H Ạ I H Ọ C q i ố ( G IA 1IÀ N Ộ I

KHOA KINH TẾ

i £ > -

Đ ạng Thị Tố Tâm

Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp

C huyên ngành : Kinh tê chính trị XHCN

Mã số

: 5.02.01

Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tê

CA í HOC QUỐC. G IA HẨ NỘ'

l aUHũÚM ĨHÔSG TIN TiiìíViỊN

N gư ời h ư ớng dẫn k hoa học : TS. TẠ ĐỨC KHÁNH

H à Nội, 2 . 2002

MỤC LỤC

PHẦN M Ỏ ĐẨU

1

CHƯƠNG I - PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HẢNG HOÁ - cơ sở LÝ LUẬN VÀ

5

THỰC TIỄN

5

1.1 - Nhận diện nền nông nghiệp hàng hoá

5

7

1.1.1 - Khái niệm nền nông nghiệp hàng hoá

8

1.1.2 - Đặc trưng căn bản của nển nông nghiệp hàng hoá

1.2 - Những điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá

8

11

1.2.1 - Khái niệm phát triển nông nghiệp hàng hoá

1.2.2. Điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá

1.3. Kỉnh nghiệm của một sô nước và vùng lãnh thổ trong quá trình

15

phát triển nông nghiệp hàng hoá

15

17

1.3.1. Trung Quốc

20

1.3.2. Đài Loan

23

1.3.3. Thái Lan

1.4. Sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam

23

1.4.1. Tính tất yếu của quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp tự

25

nhiên sang nền nông nghiệp hàng hoá

1.4.2. Đặc điểm phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta

CHƯƠNG II: THỤC TRẠNG PHẢT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HOÁ ở NƯỚC

29

TA THỜI KŸ ĐỔI MỚI

29

2.1. Nền nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 1954 -1981

29

2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của nền nông nghiệp Việt Nam trong

giai đoạn này

36

2.1.2. Những hạn chế căn bản xét theo tiêu chí của nông nghiệp

hàng hoá

2.2. Quá trình hình thành nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt

42

Nam từ 1981 đến nay

42

2.2.1. Những vấn đề mang tính thể chế dẫn đến sự hình thành nền

nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam

60

2.2.2. Thành tựu của quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá ở

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

2.3. Những vấn đề đang đặt ra

68

68

2.3.1. Theo tiêu chí nền nông nghiệp hàng hoá thì nông nghiệp Việt

Nam hiện nay đạt mức độ nào?

69

2.3.2. Một số yếu tố đang cản trở quá trìnhphát triển nông nghiệp

CHƯƠNG III: MỘT số KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM

80

ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HOÁ ở N ước TA

hàng hoá ở Viột Nam

3.1. Kiến nghị về phương hướng

80

3.1.1. Phương hướng tổng quát 80

3.1.2. Mục tiêu phát triển đến năm 2010 81

3.2. Các giải pháp cơ bản 82

3.2.1. Những giải pháp hình thành khung thể chế 82

3.2.2. Những giải pháp hỗ trợ 88

108

3.2.3. Những giải pháp xã hội trong quá trình phát triển nông nghiệp

PHẦN KẾT LUẬN

114

TÀI LIỆU THAM KHẢO

116

hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

PHẦN M Ỏ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn:

Kinh tế hàng hoá là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều nước phát triển nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường vói những cấp độ khác nhau. Thực tế trong lịch sử, sự đổ vỡ của các nền kinh tế phi thị trường đã chứng minh con đường phát

triển kinh tế có hiệu quả nhất của loài người cho đến nay là phải phát triển nền kinh tế hàng hoá, tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường.

Từ sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội nước ta và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng; trong đó nền nông nghiệp nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá đã có những thành công nhất định.

Hiện nay, chuyển sang giai đoạn đây mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuẩn bị tham gia hội nhập các tổ chức thương mại trong khu yực và trên thế giới. Trong tình hình mới, đặt ra các yêu cầu mới cho sự phát triển của nông nghiệp hàng hoá, nó đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp phải có chất lượng cao hom, tỷ suất hàng hoá lớn, chủng loại đa dạng, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài, làm cơ sở phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiộp hàng hoá trong giai đoạn mới

1

đang đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết như : tình trạng đất đai bị phân tán, manh mún, nguồn lao động dồi dào song chưa được sử dụng hết , khả năng xây dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn còn nhiều hạn chế. Thị trường nông thôn chưa ổn định, còn nhiều ách tắc, nhiều mặt hàng nông sản còn ứ đọng, khó tiêu thụ, sức mua thấp... sản xuất vẫn có nơi còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, độc canh cây lúa...

Đây là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tìm ra giải pháp giải quyết nhằm phát triển nẻn nông nghiệp hàng hoá - là một trong những vấn đề đang đặt ra một cách cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mrớc ta.

Vì vậy, tôi chọn vấn đề: ‘Thát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt

Nam - Thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế với hy vọng góp phần vào việc xây dựng giải pháp đối với những vấn đề khó khăn vướng mắc đang đặt ra nhằm phát triển nông nghiệp hàng hoá trong giai đoạn mới của đất nước

2.

Tình hình nghiên cứu luận văn:

Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được đề cập đến trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng và trong các bài phát biểu của nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những năm gần đây có một sô công trình nghiên cứu và những bài viết đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề này như:

- “Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau nghị quyết 10

của Bộ Chính trị” - do PGS, TSKH Lê Đình Thắng chủ biên.

- “Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam” của PTS

khoa học kinh tế Nguyễn Sinh Cúc.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX- 08-01 “ Hệ quan điểm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn trong giai đoạn mới” do PTS Chử Văn Lâm chủ trì.

2

Nhìn chung, các tác giả tập tiling trình bày những vấn đề lý thuyết về phát triển nông thôn; kinh nghiệm phát triển nông thôn Việt Nam trong lịch sử; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn; Vấn đề phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam. Tuy nhiên, hiện nay nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao

cấp sang cơ chế thị trường theo định hưứng XHCN, cho nên ở nông thôn, phát triển nông nghiệp hàng hoá còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

- Mục đích: Nghiên cứu về thực trạng phát triển nền nông nghiệp hàng hoá nhằm góp phần làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối với nông nghiệp ở nước ta hiện nay.

- Nhiệm vụ nghiên cứu.

+ Nhận diện nền nông nghiệp hàng hoá

+ Phân tích kinh nghiêm của một số nước và vùng lãnh thổ trong quá

trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.

+ Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta thời kỳ đổi mói

+ Một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh sự

phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta.

4. Phạm vi nghiên cứu.

- Chủ đề của luân văn là nghiên cứu phát triển nông nghiệp hàng hoá ở

nước ta - thực trạng và giải pháp.

- Về thời gian: Chủ yếu nghiên cứu phát triển nông nghiệp hàng hoá giai đoạn công nghiệp hoá - hiộn đại hoá đất nước. Tuy nhiên có đề cậpđến kinh nghiêm của các thời kỳ trước đó. Nhưng không nghiôn cứu nông nghiệp miền Nam Việt nam thời nguỵ quyền.

- Về không gian: Trực tiếp nghiên cứu thực tiễn nông nghiệp Việt Nam,

đổng thời có tìm hiểu kinh nghiệm một số nước tương đồng trong khu vực.

5. Phương pháp nghiên cứu.

3

vể phương pháp nghiên cứu: vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp nghiên cứu lý luận với

phân tích tài liệu thực tế, kết hợp phân tích và tổng hợp, sử dụng phương pháp thống kê.

6. Dự kiến đóng góp của luận văn.

- Làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của nông nghiệp hàng hoá trong

quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.

- Tìm hiểu và trình bày kinh nghiệm một số nưóc trong khu vực về phát

triển nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

- Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản để tiếp tục phát triển nông nghiệp

hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương:

Chương I: Phát triển nông nghiệp hàng hoá - cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương II: Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta thời

kỳ đổi mới.

Chương III: Một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm đẩy

4

mạnh sự phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta.

CHƯƠNG I

PHÁT TRIấN NÔNG NGHlêP HỒNG HÓn -

Cơ SỞ LV luẠn và thực tiI n

1.1. Nhận diện nền nông nghiệp hàng hoá:

1.1.1. Khái niệm nền nông nghiệp hàng hoá:

Nông nghiệp là ngành quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm chăn nuôi và trồng trọt. Trong một thời gian dài của lịch sử, nông nghiệp là một ngành kinh tế chủ yếu của hầu hết các quốc gia. Nông nghiệp là khu vực duy nhất sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Dù trình độ phát triển của khoa học có đi đến đâu thì ngày nay sản phẩm của nông nghiệp chưa có một ngành sản xuất nào thay thế được. Thiếu những sản phẩm đó, con người không thể tồn tại và phát triển được, do đó không thể đảm bảo cho các ngành khác phát triển.

Là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp phải phát triển theo các quy luật kinh tế hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá. Nghĩa là trong một nền kinh tế hàng hoá thì nông nghiệp phải phát triển đổ trở thành một nẻn nông nghiệp hàng hoá. Vậy nông nghiệp hàng hoá là gì? Có một số quan điểm khác nhau vể vấn đề này.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, cứ có sản phẩm nông nghiệp trao đổi trên thị trường thì được gọi là nền nông nghiệp hàng hoá. Như vây, những sản

5

phẩm nông nghiệp được sản xuất ra trước hết để phục vụ cho nhu cầu của chính gia đình họ, nêú còn thừa mới đem ra thị trường để bán, nhu cầu trao đổi hàng hoá chỉ là tự phát, không có mục đích từ trước khi sản xuất. Loại quan điểm này không thấy được mục đích cơ bản của nền sản xuất hàng hoá. Theo Mác, sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán trên thị trường, tức là sản phẩm sản xuất ra xuất phát từ chính nhu cầu của thị trường, chứ

không phải từ bản thân họ. Vì thế, theo quan điểm trên thì nền nông nghiệp

vẫn chỉ là tự nhiên, tự cấp, tự túc.

Quan điểm thứ hai cho rằng, nền nông nghiệp hàng hoá phải là nền nông nghiệp mà mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng không chỉ được biểu hiện qua thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà còn được biểu hiện qua thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường tiền tệ, thị trường

đất đai và thị trường sức lao động. Thực ra, quan điểm này quá rộng. Bởi vì đây là nền nông nghiệp trong một nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường dược IĨ1Ở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá.

Quan điểm thứ ba cho rằng, nền nông nghiệp hàng hoá là nền nông nghiệp được thương mại hoá, chuyên môn hoá hiện đại. Sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra không phải để tiêu dùng mà để bán. Mục đích của sản xuất là tối đa hoá lợi nhuận. Do đó sản xuất cái gì không xuất phát từ nhu cầu của người sản xuất mà xuất phát từ nhu cầu của xã hội, của thị trường. Do tính chất hàng hoá, sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên môn hoá cao độ. Do thương mại hoá, người nông dân tìm mọi cách để nâng cao năng suất lao động. Quan điểm này phản ánh đầy đủ bản chất của nền nông nghiệp hàng hoá, nó tôn trọng các quy luật của nền kinh tế hàng hoá.

6

Từ đó, có thể hiểu rằng, khi nói tới nông nghiệp hàng hoá là nói tới tính chất và trình độ phát triển của một nền nông nghiệp. Nông nghiệp hàng hoá đối lập với nông nghiệp tự nhiên, tự cấp, tự túc. Sản phẩm nông nghiệp làm ra mang tính hàng hoá. Những sản phẩm nông nghiệp ấy có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua mua - bán. Là hàng hoá nên sản phẩm nông nghiệp làm ra cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Lao động trong nền nông nghiệp hàng hoá cũng có tính

chất hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá cũng tuân thủ quy luật giá trị, quy luật của thị trường, quy luật cạnh tranh và quy luật cung - cầu hàng hoá.

Vậy, đặc trưng cơ bản của nền nông nghiệp hàng hoá là gì?

1.1.2. Đặc trưng căn bản của nền nông nghiệp hàng hoá:

Song song với tiến trình chuyển biến từ thủ công lên hiện đại hoá, sản

xuất của xã hội loài người đã chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá. Đây là quá trình phát triển tất yếu, phù hợp với tính quy luật của sự vận động.

Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc ra đời, phát triển và cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số nơi. Trong nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất vì thế có thể nói quá trình tái sản xuất của nển kinh tế tự nhiên chỉ gồm hai khâu: sản xuất - tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đẻu mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu; nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động chân tay là chủ yếu, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng cho chính gia đình nên ngành nông nghiệp mang tính chất tự cung, tự cấp.

Tiến bộ vé kỹ thuật và công cụ cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn, sản phẩm dư thừa nhiểu hơn, quy mô trao đồi sản phẩm lớn hơn, trao đổi sản phẩm mở rộng hơn, lợi nhuận của người sản xuất cao hơn, xuất hiện nhiều chủ thể sản xuất - kinh doanh hơn. Quá trình chuyển hoá khách quan đó làm cho nền kinh tế chuyển từ kinh tế tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá, nghĩa là chuyển sang nền kinh tế mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất là trao đổi và để bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và

7

có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. Cần sản xuất sản phẩm gì, với số lượng bao nhiêu phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Tiêu dùng sản phẩm gì cần thông qua thị trường. Phân phối và trao đổi đương nhiên diễn ra trên thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất. Tất cả những quan hệ kinh tế do phân công lao động xã hội làm nảy sinh ra đều được thực hiện qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ trên thị trưcmg. Kinh tế hàng hoá phát triển trước tiên ở lĩnh vực công

nghiệp, đô thị, sau lan dần đến nông nghiệp và nông thôn. Có thể nói quá trình phát triển của phân công lao động xã hội và sức sản xuất là hai vấn đề cơ bản tác động đến sản xuất hàng hoá.

Trong nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hàng hoá diễn ra chậm chạp hơn vì nông dân sản xuất ra phần lớn sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng nội bô của họ, phần dư thừa mới đem trao đổi. Chỉ khi nào trong nông nghiệp, nông thôn số sản phẩm đem ra trao đổi là sản phẩm hàng hoá của một đom vị sản xuất, của một vùng hay của ngành nông nghiệp, thì lúc đó trong nông nghiệp nông thôn, sản xuất mới mang tính sản xuất hàng hoá. Nghĩa là, chỉ đến khi trong nông nghiệp, sản phẩm sản xuất ra là để bán, để trao đổi trên thị trường thì khi đó sản xuất mới mang tính sản xuất hàng hoá.

Như vậy, sự khác biệt căn bản nhất giữa nén nông nghiệp tự nhiên với nền nông nghiệp hàng hoá đó là trong nền nông nghiệp hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra là để trao đổi và để bán, mục đích này được xác định trước

quá trình sản xuất. Đây chính là đặc trưng căn bản nhất của nền nông nghiệp hàng hoá.

1.2. Những điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá:

1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp hàng hoá:

8

Từ khái niệm và đặc trưng của nền nông nghiệp hàng hoá cho thấy phát triển nền nông nghiệp hàng hoá là quá trình chuyển đổi nền nông nghiệp từ trạng thái tự nhiên, tự cấp, tự túc thành nền nông nghiộp hàng hoá.

Trong giai đoạn này nông nghiệp không chỉ đảm bảo cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho xã hội mà còn đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của bản thân nó. Quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá diễn ra nhanh hay chậm là tuỳ vào những chính sách, những giải pháp thực hiện của mỗi nước, đây là một yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nó phải phù hợp với những điều kiộn lịch sử nhất định của mỗi nước, mỗi địa phương. Giai đoạn này có một số đặc trưng chủ yếu:

- Sản phẩm nông nghiệp một phần đáp ứng những nhu cầu thiết yếu,

một phần để bán.

- Trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu sử dụng những công nghệ mới đem lại năng suất cao hơn. Bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đó là những vật nuôi, cây trồng có năng suất cao, thu nhập lớn hơn được đưa vào sử dụng.

- Nông dân bắt đầu quan hệ với ngân hàng để vay vốn.

- Thu nhập của cư dân nông nghiệp tăng lên và ổn định hơn

Theo Lênin, nền nông nghiệp thương phẩm (nông nghiệp hàng hoá)

phát triểnkhi có những biểu hiện sau:

- Sản lượng lương thực theo đầu người tăng lên.

- Phân công xã hội trong nội bộ dân cư tăng.

- Nhân khẩu thương nghiệp và công nghiệp tăng.

- Nhân khẩu trong nông nghiệp giảm, do chuyển sang thương nghiệp,

công nghiệp.

- Có phân hoá giàu nghèo trong nông thôn.

- Chuyên môn hoá trong nông nghiệp tăng.

- Thị trường phát triển ...

9

Ông viết: "Có một sự kiện đặc biệt đáng chú ý ỉà chính nông nghiệp thương phẩm đang phát triển, số lượng lúa mì thu hoạch (trừ giống má) tãng lên tính theo đầu người, và sự phân công xã hội ngày càng rõ rệt hơn trong nội bộ dân cư đó; nhân khẩu thương nghiệp và công nghiệp tăng thêm; nhân khẩu nông nghiệp phân hoá thành nghiệp chủ nông thôn và giai cấp vô sản nông thôn; sự chuyên môn hoá được tăng cường ngay cả trong nông nghiệp nữa, cho nên số lượng lúa mì sản xuất để bán tăng nhanh hơn nhiều so với mức tăng của tổng sản lượng lúa mì sản xuất trong nước" [28(308)]

Tư tưởng về phát triển nông nghiệp hàng hoá của Lênin càng thể hiện rõ trong thời kì "chính sách kinh tế mới" (NEP). Chính sách "Trưng thu lương thực thừa" phù hợp với thòi kỳ "Cộng sản thời chiến" nhưng đến thời kỳ NEP lại kìm hãm sức sản xuất trong nông nghiệp. Vì vậy, trong thời kỳ NEP, Lênin đã chủ trương gắn sản xuất nông nghiệp với thị trường. Nghĩa là, theo Lênin, dưới CNXH, kinh tế hàng hoá vẫn tồn tại và phát triển. Phát triển nông nghiộp hàng hoá trong CNXH là một quy luật khách quan.

Đường lối NEP đã khẳng định vị trí của vấn đề nông nghiệp, nông dân trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở một nước mà nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân và nông dân chiếm đại bộ phận trong dân cư. NEP cho ta một nhận thức về việc chuyển một nền kinh tế chậm phát triển dựa trên nông nghiệp sang kinh tế phát triển, trong đó phất triển kinh tế hàng hoá, phát triển kinh tế nông dân là giải pháp đẩu tiên trước khi công nghiệp hoá. Luận điểm " Bắt đầu từ nông dân" của Lênin trong NEP không những như là một chiến lược tình thế mà còn là chiến lược lâu dài xây dựng CNXH.

10

Rất tiếc, những tư tưởng ấy của Lênin, sau khi ông mất do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã không được thực hiện ở Liên xô (trước đây) và các nước trong phe XHCN, chỉ đến khi các nước XHCN có "đổi mới", "cải cách", "mở cửa" thì những tư tưởng đó của Lênin mới được các Đảng cộng sản vận dụng sáng tạo vào trong những hoàn cảnh riêng của mỗi nước.

1.2.2. Điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá:

T h a y đ ổ i quyền s ở hữii ruộ ng đ ấ t:

Phát triển nông nghiệp hàng hoá là quá trình chuyển đổi nền nông nghiệp từ tự nhiên, tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp hàng hoá. Phát triển nông nghiệp hàng hoá phù hợp với quy luật của sự vận động, chính quá trình này đã hình thành nền nông nghiệp hàng hoá. Dưới giác độ kinh tế chính trị, điều kiện để dẫn đến sự hình thành nền nông nghiệp hàng hoá là:

Trong điều kiện kinh tế hàng hoá, quyền sở hữu đất đai bao gồm quyển cho những cá nhân, những nhóm người sử dụng đất cho những hoạt động kinh tế bình thường, trong đó có những quyền: để canh tác; chuyển giao cho người thừa kế; cho người khác thuê; bán và để thuế chấp nhằm có được tín dụng. "Sở hữu" đất có nghĩa 5 quyển đó được giao cho một cá nhân hoặc một nhóm.

Muốn nông nghiệp trở thành một nền sản xuất hàng hoá, trước hết phải tạo ra các chủ thể thị trường thực sự. Người chủ này là nông dân, họ phải được làm chủ đối với các tư liệu sản xuất, làm chủ trong việc tổ chức sản xuất, kinh doanh, từ đó mà làm chủ đối với nông phẩm và do đó, sản phẩm của họ mới trở thành hàng hoá. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không tái sản xuất ra được và không gì thay thế được, cho nên quyền tự chủ của nông dân ở khâu cơ bản nhất - chính là khâu ruộng đất. Ruộng đất phải được sử dụng, chi phối theo quyền tự do phát triển sản xuất - kinh doanh của người nông dân nói chung. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá , việc cho phép nông dân được quyền "sở hữu" đất sản xuất là phù hợp. Bởi lẽ, trên cơ sở có chủ thật sự, thì nguồn tài nguyên ruộng đất mới có điều kiện sử dụng có hiệu quả, được bảo vệ và phát triển độ màu mỡ trong quá trình khai thác.

11

Việc cho phép nông dân được quyền "sở hữu" ruộng đất, được quyền bán - mua theo yêu cầu, một mặt, kích thích sử dụng có hiệu quả ruộng đất, nhanh chóng phát triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, với giá trị gia tăng cao, đảm bảo điều kiện để nông dân phát huy hết khả nãng kinh doanh nông nghiệp của mình. Mặt khác, quá trình mua - bán, luân chuyển tự

do ruộng đất dẫn đến sự tích tụ, tập trung ruộng đất. Đất đai vận động theo hướng tích tụ, hình thành nên các trang trại, đồn điẻn, có quy mô sản xuất hàng hoá lớn, đem lại lợi nhuận cao. Người nông dân được làm chủ ruộng đất, đây là điểm khởi đầu cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá, vì như Mác đã nói: "Quyền sở hữu về ruộng đất là cơ sở để phát triển sự độc lập cá nhân. Nó là bước quá độ cần thiết đối với sự phát triển của bản thân nông nghiệp" 127(421)].

T ạ o ra các yếu t ố t h ể chế, chính sách kinh t ế v ĩ m ô :

Trong lịch sử nhân loại, những thay đổi trong hệ thống xã hội và kinh tế luôn đi cùng với những thay đổi lớn về quan hệ sở hữu đất đai. Vì vậy, viộc cho phép nông dân quyền sở hữu đất sản xuất, xác nhận quyền sở dụng đất đai lâu dài là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự hình thành nền nông nghiệp hàng hoá.

H ìn h thành những chủ th ể kinh tê :

Chính sách kinh tế vĩ mô là các yếu tố tạo ra môi trường kinh doanh để hình thành nển nông nghiệp hàng hoá. Vì thế, nếu chính sách đúng, thích hợp nó sẽ phát huy được tính năng động của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá và ngược lại nếu các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước không đúng đắn, không thích hợp nó sẽ trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển nông nghiệp hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nưóc cần tác động có hiệu quả để khắc phục những khuyết tạt của thị trường. Nhà nước điều khiển nền kinh tế thông qua một loạt chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách đất đai, chính sách tiêu thụ nông sản, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách khoa học... các chính sách này vừa tạo phân công lao động sâu hơn, vừa tạo điều kiện, môi trường và sự vững tin của người sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn. *

Chủ thể sản xuất trong nông nghiộp nông thôn là các doanh nghiệp

12

(Nhà nước, tập thể, tư nhân) và phần đông là các hộ nông dân.

Với đường lối đổi mới của Đảng; nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài; được vay vốn tín dụng; được chuyển giao kỹ thuật; được tự quyết định lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi; được tự do lưu thông, mua bán sản phẩm. Như vậy, nông dân đã là những chủ thể tự chủ sản xuất kinh doanh.

Song làm cái gì, làm như thế nào, bao nhiêu, cho ai? Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở một số nước và trong thời kỳ mà cơ chế thị trường đã phát triển đến sự thống nhất khu vực với thế giới, thì nông dân muốn là chủ thể sản xuất kinh doanh, họ không thể dừng lại để sản xuất hàng hoá giản đơn mà phải là những người có trình độ kinh doanh hàng hoá.

S ự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp và x á c lập quan hệ đúng

đ ắ n giữa công nghiệp với nông nghiệp đ ể p h á t triển nông nghiệp hàng hoá:

Nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh của các chủ thể đó ở nước ta hiện nay (nhất là hộ nông dân) còn non yếu. Vì vậy khi tiến hành sản xuất - kinh doanh trong điểu kiện mới; các chủ thể sản xuất trong nông nghiệp nồng thôn gặp nhiều lúng túng, vì họ vừa mới thoát khỏi một nền sản xuất nhỏ với kiểu quản lý kế hoạch hoá tập trung gò bó và cơ chế quan liêu bao cấp. Với cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp, nông thôn, đã khơi dậy những tiềm năng sản xuất, nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Điều quan trọng là phải tiếp tục hỗ trợ cho họ trên nhiều lĩnh vực, tạo điểu kiện sản xuất và trình độ tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh, giúp họ có được những quyết định đúng đắn trong hợp tác đầu tư, tổ chức sản xuất và ứng dụng công nghệ mới để họ thực sự trở thành những chủ thể sản xuất kinh doanh có trình độ.

Tác động của công nghiệp vào nông nghiệp hàng hoá cũng như việc quá trình xác lập mối quan hệ hợp lý công - nông nghiệp là quá trình xây dựng hệ thống công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhằm cải tạo sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp phải hướng vào nông thôn, lấy nông thôn làm mục tiêu phát triển như nghiên cứu các dây chuyền công nghệ để phục vụ sản xuất nông nghiệp,

13

chế tạo các máy móc thiết bị để phục vụ sau thu hoạch. Các ngành kinh tế chỉ có thể phát huy chức năng và sức mạnh của mình khi mà chính nó xác lập được mối quan hệ hợp lý với nhau và phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của từng ngành, tạo nên sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ hữu cơ trong sự thúc đẩy nhau phát triển, hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Nông nghiệp là ngành kinh tế tổng hợp và gắn bó chặt chẽ với tự nhiên. Vì vậy, việc bố trí cơ cấu cây con, ngành nghề như thế nào để công nghiệp (khoa học kỹ thuật - công nghệ) hoà nhập, tác động vào nông nghiệp, tạo ra năng suất cao, sản phẩm hàng hoá lớn... là vấn đề không đơn giản.

Nói chung, mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối quan hệ cơ bản nhất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không thể phát triển được công nghiệp, không thể công nghiệp hoá được đất nước nếu như chưa có nền nông nghiệp tương đối phát triển.

Trong khi nển nông nghiệp chưa phát triển ở mức độ cần thiết thì công nghiệp không có mảnh đất mà phát triển. Mặt khác, không gắn liền với sự phát triển của công nghiệp, thì bản thân nông nghiệp cũng không thể đi lên với tốc độ cao, nhanh và vững chắc.

Tuy nhiên, công nghiệp không thể ngồi chờ nông nghiệp phát triển đủ mức độ để thực hành chức năng của mình mà công nghiệp phải chủ động, tích cực tác động và xác lập mối quan hệ hợp lý ngay từ đầu để sớm tạo nên một sức sản xuất mới cho nông nghiệp để bảo đảm tốc độ tăng trưởng và sự bền vững của nển kinh tế quốc dân. Không thể dựa vào nguồn tích luỹ bên ngoài mà phải giải quyết thực sự động lực nội sinh của mối quan hệ công nông nghiệp, tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa trình độ của nông nghiệp với công nghiệp mới có khả năng tích luỹ và phát triển bền vững nén kinh tế đất nước.

Tác động của công nghiệp và nông nghiệp sẽ tạo nên sự phân công lao động mới trong nội bộ nông nghiộp, tạo nên nhiều ngành nghề mới, nhiều khu vực nông nghiệp chuyên canh không thuần nhất, sang nền nông nghiệp chuyên môn hoá cao tạo khối lượng sản phẩm có năng suất cao, có khả năng

14

trao đổi sản phẩm công nghiệp và xuất khẩu. Ngoài ra, còn tác động, chuyển bộ phận lao động sang làm dịch vụ nông nghiệp trong nông thôn.

1.3.

Kinh nghiệm của một sô nước và vùng lãnh thổ trong quá trình

phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.

Mõi một quốc gia dân tộc có Iiiột lịch sử phát triển nển nông nghiệp hàng hoá riêng. Song dù là một quốc gia nào đi chăng nữa, sự phát triển nền kinh tế của họ cũng có thể chỉ ra cho đất nước khác những vấn đề cần suy xét, nghiên cứu, học hỏi, rút kinh nghiệm một cách sáng tạo cho mình trong thực tế và hướng suy ngẫm trong tương lai. Phần này trình bày kinh nghiệm một số nước đi lên từ việc thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.

1.3.1. Trung quốc:

Trước cải cách (tức là trước năm 1978), Trung quốc vốn là một nước nghèo nếu xét theo thu nhập bình quân đầu người; nông dân chiếm một tỷ lệ rất lớn, xấp xỉ tới 80% tổng dân số; đói nghèo là một căn bệnh kinh niên kéo dài và rất phổ biến.

15

Từ năm 1978, Trung quốc tiến hành cải cách kinh tế, trong đó chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Từ năm 1980 thực hiện biện pháp quán khoán toàn bộ đến hộ gia đình nông dân. Đến năm 1982 thì biện pháp này chính thức thực hiện trên toàn quốc. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân là hết sức đúng đắn và thuyết phục. Kinh tế nông thôn Trung quốc có bước tiến nhảy vọt với tỷ lệ tăng trưởng bình quân của giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là 11,5%/nãm trong giai đoạn 1980 - 1985, cao gấp 3,5 lần tốc độ trung bình đạt được trong 28 năm từ 1953 - 1980. Đến nay Trung quốc không chỉ tự giải quyết được vấn đề lương thực cho một dân tộc có trên 1 tỷ người (1,2367 tỷ người), mà còn có thành tích từ một nước lạc hậu đã vươn lên vị trí thứ 7 trên thế giới, nhiều mặt hàng nông nghiệp chủ yếu có sản lượng đứng đầu thế giới như: lương thực, thịt, bông, lạc, hạt có dầu, hoa quả...

Đạt được thành tích như vậy còn phải nói đến sự đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng thành công các xí nghiệp hương trấn, nó đóng một vai trò quan trọng trong sự đa dạng hoá ngày càng gia tăng của nền kinh tế nông thôn Trung quốc. Với phương châm "Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành", mô hình xí nghiệp hương trấn cùng với phương thức khoán sản xuất nông nghiệp đến hộ nông dân đã mở ra con đường phát triển độc đáo cho nền kinh tế nông nghiệp nông thôn Trung quốc. Cựu thủ tướng Trung quốc Lý Bằng, trong báo cáo trước Quốc hội ngày 10/3/1994 khẳng định "Xí nghiệp hương trấn là con đường tất yếu để nông thôn tiến lên giàu có".

Xí nghiệp hương trấn là tên gọi chung các xí nghiệp công, thương nghiệp, xây dựng và hoạt động ở nông thôn, phát triển từ các xí nghiệp xã đội trước đây có mở rộng thêm các hình thức tổ chức quản lý. về cơ bản là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sự phát triển mạnh các loại hình xí nghiệp hương trấn đã tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thuần nông, sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, sử dụng được phần lớn lao động dư thừa của nông nghiệp ngay tại nông thôn, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp truyền thống.

Do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng khác nhau, nhiều mô hình xí nghiệp hương trấn ra đời với những sản phẩm làm ra khác nhau. Song nhìn chung các xí nghiệp hương trấn Trung quốc phát triển liên tục về số lượng, chất lượng, phát huy được tác dụng và đạt hiệu quả kinh tế cao.

Đi đôi với sự phát triển kinh tế công nghiệp nông thôn thông qua các xí nghiệp hương trấn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp hoá nông nghiệp cũng từng bước tiến hành bao gồm nghiên cứu ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học, thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, hoá học hoá nông nghiệp.

16

Đẩy mạnh công nghệ sinh học là tạo được nhiều giống cây trổng, vật nuôi tốt và đưa vào phổ biến sản xuất. Đưa giống lúa lai vào sản xuất trên 40% diện tích lúa cho hiệu quả cao.

