BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM (cid:71)(cid:70)
HUỲNH THỊ CẨM TÚ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2006 - 2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM (cid:71)(cid:70)
HUỲNH THỊ CẨM TÚ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2006 - 2020 CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. HOÀNG AN QUỐC TP.HỒ CHÍ MINH 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2.Tổng quan những vấn đề nghiên cứu có liên quan ............................................... 2
3.Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................. 3
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................... 3
5.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
6.Ý nghĩa của đề tài..................................................................................................... 4
7.Kết cấu luận văn....................................................................................................... 4
CHƯƠNG I: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO............................................ 6
1.1 Một số khái niệm................................................................................................... 6
1.1.1 Nguồn nhân lực ................................................................................................. 6
1.1.2 Lực lượng lao động ........................................................................................... 7
1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực ................ 8
1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh gia nhập WTO ............................... 14
1.2.1 Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối
cảnh gia nhập WTO.................................................................................................... 14
1.2.2 Các yếu tố tác động đến nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập
WTO ........................................................................................................................... 19
1.2.3 Yêu cầu của việc phát triển nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh hội
nhập WTO .................................................................................................................. 22
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TP.HCM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....................................................................................... 26
2.1 Tổng quan về nguồn nhân lực và thực trạng vấn đề đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực tại TP.HCM .................................................................................................26
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực TP.HCM ...................................................................................................... 26
2.1.2 Khái quát về dân số TP.HCM ........................................................................... 32
2.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực TP.HCM................................................................ 35
2.1.4 Lao động đang làm việc trên địa bàn TP.HCM................................................. 40
2.1.5 Khái quát về tình hình giáo dục, đào tạo và các chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại TP.HCM trong những năm qua .............................................................. 43
2.2 Một số vấn đề cấp thiết trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực
TP.HM và nguyên nhân..............................................................................................52
2.2.1 Một số vấn đề cấp thiết đặt ra............................................................................ 52
2.2.2 Nguyên nhân và những nhân tố tác động .......................................................... 59
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM TRONG BỐI
CẢNH GIA NHẬP WTO .......................................................................................... 63
3.1 Định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đến năm
2020...............................................................................................................................63
3.1.1 Định hướng phát triển kinh tế – xã hội.............................................................. 63
3.1.2 Mục tiêu phát triển TP. HCM đến 2020............................................................ 64
3.1.3 Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố đến năm 2020 .......................... 66
3.2 Định hướng và một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu gia nhập WTO ...................................................................................................... 67
3.2.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 .................... 67
3.2.2 Nhu cầu về nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 ..................................... 70
3.2.3 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực TP.HCM đáp ứng
yêu cầu gia nhập WTO.................................................................................................. 73
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 90
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
: Xã Hội Chủ Nghĩa • XHCN
: kinh tế xã hội • KT – XH
: Tổ chức thương mại thế giới • WTO
: Liên Hiệp Quốc • LHQ
: khoa học công nghệ • KH – CN
: Tổng sản phẩm quốc nội • GDP
: Vùng kinh tế trọng điểm phía nam • Vùng KTTĐPN
: Thành phố Hồ Chí Minh • TP.HCM
• Sở LĐ TB và XH : Sở Lao động thương binh và xã hội
: nguồn nhân lực • NNL
: lực lượng lao động • LLLĐ
: lao động • LĐ
: khu chế xuất • KCX
: khu công nghiệp • KCN
: doanh nghiệp • DN
: người lao động • NLĐ
: chuyên môn kỹ thuật • CMKT
: cao đẳng, đại học • CĐ, ĐH
: trung học chuyên nghiệp • THCN
: công nhân kỹ thuật • CNKT
: trung học cơ sở • THCS
: trung học phổ thông • THPT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang Số hiệu bảng
33 35 36 37 Bảng 2.1 Bảng 2.2 Bảng 2.3 Bảng 2.4
38 Bảng 2.5
39 Bảng 2.6
40 Bảng 2.7
42 42 Bảng 2.8 Bảng 2.9
44 Bảng 2.10
47 47 50 Bảng 2.11 Bảng 2.12 Bảng 2.13
55 Bảng 2.14
57 66 68 69 Bảng 2.15 Bảng 3.1 Bảng 3.2 Bảng 3.3
71 Bảng 3.4
72 Bảng 3.5 Nội dung Một số chỉ tiêu dân số trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2001- 2006 Số năm đi học bình quân của dân số từ 10 tuổi trở lên Các chỉ tiêu về NNL TP.HCM Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn TP.HCM Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ 15 tuổi trở lên năm 2006 Trình độ chuyên môn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn thành phố HCM Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế Trường, lớp, giáo viên, học sinh mầm non trên địa bàn TP.HCM ĐH, CĐ, THCN năm học 2007 theo loại hình đào tạo năm 2007 Số sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH và CĐ Các nghành nghề đào tạo Nhu cầu tuyển dụng lao động tại các DN của thành phố năm 2008 phân theo trình độ Tình hình tăng giảm lao động trong năm 2007 ở các DN trên địa bàn thành phố Cơ cấu GDP của TP.HCM năm 2010 và 2020 Dự báo về dân số TP.HCM năm 2010 và 2020 Dự báo về dân số và NNL của TP.HCM năm 2010 và 2020 Nhu cầu về NNL một số ngành trọng yếu năm 2010 và 2020 trên địa bàn TP.HCM Nhu cầu NNL chất lượng cao cho TP.HCM đến năm 2010 và 2020
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra
đời của mạng internet hầu như bao phủ khắp mọi nơi trên hành tinh chúng ta. Điều này
khiến cho các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới ngày càng trở nên gần gũi với nhau hơn.
Sự ra đời của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như WTO, EU, APEC, AFTA,
ASEAN, NAFTA... đã mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia trong việc tiếp cận các
điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ phát triển, vì vậy, đã thu hút nhiều quốc gia,
lãnh thổ cùng tham gia. Không đi ngoài xu thế đó, Việt Nam đã tích cực tham gia vào
các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việc trở thành thành viên của tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới WTO là minh chứng lớn nhất cho tinh thần đó. Vào WTO sẽ
mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế vốn còn yếu kém và lạc
hậu. Bên cạnh đó, có rất nhiều thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, và nếu không
vượt qua được thì những hậu quả mà nó đem lại là rất lớn.
TP.HCM là thành phố lớn nhất Việt Nam. Với những cơ sở vật chất kinh tế kỹ
thuật hiện có, thành phố được xem là biểu tượng về sự phát triển của Việt Nam. Là
trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất nước, có thể nói, thành phố HCM là nơi chịu
sự tác động mạnh mẽ nhất khi Việt Nam gia nhập WTO. Bên cạnh những thuận lợi, sự
hội nhập quốc tế của Việt Nam và TP.HCM đang phải đối đầu với nhiều thách thức,
trong đó chất lượng NNL là một trong những thách thức lớn nhất và có ý nghĩa quyết
định đến sự thành công trong tiến trình hội nhập. Kinh nghiệm của các nước phát triển
(MDCs) và nước công nghiệp hóa (NICs) trên thế giới cho thấy chỉ có NNL chất
lượng cao mới là nguồn động lực chính thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của một
quốc gia, và đầu tư cho con người là đầu tư hiệu quả nhất trong tất cả các kênh đầu tư
của bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào.
Để hội nhập thành công và đạt được mục tiêu là thành phố công nghiệp văn
1
minh, hiện đại nhất Việt Nam vào năm 2020, vấn đề phát triển NNL thành phố phải
được đặt lên hàng đầu. Hiện trạng NNL của thành phố ra sao? Có những thuận lợi và
khó khăn gì trong quá trình phát triển NNL? Giải pháp nào để đầu tư phát triển NNL
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố trong quá trình gia nhập WTO? Đó là
những vấn đề mà đề tài “Phát triển NNL trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020” đề cập đến.
2. Tổng quan những vấn đề nghiên cứu có liên quan
Phát triển NNL là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát
triển của mỗi quốc gia, do vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu viết về
đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau như công trình nghiên cứu “Quản lý và phát
triển nguồn nhân lực xã hội” do GS.TS Bùi Văn Nhơn biên soạn, xuất bản năm 2006
hay luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Kim Hải “Sử dụng nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa” bảo vệ năm 2000… Riêng trên địa bàn TP.HCM thì có “
Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực” do PTS.Trần Du Lịch làm chủ nhiệm nghiên
cứu về vấn đề NNL trên địa bàn thành phố HCM phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, hoàn thành 1999; “Phân tích các mối quan hệ giữa biến động dân số và
tăng trưởng kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” do Th.S Cao Minh Nghĩa
chủ nhiệm hoàn thành năm 2007… Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình nghiên
cứu, bài viết, tài liệu trên các tạp chí chuyên ngành đề cập tới nhiều khía cạnh khác
nhau về vấn đề này.
Điểm mới của đề tài
Những công trình nghiên cứu trên đây thường phân tích thực trạng về NNL với
những tồn tại, hạn chế và đề xuất ra những giải pháp nhằm phát triển NNL chủ yếu
phục vụ cho quá trình phát triển KT – XH và sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp
cận và nghiên cứu vấn đề NNL trên địa bàn TPHCM trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập vào tổ chức Thương mại Thế giới. Do vây, đề tài này đi sâu nghiên cứu vấn đề
trên, phân tích thực trạng đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển
2
NNL thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO giai đoạn 2006 – 2020.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, khảo sát một số vấn đề lý luận về NNL và phát triển NNL, các nhân
tố tác động tới NNL, yêu cầu phát triển NNL trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
nói chung và WTO nói riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng NNL trên địa bàn thành phố những năm qua, nêu
những thành tựu đồng thời phát hiện những vấn đề yếu kém, bất cập, tìm hiểu nguyên
nhân và hệ quả của những vấn đề này.
Thứ ba, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm
phát triển NNL thành phố trong giai đoạn từ nay tới năm 2020, đáp ứng yêu cầu gia
nhập WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : NNL và vấn đề phát triển NNL trên địa bàn
TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài : luận văn này chỉ nghiên cứu vấn đề NNL trên
địa bàn TP.HCM trong khoảng thời gian từ 2000 – 2006 và dự báo triển vọng tới
những năm 2010, 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp duy vật biện chứng, luận văn còn sử dụng các biện pháp
sau :
- Phương pháp phân tích, tổng hợp : trên cơ sở phân tích các số liệu, báo cáo
thống kê từ Viện kinh tế, các sở, các tổ chức KT - XH về kết quả điều tra NNL, từ đó
xử lý và tổng hợp thành những chỉ tiêu cụ thể về NNL thành phố.
Phương pháp điều tra thống kê chủ yếu hướng vào 3 đối tượng : nguồn lao
động, nhà đào tạo, nhà sử dụng. Kết quả điều tra nhằm xác định hiện trạng chất lượng
NNL thành phố HCM; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác giáo dục – đào tạo của
thành phố; tình hình sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế, các DN, các tổ
3
chức KT - XH. Mặt khác nhằm đánh giá chất lượng đào tạo, khả năng và điều kiện đào
tạo của thành phố cũng như dự báo nhu cầu về số lượng, trình độ, cơ cấu lao động
trong các ngành nghề đến năm 2010 và 2020 cho phù hợp với xu hướng phát triển KT
- XH của thành phố trong thời kỳ hội nhập.
Phương pháp mô tả các số liệu, các bảng biểu về NNL
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài : “Phát triển NNL trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới giai đoạn 2006 – 2020” góp phần
khẳng định vai trò của NNL trong quá trình phát triển KT - XH của thành phố cũng
như của cả nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nghiên cứu đề tài này còn cho thấy việc đầu tư cho con người là kênh đầu tư
quan trọng và hiệu quả nhất đối với sự phát triển. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả
cần phải đầu tư đúng hướng, đúng cách. Chỉ có đầu tư một cách hiệu quả vào nguồn
lực con người mới là yếu tố quyết định sự thành công trong đối với quá trình phát triển
của một quốc gia, vùng lãnh thổ.
TP.HCM là trung tâm kinh tế - tài chính – văn hóa lớn nhất Việt Nam, có vị trí
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển chung của cả nước. Việc phấn đấu đưa thành
phố trở thành một thành phố công nghiệp, văn minh hiện đại và uy tín trong khu vực
không chỉ là mục tiêu lớn trong quá trình phát triển thành phố mà còn có một ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, việc chủ
động phát triển mạnh TP.HCM không chỉ là yêu cầu cấp thiết đối với riêng thành phố
mà còn là mục tiêu của quốc gia.
7. Kết cấu của luận văn
Với 94 trang, luận văn gồm 3 chương, phần mở đầu và kết luận. Ngoài ra luận
văn còn bao gồm phần danh mục chữ viết tắt, bảng biểu, mục lục, phụ lục và tài liệu
tham khảo.
(cid:141) Chương 1 : Nguồn nhân lực và vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong bối
cảnh gia nhập WTO.
4
(cid:141) Chương 2 : Thực trạng nguồn nhân lực tại TP.HCM và những vấn đề đặt ra.
(cid:141) Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn
5
nhân lực trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.
Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Nguồn nhân lực
Trong những năm gần đây, yếu tố con người được xem xét với tư cách là một
nguồn lực cơ bản cho sự phát triển KT - XH đã hình thành khái niệm mới : NNL hay
nguồn lực con người. Các lý thuyết kinh tế và các công trình nghiên cứu gần đây đã
đưa ra các quan niệm về NNL trên các góc độ sau :
Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, yếu tố con người được đề cập với tư cách
là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hóa dịch vụ. Ở đây, con
người được xem xét từ góc độ là những LLLĐ cơ bản nhất của xã hội. Việc cung cấp
đầy đủ và kịp thời LLLĐ theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất để
đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ
Trong lý luận về vốn người, con người được xem xét trước hết như một yếu tố
của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển KT - XH. Ngoài ra, lý luận về
vốn người còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu cho sự phát triển của nó. Đầu
tư cho con người cũng tương tự như đầu tư vào các lĩnh vực khác, nghĩa là đầu tư để
thu lợi trong tương lai. Cách tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu hết các
nước hiện nay.
Theo một cách tiếp cận khác, Ngân hàng thế giới cho rằng : NNL là toàn bộ
vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây,
NNL được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như : vốn tiền,
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên....Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong
6
các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Cũng dựa trên cách tiếp cận này, LHQ đưa ra khái niệm về NNL và cho rằng
NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự
phát triển của đất nước.
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, NNL được hiểu là toàn bộ số dân trong độ
tuổi lao động theo quy định (15 – 60 tuổi đối với Nam và 15 – 55 tuổi đối với Nữ).
Từ một số cách tiếp cận trên có thể thấy rằng, NNL là một khái niệm rộng, mà
nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh, thứ nhất, đó là toàn bộ khả năng hoạt động của
LLLĐ xã hội, thứ hai, đó là sức lao động, khả năng, trình độ, kỹ năng, ý thức của từng cá
nhân và mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân đó. Mặt thứ hai của NNL đang ngày càng
được quan tâm và rất có ý nghĩa đối với sự phát triển KT - XH, và chính mặt này nói lên
chất lượng của NNL.
1.1.2 Lực lượng lao động
Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và quan điểm của các
nước thành viên thì LLLĐ (hay nhân khẩu hoạt động kinh tế) là dân số trong độ tuổi
lao động thực tế có việc làm và những người thất nghiệp.
Giữa các quốc gia có sự khác nhau về quy định độ tuổi lao động. Gần đây,
nhiều nước lấy tuổi tối thiểu là 15 tuổi, còn tuổi tối đa vẫn có nhiều sự khác nhau. Có
nước là 60, có nước là 65, thậm chí có nước là 70, 75 tuổi, tùy thuộc vào tình hình
phát triển KT - XH của mỗi nước. Đặc biệt ở Úc không có quy định tuổi về hưu, và do
đó, không có giới hạn tuổi tối đa.
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam thì LLLĐ bao gồm tất cả những người đang
làm việc (bao gồm những người trong tuổi lao động và những người ngoài tuổi lao
động) và những người thất nghiệp. Trong đó, số người ngoài tuổi lao động đang có
việc làm được tính vào LLLĐ theo giới hạn dưới là 13 tuổi và giới hạn trên là 65 tuổi.
Như vậy, LLLĐ ở nước ta bao gồm hai thành phần :
Những người trong độ tuổi lao động đang làm việc hay đang thất nghiệp. -
Những người ngoài tuổi lao động nhưng nằm trong khung 13 – 65 tuổi đang có -
7
việc làm.
Cũng có những nhà khoa học và giới thực tiễn cho rằng, LLLĐ bao gồm những
NLĐ đang làm việc và những người thất nghiệp. Quan điểm này thực tế hơn quan
điểm của ILO vì ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác, số trẻ em vị
thành niên, số người trên tuổi lao động thực tế đang làm việc chiếm một tỷ lệ khá cao
trong dân số.
Như vậy, ta có thể hiểu LLLĐ là tổng số người đang có việc làm và số người
đang thất nghiệp.
1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân
lực
1.1.3.1 Phát triển nguồn nhân lực
Cũng tương tự như trong các thuật ngữ tăng trưởng và phát triển kinh tế, thuật
ngữ phát triển NNL gắn liền với sự hòan thiện, nâng cao chất lượng NNL, được biểu
hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức
khỏe và thể lực cũng như ý thức, đạo đức của NNL.
Có thể hiểu phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách
và biện pháp nhằm hòan thiện và nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ, thể chất và
phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển KT - XH
trong từng giai đoạn phát triển. Một cách rõ ràng hơn, có thể nói phát triển NNL là các
hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích sự đóng góp về kiến thức và thể lực của người
lao động nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất và phát triển. Kiến thức có được nhờ
quá trình đào tạo và tiếp thu kinh nghiệm, trong khi đó thể lực có được nhờ chế độ dinh
dưỡng, rèn luyện thân thể và chăm sóc y tế. Như vậy phát triển NNL bao gồm các quá
trình như phát triển giáo dục đào tạo, tiếp thu kinh nghiệm, tăng cường thể lực, kế hoạch
hóa dân số, tăng nguồn vốn xã hội v.v. trong đó, giáo dục đào tạo là một kênh có vai trò
đặc biệt. Có thể nói giáo dục đào tạo là yếu tố nền tảng của phát triển NNL. Giáo dục
đào tạo không chỉ góp phần nâng cao trình độ nhân lực, mà còn đóng góp vào việc
8
nâng cao tất cả các quá trình nêu trên trong việc phát triển NNL.
Phát triển NNL là khái niệm rộng hơn đào tạo NNL. Đào tạo NNL là việc
thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, trang bị cho người lao động những kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu của các hoạt động thực tiễn.
1.1.3.2 Chất lượng nguồn nhân lực và các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL thể hiện mối quan hệ giữa các
yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL. Chất lượng NNL không những là
chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát
triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng NNL cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ
hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ
văn minh của một xã hội nhất định.
Chất lượng NNL được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các
(cid:110) Thứ nhất : Thể lực của NNL
chỉ tiêu chủ yếu sau :
Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể
chất và tinh thần. Sức khỏe vừa là mục đích của phát triển, đồng thời nó cũng là điều
kiện của sự phát triển hài hòa của con người cả về vật chất và tinh thần. Đó là sức
khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao
động chân tay. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của họat động thần kinh, là khả năng
vận động của trí tuệ, biến tư duy thành họat động thực tiễn. Tổ chức Y tế thế giới
WHO đã nêu ra định nghĩa “ sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể
chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật”. Sức khỏe
con người chịu tác động của nhiều nhân tố : tự nhiên, kinh tế, xã hội và được phản ánh
bằng một hệ thống chỉ tiêu bao gồm : các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe, các chỉ tiêu về
bệnh tật và các chỉ tiêu về cơ sở vật chất, các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe. Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại :
9
+ Thể lực tốt.
+ Thể lực trung bình.
+ Thể lực yếu, không có khả năng lao động.
Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khỏe của NLĐ, người ta còn nêu ra các
chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của quốc gia thông qua :
+Tỷ lệ sinh thô, chết thô, tỷ lệ tăng tự nhiên.
+ Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi.
+ Tỷ lệ dừng mức sinh.
+ Tuổi thọ trung bình.
(cid:111) Thứ hai : trí lực của NNL, bao gồm hai chỉ tiêu cơ bản : trình độ văn hóa và
+ Tỷ lệ giáo dục đào tạo / đầu người…
trình độ chuyên môn kỹ thuật.
(cid:139) Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa của NLĐ là sự hiểu biết của NLĐ đối với những kiến thức
phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hóa của dân
số biểu hiện bằng mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình độ văn hóa được cung cấp
qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của
mỗi cá nhân và được đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu :
(cid:190) Tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có thể đọc,
viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước
ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên.
Phương pháp tính :
Các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của
một quốc gia. Các thống kê giáo dục ở các nước trên thế giới hiện nay đều sử dụng chỉ
10
tiêu này.
(cid:190)Số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên : là số năm
trung bình một người được đi học.
Trình độ văn hóa của dân số hay của NNL là một chỉ tiêu hết sức quan trọng
phản ánh chất lượng NNL và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển KT - XH.
Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
(cid:139) Trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào
đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH, có
khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình
độ chuyên môn của NNL được đo bằng :
Tỷ lệ tốt nghiệp trung cấp
Tỷ lệ tốt nghiệp CĐ, ĐH
Tỷ lệ tốt nghiệp trên ĐH
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như
ĐH bao gồm : kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…thậm chí trong từng chuyên môn lại chia
thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa.
Trình độ kỹ thuật của NLĐ thường dùng để chỉ trình độ của người được đào tạo
ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về
công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu :
- Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông ;
- Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;
- Trình độ tay nghề theo bậc thợ;
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua
chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng NNL.
11
(cid:144) Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trình độ CMKT của NNL
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng -
số lao động.
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn của LLLĐ mỗi
quốc gia, của các vùng lãnh thổ.
- Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo (CNKT ; THCN; ĐH và sau ĐH):
Cơ cấu bậc đào tạo tính theo ĐH, CĐ / trung học/ dạy nghề cho ta thấy được cơ
cấu này có cân đối với nhu cầu của thực tế hay không. Trên cơ sở đó có kế hoạch điều
(cid:112)Thứ ba : về phẩm chất tâm lý xã hội của NNL
chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể.
Ngoài yếu tố thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đòi hỏi NLĐ hàng lọat phẩm
chất như: tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp,
có tinh thần trách nhiệm cao…Những phẩm chất này gắn liền với truyền thống văn
hóa dân tộc.
Để đánh giá yếu tố này rất khó dùng phương pháp thống kê và xác định các chỉ
tiêu định lượng như các yếu tố về thể lực và trí tuệ của NNL. Vì vậy, phương pháp
phương pháp đánh giá chất lượng NNL về yếu tố phẩm chất tâm lý xã hội thường
được tiến hành bằng các cuộc điều tra tâm lý và xã hội học và được đánh giá chủ yếu
bằng các chỉ tiêu định tính. Tuy nhiên, trong từng khía cạnh của phẩm chất này, người
ta cũng có thể đánh giá bằng phương pháp thống kê và xác định bằng các chỉ tiêu định
hướng như : tỷ lệ NLĐ vi phạm kỷ luật về thời gian lao động (đi muộn, về sớm, không
chấp hành quy định giờ giấc lao động trong thời gian làm việc), tỷ lệ số người vi phạm
(cid:113) Thứ tư : chỉ tiêu tổng hợp HDI
nguyên tắc làm việc, tỷ lệ số người bị thi hành kỷ luật trong năm…
Chỉ số phát triển con người HDI
Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, Báo Cáo Phát
Triển Con Người năm 1990 và các Báo Cáo tiếp theo của Tổ chức phát triển Liên hiệp
quốc (UNDP) đã đưa ra một loạt các chỉ số, trong đó chỉ số tổng hợp nhất và được sử
12
dụng phổ biến nhất được đưa ra từ năm 1990 (và được hiệu chỉnh lại năm 1999) là chỉ
số phát triển con người (Human Development Index - HDI). HDI được xác định theo
ba yếu tố cơ bản và tổng hợp nhất : sức khỏe, trình độ học vấn và thu nhập.
- Về sức khỏe : được xác định qua chỉ tiêu tuổi thọ bình quân của dân số;
- Về trình độ học vấn : được xác định qua hai chỉ tiêu : tỷ lệ dân số biết chữ và
số năm đi học của một người (tính từ 25 tuổi trở lên);
- Về thu nhập : được đo bằng chỉ tiêu GDP tính bình quân đầu người thực tế;
Trên cơ sở thiết lập giới hạn cận trên và cận dưới phù hợp trạng thái phát triển
con người toàn cầu, HDI chỉ nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. HDI của một quốc
gia càng lớn thì trình độ phát triển con người của quốc gia đó được coi là càng cao và
ngược lại. HDI là thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh tế thuần
túy về sự phát triển, bổ sung cho thước đo giáo dục, dẫu quan trọng nhưng còn phiến
diện và sai lệch. Có thể nói, với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển trở nên
toàn diện và phản ánh chân thực hơn. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng
thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là một căn cứ để lựa chọn và xác
định các mục tiêu và chính sách phát triển.
Tuy nhiên, HDI là một chỉ số còn tương đối giản đơn, không bao quát hết tính
phong phú, nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh một cách gián tiếp,
do đó chưa đầy đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng sống
của con người như chính trị, văn hóa, môi trường hay mức độ tham gia của người dân.
HDI của một quốc gia chỉ là một chỉ số trung bình, do đó, cũng như giáo dục, nó có
thể che lấp các quá trình phân phối, tình trạng bất bình đẳng, hay sự khác biệt về phát
triển con người giữa các vùng và các nhóm dân cư. Nó có thể không làm nổi bật được
những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát
triển. Các khía cạnh chất lượng của các yếu tố cấu thành HDI cũng khó có thể phản
ánh đầy đủ : trình độ giáo dục thật ra không chỉ thể hiện bằng tỷ lệ biết chữ hay số
năm đi học mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng và
13
cơ hội lựa chọn của người học, đặc biệt với giáo dục bậc cao.
Cho đến nay HDI vẫn là một chỉ số tốt nhất được dùng để đánh giá sự phát triển
con nguời của một quốc gia. Tuy nhiên, những xem xét vừa nêu trên cho thấy HDI cần
được sử dụng cùng với nhiều thước đo bổ sung khác. Chẳng hạn, nhằm chỉ rõ sự khác
biệt về trình độ phát triển con người giữa các vùng, các nhóm xã hội, cần xây dựng
HDI chi tiết cho từng địa phương và từng nhóm đối tượng dân cư cần nghiên cứu.
1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh gia nhập WTO
1.2.1 Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối
cảnh gia nhập WTO
Vai trò quan trọng mang tính quyết định của NNL đối với sự phát triển KT -
XH của các quốc gia là vấn đề đã được khẳng định. Những công trình nghiên cứu gần
đây đều đi đến kết luận rằng : con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố
quyết định nhất cho mọi quá trình phát triển KT – XH.
So với các nguồn lực khác, NNL có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không những bị cạn
kiệt trong quá trình khai thác và sử dụng mà ngược lại nó còn có khả năng tái sinh và
phát triển. Chính điều này là điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn vốn sức lao động và
các nguồn vốn khác, là yếu tố cơ bản làm cho nhân tố con người trở thành nguồn lực
chính cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do đó, ở hầu hết các quốc gia hiện nay đều
đặt con người ở vị trí trung tâm cúa sự phát triển và đề ra các chính sách, biện pháp
nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực quan trọng nay.
Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng kinh tế
của Mác. Với tư tưởng chủ đạo : chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và là nguồn gốc của
của cải xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá rất cao vai trò của
yếu tố con người. Việc sử dụng đầy đủ và có hiệu quả tiềm năng nhân lực là vấn đề cơ
bản nhất để phát triển sản xuất và nâng cao năng suất. Ngay cả trong điều kiện của
cuộc cách mạng công nghiệp, khi khoa học đang trực tiếp trở thành một bộ phận quan
trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất, các phát minh khoa học được áp dụng ngày
càng nhiều hơn vào sản xuất, vai trò của yếu tố con người không vì thế mà giảm nhẹ.
