂN THEO GIỚI TÍNH VÀ PHÂN THEO HUYỆN, THÀNH PHỐ TỈNH NINH THUẬN

Huyện, thành phố

Phân theo thành thị và nông thôn (người)

Phân theo giới tính (người)

Tổng số (người)

Nam

Nữ

Thành thị

Nông thôn

Tổng số

573.925

282.438

291.487

184.362

389.563

TP Phan Rang – Tháp Chàm

Huyện Bác Ái

166.745 81.068 85.677 132.248 34.497

thị trấn

Huyện Ninh Sơn

20.826 10.267 10.559 Chưa TLập 20.826

Huyện Ninh Hải

76.010 37.610 38.400 11.840 64.170

Huyện Ninh Phước

91.326 45.115 46.211 15.374 75.952

Huyện Thuận Bắc

182.014 90.103 91.911 24.900 157.114

thị trấn

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận - năm 2006

37.004 37.004 18.275 18.729 Chưa T.Lập

90

Phụ lục số 8

TỶ LỆ TĂNG DÂN SỐ TỰ NHIÊN

THEO TỪNG NĂM TẠI CÁC HUYỆN, THÀNH PHỐ TỈNH NINH THUẬN

Đơn vị tính:%o

Tính theo từng năm

Huyện, thành phố

2001 17,91

2002 17,12

2003 16,55

2004 14,75

2005 14,78

2006 12,94

Tổng số

TP Phan Rang – Tháp Chàm Huyện Bác Ái Huyện Ninh Sơn Huyện Ninh Hải Huyện Ninh Phước Huyện Thuận Bắc

15,31 21,53 19,41 18,47 18,89 18,89

14,57 20,52 18,61 17,67 18,08 18,08

13,76 19,91 18,11 17,21 17,59 17,59

12,24 17,76 16,18 15,36 15,67 15,67

12,23 16,87 16,68 15,55 15,52 15,52

10,81 14,77 14,63 13,32 13,60 13,60

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận - năm 2006

91

Phụ lục số 9

TÌNH HÌNH DÂN SỐ TỈNH NINH THUẬN PHÂN THEO ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG

Theo từng năm (người)

Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Tổng dân số

529.650

538.966

548.115

556.726

564.403

573.925

Trong độ tuổi lao động 280.714

289.135

297.553

307.615

315.182

344.714

Ngoài độ tuổi lao động 248.936

249.831

250.348

249.111

249.221

229.211

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận - năm 2006

92

Phụ lục số 10

NGUỒN NHÂN LỰC THEO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN - KỸ THUẬT TỈNH NINH THUẬN (bao gồm cả lao động đang làm việc và lao động chưa có việc làm)

Tính theo tỷ lệ %

Trình độ chuyên môn

1996

2000

2005

2007

1. Không có chuyên môn –K.thuật

2. Sơ cấp

88,65 86,93 82,40 78,22

3. Công nhân K.thuật không có bằng

2,73 1,80 1,72 1,55

4. Công nhân K.thuật có bằng

2,68 3,11 5,46 4,18

5. Trung học chuyên nghiệp

1,26 0,70 1,03 3,23

6. Cao đẳng - Đại học

3,10 4,07 5,39 7,97

1,58 3,39 4,00 4,85

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Ninh Thuận năm 2006

Tổng cộng 100 100 100 100

93

Phụ lục số 11

HỆ ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG, TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP VÀ DẠY NGHỀ TỈNH NINH THUẬN (không bao gồm sinh viên của tỉnh đang học ở các trường Đại học, Cao

đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp khác trong cả nước)

Kết quả đào tạo các năm (hs-sv)

Stt

Loại hình đào tạo

2003

2004

2005

2006

2007

288

620

50

96

940

1 Đại học (hệ vừa học vừa làm)

274

276

217

145

1.034

Cao đẳng (hệ chính quy)

2

220

0

126

227

1.148

Trung cấp chuyên nghiệp

3

658

992

1420

1610

1584

Trung cấp nghề và CNKT

4

5

Cộng

782

896

393

468

3.122

Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Thuận, tháng 7 năm 2008.

94

Phụ lục số 12

Cấp học

Năm học

Tăng

Giảm

Tỷ lệ % lên lớp

Số học sinh

Tiểu học

Tỷ lệ (%) tăng, giảm so với năm học gốc -

24,5

Trung học cơ sở

-

17.8

- - - - -

Trung học phổ thông

2001 - 2002 2006 - 2007 2001 - 2002 2006 - 2007 2001 - 2002 2006 - 2007

9.311.010 7.029.400 6.263.525 6.152.000 2.333.069 3.075.200 742.131

- 2.281.610 - 111.525 - -

- 31,81

- 98,93 - 98,75 - 98,67

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Thống kê Giáo dục và Đào tạo năm học 2006 – 2007, Hà Nội.

SỰ TĂNG, GIẢM HỌC SINH CÁC CẤP HỌC CỦA VIỆT NAM GIỮA CÁC NĂM HỌC 2001 – 2002 VÀ NĂM HỌC 2006 – 2007