Từ năm 1980 đến 1995 là thời kỳ Trung quốc mới bước vào khoán ruộng đất, nông dân còn khó khăn về vốn nên sử dụng máy móc thiết bị cho nông nghiệp rất hạn chế, họ chủ yếu sắm công cụ thủ công. Nhưng những năm tiếp đó số máy móc tăng lên do nhiều hộ nông dân đi vào sản xuất hàng hoá có tích luỹ, hộ tự mình mua sắm máy móc để phát triển sản xuất.

Từ năm 1987 đến nay, máy móc nông nghiệp thuộc quyền sở hữu và quản lý của hộ nông dân, ngoài ra các hộ nông dân còn mua hàng chục triệu

máy kéo và máy nông nghiệp.

Từ một nển nông nghiệp lạc hậu, một xã hội nông dân đầy thăng trầm, với đất nước hàng tỷ người trong đó dân số tập trung ở nông thôn, nếu như không có sự ổn định và phát triển tiến bộ toàn diện, không có sự giàu có của nông dân thì đất nước không thể có khả năng giàu có và vững mạnh được. Nếu như không hiện đại hoá nền nông nghiệp thì khó có thể hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Do vậy sự phát triển nền nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là vấn đề mấu chốt của sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Trung quốc với tốc độ và hiệu quả kinh tế như thế.

1.3.2. Đài loan.

Đài loan có diện tích 36.000km2. Đất đai đa số là đất đồi núi, trong tổng số 1,7 triệu ha đất nông nghiệp, đất canh tác chỉ có gần 900.000 ha. Đất canh tác bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới (470m2).

Trong những năm 60, Đài loan phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp, đảm bảo đủ nông sản cho nhu cầu công nghiệp hoá và xuất khẩu lấy ngoại tệ. Từ những năm 70 đến nay là thời kỳ phát triển công nghiệp để hỗ trợ nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá đô thị và nông thôn, hiện đại hoá nông nghiệp.

OA! HỌC O U Ó C G IA l U N Ộ l TRUNG TÂM 1MCWTI.N TH!''VlfN

17

Để phát triển nồng nghiệp, Đài loan tiến hành cải tạo nông nghiệp từ đầu những năm 50. Vấn đề gay cấn nhất ở Đài loan trong thời kỳ đầu là sự

chênh lệch lớn về sở hữu ruộng đất trong nông thôn. Để giải quyết vấn đề này, đã tiến hành chương trình "cải cách ruộng đất" (1949-1953). Cải cách ruộng đất là nhân tố có tính quyết định đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của Đài loan. Sau cải cách ruộng đất, đã giải quyết vấn đề chính trong nông thôn, đó là thực hiện người nông dân có ruộng. Nông nghiệp tiến tới một nền nông nghiệp với chế độ trang trại gia đình. Đây là xuất phát điểm cho sự thành công của nền nông nghiệp Đài loan.

Về mặt quy mô, trang trại gia đình ở Đài loan thuộc loại nhỏ ở Châu Á

và thế giới, bình quân một trang trại chỉ gần lha. Tuy quy mô các trang trại gia đình nhỏ, nhưng họ đã thành công trong việc hiện đại hoá nền nông nghiệp bằng máy móc, cơ giới hoá, điện khí hoá và hoá học hoá. Đến năm 1981, các trang trại đã cơ giới hoá 95% công việc làm đất, 91% công việc cấy lúa, 80% việc gặt lúa và 50% việc sấy hạt. [17(78)].

Các trang trại gia đình ỏ Đài loan rất đa dạng, có trang trại có ruộng đất riêng, tự sản xuất, có trang trại có một phần ruộng đất và lĩnh canh thêm để sản xuất, có trang trại nhận ruộng đất của hộ khác uỷ thác để sản xuất, cũng có trang trại không có ruộng đất phải đi thuê. Cơ cấu sản xuất của các trang trại cũng đa dạng, có trang trại chuyên sản xuất nông nghiệp, có trang trại làm một phần nông nghiệp và một phần làm việc ngoài nông nghiệp. Số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm đến 91%, số trang trại thuần nông chỉ có 9%.

Vói cơ cấu sản xuất đa dạng như vậy, đã mở mang thêm nhiều ngành sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Đài loan đã hình thành và phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ phân tán ở nông thôn. Các xí nghiệp nông thôn bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến lương thực thực phẩm theo công nghệ cổ truyền, các xí nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật, tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sản xuất kinh doanh độc lập.

18

Công nghiệp phân tán ở nông thôn đã thu hút được lực lượng lao động dư thừa ở đó, làm cho nhiều hộ nông dân từ thuần nông trở thành vừa làm nông nghiệp vừa làm công nghiệp, dịch vụ. Nhờ đó sức ép của mức bình quân ruộng đất trên đầu người được giảm đi, số nông dân rời bỏ làng ra thành thị tìm việc làm cũng ít đi. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành các liên hiệp nông - công - nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản - nguyên liệu, tạo ra sản phẩm

hàng hoá xuất khẩu.

Sự phát triển công nghiệp nông thôn là cơ sở thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển và là điêu kiện thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển theo xu hướng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đối vói nông nghiệp, Nhà nước cho phép và khuyến khích thành lập các hiệp hội như hiệp hội các nhà trồng trọt, hiệp hội các nhà thuỷ lợi và các hợp tác xã buôn bán. Những hiệp hội này chính là những hình thức hợp tác trong các khâu từ sản xuất nông nghiộp đến lưu thông, một nhân tố đưa đến thành công của nền nông nghiệp trang trại Đài loan.

Xuất phát điểm của sự phát triển nông nghiệp ở Đài loan là sự gia tăng sản xuất lúa gạo. Chính sự phát triển vượt bậc về sản xuất lúa gạo đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, làm cho nông nghiệp trở thành một ngành thương phẩm. Từ chỗ chỉ chuyên sản xuất lúa gạo, Đài loan chuyển sang sản xuất các loại cây trổng có giá trị kinh tế cao như cây ăn quả, rau, cây

công nghiệp và chăn nuôi. Trong nông nghiệp quá trình di chuyển cơ cấu cây trồng, vật nuôi thông qua các tín hiộu thị trường đã dẫn đến sự tăng nhanh giá trị sản phẩm của nó, từ năm 1952 đến 1984, giá trị các cây trồng đã tăng gấp đôi.

Sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp Đài loan được thể hiện qua các con số thống kê sau: giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 707 triệu USD năm 1952 lên 12,06 tỷ USD năm 1992 và kim ngạch nông sản xuất khẩu tăng từ 114 triệu USD năm 1952 lên 410 triệu USD năm 1992. [ 15(123)]

19

Tóm lại, những nhân tố đưa đến sự thành công của nông nghiệp Đài loan đó là sự tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh sản xuất của người nông dân, đó là sự thừa nhận quyền tư hữu tài sản ruộng đất và tạo điều kiện cho các trang trại gia đình phát triển. Công cuộc cải cách ruộng đất đã thực hiện ước mơ của người nông dân "người cày có ruộng". Được làm chủ mảnh đất của mình, được tự do trồng cấy, tự do bán sản phẩm do mình làm ra, ngoài thuế nộp cho Nhà nước, toàn quyền quyết định sử dụng thu nhập của mình, đây là động lực để nền nông nghiệp Đài loan ngày càng phát triển.

1.3.3. Thái lan.

Thái lan là một nước có diện tích canh tác bình quân đầu người 3756m2, diện tích bình quân mỗi hộ 4,5ha. Thái lan đã từng là nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 90% dân số là nông dân. Nhiều chính sách và biện pháp cụ thể nhằm khuyến nông, tạo điều kiện nông dân gắn bó với ruộng đất của mình và khai thác tối đa tiềm năng của đất nước. Mãi đến những năm 60 Thái Lan vẫn là một nước lạc hậu, yếu kém cả nông nghiệp và công nghiệp. Sự phát triển của nền kinh tế đất nước không gì khác phải lấy công nghiệp hoá làm con đường phát triển; thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá và phát triển nông thôn.

Thòi gian đầu tập trung vào phát triển công nghiệp đô thị dựa vào vốn và công nghệ nước ngoài, nhưng kinh tế không những không thành công mà vẫn còn lâm vào tình trạng trì trệ, nông nghiệp vẫn lạc hậu. Thái Lan kịp thời chuyển hướng công nghiệp hoá đa dạng nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, phát

huy lợi thế đất và nguồn lao động của mình, Thái Lan lấy nông nghiệp làm điểm tựa để đẩy mạnh sản xuất chế biến và xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, nông lâm thuỷ sản, đổng thời xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, có trọng điểm để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao.

20

Đến những năm 90, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những thay đổi lớn và đang phát triển theo hướng sản xuất và xuất khẩu ngày càng nhiều nông sản hàng hoá, công nghiệp chế biến xuất khẩu cũng phát triển nhanh.

Công nghộ sản xuất trên đồng ruộng đến nay đã được cơ giới hoá 90% khâu làm đất, 50% khâu tưới nước, 75% khâu phun thuốc trừ sâu... Nhằm phát triển nông nghiệp hàng hoá trong điều kiện xuất phát từ nông nghiệp lạc hậu. Thái Lan đã bắt đầu từ ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học (giống), hoá học (phân bón, hoá chất) thuỷ lợi và điều quan trọng là cơ giới hoá các công đoạn sản xuất và chế biến nông sản.

Khâu công nghiệp chế biến ngày càng tăng cường do đòi hỏi của sản xuất phát triển; khối lượng nông sản tăng đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Họ đã lắp đặt các dây chuyển thiết bị, công nghộ tối tân, đảm bảo chất lượng sản phẩm cao. Chăn nuôi phát triển để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu ngày càng cao, các thiết bị hiện đại được đưa vào đồng thời cơ giới hoá cung cấp nước, vệ sinh chuồng trại. Nhờ tích cực áp dụng khoa học công nghệ hiộn đại vào nông nghiệp như vậy nên hiện nay Thái lan đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, đứng đầu vé sản xuất và xuất khẩu cao su, tôm sú, đứng thức ba về xuất khẩu đường.

Đi đôi với khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng xuất khẩu, Thái Lan đã chú trọng đến phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Cung cấp vốn tín dụng, bồi dưỡng tay nghề, tiếp thị, tạo ra mối quan hệ hiệp đồng kinh tế gia công giữa công nghiệp nhỏ và công nghiệp lón.

Nhìn chung phát triển nền nông nghiệp hàng hoá theo định hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá đã có những bước phát triển. Tuy nhiên ở Thái Lan vẫn chưa tạo ra được sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông thôn, thu nhập của nông dân từ ngoài nông nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn là thu nhập từ nông nghiệp.

2 1

Những kết quả và thành tựu kinh tế nông nghiệp và nông thôn của các nước đạt được tuy mỗi nước có điều kiện riêng, ở vào những thời điểm và hoàn cảnh lịch sử khác nhau như Đài loan, Thái lan, Trung quốc, song nhìn chung họ đểu rất coi trọng nển nông nghiệp hàng hoá và sự phát triển kinh tế nông thôn trong mỗi bước đi của chiến lược ổn định, phát triển nền kinh tế đất nước.

Điều có thể thấy ở tất cả các nước có xuất phát điểm thấp là nông

nghiệp tự cung, tự cấp đi lên nền nông nghiệp hàng hoá, đó là:

Thứ nhất, lấy lợi ích kinh tế tư nhân của hộ nông dân làm xuất phát điểm nghĩa là chú trọng đến phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn, ngay ở Trung quốc từ khi cải cách kinh tế nông nghiệp nông thôn thì việc khoán toàn bộ đến hộ gia đình đã tạo ra các chủ thể kinh tế hộ nông dân, làm cho người nông dân quan tâm đến phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đó năng suất lao động đã tăng cao nhiều lần.

Thứ hai, để phát triển nông nghiệp hàng hoá thì yếu tố tạo ra những chủ thể kinh tế độc lập mới chỉ là tiền đề ban đầu cần thiết nhưng chưa đủ. Để thúc đẩy điều kiộn ra đời và phát triển nền nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường, tạo nên cú huých cho nền nông nghiệp hàng hoá, phải tạo ra công ăn việc làm, tạo thu nhập, phải cởi trói lao động thuần nông cho nông dân. Kinh nghiêm các nước cho thấy phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, chú ý công nghiệp chế biến cho nông nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn, phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Điều đó mới có khả năng thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch được cơ cấu nông nghiệp ra khỏi thuần nông, độc canh; sản xuất nông nghiệp mói tập trung được ruộng đất, tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá. Nó ià cơ sở, điểu kiện đủ để thúc đẩy nển nông nghiệp hàng hoá ra đời nhanh, phát triển tốt.

22

Thu lượm những bài học của các nước nhất là những nước rất gần gũi vói Việt Nam là rất quan trọng. Từ đó, xuất phát từ mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, nội lực hiện tại của chính mình để tìm ra những yếu tố; những phương hướng, giải pháp sát thực, sáng tạo, năng động cho quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở nước ta.

1.4. Sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam:

1.4.1.

Tính tất yếu của quá trình chuyên biến từ nền nông nghiệp tự

nhiên sang nền nông nghiệp hàng hoá.

- Để sử dụng hợp lý các tài nguyên đất đai, rừng, biển; sử dụng lợi thế

so sánh của các vùng, các quốc gia.

Trong sản xuất nông nghiộp, lao động của con người có quan hệ chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết. Đối tượng của nông nghiệp là những sinh vật sống nên đòi hỏi sự chăm sóc tỉ mỷ của bàn tay người lao động. Hiệu quả của sản xuất nông nghiệp không chỉ phụ thuộc vào khả năng tác động của con người, mà còn phụ thuộc vào đặc tính của ruộng đất và điều kiện địa lý... Mỗi một vùng, mỗi một quốc gia đều có ưu thế riêng trong việc sản xuất một số sản phẩm nào đó với chất lượng cao, chi phí thấp, so với các vùng khác, các quốc gia khác. Việc chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất theo từng khu vực mới tạo điểu kiện khai thác tốt nhất các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp.

- Nâng cao năng suất lao động nông nghiệp và thúc đẩy sự phân công

lao động xã hội.

23

Tăng năng suất lao động nông nghiệp, nhất là năng suất lao động trong ngành sản xuất lương thực là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp, việc tổ chức sản xuất hàng hoá gắn liền với địa thế điều kiện tự nhiên là nhân tố đầu tiên để nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, để tăng khả năng cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh buộc phải nhanh chóng áp dụng những thành tựu công nghệ của công nghiệp và công nghệ quản lý mới nhằm nâng cao năng suất lao động. Dần dần, để tăng năng suất lao động, người sản xuất đi vào chuyên môn hoá, sản xuất một hay một vài sản phẩm nào đó. Chính quá trình đó đã thúc đẩy phân công lao động xã hội ngày càng tăng. Chỉ có trong một nền nông nghiệp hàng hoá mới nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy phân công lao động xã hội ngày càng sâu, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá ngày càng tăng,

tạo ra mối liên hệ giữa các ngành, các vùng chặt chẽ. Từ đó sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người trong xã hội. Vì vậy, chuyển nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nông nghiệp hàng hoá là tất yếu. Đây là con đường tất yếu của hầu hết các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển.

- Nâng cao thu nhập của người lao động nông nghiệp; góp phần cải

thiện điều kiện kinh tế xã hội cho nông dân.

ở mọi quốc gia, khu vực nông nghiệp, nông thôn đều lạc hậu so với khu

vực công nghiệp và thành thị. Chuyển nông nghiệp sang nông nghiệp hàng hoá thúc đẩy quá trình kinh doanh trong nông nghiệp, tăng hiệu quả kinh tế, từ đó thu nhập của người lao động nông nghiệp tăng lên. Đây là động lực cuốn hút nông dân. Lợi ích kinh tế do sản xuất hàng hoá mang lại sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh trong nông nghiệp, nông dân tự thân nâng cao trình độ văn hoá tiếp cận thị trưòng, áp dụng công nghệ mới, các thị trường được hình thành ở nông thôn tạo sự liên kết giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, kết cấu hạ tầng...

- Chuyển nông nghiệp sang nền nông nghiệp hàng hoá tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu.

Đó là nhân tố quan trọng tạo ra ngoại tệ, thúc đẩy nền kinh tế đất nước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Bởi vì, thông qua xuất khẩu mà biến sản phẩm nông nghiệp từ chỗ là sản phẩm tất yếu, tức là sản phẩm để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động trở thành sản phẩm thặng dư, tạo ra nguồn tích luỹ dưới hình thức nhập vật tư, máy móc, thiết bị để mở rộng sản xuất, thực hiện tích luỹ cho công nghiộp và nông nghiệp.

24

Như vậy, sản xuất và thị trường gắn bó với nhau nhờ có sự phát triển của nông nghiệp hàng hoá. Nông nghiệp hàng hoá phát triển vừa xác định, vừa thúc đẩy các chủ thể sản xuất kinh doanh tạo ra các ngành nghề mới, mở mang kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển mối quan hệ ngành nghề sâu rộng,

tạo ra lao động thặng dư làm cho khả năng tích luỹ tăng... Điều đó cho thấy, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tất yếu phải phát triển nông nghiệp hàng hoá.

1.4.2. Đặc điểm phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta:

1.4.2.1. P h á t triển nông nghiệp hàng ìioá ở x u ấ t p h á t điểm rấ t thấp:

Nước ta phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở xuất phát điểm rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn, năng suất lao động còn thấp; tỷ suất hàng hoá chưa cao...

Từ khi chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường cho đến nay, đã khẳng định tính đúng đăn, hợp lý của việc xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần và hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có bước phát triển đáng kể và đạt được những thành tựu to lớn. Nhiều vùng nông thôn của đất nước đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng đa dạng hoá, nhiều ngành nghề để ngày càng có nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự phát triển của nông nghiệp hàng hoá còn quá chậm do điểm xuất phát quá thấp, thể hiện:

Thứ nhất, năng suất cây trồng, vật nuôi, nhất là năng suất tính trên một lao động, đều thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu

so sánh vói các nước châu Á trong năm 1990 thì năng suất lúa bình quân của

133 triệu ha thuộc 20 nước trong vùng đạt 36 tạ/ ha, nưóc ta chỉ đạt 31,9 tạ/ ha (Nhật Bản 63,7 tạ, Hàn Quốc 62 tạ, Trung Quốc 57 tạ, Inđônêsia 43 tạ, Iran 37,6 tạ/ ha). Năng suất bình quân của 38,5 triệu ha ngô thuộc 11 nước trong vùng đạt 33,1 tạ/ ha, trong khi nước ta chỉ đạt 15,5 tạ/ ha [29 (13)].

Thứ hai, tỷ suất hàng hoá còn thấp. Theo điều tra xã hội học, số hộ sản xuất nông sản hàng hoá chỉ chiếm 25% tổng số hộ sản xuất nông nghiệp, phần lớn số hộ vẫn sản xuất tự cấp, tự túc, thậm chí còn hơn 10% số hộ sản xuất chưa đủ ăn chưa nói đến sản xuất hàng hoá.

25

Thứ ba, chăn nuôi chưa phát triển mạnh, giá trị chăn nuôi chưa vượt quá 25% tổng giá trị nông nghiệp, do đó chưa xuất hiện môi trường chăn nuôi với tỷ suất hàng hoá cao.

Thứ tư, sản xuất nông nghiệp chưa gắn với chế biến, bảo quản và tiêu thụ. Nhìn chung, hàng hoá nông sản ở nưóe ta đang tôn tại ở dạng thô hoặc sơ chế, chưa có nông sản tinh chế. Đây là nhược điểm lớn của nông nghiệp Việt nam.

Thứ năm, ngành nông nghiệp hiện nay (1998 nông nghiệp 25,98%; công nghiệp 32,7%; dịch vụ 41,32%) vẫn là cơ cấu của một xã hội nông nghiệp cổ truyén, gần tương đồng với các nưóe trong khu vực cách đây 20 - 30 năm [38 (229)]. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chưa thoát khỏi tình trạng độc canh và thuần nông, nhiều vùng vẫn chủ yếu là độc canh về lúa, cơ cấu sản xuất chậm đổi mới. Khi phân tích GDP do nông thôn tạo ra, năm 1990, GDP từ nông nghiệp chiếm 73,8% và giảm xuống còn 64,5% năm 1995. Như vậy đã có sự phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Dựa vào cơ cấu GDP, sau nông nghiệp, công nghiệp chế biến có đóng góp trên dưới 7% GDP, dịch vụ đóng góp trên 13%. Có thể nói việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang hoạt động công nghiệp chế biến diễn ra rất chậm (tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn).

1.4.2.2.

K inh t ế nông nghiệp, nông thôn nước ta có sự không đồng đều về

trình độ p h á t triển sản xuất và quản lý, s ự không đồng đều vê các điều kiện, c ơ sở

vật chất, k ỹ thuật giữa các vùng, các m iền và s ự đa dạng của các vùng.

Điểm xuất phát của nông nghiệp hàng hoá nước ta thấp, nhưng qua những năm đổi mới đã có những bước tiến bộ, tuy vậy so với yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong thòi đại hiện nay thì nó còn nhiều hạn chế nhất là trong môi trưòng cạnh tranh rất gay gắt, kể cả thị trường trong nước và nưóc ngoài.

26

Trên thực tế, ở nước ta hiện nay, giữa các vùng trình độ phát triển sản xuất nông nghiệp không đồng đều. Có vùng, trình độ phát triển sản xuất hàng hoá và quản lý đã khá cao, sản xuất đã mang tính hàng hoá rõ rệt. Cơ sở vật

chất - kỹ thuật đã có nhiều thay đổi, như vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vùng này là địa bàn sản xuất nông sản lớn, có tỷ suất hàng hoá cao. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi về thời tiết, khí hậu, chế độ tưới tiêu nước... vùng này là trọng điểm sản xuất lương thực của cả nước. Ngoài lúa, vùng này còn có nhiêu loại cây trái có giá trị kinh tế cao, có khối lượng lớn, quanh năm mùa nào thức ấy... Mặt khác, người dân ở đây đã trải qua phương thức sản xuất - kinh doanh hàng hoá, kinh tế nông trại, điền chủ lớn đã hình thành từ khá lâu, tạo lập được một phương thức và thói quen kinh doanh với mục đích sản xuất ra là để bán thu lợi nhuân, đó là động lực kích thích tăng năng suất, nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường.

Bôn cạnh đó còn nhiểu vùng trình độ phát triển sản xuất và quản lý, các điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật còn non kém, sản xuất vẫn còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, chưa tạo ra hàng hoá.

1.4.2.3.

Phát triền nông nghiệp hàng hoá trong thời đại cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại:

27

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới với làn sóng đổi mới công nghệ nhanh chóng tạo điểu kiện cơ cấu lại nền kinh tế và tổ chức lại đời sống vể mọi mặt. Với cuộc cách mạng này, lọi thế đang thuộc về những nước có tiềm lực công nghệ mạnh và cũng tạo cơ hội cho nước đi sau như nước Việt Nam đi tắt đón đầu lựa chọn con đường cồng nghiệp hoá- hiện đại hoá phù hợp, hiộu quả cao phát huy lợi thế của mình, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , khơi dậy nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn, tạo ra bước ngoặt mói để tăng nhanh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và khám phá những hướng mới, bố trí cơ cấu kinh tế mới trong nền nông nghiộp. Cách mạng khoa học công nghệ vừa tạo đà, vừa là động lực thúc đẩy điều kiện ra đời và phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở nước ta hiộn nay. Mặt khác, nó cũng đặt ra những khó khăn mới cho nền nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá như: con người, vốn, khoa học công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, giải quyết lao động mói...

Ị .4.2.4. P h á t triển nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp

h o á - hiện đ ạ i h o á theo định hướng x ã h ộ i chủ nghĩa.

I

Phát triển nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền nông nghiệp hàng hoá có tốc độ tăng trưởng cao lợi nhuận là mục tiêu quan trọng nhất nhưng không phải là mục tiêu duy nhất. Một nền nông nghiệp hàng hoá có năng suất, khối lượng lớn, chất lượng hàng hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội và phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt nâng cao chất lượng cuộc sống, sức khoẻ cộng đồng nông thôn, nơi mà hiện tại nhân dân còn rất nhiều khó khăn vất vả, hơn nữa là nơi có tiểm ẩn sức mạnh nội sinh của đất nước chưa được khơi dậy.

Xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển toàn diện con người và xã hội nông thôn về cả vật chất và tinh thần . Mọi người ngoài đủ ăn, phải tiến tới ăn ngon, mặc đẹp, có tiện nghi sinh hoạt tốt, mọi người có việc làm, có thu nhập, có trình độ dân trí cao , có trình độ tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá hiện đại - bền vững.

Bước vào một nền kinh tế thị trường, việc phát triển nông nghiệp hàng hoá là tất yếu. Vì thế, trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường thì việc nghiên cứu, nhận diện về nẻn nông nghiệp hàng hoá; nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển nông nghiệp hàng hoá của các nước trong khu vực là cực kì cần thiết và quan trọng. Để phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam trong điều kiện cụ thể của Việt Nam thì chúng ta càng cần thiết đi sâu tìm hiểu các điều kiện và các kinh nghiệm cụ thể. Đó là cơ sở phương pháp luận để đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đề ra phương hướng, các giải pháp cơ bản để tiếp tục thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam.

28

CHƯƠNG II

THƯC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIÌP HÒNG HOÁ

Ở NƯỚC TA THỜI KỲ Đổl MỚI.

Sự phát triển kinh tế là một dòng chảy lịch sử, bắt rễ từ hoàn cảnh khách quan,không thể chặn đứng dòng chảy mà chỉ có thể lựa chọn con đường

đi bằng cách tìm trong hiện thực tiến trình của nó để đạt được mục đích và tránh những khiếm khuyết. Việc tìm hiểu thực trạng phát triển nông nghiệp Việt nam từ trong lịch sử là mục tiêu của chương này và cũng để đáp ứng mục đích trên.

2.1. Nền nông nghiệp Việt nam trong giai đoạn 1954 -1981:

2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của nền nông nghiệp Việt nam trong

giai đoạn này:

Từ sau khi giải phóng miền Bắc 1954 đến trước thời kỳ đổi mới 1981, nông nghiệp Việt nam đã trải qua 35 năm phát triển với những bưóe thăng trầm đáng ghi nhớ. Quá trình đó gắn liền với những bước chuyển đổi cơ chế quản lý nông nghiệp, trong đó thành công có nhiều, song sai lầm, khuyết điểm cũng không ít. Trong giai đoạn 1954 - 1981, nông nghiệp Việt nam trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã có những đặc trưng riêng:

- V ề v ấ n đ ề ru ộ n g đ ấ t: Thực hiện tập thể hoá ruộng đất.

ở nước ta, quan hệ ruộng đất có lịch sử biến động hết sức phức tạp.

Dưới chế độ phong kiến, ngoài ruộng đất của nhà nước còn có ruộng đất công thuộc sở hữu làng xã và ruộng đất của tư nhân. Trong thời kì Pháp thuộc, ruộng đất chủ yếu tập trung vào tay địa chủ và thực dân. VI vậy, sau khi cách mạng thành công (1954), nhà nước đã thông qua Luật cải cách ruộng đất để tiến hành tịch thu, trưng thu và trưng mua toàn bộ ruộng đất của thực dân phong kiến để chia cho nông dân, đảm bảo để người nông dân thực sự làm chủ

29

ruộng đất. Trong cải cách ruộng đất, có 2,1 triệu hộ, chiếm 72,8% số hộ nông dân, đã được chia 81 vạn ha ruộng đất để cày cấy. Họ có quyển sở hữu và sử dụng đối với phần đất được chia.

Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hoá nông nghiệp, mà bước đi đầu tiôn là thành lập các tổ đổi công và thí điểm xây dựng HTX nông nghiệp bậc thấp, quy mô nhỏ. Tuy vào tổ đổi công hoặc hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, nhưng người nông dân vẫn được quyền sắp xếp lao động và tổ chức sản xuất trên đồng ruộng của mình. Họ vẫn là chủ ruộng đất nên quan tâm đến mùa màng, đến kết quả sản xuất cuối cùng của lao động.

Nhờ chính sách kinh tế đúng đắn của chính phủ, nhất là cải cách ruộng đất, nên nông nghiệp sau ba năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957) đã đạt được mức tăng trưỏng khá cao, nhiều chi tiêu chủ yếu vượt năm 1939. Đặc biệt, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân đầu người 303kg/ năm, không những đủ lương thực cung cấp cho nhu cầu trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu gạo trong hai năm 1956 - 1957 [24 (99)]. Hàng hoá được lưu thông tự do trên thị trường, nhiều ngành nghề trong nông thôn được khôi phục và phát triển. Như vậy, cải cách ruộng đất đã phá vỡ gông xiềng, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp, cải cách ruộng đất đã giải phóng nông dân, giải phóng ruộng đất, đặt nông nghiệp vào tiến trình thị trường.

Đạt được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó "người cày có mông" là nguyên nhân quan trọng nhất. Bởi vì, nhờ có cải cách ruộng đất, quan hệ ruộng đất trong nông thôn được thay đổi cơ bản. Người nông dân tự do đã thay thế cho người nông dân bị lệ thuộc trước kia. Nhờ vậy mà phát huy hết tính sáng tạo và chủ động của nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, sản lượng lương thực 1957 đạt 3,5 triệu tấn cao hơn cả sản lượng cao nhất tại miền Bắc trước đại chiến thế giới thứ hai là 2,4 triệu tấn. Đó là con số kỷ lục mà từ trước và cả hàng chục năm sau ( 1961 - 1971 ) chưa năm nào đạt được.

30

Từ 1959 đến 1980, công cuộc hợp tác hoá và tập thể hoá nông nghiệp diễn ra lúc đẩu ở miền Bắc và sau đó là cả nước, với phương châm tập thể hoá ruộng đất và các tư liệu sản xuất triệt để và nhanh chóng, đã ỉàm cho người nông dân mất quyền sở hữu, sử dụng ruộng đất, mất quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong một chế độ sở hữu về ruộng đất mà người nông dân chỉ còn được làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu về hình thức. Thực chất nông dân bị tước đoạt quyền làm chủ ruộng đất và chỉ được sử dụng trong chừng mức nhất định (người chủ sở hữu - Nhà nước cho phép) thì không thể tránh khỏi những hậu quả tiêu cực.

Vào thời kỳ 1976 - 1980, sau khi miền Nam được giải phóng, đất nưóc thống nhất và đi lên CNXH, phong trào cải tạo nông nghiệp theo đúng mô hình hợp tác hoá nông nghiệp miền Bắc đã diễn ra trên khắp các tỉnh miền Nam. Chủ trương tập thể hoá nông nghiêp và điều chỉnh ruộng đất lúc đó cùng với cơ chế cấp phát, giao nộp, hành chính hoá và hiện vật hoá các mối quan hộ kinh tế bên trong cũng như bên ngoài, nhất là biện pháp ngăn sông, cấm chợ đã làm cho nông thôn miền Nam ngày càng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Trên bình diện cả nưóc, khi chính sách hợp tác hoá được thực thi rộng rãi, năng suất lúa giảm từ 2,23 tấn/ha xuống chỉ còn 2,08 tấn/ha mặc dù Nhà nước đã tăng cưòng đầu tư vào nông nghiệp. Chính sách giao đất cho hợp tác xã và nông trường quốc doanh khai thác rõ ràng là không có hiệu quả, và

không chỉ làm cho khu vực nông nghiệp cả nền kinh tế cả nước bị trì trệ.

-Về phương thức tổ chức sản xuất: Đẩy mạnh công cuộc hợp tác hoá

nông nghiệp ở miẻn Bắc, sau đó mở rộng trên quy mô cả nước.

Cải cách ruộng đất năm 1954 đã xoá bỏ kinh tế địa chủ, thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến đưa ruộng đất về tay dân cày. Các hộ nông dân được cải cách ruộng đất mang lại cho quyền sở hữu ruộng đất đã phấn khởi, tích cực sản xuất. Nền nông nghiệp cơ bản được tổ chức sản xuất theo các gia đình

31

nông dân cá thể vói những hình thức hiệp tác giản đơn, trên nguyên tắc tự nguyện và viộc tự do sản xuất, lưu thông hàng hoá.