14
Điều này đã được Mác khẳng định : trong quá trình lao động, nhờ những tư liệu lao
động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải thay đổi theo một
mục đích đã định trước… [8, 271]. Tất cả những thứ đó là thành quả sáng tạo của bộ
óc con người, được bàn tay con người tạo ra, là sức mạnh tri thức đã được vật hóa.
Nhận xét trên đây của Mác có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó cho thấy tiến bộ
kỹ thuật không hề làm giảm nghĩa của yếu tố con người mà ngược lại, cùng với quá
trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, con người cùng với tiềm năng trí
tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.
Thực tiễn trong lịch sử cũng cho thấy, những quốc gia tiến hành công nghiệp
hóa dựa vào khai thác và sử dụng tiềm năng của yếu tố con người thì luôn giữ được
tốc độ nhanh và bền vững như Nhật Bản và các quốc gia Đông Á như Hàn Quốc,
Hồng kông, Singapore. Ngược lại, những quốc gia chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên hoặc
vốn từ bên ngoài như số nước Trung Đông, Châu Phi hoặc Mĩ La Tinh thì tốc độ tăng
trưởng và phát triển không ổn định. Chẳng hạn, Nigiêria- một quốc gia rất giàu có nhờ
dầu lửa, vào những năm 70 do lãng phí nguồn tài nguyên trời cho vào những công
trình thế kỷ như xây dựng những nhà máy sản xuất thép với quy mô đồ sộ và một thủ
đô mới… nên ngày nay dân chúng Nigieria còn nghèo hơn cả lúc mới giành được độc
lập năm 1960. Hoặc Brazil vào những năm 60, nền kinh tế tăng trưởng với mức thu
nhập tăng trưởng 6,4% liên tục từ 1963- 1973. Nhưng vào năm 1982, Brazil đã rơi vào
khủng hoảng về nợ nước ngoài và thu nhập bình quân đầu người không hề tăng trong
suốt mười năm liền, lạm phát luôn ở mức trên 500%/năm [7, 21].
Qua những ví dụ trên cho thấy muốn phát triển kinh tế bền vững phải dựa vào
yếu tố con người là chính chứ không thể dựa vào điều kiện tự nhiên hay các nguồn lực
bên ngoài. Các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á chính là những ví dụ tiêu biểu cho
mô hình phát triển dựa vào khai thác và phát huy yếu tố con người.
Quan điểm con người đứng ở trung tâm của sự phát triển với ý nghĩa con người
vừa là mục đích vừa là tác nhân của sự phát triển ngày càng được nhiều nước thừa
nhận và phát triển hết sức phong phú cả về lí luận lẫn thực tiễn như một quy luật phát
15
triển khách quan của thời đại. Theo Gregory Mankiw, nhà kinh tế học người Mỹ nổi
tiếng với mô hình tăng trưởng kinh tế Slow thì “sự đầu tư cho con người trong việc
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của tòan xã
hội và nhờ đó tạo khả năng tăng năng suất lao động”.
Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng KH – CN đã làm cho nền kinh tế thế
giới bước vào đổi mới sự phát triển. Đặc điểm nổi bật của nền sản xuất hiện đại là hàm
lượng khoa học cao, ưu tiên chất lượng hơn số lượng, cơ cấu sản xuất thay đổi liên tục
do áp dụng cái mới, đầu vào vật chất ngày càng giảm, đầu vào trí tuệ ngày càng
tăng…Những đặc điểm đó làm xuất hiện mô hình phát triển mới. Trong mô hình này,
thông tin, tri thức là những yếu tố quan trọng nhất. Do đó, trí tuệ ngày càng có vai trò
quyết định cho sự phát triển. Hầu như tất cả đều thừa nhận rằng, tài nguyên chính của
một quốc gia hiện nay là “ chất xám”, là khả năng sáng tạo của đội ngũ tri thức của đất
nước. Tri thức trở thành tiêu chí tượng trưng cho sức mạnh và sự giàu có của mỗi con
người, mỗi quốc gia, là phương tiện mạnh nhất để đạt được các kết quả KT – XH.
Coi trọng và đề cao trí thức cũng chính là đề cao yếu tố con người. Mô hình sản
xuất lấy con người làm trung tâm trở thành biểu hiện nổi bật của chiến lược phát triển
ở mọi quốc gia. Khai thác và phát huy tiềm năng yếu tố con người được coi là một giải
pháp quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hiện nay.
Nói con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố quyết định cho mọi
quá trình KT – XH lại càng đúng hơn khi đi sâu phân tích hoàn cảnh KT – XH cụ thể
của nước ta hiện nay. Chúng ta gia nhập WTO trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu,
thủ công, năng suất lao động thấp với nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 20% GDP,
GDP bình quân đầu người chỉ mới 725$. Trình độ KH – CN đang ở mức trung bình
kém. Trong ngành công nghiệp, nếu so với các nước phát triển, hệ thống máy móc,
thiết bị của nước ta còn lạc hậu từ 2-4 thế hệ…. Cơ sở hạ tầng, dịch vụ yếu kém, chưa
đáp ứng được các yêu cầu phát triển hiện tại và tương lai. Thách thức này thể hiện rõ
nhất ở hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện nước… Cảng biển, sân bay
thiếu về số lượng, kém về chất lượng… Về nguồn vốn, nhìn chung nền kinh tế nước ta
16
cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác là thiếu vốn. Mặc dù tỷ lệ huy động
vốn hàng năm cho đầu tư phát triển trong những năm trở lại nay là khá cao nhưng vì
quy mô sản luợng còn quá thấp (năm 2007 là 71tỷ $) nên số vốn thực tế dành cho đầu
tư phát triển hàng năm còn ít so với một số nước khác trong khu vực. Do vậy, vốn là
một trong những vấn đề khó khăn lớn nhất mà chúng ta cần phải giải quyết trong tiến
trình phát triển kinh tế. Về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, chúng ta tuy có
phong phú về chủng loại song cũng không phải là “giàu có” so với các quốc gia khác
trong khu vực. Điều này lại càng đúng khi xét theo chỉ số trên đầu người. Có thể lấy ví
dụ về dầu mỏ, một tài nguyên mà trong những năm gần đây là một trong những yếu tố
quan trọng tạo nên sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta bằng con đường xuất khẩu ra nước
ngoài. Nhưng theo dự tính thì trữ lượng dầu khí của nước ta cũng chỉ tương tự như
Malaixia-một nước mà dân số chỉ bằng ¼ dân số nước ta. Điều này chứng tỏ rằng
nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chưa thể coi là thế mạnh của nước ta, đó là chưa kể
đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, kém hiệu quả và không
khoa học.
Đánh giá sơ bộ những nguồn lực trên để chúng ta thấy rằng, các nguồn lực về
vật chất của chúng ta còn rất yếu, chưa đủ làm tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện đó, việc gia nhập
WTO sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, đưa nền sản xuất vốn còn nhỏ bé, lạc hậu và thủ công sang một nền kinh
tế công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng đang đối mặt với
những nguy cơ bị “thôn tính” ngay trên “sân nhà”, trở thành mảnh đất màu mỡ cho
những công ty và các quốc gia khác khai thác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã
khẳng định : bản thân những cơ hội tự nó không thể biến thành những lực lượng vật
chất mà nó phụ thuộc vào sự tận dụng cơ hội của chúng ta và nếu không vượt qua
những thách thức, hậu quả của nó có thể sẽ không thể khắc phục được. Hơn lúc nào
hết, vượt qua thách thức, đón lấy cơ hội trở thành con đuờng tất yếu trong tiến trình
17
phát triển KT - XH, mà nhiệm vụ đó có thể hòan thành hay không là phụ thuộc vào
những con người - NNL của Việt Nam, một nguồn lực có thể nói vừa là thế mạnh mà
cũng vừa là điểm yếu của chúng ta.
Là thành viên chính thức của WTO đang là một thuận lợi để chúng ta đưa nền
kinh tế tiến xa hơn, nếu chúng ta biết nắm bắt những thời cơ. Vào WTO, chúng
ta có cơ hội tiếp cận với các thành tựu KH – CN tiên tiến, thuận lợi trong việc phân
công lao động, hợp tác quốc tế nhằm nâng cao trình độ tay nghề, trình độ quản lý kinh
tế… Tuy nhiên, chính trong bối cảnh đó, áp lực đặt ra cho chúng ta vô cùng lớn. Lợi
ích được phân phối cho các nước thành viên trong WTO là không đồng đều, và lợi thế
luôn nghiêng về những nước phát triển. Vào WTO, tức chúng ta phải chịu áp lực cạnh
tranh một cách bình đẳng giữa các ngành nghề, giữa các quốc gia khác nhau, với
những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất nhì thế giới : Mỹ, Nhật Bản… Nếu thua
cuộc trong sự cạnh tranh khốc liệt đó, chắc chắn hậu quả để lại sẽ là vô cùng lớn.
Không những trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các tập đoàn, các quốc gia khác khai
thác mà sự lệ thuộc về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến mất quyền tự chủ về chính trị. Do
vậy, để tồn tại và phát triển trong điều kiện đó, bắt buộc các DN cũng như toàn thể nền
kinh tế phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc sản xuất ra các hàng hóa – dịch vụ
có chất lượng cao, giá thành thấp; phải có những quyết sách đúng đắn; phải có tư duy
kinh tế rộng. Làm thế nào để chúng ta có thể “nhận” nhiều và “mất” ít khi tham gia
vào sân chơi toàn cầu là vấn đề cả dân tộc cùng trăn trở. Tất cả những điều đó đều phụ
thuộc vào đội ngũ NNL, những con người tham gia vào tất cả các họat động sản xuất
– kinh doanh – dịch vụ trong nền kinh tế. Hội nhập đặt ra yêu cầu cần phải có những
con người có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, có tác phong làm việc chuyên
nghiệp, có kỷ luật và ý thức xã hội cao. Chính những con người đáp ứng được những
tiêu chuẩn đó mới có đủ sức “chèo chống” đưa Việt Nam vượt qua thách thức, đón lấy
cơ hội và tiến xa hơn trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng một đất nước
XHCN tiến bộ, công bằng, văn minh.
Từ những sự phân tích trên có thể kết luận rằng, mấu chốt để đưa đất nước ta đi lên
18
là phát huy triệt để yếu tố con người và nguồn lực chủ yếu mà chúng ta có thể dựa vào
để tiến hành phát triển đất nước là nhân tố con người, đặc biệt là trong bối cảnh hiện
nay, Việt Nam đã hội nhập vào WTO. Do vậy, việc nâng cao chất lượng NNL nhằm
phục vụ phát triển KT - XH là vấn đề có ý nghĩa then chốt nhất trong công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước, đưa nền kinh tế đất nước phát triển hùng mạnh.
1.2.2 Các yếu tố tác động đến nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập
WTO
- Thứ nhất : Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế gắn liền với hội nhập WTO.
Cơ cấu kinh tế thành phố đang chuyển mạnh theo hướng dịch vụ, công nghiệp,
đặc biệt là dịch vụ cao cấp. Cùng với việc hội nhập WTO, luồng vốn FDI và các công
nghệ mới đổ vào Việt Nam và TP.HCM trong thời gian qua cũng gia tăng đáng kể làm
cho kinh tế thành phố đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ theo hướng phát triển mạnh
những ngành thâm dụng khoa học, kỹ thuật và chất xám. Đó là những ngành dịch vụ,
công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp : ngân hàng, chứng khoán, tài chính, công
nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục , cơ khí, điện tử – tin học, hóa
chất, chế biến…Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng đến một mô hình thành
phố công nghiệp trong những năm sắp tới. Cơ cấu kinh tế này hoàn toàn phù hợp với
xu hướng phát triển của thế giới đồng thời khai thác được những lợi thế của thành phố.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này kéo theo sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động theo
hướng tăng lao động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp, trong đó, lao động trong
ngành dịch vụ cao cấp phải tăng nhanh hơn ngành công nghiệp, đồng thời giảm lao
động trong ngành nông nghiệp một cách tuyệt đối. Vì vậy, trong chiến lược phát triển
NNL thành phố trong bối cảnh gia nhập WTO hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là một trong những yếu tố có tác động sâu sắc nhất.
- Thứ hai : Sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ làm tăng mạnh nguồn vốn này vào Việt Nam nói chung và
TP.HCM nói riêng. Sự có mặt nhiều DN, tập đoàn và đặc biệt là các công ty xuyên
19
quốc gia (TNCs) đã làm tăng nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp đồng thời giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp. Điều này dẫn đến một
lượng lớn lao động tay nghề thấp sẽ có nguy cơ bị mất việc làm và rất khó tìm việc
hơn. Trong tình trạng đó, NLĐ sẽ phải nỗ lực hơn để tìm kiếm một công việc mới và
để làm được điều đó thì NLĐ sẽ phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của
mình. Ngoài ra, sự di chuyển vốn thường kèm theo di chuyển công nghệ, kiến thức
kinh doanh và quản lý. Do đó, kích thích phát triển giáo dục đào tạo lao động lành
nghề đáp ứng sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
TP.HCM trên cả ba lĩnh vực : tay nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc. NLĐ
có trình độ và kỹ năng cũng phải thường xuyên cập nhật kiến thức để nâng cao trình
độ chuyên môn và khả năng vận hành công nghệ hiện đại với tinh thần “học tập suốt
đời” nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động luôn biến đổi; một số lượng
không nhỏ lao động có cơ hội được tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm làm việc của lao
động nước ngoài, được các tập đoàn trực tiếp đào tạo (đào tạo lại), kể cả đào tạo ở
nước ngoài cùng với sự “cọ xát” trong một môi trường làm việc năng động hơn,
chuyên nghiệp hơn của những lao động có tay nghề cao, có phong cách làm việc
chuyên nghiệp…sẽ có tác động thúc đẩy một bộ phận không nhỏ lao động tự tìm cách
để “nâng tầm” mình lên. Những điều này sẽ có tác động tích cực nâng cao chất lượng
NNL. Luồng vốn này còn làm tăng nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động, góp phần tạo ra nhiều việc làm, bao gồm cả việc làm trực tiếp và gián
tiếp, nâng cao chất lượng NLĐ. Như vậy, đây là một trong những yếu tố hết sức quan
trọng tác động đến NNL TP.HCM trong bối cảnh hội nhập WTO.
- Thứ ba : Tự do hoá thương mại diễn ra mạnh mẽ
Gia nhập WTO dẫn đến tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ, điều này sẽ
thúc đẩy việc mở rộng phân công và hợp tác lao động giữa các nước thành viên, làm
cho việc phân bố và sử dụng các nguồn tài nguyên, NNL và các nguồn lực khác của
các nước một cách hợp lý hơn. Tự do hoá thương mại thúc đẩy cạnh tranh về giá cả,
chất lượng hàng hoá và quy trình sản xuất, quản lý lao động... Do vậy, yêu cầu đào
20
tạo, huấn luyện NNL ngày càng cao. Mặt khác, tự do hoá thương mại còn là một thách
thức lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì hàng hoá có hàm
lượng tri thức cao của các nước này chiếm tỷ lệ thấp, trình độ sản xuất hạn chế, hàng
hoá không có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá của các nước phát triển. Vì vậy,
để có thể tồn tại được trong cạnh tranh thương mại toàn cầu thì việc nâng cao chất
lượng NNL là điều cần thiết và có ý nghĩa cấp bách nhất đối với Việt Nam nói chung
và TP.HCM nói riêng trong bối cảnh hiện nay.
- Thứ tư : Sự di chuyển lao động giữa các nước thành viên WTO
Trong quá trình hội nhập WTO sẽ diễn ra các dòng dịch chuyển lao động : xuất
khẩu lao động từ các nước ít phát triển tới các nước phát triển, có nhiều việc làm và
tiền công cao; di chuyển lao động chuyên môn kỹ thuật của các nước phát triển vào
các nước tiếp nhận công nghệ (các chuyên gia khoa học công nghệ). Điều này giúp lao
động trong nước có thể tiếp cận và nâng cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm làm việc,
quản lý từ lao động chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, còn có dòng di chuyển trong
nước. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những KCN và
KCX, tạo nên dòng di chuyển lao động trong nước từ những vùng nông thôn ra thành
thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp, từ nơi thu nhập thấp
đến nơi có thu nhập cao. Như vậy, tác động của sự di chuyển lao động trong thời kỳ
hội nhập WTO sẽ làm tăng thu nhập cho NLĐ, tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất
lượng NNL. Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng là tập trung quá nhiều lao động từ
khu vực nông thôn về thành phố và đây cũng là khó khăn cho thành phố trong việc
giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn cho NNL. Như vậy, sự di chuyển lao động có tác động rất lớn đến số lượng, chất
lượng và cơ cấu NNL TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.
- Thứ năm : Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo do quá trình mở cửa và
hợp tác theo lộ trình gia nhập WTO
Cùng với việc cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho nước ngoài
đầu tư vào một số ngành dịch vụ, trong đó có cả lĩnh vực giáo dục đào tạo. Điều đó sẽ
21
giúp cho giáo dục trong nước được tiếp cận với những công nghệ đào tạo tiên tiến,
chuyên nghiệp và hiệu quả hơn từ những nước có nền giáo dục phát triển. Từ đó sẽ tạo
điều kiện để đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo đang còn nhiều bất cập
và yếu kém của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Tính “độc tôn” trong lĩnh
vực này sẽ phần nào bị xóa bõ. Sự cạnh tranh sẽ diễn ra giữa hệ thống đào tạo trong
nước và những tổ chức, trung tâm, trường quốc tế. Để tồn tại được thì bản thân các
trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong nước bắt buộc phải điều chỉnh toàn bộ hệ thống
cả phương pháp, nội dung đào tạo theo huớng mở, tăng tính chuyên môn, thực hành,
hiện đại để bắt kịp trình độ giáo dục quốc tế và đáp ứng được yêu cầu đào tạo ngày
càng cao hơn trong thời kỳ hội nhập. Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát
triển NNL của TP.HCM.
Như vậy, phát triển NNL ở TP.HCM trong quá trình gia nhập WTO chịu sự tác
động mạnh mẽ của nhiều yếu tố. Nhận thức được sự tác động và vai trò của các yếu tố
đó đến sự phát triển NNL sẽ giúp chúng ta có những định hướng đúng đắn để phát
triển NNL.
1.2.3 Yêu cầu của việc phát triển nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia
nhập WTO
Trong bối cảnh gia nhập WTO, NNL của quốc gia sẽ chịu nhiều yếu tố tác động
khác nhau, vì vậy, yêu cầu phát triển NNL cũng sẽ có nhiều thay đổi so với trước đây
nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Chẳng hạn, qua một công
trình nghiên cứu của một công ty tư vấn quốc tế thăm dò ý kiến các vị chủ tịch và tổng
giám đốc của 200 công ty xuyên quốc gia về vấn đề tuyển dụng nhân viên làm việc tại
Trung Quốc cho thấy : trước đây các tiêu chuẩn thường được đưa ra ngoài tiêu chuẩn
cơ bản về trình độ CMKT là : tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm.... Nhưng
ngày nay những tiêu chuẩn này đã thay đổi thành: có tính sáng tạo, có khả năng tư
duy, xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng diễn đạt,
v.v.... Nói chung NNL phải được huấn luyện tốt. Vì vậy, quá trình hội nhập đặt ra
những yêu cầu cao đối với sự phát triển NNL TP.HCM trên cả 3 phương diện : thể lực,
22
trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội nhưng với yêu cầu cao hơn.
(cid:110)Về mặt thể lực : có sức khỏe tốt cả về mặt thể chất và tinh thần. Ngoài cơ
thể khỏe mạnh, sự dẻo dai cơ bắp thì sự sảng khoái về tinh thần, thoải mái về tâm lý
đủ khả năng làm việc với áp lực cao, linh hoạt trong việc chuyển đổi công việc, đặc
biệt là có dễ dàng di chuyển địa điểm làm việc… là điều kiện không thể thiếu đối với
NNL.
(cid:111)Về mặt trí lực : một NNL có trình độ văn hóa, có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công trong hội nhập.
Sự phát triển NNL trong bối cảnh hội nhập cần đáp ứng những yêu cầu sau :
- Thứ nhất, cần phải làm một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã
hội để chuẩn bị một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của
một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh
tế trong bối cảnh gia nhập WTO và cuộc cách mạng KH - CN hiện đại dẫn đang diễn
ra như vũ bão trên thế giới.
Trong quá trình hội nhập, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã
làm tăng mạnh nhu cầu lao động trong hai khu vực dịch vụ và công nghiệp kỹ thuật
cao, trong khi đó giảm mạnh lao động trong khu vực nông nghiệp. Do vậy, trong quá
trình đào tạo và phát triển NNL, việc tăng cường đào tạo đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn cao làm việc trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là những ngành cao cấp :
ngân hàng, tài chính tín dụng, vận tải, du lịch, công nghệ thông tin, bất động sản..và
những ngành công nghiệp kỹ thuật cao nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển là
một vấn đề cấp bách.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, thành phố còn phải hướng đến việc
đào tạo những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt và khốc liệt để phát
triển. Việc đào tạo một thế hệ mới các doanh nhân - những người lao động có tri thức
– KH CN hiện đại, tri thức - năng lực kinh doanh - năng lực cạnh tranh để dẫn dắt
doanh nghiệp giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế trong và ngoài nước,
phải là mục tiêu cơ bản trong chính sách giáo dục – đào tạo của Việt Nam nói chung
23
và TP.HCM nói riêng.
- Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc đào tạo NNL
cần phải được đầu tư phát triển theo một phương châm mới, đó là đào tạo thường
xuyên - đào tạo suốt đời.
Do sự thay đổi nhanh chóng của KH - CN và do tính linh hoạt ghê gớm của thị
trường lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, kiến thức – kỹ năng trở nên
dễ bị lạc hậu. Vì vậy, giáo dục & đào tạo phải trở thành một nhu cầu suốt đời của con
người. Giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp phải giúp con người có thể học thường
xuyên - học suốt đời, và giáo dục phải chuẩn bị cho con người về nội dung và phương
pháp để học thường xuyên - học suốt đời.
- Thứ ba, việc sử dụng phổ biến tiếng Anh trong giáo dục & đào tạo là một yêu
cầu thiết yếu trong thời kỳ gia nhập WTO.
Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu, thứ tiếng của doanh nghiệp, của chính trị, của
ngoại giao, là tiếng “mẹ đẻ” của ngôn ngữ máy tính và Internet. Sự phổ biến của tiếng
Anh là sự thật không thể phủ nhận, và trong thực tế tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn
cầu hóa kinh tế. Muốn hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào thương mại toàn cầu thì
phải biết sử dụng tiếng Anh, nó trở thành điều kiện bắt buộc và quốc gia, lãnh thổ nào
giỏi tiếng Anh sẽ là một thế mạnh rất lớn trong quá trình hội nhập, mà Ấn Độ là một
điển hình. Việc dạy tiếng Anh trong hệ thống giáo dục thời kỳ hội nhập phải gắn liền
với dạy tin học và ngược lại, dạy tin học gắn liền với dạy tiếng Anh. Đó được xem là
công cụ bắt buộc cần phải có để có thể hội nhập vào kinh tế thế giới.
- Thứ tư, cần có đối sách giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” khi
thương mại hóa quốc tế trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo ngày càng phát triển, theo
tiến trình gia nhập WTO.
Theo lộ trình gia nhập WTO thì chúng ta phải mở cửa cả trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo. Trong đó việc du học nước ngoài, du học tại chỗ … được coi là hành
động xuất khẩu dịch vụ giáo dục – đào tạo và đây được xem là hình thức nhập khẩu tri
thức khoa học công nghệ có hiệu quả cao của các quốc gia đang phát triển, trong đó có
24
chúng ta. Tuy nhiên việc người học sau khi được đào tạo đã không quay trở về quê
hương làm việc, cống hiến đang trở nên phổ biến. Vì vậy thành phố cần phải có đối
sách nhằm giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” sau đào tạo bằng nhiều biện
pháp, từ kinh tế tới chính trị, văn hóa, pháp luật, chế tài …
- Thứ năm : cần phải đánh giá đúng vai trò và nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao
động CNKT tay nghề cao.
Đây là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển NNL trong thời kỳ hội nhập.
Trong thời gian qua, chúng ta đã không đánh giá đúng vai trò và vị trí của đội ngũ lao
động này và vì thế, chưa có sự đầu tư nghiêm túc để phát triển lao động nghề. Trong
khi đó, không có sự tồn tại và phát triển của một quốc gia nào mà lại thiếu đội ngũ lao
động này. Để đảm bảo phát triển hiệu quả thì việc nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao
động CNKT là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng.
- Thứ sáu : cần phải nâng cao ý thức công dân, lòng yêu nước, ý thức trách
nhiệm đối với cộng đồng. Những phẩm chất này sẽ giúp NLĐ có thể vượt qua được
những cám dỗ bời những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền với những
“sức mạnh vạn năng” của nó có thể làm đảo lộn mọi luân thường đạo lý, chà đạp
luơng tâm, phẩm hạnh của con người. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập thì đặc điểm
trên là hết sức cần thiết.
(cid:112)Về mặt phẩm chất tâm lý xã hội của NNL
Yêu cầu phát triển NNL đòi hỏi NLĐ phải có những phẩm chất tâm lý xã hội
cơ bản sau :
Có ý thức kỷ luật và tự giác cao -
Có niềm say mê nghề nghiệp, có tinh thần đồng đội. -
Sự sáng tạo, năng động trong công việc. -
Có khả năng phân tích, xử lý công việc linh hoạt. -
Có kỹ năng giải quyết vấn đề và có kỹ năng làm việc nhóm. -
Có khả năng chuyển đổi công việc cao thích ứng với những thay đổi trong -
25
lĩnh vực công nghệ và quản lý.
Chương 2
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TP.HCM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1 Tổng quan về nguồn nhân lực và thực trạng vấn đề đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực tại TP.HCM
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực TP.HCM
2.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên
TP.HCM có địa giới hành chính chung với các tỉnh Bình Dương ở phía Bắc, Tây
Ninh ở phía Tây Bắc, phía Đông và Đông Bắc giáp Đồng Nai, phía Đông Nam giáp Bà
Rịa - Vũng Tàu, phía Tây và Tây Nam giáp Long An và Tiền Giang, phía Nam giáp biển Đông với chiều dài bờ biển khoảng 15 km. Diện tích tự nhiên là 2.095,24 km2,
chia thành 24 quận, huyện với 317 phường, xã. TP.HCM nằm ở trung tâm Nam Bộ,
cách thủ đô Hà Nội 1.738 km về phía Đông Nam. Trung tâm thành phố cách bờ biển
Đông 50 km đường chim bay. Hiện nay, TP.HCM có 19 quận nội thành và 5 huyện
ngoại thành, cấp quận được chia thành nhiều phường, huyện chia thành nhiều xã, và thị
trấn, trong đó Quận 1 là trung tâm hành chánh, kinh tế và giao dịch của thành phố. Các
cơ quan đầu não của thành phố nằm trên địa bàn quận này.
Địa hình TP.HCM phần lớn bằng phẳng, có ít đồi núi ở phía Bắc và Đông Bắc,
với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Nhìn chung có thể chia địa hình TP.HCM
thành 4 dạng chính có liên quan đến chọn độ cao bố trí các công trình xây dựng : dạng
đất gò cao lượn sóng (độ cao thay đổi từ 4 đến 32 m, trong đó 4 – 10 m chiếm khoảng
19% tổng diện tích. Phần cao trên 10 m chiếm 11%, phân bố phần lớn ở huyện Củ Chi,
Hóc Môn, một phần ở Thủ Đức, Bình Chánh); dạng đất bằng phẳng thấp (độ cao xấp xỉ
2 đến 4 m, điều kiện tiêu thoát nước tương đối thuận lợi, phân bố ở nội thành, phần đất
của Thủ Đức và Hóc Môn nằm dọc theo sông Sài Gòn và nam Bình Chánh chiếm 15%
26
diện tích); dạng trũng thấp, đầm lầy phía tây nam (độ cao phổ biến từ 1 đến 2m, chiếm
khoảng 34% diện tích); dạng trũng thấp đầm lầy mới hình thành ven biển (độ cao phổ
biến khoảng 0 đến 1 m, nhiều nơi dưới 0 m, đa số chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng
ngày, chiếm khoảng 21% diện tích).
