BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM (cid:71)(cid:70)

HUỲNH THỊ CẨM TÚ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2006 - 2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM (cid:71)(cid:70)

HUỲNH THỊ CẨM TÚ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2006 - 2020 CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ : 60.31.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. HOÀNG AN QUỐC TP.HỒ CHÍ MINH 2008

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

2.Tổng quan những vấn đề nghiên cứu có liên quan ............................................... 2

3.Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................. 3

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................... 3

5.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3

6.Ý nghĩa của đề tài..................................................................................................... 4

7.Kết cấu luận văn....................................................................................................... 4

CHƯƠNG I: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO............................................ 6

1.1 Một số khái niệm................................................................................................... 6

1.1.1 Nguồn nhân lực ................................................................................................. 6

1.1.2 Lực lượng lao động ........................................................................................... 7

1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực ................ 8

1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh gia nhập WTO ............................... 14

1.2.1 Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối

cảnh gia nhập WTO.................................................................................................... 14

1.2.2 Các yếu tố tác động đến nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập

WTO ........................................................................................................................... 19

1.2.3 Yêu cầu của việc phát triển nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh hội

nhập WTO .................................................................................................................. 22

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TP.HCM VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....................................................................................... 26

2.1 Tổng quan về nguồn nhân lực và thực trạng vấn đề đào tạo, sử dụng nguồn

nhân lực tại TP.HCM .................................................................................................26

2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến đào tạo, sử dụng nguồn

nhân lực TP.HCM ...................................................................................................... 26

2.1.2 Khái quát về dân số TP.HCM ........................................................................... 32

2.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực TP.HCM................................................................ 35

2.1.4 Lao động đang làm việc trên địa bàn TP.HCM................................................. 40

2.1.5 Khái quát về tình hình giáo dục, đào tạo và các chính sách phát triển nguồn

nhân lực tại TP.HCM trong những năm qua .............................................................. 43

2.2 Một số vấn đề cấp thiết trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực

TP.HM và nguyên nhân..............................................................................................52

2.2.1 Một số vấn đề cấp thiết đặt ra............................................................................ 52

2.2.2 Nguyên nhân và những nhân tố tác động .......................................................... 59

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM TRONG BỐI

CẢNH GIA NHẬP WTO .......................................................................................... 63

3.1 Định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đến năm

2020...............................................................................................................................63

3.1.1 Định hướng phát triển kinh tế – xã hội.............................................................. 63

3.1.2 Mục tiêu phát triển TP. HCM đến 2020............................................................ 64

3.1.3 Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố đến năm 2020 .......................... 66

3.2 Định hướng và một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu

cầu gia nhập WTO ...................................................................................................... 67

3.2.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 .................... 67

3.2.2 Nhu cầu về nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020 ..................................... 70

3.2.3 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực TP.HCM đáp ứng

yêu cầu gia nhập WTO.................................................................................................. 73

KẾT LUẬN.................................................................................................................. 90

PHỤ LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

: Xã Hội Chủ Nghĩa • XHCN

: kinh tế xã hội • KT – XH

: Tổ chức thương mại thế giới • WTO

: Liên Hiệp Quốc • LHQ

: khoa học công nghệ • KH – CN

: Tổng sản phẩm quốc nội • GDP

: Vùng kinh tế trọng điểm phía nam • Vùng KTTĐPN

: Thành phố Hồ Chí Minh • TP.HCM

• Sở LĐ TB và XH : Sở Lao động thương binh và xã hội

: nguồn nhân lực • NNL

: lực lượng lao động • LLLĐ

: lao động • LĐ

: khu chế xuất • KCX

: khu công nghiệp • KCN

: doanh nghiệp • DN

: người lao động • NLĐ

: chuyên môn kỹ thuật • CMKT

: cao đẳng, đại học • CĐ, ĐH

: trung học chuyên nghiệp • THCN

: công nhân kỹ thuật • CNKT

: trung học cơ sở • THCS

: trung học phổ thông • THPT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang Số hiệu bảng

33 35 36 37 Bảng 2.1 Bảng 2.2 Bảng 2.3 Bảng 2.4

38 Bảng 2.5

39 Bảng 2.6

40 Bảng 2.7

42 42 Bảng 2.8 Bảng 2.9

44 Bảng 2.10

47 47 50 Bảng 2.11 Bảng 2.12 Bảng 2.13

55 Bảng 2.14

57 66 68 69 Bảng 2.15 Bảng 3.1 Bảng 3.2 Bảng 3.3

71 Bảng 3.4

72 Bảng 3.5 Nội dung Một số chỉ tiêu dân số trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2001- 2006 Số năm đi học bình quân của dân số từ 10 tuổi trở lên Các chỉ tiêu về NNL TP.HCM Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn TP.HCM Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ 15 tuổi trở lên năm 2006 Trình độ chuyên môn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn thành phố HCM Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế Trường, lớp, giáo viên, học sinh mầm non trên địa bàn TP.HCM ĐH, CĐ, THCN năm học 2007 theo loại hình đào tạo năm 2007 Số sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH và CĐ Các nghành nghề đào tạo Nhu cầu tuyển dụng lao động tại các DN của thành phố năm 2008 phân theo trình độ Tình hình tăng giảm lao động trong năm 2007 ở các DN trên địa bàn thành phố Cơ cấu GDP của TP.HCM năm 2010 và 2020 Dự báo về dân số TP.HCM năm 2010 và 2020 Dự báo về dân số và NNL của TP.HCM năm 2010 và 2020 Nhu cầu về NNL một số ngành trọng yếu năm 2010 và 2020 trên địa bàn TP.HCM Nhu cầu NNL chất lượng cao cho TP.HCM đến năm 2010 và 2020

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra

đời của mạng internet hầu như bao phủ khắp mọi nơi trên hành tinh chúng ta. Điều này

khiến cho các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới ngày càng trở nên gần gũi với nhau hơn.

Sự ra đời của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như WTO, EU, APEC, AFTA,

ASEAN, NAFTA... đã mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia trong việc tiếp cận các

điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ phát triển, vì vậy, đã thu hút nhiều quốc gia,

lãnh thổ cùng tham gia. Không đi ngoài xu thế đó, Việt Nam đã tích cực tham gia vào

các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việc trở thành thành viên của tổ chức thương

mại lớn nhất thế giới WTO là minh chứng lớn nhất cho tinh thần đó. Vào WTO sẽ

mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế vốn còn yếu kém và lạc

hậu. Bên cạnh đó, có rất nhiều thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, và nếu không

vượt qua được thì những hậu quả mà nó đem lại là rất lớn.

TP.HCM là thành phố lớn nhất Việt Nam. Với những cơ sở vật chất kinh tế kỹ

thuật hiện có, thành phố được xem là biểu tượng về sự phát triển của Việt Nam. Là

trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất nước, có thể nói, thành phố HCM là nơi chịu

sự tác động mạnh mẽ nhất khi Việt Nam gia nhập WTO. Bên cạnh những thuận lợi, sự

hội nhập quốc tế của Việt Nam và TP.HCM đang phải đối đầu với nhiều thách thức,

trong đó chất lượng NNL là một trong những thách thức lớn nhất và có ý nghĩa quyết

định đến sự thành công trong tiến trình hội nhập. Kinh nghiệm của các nước phát triển

(MDCs) và nước công nghiệp hóa (NICs) trên thế giới cho thấy chỉ có NNL chất

lượng cao mới là nguồn động lực chính thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của một

quốc gia, và đầu tư cho con người là đầu tư hiệu quả nhất trong tất cả các kênh đầu tư

của bất cứ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào.

Để hội nhập thành công và đạt được mục tiêu là thành phố công nghiệp văn

1

minh, hiện đại nhất Việt Nam vào năm 2020, vấn đề phát triển NNL thành phố phải

được đặt lên hàng đầu. Hiện trạng NNL của thành phố ra sao? Có những thuận lợi và

khó khăn gì trong quá trình phát triển NNL? Giải pháp nào để đầu tư phát triển NNL

nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố trong quá trình gia nhập WTO? Đó là

những vấn đề mà đề tài “Phát triển NNL trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh Việt

Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020” đề cập đến.

2. Tổng quan những vấn đề nghiên cứu có liên quan

Phát triển NNL là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát

triển của mỗi quốc gia, do vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu viết về

đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau như công trình nghiên cứu “Quản lý và phát

triển nguồn nhân lực xã hội” do GS.TS Bùi Văn Nhơn biên soạn, xuất bản năm 2006

hay luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Kim Hải “Sử dụng nguồn nhân lực trong

quá trình công nghiệp hóa” bảo vệ năm 2000… Riêng trên địa bàn TP.HCM thì có “

Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực” do PTS.Trần Du Lịch làm chủ nhiệm nghiên

cứu về vấn đề NNL trên địa bàn thành phố HCM phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa –

hiện đại hóa, hoàn thành 1999; “Phân tích các mối quan hệ giữa biến động dân số và

tăng trưởng kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” do Th.S Cao Minh Nghĩa

chủ nhiệm hoàn thành năm 2007… Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình nghiên

cứu, bài viết, tài liệu trên các tạp chí chuyên ngành đề cập tới nhiều khía cạnh khác

nhau về vấn đề này.

Điểm mới của đề tài

Những công trình nghiên cứu trên đây thường phân tích thực trạng về NNL với

những tồn tại, hạn chế và đề xuất ra những giải pháp nhằm phát triển NNL chủ yếu

phục vụ cho quá trình phát triển KT – XH và sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại

hóa nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp

cận và nghiên cứu vấn đề NNL trên địa bàn TPHCM trong bối cảnh Việt Nam gia

nhập vào tổ chức Thương mại Thế giới. Do vây, đề tài này đi sâu nghiên cứu vấn đề

trên, phân tích thực trạng đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển

2

NNL thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO giai đoạn 2006 – 2020.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Thứ nhất, khảo sát một số vấn đề lý luận về NNL và phát triển NNL, các nhân

tố tác động tới NNL, yêu cầu phát triển NNL trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

nói chung và WTO nói riêng.

Thứ hai, phân tích thực trạng NNL trên địa bàn thành phố những năm qua, nêu

những thành tựu đồng thời phát hiện những vấn đề yếu kém, bất cập, tìm hiểu nguyên

nhân và hệ quả của những vấn đề này.

Thứ ba, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm

phát triển NNL thành phố trong giai đoạn từ nay tới năm 2020, đáp ứng yêu cầu gia

nhập WTO.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài : NNL và vấn đề phát triển NNL trên địa bàn

TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài : luận văn này chỉ nghiên cứu vấn đề NNL trên

địa bàn TP.HCM trong khoảng thời gian từ 2000 – 2006 và dự báo triển vọng tới

những năm 2010, 2020.

5. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài phương pháp duy vật biện chứng, luận văn còn sử dụng các biện pháp

sau :

- Phương pháp phân tích, tổng hợp : trên cơ sở phân tích các số liệu, báo cáo

thống kê từ Viện kinh tế, các sở, các tổ chức KT - XH về kết quả điều tra NNL, từ đó

xử lý và tổng hợp thành những chỉ tiêu cụ thể về NNL thành phố.

Phương pháp điều tra thống kê chủ yếu hướng vào 3 đối tượng : nguồn lao

động, nhà đào tạo, nhà sử dụng. Kết quả điều tra nhằm xác định hiện trạng chất lượng

NNL thành phố HCM; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác giáo dục – đào tạo của

thành phố; tình hình sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế, các DN, các tổ

3

chức KT - XH. Mặt khác nhằm đánh giá chất lượng đào tạo, khả năng và điều kiện đào

tạo của thành phố cũng như dự báo nhu cầu về số lượng, trình độ, cơ cấu lao động

trong các ngành nghề đến năm 2010 và 2020 cho phù hợp với xu hướng phát triển KT

- XH của thành phố trong thời kỳ hội nhập.

Phương pháp mô tả các số liệu, các bảng biểu về NNL

6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài : “Phát triển NNL trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh

Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới giai đoạn 2006 – 2020” góp phần

khẳng định vai trò của NNL trong quá trình phát triển KT - XH của thành phố cũng

như của cả nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.

Nghiên cứu đề tài này còn cho thấy việc đầu tư cho con người là kênh đầu tư

quan trọng và hiệu quả nhất đối với sự phát triển. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả

cần phải đầu tư đúng hướng, đúng cách. Chỉ có đầu tư một cách hiệu quả vào nguồn

lực con người mới là yếu tố quyết định sự thành công trong đối với quá trình phát triển

của một quốc gia, vùng lãnh thổ.

TP.HCM là trung tâm kinh tế - tài chính – văn hóa lớn nhất Việt Nam, có vị trí

đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển chung của cả nước. Việc phấn đấu đưa thành

phố trở thành một thành phố công nghiệp, văn minh hiện đại và uy tín trong khu vực

không chỉ là mục tiêu lớn trong quá trình phát triển thành phố mà còn có một ý nghĩa

cực kỳ quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, việc chủ

động phát triển mạnh TP.HCM không chỉ là yêu cầu cấp thiết đối với riêng thành phố

mà còn là mục tiêu của quốc gia.

7. Kết cấu của luận văn

Với 94 trang, luận văn gồm 3 chương, phần mở đầu và kết luận. Ngoài ra luận

văn còn bao gồm phần danh mục chữ viết tắt, bảng biểu, mục lục, phụ lục và tài liệu

tham khảo.

(cid:141) Chương 1 : Nguồn nhân lực và vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong bối

cảnh gia nhập WTO.

4

(cid:141) Chương 2 : Thực trạng nguồn nhân lực tại TP.HCM và những vấn đề đặt ra.

(cid:141) Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn

5

nhân lực trên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.

Chương 1

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO

1.1 Một số khái niệm

1.1.1 Nguồn nhân lực

Trong những năm gần đây, yếu tố con người được xem xét với tư cách là một

nguồn lực cơ bản cho sự phát triển KT - XH đã hình thành khái niệm mới : NNL hay

nguồn lực con người. Các lý thuyết kinh tế và các công trình nghiên cứu gần đây đã

đưa ra các quan niệm về NNL trên các góc độ sau :

Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, yếu tố con người được đề cập với tư cách

là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hóa dịch vụ. Ở đây, con

người được xem xét từ góc độ là những LLLĐ cơ bản nhất của xã hội. Việc cung cấp

đầy đủ và kịp thời LLLĐ theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất để

đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ

Trong lý luận về vốn người, con người được xem xét trước hết như một yếu tố

của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển KT - XH. Ngoài ra, lý luận về

vốn người còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu cho sự phát triển của nó. Đầu

tư cho con người cũng tương tự như đầu tư vào các lĩnh vực khác, nghĩa là đầu tư để

thu lợi trong tương lai. Cách tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu hết các

nước hiện nay.

Theo một cách tiếp cận khác, Ngân hàng thế giới cho rằng : NNL là toàn bộ

vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây,

NNL được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như : vốn tiền,

công nghệ, tài nguyên thiên nhiên....Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong

6

các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.

Cũng dựa trên cách tiếp cận này, LHQ đưa ra khái niệm về NNL và cho rằng

NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự

phát triển của đất nước.

Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, NNL được hiểu là toàn bộ số dân trong độ

tuổi lao động theo quy định (15 – 60 tuổi đối với Nam và 15 – 55 tuổi đối với Nữ).

Từ một số cách tiếp cận trên có thể thấy rằng, NNL là một khái niệm rộng, mà

nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh, thứ nhất, đó là toàn bộ khả năng hoạt động của

LLLĐ xã hội, thứ hai, đó là sức lao động, khả năng, trình độ, kỹ năng, ý thức của từng cá

nhân và mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân đó. Mặt thứ hai của NNL đang ngày càng

được quan tâm và rất có ý nghĩa đối với sự phát triển KT - XH, và chính mặt này nói lên

chất lượng của NNL.

1.1.2 Lực lượng lao động

Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và quan điểm của các

nước thành viên thì LLLĐ (hay nhân khẩu hoạt động kinh tế) là dân số trong độ tuổi

lao động thực tế có việc làm và những người thất nghiệp.

Giữa các quốc gia có sự khác nhau về quy định độ tuổi lao động. Gần đây,

nhiều nước lấy tuổi tối thiểu là 15 tuổi, còn tuổi tối đa vẫn có nhiều sự khác nhau. Có

nước là 60, có nước là 65, thậm chí có nước là 70, 75 tuổi, tùy thuộc vào tình hình

phát triển KT - XH của mỗi nước. Đặc biệt ở Úc không có quy định tuổi về hưu, và do

đó, không có giới hạn tuổi tối đa.

Theo Tổng cục thống kê Việt Nam thì LLLĐ bao gồm tất cả những người đang

làm việc (bao gồm những người trong tuổi lao động và những người ngoài tuổi lao

động) và những người thất nghiệp. Trong đó, số người ngoài tuổi lao động đang có

việc làm được tính vào LLLĐ theo giới hạn dưới là 13 tuổi và giới hạn trên là 65 tuổi.

Như vậy, LLLĐ ở nước ta bao gồm hai thành phần :

Những người trong độ tuổi lao động đang làm việc hay đang thất nghiệp. -

Những người ngoài tuổi lao động nhưng nằm trong khung 13 – 65 tuổi đang có -

7

việc làm.

Cũng có những nhà khoa học và giới thực tiễn cho rằng, LLLĐ bao gồm những

NLĐ đang làm việc và những người thất nghiệp. Quan điểm này thực tế hơn quan

điểm của ILO vì ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác, số trẻ em vị

thành niên, số người trên tuổi lao động thực tế đang làm việc chiếm một tỷ lệ khá cao

trong dân số.

Như vậy, ta có thể hiểu LLLĐ là tổng số người đang có việc làm và số người

đang thất nghiệp.

1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân

lực

1.1.3.1 Phát triển nguồn nhân lực

Cũng tương tự như trong các thuật ngữ tăng trưởng và phát triển kinh tế, thuật

ngữ phát triển NNL gắn liền với sự hòan thiện, nâng cao chất lượng NNL, được biểu

hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức

khỏe và thể lực cũng như ý thức, đạo đức của NNL.

Có thể hiểu phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách

và biện pháp nhằm hòan thiện và nâng cao chất lượng cho NNL (trí tuệ, thể chất và

phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về NNL cho sự phát triển KT - XH

trong từng giai đoạn phát triển. Một cách rõ ràng hơn, có thể nói phát triển NNL là các

hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích sự đóng góp về kiến thức và thể lực của người

lao động nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất và phát triển. Kiến thức có được nhờ

quá trình đào tạo và tiếp thu kinh nghiệm, trong khi đó thể lực có được nhờ chế độ dinh

dưỡng, rèn luyện thân thể và chăm sóc y tế. Như vậy phát triển NNL bao gồm các quá

trình như phát triển giáo dục đào tạo, tiếp thu kinh nghiệm, tăng cường thể lực, kế hoạch

hóa dân số, tăng nguồn vốn xã hội v.v. trong đó, giáo dục đào tạo là một kênh có vai trò

đặc biệt. Có thể nói giáo dục đào tạo là yếu tố nền tảng của phát triển NNL. Giáo dục

đào tạo không chỉ góp phần nâng cao trình độ nhân lực, mà còn đóng góp vào việc

8

nâng cao tất cả các quá trình nêu trên trong việc phát triển NNL.

Phát triển NNL là khái niệm rộng hơn đào tạo NNL. Đào tạo NNL là việc

thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, trang bị cho người lao động những kiến thức,

kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu của các hoạt động thực tiễn.

1.1.3.2 Chất lượng nguồn nhân lực và các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá chất lượng

nguồn nhân lực

Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL thể hiện mối quan hệ giữa các

yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL. Chất lượng NNL không những là

chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát

triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng NNL cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ

hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ

văn minh của một xã hội nhất định.

Chất lượng NNL được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các

(cid:110) Thứ nhất : Thể lực của NNL

chỉ tiêu chủ yếu sau :

Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể

chất và tinh thần. Sức khỏe vừa là mục đích của phát triển, đồng thời nó cũng là điều

kiện của sự phát triển hài hòa của con người cả về vật chất và tinh thần. Đó là sức

khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao

động chân tay. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của họat động thần kinh, là khả năng

vận động của trí tuệ, biến tư duy thành họat động thực tiễn. Tổ chức Y tế thế giới

WHO đã nêu ra định nghĩa “ sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể

chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật”. Sức khỏe

con người chịu tác động của nhiều nhân tố : tự nhiên, kinh tế, xã hội và được phản ánh

bằng một hệ thống chỉ tiêu bao gồm : các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe, các chỉ tiêu về

bệnh tật và các chỉ tiêu về cơ sở vật chất, các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.

Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe. Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại :

9

+ Thể lực tốt.

+ Thể lực trung bình.

+ Thể lực yếu, không có khả năng lao động.

Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khỏe của NLĐ, người ta còn nêu ra các

chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của quốc gia thông qua :

+Tỷ lệ sinh thô, chết thô, tỷ lệ tăng tự nhiên.

+ Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi.

+ Tỷ lệ dừng mức sinh.

+ Tuổi thọ trung bình.

(cid:111) Thứ hai : trí lực của NNL, bao gồm hai chỉ tiêu cơ bản : trình độ văn hóa và

+ Tỷ lệ giáo dục đào tạo / đầu người…

trình độ chuyên môn kỹ thuật.

(cid:139) Trình độ văn hóa

Trình độ văn hóa của NLĐ là sự hiểu biết của NLĐ đối với những kiến thức

phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hóa của dân

số biểu hiện bằng mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình độ văn hóa được cung cấp

qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của

mỗi cá nhân và được đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu :

(cid:190) Tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có thể đọc,

viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước

ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên.

Phương pháp tính :

Các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của

một quốc gia. Các thống kê giáo dục ở các nước trên thế giới hiện nay đều sử dụng chỉ

10

tiêu này.

(cid:190)Số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên : là số năm

trung bình một người được đi học.

Trình độ văn hóa của dân số hay của NNL là một chỉ tiêu hết sức quan trọng

phản ánh chất lượng NNL và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển KT - XH.

Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.

(cid:139) Trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)

Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào

đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH, có

khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình

độ chuyên môn của NNL được đo bằng :

Tỷ lệ tốt nghiệp trung cấp

Tỷ lệ tốt nghiệp CĐ, ĐH

Tỷ lệ tốt nghiệp trên ĐH

Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như

ĐH bao gồm : kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…thậm chí trong từng chuyên môn lại chia

thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa.

Trình độ kỹ thuật của NLĐ thường dùng để chỉ trình độ của người được đào tạo

ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về

công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu :

- Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông ;

- Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;

- Trình độ tay nghề theo bậc thợ;

Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua

chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng NNL.

11

(cid:144) Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trình độ CMKT của NNL

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng -

số lao động.

Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn của LLLĐ mỗi

quốc gia, của các vùng lãnh thổ.

- Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo (CNKT ; THCN; ĐH và sau ĐH):

Cơ cấu bậc đào tạo tính theo ĐH, CĐ / trung học/ dạy nghề cho ta thấy được cơ

cấu này có cân đối với nhu cầu của thực tế hay không. Trên cơ sở đó có kế hoạch điều

(cid:112)Thứ ba : về phẩm chất tâm lý xã hội của NNL

chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể.

Ngoài yếu tố thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đòi hỏi NLĐ hàng lọat phẩm

chất như: tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp,

có tinh thần trách nhiệm cao…Những phẩm chất này gắn liền với truyền thống văn

hóa dân tộc.

Để đánh giá yếu tố này rất khó dùng phương pháp thống kê và xác định các chỉ

tiêu định lượng như các yếu tố về thể lực và trí tuệ của NNL. Vì vậy, phương pháp

phương pháp đánh giá chất lượng NNL về yếu tố phẩm chất tâm lý xã hội thường

được tiến hành bằng các cuộc điều tra tâm lý và xã hội học và được đánh giá chủ yếu

bằng các chỉ tiêu định tính. Tuy nhiên, trong từng khía cạnh của phẩm chất này, người

ta cũng có thể đánh giá bằng phương pháp thống kê và xác định bằng các chỉ tiêu định

hướng như : tỷ lệ NLĐ vi phạm kỷ luật về thời gian lao động (đi muộn, về sớm, không

chấp hành quy định giờ giấc lao động trong thời gian làm việc), tỷ lệ số người vi phạm

(cid:113) Thứ tư : chỉ tiêu tổng hợp HDI

nguyên tắc làm việc, tỷ lệ số người bị thi hành kỷ luật trong năm…

Chỉ số phát triển con người HDI

Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, Báo Cáo Phát

Triển Con Người năm 1990 và các Báo Cáo tiếp theo của Tổ chức phát triển Liên hiệp

quốc (UNDP) đã đưa ra một loạt các chỉ số, trong đó chỉ số tổng hợp nhất và được sử

12

dụng phổ biến nhất được đưa ra từ năm 1990 (và được hiệu chỉnh lại năm 1999) là chỉ

số phát triển con người (Human Development Index - HDI). HDI được xác định theo

ba yếu tố cơ bản và tổng hợp nhất : sức khỏe, trình độ học vấn và thu nhập.

- Về sức khỏe : được xác định qua chỉ tiêu tuổi thọ bình quân của dân số;

- Về trình độ học vấn : được xác định qua hai chỉ tiêu : tỷ lệ dân số biết chữ và

số năm đi học của một người (tính từ 25 tuổi trở lên);

- Về thu nhập : được đo bằng chỉ tiêu GDP tính bình quân đầu người thực tế;

Trên cơ sở thiết lập giới hạn cận trên và cận dưới phù hợp trạng thái phát triển

con người toàn cầu, HDI chỉ nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. HDI của một quốc

gia càng lớn thì trình độ phát triển con người của quốc gia đó được coi là càng cao và

ngược lại. HDI là thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh tế thuần

túy về sự phát triển, bổ sung cho thước đo giáo dục, dẫu quan trọng nhưng còn phiến

diện và sai lệch. Có thể nói, với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển trở nên

toàn diện và phản ánh chân thực hơn. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng

thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là một căn cứ để lựa chọn và xác

định các mục tiêu và chính sách phát triển.

Tuy nhiên, HDI là một chỉ số còn tương đối giản đơn, không bao quát hết tính

phong phú, nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh một cách gián tiếp,

do đó chưa đầy đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng sống

của con người như chính trị, văn hóa, môi trường hay mức độ tham gia của người dân.

HDI của một quốc gia chỉ là một chỉ số trung bình, do đó, cũng như giáo dục, nó có

thể che lấp các quá trình phân phối, tình trạng bất bình đẳng, hay sự khác biệt về phát

triển con người giữa các vùng và các nhóm dân cư. Nó có thể không làm nổi bật được

những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát

triển. Các khía cạnh chất lượng của các yếu tố cấu thành HDI cũng khó có thể phản

ánh đầy đủ : trình độ giáo dục thật ra không chỉ thể hiện bằng tỷ lệ biết chữ hay số

năm đi học mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng và

13

cơ hội lựa chọn của người học, đặc biệt với giáo dục bậc cao.

Cho đến nay HDI vẫn là một chỉ số tốt nhất được dùng để đánh giá sự phát triển

con nguời của một quốc gia. Tuy nhiên, những xem xét vừa nêu trên cho thấy HDI cần

được sử dụng cùng với nhiều thước đo bổ sung khác. Chẳng hạn, nhằm chỉ rõ sự khác

biệt về trình độ phát triển con người giữa các vùng, các nhóm xã hội, cần xây dựng

HDI chi tiết cho từng địa phương và từng nhóm đối tượng dân cư cần nghiên cứu.

1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh gia nhập WTO

1.2.1 Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối

cảnh gia nhập WTO

Vai trò quan trọng mang tính quyết định của NNL đối với sự phát triển KT -

XH của các quốc gia là vấn đề đã được khẳng định. Những công trình nghiên cứu gần

đây đều đi đến kết luận rằng : con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố

quyết định nhất cho mọi quá trình phát triển KT – XH.

So với các nguồn lực khác, NNL có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không những bị cạn

kiệt trong quá trình khai thác và sử dụng mà ngược lại nó còn có khả năng tái sinh và

phát triển. Chính điều này là điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn vốn sức lao động và

các nguồn vốn khác, là yếu tố cơ bản làm cho nhân tố con người trở thành nguồn lực

chính cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do đó, ở hầu hết các quốc gia hiện nay đều

đặt con người ở vị trí trung tâm cúa sự phát triển và đề ra các chính sách, biện pháp

nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực quan trọng nay.

Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng kinh tế

của Mác. Với tư tưởng chủ đạo : chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và là nguồn gốc của

của cải xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá rất cao vai trò của

yếu tố con người. Việc sử dụng đầy đủ và có hiệu quả tiềm năng nhân lực là vấn đề cơ

bản nhất để phát triển sản xuất và nâng cao năng suất. Ngay cả trong điều kiện của

cuộc cách mạng công nghiệp, khi khoa học đang trực tiếp trở thành một bộ phận quan

trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất, các phát minh khoa học được áp dụng ngày

càng nhiều hơn vào sản xuất, vai trò của yếu tố con người không vì thế mà giảm nhẹ.

14

Điều này đã được Mác khẳng định : trong quá trình lao động, nhờ những tư liệu lao

động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải thay đổi theo một

mục đích đã định trước… [8, 271]. Tất cả những thứ đó là thành quả sáng tạo của bộ

óc con người, được bàn tay con người tạo ra, là sức mạnh tri thức đã được vật hóa.

Nhận xét trên đây của Mác có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó cho thấy tiến bộ

kỹ thuật không hề làm giảm nghĩa của yếu tố con người mà ngược lại, cùng với quá

trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, con người cùng với tiềm năng trí

tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.

Thực tiễn trong lịch sử cũng cho thấy, những quốc gia tiến hành công nghiệp

hóa dựa vào khai thác và sử dụng tiềm năng của yếu tố con người thì luôn giữ được

tốc độ nhanh và bền vững như Nhật Bản và các quốc gia Đông Á như Hàn Quốc,

Hồng kông, Singapore. Ngược lại, những quốc gia chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên hoặc

vốn từ bên ngoài như số nước Trung Đông, Châu Phi hoặc Mĩ La Tinh thì tốc độ tăng

trưởng và phát triển không ổn định. Chẳng hạn, Nigiêria- một quốc gia rất giàu có nhờ

dầu lửa, vào những năm 70 do lãng phí nguồn tài nguyên trời cho vào những công

trình thế kỷ như xây dựng những nhà máy sản xuất thép với quy mô đồ sộ và một thủ

đô mới… nên ngày nay dân chúng Nigieria còn nghèo hơn cả lúc mới giành được độc

lập năm 1960. Hoặc Brazil vào những năm 60, nền kinh tế tăng trưởng với mức thu

nhập tăng trưởng 6,4% liên tục từ 1963- 1973. Nhưng vào năm 1982, Brazil đã rơi vào

khủng hoảng về nợ nước ngoài và thu nhập bình quân đầu người không hề tăng trong

suốt mười năm liền, lạm phát luôn ở mức trên 500%/năm [7, 21].

Qua những ví dụ trên cho thấy muốn phát triển kinh tế bền vững phải dựa vào

yếu tố con người là chính chứ không thể dựa vào điều kiện tự nhiên hay các nguồn lực

bên ngoài. Các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á chính là những ví dụ tiêu biểu cho

mô hình phát triển dựa vào khai thác và phát huy yếu tố con người.

Quan điểm con người đứng ở trung tâm của sự phát triển với ý nghĩa con người

vừa là mục đích vừa là tác nhân của sự phát triển ngày càng được nhiều nước thừa

nhận và phát triển hết sức phong phú cả về lí luận lẫn thực tiễn như một quy luật phát

15

triển khách quan của thời đại. Theo Gregory Mankiw, nhà kinh tế học người Mỹ nổi

tiếng với mô hình tăng trưởng kinh tế Slow thì “sự đầu tư cho con người trong việc

nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của tòan xã

hội và nhờ đó tạo khả năng tăng năng suất lao động”.

Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng KH – CN đã làm cho nền kinh tế thế

giới bước vào đổi mới sự phát triển. Đặc điểm nổi bật của nền sản xuất hiện đại là hàm

lượng khoa học cao, ưu tiên chất lượng hơn số lượng, cơ cấu sản xuất thay đổi liên tục

do áp dụng cái mới, đầu vào vật chất ngày càng giảm, đầu vào trí tuệ ngày càng

tăng…Những đặc điểm đó làm xuất hiện mô hình phát triển mới. Trong mô hình này,

thông tin, tri thức là những yếu tố quan trọng nhất. Do đó, trí tuệ ngày càng có vai trò

quyết định cho sự phát triển. Hầu như tất cả đều thừa nhận rằng, tài nguyên chính của

một quốc gia hiện nay là “ chất xám”, là khả năng sáng tạo của đội ngũ tri thức của đất

nước. Tri thức trở thành tiêu chí tượng trưng cho sức mạnh và sự giàu có của mỗi con

người, mỗi quốc gia, là phương tiện mạnh nhất để đạt được các kết quả KT – XH.

Coi trọng và đề cao trí thức cũng chính là đề cao yếu tố con người. Mô hình sản

xuất lấy con người làm trung tâm trở thành biểu hiện nổi bật của chiến lược phát triển

ở mọi quốc gia. Khai thác và phát huy tiềm năng yếu tố con người được coi là một giải

pháp quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hiện nay.

Nói con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố quyết định cho mọi

quá trình KT – XH lại càng đúng hơn khi đi sâu phân tích hoàn cảnh KT – XH cụ thể

của nước ta hiện nay. Chúng ta gia nhập WTO trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu,

thủ công, năng suất lao động thấp với nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 20% GDP,

GDP bình quân đầu người chỉ mới 725$. Trình độ KH – CN đang ở mức trung bình

kém. Trong ngành công nghiệp, nếu so với các nước phát triển, hệ thống máy móc,

thiết bị của nước ta còn lạc hậu từ 2-4 thế hệ…. Cơ sở hạ tầng, dịch vụ yếu kém, chưa

đáp ứng được các yêu cầu phát triển hiện tại và tương lai. Thách thức này thể hiện rõ

nhất ở hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện nước… Cảng biển, sân bay

thiếu về số lượng, kém về chất lượng… Về nguồn vốn, nhìn chung nền kinh tế nước ta

16

cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác là thiếu vốn. Mặc dù tỷ lệ huy động

vốn hàng năm cho đầu tư phát triển trong những năm trở lại nay là khá cao nhưng vì

quy mô sản luợng còn quá thấp (năm 2007 là 71tỷ $) nên số vốn thực tế dành cho đầu

tư phát triển hàng năm còn ít so với một số nước khác trong khu vực. Do vậy, vốn là

một trong những vấn đề khó khăn lớn nhất mà chúng ta cần phải giải quyết trong tiến

trình phát triển kinh tế. Về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, chúng ta tuy có

phong phú về chủng loại song cũng không phải là “giàu có” so với các quốc gia khác

trong khu vực. Điều này lại càng đúng khi xét theo chỉ số trên đầu người. Có thể lấy ví

dụ về dầu mỏ, một tài nguyên mà trong những năm gần đây là một trong những yếu tố

quan trọng tạo nên sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta bằng con đường xuất khẩu ra nước

ngoài. Nhưng theo dự tính thì trữ lượng dầu khí của nước ta cũng chỉ tương tự như

Malaixia-một nước mà dân số chỉ bằng ¼ dân số nước ta. Điều này chứng tỏ rằng

nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chưa thể coi là thế mạnh của nước ta, đó là chưa kể

đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, kém hiệu quả và không

khoa học.

Đánh giá sơ bộ những nguồn lực trên để chúng ta thấy rằng, các nguồn lực về

vật chất của chúng ta còn rất yếu, chưa đủ làm tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công

nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện đó, việc gia nhập

WTO sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa –

hiện đại hóa, đưa nền sản xuất vốn còn nhỏ bé, lạc hậu và thủ công sang một nền kinh

tế công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng đang đối mặt với

những nguy cơ bị “thôn tính” ngay trên “sân nhà”, trở thành mảnh đất màu mỡ cho

những công ty và các quốc gia khác khai thác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã

khẳng định : bản thân những cơ hội tự nó không thể biến thành những lực lượng vật

chất mà nó phụ thuộc vào sự tận dụng cơ hội của chúng ta và nếu không vượt qua

những thách thức, hậu quả của nó có thể sẽ không thể khắc phục được. Hơn lúc nào

hết, vượt qua thách thức, đón lấy cơ hội trở thành con đuờng tất yếu trong tiến trình

17

phát triển KT - XH, mà nhiệm vụ đó có thể hòan thành hay không là phụ thuộc vào

những con người - NNL của Việt Nam, một nguồn lực có thể nói vừa là thế mạnh mà

cũng vừa là điểm yếu của chúng ta.

Là thành viên chính thức của WTO đang là một thuận lợi để chúng ta đưa nền

kinh tế tiến xa hơn, nếu chúng ta biết nắm bắt những thời cơ. Vào WTO, chúng

ta có cơ hội tiếp cận với các thành tựu KH – CN tiên tiến, thuận lợi trong việc phân

công lao động, hợp tác quốc tế nhằm nâng cao trình độ tay nghề, trình độ quản lý kinh

tế… Tuy nhiên, chính trong bối cảnh đó, áp lực đặt ra cho chúng ta vô cùng lớn. Lợi

ích được phân phối cho các nước thành viên trong WTO là không đồng đều, và lợi thế

luôn nghiêng về những nước phát triển. Vào WTO, tức chúng ta phải chịu áp lực cạnh

tranh một cách bình đẳng giữa các ngành nghề, giữa các quốc gia khác nhau, với

những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất nhì thế giới : Mỹ, Nhật Bản… Nếu thua

cuộc trong sự cạnh tranh khốc liệt đó, chắc chắn hậu quả để lại sẽ là vô cùng lớn.

Không những trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các tập đoàn, các quốc gia khác khai

thác mà sự lệ thuộc về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến mất quyền tự chủ về chính trị. Do

vậy, để tồn tại và phát triển trong điều kiện đó, bắt buộc các DN cũng như toàn thể nền

kinh tế phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc sản xuất ra các hàng hóa – dịch vụ

có chất lượng cao, giá thành thấp; phải có những quyết sách đúng đắn; phải có tư duy

kinh tế rộng. Làm thế nào để chúng ta có thể “nhận” nhiều và “mất” ít khi tham gia

vào sân chơi toàn cầu là vấn đề cả dân tộc cùng trăn trở. Tất cả những điều đó đều phụ

thuộc vào đội ngũ NNL, những con người tham gia vào tất cả các họat động sản xuất

– kinh doanh – dịch vụ trong nền kinh tế. Hội nhập đặt ra yêu cầu cần phải có những

con người có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, có tác phong làm việc chuyên

nghiệp, có kỷ luật và ý thức xã hội cao. Chính những con người đáp ứng được những

tiêu chuẩn đó mới có đủ sức “chèo chống” đưa Việt Nam vượt qua thách thức, đón lấy

cơ hội và tiến xa hơn trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng một đất nước

XHCN tiến bộ, công bằng, văn minh.

Từ những sự phân tích trên có thể kết luận rằng, mấu chốt để đưa đất nước ta đi lên

18

là phát huy triệt để yếu tố con người và nguồn lực chủ yếu mà chúng ta có thể dựa vào

để tiến hành phát triển đất nước là nhân tố con người, đặc biệt là trong bối cảnh hiện

nay, Việt Nam đã hội nhập vào WTO. Do vậy, việc nâng cao chất lượng NNL nhằm

phục vụ phát triển KT - XH là vấn đề có ý nghĩa then chốt nhất trong công cuộc xây dựng

và phát triển đất nước, đưa nền kinh tế đất nước phát triển hùng mạnh.

1.2.2 Các yếu tố tác động đến nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập

WTO

- Thứ nhất : Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế gắn liền với hội nhập WTO.

Cơ cấu kinh tế thành phố đang chuyển mạnh theo hướng dịch vụ, công nghiệp,

đặc biệt là dịch vụ cao cấp. Cùng với việc hội nhập WTO, luồng vốn FDI và các công

nghệ mới đổ vào Việt Nam và TP.HCM trong thời gian qua cũng gia tăng đáng kể làm

cho kinh tế thành phố đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ theo hướng phát triển mạnh

những ngành thâm dụng khoa học, kỹ thuật và chất xám. Đó là những ngành dịch vụ,

công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp : ngân hàng, chứng khoán, tài chính, công

nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục , cơ khí, điện tử – tin học, hóa

chất, chế biến…Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng đến một mô hình thành

phố công nghiệp trong những năm sắp tới. Cơ cấu kinh tế này hoàn toàn phù hợp với

xu hướng phát triển của thế giới đồng thời khai thác được những lợi thế của thành phố.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này kéo theo sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động theo

hướng tăng lao động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp, trong đó, lao động trong

ngành dịch vụ cao cấp phải tăng nhanh hơn ngành công nghiệp, đồng thời giảm lao

động trong ngành nông nghiệp một cách tuyệt đối. Vì vậy, trong chiến lược phát triển

NNL thành phố trong bối cảnh gia nhập WTO hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

là một trong những yếu tố có tác động sâu sắc nhất.

- Thứ hai : Sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Gia nhập WTO sẽ làm tăng mạnh nguồn vốn này vào Việt Nam nói chung và

TP.HCM nói riêng. Sự có mặt nhiều DN, tập đoàn và đặc biệt là các công ty xuyên

19

quốc gia (TNCs) đã làm tăng nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp đồng thời giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp. Điều này dẫn đến một

lượng lớn lao động tay nghề thấp sẽ có nguy cơ bị mất việc làm và rất khó tìm việc

hơn. Trong tình trạng đó, NLĐ sẽ phải nỗ lực hơn để tìm kiếm một công việc mới và

để làm được điều đó thì NLĐ sẽ phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của

mình. Ngoài ra, sự di chuyển vốn thường kèm theo di chuyển công nghệ, kiến thức

kinh doanh và quản lý. Do đó, kích thích phát triển giáo dục đào tạo lao động lành

nghề đáp ứng sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại

TP.HCM trên cả ba lĩnh vực : tay nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc. NLĐ

có trình độ và kỹ năng cũng phải thường xuyên cập nhật kiến thức để nâng cao trình

độ chuyên môn và khả năng vận hành công nghệ hiện đại với tinh thần “học tập suốt

đời” nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động luôn biến đổi; một số lượng

không nhỏ lao động có cơ hội được tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm làm việc của lao

động nước ngoài, được các tập đoàn trực tiếp đào tạo (đào tạo lại), kể cả đào tạo ở

nước ngoài cùng với sự “cọ xát” trong một môi trường làm việc năng động hơn,

chuyên nghiệp hơn của những lao động có tay nghề cao, có phong cách làm việc

chuyên nghiệp…sẽ có tác động thúc đẩy một bộ phận không nhỏ lao động tự tìm cách

để “nâng tầm” mình lên. Những điều này sẽ có tác động tích cực nâng cao chất lượng

NNL. Luồng vốn này còn làm tăng nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ

cấu lao động, góp phần tạo ra nhiều việc làm, bao gồm cả việc làm trực tiếp và gián

tiếp, nâng cao chất lượng NLĐ. Như vậy, đây là một trong những yếu tố hết sức quan

trọng tác động đến NNL TP.HCM trong bối cảnh hội nhập WTO.

- Thứ ba : Tự do hoá thương mại diễn ra mạnh mẽ

Gia nhập WTO dẫn đến tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ, điều này sẽ

thúc đẩy việc mở rộng phân công và hợp tác lao động giữa các nước thành viên, làm

cho việc phân bố và sử dụng các nguồn tài nguyên, NNL và các nguồn lực khác của

các nước một cách hợp lý hơn. Tự do hoá thương mại thúc đẩy cạnh tranh về giá cả,

chất lượng hàng hoá và quy trình sản xuất, quản lý lao động... Do vậy, yêu cầu đào

20

tạo, huấn luyện NNL ngày càng cao. Mặt khác, tự do hoá thương mại còn là một thách

thức lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì hàng hoá có hàm

lượng tri thức cao của các nước này chiếm tỷ lệ thấp, trình độ sản xuất hạn chế, hàng

hoá không có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá của các nước phát triển. Vì vậy,

để có thể tồn tại được trong cạnh tranh thương mại toàn cầu thì việc nâng cao chất

lượng NNL là điều cần thiết và có ý nghĩa cấp bách nhất đối với Việt Nam nói chung

và TP.HCM nói riêng trong bối cảnh hiện nay.

- Thứ tư : Sự di chuyển lao động giữa các nước thành viên WTO

Trong quá trình hội nhập WTO sẽ diễn ra các dòng dịch chuyển lao động : xuất

khẩu lao động từ các nước ít phát triển tới các nước phát triển, có nhiều việc làm và

tiền công cao; di chuyển lao động chuyên môn kỹ thuật của các nước phát triển vào

các nước tiếp nhận công nghệ (các chuyên gia khoa học công nghệ). Điều này giúp lao

động trong nước có thể tiếp cận và nâng cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm làm việc,

quản lý từ lao động chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, còn có dòng di chuyển trong

nước. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những KCN và

KCX, tạo nên dòng di chuyển lao động trong nước từ những vùng nông thôn ra thành

thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp, từ nơi thu nhập thấp

đến nơi có thu nhập cao. Như vậy, tác động của sự di chuyển lao động trong thời kỳ

hội nhập WTO sẽ làm tăng thu nhập cho NLĐ, tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất

lượng NNL. Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng là tập trung quá nhiều lao động từ

khu vực nông thôn về thành phố và đây cũng là khó khăn cho thành phố trong việc

giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên

môn cho NNL. Như vậy, sự di chuyển lao động có tác động rất lớn đến số lượng, chất

lượng và cơ cấu NNL TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.

- Thứ năm : Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo do quá trình mở cửa và

hợp tác theo lộ trình gia nhập WTO

Cùng với việc cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho nước ngoài

đầu tư vào một số ngành dịch vụ, trong đó có cả lĩnh vực giáo dục đào tạo. Điều đó sẽ

21

giúp cho giáo dục trong nước được tiếp cận với những công nghệ đào tạo tiên tiến,

chuyên nghiệp và hiệu quả hơn từ những nước có nền giáo dục phát triển. Từ đó sẽ tạo

điều kiện để đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo đang còn nhiều bất cập

và yếu kém của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Tính “độc tôn” trong lĩnh

vực này sẽ phần nào bị xóa bõ. Sự cạnh tranh sẽ diễn ra giữa hệ thống đào tạo trong

nước và những tổ chức, trung tâm, trường quốc tế. Để tồn tại được thì bản thân các

trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong nước bắt buộc phải điều chỉnh toàn bộ hệ thống

cả phương pháp, nội dung đào tạo theo huớng mở, tăng tính chuyên môn, thực hành,

hiện đại để bắt kịp trình độ giáo dục quốc tế và đáp ứng được yêu cầu đào tạo ngày

càng cao hơn trong thời kỳ hội nhập. Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát

triển NNL của TP.HCM.

Như vậy, phát triển NNL ở TP.HCM trong quá trình gia nhập WTO chịu sự tác

động mạnh mẽ của nhiều yếu tố. Nhận thức được sự tác động và vai trò của các yếu tố

đó đến sự phát triển NNL sẽ giúp chúng ta có những định hướng đúng đắn để phát

triển NNL.

1.2.3 Yêu cầu của việc phát triển nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia

nhập WTO

Trong bối cảnh gia nhập WTO, NNL của quốc gia sẽ chịu nhiều yếu tố tác động

khác nhau, vì vậy, yêu cầu phát triển NNL cũng sẽ có nhiều thay đổi so với trước đây

nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Chẳng hạn, qua một công

trình nghiên cứu của một công ty tư vấn quốc tế thăm dò ý kiến các vị chủ tịch và tổng

giám đốc của 200 công ty xuyên quốc gia về vấn đề tuyển dụng nhân viên làm việc tại

Trung Quốc cho thấy : trước đây các tiêu chuẩn thường được đưa ra ngoài tiêu chuẩn

cơ bản về trình độ CMKT là : tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm.... Nhưng

ngày nay những tiêu chuẩn này đã thay đổi thành: có tính sáng tạo, có khả năng tư

duy, xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng diễn đạt,

v.v.... Nói chung NNL phải được huấn luyện tốt. Vì vậy, quá trình hội nhập đặt ra

những yêu cầu cao đối với sự phát triển NNL TP.HCM trên cả 3 phương diện : thể lực,

22

trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội nhưng với yêu cầu cao hơn.

(cid:110)Về mặt thể lực : có sức khỏe tốt cả về mặt thể chất và tinh thần. Ngoài cơ

thể khỏe mạnh, sự dẻo dai cơ bắp thì sự sảng khoái về tinh thần, thoải mái về tâm lý

đủ khả năng làm việc với áp lực cao, linh hoạt trong việc chuyển đổi công việc, đặc

biệt là có dễ dàng di chuyển địa điểm làm việc… là điều kiện không thể thiếu đối với

NNL.

(cid:111)Về mặt trí lực : một NNL có trình độ văn hóa, có trình độ chuyên môn kỹ

thuật cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công trong hội nhập.

Sự phát triển NNL trong bối cảnh hội nhập cần đáp ứng những yêu cầu sau :

- Thứ nhất, cần phải làm một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã

hội để chuẩn bị một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của

một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh

tế trong bối cảnh gia nhập WTO và cuộc cách mạng KH - CN hiện đại dẫn đang diễn

ra như vũ bão trên thế giới.

Trong quá trình hội nhập, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã

làm tăng mạnh nhu cầu lao động trong hai khu vực dịch vụ và công nghiệp kỹ thuật

cao, trong khi đó giảm mạnh lao động trong khu vực nông nghiệp. Do vậy, trong quá

trình đào tạo và phát triển NNL, việc tăng cường đào tạo đội ngũ lao động có trình độ

chuyên môn cao làm việc trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là những ngành cao cấp :

ngân hàng, tài chính tín dụng, vận tải, du lịch, công nghệ thông tin, bất động sản..và

những ngành công nghiệp kỹ thuật cao nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển là

một vấn đề cấp bách.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, thành phố còn phải hướng đến việc

đào tạo những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt và khốc liệt để phát

triển. Việc đào tạo một thế hệ mới các doanh nhân - những người lao động có tri thức

– KH CN hiện đại, tri thức - năng lực kinh doanh - năng lực cạnh tranh để dẫn dắt

doanh nghiệp giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế trong và ngoài nước,

phải là mục tiêu cơ bản trong chính sách giáo dục – đào tạo của Việt Nam nói chung

23

và TP.HCM nói riêng.

- Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc đào tạo NNL

cần phải được đầu tư phát triển theo một phương châm mới, đó là đào tạo thường

xuyên - đào tạo suốt đời.

Do sự thay đổi nhanh chóng của KH - CN và do tính linh hoạt ghê gớm của thị

trường lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, kiến thức – kỹ năng trở nên

dễ bị lạc hậu. Vì vậy, giáo dục & đào tạo phải trở thành một nhu cầu suốt đời của con

người. Giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp phải giúp con người có thể học thường

xuyên - học suốt đời, và giáo dục phải chuẩn bị cho con người về nội dung và phương

pháp để học thường xuyên - học suốt đời.

- Thứ ba, việc sử dụng phổ biến tiếng Anh trong giáo dục & đào tạo là một yêu

cầu thiết yếu trong thời kỳ gia nhập WTO.

Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu, thứ tiếng của doanh nghiệp, của chính trị, của

ngoại giao, là tiếng “mẹ đẻ” của ngôn ngữ máy tính và Internet. Sự phổ biến của tiếng

Anh là sự thật không thể phủ nhận, và trong thực tế tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn

cầu hóa kinh tế. Muốn hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào thương mại toàn cầu thì

phải biết sử dụng tiếng Anh, nó trở thành điều kiện bắt buộc và quốc gia, lãnh thổ nào

giỏi tiếng Anh sẽ là một thế mạnh rất lớn trong quá trình hội nhập, mà Ấn Độ là một

điển hình. Việc dạy tiếng Anh trong hệ thống giáo dục thời kỳ hội nhập phải gắn liền

với dạy tin học và ngược lại, dạy tin học gắn liền với dạy tiếng Anh. Đó được xem là

công cụ bắt buộc cần phải có để có thể hội nhập vào kinh tế thế giới.

- Thứ tư, cần có đối sách giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” khi

thương mại hóa quốc tế trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo ngày càng phát triển, theo

tiến trình gia nhập WTO.

Theo lộ trình gia nhập WTO thì chúng ta phải mở cửa cả trong lĩnh vực giáo

dục đào tạo. Trong đó việc du học nước ngoài, du học tại chỗ … được coi là hành

động xuất khẩu dịch vụ giáo dục – đào tạo và đây được xem là hình thức nhập khẩu tri

thức khoa học công nghệ có hiệu quả cao của các quốc gia đang phát triển, trong đó có

24

chúng ta. Tuy nhiên việc người học sau khi được đào tạo đã không quay trở về quê

hương làm việc, cống hiến đang trở nên phổ biến. Vì vậy thành phố cần phải có đối

sách nhằm giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” sau đào tạo bằng nhiều biện

pháp, từ kinh tế tới chính trị, văn hóa, pháp luật, chế tài …

- Thứ năm : cần phải đánh giá đúng vai trò và nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao

động CNKT tay nghề cao.

Đây là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển NNL trong thời kỳ hội nhập.

Trong thời gian qua, chúng ta đã không đánh giá đúng vai trò và vị trí của đội ngũ lao

động này và vì thế, chưa có sự đầu tư nghiêm túc để phát triển lao động nghề. Trong

khi đó, không có sự tồn tại và phát triển của một quốc gia nào mà lại thiếu đội ngũ lao

động này. Để đảm bảo phát triển hiệu quả thì việc nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao

động CNKT là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng.

- Thứ sáu : cần phải nâng cao ý thức công dân, lòng yêu nước, ý thức trách

nhiệm đối với cộng đồng. Những phẩm chất này sẽ giúp NLĐ có thể vượt qua được

những cám dỗ bời những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền với những

“sức mạnh vạn năng” của nó có thể làm đảo lộn mọi luân thường đạo lý, chà đạp

luơng tâm, phẩm hạnh của con người. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập thì đặc điểm

trên là hết sức cần thiết.

(cid:112)Về mặt phẩm chất tâm lý xã hội của NNL

Yêu cầu phát triển NNL đòi hỏi NLĐ phải có những phẩm chất tâm lý xã hội

cơ bản sau :

Có ý thức kỷ luật và tự giác cao -

Có niềm say mê nghề nghiệp, có tinh thần đồng đội. -

Sự sáng tạo, năng động trong công việc. -

Có khả năng phân tích, xử lý công việc linh hoạt. -

Có kỹ năng giải quyết vấn đề và có kỹ năng làm việc nhóm. -

Có khả năng chuyển đổi công việc cao thích ứng với những thay đổi trong -

25

lĩnh vực công nghệ và quản lý.

Chương 2

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TP.HCM VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1 Tổng quan về nguồn nhân lực và thực trạng vấn đề đào tạo, sử dụng nguồn

nhân lực tại TP.HCM

2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến đào tạo, sử dụng nguồn

nhân lực TP.HCM

2.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên

TP.HCM có địa giới hành chính chung với các tỉnh Bình Dương ở phía Bắc, Tây

Ninh ở phía Tây Bắc, phía Đông và Đông Bắc giáp Đồng Nai, phía Đông Nam giáp Bà

Rịa - Vũng Tàu, phía Tây và Tây Nam giáp Long An và Tiền Giang, phía Nam giáp biển Đông với chiều dài bờ biển khoảng 15 km. Diện tích tự nhiên là 2.095,24 km2,

chia thành 24 quận, huyện với 317 phường, xã. TP.HCM nằm ở trung tâm Nam Bộ,

cách thủ đô Hà Nội 1.738 km về phía Đông Nam. Trung tâm thành phố cách bờ biển

Đông 50 km đường chim bay. Hiện nay, TP.HCM có 19 quận nội thành và 5 huyện

ngoại thành, cấp quận được chia thành nhiều phường, huyện chia thành nhiều xã, và thị

trấn, trong đó Quận 1 là trung tâm hành chánh, kinh tế và giao dịch của thành phố. Các

cơ quan đầu não của thành phố nằm trên địa bàn quận này.