Từ năm 1955 đến 1957, ngay sau khi được chia ruộng đất và xác lập quyền tự chủ kinh doanh, phong trào hiệp tác lao động, hiệp tác sản xuất phát triển rất nhanh ở khắp các vùng nông thôn, có tác dụng tích cực đối với kinh tế của các gia đình nông dân. Hình thức đầu tiên là thành lập các tổ đổi công và các hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, quy mô nhỏ. Các tổ đổi cồng và hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp được xây dựng trong những năm sau cải cách ruộng đất, được đại đa số nông dân đồng tình và tự nguyện tham gia. Trong các hình thức này, những nông dân chỉ hợp tác với nhau về mặt lao động sản xuất theo nguyên tắc bình đẳng "công đổi công", còn ruộng đất và các tư liệu sản xuất vẫn thuộc sở hữu tư nhân, về phân phối thì theo nguyên tắc "sản xuất trên ruộng của ai thuộc người ấy".

Các hình thức tổ chức kinh tế này được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ nên có tác dụng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp. Như vậy, tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp góp phần tích cực vào những thành tựu của nông nghiệp Việt nam thời kỳ này. Bởi vì, vào tổ đổi công hoặc hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, các hộ nông dân được tăng thêm tiền đề vật chất để chống thiên tai và tổ chức sản xuất tốt hơn trên ruộng đất của mình, do mình làm chủ. Các tổ chức kinh tế hợp tác giản đơn, do nông dân tự nguyện lập ra lúc đó là phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội nông thôn miền Bắc và là bước phát triển hợp quy luật.

Khi phong trào đổi công phát triển mạnh nhất vào năm 1958, thì cũng là lúc bắt đầu đẩy mạnh cuộc vận động hợp tác hoá ở nấc thang cao hơn - ở nấc thang công hữu hoá tư liệu sản xuất của người nông dân vừa được chia ruộng đất. Cơn lốc của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp (HTHNN) đã cuốn theo hàng loạt tổ đổi công vào HTXNN từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô thôn sang quy mô toàn xã, diễn ra không chỉ ở vùng đồng bằng mà cả ở miền núi và miền Nam, kéo theo sự diễn biến phức tạp về quan hê sản xuất

32

cũng như lực lượng sản xuất ở nông thôn cả nước. Chuyển lên hợp tác xã bậc cao, hộ nông dân mất quyền sở hữu đối với ruộng đất và các tư liệu sản xuất quan trọng khác, họ không còn là chủ thể sản xuất kinh doanh trên cơ sở những tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu (hoặc quyển sử dụng) của họ. Trên danh nghĩa, họ trở thành "người chủ tập thể", nhưng trên thực tế họ mất quyền làm chủ với tư cách là một chủ thể sản xuất kinh doanh, họ trở thành người làm công cho hợp tác xã.

Quan hệ sản xuất tập thể lúc đầu đã phát huy tác dụng trên một số mặt như làm thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn, cải tạo đổng ruộng, đưa giống mới vào sản xuất... Dần dần, do mải chạy theo thành tích, nặng phô trương thành tích nên những đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật được xây dựng hàng loạt mà không tính toán đến hiệu quả đã làm tăng chi phí sản xuất và gây nên tình trạng tham ô, lãng phí tài sản hợp tác xã, làm suy yếu kinh tế tập thể.

Quan hộ phân phối trong các hợp tác xã nông nghiệp mang nặng tính bình quân, bao cấp, không có tác dụng kích thích sản xuất, rõ nhất là phân phối lương thực, nguyên tắc phân phối là: Ưu tiên cho nộp thuế, bán nghĩa vụ, bán khuyến khích, để đủ giống, dành 10 - 15% sản lượng cho chãn nuôi, để các quỹ và cuối cùng còn lại bao nhiêu mới chia cho xã viên theo công điểm (thường rất thấp: 10 - 12kg thóc/người/tháng). Việc phân phối lương thực áp dụng phương thức "tối thiểu 13, tối đa 18". Thực chất là chia đều cái nghèo cho mọi gia đình, cào bằng cống hiến và hưởng thụ của người lao động, hạn chế tài năng và trí tuệ của người lao động giỏi, của lao động kỹ thuật, triệt tiêu động lực của xã viên và cuối cùng là phá vỡ quan hệ sản xuất tập thể vì xã viên không gắn bó với hợp tác xã.

33

Người nông dân vào hợp tác xã với hy vọng có thu nhập ngày càng tăng, từ đó đòi sống sẽ được cải thiện, song thực tế lại giảm. Vì vậy, niềm tin của họ vào hợp tác xã giảm dần, sự gắn bó với kinh tế tập thể giảm theo và để tồn tại họ dành thời gian, vốn liếng cho mảnh đất 5% để lại khi vào hợp tác xã bậc cao.

Một xu hướng không lành mạnh đã hình thành trong phong trào HTHNN miền Bắc đó là tỷ lệ hợp tác hoá càng tăng, quy mô hợp tác xã càng lớn, trình độ tập thể hoá càng cao thì hiệu quả sản xuất càng giảm, thu nhập của xã viên càng thấp, tích luỹ của hợp tác xã càng ít. Dẫn đến, trong sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, nét đặc trưng là hiệu quả thấp, thua lỗ là phổ biến, tình trạng giảm sút năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi kéo dài từ năm này qua năm khác, làm cho nền nông nghiệp miền Bắc nói riêng và nền kinh tế trong cả nước nói chung bị khủng hoảng.

- Vê' cơ chế, thiết chế quản lý: Là cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.

Trong nông thôn Việt nam, sau cải cách ruộng đất đã xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo, theo số liệu điều tra tháng 5 - 1958 của Ban công tác nông thôn, ở 12 xã thuộc các tỉnh Nam Định, Thanh Hoá, Ninh Bình có 119 gia đình nông dân bán mộng [25 (13)]. Trong thời gian này, đã có một số nhận thức không đúng (không chỉ ở nước ta mà cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa nói chung) vể sự phân hoá giai cấp theo quan niệm: sản xuất hàng hoá nhỏ "hàng ngày, hàng giờ" đẻ ra chủ nghĩa tư bản, về nguy cơ phát triển tư bản chủ nghĩa ở nông thôn kể từ ngay sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất. Vì vậy, trước hiện tượng phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ở nông thôn và trên cơ sở kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã quyết định tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền Bắc. về mặt lý luận, hợp tác hoá nông nghiệp là nhằm các mục tiêu, đó là chặn đứng con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nông thôn, nông nghiệp và xây dựng cơ sở để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Mô hình hợp tác hoá, với đặc trưng là tập thể hoá triệt kể, là con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Thực chất đây là cơ chế kinh tế chỉ huy, kinh tế hiộn vật.

34

Trên bình diện vi mô, trong từng hợp tác xã về nguyên tắc, ban quản trị hợp tác xã là người điều hành mọi công việc trong hợp tác xã. về mặt hình thức, nó được đại hội xã viên bầu ra, nhưng thường là được chỉ định từ cấp

trên xuống. Người nông dân trước khi vào hợp tác xã đa số là những người thuộc tầng lớp bần nông, là những người ít có kinh nghiệm làm ăn, do đó họ cũng khó có thể tham gia được những vấn đề phức tạp đặc biệt là vấn đề quản lý trong các hợp tác xã. Còn những người đại diộn cho các HTX thực chất chỉ là bộ máy thừa hành của Nhà nước, thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu do Nhà nưóc giao cho: sản xuất và giao nộp sản phẩm nông nghiệp của nông dân cho Nhà nước. Do được toàn quyẻn thay mặt Nhà nước

trong hợp tác xã nên ban quản trị trở thành bộ máy quan liêu và nạn tham ô, lãng phí của công nảy sinh từ tình trạng quan liêu ngày càng nặng nề.

Còn trên binh diện vĩ mô, quan hệ giữa Nhà nước với các hợp tác xã là quan hệ theo kiểu ỉệ thuộc: các hợp tác xã nhận vốn, các tư liệu sản xuất và dịch vụ từ Nhà nước và bán sản phẩm cho Nhà nước theo quy định của Nhà nước chứ không phải trên nguyên tắc trao đổi ngang giá. Trong quan hệ này, các hợp tác xã không có quyền quyết định gì, tất cả mọi khâu từ sản xuất đến bán sản phẩm, giá cả đều được ấn định từ trên xuống. Với quan hệ cấp phát - giao nộp sản phẩm như trên, thực chất của hợp tác hoá chính là hiện vật hoá nền kinh tế. Mọi chỉ tiêu từ cấp trên giao xuống cho các hợp tác xã đều dưới dạng các đơn vị đo lường bằng hiện vật như bao nhiêu tấn thóc, bao nhiêu đầu lẹm một lao động, bao nhiêu tấn thịt lợn hơi... Quá trình hiện vật hoá đã đi ngược lại tiến trình kinh tế phát triển bởi chính sự tiền tệ hoá mọi hoạt động kinh tế là một bước quá độ để chuyển nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển.

Chính sự yếu kém trong tổ chức quản lý các hợp tác xã nông nghiệp cùng với việc thực hiộn cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, kế hoạch hoá trực tiếp, toàn diện đã làm cho nông nghiệp Việt nam không thoát ra khỏi tình trạng trì trệ kéo dài.

35

Những đặc trưng cơ bản của nển nông nghiệp Việt nam trong giai đoạn 1954 - 1980 đã cho thấy: Kinh tế tập thể đã thủ tiêu những tiền đề kinh tế tiên quyết của quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá, đó là quyền tư hữu của nông dân và địa vị ỉàm chủ của họ. Kinh tế tập thể đã xoá bỏ quyền sở hữu

của người nông dân trong hợp tác xã, do đó không thoả mãn được khát vọng kinh tế của họ là được làm chủ mảnh đất của mình. Hậu quả là nông nghiệp và kinh tế nông thôn bị khủng hoảng toàn diện cả vể quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và kết quả sản xuất.

2.12. Những hạn chê'căn bản xét theo tiêu chí của nông nghiệp hàng hoá:

Tập thể hoá không thực hiện được quá trình của một cuộc chuyển biến từ nông nghiệp độc canh sang chuyên môn hoá, đa dạng hoá, thương phẩm hoá nông nghiệp.

Xét theo tiêu chí của nông nghiệp hàng hoá, có một số hạn chế căn

bản, đó là:

Một /à, về quan điểm nhận thức:

Đảng và Nhà nước đã sớm đề ra phát triển nông nghiệp nước ta theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nhưng chưa nhận thức rõ nén nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa mà ta phải xây dựng trong thời kỳ quá độ là nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần, có cơ cấu, quy mô, nhịp độ phát triển phù hợp với điều kiên tự nhiên, kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và ở từng vùng nói riêng, nên đã dẫn đến những sai lầm trong chủ trương và hành động chẳng hạn:

- Trong thời gian dài từ khi miền bắc bước vào thời kỳ quá độ đến đại hội VI (1986) chúng ta vẫn quan niệm nền nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa là nền nông nghiệp chỉ có hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể . Sự phát triển kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế tư nhân khác sẽ làm cho nông nghiệp đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó chúng ta chủ trương xoá bỏ kinh tế tư nhân càng sớm càng tốt.

36

- Quan niệm sản xuất lớn đồng nhất với quy mô lớn trình độ kỹ thuật cao, không thấy rằng sản xuất lớn có thể có những quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của đất nước trong không gian và thời gian nhất định, không xuất phát từ hiệu quả kinh tế để xác định

quy mô, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất. Vì thế, trong nhiều năm thiên về cơ giới hoá, ít chú ý đến công cụ thường và công cụ cải tiến , thiết lập nên một hệ thống trạm máy kéo rộng khắp các huyện ở miền Bắc và cũng như tập thể hoá maý móc nông nghiệp của các hộ nông dân ở miền Nam, biến thành những tập đoàn máy móc nông nghiệp, nhưng lại không phát huy tốt hiệu quả hoạt động của nó.

Tuy quan tâm đến sản xuất lương thực, nhưng chủ trương phát triển

- Chủ quan, nóng vội, muốn SỚIĨ1 có nền nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa nên đã chủ trương tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp trong một thời gian ngắn làm cho nhiểu hợp tác xã và tập đoàn sản xuất sau khi thành lập không phát huy được ưu thế sản xuất của mình so với sản xuất cá thể trước đó.

lương thực vẫn đứng trên quan điểm tự cấp tự túc, chứ không đứng trên quan điểm sản xuất hàng hoá, nên địa phương nào cũng đề ra: phải đẩy mạnh sản xuất lương thực, bảo đảm nhu cầu tiêu dùng ở địa phương mình; không thấy rằng chỉ có giải quyết vấn đề lương thực trên cơ sở khai thác tốt nhất tiềm năng và thế manh của mình về tài nguyên và lao động để đẩy mạnh sản xuất những sản phẩm nông nghiộp hàng hoá có lợi thế thông qua con đường trao đổi với các địa phương khác và xuất nhập khẩu.

Hai là, đã thi hành những chính sách gây hậu quả tiêu cực tới sự phát

triển sản xuất hàng hoá nông nghiệp.

37

- Chính sách độc quyền thu mua nông sản và bán hàng công nghệ phẩm của Nhà nước dựa trên những ý tưởng tốt đẹp, tạo điều kiện cho Nhà nước tập trung được nguồn hàng nông nghiệp, kể cả lương thực thực phẩm vào tay mình để dễ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; bảo đảm cung cấp tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và cho đòi sống nông dân nông thôn; làm cho người sản xuất không còn lo nghĩ đến việc tiêu thụ hàng hoá và tập trung vào sản xuất. Nhưng mặt khác, chính sách đó đã thủ tiêu quyền tự do mua bán, lưu thỏng hàng hoá của nhân dân và các đơn vị sản xuất, không tạo điều kiện kích thích phát triển sản xuất nông phẩm

hàng hoá. Theo chính sách đó, hợp tác xã nông nghiệp cũng như gia đình

nông dân sản xuất ra được bao nhiêu, sau khi nộp thuế cho Nhà nước và để lại tiêu dùng, số còn lại đều bán cho thương nghiệp quốc doanh, thậm chí hợp tác xã mua bán, theo giá cả Nhà nước định, có thể nói quyền được tự do mua bán trên thị trường chợ nông thôn trong thời kỳ này chỉ còn đóng khung trong phạm vi một ít quả trứng, một ít trái cây, rau , màu, 5 - 10 kg gạo mà thôi. Việc hợp tác xã và nhân dân mua tư liệu sản xuất và hàng công nghiệp tiêu dùng của các cửa hàng Nhà nước thì cũng hết sức khó khăn, không phải muốn mua cái gì, số lượng bao nhiêu, giá cả như thế nào, lúc nào mua, mua ở đâu... cũng được mà đều do Nhà nước quy định cả. Người nông dân không mua của Nhà nước và hợp tác xã mua bán thì cũng không biết mua của ai được nữa.

Chính sách độc quyền mua bán đã dẫn đến cửa quyền mua bán của hộ

thống thương nghiệp. Tinh trạng ép giá, ép cấp, cậy thần, cậy thế , đi cửa sau qua nhiều khâu trung gian trong việc mua bán diễn ra khá phổ biến, làm thiệt hại tiền của, gây phiền hà và làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước .

Gắn liền với chính sách mua bán là chính sách giá cả. Hầu hết giá cả

mua và bán đểu do Nhà nước thống nhất quy định, có nơi , có lúc giá thu mua nông sản của Nhà nước không bù đủ chi phí sản xuất, dẫn đến tình trạng hợp tác xã nào càng bán nhiều hàng hoá cho Nhà nước, thì hợp tác xã đó càng thiệt.

- Chính sách phân phối bình quân trong các hợp tác xã (theo định suất, theo công điểm) đã khồng quan tâm đến lợi ích người lao động. Một chính sách phân phối mà người làm ra nhiều cũng chỉ được hưởng một khẩu phần như người làm ra ít hoặc không làm, thì làm sao kích thích được người sản xuất ra nhiều lương thực, hàng hoá được.

- Chính sách đầu tư thiên về phân tán dàn trải, không có trọng tâm trọng điểm, không tập trung vào những cây con, những vùng sản xuất có tỉ suất hàng hoá cao. Mặt khác trong khi nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và tập thể có hạn,

38

nhưng không có chính sách động viôn nguồn vốn trong nhân dân nông thôn , trong các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.

Ba là, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã kìm hãm sự phát

triển sản xuất nông sản hàng hoá .

Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, đã làm cho các nông lâm trường quốc doanh và các hợp tác xã không thực sự trở thành những đơn vị sản xuất hàng hoá, có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mọi hoạt động của họ, từ việc xác định mục tiêu và phương hướng sản xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch cho đến tiêu thụ sản phẩm, phân phối thu nhập... đều do Nhà nưóc quy định , tuy rằng vé hình thức vẫn do các đơn vị quyết định.

Cơ chế quản lý đó không làm cho Nhà nước nắm chắc được những cái cần nắm để định hướng cho sự phát triển và buông những cái không cần nắm để các đom vị sản xuất kinh doanh thực hiện quyền tự chủ của mình. Nói một cáh khác, cơ chế quản lý đó vừa không tăng cường được sự quản lý vĩ mô, vừa hạn chế sự quản lý vi mô, không thiết lập được trật tự , kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tưởng chừng đảm bảo được nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng thực tế vi phạm nguyên tắc đó.

Cơ chế quản lý đó tạo nên tính thụ động, ỷ lại ngồi chờ cấp trên, chờ Nhà nước giao chỉ tiêu và xét duyệt kế hoạch cung cấp những điều kiện thực hiện kế hoạch (vật tư, kỹ thuật, tài chính...) mà không phát huy được tính chủ động, năng động sáng tạo, tự lực tự cường và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các nông lâm trường quốc doanh, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tiến hành các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Cơ chế quản lý đó duy trì quan hệ bao cấp, các hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ, cũng như hạch toán kinh tế được sử dụng một cách hình thức, các hoạt động của sản xuất kinh doanh không cần tính toán lỗ lãi, miễn sao hoàn thành được nhiệm vụ kế hoạch của Nhà nước giao.

39

Cơ chế quản lý đó không phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá và cũng không tạo điều kiện cho nền nông nghiệp đó phát triển, trở thành lực cản cho nền nông nghiệp hàng hoá phát triển.

BẢNG 1 - Một s ố c h ỉ tiêu sản xuất nông nghiệp cả nước 1976 -1 9 8 0 [6 (8)1.

BQ 5 nảm

Đơn vị

1977

1979

1976

1980

Chỉ tiêu

1978

(76-80)

tính

12.579

13.320

Sản lượng lương thực

Ngàn tấn

13.400

12.255

13.986

14.382

quy thóc

11.047

Trong đó thóc

Ngàn tấn

11.828

10.576

9.789

11.678

11.362

20,30

Năng s u ấ t lúa cả năm

Tạ/ha

22,32

19,47

17,92

21,06

20,71

Lương thực binh quân

Kg/người

274

267

254

250

237

266

đắu người

1977,0

Lương thực hàng hoá

Ngàn tấn

2068

1716,1

1449,6

1776

1622,1

Vào những năm cuối thập kỷ 70, mô hình hợp tác xã nông nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diộn, tình hình nông nghiệp, nồng thôn có bước thụt lùi nghiêm trọng, sản xuất phát triển không ổn định, giảm sút liên tục vói mức độ lớn, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác nhất là công nghiệp, dịch vụ.

Sản lượng lương thực cả nước bình quân 5 năm 1976 - 1980 chỉ đạt 13,3 ngàn tấn, thấp hơn mức đã đạt năm 1976 (13,4 ngàn tấn). Lương thực bình quân đầu người là 254kg so với 274kg, năng suất lúa bình quân 1 vụ chỉ đạt 20,3 tạ/ ha, so với 22,3 tạ/ha năm 1976.

Lương thực hàng hoá giảm một cách đáng kể, năm 1976, đạt 2.068 ngàn tấn, năm 1980 không những không tăng mà còn giảm xuống 1.977 ngàn tấn, thậm chí năm 1979 còn 1.449,6 ngàn tấn. Như vậy, vấn đề nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực cho các khu đô thị và lĩnh vực phi nông nghiệp đã

40

được thực hiện rất yếu. Ngoài ra, lương thực hàng hoá giảm, chứng tỏ thu nhập của nông dân từ sản xuất nông nghiệp cho hợp tác xã đã thấp lại càng ngày càng thấp.

Đời sống của nhân dân thấp kém, sản xuất không đủ tiêu dùng. Hàng năm, Nhà nước phải nhập trên 1 triệu tấn lương thực, năm 1976 là 1,2 triệu tấn, năm 1979 là 2,2, triệu tấn. Sự thiếu hụt lương thực đã ảnh hưởng đến toàn bộ tình hình kinh tế xã hội của cả nước. Trong khi đó, suốt một thời gian dài, chúng ta đã không quan tâm đến phát triển kinh tế gia đình hộ xã viên, các

thành viên trong các hợp tác xã. Nhưng chính kinh tế hộ gia đình của xã viên đã cung cấp cho thị trường thịt, trứng, các loại rau, hoa quả và nhiều thứ khác. Tuy nhiên các hộ nông dân chỉ thực hiện quá trình trao đổi các sản phẩm tạo ra từ mảnh đất 5% trên thị trường chợ làng.

Tóm lại, hàng hoá nông nghiệp trong giai đoạn này không phát triển vì năng suất lao động rất thấp, việc phân phối được thực hiện bình quân và dưới hình thức chia sản phẩm. Do đó, giai đoạn này không phải là sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Chỉ có một bộ phận hàng hoá được các hợp tác xã nộp cho nhà nước, bán cho các thành phố và khu vực công nghiệp. Nhưng ngay cả bộ phận này cũng không phải là hàng hoá thực sự vì giá cả cũng không phải là giá trị thực tế của hàng hoá. Còn bộ phận sản phẩm nông nghiệp từ đất 5% của nông dân trở thành hàng hoá nhưng cũng chỉ diễn ra tại các chợ làng.

Như vậy, vể thực chất nền nông nghiệp Việt nam trong thòi kỳ 1954 - 1981 là nển nông nghiệp tự cấp, tự túc. Chính quá trình thực hiện phong trào

HTXNN đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp hàng hoá nói riêng. Mô hình kinh tế tập thể đã trở thành vật cản trên con đường phát triển của nông nghiệp. Do đó tiến hành cải cách trong nông nghiệp đã trở thành tất yếu.

41

2.2. Quá trình hình thành nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam từ

1981 đến nay:

2.2.1.

Những vấn đề mang tính thể chế dẫn đến sự hình thành nền

nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam:

2 .2 .Ỉ.1 Giai đoạn 1981 - 1 9 8 8

Có thé chia quá Irình đổi mới nông nghiệp, hình ihành nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam từ 1981 đến nay làm hai giai đoạn chính: giai đoạn 1 từ 1981 đến 1988, giai đoạn 2 từ 1989 đến nay. Sở dĩ chia làm 2 giai đoạn như vậy bởi vì mỗi giai đoạn gắn liền với sự thay đổi về thể chế trong nông nghiệp và mỗi sự thay đổi đó đem lại những kết quả khác nhau.

Trước tình hình suy thoái của nông nghiệp, Hội nghị Trung ương VI (khoá VI, tháng 9 năm 1979) ra nghị quyết về những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách nhằm tìm giải pháp cho sản xuất "bung ra". Sau Hội nghị đó, hiện tượng "khoán chui" xuất hiện và được xã viên đồng tình. Từ thực tế đó, Đảng cộng sản Việt nam đã nghiên cứu, rút kinh nghiệm và xây dựng cơ chế khoán mới trong nông nghiệp. Ngày 13 - 1 - 1981 chỉ thị 100CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp được ban hành (gọi tắt là khoán 100).

- Về chính sách:

42

"Khoán 100" là khâu đột phá mở đầu sự đổi mới trong sản xuất nông nghiệp. Thực chất của khoán 100 là bước đầu khôi phục lại quyển tự chủ trong sử dụng ruộng đất và lao động của các hộ xã viên, gắn lao động với đất đai, làm cho người lao động quan tâm hom đến kết quả cuối cùng. Chỉ thị 100 là đột phá khẩu vào cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, vào cơ chế sản xuất tập thể. Tuy chưa phải là hình thức mới về tổ chức quản lý nông nghiệp, mà chỉ là cải tiến hình thức khoán, chuyển từ khoán việc sang khoán sản phẩm, chỉ là giải pháp tình thế, nhưng nó đã mở ra một thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp. Tiếp

theo chỉ thị 100, Ban bí thư ra một loạt các chỉ thị khác về nông nghiệp, đó là

chỉ thị 19 về điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp miền Nam, chỉ thị 29 về giao đất, giao rừng và củng cố quan hệ sản xuất ở miền núi, chỉ thị 50 về kiện toàn quốc doanh nông nghiệp ... Tất cả hệ thống các chỉ thị này đã bước đầu thừa nhận vai trò kinh tế hộ gia đình, từng bước xoá bỏ phương pháp quản lý tập trung, quan liêu trong hợp tác xã, tức những ràng buộc của thể chế cũ đã dần dần được gỡ bỏ.

- Về cơ sở vật chất:

Trong cơ chế khoán này, người lao động đã bắt đầu được độc lập ở một mức độ nhất định trong kinh doanh, được làm chủ 3 khâu: gieo trổng, chăm sóc và thu hoạch, 5 khâu còn lại do hợp tác xã đảm nhiệm. Trong cơ chế khoán này, nhiều tư liệu sản xuất trong đó có ruộng đất đã từng bước được gắn với nông dân, đặc biệt là các tư liệu sản xuất gắn với các ngành, các khâu mà người nông dân nhận khoán. Tuy chưa có bước chuyển biến về chất trong chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, nhưng tiềm năng trong nông nghiộp đã từng bưóe được khơi dậy. Hộ xã viên mới chỉ được làm chủ 3 khâu, nhưng động cơ vượt khoán trở thành động lực sản xuất, đã kích thích các hộ đầu tư thâm canh để thu phầi vượt khoán. Kết quả của "khoán 100" là đã bước đầu giải phóng lực lượng sản xuất, tạo ra quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn, thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Cơ chế thị trường:

Thực ra, trong giai đoạn 1981 - 1985, về mặt thể chế chưa cho phép tự do lưu thông hàng hoá nhưng chính động lực vượt khoán đã kích thích sản xuất của hộ nông dân, làm cho phần sản phẩm thặng dư tăng lên. Nhà nước đã nắm trong tay hom 3,5 triệu tấn lương thực hàng hoá để cung cấp cho các khu vực phi nông nghiệp.

43

- Tổ chức sản xuất:

Đã có sự chuyển biến trong cách thức tổ chức lao động ở các ngành, các

khâu thực hiộn khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động. Ở những

ngành, những khâu (đối với cây lúa) thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động, phương thức tổ chức lao động tập trung theo quy mô đội, nhóm được thay bằng phương thức tổ chức lao động trong từng gia đình nhận khoán. Sự thay đổi đó tạo nên sự phù hợp, thích ứng giữa yêu cầu sinh học của sản xuất nông nghiệp (những nét rất đặc thù của sản xuất nông nghiệp) với tác động của con người trong quá trình lao động sản xuất. Điều quan trọng hơn là đã có sự gắn kết giữa hình thức tổ chức lao động mới với chế độ khuyến khích vật chất qua cơ chế thưởng vượt khoán của chế độ khoán mới. Tất cả những điều đó đã tạo nên động lực mới cho sản xuất, làm cho ngưòi nông dân tích cực đầu tư thâm canh, tạo nên bưóc chuyển biến để nông nghiệp thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng.

Kết quả là, bình quân 5 năm 1981 - 1985, sản lượng lương thực tăng 27%, riêng lúa tăng 32%. Nếu so sánh lương thực bình quân đầu người thời kỳ 1976 - 1980 là 254 kg, thì thòi kỳ 1981 - 1985 là 295,5 kg, đã tăng 114%. Các chỉ tiêu chính đều tăng. Điều đó cho thấy sự trói buộc của cơ chế cũ đã kìm hãm sức sản xuất của nông nghiệp như thế nào [7 (31)].

Những tiến bộ đạt được trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trong thòri kỳ 1981 - 1985 tuy mới chỉ là bước đầu nhưng rất quan trọng, vì nó đã chận đứng tình trạng suy thoái kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của nước ta nói riêng, mở ra hướng đi mới trong vấn để giải quyết lương thực.

44

Tuy nhiên, kết quả đạt được của khoán 100 đã bị chững lại, từ 1986, sản xuất nông nghiệp bắt đầu giảm sút. Sản lượng lương thực năm 1987 chỉ đạt 17,5 triệu tất, giảm gần 80 vạn tấn so với 18,37 triệu tấn năm 1986. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do thời tiết không thuận lợi: Hạn hán và sâu rầy làm giảm năng suất lúa ở cả hai miền, nhưng nguyên nhân chính là cơ chế khoán 100 đã hết tác dụng tích cực của nó. Trong cơ chế khoán 100, người nông dân được làm chủ trong 3 khâu, còn 5 khâu khác vẫn do hợp tác xã điều

hành, nhiều khi những khâu này không đáp ứng yêu cầu về thời vụ cũng như chất lượng công việc, do đó ảnh hưởng đến năng suất. Người nông dân chưa được toàn quyền sử dụng đất với tư cách là người chủ. Sự chi phối của hợp tác xã vào quá trình sản xuất theo cơ chế quan liêu, bao cấp và kế hoạch hoá tập trung cao vẫn lớn. Mặt khác, việc tâng mức khoán đã triệt tiêu động lực kích thích sản xuất của người nông dân, vì càng vượt mức khoán thì lại càng phải nộp nhiêu. Tỷ lệ sản phẩm vượt khoán mà người nông dân được hưởng chỉ còn

20%. Phương thức phân phối trong 5 khâu hợp tác xã điều hành vẫn lấy công điểm làm chuẩn, do đó tình trạng "rong công phóng điểm" là phổ biến. Bộ máy quản lý trong hợp tác xã vẫn giữ nguyên, trong khi côngviệc đã giảm nhiều do đó làm tăng chi phí quản lý, tăng mức đóng góp trên diện tích nhận khoán. Tất cả những điều đó đã dẫn đến tình trạng suy thoái của sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1986 - 1987. Xã viên chán nản, hiộn tượng trả ruộng khoán xuất hiện khắp nơi trong cả nước. Sự suy thoái đó đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp, nhất là lương thực ở miền Bắc, sản xuất không

đủ tiêu dùng, dẫn đến nạn đói đầu năm 1988 trên 21 tỉnh, thành phố. Ở miền

Nam sau khi căn bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp (1985), hàng loạt mâu thuẫn mới ở nông thôn phát sinh, nhất là mâu thuẫn trong quan hệ ruộng đất sau điểu chỉnh kiểu "cào bằng" làm cho sản xuất nông nghiệp cả nước tiếp tục trì trệ và khủng hoảng.

Trên binh diện cả nước, một số chính sách vĩ mô như chính sách giá, lương, tiền năm 1985, cùng nạn lạm pháp phi mã năm 1986 đạt mức 557,4%, năm 1987 là 389,9% đã làm trầm trọng thêm tình hình phát triển nông nghiệp, đẩy đời sống của nông dân đến chỗ khó khăn hơn [18 (42)].

Như vậy "khoán 100" vẫn chưa đánh dấu được bước tiến mới về phát

triển sản xuất hàng hoá ở nước ta.

Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng CSVN đã để ra đường lối đổi mới kinh tế, trước hết là nông nghiệp. Từ vụ Đông Xuân 1987 - 1988, ở nhiễu địa phương đã nghiên cứu cải tiến khoán 100, thành khoán gọn đến hộ

45

2.2.1.2. Giai đoạn 1989 đến nay:

xã viên và đạt kết quả tốt, được nông dân đồng tình. Từ kinh nghiệm của quần chúng ờ các địa phương. Đảng CSVN một lần nữa lại tổng kết và nâng lên thành Nghị quyêt số 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp.

Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và sau đó là nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VI (khoá VI) đã xác định tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp. Tiếp đó Nghị quyết Trung ương V (khoá VII) về nông

thôn và nông nghiệp (1993) đã đưa ra những quyết sách quan trọng để phát triển kinh tế xã hội nông thôn.

Vì vậy, những chặng đường đổi mới của nông nghiệp Việt nam có thể

chia thành hai thời kỳ:

Thời kỳ 1989 - 1992: Mở đầu bằng nghị quyết 10 và kết thúc bằng nghị

quyết Trung ương V (khoá VII).