Không có núi lửa, động đất, lụt lội, ít khi có bão lớn, thành phố nằm trong vùng
nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo, có khí hậu, thời tiết dễ chịu với hai
mùa khô và mưa. Khí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa
bình quân năm 1.979 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55 0C, không có mùa đông. Mưa thì mau tạnh ráo và nắng thì không quá
nóng. Cảnh quan nơi đây phong phú và đa dạng, động thực vật đặc chủng và kho tàng
tài nguyên nhân văn đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt tiền thành phố thuộc vùng biển Nam
Bộ, nơi có nhiều tiềm năng kinh tế biển như hải sản, dầu khí và tuyến hàng hải quốc tế.
Cận kề thành phố là vựa lúa lớn nhất được viền quanh và đan xen bởi hệ sinh thái rừng
ngập mặn, rừng tràm, đồng bưng.
Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn thành phố chủ yếu là vật liệu xây dựng như
sét gạch ngói, cát, sạn, sỏi; nguyên liệu cho gốm sứ và chất trợ dụng; các nguyên liệu
khác như than bùn… Chỉ có một số khoáng sản có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu
của thành phố : nguyên liệu làm vật liệu xây dựng, sành sứ thuỷ tinh, nguyên nhiên
liệu… Các khoáng sản khác như kim loại đen, kim loại màu (trừ nhôm), than đá… đều
không có triển vọng hoặc chưa được phát hiện.
Thành phố là một nơi có tài nguyên du lịch phong phú. Nơi đây là một vùng đất
gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp đặt
chân lên Việt Nam. Có nhiều di tích lịch sử, cách mạng nổi tiếng, hệ thống các bảo
tàng, nhà hát, nhà văn hoá, các công trình kiến trúc thời Pháp… và nhiều khu du lịch,
khu vui chơi giải trí, nhiều công trình kiến trúc cổ, hệ thống các ngôi chùa cổ…. Đây là
thế mạnh của thành phố trong việc phát triển kinh tế du lịch và những ngành nghề liên
quan như đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, thăm quan, giải
trí…của du khách đồng thời là lợi thế để thành phố phân bổ NNL trẻ và dồi dào theo
27
hướng đa ngành nghề dịch vụ.
Với điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, TP.HCM có điều kiện để phát
triển KT - XH. Điều này tác động rất lớn đến việc đào tạo và sử dụng NNL của thành
phố. Sài Gòn – nơi một thời được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" đã là trung tâm
thương mại và là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc
thái văn hoá riêng góp phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng. Đặc trưng văn hoá của
vùng đất này là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc với những nét văn hoá
phương Bắc, phương Tây, góp phần hình thành lối sống, tính cách con người Sài Gòn.
Đó là những con người thẳng thắn, bộc trực, phóng khoáng, có bản lĩnh, năng động,
dám nghĩ, dám làm. Con người thành phố luôn thể hiện tính năng động, sáng tạo, nhạy
bén với kỹ thuật và công nghệ mới; có khả năng chóng thích nghi và hội nhập vào điều
kiện mới của nền kinh tế thị trường nhanh.
2.1.1.2 Đặc điểm kinh tế – xã hội
Với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống mạng lưới cơ sở hạ tầng
kinh tế kỹ thuật và xã hội đồng bộ, TP.HCM hiện nay là khu vực kinh tế trọng điểm
phía Nam và là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch, văn hóa, Giáo dục lớn nhất và
năng động nhất của Việt Nam.
(cid:190)Về kinh tế : TP.HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước. Kinh tế của thành phố đã
tăng trưởng mạnh và ổn định trong những năm trở lại đây, luôn đi đầu trong cả nước về
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân giai đọan 2001 – 2006 của thành phố là 11,2%, trong đó khu
vực 1 có tốc độ tăng thấp nhất và khu vực 3 có tốc độ tăng cao nhất và có xu hướng
tăng nhanh trong những năm gần đây [phụ lục 1].
(cid:144) Các chỉ tiêu kinh tế – xã hội năm 2007
Tốc độ tăng trưởng GDP so với năm 2006 là 12,6%. Cơ cấu các ngành kinh tế
đang chuyển dịch đúng hướng, đóng góp vào con số 12,6% đứng đầu là khu vực dịch
vụ (7,76%). Đây cũng là năm thứ bảy kinh tế TP liên tiếp tăng trưởng năm sau cao hơn
năm trước (từ 9,5% năm 2001 đến 12,6% năm 2007) và cao nhất từ trước đến nay.
28
- Tổng GDP năm 2007 : 228.795 tỷ đồng (giá thực tế), trong đó :
+ Ngành công nghiệp : 106.160 tỷ đồng, chiếm 46,4% GDP.
+ Ngành dịch vụ : 119.660 tỷ đồng, chiếm 52,3% GDP, trong đó các ngành
dịch vụ cao cấp : bưu chính viễn thông, tài chính – ngân hàng, du lịch có tốc độ tăng
trưởng cao nhất.
+ Ngành nông nghiệp : 2.975 tỷ đồng, chiếm 1,3% GDP.
- Tổng thu ngân sách đạt trên 89.255 tỷ đồng, tăng 26,37%, vượt trên 18.625
tỷ đồng so với năm 2006; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 84.500 tỷ đồng.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gần 2,9 tỷ USD.
- Chỉ tiêu giảm nghèo của TP đã về đích trước kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, số
hộ nghèo (thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm) chỉ còn 1,9%.
- Thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn TPHCM đạt 2.180 USD.
- Dân số : 6.650.942 người; mật độ dân số : 3.175 người/km2.
- Số người được giới thiệu việc làm trong năm : 259.149 người.
- Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị : 5,6%.
- Số cơ sở y tế : 456.
- Số bác sĩ, nha sĩ /1000 người dân : 9,3
- Số thư viện : 26.
Các ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu: điện, điện tử (bao gồm điện tử kỹ
thuật cao), cơ khí, hoá chất, phần mềm, dệt may, giày da, luyện kim, dầu khí, sản xuất
ô tô, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất giấy, chế biến nông, lâm sản và
nhiều ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, cho đến thời điểm 2007, công nghệ sản xuất
nhìn chung của TP.HCM hiện rất lạc hậu. Trong thời gian từ năm 1997-2007, ngành
công nghiệp của TP.HCM có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức bình quân trên
13%. Từ năm 1995 đến nay, chính quyền TP.HCM áp dụng nhiều biện pháp chuyển
dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp
có có hàm luợng tri thức, hàm luợng KH - CN cao và có hiệu quả kinh tế. Đồng thời, tỷ
trọng của các ngành công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động trong tổng sản lượng công
29
nghiệp của thành phố được giảm xuống như ngành dệt may từ 14,3% xuống còn
13,1%, chế biến thực phẩm-đồ uống giảm từ 28,9% xuống còn 17%....Điều này sẽ ảnh
hưởng đến cơ cấu đào tạo NNL thành phố trong thời gian tới theo hướng tăng lao động
các ngành công nghiệp có hàm lượng KH - CN cao, có hiệu quả kinh tế đồng thời giảm
lao động trong các ngành công nghiệp công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm qua, nhiều ngành công nghiệp liên tục phát triển. Để đảm bảo
phát triển bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, chính quyền TP.HCM
đã có nghị quyết tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện-điện tử-
công nghệ thông tin; cơ khí; hóa chất và chế biến tinh lương thực thực phẩm giai đoạn
2006-2010 với tổng kinh phí 3,5 tỷ USD. Các cơ sở này được nhanh chóng đầu tư về
mọi mặt chuyển sang phát triển về chiều sâu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao
và giá cả có tính cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế, với mục tiêu đưa
TP.HCM trở thành thành phố công nghiệp có công nghệ cao của Vùng KTTĐPN và
của Việt Nam vào năm 2015-2017 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đề ra.
Như vậy, có thể thấy trong thời gian tới, nhu cầu về NNL trong các ngành công nghiệp
mũi nhọn là rất lớn và sẽ là trọng tâm của việc đào tạo NNL trong lĩnh vực công nghiệp
thành phố.
Thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, kể từ khi
Luật đầu tư được ban hành. Nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài đến TP.HCM khảo sát
môi trường kinh doanh và ký kết các hợp đồng đầu tư. Riêng năm 2007, tổng vốn FDI
đổ vào thành phố gần 2,9 tỷ USD. Đây cũng là một nhân tố làm tăng thêm nhu cầu về
lao động của thành phố trong những năm trở lại đây và những năm sắp tới, đặc biệt là
nhu cầu về lao động trình độ cao ngày càng tăng.
TP.HCM có 3 KCX, 12 KCN. Phần lớn các DN trong KCX, KCN có trình độ
công nghệ trung bình và dưới trung bình, quy mô nhỏ và vừa. Ngành nghề đầu tư trong
KCX, KCN rất đa dạng, nhưng chủ yếu tập trung ngành may công nghiệp, da giày, thú
nhồi bông, túi xách, dệt, chế biến thực phẩm, là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Nơi đây đã thu hút khoảng hơn 200.000 lao động, phần lớn là lao động nhập cư, trẻ
30
tuổi, trình độ học vấn thấp, tạo một khối lượng việc làm rất lớn cho lao động thành phố
và đặc biệt là lao động nhập cư. Theo dự báo nhu cầu lao động thì đến năm 2010, các
KCN, KCX cần khoảng 500.000 lao động phổ thông và có trình độ trung học cơ sở và
trung cấp, công nhân lành nghề là cao nhất. Như vậy, việc tập trung nhiều KCX, KCN
đã thu hút một LLLĐ rất lớn và nhu cầu về lao động nghề là rất cao. Đây là một trong
những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào tạo lao động thành phố trong thời
gian tới. Ngoài ra, hiện nay thành phố có1 khu công nghệ cao và công viên phần mềm
Quang Trung là 2 trung tâm thu hút lao động KH – CN của thành phố và cả nước và
nhu cầu lao động cũng ngày càng tăng cao.
Thành phố là hạt nhân trong Vùng KTTĐPN và trung tâm đối với vùng Nam Bộ.
Với mức đóng góp GDP là 66,1% trong vùng và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả
khu vực Nam Bộ. Thành phố luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của
nhà nước, mặc dù gặp nhiều khó khăn song thu ngân sách của thành phố vẫn không
ngừng tăng. Ngân sách lớn tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư phát triển giáo dục đào tạo,
có tác động rất lớn đến chất lượng NNL của thành phố.
Về thương mại, dịch vụ, thành phố là trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất nước.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt
13,7 tỷ USD, tăng 12,46% so với năm 2005. Cơ sở vật chất ngành thương mại được
tăng cường với khoảng 400 chợ bán lẻ, 81 siêu thị, 18 trung tâm thương mại, 3 chợ đầu
mối. Khu vực dịch vụ tăng trưởng vượt kế hoạch, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Năm 2007, ngành dịch vụ đã đóng
góp 52,5% GDP thành phố. Năng suất lao động của các ngành dịch vụ nói chung là
66,12 triệu đồng/người/năm trong đó năng suất lao động của Thương mại là 51,6 triệu
đồng/người/năm (bằng 78% năng suất lao động ngành dịch vụ [22]. Sự hoạt động mạnh
mẽ của lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là ngành thương mại đã thu hút một lượng lao động
lớn, bao gồm cả lao động phổ thông và lao động cao cấp. Trong lĩnh vực dịch vụ,
31
ngành du lịch thành phố cũng phát triển mạnh. Năm 2007, doanh thu ngành du lịch đạt
13.250 tỷ đồng. Hiện nay đào tạo NNL cho ngành du lịch đang là vấn đề mang tính cấp
bách trong chiến lược phát triển NNL của thành phố.
TP.HCM là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn
đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Doanh thu
của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. Trong
tương lai thành phố phát triển các ngành kinh tế chủ lực, là địa phương đầu tiên tập
trung phát triển các ngành cơ khí gia dụng, sản xuất phương tiện vận tải, chế tạo máy,
các ngành công nghệ cao… vẫn là đầu mối xuất nhập khẩu, du lịch của cả nước với hệ
thống cảng biển phát triển. Việc hình thành các hệ thống giao thông như đường Xuyên
Á, đường Đông Tây…sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thành phố tăng trưởng mạnh mẽ.
Theo quy hoạch đến năm 2020, TP.HCM sẽ trở thành một đại đô thị, là trung tâm của
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước, là một trong những trung tâm công
nghiệp, KH - CN và dịch vụ của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Với hiện trạng kinh
tế thành phố hiện nay đặt ra yêu cầu đào tạo NNL trình độ cao, đặc biệt là NNL làm
việc trong lĩnh vực dịch vụ nhằm đáp ứng với sự phát triển kinh tế thành phố hiện nay
cũng như trong thời gian tới, khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
2.1.2 Khái quát về dân số TP.HCM
2.1.2.1 Quy mô, tốc độ tăng dân số
Theo thống kê chính thức năm 2007, dân số tòan thành phố là 6.650.942 người,
chiếm 7,82% so với cả nước (85,106 triệu người) và chiếm 41% so với Vùng Kinh tế
trọng điểm phía Nam, gồm 5.640.288 người ở thành thị và 1.010.654 người ở nông
thôn; 3.184.175 người là Nam, chiếm 47,9% tổng dân số. Trong tổng số dân sinh sống
có hơn 500.000 người thuộc dân tộc Hoa. Mật độ dân số ở TPHCM là 3.175 người/ km2. Tuy nhiên số dân có mặt trong thành phố thường cao hơn, thêm khoảng 2 triệu
dân ngoại tỉnh làm ăn tại thành phố theo mùa vụ, do vậy, mật độ dân số thực tế là thấp
32
hơn nhiều.
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Dân số (1000 người)
5.449
5.659
5.867
6.063
6.240
6.425
6.651
N am (1000 nguời)
2.627
2.729
2.830
2.920
2.997
3.082
3.184
Tỷ lệ (%)
48,2
48,2
48,2
48,2
48
48
48
Nữ (1000 người)
2.822
2.930
3.037
3.143
3.243
3.343
3.467
Tỷ lệ (%)
51,8
51,8
51,8
51,8
52
52
52
Thành thị (1000 người)
4.474
4.589
4.722
5.170
5.315
5.464
5.640
Tỷ lệ (%)
82,1
81,1
80,5
85,3
85,2
85
85
Nông thôn (1000 người)
975
1.070
1.145
893
925
961
1.011
Tỷ lệ (%)
17,9
18,9
19,5
14,7
14,8
15
15
Tốc độ tăng dân số (%)
3,8
3,8
3,7
3,4
3,0
3,07
3,5
Tỷ lệ tăng tự nhiên (%)
1,3
1,27
1,43
1,3
1,03
1,07
1,06
Tỷ lệ tăng cơ học (%)
2,51
2,51
2,27
2,1
1,97
2,0
2,41
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu dân số trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2001-2006
Nguồn : Xử lý tổng hợp từ niên giám thống kê TP.HCM các năm
Biểu trên cho thấy tốc độ tăng dân số ở TP.HCM là cao, tốc độ tăng dân số bình
quân giai đọan 2001 – 2007 là 3,44%, mặc dù tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là thấp, bình
quân vào khỏang 1,21%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần
nhưng không nhiều, năm 2001 là 3,8% còn 3,5% năm 2007. Tỷ lệ tăng tự nhiên của
dân số thành phố thấp và có xu hướng ngày càng giảm dần (từ 1,3% năm 2001 đến
2007 là 1,06%). Như vậy, tốc độ tăng dân số cao chủ yếu là do tốc độ tăng dân số cơ
học (bình quân giai đoạn 2001 – 2007 là 2,33% ). Điều này cho thấy nơi đây có sức hút
rất mạnh đối với lao động đến từ các địa phương khác trong cả nước. Kết quả điều tra
dân số giữa kỳ 1/10/2004 cho thấy TP. HCM có 1.767.290 người từ các tỉnh, thành phố
khác đến làm việc và sinh sống, chiếm 29,15% dân số thành phố. Có nhiều lý do dẫn
đến tình trạng dân nhập cư về thành phố đông như vậy, nhưng lý do chủ yếu nhất vẫn
là việc làm và thu nhập. Theo khảo sát của Chi cục phát triển nông thôn TP.HCM năm
2003, trong 800 người di cư đến thành phố tại 4 Quận, huyện có nhiều người nhập cư
33
nhất thành phố thì có 51,4% người di chuyển tới thành phố vì lý do trên.
Nhìn chung dân số Nữ (chiếm 52,1% dân số) đông hơn dân số Nam và tỷ lệ này
có xu hướng tăng nhẹ dần (tỷ lệ Nữ năm 2000 là 51,8% tăng lên 52% năm 2007).
Trong đó, dân số chủ yếu sống ở thành thị do quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh (tỷ
lệ này là 71,6% năm 1995, năm 2000 là 83% và đạt 84,8% năm 2007), và điều ngược
lại diễn ra ở khu vực nông thôn (năm 1995, dân số nông thôn là 28,4%, năm 2000 là
17% và đến năm 2007 còn 15,2%). Phần lớn dân số sống bằng những nghề phi nông
nghiệp, tính đến năm 2007 thì tỷ lệ dân số sống bằng những nghề phi nông nghiệp là
96%.
Trong tất cả 19 Quận và 5 huyện của thành phố thì Quận Gò vấp có số dân đông
nhất (năm 2006 : 496.905 người; năm 2007 : 514.518 người) và huyện Bình chánh có
dân số đông nhất (năm 2006 : 330.605 người; năm 2007 : 347.278 người ). Tuy nhiên, mật độ dân số ở Quận 4 là cao nhất (45.532 người/km2 năm 2007) và ở huyện Hóc Môn là cao nhất trong 5 huyện ngoại thành : 2.487người/km2 năm 2007. Ngược lại, có những quận mật độ dân số rất thấp : quận 9 : 1.941người/ km2; quận 2 : 2.679 người/km2 [phụ lục 2]. Nhìn chung dân số phân bố không đều và tập trung chủ yếu ở
những quận nội thành.
Biến động dân số của thành phố trong thời gian từ 2001 – 2007 có xu hướng
giảm dân số ở các quận trung tâm, quận nội thành, tăng nhiều ở các quận mới, các quận
ven ngoại thành và các huyện. Nguyên nhân là người dân di dời do các dự án nâng cấp
đô thị đồng thời do nhu cầu cho thuê nhà để kinh doanh nên có sự giảm dân ra các quận
ven để sinh sống. Các quận mới, quận ven dân số tăng cao do phát triển kinh tế thành
phố và đầu tư cho các KCX - KCN đã thu hút một lượng lao động nhập cư từ các tỉnh
thành trong cả nước. Việc gia tăng dân số nhanh chóng của thành phố (bình quân giai
đọan 2001 – 2007 là 3,44%/ năm) tác động mạnh đến LLLĐ của thành phố, làm cho
LLLĐ hàng năm tương ứng tăng theo. Trong cơ cấu lao động của thành phố, lao động
ngọai tỉnh chiếm tỷ trọng rất cao. Đại bộ phận người dân từ các nơi đến thành phố làm
ăn sinh sống từ các nguồn sau :
- Số học sinh, sinh viên từ các tỉnh đến học tập tại thành phố HCM và tìm
34
được việc làm sau khi học xong.
- Số lao động được tuyển dụng vào làm việc trong các KCN – KCX tập trung
của thành phố.
- Phần còn lại là nhập cư tự do theo nhóm đi tìm kiếm việc làm tại thành phố.
2.1.2.2 Chất lượng dân số
Theo kết quả điều tra dân số 1/10/2004, TP.HCM có 3,1% dân số từ 5 tuổi trở
lên chưa bao giờ đi học; 24,1% dân số có trình độ cấp 1; 34,1% có trình độ cấp 2;
29,4% có trình độ cấp 3; 9,3% có trình độ CĐ, ĐH và trên ĐH. Trình độ học vấn của
dân số từ 5 tuổi trở lên của TP. HCM sau 5 năm tăng khá nhanh, tỷ lệ dân số có trình
độ CĐ, ĐH và trên ĐH tăng từ 7,7% năm 1999 lên 9,3% năm 2004, tỷ lệ dân số có
trình độ cấp 3 tăng từ 24% năm 1999 lên 29,4% năm 2004. Ngược lại, tỷ lệ chưa bao
giờ đi học giảm từ 6,2% năm 1999 xuống còn 3,1% năm 2004.
Bảng 2.2 : Số năm đi học bình quân của dân số từ 10 tuổi trở lên
Chỉ tiêu
Tổng số
Nam
Nữ
TPHCM
7,66
8,02
7,34
Các quận
7,95
8,32
7,61
Các huyện
6,1
6,41
5,82
Nguồn : Kết quả điều tra dân số giữa kỳ 1/10/2004
Theo kết quả điều tra dân số 1/10/2004 cho thấy mặt bằng học vấn bình quân
dân số từ 10 tuổi trở lên ở TP.HCM qua chỉ tiêu số năm đi học bình quân là 7,66 lớp.
Mức mặt bằng học vấn bình quân chung của các quận nội thành, quận mới là 7,95 lớp
và mức mặt bằng học vấn bình quân chung của các huyện ngoại thành là 6,1 lớp. Số
năm đi học bình quân Nam nhiều hơn Nữ ở cả các quận và huyện ngoại thành. Xét
trình độ học vấn qua chỉ tiêu số năm đi học bình quân của dân số, ta thấy trình độ học
vấn của dân số thành phố thấp.
2.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực TP.HCM
2.1.3.1 Quy mô nguồn nhân lực
NNL của thành phố tăng dần qua các năm. Nếu năm 2001 là 3.604.193 người thì
đến năm 2006, NNL thành phố là 4.412.814 người, chiếm 68,69% so với tổng số dân,
35
trong đó, nữ chiếm 52,61% (2.321.644 người). Tốc độ tăng bình quân của NNL trong
giai đọan từ 2001 – 2006 là 4%, cao hơn tốc độ tăng bình quân của dân số giai đọan
này (3,43%). Nguyên nhân làm cho NNL tăng nhanh là do số người trong độ tuổi lao
động tăng nhanh (90% dân nhập cư là người trong độ tuổi lao động) đồng thời số người
mất sức lao động không còn khả năng lao động chiếm tỷ lệ ngày càng giảm. Có thể
thấy NNL của thành phố là rất lớn. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế thành phố. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh NNL này cũng là một áp lực rất
lớn cho thành phố trong việc tạo việc làm, ổn định đời sống, đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và những vấn đề về an sinh xã hội.
Bảng 2.3 : Các chỉ tiêu về NNL TP.HCM
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dân số (người)
5.449.203
5.658.997
5.867.496
6.062.993
6.239.938 6.424.519
Nguồn lao động (NLĐ)
3.604.193
3.723.131
3.816.029
3.953.406
4.164.161 4.412.814
(người)
1.844.680
2.041.181
2.063.708
2.127.328
2.242.401 2.321.644
Trong đó nữ
51,18
54,82
54,08
53,81
53,85
52,61
Tỷ lệ nữ (%)
Tốc độ tăng NLĐ (%)
3,3
3,3
2,5
3,6
5,3
5,97
Tỷ lệ lao động so với dân số
66,14
65,79
65,04
64,71
67,67
68,69
(%)
Tổng số lao động có việc
2.260.910
2.335.700
2.503.213
2.585.906
2.676.420 2.776.981
làm (người)
Tỷ lệ lao động có việc làm
62,73
62,73
65,60
65,41
64,27
62,93
trong NLĐ (%)
Lao động nữ có việc làm
1.184.260
1.234.183
1.303.921
1.333.054
1.467.883 1.495.024
(người)
Tỷ lệ lao động nữ có việc
52,38
52,84
52,09
51,55
54,85
53,84
làm trong số lao động đang
làm việc (%)
Lao động cần giải quyết việc
244,36
250,19
251,10
242,34
245,69
256,83
làm (1000 người)
Tỷ lệ lao động thất nghiệp
6,78
6,72
6,58
6,13
5,90
5,82
thời điểm 1/7 (%)
Nguồn : Xử lý tổng hợp từ số liệu thống kê TP.HCM và Sở Lao động – Thương
36
binh xã hội nhiều năm
NLĐ của thành phố năm 2006 đã được phân bố như sau :
- Số lao động đang làm việc là 2.776.981 người, chiếm 62,93% NLĐ.
- Số lao động dự trữ là 1.303.106 người, chiếm 29,53% NLĐ.
- Số người trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động là 75.900 người,
chiếm tỷ lệ 1,72% NLĐ.
- Số lao động không có việc làm là 256.827 người, chiếm tỷ lệ 5,82% tổng
NLĐ.
2.1.3.2. Chất lượng nguồn nhân lực
(cid:141)Trình độ học vấn
Theo kết quả điều tra lao động việc làm 1/7, trình độ học vấn của LLLĐ từ 15
tuổi trở lên trên địa bàn TP. HCM năm 2006 như sau :
Chỉ tiêu
Tổng số
Thành thị
Nông thôn
Số người
Tỷ lệ
Số người
Tỷ lệ
Số người
Tỷ lệ
(%)
(người)
(người)
(người)
(%)
(%)
Tổng số
3.235.807
2.836.185
100
399.622
100
100
Chưa biết chữ
26.857
22.690
0,8
4.167
0,83
1,04
Chưa tốt nghiệp cấp 1
250.981
185.203
6,53
65.778
7,76
16,46
Đã tốt nghiệp cấp 1
854.626
694.298
24,48
160.328
26,41
40,12
Đã tốt nghiệp cấp 2
775.094
673.310
23,74
101.784
23,95
25,47
Đã tốt nghiệp cấp 3
1.328.249
1.260.684
44,45
67.565
41,05
16,91
Bảng 2.4 : Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên
Nguồn : Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006
Theo bảng trên ta thấy TP.HCM có 0,83% dân số trong độ tuổi lao động chưa
biết chữ; 41,05% đã tốt nghiệp cấp 3; 23,95% đã tốt nghiệp cấp 2. Trong đó, trình độ
học vấn của lao động ở thành thị cao hơn nhiều ở nông thôn, tỷ lệ lao động đã tốt
nghiệp cấp 3 ở thành thị là 44,45%, cao hơn nhiều so với ở nông thôn là 16,91%.
Ngược lại, số lao động chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp cấp 1 và chỉ tốt nghiệp cấp 1 ở
nông thôn cao hơn ở thành thị nhiều. Điều này xuất phát từ những điều kiện khó khăn ở
37
những vùng nông thôn, học sinh phải lo lắng về gánh nặng kinh tế nhiều hơn. Tuy
nhiên, có thể nhìn một cách tổng quát, tại TPHCM số lao động chưa biết chữ chiếm
một tỷ lệ thấp.
Bảng 2.5 : Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn
TP.HCM
2006
Chỉ tiêu
Số người (người)
Tỷ lệ(%)
Tổng số
2.776.981
100
Chưa biết chữ
20.272
0,73
Chưa TN cấp 1
194.944
7,02
Đã TN cấp 1
732.012
26,36
Đã TN cấp 2
664.809
23,94
Đã TN cấp 3
1.164.944
41,95
Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006
Bảng số liệu trên cho ta thấy trình độ học vấn của lao động 15 tuổi trở lên có
việc làm ở TPHCM vẫn còn thấp, tổng số lao động đã tốt nghiệp cấp 3 tính đến năm
2006 là 41,95%. Số lao động có việc làm đã tốt nghiệp cấp 1 chiếm 26,36%; đã tốt
nghiệp cấp 2 là 23,94%, chưa biết chữ là 0,73%.
