BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ĐOÀN TRANH

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Đà Nẵng - 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ĐOÀN TRANH

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 62.31.10.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn: 1. PGS TS VÕ XUÂN TIẾN 2. PGS TS LÊ THẾ GIỚI

Đà Nẵng – 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, và có kế thừa

các công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Đà Nẵng, ngày 07 tháng 03 năm 2012

Tác giả luận án

ĐOÀN TRANH

1 MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

24

1.1. NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 24

1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 24

1.1.2. Vai trò, vị trí của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 29

1.1.3. Quan niệm về phát triển nông nghiệp 31

1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 43

1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng hợp lý và

hiện đại 43

1.2.2. Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp 45

1.2.3. Phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp 47

1.2.4. Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp 49

1.2.5. Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao 53

1.2.6. Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện

đại 55

1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 58

1.3.1. Những nhân tố tự nhiên 58

1.3.2. Những nhân tố kinh tế 59

1.3.3. Những nhân tố xã hội và thể chế 61

1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ, ĐỊA

PHƯƠNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 66

1.4.1. Kinh nghiệm của quốc tế 66

1.4.2. Kinh nghiệm trong nước 75

1.4.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra 82

2

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH

QUẢNG NAM 85

2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG

NAM CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 85

2.1.1. Điều kiện về tự nhiên 85

2.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội 90

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH QUẢNG NAM

94

2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 94

2.2.2. Tình hình qui hoạch và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp 105

2.2.3. Thực trạng về chuyên môn hóa và tập trung hóa trong nông nghiệp 108

2.2.4. Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp thời gian qua 116

2.2.5. Tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp 122

2.2.6. Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp 127

2.2.7. Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam

thời gian qua 130

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG PHÁT

TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM THỜI GIAN QUA 138

2.3.1. Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên 138

2.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực

trong sản xuất nông nghiệp 141

2.3.3. Những nguyên nhân do công tác quản lý trong nông nghiệp 145

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

2.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG 153

TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 157

3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG

NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 157

3

3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nông nghiệp 157

3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm đến 159

3.1.3. Định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh

Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 163

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH

QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 171

3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 172

3.2.2. Khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp 179

3.2.3. Phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn hóa,

tập trung hóa 184

3.2.4. Hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp 189

3.2.5. Tăng cường thâm canh trong nông nghiệp 194

3.2.6. Mở rộng thị trường và phát triển các ngành hàng nông sản 202

3.2.7. Đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại 209

3.2.8. Đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông nghiệp 212

KẾT LUẬN 223

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN 226

TÀI LIỆU THAM KHẢO 228

229 CÁC PHỤ LỤC

4 CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Các đặc điểm của cung và cầu nông sản 38

Bảng 1.2: Lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh của hai quốc gia 40

Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Quảng Nam 88

Bảng 2.2: Cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu giá trị sản xuất của các tiểu

ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2010 96

Bảng 2.3: Cơ cấu (%) cây trồng tại tỉnh Quảng Nam 97

Bảng 2.4: Cơ cấu cây lương thực tại Quảng Nam theo diện tích gieo trồng 98

Bảng 2.5: Cơ cấu cây công nghiệp hàng năm theo diện tích gieo trồng 98

Bảng 2.6: Cơ cấu cây công nghiệp dài ngày theo diện tích gieo trồng 99

Bảng 2.7: Giá trị sản xuất và cơ cấu ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2000-2010 100

Bảng 2.8: Đàn gia súc, gia cầm và các sản phẩm ngành chăn nuôi tại Quảng

Nam 2004-2010 101

Bảng 2. 9: Cơ cấu ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản 102

Bảng 2.10: Sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản 103

Bảng 2.11: Tình hình giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giai đoạn 2000-2010 104

110 Bảng 2.12: Các cây trồng chuyên canh chủ yếu ở Quảng Nam

Bảng 2.13: Sản lượng và tỷ suất hàng hóa một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu

tại Quảng Nam 113

Bảng 2.14: So sánh qui mô sản xuất của nông hộ và trang trại tại Quảng

Nam 117

Bảng 2.15: So sánh tình hình máy móc, thiết bị trong nông nghiệp của

Quảng Nam với các địa phương và cả nước 123

Bảng 2.16: Kỹ thuật thâm canh lúa theo hướng 3 giảm, 3 tăng 124

Bảng 2.17: Năng suất cây trồng và nuôi trồng thủy sản giai đoạn 1997-2010 125

Bảng 2.18: Cơ cấu chi phí lúa đông xuân 126

5

Bảng 2.19: Các chỉ tiêu tăng trưởng GDP của Quảng Nam giai đoạn 1997-

2010 130

Bảng 2.20: Các nông, thủy sản chủ yếu của Quảng Nam giai đoạn 2000-

2010 131

Bảng 2.21: Các ngành hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Quảng

Nam giai đoạn 2001-2010 (Đơn vị tính: 1000 USD) 133

Bảng 2.22: Chi phí, giá bán và lợi nhuận của 1 kg thóc tại các vùng trong cả

nước 136

Bảng 2.23: Tỷ lệ thiệt hại của ngành nông nghiệp, thủy lợi và giao thông

nông thôn do lũ lụt qua các năm 139

Bảng 2.24: Tỷ trọng đóng góp của lao động, vốn và TFP vào tăng trưởng

của nông nghiệp Quảng Nam và cả nước giai đoạn 1997-2010 141

Bảng 2.25: Đánh giá việc thực hiện các chính sách nông nghiệp, nông thôn

tại Quảng Nam 150

Bảng 3. 1: Sản lượng và năng lực ngành thủy sản Quảng Nam so với các

tỉnh miền Trung và bình quân cả nước năm 2010 161

Bảng 3.2: Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo của Việt Nam đến năm 2020 164

Bảng 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế và phát triển chủ yếu của tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2011-2020 169

Bảng 3.4: Các tiêu chí cơ bản xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của

Quảng Nam 170

Bảng 3.5: Những cây trồng chính phù hợp với vùng đồng bằng và trung du

tại Quảng Nam 172

Bảng 3.6: Thu nhập của các loại rau đậu tại Quảng Nam 176

Bảng 3.7: Chi phí và lợi ích của tình trạng manh mún đất đai 213

6 CÁC HÌNH

Hình 1.1: Quá trình hội nhập thúc đẩy sự tham gia của các nông hộ 37

Hình 1.2: Các đối tác tham gia trên chuỗi ngành hàng nông sản 52

Hình 1.3: Mô hình tác động của chính phủ đến phát triển nông nghiệp qua

các chính sách 65

Hình 1.4: Kênh tiêu thụ mía đường ở Lam Sơn, Thanh Hóa 77

Hình 2.1: Các hiện tượng thời tiết tại Quảng Nam trong năm 86

Hình 2.2: Năng suất lao động xã hội của ngành công nghiệp và dịch vụ so

với nông nghiệp tại Quảng Nam, cả nước và Hà Lan (tính cho năm 1996 và

2010) 95

Hình 2.3: Chiều hướng tăng trưởng sản lượng, vốn đầu tư của Quảng Nam

và cả nước giai đoạn 1996-2010 135

Hình 2.4: Chuỗi tiêu thụ dưa hấu vụ mùa 2010 tại Quảng Nam 143

Hình 2.5: Mức đầu tư mỗi lao động của các ngành giai đoạn 1996-2010 tại

Quảng Nam 145

Hình 2.6: Các nhân tố tác động đến sự không thành công của các chính sách

nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam 152

Hình 3.1: Chuỗi thị trường tiêu biểu của ngành công nghiệp sắn 187

Hình 3.2: Những lợi ích từ việc xây dựng thương hiệu rau sạch Trà Quế 190

Hình 3.3: Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã Điện Quang 192

Hình 3.4: Tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến ngư tại Việt Nam 200

Hình 3.5: Các mối liên kết và các tiến trình hợp tác của một chuỗi ngành

hàng nông sản 206

Hình 3.6: Các khó khăn trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam 216

Hình 3.7: Qui trình ban hành chính sách xuất phát từ cung và cầu đối với

phát triển nông nghiệp 219

Hình 3.8: Những chính sách ưu tiên cần được thực hiện tại Quảng Nam 220

7

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank)

CN và DV Công nghiệp và dịch vụ

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CV Mã lực (tiếng Pháp là cheval-vapeur - số nhiều: chevaux-vapeur)

EDI Electronic Data Interchange (Hệ thống truyền dữ liệu điện tử)

EU Liên minh Châu Âu (European Union)

FAO Tổ chức Nông lương Thế giới (Food and Agriculture

Organization)

GAP Phương pháp canh tác tối ưu (Good Agricultural Practices)

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

Ha Hecta (đơn vị đo diện tích, 1 ha = 10.000 m2)

HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point

HTX Hợp tác xã

ICOR Tỷ lệ gia tăng vốn và sản lượng (Incremental Capital Output

Ratio)

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organozation)

IPM Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management)

JBIC Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (Japan Bank for

International Cooperation)

KfW Ngân hàng Tái thiết Đức (Kreditanstalt für Wiederaufbau)

M4P Chương trình nâng cao hiệu quả cho người nghèo do ADB tài trợ

NGO Tổ chức phi chính phủ (Non-Government Organization)

NN và PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn

PRA Đánh giá có sự tham gia tại nông thôn (Participatory Rural

Appraisal)

QĐ Quyết định

8 Stère Đơn vị đo mét khối củi (1 m3) (theo hệ mét của Pháp)

TFP Tổng năng suất các yếu tố (Total Factor Productivity)

TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

UBND Ủy ban Nhân dân

UNDP Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations

Development Programme)

UNESCO Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hiệp Quốc

(United Nations Educational, Scientific and Cultural

Organization)

UPC Universal Product Code (Hệ thống mã vạch quản lý sản phẩm)

USD Đôla Mỹ (United States Dollar)

VietGAP Phương pháp canh tác tối ưu do Việt Nam ban hành

VND Đồng Việt Nam

WB Ngân hàng Thế giới (World Bank)

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)

9 MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu

Từ khi đổi mới đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam đã hình thành hai xu

hướng phát triển khá rõ nét; trong đó, xu hướng phát triển nông nghiệp dựa vào

cung đóng vai trò chủ đạo, điển hình của xu hướng này là cả nước tập trung gia

tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo. Từ khi

hội nhập, nhất là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi

vấn đề an ninh lương thực quốc gia đã được đảm bảo, và nhu cầu của người tiêu

dùng đã thay đổi nhanh chóng cả về cơ cấu lương thực thực phẩm và những kỳ

vọng lớn hơn từ nông nghiệp không chỉ về việc cung ứng đủ lương thực, thực

phẩm; mà còn cả vấn đề bảo vệ môi trường và ổn định xã hội tại nông thôn. Từ

đó, cách tiếp cận theo phía cầu của phát triển nông nghiệp hình thành và phát

triển, điển hình của cách tiếp cận này là sản xuất ra những nông sản đa dạng về

chủng loại, chất lượng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, liên kết các đối

tác trên chuỗi nông sản nhằm có thể đưa nông sản từ nơi sản xuất đến thị trường

với chi phí thấp nhất.

Sau 25 năm đổi mới, nền nông nghiệp tỉnh Quảng Nam nói riêng và Việt

Nam nói chung vẫn được xem là còn lạc hậu, sản xuất nhỏ. Nhưng những đóng

góp của nó trong việc đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị xã hội, góp

phần phát triển kinh tế, đem về ngoại tệ cho quốc gia là đáng kể và Việt Nam

đang được biết đến như một quốc gia có hạng trên thế giới về xuất khẩu nông

sản. Ngoài ra, đã xuất hiện các mô hình sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn

và hình thành các mối liên kết kinh tế từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông

sản. Không chỉ ở Quảng Nam mà cả nước đã hình thành nhiều trang trại sản xuất

hàng hóa có liên kết chặt chẽ với các đối tác để đưa nông sản Việt Nam xuất

khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới. Những mối liên kết kinh tế này đã làm

cho sản xuất của người nông dân ngày càng gắn với nhu cầu của thị trường và

10 nhờ đó làm tăng khả năng hội nhập của nông hộ nhỏ thông qua những mối liên

kết kinh tế này.

So với cả nước, nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam có tốc độ tăng trưởng GDP

chậm, chỉ đạt tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997-2010 là 2,45%, so với

cả nước giai đoạn này là 3,80%. Ngành nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao,

đến 21,2% so với nền kinh tế, và dân số nông thôn chiếm 81,2%. Bình quân đất

nông nghiệp thấp, chỉ 0,41 ha/hộ (cả nước 0,63 ha/hộ), bị chia cắt bởi địa hình

không bằng phẳng và chủ yếu là đất cát pha, độ phì nhiêu kém; thường xuyên bị

bão, lũ, hạn hán và dịch bệnh; cơ sở hạ tầng lạc hậu, năng lực sản xuất của nông

hộ về tài chính, kiến thức và các phương tiện sản xuất còn thấp kém; khoa học

công nghệ ứng dụng vào sản xuất còn hạn chế. Ngoài thủy sản, hiện chưa có

một ngành hàng nông sản nào phát triển và liên kết hiệu quả. Vì vậy, sản xuất

nông nghiệp của Quảng Nam tăng trưởng thấp, phát triển thiếu bền vững và

đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải trước sức ép của quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa, và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Thu nhập, đời sống

của đa số nông dân và dân cư nông thôn còn thấp.

Trong khi đó nhu cầu về các loại nông sản phẩm phục vụ cho sản xuất và đời

sống của mọi tầng lớp dân cư trên địa bàn không ngừng tăng, đặc biệt là giai

đoạn 2011-2020 sắp tới. Và mục tiêu đến năm 2020, sẽ xây dựng Quảng Nam

trở thành tỉnh công nghiệp. Trong đó, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chỉ còn 10%

và với 30% lao động làm nông nghiệp.

Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả

thi nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh là một đòi hỏi hết

sức bức xúc. Xuất phát từ đó tác giả chọn vấn đề: “Phát triển nông nghiệp tỉnh

Quảng Nam giai đoạn 2011-2020” làm đề tài nghiên cứu của luận án, với hy

vọng rằng những nghiên cứu của luận án không chỉ đóng góp về mặt lý luận và

thực tiễn của phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay mà còn góp phần

xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.

11

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Việt nam là đất nước nông nghiệp, nên phát triển nông nghiệp luôn là mối

quan tâm của Đảng và Nhà nước, cũng là vấn đề được các nhà lý luận, các nhà

kinh tế học, các nhà làm chính sách và các tổ chức tập trung nghiên cứu. Từ khi

đổi mới đến khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu qua việc

gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã có nhiều nghị quyết của

Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn và nông dân; nhiều công trình

nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong và ngoài nước nghiên cứu về nông

nghiệp.

Nghị quyết quan trọng đầu tiên, đó là Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10-

NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, ngày 5/4/1988 [52] chính thức

đổi mới nền nông nghiệp Việt Nam; thừa nhận hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự

chủ ở nông thôn, bỏ nghĩa vụ thu mua lương thực, thực phẩm theo giá thấp, thực

hiện cơ chế một giá, lưu thông lượng thực tự do. Tiếp theo các Nghị quyết số

05-NQ/TW của BCH TW Đảng khoá VII (1993) [54] về tiếp tục đổi mới và phát

triển kinh tế - xã hội nông thôn, Nghị quyết số 06-NQ/TW (1998) [53] của Bộ

Chính trị về phát triển nông nghiệp, nông thôn, và Nghị quyết số 03/NQ/CP

(2000) [56] của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại. Trong giai đoạn này,

để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế, Quốc hội đã ban hành Luật đất đai

năm 1993, sửa đổi năm 1998, 2001, 2003 và luật đất đai năm 2005 [40] nhằm

giao quyền sử dụng đất đến các tổ chức và các hộ dân. Để hỗ trợ phát triển nông

nghiệp, nông thôn và nâng cao mức sống của nông dân, Quốc hội ban hành Nghị

quyết số 15/2003/QH11 (2003) [57] về việc miễn giảm thuế sử dụng đất nông

nghiệp và việc miễn giảm này tiếp tục cho đến năm 2020. Sau khi gia nhập

WTO, hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương số 26-NQ/TW (2008) [55]

ban hành nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm phát triển nông

nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng nông thôn mới và xây dựng lực lượng

nông dân có tri thức, kỹ năng đủ năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.

12

Quan điểm phát triển bền vững cũng đã được khẳng định trong các văn kiện

của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong Chiến lược phát

triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng

trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi

trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi

trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên

nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Quyết định 153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương

trình nghị sự 21 của Việt Nam) qui định "bảo vệ môi trường là một nội dung cơ

bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh

tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển

bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước".

Ngoài những văn kiện của Đảng và Nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển

nông nghiệp Việt Nam như được nêu ở trên, có rất nhiều công trình nghiên cứu

về phát triển nông nghiệp. Tiêu biểu có những công trình nghiên cứu như sau.

- Những nghiên cứu về đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp tạo điều

kiện cho khai thác các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về đất đai cho phát triển

nông nghiệp có các nghiên cứu của GS TSKH Lê Du Phong như Nguồn lực và

động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

(2006) [59]; Vấn đề đất đai ở nông thôn Việt nam (2007) [61]; Chính sách phát

triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Hungary trong quá trình chuyển đổi

kinh tế và vận dụng cho Việt Nam (2009) [58]; Thu nhập, đời sống, việc làm của

những người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia

(2007) [60]. Và nghiên cứu của Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm

Văn Hùng, Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam (2007)

[44], Martin Ravallion, Dominique van de Walle, Đất đai trong thời kỳ chuyển

13 đổi: Cải cách và nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam (2008) [71]. Những nghiên

cứu đều cho rằng việc việc chia nhỏ đất đai đã phát huy được tính tự chủ của

nông dân, đáp ứng được việc gia tăng sản lượng; nhưng một thực tế đang đặt ra

là việc chia nhỏ đất đai đã làm cản trở các ứng dụng cơ giới hóa, hiện đại hóa

vào đồng ruộng và đang làm chậm quá trình phát triển nền nông nghiệp hiện đại

tại Việt Nam.

- Những vấn đề về tổ chức sản xuất nông nghiệp có các nghiên cứu như

Chambert R., Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ

(1991) [70]; Ellis Ph., Kinh tế hộ gia đình và phát triển nông nghiệp (1993)

[63]; Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

(1995) [35]; Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, Nông nghiệp Việt Nam - Từ cội nguồn

đến đổi mới (1996) [21], Vũ Trọng Khải, Tích tụ ruộng đất – Trang trại và nông

dân (2008) [36]; Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam:

Hôm nay và mai sau (2008) [73]. Những nghiên cứu này cho thấy chủ trương

đúng đắn trong phát triển kinh tế nông hộ từ những ngày đổi mới; tuy nhiên,

kinh nghiệm của quốc tế về tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản cho thấy tình

trạng manh mún đất đai và năng lực thấp về sản xuất của kinh tế trang trại và

nông hộ hiện nay tại Việt Nam yêu cầu cần phải tổ chức lại theo hướng liên kết

hình thành các vùng chuyên canh, rút nhanh lao động ra khỏi nông nghiệp và

liên kết giữa sản xuất nông nghiệp và các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng

nông sản nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và thương mại hóa.

- Những nghiên cứu về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn có các nghiên cứu như Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn Việt Nam (2002) của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia;

Cơ sở lý thuyết và thực tiễn phát triển nông thôn bền vững (2003) của nhà xuất

bản Nông nghiệp; Đỗ Quốc Sam, Một số vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa

sau 20 năm đổi mới (2006) [72]; Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại

14 hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam - Con đường và Bước đi (2006) [89];

Hoàng Ngọc Hòa, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta (2008) [29]; Đặng Kim Sơn, Kinh

nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công

nghiệp hóa (2008) [74]. Các nghiên cứu đều nhấn mạnh đến vai trò của khoa

học, công nghệ và việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất

và tiêu thụ nông sản có vai trò nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động trong

sản xuất nông nghiệp.

- Những tổng kết cả về lý luận và thực tiễn quá trình phát triển nông nghiệp,

nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ có nghiên cứu của Nguyễn Sinh Cúc, Nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (2003) [25]; Đặng Kim Sơn, Nông

nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Hôm nay và mai sau (2008) [76];

Nguyễn Văn Bích, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới: quá khứ

và hiện tại (2007) [1]; Nguyễn Danh sơn, Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông

dân Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại (2010)

[73]. Những nghiên cứu này cho thấy rằng nông nghiệp Việt Nam sau đổi mới

trải qua các giai đoạn phát triển: giai đoạn 1986 – 1990, phát triển nông nghiệp

dựa trên kinh tế nông hộ, gia tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực,

xóa đói giảm nghèo nhanh chóng; giai đoạn 1991-1995, nông nghiệp phát triển

toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, gia tăng xuất khẩu nông sản, nhất là

gạo và bắt đầu phát triển kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp; từ năm

1996 đến nay, tiếp tục xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa và phát triển nông

nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những nghiên cứu này cũng

cho rằng vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và mục tiêu nâng cao thu

nhập của nông hộ là những nội dung không thể tách rời trong chính sách phát

triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay của Việt Nam

- Những nghiên cứu phát triển nông nghiệp dựa vào đáp ứng nhu cầu thị

trường, hướng đến xuất khẩu và hội nhập vào nền nông sản toàn cầu có nghiên

15 cứu Việt Nam hướng tới 2010 (2001) [92], do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và

được Cơ quan Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) tài trợ. Nghiên cứu này

cho rằng “hội nhập và tăng trưởng kinh tế sẽ mang lại thay đổi và cả rủi ro.

Nhưng rủi ro lớn nhất chính là không theo đuổi tự do hóa sâu sắc hơn, bởi vì

tăng trưởng chậm sẽ làm tổn hại đến tất cả các mục tiêu phát triển của Việt

Nam”; và nghiên cứu này cổ vũ Việt Nam hãy tận dụng tối đa hội nhập kinh tế

để tăng trưởng kinh tế nhanh, trong đó có nông nghiệp, là điều kiện để giảm

nhanh nghèo đói, phát triển nông thôn và gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của

Việt Nam. Gần đây có một số nghiên cứu sâu sắc hơn về quan điểm phát triển

nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong cuốn “Thương mại hóa nông nghiệp, chuỗi giá trị và giảm nghèo1” (2004) [99], do Ngân hàng phát

triển Châu Á phát hành, cho rằng những nước đang phát triển sau khi đạt được

an ninh lương thực quốc gia thì cần chuyển đổi nền nông nghiệp từ chỗ dựa vào

sản xuất lương thực là chính sang một nền nông nghiệp có khả năng đáp ứng

nhu cầu của chuỗi thực phẩm toàn cầu trong khi vẫn đảm bảo an ninh lương

thực quốc gia, tạo thêm thu nhập cho người nông dân và chuyển dần nền kinh tế

sang hoạt động phi nông nghiệp. Trong tác phẩm “Tác động của hội nhập kinh

tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam” (2008) [91] do TS. Nguyễn

Từ chủ biên, cho rằng nông nghiệp phải tận dụng những cơ hội thị trường từ hội

nhập kinh tế quốc tế, đây là cơ hội để nông nghiệp phát triển theo hướng lấy thị

trường toàn cầu làm căn cứ để phát triển.

Một trong những nghiên cứu mới nhất về phát triển nông nghiệp của các tỉnh

miền Trung, luận án tiến sĩ “Phát triển bền vững nông nghiệp Tỉnh KonTum”

(2007) của Hà Ban cho rằng “nông nghiệp và nông thôn bền vững là một nhân

tố của phát triển bền vững”, và sự bền vững ở đây theo khái niệm kinh tế chỉ

1 Agriculture Commercialization, Value Chains, and Poverty Reduction

mối quan hệ ổn định và cân đối giữa sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng.

16

Riêng nghiên cứu về nông nghiệp tại Quảng Nam, luận án tiến sĩ “Chuyển

đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng” (1995) [31] của

Vũ Ngọc Hoàng cho rằng nội dung chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có

tính chất quyết định phương hướng, nhịp độ phát triển nông nghiệp, tăng thu

nhập và cải thiện đời sống nông dân. Luận án còn khẳng định chuyển đổi cơ cấu

sản xuất nông nghiệp hợp lý phải gắn với phát triển công nghiệp chế biến và bảo

vệ môi trường, sinh thái. Và trong bài viết “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng

Nam’ (2004) [30] Vũ Ngọc Hoàng đã có một nhìn nhận mới hơn về chuyển dịch

cơ cấu sản xuất nông nghiệp dựa theo lợi thế so sánh và theo hướng thị trường:

“Từ xưa tới nay, nông nghiệp Quảng Nam chủ yếu là sản xuất tự túc lương thực,

đại bộ phận đất đai và lao động đã tập trung chủ yếu cho hướng phát triển này.

Qua nhiều trăm năm, nông nghiệp vẫn nhỏ bé và nông dân Quảng Nam vẫn

nghèo. Thực tiễn đã chứng minh rằng, cơ cấu sản xuất ấy không thể giải quyết

cái nghèo được. Cần chuyển mạnh theo hướng một nền nông nghiệp thực phẩm

và nguyên liệu”. Nền nông nghiệp thực phẩm và nguyên liệu ở đây được lý giải

là nền nông nghiệp dựa vào lợi thế so sánh của Quảng Nam để sản xuất ra

những nông sản có giá trị cao thay vì tập trung vào sản xuất lương thực.

Ngoài những tác phẩm và tác giả đã nêu ở trên, có nhiều bài viết của các tác

giả với nhiều cách tiếp cận khác nhau đã nêu nhiều vấn đề về lý luận và những

nội dung cơ bản của phát triển nông nghiệp qua các giai đoạn đổi mới và hội

nhập kinh tế quốc tế đã góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của phát

triển nông nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về phát triển nông

nghiệp trên chủ yếu có phạm vi nghiên cứu tại Việt Nam, mà chưa có công trình

nghiên cứu về phát triển nông nghiệp đặt trong bối cảnh của một tỉnh. Vì vậy,

tôi đã kế thừa và chọn lọc những công trình đã nghiên cứu ở trên và các nghiên

cứu khác để thực hiện đề tài “Phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2011-2020”, nhằm tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát triển

nông nghiệp ở phạm vi một tỉnh trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

17 Từ đó, tìm ra các giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2011-2020.

Các nội dung nghiên cứu của luận án bắt đầu từ khái niệm nông nghiệp, phát

triển và phát triển nông nghiệp. Có nhiều khái niệm về ngành nông nghiệp, theo

nghĩa hẹp nông nghiệp gồm có hai ngành trồng trọt và chăn nuôi; theo nghĩa

rộng nông nghiệp gồm có nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và

ngư nghiệp; ngoài ra, theo tổ chức Lương nông Thế giới (FAO), nông nghiệp

theo nghĩa rộng hơn gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản

phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Tuy nhiên, để việc nghiên cứu phù hợp với điều

kiện Việt Nam hiện nay, luận án tiếp cận nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm

nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp) theo cách phân loại ngành nông nghiệp

của hệ thống tài khoản quốc gia Việt Nam hiện nay. Và với quan niệm phát triển

luôn là quá trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những

bước chuyển từ thấp đến cao; nên luận án cho rằng khi xét nông nghiệp là một

ngành kinh tế thì phát triển nông nghiệp là quá trình vận động để nền nông

nghiệp đi từ thủ công đến hiện đại, đi từ tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa

và cao hơn là thương mại hóa.

Trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là lao động thủ công,

sản xuất nhỏ và kỹ thuật lạc hậu, đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang

mở ra nhiều cơ hội và thách thức. Muốn phát triển nền nông nghiệp nhanh và

bền vững cần phải có cơ chế vận hành phù hợp, luận án cho rằng nền nông

nghiệp phải vận hành theo cơ chế sau: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi

ngành hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ

hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2) Sản xuất nông nghiệp gắn với liên

kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng

hóa. Và 3) sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của

phát triển bền vững quốc gia.

18

Với cơ chế vận hành này, nền nông nghiệp sẽ khai thác được lợi thế so sánh

và thâm nhập hiệu quả vào thị trường nông sản trong nước và toàn cầu nhờ tạo

ra những mối liên kết kinh tế ngang và dọc. Đây là cách để khắc phục những

hạn chế vốn có của kinh tế nông hộ và trang trại, vì dù kinh tế nông hộ và trang

trại có phát triển đến qui mô nào thì các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp cũng

không thể tiếp cận thị trường hiệu quả nếu không phát triển các hình thức liên

kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.

Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp phải đạt được mục tiêu “phát triển bền vững”

nhằm xây dựng một nền nông nghiệp đảm bảo tăng trưởng nhanh và ổn định;

nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống của

dân cư nông thôn; đảm bảo xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ môi

trường sinh thái, bảo vệ đất đai, nguồn nước và môi trường sản xuất cũng như

môi trường sống tại nông thôn, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền

vững quốc gia và toàn cầu.

Từ những quan điểm trên, luận án đã xác định được các nội dung chủ yếu

của phát triển nông nghiệp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Đó là: 1)

Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý và hiện đại. 2)

Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Phát triển chuyên môn hóa

và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp. 4) Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết

kinh tế trong nông nghiệp. 5) Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh

cao. 6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện

đại.

Từ những cơ sở lý thuyết trên, luận án đã xây dựng hệ thống các chỉ tiêu để

làm cơ sở lượng hóa các nội dung của phát triển nông nghiệp nhằm đánh giá

được thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam với các nội dung:

1) Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. 2) Tình hình qui hoạch

và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Thực trạng về chuyên môn hóa

và tập trung hóa trong nông nghiệp. 4) Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong

19 nông nghiệp thời gian qua. 5) Tình hình thâm canh trong trong sản xuất nông

nghiệp. 6) Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp. 7) Kết

quả và hiệu quả kinh tế, xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua.

Qua đánh giá cho thấy, nông nghiệp Quảng Nam những năm qua phát triển

không đạt hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều nguyên nhân, nhưng theo luận án có ba

nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là: 1) những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên;

2) những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực trong sản

xuất nông nghiệp; và 3) những nguyên nhân do công tác quản lý nông nghiệp.

Từ những đánh giá trên và xuất phát từ đánh giá tác động của hội nhập kinh

tế quốc tế đối với nông nghiệp, định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển

nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 làm căn cứ để đề xuất

các giải pháp. Luận án đã đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông

nghiệp tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2011-2020, gồm: 1) Giải pháp về

chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp; 2) khai thác tổng hợp các vùng sinh

thái nông nghiệp; 3) phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy

chuyên môn hóa, tập trung hóa; 4) hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất

trong nông nghiệp; 5) tăng cường thâm canh trong nông nghiệp; 6) mở rộng thị

trường và phát triển các ngành hàng nông sản; 7) đầu tư kết cấu hạ tầng nông

nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại; và 8) đổi mới cơ chế, chính sách trong

phát triển nông nghiệp.

Tóm lại, xuất phát từ các chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà

nước, và kế thừa nghiên cứu của các tác giả, luận án đã xác định rõ các nội dung

của phát triển nông nghiệp trong trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Ngoài

ra, những nghiên cứu của luận án về thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh

Quảng Nam, những giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp của tỉnh giai đoạn

2011-2020 là những đóng góp khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn cho vấn

đề phát triển nông nghiệp của Việt Nam nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói

riêng trong giai đoạn hiện nay.

20

3. Mục tiêu của luận án

- Hoàn thiện và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và nội dung của phát

triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.

- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam; xác định các

nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong quá trình phát triển nông nghiệp

tại Quảng Nam.

- Đề ra các giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2011-2020.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu gồm những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan

đến phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung vào những nội dung của phát triển

nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế theo hướng hội nhập ngày

càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu; về không gian là tỉnh Quảng Nam; còn

về thời gian chủ yếu từ năm 1997 đến nay và định hướng, giải pháp đến năm

2020.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài tiếp cận nghiên cứu theo các hướng sau đây:

- Một là, đi từ lý luận đến thực tiễn; dùng lý luận để kiểm nghiệm thực tiễn.

Từ cơ sở thực tiễn nhằm hoàn thiện một số vấn đề lý luận của phát triển nông

nghiệp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.

- Hai là, tiếp cận theo hướng đa chiều, tức là xem xét sự phát triển của nông

nghiệp tỉnh Quảng Nam trong mối quan hệ với các địa phương trong cả nước,

của ngành nông nghiệp Việt Nam; quan hệ với các ngành kinh tế khác; phát

triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập và trong điều kiện môi trường thay

đổi nhất là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của

sản xuất và đời sống trong đó có sản xuất nông nghiệp.

21

Phương pháp luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải thích các hiện tượng kinh tế, xã

hội.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể và kỹ thuật xử lý số liệu chính gồm có:

- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Thu thập, hệ thống hóa, xử lý,

phân tích, đánh giá tất cả các số liệu có sẵn theo định hướng nghiên cứu.

- Phương pháp khảo sát và điều tra thực địa: Khảo sát thực tế nhằm lấy các

thông tin về sản lượng, giá cả, thu nhập … tại xã Tam Phước, xã Cẩm Hà, xã

Điện Quang, và các siêu thị. Khảo sát các mô hình sản xuất tại xã Điện Quang,

Cẩm Hà (làng rau Trà Quế). Thu thập các dữ liệu qua thực hiện các nghiên cứu

khoa học về thu hồi đất cho khu công nghiệp và đô thị tại xã Điện Nam, Điện

Ngọc; về thu hồi đất, tổ chức tái định cư và ổn định sinh kế cho các công trình

thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn. Tất cả những khảo sát trên một

phần được thực hiện qua các nghiên cứu khoa học do tác giả thực hiện với đề tài

“Sinh kế bền vững cho cộng đồng tái định cư công trình thuỷ điện ở lưu vực

sông Vu Gia -Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam: Thực trạng và giải pháp” (2009) [84],

và các đề tài do tác giả hướng dẫn sinh viên thực hiện gồm các đề tài “Phát triển

ngành dâu tằm tơ tại Duy Trinh Quảng Nam” (2008) [47]; “Hoàn thiện các

chính sách nhằm hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ dân thuộc diện giải

tỏa đền bù tại huyện Điện Bàn, Quảng Nam” (2009)[27]; “Thực trạng các ngành

hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam” (2010) [85]; Các giải pháp nâng

cao thu nhập cho các nông hộ huyện Điện Bàn (2010) [95].

- Phương pháp đánh giá có sự tham gia (PRA2): Nhằm lấy ý kiến đánh giá

của nông dân về sự thành công và thất bại của các chính sách, những nguyên

nhân dẫn đến sự thất bại của các chính sách; những chính sách nào là quan trọng

đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Kết quả đánh giá được chọn lọc từ

khảo sát 715 phiếu điều tra tại các huyện Phú Ninh (216), Thăng Bình (196), 2 Participatory Rural Appraisal

22 Đại Lộc (169), Trà My (134) qua đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện qui

trình chính sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam” (Nguyễn

Cảnh, 2010) [13].

- Phương pháp phỏng vấn, chuyên gia: Nhằm hoàn thiện các luận cứ của

luận án.

- Các kỹ thuật xử lý số liệu: Kỹ thuật phân tích thống kê, phân tích mô hình

toán kinh tế, mô hình phân tích các nhân tố, mô hình hóa, đồ thị và các kỹ thuật

phân tích khác để phục vụ cho quá trình hoàn thành báo cáo của luận án.

Trong quá trình nghiên cứu, luận án còn dựa trên các quan điểm, định hướng

của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đổi mới và phát triển nông nghiệp.