Địa hình TP.HCM phần lớn bằng phẳng, có ít đồi núi ở phía Bắc và Đông Bắc,

với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Nhìn chung có thể chia địa hình TP.HCM

thành 4 dạng chính có liên quan đến chọn độ cao bố trí các công trình xây dựng : dạng

đất gò cao lượn sóng (độ cao thay đổi từ 4 đến 32 m, trong đó 4 – 10 m chiếm khoảng

19% tổng diện tích. Phần cao trên 10 m chiếm 11%, phân bố phần lớn ở huyện Củ Chi,

Hóc Môn, một phần ở Thủ Đức, Bình Chánh); dạng đất bằng phẳng thấp (độ cao xấp xỉ

2 đến 4 m, điều kiện tiêu thoát nước tương đối thuận lợi, phân bố ở nội thành, phần đất

của Thủ Đức và Hóc Môn nằm dọc theo sông Sài Gòn và nam Bình Chánh chiếm 15%

26

diện tích); dạng trũng thấp, đầm lầy phía tây nam (độ cao phổ biến từ 1 đến 2m, chiếm

khoảng 34% diện tích); dạng trũng thấp đầm lầy mới hình thành ven biển (độ cao phổ

biến khoảng 0 đến 1 m, nhiều nơi dưới 0 m, đa số chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng

ngày, chiếm khoảng 21% diện tích).

Không có núi lửa, động đất, lụt lội, ít khi có bão lớn, thành phố nằm trong vùng

nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo, có khí hậu, thời tiết dễ chịu với hai

mùa khô và mưa. Khí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa

bình quân năm 1.979 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55 0C, không có mùa đông. Mưa thì mau tạnh ráo và nắng thì không quá

nóng. Cảnh quan nơi đây phong phú và đa dạng, động thực vật đặc chủng và kho tàng

tài nguyên nhân văn đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt tiền thành phố thuộc vùng biển Nam

Bộ, nơi có nhiều tiềm năng kinh tế biển như hải sản, dầu khí và tuyến hàng hải quốc tế.

Cận kề thành phố là vựa lúa lớn nhất được viền quanh và đan xen bởi hệ sinh thái rừng

ngập mặn, rừng tràm, đồng bưng.

Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn thành phố chủ yếu là vật liệu xây dựng như

sét gạch ngói, cát, sạn, sỏi; nguyên liệu cho gốm sứ và chất trợ dụng; các nguyên liệu

khác như than bùn… Chỉ có một số khoáng sản có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu

của thành phố : nguyên liệu làm vật liệu xây dựng, sành sứ thuỷ tinh, nguyên nhiên

liệu… Các khoáng sản khác như kim loại đen, kim loại màu (trừ nhôm), than đá… đều

không có triển vọng hoặc chưa được phát hiện.

Thành phố là một nơi có tài nguyên du lịch phong phú. Nơi đây là một vùng đất

gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp đặt

chân lên Việt Nam. Có nhiều di tích lịch sử, cách mạng nổi tiếng, hệ thống các bảo

tàng, nhà hát, nhà văn hoá, các công trình kiến trúc thời Pháp… và nhiều khu du lịch,

khu vui chơi giải trí, nhiều công trình kiến trúc cổ, hệ thống các ngôi chùa cổ…. Đây là

thế mạnh của thành phố trong việc phát triển kinh tế du lịch và những ngành nghề liên

quan như đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, thăm quan, giải

trí…của du khách đồng thời là lợi thế để thành phố phân bổ NNL trẻ và dồi dào theo

27

hướng đa ngành nghề dịch vụ.

Với điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, TP.HCM có điều kiện để phát

triển KT - XH. Điều này tác động rất lớn đến việc đào tạo và sử dụng NNL của thành

phố. Sài Gòn – nơi một thời được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" đã là trung tâm

thương mại và là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc

thái văn hoá riêng góp phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng. Đặc trưng văn hoá của

vùng đất này là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc với những nét văn hoá

phương Bắc, phương Tây, góp phần hình thành lối sống, tính cách con người Sài Gòn.

Đó là những con người thẳng thắn, bộc trực, phóng khoáng, có bản lĩnh, năng động,

dám nghĩ, dám làm. Con người thành phố luôn thể hiện tính năng động, sáng tạo, nhạy

bén với kỹ thuật và công nghệ mới; có khả năng chóng thích nghi và hội nhập vào điều

kiện mới của nền kinh tế thị trường nhanh.

2.1.1.2 Đặc điểm kinh tế – xã hội

Với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống mạng lưới cơ sở hạ tầng

kinh tế kỹ thuật và xã hội đồng bộ, TP.HCM hiện nay là khu vực kinh tế trọng điểm

phía Nam và là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch, văn hóa, Giáo dục lớn nhất và

năng động nhất của Việt Nam.

(cid:190)Về kinh tế : TP.HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước. Kinh tế của thành phố đã

tăng trưởng mạnh và ổn định trong những năm trở lại đây, luôn đi đầu trong cả nước về

tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. Tốc độ tăng

trưởng GDP bình quân giai đọan 2001 – 2006 của thành phố là 11,2%, trong đó khu

vực 1 có tốc độ tăng thấp nhất và khu vực 3 có tốc độ tăng cao nhất và có xu hướng

tăng nhanh trong những năm gần đây [phụ lục 1].

(cid:144) Các chỉ tiêu kinh tế – xã hội năm 2007

Tốc độ tăng trưởng GDP so với năm 2006 là 12,6%. Cơ cấu các ngành kinh tế

đang chuyển dịch đúng hướng, đóng góp vào con số 12,6% đứng đầu là khu vực dịch

vụ (7,76%). Đây cũng là năm thứ bảy kinh tế TP liên tiếp tăng trưởng năm sau cao hơn

năm trước (từ 9,5% năm 2001 đến 12,6% năm 2007) và cao nhất từ trước đến nay.

28

- Tổng GDP năm 2007 : 228.795 tỷ đồng (giá thực tế), trong đó :

+ Ngành công nghiệp : 106.160 tỷ đồng, chiếm 46,4% GDP.

+ Ngành dịch vụ : 119.660 tỷ đồng, chiếm 52,3% GDP, trong đó các ngành

dịch vụ cao cấp : bưu chính viễn thông, tài chính – ngân hàng, du lịch có tốc độ tăng

trưởng cao nhất.

+ Ngành nông nghiệp : 2.975 tỷ đồng, chiếm 1,3% GDP.

- Tổng thu ngân sách đạt trên 89.255 tỷ đồng, tăng 26,37%, vượt trên 18.625

tỷ đồng so với năm 2006; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 84.500 tỷ đồng.

- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gần 2,9 tỷ USD.

- Chỉ tiêu giảm nghèo của TP đã về đích trước kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, số

hộ nghèo (thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm) chỉ còn 1,9%.

- Thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn TPHCM đạt 2.180 USD.

- Dân số : 6.650.942 người; mật độ dân số : 3.175 người/km2.

- Số người được giới thiệu việc làm trong năm : 259.149 người.

- Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị : 5,6%.

- Số cơ sở y tế : 456.

- Số bác sĩ, nha sĩ /1000 người dân : 9,3

- Số thư viện : 26.

Các ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu: điện, điện tử (bao gồm điện tử kỹ

thuật cao), cơ khí, hoá chất, phần mềm, dệt may, giày da, luyện kim, dầu khí, sản xuất

ô tô, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất giấy, chế biến nông, lâm sản và

nhiều ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, cho đến thời điểm 2007, công nghệ sản xuất

nhìn chung của TP.HCM hiện rất lạc hậu. Trong thời gian từ năm 1997-2007, ngành

công nghiệp của TP.HCM có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức bình quân trên

13%. Từ năm 1995 đến nay, chính quyền TP.HCM áp dụng nhiều biện pháp chuyển

dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp

có có hàm luợng tri thức, hàm luợng KH - CN cao và có hiệu quả kinh tế. Đồng thời, tỷ

trọng của các ngành công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động trong tổng sản lượng công

29

nghiệp của thành phố được giảm xuống như ngành dệt may từ 14,3% xuống còn

13,1%, chế biến thực phẩm-đồ uống giảm từ 28,9% xuống còn 17%....Điều này sẽ ảnh

hưởng đến cơ cấu đào tạo NNL thành phố trong thời gian tới theo hướng tăng lao động

các ngành công nghiệp có hàm lượng KH - CN cao, có hiệu quả kinh tế đồng thời giảm

lao động trong các ngành công nghiệp công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động.

Trong những năm qua, nhiều ngành công nghiệp liên tục phát triển. Để đảm bảo

phát triển bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, chính quyền TP.HCM

đã có nghị quyết tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện-điện tử-

công nghệ thông tin; cơ khí; hóa chất và chế biến tinh lương thực thực phẩm giai đoạn

2006-2010 với tổng kinh phí 3,5 tỷ USD. Các cơ sở này được nhanh chóng đầu tư về

mọi mặt chuyển sang phát triển về chiều sâu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao

và giá cả có tính cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế, với mục tiêu đưa

TP.HCM trở thành thành phố công nghiệp có công nghệ cao của Vùng KTTĐPN và

của Việt Nam vào năm 2015-2017 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đề ra.

Như vậy, có thể thấy trong thời gian tới, nhu cầu về NNL trong các ngành công nghiệp

mũi nhọn là rất lớn và sẽ là trọng tâm của việc đào tạo NNL trong lĩnh vực công nghiệp

thành phố.

Thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, kể từ khi

Luật đầu tư được ban hành. Nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài đến TP.HCM khảo sát

môi trường kinh doanh và ký kết các hợp đồng đầu tư. Riêng năm 2007, tổng vốn FDI

đổ vào thành phố gần 2,9 tỷ USD. Đây cũng là một nhân tố làm tăng thêm nhu cầu về

lao động của thành phố trong những năm trở lại đây và những năm sắp tới, đặc biệt là

nhu cầu về lao động trình độ cao ngày càng tăng.

TP.HCM có 3 KCX, 12 KCN. Phần lớn các DN trong KCX, KCN có trình độ

công nghệ trung bình và dưới trung bình, quy mô nhỏ và vừa. Ngành nghề đầu tư trong

KCX, KCN rất đa dạng, nhưng chủ yếu tập trung ngành may công nghiệp, da giày, thú

nhồi bông, túi xách, dệt, chế biến thực phẩm, là những ngành sử dụng nhiều lao động.

Nơi đây đã thu hút khoảng hơn 200.000 lao động, phần lớn là lao động nhập cư, trẻ

30

tuổi, trình độ học vấn thấp, tạo một khối lượng việc làm rất lớn cho lao động thành phố

và đặc biệt là lao động nhập cư. Theo dự báo nhu cầu lao động thì đến năm 2010, các

KCN, KCX cần khoảng 500.000 lao động phổ thông và có trình độ trung học cơ sở và

trung cấp, công nhân lành nghề là cao nhất. Như vậy, việc tập trung nhiều KCX, KCN

đã thu hút một LLLĐ rất lớn và nhu cầu về lao động nghề là rất cao. Đây là một trong

những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc đào tạo lao động thành phố trong thời

gian tới. Ngoài ra, hiện nay thành phố có1 khu công nghệ cao và công viên phần mềm

Quang Trung là 2 trung tâm thu hút lao động KH – CN của thành phố và cả nước và

nhu cầu lao động cũng ngày càng tăng cao.

Thành phố là hạt nhân trong Vùng KTTĐPN và trung tâm đối với vùng Nam Bộ.

Với mức đóng góp GDP là 66,1% trong vùng và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả

khu vực Nam Bộ. Thành phố luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của

nhà nước, mặc dù gặp nhiều khó khăn song thu ngân sách của thành phố vẫn không

ngừng tăng. Ngân sách lớn tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư phát triển giáo dục đào tạo,

có tác động rất lớn đến chất lượng NNL của thành phố.

Về thương mại, dịch vụ, thành phố là trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất nước.

Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt

13,7 tỷ USD, tăng 12,46% so với năm 2005. Cơ sở vật chất ngành thương mại được

tăng cường với khoảng 400 chợ bán lẻ, 81 siêu thị, 18 trung tâm thương mại, 3 chợ đầu

mối. Khu vực dịch vụ tăng trưởng vượt kế hoạch, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu

sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Năm 2007, ngành dịch vụ đã đóng

góp 52,5% GDP thành phố. Năng suất lao động của các ngành dịch vụ nói chung là

66,12 triệu đồng/người/năm trong đó năng suất lao động của Thương mại là 51,6 triệu

đồng/người/năm (bằng 78% năng suất lao động ngành dịch vụ [22]. Sự hoạt động mạnh

mẽ của lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là ngành thương mại đã thu hút một lượng lao động

lớn, bao gồm cả lao động phổ thông và lao động cao cấp. Trong lĩnh vực dịch vụ,

31

ngành du lịch thành phố cũng phát triển mạnh. Năm 2007, doanh thu ngành du lịch đạt

13.250 tỷ đồng. Hiện nay đào tạo NNL cho ngành du lịch đang là vấn đề mang tính cấp

bách trong chiến lược phát triển NNL của thành phố.

TP.HCM là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn

đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Doanh thu

của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. Trong

tương lai thành phố phát triển các ngành kinh tế chủ lực, là địa phương đầu tiên tập

trung phát triển các ngành cơ khí gia dụng, sản xuất phương tiện vận tải, chế tạo máy,

các ngành công nghệ cao… vẫn là đầu mối xuất nhập khẩu, du lịch của cả nước với hệ

thống cảng biển phát triển. Việc hình thành các hệ thống giao thông như đường Xuyên

Á, đường Đông Tây…sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thành phố tăng trưởng mạnh mẽ.

Theo quy hoạch đến năm 2020, TP.HCM sẽ trở thành một đại đô thị, là trung tâm của

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước, là một trong những trung tâm công

nghiệp, KH - CN và dịch vụ của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Với hiện trạng kinh

tế thành phố hiện nay đặt ra yêu cầu đào tạo NNL trình độ cao, đặc biệt là NNL làm

việc trong lĩnh vực dịch vụ nhằm đáp ứng với sự phát triển kinh tế thành phố hiện nay

cũng như trong thời gian tới, khi Việt Nam đã gia nhập WTO.

2.1.2 Khái quát về dân số TP.HCM

2.1.2.1 Quy mô, tốc độ tăng dân số

Theo thống kê chính thức năm 2007, dân số tòan thành phố là 6.650.942 người,

chiếm 7,82% so với cả nước (85,106 triệu người) và chiếm 41% so với Vùng Kinh tế

trọng điểm phía Nam, gồm 5.640.288 người ở thành thị và 1.010.654 người ở nông

thôn; 3.184.175 người là Nam, chiếm 47,9% tổng dân số. Trong tổng số dân sinh sống

có hơn 500.000 người thuộc dân tộc Hoa. Mật độ dân số ở TPHCM là 3.175 người/ km2. Tuy nhiên số dân có mặt trong thành phố thường cao hơn, thêm khoảng 2 triệu

dân ngoại tỉnh làm ăn tại thành phố theo mùa vụ, do vậy, mật độ dân số thực tế là thấp

32

hơn nhiều.

Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Dân số (1000 người)

5.449

5.659

5.867

6.063

6.240

6.425

6.651

N am (1000 nguời)

2.627

2.729

2.830

2.920

2.997

3.082

3.184

Tỷ lệ (%)

48,2

48,2

48,2

48,2

48

48

48

Nữ (1000 người)

2.822

2.930

3.037

3.143

3.243

3.343

3.467

Tỷ lệ (%)

51,8

51,8

51,8

51,8

52

52

52

Thành thị (1000 người)

4.474

4.589

4.722

5.170

5.315

5.464

5.640

Tỷ lệ (%)

82,1

81,1

80,5

85,3

85,2

85

85

Nông thôn (1000 người)

975

1.070

1.145

893

925

961

1.011

Tỷ lệ (%)

17,9

18,9

19,5

14,7

14,8

15

15

Tốc độ tăng dân số (%)

3,8

3,8

3,7

3,4

3,0

3,07

3,5

Tỷ lệ tăng tự nhiên (%)

1,3

1,27

1,43

1,3

1,03

1,07

1,06

Tỷ lệ tăng cơ học (%)

2,51

2,51

2,27

2,1

1,97

2,0

2,41

Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu dân số trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2001-2006

Nguồn : Xử lý tổng hợp từ niên giám thống kê TP.HCM các năm

Biểu trên cho thấy tốc độ tăng dân số ở TP.HCM là cao, tốc độ tăng dân số bình

quân giai đọan 2001 – 2007 là 3,44%, mặc dù tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là thấp, bình

quân vào khỏang 1,21%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần

nhưng không nhiều, năm 2001 là 3,8% còn 3,5% năm 2007. Tỷ lệ tăng tự nhiên của

dân số thành phố thấp và có xu hướng ngày càng giảm dần (từ 1,3% năm 2001 đến

2007 là 1,06%). Như vậy, tốc độ tăng dân số cao chủ yếu là do tốc độ tăng dân số cơ

học (bình quân giai đoạn 2001 – 2007 là 2,33% ). Điều này cho thấy nơi đây có sức hút

rất mạnh đối với lao động đến từ các địa phương khác trong cả nước. Kết quả điều tra

dân số giữa kỳ 1/10/2004 cho thấy TP. HCM có 1.767.290 người từ các tỉnh, thành phố

khác đến làm việc và sinh sống, chiếm 29,15% dân số thành phố. Có nhiều lý do dẫn

đến tình trạng dân nhập cư về thành phố đông như vậy, nhưng lý do chủ yếu nhất vẫn

là việc làm và thu nhập. Theo khảo sát của Chi cục phát triển nông thôn TP.HCM năm

2003, trong 800 người di cư đến thành phố tại 4 Quận, huyện có nhiều người nhập cư

33

nhất thành phố thì có 51,4% người di chuyển tới thành phố vì lý do trên.

Nhìn chung dân số Nữ (chiếm 52,1% dân số) đông hơn dân số Nam và tỷ lệ này

có xu hướng tăng nhẹ dần (tỷ lệ Nữ năm 2000 là 51,8% tăng lên 52% năm 2007).

Trong đó, dân số chủ yếu sống ở thành thị do quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh (tỷ

lệ này là 71,6% năm 1995, năm 2000 là 83% và đạt 84,8% năm 2007), và điều ngược

lại diễn ra ở khu vực nông thôn (năm 1995, dân số nông thôn là 28,4%, năm 2000 là

17% và đến năm 2007 còn 15,2%). Phần lớn dân số sống bằng những nghề phi nông

nghiệp, tính đến năm 2007 thì tỷ lệ dân số sống bằng những nghề phi nông nghiệp là

96%.

Trong tất cả 19 Quận và 5 huyện của thành phố thì Quận Gò vấp có số dân đông

nhất (năm 2006 : 496.905 người; năm 2007 : 514.518 người) và huyện Bình chánh có

dân số đông nhất (năm 2006 : 330.605 người; năm 2007 : 347.278 người ). Tuy nhiên, mật độ dân số ở Quận 4 là cao nhất (45.532 người/km2 năm 2007) và ở huyện Hóc Môn là cao nhất trong 5 huyện ngoại thành : 2.487người/km2 năm 2007. Ngược lại, có những quận mật độ dân số rất thấp : quận 9 : 1.941người/ km2; quận 2 : 2.679 người/km2 [phụ lục 2]. Nhìn chung dân số phân bố không đều và tập trung chủ yếu ở

những quận nội thành.

Biến động dân số của thành phố trong thời gian từ 2001 – 2007 có xu hướng

giảm dân số ở các quận trung tâm, quận nội thành, tăng nhiều ở các quận mới, các quận

ven ngoại thành và các huyện. Nguyên nhân là người dân di dời do các dự án nâng cấp

đô thị đồng thời do nhu cầu cho thuê nhà để kinh doanh nên có sự giảm dân ra các quận

ven để sinh sống. Các quận mới, quận ven dân số tăng cao do phát triển kinh tế thành

phố và đầu tư cho các KCX - KCN đã thu hút một lượng lao động nhập cư từ các tỉnh

thành trong cả nước. Việc gia tăng dân số nhanh chóng của thành phố (bình quân giai

đọan 2001 – 2007 là 3,44%/ năm) tác động mạnh đến LLLĐ của thành phố, làm cho

LLLĐ hàng năm tương ứng tăng theo. Trong cơ cấu lao động của thành phố, lao động

ngọai tỉnh chiếm tỷ trọng rất cao. Đại bộ phận người dân từ các nơi đến thành phố làm

ăn sinh sống từ các nguồn sau :

- Số học sinh, sinh viên từ các tỉnh đến học tập tại thành phố HCM và tìm

34

được việc làm sau khi học xong.

- Số lao động được tuyển dụng vào làm việc trong các KCN – KCX tập trung

của thành phố.

- Phần còn lại là nhập cư tự do theo nhóm đi tìm kiếm việc làm tại thành phố.

2.1.2.2 Chất lượng dân số

Theo kết quả điều tra dân số 1/10/2004, TP.HCM có 3,1% dân số từ 5 tuổi trở

lên chưa bao giờ đi học; 24,1% dân số có trình độ cấp 1; 34,1% có trình độ cấp 2;

29,4% có trình độ cấp 3; 9,3% có trình độ CĐ, ĐH và trên ĐH. Trình độ học vấn của

dân số từ 5 tuổi trở lên của TP. HCM sau 5 năm tăng khá nhanh, tỷ lệ dân số có trình

độ CĐ, ĐH và trên ĐH tăng từ 7,7% năm 1999 lên 9,3% năm 2004, tỷ lệ dân số có

trình độ cấp 3 tăng từ 24% năm 1999 lên 29,4% năm 2004. Ngược lại, tỷ lệ chưa bao

giờ đi học giảm từ 6,2% năm 1999 xuống còn 3,1% năm 2004.

Bảng 2.2 : Số năm đi học bình quân của dân số từ 10 tuổi trở lên

Chỉ tiêu

Tổng số

Nam

Nữ

TPHCM

7,66

8,02

7,34

Các quận

7,95

8,32

7,61

Các huyện

6,1

6,41

5,82

Nguồn : Kết quả điều tra dân số giữa kỳ 1/10/2004

Theo kết quả điều tra dân số 1/10/2004 cho thấy mặt bằng học vấn bình quân

dân số từ 10 tuổi trở lên ở TP.HCM qua chỉ tiêu số năm đi học bình quân là 7,66 lớp.

Mức mặt bằng học vấn bình quân chung của các quận nội thành, quận mới là 7,95 lớp

và mức mặt bằng học vấn bình quân chung của các huyện ngoại thành là 6,1 lớp. Số

năm đi học bình quân Nam nhiều hơn Nữ ở cả các quận và huyện ngoại thành. Xét

trình độ học vấn qua chỉ tiêu số năm đi học bình quân của dân số, ta thấy trình độ học

vấn của dân số thành phố thấp.

2.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực TP.HCM

2.1.3.1 Quy mô nguồn nhân lực

NNL của thành phố tăng dần qua các năm. Nếu năm 2001 là 3.604.193 người thì

đến năm 2006, NNL thành phố là 4.412.814 người, chiếm 68,69% so với tổng số dân,

35

trong đó, nữ chiếm 52,61% (2.321.644 người). Tốc độ tăng bình quân của NNL trong

giai đọan từ 2001 – 2006 là 4%, cao hơn tốc độ tăng bình quân của dân số giai đọan

này (3,43%). Nguyên nhân làm cho NNL tăng nhanh là do số người trong độ tuổi lao

động tăng nhanh (90% dân nhập cư là người trong độ tuổi lao động) đồng thời số người

mất sức lao động không còn khả năng lao động chiếm tỷ lệ ngày càng giảm. Có thể

thấy NNL của thành phố là rất lớn. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để phát

triển kinh tế thành phố. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh NNL này cũng là một áp lực rất

lớn cho thành phố trong việc tạo việc làm, ổn định đời sống, đảm bảo tốc độ tăng

trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp và những vấn đề về an sinh xã hội.

Bảng 2.3 : Các chỉ tiêu về NNL TP.HCM

Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Dân số (người)

5.449.203

5.658.997

5.867.496

6.062.993

6.239.938 6.424.519

Nguồn lao động (NLĐ)

3.604.193

3.723.131

3.816.029

3.953.406

4.164.161 4.412.814

(người)

1.844.680

2.041.181

2.063.708

2.127.328

2.242.401 2.321.644

Trong đó nữ

51,18

54,82

54,08

53,81

53,85

52,61

Tỷ lệ nữ (%)

Tốc độ tăng NLĐ (%)

3,3

3,3

2,5

3,6

5,3

5,97

Tỷ lệ lao động so với dân số

66,14

65,79

65,04

64,71

67,67

68,69

(%)

Tổng số lao động có việc

2.260.910

2.335.700

2.503.213

2.585.906

2.676.420 2.776.981

làm (người)

Tỷ lệ lao động có việc làm

62,73

62,73

65,60

65,41

64,27

62,93

trong NLĐ (%)

Lao động nữ có việc làm

1.184.260

1.234.183

1.303.921

1.333.054

1.467.883 1.495.024

(người)

Tỷ lệ lao động nữ có việc

52,38

52,84

52,09

51,55

54,85

53,84

làm trong số lao động đang

làm việc (%)

Lao động cần giải quyết việc

244,36

250,19

251,10

242,34

245,69

256,83

làm (1000 người)

Tỷ lệ lao động thất nghiệp

6,78

6,72

6,58

6,13

5,90

5,82

thời điểm 1/7 (%)

Nguồn : Xử lý tổng hợp từ số liệu thống kê TP.HCM và Sở Lao động – Thương

36

binh xã hội nhiều năm

NLĐ của thành phố năm 2006 đã được phân bố như sau :

- Số lao động đang làm việc là 2.776.981 người, chiếm 62,93% NLĐ.

- Số lao động dự trữ là 1.303.106 người, chiếm 29,53% NLĐ.

- Số người trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động là 75.900 người,

chiếm tỷ lệ 1,72% NLĐ.

- Số lao động không có việc làm là 256.827 người, chiếm tỷ lệ 5,82% tổng

NLĐ.

2.1.3.2. Chất lượng nguồn nhân lực

(cid:141)Trình độ học vấn

Theo kết quả điều tra lao động việc làm 1/7, trình độ học vấn của LLLĐ từ 15

tuổi trở lên trên địa bàn TP. HCM năm 2006 như sau :

Chỉ tiêu

Tổng số

Thành thị

Nông thôn

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

(%)

(người)

(người)

(người)

(%)

(%)

Tổng số

3.235.807

2.836.185

100

399.622

100

100

Chưa biết chữ

26.857

22.690

0,8

4.167

0,83

1,04

Chưa tốt nghiệp cấp 1

250.981

185.203

6,53

65.778

7,76

16,46

Đã tốt nghiệp cấp 1

854.626

694.298

24,48

160.328

26,41

40,12

Đã tốt nghiệp cấp 2

775.094

673.310

23,74

101.784

23,95

25,47

Đã tốt nghiệp cấp 3

1.328.249

1.260.684

44,45

67.565

41,05

16,91

Bảng 2.4 : Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên

Nguồn : Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006

Theo bảng trên ta thấy TP.HCM có 0,83% dân số trong độ tuổi lao động chưa

biết chữ; 41,05% đã tốt nghiệp cấp 3; 23,95% đã tốt nghiệp cấp 2. Trong đó, trình độ

học vấn của lao động ở thành thị cao hơn nhiều ở nông thôn, tỷ lệ lao động đã tốt

nghiệp cấp 3 ở thành thị là 44,45%, cao hơn nhiều so với ở nông thôn là 16,91%.

Ngược lại, số lao động chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp cấp 1 và chỉ tốt nghiệp cấp 1 ở

nông thôn cao hơn ở thành thị nhiều. Điều này xuất phát từ những điều kiện khó khăn ở

37

những vùng nông thôn, học sinh phải lo lắng về gánh nặng kinh tế nhiều hơn. Tuy

nhiên, có thể nhìn một cách tổng quát, tại TPHCM số lao động chưa biết chữ chiếm

một tỷ lệ thấp.

Bảng 2.5 : Trình độ học vấn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn

TP.HCM

2006

Chỉ tiêu

Số người (người)

Tỷ lệ(%)

Tổng số

2.776.981

100

Chưa biết chữ

20.272

0,73

Chưa TN cấp 1

194.944

7,02

Đã TN cấp 1

732.012

26,36

Đã TN cấp 2

664.809

23,94

Đã TN cấp 3

1.164.944

41,95

Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006

Bảng số liệu trên cho ta thấy trình độ học vấn của lao động 15 tuổi trở lên có

việc làm ở TPHCM vẫn còn thấp, tổng số lao động đã tốt nghiệp cấp 3 tính đến năm

2006 là 41,95%. Số lao động có việc làm đã tốt nghiệp cấp 1 chiếm 26,36%; đã tốt

nghiệp cấp 2 là 23,94%, chưa biết chữ là 0,73%.