Số lao động từ 15 tuổi trở lên thất nghiệp ở thành thị năm 2006 là 154.000
người, trong đó, có 9,78% là chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1, trong đó nữ là
84.629 người, chiếm 55% [phụ lục 3]. Qua số liệu cho thấy việc tạo việc làm cho
LLLĐ này là một áo lực bởi phần lớn lao động này chưa biết chữ hoặc chưa tốt nghiệp
cấp 1. Trong tổng số lao động không có việc làm thì số người đã tốt nghiệp cấp 3
chiếm tỷ trọng tương đối cao 40,52%.
(cid:141)Trình độ CMKT
Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) hay còn gọi là lao động đã
qua đào tạo bao gồm : lao động có bằng cấp CMKT và lao động sơ cấp hoặc CNKT
38
(CNKT) không bằng.
Theo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006 thì tỷ lệ LLLĐ từ 15 tuổi trở
lên chưa qua đào tạo là 45,79%. Tỷ lệ đã qua đào tạo là 54,21%, bao gồm : 26,13% lao
động sơ cấp hoặc CNKT không bằng cấp; 28,08% là lao động có bằng cấp CMKT
(trong đó CNKT và nhân viên nghiệp vụ chiếm 7,49%; số người tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp chiếm 5,45%; số người tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên ĐH chiếm 15,14%).
Đây là tỷ lệ còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy, TP.HCM
là thành phố có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất so với cả nước (26%).
Bảng 2.6 : Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ 15 tuổi trở lên năm 2006
Tổng số
Thành thị
Nông thôn
Tổng số
Cơ cấu
Tổng số
Cơ cấu
Tổng số
cơ cấu
Chỉ tiêu
(người)
(%)
(người)
(%)
(người)
(%)
Tổng số
3.235.807
100
2.743.461
100
492.346
100
1.Chưa qua đào tạo
1.481.676
45,79
1.231.265
44,88
250.411
50,86
2.Đã qua đào tạo
1.754.131
54,21
1.512.196
55,12
241.935
49,14
a.Sơ cấp và CNKT không
845.516
26,13
666.112
24,28
179.404
36,44
bằng
b.Có bằng cấp CMKT :
908.615
28,08
846.084
30,84
62.531
12,70
- CNKT
242.362
7,49
212.344
7,74
30.018
6,1
- THCN
176.352
5,45
160.493
5,85
15.859
3,22
- CĐ, ĐH, trên ĐH
489.901
15,14
473.247
17,25
16.654
3,38
Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006
Ở khu vực nông thôn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 49,14% thấp hơn thành
thị (55,12%) không nhiều. Tuy nhiên, trong đó, tỷ lệ lao động sơ cấp và CNKT không
bằng ở nông thôn lại cao hơn thành thị rất nhiều (36,44% so với 24,28%). Điều này cho
ta thấy, đa số lao động đã qua đào tạo ở nông thôn chủ yếu là lao động có trình độ sơ
cấp và CNKT không bằng. Số lao động có bằng cấp CMKT cũng chiếm tỷ lệ thấp hơn
nhiều so với khu vực thành thị, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên không có bằng cấp
CMKT ở khu vực thành thị chiếm 30, 84%; khu vực nông thôn chỉ chiếm 12,7% và tỷ
lệ lao động trình độ CĐ, ĐH và trên ĐH cũng rất thấp (3,38%). Như vậy, lao động ở
39
khu vực nông thôn có bằng cấp CMKT là rất thấp, điều này dẫn đến năng suất lao động
và hiệu quả làm việc ở khu vực này kém. Lao động trình độ CMKT thấp cũng là một
khó khăn của khu vực các huyện ngoại thành của thành phố trong việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và gia nhập WTO.
Bảng 2.7 : Trình độ chuyên môn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn
thành phố HCM
2006
Chỉ tiêu
Tổng số (người)
Cơ cấu (%)
2.776.981
100
Tổng số
1.Chưa qua đào tạo
1.239.922
44,65
2.Đã qua đào tạo :
1.537.059
55,35
a.Sơ cấp và CNKT không bằng
750.896
27,04
b.Có bằng cấp CMKT :
786.163
28,31
- CNKT
210.218
7,57
- THCN
154.122
5,55
- CĐ, ĐH, trên ĐH
421.823
15,19
Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006
Theo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006 thì cơ cấu lao động 15 tuổi
trở lên có việc làm chưa qua đào tạo chiếm 44,65% tổng số lao động đang làm việc.
Lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ 55,35%, trong đó, sơ cấp và CNKT không bằng
chiếm 27,04%; lao động có bằng cấp chỉ chiếm 28,31%. Rõ ràng với đội ngũ lao động
như vậy thì năng suất lao động sẽ thấp. Tuy nhiên, cũng theo số liệu điều tra này thì tỷ
lệ lao động không có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật có xu hướng ngày càng giảm
(1996 : 84,13%; năm 2000 : 75,92%; năm 2006 : 71,69%).
2.1.4 Lao động đang làm việc trên địa bàn TP.HCM
2.1.4.1 Lao động đang làm việc chia theo ngành kinh tế
Số người đang làm việc của thành phố tăng đều qua các năm và đạt trên 2,7
triệu lao động năm 2006, chiếm 62,93% tổng NLĐ, trong đó lao động nữ chiếm trên
53,84% lao động đang làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp giảm dần qua các năm, từ 6,78%
40
năm 2001 còn 5,82% năm 2006, tuy nhiên, đây là một con số còn cao (tỷ lệ thất nghiệp
thành thị của cả nước là 5,2% năm 2006). Cơ cấu lao động trong lĩnh vực dịch vụ là
50,08%; khu vực công nghiệp - xây dựng: 44,78%; cơ cấu lao động trong khu vực nông
nghiệp giảm dần qua các năm và còn 5,15%. Như vậy, trong cơ cấu lao động đang làm
việc ở thành phố thì lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là rất thấp, trong đó, ngành
thủy sản chiếm một tỷ lệ rất ít (0,56%), mặc dù thành phố có nhiều tiềm năng để phát
triển lĩnh vực này. Điều này cho thấy, kinh tế thành phố chủ yếu phát triển các ngành
dịch vụ, công nghiệp và nơi đây tập trung phần lớn lao động có trình độ chuyên môn
cao, vì đặc trưng của 2 ngành này là lao động có chất xám cao. Riêng trong ngành công
nghiệp – xây dựng thì công nghiệp chế biến có số lượng lao động tham gia cao nhất
(1.020.743 người). Lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 50% lao động của thành phố, trong đó,
lao động trong ngành thương mại chiếm tỷ trọng cao nhất (15,04%). Trong năm 2007
thì cơ cấu lao động tiếp tục dịch chuyển rõ nét theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ và công nghiệp – xây dựng, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
tiếp tục giảm do tác động của quá trình đô thị hóa ở khu vực ngoại thành. Như vậy có
thể thấy lao động ngày càng chuyển dịch theo hướng phù hợp với quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Cũng theo Sở LĐ TB và XH, năm 2007, các khu vực kinh tế cần 30% lao động
có trình độ CMKT cao trong tổng số 250.000 lao động. Tỉ lệ này sẽ gia tăng vào những
năm kế tiếp, nhất là trong bối cảnh thành phố đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành
nghề kinh tế theo hướng giảm dần các ngành nghề sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng
lao động bằng những ngành nghề công nghệ hiện đại, sử dụng lao động có hàm lượng
chất xám cao. Có một thực tế là từ hiện trạng lao động đến DN, nhà đào tạo, kể cả các
cơ quan hoạch định chính sách nhân lực, đều chưa kịp “trở mình” trước sự thay đổi quá
41
nhanh của thị trường lao động.
Bảng 2.8 : Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế
2000
2005
2006
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
Chỉ tiêu
(người)
(%)
(người)
(người)
(%)
(%)
Tổng số (người)
2.241.434
100
2.676.420
2.776.981
100
100
142.091
6,34
145.282
5,43
142.834
5,15
I.Khu vực I (nông – lâm
nghiệp – thủy sản)
133.902
5,97
130.254
4,87
127.351
4,59
1.Nông nghiệp - lâm nghiệp
8.189
0,37
15.028
0,56
15.483
0,56
2.Thủy sản
1.087.242
48,51
1.226.932
45,84
1.243.514
44,78
II. Khu vực II (công nghiệp
– xây dựng)
3.238
0,14
3.837
0,14
3.953
0,14
1.CN khai thác mỏ
919.559
41,03
1.015.773
37,95
1.020.743
36,76
2.CN chế biến
3.SX và phân phối điện, khí
13.063
0,58
13.661
0,51
14.075
0,51
đốt và nước
4.Xây dựng
151.382
6,76
193.661
7,24
204.743
7,37
1.012.101
45,15
1.304.206
48,73
1.390.633
50,08
III. Khu vực III (Dịch vụ)
1.Thương mại
334.353
14,92
408.425
15,26
417.715
15,04
2.Khách sạn – nhà hàng
154.816
6,91
138.587
5,18
145.907
5,25
3.Vận tải, kho bãi, thông tin
114.071
5,09
159.555
5,96
178.705
6,44
liên lạc
4.Tài chính – tín dụng
9.585
0,43
24.842
0,93
26.667
0,96
5.Hoạt động KH và công nghệ
2.575
0,12
3.087
0,12
3.181
0,11
6,57
6.Kinh doanh tài sản và tư vấn
84.851
3,79
175.748
202.622
7,3
7.Giáo dục đào tạo
79.264
3,54
90.36
3,38
94.040
3,39
8.Các hoạt động dịch vụ khác
232.586
10,35
303.602
11,34
321.796
11,59
Nguồn : Niên giám thống kê TP HCM
2.1.4.2 Lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế
Bảng 2.9 : Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế
2000
2005
2006
Chỉ tiêu
Số người
Cơ cấu
Số người
Cơ cấu
Số người
Cơ cấu
(người)
(%)
(người)
(%)
(người)
(%)
Tổng số
2.241.434
100
2676.420
100
2776.981
100
42
597.566
26,66
530.466
19,82
510.131
18,37
1.Nhà nước
1.573.038
70,18
1.966.633
73,48
2.049.690
73,81
2.Tư nhân
3.Có vốn đầu tư nước
70.830
3,16
179.321
6,7
217.160
7,82
ngoài
Nguồn : Xử lý tổng hợp từ số liệu thống kê TP.HCM và kết quả điều tra lao
động việc làm 1/7 hàng năm
Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta thấy tính tới thời điểm 1/7 /2006 trên địa bàn
thành phố, lao động làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước chiếm 18,37% tổng
lao động đang làm việc. Nếu so với những năm trước thì tỷ lệ lao động trong thành
phân kinh tế này đã giảm nhiều (năm 2000 : 26,66%, năm 2005 : 19,82%). Điều này
một phần vì trong giai đoạn Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các DN nhà
nước, giải thể, sáp nhập một số DN làm ăn không hiệu quả đồng thời đây cũng là thời
kỳ thành phố thực hiện chủ trương tinh giảm bộ máy nhà nước gọn, nhẹ và hiệu quả.
Chính vì vậy, một bộ phận lớn lao động đã được giảm trong thời kỳ này. Bên cạnh đó,
lao động trong thành phần kinh tế tư nhân và đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng mạnh (năm 2000 : 3,16%, năm 2005 : 6,7%, năm 2006 : 7,82%). Điều đó
xuất phát từ việc Nhà nước chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các thành phần kinh tế cùng phát triển bằng hàng loạt các chính sách, biện pháp cụ thể.
Trong năm 2007, TP.HCM tiếp tục là một trong những địa phương thu hút nguồn vốn
FDI lớn nhất cả nước (khoảng 2,9 tỷ USD). Điều này góp phần làm tăng mạnh lao
động trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.5 Khái quát về tình hình giáo dục, đào tạo và các chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại TP.HCM
2.1.5.1 Tình hình giáo dục – đào tạo
TPHCM là một trung tâm kinh tế – văn hóa lớn nhất cả nước, do vậy, ở đây có
nhiều điều kiện để đầu tư phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo. Về cơ bản, thành phố
là nơi có hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị nhiều và hiện đại nhất so với các tỉnh
43
thành khác trong nước. Thành phố đã chú trọng đầu tư cho giáo dục – đào tạo.
(cid:141) Về Giáo dục
Giáo dục mầm non
Chỉ tiêu
Năm học
2000-2001
2005 – 2006
2006 – 2007
2007 – 2008
Trường học
520
533
598
617
Lớp học
3.779
5.608
6.246
6.580
Giáo viên (người)
5.547
9.356
10.544
11.476
Học sinh (người)
128.809
188.019
204.696
226.725
Số học sinh tính bình quân 1 lớp học (người)
34
34
33
34
Số học sinh tính bình quân 1 giáo viên (người) 23
20
19
20
Bảng 2.10 : Trường, lớp, giáo viên, học sinh mầm non trên địa bàn TP.HCM
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Số học sinh thuộc bậc học Giáo dục mầm non tăng mạnh từ 5.547 học sinh vào
năm học 2000 – 2001 lên 226.725 học sinh năm học 2007 – 2008. Số giáo viên cũng
tăng từ 5.547 giáo viên năm học 2000 – 2001 lên đến 11.476 giáo viên năm học 2007 –
2008. Số trường học cũng tăng từ 520 trường lên 617 trường năm học 2007 – 2008. Tất
cả các chỉ tiêu về trường, lớp, học sinh, giáo viên qua các năm học đều tăng. Tuy nhiên,
số học sinh bình quân trên 1 lớp và số học sinh bình quân trên 1 giáo viên là không
tăng trong 3 năm học liên tiếp và đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục của thành phố, loại hình đào tạo hệ công lập vẫn chiếm
vị trí chủ đạo. Trong số 607 trường mẫu giáo trên địa bàn thì có 366 trường công lập,
bán công 38 và dân lập là 203 trường; trong tổng số 193.976 học sinh mẫu giáo thì có
111.569 học sinh hệ công lập, chỉ có 15.949 hệ bán công và 66.458 hệ dân lập. Tuy
nhiên, qua số liệu ta cũng thấy rõ, hệ thống dân lập trên địa bàn thành phố phát triển
khá mạnh (chiếm 33,44% về tổng số trường học; 34,54 tổng số giáo viên và 34,26%
tổng số học sinh) [phụ lục 4]. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển của
44
thành phố hiện nay.
Giáo dục phổ thông
Tính đến năm học 2007 – 2008 thì toàn thành phố có 831 trường học dành cho
học sinh phổ thông. Trong đó có 467 trường cấp 1; 231 trường cấp 2 và 81 trường cấp
3; 2 trường cấp 1+ 2, 50 trường cấp 2+3. Có 927.751 học sinh các cấp, trong đó học
sinh cấp 1 là đông nhất : 423.437, chiếm 45,6%, học sinh cấp 2 có 327.652 học sinh,
chiếm 35,32%, học sinh cấp 3 chiếm 19,08%. Có 35.812 giáo viên, trong đó giáo viên
cấp 1 là đông nhất 14.275 người, chiếm 39,86% tổng số giáo viên. Số học sinh tính
bình quân cho 1 giáo viên là 26, trong đó, số học sinh tính bình quân cho 1 giáo viên ở
cấp 3 chỉ là 23; cấp 2 là 24; ở cấp tiểu học là 30. Bình quân 1 lớp học bậc tiểu học có
37 học sinh; ở cấp 2 là 43 học sinh; cấp 3 là 44 học sinh [phụ lục 5]. Tất cả các chỉ tiêu
về Trường, lớp, học sinh, giáo viên của thành phố hệ công lập đều chiếm tỷ lệ cao so với
các hệ dân lập và bán công [phụ lục 6].
Từ năm 1995, thành phố đã đạt tiêu chuẩn xoá mù chữ và phổ cập tiểu học;
100% số xã có trường tiểu học và 80% số xã có trường trung học cơ sở. Trình độ dân
trí ngày càng được nâng cao. Năm 2002, Sở GDĐT TPHCM đã đón nhận cờ lưu niệm
và quyết định công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục THCS do Bộ GDĐT trao tặng và
trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước đạt được chuẩn này. Trong năm 2008,
ngành giáo dục phấn đấu hoàn thành phổ cập bậc THPT.
Có một thực trạng là thành phố luôn rơi vào tình trạng thiếu giáo viên ở cả 4 cấp
học. Bắt đầu năm học mới thì Sở GD đều tuyển giáo viên đề phục vụ cho năm học mới.
Năm 2008, Sở đã tuyển khoảng 4.322 giáo viên ở cả 4 bậc học để phân bổ về cho các
quận, huyện, trong đó có khoảng 900 giáo viên tiểu học và gần 1000 giáo viên mầm
non. Số giáo viên được tuyển năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, nhưng tình
trạng thiếu giáo viên dường như vẫn còn là vấn đề mà các quận huyện lo ngại mỗi khi
mùa tựu trường sắp tới. Theo báo cáo của Sở GD, mỗi năm sau khi tuyển xong, bình
quân thành phố thiếu khoảng 1000 giáo viên
Nguyên nhân, bình quân mỗi năm có khoảng 2000 giáo viên về hưu, còn số
45
giáo viên do Sở tuyển một phần không đủ chi tiêu để ra, một phần không nhận nhiệm
sở khi được phân bổ. Mặt khác, do áp dụng Thông tư 35 của Bộ Giáo dục -đào tạo, hệ
số giáo viên/ lớp cao hơn trước, bên cạnh đó, nhu cầu học hai buổi/ ngày tăng, một số
trường bán công chỉ có 50% biên chế, khi chuyển sang công lập tự chủ tài chính nên
khó tránh khỏi việc thiếu giáo viên. Tình trạng thiếu giáo viên kéo dài nhiều năm nay,
chủ yếu ở ngoại thành và các quận vùng ven, trong đó thiếu nhiều nhất vẫn là ở bậc
tiểu học và mầm non. Một phần do số dân nhập cư tăng phải mở rộng trường lớp, phần
khác giáo viên được bổ nhiệm về ngoại thành sau thời gian công tác theo qui định, họ
được chuyển về dạy ở nội thành, nên các vùng ngoại thành thiếu giáo viên. Tình trạng
này nếu không có những biện pháp khắc phục triệt để sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng giảng dạy.
(cid:141) Về đào tạo
Trong năm học 2007, toàn thành phố có khoảng 104 trường ĐH, CĐ, THCN,
trong đó, có 77 trường thuộc hệ thống đào tạo công lập, chiếm 74,04%; có 22 trường
dân lập tư thục, chiếm 21,15% và 5 trường bán công, chiếm 4,8%. Tương ứng với khối
lượng trường học, có 14.196 giáo viên, trong đó, giáo viên giảng dạy tại các trường ĐH
là 10.072 người, chiếm 71% tổng số giáo viên trong các trường ĐH, CĐ và THCN. Tỷ
lệ giáo viên thuộc các trường công lập là 55,4% tổng số giáo viên, giáo viên trường dân
lập chiếm 15,23%. Sinh viên các trường công lập chiếm đa số (75,05%). Điều này cho
thấy, hệ thống đào tạo công lập chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống đào tạo của
thành phố về số trường học, giáo viên, sinh viên. Số lượng sinh viên đang học sau ĐH,
ĐH, CĐ và THCN của thành phố là 417.878 người, trong đó, số lượng học viên đang
học thạc sĩ, nghiên cứu sinh là 8.909 người, chiếm 2,13% tổng số sinh viên đang học;
số sinh viên theo học ĐH, CĐ là 328.475 người, chiếm 78,61% tổng số sinh viên hiện
có. Học viên theo học tại các trường THCN là 80.494 người, chiếm 19,3% tổng số sinh
viên theo các hệ đào tạo. Ngoài ra, hàng năm, ước tính sơ bộ các trung tâm dạy nghề
46
trên địa bàn thành phố đào tạo bình quân khoảng 350.000 học viên. Như vậy, tỷ lệ đào
tạo hiện nay của thành phố thì tỷ lệ giữa trình độ CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 1,04 –
0,24 - 1. Đây vẫn là một tỷ lệ không cân đối với yêu cầu phát triển kinh tế.
Bảng 2.11 : ĐH, CĐ, THCN năm học 2007 theo loại hình đào tạo năm 2007
Tổng số
Công lập
Bán công
Dân lập, tư thục
104
77
5
22
Trường học
1.ĐH
41
31
3
7
2.CĐ
29
21
2
4
3.THCN
34
23
-
11
14.196
11.201
833
2.162
Giáo viên
1.ĐH
10.072
7.863
570
1.639
2.CĐ
2.627
2.145
263
219
3.THCN
1.497
1.193
-
304
417.878
313.600
28.739
56.082
Sinh viên
1.Trên ĐH
8.909
8.754
155
-
2.ĐH
247.678
193.855
16.547
37.276
3.CĐ
80.797
62.355
9.940
8.502
4.THCN
80.494
48.636
2.097
10.304
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Trong những trường ĐH công lập lớn của thành phố thì ĐH quốc gia (bao gồm
: ĐH Bách khoa, ĐH KHTN và ĐH khoa học, xã hội – nhân văn) chiếm một lượng
sinh viên lớn nhất : 60.764 sinh viên. Nếu tính riêng lẻ thì ĐH kinh tế có số sinh viên
đông nhất : 51.126 sinh viên, kế đến là ĐH Nông lâm : 23.980 sinh viên. Tuy nhiên,
lượng giảng viên giảng dạy tại trường Y Dược là đông nhất : 864 người; trường ĐH
Bách khoa là 845 người; ĐH Khoa học tự nhiên là 622 người.
2004
2005
2006
2007
Tổng số (người)
44.011
49.437
50.425
51.432
Bảng 2.12 : Số sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH và CĐ
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Số sinh viên tốt nghiệp hàng năm tại các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố
47
tăng qua từng năm, đạt 51.432 người năm 2007. Trong đó, ĐH quốc gia có lượng sinh
viên tốt nghiệp cao nhất : 17.749 sinh viên, chiếm 34,5%. Tuy nhiên, số lượng sinh
viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng theo nhu cầu nhân lực cho thành phố. Theo
trung tâm gới thiệu việc làm TP.HCM, trong giai đoạn các năm 2007 đến 2010, bình
quân mỗi năm trên địa bàn thành phố sẽ thu hút lao động cho 270.000 chỗ làm việc,
trong đó 120.000 chỗ làm việc mới.
Theo Trung tâm giới thiệu việc làm TP.HCM, trong năm 2007, các khu vực kinh
tế tại thành phố thu hút trên 250.000 lao động, trong đó 75.000 lao động phân bổ vào
khu vực DN tư nhân trong nước, 80.000 lao động vào các khu chế xuất, khu công
nghiệp và DN có vốn đầu tư nước ngoài, 60.000 lao động vào các cơ sở dịch vụ kinh
doanh nhỏ, hộ kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, 35.000 lao động vào các DN nhà
nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước. Trong tổng số nhu cầu tuyển dụng có trên 30%
nhu cầu lao động chất lượng cao với các ngành nghề kỹ thuật công nghệ thông tin,
quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Trong khi đó, lao động tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ hàng năm khoảng 50.000 người. Như vậy, lượng lao động chất lượng cao được
đào tạo hàng năm chưa đủ để đáp ứng nhu cầu nhân lực trên địa bàn thành phố.
Một số ngành nghề có nhiều nhu cầu lao động thường xuyên là kỹ thuật cơ khí,
hóa chất, kiến trúc, xây dựng vận hành máy, lắp ráp điện tử, kỹ thuật đồ họa, kỹ thuật
điện – điện lạnh, kế toán, điều hành kinh doanh, quản lý sản xuất, nhu cầu tuyển lao
động kỹ thuật và quản lý gồm có trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tổ chức công việc. Hoạt
động sản xuất kinh doanh tại thành phố cũng cần tuyển nhiều lao động có nghề và lao
động phổ thông cho các ngành sản xuất điện tử, dệt, da, may, chế biến thực phẩm, tiếp
thị, phục vụ ăn uống, du lịch, bán hàng...
(cid:141) Tình hình dạy nghề
Trước yêu cầu phát triển của xã hội, thành phố đã nhận thức được sự cần thiết và
tầm quan trọng phải phát triển hệ thống dạy nghề. Không chỉ thành phố đầu tư bằng
ngân sách mà ngày càng có nhiều cá nhân, DN thuộc các thành phần kinh tế, các hội
nghề nghiệp, các tổ chức xã hội; ngoài ra các cơ quan đoàn thể khác tham gia đầu tư
48
vào lĩnh vực này (Liên đoàn Lao động, Hội phụ nữ, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của
người tàn tật, Hội bảo trợ trẻ em tàn tật…). Có thể thấy mạng lưới dạy nghề ở thành
phố qua [phụ lục 7].
Thành phố có khoảng 320 cơ sở dạy nghề, trong đó có 229 cơ sở đào tạo ngoài
công lập, chiếm 71,6%. Trong năm 2006, thành phố đã tuyển 321.225 học viên tham
gia vào các trường và cơ sở dạy nghề. Trong đó, học viên hệ dài hạn là 30.327 người;
hệ ngắn hạn là 290.898 người. Số lượng học viên sau đào tạo tham gia vào các hoạt
động kinh tế là 43%. Trong năm 2007, TP.Hồ Chí Minh mở thêm 50 cơ sở đào tạo dạy
nghề mới, trong đó đầu tư nâng cấp 4 trường dạy nghề lên CĐ với tổng kinh phí hàng
trăm tỷ đồng.
Về cơ cấu nghành nghề đào tạo : trong những năm qua, nhiều ngành nghề và
hình thức đào tạo đã được bổ sung, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của NLĐ cũng
như thực tế sản xuất kinh doanh. Ngoài các ngành nghề truyền thống thì
thành phố cũng đã chú trọng đào tạo những ngành trong lĩnh vực công nghệ mới, trình
độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển mạnh như : kỹ thuật máy tính,
lập trình hệ thống, thiết kế đồ họa trên máy vi tính, cơ điện tử – điều khiển tự động,
thiết kế thời trang, nghiệp vụ tài xế taxi, bán hàng, kỹ thuật đàm phán hợp đồng, thẩm
mỹ, các dịch vụ du lịch, làm vườn cây cảnh, kỹ thuật chất dẻo, kiểm tra chất lượng thực
phẩm, sữa chữa thiết bị viễn thông, quản lý nhà cao tầng…
Về hình thức đào tạo : ngoài hình thức đào tạo tập trung theo kế hoạch thì
nhiều hình thức mới được tổ chức : đào tạo tại chức với công nhân đang làm việc; đào
đào tại xí nghiệp; đào tạo có địa chỉ (cơ sở dạy nghề tuyển sinh đào tạo và cung cấp lao
động theo “đơn đặt hàng” của DN); bồi dưỡng nâng bậc thợ; đào tạo theo chế độ
“môđun” và liên thông giữa đào tạo ngắn hạn và dài hạn; đào tạo bổ sung tay nghề thực
hành cho cho học sinh tốt nghiệp trung cấp để lấy bằng CNKT; đào tạo theo phương
thức hợp đồng sử dụng bản quyền về chương trình, kiểm tra đánh giá và cấp bằng nước
ngoài.
Về đào tạo lao động kỹ thuật trình độ cao : thành phố là một trung tâm kinh
49
tế, khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh nhất so với cả nước, do đó, nhu cầu về lao động
kỹ thuật trình độ cao rất lớn. Trước tình hình đó, các cơ sở dạy nghề đã chủ động phát
triển mô hình đào tạo lao động trình độ cao nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của
thành phố. Thực tế, bên cạnh các trường ĐH, CĐ thuộc khối kỹ thuật, các cơ sở dạy
nghề đã tham gia có hiệu quả lĩnh vực đào tạo này.