6. Điểm mới của luận án

Trong quá trình nghiên cứu phát triển nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam, luận

án đã đóng góp những điểm mới như sau:

- Về mặt lý luận. Luận án đã tiếp cận nghiên cứu theo hướng: 1) Phát triển

nông nghiệp là quá trình vận động nội tại của ngành nông nghiệp. 2) Tiếp cận

theo hướng đa chiều, tức là xem xét sự phát triển của nông nghiệp tỉnh Quảng

Nam trong mối quan hệ giữa các tiểu ngành, giữa các khâu của quá trình sản

xuất; quan hệ với các ngành kinh tế khác, với các địa phương và với quốc tế;

quan hệ giữa nhà nước với thị trường; quan hệ giữa đơn vị sản xuất nông nghiệp

với các đối tác trên chuỗi ngành hàng nông sản. 3) Tiếp cận theo hướng bền

vững, tức gắn hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp với hiệu quả xã hội, và

mục tiêu bảo vệ môi trường.

Từ những tiếp cận trên, luận án đã xác định rõ: 1) những nội dung cơ bản

của phạm trù phát triển ngành nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay của Việt

Nam; 2) trên cơ sở chỉ ra tính chất phân tán, tính chất vùng của ngành nông

nghiệp, và lý thuyết về phân cấp quản lý kinh tế; luận án đã khẳng định sự cần

thiết và khả năng nâng cao năng lực quản lý nông nghiệp của Nhà nước các cấp

ở địa phương.

23

- Về mặt thực tiễn. Luận án đã phân tích toàn diện thực trạng phát triển nông

nghiệp Quảng Nam trong thời gian qua (1997-2010) thông qua những công cụ

điều tra, phương pháp tiếp cận mới. Chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong phát

triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam bằng các phương pháp phân tích hiện

đại.

- Về phương hướng và giải pháp. Dựa vào cơ sở lý luận, phân tích thực

trạng và nguyên nhân; luận án đã: 1) Làm rõ được phương hướng và mục tiêu

phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đến năm 2020. 2) Đề ra được các giải

pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020.

Luận án cũng cho rằng, chủ thể thực hiện các giải pháp phát triển nông nghiệp

tỉnh Quảng Nam thời gian đến không chỉ có các nông hộ và trang trại, mà các

đối tác khác trên chuỗi cung cấp nông sản và cả cơ quan quản lý nông nghiệp

cấp tỉnh đều tham gia và đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình này.

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được bố

cục thành ba chương cơ bản như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp

Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2011-2020

24 CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

1.1. NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

a. Nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế. Theo nghĩa

hẹp, ngành nông nghiệp gồm có hai tiểu ngành là trồng trọt và chăn nuôi. Theo

nghĩa rộng, ngành nông nghiệp gồm có các ngành là nông nghiệp theo nghĩa hẹp

(gồm trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và ngư nghiệp.

Trồng trọt là ngành sử dụng đất đai với cây trồng làm đối tượng chính để sản

xuất ra lương thực, thực phẩm, tư liệu cho công nghiệp, và thỏa mãn các nhu cầu

về vui chơi giải trí, tạo cảnh quan (hoa viên, cây kiểng, sân banh, sân golf).

Ngành nông học phân loại cây trồng theo nhiều cách hoặc là 1) dựa trên phương

pháp canh tác chia ra cây trồng nông học (gồm các nhóm cây hạt ngũ cốc, nhóm

cây đậu cho hạt, nhóm cây cho sợi, nhóm cây lấy củ, nhóm cây công nghiệp,

nhóm cây đồng cỏ và thức ăn gia súc) hay cây trồng nghề vườn (gồm các nhóm

rau, nhóm cây ăn trái, nhóm hoa kiểng, nhóm cây đồn điền/cây công nghiệp); 2)

dựa trên công dụng chia ra cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau

và hoa, cây trồng làm thứ ăn gia súc và cây dược liệu; 3) dựa trên yêu cầu về

điều kiện khí hậu chia ra cây ôn đới, cây á nhiệt đới, cây nhiệt đới; hoặc 4) dựa

trên thời gian của chu kỳ sinh trưởng chia ra cây hàng năm, cây lâu năm.

Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp (theo

nghĩa hẹp), với đối tượng sản xuất là các loại động vật nuôi. Ngành chăn nuôi

cung cấp thực phẩm nhiều chất đạm như thịt, sữa, trứng; cung cấp da, len, lông;

sản phẩm phụ của chăn nuôi dùng làm phân bón; đại gia súc dùng làm sức kéo.

Nguồn thức ăn cho chăn nuôi chủ yếu lấy từ ngành trồng trọt, nên chăn nuôi

phát triển sẽ góp phần làm gia tăng hiệu quả của sản phẩm trồng trọt. Ngành

25 chăn nuôi ngày càng chiếm tỷ trọng cao so với trồng trọt trong cơ cấu ngành

nông nghiệp vì trong khẩu phần ăn của con người đang dần thay đổi.

Ngư nghiệp bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Đánh bắt là hoạt động

có từ lâu đời của con người nhằm cung cấp thực phẩm cho mình thông qua các

hình thức đánh bắt cá và các sinh vật thủy khác; việc đánh bắt phải kết hợp với

hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhằm bảo vệ môi trường và duy trì nguồn

thủy sản đánh bắt trong tương lai. Nuôi trồng thủy sản là hình thức canh tác thủy

sản có kiểm soát. Nuôi cá là hình thức cơ bản của nuôi trồng thủy sản, trong đó

có nuôi cá nước mặn, nước lợ và nước ngọt; ngoài ra, còn có nuôi rong, nuôi

tôm, nuôi sò, nuôi ngọc trai.

Lâm nghiệp là các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng; khai thác,

vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng; trồng cây, tái tạo rừng, duy trì tác

dụng phòng hộ nhiều mặt của rừng (Bùi Minh Vũ, 2001, tr. 7) [97]. Theo luật

bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam (Luật bảo vệ và phát triển rừng, 2004)

[41] , rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi

sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa

hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1

trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng

phòng hộ, đất rừng đặc dụng.

b. Các nguồn lực cơ bản trong sản xuất nông nghiệp

Các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp gồm tài nguyên thiên nghiên và

môi trường, lao động, vốn, khoa học và công nghệ. Qui mô và chất lượng của

các nguồn lực qui định qui mô và hiệu quả của ngành nông nghiệp.

Tài nguyên thiên nhiên và môi trường được coi là nguồn lực quan trọng trong

nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên trong phát triển nông nghiệp gồm có đất

đai, ruộng vườn, đồi núi, ao, hồ, sông, biển, khí hậu và cả sự đa dạng sinh học.

Nền nông nghiệp truyền thống xem tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực thuần

túy, nên đã khai thác triệt để và kết quả đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên

26 nhiên và giảm cấp môi trường. Ngày nay, quan điểm mới trong phát triển nông

nghiệp xem tài nguyên thiên nhiên không chỉ là nguồn lực mà còn là yếu tố của

môi trường có liên quan đến bản thân của quá trình phát triển nông nghiệp và

đến môi trường sống của con người. Thách thức đối với phát triển nông nghiệp

là việc quản lý và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên sao cho để chúng phục vụ

nhu cầu đa dạng của con người, đồng thời duy trì chất lượng lâu dài của những

tài nguyên đó.

Lao động là lực lượng sản xuất quan trọng đồng thời là chủ thể có tính quyết

định đến quá trình sản xuất nông nghiệp và kết quả sinh trưởng của cây trồng, vật

nuôi. Do lao động trong nông nghiệp không đòi hỏi phải được đào tạo chuyên

nghiệp, nghề nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và làm việc theo thời vụ; nên

trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng lao động trong nông nghiệp

sẽ thu hẹp và một bộ phận lao động trẻ trong nông nghiệp chuyển dần sang các

ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, lực lượng lao động trong nông

nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng

tăng lên. Ngày nay, trong nền nông nghiệp hiện đại, người lao động nông nghiệp

càng tiến dần đến trình độ chuyên nghiệp, có kỹ năng nắm bắt các qui trình canh

tác tiên tiến và sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị trong nông nghiệp.

Vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và

đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Theo nghĩa rộng,

ruộng đất, cơ sở hạ tầng và các tài nguyên thiên nhiên có thể được coi như là các

loại vốn trong sản xuất nông nghiệp. Giống như các ngành kinh tế khác, vốn trong

nông nghiệp có thể được chia theo hình thái luân chuyển, hình thái biểu hiện, mục

đích sử dụng hay theo sở hữu. Do đặc điểm sản xuất của nông nghiệp gắn với quá

trình sinh học của cây trồng, vật nuôi; chịu ảnh hưởng rất lớn từ điều kiện tự

nhiên, thời tiết khí hậu; chính vì vậy, 1) nhu cầu vốn và sử dụng vốn trong nông

nghiệp mang tính thời vụ cao; 2) đầu ra sản phẩm mang tính rủi ro cao, có thể mất

vốn khi bị thiên tai, dịch bệnh.

27

Khoa học và công nghệ trong nông nghiệp. “Khoa học là hệ thống tri thức về

các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; còn công nghệ là

tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện

dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” (Luật khoa học và công nghệ,

2000) [42]. Công nghệ gồm có “phần cứng” và “phần mềm”. Phần cứng phản

ánh kỹ thuật của phương pháp sản xuất; kỹ thuật là toàn bộ những điều kiện vật

chất để tạo ra sản phẩm, nó là điều kiện cần thiết làm tăng năng suất lao động.

Khi những tiến bộ của của kỹ thuật có tính đột phá sẽ làm thay đổi phương pháp

sản xuất và làm thay đổi công nghệ. Phần mềm của công nghệ là những thành tố

liên quan đến trình độ thành thạo của con người; những thông tin về bí quyết,

qui trình, phương pháp, dữ liệu, bản thiết kế…; và cuối cùng là thành phần tổ

chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối và quản lý.

Trong nông nghiệp, nhờ những tri thức về nông học, chăn nuôi, nuôi trồng

thủy sản và những tiến bộ trong thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí

hóa, tự động hóa và sinh học hóa mà năng suất lao động trong nông nghiệp tăng

lên không ngừng. Đối với các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, việc đổi mới

khoa học và công nghệ trong nông nghiệp cần kết hợp cả yếu tố truyền thống và

hiện đại nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực khác trong nông nghiệp.

Vấn đề huy động và sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Khi huy động

và sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp, cần quan tâm những vấn đề

sau:

- Số lượng và chất lượng các nguồn lực được huy động có tính quyết định

đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Gia tăng qui mô các nguồn lực

như vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên làm nông nghiệp tăng

trưởng theo chiều rộng; trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu là tăng trưởng

do tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hay nói một cách

khác đó là nâng cao chất lượng của vốn và lao động. Các nước có nền nông

nghiệp phát triển do hội đủ các điều kiện như chất lượng nguồn nhân lực và

28 trình độ công nghệ thì chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Ngược lại, các

nước đang phát triển do số lượng lao động đông, giá nhân công rẻ và tài nguyên

còn dồi dào có thể duy trì tăng trưởng theo chiều rộng, nhưng cần chuyển dần

sang tăng trưởng theo chiều sâu (Võ Văn Đức chủ biên, 2009) [26].

- Vai trò của Nhà nước và thị trường đối với việc huy động và sử dụng nguồn

lực trong nông nghiệp rất quan trọng. Dưới sự điều tiết của thị trường, các

nguồn lực trong xã hội sẽ được huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất. Tuy

nhiên, phát triển nông nghiệp còn phải gắn liền với vấn đề xóa đói, giảm nghèo,

an ninh lương thực, và bảo vệ môi trường sinh thái; nên nhà nước cần phải có

các biện pháp điều tiết trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực vào

sản xuất nông nghiệp để vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa đạt được các mục tiêu

phát triển của quốc gia.

c. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

Với tính cách là một ngành sản xuất đặc thù, nông nghiệp có những đặc điểm

chung như sau:

Sản xuất nông nghiệp có tính vùng rất rõ rệt. Sản xuất nông nghiệp tiến hành

trên không gian rộng lớn, mỗi vùng lại chịu tác động từ những điều kiện tự

nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, tập quán,… rất khác nhau. Đặc

điểm này đòi hỏi nhà quản lý phải hiểu rõ tính chất vùng, qui hoạch nông

nghiệp, lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phù

hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tránh rủi ro và khai thác lợi thế so sánh nông

sản của mỗi vùng.

Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp và ngày càng khan

hiếm. Dù cố định về vị trí, tuy nhiên do không bị đào thải trong quá trình sản

xuất, và nếu được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của đất không ngừng tăng lên;

và ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông

nghiệp. Do đó, việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì nhiêu của

đất là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp.

29

Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, phát sinh phát

triển theo những quy luật sinh học nhất định. Quá trình sản xuất kinh tế trong

nông nghiệp gắn với quá trình sinh học. Vì vậy muốn hoàn thành quá trình sản

xuất phải hiểu biết sâu sắc chu trình sinh trưởng của sinh vật.

Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đặc điểm này xuất phát từ hai

lý do cơ bản. Một là quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tái sản

xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản xuất nhưng không hoàn

toàn trùng khớp với thời gian sản xuất; thứ hai, mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ

phù hợp với một điều kiện thời tiết nhất định. Để khai thác tốt nhất ánh sáng, ôn

độ, độ ẩm, lượng mưa cho cây trồng thì các khâu gieo trồng, bón phân, làm cỏ,

tưới tiêu,… phải đúng thời vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu các phương pháp canh

tác nhằm hạn chế những tác động của thời tiết khí hậu sẽ giúp cho nông nghiệp

phát triển bền vững và ổn định.

1.1.2. Vai trò, vị trí của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Xu hướng nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền kinh tế,

lực lượng lao động nông nghiệp cũng giảm dần và dịch chuyển sang các ngành

kinh tế khác, đất đai trong nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Nhưng sản lượng

nông sản phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu dân số gia tăng, nhiều nông sản là

đầu vào quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ; nông nghiệp vẫn

tiếp tục là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên nhất và ngày càng có vai

trò quan trọng trong việc làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. Như

vậy, ngoài vai trò kinh tế, nông nghiệp bao gồm cả vai trò xã hội và môi trường.

Điều đó được thể hiện như sau.

Đối với phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác. Nông nghiệp không

chỉ là nhân tố mà còn là điều kiện thúc đẩy phát triển các ngành, các lĩnh vực

kinh tế, nó thể hiện qua các vai trò: 1) Nông nghiệp cung cấp lương thực và các

nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác của nền kinh tế. 2) Nông nghiệp tạo ra

thặng dư ngoại tệ nhờ vào xuất khẩu nông sản. 3) Nông nghiệp là thị trường

30 quan trọng cho các ngành khác trong nền kinh tế như ngành sản xuất hàng tiêu

dùng, máy móc và các vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…). 4) Nông

nghiệp là nơi cung cấp nguồn lao động cho khu vực công nghiệp và dịch vụ. 5)

Nông nghiệp còn tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình công

nghiệp hóa.

Đối với sự phát triển của con người, ổn định chính trị xã hội và đảm bảo nền

an ninh quốc phòng. Phát triển nông nghiệp ngoài mục tiêu loại trừ tình trạng

bần cùng và thiếu ăn cho đại đa số người nghèo còn phải đảm bảo an ninh lương

thực. An ninh lương thực đang là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia và cả nhân

loại. Bảo đảm an ninh lương thực (FAO, 2002) [104] sẽ hạn chế những khó

khăn, rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống của người dân, tạo cơ sở cho

việc ổn định chính trị xã hội, giữ vững an ninh và chủ quyền của quốc gia.

Đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Trong nông nghiệp, môi trường

không chỉ là nguồn lực mà còn là yếu tố có liên quan đến bản thân của quá trình

phát triển nông nghiệp và đến môi trường sống của con người. Bảo vệ môi

trường chính là bảo vệ môi trường sản xuất nông nghiệp; bảo tồn đa dạng sinh

học giúp duy trì cân bằng sinh thái, nhờ đó làm chậm quá trình biến đổi khí hậu

toàn cầu. Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần áp dụng

những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo nên sự phát triển bền vững của môi

trường sinh thái.

Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông nghiệp

có vai trò vị trí hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội

của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhìn nhận: Nếu

không có một nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền

kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc. Thực tế ở Việt Nam và nhiều

nước đã chứng minh khi nông nghiệp phát triển vững chắc sẽ giúp nền kinh tế

phát triển ổn định, giảm nhanh tình trạng đói nghèo. Chính vì vậy, nông nghiệp

31 được coi là điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc

gia.

1.1.3. Quan niệm về phát triển nông nghiệp

a. Phát triển nông nghiệp

Để hiểu rõ hơn quan niệm về phát triển nông nghiệp, chúng ta sẽ đi từ các

khái niệm liên quan đến phát triển kinh tế.

- Phát triển kinh tế

Hiện tại có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển kinh tế, Giáo trình Kinh

tế phát triển của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng “Phát triển kinh tế

được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm cả việc gia

tăng sản lượng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ và

nâng cao chất lượng cuộc sống con người (Phạm Ngọc Linh và cộng sự, 2008,

tr. 14) [38]”.

Với cách hiểu đó, phát triển kinh tế được khái quát theo bốn nội dung: Thứ

nhất, gia tăng nhanh tổng sản lượng của nền kinh tế; đây là nội dung thể hiện

quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức

sống vật chất của mọi người dân trong một quốc gia và thực hiện các nội dung

khác của phát triển. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ; một

cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phải đảm bảo tính độc lập sáng tạo của từng

ngành, từng chủ thể kinh tế, nhưng lại có tính liên kết chặt chẽ và hài hòa, đồng

bộ trong một cơ cấu hợp lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ và lấy thị trường,

thị phần quốc tế làm căn cứ. Thứ ba, gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế;

đó là sử dụng và tái đầu tư hợp lý để duy trì qui mô và chất lượng các nguồn lực

nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và liên tục, đồng thời nền kinh tế đó

đủ khả năng vượt qua các biến động của khủng hoảng và thị trường, cũng như

tác động của thiên tai. Thứ tư, nâng cao chất lượng cuộc sống, đó là kết quả của

nâng cao thu nhập đầu người, nhưng không chỉ có vậy, nó đòi hỏi phải có sự

32 phân phối thu nhập công bằng, xóa bỏ nghèo đói, nâng cao phúc lợi cho mọi người dân,… (Tatyana P. Soubbotina , 2005) [77].

Sự phát triển như trên chỉ mới đặt ra sự thay đổi “về chất” của tăng trưởng

khi gắn sự gia tăng thu nhập với việc giải quyết tốt hơn những vấn đề của xã hội,

mà chưa quan tâm đến vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nâng

cao chất lượng môi trường sống của con người. Vì vậy, khái niệm về phát triển

bền vững ra đời.

Năm 1987, lần đầu tiên, Ngân hàng Thế giới đưa ra vấn đề về phát triển bền

vững, theo đó, phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại

mà không làm nguy hại đến đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương

lai. Quan niệm đầu tiên này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng có hiệu quả

các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống của con người

trong quá trình phát triển. Đến năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về

Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Nam Phi), phát triển bền vững được

đề cập một cách đầy đủ hơn. Phát triển bền vững là sự phát triển không những

chỉ đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà còn không làm ảnh hưởng xấu, cản trở

đến phát triển của các thế hệ tương lai, là quá trình phát triển có sự kết hợp

chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh

tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy phát triển bền

vững với ba trụ cột và cũng là ba nội dung cơ bản: bền vững về kinh tế, bền

vững về xã hội, và bền vững về môi trường.

Ngày nay, phát triển phải là phát triển bền vững. Các tiêu chí chủ yếu để

đánh giá sự bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và

công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài

nguyên thiên nhiên; nâng cao chất lượng môi trường sống. Bên cạnh đó, hợp tác

xuyên quốc gia và toàn cầu về các vấn đề phát triển bền vững cũng phải được

quan tâm nhằm giải quyết những khía cạnh mang tính quốc tế của phát triển bền

33 vững như vấn đề nghèo đói, khí thải, biến đổi khí hậu (Geoff A. Wilson, 2007,

p. 57) [116].

- Phát triển nông nghiệp

Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc gia,

nên những nội dung của phát triển kinh tế nêu trên cũng là những nội dung chủ

yếu mà quá trình phát triển nông nghiệp cần phải đạt tới. Tuy nhiên, ngành nông

nghiệp có một số đặc điểm khác với các ngành kinh tế khác, và phát triển luôn là

quá trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những bước

chuyển từ thấp đến cao; chính vì lý do đó, luận án sẽ xem xét quá trình phát triển

nội tại của ngành kinh tế với những đặc thù riêng có của nền nông nghiệp. Trước

tiên, chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm về ngành kinh tế nói chung và ngành

nông nghiệp nói riêng đã làm hình thành một số quan niệm về phát triển nông

nghiệp.

Theo trường phái cơ cấu kinh tế và quản trị sản xuất thì ngành kinh tế là kết

quả của việc phân công lao động xã hội và ngành này được phân biệt với ngành

khác ở chỗ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra. Nông

nghiệp là ngành kinh tế cơ bản cũng được hình thành từ quá trình phân công lao

động xã hội. Và theo quan điểm này, điều kiện để nông nghiệp phát triển cần

phải nâng cao qui mô và chất lượng các yếu tố đầu vào, áp dụng các phương

pháp canh tác tiên tiến, đa dạng chủng loại và chất lượng nông sản sản xuất ra.

Trong đó khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng cho quá trình phát triển

này.

Theo trường phái quản trị doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh mà

Micheal Porter là người đại diện, ngành được hình thành dựa vào các sản phẩm

dễ thay thế nhau và các doanh nghiệp luôn chịu các áp lực cạnh tranh trong nội

bộ ngành từ các đối thủ, nhà cung ứng, người tiêu thụ, đối thủ tiềm ẩn, và các

sản phẩm thay thế. Vì vậy, các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh thế

nào để chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh bằng chi phí hạ, tạo sự

34 khác biệt của sản phẩm và chất lượng làm cho doanh nghiệp duy trì được khả

năng cạnh tranh để phát triển. Theo quan điểm này, các đơn vị sản xuất nông

nghiệp muốn duy trì sự phát triển cần định hướng sản xuất nông nghiệp theo thị

trường và khách hàng để từ đó xây dựng các liên kết kinh tế nhằm hình thành

một hệ thống giá trị của chuỗi ngành hàng để đưa nông sản đến người tiêu dùng

với chi phí thấp nhất.

Theo tổ chức lương nông thế giới (FAO) của Liên Hiệp Quốc, nông nghiệp

theo nghĩa rộng hơn còn bảo gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing

các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, lâm sản và thủy sản (FAO, 2005, tr. 11)

[106]. Và tổ chức này cho rằng phát triển nông nghiệp bền vững là yêu cầu của

phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay khi mà cả thể giới đang chung

tay làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. FAO cho rằng phát triển nông

nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và thay

đổi thể chế và công nghệ nhằm đảm bảo duy trì và thỏa mãn nhu cầu của con

người cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển bền vững như vậy (bao gồm

nông, lâm, ngư nghiệp) đảm bảo không tổn hại đến môi trường, với công nghệ

phù hợp, có hiệu quả về kinh tế và được xã hội châp nhận (FAO, 2005, tr. 11)

[106].

Riêng luận án tiếp cận ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng gồm nông nghiệp

theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và ngư nghiệp là cách

phân loại ngành kinh tế phù hợp với hệ thống tài khoản quốc gia. Với cách tiếp

cận ngành nông nghiệp theo kiểu này sẽ làm cho việc nghiên cứu của luận án

phù hợp với chính sách phát triển nông nghiệp của Việt Nam hiện nay.

Hơn nữa, ngành nông nghiệp luôn khác với các ngành kinh tế khác vì có

những đặc điểm sau: 1) Nông nghiệp khởi thủy là hoạt động tự nhiên (săn, bắt,

hái, lượm) của con người nhằm nuôi sống lấy bản thân của mình. Khi xã hội loài

người văn minh hơn và quá trình phân công lao động xã hội phát triển thì hoạt

động nông nghiệp trở thành hoạt động kinh tế, hình thành nền sản xuất hàng hóa

35 và ngành nông nghiệp ra đời. Ngày nay, nhiều ngành kinh tế mới có thể ra đời

và mất đi, nhưng ngành nông nghiệp dù phát triển đến đâu cũng không thể mất

đi phần tự cấp tự túc là hoạt động tự nhiên của nền nông nghiệp. 2) Phương thức

sản xuất đầu tiên của nông nghiệp là đi từ lao động thủ công, “chặt, đốt, chọc,

trỉa” rồi đến nền nông nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày nay, nhưng

việc kết hợp giữa phương thức sản xuất truyền thống và hiện đại vẫn còn tồn tại,

nhiều công đoạn sản xuất của nền nông nghiệp hiện đại vẫn phải dùng đến lao

động thủ công và phương thức sản xuất truyền thống. 3) Chủ thể sản xuất chính

của ngành nông nghiệp là nông dân, và hình thức tổ chức sản xuất hiệu quả nhất

vẫn là kinh tế nông hộ và trang trại; nên để tiêu thụ nông sản không thể thiếu các

hoạt động liên kết kinh tế của các ngành, các lĩnh vực và các đối tác khác trên

chuỗi ngành hàng nông sản.

Ngoài các đặc điểm chung như trên, ngành nông nghiệp Việt Nam còn có đặc

điểm riêng là nền nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phát triển chủ yếu vẫn dựa vào

tài nguyên thiên nhiên và sức lao động; trong khí đó nông nghiệp vẫn tiếp tục

đóng góp vào sự phát triển kinh tế, an ninh lương thực, giảm nghèo, ổn định

chính trị xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Nên trong

giai đoạn hiện nay và những năm đến tại Việt Nam, theo luận án, phát triển

nông nghiệp là quá trình vận động của ngành nông nghiệp nhằm chuyển đổi nền

nông nghiệp từ sản xuất thủ công là chủ yếu sang sản xuất nông nghiệp theo

hướng công nghiệp và hiện đại; chuyển nền nông nghiệp tự cung, tự cấp thành

nền nông nghiệp hàng hóa và cao hơn là nền nông nghiệp thương mại hóa; và

xây dựng nền nông nghiệp sạch, hữu cơ nhằm đáp ứng các mục tiêu của phát

triển bền vững.

b. Xu hướng phát triển nông nghiệp

Để nền nông nghiệp đạt được các bước chuyển đổi nhanh và bền vững như

khái niệm nêu trên, phải tạo ra động lực và cơ chế vận hành phù hợp đối với nền

nông nghiệp. Về bản chất, động lực là cái thôi thúc, thúc đẩy hành vi của con

36 người khai thác hết năng lực (Lê Du Phong, 2006, tr. 28) [59]. Nhờ đổi mới mà

nền nông nghiệp Việt Nam đã tạo ra động lực cho các chủ thể sản xuất nông

nghiệp, nhờ đó những năm qua nền nông nghiệp Việt Nam liên tục tăng trưởng.

Tuy nhiên, động lực chỉ tạo ra sức mạnh của cá nhân, còn cơ chế vận hành phù

hợp sẽ tạo ra sức mạnh của một hệ thống.

Cơ chế vận hành nền nông nghiệp có thể xem là phương thức vận động các

yếu tố nội tại của ngành nông nghiệp để thúc đẩy việc khai thác đầy đủ các

nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu của phát triển. Để ngành nông nghiệp đủ

sức tạo ra sự liên kết nội tại cũng như liên kết với các ngành kinh tế khác; để nền

nông nghiệp từ chỗ sản xuất phân tán sang sản xuất qui mô lớn; và để nền nông

nghiệp có khả năng ứng phó với những biến đổi của thiên nhiên và giá cả thất

thường của thị trường; nền nông nghiệp đó cần có cơ chế vận hành phù hợp.

Theo luận án, cơ chế vận hành đó như sau: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với

chuỗi ngành hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng

những cơ hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2) Sản xuất nông nghiệp

gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản

xuất hàng hóa. Và 3) sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội

dung của phát triển bền vững quốc gia.

1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành hàng nông sản nhằm phát

triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế

Nông dân sản xuất ra nông sản đáp ứng nhu cầu thị trường nhưng lại không

có khả năng đưa nông sản đến với người tiêu dùng hiệu quả. Thông thường, các

chủ thể sản xuất nông nghiệp vẫn phải nhờ đến hệ thống thu mua, công nghiệp

chế biến, hệ thống phân phối và bán lẻ mới đưa được nông sản từ đồng ruộng

đến bàn ăn của người tiêu dùng.

Ngày nay khi xu thế toàn cầu hóa ngày càng phát triển và thông qua hội nhập

kinh tế đã đem lại nhiều cơ hội thị trường cho sản xuất nông nghiệp. Hình 1.1

37 thể hiện sự tham gia của các nông hộ nhỏ và các trang trại trong quá trình hội

nhập (Joachim von Braun, 2005, tr. 45) [102]. Các nông hộ, trang trại nhỏ có chi

phí sản xuất cao thì chỉ quanh quẩn với thị trường trao đổi tại địa phương, còn

những trang trại có điều kiện sản xuất chi phí thấp hơn đã thâm nhập hiệu quả

hơn đối với thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, ở qui mô nông hộ nhỏ

không thể thâm nhập được thị trường toàn cầu mà chỉ có các trang trại qui mô

lớn và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản mới tạo nên chuỗi ngành hàng

nông sản từ nông hộ nhỏ liên kết với thị trường toàn cầu. Bên cạnh đó, việc đầu

tư vào hạ tầng cơ sở, hoàn thiện các thể chế chính sách là điều không thể thiếu

để tạo mọi điều kiện cho các nông hộ nhỏ có thể thu hẹp được khoảng cách tiếp

cận với các thị trường.

Nông dân hướng theo thị trường cạnh tranh toàn cầu

Thị trường hiệu quả

Thị trường thực tế

p ấ h t í h p i h c ó c g n ù V

Nông dân định hướng theo thị trường trong nước

THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ

ở s ơ c g n ầ t ạ H

h c á s h n í h c , ế h c ể h T

Nông dân tự cung tự cấp

THỊ TRƯỜNG TỈNH VÀ QUỐC GIA

o a c í h p i h c ó c g n ù V

THỊ TRƯỜNG NÔNG TRẠI VÀ NÔNG SẢN TỰ CUNG TỰ CẤP

Nông hộ nhỏ thu nhập cao Nông hộ nhỏ thu nhập thấp Khoảng cách không thâm nhập được của nông hộ nhỏ Thị trường thâm nhập hiệu quả Thị trường thâm nhập thực tế

Hình 1.1: Quá trình hội nhập thúc đẩy sự tham gia của các nông hộ

Ngoài sự tác động đến các đơn vị sản xuất nông nghiệp, hội nhập kinh tế còn

làm cho mối quan hệ cung cầu nông sản thay đổi. Bảng 1.1 còn cho thấy các đặc

điểm của cung và cầu nông sản trong điều kiện hội nhập kinh tế.

38

Bảng 1.1: Các đặc điểm của cung và cầu nông sản

1. Nông sản cung ứng có tính chất thời vụ và mang tính chất địa phương, vùng rất rõ rệt;

1. Cầu nông sản thường xuyên không chỉ trong phạm vi địa phương, quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu;

2. Cầu nông sản mang tính liên tục, tương

đối ổn định;

2. Cung nông sản không liên tục, không ổn định, thường có độ trễ nhất định so với nhu cầu của thị trường;

3. Cầu nông sản ngày càng đa dạng, không chỉ nông sản tươi sống, mà nhu cầu nông sản chế biến, nông sản chất lượng ngày càng tăng;

3. Nông sản là sản phẩm tươi sống, dễ hư hỏng. Do sản xuất công nghiệp, nông sản có nguy cơ nhiễm dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, làm giảm chất lượng nông sản và làm mất an toàn thực phẩm;

4. Chế biến và thương mại nông sản cần thực hiện các đơn hàng lớn, yêu cầu đồng nhất về kích cỡ, và chất lượng nông sản ngày càng nâng cao, và bị cạnh tranh lớn từ nông sản nước ngoài.

4. Nông hộ chỉ có khả năng cung ứng các đơn hàng nhỏ, không đồng nhất về kích cỡ và chất lượng. Khả năng cạnh tranh thấp, luôn chịu nhiều rủi ro trước sự biến động của giá cả thị trường.

Đặc điểm của cung nông sản Đặc điểm của cầu nông sản

Bản thân nông hộ và các đơn vị sản xuất nông nghiệp không thể khắc phục

được sự chênh nhau giữa cung và cầu nông sản như được trình bày ở trên, nếu

không có hệ thống kho hàng dự trữ, bảo quản, chế biến, đóng gói phù hợp trước

khi phân phối nông sản đến người tiêu dùng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp

không thể không gắn với quá trình phát triển các chuỗi ngành hàng nông sản.

Nhất là trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu hơn của Việt Nam hiện nay vào

thị trường nông sản toàn cầu thì việc xây dựng các ngành hàng nông sản và phát

triển các chuỗi ngành hàng nông sản mạnh có vai trò thúc đẩy phát triển nông

nghiệp ổn định, bền vững và khắc phục được những thách thức của quá trình hội

nhập đối với nông nghiệp và nông dân.

39

2) Sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế

của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa

Liên kết vùng có nội dung rất rộng, tuy nhiên trong nông nghiệp, liên kết

vùng chính là các hình thức liên kết nhằm hình thành các vùng sản xuất chuyên

canh và tạo nên mối liên kết giữa nông thôn và thành thị.

- Nông hộ nhỏ thường có xu hướng tự túc, vì sự phân công lao động chưa

phát triển. Khi liên kết vùng phát triển từ cấp xã, đến cấp huyện và mở rộng đến

phạm vi rộng hơn, thì đi cùng với nó là sự phân công lao động trong nông

nghiệp ngày càng phát triển. Và quá trình này sẽ làm cho nền nông nghiệp tự

cung tự cấp phát triển thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, và chỉ có sản

xuất hàng hóa mới làm cho kinh tế nông hộ có khả năng tích lũy giá trị thặng dư;

và nhờ đó, kinh tế nông hộ mới phát triển về qui mô để hình thành các trang trại

chuyên môn hóa hoặc các trang trại nông công thương.

- Liên kết vùng với các cấp độ khác nhau sẽ thúc đẩy chuyên môn hóa và đạt

hiệu quả kinh tế của qui mô. Theo lý thuyết về lợi thế só sánh của David

Ricardo điều tốt nhất cho một vùng, một quốc gia là chuyên môn hóa vào sản

xuất những sản phẩm mà nó sản xuất hiệu quả nhất, và mua những sản phẩm mà

nó sản xuất ít hiệu quả hơn so với các vùng và nước khác, ngay cả điều này cũng

đúng cho việc vùng đó, quốc gia đó mua hàng hóa mà nó có thể sản xuất hiệu

quả hơn.