- Về chính sách:

Nghị quyết 10 đã khẳng định:

- Thừa nhận sự tồn tại lâu dài, bình đẳng của các thành phần kinh tế

trong nông nghiệp.

- Khẳng định hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là những đơn vị tự chủ, có

quyền sản xuất, kinh doanh tự chủ.

- Hoàn thiện việc khoán đến hộ, ổn định mức giao khoán lâu dài.

Đây là Nghị quyết quan trọng, đánh dấu bước đổi mới sâu sắc và toàn diện trong quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ ruộng đất trong nông nghiệp và nông thôn.

Sau khi có nghị quyết 10, các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối được

điểu chỉnh, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sở hữu: Nghị quyết 10 thừa nhận quyền sở hữu máy móc, trâu bò, nông cụ... của hộ xã viên. Họ có quyền mua bán, chuyển nhượng các tư liệu

46

sản xuất đó trên thị trường, điều mà cơ chế cũ cấm đoán. Vì vậy, các hộ mua sắm tthêm tư liệu sản xuất để mở rộng sản xuất, thâm canh ruộng đất khoán.

Cùng với tư liệu sản xuất, ruộng đất của hợp tác xã đều được chuyển giao cho hộ xã viên sử dụng lâu dài dưới hình thức khoán và đấu thầu trong thời gian từ 10 đến 15 năm. Điều đó có tác dụng tích cực là khôi phục lại quyển làm chủ ruộng đất của nông dân, gắn đất đai với lao động và sản phẩm cuối cùng từ đó nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng.

Thực chất, sự đổi mới cơ chế quản lý trên đây là nhằm giải phóng một bước mới về quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền tự huy động vốn phục vụ sản xuất. Nhờ đó đã tạo ra sự gắn kết mói giữa người lao động với những tư l iệu sản xuất cơ bản nhất của nông nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ruộng đất, trên cơ sở đó tạo ra môi trường cho nông dân tự chủ sản xuất. Đây chính l à điểm mà cơ chế khoán sản phẩm theo chỉ thị 100 trong những năm trước đó chưa xử lý. Thực tế, những năm sau nghị quyết 10, ruộng đất canh tác đã được các hộ nông dân xã viên quý trọng và triệt để đưa vào sản xuất (trồng trọt) tuỳ theo khả năng lao động của từng hộ. Tình trạng bỏ hoang đồng ruộng đã không còn. Nông dân bỏ công sức chăm sóc và bồi bổ số ruộng đất canh tác nhận khoán, rất chú ý đến tính hiệu quả cao trong sử dụng và khai thác các nguồn lực sẵn có trong phạm vi khả năng của từng hộ.

Quan hệ quản lý: Có chuyển biến tốt. Nghị quyết 10 đã góp phần chuyển đổi quản lý nông nghiệp từ tập trung, bao cấp, rong công phóng điểm,

làm chủ chung chung sang hạch toán, tự chủ cụ thể. Bộ máy hợp tác xã giảm 50%, từ đó giảm các khâu trung gian, giảm chi phí quản lý.

Quan hộ phân phối: Nội dung quan hệ phân phối theo nghị quyết 10 là đảm bảo hài hoà giữa ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động, trong đó tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động. Họ được hưởng 40% sản lượng khoán và chỉ có một nghĩa vụ duy nhất là nộp thuế nông nghiệp theo luật định. Xoá bỏ nghĩa vụ lương thực, thực phẩm với giá thấp, sản phẩm dư thừa được tự do lưu thông trên thị trường. Người lao động có quyền sử dụng

47

toàn bộ sản phẩm làm ra trên ruộng khoán sau khi nộp thuế và quỹ. Hợp tác xã phân phối lợi nhuận cho hộ xã viên theo nguyên tắc phân phối theo lao động.

Nghị quyết 10 khuyến khích nông dân làm giàu chính đáng, "ai giỏi nghề gì làm nghề đó". Khuyến khích phát triển rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế nhằm phát triển sản xuất, giao lưu hàng hoá và phát huy các khả năng, nguồn lực sẩn có trong nông thôn.

Như vậy, nghị quyết 10 đã tiến xa thêm một bước quan trọng so với chỉ thị 100, xoá bỏ phân phối theo công điểm, khẳng định quyển tự chủ của hộ xã viên trong phân phối và sử dụng sản phẩm. Chính yếu tố này đã kích thích người lao động làm việc tốt hơn.

- Cơ chế thị trường:

Ngoài ra, yếu tố chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nưóc như chính sách một giá, lưu thông tự do, xuất khẩu gạo, phát triển kinh tế nhiều thành phần, đầu tư cho nông nghiệp, tín dụng nông thôn. Ban hành sau nghị quyết 10 cũng đã có tác dụng tích cực đối với sản xuất nông nghiộp. Những chính sách đó đã tác động cùng chiều vào nông nghiộp và làm cho nông nghiệp phát triển vững chắc từ đó tới nay.

- Tổ chức sản xuất:

Trong các năm 1989 - 1993, nghị quyết 10 và các chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng đã tạo điều kiộn và môi trường để các hộ nông dân trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp, phát huy được mọi tài năng sáng tạo trong lao động vươn lên thoát khỏi đói nghèo và làm giàu, để từng bước chuyển nền nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang một nền nông nghiệp hàng hoá.

Vì vậy, tất cả các chỉ tiêu của sản xuất nông nghiệp đều tăng, năm sau cao hơn năm trước cả vể tổng sản lượng, năng suất bình quân và lương thực bình quân đầu người.

48

Xét tình hình sản xuất lương thực qua các năm cũng như qua các thời kỳ thì sản lượng, năng suất và lương thực bình quân đầu người đều tăng. Nếu sản lượng lương thực bình quân hàng nãm thời kì 1976 - 1980 là 13,3 triệu tấn, 1981 - 1988 là 17,6 triệu tấn và 1989 - 1992 là 22,2 triệu tấn. Trong đó sản lượng lúa bình quân hàng năm qua các thời kỳ trên là: 11 triệu tấn, 15,1 triệu tấn và ỉ 9,7 triệu tấn. Đặc biệt tỷ suất lương thực hàng hoá, từ 22% trong 5 năm 1981 - 1985 đã tăng lên 27% trong 5 năm 1986 - 1990 và nâng lên khoảng 30% nám 1992. Nhò đó đã giải quyết cơ bản vấn đề ăn của xã hội, còn có lương thực dự trữ và xuất khẩu với quy mô ngày càng lớn. Nếu thời kỳ 1976 - 1980 ta phải nhập 5,6 triệu tấn lương thực, 1981 - 1985 nhập trên 1 triệu tấn mới đảm bảo mức ăn tối thiểu của nhân dân, thì từ năm 1989 - 1992, kim nghạch xuất khẩu hàng nông sản ngày càng tăng, bình quân mỗi năm xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo riêng năm 1992 xuất khẩu 1,95 triộu tấn gạo [7 (35)]. Đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, cà phê Tây Nguyên, cao su ở miền Đông Nam Bộ, chè ở miền núi và trung du Bắc Bộ, rau quả ở đồng bằng sông Hồng. Sự chuyển biến này đã góp phần ổn định kinh tế - xã hội và tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo.

Sản xuất lương thực phát triển đã tạo điều kiện cho chăn nuôi, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản phát triển; tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn cũng có sự tiến bộ. Như vậy, sản xuất nông nghiệp đã biến đổi theo xu hướng đa nghành.

Trong nội bộ nghành nông nghiệp, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi có chiều hướng tăng tỷ trọng nghành chăn nuôi trong giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, do sự phát triển chăn nuôi của hộ gia đình. Năm 1992 so với năm 1985, tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng dần: 1986 là 24,5%, 1990 là 25,5% và 1992 là 25,6% (giá cố định năm 1989). Tính riêng trong nghành trồng trọt, tỷ trọng giá trị cây lương thực năm 1989 là 67,6%, đến năm 1992 chỉ còn 62,1%. Tỷ trọng nhóm cây công nghiệp

49

từ 14,1% lên 15,4%, cây ăn quả từ 8,25% lên 9,14% trong thời gian tương ứng

[7 (35,36)]. Xu hướng độc canh cây lương thực đã được hạn chế. Cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp bước đầu có những khởi sắc. Nông nghiệp tạo ra 75% giá trị sản phẩm trên địa nông thôn, 25% còn lại là phi nông nghiệp. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ tương ứng là 70% và 30%.

Sản xuất hàng hoá nông nghiệp phát triển, chẳng những đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng nước, mà còn tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu. Quan sát bảng 2 cho thấy, kim nghạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản trong 4 năm qua tăng liên tục.

Bảng 2 - Giá trị xuất khẩu nông - ỉ âm - thuỷ sán năm 1988 - ỉ 992

Nguồn: [1 (42)].

Chỉ tiêu

1988

1990

1991

1992

1.038,4 2.404 2.087 2.475 Tổng giá trị xuất khẩu toàn nền kinh tế (triệu rúp- đôla)

1.148,8 1.300 586,5 1.088,9 Trong đó nông-lâm-thuỷ sản (triệu rúp- dôla)

Chiếm tỷ trọng (%) 56,5 47,7 52,1

Đã cân đối được nhu cầu nhập vật tư kỹ thuật cho nông nghiệp và có

thêm ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu cân đối chung của nển kinh tế quốc dân.

Sản xuất kinh doanh phát triển năng động hơn, làm xuất hiện những họ nông dân làm ăn khá giả và số hộ khá giả sẽ ngày càng tăng, họ đang và sẽ là nhân vật trung tâm của sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn. Trong thời gian này, cuộc điều tra của tổng cục thống kê về tình hình giàu nghèo trong nông thôn đã cho thấy số hộ giàu ngày một tăng: Năm 1990, số hộ giàu chiếm 8,06%, năm 1991: 9,7%, năm 1992: từ 12-20%, trung bình là 15%. Vlức thu nhập của hộ giàu cũng tăng nhanh: nhóm hộ giàu năm 1990, có mức

50

thu nhập tương đương 75,4kg gạo một người một tháng, năm 1991 là 81,25kg,

thì năm 1992 mức thu nhập đã tăng lên là 89,7 kg, tức là mức tăng 1991 so với năm 1990 là 18,96%, mức tăng năm 1992 so với 1991 là 10,04% [39 (16,17)].

Mặc dù sản xuất nồng nghiệp đã có nhiều mặt tiến bộ theo hướng sản xuất hàng hoá, nhưng nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, nông nghiệp hàng hoá ở trình độ

thấp. Nguyên do là những mâu thuẫn mới lại nảy sinh:

- Mâu thuẫn trong quan hệ ruộng đất ở nông thôn. Cách khoán theo

nghị quyết 10 đã dẫn đến việc chia nhỏ quỹ đất ở nông thôn mâu thuẫn với yêu cầu tích tụ và tập trung ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá. Trung bình mỗi hộ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nhận 5 thửa ruộng ở trên các cánh đồng khác nhau, diện tích hẹp, rất khó khăn cho việc cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và

chuyên môn hoá. Những hộ nông dân nghèo không có vốn, ít kinh nghiệm sản xuất, ít lao động vẫn nhận "một suất ruộng bình quân" như các hộ khá có vốn, có kinh nghiệm sản xuất, nhiều lao động. Tiềm năng đất đai, vốn, kinh nghiêm và lao động của hai loại hộ đều lãng phí, độ đồng đều về năng suất cây trồng không cao.

Yêu cầu của sản xuất hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá nông thồn đòi hỏi sự tích tụ và tập trung ruộng đất vào những nông dân biết làm ăn giỏi để tăng năng suất và chất lượng nông sản. Thế nhưng đòi hỏi đó bị hạn chế bởi chính sách khoán bình quân và quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp ruộng đất chưa được thừa nhận.

Có thể nói, trong nghị quyết 10, quan hệ ruộng đất mới ở trạng thái tĩnh, chưa phản ánh bước phát triển và vận động của quan hệ ruộng đất theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp, phân công lao động trong nông thôn. Nó thể hiện quản lý Nhà nước chủ yếu về mặt pháp lý hành chính, chưa thể hiện đầy đủ quản lý Nhà nước vể mặt kinh tế đối với quan hê đất đai, làm cho người nông dân chưa thực sự an tâm bỏ vốn, công sức đầu tư phát triển sản xuất.

51

- Mâu thuẫn giữa yêu cầu của sản xuất hàng hoá với cơ sở hạ tầng nông

thôn thấp kém. Một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá nhất thiết phải gắn chặt với thị trường trong và ngoài nước. Song muốn gắn bó với thị trường thì yêu cầu trước hết là phải có công nghiệp chế biến, có dịch vụ cung ứng và tiêu thụ sản phẩm, muốn có các yếu tố đó tất yếu phải có điện, đường giao thông, trang trại sản xuất và dịch vụ, chợ, hệ thống thông tin liên lạc, ở nông thôn thích ứng với cơ chế thị trường. Thế nhưng, sau khi khoán đất đến hộ, mỗi hộ

chỉ lo điều hành trên đất khoán, ít quan tâm đến cái chung, trong khi đó các hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sau khi khoán hết đất, cũng mất thực quyền điều hành sản xuất, nên không quan tâm đến cơ sở hạ tầng nông thôn. Từ đó, sau " khoán 10" một thực trạng đáng lo ngại là hệ thống trạm điện, đường giao thông, trạm trại nghiên cứu, chợ, trường học, trạm xá xã.. . không được hợp tác xã quan tâm như trước nên bị xuống cấp.

Mâu thuẫn trên càng tăng khi vốn đầu tư của Nhà nước từ ngân sách và quỹ tập thể của hợp tác xã nông nghiệp cho nông thôn và nông nghiệp giảm cả về số lượng tuyệt đối và tương đối.

- Mâu thuẫn giữa phát triển sản xuất và sự kém phát triển của ngành

công nghiệp chế biến. Nông nghiệp đã có một sự phát triển vượt bậc, nhưng công nghiệp chế biến lại không tăng tương ứng, tình trạng sản phẩm nông nghiộp hầu hết đều sử dụng ở dạng sơ chế. Sản phẩm hư hao tăng, giá trị giảm, nhất là sản phẩm tươi sống. Tỷ lệ sản phẩm hao hụt trong và sau thu hoạch tăng. Giá cả của các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường Quốc tế đều bị thua kém: giá gạo xuất khẩu của Viêt Nam chênh lêch với giá gạo xuất khẩu của

Thái Lan lên tới 100 USD/tấn( loại có chất lượng cao) và 40-50USD/ tấn (loại có chất lượng thấp) [40 (28)]. Chè của nước ta năm 1989 xuất khẩu sang Hồng Kông, Xinggapor chỉ bán được 800USD/tấn, trong khi đó giá chè bình quân trên Thế Giới là 2.500USD/ tấn [20 (37)].

Do tác động của các mâu thuẫn nói trên, sau Nghị quyết 10, kinh tế nông nghiệp và nông thôn tuy bắt đầu phát triển nhưng không ổn định. Tất cả

52

T h ờ i kỳ ỉ 993 đ ến nay:

những mâu thuẫn trên đã đặt cho nông nghiệp những vẫn đề cần phải giải quyết để đảm bảo phát huy quyền tự chủ của các hộ gia đình - lực lượng kinh tế chủ yếu trong nông nghiệp, nông thôn.

-Về chính sách:

Nghị quyết 5 (khoá VII) của Trung ương với nội dung tiếp tục đổi mới

và phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Hội nghị đã bàn và quyết định những vấn đề cơ bản của chiến lược phát triển nông nghiệp Việt nam đến năm 2000 theo hướng đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Hội nghị nêu ra những phương hướng và giải pháp cụ thể: đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp; cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn; kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân. Trong những giải pháp trên, giải pháp giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và mở rộng quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân đã trở thành động lực chính thúc đẩy các hộ gia đình sản xuất có hiệu quả hơn.

Nghị quyết 5 là một bước phát triển và hoàn thiện của nghị quyết 10

nhằm tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp

Nhờ có Nghị quyết 5 (khoá 7) cùng nhiều chính sách khác: nghị định 64/CP vé giao đất nông nghiệp cho hộ, nghị định 14/CP về cho hộ vay vốn sản xuất, nghị định 13/CP về khuyến nông, nghị định 73/CP về phân hạng đất, tính thuế sử dụng đất, đã đổi mới một cách cơ bản quan hệ ruộng đất, quan hệ quản lý và tổ chức sản xuất ở nông thôn.

- Quan hệ sở hữu:

Hộ nông dân được nhận ruộng đất ổn định, lâu dài và hưởng 5 quyền gắn với ruộng đất, đó là: quyền sử dụng, quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế và quyển thế chấp.

- Quan hộ quản lý:

53

Hợp tác xã từ chỗ chỉ đạo, điều hành trực tiếp kế hoạch sản xuất chuyển

sang hướng dẫn sản xuất, làm dịch vụ cho hộ xã viên.

- Tổ chức sản xuất:

Hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ. Hộ nông dân tự bố trí sản xuất kinh doanh, tự do lao động, mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản phẩm theo giá thị trường. Xã viên chỉ có nghĩa vụ nộp thuế, thuỷ lọi phí và thanh toán các chi phí dịch vụ cho hợp tác xã.

Cơ chế mới thông thoáng hơn đã phát huy được tính năng động tự chủ trong việc xác định mục đích sản xuất, kinh doanh của các hộ xã viên, tạo ra động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Cụ thể:

So với thời kỳ 1989 - 1992, sản lượng lương thực quy thóc, lương thực

Bảng 3: Các chỉ tiêu s ả n xuất lương thực thời k ỳ Ị 9 9 3 - 1995

bình quân nhân khẩu, gạo xuất khẩu đều tăng qua các năm.

BQ 93-95 so với

Bình quản

Chỉ tiêu

1993

1994

1995

1993-1995

BQ 89-92(%)

Nguồn: [7 (47)]

1. Tổng sản lượng lương thực quy thóc (triệu tấn)

110

26,4 25,5 26,2 27,5 118,9

2. LTBQ nhân khẩu/năm (kg) 363 359 361 370

3. Gạo xuất khẩu (triệu tấn) 2,2 1,73 2,00 1,97 131

Qua bảng trên chúng ta thấy, tốc độ tăng lương thực sau Nghị quyết 5 trên cả nước là đáng phấh khởi. Điều đáng chú ý là không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng lương thực nói chung, thóc gạo nói riêng đã nâng cao theo nhu cầu thị trường. Thóc gạo có chất lượng cao, kể cả gạo thơm, gạo đặc sản tăng cả số iượng tuyệt đối và tỷ trọng. Những năm trước 1992, tỷ lệ gạo xuất khẩu

54

loại 35% tấm là chủ yếu; từ năm 1993 đến nay, gạo xuất khẩu chủ yếu là loại gạo 5% tấm, hạt dài, không bạc bụng. Do vậy, giá gạo tăng từ 170 USD/ tấn lên 200 USD/ tấn [36 (9)]. Năng suất lúa cũng tăng. Thời kỳ này tốc độ tăng của sản lượng lương thực nhanh hơn tốc độ tăng dân số, lương thực bình quân đầu người trong ba năm 1993 - 1995 đã đạt trên 350 kg/nãm.

Ở Việt nam, đây là mức an toàn lương thực cao, bởi vì tính bình quân

đầu người chỉ cần 300kg/năm là đủ cho tiêu dùng trong nước. Thực tế, những

năm vừa qua, nước ta từ chỗ phải nhập khẩu lương thực thì từ năm 1993 đến 1995, mỗi năm chúng ta xuất khẩu từ 1,7 đến trên 2 triệu tấn gạo, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ tư trên thế giới, nạn đói giáp hạt đã bị loại trừ. Sự ổn định của tình hình lương thực do quá trình thâm canh, tăng vụ và chuyển vụ tạo nên.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá - hiộn đại hoá. về cơ cấu nghành: Trong cơ cấu giá trị tổng sản phẩm xã hội, tỷ trọng của nông nghiệp đã giảm xuống. Nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng lên từ 16.252 tỷ đồng lên 61.387 tỷ đồng trong thời gian này [30 (57)]. Đây là xu hướng chung của các nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong khi giá trị sản lượng nông nghiệp theo con số tuyệt đối tăng lên thì cơ cấu tỷ lệ giá trị sản lượng trồng trọt đã bắt đầu giảm từ 75% (1989) xuống còn 73% (1995) và tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 25% lên 27%, tốc độ tăng trưởng của chăn nuôi hơn trồng trọt [7

(58)].

Ngay trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi bước đầu đã có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tăng thu nhập. Trong ngành trồng trọt: Tinh hình sản xuất các loại cây màu, lương thực cũng như cây ăn quả, cây công nghiệp cũng có xu hướng tăng trong thời kỳ này: Năm 1993, diện tích gieo trồng rau đậu chiếm 4,6% trong cơ cấu diện tích gieo trồng, năm 1994 tăng lên 4,7%, cây công nghiệp dài ngày tăng tương ứng là 7,2 và 7,4 [11 (58)]. Trong chăn nuôi các hộ gia đình đã đổi mới đàn gia súc, chuyển sang

55

*

chăn nuôi các giống vật nuôi đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng bữa ăn của nhân dân. Phong trào nuôi bò sữa, chăn nuôi dê phát triển ở ngoại thành Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh. Trong chăn nuôi lợn, tỷ lệ thịt lợn nạc đã được chú ý để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đã bắt đầu phát huy thế mạnh của các vùng kinh tế, hình thành nên một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với

thị trường trong nước và xuất khẩu như lúa gạo ở đồng bằng Sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, chè ở miền núi và trung du Bắc Bộ, lạc ở Tây Ninh, Nghệ An, Long An, mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá), Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Đồng Nai, Tây Ninh, Long An, Bến Tre, Sóc Trăng; các vùng trồng lúa không hiệu quả, hộ nông dân chuyển sang trồng cây ăn quả có giá trị và cho thu nhập cao như vải thiều ở Hải Hưng, Lục Ngạn (Hà Bắc), Đông Triều (Quảng Ninh), nhãn, xoài, chôm chôm ở miền Nam... phát triển kinh tế vùng sẽ tạo điều kiện và tập trung sức phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa bàn, từng sản phẩm và mặt hàng, tạo ra những động lực để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng cao chất lượng hàng hoá để đủ sức cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh từng phần thị trường thế giới, tiến tới sản xuất khối lượng sản phẩm lớn để xuất khẩu. Ngoài ra, công nghiộp chế biến thực phẩm tăng gấp 1,9 lần. Các ngành dịch vụ ở nông thôn năm 1995 tăng 80% so với năm 1990 (bình quân hàng năm tăng 12%)...

Bẽn cạnh những thành tựu và tiến bộ trên đây, tình hình nông nghiệp và

nông thôn sau nghị quyết Trung ương 5 vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại và yếu kém:

Trước hết đó là giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân với 5 quyền được luật đất đai sửa đổi năm 1993, việc thừa nhận thực hiện quá chậm. Đến năm 1995 cả nước mới có 31% số hộ nông dân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý sản xuất nông nghiệp từ tập thể hoá hoàn toàn sang kinh tế hộ nông dân tự chủ làm cho kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ chỗ trì trộ, sản xuất không đủ tiêu dùng đến

thời điểm năm 1995 đã đảm bảo an toàn lương thực và liên tục mấy năm liền

56

có gạo xuất khẩu. Thành tựu đạt được trong thời kỳ 1993 - 1995 cho thấy

nông nghiệp Việt Nam đã bắt đầu hình thành nền nông nghiệp hàng hoá. Như vậy, bước chuyển đổi này hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan và hợp với lòng người. Vì thế, việc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân theo nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) cần thực hiện nhanh hơn bởi sẽ xuất hiện nhiều hơn những hộ nông dân làm ăn giỏi trong cơ chế mới, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển. Việc chậm trễ cấp giấy chứng

nhận quyển sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân đang làm xuất hiện những khó khăn và mâu thuẫn mới trong quá trình thực hiện luật đất đai sửa đổi năm 1993, càng làm chậm quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất theo hướng" ai giỏi nghề gì làm nghề đó" của nghị quyết 10.

Mặt khác, cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có chuyển biến nhưng rất chậm và không đểu; đến nay phần lớn số hộ nông dân vẫn dựa vào nguồn thu nhập chính là nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông thôn tuy có chuyển biến nhưng mang tính chất tự phát.

Cùng với sự phát triển sản xuất nông nghiệp, xu hướng phân cực giàu

nghèo trong nông thôn càng rõ nét hơn.

Tóm lại , bên cạnh những thành tựu mới, đã xuất hiện những thử thách và mâu thuẫn mới đang kìm hãm xu hướng và nhịp độ tăng trưởng của nông nghiệp. Vì vậy, để tiếp tục đưa nông nghiệp Việt Nam theo quỹ đạo sản xuất hàng hoá, tăng trưởng ổn định, cần tiếp tục quá trình đổi mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 (6/1996) đã tổng kết 10 năm đổi

mới toàn diện và 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội 7, Đảng ta đã khẳng định: "Đất nước ta đã vượt qua giai đoạn thử thách gay go, trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên đặt những thắng lợi trên nhiều mặt". Một trong những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng là việc chuẩn bị "tiêu đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang 1 thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước". Từ đây, việc phát triển nông nghiệp hàng hoá phải gắn

57

với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đại hôi đã đề ra mục

tiêu, giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá bằng những nhiệm vụ cụ thể:

- Tăng nhanh sản lượng hàng hoá ở những vùng có năng suất và hiộu

quả cao.

- Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu

quả kinh tế cao; hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ.

- Phát triển vùng chăn nuôi tập trung gắn vói công nghiệp chế biến thực

phẩm.

- Phát triển mạnh các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư

nông nghiệp.

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8, với đường lối đổi mới, phát triổn nông nghiệp hàng hoá ở nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.

So với năm 1995, năm 1999 sản lượng lúa tăng 24,5%, riêng lúa hàng hoá tăng 50%, sản lượng gạo xuất khẩu tăng gấp 2,2 lần; Sản lượng cà phê tăng 75,4%, cà phê xuất khẩu tăng 62,5%; Sản lượng cao su tăng 44,3%, xuất khẩu tăng 37,5%; Sản lượng lạc tăng 10,8%; sản lượng thịt lợn tăng 26,7%ũ

Nông sản có chất lượng cao ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng nông sản hàng hoá sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt là lúa gạo. Vì

vậy, phẩm cấp gạo xuất khẩu có nhiều tiến bộ, tỷ lệ gạo phẩm cấp cao (thơm, hạt dài, ít gẫy) hiện nay chiếm trên 70% so với 30% thời kỳ 1990 - 1995. Do vậy, giá gạo xuất khẩu cũng tăng dần từ 200 USD/ tấn trước đây lên khoảng 250ƯSD/tấn những năm gần đây (loại 5% tấm), khoảng cách về giá gạo xuất khẩu Việt Nam với gạo Thái Lan giảm dần từ 40 -50USD/ tấn xuống còn 20 - 25 USD/tấn . Đến nay thị trường gạo Viột Nam ngày càng mở rộng và đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới.

58

Không chỉ lúa gạo mà các nông sản phẩm hàng hoá khác trong những năm qua cũng có nhiều tiến bộ về đa dạng hoá nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh. Xu hướng coi trọng năng suất, sản lượng xem nhẹ chất lượng và giá cả đã giảm dần đối với người sản xuất.

Trong chăn nuôi, hộ nông dân quan tâm nhiều đến vấn để chất lượng và giá cả để tăng hiệu quả. Ví dụ: trong chăn nuôi lợn, xu hướng chung trong những năm gần đây là quan tâm cả hai mặt tăng trọng lượng xuất chuồng và

tăng tỷ lệ nạc trong đàn lợn thịt để tăng giá trị, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Phương thức nuôi lợn "hướng nạc" đã và đang chi phối, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu đàn lợn thịt cũng như các dịch vụ cung ứng giống, thức ăn, thú y.

Trong sản xuất nông nghiệp đã hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến, vận chuyển và tiêu thụ theo nguyên tắc đất nào, cây ấy ... để phát huy thế mạnh và tiềm nãng đất đai, khí hậu, nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá với chất lượng cao như: lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, cây ăn quả ở Đông nam Bộ và miển núi phía Bắc, mía ở Duyên hải miển Trung và Đồng bằng sông Cửu Long, bò sữa ở ngoại ô thành phố Hồ chí Minh và Hà Nội. Đáng chú ý là đã có một số sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như: Cà phê, cao su, hạt điều. Sản lượng cà phê nhân của cả nước năm 1988 mới có 3,13 ngàn tấn đến năm 1996 đã lên tới 320 ngàn tấn và năm 1999 đạt 509 ngàn tấn. Chất lượng và giá cả cà phê Việt Nam hiện nay không còn khoảng cách quá xa so với cà phê Braxin, In đônêsia... Cùng với cà phê, cao su tự nhiên 10 năm qua đã có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích và sản lượng. Năm 1987 cả nước mới có 203 ngàn ha với sản lượng 51,7 ngàn tấn thì năm 1999 lên tới 300 ngàn ha với sản lượng 205 ngàn tấn, trong đó chủ yếu dành cho xuất khẩu. Trên các vùng chuyên canh tập trung đã hình thành mô hình trang trại sản xuất lớn, kỹ thuật

59

hiện đại hơn, gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu, tạo những tiển đề cơ bản

để phát triển nông nghiệp hàng hoá gắn với thị trường xuất khẩu [8 (6,7)].

2.2.2.

Thành tựu của quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá ở

Việt nam trong thời kỳ đổi mới:

Nông nghiệp Việt Nam từ khi đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, đã đạt được những thành tựu có thể nói là vô cùng

to lớn nếu so sánh với giai đoạn trước đổi mới. Từ năm 1989 đến nay, đã xuất khẩu hơn 30 triệu tấn gạo ra thế giới, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan), thu về lượng ngoại tệ ngày càng lớn cho đất nước. Những thành tựu đó có được là nhò những thay đổi thể chế của Nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế cũng như trong lĩnh vực nông nghiệp. Trên tầm vĩ mô việc quyết định chuyển nền kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đao

kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, việc thừa nhận sự tồn tại và bình đẳng của các thành phần kinh tế, việc tự do lưu thông hàng hoá, thực hiện cơ chế một giá... đã từng bước giải phóng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Những chính sách của Nhà nước tác động vào nông nghiệp trong thòi gian này đã từng bước khơi dậy nguồn lực nội tại của các hộ nông dân. Đặc biệt là Nghị quyết 10, Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI về việc thừa nhận hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VII), luật đất đai năm 1993 về việc thừa nhận năm quyền sử dụng đất đai của hộ gia đình. Sự biến đổi về quan hệ ruộng đất được quy định trong luật đất đai và các văn bản dưói luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bước đầu tạo tiền để cho viộc xác lập ruộng đất là một yếu tố quan trọng vận động theo quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá. Những thể chế mới trong quá trình tạo lập đã "cởi trói" cho hàng chục triệu hộ nông dân khỏi sự ràng buộc của cơ chế quản lý, kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, tập thể hoá tràn lan; loại bỏ vành đai thể chế

cũ trói buộc sự phát triển của nông nghiệp. Ở bình diện vi mô, do được khẳng

định là các đơn vị tự chủ, các hộ nông dân đã từng bước đầu tư nâng cao hiệu

60

quả sản xuất, kinh doanh, từ tự cấp, tự túc dần chuyển sang sản xuất hàng hoá.

Việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ nông dân và xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã giải phóng sức sản xuất, khơi dậy tính năng động, tự chủ của hộ nông dân, hình thành nên những chủ thể kinh tế độc lập, chủ động có mục đích từ trước cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế độc lập đã hình thành nên các mô hình kinh tế như mô hình kinh tế hô gia đình, mô hình kinh

tế trang trại, tạo ra khối lượng lớn hàng hoá nông nghiệp. Như vậy, mô hình kinh tế hộ đã thay thế cho mô hình kinh tế tập thể trước đây. Chính quá trình tư nhân hoá này đã đem lại sự hồi sinh cho nông nghiệp, tạo ra sự tăng trưởng liên tục và ổn định của nông nghiệp trong những năm gần đây, hơn nữa đưa nông nghiộp Việt Nam phát triển đến một nền nông nghiệp hàng hoá.

Có thể khái quát một số thành tựu phát triển nông nghiệp hàng hoá như

sau:

+ Nét nổi bật là sản lượng lương thực luôn tăng trên dưới 1 triệu tấn/năm. Mỗi năm, tốc độ tăng sản lượng lương thực (5%) cao hơn tốc độ tăng

dân số (1,8%).