Bảng 2.13 : Các nghành nghề đào tạo
Số cơ sở dạy nghề tham gia
Lĩnh vực đào tạo
đào tạo
Điện tử ( công nghiệp và dân dụng )
26
Công nghệ thông tin (lập trình, quản trị mạng, đồ họa)
34
Điện công nghiệp, dân dụng
46
Cơ khí chính xác (CAD, CAM, CNC)
10
Công nghệ ô tô
17
Cơ điện tử
7
Hàn công nghệ cao
14
Thiết bị viễn thông
9
Kỹ thuật chất dẻo
3
Hóa chất (thực phẩm, mỹ phẩm, công nghiệp khác)
4
Nguồn : Sở lao động – thương binh và xã hội
Đội ngũ giáo viên
Đến năm 2006, toàn thành phố có 5.353 giáo viên tham gia dạy nghề, trong đó
có 3.749 giáo viên cơ hữu. Ngoài số được đào tạo chính quy đảm nhận vai trò cơ hữu
tại các cơ sở, giáo viên dạy nghề còn được huy động từ nhiều nguồn, bao gồm các
CNKT tay nghề cao, nhân viên nghiệp vụ có trình độ và kinh nghiệm sản xuất, các
giảng viên các trường ĐH, CĐ, các viện nghiên cứu…thực hiện chiến lược phát triển
đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới phương pháp giảng dạy, ngành thường xuyên phối
hợp với các đơn vị có chức năng tổ chức các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ
sư phạm, bồi dưỡng tin học, các lớp chuyên đề về kỹ thuật mới; hợp tác với trường ĐH
Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM để chuẩn hóa sư phạm cho giáo viên. Đến cuối năm 2006,
50
tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn 83%.
2.1.5.2 Những chủ trương, chính sách của thành phố về đầu tư phát triển nguồn
nhân lực những năm qua
Trong những năm qua, thành phố cũng đã quan tâm phát triển NNL bằng một số
chương trình, chính sách :
- Chương trình đào tạo 300 thạc sĩ, tiến sĩ giai đoạn 2001 – 2006 ở nước ngoài
bằng ngân sách.
Chương trình đã có 254 học viên được đưa đi đào tạo tại 14 quốc gia có nền
Giáo dục phát triển như Anh, Mỹ, Úc, Pháp, Nhật... Số học viên của chương trình hoàn
thành học tập và nhận công tác là 160. Trong đó có 9 học viên được học bổng toàn
phần đào tạo tiếp bậc tiến sỹ, 38 người (chiếm 23,75%) được bố trí chức vụ trưởng,
phó phòng hoặc tương đương. Đối tượng của chương trình nên là những cán bộ đã
công tác 1 - 2 năm, có kinh nghiệm thực tiễn, đã gắn bó với một đơn vị nhất định. Tuy
nhiên, chương trình chưa thu hút được nhiều học viên giỏi; số lượng học viên các
ngành KH - CN còn thấp (đặc biệt là các ngành KH - CN mũi nhọn); việc chọn cơ sở
đào tạo còn dàn trải; việc bố trí và quản lý học viên sau đào tạo còn nhiều khó khăn.
Giai đoạn 2007 – 2010, thành phố đã tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo 500
thạc sỹ, tiến sĩ nhằm mục tiêu đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị,
cán bộ khoa học các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn cho thành phố bằng ngân
sách.
Trong đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật ngày càng tăng
nhanh, bên cạnh hệ thống đào tạo nghề công lập, thành phố đã khuyến khích phát triển
các cơ sở dạy nghề ngoài công lập bằng nhiều chính sách, trong đó biện pháp được
xem là có tác động tích cực đến sự phát triển hệ thống dạy nghề đó là : thực hiện
chương trình cho vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở DN hoạt động trong lĩnh vực đào tạo
nghề theo phương thức : Nhà nước trả lãi vay, cơ sở DN thông qua kết quả hoạt động
51
của mình để trả vốn vay, trong thời hạn trung bình từ 7 - 10 năm. Từ năm 2001 đến
năm 2005, tổng nguồn lực tài chính cho dạy nghề của các cơ sở DN trực thuộc thành
phố ước khoảng 1.243 tỷ, trong đó kinh phí ngoài ngân sách là 967 tỷ (chiếm 77,80%).
Bên cạnh đó, thành phố chủ động hợp tác, liên kết đào tạo cùng các DN, nhằm
khai thác khả năng của một số trường có uy tín, nhất là các trường Trung ương đóng
trên địa bàn và các ngành nghề vốn là thế mạnh của các trường này nhằm tăng số lượng
công nhân lành nghề để cung ứng cho thị trường. Chương trình đào tạo có nội dung,
quá trình học tập sản xuất gắn với năng lực thực tế của nhà trường và nhu cầu của DN,
được tiếp cận với công nghệ hiện đại, phù hợp với quá trình sản xuất đã đáp ứng được
nhu cầu sử dụng lao động của nhiều DN.
2.2 Một số vấn đề cấp thiết trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực TP.HM và
nguyên nhân
2.2.1 Một số vấn đề cấp thiết đặt ra
Với vị thế là đô thị lớn của Việt Nam, TP.HCM có vị trí chính trị quan trọng
trong nước, là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, KH - CN, đầu mối giao lưu quốc
tế, đứng đầu cả nước về mức GDP bình quân đầu người, có lợi thế về tiềm năng con
người giàu tính năng sáng tạo, đông đảo đội ngũ lao động lành nghề, lực lượng chất
xám về khoa học tự nhiên, công nghệ và xã hội nhân văn chiếm tỷ trọng lớn so với cả
nước. Bên cạnh đó, TP.HCM có tầng lớp doanh nhân nhạy bén với thị trường, có mối
liên hệ và điều kiện, cho phép TP.HCM chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới nhanh, thu hút mạnh đầu tư bên ngoài. Có thể nói, NNL của TP.HCM có thế mạnh
nổi trội so với cả nước. Do vậy, việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ giúp thành phố phát
triển kinh tế bền vững, đồng thời nhanh chóng vươn lên ngang tầm với các thành phố
lớn khác trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, hiện thành
phố đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn về NNL, đó là :
(cid:141) Thứ nhất : Trình độ học vấn và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố
mặc dù khá cao so với cả nước nhưng vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển
52
kinh tế và so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực. Số lao động qua đào
tạo chiếm 54,21% (lao động chân tay là 45,79%), trong đó, sơ cấp và CNKT không
bằng chiếm 26,13%; lao động có bằng cấp chỉ chiếm 28,08%. Ơ những nước phát triển
thì tỷ lệ giữa lao động có trình độ CMKT và lao động chân tay là : 72% và 28%.Với tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp như vậy thì rõ ràng đây là khó khăn lớn nhất cho
thành phố trong việc phát triển, còn một khoảng cách rất xa để thành phố có thể thực
hiện mục tiêu tiến vào nền kinh tế tri thức. Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
sự cạnh trạnh diễn ra khốc liệt hơn trên phạm vi rộng và sâu hơn ở mọi góc độ, mọi
ngành nghề và lĩnh vực với nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn rất nhiều.
Trong sự cạnh tranh đó, thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung cần phải vượt qua
được rất nhiều khó khăn, nhưng có thể thấy khó khăn lớn nhất là ở NNL. Trong khi
phần lớn các quốc gia trong tổ chức này đều có một đội ngũ lao động hơn hẳn chúng ta
về số lượng và chất lượng, do vậy, để có thể tồn tại được, bắt buộc trước hết, thành phố
cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng NNL mà thể hiện đầu tiên là phải nâng cao
tỷ lê lao động đã qua đào tạo, ít nhất là ngang hoặc phải cao hơn tỷ lệ chung của các
nước khác. Có như vậy mới có cơ hội để khẳng định và thành công trong quá trình hội
nhập và hoàn thành được mục tiêu mà thành phố đã đề ra trong chiến lược phát triển
đến năm 2020.
(cid:141) Thứ hai : Chất lượng lao động đã qua đào tạo của thành phố không cao. Có
thể thấy đây là vấn đề nổi cộm nhất. Một thực tế đáng lo ngại đang diễn ra phổ biến ở
thành phố nói riêng cũng như cả nước nói chung, đó là tình trạng NLĐ sau khi tốt
nghiệp các cơ sở đào tạo (đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ, THCN)
không thể đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng chuyên môn cho nhà tuyển dụng ngay tại
vị trí công việc theo đúng chuyên ngành đã học. Theo số liệu của Bộ GD ĐT (được
khảo sát từ đề tài trọng điểm cấp Bộ do trường ĐH Sư Phạm TP.HCM thực hiện) công
bố tại Hội nghị toàn quốc chất lượng giáo dục ĐH diễn ra tại TP.HCM vào ngày
5/1/2008 thì hơn 50% sinh viên tốt nghiệp các trường CĐ, ĐH đều phải được nhà
tuyển dụng đào tạo lại vì không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn. Rõ ràng TP.HCM
53
không nằm ngoài thực trạng đó vì so với cả nước, thành phố là địa phương dẫn đầu về
số lượng cũng như chất lượng giáo dục ĐH, là nơi tập trung hầu hết những trường ĐH,
CĐ uy tín hàng đầu của Việt Nam. Tình trạng này vừa gây sự lãng phí rất lớn cho xã
hội về chi phí đào tạo, về thời gian và cơ hội nghề nghiệp. Tại hội thảo “Kết nối thông
tin và việc làm” diễn ra trong khuôn khổ Sàn giao dịch việc làm TP.HCM vào ngày
7/06/2008 với sự tham dự của 14 trường đào tạo nghề, 28 đơn vị tuyển dụng lao động
đã nêu lên một thực trạng chung : hầu hết các DN sử dụng lao động đều cho rằng lao
động “tốt nghiệp” từ các địa chỉ đạo tào nghề từ Sơ cấp đến ĐH đều không làm được
việc đúng với nhu cầu chuyên môn vì chương trình đào tạo không đúng với “điều cần
của DN”. Nhiều sinh viên ra trường không đáp ứng được công việc đúng chuyên môn
đào tạo. Sàn giao dịch việc làm phiên thứ 3, năm 2008 TP. Hồ Chí Minh diễn ra liên
tiếp 2 ngày 7 và 8/06/2008 ở 2 địa điểm Nhà Thiếu nhi Thủ Đức và Trung tâm giới
thiệu việc làm thành phố cũng góp phần cho thấy rõ tình hình này. Tổng cộng tham gia
Sàn giao dịch việc làm lần này có 112 DN bằng đàm phán trực tiếp và đàm phán
online, với nhu cầu là 20.000 lao động trong các ngành : Quản lý kinh tế, Ngân hàng,
Tài chính, Thương mại, Marketing, Luật, Phiên dịch, Xuất nhập khẩu, Công nghệ dệt
may, Công nghệ thông tin, Cơ khí, Điện – điện tử và CNKT, LĐ phổ thông các ngành :
Hóa chất, Thủy sản, Dệt may, Thực phẩm, Môi trường, Điện công nghiệp … Nguồn
cung cấp LĐ tại Sàn giao dịch việc làm lần này, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp
của các trường ĐH, CĐ, THCN, các cơ sở dạy nghề trong thành phố và các tỉnh lân
cận. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng chỉ có 1.676 LĐ trong tổng số 7.667 LĐ tham gia
SGDVL có được việc làm mới. Con số LĐ có việc làm (22%) trong Sàn giao dịch lần
này cho thấy NLĐ đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất thấp. Trong bối
cảnh gia nhập WTO, lợi thế NNL không chỉ qua chỉ tiêu số lượng lao động đã qua đào
tạo, mà cái quan trọng quyết định nhất đến chất lượng NNL chính là kỹ năng, trình độ
chuyên môn được đào tạo của đội ngũ lao động. Con số “%” đã qua đào tạo chỉ nói lên
“khả năng” của NNL còn chất lượng của những con số đó mới là cái “thực tế “ mà nhà
tuyển dụng cần, là cái DN, xã hội cần, và là cái quyết định cuối cùng đến chất lượng
54
NNL của một quốc gia, vùng, lãnh thổ. Vào WTO, điều này sẽ là một trong những trở
ngại lớn nhất trong quá trình cạnh tranh và đặc biệt là ảnh hưởng đến việc thu hút vốn
FDI, một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển
của thành phố.
(cid:141) Thứ ba : Có một sự mất cân đối trong cơ cấu NNL, thực trạng thiếu trầm
trọng lao động có trình độ THCN và CNKT vẫn chưa được khắc phục và đang có xu
hướng ngày càng tăng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố hiện hay giữa
CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 2,22 – 0,36 - 1. Theo cơ cấu trên thì cứ 1 lao động trình
độ CĐ, ĐH trở lên thì có 0,36 lao động có trình độ trung cấp và 2,22 lao động có trình
độ CNKT. Tỷ lệ này cho thấy hiện tượng thầy nhiều hơn thợ, nói lên sự mất cân đối
nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ của thành phố hiện nay. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đối
với những nước đang phát triển, tỷ lệ hợp lý phải là : 40-60 CNKT/ 5-10 THCN /1ĐH
hay theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì tỷ lệ hợp lý giữa CNKT/THCN
+ CĐ,ĐH là 7/3. Sự mất cân đối về cơ cấu lao động này dẫn đến một nghịch lý mà lâu
này chúng ta vẫn thường thấy, đó là lao động tốt nghiệp các trường trung cấp ra trường
thì kiếm việc rất nhanh, trong khi đó, lao động tốt nghiệp CĐ, ĐH trở lên thì tỷ lệ thất
nghiệp cao. Tuy nhiên, với tình hình đào tạo hiện nay của thành phố thì thực trạng trên
vẫn không những giảm xuống mà đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới. Theo
thống kê thì năm 2007, quy mô đào tạo cuả thành phố như sau : tỷ lệ lao động trình độ
CNKT – THCN - CĐ, ĐH là 1,04 – 0,24 – 1. Như vậy, số lao động có trình độ trung
cấp tính trên 1 lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ còn 0,24 (giảm hơn so với năm
2006), và số lao động có trình độ CNKT là 1,04, cũng thấp hơn so với năm 2006. Điều
này cho thấy sự mất cân đối một cách trầm trọng giữa “thầy” và “thợ” đang diễn ra ở
TP.HCM theo chiều hướng gia tăng. Một xã hội không thể phát triển nếu chỉ dựa vào
những người thầy mà rất cần những người thợ có năng lực thực sự. Theo số liệu của Sở LĐ
TB và XH TP.HCM, trong năm 2008, nhu cầu của tuyển dụng mới của các DN trên địa bàn thành phố
55
phân theo trình độ như sau :
Bảng 2.14 : Nhu cầu tuyển dụng lao động tại các DN của thành phố năm 2008 phân theo trình độ
Tổng số
STT
Trình độ đào tạo
Tỷ lệ (%)
lao động
Trình độ ĐH trở lên
1
9.093
5,85
THCN
2
5.394
3,47
CNKT có bằng
3
35.129
22,60
CNKT không bằng
4
12.901
8,29
5
Sơ cấp nghiệp vụ và lao động phổ thông
92.921
59,78
TỔNG CỘNG
155.439
100,00
Nguồn: Sở lao động - thương binh và xã hội
Thống kê trên được khảo sát trên tổng số 3.649 đơn vị DN. Tuy chưa phải là con
số tổng quát nhưng thống kê trên cũng cho thấy một thực trạng là trong năm 2008, nhu
cầu về lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ chiếm có 5,85%, trong khi đó, nhu cầu
lao động trình độ CNKT (cả có bằng và không bằng) lại chiếm đến 30,89%. Rõ ràng
điều đó cũng cho thấy rằng, trong quá trình phát triển, nhu cầu về những người “thợ” là
rất lớn.
Tình hình này nếu không được điều chỉnh thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cơ
cấu và chất lượng NNL. Đó là một trong những vấn đề cốt lõi nhất mà trong chiến lược
phát triển NNL thành phố cần phải nhanh chóng giải quyết, đặc biệt trong bối cảnh
Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO. Sự hội nhập làm bùng nổ những ngành,
lĩnh vực đòi hỏi nhiều lao động có trình độ cao, những người “thầy” giỏi, nhưng bên
cạnh đó cũng xuất hiện thêm rất nhiều ngành và lĩnh vực mà ở đó, yêu cầu về đội ngũ
lao động nghề là rất lớn. TP.HCM là một trong những nơi tập trung các KCN, KCX
nhiều nhất, cũng là một trong những địa điểm gia công hàng đầu của Việt Nam và có
uy tín so với một số vùng, lãnh thổ trong khu vực. Tình hình này càng gia tăng khi Việt
Nam hội nhập và mở cửa theo lộ trình gia nhập WTO, do vậy, nhu cầu về một đội ngũ
lao động nghề ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Đó cũng là một yêu cầu không thể thiếu
trong việc thực hiện quy trình “đào tạo theo nhu cầu xã hội” mà chúng ta đã đề cập
56
nhiều trong những năm gần đây.
(cid:141) Thứ tư : NNL có trình độ CMKT cao chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thành phố đang “khát” trầm trọng NNL
có trình độ cao trong các ngành dịch vụ cao cấp : tài chính – ngân hàng, bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử, vận tải kho bãi, du lịch, bất động sản,
chứng khoán…và đặc biệt là lao động quản lý cấp trung và cao. Điều này gắn liền
với một vấn đề nổi cộm khác, đó là : cơ chế đào tạo của thành phố chưa đáp ứng được
yêu cầu của thị trường về cơ cấu ngành nghề, hay nói cách khác quan điểm và chủ
trương “ đào tạo cái xã hội cần chứ không đào tạo theo cái mình có” vẫn chưa được
thực hiện tốt. Việc mở cửa theo lộ trình WTO cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành phố (mục tiêu đến năm 2020 cơ cấu kinh tế của thành phố là : dịch vụ 59,5%;
công nghiệp 40%; nông nghiệp 0,5%) đã làm bùng nổ các ngành dịch vụ, đặc biệt là
những ngành dịch vụ cao cấp. Trong khi đó khả năng đào tạo của thành phố còn hạn chế nên không đủ đáp ứng yêu cầu.
(cid:141) Thứ năm : Một vấn đề nữa đặt ra cho thành phố trong việc giải bài toán giữ
chân NLĐ. Hiện tượng “chảy máu chất xám” vốn đã tồn tại từ nhiều năm nay và
đang có chiều hướng gia tăng. Sự “chảy máu chất xám” chủ yếu chảy từ khu vực Nhà
nước sang khu vực có vốn FDI hoặc khu vực tư nhân. Vấn đề này đã mang lại một hậu
quả hết sức nghiêm trọng đến việc sử dụng và khai thác NNL.
Bảng 2.15 : Tình hình tăng giảm lao động trong năm 2007 ở các DN trên địa bàn
thành phố
Số lao động
Số lao động
Số lao động
Thành phần kinh tế
Ghi chú
tăng (%)
giảm (%)
biến động (%)
1.DNNN
1,01
- 0,24
Giảm (-)
1,37
2.DN hoạt động theo luật DN
41,96
+ 9,84
Tăng (+)
32,12
3. HTX
0,02
+ 0,01
Tăng (+)
0,01
4.Các tổ chức khác
0,38
+ 0,26
Tăng (+)
0,12
5.DN có vốn đầu tư nước ngoài
11,96
+2,55
Tăng (+)
9,41
57
Nguồn : Sở lao động thương binh và xã hội
Qua sự biến động của lao động trong các DN trên địa bàn cho thấy, dù có sự
biến động nhiều nhưng kết quả số lao động trong năm vẫn tăng mạnh trong các khu
vực ngoài nhà nước, đặc biệt là các DN hoạt động theo luật DN (tăng 9,84%) và DN có
vốn đầu tư nước ngoài (tăng 2,55%), trong khi đó, khu vực nhà nước lại giảm mất
0,36% lao động. Sự dịch chuyển đó cho thấy đã có một làn sóng di chuyển lao động từ
khu vực nhà nước sang khu vực dân doanh và có vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề đặt ra
ở đây là cơ chế làm việc, tuyển dụng và chế độ đãi ngộ không tương xứng, môi trường
làm việc không tạo điều kiện NLĐ phát huy chuyên môn và năng lực…là những
nguyên nhân làm cho hiện tượng này vẫn tồn tại từ nhiều năm nay và có xu hướng
ngày càng gia tăng. Một năm, 3 Phó Giám đốc Sở (1 thuộc sở Kế hoạch đầu tư, 1 của
Sở Du lịch và 1 của sở Thương mại thành phố) lần lượt làm đơn xin từ nhiệm. Cũng
trong năm 2007, Viện Kinh tế TP.HCM có tới 20 cán bộ xin nghỉ việc, Khu Quản lý
Giao thông Đô thị số 1, Sở GTCC, trong năm 2007 có đến 33 người nghỉ việc, trong đó
có đến 27 chuyên viên là kỹ sư cầu đường có thâm niên cùng hàng loạt các cuộc “ra đi”
ở nhiều sở ngành khác trên địa bàn TP.HCM là những con số nổi góp phần thể hiện rõ
vấn đề mang tính thời sự này, việc “chảy máu chất xám” đã diễn ra ngay tại đối với các
cơ quan, ban ngành đầu não của thành phố và rất nhiều những “quan chức” lại là người
ra đi. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, tình trạng trên đang có nguy cơ
ngày càng trở nên trầm trọng hơn, bởi lẽ, sự có mặt của nhiều tập đoàn lớn, nhiều DN
lớn trên thế giới tại thành phố sẽ là những nơi “ đầu quân” lý tưởng cho những đối
tượng này với những sự đãi ngộ và một chế độ làm việc hợp lý, hiệu quả. Rõ ràng lúc
này, “chất xám” của thành phố đã trở thành nguồn tài nguyên dành cho các DN thuộc
các quốc gia khác, và điều đó cũng đồng nghĩa với việc lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia
khác, sự cạnh tranh sẽ ngày càng khó khăn hơn cho các DN thành phố, khó lại trở nên
càng khó trong bối cảnh này. Sự “chảy máu chất xám” đang diễn ra ngay tại trên “sân
nhà” và đó là một sự thất thoát rất lớn, và là một sự đầu tư không hiệu quả cho NNL,
bởi vì nếu ta cứ đầu tư nhưng nếu không giữ được người thì đối tượng được hưởng kết
58
quả sẽ lại là “đối thủ”. Và nó trở thành nguy cơ rất lớn. Bên cạnh đó, hội nhập cũng tạo
môi trường thuận lợi hơn, thông thoáng hơn, khuyến khích ra đời nhiều DN tư nhân,
DN hoạt động theo luật DN. Chính vì vậy, nhiều NLĐ vốn có tài năng, trí tuệ nhưng
đang phải chịu những khó khăn, bất mãn chính trong môi trường làm việc hiện tại có
thể tự mình “ra riêng”…Nếu không có những giải pháp khắc phục một cách thỏa đáng
và kịp thời tình trạng trên thì đó sẽ là một trong những thách thức rất lớn của thành phố
nói riêng cũng như của cả nước nói chung trong việc đầu tư và phát triển NNL cho
tương lai.
2.2.2 Nguyên nhân và những nhân tố tác động
Những vấn đề tồn tại trong việc đào tạo và sử dụng NNL thành phố trong thời
gian qua xuất phát từ một số nguyên nhân sau :
- Thứ nhất : mặc dù là trung tâm kinh tế, tài chính lớn nhất cả nước, có GDP và
thu nhập bình quân đâu người cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước (năm 2007 :
2.180USD/người) nhưng về cơ bản, thành phố là một tỉnh thành thuộc một quốc gia
đang phát triển nhưng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp ngang với các nước
chậm phát triển với giá trị sản xuất ngành nông nghiệp còn cao trong tổng GDP, lao
động trong nông nghiệp lớn (56% lao động trong nông nghiệp), thành phố phải chịu
những tác động từ những chính sách chung về giáo dục, đào tạo và về NNL của cả
nước, vì thế, không thể thoát khỏi tình trạng chung là lao động chân tay còn rất lớn và
lao động qua đào tạo thấp (gần 55%).
- Thứ hai : thành phố chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát
triển và sử dụng NNL cho quá trình phát triển thành phố ít nhất là đến năm 2020. Điều
này dẫn đến việc quy hoạch, phát triển và sử dụng NNL giữa các ngành còn chồng
chéo; chưa có những dự báo cũng như nhu cầu lao động trong từng ngành nghề cụ thể.
Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong việc xây
dựng một NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng cũng như của một
quốc gia nói chung và cần phải được đặt lên hàng đầu trong tổng thể các giải pháp phát
59
triển NNL. Đặc biệt, thành phố chưa thực sự chủ động trong việc chuẩn bị NNL đáp
ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh gia nhập WTO nên đã thực sự bị động khi tiến
hành hội nhập, nhất là về NNL yếu và thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng.
- Thứ ba : chất lượng đào tạo trong hệ thống GD – ĐT của thành phố còn chưa
cao. Nội dung và phương pháp giảng dạy trong các trường, cơ sở đào tạo còn nhiều hạn
chế, phương pháp giảng dạy nặng về lý thuyết và nhẹ về thực hành, thường tạo ra sự
thụ động đối với người học; giáo viên thiếu, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, chưa đáp
ứng được nhu cầu giảng dạy… Do đó, chất lượng NNL sau đào tạo thường bất cập.
Người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì
người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền
của mà còn lãng phí về thời gian, cơ hội nghề nghiệp v.v.. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và
gia nhập WTO hiện nay thì những hạn chế, bất cập đó đã và đang là một trở ngại lớn đòi hỏi cần có sự cải
cách và đổi mới cho phù hợp.
Bên cạnh đó, việc đào tạo vẫn chưa theo yêu cầu xã hội vì chưa có sự “hợp
tác” giữa 3 nhà : nhà tuyển dụng, nhà đào tạo và nhà quản lý, do vậy, dẫn đến tình
trạng cung và cầu về lao động chưa gặp nhau. Trong đó, nhà trường vẫn còn còn thụ
động trong việc chủ động nắm bắt nhu cầu thị trường nhằm tìm tạo ra các “sản phẩm”
đầu ra đáp ứng được nhu cầu xã hội mà vẫn loay hoay đào tạo theo cái mình có. Nhà
tuyển dụng lại quá thờ ơ với trách nhiệm của chính mình trong việc đào tạo NLĐ, xem
như đó là trách nhiệm và là bổn phận của riêng nhà đào tạo, chưa chủ động mạnh dạn
“đặt hàng” theo yêu cầu, chưa sẵn sàng hợp tác với nhà đào tạo trong việc hỗ trợ người
học trong quá trình “học đi đôi với hành” … Nhà quản lý chưa có những chính sách hỗ
trợ nhằm định hướng nghề nghiệp cho NLĐ cũng như các biện pháp phù hợp, kịp thời
tạo điều kiện cho nhà đào tạo phát huy tính năng động và cả những chính sách thiết
thực nhằm hỗ trợ cho việc “kết hợp” giữa 2 nhà : đào tạo và sử dụng. Những nguyên
nhân đó dẫn đến tình trạng thừa thì vẫn thừa mà thiếu thì vẫn thiếu lao động trong
nhiều ngành của nền kinh tế.