Số lao động từ 15 tuổi trở lên thất nghiệp ở thành thị năm 2006 là 154.000

người, trong đó, có 9,78% là chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1, trong đó nữ là

84.629 người, chiếm 55% [phụ lục 3]. Qua số liệu cho thấy việc tạo việc làm cho

LLLĐ này là một áo lực bởi phần lớn lao động này chưa biết chữ hoặc chưa tốt nghiệp

cấp 1. Trong tổng số lao động không có việc làm thì số người đã tốt nghiệp cấp 3

chiếm tỷ trọng tương đối cao 40,52%.

(cid:141)Trình độ CMKT

Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) hay còn gọi là lao động đã

qua đào tạo bao gồm : lao động có bằng cấp CMKT và lao động sơ cấp hoặc CNKT

38

(CNKT) không bằng.

Theo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006 thì tỷ lệ LLLĐ từ 15 tuổi trở

lên chưa qua đào tạo là 45,79%. Tỷ lệ đã qua đào tạo là 54,21%, bao gồm : 26,13% lao

động sơ cấp hoặc CNKT không bằng cấp; 28,08% là lao động có bằng cấp CMKT

(trong đó CNKT và nhân viên nghiệp vụ chiếm 7,49%; số người tốt nghiệp trung cấp

chuyên nghiệp chiếm 5,45%; số người tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên ĐH chiếm 15,14%).

Đây là tỷ lệ còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, có thể thấy, TP.HCM

là thành phố có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất so với cả nước (26%).

Bảng 2.6 : Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ 15 tuổi trở lên năm 2006

Tổng số

Thành thị

Nông thôn

Tổng số

Cơ cấu

Tổng số

Cơ cấu

Tổng số

cơ cấu

Chỉ tiêu

(người)

(%)

(người)

(%)

(người)

(%)

Tổng số

3.235.807

100

2.743.461

100

492.346

100

1.Chưa qua đào tạo

1.481.676

45,79

1.231.265

44,88

250.411

50,86

2.Đã qua đào tạo

1.754.131

54,21

1.512.196

55,12

241.935

49,14

a.Sơ cấp và CNKT không

845.516

26,13

666.112

24,28

179.404

36,44

bằng

b.Có bằng cấp CMKT :

908.615

28,08

846.084

30,84

62.531

12,70

- CNKT

242.362

7,49

212.344

7,74

30.018

6,1

- THCN

176.352

5,45

160.493

5,85

15.859

3,22

- CĐ, ĐH, trên ĐH

489.901

15,14

473.247

17,25

16.654

3,38

Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006

Ở khu vực nông thôn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 49,14% thấp hơn thành

thị (55,12%) không nhiều. Tuy nhiên, trong đó, tỷ lệ lao động sơ cấp và CNKT không

bằng ở nông thôn lại cao hơn thành thị rất nhiều (36,44% so với 24,28%). Điều này cho

ta thấy, đa số lao động đã qua đào tạo ở nông thôn chủ yếu là lao động có trình độ sơ

cấp và CNKT không bằng. Số lao động có bằng cấp CMKT cũng chiếm tỷ lệ thấp hơn

nhiều so với khu vực thành thị, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên không có bằng cấp

CMKT ở khu vực thành thị chiếm 30, 84%; khu vực nông thôn chỉ chiếm 12,7% và tỷ

lệ lao động trình độ CĐ, ĐH và trên ĐH cũng rất thấp (3,38%). Như vậy, lao động ở

39

khu vực nông thôn có bằng cấp CMKT là rất thấp, điều này dẫn đến năng suất lao động

và hiệu quả làm việc ở khu vực này kém. Lao động trình độ CMKT thấp cũng là một

khó khăn của khu vực các huyện ngoại thành của thành phố trong việc chuyển đổi cơ

cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và gia nhập WTO.

Bảng 2.7 : Trình độ chuyên môn của LLLĐ 15 tuổi trở lên có việc làm trên địa bàn

thành phố HCM

2006

Chỉ tiêu

Tổng số (người)

Cơ cấu (%)

2.776.981

100

Tổng số

1.Chưa qua đào tạo

1.239.922

44,65

2.Đã qua đào tạo :

1.537.059

55,35

a.Sơ cấp và CNKT không bằng

750.896

27,04

b.Có bằng cấp CMKT :

786.163

28,31

- CNKT

210.218

7,57

- THCN

154.122

5,55

- CĐ, ĐH, trên ĐH

421.823

15,19

Nguồn : Kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2006

Theo kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006 thì cơ cấu lao động 15 tuổi

trở lên có việc làm chưa qua đào tạo chiếm 44,65% tổng số lao động đang làm việc.

Lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ 55,35%, trong đó, sơ cấp và CNKT không bằng

chiếm 27,04%; lao động có bằng cấp chỉ chiếm 28,31%. Rõ ràng với đội ngũ lao động

như vậy thì năng suất lao động sẽ thấp. Tuy nhiên, cũng theo số liệu điều tra này thì tỷ

lệ lao động không có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật có xu hướng ngày càng giảm

(1996 : 84,13%; năm 2000 : 75,92%; năm 2006 : 71,69%).

2.1.4 Lao động đang làm việc trên địa bàn TP.HCM

2.1.4.1 Lao động đang làm việc chia theo ngành kinh tế

Số người đang làm việc của thành phố tăng đều qua các năm và đạt trên 2,7

triệu lao động năm 2006, chiếm 62,93% tổng NLĐ, trong đó lao động nữ chiếm trên

53,84% lao động đang làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp giảm dần qua các năm, từ 6,78%

40

năm 2001 còn 5,82% năm 2006, tuy nhiên, đây là một con số còn cao (tỷ lệ thất nghiệp

thành thị của cả nước là 5,2% năm 2006). Cơ cấu lao động trong lĩnh vực dịch vụ là

50,08%; khu vực công nghiệp - xây dựng: 44,78%; cơ cấu lao động trong khu vực nông

nghiệp giảm dần qua các năm và còn 5,15%. Như vậy, trong cơ cấu lao động đang làm

việc ở thành phố thì lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là rất thấp, trong đó, ngành

thủy sản chiếm một tỷ lệ rất ít (0,56%), mặc dù thành phố có nhiều tiềm năng để phát

triển lĩnh vực này. Điều này cho thấy, kinh tế thành phố chủ yếu phát triển các ngành

dịch vụ, công nghiệp và nơi đây tập trung phần lớn lao động có trình độ chuyên môn

cao, vì đặc trưng của 2 ngành này là lao động có chất xám cao. Riêng trong ngành công

nghiệp – xây dựng thì công nghiệp chế biến có số lượng lao động tham gia cao nhất

(1.020.743 người). Lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 50% lao động của thành phố, trong đó,

lao động trong ngành thương mại chiếm tỷ trọng cao nhất (15,04%). Trong năm 2007

thì cơ cấu lao động tiếp tục dịch chuyển rõ nét theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực

thương mại, dịch vụ và công nghiệp – xây dựng, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp

tiếp tục giảm do tác động của quá trình đô thị hóa ở khu vực ngoại thành. Như vậy có

thể thấy lao động ngày càng chuyển dịch theo hướng phù hợp với quá trình công

nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Cũng theo Sở LĐ TB và XH, năm 2007, các khu vực kinh tế cần 30% lao động

có trình độ CMKT cao trong tổng số 250.000 lao động. Tỉ lệ này sẽ gia tăng vào những

năm kế tiếp, nhất là trong bối cảnh thành phố đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành

nghề kinh tế theo hướng giảm dần các ngành nghề sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng

lao động bằng những ngành nghề công nghệ hiện đại, sử dụng lao động có hàm lượng

chất xám cao. Có một thực tế là từ hiện trạng lao động đến DN, nhà đào tạo, kể cả các

cơ quan hoạch định chính sách nhân lực, đều chưa kịp “trở mình” trước sự thay đổi quá

41

nhanh của thị trường lao động.

Bảng 2.8 : Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế

2000

2005

2006

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

Chỉ tiêu

(người)

(%)

(người)

(người)

(%)

(%)

Tổng số (người)

2.241.434

100

2.676.420

2.776.981

100

100

142.091

6,34

145.282

5,43

142.834

5,15

I.Khu vực I (nông – lâm

nghiệp – thủy sản)

133.902

5,97

130.254

4,87

127.351

4,59

1.Nông nghiệp - lâm nghiệp

8.189

0,37

15.028

0,56

15.483

0,56

2.Thủy sản

1.087.242

48,51

1.226.932

45,84

1.243.514

44,78

II. Khu vực II (công nghiệp

– xây dựng)

3.238

0,14

3.837

0,14

3.953

0,14

1.CN khai thác mỏ

919.559

41,03

1.015.773

37,95

1.020.743

36,76

2.CN chế biến

3.SX và phân phối điện, khí

13.063

0,58

13.661

0,51

14.075

0,51

đốt và nước

4.Xây dựng

151.382

6,76

193.661

7,24

204.743

7,37

1.012.101

45,15

1.304.206

48,73

1.390.633

50,08

III. Khu vực III (Dịch vụ)

1.Thương mại

334.353

14,92

408.425

15,26

417.715

15,04

2.Khách sạn – nhà hàng

154.816

6,91

138.587

5,18

145.907

5,25

3.Vận tải, kho bãi, thông tin

114.071

5,09

159.555

5,96

178.705

6,44

liên lạc

4.Tài chính – tín dụng

9.585

0,43

24.842

0,93

26.667

0,96

5.Hoạt động KH và công nghệ

2.575

0,12

3.087

0,12

3.181

0,11

6,57

6.Kinh doanh tài sản và tư vấn

84.851

3,79

175.748

202.622

7,3

7.Giáo dục đào tạo

79.264

3,54

90.36

3,38

94.040

3,39

8.Các hoạt động dịch vụ khác

232.586

10,35

303.602

11,34

321.796

11,59

Nguồn : Niên giám thống kê TP HCM

2.1.4.2 Lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế

Bảng 2.9 : Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế

2000

2005

2006

Chỉ tiêu

Số người

Cơ cấu

Số người

Cơ cấu

Số người

Cơ cấu

(người)

(%)

(người)

(%)

(người)

(%)

Tổng số

2.241.434

100

2676.420

100

2776.981

100

42

597.566

26,66

530.466

19,82

510.131

18,37

1.Nhà nước

1.573.038

70,18

1.966.633

73,48

2.049.690

73,81

2.Tư nhân

3.Có vốn đầu tư nước

70.830

3,16

179.321

6,7

217.160

7,82

ngoài

Nguồn : Xử lý tổng hợp từ số liệu thống kê TP.HCM và kết quả điều tra lao

động việc làm 1/7 hàng năm

Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta thấy tính tới thời điểm 1/7 /2006 trên địa bàn

thành phố, lao động làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước chiếm 18,37% tổng

lao động đang làm việc. Nếu so với những năm trước thì tỷ lệ lao động trong thành

phân kinh tế này đã giảm nhiều (năm 2000 : 26,66%, năm 2005 : 19,82%). Điều này

một phần vì trong giai đoạn Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các DN nhà

nước, giải thể, sáp nhập một số DN làm ăn không hiệu quả đồng thời đây cũng là thời

kỳ thành phố thực hiện chủ trương tinh giảm bộ máy nhà nước gọn, nhẹ và hiệu quả.

Chính vì vậy, một bộ phận lớn lao động đã được giảm trong thời kỳ này. Bên cạnh đó,

lao động trong thành phần kinh tế tư nhân và đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài tăng mạnh (năm 2000 : 3,16%, năm 2005 : 6,7%, năm 2006 : 7,82%). Điều đó

xuất phát từ việc Nhà nước chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để

các thành phần kinh tế cùng phát triển bằng hàng loạt các chính sách, biện pháp cụ thể.

Trong năm 2007, TP.HCM tiếp tục là một trong những địa phương thu hút nguồn vốn

FDI lớn nhất cả nước (khoảng 2,9 tỷ USD). Điều này góp phần làm tăng mạnh lao

động trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

2.1.5 Khái quát về tình hình giáo dục, đào tạo và các chính sách phát triển nguồn

nhân lực tại TP.HCM

2.1.5.1 Tình hình giáo dục – đào tạo

TPHCM là một trung tâm kinh tế – văn hóa lớn nhất cả nước, do vậy, ở đây có

nhiều điều kiện để đầu tư phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo. Về cơ bản, thành phố

là nơi có hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị nhiều và hiện đại nhất so với các tỉnh

43

thành khác trong nước. Thành phố đã chú trọng đầu tư cho giáo dục – đào tạo.

(cid:141) Về Giáo dục

Giáo dục mầm non

Chỉ tiêu

Năm học

2000-2001

2005 – 2006

2006 – 2007

2007 – 2008

Trường học

520

533

598

617

Lớp học

3.779

5.608

6.246

6.580

Giáo viên (người)

5.547

9.356

10.544

11.476

Học sinh (người)

128.809

188.019

204.696

226.725

Số học sinh tính bình quân 1 lớp học (người)

34

34

33

34

Số học sinh tính bình quân 1 giáo viên (người) 23

20

19

20

Bảng 2.10 : Trường, lớp, giáo viên, học sinh mầm non trên địa bàn TP.HCM

Nguồn : Niên giám thống kê 2007

Số học sinh thuộc bậc học Giáo dục mầm non tăng mạnh từ 5.547 học sinh vào

năm học 2000 – 2001 lên 226.725 học sinh năm học 2007 – 2008. Số giáo viên cũng

tăng từ 5.547 giáo viên năm học 2000 – 2001 lên đến 11.476 giáo viên năm học 2007 –

2008. Số trường học cũng tăng từ 520 trường lên 617 trường năm học 2007 – 2008. Tất

cả các chỉ tiêu về trường, lớp, học sinh, giáo viên qua các năm học đều tăng. Tuy nhiên,

số học sinh bình quân trên 1 lớp và số học sinh bình quân trên 1 giáo viên là không

tăng trong 3 năm học liên tiếp và đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục.

Trong hệ thống giáo dục của thành phố, loại hình đào tạo hệ công lập vẫn chiếm

vị trí chủ đạo. Trong số 607 trường mẫu giáo trên địa bàn thì có 366 trường công lập,

bán công 38 và dân lập là 203 trường; trong tổng số 193.976 học sinh mẫu giáo thì có

111.569 học sinh hệ công lập, chỉ có 15.949 hệ bán công và 66.458 hệ dân lập. Tuy

nhiên, qua số liệu ta cũng thấy rõ, hệ thống dân lập trên địa bàn thành phố phát triển

khá mạnh (chiếm 33,44% về tổng số trường học; 34,54 tổng số giáo viên và 34,26%

tổng số học sinh) [phụ lục 4]. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển của

44

thành phố hiện nay.

Giáo dục phổ thông

Tính đến năm học 2007 – 2008 thì toàn thành phố có 831 trường học dành cho

học sinh phổ thông. Trong đó có 467 trường cấp 1; 231 trường cấp 2 và 81 trường cấp

3; 2 trường cấp 1+ 2, 50 trường cấp 2+3. Có 927.751 học sinh các cấp, trong đó học

sinh cấp 1 là đông nhất : 423.437, chiếm 45,6%, học sinh cấp 2 có 327.652 học sinh,

chiếm 35,32%, học sinh cấp 3 chiếm 19,08%. Có 35.812 giáo viên, trong đó giáo viên

cấp 1 là đông nhất 14.275 người, chiếm 39,86% tổng số giáo viên. Số học sinh tính

bình quân cho 1 giáo viên là 26, trong đó, số học sinh tính bình quân cho 1 giáo viên ở

cấp 3 chỉ là 23; cấp 2 là 24; ở cấp tiểu học là 30. Bình quân 1 lớp học bậc tiểu học có

37 học sinh; ở cấp 2 là 43 học sinh; cấp 3 là 44 học sinh [phụ lục 5]. Tất cả các chỉ tiêu

về Trường, lớp, học sinh, giáo viên của thành phố hệ công lập đều chiếm tỷ lệ cao so với

các hệ dân lập và bán công [phụ lục 6].

Từ năm 1995, thành phố đã đạt tiêu chuẩn xoá mù chữ và phổ cập tiểu học;

100% số xã có trường tiểu học và 80% số xã có trường trung học cơ sở. Trình độ dân

trí ngày càng được nâng cao. Năm 2002, Sở GDĐT TPHCM đã đón nhận cờ lưu niệm

và quyết định công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục THCS do Bộ GDĐT trao tặng và

trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước đạt được chuẩn này. Trong năm 2008,

ngành giáo dục phấn đấu hoàn thành phổ cập bậc THPT.

Có một thực trạng là thành phố luôn rơi vào tình trạng thiếu giáo viên ở cả 4 cấp

học. Bắt đầu năm học mới thì Sở GD đều tuyển giáo viên đề phục vụ cho năm học mới.

Năm 2008, Sở đã tuyển khoảng 4.322 giáo viên ở cả 4 bậc học để phân bổ về cho các

quận, huyện, trong đó có khoảng 900 giáo viên tiểu học và gần 1000 giáo viên mầm

non. Số giáo viên được tuyển năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, nhưng tình

trạng thiếu giáo viên dường như vẫn còn là vấn đề mà các quận huyện lo ngại mỗi khi

mùa tựu trường sắp tới. Theo báo cáo của Sở GD, mỗi năm sau khi tuyển xong, bình

quân thành phố thiếu khoảng 1000 giáo viên

Nguyên nhân, bình quân mỗi năm có khoảng 2000 giáo viên về hưu, còn số

45

giáo viên do Sở tuyển một phần không đủ chi tiêu để ra, một phần không nhận nhiệm

sở khi được phân bổ. Mặt khác, do áp dụng Thông tư 35 của Bộ Giáo dục -đào tạo, hệ

số giáo viên/ lớp cao hơn trước, bên cạnh đó, nhu cầu học hai buổi/ ngày tăng, một số

trường bán công chỉ có 50% biên chế, khi chuyển sang công lập tự chủ tài chính nên

khó tránh khỏi việc thiếu giáo viên. Tình trạng thiếu giáo viên kéo dài nhiều năm nay,

chủ yếu ở ngoại thành và các quận vùng ven, trong đó thiếu nhiều nhất vẫn là ở bậc

tiểu học và mầm non. Một phần do số dân nhập cư tăng phải mở rộng trường lớp, phần

khác giáo viên được bổ nhiệm về ngoại thành sau thời gian công tác theo qui định, họ

được chuyển về dạy ở nội thành, nên các vùng ngoại thành thiếu giáo viên. Tình trạng

này nếu không có những biện pháp khắc phục triệt để sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất

lượng giảng dạy.

(cid:141) Về đào tạo

Trong năm học 2007, toàn thành phố có khoảng 104 trường ĐH, CĐ, THCN,

trong đó, có 77 trường thuộc hệ thống đào tạo công lập, chiếm 74,04%; có 22 trường

dân lập tư thục, chiếm 21,15% và 5 trường bán công, chiếm 4,8%. Tương ứng với khối

lượng trường học, có 14.196 giáo viên, trong đó, giáo viên giảng dạy tại các trường ĐH

là 10.072 người, chiếm 71% tổng số giáo viên trong các trường ĐH, CĐ và THCN. Tỷ

lệ giáo viên thuộc các trường công lập là 55,4% tổng số giáo viên, giáo viên trường dân

lập chiếm 15,23%. Sinh viên các trường công lập chiếm đa số (75,05%). Điều này cho

thấy, hệ thống đào tạo công lập chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống đào tạo của

thành phố về số trường học, giáo viên, sinh viên. Số lượng sinh viên đang học sau ĐH,

ĐH, CĐ và THCN của thành phố là 417.878 người, trong đó, số lượng học viên đang

học thạc sĩ, nghiên cứu sinh là 8.909 người, chiếm 2,13% tổng số sinh viên đang học;

số sinh viên theo học ĐH, CĐ là 328.475 người, chiếm 78,61% tổng số sinh viên hiện

có. Học viên theo học tại các trường THCN là 80.494 người, chiếm 19,3% tổng số sinh

viên theo các hệ đào tạo. Ngoài ra, hàng năm, ước tính sơ bộ các trung tâm dạy nghề

46

trên địa bàn thành phố đào tạo bình quân khoảng 350.000 học viên. Như vậy, tỷ lệ đào

tạo hiện nay của thành phố thì tỷ lệ giữa trình độ CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 1,04 –

0,24 - 1. Đây vẫn là một tỷ lệ không cân đối với yêu cầu phát triển kinh tế.

Bảng 2.11 : ĐH, CĐ, THCN năm học 2007 theo loại hình đào tạo năm 2007

Tổng số

Công lập

Bán công

Dân lập, tư thục

104

77

5

22

Trường học

1.ĐH

41

31

3

7

2.CĐ

29

21

2

4

3.THCN

34

23

-

11

14.196

11.201

833

2.162

Giáo viên

1.ĐH

10.072

7.863

570

1.639

2.CĐ

2.627

2.145

263

219

3.THCN

1.497

1.193

-

304

417.878

313.600

28.739

56.082

Sinh viên

1.Trên ĐH

8.909

8.754

155

-

2.ĐH

247.678

193.855

16.547

37.276

3.CĐ

80.797

62.355

9.940

8.502

4.THCN

80.494

48.636

2.097

10.304

Nguồn : Niên giám thống kê 2007

Trong những trường ĐH công lập lớn của thành phố thì ĐH quốc gia (bao gồm

: ĐH Bách khoa, ĐH KHTN và ĐH khoa học, xã hội – nhân văn) chiếm một lượng

sinh viên lớn nhất : 60.764 sinh viên. Nếu tính riêng lẻ thì ĐH kinh tế có số sinh viên

đông nhất : 51.126 sinh viên, kế đến là ĐH Nông lâm : 23.980 sinh viên. Tuy nhiên,

lượng giảng viên giảng dạy tại trường Y Dược là đông nhất : 864 người; trường ĐH

Bách khoa là 845 người; ĐH Khoa học tự nhiên là 622 người.

2004

2005

2006

2007

Tổng số (người)

44.011

49.437

50.425

51.432

Bảng 2.12 : Số sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH và CĐ

Nguồn : Niên giám thống kê 2007

Số sinh viên tốt nghiệp hàng năm tại các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố

47

tăng qua từng năm, đạt 51.432 người năm 2007. Trong đó, ĐH quốc gia có lượng sinh

viên tốt nghiệp cao nhất : 17.749 sinh viên, chiếm 34,5%. Tuy nhiên, số lượng sinh

viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng theo nhu cầu nhân lực cho thành phố. Theo

trung tâm gới thiệu việc làm TP.HCM, trong giai đoạn các năm 2007 đến 2010, bình

quân mỗi năm trên địa bàn thành phố sẽ thu hút lao động cho 270.000 chỗ làm việc,

trong đó 120.000 chỗ làm việc mới.

Theo Trung tâm giới thiệu việc làm TP.HCM, trong năm 2007, các khu vực kinh

tế tại thành phố thu hút trên 250.000 lao động, trong đó 75.000 lao động phân bổ vào

khu vực DN tư nhân trong nước, 80.000 lao động vào các khu chế xuất, khu công

nghiệp và DN có vốn đầu tư nước ngoài, 60.000 lao động vào các cơ sở dịch vụ kinh

doanh nhỏ, hộ kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, 35.000 lao động vào các DN nhà

nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước. Trong tổng số nhu cầu tuyển dụng có trên 30%

nhu cầu lao động chất lượng cao với các ngành nghề kỹ thuật công nghệ thông tin,

quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Trong khi đó, lao động tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ hàng năm khoảng 50.000 người. Như vậy, lượng lao động chất lượng cao được

đào tạo hàng năm chưa đủ để đáp ứng nhu cầu nhân lực trên địa bàn thành phố.

Một số ngành nghề có nhiều nhu cầu lao động thường xuyên là kỹ thuật cơ khí,

hóa chất, kiến trúc, xây dựng vận hành máy, lắp ráp điện tử, kỹ thuật đồ họa, kỹ thuật

điện – điện lạnh, kế toán, điều hành kinh doanh, quản lý sản xuất, nhu cầu tuyển lao

động kỹ thuật và quản lý gồm có trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tổ chức công việc. Hoạt

động sản xuất kinh doanh tại thành phố cũng cần tuyển nhiều lao động có nghề và lao

động phổ thông cho các ngành sản xuất điện tử, dệt, da, may, chế biến thực phẩm, tiếp

thị, phục vụ ăn uống, du lịch, bán hàng...

(cid:141) Tình hình dạy nghề

Trước yêu cầu phát triển của xã hội, thành phố đã nhận thức được sự cần thiết và

tầm quan trọng phải phát triển hệ thống dạy nghề. Không chỉ thành phố đầu tư bằng

ngân sách mà ngày càng có nhiều cá nhân, DN thuộc các thành phần kinh tế, các hội

nghề nghiệp, các tổ chức xã hội; ngoài ra các cơ quan đoàn thể khác tham gia đầu tư

48

vào lĩnh vực này (Liên đoàn Lao động, Hội phụ nữ, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của

người tàn tật, Hội bảo trợ trẻ em tàn tật…). Có thể thấy mạng lưới dạy nghề ở thành

phố qua [phụ lục 7].

Thành phố có khoảng 320 cơ sở dạy nghề, trong đó có 229 cơ sở đào tạo ngoài

công lập, chiếm 71,6%. Trong năm 2006, thành phố đã tuyển 321.225 học viên tham

gia vào các trường và cơ sở dạy nghề. Trong đó, học viên hệ dài hạn là 30.327 người;

hệ ngắn hạn là 290.898 người. Số lượng học viên sau đào tạo tham gia vào các hoạt

động kinh tế là 43%. Trong năm 2007, TP.Hồ Chí Minh mở thêm 50 cơ sở đào tạo dạy

nghề mới, trong đó đầu tư nâng cấp 4 trường dạy nghề lên CĐ với tổng kinh phí hàng

trăm tỷ đồng.

Về cơ cấu nghành nghề đào tạo : trong những năm qua, nhiều ngành nghề và

hình thức đào tạo đã được bổ sung, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của NLĐ cũng

như thực tế sản xuất kinh doanh. Ngoài các ngành nghề truyền thống thì

thành phố cũng đã chú trọng đào tạo những ngành trong lĩnh vực công nghệ mới, trình

độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển mạnh như : kỹ thuật máy tính,

lập trình hệ thống, thiết kế đồ họa trên máy vi tính, cơ điện tử – điều khiển tự động,

thiết kế thời trang, nghiệp vụ tài xế taxi, bán hàng, kỹ thuật đàm phán hợp đồng, thẩm

mỹ, các dịch vụ du lịch, làm vườn cây cảnh, kỹ thuật chất dẻo, kiểm tra chất lượng thực

phẩm, sữa chữa thiết bị viễn thông, quản lý nhà cao tầng…

Về hình thức đào tạo : ngoài hình thức đào tạo tập trung theo kế hoạch thì

nhiều hình thức mới được tổ chức : đào tạo tại chức với công nhân đang làm việc; đào

đào tại xí nghiệp; đào tạo có địa chỉ (cơ sở dạy nghề tuyển sinh đào tạo và cung cấp lao

động theo “đơn đặt hàng” của DN); bồi dưỡng nâng bậc thợ; đào tạo theo chế độ

“môđun” và liên thông giữa đào tạo ngắn hạn và dài hạn; đào tạo bổ sung tay nghề thực

hành cho cho học sinh tốt nghiệp trung cấp để lấy bằng CNKT; đào tạo theo phương

thức hợp đồng sử dụng bản quyền về chương trình, kiểm tra đánh giá và cấp bằng nước

ngoài.

Về đào tạo lao động kỹ thuật trình độ cao : thành phố là một trung tâm kinh

49

tế, khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh nhất so với cả nước, do đó, nhu cầu về lao động

kỹ thuật trình độ cao rất lớn. Trước tình hình đó, các cơ sở dạy nghề đã chủ động phát

triển mô hình đào tạo lao động trình độ cao nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của

thành phố. Thực tế, bên cạnh các trường ĐH, CĐ thuộc khối kỹ thuật, các cơ sở dạy

nghề đã tham gia có hiệu quả lĩnh vực đào tạo này.