Xét mô hình của D. Ricardo được xây dựng dựa trên các giả định: Có hai

quốc gia A và B cùng sản xuất ra hai loại hàng hóa khác nhau (gạo và vải). Bảng

1.2 minh họa năng suất lao động của mỗi quốc gia là khác nhau. Cùng một số

nhân công sử dụng, quốc gia A đã sản xuất ra số lượng gạo và vải cao hơn hẳn

quốc gia B. Quốc gia A có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai sản phẩm

(50 kg gạo so với 10 kg gạo và 15 mét vải so với 10 mét vải của quốc gia B),

nhưng lợi thế tương đối nghiêng về sản xuất gạo (5/1 so với 3/2); tương tự, sản

xuất vải của quốc gia B sẽ bất lợi ít hơn. Ở đây, chi phí cơ hội của quốc gia A để

40 sản xuất một kg gạo bằng 0,3 mét vải và sản xuất một mét vải bằng 3,3 kg gạo;

trong khi đó, chi phí cơ hội của quốc gia B để sản xuất một kg gạo bằng 1 mét

vải và sản xuất một mét vải bằng 1 kg gạo. Rõ ràng, trong trường hợp này quốc

gia B sẽ có chi phí cơ hội thấp hơn nếu chuyên môn hóa vào sản xuất vải và từ

bỏ sản xuất gạo, và quốc gia A nên tập trung vào sản xuất gạo; thì cả hai quốc

gia sẽ nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của người dân tại quốc gia mình.

Quốc gia

Nhân công sử dụng

Sản lượng của gạo

Sản lượng vải

(tính theo ngày)

(kg)

(mét)

10

50

A

15

10

10

B

10

Bảng 1.2: Lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh của hai quốc gia

Khác với lợi thế tuyệt đối chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, năng suất vượt

trội, chi phí sản xuất thấp; lợi thế so sánh có được từ sự giảm thấp hơn về chi phí

cơ hội. Rõ ràng ví dụ trên minh chứng cho việc tập trung sản xuất vào những

mặt hàng có lợi thế nhất của một vùng, một quốc gia luôn đem lại lợi ích kinh tế

cho nó và cho các vùng, các quốc gia liên kết trao đổi hàng hóa.

- Liên kết vùng ngoài việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tận dụng được lợi thế

của qui mô, còn tạo điều kiện phát triển thị trường nông sản nhờ hình thành mối

liên kết giữa nông thôn và thành thị. Mối liên kết này làm thúc đẩy việc tiêu thụ

nông sản dễ dàng hơn. Ngày nay, khi nói đến phát triển nông nghiệp không thể

không gắn kết với quá trình phát triển và hiện đại hóa nông thôn. Chính quá

trình này làm cho hạ tầng nông thôn phát triển, giảm chi phí sản xuất và thúc

đẩy giao lưu mua bán giữa nông thôn và thành thị. Điều này đến lượt tác động

tích cực đến quá trình phát triển của nông nghiệp.

41

3) Sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của phát

triển bền vững quốc gia

Dù tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm thấp so với các ngành

kinh tế khác, nhưng không vì thế mà vai trò của nông nghiệp giảm đi, nhất là khi

mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế trở thành tiến trình xuyên suốt trên

phạm vi toàn cầu và tại mỗi quốc gia nhằm chống lại sự đói nghèo và biến đổi

khí hậu.

Không giống các ngành sản xuất vật chất khác, ngoài chức năng kinh tế

nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, vải sợi, đóng góp vào sự tăng

trưởng chung của nền kinh tế; nông nghiệp còn có chức năng xã hội và môi

trường (Guido Van Huylenbroeck, 2008) [108]. Nền kinh tế đạt được quá trình

phát triển bền vững chỉ khi sự tăng trưởng của nông nghiệp góp phần đảm bảo

an ninh lương thực, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái. Như

vậy, phát triển nông nghiệp bền vững là điều kiện, là phương tiện để nền kinh tế

đạt được sự phát triển bền vững; mối quan hệ này thể hiện:

- Tăng trưởng nông nghiệp cao và ổn định giúp phát triển bền vững về mặt

kinh tế. Điều này thể hiện rõ qua các chu kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính; vì

nông nghiệp ít bị tác động bởi khủng hoảng nên khi nông nghiệp tăng trưởng

cao sẽ giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng dễ dàng hơn và tạo điều kiện phục

hồi nền kinh tế nhanh hơn.

- Tăng trưởng nông nghiệp cao giúp giảm nghèo nhanh chóng ở nông thôn

và cả thành thị. Điều đó được lý giải: 1) Tăng trưởng nông nghiệp làm tăng sản

lượng lương thực và tăng thu nhập của người dân ở nông thôn nên sẽ có tác

dụng giảm nghèo tuyệt đối do có đủ lương thực tự túc và giảm nghèo tương đối

do thu nhập khu vực nông thôn tăng lên; 2) mặt khác, tăng trưởng trong nông

nghiệp làm giảm giá cả lương thực và người nghèo thành thị có cơ hội giảm

nghèo do đủ sức mua lương thực. Điều này cũng đúng cho phạm vi toàn cầu, khi

sản lượng lương thực thế giới tăng, kéo theo giá nông sản toàn cầu giảm tương

42 ứng và điều này đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia nghèo thiếu lương thực.

Khi khủng hoảng tài chính xảy ra có thể làm cho một số doanh nghiệp phá sản,

nền kinh tế tăng trưởng chậm; nhưng khi khủng hoảng lương thực xảy ra có thể

gây bất ổn xã hội, chính trị, thậm chí xảy ra chiến tranh. Nên phát triển nông

nghiệp bền vững giúp phát triển bền vững về mặt xã hội.

- Phát triển nông nghiệp bền vững làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn

cầu. Tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái là nguồn lực quan trọng của

sản xuất nông nghiệp, nếu quá trình phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi

trường sinh thái, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thì sẽ đóng góp đáng kể vào quá

trình phát triển bền vững về mặt môi trường (FAO, 2003) [105].

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp bền vững và phát triển

bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường không phải lúc nào cũng thuận chiều,

mà đôi lúc trở thành mâu thuẫn vì lợi ích xung đột lẫn nhau: 1) Thu hẹp đất sản

xuất nông nghiệp để phục vụ quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công

nghiệp, phát triển thủy điện, khai thác tài nguyên khoáng sản đã làm ảnh hưởng

đến phát triển nông nghiệp. 2) Công nghiệp, giao thông vận tải phát triển gây ra

ô nhiễm đất, nguồn nước, bầu trời và làm tăng nhanh quá trình biến đổi khí hậu.

Nông nghiệp là ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất từ quá trình phát triển này. 3)

Ngoài ra, chính sách an ninh lương thực, chính sách ưu tiên phát triển công

nghiệp làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển nông nghiệp. Đôi khi phải hy

sinh môi trường để gia tăng sản lượng lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương

thực và xóa đói giảm nghèo.

Như vậy, trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, quan niệm về phát triển

nông nghiệp do luận án trình bày ở trên không thể không gắn chặt phát triển

nông nghiệp với khai thác chuỗi ngành hàng và liên kết vùng. Quá trình này làm

cho vai trò chủ thể của nông dân không còn đơn độc nữa mà đòi hỏi phải có sự

liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân với nhau và giữa nông dân với các đối tác

trên chuỗi cung cấp. Ngoài ra, sự tham gia của chính quyền địa phương vào quá

43 trình này ngày càng có vai trò quan trọng để thúc đẩy nông nghiệp phát triển,

nhất là tham gia đầu tư phát triển; ban hành các chính sách về nông nghiệp, nông

thôn và nông dân; nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhằm tạo ra động lực

và cơ chế vận hành phù hợp để thúc đẩy nông nghiệp phát triển.

1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Từ khi đổi mới đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam đã hình thành hai xu

hướng phát triển khá rõ nét. Sau đổi mới, xu hướng phát triển nông nghiệp dựa

vào cung đóng vai trò chủ đạo, điển hình của xu hướng này là cả nước tập trung

gia tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói, giảm nghèo. Từ

khi hội nhập, nhất là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì

cách tiếp cận theo phía cầu của phát triển nông nghiệp hình thành và phát triển;

điển hình của cách tiếp cận này là sản xuất nhiều chủng loại nông sản đáp ứng

ngày càng đa dạng của thị trường trong nước và quốc tế.

Khi nghiên cứu phát triển nông nghiệp, luận án xuất phát từ nội tại của ngành

nông nghiệp, nhưng trong quá trình phát triển, ngành nông nghiệp không thể

thoát ly với quá trình biến đổi của nền kinh tế Việt Nam. Nên những nội dung

của phát triển nông nghiệp hiện nay không thể tách rời với quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.

Xuất phát từ những phân tích trên, luận án cho rằng phát triển nông nghiệp của

Việt Nam hiện nay có những nội dung chủ yếu sau:

1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng hợp lý và

hiện đại

Trong tiếng Việt, thuật ngữ “cơ cấu” được sử dụng để chỉ các bộ phận hợp

thành của một tổng thể nào đó và mối quan hệ giữa các bộ phận đó trong tổng

thể. Trong sản xuất nông nghiệp, các bộ phận hợp thành có thể được xem xét ở

ngành, tiểu ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vùng lãnh thổ hoặc thành phần kinh tế.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành rất khác nhau tùy điều kiện

chủ quan, khách quan trong từng thời kỳ của từng vùng, từng địa phương, và

44 từng quốc gia. Hơn nữa, vai trò, vị trí của từng bộ phận trong tổng thể nền nông

nghiệp cũng khác nhau và thường thay đổi. Ví dụ, trong cơ cấu ngành, có thể có

những ngành được xác định là nền tảng, ngành mũi nhọn; hoặc trong ngành

trồng trọt, có thể vùng này chọn cây lương thực là chủ đạo, vùng khác chọn cây

công nghiệp là chủ đạo; hoặc trong các vùng, có thể có vùng kinh tế trọng điểm,

vùng kinh tế động lực,…

Từ đó, luận án cho rằng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp là tổng thể các ngành,

lĩnh vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp với vai trò, vị trí của các thành

phần hợp thành theo tỷ lệ tương ứng ổn định trong một thời kỳ nhất định

(Nguyễn Tiến Dũng, 2003, tr. 14) [20].

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn vận động cùng với sự thay đổi của những

điều kiện khách quan như nhu cầu thị trường, tiến bộ công nghệ, chất lượng

nguồn nhân lực, các đối thủ cạnh tranh, và đối tác kinh tế… Nên có thể hiểu,

chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là sự chuyển dịch vai trò, vị trí và tỷ lệ

hợp thành của các ngành, lĩnh vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp theo

hướng hợp lý nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Chuyển dịch cơ cấu

sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý là chuyển sang cơ cấu có khả năng tái

sản xuất mở rộng, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, đáp ứng được

nhu cầu của thị trường và xã hội, đồng thời cơ cấu đó phải đảm bảo bền vững về

mặt kinh tế, xã hội và môi trường.

Quá trình phát triển nông nghiệp luôn làm chuyển dịch cơ cấu các ngành, các

bộ phận, các nguồn lực để tạo ra một cơ cấu hợp lý, hiện đại hơn đem lại hiệu

quả kinh tế cao hơn, nhờ đó tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển nhanh hơn.

Việc chuyển sang một cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý và hiện đại chính là

chuyển đổi sang một cơ cấu có khả năng khai thác được lợi thế so sánh, lấy thị

trường và thị phần quốc tế làm căn cứ; tăng những ngành có giá trị gia tăng cao,

có hàm lượng khoa học công nghệ, có nhu cầu thị trường lớn và ổn định; tăng

những ngành có suất sử dụng tài nguyên thấp, ít gây hại môi trường.

45

Trong thực tiễn hiện nay tại Việt Nam, nền nông nghiệp có cơ cấu kinh tế

hợp lý và hiện đại khi chuyển dịch theo các xu hướng sau:

- Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng chuyển từ nền nông

nghiệp độc canh, tự cung tự cấp thành nền nông nghiệp hàng hóa và cao hơn là

nền nông nghiệp thương mại hóa.

- Tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp; giảm tỷ

trọng ngành trồng trọt.

- Đối với ngành trồng trọt, xu hướng chuyển dịch là giảm dần diện tích cây

lương thực, tăng diện tích cây ăn quả, cây rau màu, và cây công nghiệp.

- Đối với ngành chăn nuôi, cơ cấu được chuyển dịch theo hướng thay các

giống mới có năng suất cao và chất lượng; đồng thời, chuyển dịch sang đàn vật

nuôi có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ ổn định thay cho những vật

nuôi có giá trị kinh tế thấp.

- Đối với ngành thủy sản, chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng

thủy sản, giảm dần tỷ trọng đánh bắt.

- Đối với cơ cấu lao động, lao động nông nghiệp sẽ giảm dần để chuyển sang

các ngành phi nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng và trẻ hóa lực lượng

lao động trong nông nghiệp.

Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp gồm: 1) Tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp trong

GDP. 2) Cơ cấu giá trị sản xuất nội ngành nông, lâm, ngư nghiệp. 3) Cơ cấu

diện tích các loại cây trồng, diện tích các loại mặt nước nuôi trồng thủy sản. 4)

Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động. 4) Cơ cấu về trình độ học

vấn, nghề nghiệp, độ tuổi của lao động nông nghiệp.

1.2.2. Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp

Vùng sinh thái nông nghiệp là vùng sản xuất nông nghiệp gắn liền với các

điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, đất đai, cây trồng và vật nuôi trong một hệ sinh

46 thái hài hòa, đạt tới sự cân bằng các yếu tố cấu thành để nâng cao năng suất cây

trồng, vật nuôi (Trần Đức Viên và cộng sự, 1998, tr. 100) [94].

Sản xuất nông nghiệp luôn gắn với đặc điểm vùng, địa phương. Sự tận dụng

điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,... để phát triển cây trồng, vật nuôi theo từng

mùa trong năm là những kiến thức cơ bản của ngành nông học. Việt Nam là

nước nông nghiệp, những kiến thức được tổng kết qua kinh nghiệm như “nhất

thì, nhì thục”, cho thấy trước tiên việc sản xuất nông nghiệp phải hiểu biết điều

kiện sinh thái vùng để đặt cây trồng, vật nuôi đúng vị trí của nó trong môi

trường sao cho đạt năng suất cao; thứ đến, sản xuất nông nghiệp phải có sự

tương tác của con người và khoa học, kỹ thuật để tận dụng tối đa điều kiện tự

nhiên này.

Chính vì vậy, khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp chính là nâng

cao sự hiểu biết của con người về vùng sinh thái nông nghiệp, thông qua tác

động của khoa học, kỹ thuật để điều khiển hệ sinh thái nông nghiệp phù hợp với

môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội nhằm nâng cao năng suất các cây trồng,

vật nuôi, đáp ứng nhu cầu của thị trường mà vẫn duy trì được sự cân bằng của

hệ sinh thái nông nghiệp. Có như vậy, thì sản xuất nông nghiệp mới đóng góp

vào sự phát triển bền vững của vùng sinh thái nông nghiệp, cũng chính là đóng

góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Điều này rất có ý nghĩa trong

điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay.

Trong điều kiện hiện nay tại Việt Nam, khai thác hợp lý các vùng sinh thái

nông nghiệp có những nội dung cơ bản sau:

- Qui hoạch và phân vùng sản xuất nông nghiệp;

- Xác định hệ thống cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý;

- Xây dựng chế độ canh tác cho các vùng sinh thái khác nhau; các vụ mùa

khác nhau;

47

- Ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật để điều khiển hệ sinh thái nhằm

phát triển nông nghiệp trong điều kiện nguồn lực ngày càng khan hiếm,

giảm phát khí thải nhà kính ;

- Phòng chống sâu bệnh tổng hợp; và,

- Khôi phục các vùng sinh thái bị suy thoái do canh tác không hợp lý.

Từ những nội dung trên, việc khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp

thể hiện qua các chỉ tiêu sau: 1) Giống các cây trồng, vật nuôi bản địa được bảo

tồn và phát triển ; 2) Số vụ mùa canh tác cây trồng chủ yếu trong năm; 3) Các

phương pháp canh tác và phòng chống sâu bệnh tổng hợp; 4) diện tích các vùng

chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; và 5) diện tích rừng được khôi phục.

1.2.3. Phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp

Chuyên môn hóa sản xuất là quá trình tập trung các yếu tố sản xuất của một

đơn vị để sản xuất một hay một số sản phẩm hàng hóa phù hợp điều kiện sinh

thái vùng, nguồn lực có sẵn và với nhu cầu của thị trường (Nguyễn Thế Nhã và

cộng sự, 2002, tr. 222) [45].

Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến tập trung hóa. Tập

trung hóa sản xuất nông nghiệp là việc tập trung các yếu tố sản xuất của đơn vị

sản xuất để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa, làm cho qui mô của đơn vị sản xuất

nông nghiệp ngày càng phát triển, không chỉ tăng qui mô về đất đai mà cả việc

tập trung vốn trên một đơn vị sản xuất hàng hóa (ha, đầu gia súc). Thúc đẩy

chuyên môn hóa và tập trung hóa tạo điều kiện hình thành các trang trại sản xuất

hàng hóa có qui mô lớn, thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp cơ khí hóa, tự động

hóa, tăng cường năng lực trong liên kết với các đối tác trên chuỗi ngành hàng

nông sản và làm cho trang trại tham gia tích cực vào chuỗi nông sản toàn cầu.

Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, địa hình, điều kiện khí hậu, đất đai

mà việc chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam

cần chú ý đến các vấn đề sau: 1) Chuyên môn hóa kết hợp với luân canh nhằm

giúp cải thiện chất lượng đất đai, phòng chống sâu bệnh; 2) chuyên môn hóa kết

48 hợp với xen canh, gối vụ nhằm tận dụng điều kiện tự nhiên, địa hình, chu kỳ

sinh trưởng các loại cây trồng để tăng năng suất ruộng đất; 3) chuyên môn hóa

cây trồng kết hợp với phát triển chăn nuôi và ngành nghề nông thôn nhằm kết

hợp hài hòa các yếu tố trong vùng sinh thái, tận dụng thời gian nông nhàn, tăng

thu nhập nông hộ và phát triển nông thôn; 4) trong tập trung hóa thì tích tụ đất

đai đóng vai trò quan trọng để phát triển kinh tế trang trại, phát triển nền nông

nghiệp hàng hóa, nâng cao khả năng hội nhập của trang trại và các doanh nghiệp

nông nghiệp vào chuỗi nông sản toàn cầu.

Tuy nhiên, quá trình chuyên môn hóa, tập trung hóa kết hợp với khai thác

tổng hợp các nguồn lực trong nông nghiệp như trên phải đảm bảo nguyên tắc:

Không làm cản trở sự phát triển của sản phẩm chuyên môn hóa; duy trì sự cân

bằng hệ sinh thái nông nghiệp; thúc đẩy phân công lao động, chuyển đổi nhanh

cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nhất là chuyển đổi cơ cấu kinh tế,

cơ cấu lao động tại nông thôn.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu hơn vào nền

kinh tế toàn cầu, trước yêu cầu phải chuyển đổi nền nông nghiệp phát triển theo

hướng công nghiệp và hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều kiện để

thúc đẩy chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp là:

1) Nắm bắt các điều kiện tự nhiên của vùng để lựa chọn các cây trồng, vật

nuôi có lợi thế. Những cũng cần nhận thức rằng rằng con người với khoa học kỹ

thuật có thể chế ngự các điều kiện thiên nhiên theo khả năng hoặc tạo ra những

môi trường nhân tạo cho cây trồng, vật nuôi nhằm phát triển các cây trồng, vật

nuôi đáp ứng đồng bộ và kịp thời theo nhu cầu của thị trường.

2) Xây dựng vùng chuyên canh phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường.

Việc lựa chọn sản phẩm không chỉ quan tâm đến số lượng, chất lượng, mà còn

phải quan tâm đến sự kịp thời, đáp ứng được các đơn hàng lớn, và nhất là vấn đề

an toàn thực phẩm.

49

3) Phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là thủy lợi, giao thông vận

tải và thông tin liên lạc nhằm tạo điều kiện cho lưu thông nông sản, hạ chi phí

sản xuất và giao dịch.

4) Phát triển hệ thống công nghiệp và dịch vụ liên kết với nông nghiệp.

Ngành chế biến, bảo quản nông sản; các dịch vụ tài chính, marketing và kinh

doanh nông sản phát triển sẽ giúp phát triển các vùng sản xuất chuyên môn hóa

nông sản.

5) Xây dựng các doanh nghiệp hạt nhân làm đầu mối trong giao dịch nông

sản và liên kết với các nông hộ nhỏ. Mô hình này sẽ giúp không chỉ thúc đẩy

chuyên môn hóa ở các trang trại lớn mà quá trình này cũng sẽ thúc đẩy các nông

hộ nhỏ hơn thực hiện được chuyên môn hóa trong các khâu của quá trình sản

xuất nông nghiệp.

Từ những nội dung phân tích trên, các chỉ tiêu liên quan đến quá trình

chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp như sau: 1) Tỷ

suất giá trị sản phẩm hàng hóa trong tổng giá trị sản xuất của ngành chuyên môn

hóa; 2) qui mô giá trị sản phẩm hàng hóa; 3) tỷ trọng các yếu tố đầu vào cho sản

xuất sản phẩm hàng hóa; 4) diện tích đất đai trên nhân khẩu, lao động, đơn vị

sản xuất nông nghiệp; 5) vốn đầu tư trên đơn vị sản xuất hàng hóa (ha, đầu gia

súc); 6) diện tích đất đai được tích tụ.

1.2.4. Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp

Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp là việc phối hợp các nguồn lực, điều

kiện của sản xuất nông nghiệp thông qua việc thiết lập các hình thức kinh doanh

nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của sản xuất nông nghiệp. Do đó,

phát triển tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, chính là phát triển các hình thức

tổ chức sản xuất phù hợp với qui mô và trình độ tổ chức sản xuất nông nghiệp

nhằm không chỉ tạo ra sản lượng cao mà còn đem lại giá trị kinh tế cao của nông

sản sản xuất ra; ngoài ra, phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong sản xuất

50 và tiêu thụ nông sản cũng là một trong những nội dung quan trọng của phát triển

tổ chức sản xuất trong nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp luôn gắn với quá trình sinh học của

cây trồng vật nuôi, nên các hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trong sản xuất

nông nghiệp là hình thức tổ chức sản xuất của hộ nông dân và trang trại. Ngoài

ra, còn có các hình thức hợp tác xã và các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp.

Hộ nông dân là hình thức tổ chức sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Hình

thức này có ưu điểm là gắn người nông dân với đất đai và phát huy được tính tự

chủ của họ trong sản xuất nông nghiệp; nhờ vậy, mà hộ nông dân luôn tìm mọi

cách để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động ở mức cao nhất. Kinh

nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế hộ nông dân với qui mô nhỏ,

vừa hay lớn đều có khả năng thương phẩm hóa sản xuất rất cao và tạo ra giá trị

sản lượng nông nghiệp cao. Nhiều nước, kinh tế nông hộ đạt trình độ thâm canh

cao trong trồng trọt, chăn nuôi với việc tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa và bắt

đầu tự động hóa, tạo điều kiện tăng nhanh năng suất lao động nông nghiệp.

Một hình thức sản xuất khác trong nông nghiệp được xem là tiên tiến hơn, đó

là các trang trại. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm,

thủy sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, có qui mô ruộng đất và các

yếu tố sản xuất đủ lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý tiên tiến (Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng , 2006, tr. 63) [45]. Sự hình thành của kinh tế

trang trại chủ yếu từ sự vận động đi lên của kinh tế nông hộ. Về hình thức, trang

trại trong quá trình phát triển cũng trải qua ba giai đoạn phát triển. Nó đi từ trang

trại đa dạng, tiến lên trang trại chuyên canh và hình thức cao hơn là trang trại

nông-công-thương nghiệp. Trang trại nông-công-thương nghiệp là hình thức

phát triển cao của kinh tế trang trại có liên kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến

và tổ chức tiêu thụ nông sản.

Ngoài ra, hợp tác xã cũng là một hình thức không thể thiếu trong sản xuất

nông nghiệp. Kinh nghiệm cho thấy, kinh tế nông hộ và trang trại trong quá

51 trình sản xuất kinh doanh luôn có nhu cầu hợp tác. Theo Luật hợp tác xã tại Việt

Nam [10], thì hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,

pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra nhằm

cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy

nhiên với mô hình hợp tác hóa, tập thể hóa, xóa bỏ kinh tế hộ nông dân thì sản

xuất không phát triển được, mà cần có mô hình hợp tác hóa thực sự theo đúng

nghĩa hợp tác giữa các hộ nông dân và các trang trại.

Các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Trước đây các doanh nghiệp sản

xuất nông nghiệp gồm các nông trường, lâm trường, và trạm trại. Tuy nhiên,

hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp được thành lập theo luật doanh

nghiệp và hoạt động trên cơ sở liên kết từ khâu sản xuất, đến chế biến và tiêu thụ

nông sản. Doanh nghiệp có thể thuê công nhân nông nghiệp hoặc giao khoán đất

đai; cung cấp giống; kỹ thuật canh tác, chăn nuôi đến hộ nông dân và thu mua

sản phẩm từ nông hộ theo giá cả thỏa thuận.

Dù được tổ chức dưới các hình thức sản xuất nào thì các đơn vị sản xuất

trong nông nghiệp không thể đạt hiệu quả kinh tế nếu không hợp tác và liên kết

kinh tế. Liên kết kinh tế là một phương thức đã xuất hiện từ lâu trong hoạt động

kinh tế, nó là sự hợp tác của hai hay nhiều bên trong quá trình hoạt động, cùng

mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp là sự

hợp tác của các đối tác trên chuỗi ngành hàng nông sản để đưa nông sản từ nơi

sản xuất đến nơi tiêu thụ nhằm tìm kiếm những cơ hội đem lại lợi nhuận từ sự

liên kết này.

Một hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp được xem là tiến bộ khi nó

đạt được các tiêu chí: 1) Liên kết đó đảm bảo tôn trọng tính độc lập của các đơn

vị sản xuất nông nghiệp đối với sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra;

2) liên kết đó phải tăng khả năng cạnh canh của nông sản sản xuất ra như về chi

phí, mẫu mã, an toàn thực phẩm; 3) liên kết đó phải bền vững và đảm bảo phân

52 chia lợi ích phù hợp giữa các đối tác, đặc biệt đối với nông hộ; 4) liên kết đó

đảm bảo nông sản đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.

Hiện có hai mô hình liên kết được xem là tiến bộ đối với các nông hộ và các

đơn vị sản xuất nông nghiệp là liên kết ngang và liên kết dọc. Liên kết dọc thể

hiện sự liên kết giữa nông hộ và trang trại với các đối tác trên chuỗi ngành hàng

nông sản. Còn liên kết ngang là sự liên kết của các nông hộ và trang trại nhằm

tạo ra các vùng chuyên canh để thực hiện được các đơn hàng lớn.

Để đưa được nông sản từ nơi sản xuất đến bàn ăn của người tiêu dùng, mỗi

ngành hàng của nông sản sẽ tạo nên chuỗi ngành hàng của riêng nó. Chuỗi

ngành hàng là tập hợp tác tác nhân (hay các bộ phận hợp thành của tác nhân)

kinh tế qui tụ trực tiếp vào việc đưa ra môt sản phẩm cuối cùng (Phạm Văn

Khôi, 2007, tr. 69) [37]. Chuỗi ngành hàng được xem như là chuỗi cung cấp của

ngành hàng đó. Ở mỗi khâu của chuỗi ngành hàng nông sản được chuyển từ đối

tác này sang đối tác khác, và qua mỗi khâu giao dịch sẽ làm cho giá trị nông sản

tăng thêm. Nhưng trên hết chuỗi ngành hàng thể hiện một hệ thống liên kết các

CÁC THỂ CHẾ

Cam kết thương mại An toàn thực phẩm Sở hữu trí tuệ Luật thương mại Chất lượng sản phẩm Luật lao động,…

Dòng thông tin

Bán lẻ

Sản xuất

Thu gom

Chế biến

Bán buôn

Dòng nông sản

Dòng tài chính

Giao thông vận tải Dịch vụ kho hàng, xử lý Nghiên cứu, khuyến nông Thông tin liên lạc Logistics Thông tin, tài chính,…

đối tác trên chuỗi để nâng cao hiệu năng hoạt động và chất lượng của chuỗi cung cấp (Martin Christopher , 2005, tr. 16) [103].

HẠ TẦNG

Hình 1.2: Các đối tác tham gia trên chuỗi ngành hàng nông sản

53

Chuỗi ngành hàng liên kết chặt chẽ từ người sản xuất, người thu gom, người

chế biến, người bán buôn và người bán lẻ (hình 1.2) (Anita Regmi and et al,

2005, p.15) [112]. Ngoài ra, để đảm bảo cho các đối tác cải thiện tốt hơn các

hoạt động của chuỗi thì hạ tầng và thể chế được xem như các hoạt động phụ trợ.

Hạ tầng của chuỗi như giao thông, thông tin liên lạc, dịch vụ kho hàng và

logistics, và các dịch vụ khác như thông tin thị trường, khuyến nông, nghiên

cứu, dịch vụ tài chính. Các thể chế của chuỗi được xây dựng qua các tổ chức

quốc tế, trong nước, địa phương và các hiệp hội; trong đó các luật về thương

mại, các qui định về phương pháp sản xuất tốt, an toàn thực phẩm, chất lượng

sản phẩm; đóng gói, vận chuyển, bảo vệ môi trường; thực hành lao động, hợp

đồng và sở hữu trí tuệ.

Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện hình thức, qui

mô và mối liên kết của các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp gồm: 1) Tỷ trọng

của mỗi loại hình sản xuất nông nghiệp đóng góp vào sản lượng và giá trị sản

xuất trong nông nghiệp; 2) cơ cấu sử dụng đất đai, lao động và vốn của các loại

hình sản xuất nông nghiệp; 3) cơ cấu đầu tư của các loại hình sản xuất nông

nghiệp; 4) tỷ lệ nông sản được chế biến (cấp 2, cấp 3); 5) tỷ trọng nông sản chủ

yếu xuất khẩu so với tổng sản lượng; 6) kim ngạch xuất khẩu nông sản (tốc độ);

7) tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nông sản so với tổng kim ngạch xuất khẩu; 8) Thị

phần một số nông sản xuất khẩu chủ yếu; 9) tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tại địa

phương; 10) kim ngạch xuất khẩu tính trên đơn vị canh tác và trên lao động

nông nghiệp.

1.2.5. Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao

Có hai phương thức sản xuất cơ bản trong nông nghiệp; đó là quảng canh và

thâm canh. Quảng canh là phương thức sản xuất nhằm tăng sản lượng nông sản

bằng cách mở rộng diện tích đất đai với cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình

độ kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu dựa vào việc sử dụng độ phì nhiêu tự nhiên của

ruộng đất. Khái niệm này còn được hiểu theo nghĩa tiến bộ hơn, đó là sự tăng

54 sản lượng nông sản dựa trên cơ sở mở rộng diện tích ruộng đất hoặc tăng số đầu

gia súc với kỹ thuật không đổi. Trong giai đoạn đầu phát triển nền nông nghiệp

chủ yếu sử dụng phương thức này, nhưng xu hướng đất đai nông nghiệp ngày

càng thu hẹp, quỹ đất dành cho cây xanh, rừng tăng lên, xu hướng giảm vụ để

đất đai có thời gian tái tạo độ phì nhiêu, nên nền nông nghiệp của các nước

chuyển dần qua phương thức canh tác tiến bộ hơn; đó là phương thức thâm

canh.

Thâm canh ngược lại với quảng canh, là phương thức sản xuất tiên tiến nhằm

tăng sản lượng nông sản bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất,

thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp. Từ

đó cho thấy, bản chất của thâm canh là quá trình đầu tư phụ thêm tư liệu sản

xuất và sức lao động trên đơn vị diện tích, hoàn thiện không ngừng các biện

pháp kỹ thuật, tổ chức và những yếu tố khác của sản xuất với mục đích nâng cao

độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, nhằm thu được nhiều sản phẩm trên một đơn

vị diện tích, với chi phí thấp trên đơn vị sản phẩm. Theo nhà kinh tế học Paul A.

Samuelson đây chính là tích lũy vốn theo chiều sâu, và điều này chỉ xảy ra khi

có cải tiến về giống, kỹ thuật canh tác, áp dụng các công nghệ sinh học, thủy lợi

hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, tự động hóa, đồng thời nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực tại nông thôn thông qua giáo dục, khuyến nông, phát

triển y tế và phát triển cơ sở hạ tầng tại nông thôn.

Những hình thức thâm canh đầu tiên là canh tác lúa nước, nuôi trồng thủy

sản có kiểm soát, chăn nuôi tập trung, trồng cây gây rừng,… Ngày nay, thâm

canh đã đạt đến trình độ cao nhờ áp dụng các tiến bộ của khoa học và công

nghệ vào sản xuất nông nghiệp như: 1) Thủy lợi hóa giúp người canh tác kiểm

soát chế độ canh tác cây trồng và nuôi trồng thủy sản, ngày nay nhiều hình thức

tưới tiết kiệm, tưới có kiểm soát, tưới phun, tưới kết hợp bón phân vi lượng giúp

người nuôi trồng kiểm soát được vụ mùa và nâng cao năng suất canh tác. 2) Cơ

giới hóa giúp tiết kiệm lao động, không những khâu làm đất, gieo trồng mà hầu

55 như tất cả các khâu còn lại như phun thuốc, thu hoạch, vận chuyển, sấy, lột vỏ

đều có thể cơ giới hóa được. 3) Hóa học hóa giúp kiểm soát sâu bệnh, cỏ dại, và

nhất là phân vi lượng và phân hóa học là một trong những thành tựu quan trọng

của công nghệ góp phần đem lại năng suất cao trong canh tác cây trồng. 4) Điện

khí hóa giúp giải quyết vấn đề động lực trong sản xuất nông nghiệp và nâng cao

chất lượng cuộc sống tại nông thôn. 5) Tự động hóa giúp việc canh tác và chăn

nuôi kiểm soát được mọi khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp mà không cần

sự tham gia trực tiếp của lao động nông nghiệp. 6) Và sinh học hóa giúp tạo ra

giống cây, con có năng suất cao, chất lượng tốt và góp phần bảo vệ môi trường.

Nhờ vào những tiến bộ về công nghệ sản xuất ở trên mà sản xuất nông

nghiệp đã có những phương pháp canh tác mới như trồng cây trong nhà kính,

chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp. Ngày nay, đa phần các sản phẩm thịt,

sữa, trứng, rau quả được bán tại siêu thị ở nhiều quốc gia được sản xuất theo

phương pháp nông nghiệp công nghiệp hóa.

Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện trình độ thâm

canh trong nông nghiệp gồm: 1) Mức đầu tư trên đơn vị diện tích đất nông

nghiệp và trên lao động nông nghiệp. 2) Diện tích đất trồng trọt được tưới, tiêu

bằng hệ thống thủy lợi. 3) Số lượng máy kéo trên 100 hộ nông dân, trên 100 ha

đất nông nghiệp. 4) Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của mỗi loại sản phẩm. 5) Năng

suất cây trồng, con vật nuôi. 6) Năng suất lao động xã hội của ngành nông

nghiệp.

1.2.6. Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và

hiện đại

Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò

nền tảng cho các hoạt động kinh tế-xã hội được diễn ra một cách bình thường.

Trình độ phát triển kết cấu hạ tầng luôn được xem là thước đo phản ánh trình độ

phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đối với ngành nông nghiệp, kết cấu

56 hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp gồm các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc

chủ yếu sau:

- Hệ thống thủy lợi gồm các công trình cấp và tiêu nước như đập nước, đập

ngăn mặn, hồ chứa, trạm bơm, hệ thống mương dẫn, cống dẫn và mương nội

đồng. Thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát chế độ canh tác,

nuôi trồng thủy sản, giảm những tác hại của thiên nhiên đối với cây trồng, vật

nuôi.