Trong lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh cả vể diện tích, năng suất và sản lượng. Nếu năm 1990 cả nước mới gieo cấy 6,0 triệu ha thì năm 1999 đã tăng lên trên 7,65 triệu ha do khai hoang và tăng vụ. Trình độ thâm canh lúa của nông dân tăng lên cùng với tác động tích cực của khoa học kỹ thuật, nhất là giống lúa mới đã tạo ra phát triển ổn định về năng suất lúa từ 32,0 tạ/ha năm 1990 lên 39 tạ/ha năm 1998; 41 tạ/ha năm 1999. Bình quân 10 năm năng suất lúa tăng gần 1 tạ/ha [9 (27)]. Tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng lúa của Việt Nam, đưa nưóc ta trở thành nước sản xuất lúa gạo phát triển nhanh và ổn định nhất so với các nước khác trong khu vực Đông

Nam Á (ASEAN). Thị trưòng và giá cả lúa gạo trong nước ổn định, lương

6 1

thực đã có dự trữ, an toàn lương thực được bảo đảm, tình trạng đói giáp hạt trên diộn rộng của những năm trước đây đã đẩy lùi và là một trong 3 cường

4).

quốc xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay (xem bảng

Bảng 4:

Sản xuất lương thực

Nguồn: [91, [31]

1997

1998

2000

ĐVT

1990

1995

1996

1999

Triộu tấn

21,5

27,6

30,6

31,4

34,3

35,5

SL LT quy thóc

29

324,4

390,0

400

447

455

BQLT/người

372,8

382,0

Kg

Xuất khẩu gạo

Triệu tấn

20,5

3,04

3,60

3,7

4,6

4

1,62

-

-

-

-

-

Nhập khẩu gạo

Triệu tấn

-

0,02

Ngoài việc tăng nhanh sản lượng, chúng ta đã quan tâm đến nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm với nhiểu giống mới đáp ứng với nhu cầu của thị trưòng trong và ngoài nước. Chất lượng gạo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đã không ngừng tăng lên, cho nên giá gạo xuất khẩu của Viột nam ngày càng được cải thiện hơn, được giá hơn, khoảng cách giữa giá gạo xuất khẩu của Việt nam và Thái lan được thu ngắn. Nếu như 6 tháng đầu năm 2000, khoảng cách này là 20-25USD/tấn thì 6 tháng cuối năm xuất khẩu của Thái lan chỉ hon gạo Việt nam 10-15USD/tấn đối với cùng loại gạo. Có một số thời điểm giá gạo xuất khẩu cùng loại của Việt Nam đã ngang giá gạo xuất khẩu của Thái Lan. Thị trưòng trong nước không ngừng ổn định mà còn phong phú, đa dạng về chủng loại, khắc phục tính đơn điệu và nghèo nàn của những năm trước đó.

+ Cơ cấu hàng xuất khẩu có chế biến từ 49% năm 1991 đã nâng lên 70% năm 1995 và giá trị hàng xuất nguyên liệu thô đã giảm từ 92% năm 1991 xuống còn 72% năm 1995. Xuất khẩu những mặt hàng nông nghiệp đã tăng về số lượng và tăng cả về chất lượng. Do đó, kim nghạch xuất khẩu hàng nồng nghiệp nhìn chung hàng năm đều tăng lên, góp phần quan trọng tạo ra nguồn ngoại tẹ mạnh (xem bảng).

62

Bảng 5:

Xuất khẩu hàng nông nghiệp. Nguồn /23(416)1

ĐVT

1997

1995

1998

1996

7256

9360

Tr USD

5449

9185

£ kim nghạch xuất khẩu

Hàng nông nghiệp

1746

2160

2231

2274

Tr USD

Tỳ trọng

30

24

%

32

24

Nếu tính cân đối xuất nhập khẩu riêng trong ngành nông nghiệp từ sau

đổi mới đến nay thì nước ta luôn đạt được kết quả xuất siêu.

+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã và đang chuyển dịch theo hướng sản

xuất hàng hoá.

Nhờ giải quyết được vấn đề lương thực (tăng diện tích, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, tăng tỷ suất hàng hoá, bảo đảm an toàn lương thực

xã hội) đã tạo cơ sở bước đầu để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá: đa dạng hoá cây trồng và vật nuôi, phát triển kinh doanh tổng họp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và các trang trại làm kinh tế nông nghiộp,...

Sản xuất lương thực đã phát triển theo hai hướng: mở rộng diện tích gieo trổng lúa bằng tăng vụ, chuyển vụ, khai hoang phục hoá và đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa. Mặt khác để đáp ứng nhu cầu của thị trường; nâng cao hiệu quả sản xuất trên mỗi đơn vị diện tích và đầu con gia súc, gia cầm thì ở các vùng của cả nước đã thực hiện đa dạng hoá sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Vì vậy, những năm qua xuất phát từ tiềm năng, thế mạnh và dựa vào nhu cầu thị trường để chủ động bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp, làm cho các vùng tập trung chuyên canh cây, con ngày càng được mở rộng. Sản phẩm ngoài lúa gạo, có cà phê, cao su, chè, cây điều, rau, hoa quả, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm, hải sản..., tạo điểu kiộn hình thành các cơ sở chế biến nông sản, thực phẩm hàng hoá ở nông thôn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá tạo nên sự đa dạng của các hình thức sản xuất kinh doanh như: kinh doanh nông nghiệp mở rộng bao gồm: Nông - lâm - ngư

63

nghiệp; kinh doanh công nghiệp ở nông thôn bao gồm: công nghiệp nhỏ phục

vụ nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp chế biến; kinh doanh dịch vụ bao gồm: việc cung cấp tư liệu sản xuất, hàng hoá tiêu dùng và nông sản thực phẩm, đảm bảo "đầu vào", "đầu ra" cho sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp bước đầu đã chuyển biến theo hướng đa

ngành, đa canh, phát triển kinh doanh tổng hợp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hưóng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP.

Các vùng sản xuất hàng hoá tập trung đã hình thành, nhằm khai thác ưu thế hệ sinh thái từng vùng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao hiệu qủa, gắn việc bảo đảm nhu cầu trong nước với viêc nâng cao tỷ trọng xuất khẩu nông phẩm theo thế mạnh của từng vùng, tham gia ngày càng nhiều vào thị trường khu vực và thị trưòng thế giới. Cụ thể các vùng lúa gạo ở đồng bằng sông Cửa Long, cà phê ở Tây Nguyên..., những vùng sản xuất tập trung này đã tạo ra phần lớn nông sản hàng hoá cho đất nước: 70% lúa gạo hàng hoá, 90% gạo xuất khẩu được sản xuất tại đồng bằng sông Cửu Long; 80%

sản lượng cà phê được sản xuất ở Tây Nguyên; 85% sản lượng cao su sản xuất và xuất khẩu là của vùng Đông Nam Bộ [7(58)]. Nét mới trong sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là trong các vùng sản xuất hàng hoá tập trung đã hình thành một số trang trại chuyên môn hoá hoặc kinh doanh tổng hợp với mục tiêu sản xuất hàng hoá gắn với thị trường có quy mô lớn.

Một bộ phận ngày càng nhiều các hộ nông dân đã sáng tạo, khắc phục khó khăn, tích luỹ vốn, đầu tư phát triển sản xuất, quan hệ, hợp tác kinh tế với nhau để cùng vươn lên sản xuất nông sản hàng hoá với các mức độ khác nhau, trong các ngành nông, lâm ngư nghiệp, ở các vùng kinh tế khác nhau với các quy mô từ nhỏ đến lớn. Cho nên đã xuất hiện một số mô hình sản xuất hàng hoá: Mô hình kinh tế trang trại, mô hình liên kết kinh tế giữa Nhà nước với hộ nông dân có sản phẩm nông nghiệp hàng hoá, mô hình sản xuất lúa nông

64

nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, mô hình phát triển nông nghiệp hàng

hoá truyền thống. Cùng với việc đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào cuộc sống, các mô hình kinh tế nông nghiệp hàng hoá nêu trên ngày càng phát triển, giá trị sản lượng hàng hoá ở những mô hình này ngày càng cao.

Cơ cấu kinh tế nông thôn bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông nghiệp có xu hưóng giảm xuống. Tỷ trọng các ngành công nghiộp

và tiểu thủ công nghiộp trong GDP nông thôn tăng từ 9,8% năm 1990 lên 16,1% nãm 1999. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP nông thôn tăng từ 10,2% năm 1990 lên 13,7% năm 1999 [26(9)]. Do đó, đã giản đần dần tình trạng thuần nông, tăng dần các ngành nghề, dịch vụ ờ nông thôn, làng nghề truyền thống được phục hồi và mở rộng, đồng thời phát triển thêm nghề mới làm cho cơ cấu lao động ở nông thôn cũng đang chuyển từ lao động nông

nghiệp sang iao động chuyên làm ngành nghề dịch vụ, phi nông nghiệp.

Sô' liệu điều tra 5 tỉnh năm 1990 và số liệu tổng điều tra nông nghiệp - nông thôn tháng 7/1994 cho thấy: Tổng số hộ nông dân năm 1990 là 100 trong đó hộ nông nghiệp 97,3, hộ phi nông nghiệp 2,7; năm 1994 tổng số hộ là 100 thì hộ nông nghiộp 80,6 (giảm 0,17%) và hộ phi nông nghiệp là 19,4

(tăng 16,3%).

Tuy nhiên, sự chuyển dịch này giữa các vùng rất khác nhau, vùng Đông Nam Bộ có tỷ trọng lao động phi nông nghiệp cao nhất (49%) và cũng là vùng có công nghiệp và dịch vụ phát triển. Ngược lại các vùng đổng bằng sông Hổng, miển núi trung du Bắc Bộ, có tỷ trọng lao động phi nông nghiệp thấp nhất vào khoảng 7-8%.

Như vậy, sự phân công lại lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thồn không những thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành trồng trọt, chăn nuôi mà còn tạo ra nhiều ngành nghề và các hoạt động dịch vụ khác cũng phát triển.

65

+ Cơ cấu thu nhập của các hộ ở nông thôn đã có các sự thay đổi . năm

1990 tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chiếm 59,7%, đến năm 1994 chỉ còn 56,2%, phần còn lại là thu nhập từ nguồn phi sản xuất nông nghiệp.

+ Công nghiệp chế biến nông sản đã bước đầu tạo được sự gắn kết giữa

vùng sản xuất nguyên liệu với cơ sở bảo quản chế biến và thị trường.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp ngày càng được tăng cường

tạo tiền đề quan trọng cho liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh.

Những thành tựu cụ thể về nông nghiệp.

+ Sản xuất lương thực: giai đoạn 1991 - 1996, sản lượng tăng 4,8% năm, mỗi năm khoảng 1 triệu tấn. Năm 1997, đạt 30,6 triệu tấn lương thực, năm 1998 là 31,5, năm 1999 là 34,3, năm 2000 là 35,5. Xuất khẩu lương thực với khối lượng mỗi năm một tăng. Trong đó gạo xuất khẩu ( triệu tân ): 1990: 1,6; 1991: 1,03; 1992: 1,95; 1994: 1,93; 1995: 2,10; 1996: 3,05; 1997: 3,6; 1998: 3,7; 1999:4,6; 2000:4 [26(8)].

+ Sản xuất thực phẩm: Lương thực dồi dào, ngành chăn nuôi gia súc và gia cầm phát triển nhanh và bắt đầu sản xuất hàng hoá. Bình quân 10 năm

1990 - 1998, so với bình quân 5 năm trước đó: đàn trâu tăng 5%, đàn bò táng 10%, đàn lợn tăng 20%, đàn gia cầm tăng 25%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 25%, sản lượng trứng tăng 33% [9(31)]. Sản lượng thịt tăng nhưng do chất lượng nên chưa có khả năng cạnh tranh để xuất khẩu trên thị trường quốc tế mà mới chỉ tiêu thụ ở thị trường nội địa.

+ Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, đậu có nhiều khởi sắc. Trong trổng trọt, thực hiện phương châm "đất nào, cây ấy" để tăng hiệu quả, chuyển dần những diện tích trước đây trồng lúa, mầu năng suất và hiệu quả thấp sang trồng cây công nghiệp hoặc cây ăn quả có lợi hơn.

6 6

Từ năm 1990 trở lại đây diện tích cà phê tăng gấp đôi từ 120 nghìn ha với sản lượng 92 ngàn tấn (năm 1990) lên 240 nghìn ha (năm 1995) và sản lượng 360 ngàn tấn. Năng suất cà phê bình quân trên diện tích đưa vào kinh

doanh ở nước ta đạt 20 tạ/ha, gấp 4 lần năng suất bình quân trên thế giới. Năm 1997 đạt 400 nghìn tấn. Năm 1990 xuất khẩu 90 nghìn tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 92 triệu USD. Năm 1995 xuất 248 nghìn tấn đạt kim ngạch xuất khẩu 600 triệu USD vượt giá trị xuất khẩu gạo cùng năm do giá cà phê lên cao. Năm 1997 xuất khẩu 400 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu 490 triệu USD, trở thành một nước xuất khẩu cà phê đứng thứ nhất Châu á và đứng thứ tư trên thế giới. Năm 1999, xuất khẩu 487 nghìn tấn, đạt giá trị trên 600 triệu USD.

Đến nay, cà phê hạt nước ta đã xuất khẩu đi 49 nước trên thế giới [9]. Cà phê trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn thứ 2 sau gạo.

Cao su có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, vì cao su xuất khẩu đạt giá trị cao và rừng cao su góp phần quan trọng cải thiện môi trường. Tính đến năm 1997 diện tích cao su đã đạt 310 ngàn ha tăng gấp 4 lần so với năm 1976. Năm 1998, sản lượng cao su (mủ khô) đạt 199 ngàn tấn; năm 1999 là 205 ngàn tấn; năm 2000 là trên 250 ngàn tán. Cao su là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn thứ 3 sau gạo và cà phê. Sản lượng cao su xuất khẩu

năm 1998 đạt 195 ngàn tấn; 1999 là 203 ngàn tấn; năm 2000 khoảng 200 ngàn tấn. Thị trường xuất khẩu cao su Viột Nam đã mở rộng ra 30 nước, trong đó Trung Quốc là thị trường lớn nhất [10(28)].

Những thành tựu cụ thể cho thấy, nông dân nước ta đã ý thức được sự phát triển của nông nghiệp hàng hoá và từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá. Nhiều vùng nông thôn nước ta có thu nhập và đời sống đã được cải thiện, điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh ở nhiều nơi đã tốt hơn.

Trong 10 năm 1990 - 2000 thu nhập ờ nông thôn tăng dần. Năm 1999 đạt 225 nghìn đồng/khẩu/tháng tăng 1,06 lần so với năm 1998; 1,19 lần so với năm 1996; 1,33 lần so với năm 1995; 10,7 lần so với năm 1989 là những năm đầu đổi mới. Số hộ giầu tăng lên, số hộ nghèo giảm xuống cả về số lượng và tỷ trọng. Tỷ lệ hộ nghèo ờ nông thôn năm 1999 chỉ còn 15,96% so với 17,7% năm 1996 và 30 % năm 1989. Tỷ lệ hộ giầu năm 1999 lên tới trên 10% so với 3% năm 1989 [9 Ị.

67

Tóm lại, những thành tựu đạt được về sản xuất nông nghiệp trong thòi kỳ

đổi mới đã đánh dấu sự sang trang từ tự cấp, tự túc đến sản xuất hàng hoá. Nguồn ngoại tộ thu được từ xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp những năm qua chiếm tỷ trọng từ 25% - 32% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Còn nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản thì chiếm tỷ trọng từ 45% - 47% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước [38(229)]. Điều đó có ý nghĩa là giá trị xuất khẩu hàng nông nghiệp thu được là phần dư ra sau khi đã thoả mãn mọi nhu

cầu tiêu dùng trong nước trong điều kiện then tiết không thuận lợi. Chính những thành tựu đó đã đảm bảo vững chắc cho đất nước an toàn lương thực, thực phẩm, góp phần quan trọng trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiộn đại hoá nông nghiệp và nông thôn, thể hiện tốt vai ưò của việc phát triển nông nghiệp hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá còn nhiều vấn đề nảy sinh cẩn đặt ra nghiên cứu giải quyết.

2.3. Những vấn đề đang đặt ra:

2.3.1.

Theo tiêu chí nền nông nghiệp hàng hoá thì nông nghiệp Việt

Nam hiện nay đạt mức độ nào?

Qua phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá thời kỳ bắt đầu đổi mới đến nay cho thấy, trên phạm vi cả nước, sản xuất nông nghiệp hàng hoá mới đang ở bước hình thành. Tuy đã có một số địa bàn nông thôn có lượng hàng hoá giao lưu dồi dào, sôi động hơn, có nhân tố của nền sản xuất hàng hoá lớn, hiện đại, đó là các vùng ven đô thị, noi đồng bằng trù phú, thuận lợi giao thông, nơi tập trung diện tích một số cây công nghiệp rau quả và đặc sản có giá trị cao. Nhưng nói chung kinh tế nông thôn nước ta còn khá phổ biến là kinh tế tự túc, tự cấp. Tỷ suất hàng hoá thấp. Tỷ suất lương thực hàng hoá là:

-Năm 1981- 1985:22%

- Năm 1986- 1990: 27%

6 8

- Năm 1992 khoảng 30%

Chăn nuôi chưa phát triển. Sau 14 năm (từ 1986 - 1999), cơ cấu giữa trổng trọt và chăn nuôi vẫn xoay quanh tỷ lệ 4:1, do đó chưa xuất hiện môi trường chăn nuôi với tỷ suất hàng hoá cao.

Tổng giá trị nông sản xuất khẩu còn rất thấp. Theo sô' lượng thống kê năm 2000, vào năm 1998 nông nghiệp nước ta mới xuất khẩu gần 26% giá trị

sản xuất nông nghiệp. Như vậy, kinh tế nông nghiệp, nông thồn nước ta hiện nay về cơ bản sản xuất để tiêu thụ trong nước. Mặt khác, sản lượng nông sản hàng hoá còn rất thấp, nghĩa là sản xuất vẫn chủ yếu để tự cung, tự cấp.

Một vấn đề đặt ra là, vì sao phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nông

thôn nưóc ta còn diễn ra chậm ?

2.3.2.

Một số yếu tố đang cản trở quá trình phát triển nông nghiệp

hàng hoá ở Việt Nam:

2.32.1. V ề cơ cấu kinh t ế trong nông nghiệp:

Cho đến nay ngành nông - lâm nghiệp nước ta còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đang có chiều hướng vận động theo xu hướng tích cực nhưng tốc độ chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế còn rất chậm. Thể hiện trước hết ở hai nghành trổng trọt và chăn nuôi. Tuy số lượng tuyệt đối của mỗi nghành đều trưởng khá, nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn chưa được cải thiện theo yêu cầu của CNH - HĐH. Tỷ trọng nghành trồng trọt vẫn cao (73%), nghành chăn nuôi tuy có tăng về số lượng, chất lượng, song tỷ trọng ngành chăn nuôi vẫn rất thấp (27%), chăn nuôi chủ yếu để lấy sức kéo, phân bón, lấy thịt, hầu như chưa có sản phẩm chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá lớn.

Trong trồng trọt, chuyển dịch cơ câú cây trồng còn chậm, trồng trọt cây lương thực là chủ yếu. Phần lớn giá trị tổng sản phẩm cũng như thu nhập của nông dân đều từ sản xuất lương thực, trong đó chủ yếu từ sản xuất lúa. Chưa

69

mở rộng đầu tư phát triển đối với những cây trồng có giá trị kinh tế hàng hoá cao. Nhiều cây công nghiệp hàng năm và lâu năm, nhiều cây ăn quả, cây đặc sản đặc trưng cho thế mạnh của nền nông nghiệp nhiệt đới chưa được phát huy. Tỷ trọng cây công nghiệp và cây ăn quả trong tổng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt qua các năm tuy đã nâng lên nhưng còn ở mức thấp so với khả năng và yêu cầu của thị trường. Nếu so với mức bình quân của thế giới là 50%, các nước ASEAN là 40 - 70%, ấn Độ là 41 - 50% (năm 1986) thì tỷ lệ cây công nghiệp và cây ăn quả của ta còn quá thấp năm 1986 là 25,5%, năm 1999 là 29%. Quy mô sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả còn nhỏ, chưa đủ khả năng, tạo điều kiện cho sản phẩm có năng suất, khối lượng lớn, chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Những mặt hàng chủ chỉ lực về nông sản hàng hoá như cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, điều chiếm một tỷ lệ nhỏ lưu lượng trên thị trường thế giới. Riêng chè chỉ chiếm 7% của Trung Quốc, Xrilanca, ấn Độ. Tỷ trọng giá trị sản lượng cây công nghiệp chỉ mới khoảng 10% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, Inđônêsia 41%, Malaixia 90,2%, Philiphin 38%, Thái Lan thấp nhất là 23,7%. Đó là những nước có hình thái tự nhiên gần giống ta. Nếu nhìn tổng quát thì năm 1997 giá trị nông sản xuất khẩu của ta là 2231,4 triệu USD, 1998 là 2274,3 triệu USD, trong khi đó năm 1989, Malaixia đã đạt 4,6 tỷ USD và Thái Lan đạt 3,7 tỷ USD [19]. Sự chênh lệch trên là do kinh tế hàng hoá nông nghiệp còn mang nặng tính chất độc canh lương thực, mà chủ yếu là độc canh cây ỉúa, chưa phát huy được thế mạnh của nền nông nghiệp nhiệt đới có giá trị hàng hoá xuất khẩu cao.

Sự phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá chưa gắn với phát triển nông thôn. Với 90% đất đai tự nhiên, 80% dân số hơn 70% lực lượng lao động ở nông thôn. Kinh tế nông thôn không chỉ là nông - lâm - ngư nghiệp mà nó phải gắn với công - thương - tín, dịch vụ thì nông nghiệp hàng hoá mới có khả năng và tốc độ phá dỡ hàng rào khép kín, độc canh.

70

2.32.2. Về quy mô phân tán, manh mún:

Hiện nay ruộng đất đang là một thách thức lớn đối với lao động nông

nghiệp và nông thôn nước ta trên con đường phát triển nông nghiệp hàng hoá.

Quy mô ruộng đất của mỗi hộ nông dân quá nhỏ bé, phân tán, manh mún. Theo số liệu điều tra của Tổng Cục thống kê năm 1994, quỹ đất nông nghiệp bình quân hộ nông nghiệp cả nước đến nay chỉ còn 4984 m2, giảm hơn

so với năm 1989 là 1000 m2. Quy mô đất nông nghiệp bình quân cho các hộ nông nghiệp ở mỗi vùng có khác nhau. Vùng miền núi và vùng Trung du Bắc bộ: 4306 m2, vùng Đồng bằng sông Hồng: 2281 m2; khu bốn cũ: 3002 m2; Tây Nguyên: 7412 m2; Đông nam Bộ: 9169 m2. Đất nông nghiệp của,cả nước bình quân cho 1 nhân khẩu nông nghiệp chỉ còn 1034 m2, cho 1 lao động nông nghiệp chỉ còn 1983 rrr. Các vùng có mức bình quân thấp nhất với 2 chỉ tiêu trên là Đồng bằng sông Hồng: 556 m2 và 1048 m2; Khu bốn cũ: 631 m2 và 1294 m2.

Nếu phân loại quy mô đất nông nghiệp cho từng loại nhóm hộ nông dân, thì cả nước số hộ có trên 3 ha đất nông nghiệp, chiếm tỷ lộ 1,2% tổng số hộ; từ 1 đến dưới 3 ha, chiếm 10,5%; Từ 0,5 đến dưới 1 ha chiếm 16,2%; từ 0,2 đến dưới 0,5 ha chiếm 43,9%. Đặc biệt một loại hộ tuy có ruộng đất, nhưng rất ít (dưới 0,2 ha /hộ) chiếm 26,9% trong đó tỷ lệ cao nhất là đồng bằng sông Hồng 45,4%, khu bốn cũ 30,7%, Duyên hải miền trung 27,9%, Đổng bằng sông Cửu Long 6,15% [41 (23)].

Tinh hình trên cho thấy, nước ta là một nước có bình quân diện tích đất nông nghiệp vào loại thấp nhất so với các nước trên thế giới và khu vực (chỉ bằng 1/5 mức diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của thế giới).

Trong khi khả năng tích tụ ruộng đất để có quy mô sản xuất lớn hơn còn chưa nhiều thì mức bình quân ruộng đất ở nước ta hiện nay tiếp tục giảm do áp lực dân số tăng cộng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Trên cả nước, trung bình mỗi năm tăng 10 vạn hộ nông dân, có nhà nghiên cứu tính ra rằng nếu mỗi hộ được chia 400 m2 đất thổ cư thì diện tích đất chuyển sang

71

đất thổ cư sẽ là 40.000 ha/năm. Do vậy, số hộ có đủ quy mô ruộng đất thích

hợp để phát triển sản xuất kinh doanh làm giầu từ nông nghiệp còn ít mà thường phải kinh doanh tổng hợp và phát triển ngành nghề dịch vụ. Thực trạng này vừa tạo sức ép thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhưng cũng là điều kiện cho việc bình quân hoá ruộng đất, nhằm trước hết tự túc, tự cấp lương thực, thực phẩm ngay trong từng hộ gia đình.

Mặt khác, số ruộng đất bình quân 1 hộ đã ít lại phân tán theo các xứ đổng khác nhau theo nguyên tắc có tốt, có xấu, có gần, có xa, có ruộng, có vườn nên tính chất manh mún trong sản xuất trồng trọt càng lớn. Vì thế, sản xuất phân tán và manh mún đã mâu thuẫn với yêu cầu tích tụ, tập trung ruộng đất theo các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn, cản trở việc chuyển nhanh sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Để có sản xuất nông nghiệp hàng hoá lón, bình quân đất canh tác lao động ở Châu Âu khoảng 17 ha, Châu Mỹ khoảng 45 - 50 ha, khu vực Châu á - Thái Bình Dương khoảng 4 - 4,5 ha, hiộn nay khối ASEAN đang phấn đấu 5 ha/ hộ nông dân [12(15)].

Như vậy, tích tụ ruộng đất với quy mô lớn hơn là yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang là vấn đề

2.3.2.3. Về thị trường "đầu ra" cho nông nghiệp:

đặt ra.

- Mặc dù Nhà nước đã có nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho thị

trường nông phẩm, đặc biệt là gạo. Nhưng giá cả nông sản vẫn còn bấp bênh, tỷ lệ khoảng cách giữa hàng nông sản và hàng công nghiệp vẫn chưa bảo đảm, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, nông dân chưa thực sự phấn khởi, Xu hướng giá cách kéo giữa hàng công nghiệp, dịch vụ và hàng nông phẩm ngày càng mở rộng. Năm 1991, cách kéo giá hàng lương thực - thực phẩm so với hàng công nghiệp là 118 % và so với dịch vụ là 102%, năm 1992 là 149% và 164 %. Năm 1992, giá lương thực giảm 22%, trong khi đó giá chung tăng 9%, giá hàng công nghiêp tăng 12%, dịch vụ tăng 27% [29(19)].

72

Năm 1997, giá lương thực vẫn giảm mạnh, trong khi giá hàng công

nghiệp và dịch vụ vẫn tăng chút ít.

- Với tốc độ phát triển tương đối khá về sản xuất nông nghiệp, nông sản

hàng hoá ngày càng nhiều, thì thị trường tiêu thụ nông sản càng trở nên không ổn định và bị động. Thị trường "đầu ra" của sản xuất nông nghiệp thường hướng vào ba loại đối tượng: người tiêu dùng trong nước, các cơ sở chế biến và người tiêu dùng nước ngoài, về tình hình người tiêu đùng trong nước, do 80% dân số trong cả nước sống ở nông thôn và chủ yếu sống bằng nông nghiệp nhưng nông dân laị có mức thu nhập thấp nên sức mua rất hạn chế. ở thị trường trong nước, một số mặt hàng không cạnh tranh nổi với hàng nông sản ngoại nhập (nhiều loại quả tươi, cam, quýt và một số hàng nông sản khác đã qua chế biến, thậm chí có mặt hàng có nhu cầu của khách nước ngoài hiện đang sống ở Việt Nam, nhất là đối vói khách sạn thì phần lớn lại phải nhập khẩu (thịt, rau quả...) từ thị trường thế giới.

Vế chế biến: công nghiệp chế biến và công nghiệp bảo quản phát triển chậm so với tốc độ tăng trưởng của sản xuất dẫn tới gặp nhiều khó khăn trong vấn đề bảo quản, sơ chế, chế biến, gây thất thoát một khối lượng sản phẩm không nhỏ, đồng thời không nâng cao được giá trị nông sản hàng hoá.

Về xuất khẩu, một số mặt hàng đã tạo ra được thị trường tương đối vững chắc như lương thực, cà phê, chè, cao su, hạt điều, tôm, cua, đặc sản biển, nhưng còn nhiều mặt hàng mới chỉ tiêu thụ trong nước, chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế.

Tóm lại, đối với thị trường nước ngoài, ta vẫn còn thiếu những bạn hàng

ổn định, ít mặt hàng chủ lực.

Ngoài ra, việc bảo vệ sản xuất nội địa chưa đúng mức, chưa chặt chẽ, nên đã cho nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước có khả năng sản xuất cùng với sự buôn lậu, trốn thuế tràn lan càng làm cho việc tiêu thụ sản phẩm trong nước thêm khó khăn.

73

Nói chung, việc tiêu thụ nông sản hàng hoá vẫn là nỗi lo thường xuyên đối với nông dân. Sản phẩm hàng hoá nông nghiệp sản xuất chưa nhiéu nhưng vấn đề tiêu thụ nông sản đã trở nên gay gắt. Thị trường trong nước chưa được quan tâm khai thác, sức mua thấp. Thị trường ngoài nước thiếu những bạn hàng lớn, ổn định. Thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp tập thể hầu như phó mặc thị trường nông thôn cho tư thương và những người sản xuất nhỏ. Tinh trạng hộ nông dân vừa sản xuất, vừa lo tiêu thụ hàng hoá diễn ra khá phổ

biến. Chúng ta chưa xây dựng được chiến lược thị trường nông sản, việc tổ chức tiếp thị không theo kịp được tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng hoá, nên chưa hướng dẫn có hiệu quả đối với sản xuất.

2.32.4. Về chất lượtig hàng hoá:

Sản xuất hàng hoá nhưng nông dân nhiều vùng không xuất phát từ nhu

cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng. Dẫn đến hậu quả, chất lượng hàng hoá nông sản của Việt Nam thấp (trong đó cả vệ sinh an toàn sản phẩm), mặt hàng còn đơn điộu, tính cạnh tranh kém, giá trị thấp, giá trị xuất khẩu thường thấp hơn giá trị thị trường thế giới cùng loại 10 - 15%. Bao bì, mẫu mã thiếu sức hấp dẫn đối với khách hàng, nông sản phẩm xuất khẩu của ta phần lớn còn ở dạng thô hoặc sơ chế, chưa có vùng tập trung để sản xuất ra khối lượng lớn, sản phẩm phần lớn vẫn thu gom, nên giá thành và chất lượng rất hạn chế.

Tỷ lệ công nghiệp chế biến một số nông sản phẩm còn thấp so với nguyên liệu hiộn có như mía đường 30%, chè 55%, rau quả 5%, thịt 1%.... Nãm 1997 tỷ lộ gạo phẩm cấp thấp 25 - 35% tấm chiếm 50% tổng lượng gạo xuất khẩu, do chất lượng nên giá bán thấp. Lượng cà phê Rubosta xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ nhất thế giới, chiếm 7% khối lượng giao thương quốc tê, có khả năng tác động vào giá cả cà phê Rubosta trên thế giới, nhưng điều đó chưa thực hiện được bởi 98% xuất khẩu dạng thô (cà phê nhân). Cà phê chế biến ở dạng bột, cà phê hoà tan chiếm tỷ lệ quá nhỏ, dưới 1% lượng cà phê

nhân trong năm và tiêu thụ ở trong nước là chủ yếu. Ở đồng bằng sông Cửu

74

Long, ước tính lượng trái cây thu hoạch được khoảng 2,4 triệu tấn/ năm,

nhưng năm 1999 chỉ chế biến để tiêu thụ được 2.900 tấn nước quả cô đặc; 2.300 tấn trái cây đóng hộp, 300 tấn dứa đông lạnh, tức là chỉ chế biến, tiêu thụ được 0,22% lượng trái cây thu hoạch trong năm [32(28)].