Bảng 2.13 : Các nghành nghề đào tạo

Số cơ sở dạy nghề tham gia

Lĩnh vực đào tạo

đào tạo

Điện tử ( công nghiệp và dân dụng )

26

Công nghệ thông tin (lập trình, quản trị mạng, đồ họa)

34

Điện công nghiệp, dân dụng

46

Cơ khí chính xác (CAD, CAM, CNC)

10

Công nghệ ô tô

17

Cơ điện tử

7

Hàn công nghệ cao

14

Thiết bị viễn thông

9

Kỹ thuật chất dẻo

3

Hóa chất (thực phẩm, mỹ phẩm, công nghiệp khác)

4

Nguồn : Sở lao động – thương binh và xã hội

Đội ngũ giáo viên

Đến năm 2006, toàn thành phố có 5.353 giáo viên tham gia dạy nghề, trong đó

có 3.749 giáo viên cơ hữu. Ngoài số được đào tạo chính quy đảm nhận vai trò cơ hữu

tại các cơ sở, giáo viên dạy nghề còn được huy động từ nhiều nguồn, bao gồm các

CNKT tay nghề cao, nhân viên nghiệp vụ có trình độ và kinh nghiệm sản xuất, các

giảng viên các trường ĐH, CĐ, các viện nghiên cứu…thực hiện chiến lược phát triển

đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới phương pháp giảng dạy, ngành thường xuyên phối

hợp với các đơn vị có chức năng tổ chức các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ

sư phạm, bồi dưỡng tin học, các lớp chuyên đề về kỹ thuật mới; hợp tác với trường ĐH

Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM để chuẩn hóa sư phạm cho giáo viên. Đến cuối năm 2006,

50

tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn 83%.

2.1.5.2 Những chủ trương, chính sách của thành phố về đầu tư phát triển nguồn

nhân lực những năm qua

Trong những năm qua, thành phố cũng đã quan tâm phát triển NNL bằng một số

chương trình, chính sách :

- Chương trình đào tạo 300 thạc sĩ, tiến sĩ giai đoạn 2001 – 2006 ở nước ngoài

bằng ngân sách.

Chương trình đã có 254 học viên được đưa đi đào tạo tại 14 quốc gia có nền

Giáo dục phát triển như Anh, Mỹ, Úc, Pháp, Nhật... Số học viên của chương trình hoàn

thành học tập và nhận công tác là 160. Trong đó có 9 học viên được học bổng toàn

phần đào tạo tiếp bậc tiến sỹ, 38 người (chiếm 23,75%) được bố trí chức vụ trưởng,

phó phòng hoặc tương đương. Đối tượng của chương trình nên là những cán bộ đã

công tác 1 - 2 năm, có kinh nghiệm thực tiễn, đã gắn bó với một đơn vị nhất định. Tuy

nhiên, chương trình chưa thu hút được nhiều học viên giỏi; số lượng học viên các

ngành KH - CN còn thấp (đặc biệt là các ngành KH - CN mũi nhọn); việc chọn cơ sở

đào tạo còn dàn trải; việc bố trí và quản lý học viên sau đào tạo còn nhiều khó khăn.

Giai đoạn 2007 – 2010, thành phố đã tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo 500

thạc sỹ, tiến sĩ nhằm mục tiêu đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị,

cán bộ khoa học các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn cho thành phố bằng ngân

sách.

Trong đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật ngày càng tăng

nhanh, bên cạnh hệ thống đào tạo nghề công lập, thành phố đã khuyến khích phát triển

các cơ sở dạy nghề ngoài công lập bằng nhiều chính sách, trong đó biện pháp được

xem là có tác động tích cực đến sự phát triển hệ thống dạy nghề đó là : thực hiện

chương trình cho vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở DN hoạt động trong lĩnh vực đào tạo

nghề theo phương thức : Nhà nước trả lãi vay, cơ sở DN thông qua kết quả hoạt động

51

của mình để trả vốn vay, trong thời hạn trung bình từ 7 - 10 năm. Từ năm 2001 đến

năm 2005, tổng nguồn lực tài chính cho dạy nghề của các cơ sở DN trực thuộc thành

phố ước khoảng 1.243 tỷ, trong đó kinh phí ngoài ngân sách là 967 tỷ (chiếm 77,80%).

Bên cạnh đó, thành phố chủ động hợp tác, liên kết đào tạo cùng các DN, nhằm

khai thác khả năng của một số trường có uy tín, nhất là các trường Trung ương đóng

trên địa bàn và các ngành nghề vốn là thế mạnh của các trường này nhằm tăng số lượng

công nhân lành nghề để cung ứng cho thị trường. Chương trình đào tạo có nội dung,

quá trình học tập sản xuất gắn với năng lực thực tế của nhà trường và nhu cầu của DN,

được tiếp cận với công nghệ hiện đại, phù hợp với quá trình sản xuất đã đáp ứng được

nhu cầu sử dụng lao động của nhiều DN.

2.2 Một số vấn đề cấp thiết trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực TP.HM và

nguyên nhân

2.2.1 Một số vấn đề cấp thiết đặt ra

Với vị thế là đô thị lớn của Việt Nam, TP.HCM có vị trí chính trị quan trọng

trong nước, là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, KH - CN, đầu mối giao lưu quốc

tế, đứng đầu cả nước về mức GDP bình quân đầu người, có lợi thế về tiềm năng con

người giàu tính năng sáng tạo, đông đảo đội ngũ lao động lành nghề, lực lượng chất

xám về khoa học tự nhiên, công nghệ và xã hội nhân văn chiếm tỷ trọng lớn so với cả

nước. Bên cạnh đó, TP.HCM có tầng lớp doanh nhân nhạy bén với thị trường, có mối

liên hệ và điều kiện, cho phép TP.HCM chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế

giới nhanh, thu hút mạnh đầu tư bên ngoài. Có thể nói, NNL của TP.HCM có thế mạnh

nổi trội so với cả nước. Do vậy, việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ giúp thành phố phát

triển kinh tế bền vững, đồng thời nhanh chóng vươn lên ngang tầm với các thành phố

lớn khác trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, hiện thành

phố đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn về NNL, đó là :

(cid:141) Thứ nhất : Trình độ học vấn và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố

mặc dù khá cao so với cả nước nhưng vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển

52

kinh tế và so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực. Số lao động qua đào

tạo chiếm 54,21% (lao động chân tay là 45,79%), trong đó, sơ cấp và CNKT không

bằng chiếm 26,13%; lao động có bằng cấp chỉ chiếm 28,08%. Ơ những nước phát triển

thì tỷ lệ giữa lao động có trình độ CMKT và lao động chân tay là : 72% và 28%.Với tỷ

lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp như vậy thì rõ ràng đây là khó khăn lớn nhất cho

thành phố trong việc phát triển, còn một khoảng cách rất xa để thành phố có thể thực

hiện mục tiêu tiến vào nền kinh tế tri thức. Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO,

sự cạnh trạnh diễn ra khốc liệt hơn trên phạm vi rộng và sâu hơn ở mọi góc độ, mọi

ngành nghề và lĩnh vực với nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn rất nhiều.

Trong sự cạnh tranh đó, thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung cần phải vượt qua

được rất nhiều khó khăn, nhưng có thể thấy khó khăn lớn nhất là ở NNL. Trong khi

phần lớn các quốc gia trong tổ chức này đều có một đội ngũ lao động hơn hẳn chúng ta

về số lượng và chất lượng, do vậy, để có thể tồn tại được, bắt buộc trước hết, thành phố

cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng NNL mà thể hiện đầu tiên là phải nâng cao

tỷ lê lao động đã qua đào tạo, ít nhất là ngang hoặc phải cao hơn tỷ lệ chung của các

nước khác. Có như vậy mới có cơ hội để khẳng định và thành công trong quá trình hội

nhập và hoàn thành được mục tiêu mà thành phố đã đề ra trong chiến lược phát triển

đến năm 2020.

(cid:141) Thứ hai : Chất lượng lao động đã qua đào tạo của thành phố không cao. Có

thể thấy đây là vấn đề nổi cộm nhất. Một thực tế đáng lo ngại đang diễn ra phổ biến ở

thành phố nói riêng cũng như cả nước nói chung, đó là tình trạng NLĐ sau khi tốt

nghiệp các cơ sở đào tạo (đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ, THCN)

không thể đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng chuyên môn cho nhà tuyển dụng ngay tại

vị trí công việc theo đúng chuyên ngành đã học. Theo số liệu của Bộ GD ĐT (được

khảo sát từ đề tài trọng điểm cấp Bộ do trường ĐH Sư Phạm TP.HCM thực hiện) công

bố tại Hội nghị toàn quốc chất lượng giáo dục ĐH diễn ra tại TP.HCM vào ngày

5/1/2008 thì hơn 50% sinh viên tốt nghiệp các trường CĐ, ĐH đều phải được nhà

tuyển dụng đào tạo lại vì không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn. Rõ ràng TP.HCM

53

không nằm ngoài thực trạng đó vì so với cả nước, thành phố là địa phương dẫn đầu về

số lượng cũng như chất lượng giáo dục ĐH, là nơi tập trung hầu hết những trường ĐH,

CĐ uy tín hàng đầu của Việt Nam. Tình trạng này vừa gây sự lãng phí rất lớn cho xã

hội về chi phí đào tạo, về thời gian và cơ hội nghề nghiệp. Tại hội thảo “Kết nối thông

tin và việc làm” diễn ra trong khuôn khổ Sàn giao dịch việc làm TP.HCM vào ngày

7/06/2008 với sự tham dự của 14 trường đào tạo nghề, 28 đơn vị tuyển dụng lao động

đã nêu lên một thực trạng chung : hầu hết các DN sử dụng lao động đều cho rằng lao

động “tốt nghiệp” từ các địa chỉ đạo tào nghề từ Sơ cấp đến ĐH đều không làm được

việc đúng với nhu cầu chuyên môn vì chương trình đào tạo không đúng với “điều cần

của DN”. Nhiều sinh viên ra trường không đáp ứng được công việc đúng chuyên môn

đào tạo. Sàn giao dịch việc làm phiên thứ 3, năm 2008 TP. Hồ Chí Minh diễn ra liên

tiếp 2 ngày 7 và 8/06/2008 ở 2 địa điểm Nhà Thiếu nhi Thủ Đức và Trung tâm giới

thiệu việc làm thành phố cũng góp phần cho thấy rõ tình hình này. Tổng cộng tham gia

Sàn giao dịch việc làm lần này có 112 DN bằng đàm phán trực tiếp và đàm phán

online, với nhu cầu là 20.000 lao động trong các ngành : Quản lý kinh tế, Ngân hàng,

Tài chính, Thương mại, Marketing, Luật, Phiên dịch, Xuất nhập khẩu, Công nghệ dệt

may, Công nghệ thông tin, Cơ khí, Điện – điện tử và CNKT, LĐ phổ thông các ngành :

Hóa chất, Thủy sản, Dệt may, Thực phẩm, Môi trường, Điện công nghiệp … Nguồn

cung cấp LĐ tại Sàn giao dịch việc làm lần này, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp

của các trường ĐH, CĐ, THCN, các cơ sở dạy nghề trong thành phố và các tỉnh lân

cận. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng chỉ có 1.676 LĐ trong tổng số 7.667 LĐ tham gia

SGDVL có được việc làm mới. Con số LĐ có việc làm (22%) trong Sàn giao dịch lần

này cho thấy NLĐ đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất thấp. Trong bối

cảnh gia nhập WTO, lợi thế NNL không chỉ qua chỉ tiêu số lượng lao động đã qua đào

tạo, mà cái quan trọng quyết định nhất đến chất lượng NNL chính là kỹ năng, trình độ

chuyên môn được đào tạo của đội ngũ lao động. Con số “%” đã qua đào tạo chỉ nói lên

“khả năng” của NNL còn chất lượng của những con số đó mới là cái “thực tế “ mà nhà

tuyển dụng cần, là cái DN, xã hội cần, và là cái quyết định cuối cùng đến chất lượng

54

NNL của một quốc gia, vùng, lãnh thổ. Vào WTO, điều này sẽ là một trong những trở

ngại lớn nhất trong quá trình cạnh tranh và đặc biệt là ảnh hưởng đến việc thu hút vốn

FDI, một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển

của thành phố.

(cid:141) Thứ ba : Có một sự mất cân đối trong cơ cấu NNL, thực trạng thiếu trầm

trọng lao động có trình độ THCN và CNKT vẫn chưa được khắc phục và đang có xu

hướng ngày càng tăng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố hiện hay giữa

CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 2,22 – 0,36 - 1. Theo cơ cấu trên thì cứ 1 lao động trình

độ CĐ, ĐH trở lên thì có 0,36 lao động có trình độ trung cấp và 2,22 lao động có trình

độ CNKT. Tỷ lệ này cho thấy hiện tượng thầy nhiều hơn thợ, nói lên sự mất cân đối

nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn tiến bộ kỹ

thuật và công nghệ của thành phố hiện nay. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đối

với những nước đang phát triển, tỷ lệ hợp lý phải là : 40-60 CNKT/ 5-10 THCN /1ĐH

hay theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì tỷ lệ hợp lý giữa CNKT/THCN

+ CĐ,ĐH là 7/3. Sự mất cân đối về cơ cấu lao động này dẫn đến một nghịch lý mà lâu

này chúng ta vẫn thường thấy, đó là lao động tốt nghiệp các trường trung cấp ra trường

thì kiếm việc rất nhanh, trong khi đó, lao động tốt nghiệp CĐ, ĐH trở lên thì tỷ lệ thất

nghiệp cao. Tuy nhiên, với tình hình đào tạo hiện nay của thành phố thì thực trạng trên

vẫn không những giảm xuống mà đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới. Theo

thống kê thì năm 2007, quy mô đào tạo cuả thành phố như sau : tỷ lệ lao động trình độ

CNKT – THCN - CĐ, ĐH là 1,04 – 0,24 – 1. Như vậy, số lao động có trình độ trung

cấp tính trên 1 lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ còn 0,24 (giảm hơn so với năm

2006), và số lao động có trình độ CNKT là 1,04, cũng thấp hơn so với năm 2006. Điều

này cho thấy sự mất cân đối một cách trầm trọng giữa “thầy” và “thợ” đang diễn ra ở

TP.HCM theo chiều hướng gia tăng. Một xã hội không thể phát triển nếu chỉ dựa vào

những người thầy mà rất cần những người thợ có năng lực thực sự. Theo số liệu của Sở LĐ

TB và XH TP.HCM, trong năm 2008, nhu cầu của tuyển dụng mới của các DN trên địa bàn thành phố

55

phân theo trình độ như sau :

Bảng 2.14 : Nhu cầu tuyển dụng lao động tại các DN của thành phố năm 2008 phân theo trình độ

Tổng số

STT

Trình độ đào tạo

Tỷ lệ (%)

lao động

Trình độ ĐH trở lên

1

9.093

5,85

THCN

2

5.394

3,47

CNKT có bằng

3

35.129

22,60

CNKT không bằng

4

12.901

8,29

5

Sơ cấp nghiệp vụ và lao động phổ thông

92.921

59,78

TỔNG CỘNG

155.439

100,00

Nguồn: Sở lao động - thương binh và xã hội

Thống kê trên được khảo sát trên tổng số 3.649 đơn vị DN. Tuy chưa phải là con

số tổng quát nhưng thống kê trên cũng cho thấy một thực trạng là trong năm 2008, nhu

cầu về lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ chiếm có 5,85%, trong khi đó, nhu cầu

lao động trình độ CNKT (cả có bằng và không bằng) lại chiếm đến 30,89%. Rõ ràng

điều đó cũng cho thấy rằng, trong quá trình phát triển, nhu cầu về những người “thợ” là

rất lớn.

Tình hình này nếu không được điều chỉnh thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cơ

cấu và chất lượng NNL. Đó là một trong những vấn đề cốt lõi nhất mà trong chiến lược

phát triển NNL thành phố cần phải nhanh chóng giải quyết, đặc biệt trong bối cảnh

Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO. Sự hội nhập làm bùng nổ những ngành,

lĩnh vực đòi hỏi nhiều lao động có trình độ cao, những người “thầy” giỏi, nhưng bên

cạnh đó cũng xuất hiện thêm rất nhiều ngành và lĩnh vực mà ở đó, yêu cầu về đội ngũ

lao động nghề là rất lớn. TP.HCM là một trong những nơi tập trung các KCN, KCX

nhiều nhất, cũng là một trong những địa điểm gia công hàng đầu của Việt Nam và có

uy tín so với một số vùng, lãnh thổ trong khu vực. Tình hình này càng gia tăng khi Việt

Nam hội nhập và mở cửa theo lộ trình gia nhập WTO, do vậy, nhu cầu về một đội ngũ

lao động nghề ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Đó cũng là một yêu cầu không thể thiếu

trong việc thực hiện quy trình “đào tạo theo nhu cầu xã hội” mà chúng ta đã đề cập

56

nhiều trong những năm gần đây.

(cid:141) Thứ tư : NNL có trình độ CMKT cao chưa đáp ứng được yêu cầu của sự

phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thành phố đang “khát” trầm trọng NNL

có trình độ cao trong các ngành dịch vụ cao cấp : tài chính – ngân hàng, bưu chính

viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử, vận tải kho bãi, du lịch, bất động sản,

chứng khoán…và đặc biệt là lao động quản lý cấp trung và cao. Điều này gắn liền

với một vấn đề nổi cộm khác, đó là : cơ chế đào tạo của thành phố chưa đáp ứng được

yêu cầu của thị trường về cơ cấu ngành nghề, hay nói cách khác quan điểm và chủ

trương “ đào tạo cái xã hội cần chứ không đào tạo theo cái mình có” vẫn chưa được

thực hiện tốt. Việc mở cửa theo lộ trình WTO cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế

thành phố (mục tiêu đến năm 2020 cơ cấu kinh tế của thành phố là : dịch vụ 59,5%;

công nghiệp 40%; nông nghiệp 0,5%) đã làm bùng nổ các ngành dịch vụ, đặc biệt là

những ngành dịch vụ cao cấp. Trong khi đó khả năng đào tạo của thành phố còn hạn chế nên không đủ đáp ứng yêu cầu.

(cid:141) Thứ năm : Một vấn đề nữa đặt ra cho thành phố trong việc giải bài toán giữ

chân NLĐ. Hiện tượng “chảy máu chất xám” vốn đã tồn tại từ nhiều năm nay và

đang có chiều hướng gia tăng. Sự “chảy máu chất xám” chủ yếu chảy từ khu vực Nhà

nước sang khu vực có vốn FDI hoặc khu vực tư nhân. Vấn đề này đã mang lại một hậu

quả hết sức nghiêm trọng đến việc sử dụng và khai thác NNL.

Bảng 2.15 : Tình hình tăng giảm lao động trong năm 2007 ở các DN trên địa bàn

thành phố

Số lao động

Số lao động

Số lao động

Thành phần kinh tế

Ghi chú

tăng (%)

giảm (%)

biến động (%)

1.DNNN

1,01

- 0,24

Giảm (-)

1,37

2.DN hoạt động theo luật DN

41,96

+ 9,84

Tăng (+)

32,12

3. HTX

0,02

+ 0,01

Tăng (+)

0,01

4.Các tổ chức khác

0,38

+ 0,26

Tăng (+)

0,12

5.DN có vốn đầu tư nước ngoài

11,96

+2,55

Tăng (+)

9,41

57

Nguồn : Sở lao động thương binh và xã hội

Qua sự biến động của lao động trong các DN trên địa bàn cho thấy, dù có sự

biến động nhiều nhưng kết quả số lao động trong năm vẫn tăng mạnh trong các khu

vực ngoài nhà nước, đặc biệt là các DN hoạt động theo luật DN (tăng 9,84%) và DN có

vốn đầu tư nước ngoài (tăng 2,55%), trong khi đó, khu vực nhà nước lại giảm mất

0,36% lao động. Sự dịch chuyển đó cho thấy đã có một làn sóng di chuyển lao động từ

khu vực nhà nước sang khu vực dân doanh và có vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề đặt ra

ở đây là cơ chế làm việc, tuyển dụng và chế độ đãi ngộ không tương xứng, môi trường

làm việc không tạo điều kiện NLĐ phát huy chuyên môn và năng lực…là những

nguyên nhân làm cho hiện tượng này vẫn tồn tại từ nhiều năm nay và có xu hướng

ngày càng gia tăng. Một năm, 3 Phó Giám đốc Sở (1 thuộc sở Kế hoạch đầu tư, 1 của

Sở Du lịch và 1 của sở Thương mại thành phố) lần lượt làm đơn xin từ nhiệm. Cũng

trong năm 2007, Viện Kinh tế TP.HCM có tới 20 cán bộ xin nghỉ việc, Khu Quản lý

Giao thông Đô thị số 1, Sở GTCC, trong năm 2007 có đến 33 người nghỉ việc, trong đó

có đến 27 chuyên viên là kỹ sư cầu đường có thâm niên cùng hàng loạt các cuộc “ra đi”

ở nhiều sở ngành khác trên địa bàn TP.HCM là những con số nổi góp phần thể hiện rõ

vấn đề mang tính thời sự này, việc “chảy máu chất xám” đã diễn ra ngay tại đối với các

cơ quan, ban ngành đầu não của thành phố và rất nhiều những “quan chức” lại là người

ra đi. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, tình trạng trên đang có nguy cơ

ngày càng trở nên trầm trọng hơn, bởi lẽ, sự có mặt của nhiều tập đoàn lớn, nhiều DN

lớn trên thế giới tại thành phố sẽ là những nơi “ đầu quân” lý tưởng cho những đối

tượng này với những sự đãi ngộ và một chế độ làm việc hợp lý, hiệu quả. Rõ ràng lúc

này, “chất xám” của thành phố đã trở thành nguồn tài nguyên dành cho các DN thuộc

các quốc gia khác, và điều đó cũng đồng nghĩa với việc lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia

khác, sự cạnh tranh sẽ ngày càng khó khăn hơn cho các DN thành phố, khó lại trở nên

càng khó trong bối cảnh này. Sự “chảy máu chất xám” đang diễn ra ngay tại trên “sân

nhà” và đó là một sự thất thoát rất lớn, và là một sự đầu tư không hiệu quả cho NNL,

bởi vì nếu ta cứ đầu tư nhưng nếu không giữ được người thì đối tượng được hưởng kết

58

quả sẽ lại là “đối thủ”. Và nó trở thành nguy cơ rất lớn. Bên cạnh đó, hội nhập cũng tạo

môi trường thuận lợi hơn, thông thoáng hơn, khuyến khích ra đời nhiều DN tư nhân,

DN hoạt động theo luật DN. Chính vì vậy, nhiều NLĐ vốn có tài năng, trí tuệ nhưng

đang phải chịu những khó khăn, bất mãn chính trong môi trường làm việc hiện tại có

thể tự mình “ra riêng”…Nếu không có những giải pháp khắc phục một cách thỏa đáng

và kịp thời tình trạng trên thì đó sẽ là một trong những thách thức rất lớn của thành phố

nói riêng cũng như của cả nước nói chung trong việc đầu tư và phát triển NNL cho

tương lai.

2.2.2 Nguyên nhân và những nhân tố tác động

Những vấn đề tồn tại trong việc đào tạo và sử dụng NNL thành phố trong thời

gian qua xuất phát từ một số nguyên nhân sau :

- Thứ nhất : mặc dù là trung tâm kinh tế, tài chính lớn nhất cả nước, có GDP và

thu nhập bình quân đâu người cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước (năm 2007 :

2.180USD/người) nhưng về cơ bản, thành phố là một tỉnh thành thuộc một quốc gia

đang phát triển nhưng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp ngang với các nước

chậm phát triển với giá trị sản xuất ngành nông nghiệp còn cao trong tổng GDP, lao

động trong nông nghiệp lớn (56% lao động trong nông nghiệp), thành phố phải chịu

những tác động từ những chính sách chung về giáo dục, đào tạo và về NNL của cả

nước, vì thế, không thể thoát khỏi tình trạng chung là lao động chân tay còn rất lớn và

lao động qua đào tạo thấp (gần 55%).

- Thứ hai : thành phố chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát

triển và sử dụng NNL cho quá trình phát triển thành phố ít nhất là đến năm 2020. Điều

này dẫn đến việc quy hoạch, phát triển và sử dụng NNL giữa các ngành còn chồng

chéo; chưa có những dự báo cũng như nhu cầu lao động trong từng ngành nghề cụ thể.

Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong việc xây

dựng một NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng cũng như của một

quốc gia nói chung và cần phải được đặt lên hàng đầu trong tổng thể các giải pháp phát

59

triển NNL. Đặc biệt, thành phố chưa thực sự chủ động trong việc chuẩn bị NNL đáp

ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh gia nhập WTO nên đã thực sự bị động khi tiến

hành hội nhập, nhất là về NNL yếu và thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng.

- Thứ ba : chất lượng đào tạo trong hệ thống GD – ĐT của thành phố còn chưa

cao. Nội dung và phương pháp giảng dạy trong các trường, cơ sở đào tạo còn nhiều hạn

chế, phương pháp giảng dạy nặng về lý thuyết và nhẹ về thực hành, thường tạo ra sự

thụ động đối với người học; giáo viên thiếu, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, chưa đáp

ứng được nhu cầu giảng dạy… Do đó, chất lượng NNL sau đào tạo thường bất cập.

Người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì

người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền

của mà còn lãng phí về thời gian, cơ hội nghề nghiệp v.v.. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và

gia nhập WTO hiện nay thì những hạn chế, bất cập đó đã và đang là một trở ngại lớn đòi hỏi cần có sự cải

cách và đổi mới cho phù hợp.

Bên cạnh đó, việc đào tạo vẫn chưa theo yêu cầu xã hội vì chưa có sự “hợp

tác” giữa 3 nhà : nhà tuyển dụng, nhà đào tạo và nhà quản lý, do vậy, dẫn đến tình

trạng cung và cầu về lao động chưa gặp nhau. Trong đó, nhà trường vẫn còn còn thụ

động trong việc chủ động nắm bắt nhu cầu thị trường nhằm tìm tạo ra các “sản phẩm”

đầu ra đáp ứng được nhu cầu xã hội mà vẫn loay hoay đào tạo theo cái mình có. Nhà

tuyển dụng lại quá thờ ơ với trách nhiệm của chính mình trong việc đào tạo NLĐ, xem

như đó là trách nhiệm và là bổn phận của riêng nhà đào tạo, chưa chủ động mạnh dạn

“đặt hàng” theo yêu cầu, chưa sẵn sàng hợp tác với nhà đào tạo trong việc hỗ trợ người

học trong quá trình “học đi đôi với hành” … Nhà quản lý chưa có những chính sách hỗ

trợ nhằm định hướng nghề nghiệp cho NLĐ cũng như các biện pháp phù hợp, kịp thời

tạo điều kiện cho nhà đào tạo phát huy tính năng động và cả những chính sách thiết

thực nhằm hỗ trợ cho việc “kết hợp” giữa 2 nhà : đào tạo và sử dụng. Những nguyên

nhân đó dẫn đến tình trạng thừa thì vẫn thừa mà thiếu thì vẫn thiếu lao động trong

nhiều ngành của nền kinh tế.