- Giao thông nội đồng, hệ thống giao thông nông thôn. Do tính không thể

tách rời giữa nông nghiệp, nông thôn; mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xã

hội mà hệ thống giao thông nông thôn phát triển cũng góp phần làm hạ chi phí

trong sản xuất nông nghiệp.

- Hệ thống điện phục vụ nông nghiệp là cơ sở để thực hiện điện khí hóa

trong nông nghiệp, nhất là phát triển thủy lợi, cơ giới hóa, và tự động hóa.

- Nhà lưới, sân phơi, lò sấy; các kho chứa vật tư, nông sản, các khu chế

biến, kho bảo quản hạt giống; các trạm trại giống cây, con. Những cơ sở hạ tầng

này góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng nông sản và

giảm tổn thất sau thu hoạch.

- Các cảng biển, cảng hàng không, cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền; các

hoạt động logistics gắn liền với hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh nông

sản. Các cơ sở hạ tầng này giúp ngành hàng nông sản hội nhập tốt hơn vào chuỗi

nông sản toàn cầu, phát triển thị trường nông sản và giảm thiểu các rủi ro do

biến động giá cả nông sản trên thị trường gây ra nhiều bất lợi đối với sản xuất

nông nghiệp.

Do đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các cây, con; sản xuất nông nghiệp

được tiến hành trên một không gian rộng lớn; nông sản là những loại sản phẩm

tươi sống, dễ hư hỏng, mang tính thời vụ. Các đặc điểm này làm cho ngành nông

nghiệp dễ bị tổn thương bởi thiên tai và thị trường, nên phát triển kết cấu hạ tầng

phục vụ sản xuất nông nghiệp được xem là điều kiện và hệ quả của phát triển

57 nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng là điều kiện vì muốn phát triển sản xuất nông

nghiệp phải xây dựng các cơ sở hạ tầng để đảm bảo nông nghiệp phát triển ổn

định và bền vững; ngược lại, kết cấu hạ tầng là hệ quả vì nông nghiệp phát triển

sẽ làm cho kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện, và mở rộng để đáp ứng tốt hơn

nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp.

Đối với Việt Nam, do sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phân tán nên

những năm qua mặc dầu được Nhà nước đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng

phục vụ nông nghiệp nhất là thủy lợi, nhưng phải nói rằng nhiều kết cấu hạ tầng

không đồng bộ, nhiều “nút thắt cổ chai” trong kết cấu hạ tầng vẫn còn tồn tại.

Nhiều công trình đầu tư nhưng việc quản lý vận hành không tốt nên nhiều công

trình không phát huy hiệu quả, xuống cấp, gây nhiều lãng phí đối với nền kinh tế

và xã hội. Nên để đảm bảo nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững, nâng

cao được khả năng cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường nông sản toàn

cầu, việc xây dựng một kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp đồng bộ và hiện

đại thể hiện những nội dung cơ bản là: 1) xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng có

tính hệ thống và đồng bộ, đi trước một bước trong phát triển sản xuất nông

nghiệp, đáp ứng trước mắt nhưng đảm bảo yếu tố lâu dài và hiện đại; 2) cần huy

động nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp

từ nhiều nguồn, không chỉ từ ngân sách mà còn phải huy động các nguồn lực từ

doanh nghiệp và nhân dân; 3) thực hiện quản lý và sử dụng các kết cấu hạ tầng

phục vụ nông nghiệp theo nguyên tắc có sự tham gia, điều này là phù hợp với

nền nông nghiệp nhỏ và phân tán của Việt Nam.

Từ những phân tích trên, hệ thống các chỉ tiêu thể hiện trình độ phát triển kết

cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như sau: 1) Diện tích và tỷ lệ được

tưới, tiêu; 2) Các hồ chứa, các đập ngăn mặn, các trạm bơm; 3) Số km đường

nội đồng, đường cấp phối, mật độ đường; 4) diện tích nhà lưới, sân phơi, kho

tàng, kho bảo quản giống, nhà chế biến; 5) tỷ lệ điện khí hóa, thông tin liên lạc,

kết nối internet.

58 1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG

NGHIỆP

Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp chính là

nghiên cứu các cách thức tác động và phối hợp các nhân tố để thúc đẩy việc tăng

trưởng trong sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp thường bị tác

động bởi ba nhóm nhân tố cơ bản là các nhân tố tự nhiên, các nhân tố kinh tế và

các nhân tố xã hội, thể chế.

1.3.1. Những nhân tố tự nhiên

Tự nhiên vừa cung cấp các yếu tố vật chất trực tiếp tham gia vào các hoạt

động sản xuất nông nghiệp, vừa tạo ra môi trường cho các hoạt động đó. Những

nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến việc phát triển nông nghiệp là các tài nguyên

thiên nhiên trong nông nghiệp gồm đất đai, rừng, biển, sông ngòi, nguồn nước,

ánh sáng, khí hậu và cả sự đa dạng sinh học (Học viện chính trị Quốc gia HCM,

2004, tr. 130) [32]. Trong đó có những tài nguyên vô hạn (như ánh sáng,…), còn

lại đa số là tài nguyên hữu hạn (như đất đai, rừng, nguồn nước, sự đa dạng sinh

học,…); vì vậy, việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên

trong nông nghiệp sẽ góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Mỗi yếu tố của

tự nhiên tạo nên các đặc điểm riêng có của sản xuất nông nghiệp, sự hiểu biết về

cấu tạo, độ phì nhiêu của đất đai; nắm bắt được đặc điểm chu kỳ sinh trưởng của

cây trồng, vật nuôi; hiểu biết những chu kỳ khí hậu để điều chỉnh thời vụ;… có

vai trò quan trọng để khai thác các nguồn lực quan trọng này trong phát triển

nông nghiệp.

Nhận thức nhân tố tự nhiên đòi hỏi phải tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá

điều kiện khí hậu, thời tiết, tài nguyên thiên nhiên trong nông nghiệp đối với

mỗi vùng, mỗi địa phương,… Trên cơ sở đó, cần xây dựng chiến lược phát triển

nông nghiệp từng ngành, từng vùng địa phương phù hợp với lợi thế tài nguyên,

vị trí địa lý, cây con; đồng thời tiến hành qui hoạch, khai thác, sử dụng tài

59 nguyên gắn với qui hoạch phát triển nông nghiệp và qui hoạch phát triển từng

vùng sinh thái.

Những đánh giá không đúng, thiếu cơ sở khoa học về điều kiện tự nhiên sẽ

dẫn đến sai lầm trong lựa chọn ngành, cây con, sản phẩm; từ đó dẫn đến những

yếu kém trong phát triển nông nghiệp.

1.3.2. Những nhân tố kinh tế

Trong nông nghiệp, các nhân tố kinh tế đảm bảo tăng trưởng nông nghiệp

chính là qui mô và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, thị

trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ nông sản.

a. Qui mô và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp

Các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp gồm đất đai, lao động, vốn, khoa

học và công nghệ, tài nguyên thiên nghiên và môi trường. Qui mô và chất lượng

của các nguồn lực qui định qui mô và hiệu quả của ngành nông nghiệp. Khi huy

động và sử dụng các nguồn lực vào quá trình sản xuất nông nghiệp, cần quan

tâm đến những vấn đề sau.

Qui mô về số lượng và chất lượng các nguồn lực được huy động có tính

quyết định đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Gia tăng qui mô

các nguồn lực như vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên làm nông

nghiệp tăng trưởng theo chiều rộng; trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu gắn

với tăng năng suất lao động nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên

tiến vào quá trình sản xuất. Nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào làm gia tăng tổng năng suất các yếu tố (TFP 3). Khi biến đổi hàm sản xuất Cobb-Douglas Y =

Y = β(%∆ L

K ) + TC. Trong đó: %∆(Y/L) là tốc độ L

ALαKβ, ta được kết quả4: %∆

tăng của sản lượng trên lao động, %∆(K/L) là tốc độ tăng đầu tư trên lao động,

3 Total Factor Productivity. 4 Xem phụ lục 1.

và TC đại diện cho sự thay đổi kỹ thuật hay còn gọi là tổng năng suất các yếu

60 tố. Do , β luôn nhỏ hơn 1 (thường β = ¼) nên sản lượng sẽ tăng chậm hơn vốn.

Trong trường hợp này, TC phải tăng lên nhờ vào đầu tư khoa học công nghệ,

nâng cao chất lượng của lao động, thực hiện các phương pháp thâm canh cao.

Nhờ vào sự tăng lên của TFP mà sản lượng sẽ tăng nhanh hơn vốn đầu tư. Điều

này chứng tỏ rằng chỉ có đầu tư khoa học công nghệ mới nâng cao được chất

lượng của các nguồn lực và đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng bền vững và

ổn định.

Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp còn phải gắn liền với vấn đề xóa đói giảm

nghèo, an ninh lương lương thực, và bảo vệ môi trường sinh thái. Nên Nhà nước

cần phải có các biện pháp điều tiết trong quá trình huy động và sử dụng các

nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp để vừa đảm bảo gia tăng sản lượng, vừa đạt

được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

b. Thị trường các yếu tố đầu vào và tiêu thụ nông sản

Trong nông nghiệp, có hai thị trường đảm bảo cho quá trình phát triển nông

nghiệp là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ nông sản.

Thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp như thị trường vốn;

thiết bị và vật tư nông nghiệp; quyền sử dụng đất; khoa học và công nghệ. Khi

nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa phát triển đòi hỏi phải phát triển các thị

trường yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, do năng lực kinh tế và trình độ quản lý , mà

nông hộ khó có thể thâm nhập về phía “trước” hoặc phía “sau” trên chuỗi sản

xuất nông sản. Vì vậy, nhà nước phải có các thể chế để phát triển hiệu quả thị

trường yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất; nhưng đồng thời nhà nước

phải kiểm soát thị trường này để giảm thiểu những rủi ro đối với quá trình sản

xuất của nông hộ.

Thị trường tiêu thụ nông sản thường phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về

nông sản. Cung cầu trong nông nghiệp tạo ra cơ chế hình thành giá cả nông sản

và thúc đẩy việc mua bán nông sản phù hợp với các qui luật của thị trường. Cầu

về nông sản là cầu cho tiêu dùng trực tiếp, cầu cho chế biến và cầu cho sản xuất

61 trực tiếp nông nghiệp. Cung về nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng,

cho xuất khẩu mà cả cho dự trữ (Phạm Vân Đình và cộng sự, 1997, tr. 56) [24].

Tại các nước có nền nông nghiệp sản xuất thừa đáp ứng cho nhu cầu xuất

khẩu như Việt Nam, thì nông dân có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường nông

sản cả về mặt chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, giữa cung và cầu nông sản có

những đặc điểm riêng của nó, cầu nông sản đòi hỏi luôn có sẵn, liên tục, khối

lượng lớn và thực phẩm an toàn; thì cung nông sản luôn có đặc tính không ổn

định, theo mùa vụ và không liên tục. Chính vì điều này mà giá cả nông sản luôn

dao động với biên độ lớn, gây nhiều tổn thất đối với vụ mùa và thu nhập của

người nông dân, ngay cả lúc người nông dân được mùa vụ.

Khi tiếp cận sản xuất nông nghiệp theo cung hay theo cầu đều đem lại những

khiếm khuyết bởi sự liên kết giữa sản xuất của người nông dân và thị trường

luôn là khoảng cách lớn. Để đảm bảo cân đối giữa cung và cầu trong sản xuất

nông nghiệp cần phải phát triển các ngành hàng nông sản làm cầu nối giữa nông

dân và thị trường, giảm được những tổn thất mà nông dân phải gánh chịu do sự

biến động giá cả nông sản theo vụ mùa.

1.3.3. Những nhân tố xã hội và thể chế

Các nhân tố xã hội và thể chế trong phát triển nông nghiệp có thể được xem

là các nhân tố liên quan đến tập quán, kinh nghiệm sản xuất trong nông nghiệp,

phát triển hạ tầng nông thôn và đổi mới thể chế đối với nông nghiệp.

a. Tập quán và kinh nghiệm sản xuất

Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất cha

truyền con nối và tạo cho nông dân tâm lý cam chịu và bằng lòng với tập quán

sản xuất tự cung tự cấp. Kinh nghiệm và tâm lý này đã làm cho mục đích sản

xuất của nông dân nghèo chỉ nhằm đảm bảo cái ăn, cái mặc; ý tưởng thay đổi

cách thức sản xuất, tiếp cận thị trường để nâng cao sức sản xuất và cải thiện thu

nhập đối với họ là mạo hiểm vì một vụ mùa thất bát cũng đồng nghĩa với đói

kém.

62

Vì vậy, chỉ có nâng cao thu nhập của nông dân dựa trên cơ sở tăng năng suất

lao động, tăng sản lượng mới làm cho họ chấp nhận thay đổi kinh nghiệm và tập

quán sản xuất tự cấp tự túc để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Thu nhập

của nông dân tăng lên tạo cơ hội cho nông dân có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn

tiêu dùng, tích lũy và đầu tư; kích thích họ tự đổi mới cuộc sống và nâng cao

năng lực sản xuất của chính họ.

Chính vì xuất phát điểm là nền sản xuất nhỏ, canh tác lạc hậu, mà các nông

hộ nhỏ đang phải đối diện với những thách thức khi gia nhập vào WTO. Những

thách thức đó là: 1) Thông tin thị trường, các đối tác không muốn giao dịch với

các nông hộ nhỏ mà chỉ muốn làm việc thông qua đại diện của họ, nên các nông

hộ nhỏ khó tiếp cận thông tin từ các đối tác nếu không liên kết lại theo nhóm

hoặc hình thành các trang trại lớn. 2) Vốn và kỹ năng, chỉ có các trang trại qui

mô lớn mới tập hợp đủ nguồn lực, có khả năng tiếp cận các nguồn vốn, các kỹ

năng và công nghệ sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu. Và nhờ vào khả

năng này mà trang trại lớn mới vượt qua được các rủi ro trong quá trình chuyển

đổi sản xuất. 3) Khối lượng cung ứng lớn, điều này luôn là thách thức lớn đối

với các nông hộ nhỏ, nếu các trang trại không liên kết lại trong sản xuất và cùng

các nhà cung ứng để đáp ứng các đơn hàng lớn và ổn định thì những rủi ro do

giá cả và sản lượng là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra, để bảo đảm khối

lượng cung ứng cần phải áp dụng các công nghệ sản xuất ra hoa, ra trái đồng

loạt, có hệ thống tưới tiêu để sản xuất các sản phẩm trái vụ và phải có hệ thống

các kho hàng phù hợp. 4) Chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm và sản xuất

theo qui trình canh tác phù hợp là yêu cầu bắt buộc khi thâm nhập thị trường

nông sản toàn cầu. Các nông hộ không tham gia vào quá trình này khó có thể

tiêu thụ nông sản vì đòi hỏi phải tuân thủ những qui định và phải qua các kiểm

định để có các chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn.

63

b. Phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn

Cơ sở hạ tầng nông thôn gồm có đường bộ, đường thuỷ; hệ thống tưới tiêu,

hệ thống cấp thoát nước; cầu cảng; hệ thống điện, thông tin liên lạc. Cơ sở hạ

tầng nông nghiệp, nông thôn là nhân tố ngoại sinh của phát triển nông nghiệp,

nhưng có vai trò thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh và lợi thế so sánh của

nông sản được sản xuất và tiêu thụ.

Phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thủy lợi và thông tin liên lạc

làm giảm chi phí trong sản xuất và tiêu thụ nông sản; phát triển hệ thống cấp

thoát nước, điện làm nâng cao được chất lượng cuộc sống tại nông thôn. Chính

vì vậy mà phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trở thành chính sách quan trọng tại

các nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp, xóa dần khoảng cách nông

thôn và thành thị, và thúc đẩy lưu thông nông sản hàng hóa tạo điều kiện phát

triển nông nghiệp.

c. Đổi mới thể chế trong nông nghiệp

Vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế là vấn đề vừa cổ điển vừa hiện

đại. Ngày nay, những tranh luận trong khoa học không còn ở việc cần hay không

vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế mà ở chỗ làm thế nào để kết hợp

tốt vai trò của nhà nước với thị trường trong phát triển kinh tế. Gần đây, khi

phân tích nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, nhiều nhà

nghiên cứu đã chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản là xem nhẹ vai trò

quản lý của nhà nước.

Vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp thường được thể hiện ở

những vấn đề chủ yếu sau đây: 1) Hoạch định chiến lược; 2) qui hoạch phát triển

nông nghiệp; 3) ban hành pháp luật, chính sách phát triển nông nghiệp; 4) thực

hiện các chính sách hỗ trợ nông dân theo đúng các cam kết quốc tế; và đặc biệt,

5) đổi mới thể chế đối với nông nghiệp nhằm góp phần thúc đẩy phát triển nông

nghiệp nhanh chóng và bền vững.

64

Theo nghĩa hẹp hơn liên quan đến hoạt động kinh tế, thể chế được xem như

các luật lệ, các chính sách vừa có tác dụng thúc đẩy lại vừa hạn chế những hành

động của cá nhân hoặc các tổ chức tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.

Việc đổi mới thế chế nhằm xác lập những qui định mới hoặc sửa đổi những qui

định cũ với ý đồ thay đổi hành vi của các đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản,

cũng như các tổ chức quản lý của nhà nước về nông nghiệp và các ngành liên

quan theo những định hướng mong muốn.

Nhà kinh tế học Josepth E. Stiglitz cho rằng “ sự thành công về mặt kinh tế

đòi hỏi phải tạo nên lực cân bằng giữa chính phủ và thị trường” (Josepth E.

Stiglitz, 2008, tr. 17) [78]. Thị trường có thể tạo ra cơ chế phân bố và sử dụng

hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp; nhưng thị trường không thể

giải quyết những rủi ro của sản xuất nông nghiệp và sự biến động giá cả thị

trường nông sản, thị trường cũng không tạo ra cơ chế thu hút đầu tư để phát triển

nông thôn, và thị trường cũng không bảo vệ được môi trường sinh thái trong quá

trình tăng trưởng nông nghiệp. Để đạt được các chức năng kinh tế, xã hội và môi

trường của nông nghiệp và đảm bảo nông nghiệp phát triển bền vững cần có sự

quản lý nhà nước về nông nghiệp thông qua đổi mới các chính sách.

Chính sách nông nghiệp được xem là tổng thể các biện pháp kinh tế và

những biện pháp khác của nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động đến

nông nghiệp và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp

nhằm đạt được những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất

định và trong một thời hạn xác định (Phạm Văn Khôi, 2007, tr. 12) [37].

Hình 1.3 cho thấy các loại chính sách mà các cơ quan của chính phủ tác động

đến phát triển nông nghiệp. Các chính sách này phải tác động đến nông nghiệp,

nông thôn và nông dân thì mới đảm bảo đem lại hiệu quả kinh tế xã hội trong

phát triển nông nghiệp. Chính sách nông nghiệp trong một giai đoạn có thể

thành công hoặc thất bại. Chính vì vậy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối

với phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải phân tích tác động của các chính sách

65 nông nghiệp từ đó có giải pháp điều chỉnh; ngoài ra, năng lực của cán bộ quản lý

nông nghiệp đòi hỏi phải được nâng cao cho phù hợp với quá trình phát triển của

Chính phủ

Các địa phương

Các bộ

CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN

CHÍNH SÁCH NGÀNH NÔNG SẢN

- Chính sách xóa đói,

- Chính sách lương

giảm nghèo;

thực;

CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN - Chính sách đất đai; - Chính sách đầu tư; - Chính sách nguồn

nhân lực;

- Chính sách khoa học

công nghệ;…

- Chính sách dân số và lao động ở nông thôn; - Chính sách giáo dục, y tế, an sinh xã hội;…

- Chính sách về thị trường nông sản; - Chính sách sản xuất và tiêu thụ nông sản;…

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

nông nghiệp, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế.

Hình 1.3: Mô hình tác động của chính phủ đến phát triển nông nghiệp qua

các chính sách

Như vậy, nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp bao gồm

cả nhân tố nội sinh và ngoại sinh. Những nhân tố về nguồn lực, tập quán và kinh

nghiệm sản xuất, tài nguyên thiên nhiên là nhóm nhân tố quyết định đến việc

tăng trưởng nông nghiệp ổn định trong dài hạn. Nhóm các nhân tố về phát triển

hạ tầng nông nghiệp, nông thôn góp phần giảm được các chi phí trong sản xuất

và tiêu thụ nông sản. Còn lại nhân tố về đổi mới thể chế nhằm nâng cao hiệu

năng của quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, đặc biệt việc đổi mới thể chế

nhằm tạo ra mối liên kết “4 nhà” trong nông nghiệp một cách hiệu quả.

66 1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ, ĐỊA

PHƯƠNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

1.4.1. Kinh nghiệm của quốc tế

a. Kinh nghiệm của Hungary về chuyển đổi chính sách phát triển nông

nghiệp

Hungary có diện tích tự nhiên là 93.028 km2, dân số 9,9 triệu người (năm 2010). GDP năm 2009 là 131,3, tỷ USD5, trong đó nông nghiệp chiếm 2,8%,

công nghiệp 35,7%, và dịch vụ 61,5% GDP của nền kinh tế; với lực lượng lao

động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp là 4,5%, công nghiệp 32,1% và dịch

vụ 63,4%.

Trước năm 1990, Hungary là quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa, nền kinh

tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chủ

yếu trong nền kinh tế. Từ năm 1990, Hungary tập trung nỗ lực để chuyển đổi

nền kinh tế theo cơ chế thị trường; trong đó, có những chuyển đổi quan trọng

như công nhận chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai, bất động sản, tư liệu sản

xuất chủ yếu; hình thành hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với quốc

tế để nền kinh tế thị trường vận hành thuận lợi. Đến năm 2004, Hungary trở

thành thành viên của WTO và Liên minh Châu Âu (EU).

Riêng đối với nông nghiệp, Hungary đã có những chuyển đổi chính sách phát

triển nông nghiệp quan trọng sau (Lê Du Phong, 2009) [58]:

- Đất đai của 1500 đơn vị nông, lâm trường và hợp tác xã được đưa vào thị

trường để bán cho các cá nhân và các tổ chức tư nhân; một phần đất đai nông

nghiệp được trả lại cho các cá nhân trước đây và dành một số quỹ đất cấp cho

các xã viên không có đất canh tác. Cho phép hạn điền tích tụ đất đến 300 ha đối

với tổ chức, cá nhân trong nước và 250 ha đối với cá nhân là người nước ngoài.

5 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/hu.html.

Kết quả đến năm 2003, đất đai thuộc sở hữu nhà nước giảm từ 31% xuống còn

67 3%; sở hữu hợp tác xã giảm từ 34% xuống còn 10%; trong khi đó sở hữu tư

nhân đã tăng từ 35% lên 83%.

- Đến năm 2003, đã phát triển được 760.000 trang trại; các trang trại này tự

chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, và

các sản phẩm do các trang trại này làm ra phải cạnh tranh quyết liệt với các nông

sản của các nước thuộc Liên minh Châu Âu và nhiều nước trên thế giới. Điều

này buộc các trang trại của Hungary muốn tồn tại và phát triển phải dựa vào

khoa học và công nghệ.

- Để tạo ra các sản phẩm khoa học – công nghệ thực sự có chất lượng phục

vụ cho sản xuất nông nghiệp; chính phủ Hungary chỉ giữ lại một số trường công

lập quan trọng phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, còn lại

cho tư nhân hóa các viện và các trường, khuyến khích các doanh nghiệp, cá

nhân thành lập các viện nghiên cứu tư nhân. Để tạo một thị trường khoa học –

công nghệ năng động phục vụ nông nghiệp, chính phủ cho đấu thầu rộng rãi các

chương trình nghiên cứu; hợp tác với các nhà khoa học và các trường thuộc Liên

minh Châu Âu và trên thế giới trong việc nghiên cứu và chuyển giao các kết quả

nghiên cứu vào thực tiễn. Để giúp các trang trại của Hungary nhanh chóng tiếp

cận được những tiến bộ về khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp,

Chính phủ đã hỗ trợ cho việc ra đời các vườm ươm khoa học - công nghệ trong

lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Các vườn ươm này thực hiện việc

chuyển giao cho các trang trại các giống cây trồng, các con vật nuôi có năng

suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, cũng như giúp các trang trại các phương pháp

canh tác tiên tiến tạo ra các sản phẩm chất lượng cao vừa đảm bảo gìn giữ được

môi trường sinh thái ở địa phương.

- Để nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp, Nhà nước

Hungary không chỉ ban hành các văn bản luật tạo hành lang pháp lý của nền

kinh tế thị trường, mà còn có những chương trình quốc gia về phát triển nông

nghiệp, nông thôn; các chương trình trợ giúp nông nghiệp, nông thôn khi gia

68 nhập WTO và EU; kiểm soát chặt chẽ các vật tư nông nghiệp đầu vào và chất

lượng nông sản sản xuất ra; hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp,

nông thôn để đến năm 2013 sánh kịp với các nước thuộc Liên minh Châu Âu; và

các chương trình như chương trình đất đai mang tính xã hội, chương trình EU

Leader, chương trình phát triển nông nghiệp chung nhận được sự tài trợ từ EU

để nâng cao trình độ nông nghiệp và phát triển nông thôn Hungary tiến kịp với

các nước thuộc Liên minh Châu Âu.

Nhờ vào những chính sách chuyển đổi trên mà nền nông nghiệp Hungary đã

có những bước phát triển vượt bậc, cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi theo hướng

tiến bộ. Đến năm 2009, thu nhập của người dân và của nông dân Hungary đạt

xấp xỉ 2/3 thu nhập trung bình của các nước thuộc Liên minh Châu Âu.

b. Kinh nghiệm của Hà Lan về phát triển nông nghiệp hội nhập vào thị

trường nông sản toàn cầu

Hà Lan có diện tích đất đai tự nhiên là 41.543 km2, diện tích đất nông nghiệp là 23 ngàn km2, dân số là 16,7 triệu người (năm 2010). Năm 2010, GDP đạt

770,3 tỷ USD, nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 2,6%, công nghiệp 24,9%, và dịch vụ 72,4%6. Nền nông nghiệp Hà Lan là nền nông nghiệp dựa

vào trang trại gia đình là chủ yếu nhưng được đánh giá là nền nông nghiệp có

hiệu suất cao hơn hẳn các nền nông nghiệp của Nhật Bản, Mỹ và Pháp, và người

Hà Lan rất tự hào về nền nông nghiệp của họ. Những kinh nghiệm phát triển

nông nghiệp để hội nhập vào thị trường nông sản toàn cầu của Hà Lan như sau

(Nguyễn Công Tạn, 2005) [79].

- Nền nông nghiệp Hà Lan dựa chủ yếu vào các trang trại gia đình đạt trình

độ chuyên môn hóa cao. Dù diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người

khoảng 0,058 ha (Việt Nam 0,109 ha) nhưng chuyên môn hoá cao độ là đặc

trưng nổi bật của các trang trại gia đình ở Hà Lan. Mở rộng quy mô trang trại dù

về trồng trọt hay chăn nuôi theo kinh nghiệm của Hà Lan, phải dựa vào ch uyên 6 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/nl.html.

69 môn hoá. Từ năm 2006, trang trại chuyên môn hoá chiếm tỉ trọng trên 92%, là

hiện tượng hiếm thấy trên thế giới (Statistical Yearbook of the Nethelands,

2007) [114].

- Trình độ chuyên môn hoá đã được cơ quan thống kê phân loại ngày càng

chi tiết. Chẳng hạn, ngành sản xuất rau – hoa – cây cảnh được chia thành loại

sản xuất trong nhà kính, loại sản xuất ngoài trời, sau đó lại chia ra ngành hoa,

rau, trồng trong chậu, vườn ươm,… Trong ngành hoa, lại chia ra các ngành hoa

cắt, chậu củ hoa. Nhiều nhà sản xuất hoa lại chuyên sâu 1 đến 2 loài hoa. Cách

làm này giúp họ nâng cao trình độ công nghệ, năng suất và chất lượng, có lợi

cho cơ giới hoá thao tác, thuận tiện cho việc quản lý, thu hái, phân loại, đóng

gói, bảo quản được thực thi theo yêu cầu tiêu chuẩn hoá, hạ giá thành sản phẩm,

tăng sức cạnh tranh. Tốc độ phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp

Hà Lan được xếp vào những nước hàng đầu thế giới, đặc biệt là thành tựu tạo

giống và nhà kính, với phương thức đầu tư tập trung vốn và chất xám, theo

hướng đầu tư cao, thu nhập cao, và hiệu suất cao. Chính vì vậy mà hiệu suất sản

xuất của đất ở Hà Lan năm 1991 đạt 2,468 USD/ha, hiệu suất lao động đạt

44,339 USD/người; mức xuất khẩu đạt 18,570 USD/ha (không tính hàng thuỷ sản), tức là 1m2 đất tạo ra 1.86 USD, cao hơn hẳn các nước khác.

- Sản xuất nông nghiệp hướng đến thị trường xuất khẩu. Nền nông nghiệp

Hà Lan là một nền nông nghiệp tạo ra ngoại tệ. Tài nguyên thiên nhiên về nông

nghiệp của Hà Lan thiếu hụt. Đất ít lại trũng, thường xuyên bị uy hiếp của ngập

lụt, nhưng Hà Lan đã tìm tòi, tự khẳng định những lợi thế so sánh của chính

mình để phát triển nền nông nghiệp theo chiến lược của một nền nông nghiệp

hướng ra xuất khẩu. Ở Hà Lan, có loại sản phẩm có hệ số tự túc rất thấp như

lương thực chỉ 25%, ngược lại có loại rất dư thừa như thịt lợn 283%, thịt bò

160%, gà 221%, trứng gà 253%, pho mát 224%, bơ 153%, rau 256%, khoai tây

145%, đường 194%. (hệ số tự túc là tỷ số của sản lượng sản xuất so với nhu cầu nội địa ). Những năng lực dư thừa này đều tập trung vào xuất khẩu. Hà Lan có

70 chín mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới là hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu,

cà chua, khoai tây, hành tây, trứng gà vỏ, pho mát khô, sữa đặc, bia đại mạch,

bánh ca cao, dầu ca cao; và có ba mặt hàng đứng thứ hai thế giới là thịt lợn, sản

phẩm sôcôla, thuốc lá.

- Liên kết kinh tế để nâng cao năng lực cạnh tranh của các đơn vị sản xuất

và tiêu thụ nông sản. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp của Hà Lan là điển hình

của hình thức kinh doanh nông sản dựa trên nền tảng các trang trại gia đình

chuyên môn hóa. Các trang trại chuyên môn hoá dần dần chuyển thành trang trại

lớn hiện đại, sản xuất vì lợi nhuận, tạo nên dạng kinh tế tổ hợp "nông-công-

thương" (agribusiness hoặc agri complex), trong đó tế bào cấu thành những tổ

hợp này chính là những trang trại gia đình. Trong quá trình phát triển nền nông

nghiệp Hà Lan, tổ chức hợp tác xã và các hiệp hội ngành nghề của nông dân và

các tổ chức tín dụng nông thôn đã đóng góp vai trò quan trọng liên kết các trang

trại gia đình.

- "Kỳ tích" nền nông nghiệp Hà Lan có quan hệ trực tiếp đến vai trò của

Nhà nước thông qua các chính sách và thể chế đã làm giảm các khâu hành

chính, tăng hiệu suất quản lý. Những chính sách quan trọng giúp nông nghiệp

Hà Lan phát triển bền vững như: 1) Chính sách tích tụ đất và phát triển kinh tế

trang trại. 2) Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông

nghiệp. Nhà nước đầu tư các công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng, phát triển giao

thông để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp ổn định và đưa nông sản đến mọi

nơi trên thế giới. 3) Chính sách tài trợ sự nghiệp phát triển khoa học, giáo dục và

chuyển giao công nghệ. Hà Lan có nền giáo dục nông nghiệp rất phát triển, mục

tiêu của giáo dục nông nghiệp nhằm nâng cao tố chất nông dân, giúp họ nắm bắt

được tri thức và công nghệ; các thanh niên ở nông thôn bắt buộc phải học các

lớp chuyên nghiệp và các chủ trang trại phải có chứng chỉ về đào tạo chuyên

nghiệp. 4) Chính sách môi trường gắn với sản xuất nông nghiệp. Các nhà sản

xuất, thương mại phải công khai hoá các tiêu chí sản phẩm trên thị trường như

71 chứng chỉ "sản phẩm sinh thái" để nâng cao giá trị thương hiệu của mình và đảm

bảo chất lượng sản phẩm trước người tiêu dùng, thực hiện "trách nhiệm xã hội"

của doanh nghiệp.

Tóm lại, qua những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Hà Lan cho thấy

những phương hướng và nội dung phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội

nhập luôn đặt trọng tâm vào sản phẩm, thị trường và mối liên kết kinh tế giữa

các chủ thể làm thế nào nông sản đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.

c. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp trong hội nhập

kinh tế quốc tế và thực thi các cam kết gia nhập WTO

Trung Quốc có diện tích tự nhiên là 9.596.961 km2, dân số 1,33 tỷ người

(2010). Năm 2009, GDP đạt 5,745 ngàn tỷ USD, trong đó nông nghiệp chiếm

9,6%, công nghiệp 46,8% và dịch vụ 43,6%; lực lượng lao động có 819,5 triệu

người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 39,5%, lao động công nghiệp là 27,2% và lao động dịch vụ là 33,2% 7. Trước cải cách, nền kinh tế có cơ cấu

nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp, đa số dân cư sống ở nông thôn (trên

80%) và có tỷ lệ hộ nghèo cao. Từ sau năm 1970 mở cửa và cải cách kinh tế

hướng theo thị trường, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát

triển theo hướng hiện đại hóa và bền vững. Đến năm 2003, nông dân chiếm

khoảng 70% dân số, lực lượng lao động nông thôn có 490 triệu người, song chỉ

có khoảng 180 triệu người có việc làm ổn định, hơn 300 triệu người còn lại

trong tình trạng bán thất nghiệp do Trung Quốc gia nhập WTO, diện tích đất

canh tác bị thu hẹp để phát triển công nghiệp và đô thị (Hoàng Ngọc Hòa, 2008)

[29].

Với quyết tâm giảm thiểu các tác động tiêu cực từ việc gia nhập WTO, bảo

vệ quyền và lợi ích của người nghèo bằng các chính sách hỗ trợ phát triển nông

7 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ch.html.

nghiệp, nông thôn sau.

72

- Triệt để cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện

đại và phát triển bền vững. Bảo đảm quyền tự chủ, phát huy tính tích cực của

nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu kinh tế, tách quyền sở hữu với quyền

sử dụng, cải cách theo hướng thị trường; xây dựng địa vị chủ thể của trang trại,

khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa; tôn trọng tinh thần sáng tạo của nông

dân, khoán chế độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương

trấn; kết hợp cải cách nông thôn với cải cách thành thị.

- Chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải tạo đất gieo trồng và giải

quyết vấn đề dôi dư lao động sao cho có hiệu quả. Kết hợp hài hòa kiểu kinh

doanh cần nhiều lao động phân bổ rộng khắp trên địa bàn nông thôn với kiểu

kinh doanh tập trung nhiều vốn và hàm lượng kỹ thuật; nhờ đó phân bổ tối ưu

nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp và từng bước xóa các mảnh ruộng manh

mún để tập trung sản xuất kinh doanh nông nghiệp với qui mô lớn, tạo tiền đề

cho việc đầu tư vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một nền nông nghiệp hàng hóa

hiệu quả, hiện đại và bền vững.