Công tác nghiên cứu dự báo thị trường của Việt Nam hạn chế. Thông tin thị trường giá cả, chất lượng, mẫu mã, địa điểm, thời gian....vv... vừa thiếu,

vừa chắp vá, chưa có tác dụng hướng dẫn thiết thực cho doanh nghiệp, hộ nông dân và thúc đẩy việc chuyển hướng cơ cấu sản xuất hàng nông sản phẩm theo nhu cầu thị trường trong nưóc, thế giới.

Nhìn chung các sản phẩm hàng hoá nông sản của ta chất lượng thấp,

2 3 .2 .5 . V ề kết cấu hạ tầng ở nông thôn:

nên giá cả hạ mà tỷ suất hàng hoá vẫn chưa cao.

Kết cầu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy có được tăng cường so với trước nhưng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiộp hoá - hiện đại hoá.

- Giao thông vận tải: Tinh trạng phổ biến là đường giao thông nông

thôn phát triển chậm, chắp vá, đặc biệt hệ thống giao thông trên đồng ruộng hầu như chưa đựơc chú ý xây dựng, công việc canh tác và thu hoạch khó khăn, vất vả và hiệu quả thấp.

Đến năm 1997 trong 10.000 đơn vị xã nông thôn cả nước có 678 xã (gần 14%) chưa có đường ôtô, 473 xã đường xá chưa được cải tạo, 760 xã chưa có chợ, 941 xã chưa có điện. Bình quân lkm2 diộn tích nông thôn chỉ có 3420m đường ôtô, riêng miền núi chỉ có 100m, còn lại là đường cấp phối mau hỏng [42(39)].

Mức đầu tư xây dựng cơ bản không đáp ứng yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng cho những vùng sản xuất hàng hoá tập trung (bao gồm cả xây dựng mới và sửa chữa, tu bổ các công trình hạ tầng cơ sở đã có nhưng xuống cấp nghiêm trọng). Số vốn đầu tư cơ bản của Nhà nước vào nông nghiệp, nông

75

thôn năm 1986 tỷ trọng 24,9% tổng đầu tư xây dựng cơ bản toàn nển kinh tế

thì đến năm 1993 còn 14,6% và năm 1994 còn 13,8% [2(184)].

Với hiện trạng như vậy là trở ngại rất lớn cho khả năng chuyên môn hoá

sản xuất tại từng khu vực.

- Hệ thống thuỷ lợi: Trong phát triển cơ sở hạ tầng thì thuỷ lợi là nội dung ưu tiên hàng đầu. Trong những năm qua, sự đầu tư vào nông thôn chủ

yếu là tập trung cho sự phát triển nông nghiệp. Gần như 80% số vốn chính phủ đầu tư để hiện đại hoá nền nông nghiệp là tập trung cho thuỷ lợi và một phần xây dựng hệ thống điện trong nông thôn. Mấy chục năm qua, đầu tư thuỷ lợi được tập trung ở các tỉnh đồng bằng, tiện lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đầu tư về thuỷ lọi đã không đều giữa các vùng. Từ những thập kỷ 60 trở lại đây, xu hướng đầu tư phát triển năng lực tưới tập trung nhiều ở các vùng thuận lợi như đồng bằng sông Hồng và một phần Duyên hải miền trung. Kết quả là diện tích được tưới của đồng bằng sông Hồng lên tới 78%, khu bốn cũ và các tỉnh Duyên hải miền trung cũng trên 50%. Trong khi đó, ở Tây nguyên diện tích được tưới chỉ có 12,3%, vùng núi và trung du Bắc bộ 30,3%, Đông nam bộ 33,3% [13(46)]. Tinh trạng khô hạn ở miền Trung, Tây nguyên, miển núi phía Bắc, tình trạng lũ lụt ở các tỉnh Nam bộ đòi hỏi phải định hướng lại đầu tư cho thuỷ lợi. Đây là một trong những cản trở lớn cho phát triển nông nghiệp hàng hoá ở các vùng này.

- Điện:

Sản lượng điện cung ứng cho khu vực nông thôn rộng lớn hiện nay chỉ mới bằng 2,4 tổng luợng điện tiêu dùng cả nước, điộn cung ứng cho nông thôn chủ yếu đáp ứng nhu cầu thủy lợi (tưới, tiêu), còn nhiều loại hoạt động khác có nhu cầu vẻ điện chưa được đáp ứng bao nhiêu, như xay xát gạo, chế biến nông sản, dịch vụ sửa chữa sinh hoạt [2(146)].

Hệ thống mạng dây phân phối điện chất lượng thấp, thô sơ, tỷ lệ thất

thoát lớn... nông dân phải trả tiền điện quá cao.

76

23.2.6. Về cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp hàng hoá

- Cơ khí hoá nông nghiệp:

Nhìn chung tiềm lực khoa học và năng lực công nghệ nghành cơ khí nông nghiệp đã có bước phát triển, góp phần tích cực làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng, tăng vụ, mở rộng diện tích... Song vẫn cón rất nhiều hạn chế so với yêu cầu đòi hỏi do hạ tầng cơ sở của nông

nghiệp và nông thôn còn kém nên việc đưa cơ khí vào đã gây khó khăn đáng kể, điển hình là khâu làm đất, chủ yếu là lao động thủ công (70%), cày bừa trâu bò, thậm chí có nơi cuốc đất, nhiều khâu công việc cơ giới hoá còn thấp, không đồng đều. Mặt khác, phát triển nghành cơ khí đòi hỏi có vốn đầu tư lớn trong khi nông dân hiện còn rất nghèo, mặc dù trong những năm qua máy móc tăng lên chủ yếu do vốn của nông dân, nhưng đó chỉ là số ít.

Những nơi có máy móc thì hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị thấp, trình độ sử dụng tay nghề của nông dân còn kém, máy hư hỏng nhiều, chưa phát huy được công suất, hiệu quả thấp do giá thành đắt.

Hệ thống máy móc, động lực chủ yếu nhập của nước ngoài, nhiều chủng loại, nhiểu nước khác nhau. Số lượng máy móc thiết bị cũ còn nhiều, một số không phù hợp, trang thiết bị chậm đổi mới.

- Công nghệ công nghiệp chế biến, bảo quản nông - lâm - thuỷ sản:

Hiện nay toàn nghành nông nghiệp và phát triển nông thôn có khoảng 500 dây truyển thiết bị chế biến thành phẩm với gần 20000 thiết bị chế biến. Ngoài ra còn hàng trăm ngàn máy chế biến nông sản cỡ nhỏ với tổng công suất 2,3 triộu mã lực do các hộ nông dân tự trang trải.

Nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản của nước ta còn rất lạc hậu, thô sơ làm cho năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hoá thấp và tỷ lệ hao hụt lớn. Theo tính toán sơ bộ của các chuyên gia về công nghê sau thu hoạch đối với lúa gạo, tỷ lê tổn thất bình quân 15% sản

77

lượng trong đó tổn thất trong thu hoạch 1,5%, tổn thất bảo quản và xay xát

hơn 10%. Như vậy, nếu sản lượng 20 triệu tấn/năm thì tổn thất 3 triệu tấn.

Trong bảo quản thóc gạo, tới 80% sản lượng thóc nằm tại kho các hộ gia đình với đủ các phương thức bảo quản truyền thống, không bảo đảm giữ

chất lượng thóc lâu dài....

Nhìn chung năng lực công nghệ nông - lâm - hải sản của ta còn yếu.

2 3 2 .7 . Vê trình độ dân trí

Đúng như nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra: công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chưa phát triển; năng suất lao động thấp; giá thành cao; công nghệ lạc hậu; cơ cấu kinh tế chậm thay đổi...

Kết cấu điểu tra về kinh tế hộ nông dân năm 1993 cho thấy: Trong số các hộ giầu ở nông thôn khoảng 27,7% đạt trình độ văn hoá cấp III: 44,2%; cấp II: 25%; cấp I: 38,2%. Đối với hộ nghèo, số có trình độ cấp III chỉ chiếm 1,8%; cấp II: 20% và cấp I là 54%; chỉ biết đọc, biết viết 25%[2(150)]. Đương nhiên, trình độ dân trí thấp sẽ ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp hàng hoá.

Thực tế hiện nay mặc dù hệ thống khuyến nông trong nông thôn đã được hình thành khá rộng rãi và xuyên suốt từ cấp trung ương, đến tỉnh, huyện và xã, song chất lượng đội ngũ khuyến nông còn thấp so với yêu cầu (không cập nhật được tri thức tiến bộ của khu vực và thế giới, kiến thức quản lý kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ yếu kém) nên hoạt động này không có hiệu quả.

Qua việc phân tích tiến trình phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt

Nam, chúng tôi rút ra những điểm chính sau:

1/ Mô hình tập thể hoá nông nghiệp thực hiện trong 20 năm qua (1960- 1980) ở Việt Nam đã kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam. Do đó yêu cầu đổi mới trong nông nghiệp là một tất yếu;

2/ Quá trình đổi mới trong nông nghiệp (1981 đến nay) với thực chất là sự thay đổi về thể chế đã giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, đã đem đến những kết quả to lớn. Nông nghiệp đã thực hiện được nhiộm vụ quan

78

trọng nhất của nó là đáp ứng được nhu cầu ăn của xã hội. Nông nghiệp đã bắt

nhịp vào một quá trình phát triển mới về chất: quá trình thương phẩm hoá và biến đổi cơ cấu, quá trình kinh doanh, theo đuổi giá trị mới.

3/ Tuy nhiên, trong giai đoạn mới của sự phát triển của đất nước, giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá, sản xuất hàng hoá nông nghiộp cần có những biến đổi để đáp ứng những nhu cầu mới. Nhưng thực tế những vấn đề

còn đặt ra trong quá trình phát trién nông nghiệp hàng hoá trong thời gian qua cho thấy nó vẫn còn mang nặng những yếu tố của nền nông nghiệp chậm phát triển thể hiện ở sự manh mún, cơ cấu kinh tế truyền thống, thu nhập thấp.... Nông nghiệp tự bản thân nó không thể đáp ứng những đòi hỏi mói nếu không có sự tác đông và trợ giúp của Nhà nước. Đây là những vấn đề sẽ bàn đến trong chương sau.

79

CHƯONG III

MÔT SỐ KlếN NGHĨ vế PHƯƠNG HƯỚNG và GIỎI

PHÁP NHÀM DRV MẠNH PHÁT TRIấN NÔNG NGHIÇP HỒNG

HOÍÍ Ở NƯỚC TA

3.1. Kiến nghị về phương hướng:

3.1.1. Phương hướng tổng quát:

Căn cứ và đặc điểm, thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá của Việt Nam, trong thời gian tới (từ nay đến năm 2010) nền nông nghiệp nước ta phát triển trong một quá trình kép: vừa công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, vừa chuyển từ nền nông nghiệp tự nhiên, tự cấp, tự túc sang nền nông

nghiệp hàng hoá, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn và hiện đại, phát triển theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Với quan điểm "Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu

công nghiệp, hướng mạnh ra xuất khẩu" [33], theo chúng tôi, phương hướng khái quát để phát triển nông nghiệp hàng hoá đến năm 2010 là:

Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và hiệu quả cao. Bố trí lại vụ mùa để né tránh thiên tai, chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc sang các cây khác có hiệu quả hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai. Quy hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá trị cao.

Phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả kinh tế cao gắn với công nghiệp tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với phủ xanh đất trống, đồi trọc theo hình thức nông , lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh, tăng năng suất, áp dụng các biện pháp sinh học hiện đại

80

và công nghệ sinh học, không sử dụng hoá chất độc hại, sản xuất các loại nông sản sạch.

Hình thành phát triển các vùng chăn nuôi tập trung gắn với công nghệ chế biến thực phẩm, khuyến khích và nhân rộng các hộ chân nuôi giỏi, các nông trại chăn nuôi. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Thực hiện chương trình nạc hoá đàn lợn, cải tạo đàn bò, phát triển bò sữa, bò thịt. Phát triển nghề chăn nuôi các loại động vật đặc sản. Mở rộng mạng lưới chế biến thức ăn gia súc, thú ý, bảo hiểm vật nuôi và các dịch vụ khác.

Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thị tứ, thị trấn. Liên kết công nghiệp ở đô thị lớn và khu công nghiệp tập trung. Phát triển các làng nghề, nhất là các làng nghề làm hàng xuất khẩu, mở mang các loại hình dịch vụ.

Phát triển hệ thống thuỷ lợi ờ tất cả các vùng, đặc biệt khôi phục sửa chữa,

nâng cấp và mở rộng hệ thống thuỷ lợi ở hai vùng đồng bằng lớn của đất nước.

Đảm bảo đủ phân bón, kịp thòi vụ với giá ổn định. Phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật và dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật. Tổ chức chế biến tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp. Thực hiện chính sách bảo hiểm và khuyến khích về giá đối với nông sản, đặc biệt là lúa và cây công nghiệp xuất khẩu. Điều chỉnh việc phân bố vốn của Nhà nước, huy động thêm nguồn vốn để tăng đáng kể vốn đầu tư và tín dụng cho nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.

3.1.2. Mục tiêu phát triển đến năm 2010

Tiếp tục thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an toàn lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh kim nghạch xuất khẩu, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

81

Kết hợp sản xuất nông -lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn, giải quyết việc làm cho phần lớn lao

động dư thừa, tăng thu nhập cải thiện cơ bản đời sống vật chất văn hoá cho

nông dân, khắc phục nạn suy dinh dưỡng, không còn hộ đói và giảm nhanh sô hộh nghèo, tăng số hộ giầu và dư ăn, đặc biệt quan tâm đến vùng cao, vùng đổng bào thiểu số, vùng sâu vùng căn cứ cách mạng.

Tăng cướng một bước quan trọng cơ sở vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn và công nghiệp chế biến: Thuỷ lợi, cơ giới

hoá, điện khí hoá, sinh học hoá, từng bước hiện đại hoá hệ thống sau thu hoạch, công nghiệp chế biến tại tiền để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp.

Xây dựng nông thôn mói có kinh tế phát triển, đời sống văn hoá lành mạnh, có cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội phát triển, đáp ứng được nhu cầu phong phú, đa dạng của nông dân.

3.2. Các giải pháp cơ bản:

Những phương hướng và mục tiêu trên đây là một cơ sở, điểm tựa cho việc tìm ra những giải pháp chủ yếu đối với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình CNH - HĐH ở nước ta và cho từng lĩnh vực, từng nghành, từng vùng, địa phương, lãnh thổ trên toàn quốc.

3.2.1. Những giải pháp hình thành khung thể chế:

3.2.1.1. Chính sách đất đai:

Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt của hộ nông dân. Do vậy việc giải quyết tốt vấn đề ruộng đất là yêu cầu cấp bách trong việc phát triển kinh tế hộ và do đó thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá nông nghiệp phát triển. Giải

quyết vấn để ruộng đất thực chất là giải quyết vấn đề sở hữu và sử dụng ruộng đất. Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý. Nhà nước giao quyển sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân là trực tiếp tạo điẻu kiộn thực hiện quyền tự chủ và tăng cường nâng lực nội sinh của kinh tế hộ nông dân. Người nông dân gắn bó với đất đai, họ thực sự yên tâm bỏ vốn, sức lao động đầu tư trên mảnh đất ấy. Thực hiộn 5 quyên: chuyển đổi, chuyổn nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế đã được pháp luật quy định, đây là cơ sở

82

pháp lý tạo điều kiện cho nông dân tích tụ ruộng đất nhằm thúc đẩy sự phân

công lao động hợp ỉý ở nông thôn, để thực hiộn tốt hơn quá trình sản xuất hàng hoá với quy mô nhất định, phù hợp với khả năng, ưu thế của từng hộ, từng vùng sinh thái.

Thực tế phát triển nông nghiệp những năm qua đã chỉ ra: quy mô đất đai phải đạt đến một mức nào đó thì mới có thể chuyển sang ngưỡng sản xuất

hàng hoá được và những hộ đã chuyển sang sản xuất hàng hoá đều có nhu cầu có thêm đất để sản xuất. Điều tra về nhu cầu của các hộ giàu của các nhóm đều cho một kết quả: tất cả các nhóm đều cùng có một nhu cầu nhận thêm đất để phát triển sản xuất. Trong đó nhóm thuần nông là 55,8%, nhóm nông nghiệp - ngành nghề 61,7%, nhóm nông - lâm nghiệp: 75%; nhóm nông nghiệp - ngư nghiệp: 45% và nhóm nông nghiệp - dịch vụ là 57,9% số hộ [39ị. Như vậy nhu cầu tích tụ đất đai là một thực tế đang đặt ra cho quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá trong thời gian tới. Nhưng thực tế cũng đặt ra cho nông nghiệp bài toán phải giải là làm sao đảm bảo tiếp tục phát triển sản xuất hàng hoá trong điéu kiện quy mô đất đai bình quân của các hộ nông dân vừa nhỏ bé lại vừa manh mún như hiên nay. Chúng ta đã biết, một số nước

trong khu vực, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cũng gặp phải vấn đề nan giải này. Họ đã giải quyết sự mất cân đối giữa tương quan so sánh này bằng cách công nghiệp hoá nông thôn, phát triển công nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn để thu hút lao động thừa, làm giảm áp lực dân số trên ruộng đất. Do có sự tác động này, những hộ không có khả năng làm nông nghiệp đã chuyển nhượng ruộng đất để chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, trong nội bộ từng hộ số lao động cũng được rút bót ra để đi làm các công việc khác ngoài nông nghiệp. Điển hình của việc giải quyết vấn đề này là Đài Loan với mô hình công nghiệp hoá phân tán. Trong mô hình này, dân số của nông thôn không nhất thiết phải rời khỏi làng xã để tham gia sản xuất công nghiệp mà sự rút bớt lao động được thực hiện bằng cách phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn. Mô hình công nghiệp hoá phân tán về không gian đã đưa đến những kết quả: giảm sức ép của dân số

83

đối với đất đai (năm 1970, sức ép này là rất lớn, số nông hộ có đất canh tác chưa tới 0,5 ha chiếm 44% trong tổng số nông hộ); Tăng cơ hội việc làm cho lao động nông nghiệp (từ năm 1956 - 1966 số dân phi nông nghiệp cao hơn nhiều so với 25 năm trước đó, cùng thời gian này trong số 27,5 vạn công nhân mới tăng của ngành công nghiệp gia công, khu vực nông thôn thu hút 46%) [37(42)].

Từ thực tế kinh nghiệm của một số nước, Việt Nam có thể giải quyết hai bài toán phát triển sản xuất trong điều kiện quy mô đất đai hộ gia đình nhỏ hẹp, phân tán và làm sao để tích tụ, tập trung ruộng đất bằng cách đẩy mạnh quá trình phát triển công nghiệp, dịch vụ và các hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp để rút bớt số lao động nông nghiệp và số hộ nông nghiệp. Từ đó, khuyên khích việc cho thuê ruộng đất, khuyên khích đổi ruộng cho nhau để hình thành quy mô sản xuất lớn hơn. Có thể áp dụng hình thức uỷ thác như ở Đài Loan (hộ có ruộng đất nhưng không kinh doanh nông nghiệp mà ủy thác cho hộ khác kinh doanh, còn mình thì đi làm những công việc phi nông nghiệp).

Tuy nhiên, sự vận động của quan hệ đất đai đặt ra những vấn đề cần giải quyết: đó là việc thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp. Đây là vấn đề khó giải quyết giữa việc người nông đân trong cơ chế thị trường muốn gia tăng hiệu quả của đất đai với việc bị hạn chế trong mục đích sản xuất nông nghiệp. Do đó nhà nước phải có quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch sử dụng ruộng đất một cách cụ thể. Có những quy định cụ thể vể việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục đích khác như công nghiệp, dịch vụ. Một vấn đề nữa đang đặt ra đó là việc lưu chuyển ruộng đất giữa các hộ nông dân đã diễn ra. Có những hộ sang nhượng ruộng đất để chuyển sang các ngành nghề khác, mặt tích cực của sự chuyển nhượng này là làm cho quá trình tích tụ ruộng đất được thực hiện sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá tập trung. Nhưng với những hộ quá nghèo hoặc không có khả năng sản xuất nông nghiệp phải chuyển nhượng ruộng đất đi

84

làm thuê thì có hai vấn đề cần suy xét. Thứ nhất: xét về mặt phân công lao động xã hội đó là hiện tượng tích cực vì ai giỏi nghề gì làm nghề đó, ruộng đất là tài sản quý hiếm do đó cần được sử dụng có hiệu quả, nhưng vấn đề thứ hai đó là vấn đề xã hội: những người đi làm thuê thu nhập thất thường, họ dễ có khả năng trở thành đội quân thất nghiệp, đó là vấn đề xã hội không thể không lưu tâm.

VI thế, tích tụ ruộng đất là một xu thế hợp qui ỉuật. Nhưng sự tích tụ

ruộng đất chỉ có ý nghĩa tích cực khi nó đi liền với phát triển ngành nghề, tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn cho dân cư nông thôn, không bần cùng hoá nông thôn. Điều này đã xảy ra ở vùng trong điểm nông nghiệp hàng hoá của nước ta là đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây, “trong số những hộ có rất ít hoặc không có ruộng canh tác thì số hộ chuyển sang nghề khác chỉ chiếm 20%, còn lại 40% số hộ do hoàn cảnh khó khăn buộc phải chuyển nhượng đất ngoài ý muốn, 30% số hộ bị chủ cũ lấy lại đất”.

Trong khi ngân sách Nhà nưóe chưa cho phép thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp như các nước phát triển, do đó cách trợ giúp cho những người này chính là việc phát triển công nghiệp hóa nông thôn, tạo thêm việc làm để thu dụng lực lượng lao động tại chỗ.

3.2.1.2.

Chính sách tự do thương mại đối với các chủ thể trong nông

nghiệp.

Trong quá trình đổi mới theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tác động đến người nông dân qua 3 yếu tố chính bao gồm: Thứ nhất là, hình thành một thị trường năng động đáp ứng kịp thòi yêu cầu của người tiêu dùng ở nông thôn. Thứ hai là, giá cả được điều tiết theo cơ chế thị trường bảo đảm cho người tiêu dùng có được mức giá hợp lý. Thứ ba là, tạo cơ hội để nâng cao khả năng tham gia thị trường của nông dân. Những cải cách thị trường từ năm 1989 đến nay đã có tác động làm thay đổi hệ thống lưu thông vật tư và nông sản, hệ thống bán lẻ và bán buôn vật tư cũng như mạng lưới thu mua nông sản được mở rộng tới tận thôn xã. Việc chia cắt thị trường theo địa

85

phương đã được xoá bỏ từng bước hình thành một thị trường thống nhất trên phạm vi cả nước, về cơ bản kể từ năm 1992 đến nay thị trường nông thôn đã được tự do hoá; các mặt hàng là sản phẩm của kinh tế nông thôn cũng như các hàng hoá công nghiệp tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tự do lưu thông rộng rãi trong cả nước. Giá cả hình thành khách quan trên cơ sở quan hệ cung - cầu, trên tổng thể thị trường cả nước và trên từng vùng sản xuất. Kinh tế nông thôn

ở nhiều vùng đã bắt đầu thoát khỏi tình trạng khép kín, tự túc, hướng ra thị trường mà tìm tòi, phát huy lợi thế so sánh có sẵn của từng vùng, địa phương.

Trong hai năm 1993 - 1994 tình hình thị trường nông thôn có phát triển khá, thể hiện ở chỉ tiêu mức lưu chuyển hàng hoá tăng nhanh hơn so với tốc độ lạm phát.

Bảng 6: Phát triển lưu chuyển hoá bán lẻ hàng hoá xã hội và chỉ số lạm phát

Nguồn: [3]

Chỉ sô lạm phát %

Tổng mức lưu chuyển

So sánh năm sau

Năm

với năm trước

hàng hoá (tỉ đồng)

67,5

100

1991

33.403,6

17,5

153,3

1992

51.214,5

5,2

125,3

1993

64.210,0

14,4

1994

132,7

85.245,0

Các mặt hàng lương thực, thực phẩm và vật tư nông nghiệp là những mặt hàng chủ yếu trong lưu chuyển hàng hoá, chiếm tới 40% tổng*mức bán lẻ hàng hoá ở nông thôn. Thị trường nông thôn chiếm khoảng 60 - 65% tổng quỹ mua của toàn xã hội.

8 6

Chính sách tự do lưu thông và phát triển thị trường đã phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, trong đó khu vực tư nhân đã vươn ra chiếm lĩnh thị trường nông thôn khá mạnh mẽ trong những năm 1990 từ 67% lên

77,8% năm 1994. Cạnh tranh thị trường phát triển lành mạnh, tình trạng ép

cấp, ép giá giảm nhiều; Việc khuyến khích cạnh tranh trong thương mại đã tạo nên một hộ thống dịch vụ, thuận lợi cho người sản xuất ở nông thôn. Từ năm 1994 đã có 54,9% số xã ở nông thôn có chợ cùng với hệ thống đại lý kinh doanh vật tư nông sản của nhiều tổ chức khác nhau đã được hình thành đến tận các thôn [4(146,147)]. Việc mua bán vật tư và thu gom nông sản hàng hoá nhiều nơi được đưa tới tận hộ gia đình tạo điểu kiên cho nông dân được lựa

chọn mua bán vật tư và nông sản thuận lợi hơn. Hàng hoá tiêu dùng cũng được lưu thông thuận tiện và nâng cao chất lượng phục vụ với giá cả phải chăng và tương đối ốn định. Các hộ nông dân có cơ hội lựa chọn được hàng hoá phù hợp với nhu cầu và sức mua của gia đình họ, tạo khả năng trao đổi giữa người sản xuất và người tiêu dùng.

Tuy nhiên, hiện nay tình trạng các chợ huyộn, chợ xã vẫn còn "chợ chưa ra chợ", nhỏ bé nhếch nhác, lầy lội chỉ là nơi mua bán tạm bợ. Vì vậy hoạt động của chợ không được phát triển như mong muốn. Thực trạng đó, đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết một cách cơ bản, nhất quán về quy hoạch và phát triển mạng lưới chợ; Xây dựng các dự án đầu tư, chủ trương

chính sách đầu tư và quy hoạch thị trường trên địa bàn các tỉnh. Mặt khác để đảm bảo cho tốc độ lưu chuyển hàng hoá tăng nhanh và ổn định cần triển khai chương trình làm đường giao thông nông thôn. Vì giao thông có vai trò hết sức quan trọng góp phần tăng tốc độ lưu chuyển hoá, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục.

Sở đĩ có được thay đổi theo chiều hướng tích cực như trên là do có sự tác động của những chính sách trong cộng tác lưu thông tổ chức sản xuất hàng hoá mà Đảng và Nhà nước ta đã ban hành. Xoá bỏ cơ chế Nhà nước đánh giá theo cách hành chính đi đôi với chính sách tự do lưu thông hàng hoá, bãi bỏ lệnh "ngăn sông cấm chợ", từng bước xoá bỏ tình trạng sản xuất khép kín, tự cung tự cấp, mở ra thời kỳ phát triển nền nông nghiệp hàng hoá hướng vào thị

trường.

87

Mở rộng, xuất khẩu cũng là kết quả của chính sách tự do hoá thương mại. Trong những năm gần đây, các mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất đã tăng nhanh, đặc biệt là lúa gạo. Nhờ đó đã tạo nguồn thu lớn về ngoại tệ cho

nền kinh tế.

Tóm lại, tự do hoá thương mại đã giúp nén kinh tế vận hành hiệu quả hơn nhờ phát huy lợi thế so sánh, đẩy nhanh tiến bộ công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất qua cạnh tranh, mở rộng các thị trường tiềm năng và xuất khẩu, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập, góp phần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững.

Hiện nay, xuất khẩu nông sản, đặc biệt là lúa gạo vẫn do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền. Gần đây chính phủ đã cho phép tư nhân được phép trực tiếp xuất khẩu. Tuy nhiên, có nhiều khó khăn đặt ra do tư nhân ít vốn, ít kinh nghiệm về quan hệ thương mại với nước người. Vì thế cần có cơ chế chính sách, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động thương mại. Bảo đảm tôn trọng quyền tự chủ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, đồng thời cũng ràng buộc doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo pháp luật đối với Nhà nước.

3.2.2. Những giải pháp hố trợ:

3.22.1 Thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù

hợp với yêu cầu CNH, HĐH.

Chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo yêu cầu CNH, HĐH thể hiện:

- Cùng với tăng GDP về số lượng tuyệt đối, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội sẽ giảm xuống trong sự phát triển cơ cấu nông - công - dịch vụ.

- Cơ cấu nội tại nghành nông nghiệp sẽ thay đổi theo hướng: Tăng tỷ

trọng sản phẩm chăn nuôi và giảm trồng trọt.

- Cơ cấu giá trị xuất khẩu nông - lâm - ngư chuyển dịch dần sang các

8 8

mặt hàng thuỷ sản và chăn nuôi.

Những xu hựớng biến đổi nêu trên có ý nghĩa phát triển nền nông nghiệp hàng hoá toàn diện, sản phẩm có năng suất cao, chất lượng cao, chất lượng tốt, tỷ suất hàng hoá lớn.

Trong mười năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có một bước tiến bộ lớn nhưng vẫn là một nền nông nghiệp độc canh, thuẩn nông lạc hậu, các quan hệ hàng hoá thị trường còn dưới dạng hết sức sơ khai, phát huy tác dụng không đồng đều trên các vùng lãnh thổ.

Muốn phát triển quan hệ hàng hoá thị trường phải thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trước hết phải giữ vững và đảm bảo mức an toàn lương thực cho toàn xã hội, trên cơ sở phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm đa dạng. Đây là điều kiện căn bản nhất làm nông dân yên tâm phấn đấu vươn lên phát triển kinh tế hàng hoá ngày càng lớn "Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, từng bước cải thiện cơ cấu bữa ăn và chất lượng bữa ăn, tiến tới đạt tiêu chuẩn về dinh dưỡng"[33]. Cần phát triển hệ thống lưu thông phân phối, hỗ trợ dân nghèo có đủ thu nhập để mua lương thực khi cần. Duy trì 4 triệu héc ta đất canh tác lúa. Đối với đất nông nghiệp đành cho cây lương thực phải được sử dụng theo hướng thâm canh, đưa vào sản xuất các giống lúa có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường trong nước. Hỗ trợ đồng bào vùng cao phát triển sản xuất, tự túc một phần lương thực tại chỗ. Tiếp tục nâng cao năng lực kinh doanh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, xuất khẩu đạt hiệu quả cao, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm.

Kinh nghiệm của các nước trong quá trình phát triển nông nghiệp là khi đã đảm bảo nhu cầu cung cấp lương thực rồi thì chuyển manh sang trồng cây ăn quả hoặc cây có giá trị kinh tế cao như: Cây công nghiệp, hoa và cây cảnh, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang các nghành nghề phi nông nghiệp. Đài Loan là một nước mẫu mực về sự biến đổi cơ cấu của nông nghiệp: lúa gạo chiếm 1/2 sản phẩm nông nghiệp năm 1952, đến năm 1985 chỉ còn chiếm 1/4. Diện tích trồng các loại cây ăn quả tăng nhanh như cam, quýt, bưởi trong những năm 80

89

tăng gấp 3 lần so với 1952, sản lượng tăng gấp 14 lần. về các sản phẩm động vật, từ 14% trong thu nhập nông nghiệp năm 1952, tăng lên gần 40% năm 1985. Trong cơ cấu đàn gia súc thì gia tăng đàn bò sữa...Vào năm 1980, thu nhập phi nông nghiệp trong tổng thu nhập của một số nước châu á đã vượt trên 60%: Đài Loan 64%; Nhật Bản là 79%[35].