- Thứ tư : Xã hội nhận thức chưa đúng về đào tạo nghề nghiệp, nên địa vị của
60
trung cấp chuyên nghiệp hay trung cấp nghề trong thực tế không được coi trọng. Chưa
có biện pháp thiết thực nhằm thực hiện chủ trương phân luồng học sinh phổ thông nên
không thu hút được nhiều học sinh vào các lọai hình đào tạo nghề nghiệp. Nguyên nhân
sâu xa của vấn đề là do tâm lý xã hội, còn tồn tại tình trạng coi trọng bằng cấp, không
coi trọng CNKT và THCN trong khi nhu cầu của xã hội về hai đối tượng này ngày
càng tăng cao. Chính vì vậy, dẫn đến sự mất cân đối trầm trọng giữa lao động có trình
độ CĐ, ĐH và THCN, CNKT, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” lâu nay. Đặc điểm nổi
bật của người dân Việt Nam nói chung và người dân thành phố nói riêng là tâm lí trọng
khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc THPT dù có học lực thế nào cũng
đăng kí dự thi vào một trường ĐH nhất định, rất ít học sinh ngay từ đầu lựa chọn giải
pháp học nghề. Điều này xuất phát từ nghịch lý hiện nay ở nước ta nói chung và thành
phố nói riêng cha mẹ lo việc học hành của con cái, đầu tư tiền của cho con học, nhưng
việc làm, quyền lợi của con họ thì không biết sẽ ra sao khi đã học xong. Mọi thứ tốn
kém đều do cha mẹ học sinh chịu, nhưng DN và xã hội hưởng kết quả (có quyền lực
chọn sử dụng theo nhu cầu của mình). Chính vì vậy nên việc chọn ngành nghề đào tạo,
cấp học của học sinh phần lớn là theo ý của cha mẹ học sinh, họ muốn việc làm của
con cái sau khi tốt nghiệp phải xứng đáng với công sức, tiền của mà họ đã đầu tư. Tâm
lý nay càng trở nên phổ biến hơn ở TP.HCM, nơi được xem là trung tâm kinh tế lớn
nhất cả nước với thu nhập bình quân đầu người cao và đặc biệt là địa phương tập trung
nhiều trường ĐH, CĐ lớn và uy tín của cả nước. Muốn thay đổi tâm lý này cần phải có
sự nỗ lực chung từ Nhà nước, DN và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò quản lý,
điều hành, chi phối; DN hấp dẫn, thu hút đội ngũ CNKT và THCN bằng tuyển dụng và
chính sách tiền lương; toàn xã hội cần có cuộc vận động làm cho ai cũng thấy được học
Ngoài ra, hệ thống các trường chuyên nghiệp và dạy nghề thiếu các thông tin dự
nghề có vị trí quan trọng và được xã hội đánh giá cao.
báo về nhu cầu đào tạo theo ngành nghề, thiếu thông tin về thị trường lao động ở thành
phố. Chưa có sự quan tâm, tham gia tích cực vào quá trình đào tạo ở nhà trường của
các cơ sở sử dụng lao động nên chưa tạo được cầu nối giữa đào tạo – sử dụng lao động.
61
Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề không đúng mức và chưa hợp lý, chế độ chính sách lạc
hậu nhưng chưa có những giải pháp thỏa đáng để giải quyết kịp thời những mâu thuẩn
đang tồn tại giữa một bên là đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đông đảo về số lượng
và một bên là khả năng và điều kiện còn rất hạn chế của các cơ sở đào tạo.
- Thứ năm : Chưa có chính sách sử dụng lao động hợp lý, đặc biệt là lao động có
trình độ cao trong khu vực Nhà nước dẫn đến thất thoát, chảy máu chất xám. Môi
trường làm việc và chính sách dùng người còn nhiều bất cập. Thu nhập thấp, không
tương xứng với kết quả lao động và sự cống hiến của NLĐ; cơ chế sử dụng lao động
không hợp lý, không cho phép khai thác được năng lực chuyên môn và thế mạnh của
NLĐ, chưa có cơ chế phát hiện và đãi ngộ nhân tài một cách xác đáng, đặc biệt trong
thời Việt Nam gia nhập WTO, NLĐ có nhiều cơ hội hơn để tìm một công việc mới với
một môi trường làm việc tốt hơn, với những sự đãi ngộ tương xứng…dẫn đến tình
trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực Nhà nước sang các khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài và khu vực dân doanh. Ngoài ra, thành phố cũng chưa thực sự đẩy mạnh chính
sách thu hút người tài từ khắp nơi trên đất nước về làm việc ở đây, đặc biệt là đội ngũ
lao động trình độ cao đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài.
- Thứ sáu : Đầu tư cho giáo dục – đào tạo chưa cao và chưa hiệu quả. Mặc dù
những năm gần đây tỷ lệ đầu tư cho giáo dục – đào tạo hàng năm của thành phố có tăng
theo sự tăng trưởng kinh tế nhưng sự đầu tư đó vẫn còn quá thấp (năm 2005 : 0,83%
GDP ; năm 2006 : 0,89% GDP; năm 2007 : 0,91% GDP). Nếu so với tỷ lệ đầu tư của
những nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới như Mỹ : 6,7% GDP, Hà Lan :
6,7% GDP, Nhật Bản : 5% GDP, Pháp : 5,7% GDP; Xingapore : 18,1% GDP, Malaixia
: 19,4% GDP, Hàn Quốc : 19,6% GDP, Trung Quốc : 14,6% GDP [phụ lục 8,9] thì
chúng ta dễ dàng nhận thấy, đó là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến chất lượng
62
giáo dục đào tạo của thành phố vẫn còn thấp.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM
TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO
3.1 Định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đến năm 2020
3.1.1.Định hướng phát triển kinh tế – xã hội
1. Phát triển phải mang tính bền vững. Bền vững trong lĩnh vực kinh tế là đảm
bảo cho nền kinh tế thành phố phát triển lâu dài. Do đó, cần tạo các nền tảng cơ bản
cho phát triển dài hạn, bền vững và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Đặc biệt chú trọng đến bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.
2. Phát triển kinh tế phải hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Đặt con người
vào trung tâm của phát triển và các mục tiêu sau cùng là nhằm phát triển con người.
Văn hóa vừa là nền tảng vừa là động lực cho phát triển kinh tế. Sự giàu có về vật chất
phải đi liền với sự phát triển tương xứng về đời sống tinh thần, để đảm bảo cho một xã
hội phát triển văn minh, hiện đại.
3. Kinh tế TP.HCM là kinh tế đô thị, khác với kinh tế quốc gia. Phát triển đô thị
và phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau. Thực chất của phát triển kinh tế thành
phố là giải quyết các vấn đề phát triển đô thị.
4. Phát triển thành phố phải gắn với phát triển vùng. Thành phố là hạt nhân phát
triển của Vùng KTTĐPN. Do đó, các quy họach, định hướng phát triển của thành phố
phải gắn kết chặt chẽ với toàn vùng.
5. Giai đoạn sắp tới là giai đoạn mà kinh tế cả nước sẽ hội nhập hơn nữa vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Là thành viên WTO, thành phố sẽ tiếp tục đàm phán, ký
kết và thực hiện các cam kết mậu dịch tự do với các nước khu vực. Kế hoạch và chiến
lược phát triển thành phố cần đặt trong bối cảnh hội nhập như trên. Vấn đề nâng cao
63
năng lực cạnh tranh, nhất là của DN cần xem là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Quan điểm của thành phố là chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển. Phải sử dụng cho
được công cụ hội nhập đề làm đòn bẩy phát triển thành phố.
3.1.2 Mục tiêu phát triển TP. HCM đến năm 2020
Căn cứ xây dựng định hướng chiến lược về phát triển thành phố được dựa trên
các văn bản pháp lý quan trọng như Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị (20-NQ/BCT)
ngày 18/11/2002 về phát triển TP.HCM, Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị (53-NQ/BCT)
ngày 29/08/2005 về phát triển Đông Nam bộ và Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam,
Quyết định 146/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 13/08/2004 về phát triển Vùng Kinh tế
Trọng điểm phía Nam, Quyết định 123/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 29/05/2006 về
triển khai thực hiện Nghị Quyết 53 của Bộ Chính trị về phát triển Đông Nam bộ và
Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam, các văn kiện đại hội Đảng bộ thành phố, và tham
khảo đến các định hướng quy họach phát triển thành phố trước đây. Ngòai ra, các định
hướng và mục tiêu đề ra còn căn cứ vào phân tích thực trạng KT - XH thành phố, bối
cảnh trong và ngoài nước tác động lên quá trình phát triển thành phố trong tương lai.
Mục tiêu tổng quát phát triển thành phố là xây dựng TP.HCM trở thành một
thành phố XHCN văn minh, hiện đại; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Phát triển nhanh và bền vững. Xây dựng thành phố trở thành trung tâm lớn
về nhiều mặt của đất nước và khu vực Đông Nam Á.
(1) Về kinh tế, thành phố lấy dịch vụ và công nghiệp giá trị gia tăng cao làm
nền tảng phát triển của mình. Là một trung tâm kinh tế lớn nhất nước, là nơi hội tụ của
giới kinh doanh. Xây dựng thành phố thành nơi thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong
và ngoài nước đặt trụ sở kinh doanh của mình để tiến hành các hoạt động kinh doanh
trên phạm vi cả nước và các nước trong khu vực; từng bước trở thành trung tâm công
nghiệp, trung tâm tài chính và thương mại của khu vực Đông Nam Á.
(2) Về đô thị, xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, là một thành phố xanh và
sạch, là một đô thị sông nước phù hợp với thổ nhưỡng Nam bộ. Phát triển thành phố
64
thành một đô thị mở, nhiều trung tâm. Giới hạn quy mô dân số thành phố ở mức phù
hợp (10 triệu người không kể khách vãng lai). Thành phố là hạt nhân của Vùng đô thị
TP.HCM, nối kết với các tỉnh xung quanh.
(3) Về KH - CN, xây dựng thành phố thành một trung tâm KH - CN lớn của cả
nước và của Đông Nam Á. Thành phố tập trung chủ yếu vào nghiên cứu ứng dụng các
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước. Tăng cường tiềm lực khoa học của thành phố, khi đủ
mạnh sẽ đi vào chọn lọc nghiên cứu các nội dung khoa học và công nghệ qui mô lớn,
hiện đại, góp phần tích cực tạo ra bước phát triển đột phá vào những năm giai đoạn
2015-2020.
(4) Về GD - ĐT, y tế, thành phố sẽ là một trung tâm lớn về GD - ĐT chất lượng
cao và y tế kỹ thuật cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Nâng chất lượng GD
của thành phố lên bằng với các nước trong khu vực. Thành phố là nơi tập trung các chi
nhánh, cơ sở ĐT có uy tín của nước ngoài ở Việt Nam.
(5) Về xã hội, xây dựng thành phố thành một thành phố kiểu mẩu XHCN kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Chú trọng vấn đề giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng, phát triển lấy con người làm trung tâm.
(6) Về văn hóa, xây dựng thành phố thành trung tâm văn hóa lớn của cả nước,
phát triển các lĩnh vực văn hóa đỉnh cao. Kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống và
văn hóa hiện đại. Phát triển mạnh các ngành văn hóa giải trí; đưa văn hóa thực sự là
nền tảng của sự phát triển thành phố.
(7) Về an ninh chính trị và trật tự xã hội, phải luôn luôn được ổn định và phải
được xem như là tiền đề của sự phát triển.
Có thể hình dung một cách tổng quát, sau năm 2020, thành phố phải thật sự trở
lại vị trí “Hòn ngọc Viễn đông”, là một trong những thành phố hiện đại, phát triển
nhanh và năng động nhất khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương.
TP.HCM sẽ vươn lên trở thành một trung tâm đa chức năng, trong đó nổi bật là một
trung tâm tài chính và dịch vụ cao cấp của cả nước. Cơ cấu kinh tế của thành phố sau
65
năm 2020 sẽ giống cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế phát triển (hậu công nghiệp), với
các ngành dịch vụ cao cấp giữ vai trò chi phối. Thành phố sẽ trở thành đô thị mang tính
toàn cầu. Đời sống kinh tế thành phố gắn chặt với đời sống kinh tế thế giới thông qua
vô số các mối liên kết kinh tế trên mạng viễn thông và internet toàn cầu, là cửa ngõ
giao lưu quan trọng nhất về kinh tế của Việt Nam với bên ngoài.
3.1.3 Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố đến năm 2020
Dự báo đến năm 2020, cơ cấu GDP giữa các ngành của thành phố sẽ là :
Bảng 3.1 : Cơ cấu GDP của TP.HCM năm 2010 và 2020
2007
2010
2020
Tổng số (%)
100,0
100,0
100,0
Nông nghiệp (%)
1,0
0,8
0,5
Công nghiệp – xây dựng (%)
47,2
47,5
40,0
Dịch vụ (%)
51,8
51,7
59,5
Nguồn : Viện kinh tế thành phố
Về cơ cấu kinh tế, sau 2010, công nghiệp và xây dựng cơ bản ổn định, tiếp tục
gia tăng tỉ trọng dịch vụ trong GDP thành phố, tiếp tục giảm dần nông nghiệp, chuyển
đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp chất lượng cao. Dự báo cơ cấu kinh tế cụ thể
của thành phố đến năm 2020 :
- Công nghiệp và xây dựng: 40%
- Dịch vụ: 59,5%
- Nông nghiệp: 0,5%
Trong công nghiệp và xây dựng, tiếp tục đầu tư cho các ngành công nghiệp cơ
khí chế tạo, điện tử, tự động, viễn thông, tin học. Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công
nghiệp, phát triển các ngành công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano.
Trong nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng không còn sản xuất nông nghiệp
thuần túy, phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp. Đến 2015 trở thành trung tâm
cung cấp giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao cho cả nước. Đến 2020, trở thành
66
trung tâm công nghệ sinh học nông nghiệp của khu vực Đông Nam Á và có lĩnh vực
vươn tầm khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Khuyến khích phát triển các ngành nông
nghiệp sản xuất ra sản phẩm với hàm lượng khoa học kỹ thuật và giá trị cao.
Trong dịch vụ, tiếp tục duy trì sự tăng trưởng của 9 nhóm ngành mũi nhọn. Giai
đoạn 2010- 2020, tập trung cho 6 nhóm ngành sau : tư vấn tài chính- tín dụng- ngân
hàng- bảo hiểm; dịch vụ bưu chính- viễn thông trong đó đẩy mạnh việc kinh doanh
mua bán sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông; dịch vụ tư vấn; KH - CN; y tế
và tư vấn GD - ĐT chất lượng cao.
3.2 Định hướng và một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
gia nhập WTO
3.2.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và để đáp ứng yêu cầu phát triển trong
thời kỳ gia nhập WTO, cơ cấu NNL của thành phố phải có sự chuyển dịch nhằm đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Sự chuyển dịch trước tiên phải được thực hiện
theo hướng lao động phổ thông sẽ giảm, lao động có trình độ chuyên môn cao sẽ gia
tăng, lao động trong khu vực 1 giảm, lao động khu vực 2 và đặc biệt là khu vực 3 phải
tăng nhanh. Điều này đòi hỏi GD – ĐT của thành phố cũng phải có sự điều chỉnh trong
nội dung, phương thức ĐT để đảm bảo cung cấp một NNL đủ về số lượng, cao về chất
lượng, đáp ứng theo yêu cầu của xã hội. Đó phải là một NNL tinh thông nghiệp vụ, có
kỹ năng, am tường văn hóa, lịch sử dân tộc, hiểu biết luật pháp, năng động, sáng tạo, có
trình độ, năng lực tiếp thu và ứng dụng KH - CN, có tác phong công nghiệp và có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Ngoài sự đổi mới
trong lĩnh vực GD - ĐT thì vấn đề về tư duy, phương pháp quản lý điều hành một thành
phố dịch vụ, công nghiệp hiện đại của đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo thành phố cũng
phải được đổi mới, nâng tầm, đủ khả năng điều hành mọi hoạt động của Thành phố. Đó
67
cũng chính là mục tiêu mà thành phố cần phải đạt được trong việc phát triển NNL đến năm 2020.
- Về quy mô dân số
Mặc dù tốc độ tăng dân số giai đoạn 2000-2005 rất cao so với các giai đoạn
trước nhưng những thay đổi trong mấy năm gần đây cho thấy tốc độ này sẽ giảm dần
trong giai đoạn 2006-2010 và dần ổn định trong giai đoạn 2010-2020. Trước mắt tăng
dân số cơ học vẫn là yếu tố chính làm tăng dân số trên địa bàn thành phố nhưng tốc độ
tăng cơ học sẽ giảm dần do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố và sự
phát triển của các tỉnh trong vùng. Trong thời gian tới các chỉ tiêu dân số chính của
thành phố được dự báo như sau :
Bảng 3.2 : Dự báo về dân số TP.HCM năm 2010 và 2020
Số TT
Mục tiêu
2005
2010
2020
1
Qui mô dân số (1000 người)
6.240
7.200
9.200
2
Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên (%)
1,15
1,1
1,0
3
Tỉ lệ tăng cơ học (%)
2,0
1,5
0,9
Nguồn : Theo tính toán của Viện kinh tế thành phố
(cid:142)Quy mô dân số của thành phố năm 2010 sẽ là 7,2 triệu người và năm 2020 sẽ
ở mức 9,2 triệu người, trong đó trên 90% là dân số đô thị.
(cid:142)Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhẹ và ổn định ở mức 1% vào năm 2020.
(cid:142)Tỉ lệ tăng dân số cơ học giảm và đạt mức 1,5% năm 2010, sau đó giảm nhẹ và
đạt mức 0,9%/ năm vào năm 2020.
- Về lao động
Theo tính toán của Viện kinh tế thành phố, dân số thành phố sẽ là 7,2 triệu
người năm 2010 và đến năm 2020 sẽ là 9,2 triệu người. Trong đó, NNL của thành phố
tương ứng sẽ là 4.877.280 người (chiếm 67,74% tổng dân số) năm 2010 và 6.213.680
68
người năm 2020 (chiếm 67,54% tổng dân số).
Chỉ tiêu
2005
2010
2020
Tốc độ tăng trưởng
bình quân (%)
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
GĐ
GĐ
(người)
(%)
(người)
(%)
(người)
(%)
2006 -
2011 -
2010
2020
I. Dân số
6.239.938
100,00
7.200.000
100,00
9.200.000
100,00
2,9
2,5
toàn TP
II. Nguồn lao
4.164.161
67,67
4.877.280
67,74
6.290.040
68,37
3,3
2,6
động
Bảng 3.3 : Dự báo về dân số và NNL của TP.HCM năm 2010 và 2020
Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố
Trong thời gian tới nhu cầu về lao động của thành phố sẽ tiếp tục gia tăng. Tuy
nhiên, do cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng giảm tỉ trọng các ngành thâm dụng lao
động phổ thông, tăng tỉ trọng các ngành kỹ thuật cao nên nhu cầu về lao động sẽ tăng
chậm hơn giai đoạn trước đây. Trong đó, nhu cầu về lao động trình độ cao sẽ tăng
tương đối so với lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế thành phố trong 15 năm tới sẽ chuyển dịch theo
hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Do đó, cơ cấu lao động trên địa bàn thành
phố sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng lao động ở các ngành dịch vụ và
giảm dần tỉ trọng lao động trong nông nghiệp. Riêng đối với khu vực công nghiệp thì
từ đây đến cuối những năm 2010 tỉ trọng lao động trong công nghiệp sẽ tăng chậm và
sau đó sẽ giảm dần. Dự báo trong giai đoạn 2006-2020 NNL của thành phố được phân
bố như sau :
(cid:142)Tỉ trọng lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp: công nghiệp-xây dựng: thương
mại dịch vụ lần lượt là 2%: 36%: 62%.
(cid:142)Bình quân mỗi năm thành phố giải quyết việc làm cho khoảng 230 đến 240 ngàn
lao động, trong đó, có 100 ngàn việc làm mới.
(cid:142)Tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 5,8% năm 2006 xuống còn 5% vào năm 2010 và 4% vào
69
năm 2020.
(cid:142)Năng suất lao động chung của các ngành kinh tế trên địa bàn thành phố tăng bình
quân 10%/năm.
(cid:142)Tỉ lệ lao động qua ĐT nghề trong tổng lao động đang làm việc đạt trên 55% vào
năm 2010 và đạt trên 65% vào năm 2020 [20,70].
3.2.2 Nhu cầu về nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020
3.2.2.1 Nhu cầu NNL trong cơ cấu kinh tế thành phố đến 2010 và 2020
Trên cơ sở ước tính dân số và lao động của thành phố từ nay đến năm 2020, với
mục tiêu đạt được cơ cấu lao động phù hợp với trình độ phát triển, nhu cầu nhân lực
70
của thành phố cho một số ngành cụ thể như sau :
Bảng 3.4 : Nhu cầu về NNL một số ngành trọng yếu năm 2010 và 2020 trên địa bàn
TP.HCM
Đơn vị : người
CHỈ TIÊU
STT
NỘI DUNG
2005
2010
2020
I DỊCH VỤ
68.292
97.545
188.701
1. Tài chính (tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo
(1,64%)
(2%)
(3%)
hiểm, thuê và cho thuê tài chính)
215.703
341.409
503.203
2. Du lịch, khách sạn, nhà hàng
(5,18%)
(7%)
(8 %)
248183
341.409
629.004
3. Vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng
(5,96%)
(7 %)
(10%)
5.990
8.640
27.600
4. Y tế (bác sĩ)
(9,6 bác sĩ/
(12 bác sĩ/
(30 bác sĩ/
10.000 dân)
10.000 dân)
10.000 dân)
248.183
487.728
754.805
5. Bưu chính viễn thông và CNTT
(5.96%)
(10%)
(12%)
244.019
146.318
314.502
6. Dịch vụ tư vấn
(5,86%)
(3%)
(5%)
Toàn ngành:
170.704
251.602
7. Giáo dục và đào tạo chất lượng cao
140.748
(3,5 %)
(4 %)
(3,38%)
II. CÔNG NGHIỆP
256.928
390.182
566.104
1. Cơ khí chế tạo máy
(6,17%)
(8 %)
(9 %)
219.451
341.409
629.004
2. Điện tử – viễn thông
(5,27%)
(7%)
(10%)
301.485
438.955
754.805
3. Công nghệ thông tin
(7,24%)
(9%)
(12%)
112.848
146.318
314.502
4. Công nghiệp hóa chất và dược phẩm
(2,71%)
(3%)
(5%)
203.211
243.864
377.402
5. Chế biến lương thực, thực phẩm giá trị gia
(4,88%)
(5%)
(6%)
tăng cao
III.3 NÔNG NGHIỆP
71
64.960
21.000
31.450
1. Ứng dụng công nghệ sinh học (Giống cây
(1.56%)
(0,5%)
(0,5%)
trồng, vật nuôi)
Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố. Số liệu dự báo nguồn lao động năm 2010 :
4.877.280 và năm 2020 : 6.290.040
3.2.2.2 Nhu cầu NNL chất lượng cao cho thành phố từ nay đến 2010 và 2020
Bảng 3.5 : Nhu cầu NNL chất lượng cao cho TP.HCM đến năm 2010 và 2020
CHỈ TIÊU
NỘI DUNG
2010
2020
1.Nhân lực quản lý, điều hành (từ giám đốc và tương
9.755
18.870
đương trở lên) trong các nhóm ngành dịch vụ qua đào
(0,2%)
(0,3%)
tạo
2.Cán bộ quản lý nhà nước trong các ngành, lĩnh vực
170.705
188.701
(3,5%)
(3%)
3.Các nhà khoa học, chuyên gia trong tất cả các lĩnh
10.000 tiến sĩ
50.000
vực
Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố
Qua bảng số liệu trên, ta thấy, nhu cầu NNL của thành phố đến năm 2020 là rất
lớn. Trong đó, các ngành dịch vụ tăng mạnh, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin,
ngành du lịch, khách sạn; trong lĩnh vực công nghiệp thì dẫn đầu vẫn là ngành công
nghệ thông tin (12%), kế đến là điện tử – viễn thông (10%). Lĩnh vực nông nghiệp nhu
cầu về lao động giảm, điều này cũng phù hợp với cơ cấu kinh tế của thành phố trong
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và quá trình gia nhập WTO. Riêng về lĩnh
vực lao động chất lượng cao, nhu cầu đạt 50.000 tiến sĩ vào năm 2010 là một con số
khá lớn, đòi hỏi thành phố phải có chiến lược đào tạo và phát triển một cách nghiêm
72
túc, chất lượng.
3.2.3 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực TP.HCM đáp ứng
yêu cầu gia nhập WTO
Chiến lược phát triển KT - XH trong bối cảnh gia nhập WTO đặt ra yêu cầu xây
dựng và phát triển NNL có chất lượng ngày càng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển
của thành phố. Để làm được điều đó có thể thực hiện một số giải pháp :
3.2.3.1 Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng, phát
triển và nâng cao chất lượng NNL của thành phố trong quá trình đổi mới và hội
nhập quốc tế hiện nay; xây dựng, triển khai chiến lược phát triển NNL thành phố từ
nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2030
(cid:141) Thứ nhất : Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng,
phát triển và nâng cao chất lượng NNL của thành phố trong quá trình đổi mới và hội
nhập quốc tế hiện nay
Trong quá trình đổi mới và bước vào “sân chơi” toàn cầu, so với nhiều quốc gia,
vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới, thành phố không có nguồn lực gì nổi trội.
Do đó, để quá trình phát triển và gia nhập WTO thành công, đưa HCM trở thành thành
phố XHCN, văn minh, hiện đại; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phát triển nhanh và bền vững, trở thành trung tâm lớn về nhiều mặt của đất nước và
khu vực Đông Nam Á như mục tiêu mà thành phố đã đề ra thì nhân tố quyết định cho sự
thành công đó chính là NNL. NNL thành phố vốn còn yếu kém về nhiều mặt : số
lượng, chất lượng và cơ cấu. Những bất cập đó đã và đang ngày càng bộc lộ rõ và trở
thành nhân tố hạn chế sự phát triển của thành phố thời gian qua. Nếu không khắc phục
kịp thời, nhanh chóng những yếu kém, hạn chế của NNL thì chắc chắn đó sẽ là nhân tố
73
kìm hãm sự phát triển của thành phố trong thời gian tới, khi Việt Nam đang ngày càng
hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Vì vậy, để có
thể hội nhập thành công và đạt được mục tiêu đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và
phát huy nguồn lực con người, xây dựng NNL thành phố ngày càng nâng cao về chất
lượng được xem là nhân tố quyết định nhất và là “chìa khóa” quan trọng để đi đến
thành công trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
(cid:141) Thứ hai : Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển NNL thành phố từ nay
đến năm 2020 và tầm nhìn 2030
Trên cơ sở định hướng về phát triển KT - XH thành phố đến năm 2020, cần phải
xây dựng chiến lược phát triển NNL thành phố đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030. Nội dung và cách thức triển khai chiến lược phải bảo đảm tính toàn diện phù hợp
với nhu cầu và năng lực của thành phố. Trong đó, cần đề ra và thực hiện các mục tiêu
cụ thể theo lộ trình, tất nhiên, các mục tiêu nói trên có thể được điều chỉnh, thay đổi tùy
theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của
thành phố trong thời gian tới.
Để làm được điều này, trước mắt, cần phải có sự nhất quán trong khâu tổ chức
quản lý, đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ trong đường lối, chính sách giữa Bộ giáo dục,
sở giáo dục, các cơ quan lãnh đạo của thành phố, các DN trên địa bàn và đặc biệt là các
cơ sở đào tạo. Trong chiến lược này nhất thiết cần phải quy hoạch lại toàn bộ hệ thống
đào tạo NNL thành phố trong thời gian qua với cơ cấu ngành nghề, số lượng, chất
lượng và tất cả những biện pháp, chính sách đầu tư, tổ chức đào tạo… nhằm đạt được
những mục tiêu đề ra. Chiến lược được xây dựng phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp
với điều kiện, năng lực của thành phố nhưng quan trọng nhất phải cung ứng NNL có
chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố nói riêng cũng như cho cả nước nói
chung. Điểm quan trọng nhất của chiến lược đó là mục tiêu hướng đến thị trường.
Nói cách khác, chiến lược này phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường trong bối cảnh
hội nhập và phát triển, từ đó, xây dựng các giải pháp cụ thể.
74
3.2.3.2 Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
Với tỷ lệ 54% lao động có trình độ CMKT (trong đó lao động có bằng cấp chỉ
28%) như hiện nay thì rõ ràng là một yếu kém cho thành phố trong quá trình phát triển
và hội nhập. Đây là vấn đề mang tính vĩ mô và dài hạn, vì vậy, khó có thể đạt được
mục tiêu này trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề căn cơ và cốt lõi
đối với NNL thành phố nói riêng cũng như của một quốc gia nói chung, do vậy, cần
phải có hệ thống giải pháp đồng bộ với lộ trình cụ thể, phù hợp và hiệu quả nhằm đạt
được mục tiêu này. Có thể thực hiện một số giải pháp sau :
- Tăng số lượng, quy mô, cơ cấu và chất lượng hệ thống các trường ĐH, CĐ,
THCN và các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề
này nhưng xét cho cùng, nếu muốn tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo thì không thể không
tăng quy mô hệ thống các cơ sở đào tạo, đây là vấn đề bắt buộc. Tuy nhiên, đi kèm với
việc tăng quy mô, số lượng các cơ sở đào tạo dứt khoát phải có một cơ chế quản lý,
giám sát chặt chẽ và hiệu quả của các cơ quan, ban ngành chức năng nhằm tránh tình
trạng mở trường tràn lan, kém hiệu quả và lãng phí. Chúng ta phải thực hiện theo tinh
thần “nhanh nhưng không vội”.