- Kết hợp đầu tư mạnh vào nông nghiệp với chính sách miễn giảm nhiều

khoản thuế, phí đối với nông nghiệp và nông dân. Đến năm 2006, Trung Quốc

đã miễn giảm toàn bộ thuế nông nghiệp cho nông dân trên cả nước. Đồng thời,

đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn kết hợp với chính

sách trợ cấp cho nông dân (khoảng 66,4 tỷ nhân dân tệ, tương đương 8 tỷ USD);

nhờ vậy, dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng kinh tế

Trung Quốc vẫn đạt tăng trưởng trên 6%.

- Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp tìm việc tại các thành phố.

Mỗi năm Trung Quốc có khoảng 8 triệu lao động nông thôn ra các thành phố tìm

việc, tiến hành sửa đổi các qui định thừa nhận tính pháp lý đối với nhà cửa và hộ

khẩu của những người có việc làm ổn định tại nơi mới đến; nông dân được

quyền hoạt động kinh doanh ở quê hay chuyển đến nơi khác vẫn được hưởng

các quyền lợi, nghĩa vụ bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.

73

Thực tế diễn ra sau những năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO cho thấy,

nông nghiệp, nông dân và nông thôn không lâm vào kịch bản u ám như nhiều

người dự đoán. Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu nhiều ngành hàng nông sản của

Trung Quốc đã gia tăng. Nhờ các chính sách ứng phó, hỗ trợ kịp thời và có hiệu

quả của Chính phủ, mà sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn tiếp tục

phát triển, cuộc sống của người dân được cải thiện; nhờ vậy tỷ lệ hộ nghèo chỉ

còn 2,8% (năm 2009).

d. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của một số quốc gia thuộc Cộng

đồng ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) có 10 quốc gia thành viên (chưa tính Đông Timo), diện tích tự nhiên khoảng 4.464.322 km2, dân số

ước lượng khoảng 577 triệu người. Năm 2008, GDP của khối này khoảng 1.505,7 tỷ USD, GDP đầu người bình quân là 2.609 USD8.

Các quốc gia trong Cộng đồng ASEAN có nhiều nét tương đồng với nhau

trên lĩnh vực nông nghiệp (trừ Singapore), với đa số dân cư sống tại nông thôn

và có nhiều nông sản được xuất khẩu đến các quốc gia khác trên thế giới. Hiện

nay, các quốc gia ASEAN vẫn coi phát triển nông nghiệp là giải pháp quan

trọng nhằm đối phó với những khó khăn của khủng hoảng kinh tế và chính sách

của các quốc gia này tập trung vào các nội dung: 1) đa dạng hóa sản xuất nông

nghiệp; 2) nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản; và 3)

nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hỗ trợ của nhà nước (Nguyễn Danh Sơn

và cộng sự, 2010) [73].

- Về chính sách đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Chính sách này được

chú trọng, vì 1) nông nghiệp là ngành ít bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế và

việc phục hồi và đa dạng hóa sẽ không mấy khó khăn về vốn và phương tiện sản

8 http://vi.wikipedia.org/wiki/HiephoicacquocgiaDongNamA.

xuất; 2) phục hồi và đa dạng hóa sản xuất sẽ giải quyết được tình trạng đói

74 nghèo và thiếu việc làm cho một bộ phận lao động ở đô thị bị mất việc làm quay

trở về nông thôn.

Tại Indonesia, trong kế hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2005-2009,

Chính phủ đã đề ra chương trình đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nông

nghiệp gồm nông, lâm, ngư nghiệp; khuyến khích chế biến các sản phẩm nông

nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao, phát triển các hoạt động sau thu hoạch. Các

chính sách này tác động tích cực lên 31 ngành hàng nông sản lớn là cây lương

thực, cây công nghiệp, cây rau quả và chăn nuôi.

Tại Malaysia, trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và 2006-2010, việc đa dạng

hóa được tập trung vào các hoạt động chế biến loại cây trồng có tiềm năng như

dầu cọ, cao su, hồ tiêu, gỗ,… Mở rộng qui mô của các ngành như đánh bắt hải

sản, ngành trồng hoa, cá cảnh, các loại thảo dược. Phát triển các mô hình nông –

lâm nghiệp kết hợp, phát triển chăn nuôi tại các đồn điền.

Tại Philippines, trong kế hoạch 2004-2010, mở rộng ít nhất 2 triệu ha đất

nông nghiệp mới với việc tạo ra 2 triệu việc làm mới trong nông nghiệp.

Tại Thái Lan, việc đa dạng hóa tập trung vào sản xuất và chế biến các nông

sản đem lại giá trị cao như gạo sạch (organic rice), thực phẩm an toàn, các hải

sản tươi sống và đóng hộp, các loại rau, hoa quả,… Phát triển giống cây trồng và

con vật nuôi mới cho năng suất cao và phát triển theo mô hình chuyên môn hóa

và cơ giới hóa nông nghiệp.

- Về chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu nông

sản. Thái Lan tập trung vào nâng cao chất lượng các nông sản được chế biến;

thực hiện việc kiểm soát tiêu chuẩn, vệ sinh, an toàn thực phẩm, thực hiện đăng

ký bản quyền và bằng sáng chế; đi đầu trong khu vực về sản xuất các sản phẩm

nông nghiệp sạch và an toàn và nhờ vậy nông sản Thái Lan có tính cạnh tranh

cao. Malaysia tập trung vào nâng cao năng suất, hạ chi phí sản xuất, thúc đẩy

xuất khẩu, Malaysia chủ trương nâng cao hiệu quả của hệ thống tiếp thị và đẩy

mạnh mạng lưới phát triển toàn cầu. Indonesia và Philippines có phần thấp kém

75 hơn, chủ yếu tập trung áp dụng các giống mới, đa dạng nông sản, tập trung vào

giảm tổn thất sau thu hoạch và từng bước xuất khẩu các nông sản có lợi thế.

- Về chính sách cải thiện và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hỗ trợ

của nhà nước. Phụ thuộc vào thể chế hội nhập khu vực và WTO mà các dịch vụ

hỗ trợ từ nhà nước của các quốc gia thuộc ASEAN tập trung vào các lĩnh vực

chủ yếu như: 1) Tăng cường đầu tư khoa học - công nghệ, nghiên cứu và triển

khai nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển nông nghiệp; 2) triển khai các chương

trình đào tạo và khuyến nông; 3) nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, cải thiện hệ

thống tưới tiêu; 4) hỗ trợ các hoạt động đầu vào, nhất là tín dụng; 5) phát triển

mạng lưới tiếp thị cho các sản phẩm nông nghiệp.

Như vậy, ở những mức độ khác nhau, các quốc gia ASEAN đều chú trọng

phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại; xây dựng các mối liên kết kinh tế

nhằm phát triển các ngành hàng nông sản có khả năng cạnh tranh cao; trong đó

vấn đề khoa học – công nghệ, đa dạng hóa và đặc biệt chú trọng đến công tác

chế biến và công nghệ sau thu hoạch, tăng năng suất lao động với mục đích tạo

ra nhiều giá trị giá tăng.

1.4.2. Kinh nghiệm trong nước

a. Kinh nghiệm phát triển vùng nguyên liệu mía của Tổng công ty cổ

phần Mía đường Lam Sơn

Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, dân số có 3,67 triệu người; lao

động có khoảng 2,16 triệu người, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh. Có 24

huyện, 2 thị xã và 1 thành phố. Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn đã làm thay

đổi diện mạo về kinh tế xã hội của 11 huyện trung du miền núi và đóng góp rất

lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa.

Tiền thân của Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn là Nhà máy đường Lam

Sơn hoạt động từ tháng 11/1986 với công suất 1.500 tấn mía/ngày (TMN), năm

1993 nâng công suất lên 2.500 TMN; vào tháng 3/1999 xây dựng thêm nhà máy

mới với công suất 4000 TMN. Từ một nhà máy chế biến đường vàng mơ, vào

76 năm 1987, vùng mía nguyên liệu mới có gần 5.000 ha; nay đã có hai nhà máy,

công suất 7.000 tấn mía/ngày, làm ra mỗi năm 100-110 nghìn tấn đường kính

xuất khẩu và tiêu dùng. Một vùng mía nguyên liệu liên kết với nông dân 11

huyện trung du, miền núi 16.000 ha và lớn lao hơn là trong đó 35.000 lao động

trồng mía kéo theo 65.000 khẩu nông thôn. Rồi từ một nhà máy 350 cán bộ,

công nhân, nay trưởng thành một Tổng công ty quản lý điều hành 16 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong đó hàng nghìn lao động công nghiệp 9. Niên

vụ 1999-2000 nhiều nhà máy chế biến đường trên cả nước phải đóng cửa vì

thiếu nguyên liệu, thì doanh nghiệp chế biến đường Lam Sơn vẫn tiếp tục mở

rộng công suất, phát triển và kinh doanh có hiệu quả. Điều đó có được nhờ vào

chiến lược xây dựng vùng nguyên liệu mía ổn định tại các huyện và xã của tỉnh

Thanh Hóa.

Việc phát triển vùng nguyên liệu mía là một trong những nhân tố giúp cho

Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn xây dựng thành công chuỗi ngành hàng mía

đường tại tỉnh Thanh Hoa. Chính nhờ vai trò của công nghiệp chế biến đường

mà Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn đã liên kết được các nông hộ để hình

thành vùng nguyên liệu mía mà chưa có tỉnh nào trong nước làm được. Không

chỉ có vậy, chuỗi ngành hàng mía đường Lam Sơn còn hình thành được mối liên

kết dọc, kết nối những người sản xuất mía với các đối tác khác trên chuỗi, tạo

nên sự thịnh vượng cho cả một vùng nông thôn rộng lớn, giúp chính quyền địa

phương giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, và xóa đói giảm nghèo. Những

nghiên cứu cho thấy sự thành công này là nhờ vào những chiến lược mà Tổng

Công ty Mía đường Lam Sơn đã theo đuổi như sau (Nguyễn Từ, 2005) [90].

- Xây dựng “tam giác quan hệ” trong quá trình giải quyết nguyên liệu mía

cho nhà máy chế biến: 1) Nông hộ thấy rằng trồng mía đem lại nhiều lợi ích hơn

là trồng các nông sản khác; 2) sự ủng hộ của chính quyền địa phương và các tổ 9 Website: www.lasuco.com.vn của Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn

77 chức trong vùng luôn đi cùng với sự thành công của doanh nghiệp; 3) doanh

nghiệp tồn tại nhờ có vùng nguyên liệu ổn định.

- Doanh nghiệp không chờ hưởng lợi trên cây mía, mà chủ động cung cấp

vốn, phân bón, giống tốt, kỹ thuật để nông dân yên tâm trồng mía mà không sợ

rủi ro; đồng thời cử 60 cán bộ kỹ thuật bám sát vùng nguyên liệu, hỗ trợ trực

tiếp kỹ thuật trồng mía cho nông dân, cả các vùng dân tộc thiểu số.

- Thành lập Hiệp hội Mía đường Lam Sơn gồm có ba thành viên chủ chốt:

1) Ngân hàng; 2) các nông trường quốc doanh và nông dân trồng mía; 3) và

doanh nghiệp mía đường Lam Sơn. Lợi ích của người trồng mía cũng là lợi ích

của doanh nghiệp, và ngân hàng đã xây dựng được một thị trường tín dụng

không gì vững chắc hơn.

- Doanh nghiệp mía đường Lam Sơn là đối tác chủ yếu quyết định chuỗi

ngành hàng mía đường tại địa phương, như được thể hiện trong hình 1.4 (Quỹ

Hộ nông dân

5%

15%

80%

Hợp tác xã

Chủ hợp đồng

Thu gom cá nhân

100%

100%

100%

Tổng CT Mía đường Lam Sơn

20%

80%

100%

20%

80%

Bán buôn

Bán lẻ

Nhà máy chế biến thực phẩm

Người tiêu dùng

nghiên cứu ICARD-MISPA, 2004, tr. 37) [ 64].

Hình 1. 4: Kênh tiêu thụ mía đường ở Lam Sơn, Thanh Hóa

78

Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn tiêu thụ toàn bộ số mía của vùng nguyên

liệu Lam Sơn, do không thể trực tiếp ký hợp đồng với 65.000 hộ trồng mía, nên

doanh nghiệp phải ký qua chủ hợp đồng là những trang trại có năng lực về tài

chính, kinh nghiệm, kiến thức và người mà các hộ nông dân nhỏ hơn tin tưởng

và hợp tác với chủ hợp đồng để cung cấp đơn hàng lớn hơn cho doanh nghiệp;

đối tác thu gom thứ hai cũng rất quan trong, đó là các hợp tác xã tiêu thụ nhưng

vai trò vẫn còn nhỏ bé so với chủ hợp đồng; còn các thu gom cá nhân là các đối

tác thu mua của các hộ trồng mía tại các vùng xa nhà máy chế biến, chủ yếu là

các vùng dân tộc. Qua kinh nghiệm phát triển vùng nguyên liệu mía tại tỉnh

Thanh Hóa cho thấy việc hình thành chuỗi ngành hàng nông sản, tạo nên các

mối liên kết ngang trong sản xuất nông nghiệp và hình thành mối liên kết dọc

giữa các đối tác đã đem lại nhiều lợi ích không chỉ đối với nông dân mà cả các

đối tác trên chuỗi; cả các đối tác cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, cũng như đem lại

những lợi ích cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện.

b. Liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để phát triển bền vững cây cà

phê ở tỉnh Đắk Lắk 10

Diện tích cà phê ở Ðắk Lắk hiện có khoảng 180.000 ha, sản lượng cà phê

nhân xô đạt khoảng 400.000 tấn/năm, trong đó diện tích, sản lượng do các hộ gia

đình quản lý chiếm gần 80%. Ðiều có ý nghĩa quyết định đến vấn đề chất lượng

của cà phê Ðắk Lắk là cung đoạn đầu (chăm sóc và thu hái). Ðể có năng suất

cao, lợi nhuận nhiều, một số người trồng cà phê ở Ðắk Lắk áp dụng những biện

pháp canh tác cực đoan, để lại hậu quả xấu cho môi trường và cho chính sự phát

triển của vườn cây, như chặt bỏ cây che mát, bón thật nhiều phân hóa học, phun

thật nhiều thuốc kích thích, thuốc bảo vệ thực vật... để đạt năng suất tối đa.

Còn khâu thu hái và chế biến nhiều hộ đã làm chất lượng cà phê không đạt,

10 Nguồn: www.nhandan.com.vn

như thu hái cà phê lúc cà phê chưa chín đầy đủ; chế biến khô theo cách phơi sân

79 đất hoặc xi-măng, sau đó xay xát. Cà phê chế biến theo kiểu này làm hạt nhân

teo tóp, sạm mầu, tỷ lệ hạt đen, vỡ và mốc nhiều nên giá bán bao giờ cũng thấp

hơn loại cà phê chín đều từ hai đến ba giá. Mặc dù, UBND tỉnh Ðắk Lắk có chỉ

thị cấm thu hái cà phê xanh. Song trên thực tế, người trồng cà phê vẫn bất chấp

các yêu cầu, khuyến cáo của nhà quản lý cũng như doanh nghiệp xuất khẩu.

Thời gian qua Công ty cà phê Thắng Lợi đã tổ chức liên kết các hộ sản xuất

lại với nhau (dưới hình thức tổ hợp tác) để sản xuất, thu hái, chế biến theo một

quy trình nghiêm ngặt.

Với 15 đội sản xuất, chăm sóc và quản lý hơn 2.000 ha cà phê trải rộng trên

địa bàn năm xã thuộc bốn huyện, thành phố (tỉnh Ðắk Lắk); cà phê của Công ty

luôn cho năng suất bình quân 3 tấn nhân/ha. Chất lượng cũng như giá bán, bao

giờ cũng cao hơn so với những vùng khác từ 1.000 đến 1.500 đồng/kg quả tươi.

Các hộ sản xuất được cán bộ kỹ thuật của Công ty hướng dẫn và áp dụng triệt để

quy trình nông học sạch và tiên tiến đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ thế mà thương

hiệu cà phê Thắng Lợi được khách hàng khó tính như Mitsubishi (Nhật Bản)

bao tiêu sản phẩm với giá luôn cao hơn giá thị trường từ 100-200 USD/tấn. Kể

cả những năm 2001-2003, khi cà phê rớt giá (chỉ còn 4 nghìn đồng/kg), người

trồng cà phê của Công ty Thắng Lợi cũng trụ vững nhờ tiêu chí chất lượng được

quan tâm hàng đầu.

Rõ ràng, hình thức liên kết này đem lại lợi ích cả cho người sản xuất, nhà chế

biến cà phê và nhà xuất khẩu. Ðây sẽ là một trong những định hướng chiến lược

kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam để giúp cho cây cà

phê Việt Nam nói chung và cây cà phê Ðắk Lắk nói riêng phát triển bền vững.

c. Dồn điền đổi thửa để chuyên canh mía ở xã Phổ Nhơn, huyện Đức

Phổ, tỉnh Quảng Ngãi 11

Phổ Nhơn là xã miền núi nằm về phía bắc huyện Đức Phổ, cách Nhà máy

đường Phổ Phong 7 km. Toàn xã có 1.692 hộ với 7.192 nhân khẩu. Đây là xã 11 Nguồn: http://baoquangngai.com.vn/

80 thuần nông, nhân dân trong xã có truyền thống trồng mía lâu đời, với diện tích

hàng năm từ 950-1.100 ha (kể cả mía rẫy).

Tuy nhiên trong những năm qua giá thành sản xuất mía vẫn còn cao, lợi

nhuận đạt thấp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do vùng

mía ở đây còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, đất mía xen kẽ với đất lúa và nhiều

cây trồng khác. Diện tích mía canh tác của từng hộ ít (bình quân từ 1000- 1500m2/hộ), tập quán sản xuất còn mang tính quảng canh; giao thông, thuỷ lợi

tưới, tiêu phục vụ cho đồng mía quá yếu kém. Đó là những nguyên nhân chính

gây trở ngại không thể triển khai áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản

xuất mía, dẫn đến vùng mía thiếu ổn định và năng suất mía thấp (từ 45-50 tấn/ha, chữ đường bình quân từ 9,50-10 ccs 12).

Xuất phát từ tình hình trên, năm 2007 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Quảng Ngãi và Công ty Đường Quảng Ngãi đã tham mưu cho UBND tỉnh

chọn xã Phổ Nhơn là 1 trong 3 xã trong tỉnh xây dựng mô hình HTX điểm

chuyên canh mía kết hợp chăn nuôi, nhằm thực hiện thí điểm việc dồn điền, đổi

thửa, sản xuất mía tập trung chuyên canh, đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến

bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.

HTX bắt đầu tiến hành thực hiện thí điểm việc dồn điền, đổi thửa để chuyên canh mía từ năm 2007, với tổng diện tích là 108.338 m2 (gồm có 135 thửa của

126 hộ xã viên tại đồng Miếu An Lợi, xã Phổ Nhơn).. Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa được 104.835 m2 (do trừ diện tích để sử dụng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi là 3.485 m2), được chia thành 14 lô (thửa) cho 14 nhóm hộ xã viên canh tác, bình quân mỗi lô là 7.489,5 m2.

Diện tích đất "bị mất" do sử dụng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng được chia

đều cho tất cả diện tích các hộ xã viên có tham gia dồn điền, đổi thửa cùng chịu (bình quân 17 m2/sào). Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa, diện tích đất canh tác tăng lên so với ban đầu gần 950 m2, do san lấp các ao, hố bom và bờ thửa, 12 Commercial Cane Sugar (percentage).

81 bờ lô trong vùng. Diện tích này đã được UBND xã cấp cho 2 hộ xã viên còn

thiếu đất sản xuất theo Nghị định 64/NĐ-CP.

Qua việc dồn điền, đổi thửa, xã viên đã có diện tích thửa đất lớn hơn so với

trước và thấy rất thuận tiện cho việc làm đất bằng cơ giới, có mương tưới,

mương tiêu phục vụ sản xuất, có đường giao thông nội đồng rộng 4 m chạy giữa

vùng nguyên liệu, rút ngắn cự ly vận chuyển mía bằng thủ công ở những điểm

xa nhất.

Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa, năng suất mía đã tăng lên 92 tấn/ha,

chữ đường Nhà máy đường Phổ Phong mua tại ruộng đạt 10,50 ccs, doanh thu

tiền bán mía nguyên liệu và mía giống đạt 50 triệu đồng/ha.

Rút kinh nghiệm từ mô hình trên, năm 2008 HTX tiếp tục thực hiện dồn điền,

đổi thửa được 33,4 ha, năng suất thu hoạch bình quân đạt 83,5 tấn/ha. Năm 2009

thực hiện dồn điền đổi thửa được 69,342 ha, do ảnh hưởng hậu quả bão lụt nên

năng suất bình quân đạt 69,85 tấn/ha, chữ đường bình quân đạt 10,30 ccs. Tính

đến nay toàn HTX đã dồn điền, đổi thửa được 112,9 ha (hơn 90% diện tích đất

trồng mía) và đã làm được 5.943 m đường giao thông nội đồng, 9.428 m mương

tưới, tiêu.

Hiện nay, xã Phổ Nhơn đã hình thành được những cánh đồng chuyên canh

mía liên vùng, liên thửa, rộng lớn, có hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng khá

hoàn chỉnh, thuận tiện cho việc đưa cơ giới hoá vào nông nghiệp, nông thôn.

Những hộ chuyên canh mía đã thấy rõ ích lợi của việc dồn điền đổi thửa, nên

hầu hết đều tự nguyện vào HTX. Qua sản xuất chuyên canh mía, nhiều gia đình

trước đây đời sống còn khó khăn, thiếu thốn, nay đã có thu nhập khá từ cây mía.

Nhiều hộ đã có thu nhập hàng năm khoảng 200 triệu đồng từ việc làm mía ruộng

và mía rẫy.

82

1.4.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra

Từ những thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên thế giới và

trong nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về phát triển nông

nghiệp sau đây cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Bài học thứ nhất, nông dân là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển sản

xuất nông nghiệp. Mọi hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đều gắn với

quyền tự chủ của người nông dân, cả quyền đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm

làm ra.

Bài học thứ hai, chỉ có nâng cao năng suất lao động mới thúc đẩy sản xuất

hàng hóa trong nông nghiệp.

Bài học thứ ba, chỉ có sản xuất nông nghiệp qui mô lớn bằng cách liên kết

ngang các nông hộ hoặc hình thành các trang trại lớn, và việc áp dụng nhanh các

tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp, đi liền với rút nhanh lao động ra

khỏi nông nghiệp bằng cách phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp tại nông

thôn, thì mới phát triển nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa.

Bài học thứ tư, đa dạng hóa nông sản, thúc đẩy công nghiệp chế biến nông

sản, và hình thành các ngành hàng nông sản mạnh thì mới phát triển nông

nghiệp ổn định và thúc đẩy xuất khẩu nông sản.

Bài học thứ năm, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế

quốc tế và khủng hoảng kinh tế; hơn nữa, ngành nông nghiệp là ngành chịu

nhiều rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh và thị trường. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn

vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp và nông thôn;

hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn và nông dân một cách đồng bộ thông qua các

chương trình mục tiêu có tính quốc gia và quốc tế.

Bài học thứ sáu, vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp rất lớn,

rất quyết định; nhất là việc ban hành các chính sách, thực hiện qui hoạch phát

triển nông nghiệp, kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào, chất lượng nông sản;

vừa hạn chế những rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp, đồng thời phát huy hết

83 khả năng của đất đai, năng lực của người nông dân và các đối tác khác trên

chuỗi ngành hàng nông sản.

1.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương này luận án tiếp cận nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm nông

nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp); ngoài chức năng kinh tế, nông nghiệp còn

có chức năng xã hội và môi trường. Và với quan niệm phát triển luôn là quá

trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những bước chuyển

từ thấp đến cao; nên luận án cho rằng phát triển nông nghiệp là quá trình vận

động để nền nông nghiệp đi từ thủ công đến hiện đại, đi từ tự cung tự cấp đến

sản xuất hàng hóa và cao hơn là thương mại hóa; và xây dựng nền nông nghiệp

sạch, hữu cơ đang trở thành xu thế của phát triển nông nghiệp.

Luận án cũng đề xuất một cơ chế vận hành cho nền nông nghiệp Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay. Đó là 1) sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành

hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; 2) sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng

nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa; và 3)

sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của phát triển

bền vững quốc gia.

Từ những quan điểm trên, luận án đã xây dựng được các nội dung chủ yếu

của phát triển nông nghiệp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Đó là: 1)

Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý và hiện đại. 2)

Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Phát triển chuyên môn hóa

và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp. 4) Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết

kinh tế trong nông nghiệp. 5) Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh

cao. 6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện

đại.

Luận án cũng đã nêu được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển nông

nghiệp gồm những nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế. Những kinh

84 nghiệm từ các nước trên thế giới và một số địa phương trong nước về phát triển

nông nghiệp là những cơ sở để luận án rút ra các bài học trong phát triển nông

nghiệp cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Những nội dung của chương đã tổng kết được những cơ sở lý luận và thực

tiễn của phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay và những năm đến tại

Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu này sẽ là nền tảng để luận án thực hiện

việc phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam thời gian

qua.

85

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH

QUẢNG NAM

2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA TỈNH

QUẢNG NAM CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Quảng Nam là tỉnh ven biển Việt Nam, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Diện tích tự nhiên 10,406 ngàn km2 với 18 đơn vị hành chính gồm

hai thành phố, và 16 huyện; có 240 xã, phường và dân số 1,428 triệu người, có

cả miền núi, trung du, đồng bằng, đô thị, vùng cát ven biển và hải đảo. Những

nhân tố về tự nhiên và kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc phát triển nông

nghiệp của tỉnh Quảng Nam như sau.

2.1.1. Điều kiện về tự nhiên

a. Đặc điểm khí hậu

Quảng Nam nằm ở vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa mưa nhiều vào nửa

cuối mùa nóng, nửa đầu mùa lạnh ở Trung Bộ (Nguyễn Trọng Uyên, 1990, tr. 9) [93]. Nhiệt độ bình quân không chênh lệch nhiều, dao động ở mức từ 22oC đến 30oC, trong năm có thể xuất hiện một số ngày nắng nóng cao đến 40oC. Mưa

nhiều vào các tháng 10 và 11 và những tháng này thường xuất hiện những cơn lũ

trên các lưu vực sông Tam kỳ, Vu Gia và Thu Bồn. Những cơn lũ thường gây ra

thiệt hại về người và tài sản nhưng cũng đem lại những cánh đồng giàu phù sa

cho các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn. Những loại thời tiết bất lợi ở

vùng này là bão, mưa lớn, gió tây nam khô nóng, và sương muối. Mỗi năm có từ

3 đến 4 cơn bão và đi kèm là những cơn mưa lớn, hiện tượng gió tây nam khô

nóng ở Quảng Nam có cường độ thấp và số ngày xuất hiện ít hơn so với các tỉnh

phía Bắc miền Trung, sương muối ít xuất hiện và chỉ thường xuất hiện vào vụ

Đông Xuân khi những năm có thời tiết lạnh giá đột xuất.

86

Nhìn chung thời tiết tại Quảng Nam thuận lợi cho các cây trồng, vật nuôi.

Những hiện tượng bất lợi của thời tiết đều có xuất hiện nhưng không lớn, chỉ có

bão, mưa lớn kèm theo những cơn lũ ngày càng nhanh hơn và sức tàn phá lớn

Nhiệt độ

Giờ nắng, lượng mưa, độ ẩm

1.000

35

900

30

800

25

700

600

20

500

15

400

300

10

200

5

100

0

0

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 5

Tháng 6

Tháng 8

Tháng 9

Tháng 3

Tháng 4

Tháng 7

Tháng 10

Tháng 11

Tháng 12

Độ ẩm

Lượng mưa

Nhiệt độ

Giờ nắng

Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam, 2010

hơn vì rừng đầu nguồn bị tàn phá nhiều do đào đãi vàng, và phá rừng.

Hình 2.1: Các hiện tượng thời tiết tại Quảng Nam trong năm

b. Đặc điểm địa mạo, địa chất

Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông,

hình thành 3 vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và

ven biển; mặt khác các sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ,... đã chia nhỏ các lưu

vực và tạo nên những tiểu vùng sản xuất có những nét đặc thù riêng.

Vùng miền núi gồm 08 huyện phía tây của tỉnh, là vùng núi cao, đầu nguồn

các lưu vực sông, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhân dân sống

chủ yếu bằng sản xuất nông, lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu. Thế

mạnh của vùng là rừng, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc.

Vùng có các khu rừng đặc sản như sâm Ngọc Linh, quế Trà My, Phước Sơn, có

những khu vực đất đai thuận lợi cho phát triển cây cao su (Hiệp Đức), hồ tiêu

87 (Tiên Phước) và các cây công nghiệp dài ngày khác tạo điều kiện để hình thành

các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm. (Nam,

Bắc Trà My, Phước Sơn, Tiên Phước, Hiệp Đức, Đông Giang, Tây Giang, Nam

Giang).

Vùng Trung du với độ cao trung bình 100 m, địa hình đồi bát úp xen kẽ các

dải đồng bằng, thuộc miền tây các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Đại Lộc,

Quế Sơn... Nhân dân có truyền thống trồng lúa, màu, cây công nghiệp, chăn

nuôi, trồng rừng, khai thác khoáng sản nhỏ.

Vùng đồng bằng và ven biển có 2 dạng địa hình khác nhau:

- Vùng đồng bằng nhỏ, hẹp thuộc hạ lưu các sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ,

được phù sa bồi đắp hàng năm, nhân dân có truyền thống thâm canh lúa nước và

cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm.

- Vùng ven biển đa phần là đất cát, sản xuất chủ yếu là hoa màu, trồng rừng

chống cát bay, nuôi trồng và đánh bắt hải sản,... Trong quá trình công nghiệp

hoá thì vùng này có lợi thế về mặt bằng xây dựng thuận lợi, gần các sân bay, bến

cảng, các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và lưới điện quốc gia.

Hải đảo có Cù Lao Chàm cách Hội An 25 km là vùng sinh quyển biển có giá

trị cả về nguồn thủy sản, yến sào và du lịch.

Tình hình thổ nhưỡng Quảng Nam gồm 10 loại đất khác nhau: cồn cát và đất

cát ven biển, nhóm đất mặn, đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất dốc

tụ, đất bạc màu xói mòn trơ sỏi đá,... Quan trọng nhất là nhóm đất phù sa thuộc

hạ lưu các con sông thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau

đậu; nhóm đất đỏ vàng ở khu vực trung du, miền núi thích hợp với cây lâm

nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, cây dược liệu,... Nhìn chung, đất

đai phía Bắc Quảng Nam phì nhiêu hơn nhờ phù sa của sông Vu Gia – Thu Bồn,

càng về phía nam từ Quế Sơn trở vào đất xám bạc màu là chủ yếu.

88

c. Đặc điểm sử dụng đất đai

Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 1.043.838 ha. Đất đã sử dụng là 735.689

ha vào các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, còn lại 308.149 ha là đất chưa sử

dụng gồm đất bằng, đất đồi núi chưa sử dụng còn lớn, vấn đề đặt ra là cần khai

thác để phủ xanh các vùng đất này một cách hợp lý và đạt hiệu quả. Tình hình

sử dụng đất thể hiện ở bảng 2.1. Thực trạng cơ cấu sử dụng đất trên cho thấy,

việc sử dụng đất hiện nay chủ yếu vào nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất rừng chiếm

51,5% diện tích, đất chưa sử dụng chiếm 29,5%, và đất sản xuất nông nghiệp

chiếm 11%.

Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Quảng Nam

Đơn vị: ha

Tổng số %

Tổng diện tích 1.043.838 100

A. Đất đã sử dụng 735.689 70,5

I. Đất nông nghiệp 115.309 11,0

II. Đất lâm nghiệp 537.619 51,5

1. Đất có rừng tự nhiên 353.116 33,8

2. Đất có rừng trồng 184.503 17,7

III. Đất chuyên dùng 62.022 5,9

IV. Đất ở 20.739 2,0

1. Đất ở đô thị 2.426,30 0,2

2. Đất ở nông thôn 18.313 1,8

B. Đất chưa sử dụng 308.149 29,5

Trong đó: - Đất bằng chưa sử dụng 19.692 1,9

Nguồn: Sở Kế hoạch Đầu tư Quảng Nam, 2006 [65]

- Đất đồi núi chưa sử dụng 288.456 27,6

Trong đất sản xuất nông nghiệp, có 55.294 ha dùng vào trồng lúa, 30.723 ha

dùng sản xuất cây hàng năm, 24.597 ha dùng vào sản xuất cây lâu năm, và 572

89 ha đất đồng cỏ dùng trong chăn nuôi. Ngoài ra, có 3.398 ha mặt nước dùng trong

nuôi trồng thủy sản. Bình quân đất nông nghiệp không bao gồm đất rừng trồng ở

Quảng Nam chỉ có 0,41 ha/hộ nông nghiệp, thấp hơn đất nông nghiệp bình quân

cả nước (0,63 ha/hộ), để thấy rằng qui mô sản sản xuất của nông hộ ở Quảng

Nam rất nhỏ bé.

Đất lâm nghiệp có rừng chiếm phần lớn diện tích của Quảng Nam, 51,5%.

Năm 2008, độ che phủ của rừng đạt 43,5% (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn Quảng Nam, 2008) [4], nhưng đa số là rừng nghèo và rừng trồng. Trong

đó, đất rừng sản xuất là 184.503 ha, rừng phòng hộ là 258.325 ha, và rừng đặc

dụng là 94.790 ha. Diện tích rừng tự nhiện tại tỉnh Quảng Nam còn khoảng 388.800 ha với trữ lượng gỗ khoảng 30 triệu m3 và 50 triệu cây tre nứa, trong đó

rừng giàu có khoảng 10.000 ha, phân bố chủ yếu ở các đỉnh núi cao, giao thông

đi lại khó khăn. Ngoài gỗ, rừng Quảng Nam còn có các loại lâm sản quí như

trầm, quế, sâm, trẩu, đặc biệt là song mây. Song mây có nhiều tại các rừng ở các

huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Phước Sơn, Đông Giang, Nam Giang, sản

lượng khai thác hàng năm khoảng 1500 tấn (Thái Thanh Hà, 2006, tr. 18) [28].

Song mây là lâm sản ngoài gỗ đã tạo ra nhiều công ăn việc làm tại Quảng Nam

và là mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu được các nước ưa chuộng.

d. Đặc điểm thủy văn, tài nguyên nước và biển

Hệ thống sông ngòi nằm trên địa phận tỉnh Quảng Nam có tổng chiều dài 900

km, trong đó có 337 km đã đưa vào khai thác, bao gồm các con sông chính.