Ở nước ta, để tăng giá trị sản lượng sản phẩm nông nghiệp không thể

chỉ chú ý tăng mãi số lượng lương thực lên mà phải tìm ra các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Qua các số liệu điều tra ở vùng sông Tiền, sông Hậu, Tây Nam Bộ cho thấy lãi trung bình của sản xuất cây ăn quả gấp 6 lần sản xuất lúa, trong đó nhóm cây có múi lãi gấp 10 lần, nhãn gấp 12 lần, sầu riêng gấp 14 lần. Nếu chế biến hoặc xuất khẩu tươi, lãi xuất trung bình có thể đạt 25 - 30%, giá trị tăng lên 2 - 4 lần so với quả nguyên khai [16(54)]. Những khảo sát của đề tài KX-08-01 ờ hai tỉnh Hải Hưng, Hoà Bình cũng cho thấy: Trên lha nếu độc canh lương thực, giá trị sản lượng chỉ đạt trên dưới lOtriộu đồng/năm. Nhưng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp đã tạo ra thu nhập từ 20 - 50 triệu đồng/năm. Điều này khẳng định dư địa để phát triển nông nghiệp hàng hoá là rất lớn [21(175)]. Vì vậy cần tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Cụ thể:

Trong ngành trồng trọt, xu hướng là giảm dần quy mô cây lương thực, mở rộng quy mô cây công nghiệp, cây ăn quả và các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế hàng hoá cao. Những vùng có cây chủ lực được lựa chọn và tập trung sản xuất lớn từ đầu, nếu triển vọng hàng hoá còn lớn và có điều kiện thì nên có dự án và chính sách khuyến khích mở rộng, gắn với quy hoạch xây dựng cơ sở chế biến tương ứng.

VD: Mở rộng diện tích điều ở Duyên hải miền trung, Đông Nam Bộ và ở những nơi có điều kiện phừ hợp, thay đổi giống mới, thâm canh tren toàn bộ diện tích. Phát triển chế biến, để đến khi định hình cả nước có khoảng 400000 - 450000 tấn hạt điều thô, xuất khẩu đạt 400 - 500triệu USD/năm. Đối vói cây

90

hồ tiêu, mở rộng sản xuất theo nhu cầu thị trường, tới năm 2005 xuất khẩu đạt

200 - 250 triệu USD/ năm [34(3)].

Nhìn chung, trong cơ chế thị trường, các hộ nông dân, các vùng nông

thôn cần tính đến lợi thế so sánh, tự chọn một hướng sản xuất cây, con mới, có thể du nhập hoặc cây con cổ truyền để tiến hành sản xuất kinh doanh ngày càng có nhiều hàng hoá, có nhiều gia trị trao đổi.

Đối với ngành chăn nuôi: Phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm và các loại con đặc sản để gia tăng khối lượng hàng hoá nông sản, đáp ứng nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng của xã hội và góp phần xuất khẩu, thực hiện chãn nuôi đa ngành, đa loài và có trọng điểm tập trung hàng hoá tại nhiều vùng, cần xúc tiến mạnh mẽ việc lai tạo giống, phòng trừ dịch bệnh, quy trình công nghệ chăn nuôi tiên tiến. Cùng với yếu tố giống và thú y là vấn đề cung cấp thức ăn chăn nuôi cho các loại gia súc, gia cầm, các đặc sản nuôi dưới nước. Hình thành các nhà máy, các xưởng, cụm chế biến thức ăn công nghiệp hoặc nửa công nghiệp, tạo điều kiện cho ngành vươn lên sản xuất hàng hoá lớn đạt được tỷ trọng xuất khẩu cao hơn so với tỷ trọng xuất khẩu của ngành lương thực.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải đặt trong mối quan hệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Hai chỉ tiêu phản ánh rõ nhất trình độ và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đó là: Cơ cấu giá trị sản phẩm sản xuất và cơ cấu lao động. Thông thưcmg mức độ chuyển dịch cơ cấu giá trị các loại sản xuất sản phẩm nhanh hơn, mạnh hơn, còn cơ cấu lao động dịch chuyển chậm hơn. Hiện nay nông thôn Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thuần nông, cơ cấu kinh tế nông thôn đã có một chút biến đổi, tỷ lệ hộ thuần nông giảm xuống còn 80,6% và hộ phi nông nghiệp 19,4% năm 1994. Tăng tỷ trọng hộ phi nông nghiệp lên chính là góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội ở nông nghiệp nông thôn sâu hơn. Do đó quá trình sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp càng phát triển. Muốn tỷ lệ hộ phi

91

nông nghiệp tăng lên phải phát triển công nghiệp, nghành nghề và dịch vụ ở nông thôn.

Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp trên các địa bàn, phát triển sản xuất vật liệu xây dựng ở các địa phương. Khuyến khích mở mang tạo thêm một số ngành nghề mới, đồng thời khôi phục và phát triển một số nghành nghé truyền thống như mạt hàng mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ...Đây là

những mặt hàng có tiếng và được ưa chuông từ lâu. Có như vậy mới thu hút được lực lượng lao động vào sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động trong những thòi kỳ nông nhàn.

Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ đối với sản xuất nông nghiệp. Khi xã hội càng phát triển, nền kinh tế ở trình độ cao thì dịch vụ là ngành kinh doanh chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của ngành dịch vụ có ý nghĩa ỉà một khâu của quá trình sản xuất, nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, nó có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. Phát triển các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp chính là tạo ra các điều hiện thuận lợi phục vụ kịp thời cho sản xuất, cho tiêu thụ nông sản phẩm. Vì vậy, cần phải khuyến khích các thành phần kinh tế hoạt động dịch

3.2.2. 2. Phát triển khoa học và công nghệ:

vụ sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt chú trọng quan tâm và khuyến khích các ngành nghể như chế biến sản phẩm nông nghiệp, xay xát lúa gạo, dịch vụ vận tải...

Khoa học công nghệ là nển tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh sản

phẩm hàng hoá. Việt Nam là nước đi sau, do đó có thể tận dụng những thành tựu về khoa học và công nghệ của các nước tiên tiến. Đó chính là quá trình tăng trưởng rút ngắn của các nước đang phát triển để đuổi kịp các nước phát triển. Trong nông nghiệp, cần đẩy mạnh việc áp đụng các công nghệ mới về sinh học để tạo ra những giống mới, cao sản phổ biến tới các hộ nông dân. Nghiên cứu và chuyển giao công nghê chế biến, từng bước đưa cơ giới hoá vào sản xuất nông nghiệp cho hợp lý.

92

- Công nghệ sinh học:

ở Việt Nam, việc áp dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa

học kỹ thuật vào nông nghiệp như: việc đưa cơ giới hoá, giống mới, phân hoá học vào đồng ruộng không chỉ là nâng cao năng suất của cây trồng và vật nuôi lên mà còn giảm nhẹ mức độ nặng nhọc cho người lao động. Tác động tích cực đó là điều không cần bàn luận. Tuy nhiên, những hậu quả tiêu cực cũng không nhỏ nếu xét cả về trước mắt cũng như lâu dài. Xét trên khía cạnh môi trường sinh thái, việc áp dụng các loại giống mới đòi hỏi tăng cường phân hoá học là thứ gây ô nhiễm không chỉ cho môi sinh mà còn cho chính bản thân con người. Các loại sinh vật sống trong môi trường nước như tôm, cá, cua, bị tiêu diệt nhiều. Khả năng kháng thuốc của một số loài sâu, rầy đã là hiện thực. Thống kê về tác hại của các loại thuốc sâu đối với con người cho thấy: 37% nông dân bị hỏng móng tay, 40% thấy khó thở, 39% nhịp tim bất thường và các triệu chứng khác trên mặt, da và hệ thần kinh. Một trong những nguy cơ của việc đưa các chế phẩm sinh học là những hoóc môn kích thích tăng trưởng cuả vật nuổi vào sản xuất là nguồn gây bệnh ung thư, thấp khớp và da liễu. Vấn đề phát triển nông nghiệp giờ đây đã được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh, trong đó việc gắn sự phát triển của nó với bảo vệ môi trường sinh thái là mối quan tâm của các quốc gia. Do đó công nghệ sinh học trong nông nghiệp không chỉ là tạo ra nhiều giống cho năng suất cao mà là tạo ra những giống mới dùng ít phân bón hơn, có khả năng chống chịu sâu rầy hơn. Theo đánh giá của nước ngoài về tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam là còn kém so với Mỹ, Thái Lan và ấh Độ vì hạt gạo quá ngắn và chịu ảnh hưởng xấu do sử dụng quá nhiều phân hoá học và thuốc trừ sâu. Họ cho rằng khoảng 10 năm nữa thì chất lượng lúa gạo của Việt Nam mới bằng chất lượng của Mỹ và Thái Lan. Chính vì chất lượng thấp mà giá xuất khẩu gạo và các hàng nông sản của Việt Nam mới thấp hơn của thế giód. Bởi vậy, theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước đòi hỏi phải tăng cường các cơ sở nghiên cứu, thực nghiệm khoa học kết hợp với việc mở rộng các cơ sở khuyến nông nhằm phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ cho nông dân. Bài học

93

của tỉnh Cần Thơ là tỉnh kết hợp với trường Đại học Cần thơ và Viện lúa đồng bằng Sông Cửu Long đầu tư hàng tỷ đồng để nghiên cứu, xây dựng cơ sở và tổ chức khuyến nông tới nông dân. Các hộ nông dân đã thực hiện chương trình IPM (kỹ thuật phòng trừ dịch hại tổng hợp), nhờ vậy mỗi ha canh tác lúa có thể tiết kiệm được từ 300.000 đến 500.000 đồng/vụ do giảm lượng phân hoá học, thuốc trừ sâu [43].

Chất lượng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta chưa cao còn có

lý do quan trọng nữa đó là vấn để giống. Do đó cần triển khai công tác nghiên cứu, thử nghiệm các giống mới, đáp ứng yêu cầu về năng suất cũng như chất lượng, khả nãng phòng trừ sâu bệnh ...

Hiện nay ở các thành phố lớn lượng rác thải là vô cùng lớn, đã có một số cơ sở chế biến nguồn rác thải đó thành phân vi sinh cho nông nghiệp,

nhưng không đáng kể, nên chăng chuyển việc đầu tư cho mở rộng và xây dựng mới các nhà máy sản xuất phân hoá học bằng xây dựng các cơ sở chế biến nguổn rác thải thành phân vi sinh cho nông nghiệp. Như vậy sẽ vừa bảo đảm tận dụng, vừa xử lý hợp lý các nguồn phế thải và giữ cho môi trường sinh thái tốt nhất.

- Vấn đề cơ giới hoá nông nghiệp:

Trong những năm hợp tác hoá, vấn đề cơ giới hoá đã được đặt ra. Do nhận thức sai lầm về sản xuất lớn là phải đưa máy móc lớn vào nông nghiệp nên việc nhập các máy móc nông nghiệp lớn như máy cày, máy kéo lớn, máy gặt đập liên hợp đã không đem lại hiệu quả, phá vỡ tầng đất canh tác vốn đã mỏng của đồng ruộng, làm cho năng suất giảm. Việc đầu tư cơ khí lớn đã phá vỡ các cơ cấu hạ tầng nông thôn, tạo ra tâm lý coi thường cơ khí nhỏ, công cụ cải tiến và công cụ cầm tay vốn thích hợp với trình độ của nông nghiệp thời gian này. Tỷ lệ giữa số đầu máy và số lượng công nhân sử dụng không cân đối, yêu cầu là 1 máy 3 công nhân, nhưng thực tế chỉ đạt 1/1, trình độ tay nghề lại thấp, do đó tỷ lệ máy huy động vào sản xuất rất thấp: cả nước chỉ đạt 53%, hệ số sử dụng công suất của máy kéo chỉ đạt 46% [6(14)]. Từ khi các hộ

94

nông dân được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các hộ có điều kiện đã đầu tư mua máy móc làm giảm nhẹ mức độ năng nhọc của công việc, nhưng đây chỉ là số ít. Vì vậy, cần phải tăng cường trang bị, sử dụng máy trong các khâu năng nhọc, thời vụ khẩn trương, kết hợp hài hoà nguồn động lực hiện có góp phần khai hoang tảng vụ, mở rộng diện tích. Để sử dụng tối đa công suất của máy thì các hợp tác xã dịch vụ sản xuất nông nghiệp phải phát huy tốt vai trò của mình trong công tác khuyến nông để hướng dẫn giúp đỡ, bà con nông dân về cách sử dụng máy móc. Mặt đặc trưng của nông nghiệp Việt Nam là đất đai của các bộ nông dân nhỏ bé, do đó hướng cơ giới hoá nên tập trung vào cơ giới nhỏ là chủ yếu chứ không phải là cơ giới lớn.

- Công nghệ sau thu hoạch:

Công nghệ sau thu hoạch bao gồm nhiều khâu từ bảo quản cho tói chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm . Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường và tham gia vào thị trường thế giới, công nghệ này càng trở nên quan trọng. Theo số liệu của Viên nghiên cứu kỹ thuật Mỹ, đầu thế kỷ 20, trong 100 USD mà người tiêu dùng mua sản phẩm từ nông nghiệp thì có 60 USD là giá trị do người nông dân làm ra, 40 USD là giá trị do ngành chế biến tạo nên. Đến cuối thế kỷ 20, tỷ lệ này đã thay đổi rất lớn: chỉ có 22 USD do nông dân làm ra, còn 78 USD là nhờ công đoạn chế biến. Như vậy, cùng một đơn vị sản phẩm nông nghiệp, hoạt động chế biến đã nâng giá trị lên gần 4 lần [14]. Công nghệ chế biến càng tinh xảo, hiện đại, phong phú thì sản phẩm càng hấp dẫn, khả năng chiến thắng trên thương trường càng cao.

Chương trình phát triển của Liên hợp quốc cho rằng việc cố gắng để cải tiến xử lý sau thu hoạch các loại hạt cũng có ý nghĩa vể mặt sản xuất như chính những nỗ lực nhằm nâng cao sản lượng thu hoạch lương thưc. Họ cho rằng mặc dù không có một ước tính đáng tin cậy về tỷ lệ hư hao sau thu hoạch nhưng có thể tỷ lệ đó lên tới 15% sản lượng và sự tổn hao về chất lượng gây nên sự tổn hao về giá trị, còn lớn hơn sự tổn hao về số lượng.

95

Sản xuất nông nghiệp phát triển, sản phẩm nông sản nhiều lên, nhất là đối vói những vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung, qui mô lớn thì những vấn đề đặt ra đối vói khâu bảo quản, khâu chế biến đang là mối quan

tâm của người sản xuất. Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ chế biến của ta lạc hậu, phần lớn thiết bị tuổi từ 15 - 20 năm, nhiều nhà máy có thiết bị tuổi 30 - 40 năm, thậm chí tời 70 - 80 năm.

Chỉ có công nghệ chế biến lương thực là phát triển cả về quy mô và chất lượng. Về chế biến lương thực thì hiện nay các cơ sở xay xát tư nhân có xu hướng phát triển mạnh với các quy mô khác nhau, công suất từ 3 - 10 tấn/ca hoặc lớn hơn. Các doanh nghiệp quốc doanh từ khi lưu thông chuyển sang cơ chế thị trường đã giảm nhiều, có doanh nghiệp phải ngừng hoạt động. Nguyên nhân là do giá thành cao, chất lượng thấp: chi phí cho xay xát một tấn gạo của nhà máy xay xát quốc doanh từ 70.000 đồng đến 80.000 đồng, còn ở các cơ sở chế biến tư nhân chỉ từ 40.000 đồng đến 50.000 đồng. Hiện nay các tụ điểm xay xát thóc gạo đã xuất hiện ở nhiều nơi như ở đồng bằng Sông Cửu Long, trong gần 100 huyện, mỗi huyện có 40 - 50 nhà máy xay xát tư nhân công suất 5-10 t ấ n /c a trở lên, có tư nhân đầu tư tới 2 tỷ đồng xây dựng cơ sở xay xát với cồng suất 60 tấn/ca. ờ miền Bắc, nhiều bộ gia đình đã trang bị máy xay xát. Huyện Mỹ Văn, Hải Hưng có 330 hộ tham gia chế biến lương thực, có 40 máy xay xát, hàng năm chế biến tới 8.000 tấn thóc. Xã Đức Giang và Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, từ 1990 đến nay hình thành trung tâm xay xát thóc gạo với 150 doanh nghiệp, hàng năm xay xát tói 900 tấn thóc. Sự phát triển của các cơ sở chế biến lương thực đã góp phần nâng cao chất lượng và đưa giá gạo xuất khẩu lên cao: năm 1989 có 85% gạo xuất khẩu có tỷ lệ tấm 15-25%, chỉ có 15% gạo có tỷ lệ tấm 5%, hiện nay gạo 5% tấm đạt trên 70%, giá gạo từ 188,7 USD/tâíh năm 1989, đến năm 1995 đạt 300 USD

[11(3)1.

96

Ngoài xay xát, chế biến gạo xuất khẩu, các cơ sở còn chế biến lương thực thành các sản phẩm ngon miệng, thuận lợi cho tiêu dùng như: bún, bánh, bột.

Công nghệ chế biến thực phẩm thì còn kém: Công nghệ chế biến còn thô sơ, chủ yếu là sơ chế. Tỷ lệ nông sản qua chế biến còn ít: mía, đường 16%, chè 40%, rau quả 5%, thịt 1,5% còn lại là chế biến thủ công hoặc không qua chế biến [44(37)]. Sản phẩm thịt chỉ có thị trường Nga chấp nhận, còn rau quả chỉ có ba thị trường là Nga, Tây Ban Nha và áo. Trên cả nước, loại dây chuyền đánh bóng và phân loại cà phê tương đối hiện đại còn rất ít, do đó giá cà phê của Việt Nam thấp hơn giá quốc tế. Từ thực trạng trên cho thấy để nâng cao giá trị của nông sản hàng hoá trong nông nghiệp, giảm tỉ lệ hư hao sản phẩm sau thu hoạch thì phải thúc đẩy việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Trên cả nước phải phân bổ một hệ thống công nghiệp chế biến với các loại quy mô lón tập trung ở các thành phố, đô thị lớn; Quy mô vừa và nhỏ

ở nông thôn gắn với các vùng sản xuất nguyên liệu, úng dụng các tiến bộ kỹ

3.2.23. Phát triển cơ sở hạ tầng phù họp với nền nông nghiệp hàng hoá

sản xuất lớn

thuật đã có về chế biến các hạt và các loại củ thành tinh bột phục vụ cho nghành công nghiệp thực phẩm, chế biến thức ăn chăn nuôi hoặc xuất khẩu. Còn xây dựng thêm các cơ sở chế biến thức ăn gia sức quy mô vừa và nhỏ, cung cấp thức ăn tổng hợp có chất lượng tốt, giá cả hợp lý để đáp ứng yêu cầu chăn nuồi cung cấp thức ăn bổ sung cho người, gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản. Việc mở mang công nghiệp chế biến, vừa nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản lại vừa giải quyết thêm việc làm cho người lao động.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng thích hợp.

Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn là một vấn đề lớn, tốn nhiều chi phí. Nhưng kết cấu hạ tầng được xem là mạch máu

97

sản xuất và lưu thông hàng hoá. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng phảt trên cơ sở

quy hoạch và định hướng, nhằm tạo ra sự đồng bộ trong xây dựng và phải đầu tư qua các dự án. Vì vậy cần có sự phối hợp cùng sự thực hiện giữa Nhà nước và nhân dân , giữa Nhà nước, các nghành với địa phương.

Xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là một nội dung quan trọng của HĐH nông thôn. Hiện tại các cơ sở này vừa thiếu lại vừa yếu

kém và lạc hậu. Nghiêm trọng nhất là đường giao thông.

Hiện nay, giao thông vận tải trên địa bàn nông thôn nưóc ta còn rất nhiều khó khăn, hạn chế. Đặc biột các vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh miển núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều xã chưa có đường ôtô. Vì vậy, nhiều nơi nông dân sản xuất ra sản phẩm không thể đưa tới thị trường được, hoặc đưa tới thị trường với chi phí vận chuyển quá cao,

làm cho người sản xuất không có lãi đang ià cản trở lớn đối với sản xuất nông nghiệp nước ta. Từ thực trạng trên, trước mắt cần táng cường công tác duy tu, bảo dưỡng và từng bước nâng cấp những công trình hiện có để khai thác tối đa khả năng hoạt động, phát huy tác dụng của chúng. Nhưng đồng thời phải quy hoạch, mở rộng và xây dựng mới những đường giao thông thiết yếu nhất theo

hướng ưu tiên cho các công trình trọng điểm đầu mối.

Tăng cường xây dựng đường tới tất cả các huyện lỵ, xã mà hiện nay chưa có đường ôtô tới. Những nơi vượt sông lớn chưa có cầu phải bố trí ngay phà; các xã có đường thì nâng cấp để đảm bảo đi lại bốn mùa, ở vùng núi cao do đặc điểm dân cư thưa thớt và kinh tế chưa phát triển, nên làm đường từ huyện đến các cụm xã... Đường đến xã, bản làng, địa hình hiểm trở, trước mắt làm đường dân sinh cho xe hai bánh, ngựa thồ đi lại được. Những vùng mạng lưới giao thông khá lớn, phải nâng cao chất lượng mặt đường.

Khuyến khích tư nhân tự mua sắm phương tiện vận tải xe, thuyền và tiến hành kinh doanh phục vụ, chuyên chở hàng nông phẩm, đặc biệt hàng nông phẩm tươi sống được kịp thời.

98

Mặt khác, cần ưu tiên phát triển đồng bộ và hiện đại hoá một số hệ

thống, công trình giao thông, điện, thông tin liên lạc... Nhằm tạo ra khả năng, cơ hội mới cho việc mở rộng, nâng cấp năng lực và chất ỉượng hoạt động của tổng thể các hệ thống công trình kết cấu hạ tầng.

Đối với đồng bằng ven biển, ven đô thị: chủ yếu giải quyết các vấn đề giao thông, cấp điện, cấp năng lượng, cấp nước, thông tin liên lạc và nâng cấp các

cơ sở dạy nghề, tạo nên một động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, nông nghiệp - nông thôn.

Đối với vùng miền núi vùng trung du, vùng xa: chủ yếu tập trung cho

kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, cấp nước, thông tin liên lạc.

Ngoài ra, cần đầu tư xây dựng các thị trấn, thị tứ làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các địa bàn nông thôn; hoàn thiên hệ thống chợ nông thôn, xây dựng các chợ bán buôn ven các đô thị lớn, ở các vùng hàng hoá tập trung và các chợ vùng biên...

Tóm lại, xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ nòng nghiệp là một công việc đòi hỏi nguồn vốn lớn, đòi hỏi phải có sự điều tra, quy hoạch và kế hoạch hợp lý khoa học. Vì vậy, cần phải có sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và hỗ trợ vốn của Nhà nước thì công việc này mói có khả năng tiến triển tốt.

3.22.4. Vốn đầu tư cơ bản:

Trong những năm gần đây, lượng vốn tuyệt đối đầu tư cơ bản cho nông nghiệp đêu tăng qua các năm: 1990 là 409,1 tỷ đồng; 1992 là 639,8 tỷ đồng; 1994 là 1500 tỷ đồng; 1996 là 2380,4 tỷ đồng (giá hiện hành). Nhưng tỷ trọng đầu tư cơ bàn cho nông nghiệp sovói tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế quốc dân lại giảm dần (Xem bảng7).

Kinh nghiệm thế giới cho thấy muốn có tỷ lệ gia tăng GDP trong nông nghiệp hàng năm từ 3 - 3,5% thì tỷ lệ vốn dành cho nông nghiộp không nhỏ hơn 30% tổng vốn đầu tư của Nhà nước [5(131)]. Quan điểm của chúng tôi cho rằng vấn đề không hẳn là đầu tư nhiều hay ít mà là xem xét viộc đầu tư

99

vào đâu sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong điều kiện nguồn vốn có

hạn, cần đầu tư vào hệ thống giao thông, hệ thống chuyển tải thông tin, hệ thống điện và các cơ sở bảo quản, chế biến nông sản. Đây chính là những hàng hoá công cộng mà người nông dân cần trong điều kiện hiện nay. Chính sách công nghiệp hoá vùng đã đưa ra 3 tam giác tăng trưởng với các thành phố trọng điểm là Hà Nội, Quảng Nam - Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh không ngoài mục tiêu nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khó có khả năng sự phát triển của các tam giác tăng trưởng sẽ đem lại sự phát triển đồng đều giữa các vùng thành thị và nông thôn vì trong nền kinh tế cần có sự liên kết cả hai chiều thì mới tạo ra sự phát triển vững chắc. Trong khi đó những điều kiện cho sự liên kết ngược lại ở các vùng nông thôn đối với các tam giác tăng trưởng còn chưa sẵn có đó là cơ sở hạ tầng và những thể chế cho phép huy động mọi nguồn lực cho phát triển nông thôn. Do đó các khoản đầu tư cần tạo điều kiện cho các vùng nông thôn phát triển, trước hết là đầu tư vào lĩnh vực giao thông.

Bảng 7 : Tỷ trọng vốn đầu tư cơ bản của Nhà nước cho nông, lâm, ngư nghiệp.

1995 1996 1994 Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993

100 100 Toàn nền KTQD 100 100 100 100 100

9,4 13,7 13,2 12,7 11 11,5 Nông nghiệp 15,0

Lâm nghiệp 2,0 2 1,0 1,2 1,9

0,52 Thuỷ sản 0,7 0,46 0,6 0,8 0,34 1,7

Nguồn: [45(92,93)]

Đầu tư xây dựng vào đường giao thông nông thôn là chính sách tác động mạnh mẽ nhất vào sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Theo các chuyên gia nước ngoài, chỉ số ICOR của vốn đầu tư vào lĩnh vực này thuộc loại thấp nhất, nghĩa là hiệu quả thu được cao nhất trong các hạng mục đầu tư. Xét cả về mặt ngắn hạn và dài hạn thì đầu tư này đều mang lại hiệu quả thiết

100

thực: thông qua hệ thống hạ tầng này nông dân mới tiếp cận được với thị trường một cách thuận tiện, giảm các chi phí giao dịch, nâng cao giá trị hàng hoá nông sản. Nhờ sự giao lưu với thị trường thuận tiện, người nông dân có khả năng nhạy bén thị trường hơn, họ biết đầu tư vào sản phẩm nào để có lợi nhuận cao nhất. Mặt khác, xét về mặt xã hội thì đầu tư cho hệ thống giao thông sẽ phân phối lợi ích của công cuộc đổi mói kinh tế rộng khắp, cho mọi cá nhân. Tuy nhiên, vốn cho hạng mục đầu tư này là không nhỏ, các hộ nông dân không thể có khả năng, cần phải huy động mọi nguồn từ nguồn của Nhà nước đến các nguồn vốn đầu tư nước ngoài và của nông dân. Với các công trình lớn nguồn vốn chủ yếu là của Nhà nước, có thể huy động công sức của dân, với các công trình vừa và nhỏ kết hợp phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm".

Việc đầu tư mở rộng mạng lưới điện, mạng lưới thông tin ở nông thôn sẽ mở ra khả năng nâng cao đòi sống văn hoá và tình thần cũng như nâng cao năng lực sản xuất của các hộ nông dân. Trong những năm gần đây, mạng lưới điện đã được trải rộng ra trên toàn quốc. Tuy nhiên, việc giá điện ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành phố đã làm giảm khả năng ứng dụng chúng vào sản xuất, chủ yếu họ dùng để thắp sáng. Đây là vấh đề Nhà nước cần quan tâm tránh cho người nông dân bị thua thiệt.

Trong khi tỉ trọng đầu tư vốn của Nhà nước cho nông nghiệp đang giảm dần thì đầu tư cho công nghiệp, đô thị lại gấp nhiểu lần so với đầu tư cho nông nghiệp, tuy dân số của thành thị chỉ chiếm 20% tổng số dân của cả nước. Cùng với mức đầu tư thấp là tình hình đầu tư dàn trải, không kịp thời, phương thức cấp phát vốn còn quá nhiều tầng nấc trung gian và thủ tục, tình trạng nhiều "cửa" và nhiều "ngoại lệ" còn phổ biến, đã dẫn đến hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn bị giảm đi.

Tóm lại để đảm bảo vấh đề đầu tư vốn từ ngân sách Nhà nước cho phát

triển nông nghiệp được tốt hơn cần có các giải pháp sau:

101

Một là, Nhà nước cần có chính sách tạo nguồn vốn để tăng đầu tư cho

nông nghiệp.

Trong điều kiện vốn đầu tư của Nhà nước còn hạn hẹp thì cần có cơ chế và chính sách thích hợp để huy động tiềm năng vốn của các doanh nghiệp, của các hợp tác xã, của các hộ nông dân và vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Nếu không có các nguồn vốn kể trên, đặc biệt là

các nguồn vốn từ các hộ nông dân thì dù vốn đầu tư của Nhà nước có tăng lên, vẫn không đáp ứng được mọi yêu cầu của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp.

Hai là, Đổi mới phương thức đầu tư trong nông nghiệp, giảm dần tỷ trọng đầu tư trực tiếp qua ngân sách, tăng dần tỷ trọng đầu tư gián tiếp qua tín dụng. Đầu tư trực tiếp của ngân sách Nhà nước chỉ nên tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn: điện, đường, trạm trại nghiên cứu khoa học và thực nghiệm. Các công trình khác cần sử dụng vốn vay với lãi suất thấp để đầu tư. Với phương thức nói trên, các cơ quan quản lý nông nghiệp buộc phải chấp nhận những đổi mới và xoá bỏ dần tình trạng bao cấp, tham nhũng, phiên hà trong việc xét duyệt, cấp phát và sử dụng vốn đầu tư. Một khi vốn đẩu tư cho nông nghiệp chủ yếu lấy từ vốn tín dụng thì bắt buộc các cơ quan quản trị, nghiên cứu khoa học và hộ sản xuất phải tính toán, lựa chọn phương án sử dụng vốn hiệu quả hơn.

3.22.5. Về tín dụng:

Trong quá trình chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, nhu cầu về vốn tín dụng cho nông nghiệp cũng ngày càng tăng lên.

Phần lớn nông dân nước ta còn nghèo, nhiều hộ nông dân không có vốn tích luỹ để mở rộng sản xuất, trong đó một tỷ lệ không nhỏ còn không có vốn để tái sản xuất giản đơn. Các cuộc điều tra kinh tế - xã hội do nhiều tổ chức khác nhau tiến hành đều cho thấy một kết quả chung là tuyột đại bộ phận (70%-90%) số hộ nông dân có nhu cầu vay vốn sản xuất - kinh doanh. Những

102

hộ khá giả và trung bình cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Những hộ

nghèo cần vốn để vượt ra khỏi tình trạng nghèo đói do thiếu việc làm và không có nguồn thu nhập ổn định. Thiếu vốn là nguyên nhân hàng đầu cản trở sự mở rộng các hoạt động sản xuất - kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn. Tuy nhu cầu vay vốn ở các hộ có khác nhau, song nếu tính bình quân mỗi hộ nông dân cần vay ngắn hạn khoảng 2 triệu đồng cho thời

gian một vị sản xuất thì số vốn cần cho 12 triệu hộ trong cả nước vay trong một năm sẽ là 24.000 tỷ đồng. Đó là chưa kể đến những nhu cầu vay vốn dài hạn và trung hạn hiện cũng là vấn đề cấp bách đối với những công việc kinh doanh có thời gian quay vòng vốn lâu và quy mô kinh doanh lớn. Như vậy, nhu cầu tín dụng của nền nông nghiệp nước ta hiộn nay là rất lón.

Thực hiên nghị quyết Trung ương 5, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường và mở rộng mạng lưới ngân hàng nông nghiệp phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Tính đến cuối tháng 5/1995, tổng dư nợ cho vay đối với khu vực nông thôn là 12.300 tỷ đồng, chiếm 28,6% tổng dư nợ cho vay; Trong đó dư nợ cho vay đối với hộ nông dân đạt 6.800 tỷ đồng (nợ quá hạn chiếm 3,2%) với 3,8 triệu lượt hộ, chiếm 37% tổng số hộ nông dân.

Từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo đã thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo năm 1996. Tính đến cuối năm 1996, tổng nguồn vốn đã lên tới 1520 tỷ đồng, hộ nông dân nghèo đã được vay tối đa 2,5 triệu đồng, thời hạn 3 năm, không phải thế chấp tài sản và được hưởng lãi suất ưu đãi (từ 1,2% tháng năm 1995 đã giảm xuống dưới 1% tháng năm 1996).