- Thứ tư : Xã hội nhận thức chưa đúng về đào tạo nghề nghiệp, nên địa vị của

60

trung cấp chuyên nghiệp hay trung cấp nghề trong thực tế không được coi trọng. Chưa

có biện pháp thiết thực nhằm thực hiện chủ trương phân luồng học sinh phổ thông nên

không thu hút được nhiều học sinh vào các lọai hình đào tạo nghề nghiệp. Nguyên nhân

sâu xa của vấn đề là do tâm lý xã hội, còn tồn tại tình trạng coi trọng bằng cấp, không

coi trọng CNKT và THCN trong khi nhu cầu của xã hội về hai đối tượng này ngày

càng tăng cao. Chính vì vậy, dẫn đến sự mất cân đối trầm trọng giữa lao động có trình

độ CĐ, ĐH và THCN, CNKT, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” lâu nay. Đặc điểm nổi

bật của người dân Việt Nam nói chung và người dân thành phố nói riêng là tâm lí trọng

khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc THPT dù có học lực thế nào cũng

đăng kí dự thi vào một trường ĐH nhất định, rất ít học sinh ngay từ đầu lựa chọn giải

pháp học nghề. Điều này xuất phát từ nghịch lý hiện nay ở nước ta nói chung và thành

phố nói riêng cha mẹ lo việc học hành của con cái, đầu tư tiền của cho con học, nhưng

việc làm, quyền lợi của con họ thì không biết sẽ ra sao khi đã học xong. Mọi thứ tốn

kém đều do cha mẹ học sinh chịu, nhưng DN và xã hội hưởng kết quả (có quyền lực

chọn sử dụng theo nhu cầu của mình). Chính vì vậy nên việc chọn ngành nghề đào tạo,

cấp học của học sinh phần lớn là theo ý của cha mẹ học sinh, họ muốn việc làm của

con cái sau khi tốt nghiệp phải xứng đáng với công sức, tiền của mà họ đã đầu tư. Tâm

lý nay càng trở nên phổ biến hơn ở TP.HCM, nơi được xem là trung tâm kinh tế lớn

nhất cả nước với thu nhập bình quân đầu người cao và đặc biệt là địa phương tập trung

nhiều trường ĐH, CĐ lớn và uy tín của cả nước. Muốn thay đổi tâm lý này cần phải có

sự nỗ lực chung từ Nhà nước, DN và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò quản lý,

điều hành, chi phối; DN hấp dẫn, thu hút đội ngũ CNKT và THCN bằng tuyển dụng và

chính sách tiền lương; toàn xã hội cần có cuộc vận động làm cho ai cũng thấy được học

Ngoài ra, hệ thống các trường chuyên nghiệp và dạy nghề thiếu các thông tin dự

nghề có vị trí quan trọng và được xã hội đánh giá cao.

báo về nhu cầu đào tạo theo ngành nghề, thiếu thông tin về thị trường lao động ở thành

phố. Chưa có sự quan tâm, tham gia tích cực vào quá trình đào tạo ở nhà trường của

các cơ sở sử dụng lao động nên chưa tạo được cầu nối giữa đào tạo – sử dụng lao động.

61

Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề không đúng mức và chưa hợp lý, chế độ chính sách lạc

hậu nhưng chưa có những giải pháp thỏa đáng để giải quyết kịp thời những mâu thuẩn

đang tồn tại giữa một bên là đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đông đảo về số lượng

và một bên là khả năng và điều kiện còn rất hạn chế của các cơ sở đào tạo.

- Thứ năm : Chưa có chính sách sử dụng lao động hợp lý, đặc biệt là lao động có

trình độ cao trong khu vực Nhà nước dẫn đến thất thoát, chảy máu chất xám. Môi

trường làm việc và chính sách dùng người còn nhiều bất cập. Thu nhập thấp, không

tương xứng với kết quả lao động và sự cống hiến của NLĐ; cơ chế sử dụng lao động

không hợp lý, không cho phép khai thác được năng lực chuyên môn và thế mạnh của

NLĐ, chưa có cơ chế phát hiện và đãi ngộ nhân tài một cách xác đáng, đặc biệt trong

thời Việt Nam gia nhập WTO, NLĐ có nhiều cơ hội hơn để tìm một công việc mới với

một môi trường làm việc tốt hơn, với những sự đãi ngộ tương xứng…dẫn đến tình

trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực Nhà nước sang các khu vực có vốn đầu tư nước

ngoài và khu vực dân doanh. Ngoài ra, thành phố cũng chưa thực sự đẩy mạnh chính

sách thu hút người tài từ khắp nơi trên đất nước về làm việc ở đây, đặc biệt là đội ngũ

lao động trình độ cao đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài.

- Thứ sáu : Đầu tư cho giáo dục – đào tạo chưa cao và chưa hiệu quả. Mặc dù

những năm gần đây tỷ lệ đầu tư cho giáo dục – đào tạo hàng năm của thành phố có tăng

theo sự tăng trưởng kinh tế nhưng sự đầu tư đó vẫn còn quá thấp (năm 2005 : 0,83%

GDP ; năm 2006 : 0,89% GDP; năm 2007 : 0,91% GDP). Nếu so với tỷ lệ đầu tư của

những nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới như Mỹ : 6,7% GDP, Hà Lan :

6,7% GDP, Nhật Bản : 5% GDP, Pháp : 5,7% GDP; Xingapore : 18,1% GDP, Malaixia

: 19,4% GDP, Hàn Quốc : 19,6% GDP, Trung Quốc : 14,6% GDP [phụ lục 8,9] thì

chúng ta dễ dàng nhận thấy, đó là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến chất lượng

62

giáo dục đào tạo của thành phố vẫn còn thấp.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM

TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO

3.1 Định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đến năm 2020

3.1.1.Định hướng phát triển kinh tế – xã hội

1. Phát triển phải mang tính bền vững. Bền vững trong lĩnh vực kinh tế là đảm

bảo cho nền kinh tế thành phố phát triển lâu dài. Do đó, cần tạo các nền tảng cơ bản

cho phát triển dài hạn, bền vững và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của

người dân. Đặc biệt chú trọng đến bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.

2. Phát triển kinh tế phải hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Đặt con người

vào trung tâm của phát triển và các mục tiêu sau cùng là nhằm phát triển con người.

Văn hóa vừa là nền tảng vừa là động lực cho phát triển kinh tế. Sự giàu có về vật chất

phải đi liền với sự phát triển tương xứng về đời sống tinh thần, để đảm bảo cho một xã

hội phát triển văn minh, hiện đại.

3. Kinh tế TP.HCM là kinh tế đô thị, khác với kinh tế quốc gia. Phát triển đô thị

và phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau. Thực chất của phát triển kinh tế thành

phố là giải quyết các vấn đề phát triển đô thị.

4. Phát triển thành phố phải gắn với phát triển vùng. Thành phố là hạt nhân phát

triển của Vùng KTTĐPN. Do đó, các quy họach, định hướng phát triển của thành phố

phải gắn kết chặt chẽ với toàn vùng.

5. Giai đoạn sắp tới là giai đoạn mà kinh tế cả nước sẽ hội nhập hơn nữa vào nền

kinh tế khu vực và thế giới. Là thành viên WTO, thành phố sẽ tiếp tục đàm phán, ký

kết và thực hiện các cam kết mậu dịch tự do với các nước khu vực. Kế hoạch và chiến

lược phát triển thành phố cần đặt trong bối cảnh hội nhập như trên. Vấn đề nâng cao

63

năng lực cạnh tranh, nhất là của DN cần xem là một trong những ưu tiên hàng đầu.

Quan điểm của thành phố là chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển. Phải sử dụng cho

được công cụ hội nhập đề làm đòn bẩy phát triển thành phố.

3.1.2 Mục tiêu phát triển TP. HCM đến năm 2020

Căn cứ xây dựng định hướng chiến lược về phát triển thành phố được dựa trên

các văn bản pháp lý quan trọng như Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị (20-NQ/BCT)

ngày 18/11/2002 về phát triển TP.HCM, Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị (53-NQ/BCT)

ngày 29/08/2005 về phát triển Đông Nam bộ và Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam,

Quyết định 146/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 13/08/2004 về phát triển Vùng Kinh tế

Trọng điểm phía Nam, Quyết định 123/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 29/05/2006 về

triển khai thực hiện Nghị Quyết 53 của Bộ Chính trị về phát triển Đông Nam bộ và

Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam, các văn kiện đại hội Đảng bộ thành phố, và tham

khảo đến các định hướng quy họach phát triển thành phố trước đây. Ngòai ra, các định

hướng và mục tiêu đề ra còn căn cứ vào phân tích thực trạng KT - XH thành phố, bối

cảnh trong và ngoài nước tác động lên quá trình phát triển thành phố trong tương lai.

Mục tiêu tổng quát phát triển thành phố là xây dựng TP.HCM trở thành một

thành phố XHCN văn minh, hiện đại; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Phát triển nhanh và bền vững. Xây dựng thành phố trở thành trung tâm lớn

về nhiều mặt của đất nước và khu vực Đông Nam Á.

(1) Về kinh tế, thành phố lấy dịch vụ và công nghiệp giá trị gia tăng cao làm

nền tảng phát triển của mình. Là một trung tâm kinh tế lớn nhất nước, là nơi hội tụ của

giới kinh doanh. Xây dựng thành phố thành nơi thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong

và ngoài nước đặt trụ sở kinh doanh của mình để tiến hành các hoạt động kinh doanh

trên phạm vi cả nước và các nước trong khu vực; từng bước trở thành trung tâm công

nghiệp, trung tâm tài chính và thương mại của khu vực Đông Nam Á.

(2) Về đô thị, xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, là một thành phố xanh và

sạch, là một đô thị sông nước phù hợp với thổ nhưỡng Nam bộ. Phát triển thành phố

64

thành một đô thị mở, nhiều trung tâm. Giới hạn quy mô dân số thành phố ở mức phù

hợp (10 triệu người không kể khách vãng lai). Thành phố là hạt nhân của Vùng đô thị

TP.HCM, nối kết với các tỉnh xung quanh.

(3) Về KH - CN, xây dựng thành phố thành một trung tâm KH - CN lớn của cả

nước và của Đông Nam Á. Thành phố tập trung chủ yếu vào nghiên cứu ứng dụng các

lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp

hóa và hiện đại hóa đất nước. Tăng cường tiềm lực khoa học của thành phố, khi đủ

mạnh sẽ đi vào chọn lọc nghiên cứu các nội dung khoa học và công nghệ qui mô lớn,

hiện đại, góp phần tích cực tạo ra bước phát triển đột phá vào những năm giai đoạn

2015-2020.

(4) Về GD - ĐT, y tế, thành phố sẽ là một trung tâm lớn về GD - ĐT chất lượng

cao và y tế kỹ thuật cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Nâng chất lượng GD

của thành phố lên bằng với các nước trong khu vực. Thành phố là nơi tập trung các chi

nhánh, cơ sở ĐT có uy tín của nước ngoài ở Việt Nam.

(5) Về xã hội, xây dựng thành phố thành một thành phố kiểu mẩu XHCN kết

hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Chú trọng vấn đề giảm nghèo,

giảm bất bình đẳng, phát triển lấy con người làm trung tâm.

(6) Về văn hóa, xây dựng thành phố thành trung tâm văn hóa lớn của cả nước,

phát triển các lĩnh vực văn hóa đỉnh cao. Kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống và

văn hóa hiện đại. Phát triển mạnh các ngành văn hóa giải trí; đưa văn hóa thực sự là

nền tảng của sự phát triển thành phố.

(7) Về an ninh chính trị và trật tự xã hội, phải luôn luôn được ổn định và phải

được xem như là tiền đề của sự phát triển.

Có thể hình dung một cách tổng quát, sau năm 2020, thành phố phải thật sự trở

lại vị trí “Hòn ngọc Viễn đông”, là một trong những thành phố hiện đại, phát triển

nhanh và năng động nhất khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương.

TP.HCM sẽ vươn lên trở thành một trung tâm đa chức năng, trong đó nổi bật là một

trung tâm tài chính và dịch vụ cao cấp của cả nước. Cơ cấu kinh tế của thành phố sau

65

năm 2020 sẽ giống cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế phát triển (hậu công nghiệp), với

các ngành dịch vụ cao cấp giữ vai trò chi phối. Thành phố sẽ trở thành đô thị mang tính

toàn cầu. Đời sống kinh tế thành phố gắn chặt với đời sống kinh tế thế giới thông qua

vô số các mối liên kết kinh tế trên mạng viễn thông và internet toàn cầu, là cửa ngõ

giao lưu quan trọng nhất về kinh tế của Việt Nam với bên ngoài.

3.1.3 Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố đến năm 2020

Dự báo đến năm 2020, cơ cấu GDP giữa các ngành của thành phố sẽ là :

Bảng 3.1 : Cơ cấu GDP của TP.HCM năm 2010 và 2020

2007

2010

2020

Tổng số (%)

100,0

100,0

100,0

Nông nghiệp (%)

1,0

0,8

0,5

Công nghiệp – xây dựng (%)

47,2

47,5

40,0

Dịch vụ (%)

51,8

51,7

59,5

Nguồn : Viện kinh tế thành phố

Về cơ cấu kinh tế, sau 2010, công nghiệp và xây dựng cơ bản ổn định, tiếp tục

gia tăng tỉ trọng dịch vụ trong GDP thành phố, tiếp tục giảm dần nông nghiệp, chuyển

đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp chất lượng cao. Dự báo cơ cấu kinh tế cụ thể

của thành phố đến năm 2020 :

- Công nghiệp và xây dựng: 40%

- Dịch vụ: 59,5%

- Nông nghiệp: 0,5%

Trong công nghiệp và xây dựng, tiếp tục đầu tư cho các ngành công nghiệp cơ

khí chế tạo, điện tử, tự động, viễn thông, tin học. Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công

nghiệp, phát triển các ngành công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano.

Trong nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng không còn sản xuất nông nghiệp

thuần túy, phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp. Đến 2015 trở thành trung tâm

cung cấp giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao cho cả nước. Đến 2020, trở thành

66

trung tâm công nghệ sinh học nông nghiệp của khu vực Đông Nam Á và có lĩnh vực

vươn tầm khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Khuyến khích phát triển các ngành nông

nghiệp sản xuất ra sản phẩm với hàm lượng khoa học kỹ thuật và giá trị cao.

Trong dịch vụ, tiếp tục duy trì sự tăng trưởng của 9 nhóm ngành mũi nhọn. Giai

đoạn 2010- 2020, tập trung cho 6 nhóm ngành sau : tư vấn tài chính- tín dụng- ngân

hàng- bảo hiểm; dịch vụ bưu chính- viễn thông trong đó đẩy mạnh việc kinh doanh

mua bán sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông; dịch vụ tư vấn; KH - CN; y tế

và tư vấn GD - ĐT chất lượng cao.

3.2 Định hướng và một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

gia nhập WTO

3.2.1 Định hướng phát triển nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và để đáp ứng yêu cầu phát triển trong

thời kỳ gia nhập WTO, cơ cấu NNL của thành phố phải có sự chuyển dịch nhằm đáp

ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Sự chuyển dịch trước tiên phải được thực hiện

theo hướng lao động phổ thông sẽ giảm, lao động có trình độ chuyên môn cao sẽ gia

tăng, lao động trong khu vực 1 giảm, lao động khu vực 2 và đặc biệt là khu vực 3 phải

tăng nhanh. Điều này đòi hỏi GD – ĐT của thành phố cũng phải có sự điều chỉnh trong

nội dung, phương thức ĐT để đảm bảo cung cấp một NNL đủ về số lượng, cao về chất

lượng, đáp ứng theo yêu cầu của xã hội. Đó phải là một NNL tinh thông nghiệp vụ, có

kỹ năng, am tường văn hóa, lịch sử dân tộc, hiểu biết luật pháp, năng động, sáng tạo, có

trình độ, năng lực tiếp thu và ứng dụng KH - CN, có tác phong công nghiệp và có bản

lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Ngoài sự đổi mới

trong lĩnh vực GD - ĐT thì vấn đề về tư duy, phương pháp quản lý điều hành một thành

phố dịch vụ, công nghiệp hiện đại của đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo thành phố cũng

phải được đổi mới, nâng tầm, đủ khả năng điều hành mọi hoạt động của Thành phố. Đó

67

cũng chính là mục tiêu mà thành phố cần phải đạt được trong việc phát triển NNL đến năm 2020.

- Về quy mô dân số

Mặc dù tốc độ tăng dân số giai đoạn 2000-2005 rất cao so với các giai đoạn

trước nhưng những thay đổi trong mấy năm gần đây cho thấy tốc độ này sẽ giảm dần

trong giai đoạn 2006-2010 và dần ổn định trong giai đoạn 2010-2020. Trước mắt tăng

dân số cơ học vẫn là yếu tố chính làm tăng dân số trên địa bàn thành phố nhưng tốc độ

tăng cơ học sẽ giảm dần do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố và sự

phát triển của các tỉnh trong vùng. Trong thời gian tới các chỉ tiêu dân số chính của

thành phố được dự báo như sau :

Bảng 3.2 : Dự báo về dân số TP.HCM năm 2010 và 2020

Số TT

Mục tiêu

2005

2010

2020

1

Qui mô dân số (1000 người)

6.240

7.200

9.200

2

Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên (%)

1,15

1,1

1,0

3

Tỉ lệ tăng cơ học (%)

2,0

1,5

0,9

Nguồn : Theo tính toán của Viện kinh tế thành phố

(cid:142)Quy mô dân số của thành phố năm 2010 sẽ là 7,2 triệu người và năm 2020 sẽ

ở mức 9,2 triệu người, trong đó trên 90% là dân số đô thị.

(cid:142)Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhẹ và ổn định ở mức 1% vào năm 2020.

(cid:142)Tỉ lệ tăng dân số cơ học giảm và đạt mức 1,5% năm 2010, sau đó giảm nhẹ và

đạt mức 0,9%/ năm vào năm 2020.

- Về lao động

Theo tính toán của Viện kinh tế thành phố, dân số thành phố sẽ là 7,2 triệu

người năm 2010 và đến năm 2020 sẽ là 9,2 triệu người. Trong đó, NNL của thành phố

tương ứng sẽ là 4.877.280 người (chiếm 67,74% tổng dân số) năm 2010 và 6.213.680

68

người năm 2020 (chiếm 67,54% tổng dân số).

Chỉ tiêu

2005

2010

2020

Tốc độ tăng trưởng

bình quân (%)

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

(người)

(%)

(người)

(%)

(người)

(%)

2006 -

2011 -

2010

2020

I. Dân số

6.239.938

100,00

7.200.000

100,00

9.200.000

100,00

2,9

2,5

toàn TP

II. Nguồn lao

4.164.161

67,67

4.877.280

67,74

6.290.040

68,37

3,3

2,6

động

Bảng 3.3 : Dự báo về dân số và NNL của TP.HCM năm 2010 và 2020

Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố

Trong thời gian tới nhu cầu về lao động của thành phố sẽ tiếp tục gia tăng. Tuy

nhiên, do cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng giảm tỉ trọng các ngành thâm dụng lao

động phổ thông, tăng tỉ trọng các ngành kỹ thuật cao nên nhu cầu về lao động sẽ tăng

chậm hơn giai đoạn trước đây. Trong đó, nhu cầu về lao động trình độ cao sẽ tăng

tương đối so với lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế thành phố trong 15 năm tới sẽ chuyển dịch theo

hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Do đó, cơ cấu lao động trên địa bàn thành

phố sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng lao động ở các ngành dịch vụ và

giảm dần tỉ trọng lao động trong nông nghiệp. Riêng đối với khu vực công nghiệp thì

từ đây đến cuối những năm 2010 tỉ trọng lao động trong công nghiệp sẽ tăng chậm và

sau đó sẽ giảm dần. Dự báo trong giai đoạn 2006-2020 NNL của thành phố được phân

bố như sau :

(cid:142)Tỉ trọng lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp: công nghiệp-xây dựng: thương

mại dịch vụ lần lượt là 2%: 36%: 62%.

(cid:142)Bình quân mỗi năm thành phố giải quyết việc làm cho khoảng 230 đến 240 ngàn

lao động, trong đó, có 100 ngàn việc làm mới.

(cid:142)Tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 5,8% năm 2006 xuống còn 5% vào năm 2010 và 4% vào

69

năm 2020.

(cid:142)Năng suất lao động chung của các ngành kinh tế trên địa bàn thành phố tăng bình

quân 10%/năm.

(cid:142)Tỉ lệ lao động qua ĐT nghề trong tổng lao động đang làm việc đạt trên 55% vào

năm 2010 và đạt trên 65% vào năm 2020 [20,70].

3.2.2 Nhu cầu về nguồn nhân lực thành phố đến năm 2020

3.2.2.1 Nhu cầu NNL trong cơ cấu kinh tế thành phố đến 2010 và 2020

Trên cơ sở ước tính dân số và lao động của thành phố từ nay đến năm 2020, với

mục tiêu đạt được cơ cấu lao động phù hợp với trình độ phát triển, nhu cầu nhân lực

70

của thành phố cho một số ngành cụ thể như sau :

Bảng 3.4 : Nhu cầu về NNL một số ngành trọng yếu năm 2010 và 2020 trên địa bàn

TP.HCM

Đơn vị : người

CHỈ TIÊU

STT

NỘI DUNG

2005

2010

2020

I DỊCH VỤ

68.292

97.545

188.701

1. Tài chính (tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo

(1,64%)

(2%)

(3%)

hiểm, thuê và cho thuê tài chính)

215.703

341.409

503.203

2. Du lịch, khách sạn, nhà hàng

(5,18%)

(7%)

(8 %)

248183

341.409

629.004

3. Vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng

(5,96%)

(7 %)

(10%)

5.990

8.640

27.600

4. Y tế (bác sĩ)

(9,6 bác sĩ/

(12 bác sĩ/

(30 bác sĩ/

10.000 dân)

10.000 dân)

10.000 dân)

248.183

487.728

754.805

5. Bưu chính viễn thông và CNTT

(5.96%)

(10%)

(12%)

244.019

146.318

314.502

6. Dịch vụ tư vấn

(5,86%)

(3%)

(5%)

Toàn ngành:

170.704

251.602

7. Giáo dục và đào tạo chất lượng cao

140.748

(3,5 %)

(4 %)

(3,38%)

II. CÔNG NGHIỆP

256.928

390.182

566.104

1. Cơ khí chế tạo máy

(6,17%)

(8 %)

(9 %)

219.451

341.409

629.004

2. Điện tử – viễn thông

(5,27%)

(7%)

(10%)

301.485

438.955

754.805

3. Công nghệ thông tin

(7,24%)

(9%)

(12%)

112.848

146.318

314.502

4. Công nghiệp hóa chất và dược phẩm

(2,71%)

(3%)

(5%)

203.211

243.864

377.402

5. Chế biến lương thực, thực phẩm giá trị gia

(4,88%)

(5%)

(6%)

tăng cao

III.3 NÔNG NGHIỆP

71

64.960

21.000

31.450

1. Ứng dụng công nghệ sinh học (Giống cây

(1.56%)

(0,5%)

(0,5%)

trồng, vật nuôi)

Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố. Số liệu dự báo nguồn lao động năm 2010 :

4.877.280 và năm 2020 : 6.290.040

3.2.2.2 Nhu cầu NNL chất lượng cao cho thành phố từ nay đến 2010 và 2020

Bảng 3.5 : Nhu cầu NNL chất lượng cao cho TP.HCM đến năm 2010 và 2020

CHỈ TIÊU

NỘI DUNG

2010

2020

1.Nhân lực quản lý, điều hành (từ giám đốc và tương

9.755

18.870

đương trở lên) trong các nhóm ngành dịch vụ qua đào

(0,2%)

(0,3%)

tạo

2.Cán bộ quản lý nhà nước trong các ngành, lĩnh vực

170.705

188.701

(3,5%)

(3%)

3.Các nhà khoa học, chuyên gia trong tất cả các lĩnh

10.000 tiến sĩ

50.000

vực

Nguồn : Tính toán của Viện kinh tế thành phố

Qua bảng số liệu trên, ta thấy, nhu cầu NNL của thành phố đến năm 2020 là rất

lớn. Trong đó, các ngành dịch vụ tăng mạnh, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin,

ngành du lịch, khách sạn; trong lĩnh vực công nghiệp thì dẫn đầu vẫn là ngành công

nghệ thông tin (12%), kế đến là điện tử – viễn thông (10%). Lĩnh vực nông nghiệp nhu

cầu về lao động giảm, điều này cũng phù hợp với cơ cấu kinh tế của thành phố trong

quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và quá trình gia nhập WTO. Riêng về lĩnh

vực lao động chất lượng cao, nhu cầu đạt 50.000 tiến sĩ vào năm 2010 là một con số

khá lớn, đòi hỏi thành phố phải có chiến lược đào tạo và phát triển một cách nghiêm

72

túc, chất lượng.

3.2.3 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực TP.HCM đáp ứng

yêu cầu gia nhập WTO

Chiến lược phát triển KT - XH trong bối cảnh gia nhập WTO đặt ra yêu cầu xây

dựng và phát triển NNL có chất lượng ngày càng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển

của thành phố. Để làm được điều đó có thể thực hiện một số giải pháp :

3.2.3.1 Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng, phát

triển và nâng cao chất lượng NNL của thành phố trong quá trình đổi mới và hội

nhập quốc tế hiện nay; xây dựng, triển khai chiến lược phát triển NNL thành phố từ

nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2030

(cid:141) Thứ nhất : Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng,

phát triển và nâng cao chất lượng NNL của thành phố trong quá trình đổi mới và hội

nhập quốc tế hiện nay

Trong quá trình đổi mới và bước vào “sân chơi” toàn cầu, so với nhiều quốc gia,

vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới, thành phố không có nguồn lực gì nổi trội.

Do đó, để quá trình phát triển và gia nhập WTO thành công, đưa HCM trở thành thành

phố XHCN, văn minh, hiện đại; đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phát triển nhanh và bền vững, trở thành trung tâm lớn về nhiều mặt của đất nước và

khu vực Đông Nam Á như mục tiêu mà thành phố đã đề ra thì nhân tố quyết định cho sự

thành công đó chính là NNL. NNL thành phố vốn còn yếu kém về nhiều mặt : số

lượng, chất lượng và cơ cấu. Những bất cập đó đã và đang ngày càng bộc lộ rõ và trở

thành nhân tố hạn chế sự phát triển của thành phố thời gian qua. Nếu không khắc phục

kịp thời, nhanh chóng những yếu kém, hạn chế của NNL thì chắc chắn đó sẽ là nhân tố

73

kìm hãm sự phát triển của thành phố trong thời gian tới, khi Việt Nam đang ngày càng

hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Vì vậy, để có

thể hội nhập thành công và đạt được mục tiêu đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và

phát huy nguồn lực con người, xây dựng NNL thành phố ngày càng nâng cao về chất

lượng được xem là nhân tố quyết định nhất và là “chìa khóa” quan trọng để đi đến

thành công trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

(cid:141) Thứ hai : Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển NNL thành phố từ nay

đến năm 2020 và tầm nhìn 2030

Trên cơ sở định hướng về phát triển KT - XH thành phố đến năm 2020, cần phải

xây dựng chiến lược phát triển NNL thành phố đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm

2030. Nội dung và cách thức triển khai chiến lược phải bảo đảm tính toàn diện phù hợp

với nhu cầu và năng lực của thành phố. Trong đó, cần đề ra và thực hiện các mục tiêu

cụ thể theo lộ trình, tất nhiên, các mục tiêu nói trên có thể được điều chỉnh, thay đổi tùy

theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của

thành phố trong thời gian tới.

Để làm được điều này, trước mắt, cần phải có sự nhất quán trong khâu tổ chức

quản lý, đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ trong đường lối, chính sách giữa Bộ giáo dục,

sở giáo dục, các cơ quan lãnh đạo của thành phố, các DN trên địa bàn và đặc biệt là các

cơ sở đào tạo. Trong chiến lược này nhất thiết cần phải quy hoạch lại toàn bộ hệ thống

đào tạo NNL thành phố trong thời gian qua với cơ cấu ngành nghề, số lượng, chất

lượng và tất cả những biện pháp, chính sách đầu tư, tổ chức đào tạo… nhằm đạt được

những mục tiêu đề ra. Chiến lược được xây dựng phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp

với điều kiện, năng lực của thành phố nhưng quan trọng nhất phải cung ứng NNL có

chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố nói riêng cũng như cho cả nước nói

chung. Điểm quan trọng nhất của chiến lược đó là mục tiêu hướng đến thị trường.

Nói cách khác, chiến lược này phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường trong bối cảnh

hội nhập và phát triển, từ đó, xây dựng các giải pháp cụ thể.

74

3.2.3.2 Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo

Với tỷ lệ 54% lao động có trình độ CMKT (trong đó lao động có bằng cấp chỉ

28%) như hiện nay thì rõ ràng là một yếu kém cho thành phố trong quá trình phát triển

và hội nhập. Đây là vấn đề mang tính vĩ mô và dài hạn, vì vậy, khó có thể đạt được

mục tiêu này trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề căn cơ và cốt lõi

đối với NNL thành phố nói riêng cũng như của một quốc gia nói chung, do vậy, cần

phải có hệ thống giải pháp đồng bộ với lộ trình cụ thể, phù hợp và hiệu quả nhằm đạt

được mục tiêu này. Có thể thực hiện một số giải pháp sau :

- Tăng số lượng, quy mô, cơ cấu và chất lượng hệ thống các trường ĐH, CĐ,

THCN và các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề

này nhưng xét cho cùng, nếu muốn tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo thì không thể không

tăng quy mô hệ thống các cơ sở đào tạo, đây là vấn đề bắt buộc. Tuy nhiên, đi kèm với

việc tăng quy mô, số lượng các cơ sở đào tạo dứt khoát phải có một cơ chế quản lý,

giám sát chặt chẽ và hiệu quả của các cơ quan, ban ngành chức năng nhằm tránh tình

trạng mở trường tràn lan, kém hiệu quả và lãng phí. Chúng ta phải thực hiện theo tinh

thần “nhanh nhưng không vội”.