Nguồn nước mặt lớn với diện tích lưu vực sông Vu Gia là 5.500 km2, Thu Bồn 3.350 km2, Tam Kỳ 800 km2, Cu Đê 400km2, Tuý Loan 300 km2, LiLi 280 km2. Lưu lượng dòng chảy bình quân sông Vu Gia 400 m3/s, Thu Bồn 200 m3/s, vào mùa kiệt lưu lượng sông Vu Gia ở mức 45 m3/s, Thu Bồn ở mức 28 m3/s; vào những năm có mưa lớn, lưu lượng dòng chảy của Vu Gia ở mức 7000 m3/s, Thu Bồn ở mức 5700 m3/s (Nguyễn Kim Ngọc, 2003, tr. 19) [48]. Chính nhờ

nguồn nước dồi dào mà Quảng Nam có điều kiện thuận lợi về cung cấp nước

90 cho phát triển sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác cũng như dân

sinh; hiện trên lưu vực hai sông Vu Gia Thu Bồn có 10 công trình thủy điện lớn

và 50 công trình thủy điện vừa và nhỏ, có khả năng cung cấp hơn 6 tỉ KWh/năm,

là tỉnh có tiềm năng thủy điện xếp thứ 4 ở Việt Nam (ADB, 2008, p.195) [100].

Quảng Nam có bờ biển dài trên 125 km và thềm lục địa rộng lớn, có nguồn

hải sản phong phú thuộc vùng biển Nam Trung bộ. Theo số liệu của Viện Quy

hoạch thủy sản thì vùng biển Nam Trung bộ có trữ lượng cá 42 vạn tấn, khả

năng đánh bắt hàng năm 20 vạn tấn, trữ lượng mực 7000 tấn, tôm biển 4000 tấn.

Trữ lượng hải sản không có ranh giới theo tỉnh và di chuyển giữa các tỉnh trong

vùng. Quảng Nam có điều kiện để phát triển ngành đánh bắt xa bờ. Bên cạnh

khai thác tiềm năng phát triển nghề khơi, Quảng Nam có tiềm năng nuôi trồng

thuỷ sản ở các hồ thủy điện, vùng ven sông, ven biển và ở đảo Cù Lao Chàm.

2.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội

a. Về kinh tế

Sau 14 năm tái lập tỉnh (1997-2010) quy mô nền kinh tế tăng lên đáng kể và

có bước phát triển khá nhanh. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GDP) tăng liên

tục qua các năm, bình quân trong 14 năm tăng 11,05%, trong đó khu vực công

nghiệp - xây dựng tăng 18,7%; khu vực dịch vụ tăng 12,07%; nông, lâm, thủy sản

tăng 2,45%. Nhờ vậy, đến năm 2010 tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh tăng gấp 3,7

lần so năm 1997. Trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng gấp 8,7 lần; dịch

vụ gấp 4,3 lần; nông, lâm, thủy sản gấp 1,4 lần.

Quảng Nam có vị trí khá thuận lợi trong phát triển kinh tế, nằm trong vùng

kinh tế trọng điểm miền Trung, có hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ

Sơn, nằm trên trục đường du lịch “Con đường di sản miền Trung”, và hành lang

kinh tế Đông Tây (Đoàn Tranh, 2008) [83]. Quảng Nam là cầu nối giữa Đà

Nẵng và khu công nghiệp Dung Quất, có hai sân bay lớn và nhiều cảng biển lớn,

nếu cầu Cửa Đại nối bờ nam và bắc Hội An, và đường cao tốc Đà Nẵng nối liền

91 Dung Quất hoàn thành thì vấn đề giao thông và liên kết kinh tế giữa Quảng Nam

và các tỉnh trong khu vực càng thuận lợi; nhất là trong việc tận dụng hạ tầng và

phát triển thị trường tiêu thụ nông sản từ Quảng Nam đến các tỉnh lân cận.

Các hoạt động mua sắm hiện đại đã và đang phát triển mạnh tại các tỉnh miền

Trung; các hình thức mua sắm siêu thị đã dần thay đổi thói quen mua sắm của

người tiêu dùng; và nhu cầu thực phẩm sạch, thực phẩm chế biến sẵn đã trở

thành nhu cầu lớn và đòi hỏi việc sản xuất nông nghiệp cần phải thay đổi. Đây

cũng là cơ hội cho sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam. Tuy nhiên, công

nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát triển chậm và hiệu quả thấp, hầu hết

các cơ sở chế biến công nghệ trung bình và lạc hậu. Các dự án đầu tư vào chế

biến nông sản thực phẩm như Nhà máy Đường, Nhà máy Chế biến Nước Dứa,

Nhà máy Chế biến hạt Điều hoạt động kém hiệu quả, nguồn nguyên liệu khan

hiếm, và các nhà máy này đã phá sản hoặc đang trong tình trạng phá sản. Hiện

nay chỉ còn tồn tại các nhà máy chế biến thủy sản, nhà máy tinh bột sắn còn hoạt

động. Nói chung, công nghệ chế biến nông, lâm, thủy sản và các hoạt động

ngành hàng nông sản tại Quảng Nam còn nhỏ lẻ, lạc hậu, chưa có mối liên kết

chặt chẽ giữa các tổ chức kinh tế và nông dân.

Quảng Nam hiện tổng kết được có 70 làng nghề cần được bảo tồn và phát

triển (Sở Công Thương Quảng Nam, 2008) [22]. Trước đây, hoạt động làng

nghề gắn với lúc nông nhàn của sản xuất nông nghiệp và sử dụng các nguyên

liệu từ sản xuất nông nghiệp như như dệt vải, lụa, dệt chiếu, hàng thủ công mỹ

nghệ, mây tre, sản xuất nước mắm,… Ngày nay, làng nghề có xu hướng chuyên

môn hóa theo lao động và ngành nghề. Tuy nhiên, hoạt động làng nghề phát

triển sẽ thúc đẩy hoạt động du lịch, giúp chuyển đổi lao động và ngành nghề tại

nông thôn, và đây cũng là cơ hội tốt để tăng thu nhập của các hộ dân tại nông

thôn và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp với đời sống nông thôn

tại Quảng Nam.

92

b. Về thu nhập và tỷ lệ hộ nghèo

Năm 2010, so với cả nước, thì Quảng Nam có thu nhập bình quân đầu người

thuộc loại thấp, chỉ đạt 882 USD/người, thấp so với bình quân cả nước là 1169

USD. Tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao, 17%, cao nhất trong các tỉnh vùng kinh tế

trọng điểm miền Trung và so với bình quân cả nước (10,6%). Nếu xét theo

huyện tại Quảng Nam, có 8 huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo rất cao, từ 50%

đến 70%.

c. Về dân số, dân tộc và dân cư

Năm 2010, dân số trung bình toàn tỉnh đạt 1.428.000 người, xếp thứ 18/63

tỉnh thành và thứ 2 ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung về quy mô dân số. Đa

số là dân tộc kinh chiếm 93% dân số, còn lại 7% là các đồng bào dân tộc, chủ

yếu sống ở 8 huyện miền núi. Dân số sống tại nông thôn vẫn còn chiếm rất cao,

81,2%, và lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm 59,1%. Quy mô dân số

của tỉnh lớn nhưng phân bố dân cư không đều chủ yếu tập trung ở những huyện

đồng bằng, ven biển; các huyện miền núi, trung du có mật độ dân cư thưa thớt

tập trung chủ yếu dọc theo đường lộ, ven suối.

d. Về hạ tầng nông thôn

Ngoài tuyến đường quốc lộ 1A, 14B, 14E, 14D, đường Hồ Chí Minh, đường

cao tốc Đà Nẵng – Dung Quất. Nội tỉnh có 6.355 km đường bộ, mật độ đường 0,61 km/km2 và 4,4 km/1000 dân; trong đó có 2.299,6 km đường nhựa, bê tông

xi măng, 347,6 km đường cấp phối và 3.708 km đường đất. Hiện có 93,3% số xã

có đường ô tô đến trung tâm xã, 74% số xã có đường liên thôn được bê tông; số

xã có đường liên thôn được bê tông hóa từ 50% trở lên đạt 40,7% (cả nước là

42,6%) (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam, 2009) [3]. Về

đường sông, trên địa bàn tỉnh có khoảng 941 km sông ngoài tự nhiên, hiện đang

quản lý và khai thác 313 km trên 11 sông chính.

93

Về thủy lợi, toàn tỉnh có 73 hồ chứa, 728 đập dâng và 230 trạm bơm điện với

tổng năng lực tưới trên 71 ngàn ha lúa và 12 ngàn ha màu. Hệ thống kênh thủy lợi

được thường xuyên nâng cấp sửa chữa, bê tông hóa, đáp ứng tưới tiêu khoảng 90%

diện tích lúa nước vùng trung du và đồng bằng.

Đến năm 2010, có 94% số xã có điện lưới, các xã còn lại sử dụng điện tại chỗ

bằng nguồn máy phát diesel, thủy điện nhỏ, điện mặt trời và hiện có 97% số hộ dân

tại nông thôn có điện; 97% số xã có điện thoại tại trụ sở xã, 82% số xã có điểm bưu

điện văn hóa ; 98% số xã có trạm y tế xã; 8,3% số xã có trường trung học phổ thông,

87,07% số xã có trường trung học cơ sở, 100% số xã có trường tiểu học và 82% số

xã có trường mẫu giáo.

Trong bối cảnh một tỉnh có xuất phát điểm kinh tế thấp, thuần nông và tỷ

lệ hộ nghèo cao, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, bên cạnh đó các tác động bất

lợi diễn biến khủng hoảng kinh tế những năm 1997-1999 và năm 2007-2008,

và thiên tai thường xuyên xảy ra. Sau 14 năm tái lập tỉnh, Quảng Nam đã nỗ

lực vượt khó đạt được những thành tựu rất quan trọng, nền kinh tế đạt mức độ

tăng trưởng nhanh, hầu hết các ngành, các lĩnh vực chủ yếu đều thu được những

kết quả vượt trội so với mục tiêu kế hoạch đề ra; cơ sở hạ tầng và dịch vụ được

tăng cường, sự nghiệp văn hoá, giáo dục và y tế có nhiều tiến bộ.

Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ và nhiều mặt mất cân đối; đời sống

đại bộ phận dân cư khu vực nông thôn, miền núi còn khó khăn; chất lượng tăng

trưởng thấp. Việc nghiên cứu thực trạng sản xuất nông nghiệp Quảng Nam qua

xem xét các nội dung liên quan đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,

phát triển các vùng sinh thái nông nghiệp, thực hiện chuyên môn hóa, tập rung hóa

sản xuất nông nghiệp, ttổ chức sản xuất trong nông nghiệp và liên kết kinh tế, xây

dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp; đồng thời, đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của

nông nghiệp Quảng Nam những năm qua. Từ đó, tìm hiểu những nguyên nhân ảnh

hưởng đến chất lượng tăng trưởng của nông nghiệp tại Quảng Nam, làm cơ sở để

94 đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam giai đoạn 2011-

2020.

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH QUẢNG

NAM

Nghị quyết của tỉnh Quảng Nam, đến năm 2020 sẽ xây dựng Quảng Nam trở

thành tỉnh công nghiệp. Đây là xu thế, tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng với

81,2% dân số sống tại nông thôn, với 51,5% là đất rừng, 11% đất sản xuất nông

nghiệp, và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 21,2% (năm 2010),

Quảng Nam vẫn đang là tỉnh thuần nông. Việc tiến hành công nghiệp hóa của

tỉnh Quảng Nam không thể nằm ngoài xu thế phát triển của vùng kinh tế trọng

điểm miền Trung, quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt nam và đặc biệt không

thể thoát ly từ nông nghiệp.

Muốn phát triển phải thoát nghèo và nâng cao thu nhập, đa số dân số Quảng

Nam là nông dân và họ cũng là những người nghèo nhất. Quảng Nam không thể

phát triển và tiến hành công nghiệp hóa thành công nếu không làm cho khu vực

nông nghiệp giàu lên. Việc nghiên cứu thực trạng phát triển nông nghiệp của

tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua sẽ không nằm ngoài những nội dung cơ bản

của phát triển nông nghiệp Việt Nam và những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội

của tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy khi phân tích thực trạng phát triển nông

nghiệp Quảng Nam sẽ gồm các nội dung cơ bản sau.

2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp

a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm qua đã có sự

chuyển dịch không theo hướng tiến bộ vì quá trình dịch chuyển này không làm

cho năng suất lao động xã hội của ngành nông nghiệp tăng lên so với ngành

công nghiệp và dịch vụ. Điều đó được thể hiện như sau: Tỷ trọng nông nghiệp

năm 1996 là 50,0% GDP giảm xuống còn 21,2% GDP vào năm 2010; tương ứng

95 thời gian này, công nghiệp đã tăng từ 18,6% lên 39,8%; và dịch vụ đã tăng từ

31,4% lên 39,1%.

Hình 2.2: Năng suất lao động xã hội của ngành công nghiệp và dịch vụ so

với nông nghiệp tại Quảng Nam, cả nước và Hà Lan (tính cho năm 1996 và

2010)

Năm 2010, lao động nông nghiệp chiếm 59,1%, tương ứng chiếm 21,2%

GDP; trong khi lao động ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 40,9% nhưng

chiếm đến 78,8% GDP. Điều đó chứng tỏ năng suất lao động xã hội trong ngành

công nghiệp và dịch vụ so với ngành nông nghiệp gấp (78,8/40,9):(21,2/59,1) =

5,38 lần; so với toàn quốc, tỷ lệ này là (79,4/51,8): (20,58/48,2) = 3,59 lần; so

với Hà Lan là đất nước có nền nông nghiệp phát triển, thì tỷ lệ này là

(98/97)/(2/3) = 1,52 lần (OECD, 2008, tr. 9) [111].

Tương tự với cách xác định trên, năm 1996, năng suất lao động xã hội trong

ngành công nghiệp và dịch vụ so với ngành nông nghiệp gấp 4,0 lần, so với toàn

quốc là 6,55 lần. Hình 2.2 cho thấy năng suất lao động xã hội của ngành nông

96 nghiệp của Quảng Nam giảm xuống trong giai đoạn 1996-2010, trong khi nông

nghiệp cả nước có năng suất lao động xã hội gia tăng theo hướng tiến bộ hơn.

Điều này do lao động nông nghiệp ở Quảng Nam dịch chuyển sang các ngành

chậm hơn so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

b. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông - lâm - thủy sản

Năm 1996, trồng trọt chiếm tỷ trọng 56,6%, chăn nuôi 17,7%, lâm nghiệp

10,5%, và thủy sản 15,3%; đến năm 2010, trồng trọt chiếm tỷ trọng 46,0%,

chăn nuôi 18,4%, lâm nghiệp 6,3%, và thủy sản 29,2% (xem bảng 2.2). Giá trị

sản xuất của ngành nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) vẫn còn chiếm tỷ

trọng lớn trong ngành nông, lâm, thủy sản ở Quảng Nam, nên Quảng Nam

vẫn đang là tỉnh nông nghiệp thuần túy.

1996 2000 2005 2006

2007

2008

2009

2010

CƠ CẤU NỀN KINH TẾ (%)

Nông nghiệp

50,0

41,5

31,0

29,0

26,1

25.8

23.0

21.2

18,6

25,3

34,0

35,5

37,9

37.3

38.6

39.8

Công nghiệp và xây dựng

Dịch vụ

31,4

33,2

35,0

35,5

36,0

36.9

38.4

39.1

CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CỦA CÁC TIỂU NGÀNH NÔNG NGHIỆP (%)

+ Trồng trọt

56,6

52,2 47,1

48,6

50,0

50,2 47.7

46.0

+ Chăn nuôi

17,7 19,2 20,8

20,2

19,4

19,8

18.9

18.4

+ Lâm nghiệp

10,5

8,5

6,9

7,0

6,6

5,7

6.0

6.3

15,3 20,1 25,2

23,9

24,3

27.3

29.2

+ Thủy sản 24,2 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)

Bảng 2.2: Cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu giá trị sản xuất của các tiểu ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2010

Những năm gần đây, ngành chăn nuôi vì ảnh hưởng của dịch bệnh mà có xu

hướng giảm, trong khi ngành lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng gia tăng trở lại

do ngành trồng rừng phát triển. Ngoài ra, thực hiện chính sách của tỉnh cho phép

chuyển đổi các ruộng năng suất thấp dọc các xã vùng cát thuộc các huyện Điện

Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành sang nuôi tôm nước mặn và nước lợ.

97 Nếu xét về hiệu quả thì sự chuyển dịch này nhằm khai thác được tiềm năng đất

đai và lợi thế vùng, vì ngành trồng trọt thu về 38,45 triệu đồng/ha, trong khi nuôi trồng thủy sản thu được đến 175,5 triệu đồng/ha13.

c. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt

Năm 2001, giá trị sản xuất cây lương thực chiếm tỷ trọng 73,4%, rau đậu

7,8%, cây công nghiệp hàng năm 9,2% và cây công nghiệp lâu năm 2,4%, cây

ăn quả 3,0%; đến năm 2010, tỷ trọng cây lương thực chiếm 68,4%, rau đậu

11,0%, cây công nghiệp hàng năm 7,9% và cây công nghiệp lâu năm 4,6%, cây

ăn quả 5,0% (xem bảng 2.3). Cây lương thực có xu hướng giảm; các cây rau

đậu, cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm có xu hướng tăng, nhất là cây rau,

đậu phát triển khá nhanh nhờ vào tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng.

Bảng 2.3: Cơ cấu (%) cây trồng tại tỉnh Quảng Nam

2001

2010

Loại cây

%

%

%

%

Giá trị SX (106 đồng)

Diện tích (ha)

Giá trị SX (106 đồng)

Diện tích (ha)

Tổng số

1.340.185 100 166.740 100

4.535.801 100 175.395

100

Cây lương thực

819.001 61,1 122.449 73,4

2.225.102 49,1 119.930

68,4

Rau đậu

196.000 14,6

13.086 7,8

1.043.387 23,0

19.220

11,0

109086

8,1

15.388 9,2

388.778

8,6

13.783

7,9

Cây công nghiệp hàng năm

Cây CN lâu năm

21.854

1,6

4.000 2,4

83.355

1,8

8.125

4,6

4.981 3,0

9,4

353.956

7,8

8.782

5,0

126.439 Cây ăn quả (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)

Đối với cây lương thực gồm cây có hạt và cây cho bột cũng dịch chuyển khá

tích cực. Trong giai đoạn 2001-2010, diện tích cây lúa hầu như không biến đổi

nhiều; nhưng cây ngô phát triển mạnh đã tăng diện tích từ 9.665 ha (8,9%) lên

13.117 ha (10,9%) do chăn nuôi phát triển; đặc biệt cây sắn cũng tăng rất nhanh

13 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

về diện tích nhờ vào công nghiệp chế biến sắn phát triển. Cây khoai có xu hướng

98 giảm diện tích do đầu ra hạn chế vì chủ yếu bán sản phẩm tươi hoặc chế biến thô

(bảng 2.4).

2001

2005

2010

Loại cây

Ha

%

Ha

%

Ha

%

Bảng 2. 4: Cơ cấu cây lương thực tại Quảng Nam theo diện tích gieo trồng

Tổng số

122.449

118.210

119.930

- Lúa

89.012

72.7

84.324

71.3

85.323

71.1

- Ngô

9.665

7.9

10.568

8.9

13.117

10.9

- Khoai

10.882

8.9

9.219

7.8

6.590

5.5

- Sắn

11.475

9.4

13.241

11.2

14.200

11.8

0.7

700

0.6

1.415

1.2

858 - Khác (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)

Đối với cây công nghiệp hàng năm, giai đoạn 2001-2010, một số cây có giá

trị cao như cây lạc tăng diện tích từ 8.589 ha (chiếm55,6% đất cây công nghiệp

hàng năm) lên 10.785 ha, chiếm 74,6% đất cây công nghiệp hàng năm. Riêng

cây mía giảm nhanh do Nhà máy Đường Quảng Nam phá sản; cây bông tăng

nhanh từ năm 2005, chiếm 9,2% diện tích, thì đến năm 2010 chỉ còn 1,1%; cây

thuốc lá có xu hướng giảm dần diện tích, từ 994 ha năm 2001, xuống còn 510 ha

năm 2010 (xem bảng 2.5).

2001

2005

2010

%

%

%

Ha 15.388 8.589 994 3.479 36

55.8 6.5 22.6 0.2

60.2 4.5 9.2 9.2

Ha 13.785 10.290 510 475 150

74.6 3.7 3.4 1.1

Bảng 2. 5: Cơ cấu cây công nghiệp hàng năm theo diện tích gieo trồng

Tổng số - Lạc - Thuốc lá - Mía - Bông

Ha 14.899 8.962 665 1.364 1.370 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)

Đối với cây công nghiệp lâu năm, giai đoạn 2001-2010, chuyển dịch theo

hướng tăng diện tích cây cao su, còn các cây chè, hồ tiêu, dừa và điều liên tục

giảm diện tích (xem bảng 2.6).

99

2001

2005

2010

Bảng 2.6: Cơ cấu cây công nghiệp dài ngày theo diện tích gieo trồng

Loại cây

Ha

Ha 4.000 1.330 1.131 70 744 725

% 100,0 33.3 28.3 1.8 18.6 18.1

% 100,0 8.6 46.9 4.7 9.0 30.8

8.294 469 5.977 390 174 1.284

% 100,0 5.7 72.1 4.7 2.1 15.5

Ha 5.418 Tổng cộng 466 Chè 2.542 Cao su 254 Hồ Tiêu 489 Dừa Điều 1.667 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)

Tóm lại, những năm qua việc chuyển dịch các cây trồng theo hướng 1) gia

tăng các cây trồng có giá trị cao và đem lại lợi nhuận cho nông hộ; 2) gia tăng

các cây trồng phù hợp với mỗi vùng sinh thái như cây rau đậu, cây công nghiệp

ngắn ngày có giá trị cao tăng nhanh tại các vùng đất phù sa dọc theo sông Vu

Gia, Thu Bồn và sông Tam Kỳ, cây cao su thích hợp với đất tại huyện Hiệp

Đức, Núi Thành, Thăng Bình, cây ăn quả phát triển mạnh tại các huyện Đại Lộc,

Tiên Phước, Nam Giang; 3) cây trồng phát triển nhờ vào công nghiệp chế biến

như cây sắn phát triển nhanh nhờ vào công nghiệp chế biến sắn phát triển, trong

khi cây mía giảm rất nhanh vì không có công nghiệp chế biến.

Tuy nhiên, cây lương thực, đặc biệt cây lúa vẫn duy trì diện tích và gia tăng

sản lượng, có nhiều lý do nhưng tập trung vào các lý do chính sau: 1) cây lương

thực vẫn được duy trì nhằm đảm bảo vấn đề an ninh lương thực; nhất là tại 8

huyện miền núi của Quảng Nam; 2) nhiều vùng cây lúa đã gia tăng sản lượng

hàng hóa nhờ vào năng suất cao như tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn và các vùng

này đa số các hộ làm ăn giỏi đã liên kết lại để sản xuất lúa giống cho giá trị kinh

tế gấp 1,5 lần so với lúa thịt; 3) tâm lý sợ rủi ro khi chuyển đổi cây trồng vẫn

còn tồn tại trong đa số nông hộ.

Giao thông và hoạt động thương mại phát triển làm cho sản xuất nhằm đảm

bảo an ninh lương thực không còn là mục tiêu chủ yếu nữa; mà mục tiêu của

tỉnh Quảng Nam là chuyển dịch từ sản xuất các cây lương thực có giá trị thấp

sang các cây trồng có giá trị cao hơn. Giá trị sản xuất bình quân 1 ha trồng trọt

100 là 38,43 triệu đồng; trong đó, cây lương thực là 14,6 triệu đồng, cây rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày là 43,3 triệu đồng14; và lợi nhuận từ trồng lúa chỉ 3,8

triệu đồng/ha, trong khi trồng cà tím, dưa leo, rau muống có thể cho lợi nhuận

ròng từ 9 triệu đồng đến 13 triệu đồng/ha (Nguyễn Tấn Cư, 2004, tr. 46) [15].

Nên những năm đến, ngành trồng trọt của Quảng Nam cần dịch chuyển theo

hướng gia tăng sản xuất hàng hóa và gắn với hiệu quả kinh tế.

d. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành chăn nuôi

Những năm qua, ngành chăn nuôi tại Quảng Nam phát triển không ổn định,

năm 2005, cơ cấu giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi chiếm 20,8%, thì đến

năm 2010 giảm xuống còn 18,4%. Trong nội ngành chăn nuôi, đã có sự dịch

chuyển đáng kể giữa gia súc và gia cầm; trong khi, cơ cấu giá trị sản xuất của

ngành gia súc đã tăng từ 68,84% năm 2000 lên 82,66% vào năm 2010; ngược

lại, gia cầm đã giảm từ 16,34% xuống còn 11,07% tương ứng cùng kỳ; sản

phẩm không qua giết thịt cũng không tăng do kế hoạch nuôi bò sữa của Quảng

Nam không thành công (xem bảng 2.7).

Bảng 2.7: Giá trị sản xuất và cơ cấu ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam giai

Năm

Tổng số

Gia súc

Gia cầm

Sản phẩm không qua giết thịt

GIÁ TRỊ SẢN XUẤT (Triệu đồng)

2000

490.790

337.883

80.208

35.457

2005

817.425

666.034

76.786

37.819

2010

1.808.246

1.494.646

200.093

75.535

CƠ CẤU (%)

2000

100,0

68,84

16,34

7,22

2005

100,0

81,48

9,39

4,63

2010

100,0

82,66

11,07

4,18

Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010

14 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

đoạn 2000-2010

101

Đối với cơ cấu đàn gia súc, gia cầm cũng biến động, năm 2004, đàn trâu có

59,3 ngàn con, đàn bò có 177,6 ngàn con, đàn lợn có 558,8 ngàn con, gia cầm có

4.082 ngàn con; đến năm 2010, đàn trâu có 79,7 ngàn con, đàn bò có 210,5 ngàn

con, đàn lợn có 590,3 ngàn con, gia cầm có 3.655 ngàn con (xem bảng 2.8).

Bảng 2.8: Đàn gia súc, gia cầm và các sản phẩm ngành chăn nuôi tại Quảng

Trâu

Lợn

Gia cầm

Con

Con

Con

Con

Chỉ số PT (%)

Chỉ số PT (%)

Chỉ số PT (%)

Chỉ số PT (%)

2004

59.274

100,0 177.626

100,0 555.812

100,0 4.082.240

100,0

2005

68.087

114.9 197.009

110.9 576.470

103.7 3.922.589

96.1

2006

78.977

116.0 233.678

118.6 587.875

102.0 3.526.569

89.9

2007

81.693

103.4 239.726

102.6 578.690

98.4 3.361.127

95.3

2008

81.167

99.4 228.340

95.3 586.312

101.3 3.410.374

101.5

2009

79.538

98.0 210.287

92.1 578.580

98.7 3,531.008

103.5

2010

79.700

100.2 210.500

100.1 590.300

102.0 3.655.000

103.5

Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010 (ghi chú: Chỉ số phát triển (PT)

được tính so với năm trước)

Nam 2004-2010

Việc ngành chăn nuôi không nâng được giá trị sản xuất và đầu gia súc, gia

cầm luôn biến động, vì: 1) ngành chăn nuôi luôn đối diện với dịch bệnh; 2) công

nghiệp chế biến súc sản không phát triển; 3) chưa có giải pháp giải quyết vấn đề

môi trường trong chăn nuôi; 4) ngành chăn nuôi bán công nghiệp và công

nghiệp chưa phát triển; 5) hoạt động thú y kém phát triển. Chăn nuôi gia súc, gia

cầm vẫn là ngành lợi thế của Quảng Nam, nhất là các huyện đồng bằng và trung

du như Đại Lộc, Điện bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Núi

Thành và 8 huyện miền núi Quảng Nam (Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn,

Tiên Phước, Hiệp Đức, Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang).

102

Những năm qua, tại Quảng Nam vẫn có nhiều địa phương thành công trong

chăn nuôi như xã Điện Quảng, huyện Điện Bàn đã nâng đàn bò Sind hóa lên

95%, trong khi cả tỉnh chỉ có 24%. Nông dân ở đây thực hiện chăn nuôi bán

công nghiệp kết hợp với xử lý môi trường bằng hầm bioga đã tăng nhiều lợi ích

cho nông hộ. Nhờ vậy, diện tích đồng cỏ ở xã phát triển lên đến 140 ha (Lưu

Hoàng Vĩnh, 2010, tr. 15) [[95]. Và Điện Quang cũng là xã áp dụng mô hình

bảo hiểm trâu, bò kết hợp với hoạt động thú y, nhờ vậy mà những năm qua xã

này chưa xảy ra dịch lỡ mồm long móng trên đàn giá súc.

e. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản

Về giá trị sản xuất, năm 2001 ngành thủy sản đạt 577,2 tỷ đồng thì đến năm

2010 đạt được 2.213 tỷ đồng tăng 3,8 lần. Trong đó, cơ cấu sản lượng ngành

khai thác vẫn chiếm tỷ trọng cao so với ngành nuôi trồng, năm 2001 ngành khai

thác chiếm 91,6% tổng sản lượng thì đến năm 2010 vẫn còn chiếm đến 73,6%.

Điều này là bất lợi cho đầu vào nguyên liệu của ngành chế biến thủy sản, vì

ngành khai thác phụ thuộc vào thời tiết trên biển, nhất là khi mùa mưa bão ở

miền Trung luôn là thảm họa cho tàu thuyền ra khơi.

2001

2010

%

%

%

%

Giá trị SX (106 đồng)

Sản lượng (tấn)

Giá trị SX (106 đồng)

Sản lượng (tấn)

Bảng 2. 9: Cơ cấu ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản

Tổng số

577.246 100,0

43.350

100,0 2.213.013 100,0 75.941

100,0

1. Khai thác

384.586

66,6

39.719

91,6 1.549.725

70,0 55.875

73,6

169.569

3.631

29,4

8,4

647.071

29,2 20.066

26,4

2. Nuôi trồng thủy sản Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010

Về diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản nước lợi và nước ngọt cũng có

những dịch chuyển theo hướng tăng diện tích nuôi trồng và gia tăng sản lượng.

Năm 2001, diện tích nuôi tôm nước lợ và mặn là 1.950 ha, thì đến năm 2010

tăng lên 2.233 ha; trong khi đó, nuôi cá nước ngọt do ít bị dịch bệnh hơn nên

103 diện tích tăng rất nhanh; năm 2001 chỉ có 3.422 ha, thì đến năm 2010 đã tăng

lên 5.095 ha. Trong giai đoạn này, diện tích mặt nước lợ và mặn tăng 1,14 lần,

nước ngọt tăng 1,49 lần; nhưng sản lượng thủy sản nước lợ và mặn tăng 5,18 lần

(12.455/2.405) và sản lượng nước ngọt tăng 6,21 lần (7.611/1.226) (bảng 2.10).

2001

2010

%

%

%

%

Diện tích

Sản lượng

Diện tích

Sản lượng (tấn) 3.631 100,0

5.372

100,0 20.066

100,0

7.328

100,0

2.405

66,2

1.950

36,3 12.455

62,1

2.233

30,5

Bảng 2.10: Sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản

Tổng số 1. Nước mặn và lợ + Tôm

2.350

64,7

1.950

36,3 12.000

59,8

1.900

25,9

+ Thủy sản khác

55

1,5

0,0

455

2,3

333

4,5

2. Nước ngọt + Cá

1.226 1.153

33,8 31,8

3.422 3.420

63,7 63,7

7.611 7.500

37,9 37,4

5.,095 5.060

69,5 69,1

111

0,6

35

0,5

2,0

2

0,0 73 + Thủy sản khác Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010

Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã tập trung chuyển dịch theo hướng nuôi

trồng thủy sản cả nước ngọt, nước lợ và mặn để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho

chế biến, điều đó dựa vào điều kiện tự nhiên và mặt nước nuôi trồng thủy sản

hiện có tại Quảng Nam. Tuy nhiên, so với các tỉnh miền Trung, việc khai thác

lợi thế trong khai thác, đánh bắt hải sản của Quảng Nam còn yếu, nhất là về đầu

tư số lượng tàu thuyền, công suất tàu thuyền tỉnh Quảng Nam thấp hơn tỉnh Quảng Ngãi 4,7 lần, Bình Định 6,4 lần và Khánh Hòa 2,83 lần15. Sản lượng thủy

sản nuôi trồng gia tăng, nhưng còn một số tồn tại mà ngành nuôi trồng đang gặp

phải: 1) hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản chưa phát triển nên dịch bệnh

hay lây lan giữa các đầm nuôi tôm; 2) ô nhiễm môi trường từ các khu công

nghiệp, nhất là dọc sông Trường Giang; 3) việc nạo vét và chuyển sông Trường

Giang sang hoạt động giao thông và du lịch sẽ thu hẹp đáng kể diện tích nước lợ

nuôi thủy sản trong tương lai. 15 Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2010.

104

f. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành lâm nghiệp

Những năm qua, ngành lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam chuyển dịch theo xu

hướng sau: 1) Năm 1996, giá trị sản xuất lâm nghiệp có cơ cấu 10,5% thì đến

năm 2010 chỉ còn 6,3%, xu hướng này phù hợp với chính sách đóng cửa rừng hiện nay; 2) khối lượng gỗ khai thác năm 2000 là 69.119 m3 thì đến năm 2010 khai thác được 187.385 m3, tăng 171%. Trong đó, gỗ rừng trồng chiếm đến

98,3%; tuy nhiên, giá trị gia tăng của ngành lâm nghiệp chưa cao do chủ yếu vẫn

là bán nguyên liệu thô mà chưa có các nhà máy chế biến gỗ cao cấp.

2000

2001

2004

2008

2009

2010

GTSX THEO GIÁ THỰC TẾ (tỷ đồng)

217.781

22.1659 238.024

388.597

442.298

491.285

Bảng 2.11: Tình hình giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giai đoạn 2000-2010

Tổng số

53.882

51.215

41.410

78.934

134.349

172.701

Trồng và nuôi rừng

158.616 172.256

257.424

251.807

260.554

152.184

11.715

11.828

24.359

52.239

56.142

58.030

24,7

23,1

17,4

24,9

25,8

30,9

Khai thác lâm sản Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT (%) Trồng và nuôi rừng

69,9

71,6

72,4

63,3

60,5

56,3

Khai thác lâm sản

11,8

13,7

12,7

10,2

5,3

5,4

Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010

Ngoài ra, nhờ triển khai trồng mới theo chương trình 661 mà diện tích rừng

trồng tập trung đã tăng từ 5.801 ha năm 2000 lên 12.126 ha vào năm 2010. Bảng

2.11 cho thấy giá trị sản xuất nội ngành lâm nghiệp có đã có bước chuyển biến

tích cực trong giai đoạn 2000-2010, giá trị sản xuất của trồng và nuôi rừng đã

tăng từ 24,7% lên 30,9% và giá trị khai thác lâm sản đã giảm tương ứng từ

69,9% xuống còn 56,3% trong giai đoạn này.

105

Những năm đến, ngành lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam vẫn đóng vai trò quan

trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, nhất là ngành sản xuất đồ gỗ và bột giấy

phát triển sẽ thúc đẩy trồng rừng tập trung và phân tán trên đất vườn, đất dốc và

đất nương rẫy. Điều này sẽ nâng cao được thu nhập của các hộ dân sống ở vùng

trung du và vùng núi tỉnh Quảng Nam.

g. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp

Cơ cấu lao động trong nông nghiệp cũng có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng

lao động công nghiệp, dịch vụ tăng từ 20% năm 1996 lên 40,9% năm 2010,

tương ứng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống còn 59,1%. Tuy nhiên so

với chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong GDP trong giai đoạn này từ

50% năm 1996 xuống còn 21,2% năm 2010; thì tốc độ giảm lao động nông

nghiệp vẫn chậm hơn rất nhiều so với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Vì vậy

mà tỷ lệ đô thị hóa ở tỉnh Quảng Nam chỉ mới đạt 17,8% vẫn còn chậm so với tỷ

lệ đô thị hóa cả nước là 30%.