Đối với các hộ nông dân ở miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc được giảm 15% so với lãi suất cho vay chung. Ngoài ra ở nông thôn, các hộ vay dưới mức 500 ngàn đồng không phải thế chấp tài sản, không phải mua giấy tờ lập hồ sơ vay vốn.

Với các chính sách trên đây, Ngân hàng đã góp phần phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giúp đỡ nông dân vượt quá nghèo khổ. Tuy nhiên, lượng vốn của ngân hàng mới đáp ứng 50% nhu

103

cầu vốn của nông dân, trong đó tỷ lệ cho vay vốn trung, dài hạn còn rất ít chỉ chiếm dưới 10% doanh số cho vay, mạng lưới tín dụng tuy đã được tăng cường nhưng còn mỏng, thủ tục cho vay chưa thuận tiện, lãi suất cho vay ở nông thôn lại cao hơn ở thành thị 0,2%, là điều bất hợp lý nhưng chậm sửa đổi.

Xu hướng chung của các hộ nông dân vay vốn chủ yếu để đấu thầu các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, trồng cầy công nghiệp, chè, cà phê, cao su, điều, cây ăn quả, mua vật tư nông nghiệp phục vụ thâm canh, mở rộng ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp. Yêu cầu của các hộ là muốn vay vốn trang hạn và dài hạn vói số lượng lán. Vì vậy, các ngân hàng nên tạo điều kiện thuận lợi để trong cơ cấu vốn vay, tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn có xu hướng ngày càng tăng.

Cho đến nay, có rất nhiều nguồn vốn của các đơn vị kinh tế Nhà nước, các tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài cho nông dân vay. Việc thành lập quỹ tín dụng nhân dân ở xã đã không chỉ tạo thuận lợi cho hộ nông dân vay vốn mà còn huy động được vốn tại chỗ để tăng tổng nguồn vốn cho hộ nông dân vay. Do vậy, tới đây cần phải mở rộng mô hình này, tuy nhiên ngoài sự hỗ trợ giúp đỡ hướng dẫn của hệ thống ngân hàng Nhà nước về vốn, nghiệp vụ... còn rất cần cơ chế quản lý giản đơn, phù hợp với trình độ đa số bà con nông dân, đồng thời có chế độ báo cáo, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của quỹ để tránh rủi ro, phá sản như trước đây.

Ngoài ra cần có những biện pháp giảm chi phí vay tín dụng của nông

dân hiện nay.

Chi phí tín dụng hiện nay còn quá cao. Chi phí vay tín dụng không phải chỉ gồm lãi suất phải trả mà gồm cả các chi phí khác như chi phí di chuyển đến nơi cho vay, ăn ở dọc đường và thời gian chờ đợi, phí giấy tò, thủ tục để đáp ứng yêu cầu của ngân hàng và phí tổn ngày công không làm việc được vì phải di chuyển. "Theo một tính toán ở trong nước, phí ngân hàng không kể lãi suất có nơi lên đến 20% vốn được vay".

104

Với chi phí này, nông dân còn phải chịu chi phí cao hơn cả lãi vay từ

khu vực phi chính thức hiộn nay. Vì vậy, cần phải có biện pháp để giảm chi phí vay tín dụng của nông dân xuống.

Đưa hệ thống túi dụng đến gần nông dân là biện pháp giải quyết, nhưng ngược lại trải rộng quá hệ thống tm dụng đến vùng ít người lại tốn kém cho ngân hàng và do đó nâng cao phí dịch vụ ngân hàng phải tính với người vay. Để phục vụ

3.2 2 .6 . Vê thuế:

những nơi ít người và những nơi ngân hàng chưa thể xây dựng, nên mở rộng các đội ngân hàng lưu động và cả vãn phòng bưu điện sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của nông dân và hạ thấp được chi phí vay vốn tín dụng hiện nay.

Thuế là một trong những chính sách tài chính quan trọng được Nhà nước sử dụng để tác động vào nền nông nghiộp hàng hoá. Thông qua chính sách thuế Nhà nước có thể huy động một phần thu nhập của nông dân vào ngân sách, đổng thời là một đòn bảy kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo thu nhập của nông dân.

Thực hiộn nghị quyết Trung ương 5, luật thuế nông nghiệp được thay bằng Luật thuế sử dụng ruộng đất, đã có tác dụng tích cực đến việc thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi trong nông, lâm, ngư nghiệp, thực hiện từng bước công bằng xã hội, trong nông thôn, nhưng một số điểm trong luật thuế và việc tính thuế ở các địa phương cần phải làm rõ.

Mức thu thuế theo phân hạng ruộng đất, việc phân dạng ruộng đất có tính đến chế độ tưới tiêu nước, do đó trên cùng một mảnh ruộng nông dân đã phải nộp thuế sử dụng đất và thuỷ lợi phí (theo quy định thuỷ lợi phí bằng 2,4% sản lượng tính thuế).

Luật thuế đã dựa chủ yếu vào chế độ canh tác lúa để phân hạng ruộng đất tính thuế, từ đó quy định diện tích ao, mặt nước nuôi cá được tính thuế như đất ruộng, đất vườn chỉ tính thuế cao hơn đất ruông 1,3 lần. Thực tế thu nhập trên các loại đất này đã cao hơn gấp 5 - 10 lần so với đất lúa vì vậy đã không

105

đảm bảo công bằng cho người sản xuất lúa lại khuyến khích họ thu hẹp dần diện tích lúa để chuyển sang mục đích khác có lợi hơn.

Khoản phụ thu trên diện tích đất quá hạn điền, thực tế có thu được, nhưng hiệu quả là ruộng đất bị phân tán và rõ ràng đã hạn chế khả năng tích tụ, tập trung ruộng đất để sản xuất hàng hoá.

Về mức ghi thu thuế tuy luật thuế sử dụng đất nông nghiệp có giảm so vói luật cũ khoảng 2% (từ 10% sản lượng giảm xuống còn 8%), nhưng thực tế nông dân ở nhiều nơi vẫn còn phải nộp thuế ở mức ghi thu trên 10%.

Các loại thuế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn chưa có quy định cụ thể, dẫn đến địa phương vận dụng tuỳ tiện: có nơi buông lỏng, bị thất thu, nhưng cũng có nơi lại thu quá cao làm kìm hãm phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Để quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp , nông thôn giảm bất hợp lý, đảm bảo công bằng xã hội giữa các hộ nông dân và giữa nông dân với các tầng lớp khác trong xã hội. Cần phải rà soát lại mức ghi thu, lập sổ bộ

thuế cho từng hộ gia đình và giảm tỷ lệ nộp thuế, thay vì phải trợ giá mua nông sản hàng năm mà thực tế nông dân không được hưởng chuyển sang hình thức thu thuế khác (gián thu, thu nhập ...)

Mặt khác, theo chính sách thuế hiện hành, hàng năm Nhà nước thu 8% sản lượng thu hoạch, như vậy là quá cao so với các nước trên thế giới. Trung Quốc là nước có mức thu thuế nông nghiệp cao cũng chỉ chiếm 5% sản lượng, những nước khác chỉ thu 2 - 3%, hoặc không đánh thuế nông nghiệp.

106

Hơn nữa, nông dân nước ta còn nghèo, phần lớn không có vốn tích luỹ để đầư tư mở rộng sản xuất, đối với một bộ phận nông dân ở vùng núi cao đời sống còn rất khó khăn. Vì vậy, giảm mức thuế nông nghiệp nói chung và miễn thuế nông nghiệp cho nông dân ở vùng núi cao sẽ tạo điều kiện cho nông dân có thêm vốn để tái đầu tư phát triển sản xuất và cải thiện đời sống cũng là giải pháp cần thiết đối vói sự phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở nước ta hiện nay.

3.22.7. Chính sách thị trường và tiêu thụ nông sản hàng hoá:

Mục tiêu bao trùm của chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là: đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng và phong phú của người tiêu dùng (kể cả tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cuối cùng) về số lượng, chất lượng, địa điểm, thòi gian, chủng loại và giá cả ổn định.

Trong giai đoạn trước mắt, thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp cần tạo nên một thị trường nông thôn sôi động hơn, muốn vậy chính sách thị trường phải hướng vào việc tạo điều kiện và nâng cao sức mua của cư dân nông thôn. Các chính sách đó hướng vào việc thúc đẩy sản xuất của người nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá. Nghĩa là tạo nên một nguồn cung dồi dào với tính đa dạng và phong phú của chủng loại sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tăng cường xuất khẩu. Tăng thu nhập cho cư dân nông thôn để mở rộng và tạo nên những cầu mới. Một trong những vấn đề quan trọng trong chính sách thị trường và tiêu thụ nông sản là bảo đảm một chính sách giá thích hợp có tác

dụng cân bằng và điều tiết thị trường nông thôn.

Để đạt được mục tiêu trên, trong chính sách thị trường và tiêu thụ nông

sản cần hướng vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Mội là, hình thức tổ chức dự báo thị trường. Mở rộng các hình thức

H a i là, bằng nhiều biện pháp đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước,

thông tin kinh tế thích hợp để tăng thêm khả năng tiếp thị.

giải quyết việc làm, tăng thu nhập để tăng sức mua của thị trường nội địa. Mở rộng lưu thông hàng hoá giữa các vùng, các miền trong nước và ngoài nước để

đẩy mạnh tiêu thụ nông phẩm.

Ba là, mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Duy trì, phát triển với thị trường truyền thống, đồng thời, mở rộng các thị trường mới. Xây dựng các Hiệp hội sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu, tham gia các hiệp

107

B ố n là, điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt, hợp lý. Miễn hoặc

hội thế giói. Nhà nước xoá bỏ các thủ tục và quy định lỗi thời, tạo điều kiện cho các tổ chức này chen chân vào thị trường quốc tế.

N ă m là, bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng không làm mất động lực

giảm thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu nông sản. Khuyến khích việc thay thế nhập khẩu những mặt hàng sản xuất trong nước có hiệu quả.

S á u ỉà, có chính sách hỗ trợ cho nông dân khi giá trị thị trường không

cạnh tranh. Nhà nước giữ ổn định giá cả một số sản phẩm thiết yếu, phát triển các hình thức bảo hiểm để khắc phục rủi ro trong sản xuất - kinh doanh.

B ả y là, Khuyến khích các hợp đổng tiêu thụ sản phẩm ổn định, lâu dài

đủ bù chi phí sản xuất, tránh tình trạng đầu cơ ép giá của các khâu trung gian, kể cả của các công ty quốc doanh.

giữa các cơ sở chế biến và kinh doanh nông sản với nông dân.

3.2.3.

Những giải pháp xã hội trong quá trình phát triển nông nghiệp

hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá:

3 .2 3 .1 . V ề lao động, việc làm , p h â n b ổ ỉao đ ộ n g giữa các vùng ở nông

thôn:

Một số nước thực hiện phát triển nông nghiệp hàng hoá đến một mức nào đó mới vì nông dân, nhưng chúng ta phát triển nông nghiệp hàng hoá trong tiến trình công nghiệp hoá định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên ngoài mục tiêu về lợi nhuận đồng thời phải chú ý vấn đề xã hội.

Trong quá trình phát triển vấn đề giải quyết lao động nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, điều hoà giàu nghèo, giáo dục, y tế phúc lợi xã hội của người dân nông thôn luôn là một vấn để cấp bách.

- Về vấn đề lao động và việc làm:

108

Hiện nay dân số ở nông thôn vẫn còn chiếm 80% dân số cả nước, lực lượng lao động trong nông nghiệp chiếm trên 70%, đây là sự thách đố lớn đối

với sự phát triển của nông nghiệp. Làm sao vừa giải quyết được công ăn, việc làm cho lực lượng đông đảo này, lại vừa tăng thu nhập cho họ trong khi đất đai - thứ tư liệu quan trọng nhất của quy trình sản xuất nông nghiệp lại bị hạn chế. Để giải quyết vấn đề nan giải này, trong những năm qua, sự phát triển của hộ gia đình trong cơ chế thị trường đã từng bước khai thác tiềm năng to lớn này trong nông thôn. Nhưng theo sự tính toán của các chuyên gia thì hiện nay

thời gian lao động dư thừa trong nông thôn còn khoảng 1/3 chưa sử dụng, tương ứng với nó là khoảng 6-7 triệu lao động dư thừa (nếu tính theo bộ luật

lao động năm 1993, lao động nông thôn tính từ 15 tuổi năm 1994 là 30 triệu người thì con số này lên tới 10 triệu người lao động). Đây là một thách đố lớn đối với nông nghiệp. Giải quyết bài toán này, theo chúng tôi, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn phải dựa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất đa dạng, đa ngành nghề, nhất là hình thành công nghiệp và dịch vụ nông thôn, những ngành của làng nghề truyền thống. Đặc biệt các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo vốn, công nghệ mở rộng thị trường, tự do hoá lao động, dịch vụ việc làm, trung tâm dạy nghề, chuyển giao công nghệ, trưóc hết là công nghệ sinh học vào nông thôn để lao động nông thôn nâng cao hiệu quả việc làm trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Về vấn đề phân bổ lao động xã hội

109

Phát triển nhiều ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn cũng là một quá trình phân công lao động xã hội chỉ thực hiện ở nông thôn, ở từng vùng, địa phương, lãnh thổ theo phướng châm "phi nông bất phi hương" rời ruộng không rời làng. Song, trên thực tế một số vùng như đồng bằng Sông Hồng lực lượng lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong lao động nông thôn, diện tích canh tác hạn hẹp những nông hộ đó vẫn phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp nhưng vẫn giữ ruộng sản xuất nông nghiệp vì vậy việc tích tụ ruộng đất khó khăn. Trong lúc ở một số vùng, địa phương khác như Tây Nguyên, Trung du, miền núi ven biển, Hải đảo, Đổng

Nam Bộ là những nơi có đất rộng người thưa, giàu tài nguyên khoáng sản, nhiều loại cây nông - lằm sản có giá trị ỉớn không được khai thác. Vì vậy nên phân công lao động, di chuyển dân giữa các vùng lãnh thổ nông thôn là sự phân bố hợp lý trên địa bàn toàn quốc, trong từng tỉnh, từng huyện làm cho lực lượng sản xuất phát triển, đến khắp trên mọi vùng đất nước. Nhằm kết hợp được sức lao động với đối tượng lao động để khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội và tài nguyên thiên nhiên của mỗi vùng, đẩy nhanh tốc độ phát triển toàn diện, đồng đều về kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đòi sống của nông dân trên toàn quốc. "Tạo chuyển biến nhanh trong việc thực hiện chiến lược dân số cả về quy mô, cơ cấu và sự phân bổ".

Sự phân bổ lao động cần theo yêu cầu: biết kết hợp tốt nhất lao động và tài nguyên thiên nhiên của mỗi vùng, hình thành những vùng chuyên canh nông nghiệp, kết hợp vái đa canh, kết hợp nông lâm ngư trong một cơ cấu cây con hợp lý, hình thành khu vực dân cư mới, nông thôn mới.

Nhà nước cần tập trung tạo vốn đầu tư cơ sở hạ tầng: thuỷ lợi, giao thông, điện nước sinh hoạt, vãn hoá, y tế tạo điều kiện ban đầu để nông dân an toàn sản xuất, có chính sách cho vay vốn, miễn thuế thích hợp ....

Khuyên khích cá nhân và tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đêh đầu tư khai

thác các vùng đất mới đã quy hoạch dưới hình thức nông trại để thu hút lao động.

Mở rộng địa bàn di dân, nhằm mở rộng không gian kinh tế cho di dân, đa dạng hoá các hình thức di dân trong nông nghiệp nông thôn để thích hợp với từng điều kiện các vùng và đối tượng di chuyển.

110

Khuyến khích mọi đối tượng nhận đấu thầu đất, kinh doanh rừng, mặt nước với quy mô hợp lý, được thuê mướn nhân công, đón lao động ở vùng đông dân theo yêu cầu sản xuất. Được quyền quyết định cơ cấu sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm theo cơ chế thị trường. Được liên kết với các hộ có thân nhân ở nước ngoài để nhận giống, vật tư, trao đổi kỹ thuật, hỗ trợ vốn, được chọn, tổ chức uỷ thác xuất khẩu theo pháp luật.

32 .3 .2 . V ề thu nhập:

Hiộn nay, so với thành thị mức sống ở khu vực nông thôn vẫn còn rất thấp, bình quân thu nhập 1 lao động của số hộ thuần nông (1993 - 1994) thấp hơn số hộ có nghề phụ tới 1,4-5 lần, thấp hơn phi nông nghiệp 1,57 lần và thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Mặc dầu hầu hết quỹ thời gian lao động ở nông thôn tập trung vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nhưng cũng

chỉ mang lại 51,44% tổng thu nhập bình quân đầu người mỗi năm, mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn 84% mức bình quân của cả nước và 51,3% mức bình quân của đô thị. Mức thu nhập bình quân năm của hộ gia đình ở nông thôn có chênh lệch đáng kể theo hộ nghẻ nghiệp và theo vùng.

Hiện nay (1994) ở khu vực nông thôn tỷ lệ nghèo còn quá lớn, tỷ lộ này có nơi gấp 15 lần so với khu vực thành thị, ở khu vực thành thị đói 2,4%, nghèo 4,8% trong khi đó ở nông thôn con số tương ứng là trên 10%, và 35- 40% đặc biệt các vùng cao, vùng xa [22(73)].

Cuối năm 1997, cả nước vẫn còn 2,6 triệu hộ đói, chiếm hơn 17,7% tổng số hộ gia đình (khoảng 13 triệu người) trong đó khoảng 90% người nghèo ở nông thôn và 10 % ở thành thị [42(30)].

Nhưng vấn để đặt ra là phải thực hiện tốt chính sách trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất, tạo vốn, tạo thêm nhiều việc làm, nhất là các ngành nghề phi nông nghiệp trong đó có công nghiệp địa phương với những đòi hỏi của thị trường, nâng cao trình độ văn hoá , khoa học, kỹ thuật và trình độ sản xuất kinh doanh cho người nghèo...

3.23.3. Giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội:

- Thực hiện tốt chính sách văn hoá giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho

111

cộng đồng, biện pháp nâng cao dân trí, bảo vệ dân sinh. Đây là chính sách đáp ứng yêu cầu thực tế cũng như công cuộc xây dựng nông thôn mói trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần phải chi ngân sách và huy đông nhiều nguồn để đẩu tư xây dựng nâng cấp các cơ sở văn hoá, giáo dục, y tế ở

nông thôn. Thanh toán nạn mù chữ cho người lao động ở đô tuổi 15-35, thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác nhau, tích cực xoá mù chữ cho nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa và những vùng còn khó khăn, tăng tỷ lệ người lao động qua đào tạo trong tổng số lao động lên 22 - 25% để bảo đảm nguồn lao động có chất lượng trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến vào đời sống kinh tế - xã hội.

- Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi vói những người có công với

nước, các gia đình thương binh, liệt sỹ, những người khó khăn trong cuộc sống, tàn tật, cô đơn, người già không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, chế độ hưu trí, giáo dục văn hoá, y tế, những vùng có công với cách mạng, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên cương hải đảo, những vùng thiên tai, thông qua Nhà nước và sự đóng góp của toàn xã hội.

Tóm lại, xã hội nông thôn ổn định là một yếu tố quan trọng để phát triển nông nghiệp, do đó Nhà nước cần có chính sách xã hội nhằm vào việc nâng cao tính cộng đồng, tinh thần tương trợ, giúp đỡ nhau. Việc phục hồi các tập quan cũ như xây dựng các bản hương ước của từng làng nhằm đưa nông thôn vào nền nếp cần được khuyến khích. Các hộ nông dân phát triển ngành nghề, tạo việc làm ngay tại thôn xóm cần được khuyến khích phát triển. Trong từng thôn xóm đề cao tình làng nghĩa xóm trợ giúp cho những người nghèo khó, những đối tượng thuộc diện chính sách. Trên phạm vi cả nước, xây dựng quỹ "đền ơn, đáp nghĩa", coi đó là nghĩa vụ công dân, nhằm tạo cơ sở kinh tế vững chắc để tài trợ cho các đối tượng xã hội nêu trên. Một vấn đề nữa là chính sách dân số, hiên nay tỷ lệ dân số tăng tự nhiên còn cao, cần tuyên

truyền sâu rộng công tác kế hoạch hoá gia đình trong mọi tầng lớp dân cư, hướng trọng tâm là vùng nông thôn nơi tập trung 80% dân số cả nước.

Kết thúc chương này, có thể rút ra những điểm chính sau:

112

1/ Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường của nền kinh tế Việt Nam đã mở ra cho nông nghiệp những cơ hội để phát triển, đó là sự cở mở của cơ chế quản lý, sự mở rộng thị trường trong nước và thế gìcti. Đồng thời, những

tác động này đặt nông nghiệp trước những thách đố lớn iao: nông nghiệp phải

chuyển biến sâu sắc để hội nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Trong quá trình đổi mới vừa qua, nông nghiệp đã bước đầu bắt nhịp vào tiến trình chuyển sang kinh tế thị trường của nền kinh tế, nhưng những hạn chế của nó cho thấy không thể chỉ riêng bản thân nông nghiệp giải quyết được mà phải có sự tác động của toàn bộ nền kinh tế.

*

*

113

2/ Những mục tiêu mới đặt ra đối với yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá trong quá trình phát triển chung của Iiẻn kinh tế không đơn thuần là việc tăng sản lượng lương thực mà là chuyển dịch cơ cấu, tạo ra cơ sở cho việc tăng thu nhập cho những người làm nông nghiệp, làm cho nông nghiệp trở thành một cực của sự tăng trưởng của đất nước. Để thực hiện những mục tiêu đó, phải tiếp tục phát triển nông nghiêp hàng hoá với sự hỗ trợ của môt loạt các giải pháp cơ bản đã nên ở trên. Như thế mới có khả năng bắt kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế đất nước và mới đủ sức hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giói.

PHẦN KẾT LUẬN■

Nhìn lại sau hơn 10 năm đổi mới, do có quan điểm đúng đắn về vị trí "hàng đầu" của nông nghiệp, chúng ta đã từng bước đưa nền nông nghiệp từ tự cấp, tự túc lên sản xuất hàng hoá. Việt Nam là một nước nông nghiệp trong suốt bao thế kỷ đã cố gắng nỗ lực giải quyết nhiệm vụ cung cấp lương thực cho xã hội, nhưng cho tới cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20 mới đạt được. Chúng ta không những ổn định được lương thực mà còn xuất khẩu một lượng gạo lớn. Nhằm luận giải những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ trước đây, diễn biến của quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá trong những năm gần đây, từ đó nêu lên những giải pháp để tiếp tục quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá trong giai đoạn mói, bản luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau:

Qua việc nhận điện nền nông nghiệp hàng hoá để rút ra kết luận về quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá và điều kiện để hình thành nển nông nghiệp hàng hoá. Từ đó đánh giá nông nghiệp Việt Nam trước và sau đổi mới theo tiêu chí một nền nông nghiệp hàng hoá, và đưa ra những giải pháp để tiếp tục phát triển nông nghiệp hàng hoá ờ nước ta.

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển nông nghiệp hàng hoá phải luôn luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều này đã được khả định trong các kỳ Đại hội VII, VIII và IX. Phát triển nông nghiệp hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa quyết định trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - công - dịch vụ ở nông thôn nước ta. Nó có vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường hiên nay.

114

Khảo cứu quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá ở một số nước có hình thái tự nhiên gần giống ta là Đài Loan, Thái Lan với mục đích đưa ra một số kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; hay là vấn đề giải

quyết công ăn việc làm cho nông dân với chủ chương "phi nông bất phi hương", mặc dù ruộng đất bị phân tán manh mún.

Xem xét tiến trình phát triển nông nghiệp Việt Nam để thấy rằng, trong lịch sử của nông nghiệp Việt Nam đã có một thời gian khá dài, sản xuất nông nghiệp không đảm bảo lương thực cho dân cư, nông nghiệp bị khủng hoảng nghiêm trọng vì thế đòi hỏi phải có những thay đổi to lớn không chỉ là cách thức, bước đi mà là chuyển đổi từ mô hình phát triển kế hoạch hoá tập trung, quan liêu sang mô hình phát triển kinh tế thị trường. Đó chính là sự thay đổi thể chế.

Trong bối cảnh đổi mới, nông nghiệp đã bắt nhịp vào quá trình chuyển sang kinh tế thị trường của nền kinh tế. Con đường phát triển của nông nghiệp giờ đây không chỉ là đảm bảo ván đề an toàn lương thực mà chính là chuyển nông nghiệp thành một Enh vực kinh doanh tức là một nền nông nghiệp hàng hoá.

115

Giờ đây, trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nông nghiệp đứng trước những nhiệm vụ mới: không chỉ là cung cấp lương thực, thực phẩm cho dân cư mà phải trở thành một cực của sự phát triển, thành một lĩnh vực làm giàu cho ngưòi nông dân. Để đạt được những mục tiêu mới, đòi hỏi phải có những giải pháp của Nhà nước tác động vào lĩnh vực này. Luận văn đã nêu lên những giải pháp cơ bản, có tính khả thi để phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó có các giải pháp về thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá; Phát triển khoa học và công nghệ; Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá sản xuất lớn; Điều chỉnh các chính sách đất đai, đầu tư, tín dụng, thuế; và những giải pháp xã hội trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Bích chủ biên - Ghiính sách đầu tư và xây dựng kết cấu hạ

)

tầng ở nông thôn. Thuộc đề tài KX - 08 - 03 - 02, Hà Nội, 1997

2. Nguyễn Văn Bính - Các chính sách, biện pháp hỗ trợ và khuyến khích

phát triển kinh tế nông thốn Hà Nội, 6/1995 (Báo cáo để tài).

3. Nguyễn Văn Bích chủ nhiệm - Đề tài KX 08- 03: Các chính sách, biện pháp hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế nông thôn. Chuyên đề số 6, 1994.

4. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang - Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, 1996, 327 tr.

5. Nguyễn Văn Bích chủ biên - Đổi mới quản lý nông nghiệp, thành tựu, vấn

đề và triển vọng. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, 146 tr.

6. Nguyễn Sinh Cúc - Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt

Nam 1976 - 1990. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1991, 175 tr.

7. Nguyễn Sinh Cúc - Nông nghiệp Việt Nam 1945b - 1995, Nxb Thống kê,

Ha Nội, 1995, 387 tr.

8. Nguyễn Sinh Cúc - Phát triển nông sản hàng hoá - thực trạng và giải pháp.

Con số và sự kiện, số 11 - 1999, tr.6 —> 9.

9. Nguyễn Sinh Cúc - Quan hộ ruộng đất ở nông thôn: 55 năm nhìn lại.

Nghiên cứu lý luận, số 9 - 2000, tr. 27 ->32.

10. Nguyễn Sinh Cúc - Tổng quan nông nghiệp nước ta sau 15 năm đổi mới

(1986 - 2000). Tạp chí cộng sản, số 5, 3/2000, tr. 27—>31.

11. Nguyễn Sinh Cúc - Thực trạng công nghiệp hoá nông thôn ở nước ta. Con

số và sự kiện, số 4 - 1996, tr.l-»4.

12. Chiến lược khoa học công nghệ nông nghiệp nông thôn năm 2020. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Vụ Khoa học công nghệ - Chiến lược sản phẩm, 1998.

13. Đỗ Kim Chung - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông

thôn ở các vùng kinh tế - Lãnh thổ Viột Nam, tr. 41 ->51.

116

14. Công nghệ sau thu hoạch. Báo Nhân dân cuối tuần, ngày 7/5/2000.

15. Dumontr - Đài Loan, cái giá của thành công. Nxb Khoa học xã hội, Viện

Châu á và Thái Bình Dương, Hà Nội, 1991, 231 tr.

16. Trần Văn Doãn - Phát triển cây ăn quả, một hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nghiên cứu kinh tế, số 5-1994, Tr 53—»59.

17. Nguyễn Điền và những người khác - Kinh tế tr trại gia đình trên thế giới

và Châu á. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1993, 107 tr.

18. Võ Đại - Chống lạm phát và quá trình đối mới kinh tế ở Việt Nam. Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, 92 tr.

19. Ngô Đình Giao - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá

nền kinh tế quốc dân, tập 1. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

20. Trần Đình Hiền, Phạm Thắng - Thị trường sản phẩm nông nghiệp và một số vấn đề cần giải quyết. Tạp chí Cộng sản, số 3 - 1994, tr 36 —> 39.

21. Hệ quan điểm phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn. Đề tài KX 08

-01, Hà Nội, 1995, 200 tr.

22. Nguyễn Vân Hường, Đặng Ngọc Dinh - Định hướng và chuyển giao công nghệ phát triển công nghiệp nông thôn. Viện dự báo - Chiến lược khoa học và công nghệ, Hà Nội, 7/1995.

23. Kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2000. Tổng cục thống kê, Vụ tổng hợp

và thông tin, 2000, 641 tr.

24. Chử Văn Lâm - 45 năm nông nghiệp Việt Nam. Trong cuốn "45 năm

kinh tế Việt Nam". Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr 95 —> 115.

25. Chử Văn Lâm và những người khác - Hợp tác hoá nông nghiệp Việt

Nam, lịch sử, vấn đề, triển vọng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992, 204 tr.

26. Nguyễn Đình Long - Nông nghiệp nông thôn Việt Nam - Giải pháp phát

triển. Tạp chí thương mại, số 1 - 2001, tr. 8 ->12.

27. Các Mác - Tư bản. Tập 3, quyển 3. Nxb Tiến Bộ, Mat - xcơ - va. Nxb Sự

thật, Hà Nội, 1987, 655 tr.

28. Lê Nin - Tập 3. Nxb Tiến bộ, Mat - xcơ - va, 1976, 997 tr.

29. Những vấn đề cơ bản của nghị quyết trung ương lần thứ V (khoá VII).

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 13 —» 14.

117

30. Niên giám thống kê 1994. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995, 435 tr.

31. Niên giám thống kê 1996. Nxb Thống kê, Hà Nội 1997.

32. Bạch Đình Ninh - Đẩy mạnh chế biến nông sản... Nghiên cứu lý luận, số

8 - 2000, tr 27->32.

33. Nghị quyết của Bộ chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn-06/NQ/TW ngày 10/11/1998. Báo Hà Nội mới ngày 24/11/1998

34. Lê Huy Ngọ - Thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển nông

nghiệp. Hoạt động khoa học, số 8 - 2000, tr. i -» 4.

35. Oshima H.T - Tăng trưởng kinh tế ở Châu á gió mùa. Tập 3. Viên Châu á

và Thái Bình Dương, Hà Nội, 1989, 238 tr.

36. Nguyễn Thị Hồng Phấn - Tác động của chính sách ruộng đất đối với phát triển nông nghiệp. Thông tin khoa học xã hội, số 1 - 2001, tr. 5 —> 15.

37. Đỗ Tiến Sâm - Phát triển công nghiệp nông thôn theo mô hình công nghiệp hoá phân tán ở Đài Loan. Trong cuốn "Nghiên cứu Trung Quốc - Một số vấn đề kinh tế - văn hoá". Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 42 - 45.

38. Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN. Nxb Thống kê, Hà Nội,

1999, 375 tr.

39. Nguyễn Văn Tiệm - Giầu nghèo trong nông thôn hiện nay. Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội, 1993, 362 tr.

40. Vũ Văn Thái - Đổi mới đầu tư cho nông nghiệp tiếp cận theo mô hình kinh tế liên ngành. Thông tin kinh tế kế hoạch, số 11 - 1993, tr 26 —» 28.

41. Lê Đình Tháng - Vấn đề quan hệ mộng đất trong nông nghiệp - thực

trạng và giải pháp. Nghiên cứu kinh tế, số 237, 2/1998, tr 21 —» 27.

42. Nguyễn Công Tạn - Báo cáo tại Hội nghị quán triệt nghị quyết trung

ương IV, ngày 16/3/1998, Hà Nội.

43. Sở nông nghiệp tỉnh Cần Thơ - Báo cáo tổng kết công tác khuyến nông -

1992 - 1993, tỉnh Cần Thơ.

44. Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đình Long - Doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu kinh tế, số 9 - 1995.

45. Lê Đình Thắng - Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị

118

quyết 10 của Bộ chính trị. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, 249 tr.