- Để thực hiện được điều này cần phải phải giải quyết các vấn đề về : tăng số
lượng và chất lượng giảng viên; tăng cường và hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất phục
vụ hoạt động giảng dạy; đặc biệt, phải nâng cao nhận thức của người dân trong việc ý
thức trang bị nghề nghiệp cho bản thân, làm cho họ nhận thức được học tập vừa là
quyền lợi đồng thời là nghĩa vụ, trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội để
từ đó, họ có định hướng và nỗ lực trong việc cố gắng trang bị cho mình một nghề nhất
định bằng việc học tập trong một cơ sở đào tạo nào đó, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của bản thân. Chỉ có nghề nghiệp mới là điểm tựa vững chắc nhất cho tương lai,
học là con đường duy nhất để sống và làm việc thành công. Để làm được điều này cần
phải có sự nỗ lực của toàn xã hội và các chính sách cụ thể, thiết thực của các cơ cơ
quan, ban ngành chức năng có liên quan và đặc biệt là của các cơ sở đào tạo nhằm hỗ
trợ và tạo điều kiện cho người dân có thể dễ tiếp cận hơn với các loại hình giáo dục đào
75
tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của người học.
- Đẩy mạnh hoạt động dạy nghề về số lượng, và đặc biệt là chất lượng nhằm thu
hút một lực lượng lớn lao động xã hội tham gia vào. Làm tốt điều này góp phần nâng
cao tỷ lệ lao động qua đào tạo ở thành phố (vì hiện nay tỷ lệ lao động có trình độ
CNKT và THCN ở thành phố còn rất thấp) một các hiệu quả hơn, ít tốn kém, ít lãng phí
hơn và nhanh hơn. Điều này càng trở nên bức thiết hơn với thực tế hiện nay của thành
phố là đang thiếu trầm trọng đội ngũ lao động này. Vì vậy đây là giải pháp rất quan
trọng nhằm tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố
trong hội nhập.
3.2.3.3 Nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đào tạo nhằm tăng chất lượng
lao động đã qua đào tạo, khắc phục tình trạng lao động sau đào tạo vẫn không thể
làm việc theo nhu cầu của nhà sử dụng trong chính chuyên ngành đã học, giảm
thiểu quá trình đào tạo lại gây lãng phí cho về tiền của, thời gian …cho người học
và xã hội.
(cid:141) Đầu tư nâng cao mạng lưới cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng hệ thống
giáo dục
Nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục hướng đến chuẩn tiên tiến để cung cấp
cho học sinh các kiến thức cơ bản và kiến thức ứng dụng, từ đó nhằm tạo tiền đề ban
đầu để chuẩn bị đào tạo đội ngũ NNL theo nhu cầu xã hội. Có thể thực hiện bằng các
giải pháp cơ bản như sau :
- Cải thiện và nâng cấp đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất các trường từ mẫu giáo,
tiểu học, THCS và THPT. Cung cấp sách giáo khoa, tài liệu học tập và các trang thiết
bị, phòng thí nghiệp, đồ dùng dạy học cho học sinh.
- Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên các cấp đã tồn tại từ nhiều năm và có xu
hướng ngày càng gia tăng bằng những biện pháp cụ thể như : phối hợp giữa Sở giáo
dục và các trường trên địa bàn nhanh chóng xây dựng chiến lược giáo dục cho từng giai
đoạn (5 năm, 10 năm, 20 năm), trong đó, cần tính toán và dự báo nhu cầu về học sinh,
giáo viên cụ thể cho từng năm học, từng giai đoạn và những yếu tố tác động đến. Trên
76
cơ sở đó, xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ giáo viên, tránh tình trạng bị động vì
thiếu giáo viên như hiện nay; Sở giáo dục đặt chỉ tiêu giáo viên cho các trường ĐH,
CĐ, trung cấp sư phạm trong từng năm học căn cứ trên chỉ tiêu dự báo để các trường sẽ
tự tìm giải pháp nhằm đạt chỉ tiêu mà Sở giáo dục đề ra; Sở giáo dục nên mở rộng đối
tượng xét tuyển giáo viên cho những người không nằm trong diện hộ khẩu, KT3, thay
vào đó là những thỏa thuận cơ bản về quyền và nghĩa vụ cũng như những chứng minh
của người dự tuyển sẽ làm việc trong một thời gian nhất định. Điều này sẽ huy động
được đội ngũ giáo viên đông đảo hơn từ khắp nơi có mong muốn giảng dạy; huy động
đội ngũ giáo viên đã về hưu nhưng còn đủ sức khỏe, lòng yêu nghề, tiếp tục công tác
giảng dạy dưới dạng hợp đồng thỉnh giảng.
- Nâng cao chất lượng giáo viên giáo viên bằng cách nâng cao chất lượng sinh
viên các trường sư phạm, thường xuyên chuẩn hóa chất lượng đội ngũ giáo viên, bồi
dưỡng, đào tạo lại giáo viên các cấp. Tổ chức các chương trình đào tạo, đào tạo lại và
bồi dưỡng nghiệp vụ đối với những giáo viên chưa đạt chất lượng bằng ngân sách
thành phố; thường xuyên tổ chức các cuộc thi chất lượng giáo viên dạy giỏi cấp quận,
huyện để nâng cao trình độ và khả năng sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy
đồng thời các trường phổ thông cần được cung cấp các phương tiện dạy học hiện đại để
có thể đổi mới phương pháp dạy học một cách hữu hiệu.
- Nâng cao đời sống cho đội ngũ giáo viên bằng chính sách tiền lương hợp lý.
(cid:141) Cải tiến hệ thống đào tạo của Thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của
thị trường trong bối cảnh gia nhập WTO
Hệ thống đào tạo cần phải được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, từ
đó có thể tạo ra một NNL chất lượng cao có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển KT –
XH trong thời kỳ mới – hội nhập WTO. Cải tiến theo những hướng cụ thể sau:
Về chuyên môn, tay nghề của NNL
- Phát huy vai trò Hội đồng giáo dục ĐH của Thành phố trong việc góp ý với Bộ
giáo dục và đào tạo điều chỉnh chương trình, phương pháp giảng dạy ở bậc ĐH, CĐ,
77
trung cấp chuyên nghiệp. Phấn đấu 2020, 100% các trường đạt tỉ lệ giảng viên trên sinh
viên là 1/20, tăng số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ nhằm đảm bảo chất lượng đào
tạo.
- Rà soát và quy hoạch lại hệ thống trường CĐ, ĐH trên địa bàn TP.HCM theo
hướng nhà nước tập trung đầu tư nâng cấp một số trường trọng điểm quốc gia tiến tới
đat chuẩn quốc tế và khu vực với quy mô và cơ cấu ngành nghề phù hợp với nhu cầu
đào tạo NNL cho thành phố và các tỉnh phía Nam. Khuyến khích phát triển hệ thống
trường dân lập, tư thục đồng thời tăng cường hệ thống quản lý của Nhà nước nhằm
ngăn chặn sự xuất hiện tràn lan nhiều trường kém chất lượng.
- Nhanh chóng hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống các cơ sở dạy nghề theo hướng
xã hội hóa, đa dạng hóa nhằm phục vụ yêu cầu phát triển KT – XH trong thời kỳ hội
nhập. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển hệ thống trung tâm dạy nghề, đào tạo
nghề trong DN, các cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng và ngày càng phong phú của thị trường lao động.
- Đẩy mạnh sự hợp tác liên kết giữa 3 đơn vị : cơ quan quản lý Nhà nước, cơ sở
đào tạo và các đơn vị sử dụng NNL nhằm cập nhật thông tin nhu cầu của xã hội, từ đó
tiến hành quy hoạch số lượng và cơ cấu lao động trong từng ngành nghề cụ thể phù hợp
nhu cầu xã hội; điều chỉnh nội dung giảng dạy hướng mạnh vào kỹ năng thực hành
chuyên môn của người học, giảm tỷ lệ sinh viên ra trường phải đào tạo lại. Trong đó :
+ Nhà trường cần phải nhanh nhạy nằm bắt nhu cầu thị trường và xu hướng phát
triển kinh tế để nâng cao năng lực đào tạo theo nhu cầu đồng thời cần phải chủ động
trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm của mình. Đây được xem là nhân tố tích cực
nhất. Để tồn tại tại trong thời kỳ hội nhập, ngoài những kiến thức cơ bản về chuyên
môn, nhà trường cần bồi dưỡng thêm cho sinh viên các kỹ năng khác (kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng tư duy và thay đổi bản thân, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc
nhóm…), tích cực mở rộng mối quan hệ nhà trường - DN, phải cho sinh viên có sự cọ
xát ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường để khi ra trường, sinh viên mới không bị
78
ngỡ ngàng và thiếu nhiều kỹ năng mà DN cần.
+ Cơ quan quản lý nhà nước phải có những chính sách phù hợp và thông thoáng
tạo điều kiện để nhà trường thực hiện tốt hoạt động của mình; thường xuyên tổ chức
những chương trình, hoạt động nhằm phổ biến và cập nhật những thông tin mới nhất về
thị trường, về nhu cầu lao động xã hội và đặc biệt là định hướng, chiến lược phát triển
KT - XH của thành phố trong từng giai đoạn, từ đó giúp người học có những định
hướng nghề nghiệp cho mình và nhà đào tạo nắm bắt được xu hướng đào tạo. Đồng
thời cần phải ban hành các chính sách quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà sử
dụng NNL về việc hợp tác, hỗ trợ các cơ quan đào tạo trong quá trình đào tạo lao động,
vì xét cho cùng, nhà sử dụng là người cuối cùng hưởng kết quả đào tạo của xã hội, do
vậy, học không thể thờ ơ hoạt động của các cơ quan đào tạo.
+ Nhà sử dụng NNL cần phải trực tiếp “đặt hàng” cho các cơ sở đào tạo với số
lượng và yêu cầu cụ thể đồng thời phải có trách nhiệm hỗ trợ sinh viên, học viên trong
quá trình thực tập, tập sự cọ xát với thực tế ngay khi các trường yêu cầu; tổ chức giao
lưu với sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm cuối, khảo sát sinh viên, tập sự viên từng
năm, chia sẻ kinh nghiệm cũng như những yêu cầu công việc trong thực tế; thực hiện
các chương trình hỗ trợ học tập về mặt vật chất để khuyến khích người học phát huy
năng lực sáng tạo, tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho sinh viên khi ra trường.
- Để đào tạo nhân lực theo nhu cầu đồng thời đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình
độ đang rất thiếu hụt như hiện nay và thời gian tới thì các trường CĐ, ĐH đẩy mạnh
hơn nữa công tác đào tạo hệ vừa học vừa làm tại các địa phương, nới rộng hơn điều
kiện đầu vào và siết chặt đầu ra hơn nữa.
- Xây dựng chương trình tái đào tạo hoặc đào tạo nâng cao tay nghề tại các
trường, các trung tâm dạy nghề.
- Các trường đạo học, CĐ, trung cấp và các trung tâm đào tạo nghề cần phải có
kế hoạch nâng cao năng lực đào tạo hướng mạnh vào những ngành đáp ứng cho nhu
cầu gia nhập WTO và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố đến năm 2020. Đó
là những ngành dịch vụ : tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, khách sạn,
79
nhà hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin; về công nghiệp : cơ khí chế tạo
máy, công nghiệp hóa chất và thực phẩm, điện tử – viễn thông, chế biến thực phẩm;
trong nông nghiệp : ứng dụng công nghệ sinh học. Trong đó, đặc biệt đầu tư mạnh vào
những ngành dịch vụ và những ngành công nghiệp kỹ thuật cao.
Về kỹ năng hội nhập (ngoại ngữ, tin học, phương pháp làm việc..) của NNL
- Nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ, tin học ở bậc phổ thông và ĐH.
Đảm bảo học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đủ khả năng giao tiếp thông thường
bằng ngoại ngữ và những kiến thức vi tính văn phòng; sinh viên sau khi tốt nghiệp có
khả năng sử dụng được ngoại ngữ chuyên ngành đã theo học. Điều này giảm lãng phí
cho học sinh, sinh viên phải tốn thêm chi phí để đến học tại các trung tâm ngoại ngữ
mới có đủ kỹ năng về ngoại ngữ trong quá trình việc. Đây là một trong những yêu cầu
bắt buộc của NNL trong quá trình hội nhập.
-Tăng cường các hoạt động hỗ trợ thanh niên học ngoại ngữ, tin học miễn phí.
- Xây dựng các chương trình đào tạo các kỹ năng mềm cho sinh viên, học sinh.
Về cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình đào đào NNL
Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng và xây dựng một số cơ sở đào tạo, đặc biệt là
đào tạo nghề nhằm đáp ứng được những yêu cầu mới của KH - CN được sử dụng trong
nước và có trình độ tương đương với các nước trong khu vực nhằm đáp ứng chuẩn mực
quốc tế và khu vực. Có chính sách đầu tư và trang bị những cơ sở vật chất cần thiết cho
các trường, trung tâm và cơ sở dạy nghề xã hội. Cần phân bổ và sư dụng kinh phí theo
hướng tăng đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở vật chất.
Về đội ngũ giáo viên
Bộ giáo dục phối hợp với các trường ĐH, CĐ, trung cấp, trung tâm dạy nghề
trên địa bàn thành phố cần nhanh chóng xây dựng các phương án nhằm bổ sung nguồn
lực đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng. Đây là điều phải làm trước hết, khi
mục tiêu phải tăng số lượng sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội
nhập đến năm 2020.
Các trường, trung tâm cần tăng cường hơn nữa sự liên kết với các trường, trung
80
tâm quốc tế nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng giảng dạy đồng thời có thể đưa
giảng viên sang các nước tiên tiến nhằm học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn theo
các chương trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Ngoài ra, trong thời kỳ hội
nhập, các trường, trung tâm cũng cần tăng cường xây dựng và thực hiện các chương
trình cử cán bộ, giảng viên cơ hữu của trường gửi đi đào tạo sang các nước có nền giáo
dục tiên tiến để nâng cao trình độ chuyên môn bằng kinh phí của chính trường mình
(trước đây và hiện nay phần lớn Bộ vẫn làm), trong đó cần phải chú trọng nhiều vào
khâu giữ người sau đào tạo nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám như đã và đang
diễn ra như hiện nay.
Để làm được điều này thì rất cần một hệ thống chính sách vĩ mô hỗ trợ. Đó là
Bộ giáo dục nên nhanh chóng hoàn thành đề án khuyến khích các trường, trung tâm đủ
điều kiện được chuyển sang tự chủ về tài chính. Điều này sẽ giúp các trường có điều
kiện về tài chính để thực hiện việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng
viên một cách hiệu quả và ít tốn kém nhất.
(cid:141) Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục và tăng cường hợp tác đào tạo với
các nước có trình độ tiên tiến để phát triển NNL chất lượng cao đủ sức cạnh tranh khi
gia nhập WTO
Cần tăng cường mở rộng các hình thức đào tạo nghề liên kết với các trường
danh tiếng của nước ngoài, trước mắt cần tập trung vào đào tạo đội ngũ giảng viên trẻ
cho một số ngành nghề. Khuyến khích, và tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp nước ngoài tham gia tích cực vào quá trình đào tạo lực lượng lao động kĩ
thuật và quản lý tại TP.HCM nhằm từng bước xây dựng Thành phố thành trung tâm
giáo dục đào tạo chất lượng cao. Ngoài ra, cần xây dựng chương trình hợp tác đào tạo
NNL giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; gắn kết với các cơ
sở đào tạo của TW trên địa bàn.
- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức đào tạo nghề nghiệp. Mở rộng và thu hút sự
tham gia của các DN, tổ chức xã hội vào lĩnh vực đào tạo và đặc biệt là liên kết với các
DN kinh doanh hiệu quả để đào tạo NNL. Điều này sẽ giúp tạo được sự cân đối trong
81
cơ cấu ngành nghề trong quá trình phát triển và gia nhập WTO.
3.2.3.4 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghề nghiệp trong lĩnh vực dạy nghề
đồng thời thực hiện tốt sự phân tuyến sau THCS và THPT nhằm tăng đội ngũ lao
động qua đào tạo nghề.
- Để khắc phục tình trạng mất cân đối trầm trọng giữa lao động có trình độ CĐ,
ĐH – THCN và CNKT ở thành phố hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
trong thời kỳ gia nhập WTO thì cần phải tăng nhanh số lượng lao động tham gia học
nghề tại các trường trung cấp và các cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên, để làm được điều này
trước tiên cần phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về công tác dạy nghề để thay đổi
và nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và vị trí của lao động nghề trong xã hội,
nhất là nhận thức của thanh niên trong xác định xu hướng nghề nghiệp, khắc phục tâm
lý xem nhẹ, hạ thấp vai trò của lao động kỹ thuật trong xã hội.
Đặc điểm nổi bật của người dân Việt Nam nói chung và người dân thành phố
nói riêng là tâm lí trọng khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc THPT dù
có học lực thế nào cũng đăng kí dự thi vào một trường ĐH nhất định, rất ít học sinh
ngay từ đầu lựa chọn giải pháp học nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
hiện nay, việc lập nghiệp của thanh niên không chỉ là vào học ở các trường ĐH, mà học
nghề, đào tạo nghề đang và sẽ là hướng đi đúng đắn. Khi nước ta đã gia nhập WTO sẽ
có thêm nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư và có nhiều doanh nghiệp trong nước
thuộc các thành phần kinh tế được thành lập. Điều đó cho thấy nhu cầu tuyển dụng lao
động sẽ rất cao, người lao động dù ở bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào nếu có trình độ, kĩ
năng nghề nghiệp đều có cơ hội rất lớn tìm được việc làm và có thu nhập thoả đáng.
Thực tế hiện nay, học viên ở các trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp về cơ bản có việc
làm ổn định trong khi đó phần đông sinh viên các trường ĐH khó tìm được việc hoặc
làm trái với chuyên môn đào tạo. Thực tiễn sinh động trên đã và đang tác động mạnh
mẽ đến nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh trong lựa chọn nghề nghiệp.
- Đẩy mạnh chủ trương phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS và THPT
để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng đầu vào cho các
82
trường đào tạo nghề. Sự phân luồng nên theo hướng tăng nhanh tỷ lệ học sinh học nghề
ở hệ thống dạy nghề hoặc tại các cơ sở dạy nghề có kết hợp với học văn hóa, một mặt
góp phần giải quyết vấn đề số lượng và chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo
nghề từ đó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sức lao động hiện nay và các
năm tiếp theo. Mặt khác, thực hiện thành công việc phân luồng học sinh sẽ giảm được
áp lực thi cử, một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm trong thời điểm hiện nay.
Chủ động trong công tác này, các trường dạy nghề cần đổi mới mô hình tổ chức đào
tạo, tăng cường đào tạo liên thông, đa cấp học, đa ngành học phù hợp với yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta. Cần thu hút hầu hết số thanh niên 15 – 17 tuổi không
theo học PTTH và số học sinh tốt nghiệp PTTH có nguyện vọng học lên CĐ, ĐH
nhưng không đủ điều kiện vào học nghề bậc CNKT có bổ túc văn hóa. Xu hướng hợp
lý hiện nay là phân luồng học sinh theo tỷ lệ là 6/4, tức sẽ có 60% học sinh vào các
trường phổ thông trung học, 40% học sinh được đào tạo nghề để đáp ứng nhanh cho
nhu cầu thị trường lao động và trong tương lai có thể nâng tỷ lệ này lên (ở một số nước
phát triển tỷ lệ này là 50% - 50%).
3.2.3.5 Đổi mới cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực KH - CN
TP.HCM có hơn 90 viện, trung tâm nghiên cứu khoa học và trên 55 trường ĐH -
CĐ. Tính đến cuối năm 2006, TP Hồ Chí Minh có 115 đơn vị KHCN được cấp phép
hoạt động theo Luật KH - CN, trong đó có 11 đơn vị nhà nước, 23 tập thể và 81 đơn vị
tư nhân [21, 91].
Theo đánh giá của đại hội Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh lần thứ VII và VIII thì
“Hoạt động KHCN là một thế mạnh của TP.Hồ Chí Minh với tiềm lực lớn cả về đội
ngũ và trình độ…”. Một thế mạnh khác là lực lượng trí thức này đa dạng, được đào tạo
từ nhiều nguồn, nhiều thế hệ, năng động, lao động nhiệt tình và có cùng nguyện vọng
hết lòng cống hiến cho sự phát triển KT – XH của đất nước và thành phố. Đây là một
nguồn lực vô cùng quý quá trong đội ngũ NNL của thành phố. Để xây dựng và phát
triển NNL KH - CN, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
83
(cid:141) Có chính sách sử dụng nhân lực KH-CN cụ thể, thiết thực
Sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao bên cạnh những nét chung, trong
quá trình phát triển còn có những con đường riêng. Nhân tài chỉ có được sau khi trải
qua thời gian dài giáo dục, đào tạo và thực tế làm việc đúc rút kinh nghiệm, kỹ năng
thực hành và nâng cao trình độ chuyên môn. Để có nhân tài, cần phải có thời gian từ
phát hiện đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, theo dõi giám sát… Những năm qua, thành
phố vẫn mới chú trọng đến giáo dục đào tạo (giải pháp đầu vào) mà chưa thực sự quan
tâm đúng mức đến sử dụng đãi ngộ (giải pháp đầu ra). Vì vậy, theo tôi, định hướng
chính sách cần theo hướng kích thích sử dụng NNL chất lượng cao sẽ phản ánh kết quả
cuối cùng của chất lượng NNL. Đã đến lúc chính sách sử dụng nhân tài phải cụ thể,
thiết thực chứ không nên chung chung như trước đây, cụ thể là :
- Thiết lập và hoàn thiện ngân hàng dữ liệu về nhân lực KH-CN của thành phố
về trình độ, ngành nghề, lĩnh vực…theo dõi thường xuyên sự biến động (tăng, giảm) từ
đó xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan … tìm giải pháp cụ thể, thiết thực.
- Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác
mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Mặc dù, trong những năm trở lại đây, đã có
một số cơ quan, tổ chức của thành phố thực hiện điều này, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự
được thực hiện một cách biến. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển nhân lực KH-
CN chất lượng cao.
- Ưu tiên những ngành công nghệ cao, những ngành đang thiếu cán bộ tài năng;
có chính sách thu hút những chuyên gia giỏi là Việt kiều trong những lĩnh vực mà nước
ta đang thiếu và cần thiết trong tiến trình hội nhập.
- Thực hiện cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, đề tài nghiên cứu. Giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công trình
nghiên cứu KH-CN.
- Cần có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút chất xám, nhân tài trong các lĩnh
vực KH - CN, đặc biệt là các ngành được xác định là những ngành trọng điểm của
84
Thành phố.
- Chú trọng việc tạo môi trường để nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các kỹ sư đầu
ngành có nơi công tác phù hợp để họ có thể phát huy tối đa năng lực trong quá trình
nghiên cứu.
Đặc biệt các cơ quan nghiên cứu triển khai phải thực hiện tự hạch toán, bắt buộc
cơ quan này phải bám sát thực tiễn sản xuất, nhu cầu cuộc sống để tạo ra những sản
phẩm hữu ích cho xã hội. Nhà nước xoá bỏ bao cấp cho các đề tài, song có cơ chế mua
hoặc yêu cầu các DN phải mua các sản phẩm KH- CN có giá trị để áp dụng có hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
(cid:141) Có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nhân lực KH-CN chất lượng cao.
Trong thời gian vừa qua, việc các cán bộ lãnh đạo các cấp, ngành, các chuyên
gia đầu ngành ở thành phố xin nghỉ việc diễn ra ngày càng nhiều. Đây là một sự thất
thoát tài nguyên, sự chảy máu chất xám từ các cơ quan nhà nước sang các DN tư nhân,
DN có vốn FDI. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải :
Thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng, không nên hạn
chế mức thu nhập, nếu đó là mức thu nhập chính đáng từ tài năng và sáng tạo của họ,
đồng thời truy cứu trách nhiệm nếu có biểu hiện lợi dụng, tham nhũng.
- Cần xây dựng chế độ chính sách ưu đãi đối với nhân lực KH-CN chất lượng
cao để tạo động lực thu hút nhân tài vào các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định
chính sách để họ có điều kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình.
- Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất
đối với những cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
(cid:141) Có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài
Trong thời điểm hiện nay, trước sức ép về NNL KH-CN chất lượng cao, để đáp
85
ứng yêu cầu phát triển, thành phố rất cần tận dụng tiềm năng to lớn của hơn 300.000 trí
thức Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài. Đây là một nguồn tài nguyên vô cùng quý
giá. Vì vậy, nếu khai thác được thì đây sẽ là đội ngũ lao động có đóng góp rất lớn cho
sự nghiệp phát triển và hội nhập của thành phố trong tương lai. Thời gian vừa qua,
chính sách thu hút nhân tài là Việt kiều đã được thực thi, song chưa đủ mạnh. Ngoài
việc kêu gọi vận động, cần có những chính sách cụ thể hơn như xoá bỏ định kiến,
nguồn gốc xuất thân; chế độ lương và thu nhập, chế độ mua nhà hợp pháp, chế độ học
tập và làm việc cho con cái… Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn liên kết trong nghiên cứu,
hợp tác đào tạo với các viện, các trường có tên tuổi của nước ngoài để từng bước nâng
tầm KH-CN thành phố…
3.2.3.6 Cần phải xây dựng, đào tạo đội ngũ Doanh nhân có kiến thức chuyên
môn, giàu kinh nghiệm quản lý, dày dạn bản lĩnh trong hoạt động kinh doanh và có
tầm nhìn chiến lược mang tính toàn cầu.
Gia nhập WTO ảnh hưởng trực tiếp và trước hết đối với hệ thống các DN và
người “đứng mũi chịu sào” đó là Doanh nhân. Đây là lực lượng có tầm quan trọng rất
lớn đối với việc thành công của các DN trong quá trình cạnh tranh, và điều đó cũng ảnh
quyết định đến việc thành công trong quá trình cạnh tranh, hội nhập của quốc gia, lãnh
thổ vì DN chính là “tế bào”. Sự thành công của DN trước hết phải có một người lãnh
đạo tài năng và bản lĩnh, có thể ứng phó với những biến động của thời cuộc và thị
trường rộng lớn. Do vậy, việc đào tạo một đội ngũ doanh nhân là yêu cầu cấp bách
trong bối cảnh hiện nay, khi mà sự cạnh tranh toàn cầu đang diễn ra gay gắt ngay tại
thị trường trong nước. Các doanh nhân phải chịu nhiều áp lực hơn trước những đối
thủ mạnh hơn với kiến thức, kinh nghiệm quản lý, điều hành và đặc biệt tầm nhìn cũng
rộng hơn. Việc đào tạo đội ngũ doanh nhân phải đáp ứng được hai loại yêu cầu cơ bản
nhất, đó là tầm nhìn mang tính toàn cầu và kỹ năng quản lý toàn cầu.