Tóm lại, nền nông nghiệp Quảng Nam trong tổng thể nền kinh tế hiện vẫn

còn chiếm tỷ trọng cao, ngay bản thân ngành nông – lâm – thủy sản thì ngành

trồng trọt còn chiếm tỷ trọng quá lớn, mà chưa chuyển dịch sang ngành chăn

nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong những năm đến, việc thúc đẩy chuyển

dịch lao động nông nghiệp sang các ngành khác sẽ là biện pháp cơ bản để đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; và phát triển ngành công nghiệp

chế biến, xây dựng các ngành hàng mạnh làm cơ sở chuyển đổi cơ cấu sản xuất

nông nghiệp theo hướng hiệu quả và tận dụng các lợi thế của Quảng Nam.

2.2.2. Tình hình qui hoạch và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp

Hiện tại, tỉnh Quảng Nam hình thành 3 vùng sinh thái là:

1) Vùng đồng bằng và ven biển gồm các vùng hạ lưu thuộc hệ thống sông Vu

Gia – Thu Bồn, Tam Kỳ và vùng dọc sông Trường Giang, người dân ở đây có

truyền thống thâm canh cây lúa nước, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây

thực phẩm; đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.

106

2) Vùng trung du với độ cao trung bình 100 m, địa hình đồi bát úp xen kẽ các

dải đồng bằng, thuộc miền Tây các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Đại Lộc,

Quế Sơn, Phú Ninh, Núi Thành... Nhân dân có truyền thống trồng lúa, màu, cây

công nghiệp, chăn nuôi, trồng rừng.

3) Vùng núi gồm 08 huyện phía Tây của tỉnh, là vùng núi cao, đầu nguồn các

lưu vực sông, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc ít người. Nhân dân sống chủ

yếu bằng sản xuất nông, lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu. Thế

mạnh của vùng này là rừng, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc.

Vùng có các khu rừng đặc sản như sâm Trà Linh, quế Trà My, Phước Sơn, có

những khu vực đất đai thuận lợi cho phát triển cây cao su (Hiệp Đức), tiêu (Tiên

Phước) và các cây công nghiệp dài ngày khác tạo điều kiện để hình thành các

vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản, và thực phẩm.

Trong mỗi vùng có các vùng vùng sinh thái nông nghiệp đặc thù phản ánh

điều kiện đất đai, mặt nước, địa hình, khí hậu; và cũng từ đó hình thành nên các

tập quán sản xuất, canh tác khác nhau tạo nên các thế mạnh và đặc sản của từng

vùng.

- Vùng ven biển dọc theo sông Trường Giang và sông Cổ Cò đã hình thành

nên vùng khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản lớn của tỉnh Quảng Nam.

Năm 2001 vùng này khai thác được 39,7 ngàn tấn hải sản thì đến năm 2010 đã

tăng lên 55,9 ngàn tấn. Cùng kỳ, thì diện tích nuôi trồng thủy sản và sản lượng

nuôi trồng thủy sản đã tăng tương ứng từ 5.372 ha và sản lượng 3.631 tấn thủy

sản năm 2001 lên 7.328 ha và sản lượng 20.066 tấn thủy sản vào năm 2010. Dù

tỉnh Quảng Nam đã có chương trình thu hẹp nuôi trồng thủy sản trên sông

Trường Giang để nẹo vét sông này phục vụ lưu thông thủy và du lịch, nhưng

nhờ chính sách khuyến khích chuyển đổi các ruộng lúa nước dọc sông Trường

Giang năng suất không cao sang nuôi trồng thủy sản và khuyến khích nuôi cá

nước ngọt, nuôi tôm nước mặn dọc biển đã thúc đẩy mở rộng vùng sinh thái

nuôi trồng thủy sản những năm qua tại vùng này.

107

- Vùng đồng bằng hạ lưu sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ đã hình thành nên

vùng thâm canh lúa nước, trồng các cây công nghiệp ngắn ngày và cây thực

phẩm. Những năm qua, vùng này đã tạo nên những cánh đồng lúa năng suất cao

đạt đến 6,5 tấn/ha/vụ tại các huyện như Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Phú

Ninh. Vùng này cũng là nơi cung cấp thực phẩm cho các khu công nghiệp và

các vùng đô thị và du lịch tại Quảng Nam, Đà Nẵng và các tỉnh lân cận; vùng

rau Trà Quế, Hội An, Tam Phước, huyện Phú Ninh, Quảng Quế, huyện Đại Lộc;

vùng trồng ớt Điện Quang, thuốc lá Điện Bàn, Đại Lộc, vùng bắp huyện Duy

Xuyên, vùng cây cảnh Hội An, Điện Bàn... đã trở thành những địa danh nổi

tiếng cho những nông sản có chất lượng được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

- Vùng trung du và miền núi, thế mạnh là trồng rừng và chăn nuôi đại gia súc.

Những năm qua, tỉnh Quảng Nam nâng được tỷ trọng chăn nuôi đến 18,4%

trong giá trị sản xuất nông nghiệp nhờ vào việc phát triển đàn gia súc tại các

vùng trung du và vùng núi. Trong đó, năm 2010, đàn bò có 210.287 con, trâu

79.700 con, lợn 590.300 con, thì các huyện trung du và miền núi chiếm trên

70% đàn gia súc, nhất là tại các huyện Đại Lộc, Quế Sơn, Thăng Bình, Núi

Thành, Tiên Phước, Hiệp Đức. Diện tích rừng trồng tập trung 10 năm qua toàn

tỉnh đã trồng mới được 81.217 ha, bình quân mỗi năm tăng 10,4 %, trong đó

năm 2009 trồng được 10.126 ha, năm 2010 đạt 12.126 ha tăng 43,9% so với

năm 2001; trong đó dự án trồng mới 5 triệu ha rừng của Chính phủ đạt 23.486

ha chiếm 28,9% trong tổng số. Nhờ vậy, năm 2005, tổng diện tích rừng là

448.147 ha, độ che phủ của rừng chỉ đạt 42,5%; năm 2009 tổng diện tích rừng là

457.626 ha, độ che phủ đạt đến 44% (Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].

Ngoài việc trồng và khôi phục rừng, tỉnh Quảng Nam có những vùng cây trồng

rất nổi tiếng như vùng trái cây bòn bon huyện Nam Giang; quế, tiêu Tiên Phước,

Trà My; sâm Ngọc Linh. Những năm qua tỉnh qui hoạch và phát triển thêm vùng

cây cao su ở Hiệp Đức, cây dó bầu tại các huyện miền núi làm cho nghề thủ

công từ cây dó bầu ngày càng phát triển, nhất là tại huyện Nông Sơn.

108

Tuy nhiên, việc qui hoạch và phân vùng sinh thái nông nghiệp của tỉnh

Quảng Nam vẫn mang tính tổng quát, nặng về về quản lý hành chính mà chưa đi

vào nghiên cứu chi tiết cho mỗi loại cây trồng, vật nuôi trên mỗi vùng miền

nhằm khai thác tốt nhất điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu để đem lại hiệu

quả cao nhất cho người sản xuất. Ngay cả khung pháp lý và nguồn lực đầu tư để

đảm bảo công tác qui hoạch thực hiện được vẫn là còn hình thức và ở giai đoạn

lập kế hoạch; trên thực tế việc chỉ đạo sản xuất của ngành nông nghiệp và các cơ

quan chức năng chưa được phối hợp đồng bộ. Ví dụ, việc chuyển đổi cây trồng,

vật nuôi của nông dân xã Tam Phước, hoặc việc bỏ trồng cây lương thực sang

trồng cây lạc, ớt ở thôn Bến Đền, xã Điện Quang; hoặc nông dân chặt hết cây

dâu chuyển sang trồng bắp tại xã Duy Trinh, hoặc cây quế Trà My bị triệt hạ để

trồng cây keo,... tất cả đều phá vỡ qui hoạch và chạy theo những tín hiệu thị

trường mà không có sự kiểm soát và điều chỉnh qui hoạch kịp thời từ các cơ

quan chức năng của tỉnh Quảng Nam. Ngay cả, việc qui hoạch các cụm công

nghiệp tại các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã làm mất nhiều đất nông

nghiệp, nhưng lại không thu hút được các nhà máy. Trừ các huyện Đại Lộc, Duy

Xuyên, Điện Bàn, và Núi Thành, còn lại các cụm công nghiệp tại các huyện

khác không phát huy hiệu quả, gây lãng phí về đất đai; nên đến năm 2010, tỉnh

Quảng Nam phải rà soát để hủy các cụm công nghiệp không hiệu quả.

Nên việc xem xét lại các cở sở của qui hoạch phát triển nông nghiệp tại các

vùng sinh thái, cũng như các cơ sở pháp lý, nguồn lực cho chỉ đạo điều hành và

điều chỉnh qui hoạch cần phải được quan tâm trong những năm đến tại Quảng

Nam.

2.2.3. Thực trạng về chuyên môn hóa và tập trung hóa trong nông nghiệp

Những năm qua, quá trình chuyên môn hóa, tâp trung hóa sản xuất trong

nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã phát triển theo xu hướng sau.

109

a. Đối với vùng chuyên canh cây trồng và chăn nuôi

Do đặc điểm tự nhiên, việc lựa chọn cây trồng, vật nuôi ở Quảng Nam đã

được sàn lọc qua nhiều năm. Hiện tỉnh Quảng Nam có các vùng chuyên canh

chủ yếu sau:

- Vùng chuyên canh cây lúa. Cây lúa nước là nghề truyền thống của người

nông dân Quảng Nam vì vùng đất dọc hạ lưu sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ

phù hợp với loại cây này. Nên qua các năm diện tích cây lúa hầu như không

giảm nhiều, năm 2001 đất trồng lúa chiếm 72,7% diện tích đất trồng cây lương

thực, thì đến năm 2010 vẫn duy trì ở mức 71,1%. Tuy nhiên, nông dân các

huyện Điện Bàn, Đại Lộc thông qua Hiệp hội Giống cây Trồng Điện Bàn đã

hình thành nên vùng lúa giống thay vì trồng lúa thịt, cả tỉnh hiện có 900 ha trồng

lúa giống thì huyện Đại Lộc có đến 720 ha. Lúa giống đòi hỏi công lao động

tăng gấp đôi, từ 4 công/sào lên 8 công/sào, nhưng giá bán cao hơn giá lúa thịt

trên 1,5 lần. Chính vì vậy, diện tích trồng lúa không giảm nhiều mà biến cây lúa

tự túc thành cây lúa hàng hóa.

- Vùng trồng ngô. Ngô chủ yếu được trồng tại các bãi bồi dọc sông Vu Gia,

Thu Bồn và Tam Kỳ, vùng chuyên canh cây ngô tại Quảng Nam phát triển

nhanh từ 9,6 ngàn ha năm 2001, lên 13,1 ngàn ha năm 2010; vì 1) giống ngô

mới cho năng suất cao; 2) ngành chăn nuôi phát triển nên có nhiều nhà máy chế

biến thức ăn gia súc ra đời đã thúc đẩy các vùng trồng ngô phát triển.

- Vùng trồng khoai. Khoai chủ yếu được trồng tại các vùng bãi bồi, huyện

Thăng Bình là địa phương trồng khoai nhiều nhất tỉnh Quảng Nam và cũng là

nơi có sản phẩm khoai lang nổi tiếng, khoai Trà Đỏa. Tuy nhiên, khoai lang chủ

yếu bán tươi sống nên giá trị thương phẩm không cao; vì vậy, diện tích không

tăng mà giảm dần.

- Cây sắn đang là cây trồng cho thu nhập tại các vùng trung du và miền núi

Quảng Nam. Cây sắn đã tăng diện tích từ 11,5 ngàn ha năm 2001 lên 14,2 ngàn

110 ha vào năm 2010; diện tích và sản lượng cây sắn đang có xu hướng tăng nhanh,

vì 1) nhiều nhà máy chế biến sắn ra đời, nhất là sản xuất tinh bột sắn và ethanol;

2) giá sắn tăng từ 1.600/kg tươi đã lên 2.000 đồng/kg tươi, nên nhiều nông dân

đã chặt bỏ cây lâu năm khác chuyển sang trồng sắn; 3) cây sắn có thể trồng xen

canh cùng với các lâu năm như cây keo, cây cao su,... nên sản lượng tăng nhanh;

4) giống sắn mới cho năng suất cao nên thúc đẩy ngành hàng sắn phát triển.

Năm 2001

Năm 2010

%

%

%

%

Sản lượng

Diện tích

Sản lượng

Diện tích

Bảng 2. 12: Các cây trồng chuyên canh chủ yếu ở Quảng Nam

568.611 100,0 121.034 100,0

706.196 100,0 119.930 100,0

1. Cây lương thực

- Lúa

330.508

58,1

89.012

73,5

415.566

58,8

85.323

71,1

- Ngô

35.610

6,3

9.665

8,0

52.700

7,5

13.117

10,9

- Khoai

64.563

11,4

10.882

9,0

35.210

5,0

6.590

5,5

- Sắn

126.715

22,3

11.475

9,5

196.050

27,8

14.200

11,8

13.086 100,0

192.269 100,0

19.220 100,0

2. Cây rau đậu 109.,878 100,0

- Cây rau

104.738

95,3

8.096

61,9

185.011

96,2

13.600

70,8

15.388 100,0

13.783 100,0

3. Cây CN hàng năm

- Lạc

9.486

14.320

8.589

55,8

10.290

74,7

- Mía

115.650

3.479

22,6

19.960

475

3,4

3. Cây CN lâu

4.000 100,0

8.125 100,0

năm

- Chè

1.930

1.330

33,3

814

520

6,4

- Cao su

-

1.131

28,3

980

3.989

49,1

- Hồ tiêu

25

70

1,8

380

395

4,9

370

725

18,1

1.880

1.284

15,5

- Điều

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010

- Vùng rau đậu. Cây rau đậu Quảng Nam tăng rất nhanh cả về diện tích và

sản lượng. Năm 2001, diện tích và sản lượng rau tương ứng là 8 ngàn ha và 105

tấn rau, thì đến năm 2010, tăng lên 13,6 ngàn ha và sản lượng là 185 ngàn tấn.

111 Cây rau tăng nhanh, vì 1) thị trường tiêu thụ phát triển, các siêu thị Metro, Big

C,... đặt hàng nhưng nông dân sản xuất không đủ theo yêu cầu; 2) các vùng bãi

bồi dọc hệ thống sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ phù hợp để trồng các loại rau,

đậu; 3) giá cả tăng và thu nhập ổn định cả năm. Người trồng rau Trà Quế, Hội

An thu nhập bình quân mỗi ngày 100.000 đồng từ rau, chưa kể các thu nhập

khác.

- Đối với các cây công nghiệp ngắn ngày. Cây lạc có xu hướng tăng nhanh

do giá trị kinh tế cao; trong khi, cây mía bị chặt bỏ và thay vào đó nông dân

trồng sắn đem lại hiệu quả cao. Những năm qua, vùng chuyên canh cây công

nghiệp ngắn ngày biến động lớn, vì: 1) phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường và

giá cả; 2) đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày có thể chuyển sang trồng cây

lương thực, thưc phẩm một cách dễ dàng, phụ thuộc vào cây nào đem lại thu

nhập cao hơn; và 3) tùy thuộc vào sự phát triển của công nghiệp chế biến nông

sản. Nhà máy Đường Quảng Nam, Nhà máy Dứa phá sản đã làm vùng nguyên

liệu cây mía, cây dứa giảm đáng kể.

- Đối với cây công nghiệp lâu năm. Ngoài các cây lâu năm truyền thống của

Quảng Nam như cây quế, cây tiêu, cây chè, điều nhân, thì cây cao su đang tăng

nhanh. Năm 1998 cây cao su đưa vào trồng tại Hiệp Đức 10 ha đến nay đã hình

thành vùng cao su tập trung tại 2 huyện Hiệp Đức và Núi Thành với diện tích

4.189 ha (Hiệp Đức: 2.538 ha, Núi Thành: 981 ha, Nam Giang: 502 ha và huyện

Phước Sơn: 100 ha), mô hình trồng cao su tiểu điền 48 ha ở Thăng Bình và các

địa phương khác trong tỉnh đang trong xu thế phát triển. Cây cao su phát triển

tốt, diện tích ngày càng mở rộng; đến nay đã đưa vào khai thác trên 1.200 ha,

năng suất bình quân ước đạt 9,92 tạ/ha, sản lượng ước đạt 1.174 tấn, doanh thu

đạt trên 25 tỷ đồng. Có thể nói điều kiện tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng của các

huyện miền núi, trung du Quảng Nam phù hợp với cây cao su, đem lại hiệu quả

112 kinh tế cao góp phần vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho người nông dân

(Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].

- Các vùng chuyên canh cây trồng khác. Ngoài tập trung phát triển 67.695

ha rừng trồng làm nguyên liệu giấy, các cây trồng chuyên canh khác tập trung

tại các vùng trung du như vùng quế tại Trà My, vùng tiêu ở Tiên Phước, vùng

sâm Ngọc Linh ở Nam Trà My, cây ăn quả bòn bon ở Nam Giang.

Từ sản lượng cây ngô và các cây lương thực, rau đậu khác đã tạo nên nguồn

thức ăn dồi dào trong chăn nuôi, làm cơ sở để phát triển kinh tế trang trại chăn

nuôi gia súc, gia cầm... các mô hình kinh tế hộ làm ăn có hiệu quả ở các địa

phương trên ngày càng nhiều, cụ thể là qua 2 năm gần đây trang trại chăn nuôi ở

các huyện Đại Lộc, Điện Bàn tăng đáng kể. Các trang trại chăn nuôi gia công gà

công nghiệp ở Điện Hoà, Điện Thắng, Điện Thọ... ngày càng được mở rộng, thu

nhập của người lao động khá cao. Tuy nhiên, việc chăn nuôi vẫn còn ở qui mô

nhỏ, chăn nuôi công nghiệp chưa phát triển do thiếu công nghiệp chế biến súc

sản.

Dù diện tích cây trồng chủ yếu ở Quảng Nam vẫn là cây lúa, tuy nhiên, nhiều

nông dân đã mạnh dạng chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang cây lúa hàng hóa

bằng cách nâng cao giá trị cây lúa thông qua phát triển các cánh đồng lúa giống.

Bên cạnh đó, các cây trồng và vật nuôi khác là nguồn thu nhập bằng tiền chủ

yếu cho nông dân nên đã làm nông sản hàng hóa tăng lên. Vùng chuyên canh

của tỉnh Quảng Nam có qui mô không lớn, nhưng các cây trồng, vật nuôi chủ

yếu có sản lượng hàng hóa gia tăng đáng kể những năm qua; bảng 2.13 thể hiện

các tỷ suất hàng hóa các cây trồng, vật nuôi chủ yếu tại Quảng Nam hiện nay.

Để đạt được điều đó, nhờ vào 1) năng suất cây trồng, vật nuôi cao hơn nên có

điều kện gia tăng sản lượng hàng hóa; 2) thị trường nông sản phát triển, nhất là

quá trình đô thị hóa, các khu công nghiệp, du lịch phát triển nhanh làm nhu cầu

nông sản tăng lên; bên cạnh đó nhu cầu nông sản xuất khẩu cũng tăng lên, nhất

113 là nông sản cung ứng cho thị trường Trung Quốc; 3) giao thông phát triển đã

làm cho nông sản lưu thông từ đồng bằng lên miền núi, từ nông thôn đến thành

thị một cách dễ dàng, và có chi phí rẻ; 4) an ninh lương thực không còn là vấn

đề sống còn vì nó có thể được đảm bảo nhờ hệ thống kinh doanh lương thực

ngày càng phát triển trên phạm vi cả nước.

Bảng 2. 13: Sản lượng và tỷ suất hàng hóa một số cây trồng, vật nuôi chủ

Sản lượng

Sản lượng

yếu tại Quảng Nam

Loại cây, con

Đơn vị tình

Tỷ suất hàng hóa

Loại cây, con

Đơn vị tình

Tỷ suất hàng hóa

415.566

21% Bông

Lúa

Tấn

Tấn

330

98%

Ngô

Tấn

52.700

70% Chè

Tấn

814

80%

Khoai

Tấn

35.210

62% Cao su

Tấn

980

99%

Sắn

Tấn

196.050

82% Hồ tiêu

Tấn

380

85%

Rau

Tấn

185.011

90% Dừa

Tấn

3.039

86%

Đậu

Tấn

7.258

85% Điều

Tấn

1.880

96%

Lạc

Tấn

14.320

70% Gia cầm

Con

3.655.000

75%

Thuốc lá

Tấn

1.098

90% Lợn

Con

590.300

84%

Mía

Tấn

19.960

90% Bò

Con

210.500

90%

Vừng

Tấn

1.579

98% Trâu

Con

79.700

85%

Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam và tham khảo từ luận án tiến sĩ của Vũ Ngọc Hoàng, tr. 70 [30]; cây lúa, cây sắn và cao su do tác giả điều tra và tính toán.

Tuy nhiên, những năm qua tại Quảng Nam, nhiều vùng chuyên canh bị phá

vỡ do công nghiệp chế biến không phát triển và thị trường bị thu hẹp. Vừa qua

Nhà máy Đường phá sản làm diện tích trồng mía năm 2000 từ 5.069 ha giảm

còn 475 ha vào năm 2010. Nhà máy Dứa xuất khẩu, Nhà máy Điều xuất khẩu

hoạt động cầm chừng đã làm nông dân phá bỏ trồng dứa tại huyện Tiên Phước,

Trà My; cây điều tại huyện Thăng Bình, Núi Thành cũng bị chặt bỏ dần. Làng tơ

tằm Đông Yên Duy Trinh trước đây có hơn 100 ha dâu, thì nay chỉ còn 7 ha

(Nguyễn Thị Minh Nghĩa, 2008, tr. 29) [47], ngành tơ tằm của Quảng Nam hầu

114 như kiệt quệ. Hiện nay nông dân huyện Nam Trà My phải chặt bỏ cây quế16 vì

giá rẻ và sản phẩm không ai mua.

b. Đối với vùng nuôi trồng thủy sản

Các vùng chuyên canh thủy sản phát triển khá ổn định trên đất Quảng Nam,

diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2001 là 5.372 ha, đến năm 2010 là 7.345 ha,

tăng 36,7 % ; trong đó diện tích nuôi tôm nước lợ năm 2010 giảm so với năm

2001 là 2,6% (-50ha). Sản lượng nuôi trồng năm 2001 đạt 3.631 tấn, đến năm

2010 đạt 20.066 tấn, tăng 463%. Mặc dù diện tích tăng không cao nhưng nhờ sự

chuyển đổi con giống trong sản xuất nên sản lượng tăng mạnh làm cho giá trị

sản phẩm trên đơn vị diện tích tăng nhanh, năm 2010 giá trị sản phẩm trên đơn

vị diện tích đạt 175,5 triệu, tăng 94,8 triệu đồng/ha so với năm 2001. Cụ thể là

người nuôi chuyển từ tôm sú năng suất thấp sang nuôi tôm thẻ chân trắng cho

năng suất cao, nên sản lượng tôm nuôi năm 2010 đạt 12.000 tấn, gấp 5,1 lần so

với năm 2001. Đặc biệt là tôm thẻ chân trắng nuôi trên cát năm 2010 đạt 60 ha

tập trung và năng suất đạt 14 tấn/ha/vụ.

Riêng nuôi cá nước ngọt, năm 2001 có 3.422 ha thì đến năm 2010 diện tích

đạt đến 5.059 ha, đưa sản lượng cá nước ngọt năm 2010 đạt 7.611 tấn, gấp 6,2

lần so với sản lượng năm 2001. Những địa phương có phong trào nuôi cá nước

ngọt khá mạnh như Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình; nhiều hộ đã cải tạo

những vùng đất trũng hoang hoá và tận dụng các hồ, đập, công trình thuỷ lợi để

nuôi cá; điển hình ở Điện Bàn có hộ nuôi cá thu đến 500 triệu đồng/ha/năm...

Tuy vậy, với tiềm năng trên 10.000 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ

sản, trong đó đến 4.000 ha có khả năng nuôi tôm và trên 6.000 ha có khả năng

nuôi cá nước ngọt còn bỏ hoang hoá, chưa đưa vào sử dụng cần phải được đầu

16 Thùy Dương, Cây Quế: Đắng cay ai biết…?, Báo Quảng Nam, ngày 22/05/2009.

tư thích đáng, khuyến khích nhân dân khai hoang mở rộng diện tích nuôi trồng

115 thuỷ sản, phát huy tối đa thế mạnh lợi thế so sánh của địa phương về ngành kinh

tế này (Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].

c. Về tích tụ đất đai

Trong nông nghiệp Việt Nam, việc tập trung hóa chủ yếu dựa vào việc tích tụ

đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Nên khi nghiên cứu về thực trạng quá trình

tập trung hóa tại Quảng Nam, luận án tập trung vào vần đề tích tụ đất đai. Giống

như trên phạm vi toàn quốc, việc tích tụ đất đai tại Quảng Nam những năm qua

chủ yếu thực hiện qua công tác dồn điền đổi thửa. Đến năm 2010, cả tỉnh Quảng

Nam đã có 6/18 huyện (Đại Lộc, Thăng Bình, Phú Ninh, Điện Bàn, Duy Xuyên,

Quế Sơn) đã triển khai thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp

với tổng diện tích đất thực hiện 9.364 ha, trong đó đã đo đạc trên 1.300 ha và đã

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên 430 ha; thực hiện trên 65 xã, thị

trấn, trong đó 22 xã đã thực hiện trên 80% diện tích đất nông nghiệp của xã; số

thôn thực hiện là 228 thôn, trong đó có trên 150 thôn đã thực hiện trên 80% diện

tích đất nông nghiệp của thôn. Bình quân trước khi dồn điền, đổi thửa là 4,25

thửa/hộ và 545 m2/thửa; bình quân sau dồn, đổi thửa: 2,25 thửa/hộ và 1.050

m2/thửa. Địa phương đi đầu trong công tác dồn điền, đổi thửa là huyện Đại Lộc

đã triển khai với qui mô lớn 16/18 xã, thị trấn ở 142/161 thôn với tổng diện tích

đã thực hiện trên 4.000 ha đạt 59,5% kế hoạch, chiếm 42,7% diện tích thực hiện

của toàn tỉnh.

Tuy nhiên, việc tích tụ ruộng đất theo hình thức dồn điền đổi thửa không

giúp chuyển đổi lao động nông nghiệp tại nông thôn. Việc tập trung đất đai trên

mỗi đơn vị sản xuất nông nghiệp trước và sau dồn điền đổi thửa không thay đổi,

chỉ làm cho số thửa ít lại và diện tích mỗi thửa tăng lên. Nên luận án cho rằng,

tập trung hóa những năm đến tại Quảng Nam cần phải chuyển đổi lao động nông

nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp, thì quá trình tập trung hóa mới làm tăng

qui mô nguồn lực đối với mỗi nông hộ, nhất là nguồn lực về đất đai thì mới có

116 điều kiện phát triển kinh tế trang trại và làm hình thành các trang trại hạt nhân.

Từ đó, mới hình thành các vùng chuyên canh lớn hơn đi liền với quá trình tích tụ

đất đai.

Từ những phân tích trên cho thấy, thời gian qua quá trình chuyên môn hóa và

tập trung hóa ở tỉnh Quảng Nam còn nhiều hạn chế, nên đã làm cho nông nghiệp

tăng trưởng chậm: 1) cây trồng, vật nuôi tỉnh Quảng Nam rất đa dạng nhưng có

qui mô nhỏ, phân tán; 2) công nghiệp chế biến nông sản không phát triển, nhiều

nhà máy chế biến bị phá sản nên nhiều vùng chuyên canh ngày càng thu hẹp

diện tích; 3) các ngành hàng nông sản chưa phát triển, nên quá trình hình thành

liên kết dọc các đối tác trên chuỗi cung cấp không ổn định. Điều này làm cho

quá trình liên kết ngang luôn bị phá vỡ; và vì vậy, các vùng chuyên canh nhiều

cây trồng, vật nuôi luôn biến động.

Những năm đến, các hạn chế trên phải được khắc phục thì mới có khả năng

phát triển các vùng chuyên canh tại Quảng Nam; từ đó mới đẩy nhanh quá trình

tập trung hóa, nhất là quá trình tích tụ đất đai để hình thành nền nông nghiệp

công nghiệp và hiện đại

2.2.4. Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp thời gian qua

a. Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp

Đến năm 2009, tỉnh Quảng Nam có 12 doanh nghiệp nông nghiệp; 109 hợp

tác xã; và 264.114 hộ nông lâm thủy sản, trong đó có 1.021 trang trại các loại.

Thực trạng phát triển của các đơn vị kinh tế trong nông nghiệp trong thời gian

qua tại Quảng Nam có thể được đánh giá như sau.

Các doanh nghiệp nông nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động

trong lĩnh vực lâm nghiệp. Bình quân mỗi doanh nghiệp có 871 ha, nhưng hiệu

quả kinh doanh chỉ đạt 8,85 triệu đồng/ha, so với các doanh nghiệp nông nghiệp

cả nước là 38,23 triệu đồng/ha; chính vì vậy, mà tỷ suất doanh thu trên vốn chỉ

là 0,07, tức 1 đồng vốn chỉ tạo ra được 0,07 đồng doanh thu.

117

Tỉnh Quảng Nam hiện có 109 hợp tác xã, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực

dịch vụ nông nghiệp. Theo đánh giá, chỉ một số ít hợp tác xã hoạt động có hiệu

quả, còn đa số các hợp tác xã khó khăn về nguồn vốn, dịch vụ cung ứng và đầu

ra của sản phẩm. Nhưng phải nói rằng, hoạt động kinh tế của đa số hợp tác xã

thiếu sức sống do không gắn liền với hoạt động kinh tế của nông hộ và của các

trang trại; hợp tác xã chưa hoạt động như là cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ

nông sản. Cơ chế hoạt động của hợp tác xã vẫn còn muốn dựa vào chính sách hỗ

trợ của nhà nước, chưa phải là “con đẻ” của trang trại và nông hộ nên khó có thể

hoạt động hiệu quả.

Bảng 2. 14: So sánh qui mô sản xuất của nông hộ và trang trại tại Quảng

Diện tích

Lao động

Giá trị sản xuất và dịch vụ

Số đơn vị

(ha)

%

(người)

%

(tỷ đồng)

%

Nam

Tổng số

113.047 100,0

479.273 100,0

7.329

100,0

Nông hộ

264.114

102.514 90,7

475.500

99,2

7.127

97,3

10.533 9,3

1.021

3.773

0,8

201

2,7

Trang trại Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010

Đối với kinh tế nông hộ và trang trại. Nông hộ tại Quảng Nam chiếm 72,2%

số hộ tại nông thôn. Tình hình chung, kinh tế nông hộ của tỉnh Quảng Nam đa

số có qui mô nhỏ cả về diện tích đất đai, vốn và lao động. Bình quân đất sản

xuất mỗi nông hộ chỉ là 0,41 ha; với đất đai ít, thời gian lao động ở nông thôn

chỉ là 79,1%, thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm 76,7%, và các nông hộ sử dụng

thời gian còn lại cho hoạt động phi nông nghiệp để tăng thu nhập. Qui mô của

các trang trại cũng rất nhỏ bé; đến cuối năm 2009, các trang trại có diện tích đất

đai là 10.533 ha, lao động được sử dụng 3.773 người; bình quân, diện tích một

trang trại là 10,3 ha và số lao động bình quân là 3,7 lao động. Vốn đầu tư bình

quân mỗi trang trại 200,6 triệu đồng, trang trại có vốn đầu tư cao nhất là trang

trại chăn nuôi, trang trại kinh doanh tổng hợp. Giá trị sản lượng hàng hoá của

118 các trang trại đạt 201,3 tỷ đồng, bình quân mỗi trang trại là 197,2 triệu đồng,

trang trại có giá trị hàng hoá bình quân cao nhất là trang trại chăn nuôi, kinh

doanh tổng hợp và thuỷ sản (Cục Thống Kê Quảng Nam, 2010) [17]. Tuy nhiên,

giống như tình trạng phát triển kinh tế trang trại cả nước, các trang trại tại

Quảng Nam vẫn chưa thể đa dạng hóa các hình thức trang trại, trang trại gia

đình vẫn là chủ yếu; qui mô các trang trại nhỏ về diện tích đất đai, vốn đầu tư,

nhân lực và cả giá trị hàng hóa sản xuất ra. Dù thu nhập của các trang trại vượt

trội, gấp 5 lần so với nông hộ; nhưng so với nền nông nghiệp toàn tỉnh, thì diện

tích canh tác của các trang trại chỉ chiếm 9,3%, lao động chiếm 0,81% và giá trị

hàng hóa sản xuất ra cũng rất khiêm tốn, chỉ chiếm 2,7%.

Những năm qua, nông hộ tỉnh Quảng Nam vẫn đóng vai trò quan trọng góp

phần tạo ra giá trị vật chất cho tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, để xây dựng một

nền nông nghiệp chuyên môn hóa, hiện đại hóa không thể dựa vào nông hộ với

qui mô nguồn lực còn nhỏ bé và phân tán như trên, mà chỉ có thể dựa vào các

trang trại nông, lâm, thủy sản. Dù hiện tại mức đóng góp của các trang trại tại

Quảng Nam còn nhỏ bé; nhưng xu hướng phát triển và hội nhập hiện nay, tỉnh

Quảng Nam phải thúc đẩy để sớm ra đời các trang trại hạt nhân có qui mô lớn

để giúp nông nghiệp Quảng Nam tăng trưởng nhanh hơn.

b. Tình hình liên kết kinh tế trong nông nghiệp

Những năm qua, các mối liên kết kinh tế trong nông nghiệp Quảng Nam thể

hiện qua các hình thức liên kết sau:

Liên kết nội ngành mà chủ yếu là mối liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi.

Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm Quảng Nam phát triển nhờ vào nguồn nguyên

liệu có sẵn tại địa phương; như huyện Nam Giang, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện

Bàn, Thăng Bình và Quế Sơn có 7.599 ha trồng ngô, chiếm 60% diện tích trồng

ngô cả tỉnh nên tại các địa phương này có đàn gia súc, gia cầm chiếm trên 55%

cả tỉnh. Chăn nuôi phát triển tạo điều kiện phát triển các cây trồng phù hợp,

cung cấp phân bón và sức kéo,...; như xã Điện Quang huyện Điện Bàn là xã có

119 đàn bò lai Sind lớn nhất tỉnh, đã dành 140 ha đồng cỏ để phục vụ cho chăn nuôi

bò. Ngoài diện tích trồng ngô, thì cây sắn, cây đậu tương, cám gạo và bột cá có

sẵn tại địa phương cũng tạo nên nguồn thức ăn tương đối dồi dào cho ngành

chăn nuôi.

Liên kết vùng sinh thái là liên kết nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực và

điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại mỗi vùng. Tại các vùng trung du, miền núi

tỉnh Quảng Nam, ngoài việc kết hợp trồng cây lâu năm với chăn nuôi đại gia súc

tại các huyện Nam Giang, Đông Giang, Hiệp Đức, Trà My; các hình thức canh

tác sinh thái vườn-ao-chuồng (VAC) rất phát triển tại các huyện này. Tại huyện

Tiên Phước và các huyện trung du đã thực hiện mô hình VAC đem lại hiệu quả

và thu nhập ổn định cho nông dân (Võ Lượng, 1999, tr. 18) [39].