- Để thực hiện được điều này cần phải phải giải quyết các vấn đề về : tăng số

lượng và chất lượng giảng viên; tăng cường và hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất phục

vụ hoạt động giảng dạy; đặc biệt, phải nâng cao nhận thức của người dân trong việc ý

thức trang bị nghề nghiệp cho bản thân, làm cho họ nhận thức được học tập vừa là

quyền lợi đồng thời là nghĩa vụ, trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội để

từ đó, họ có định hướng và nỗ lực trong việc cố gắng trang bị cho mình một nghề nhất

định bằng việc học tập trong một cơ sở đào tạo nào đó, phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh của bản thân. Chỉ có nghề nghiệp mới là điểm tựa vững chắc nhất cho tương lai,

học là con đường duy nhất để sống và làm việc thành công. Để làm được điều này cần

phải có sự nỗ lực của toàn xã hội và các chính sách cụ thể, thiết thực của các cơ cơ

quan, ban ngành chức năng có liên quan và đặc biệt là của các cơ sở đào tạo nhằm hỗ

trợ và tạo điều kiện cho người dân có thể dễ tiếp cận hơn với các loại hình giáo dục đào

75

tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của người học.

- Đẩy mạnh hoạt động dạy nghề về số lượng, và đặc biệt là chất lượng nhằm thu

hút một lực lượng lớn lao động xã hội tham gia vào. Làm tốt điều này góp phần nâng

cao tỷ lệ lao động qua đào tạo ở thành phố (vì hiện nay tỷ lệ lao động có trình độ

CNKT và THCN ở thành phố còn rất thấp) một các hiệu quả hơn, ít tốn kém, ít lãng phí

hơn và nhanh hơn. Điều này càng trở nên bức thiết hơn với thực tế hiện nay của thành

phố là đang thiếu trầm trọng đội ngũ lao động này. Vì vậy đây là giải pháp rất quan

trọng nhằm tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố

trong hội nhập.

3.2.3.3 Nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đào tạo nhằm tăng chất lượng

lao động đã qua đào tạo, khắc phục tình trạng lao động sau đào tạo vẫn không thể

làm việc theo nhu cầu của nhà sử dụng trong chính chuyên ngành đã học, giảm

thiểu quá trình đào tạo lại gây lãng phí cho về tiền của, thời gian …cho người học

và xã hội.

(cid:141) Đầu tư nâng cao mạng lưới cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng hệ thống

giáo dục

Nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục hướng đến chuẩn tiên tiến để cung cấp

cho học sinh các kiến thức cơ bản và kiến thức ứng dụng, từ đó nhằm tạo tiền đề ban

đầu để chuẩn bị đào tạo đội ngũ NNL theo nhu cầu xã hội. Có thể thực hiện bằng các

giải pháp cơ bản như sau :

- Cải thiện và nâng cấp đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất các trường từ mẫu giáo,

tiểu học, THCS và THPT. Cung cấp sách giáo khoa, tài liệu học tập và các trang thiết

bị, phòng thí nghiệp, đồ dùng dạy học cho học sinh.

- Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên các cấp đã tồn tại từ nhiều năm và có xu

hướng ngày càng gia tăng bằng những biện pháp cụ thể như : phối hợp giữa Sở giáo

dục và các trường trên địa bàn nhanh chóng xây dựng chiến lược giáo dục cho từng giai

đoạn (5 năm, 10 năm, 20 năm), trong đó, cần tính toán và dự báo nhu cầu về học sinh,

giáo viên cụ thể cho từng năm học, từng giai đoạn và những yếu tố tác động đến. Trên

76

cơ sở đó, xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ giáo viên, tránh tình trạng bị động vì

thiếu giáo viên như hiện nay; Sở giáo dục đặt chỉ tiêu giáo viên cho các trường ĐH,

CĐ, trung cấp sư phạm trong từng năm học căn cứ trên chỉ tiêu dự báo để các trường sẽ

tự tìm giải pháp nhằm đạt chỉ tiêu mà Sở giáo dục đề ra; Sở giáo dục nên mở rộng đối

tượng xét tuyển giáo viên cho những người không nằm trong diện hộ khẩu, KT3, thay

vào đó là những thỏa thuận cơ bản về quyền và nghĩa vụ cũng như những chứng minh

của người dự tuyển sẽ làm việc trong một thời gian nhất định. Điều này sẽ huy động

được đội ngũ giáo viên đông đảo hơn từ khắp nơi có mong muốn giảng dạy; huy động

đội ngũ giáo viên đã về hưu nhưng còn đủ sức khỏe, lòng yêu nghề, tiếp tục công tác

giảng dạy dưới dạng hợp đồng thỉnh giảng.

- Nâng cao chất lượng giáo viên giáo viên bằng cách nâng cao chất lượng sinh

viên các trường sư phạm, thường xuyên chuẩn hóa chất lượng đội ngũ giáo viên, bồi

dưỡng, đào tạo lại giáo viên các cấp. Tổ chức các chương trình đào tạo, đào tạo lại và

bồi dưỡng nghiệp vụ đối với những giáo viên chưa đạt chất lượng bằng ngân sách

thành phố; thường xuyên tổ chức các cuộc thi chất lượng giáo viên dạy giỏi cấp quận,

huyện để nâng cao trình độ và khả năng sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy

đồng thời các trường phổ thông cần được cung cấp các phương tiện dạy học hiện đại để

có thể đổi mới phương pháp dạy học một cách hữu hiệu.

- Nâng cao đời sống cho đội ngũ giáo viên bằng chính sách tiền lương hợp lý.

(cid:141) Cải tiến hệ thống đào tạo của Thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của

thị trường trong bối cảnh gia nhập WTO

Hệ thống đào tạo cần phải được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, từ

đó có thể tạo ra một NNL chất lượng cao có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển KT –

XH trong thời kỳ mới – hội nhập WTO. Cải tiến theo những hướng cụ thể sau:

Về chuyên môn, tay nghề của NNL

- Phát huy vai trò Hội đồng giáo dục ĐH của Thành phố trong việc góp ý với Bộ

giáo dục và đào tạo điều chỉnh chương trình, phương pháp giảng dạy ở bậc ĐH, CĐ,

77

trung cấp chuyên nghiệp. Phấn đấu 2020, 100% các trường đạt tỉ lệ giảng viên trên sinh

viên là 1/20, tăng số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ nhằm đảm bảo chất lượng đào

tạo.

- Rà soát và quy hoạch lại hệ thống trường CĐ, ĐH trên địa bàn TP.HCM theo

hướng nhà nước tập trung đầu tư nâng cấp một số trường trọng điểm quốc gia tiến tới

đat chuẩn quốc tế và khu vực với quy mô và cơ cấu ngành nghề phù hợp với nhu cầu

đào tạo NNL cho thành phố và các tỉnh phía Nam. Khuyến khích phát triển hệ thống

trường dân lập, tư thục đồng thời tăng cường hệ thống quản lý của Nhà nước nhằm

ngăn chặn sự xuất hiện tràn lan nhiều trường kém chất lượng.

- Nhanh chóng hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống các cơ sở dạy nghề theo hướng

xã hội hóa, đa dạng hóa nhằm phục vụ yêu cầu phát triển KT – XH trong thời kỳ hội

nhập. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển hệ thống trung tâm dạy nghề, đào tạo

nghề trong DN, các cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề nhằm đáp ứng nhu cầu đa

dạng và ngày càng phong phú của thị trường lao động.

- Đẩy mạnh sự hợp tác liên kết giữa 3 đơn vị : cơ quan quản lý Nhà nước, cơ sở

đào tạo và các đơn vị sử dụng NNL nhằm cập nhật thông tin nhu cầu của xã hội, từ đó

tiến hành quy hoạch số lượng và cơ cấu lao động trong từng ngành nghề cụ thể phù hợp

nhu cầu xã hội; điều chỉnh nội dung giảng dạy hướng mạnh vào kỹ năng thực hành

chuyên môn của người học, giảm tỷ lệ sinh viên ra trường phải đào tạo lại. Trong đó :

+ Nhà trường cần phải nhanh nhạy nằm bắt nhu cầu thị trường và xu hướng phát

triển kinh tế để nâng cao năng lực đào tạo theo nhu cầu đồng thời cần phải chủ động

trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm của mình. Đây được xem là nhân tố tích cực

nhất. Để tồn tại tại trong thời kỳ hội nhập, ngoài những kiến thức cơ bản về chuyên

môn, nhà trường cần bồi dưỡng thêm cho sinh viên các kỹ năng khác (kỹ năng thuyết

trình, kỹ năng tư duy và thay đổi bản thân, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc

nhóm…), tích cực mở rộng mối quan hệ nhà trường - DN, phải cho sinh viên có sự cọ

xát ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường để khi ra trường, sinh viên mới không bị

78

ngỡ ngàng và thiếu nhiều kỹ năng mà DN cần.

+ Cơ quan quản lý nhà nước phải có những chính sách phù hợp và thông thoáng

tạo điều kiện để nhà trường thực hiện tốt hoạt động của mình; thường xuyên tổ chức

những chương trình, hoạt động nhằm phổ biến và cập nhật những thông tin mới nhất về

thị trường, về nhu cầu lao động xã hội và đặc biệt là định hướng, chiến lược phát triển

KT - XH của thành phố trong từng giai đoạn, từ đó giúp người học có những định

hướng nghề nghiệp cho mình và nhà đào tạo nắm bắt được xu hướng đào tạo. Đồng

thời cần phải ban hành các chính sách quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà sử

dụng NNL về việc hợp tác, hỗ trợ các cơ quan đào tạo trong quá trình đào tạo lao động,

vì xét cho cùng, nhà sử dụng là người cuối cùng hưởng kết quả đào tạo của xã hội, do

vậy, học không thể thờ ơ hoạt động của các cơ quan đào tạo.

+ Nhà sử dụng NNL cần phải trực tiếp “đặt hàng” cho các cơ sở đào tạo với số

lượng và yêu cầu cụ thể đồng thời phải có trách nhiệm hỗ trợ sinh viên, học viên trong

quá trình thực tập, tập sự cọ xát với thực tế ngay khi các trường yêu cầu; tổ chức giao

lưu với sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm cuối, khảo sát sinh viên, tập sự viên từng

năm, chia sẻ kinh nghiệm cũng như những yêu cầu công việc trong thực tế; thực hiện

các chương trình hỗ trợ học tập về mặt vật chất để khuyến khích người học phát huy

năng lực sáng tạo, tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho sinh viên khi ra trường.

- Để đào tạo nhân lực theo nhu cầu đồng thời đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình

độ đang rất thiếu hụt như hiện nay và thời gian tới thì các trường CĐ, ĐH đẩy mạnh

hơn nữa công tác đào tạo hệ vừa học vừa làm tại các địa phương, nới rộng hơn điều

kiện đầu vào và siết chặt đầu ra hơn nữa.

- Xây dựng chương trình tái đào tạo hoặc đào tạo nâng cao tay nghề tại các

trường, các trung tâm dạy nghề.

- Các trường đạo học, CĐ, trung cấp và các trung tâm đào tạo nghề cần phải có

kế hoạch nâng cao năng lực đào tạo hướng mạnh vào những ngành đáp ứng cho nhu

cầu gia nhập WTO và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố đến năm 2020. Đó

là những ngành dịch vụ : tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, khách sạn,

79

nhà hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin; về công nghiệp : cơ khí chế tạo

máy, công nghiệp hóa chất và thực phẩm, điện tử – viễn thông, chế biến thực phẩm;

trong nông nghiệp : ứng dụng công nghệ sinh học. Trong đó, đặc biệt đầu tư mạnh vào

những ngành dịch vụ và những ngành công nghiệp kỹ thuật cao.

Về kỹ năng hội nhập (ngoại ngữ, tin học, phương pháp làm việc..) của NNL

- Nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ, tin học ở bậc phổ thông và ĐH.

Đảm bảo học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đủ khả năng giao tiếp thông thường

bằng ngoại ngữ và những kiến thức vi tính văn phòng; sinh viên sau khi tốt nghiệp có

khả năng sử dụng được ngoại ngữ chuyên ngành đã theo học. Điều này giảm lãng phí

cho học sinh, sinh viên phải tốn thêm chi phí để đến học tại các trung tâm ngoại ngữ

mới có đủ kỹ năng về ngoại ngữ trong quá trình việc. Đây là một trong những yêu cầu

bắt buộc của NNL trong quá trình hội nhập.

-Tăng cường các hoạt động hỗ trợ thanh niên học ngoại ngữ, tin học miễn phí.

- Xây dựng các chương trình đào tạo các kỹ năng mềm cho sinh viên, học sinh.

Về cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình đào đào NNL

Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng và xây dựng một số cơ sở đào tạo, đặc biệt là

đào tạo nghề nhằm đáp ứng được những yêu cầu mới của KH - CN được sử dụng trong

nước và có trình độ tương đương với các nước trong khu vực nhằm đáp ứng chuẩn mực

quốc tế và khu vực. Có chính sách đầu tư và trang bị những cơ sở vật chất cần thiết cho

các trường, trung tâm và cơ sở dạy nghề xã hội. Cần phân bổ và sư dụng kinh phí theo

hướng tăng đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở vật chất.

Về đội ngũ giáo viên

Bộ giáo dục phối hợp với các trường ĐH, CĐ, trung cấp, trung tâm dạy nghề

trên địa bàn thành phố cần nhanh chóng xây dựng các phương án nhằm bổ sung nguồn

lực đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng. Đây là điều phải làm trước hết, khi

mục tiêu phải tăng số lượng sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội

nhập đến năm 2020.

Các trường, trung tâm cần tăng cường hơn nữa sự liên kết với các trường, trung

80

tâm quốc tế nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng giảng dạy đồng thời có thể đưa

giảng viên sang các nước tiên tiến nhằm học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn theo

các chương trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Ngoài ra, trong thời kỳ hội

nhập, các trường, trung tâm cũng cần tăng cường xây dựng và thực hiện các chương

trình cử cán bộ, giảng viên cơ hữu của trường gửi đi đào tạo sang các nước có nền giáo

dục tiên tiến để nâng cao trình độ chuyên môn bằng kinh phí của chính trường mình

(trước đây và hiện nay phần lớn Bộ vẫn làm), trong đó cần phải chú trọng nhiều vào

khâu giữ người sau đào tạo nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám như đã và đang

diễn ra như hiện nay.

Để làm được điều này thì rất cần một hệ thống chính sách vĩ mô hỗ trợ. Đó là

Bộ giáo dục nên nhanh chóng hoàn thành đề án khuyến khích các trường, trung tâm đủ

điều kiện được chuyển sang tự chủ về tài chính. Điều này sẽ giúp các trường có điều

kiện về tài chính để thực hiện việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng

viên một cách hiệu quả và ít tốn kém nhất.

(cid:141) Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục và tăng cường hợp tác đào tạo với

các nước có trình độ tiên tiến để phát triển NNL chất lượng cao đủ sức cạnh tranh khi

gia nhập WTO

Cần tăng cường mở rộng các hình thức đào tạo nghề liên kết với các trường

danh tiếng của nước ngoài, trước mắt cần tập trung vào đào tạo đội ngũ giảng viên trẻ

cho một số ngành nghề. Khuyến khích, và tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế, các

doanh nghiệp nước ngoài tham gia tích cực vào quá trình đào tạo lực lượng lao động kĩ

thuật và quản lý tại TP.HCM nhằm từng bước xây dựng Thành phố thành trung tâm

giáo dục đào tạo chất lượng cao. Ngoài ra, cần xây dựng chương trình hợp tác đào tạo

NNL giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; gắn kết với các cơ

sở đào tạo của TW trên địa bàn.

- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức đào tạo nghề nghiệp. Mở rộng và thu hút sự

tham gia của các DN, tổ chức xã hội vào lĩnh vực đào tạo và đặc biệt là liên kết với các

DN kinh doanh hiệu quả để đào tạo NNL. Điều này sẽ giúp tạo được sự cân đối trong

81

cơ cấu ngành nghề trong quá trình phát triển và gia nhập WTO.

3.2.3.4 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghề nghiệp trong lĩnh vực dạy nghề

đồng thời thực hiện tốt sự phân tuyến sau THCS và THPT nhằm tăng đội ngũ lao

động qua đào tạo nghề.

- Để khắc phục tình trạng mất cân đối trầm trọng giữa lao động có trình độ CĐ,

ĐH – THCN và CNKT ở thành phố hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế

trong thời kỳ gia nhập WTO thì cần phải tăng nhanh số lượng lao động tham gia học

nghề tại các trường trung cấp và các cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên, để làm được điều này

trước tiên cần phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về công tác dạy nghề để thay đổi

và nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và vị trí của lao động nghề trong xã hội,

nhất là nhận thức của thanh niên trong xác định xu hướng nghề nghiệp, khắc phục tâm

lý xem nhẹ, hạ thấp vai trò của lao động kỹ thuật trong xã hội.

Đặc điểm nổi bật của người dân Việt Nam nói chung và người dân thành phố

nói riêng là tâm lí trọng khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc THPT dù

có học lực thế nào cũng đăng kí dự thi vào một trường ĐH nhất định, rất ít học sinh

ngay từ đầu lựa chọn giải pháp học nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế

hiện nay, việc lập nghiệp của thanh niên không chỉ là vào học ở các trường ĐH, mà học

nghề, đào tạo nghề đang và sẽ là hướng đi đúng đắn. Khi nước ta đã gia nhập WTO sẽ

có thêm nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư và có nhiều doanh nghiệp trong nước

thuộc các thành phần kinh tế được thành lập. Điều đó cho thấy nhu cầu tuyển dụng lao

động sẽ rất cao, người lao động dù ở bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào nếu có trình độ, kĩ

năng nghề nghiệp đều có cơ hội rất lớn tìm được việc làm và có thu nhập thoả đáng.

Thực tế hiện nay, học viên ở các trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp về cơ bản có việc

làm ổn định trong khi đó phần đông sinh viên các trường ĐH khó tìm được việc hoặc

làm trái với chuyên môn đào tạo. Thực tiễn sinh động trên đã và đang tác động mạnh

mẽ đến nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh trong lựa chọn nghề nghiệp.

- Đẩy mạnh chủ trương phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS và THPT

để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng đầu vào cho các

82

trường đào tạo nghề. Sự phân luồng nên theo hướng tăng nhanh tỷ lệ học sinh học nghề

ở hệ thống dạy nghề hoặc tại các cơ sở dạy nghề có kết hợp với học văn hóa, một mặt

góp phần giải quyết vấn đề số lượng và chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo

nghề từ đó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sức lao động hiện nay và các

năm tiếp theo. Mặt khác, thực hiện thành công việc phân luồng học sinh sẽ giảm được

áp lực thi cử, một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm trong thời điểm hiện nay.

Chủ động trong công tác này, các trường dạy nghề cần đổi mới mô hình tổ chức đào

tạo, tăng cường đào tạo liên thông, đa cấp học, đa ngành học phù hợp với yêu cầu phát

triển nguồn nhân lực ở nước ta. Cần thu hút hầu hết số thanh niên 15 – 17 tuổi không

theo học PTTH và số học sinh tốt nghiệp PTTH có nguyện vọng học lên CĐ, ĐH

nhưng không đủ điều kiện vào học nghề bậc CNKT có bổ túc văn hóa. Xu hướng hợp

lý hiện nay là phân luồng học sinh theo tỷ lệ là 6/4, tức sẽ có 60% học sinh vào các

trường phổ thông trung học, 40% học sinh được đào tạo nghề để đáp ứng nhanh cho

nhu cầu thị trường lao động và trong tương lai có thể nâng tỷ lệ này lên (ở một số nước

phát triển tỷ lệ này là 50% - 50%).

3.2.3.5 Đổi mới cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, xây dựng và phát triển

nguồn nhân lực KH - CN

TP.HCM có hơn 90 viện, trung tâm nghiên cứu khoa học và trên 55 trường ĐH -

CĐ. Tính đến cuối năm 2006, TP Hồ Chí Minh có 115 đơn vị KHCN được cấp phép

hoạt động theo Luật KH - CN, trong đó có 11 đơn vị nhà nước, 23 tập thể và 81 đơn vị

tư nhân [21, 91].

Theo đánh giá của đại hội Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh lần thứ VII và VIII thì

“Hoạt động KHCN là một thế mạnh của TP.Hồ Chí Minh với tiềm lực lớn cả về đội

ngũ và trình độ…”. Một thế mạnh khác là lực lượng trí thức này đa dạng, được đào tạo

từ nhiều nguồn, nhiều thế hệ, năng động, lao động nhiệt tình và có cùng nguyện vọng

hết lòng cống hiến cho sự phát triển KT – XH của đất nước và thành phố. Đây là một

nguồn lực vô cùng quý quá trong đội ngũ NNL của thành phố. Để xây dựng và phát

triển NNL KH - CN, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

83

(cid:141) Có chính sách sử dụng nhân lực KH-CN cụ thể, thiết thực

Sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao bên cạnh những nét chung, trong

quá trình phát triển còn có những con đường riêng. Nhân tài chỉ có được sau khi trải

qua thời gian dài giáo dục, đào tạo và thực tế làm việc đúc rút kinh nghiệm, kỹ năng

thực hành và nâng cao trình độ chuyên môn. Để có nhân tài, cần phải có thời gian từ

phát hiện đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, theo dõi giám sát… Những năm qua, thành

phố vẫn mới chú trọng đến giáo dục đào tạo (giải pháp đầu vào) mà chưa thực sự quan

tâm đúng mức đến sử dụng đãi ngộ (giải pháp đầu ra). Vì vậy, theo tôi, định hướng

chính sách cần theo hướng kích thích sử dụng NNL chất lượng cao sẽ phản ánh kết quả

cuối cùng của chất lượng NNL. Đã đến lúc chính sách sử dụng nhân tài phải cụ thể,

thiết thực chứ không nên chung chung như trước đây, cụ thể là :

- Thiết lập và hoàn thiện ngân hàng dữ liệu về nhân lực KH-CN của thành phố

về trình độ, ngành nghề, lĩnh vực…theo dõi thường xuyên sự biến động (tăng, giảm) từ

đó xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan … tìm giải pháp cụ thể, thiết thực.

- Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác

mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Mặc dù, trong những năm trở lại đây, đã có

một số cơ quan, tổ chức của thành phố thực hiện điều này, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự

được thực hiện một cách biến. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển nhân lực KH-

CN chất lượng cao.

- Ưu tiên những ngành công nghệ cao, những ngành đang thiếu cán bộ tài năng;

có chính sách thu hút những chuyên gia giỏi là Việt kiều trong những lĩnh vực mà nước

ta đang thiếu và cần thiết trong tiến trình hội nhập.

- Thực hiện cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, đề tài nghiên cứu. Giao

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công trình

nghiên cứu KH-CN.

- Cần có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút chất xám, nhân tài trong các lĩnh

vực KH - CN, đặc biệt là các ngành được xác định là những ngành trọng điểm của

84

Thành phố.

- Chú trọng việc tạo môi trường để nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các kỹ sư đầu

ngành có nơi công tác phù hợp để họ có thể phát huy tối đa năng lực trong quá trình

nghiên cứu.

Đặc biệt các cơ quan nghiên cứu triển khai phải thực hiện tự hạch toán, bắt buộc

cơ quan này phải bám sát thực tiễn sản xuất, nhu cầu cuộc sống để tạo ra những sản

phẩm hữu ích cho xã hội. Nhà nước xoá bỏ bao cấp cho các đề tài, song có cơ chế mua

hoặc yêu cầu các DN phải mua các sản phẩm KH- CN có giá trị để áp dụng có hiệu quả

trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

(cid:141) Có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nhân lực KH-CN chất lượng cao.

Trong thời gian vừa qua, việc các cán bộ lãnh đạo các cấp, ngành, các chuyên

gia đầu ngành ở thành phố xin nghỉ việc diễn ra ngày càng nhiều. Đây là một sự thất

thoát tài nguyên, sự chảy máu chất xám từ các cơ quan nhà nước sang các DN tư nhân,

DN có vốn FDI. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải :

Thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng, không nên hạn

chế mức thu nhập, nếu đó là mức thu nhập chính đáng từ tài năng và sáng tạo của họ,

đồng thời truy cứu trách nhiệm nếu có biểu hiện lợi dụng, tham nhũng.

- Cần xây dựng chế độ chính sách ưu đãi đối với nhân lực KH-CN chất lượng

cao để tạo động lực thu hút nhân tài vào các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định

chính sách để họ có điều kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình.

- Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất

đối với những cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.

(cid:141) Có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài

Trong thời điểm hiện nay, trước sức ép về NNL KH-CN chất lượng cao, để đáp

85

ứng yêu cầu phát triển, thành phố rất cần tận dụng tiềm năng to lớn của hơn 300.000 trí

thức Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài. Đây là một nguồn tài nguyên vô cùng quý

giá. Vì vậy, nếu khai thác được thì đây sẽ là đội ngũ lao động có đóng góp rất lớn cho

sự nghiệp phát triển và hội nhập của thành phố trong tương lai. Thời gian vừa qua,

chính sách thu hút nhân tài là Việt kiều đã được thực thi, song chưa đủ mạnh. Ngoài

việc kêu gọi vận động, cần có những chính sách cụ thể hơn như xoá bỏ định kiến,

nguồn gốc xuất thân; chế độ lương và thu nhập, chế độ mua nhà hợp pháp, chế độ học

tập và làm việc cho con cái… Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn liên kết trong nghiên cứu,

hợp tác đào tạo với các viện, các trường có tên tuổi của nước ngoài để từng bước nâng

tầm KH-CN thành phố…

3.2.3.6 Cần phải xây dựng, đào tạo đội ngũ Doanh nhân có kiến thức chuyên

môn, giàu kinh nghiệm quản lý, dày dạn bản lĩnh trong hoạt động kinh doanh và có

tầm nhìn chiến lược mang tính toàn cầu.

Gia nhập WTO ảnh hưởng trực tiếp và trước hết đối với hệ thống các DN và

người “đứng mũi chịu sào” đó là Doanh nhân. Đây là lực lượng có tầm quan trọng rất

lớn đối với việc thành công của các DN trong quá trình cạnh tranh, và điều đó cũng ảnh

quyết định đến việc thành công trong quá trình cạnh tranh, hội nhập của quốc gia, lãnh

thổ vì DN chính là “tế bào”. Sự thành công của DN trước hết phải có một người lãnh

đạo tài năng và bản lĩnh, có thể ứng phó với những biến động của thời cuộc và thị

trường rộng lớn. Do vậy, việc đào tạo một đội ngũ doanh nhân là yêu cầu cấp bách

trong bối cảnh hiện nay, khi mà sự cạnh tranh toàn cầu đang diễn ra gay gắt ngay tại

thị trường trong nước. Các doanh nhân phải chịu nhiều áp lực hơn trước những đối

thủ mạnh hơn với kiến thức, kinh nghiệm quản lý, điều hành và đặc biệt tầm nhìn cũng

rộng hơn. Việc đào tạo đội ngũ doanh nhân phải đáp ứng được hai loại yêu cầu cơ bản

nhất, đó là tầm nhìn mang tính toàn cầu và kỹ năng quản lý toàn cầu.