Bên cạnh nổ lực của đội ngũ doanh nhân thì các cơ quan Nhà nước và xã hội cần
có sự điều chỉnh trong quan hệ đối với doanh nhân, trước hết là về tư duy, sự nhìn nhận
86
và tiếp đó là về các thể chế, chính sách, về cung cách đối xử. Cần phải gạt bõ toàn bộ
những tư duy cũ về "bóc lột giá trị thặng dư", coi doanh nhân như giai cấp bóc lột, từ
đó có cách nhìn kỳ thị, phân biệt đối xử. Cần trân trọng những cống hiến vì nước vì dân
của mọi doanh nhân, kể cả những người Việt định cư ở nước ngoài đang đầu tư về
nước nhà ngày càng nhiều. Cần ban hành những thể chế, chính sách nhằm tạo mọi điều
kiện, khuyến khích các doanh nhân phát huy tiềm năng, năng lực của họ. Các tổ chức
xã hội dân sự như các hội, hiệp hội doanh nghiệp; các trung tâm như : Trung tâm văn
hóa doanh nhân cần phát huy hơn nữa vai trò của mình tổ chức trợ giúp DN, đại diện,
bảo vệ lợi ích hợp pháp của DN, là cầu nối giữa DN với cơ quan nhà nước, để doanh
nhân thể hiện quyền tham gia hoạch định thể chế, chính sách liên quan.
3.2.3.7 Có chính sách đào tạo lại, tái bố trí cho LLLĐ không phù hợp trong
quá trình hội nhập
(cid:141) Trong tái đào tạo, bố trí sử dụng
- Gia nhập WTO sẽ có rất nhiều DN ra đời nhưng cũng có nhiều DN bị phá sản
trong cạnh tranh và hàng ngàn người lao động sẽ bị mất việc làm, số lao động này sẽ
phải tìm việc mới và rất nhiều người lao động trong số họ sẽ không tìm được việc làm
do nghề nghiệp không phù hợp. Do vậy, thành phố cần phải có những chính sách,
chương trình tái đào tạo nghề dành cho những đối tượng lao động này theo hướng đào
tạo những ngành nghề mà nhu cầu xã hội đang cần nhiều nhằm hỗ trợ cho những lao
động gặp khó khăn trong quá trình trang bị nghề mới trong quá trình mưu sinh, đồng
thời nhằm giúp cung – cầu lao động gặp nhau, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường
lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, lãng phí nguồn lực, và ảnh hưởng đến việc sử
dụng NNL của thành phố.
- Công khai, minh bạch, hiện đại hóa, tiêu chuẩn hóa việc tuyển chọn nhân lực
cho các cơ quan hành chính Nhà nước; việc tuyển chọn phải thông qua thi tuyển công
khai, thí điểm và từng bước tiến đến thi tuyển các chức danh lãnh đạo đến chức danh
Thủ trưởng các Sở, ban ngành, Tổng giám đốc các DN Nhà nước; tiếp tục làm tốt công
tác trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, quan tâm thực hiện công tác phát hiện, quy
87
hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ trẻ.
- Chú trọng hoàn thiện các chế độ lương bổng và phúc lợi, chế độ khen thưởng.
- Thiết lập và phát triển được thị trường lao động chất lượng cao, ổn định. Điều
tiết hợp lý NNL, kiểm soát được luồng di chuyển nhân công thông qua nhiều công cụ
như điều tra lao động, việc làm, điều tra nhân khẩu, hợp đồng lao động; đẩy mạnh phân
cấp quản lý lao động, lao động nhập cư từ thành phố cho các quận, huyện và xã,
phường. Xây dựng và khuyến khích xã hội hóa việc xây dựng các trung tâm thông tin
thị trường lao động.
- Chủ động phối hợp với các địa phương trong vùng và cả nước để thông báo
nhu cầu lao động theo ngành nghề mà thành phố đang cần cũng như dư thừa lao động
để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng vừa tránh tình trạng nhập cư ồ ạt, gây căng
thẳng về mặt xã hội cho thành phố; UBND thành phố có chính sách liên kết, hỗ trợ
phát triển, khuyến khích các DN, đơn vị kinh tế đầu tư vốn, kỹ thuật ở các vùng tỉnh
bạn để giải quyết việc làm cho NLĐ ở địa phương bạn.
(cid:141) Trong đào tạo nâng cao, chuyên sâu
- Tiếp tục hoàn thành chương đào tạo 300 thạc sĩ - tiến sĩ, triển khai chương
trình đào tạo 500 thạc sỹ, tiến sỹ giai đoạn 2007 - 2010 của TP.HCM nhằm đào tạo cán
bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị, cán bộ khoa học các ngành khoa học và
công nghệ mũi nhọn, với kinh phí chủ yếu từ ngân sách thành phố. Xây dựng chương
trình hỗ trợ đào tạo các nhà khoa học đầu ngành. Phấn đấu đến 2020, thành phố có
nhiều nhà khoa học đầu ngành trong các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông
tin, tài chính ngân hàng, dịch vụ tư vấn và y tế.
(cid:141) Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của cán bộ công chức Thành phố
- Xây dựng chương trình đào tạo nguồn cán bộ phường, xã, công chức của thành
phố từ học sinh trung học phổ thông.
- Bắt đầu từ năm 2010 thực hiện công khai thi tuyển cán bộ công chức từ cấp
phó giám đốc Sở, ngành của thành phố trở xuống.
- Tiếp tục hoàn thiện chuẩn hóa cán bộ các cấp. Đảm bảo đến năm 2010, 100%
88
các chức danh, vị trí lãnh đạo từ phường, xã trở lên đảm bảo tiêu chuẩn theo yêu cầu.
3.2.3.8 Cải cách môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ cho NLĐ, đặc biệt là
trong khu vực nhà nước đồng thời tăng tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo và
tích cực huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục – đào tạo.
(cid:141) Thứ nhất : Cải cách môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ cho NLĐ, đặc biệt
là trong khu vực nhà nước
- Cần phải thay đổi toàn diện môi trường làm việc, cơ chế quản lý, sử dụng và
đãi ngộ đối với NLĐ trong khu vực Nhà nước. Đây cũng là một nhân tố có tác động rất
lớn đến việc phát triển NNL. Phải tạo lập môi trường làm việc trong sạch, trong đó phải
khai thác và sử dụng được trình độ, kiến thức, kỹ năng của NLĐ, đồng thời giúp họ
khơi dậy được năng lực sáng tạo ; cơ chế quản lý khoa học, minh bạch, chế độ đãi ngộ
xác đáng ; cơ chế tiền lương hợp lý, đảm bảo được đời sống và nhất là phải tương xứng
với năng lực và sự cống hiến của NLĐ. Thực hiện điều này giúp hạn chế được sự
« chảy máu chất xám » từ khu vực nhà nước sang các khu vực tư nhân và đặc biệt đáng
lo ngại nhất là khu vực có vốn FDI, nhất là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của
nền kinh tế thế giới nên sự luân chuyển lao động giữa các DN là rất dễ dàng và nhanh
chóng.
Trong phạm vi của mình, thành phố có thể cải thiện hệ thống tiền lương, đặc
biệt là trong khu vực kinh tế nhà nước thông qua các chế độ thưởng phụ cấp và trợ cấp.
Phải linh động trong việc đưa ra các chính sách về thưởng, phụ cấp vào cuối mỗi quý,
tháng, tùy thuộc vào tính chất công việc và điều kiện cụ thể từng ngành nghề. Làm
được như thế mới đảm bảo được lợi ích vật chất và tinh thần cho NLĐ, là nhân tố góp
phần thu hút và sử dụng lao động một cách hợp lý.
(cid:141) Thứ hai : Tăng tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo và tích cực huy
động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục – đào tạo
- Cần phải tăng tỷ lệ chi cho phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo để hoàn thiện
cơ sở vật chất, mở thêm trường, nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu
khoa học...nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh hội
89
nhập và cạnh tranh thì nhu cầu về vốn dành cho lĩnh vực này càng tăng. Tỷ lệ chi cho
giáo dục – đào tạo của thành phố trong thời gian qua còn quá thấp (Theo kinh nghiệp
của những nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 6%
GDP trở lên) do vậy trong thời gian tới cần phải tính toán và cân nhắc, có thể huy động
các nguồn lực khác để tăng tỷ lệ chi cho giáo dục - đào tạo.
- Cần những chính sách, biện pháp nhằm huy động và thu hút nguồn vốn từ bên
ngoài ; tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích đầu tư từ các DN, các tổ chức xã hội từ
các tỉnh, thành khác trong nước, đặc biệt là các trường, tổ chức quốc tế, tích cực khai
thác nguồn vốn ODA... Nếu huy động được các nguồn thu bên ngoài thì rõ ràng vấn đề
về vốn sẽ không còn là gánh nặng ảnh hưởng ràng buộc đến các hoạt động phát triển
nhằm nâng cao chất lượng NNL. Do vậy, rất, đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao chất lượng NNL, phục vụ cho sự nghiệp phát triển
90
KT - XH của thành phố trong thời kỳ gia nhập kinh tế WTO.
KẾT LUẬN
TP.HCM là một trung tâm lớn nhất Việt Nam về kinh tế - tài chính, với sự đóng
góp lớn về GDP, giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, đã, đang và sẽ tiếp tục giữ
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của cả nước. Việc gia nhập WTO đã
tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế của thành phố và do đó, làm thế nào để phát
huy được thế mạnh và vượt qua thách thức để đạt được những mục tiêu đề ra là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoạch định đường lối chính sách của thành phố
trong thời gian tới.
Là trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất nên ở thành phố cũng đã tập hợp được
một lực lượng nguồn lực tương đối khá so với mặt bằng chung cả nước và những tỉnh
thành khác. Tuy nhiên, những nguồn lực này vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế trong bối cảnh mới, nhất là sự cạnh tranh đang diễn ra ngày một gay gắt và sâu
hơn trên moị phương diện giữa các quốc gia với nhau. Trong cuộc cạnh tranh đó, lợi
thế luôn nghiêng về quốc gia, vùng lãnh thổ nào có thế mạnh về NNL. So với cả nước,
lao động qua đào tạo của thành phố là khá cao (54% so với cả nước là 26%), tuy nhiên,
tỷ lệ này vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển và so với các nước khác trong khu
vực. Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo còn thấp nên chất lượng lao động đã qua đào tạo
cũng thấp, thể hiện qua việc NLĐ chưa đáp ứng được đòi hỏi của công việc, sự thiếu
hụt lớn về các kỹ năng ứng xử, khả năng xử lý công việc, sự sáng tạo, tinh thần làm
việc nhóm, kỹ năng về ngoại ngữ, tin học…Điều đó đã làm giảm đi khả năng cạnh
tranh của thành phố và chính là thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập. Trong
điều kiện như thế nên hơn bất cứ nguồn lực nào khác, NNL thành phố chiếm một vị trí
trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình gia nhập WTO nói riêng
cũng như trong sự nghiệp phát triển KT - XH của thành phố nói chung giai đoạn 2006
– 2020.
Trên cơ sở phân tích những lý luận về NNL và phát triển NNL, thực trạng NNL
91
trên địa bàn TP.HCM hiện nay, luận văn đã có những đóng góp sau :
(cid:141) Luận văn đã làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về NNL và phát triển NNL trong
bối cảnh gia nhập WTO, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng NNL theo yêu cầu gia nhập
WTO; đặc biệt là sự cần thiết khách quan phải phát triển NNL trong bối cảnh gia nhập
WTO.
(cid:141) Luận văn đã phân tích thực trạng NNL trên địa bàn TP.CHM trên cả mặt chất
và lượng, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế đồng thời đưa ra
được nguyên nhân của những vấn đề, từ đó làm cơ sở để đưa ra một số giải pháp cơ
bản nhằm phát triển NNL trong bối cảnh gia nhập WTO.
Về những mặt hạn chế : luận văn đã chỉ ra những hạn chế lớn nhất của NNL
thành phố hiện nay là rất thiếu lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là lao động được đào
tạo nghề. Chất lượng lao động đã qua đào tạo thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà
tuyển dụng gây tình trạng lãng phí cho người học, xã hội cho việc đào tạo lại…Ngoài
ra tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực Nhà nước sang khu vực có vốn FDI và tư
nhân có xu hướng ngày càng gia tăng đã và đang tạo nên những hậu quả rất lớn đến sự
phát triển thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Nhìn một cách tổng thể thì NNL
thành phố hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập cả về mặt số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
Về nguyên nhân : bên cạnh nguyên nhân khách quan (thành phố thuộc quốc gia
đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người thấp) thì những yếu kém trên còn xuất
phát từ những lý do : thành phố chưa có một chiến lược phát triển tổng thể trong việc
xây dựng, phát triển và sử dụng NNL ít nhất đến năm 2020; chất lượng đào tạo trong
hệ thống giáo dục – đào tạo của thành phố còn thấp, đào tạo chưa gắn với nhu cầu của
xã hội, chưa có sự hợp tác chiến lược giữa 3 nhà : quản lý, đào tạo và sử dụng. Đặc
biệt thành phố chưa có chính sách sử dụng lao động một cách hợp lý và hiệu quả, nhất
là lao động trình độ cao. Thành phố cũng chưa có những biện pháp hữu hiệu nhằm
phân tuyến học sinh sau THCS và THPT để tăng lao động nghề; và một nguyên nhân
92
khác nữa đó là tỷ lệ đầu tư cho giáo dục – đào tạo từ ngân sách thành phố là còn rất
thấp so với yêu cầu và so với mặt bằng chung của các nước có nền giáo dục phát triển
trong khu vực.
Qua việc đánh giá thực trạng NNL, rút ra những hạn chế và nguyên nhân, luận
văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNL thành phố đáp ứng yêu cầu
phát triển trong bối cảnh hội nhập, trong đó tập trung vào những giải pháp : xây dựng
chiến lược phát triển NNL đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó việc nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo có vai trò hết sức quan trọng; Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo bằng cách tăng số lượng, quy mô và chất lượng hệ thống các trường và cơ sở
đào tạo trên địa bàn thành phố, đẩy mạnh hoạt động dạy nghề về số lượng và chất
lượng; Cải tiến hệ thống đào tạo của thành phố nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường
trong bối cảnh hội nhập WTO; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghề nghiệp đồng thời
thực hiện tốt sự phân tuyến sau THCS và THPT; Đổi mới cơ chế, chính sách thu hút
nhân tài, xây dựng và phát triển NNL chất lượng cao; có chính sách sử dụng nhân lực
KH-CN cụ thể, thiết thực; có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nhân lực KH-CN chất lượng
cao; đặc biệt có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài, tạo
môi trường làm việc lành mạnh, thu nhập xứng đáng và đặc biệt là chế độ mua nhà hợp
pháp, chế độ học tập và làm việc cho NLĐ. Các nhóm giải pháp trên đòi hỏi phải thực
hiện một cách đồng bộ, có như vậy mới thực sự phát huy hiệu quả.
Phát triển NNL thành phố nhằm hội nhập thành công WTO là vấn đề có nội
dung rộng lớn. Những khía cạnh được đề cập đến ở đây mới chỉ là những tư tưởng cơ
bản và bức xúc nhất trong việc phát huy tiềm năng lao động, biến nó thành lợi thế lớn
nhất nhằm phát triển kinh tế thành phố HCM theo mục tiêu đã đặt ra trong chiến lược
phát triển kinh tế toàn diện đất nước của Đảng và nhà nước ta trong thời gian tới. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ đề tài với những hạn chế về mặt số liệu phân tích cũng như tài
liệu tham khảo nên không thể tránh được những thiếu sót, còn rất nhiều vấn đề đòi hỏi
tiếp tục nghiên cứu sâu rộng để góp phần nâng cao chất lượng NNL ở thành phố một
93
cách có hiệu quả hơn.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
CÁC CHỈ TIÊU TỔNG HỢP GIAI ĐOẠN 2001 – 2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1. Tổng sản phẩm – GDP
1.1 Giá thực tế (tỷ đồng)
84.852
96.403
113.291 137,087 165.297 191.011
1.2 Giá so sánh năm 1994 (tỷ đồng)
57.787
63.67
70.914
79.237
88.866
99.672
2. Cơ cấu (%)
2.1 Phân theo thành phần kinh tế
- Khu vực nhà nước
42,3
38,8
36,3
35,4
33,9
33,3
- Khu vực ngoài quốc doanh
37,1
40,1
42,9
44,6
45,1
44,6
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
20,6
21,1
20,8
20,0
21,0
22,1
2.2 Phân theo các khu vực kinh tế
- Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
1,9
1,7
1,6
1,4
1,3
1,2
- Công nghiệp và xây dựng
46,2
46,7
49,1
48,9
48,1
47,7
- Dịch vụ
51,9
51,6
49,3
49,7
50.6
51,1
3. Tốc độ tăng trưởng (%)
109,5
110,2
111,4
111,7
112,2
112,2
- Khu vực nhà nước
109,0
109,7
109,7
110,2
108,8
107,2
- Khu vực ngoài quốc doanh
110,0
110,2
113,0
114,5
106,4
111,5
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
110,0
111,2
112,1
109,7
113,8
113,3
105,5
104
100,8
99,8
99,8
100,4
- Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
112,4
111,5
113,5
112,7
111,8
110,5
- Công nghiệp và xây dựng
107,4
109,3
109,5
111,1
112,8
113,8
- Dịch vụ
30.732
37.402
41.591
48.972
60.487
69.394
4. Tổng thu ngân sách nhà nước (tỷ đồng)
- Thuế xuất nhập khẩu
13.26
16.575
16.705
19.121
21.811
26.251
- Thu nội địa
17.472
20.827
24.886
28.436
32.333
36.745
Nguồn : Sở kế hoạch – đầu tư, 2007
Phụ lục 2
DÂN SỐ VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ NĂM 2007 PHÂN THEO QUẬN HUYỆN
Số phường xã Wards, communes
Diện tích (km2) Area (sq.km)
Dân số (người) Population (person)
Mật độ dân số (người/km2) Population density (pers/sq.km)
2095,01 494,01 7,73 49,74 4,92 4,18 4,27 7,19 35,69 19,18 114 5,72 5,14 52,78 19,74 22,38 16,06 20,76 4,88 47,76 51,89 1.601,00 434,50 109,18 252,69 100,41 704,22
322 259 10 11 14 15 15 14 10 16 13 15 16 11 16 15 11 20 15 12 10 63 21 12 16 7 7
3.175 11.265 26.289 2.679 40.958 45.532 45.864 35.162 5.575 19.830 1.941 42.142 44.672 6.248 26.065 17.871 24.071 22.553 36.990 7.706 9.042 678 740 2.487 1.374 767 97
Toàn thành Các quận Quận 1 Quận 2 Quận 3 Quận 4 Quận 5 Quận 6 Quận 7 Quận 8 Quận 9 Quận 10 Quận 11 Quận 12 Gò Vấp Tân Bình Tân Phú Bình Thạnh Phú Nhuận Thủ Đức Bình Tân Các huyện Củ Chi Hóc Môn Bình Chánh Nhà Bè Cần Giờ
6.650.942 5.564.975 203.214 133.257 201.515 190.325 195.841 252.816 198.958 380.330 221.314 241.052 229.616 329.751 514.518 399.943 386.573 468.208 180.511 368.032 469.201 1.085.967 321.663 271.506 347.278 76.985 68.535
Nguồn: Niên giám Thống kê TP.HCM 2007
Phụ lục 3
TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN CỦA LLLĐ 15 TUỔI TRỞ LÊN THẤT NGHIỆP Ở THÀNH THỊ TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM NĂM 2006
Số lượng (người)
Cơ cấu (%)
Tổng số
Tổng số
Trong đó : Nữ
Trong đó : nữ
Tổng số
154.000
84.629
100
100
15.066
8.243
9,78
9,74
1.Không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học
2.Tốt nghiệp cấp 1
39.116
19.783
25,40
23,38
3.Tốt nghiệp cấp 2
37.411
19.784
24,29
23,38
4.Tốt nghiệp cấp 3
62.407
36.819
40,52
43,51
Nguồn : Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006, Bộ Lao động
Thương binh và xã hội
Phụ lục 4
TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH MẪU GIÁO PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2007 – 2008
Chỉ tiêu
Tổng số
Công lập
Bán công
Dân lập
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
Trị số
Cơ cấu
(%)
(%)
(%)
(%)
Trường học
607
100
366
60,30
38
6,26
203
33,44
Lớp học (lớp)
5.047
100
2.942
58,30
516
10,22
3.122
31,48
Phòng học (lớp)
6.802
100
2.984
43,87
520
7,65
3.298
48,49
8.917
100
5.234
58,70
603
6,76
3.080
34,54
Giáo viên (người)
Học sinh (người)
193.976 100
111.569 57,52
15.949
8,22
66.458
34,26
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Phụ lục 5
TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH PHỔ THÔNG NĂM HỌC 2007
Năm học
2000- 2001
2005 – 2006
2006 – 2007
2007 - 2008
1.Trường học - cấp 1
735 429
809 457
813 458
831 467
- cấp 1, 2
211
2
2
2
- cấp 2
…
232
231
231
- cấp 2,3
…
46
46
50
- cấp 3
95
72
76
81
2. Lớp học
20.893
22.181
22.528
23.073
- cấp 1
11.256
11.255
11.314
11.428
- cấp 2
6.594
7.286
7.426
7.603
- cấp 3
3.043
3.64
3.788
4.042
30.524
34.293
35.104
35.812
3. Giáo viên (người)
- cấp 1
13.349
14.376
14.282
14.275
- cấp 2
11.754
13.147
13.414
13.664
- cấp 3
5.421
6.769
7.408
7.833
4. Học sinh (người)
858.621
890.279
909.494
927.751
- cấp 1
423.495
410.049
418.833
423.437
- cấp 2
287.504
315.451
322.6
327.652
147.622 41
164.779 40
168.061 40
176.662 40
- cấp 3 5. Số học sinh bq 1 lớp học
- cấp 1
38
36
37
37
- cấp 2
44
43
44
43
- cấp 3
48
46
44
44
28
26
26
26
6. Số học sinh bình quân 1 giáo viên
- cấp 1
32
29
29
30
- cấp 2
25
24
24
24
- cấp 3
27
24
23
23
Nguồn : Niên giám thống kê TP.HCM 2007
Phụ lục 6
TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH MẪU GIÁO VÀ PHỔ THÔNG NĂM HỌC 2007 – 2008 PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO
Tổng số
Công lập
Bán công
Dân lập
1.Trường hoc :
- Mẫu giáo
607
366
38
203
- Phổ thông
831
722
33
76
2.Lớp học
- Mẫu giáo
6.580
2.942
516
3.122
23.070
- Phổ thông
19.909
1.665
1.499
3.Phòng học
- Mẫu giáo
6.802
2.984
520
3.298
- Phổ thông
21.799
18.632
1.095
2.072
4.Giáo viên (người)
- Mẫu giáo
8.917
5.234
603
3.080
- Phổ thông
35.772
30.294
1.973
3.505
5.Học sinh
- Mẫu giáo
- Phổ thông
193.976
111.569
15.949
66.458
927.751
807.748
75.905
44.098
Nguồn : Niên giám thống kê TP.HCM 2007
Phụ lục 07
HỆ THỐNG MẠNG LƯỚI DẠY NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM NĂM 2006
Loại hình CSDN
Tổng số
Chia theo loại hình
Chia theo cấp quản lý
Công lập
Ngoài công lập
Trung ương
Thành phố
Trường dạy nghề Trường THCN có dạy nghề
11 1
17 17
10 8
18 10
28 18
1 3 43
11 1 29
10 4 9
2 0 63
12 4 7
Trường CĐ có dạy nghề Trường ĐH có dạy nghề Trung tâm dạy nghề (11 đơn vị có 100% vốn nước ngoài)
0
7
2
5
7
Trung tâm Dịch vụ việc làm có dạy nghề
0
3
0
3
3
Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp có dạy nghề
Trung tâm khác có dạy nghề
0
6
0
6
6
0
0
170
170
Cơ sở dạy nghề quy mô nhỏ
170
277
320
Tổng cộng
91
229
43
Nguồn : Sở lao động, thương binh và xã hội
Phụ lục 08 TỶ LỆ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CỦA CÁC QUỐC GIA CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN
STT 1 2 3 4 5 6 7 8
Tên nước Mỹ Hà lan Pháp Bỉ Nhật bản Anh Đức Italia
Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với GDP (%) 6,7 6,7 5,7 5,1 5,0 5,0 4,5 4
Nguồn : UNDP, báo cáo phát triển NNL
Phụ lục 09 NGÂN SÁCH ĐẦU TƯ CHO GIÁO DỤC Ở CÁC NƯỚC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
STT
Tên nước
1 2 3 4 5 6 7
Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với GDP (%) 18,1 19,4 8,4 20,1 16,9 19,6 16,8
8 9
Xingapore Malaixia Indonesia Thái lan Philippin Hàn quốc Hồng Kông Trung quốc An độ
14,6 2,5
Nguồn Asia 1995
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG NƯỚC
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, nxb Chính trị quốc gia.
2. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Số liệu thống kê lao động và việc làm
1/7/ hàng năm, nxb Lao động và Xã hội Hà Nội.
3. Cục thống kê TP. HCM (2005), Điều tra dân số giữa kỳ năm 2004 TP.HCM,
Xí nghiệp in Thống kê TP.HCM.
4. Cục thống kê TP. HCM, Niên giám thống kê TP.HCM các năm 2005 – 2007,
Xí nghiệp in Thống kê TP.HCM.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, nxb Chính trị quốc gia.
6. TS.Dương Tấn Diệp (2007), Kinh tế Vĩ Mô, nxb. Thống kê.
7. Trần Kim Hải (2000), Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế.
8. Karl Marx và Ph.Ăng – ghen toàn tập 23, nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
9. PTS. Trần Du Lịch (1999), Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, Viện Kinh
tế TP.HCM.
10. Th.s Đặng Thị Thùy Linh (2008), Thực trạng và định hướng phát triển
nguồn nhân lực nghề một số ngành công nghiệp trọng yếu trên địa bàn
TP.HCM, Sở Giáo dục và đào tạo TP.HCM.
11. GS.TS Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội,
nxb. Tư pháp, Hà Nội.
12. Th.s Cao Minh Nghĩa (2007), Báo cáo tổng hợp phân tích các mối quan hệ
giữa biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, Viện Kinh tế TP.HCM.
13. GS. Nguyễn Thiện Nhân (2004), Phát triển và khai thác thị trường khoa học
và công nghệ - bước đột phá để phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ
của TP.HCM, Viện Kinh tế TP.HCM.
14. TS.Hoàng An Quốc, Chính sách đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế của một số nước trong khu vực và hướng đi của Việt Nam,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở bảo vệ năm 2005.
15. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Báo cáo tình hình
lao động – việc làm trên địa bàn TP.HCM năm..
16. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2008), Báo cáo tình hình sử
dụng lao động năm 2007 và nhu cầu tuyển dụng lao động năm 2008 của các
doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM.
17. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Báo cáo hoạt động
dạy nghề giai đoạn 2001 – 2006 & mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp phát triển
dạy nghề đến 2010.
18. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Nội dung làm việc
với Viện chính sách và chiến lược phát triển nông thôn về thực trạng và giải
pháp lao động việc làm trong nông nghiệp.
19. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2006), Thực trạng thị
trường lao động và các giải pháp hoạt động của thị trường lao động
TP.HCM giai đoạn 2006 – 2010.
20. Ủy Ban nhân dân TP.HCM (2007), Báo cáo định hướng quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến năm 2020.
21. Ủy Ban nhân dân TP.HCM (2007), Đề án phát triển nguồn nhân lực trẻ phục
vụ chương trình “chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP.HCM giai đoạn 2007 –
2010, tầm nhìn 2020”.
B. CÁC WEBSITE
22. http://www.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của TP.HCM.
23. http://www.molisa.gov.vn – trang thông tin của Bộ Lao động Thương binh
và xã hội.
24. http://www.dpi.hochiminhcity.gov.vn – thông tin của Sở Kế hoạch và đầu tư
thành phố HCM.
25. http://www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Viện kinh
tế TP.HCM
26. http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Cục thống kê
TP.HCM.
27. http://www.dost.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Khoa học
công nghệ TP.HCM.
28. http://www.edu.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Giáo dục và
đào tạo TP.HCM.
29. http:// www.sldtbxh.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Lao
động Thương binh và Xã hội TP.HCM.