Bên cạnh nổ lực của đội ngũ doanh nhân thì các cơ quan Nhà nước và xã hội cần

có sự điều chỉnh trong quan hệ đối với doanh nhân, trước hết là về tư duy, sự nhìn nhận

86

và tiếp đó là về các thể chế, chính sách, về cung cách đối xử. Cần phải gạt bõ toàn bộ

những tư duy cũ về "bóc lột giá trị thặng dư", coi doanh nhân như giai cấp bóc lột, từ

đó có cách nhìn kỳ thị, phân biệt đối xử. Cần trân trọng những cống hiến vì nước vì dân

của mọi doanh nhân, kể cả những người Việt định cư ở nước ngoài đang đầu tư về

nước nhà ngày càng nhiều. Cần ban hành những thể chế, chính sách nhằm tạo mọi điều

kiện, khuyến khích các doanh nhân phát huy tiềm năng, năng lực của họ. Các tổ chức

xã hội dân sự như các hội, hiệp hội doanh nghiệp; các trung tâm như : Trung tâm văn

hóa doanh nhân cần phát huy hơn nữa vai trò của mình tổ chức trợ giúp DN, đại diện,

bảo vệ lợi ích hợp pháp của DN, là cầu nối giữa DN với cơ quan nhà nước, để doanh

nhân thể hiện quyền tham gia hoạch định thể chế, chính sách liên quan.

3.2.3.7 Có chính sách đào tạo lại, tái bố trí cho LLLĐ không phù hợp trong

quá trình hội nhập

(cid:141) Trong tái đào tạo, bố trí sử dụng

- Gia nhập WTO sẽ có rất nhiều DN ra đời nhưng cũng có nhiều DN bị phá sản

trong cạnh tranh và hàng ngàn người lao động sẽ bị mất việc làm, số lao động này sẽ

phải tìm việc mới và rất nhiều người lao động trong số họ sẽ không tìm được việc làm

do nghề nghiệp không phù hợp. Do vậy, thành phố cần phải có những chính sách,

chương trình tái đào tạo nghề dành cho những đối tượng lao động này theo hướng đào

tạo những ngành nghề mà nhu cầu xã hội đang cần nhiều nhằm hỗ trợ cho những lao

động gặp khó khăn trong quá trình trang bị nghề mới trong quá trình mưu sinh, đồng

thời nhằm giúp cung – cầu lao động gặp nhau, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường

lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, lãng phí nguồn lực, và ảnh hưởng đến việc sử

dụng NNL của thành phố.

- Công khai, minh bạch, hiện đại hóa, tiêu chuẩn hóa việc tuyển chọn nhân lực

cho các cơ quan hành chính Nhà nước; việc tuyển chọn phải thông qua thi tuyển công

khai, thí điểm và từng bước tiến đến thi tuyển các chức danh lãnh đạo đến chức danh

Thủ trưởng các Sở, ban ngành, Tổng giám đốc các DN Nhà nước; tiếp tục làm tốt công

tác trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, quan tâm thực hiện công tác phát hiện, quy

87

hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ trẻ.

- Chú trọng hoàn thiện các chế độ lương bổng và phúc lợi, chế độ khen thưởng.

- Thiết lập và phát triển được thị trường lao động chất lượng cao, ổn định. Điều

tiết hợp lý NNL, kiểm soát được luồng di chuyển nhân công thông qua nhiều công cụ

như điều tra lao động, việc làm, điều tra nhân khẩu, hợp đồng lao động; đẩy mạnh phân

cấp quản lý lao động, lao động nhập cư từ thành phố cho các quận, huyện và xã,

phường. Xây dựng và khuyến khích xã hội hóa việc xây dựng các trung tâm thông tin

thị trường lao động.

- Chủ động phối hợp với các địa phương trong vùng và cả nước để thông báo

nhu cầu lao động theo ngành nghề mà thành phố đang cần cũng như dư thừa lao động

để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng vừa tránh tình trạng nhập cư ồ ạt, gây căng

thẳng về mặt xã hội cho thành phố; UBND thành phố có chính sách liên kết, hỗ trợ

phát triển, khuyến khích các DN, đơn vị kinh tế đầu tư vốn, kỹ thuật ở các vùng tỉnh

bạn để giải quyết việc làm cho NLĐ ở địa phương bạn.

(cid:141) Trong đào tạo nâng cao, chuyên sâu

- Tiếp tục hoàn thành chương đào tạo 300 thạc sĩ - tiến sĩ, triển khai chương

trình đào tạo 500 thạc sỹ, tiến sỹ giai đoạn 2007 - 2010 của TP.HCM nhằm đào tạo cán

bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị, cán bộ khoa học các ngành khoa học và

công nghệ mũi nhọn, với kinh phí chủ yếu từ ngân sách thành phố. Xây dựng chương

trình hỗ trợ đào tạo các nhà khoa học đầu ngành. Phấn đấu đến 2020, thành phố có

nhiều nhà khoa học đầu ngành trong các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông

tin, tài chính ngân hàng, dịch vụ tư vấn và y tế.

(cid:141) Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của cán bộ công chức Thành phố

- Xây dựng chương trình đào tạo nguồn cán bộ phường, xã, công chức của thành

phố từ học sinh trung học phổ thông.

- Bắt đầu từ năm 2010 thực hiện công khai thi tuyển cán bộ công chức từ cấp

phó giám đốc Sở, ngành của thành phố trở xuống.

- Tiếp tục hoàn thiện chuẩn hóa cán bộ các cấp. Đảm bảo đến năm 2010, 100%

88

các chức danh, vị trí lãnh đạo từ phường, xã trở lên đảm bảo tiêu chuẩn theo yêu cầu.

3.2.3.8 Cải cách môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ cho NLĐ, đặc biệt là

trong khu vực nhà nước đồng thời tăng tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo và

tích cực huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục – đào tạo.

(cid:141) Thứ nhất : Cải cách môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ cho NLĐ, đặc biệt

là trong khu vực nhà nước

- Cần phải thay đổi toàn diện môi trường làm việc, cơ chế quản lý, sử dụng và

đãi ngộ đối với NLĐ trong khu vực Nhà nước. Đây cũng là một nhân tố có tác động rất

lớn đến việc phát triển NNL. Phải tạo lập môi trường làm việc trong sạch, trong đó phải

khai thác và sử dụng được trình độ, kiến thức, kỹ năng của NLĐ, đồng thời giúp họ

khơi dậy được năng lực sáng tạo ; cơ chế quản lý khoa học, minh bạch, chế độ đãi ngộ

xác đáng ; cơ chế tiền lương hợp lý, đảm bảo được đời sống và nhất là phải tương xứng

với năng lực và sự cống hiến của NLĐ. Thực hiện điều này giúp hạn chế được sự

« chảy máu chất xám » từ khu vực nhà nước sang các khu vực tư nhân và đặc biệt đáng

lo ngại nhất là khu vực có vốn FDI, nhất là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của

nền kinh tế thế giới nên sự luân chuyển lao động giữa các DN là rất dễ dàng và nhanh

chóng.

Trong phạm vi của mình, thành phố có thể cải thiện hệ thống tiền lương, đặc

biệt là trong khu vực kinh tế nhà nước thông qua các chế độ thưởng phụ cấp và trợ cấp.

Phải linh động trong việc đưa ra các chính sách về thưởng, phụ cấp vào cuối mỗi quý,

tháng, tùy thuộc vào tính chất công việc và điều kiện cụ thể từng ngành nghề. Làm

được như thế mới đảm bảo được lợi ích vật chất và tinh thần cho NLĐ, là nhân tố góp

phần thu hút và sử dụng lao động một cách hợp lý.

(cid:141) Thứ hai : Tăng tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo và tích cực huy

động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục – đào tạo

- Cần phải tăng tỷ lệ chi cho phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo để hoàn thiện

cơ sở vật chất, mở thêm trường, nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu

khoa học...nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh hội

89

nhập và cạnh tranh thì nhu cầu về vốn dành cho lĩnh vực này càng tăng. Tỷ lệ chi cho

giáo dục – đào tạo của thành phố trong thời gian qua còn quá thấp (Theo kinh nghiệp

của những nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 6%

GDP trở lên) do vậy trong thời gian tới cần phải tính toán và cân nhắc, có thể huy động

các nguồn lực khác để tăng tỷ lệ chi cho giáo dục - đào tạo.

- Cần những chính sách, biện pháp nhằm huy động và thu hút nguồn vốn từ bên

ngoài ; tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích đầu tư từ các DN, các tổ chức xã hội từ

các tỉnh, thành khác trong nước, đặc biệt là các trường, tổ chức quốc tế, tích cực khai

thác nguồn vốn ODA... Nếu huy động được các nguồn thu bên ngoài thì rõ ràng vấn đề

về vốn sẽ không còn là gánh nặng ảnh hưởng ràng buộc đến các hoạt động phát triển

nhằm nâng cao chất lượng NNL. Do vậy, rất, đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng

trong việc đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao chất lượng NNL, phục vụ cho sự nghiệp phát triển

90

KT - XH của thành phố trong thời kỳ gia nhập kinh tế WTO.

KẾT LUẬN

TP.HCM là một trung tâm lớn nhất Việt Nam về kinh tế - tài chính, với sự đóng

góp lớn về GDP, giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, đã, đang và sẽ tiếp tục giữ

vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của cả nước. Việc gia nhập WTO đã

tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế của thành phố và do đó, làm thế nào để phát

huy được thế mạnh và vượt qua thách thức để đạt được những mục tiêu đề ra là vấn đề

có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoạch định đường lối chính sách của thành phố

trong thời gian tới.

Là trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất nên ở thành phố cũng đã tập hợp được

một lực lượng nguồn lực tương đối khá so với mặt bằng chung cả nước và những tỉnh

thành khác. Tuy nhiên, những nguồn lực này vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế trong bối cảnh mới, nhất là sự cạnh tranh đang diễn ra ngày một gay gắt và sâu

hơn trên moị phương diện giữa các quốc gia với nhau. Trong cuộc cạnh tranh đó, lợi

thế luôn nghiêng về quốc gia, vùng lãnh thổ nào có thế mạnh về NNL. So với cả nước,

lao động qua đào tạo của thành phố là khá cao (54% so với cả nước là 26%), tuy nhiên,

tỷ lệ này vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển và so với các nước khác trong khu

vực. Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo còn thấp nên chất lượng lao động đã qua đào tạo

cũng thấp, thể hiện qua việc NLĐ chưa đáp ứng được đòi hỏi của công việc, sự thiếu

hụt lớn về các kỹ năng ứng xử, khả năng xử lý công việc, sự sáng tạo, tinh thần làm

việc nhóm, kỹ năng về ngoại ngữ, tin học…Điều đó đã làm giảm đi khả năng cạnh

tranh của thành phố và chính là thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập. Trong

điều kiện như thế nên hơn bất cứ nguồn lực nào khác, NNL thành phố chiếm một vị trí

trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình gia nhập WTO nói riêng

cũng như trong sự nghiệp phát triển KT - XH của thành phố nói chung giai đoạn 2006

– 2020.

Trên cơ sở phân tích những lý luận về NNL và phát triển NNL, thực trạng NNL

91

trên địa bàn TP.HCM hiện nay, luận văn đã có những đóng góp sau :

(cid:141) Luận văn đã làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về NNL và phát triển NNL trong

bối cảnh gia nhập WTO, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng NNL theo yêu cầu gia nhập

WTO; đặc biệt là sự cần thiết khách quan phải phát triển NNL trong bối cảnh gia nhập

WTO.

(cid:141) Luận văn đã phân tích thực trạng NNL trên địa bàn TP.CHM trên cả mặt chất

và lượng, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế đồng thời đưa ra

được nguyên nhân của những vấn đề, từ đó làm cơ sở để đưa ra một số giải pháp cơ

bản nhằm phát triển NNL trong bối cảnh gia nhập WTO.

Về những mặt hạn chế : luận văn đã chỉ ra những hạn chế lớn nhất của NNL

thành phố hiện nay là rất thiếu lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là lao động được đào

tạo nghề. Chất lượng lao động đã qua đào tạo thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà

tuyển dụng gây tình trạng lãng phí cho người học, xã hội cho việc đào tạo lại…Ngoài

ra tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực Nhà nước sang khu vực có vốn FDI và tư

nhân có xu hướng ngày càng gia tăng đã và đang tạo nên những hậu quả rất lớn đến sự

phát triển thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Nhìn một cách tổng thể thì NNL

thành phố hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập cả về mặt số lượng, chất

lượng và cơ cấu.

Về nguyên nhân : bên cạnh nguyên nhân khách quan (thành phố thuộc quốc gia

đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người thấp) thì những yếu kém trên còn xuất

phát từ những lý do : thành phố chưa có một chiến lược phát triển tổng thể trong việc

xây dựng, phát triển và sử dụng NNL ít nhất đến năm 2020; chất lượng đào tạo trong

hệ thống giáo dục – đào tạo của thành phố còn thấp, đào tạo chưa gắn với nhu cầu của

xã hội, chưa có sự hợp tác chiến lược giữa 3 nhà : quản lý, đào tạo và sử dụng. Đặc

biệt thành phố chưa có chính sách sử dụng lao động một cách hợp lý và hiệu quả, nhất

là lao động trình độ cao. Thành phố cũng chưa có những biện pháp hữu hiệu nhằm

phân tuyến học sinh sau THCS và THPT để tăng lao động nghề; và một nguyên nhân

92

khác nữa đó là tỷ lệ đầu tư cho giáo dục – đào tạo từ ngân sách thành phố là còn rất

thấp so với yêu cầu và so với mặt bằng chung của các nước có nền giáo dục phát triển

trong khu vực.

Qua việc đánh giá thực trạng NNL, rút ra những hạn chế và nguyên nhân, luận

văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển NNL thành phố đáp ứng yêu cầu

phát triển trong bối cảnh hội nhập, trong đó tập trung vào những giải pháp : xây dựng

chiến lược phát triển NNL đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó việc nâng cao chất

lượng giáo dục đào tạo có vai trò hết sức quan trọng; Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua

đào tạo bằng cách tăng số lượng, quy mô và chất lượng hệ thống các trường và cơ sở

đào tạo trên địa bàn thành phố, đẩy mạnh hoạt động dạy nghề về số lượng và chất

lượng; Cải tiến hệ thống đào tạo của thành phố nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường

trong bối cảnh hội nhập WTO; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nghề nghiệp đồng thời

thực hiện tốt sự phân tuyến sau THCS và THPT; Đổi mới cơ chế, chính sách thu hút

nhân tài, xây dựng và phát triển NNL chất lượng cao; có chính sách sử dụng nhân lực

KH-CN cụ thể, thiết thực; có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nhân lực KH-CN chất lượng

cao; đặc biệt có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài, tạo

môi trường làm việc lành mạnh, thu nhập xứng đáng và đặc biệt là chế độ mua nhà hợp

pháp, chế độ học tập và làm việc cho NLĐ. Các nhóm giải pháp trên đòi hỏi phải thực

hiện một cách đồng bộ, có như vậy mới thực sự phát huy hiệu quả.

Phát triển NNL thành phố nhằm hội nhập thành công WTO là vấn đề có nội

dung rộng lớn. Những khía cạnh được đề cập đến ở đây mới chỉ là những tư tưởng cơ

bản và bức xúc nhất trong việc phát huy tiềm năng lao động, biến nó thành lợi thế lớn

nhất nhằm phát triển kinh tế thành phố HCM theo mục tiêu đã đặt ra trong chiến lược

phát triển kinh tế toàn diện đất nước của Đảng và nhà nước ta trong thời gian tới. Tuy

nhiên, trong khuôn khổ đề tài với những hạn chế về mặt số liệu phân tích cũng như tài

liệu tham khảo nên không thể tránh được những thiếu sót, còn rất nhiều vấn đề đòi hỏi

tiếp tục nghiên cứu sâu rộng để góp phần nâng cao chất lượng NNL ở thành phố một

93

cách có hiệu quả hơn.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

CÁC CHỈ TIÊU TỔNG HỢP GIAI ĐOẠN 2001 – 2006

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1. Tổng sản phẩm – GDP

1.1 Giá thực tế (tỷ đồng)

84.852

96.403

113.291 137,087 165.297 191.011

1.2 Giá so sánh năm 1994 (tỷ đồng)

57.787

63.67

70.914

79.237

88.866

99.672

2. Cơ cấu (%)

2.1 Phân theo thành phần kinh tế

- Khu vực nhà nước

42,3

38,8

36,3

35,4

33,9

33,3

- Khu vực ngoài quốc doanh

37,1

40,1

42,9

44,6

45,1

44,6

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

20,6

21,1

20,8

20,0

21,0

22,1

2.2 Phân theo các khu vực kinh tế

- Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

1,9

1,7

1,6

1,4

1,3

1,2

- Công nghiệp và xây dựng

46,2

46,7

49,1

48,9

48,1

47,7

- Dịch vụ

51,9

51,6

49,3

49,7

50.6

51,1

3. Tốc độ tăng trưởng (%)

109,5

110,2

111,4

111,7

112,2

112,2

- Khu vực nhà nước

109,0

109,7

109,7

110,2

108,8

107,2

- Khu vực ngoài quốc doanh

110,0

110,2

113,0

114,5

106,4

111,5

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

110,0

111,2

112,1

109,7

113,8

113,3

105,5

104

100,8

99,8

99,8

100,4

- Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

112,4

111,5

113,5

112,7

111,8

110,5

- Công nghiệp và xây dựng

107,4

109,3

109,5

111,1

112,8

113,8

- Dịch vụ

30.732

37.402

41.591

48.972

60.487

69.394

4. Tổng thu ngân sách nhà nước (tỷ đồng)

- Thuế xuất nhập khẩu

13.26

16.575

16.705

19.121

21.811

26.251

- Thu nội địa

17.472

20.827

24.886

28.436

32.333

36.745

Nguồn : Sở kế hoạch – đầu tư, 2007

Phụ lục 2

DÂN SỐ VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ NĂM 2007 PHÂN THEO QUẬN HUYỆN

Số phường xã Wards, communes

Diện tích (km2) Area (sq.km)

Dân số (người) Population (person)

Mật độ dân số (người/km2) Population density (pers/sq.km)

2095,01 494,01 7,73 49,74 4,92 4,18 4,27 7,19 35,69 19,18 114 5,72 5,14 52,78 19,74 22,38 16,06 20,76 4,88 47,76 51,89 1.601,00 434,50 109,18 252,69 100,41 704,22

322 259 10 11 14 15 15 14 10 16 13 15 16 11 16 15 11 20 15 12 10 63 21 12 16 7 7

3.175 11.265 26.289 2.679 40.958 45.532 45.864 35.162 5.575 19.830 1.941 42.142 44.672 6.248 26.065 17.871 24.071 22.553 36.990 7.706 9.042 678 740 2.487 1.374 767 97

Toàn thành Các quận Quận 1 Quận 2 Quận 3 Quận 4 Quận 5 Quận 6 Quận 7 Quận 8 Quận 9 Quận 10 Quận 11 Quận 12 Gò Vấp Tân Bình Tân Phú Bình Thạnh Phú Nhuận Thủ Đức Bình Tân Các huyện Củ Chi Hóc Môn Bình Chánh Nhà Bè Cần Giờ

6.650.942 5.564.975 203.214 133.257 201.515 190.325 195.841 252.816 198.958 380.330 221.314 241.052 229.616 329.751 514.518 399.943 386.573 468.208 180.511 368.032 469.201 1.085.967 321.663 271.506 347.278 76.985 68.535

Nguồn: Niên giám Thống kê TP.HCM 2007

Phụ lục 3

TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN CỦA LLLĐ 15 TUỔI TRỞ LÊN THẤT NGHIỆP Ở THÀNH THỊ TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM NĂM 2006

Số lượng (người)

Cơ cấu (%)

Tổng số

Tổng số

Trong đó : Nữ

Trong đó : nữ

Tổng số

154.000

84.629

100

100

15.066

8.243

9,78

9,74

1.Không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học

2.Tốt nghiệp cấp 1

39.116

19.783

25,40

23,38

3.Tốt nghiệp cấp 2

37.411

19.784

24,29

23,38

4.Tốt nghiệp cấp 3

62.407

36.819

40,52

43,51

Nguồn : Kết quả điều tra lao động – việc làm 1/7/2006, Bộ Lao động

Thương binh và xã hội

Phụ lục 4

TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH MẪU GIÁO PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2007 – 2008

Chỉ tiêu

Tổng số

Công lập

Bán công

Dân lập

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

Trị số

Cơ cấu

(%)

(%)

(%)

(%)

Trường học

607

100

366

60,30

38

6,26

203

33,44

Lớp học (lớp)

5.047

100

2.942

58,30

516

10,22

3.122

31,48

Phòng học (lớp)

6.802

100

2.984

43,87

520

7,65

3.298

48,49

8.917

100

5.234

58,70

603

6,76

3.080

34,54

Giáo viên (người)

Học sinh (người)

193.976 100

111.569 57,52

15.949

8,22

66.458

34,26

Nguồn : Niên giám thống kê 2007

Phụ lục 5

TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH PHỔ THÔNG NĂM HỌC 2007

Năm học

2000- 2001

2005 – 2006

2006 – 2007

2007 - 2008

1.Trường học - cấp 1

735 429

809 457

813 458

831 467

- cấp 1, 2

211

2

2

2

- cấp 2

232

231

231

- cấp 2,3

46

46

50

- cấp 3

95

72

76

81

2. Lớp học

20.893

22.181

22.528

23.073

- cấp 1

11.256

11.255

11.314

11.428

- cấp 2

6.594

7.286

7.426

7.603

- cấp 3

3.043

3.64

3.788

4.042

30.524

34.293

35.104

35.812

3. Giáo viên (người)

- cấp 1

13.349

14.376

14.282

14.275

- cấp 2

11.754

13.147

13.414

13.664

- cấp 3

5.421

6.769

7.408

7.833

4. Học sinh (người)

858.621

890.279

909.494

927.751

- cấp 1

423.495

410.049

418.833

423.437

- cấp 2

287.504

315.451

322.6

327.652

147.622 41

164.779 40

168.061 40

176.662 40

- cấp 3 5. Số học sinh bq 1 lớp học

- cấp 1

38

36

37

37

- cấp 2

44

43

44

43

- cấp 3

48

46

44

44

28

26

26

26

6. Số học sinh bình quân 1 giáo viên

- cấp 1

32

29

29

30

- cấp 2

25

24

24

24

- cấp 3

27

24

23

23

Nguồn : Niên giám thống kê TP.HCM 2007

Phụ lục 6

TRƯỜNG, LỚP, GIÁO VIÊN, HỌC SINH MẪU GIÁO VÀ PHỔ THÔNG NĂM HỌC 2007 – 2008 PHÂN THEO LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO

Tổng số

Công lập

Bán công

Dân lập

1.Trường hoc :

- Mẫu giáo

607

366

38

203

- Phổ thông

831

722

33

76

2.Lớp học

- Mẫu giáo

6.580

2.942

516

3.122

23.070

- Phổ thông

19.909

1.665

1.499

3.Phòng học

- Mẫu giáo

6.802

2.984

520

3.298

- Phổ thông

21.799

18.632

1.095

2.072

4.Giáo viên (người)

- Mẫu giáo

8.917

5.234

603

3.080

- Phổ thông

35.772

30.294

1.973

3.505

5.Học sinh

- Mẫu giáo

- Phổ thông

193.976

111.569

15.949

66.458

927.751

807.748

75.905

44.098

Nguồn : Niên giám thống kê TP.HCM 2007

Phụ lục 07

HỆ THỐNG MẠNG LƯỚI DẠY NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM NĂM 2006

Loại hình CSDN

Tổng số

Chia theo loại hình

Chia theo cấp quản lý

Công lập

Ngoài công lập

Trung ương

Thành phố

Trường dạy nghề Trường THCN có dạy nghề

11 1

17 17

10 8

18 10

28 18

1 3 43

11 1 29

10 4 9

2 0 63

12 4 7

Trường CĐ có dạy nghề Trường ĐH có dạy nghề Trung tâm dạy nghề (11 đơn vị có 100% vốn nước ngoài)

0

7

2

5

7

Trung tâm Dịch vụ việc làm có dạy nghề

0

3

0

3

3

Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp có dạy nghề

Trung tâm khác có dạy nghề

0

6

0

6

6

0

0

170

170

Cơ sở dạy nghề quy mô nhỏ

170

277

320

Tổng cộng

91

229

43

Nguồn : Sở lao động, thương binh và xã hội

Phụ lục 08 TỶ LỆ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CỦA CÁC QUỐC GIA CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN

STT 1 2 3 4 5 6 7 8

Tên nước Mỹ Hà lan Pháp Bỉ Nhật bản Anh Đức Italia

Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với GDP (%) 6,7 6,7 5,7 5,1 5,0 5,0 4,5 4

Nguồn : UNDP, báo cáo phát triển NNL

Phụ lục 09 NGÂN SÁCH ĐẦU TƯ CHO GIÁO DỤC Ở CÁC NƯỚC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG

STT

Tên nước

1 2 3 4 5 6 7

Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với GDP (%) 18,1 19,4 8,4 20,1 16,9 19,6 16,8

8 9

Xingapore Malaixia Indonesia Thái lan Philippin Hàn quốc Hồng Kông Trung quốc An độ

14,6 2,5

Nguồn Asia 1995

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG NƯỚC

1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị

quyết Đại hội X của Đảng, nxb Chính trị quốc gia.

2. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Số liệu thống kê lao động và việc làm

1/7/ hàng năm, nxb Lao động và Xã hội Hà Nội.

3. Cục thống kê TP. HCM (2005), Điều tra dân số giữa kỳ năm 2004 TP.HCM,

Xí nghiệp in Thống kê TP.HCM.

4. Cục thống kê TP. HCM, Niên giám thống kê TP.HCM các năm 2005 – 2007,

Xí nghiệp in Thống kê TP.HCM.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ X, nxb Chính trị quốc gia.

6. TS.Dương Tấn Diệp (2007), Kinh tế Vĩ Mô, nxb. Thống kê.

7. Trần Kim Hải (2000), Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp

hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế.

8. Karl Marx và Ph.Ăng – ghen toàn tập 23, nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

9. PTS. Trần Du Lịch (1999), Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, Viện Kinh

tế TP.HCM.

10. Th.s Đặng Thị Thùy Linh (2008), Thực trạng và định hướng phát triển

nguồn nhân lực nghề một số ngành công nghiệp trọng yếu trên địa bàn

TP.HCM, Sở Giáo dục và đào tạo TP.HCM.

11. GS.TS Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội,

nxb. Tư pháp, Hà Nội.

12. Th.s Cao Minh Nghĩa (2007), Báo cáo tổng hợp phân tích các mối quan hệ

giữa biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh, Viện Kinh tế TP.HCM.

13. GS. Nguyễn Thiện Nhân (2004), Phát triển và khai thác thị trường khoa học

và công nghệ - bước đột phá để phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ

của TP.HCM, Viện Kinh tế TP.HCM.

14. TS.Hoàng An Quốc, Chính sách đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn

cầu hóa kinh tế của một số nước trong khu vực và hướng đi của Việt Nam,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở bảo vệ năm 2005.

15. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Báo cáo tình hình

lao động – việc làm trên địa bàn TP.HCM năm..

16. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2008), Báo cáo tình hình sử

dụng lao động năm 2007 và nhu cầu tuyển dụng lao động năm 2008 của các

doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM.

17. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Báo cáo hoạt động

dạy nghề giai đoạn 2001 – 2006 & mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp phát triển

dạy nghề đến 2010.

18. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2007), Nội dung làm việc

với Viện chính sách và chiến lược phát triển nông thôn về thực trạng và giải

pháp lao động việc làm trong nông nghiệp.

19. Sở Lao động – Thương binh và xã hội TP.HCM (2006), Thực trạng thị

trường lao động và các giải pháp hoạt động của thị trường lao động

TP.HCM giai đoạn 2006 – 2010.

20. Ủy Ban nhân dân TP.HCM (2007), Báo cáo định hướng quy hoạch phát

triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến năm 2020.

21. Ủy Ban nhân dân TP.HCM (2007), Đề án phát triển nguồn nhân lực trẻ phục

vụ chương trình “chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP.HCM giai đoạn 2007 –

2010, tầm nhìn 2020”.

B. CÁC WEBSITE

22. http://www.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của TP.HCM.

23. http://www.molisa.gov.vn – trang thông tin của Bộ Lao động Thương binh

và xã hội.

24. http://www.dpi.hochiminhcity.gov.vn – thông tin của Sở Kế hoạch và đầu tư

thành phố HCM.

25. http://www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Viện kinh

tế TP.HCM

26. http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Cục thống kê

TP.HCM.

27. http://www.dost.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Khoa học

công nghệ TP.HCM.

28. http://www.edu.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Giáo dục và

đào tạo TP.HCM.

29. http:// www.sldtbxh.hochiminhcity.gov.vn – trang thông tin của Sở Lao

động Thương binh và Xã hội TP.HCM.