Liên kết ngang hình thành các vùng chuyên canh. Đây là mối liên kết quan

trọng làm cơ sở để thực hiện chuyên môn hóa, tập trung hóa trong sản xuất nông

nghiệp. Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã phát triển nhiều vùng chuyên

chuyên canh, tiến hành dồn điền đổi thửa nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp

phát triển. Tuy nhiên, theo phân tích ở trên, quá trình chuyên môn hóa và tập

trung hóa ở Quảng Nam không phát triển, nên đã làm các mối liên kết ngang

hình thành các vùng chuyên canh luôn bị phá vỡ; điều này chủ yếu do các mối

liên kết dọc không phát triển tại Quảng Nam những năm qua.

Liên kết dọc hình thành các ngành hàng nông sản. Trên phạm vi nền kinh tế

thì đây là mối liên kết ngành, trong đó nông sản là đầu vào của công nghiệp chế

biến và kinh doanh nông sản. Mối liên kết này lại được thực hiện thông qua các

chủ thể là các đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm hình thành nên các ngành hàng

nông sản. Mối liên kết này quan trọng vì là cơ sở để thúc đẩy hoạt động kinh

doanh nông sản phát triển.

Những năm qua, các nông hộ, trang trại và các hợp tác xã tại tỉnh Quảng

Nam đã kiên kết và hình thành nên các vùng chuyên canh như vùng chuyên canh

rau Trà Quế, Hội An; vùng rau Quảng Quế, Đại Lộc; vùng rau Tam Phước, Phú

120 Ninh; vùng trồng dâu nuôi tằm Duy Trinh, Duy Xuyên, vùng lúa giống, bắp

giống Điện Bàn;… Tuy nhiên, qui mô các vùng chuyên canh này còn nhỏ bé và

cũng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh và các vùng lân cận. Các

vùng chuyên canh lớn hơn như vùng mía Quế Sơn, vùng cây nguyên liệu giấy

tại các huyện phía tây Quảng Nam, vùng chuyên canh cây quế Trà My, vùng

chuyên canh cây dứa tại Đại Lộc và Nam Giang,… Những cây trồng này được

xem là những cây trồng có lợi thế của tỉnh Quảng Nam nhưng phát triển không

ổn định, giá cả nông sản luôn bấp bênh.

Những mối liên kết ngang này không mở rộng được qui mô để đạt hiệu quả,

đó là do mối liên kết dọc của các đơn vị sản xuất nông sản không gắn bó mật

thiết với các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản như các nhà thu gom,

các nhà chế biến và các nhà xuất khẩu. Ngoài ngành hàng thủy sản, nguyên liệu

giấy, cây sắn khá ổn định vì có nhiều nhà máy chế biến hoạt động hiệu quả; các

ngành hàng khác như hạt điều, tiêu, chè luôn biến động theo giá cả của hệ thống

thu gom cá nhân; các ngành hàng có xu hướng giảm dần như cây quế, dâu tằm,

cây bông, cây mía do thiếu công nghiệp chế biến, giá thành sản suất cao hơn thị

trường hoặc thị trường bị thu hẹp.

Xét trên phạm vi nền kinh tế tỉnh Quảng Nam, để nghiên cứu mối liên kết

giữa tăng trưởng công nghiệp có ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng nông

nghiệp; luận án đã dùng mô hình Hwa Erh Cheng (Đinh Phi Hổ và cộng sự,

+ ε

2006, tr. 245) [34] để nghiên cứu liên kết này và mô hình liên kết có dạng: A0 = β0 + β1I0 + β2LnY + β3 (LnY)2

Trong đó, A0 là tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, I0 là tốc độ tăng

trưởng của ngành công nghiệp và xây dựng và Y là thu nhập bình quân đầu

người. β0, β1, β2, β3 là các tham số của mô hình.

121

Dựa trên số liệu của Việt Nam giai đoạn 1990-2010 và của Quảng Nam giai

đoạn 1997-2010. Mối liên kết giữa nông nghiệp và công nghiệp của Việt Nam thể hiện qua mô hình17:

A0 = -12,289 + 0,131I0 + 5,317LnY – 0,467(LnY)2 (với R2 = 63,5%)

Và đối với Quảng Nam, mô hình có dạng: A0 = -35,701 + 0,254I0 + 12,6701LnY – 1,202(LnY)2 (với R2 = 88,3%)

Kết quả từ hai mô hình cho thấy, 1) giữa tốc độ tăng trưởng công nghiệp và

tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có tương quan và có ý nghĩa kinh tế; khi ngành

công nghiệp phát triển sẽ làm cho nông nghiệp phát triển, nhất là công nghiệp

chế biến nông sản; 2) với khoảng tin cậy 85% thì cả hai mô hình đều cho thấy

tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp tương quan có ý nghĩa thống kê với tốc độ

tăng trưởng của công nghiệp; 3) so với cả nước, ảnh hưởng tăng trưởng giữa

công nghiệp và nông nghiệp được giải thích ở mức 66,3%; trong khi tại tỉnh

Quảng Nam, quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp được giải thích ở mức

88,3% cao hơn nhiều so với toàn quốc.

Qua những tham số phân tích trên cho thấy, những năm đến tại Quảng Nam

cần quan tâm nhiều đến phát triển công nghiệp chế biến, vì nó sẽ tác động rất

lớn đến sự tăng trưởng của nông nghiệp. Tuy nhiên, có thể nói rằng, mối liên kết

giữa công nghiệp chế biến và nông nghiệp tại Quảng Nam những năm qua chưa

thật sự bền vững và ngành công nghiệp Quảng Nam chưa làm được nhiều trong

việc góp phần đưa nông sản của nông dân tỉnh Quảng Nam đến thị trường một

cách hiệu quả và mối liên kết này vẫn được xem là mối liên kết “yếu”.

Như vậy, qui mô nhỏ và thiếu năng lực về vốn, đồng thời chưa tạo được các

mối liên kết kinh tế ngang và dọc hiệu quả đã làm cho các ngành hàng nông sản

tại Quảng Nam không khai thác được các lợi thế so sánh của mình; và cũng vì

vậy mà những năm qua, nền nông nghiệp Quảng Nam khó phát triển theo hướng

chuyên môn hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa. 17 Xem phụ lục 2.

122

2.2.5. Tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp

Những năm qua, tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp của Quảng

Nam thể hiện như sau:

Đầu tư xã hội và việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất

nông nghiệp. Những năm qua, suất đầu tư trên một đơn vị diện tích và trên lao

động tại Quảng Nam còn thấp. Năm 2010, mức đầu tư tại Quảng Nam là 3,83

triệu đồng/ha và 0,92 triệu đồng/lao động nông nghiệp; trong khi đó, suất đầu tư

cả nước tương ứng là 4,8 triệu đồng/ha và 1,93 triệu đồng/lao động nông nghiệp.

Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư vào khu vực nông nghiệp tại Quảng Nam ngày

càng giảm thấp; năm 1997, đầu tư của xã hội cho khu vực nông nghiệp chiếm

22,3%; thì đến năm 2010, mức đầu tư chỉ còn 3,7%, tương ứng 1,75% của GDP.

Giai đoạn 1997 đến 2010, chỉ có một dự án đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng

thủy sản, chiếm chỉ 0,82% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Quảng Nam thời

gian này.

Việc đầu tư thấp vào nông nghiệp không chỉ về qui mô đồng vốn mà còn thể

hiện việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong cơ khí hóa, thủy lợi

hóa, điện khí hóa, sinh học hóa, hóa học học, tự động hóa trong nông nghiệp còn

ở trình độ thấp, lạc hậu.

- Đối với đầu tư máy công tác vào sản xuất nông nghiệp. Theo Sở Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam (2009) [5], mức độ áp dụng cơ giới

hóa tại Quảng Nam chỉ đạt dưới 20% cho mọi khâu trong sản xuất nông nghiệp;

hầu như các khâu làm đất, gieo cấy, thu hoạch, phơi,… chủ yếu vẫn là lao động

thủ công, lao động bằng máy móc chiếm tỷ lệ thấp, riêng các huyện miền núi

của tỉnh Quảng Nam, lao động nông nghiệp chỉ là lao động thủ công.

Bảng 2.15 cho thấy, mức độ trang bị động lực của nông nghiệp tỉnh Quảng

Nam đạt rất thấp, chỉ 0,34 cv/ha, so với bình quân toàn quốc là 1,16cv/ha. Trong

khi đó, theo Cục Chế biến thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, tại Thái Lan mức độ

trang bị động lực là 4 cv/ha, Hàn Quốc 4,2 cv/ha, Trung Quốc 6,06 cv/ha. Máy

123 gặt đập liên hợp liên hợp ở Quảng Nam chỉ có 71 chiếc, An Giang có đến 1.445

chiếc, trong khi tỉnh Quảng Nam có 80.812 ha trồng lúa, màu; còn An Giang có

110.00 ha; điều này cho thấy năng lực đầu tư vào thiết bị cơ giới và máy công

tác tại Quảng Nam còn ở mức rất thấp. Công suất của các máy công tác ở các

khâu gặt đập, tuốc lúa, xay xát lúa đều có mức trang bị thấp hơn rất nhiều so với

các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và so với trung bình của toàn quốc

Bảng 2.15: So sánh tình hình máy móc, thiết bị trong nông nghiệp của

Quảng Nam với các địa phương và cả nước

So sánh các chỉ tiêu cơ bản

GHI CHÚ

TT

Loại sản phẩm

Đơn vị tính

Năm 2009

Quảng Nam

Máy

151

1

0,34 cv/ ha

Máy

819

2

So với cả nước

Máy

3

Máy kéo các loại có công suất >50 mã lực Máy kéo các loại có công suất <50 mã lực Máy gặt lúa các loại: - Máy gặt lúa rãi hàng - Máy gặt lúa liên hợp

1.383 1.312 71

4 Máy xay xát gạo

Máy

4.774

So với tỉnh An Giang

5 Máy sấy các loại

Máy

77

20 tấn/ngày 0,1 máy/ 100ha

Các nơi khác 1,16 cv/ ha 1.832 387 1.445 500 – 1.000 tấn/ngày 1,9 máy/ 100ha

Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT [16], Tổng cục Thống Kê năm 2009, và website: http://www.2lua.vn/article/can-day-nhanh-co-gioi-hoa-nong-nghiep.

- Về thủy lợi, Quảng Nam là một trong các tỉnh có mạng lưới các công

trình thủy lợi tương đối rộng khắp đảm bảo tưới đến 90% ruộng đất sản xuất

nông nghiệp. Tuy nhiên, như tình trạng cả nước, kỹ thuật tưới vẫn là tưới ngập,

công nghệ tưới này được xem là lạc hậu vì tốn nhiều nước. Riêng hệ thống thủy

lợi cho nuôi trồng thủy sản hầu như Nhà nước không đầu tư, mà để các đơn vị

sản xuất và nông dân tự lo liệu; chính vì vậy mà nguồn nước nuôi trồng thủy sản

không xử lý, được xả từ các hồ nuôi gây lây lan dịch bệnh trên diện rộng. Nên

những năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản ở Quảng Nam luôn bị dịch bệnh gây

ra nhiều tổn thất cho nông dân.

124

- Về giống cây, con năng suất cao, Quảng Nam đã đưa các giống lúa và ngô

mới có năng cao thay 100% các giống cũ có năng suất thấp. Về giống gia súc,

Quảng Nam đã cải tạo đàn bò toàn tỉnh theo hướng Sind hóa, hiện đã đạt được

tỷ lệ 24% bò lai Sind (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam,

2009) [3]; đàn lợn toàn tỉnh cũng được nạc hóa bằng các giống mới.

- Về kỹ thuật thâm canh theo phương pháp 3 giảm, 3 tăng đã được bắt đầu

triển khai từ năm 2008, và sẽ triển khai trên hầu hết diện tích canh tác lúa và các

loại cây trồng hoa màu khác tại Quảng Nam vào những năm đến. Phương pháp

thâm canh 3 giảm, 3 tăng không chỉ đem lại lợi ích là giảm chi phí, tăng năng

suất đất đai, mà còn đem lại lợi ích bảo vệ môi trường, tăng chất lượng nông sản

(xem bảng 2.16).

Bảng 2. 16: Kỹ thuật thâm canh lúa theo hướng 3 giảm, 3 tăng

Hiệu quả

Phương pháp truyền thống

Phương pháp 3 giảm, 3 tăng

Gieo sạ

5 kg thóc/sào

2,5 - 3kg /sào

Giảm 2 – 2,5kg/sào

Bón phân Urê

6 - 10 kg/sào

4,5 - 5 kg/sào

Giảm 30-50%/sào

Số lần phun thuốc

9 lần

5 - 6 lần

Giảm 3 - 4 lần

Năng suất

40 tạ/ha

47,2 tạ/ha

Tăng 7,2 tạ/ha

Chi phí giảm 140.000 đồng/sào Ghi chú: Sào = 500 m2. Nguồn: Báo cáo của Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quảng Nam

Nhờ triển khai các biện pháp thâm canh trên mà năng suất cây trồng và nuôi

trồng thủy sản tại Quảng Nam có tăng. Tuy nhiên, so với bình quân cả nước,

năng suất các loại cây trồng và nuôi trồng thủy sản tại Quảng Nam còn ở mức

thấp (xem bảng 2.17).

Những cánh đồng mầu mỡ tại huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên của

Quảng Nam có năng suất lúa đạt đến 6,5 tấn/ha/vụ, có thể so với tỉnh Thái Bình

có năng suất lúa bình quân 6,6 tấn/ha/vụ, nhưng đa số các rộng lúa còn lại năng

suất thấp hơn. Cây mía ở Quảng Nam chỉ đạt 36,8 tấn/ha, thấp so với bình quân

125 cả nước (59,9 tấn/ha), nhưng so với tỉnh Trà Vinh (108,8 tấn/ha) thì năng suất

cây mía ở Quảng Nam không thể sánh bằng. Cây điều năng suất ở tỉnh Quảng

Nam là 1,5 tấn/ha cao hơn bình quân cả nước (0,9 tấn/ha); tuy nhiên, cây này

chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Bộ và năng suất cây điều ở Bình Phước

đến 4 tấn/ha, nên việc trồng điều ở Quảng Nam ngày càng thu hẹp là vì vậy.

Như vậy, chỉ trừ năng suẩt nuôi trồng thủy sản, cây ngô cao hơn bình quân cả

nước và các địa phương vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, còn lại năng suất

các loại cây trồng còn thấp so với cả nước và nhiều tỉnh tại Việt Nam.

Bảng 2. 17: Năng suất cây trồng và nuôi trồng thủy sản giai đoạn 1997-2010

Đơn vị tính: Tấn/ha

Lúa

Ngô

Mía

Chè

Hồ tiêu

Hạt điều

Thủy sản

3,1

3,0

33,0

2,1

0,4

0,8

0,4

1997

3,7

3,0

34,0

2,2

0,4

0,9

0,5

2000

4,4

4,1

39,4

1,9

1,0

1,9

0,8

2005

4,6

4,2

43,4

2,0

1,2

1,9

0,9

2006

4,7

4,4

42,1

2,0

1,2

1,9

1,2

2008

4,8

4.2

36,8

1,7

1,0

1,5

2,7

2010

5,3

4,1

59,9

7,4

2,5

0,9

2,5

Toàn quốc năm 2010

Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam và Niêm Giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

Năm

Đối với trình độ lao động trong nông nghiệp. Lao động là chủ thể tiếp thu

các phương pháp canh tác mới, tiếp nhận các tiến bộ khoa học công nghệ vào

nông nghiệp, thì lực lượng lao động nông nghiệp tại Quảng Nam chưa qua đào

tạo chiếm đến 98,33%; số lao động được đào tạo thì trình độ sơ cấp là 0,71%,

trung cấp là 0,79%, cao đẳng là 0,11% và trình độ đại học trở lên là 0,07% (Cục

Thống kê Quảng Nam, 2010) [17]. Bên cạnh đó, thời gian lao động chỉ chiếm

79,1%, nên nông hộ sẽ không có động lực đầu tư máy móc thiết bị vào sản xuất

nông nghiệp, mà thay vào đó, lao động thủ công được sử dụng nhiều hơn trong

các hoạt động nặng nhọc như khâu làm đất, gieo mạ, giặt lúa, vận chuyển thủ

126 công. Khi phân tích về cơ cấu chi phí sản xuất lúa Đông Xuân cho thấy nông

dân Quảng Nam lao động thủ công nhiều hơn so với trung bình các tỉnh trên

toàn quốc (bảng 2.18). Chi phí lao động tự làm của nông dân Quảng Nam chiếm

31,39%; trong khi, tỉnh Vĩnh Long 14,6%, và tỉnh Nam Định là 21,5%.

Bảng 2. 18: Cơ cấu chi phí lúa đông xuân

CÁC CHI PHÍ

Quảng Nam

Vĩnh Long

Chi phí về giống

6,52

6,4

5,0

Chi phí phân bón

25,88

31,8

29,9

Thuốc bảo vệ thực vật

16,97

8,4

7,0

Chi phí thuê ngoài, lãi vay

19,24

35,8

36,6

Chi phí lao động tự làm

31,39

14,6

21,5

TỔNG

100

100

100 Nguồn: Báo cáo thường niên lúa gạo Việt Nam, 2009 và triển vọng 2010, tr. 80 [11]. Số liệu của Quảng Nam do tác giả khảo sát tại xã Tam Phước huyện Phú Ninh, tháng 3/2010.

Đơn vị tính: % Nam Định

Theo điều tra, các thanh niên trai trẻ của Quảng Nam rời bỏ làng quê đi tìm

việc tại các thành phố lớn trong cả nước, nên lực lượng lao động chính trong

nông nghiệp hiện nay tại Quảng Nam là những người lớn tuổi (Sở Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn Quảng Nam, 2008) [4]. Với sự phân tán nguồn lực và

già hóa lao động trong nông nghiệp như trên, thì việc triển khai các biện pháp

thâm canh trong nông nghiệp Quảng Nam sẽ càng khó khăn hơn.

Tóm lại, vấn đề thâm canh trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời

gian qua thể hiện các hạn chế chủ yếu sau: 1) công nghệ tưới của hệ thống thủy

lợi còn lạc hậu, tốn nhiều nước, nhất là hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản

chưa được đầu tư thích đáng, trong khi ngành nuôi trồng thủy sản là thế mạnh

của Quảng Nam; 2) việc đầu tư cơ giới hóa vào các khâu sản xuất còn ở mức

thấp, lực cản của vấn đề này về cơ bản vẫn do lực lượng lao động trong nông

nghiệp còn quá nhiều. Việc giải phóng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ

là giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc đưa cơ giới vào thay sức người trong sản

127 xuất nông nghiệp vào những năm đến. Biện pháp này sẽ đi cùng với chuyển đổi

kinh tế nông thôn, phát triển các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp tại nông

thôn và nâng cao thu nhập của các hộ nông nghiệp.

2.2.6. Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp

Tỉnh Quảng Nam là tỉnh nông nghiệp, nên từ những năm sau ngày thống nhất

đất nước, nhiều công trình hạ tầng phục vụ nông nghiệp được Nhà nước đầu tư,

trong đó công trình đại thủy nông Phú Ninh là một trong những công trình trọng

điểm phục vụ sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam. Đến năm 2010, nhiều kết

cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp được xây dựng như sau.

Về hệ thống thủy lợi. Cả tỉnh hiện có 73 hồ chứa nước lớn, nhỏ với tổng dung

tích hữu ích 420,2 triệu m3, đảm bảo tưới cho hơn 14.500 ha. Đập dâng kiên cố

có 728 đập; bình quân mỗi năm số công trình vừa nêu chủ động cung ứng nước

tưới cho khoảng 80.812 ha đất canh tác lúa và các loại hoa màu. Bảo đảm nước

tưới cho 85,6% diện tích gieo trồng lúa và 12.000 ha đất màu. Hệ thống đê ngăn

mặn dài 183 km, ngăn mặn cho 9.500 ha. Có 43,5 km kè chống sạt lở bờ sông

(Sở Nông nghiệp và PTNT, 2009) [7]. Hệ thống thuỷ lợi đã phát huy hiệu quả

phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên các mặt như tưới nước phục vụ phát triển

sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai hạn hán, nhiễm mặn trong vụ sản

xuất hè thu, giảm lũ sớm đầu mùa tháng 9 và lũ muộn vào tháng 12 bảo vệ sản

xuất. Các công trình thuỷ lợi cũng đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho nhân

dân trong vùng hưởng lợi.

Về hệ thống đường nông thôn và đường nội đồng. Ngoài hệ thống đường

quốc lộ, cả tỉnh Quảng Nam hiện có đường huyện lộ khoảng 1087 km và đưòng

xã có khoảng 3000 km; đường sông khoảng 500 km, trong 8 năm (2001 - 2008)

tỉnh đã bê-tông hóa được 2.096 km đường các loại với tổng kinh phí đầu tư trên

510 tỉ đồng. Hệ thống đường quốc lộ cùng với đường bộ, đường thuỷ nội địa,

cảng biển, sân bay đã nối liền các vùng kinh tế đồng bằng, trung du, miền núi và

các trung tâm đô thị trong tỉnh ra với cả nước và các nước đã góp phần tích cực

128 để nông sản của tỉnh Quảng Nam đến các thị trường ngày càng nhanh chóng.

Riêng đường nội đồng vẫn còn cấp phối đường đất, tỉnh có chủ trường kết hợp

dồn điền đổi thửa với qui hoạch lại đường nội đồng. Tuy nhiên, do địa hình bị

chia cắt và việc dồn điền đổi thửa không tiến triển nên hệ thống đường nội đồng

hầu như không phát triển thêm trong những năm qua.

Hệ thống điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Trong những năm qua, hệ

thống mạng lưới điện đã được đầu tư rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Hệ thống trạm

bơm điện có 230 trạm bơm điện trục ngang với tổng công suất 250.000 m3/h,

tưới cho 12.000 ha. Đến cuối năm 2010, đã có 96,6% số xã, 92,7% số thôn và

95,3% số hộ nông thôn được sử dụng điện. Đã có 224 bưu cục khu vực và bưu

điện văn hóa xã; bình quân 100 người dân có 0,88 người sử dụng In-tơ-nét và

17,44 người sử dụng điện thoại (Cục thống kê Quảng Nam, 2010) [17].

Ngoài những kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp cơ bản trên, những năm

qua tỉnh Quảng Nam đã đầu tư các cảng cá và âu thuyền tránh bão tại Cù Lao

Chàm, Cửa Đại và cửa Tam Hòa huyện Núi Thành, có trên 15 trạm trại với 15.000 m2, hàng trăm m2 nhà lưới cho vùng rau Trà Quế Hội An.

Mặc dầu, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam khá

phát triển, đảm bảo sản xuất nông nghiệp những năm qua phát triển ổn định.

Nhưng phải nói rằng các kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp còn lạc hậu,

thường bị hư hỏng sau mùa bão, lũ, nhất là các công trình thủy lợi, giao thông

nông thôn. Vốn đầu tư xã hội hàng năm dành cho nông nghiệp chỉ chiếm từ 3%

đến 4%; trong khi đó phần vốn ngân sách Nhà nước đầu tư vào nông nghiệp thì

90% chủ yếu dành cho thủy lợi và các chương trình kiên cố hóa kênh mương.

Còn lại các kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp khác như đường nội

đồng, sân phơi, kho tàng, khu chế biến,... chủ yếu do các hợp tác xã và nhân dân

đầu tư, nên qui mô nhỏ và tạm bợ, chưa đáp ứng cho một nền nông nghiệp phát

triển. Hiện nay, toàn tỉnh có 66 xã nghèo, trong đó có 53 xã đặc biệt khó khăn;

129 còn 29 xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm xã, trong khi nguồn ngân sách của

tỉnh chưa thể đáp ứng đủ để đầu tư kết cấu hạ tầng cho các xã này.

Đối với ngành nuôi trồng thủy sản, thiếu hệ thống thủy lợi là tình trạng chung

của nghề nuôi tôm nước lợ của nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Trong năm 2011, toàn bộ 15 ha nuôi tôm thẻ chân trắng của 20 hộ dân thuộc 2

xã Tam Quang và Tam Hải (Núi Thành) đều bị dịch bệnh gây hại. Theo nhiều

nông dân, nguyên nhân chính khiến cho tôm nuôi bị dịch bệnh và chết hàng loạt

là do chưa có hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản.

Vấn đề quản lý, bảo dưỡng và vận hành các công trình thủy lợi tại Quảng

Nam vẫn còn nhiều lãng phí và thiếu đồng bộ. Hiện Công ty TNHH MTV Khai

thác Thủy lợi Quảng Nam – doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước được giao quản

lý và khai thác 17 hồ chứa, 25 trạm bơm điện, 3 đập dâng kiên cố, 27 đập dâng

bán kiên cố và đảm bảo tưới cho gần 46 ngàn ha. Số còn lại do các địa phương,

các hợp tác xã và cá nhân quản lý. Để vận hành các công trình này, ngoài 317

đơn vị quản lý công trình thủy nông độc lập, còn có 192 tổ chức thủy nông cơ sở

tham gia đảm trách phần kênh mương nội đồng thuộc hệ thống các công trình

thủy lợi do Công ty quản lý. Đây là các tổ chức hợp tác dùng nước giữa Công ty

và các hợp tác xã địa phương, nguồn kinh phí được thu từ phí nội đồng khoảng

300 ngàn đồng/ha/vụ. Theo lãnh đạo của Công ty, với cơ chế mỗi thủy nông

viên quản lý 16 ha đất canh tác thì tổng số tiền mà thủy nông viên thu được

trong một vụ sản xuất là 4,8 triệu đồng, bình quân mỗi tháng thủy nông viên

được trả thu nhập khoảng 1,5 triệu đồng. Với mức thu nhập như vậy, nhiều thủy

nông viên đã bỏ việc và vì vậy mà việc cung ứng nước tưới trên hàng loạt cánh

đồng gặp rất nhiều khó khăn. Nói rõ hơn, không có “ông dẫn nước” nên nhiều

nơi đã xảy ra tình trạng ruộng lúa nhiều nơi thừa nước, có nơi bị khô hạn.

Dù mức đầu tư đầu tư vào nông nghiệp còn ở mức thấp, nhưng phải nói

những năm qua, tỉnh Quảng Nam tập trung rất nhiều nguồn lực cho thủy lợi,

giao thông nông thôn, và điện phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điều này đóng góp

130 rất lớn vào sự phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm qua, tuy nhiên

kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, tính kiên cố còn thấp hay bị hư hỏng sau mỗi

mùa lũ lụt và việc quản lý vận hành các công trình này vẫn còn nhiều vấn đề cần

phải được giải quyết trong thời gian đến.

2.2.7. Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng

Nam thời gian qua

a. Kết quả sản xuất nông nghiệp đạt được qua các năm

Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp của Quảng Nam tăng trưởng bình quân

giai đoạn 1997-2010 chỉ đạt 2,45% (bảng 2.19), thấp hơn so với các tỉnh vùng

kinh tế trọng điểm miền Trung (từ 3,8% đến 4,2%) và so với bình quân cả nước

trong giai đoạn này là 3,80%.

Bảng 2. 19: Các chỉ tiêu tăng trưởng GDP của Quảng Nam giai đoạn 1997-

1997 2000 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Bình quân 1997-2010

Nền kinh tế

8,9

7,3

12,5

13,5

14,4

12,7

11,1

12,5

11,25

Nông nghiệp

2,9

2,4

2,8

3,9

2,8

0,9

0.5

1.3

2,45

17,3

14,5

21,3

21,6

22,1

17,7

16,1

18,0

18,70

Công nghiệp và XD

Dịch vụ

14,1

9,2

13,9

14,0

15,7

15,5

11,9

12,5

12,07

Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

2010 Đơn vị tính: %

Ở Quảng Nam, đất sản xuất nông nghiệp bình quân là 0,41 ha/hộ nông

nghiệp, trong khi bình quân quân cả nước là 0,63 ha, Quảng Ngãi là 0,36 ha và

Bình Định là 0,43 ha. Bảng 2.20 thể hiện sản lượng các nông sản, thủy sản và

chăn nuôi của Quảng Nam tăng trưởng đều qua các năm nhưng tốc độ tăng

trưởng không cao, trừ ngành rau đậu. Năm 2010, sản lượng lương thực có hạt

bình quân đầu người của Quảng Nam là 328 kg/năm; trong khi bình quân cả

131 nước là 510 kg. Sản lượng thủy sản bình quân đầu người của Quảng Nam cũng

thấp so với bình quân cả nước. Năm 2010, thủy sản của Quảng Nam đạt 53,2 kg/người/năm, trong khi bình quân cả nước là 59 kg/người/năm18.

Bảng 2.20: Các nông, thủy sản chủ yếu của Quảng Nam giai đoạn 2000-

2010 Đơn vị tính: Tấn

Các nông sản

2000

2006

2007

2008

2009

2010

Sản lượng lúa

329.958

385.159

395.095

380.528

394.412

415.566

Ngô

26.494

48.276

51.176

54.074

50.142

52.700

Khoai

58.727

54.660

50.370

43.704

35.371

35.210

Sắn

115.026

191.210

199.322

199.789 195.935

196.050

Rau, đậu các loại

98.084

175.604

188.160

201.680

191.209

192.269

Mía

170.358

45.888

46.471

38.465

24.298

19.960

Thuốc lá

2.157

1.376

949

780

1.046

1.098

Chè (Búp tươi)

1.935

815

821

845

873

520

Cao su (Mủ tươi)

-

34

186

500

866

3.989

Hồ tiêu

22

208

205

252

388

410

Sản lượng thủy sản

39.871

55.578

59.598

64.841

71.648

75.941

+ Khai thác

37.050

48.996

50.556

52.643

54.836

55.875

+ Nuôi trồng

2.821

6.582

9.042

12.198

16.812

20.066

Trâu, bò (con)

229.771

312.655

321.419

309.507

289.825

290.200

Lợn (con)

474.116

587.875

578.690

586.319

578.480

590.300

Gia cầm(1000con)

3.568

3.398

3.410

3.531

3.655

3.817 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010

Nếu xem xét về ngư trường đánh cá và mặt nước nuôi trồng thủy sản thì

Quảng Nam có lợi thế không thua gì các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung; tuy nhiên, việc sản lượng nông sản của Quảng Nam những năm qua tăng

trưởng không cao có nguyên nhân từ chất lượng các nguồn lực trong sản xuất

nông nghiệp không được đầu tư đúng mức. Nhiều cánh đồng ở huyện Điện Bàn,

Duy Xuyên, Thăng Bình, Tam Kỳ ở Quảng Nam đạt 6,5 tấn/ha/vụ, cao hơn bình

quân cả nước là 5,3 tấn/ha/vụ; nhưng nhiều cánh đồng ở vùng trung du miền núi 18 Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2010.

132 chỉ đạt sản lượng thấp (từ 1,9 đến 2,5 tấn/ha/vụ); ngoài ra, mỗi năm ở Quảng

Nam còn gánh chịu nhiều cơn bão và lũ cũng như dịch bệnh, nên đã gây nhiều

tổn thất đối với sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, thu hút đầu tư để nâng cao

năng lực sản xuất cho nông nghiệp Quảng Nam vẫn còn hạn chế, năng lực đánh

bắt thủy sản của Quảng Nam còn thấp so với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm

miền Trung; năm 2010, công suất tàu đánh bắt xa bờ của Quảng Nam chỉ 41.600

CV, trong khi Quảng Ngãi là 195.700 CV, Bình Định là 265.500 CV, vượt xa về

năng lực đánh bắt so với Quảng Nam.

b. Tình hình tiêu thụ và xuất khẩu nông sản

Ngoài việc đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước, đáp ứng nhu cầu lương

thực, thực phẩm cho thành phố Đà Nẵng, các khu du lịch và các khu công

nghiệp tại vùng trọng điểm kinh tế miền Trung; đối với nông sản xuất khẩu,

những năm qua tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả sau:

Về qui mô các ngành hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của

Quảng Nam tăng liên tục qua các năm; năm 2000, kim ngạch xuất khẩu chỉ là 7

triệu USD, đến năm 2010 đã tăng lên 37,5 triệu USD, chiếm 13,6% tổng kim

ngạch xuất khẩu toàn tỉnh (chỉ chiếm 0,2% so với 19 tỷ USD xuất khẩu nông sản

của toàn quốc). Ngành hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm gỗ, mây tre, quế, hải

sản và yến sào. Những năm gần đây đã tăng thêm các ngành hàng xuất khẩu mới

như nguyên liệu giấy, tinh bột sắn, nhân hạt điều. Trong các ngành hàng thì

hàng thủy sản luôn chiếm từ 43% đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản

và tốc độ tăng bình quân đạt 20%/năm; trong khi hàng nông lâm sản chỉ tăng trưởng khoảng 5,5%/năm19 (xem bảng 2.21).

Năm 2010, bình quân xuất khẩu của tỉnh là 81USD/lao động nông nghiệp, và

giá trị xuất khẩu đạt 335 USD/ha, trong khi đó bình quân toàn quốc là 685

USD/lao động nông nghiệp và 1.706 USD/ha. So với Hà Lan là nước có nền

nông nghiệp phát triển thì mức xuất khẩu trên một đơn vị diện tích canh tác đạt 19 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

133 18.570 USD/ha (không tính hàng thuỷ sản), cao hơn hẳn Việt Nam và các nước

khác (Nguyễn Công Tạn, 2005) [79].

Bảng 2. 21: Các ngành hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của

Quảng Nam giai đoạn 2001-2010 (Đơn vị tính: 1000 USD)

2001

2005

2006

2009

2010

1. Hàng thuỷ hải sản

7,791

22,711

26,414

23,973

30,653

- Hải sản đông

2,977

16,149

10,797

11,840

21,101

2. Hàng nông sản

1,631

6,579

3,709

20,753

6,875

- Nhân hạt điều

945

3,950

1,538

2,221

908

345

647

625

522

686

- Quế Nguồn : Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010

Tính bền vững của các ngành hàng xuất khẩu. Ngoài ngành hàng thủy sản và

tinh bột sắn đang trở thành ngành hàng có nhu cầu lớn cả trong nước và quốc tế;

còn những ngành hàng như nguyên liệu giấy, gỗ, mây tre, hồ tiêu, quế và nhân

điều xuất khẩu không ổn định vì có lý do từ nguồn cung và từ thị trường. Những

năm qua, cây quế không xuất khẩu được vì thị trường Đài Loan giảm mua, nên

nông dân chặt cây quế để trồng cây keo xuất khẩu; nhưng từ năm 2007, giá

nguyên liệu giấy xuống nhanh do thị trường Nhật Bản dừng nhập khẩu nên

người trồng keo điêu đứng. Ngành gỗ, mây tre, song mây và hồ tiêu do nguồn

cung không ổn định và khối lượng cung nhỏ nên đơn hàng xuất khẩu phải qua

các trung gian. Ngành tinh bột sắn phát triển khá ổn định, nhưng công nghiệp

chế biến tinh bột sắn gây ô nhiễm môi trường nên ngành công nghiệp này đang

đối diện với chi phí tăng do tăng chi phí xử lý môi trường. Ngành hàng thủy sản

lại quá phụ thuộc vào đánh bắt (tỷ lệ đánh bắt chiếm 73,6%), đến mùa mưa bão

không đánh bắt được nên nguồn nguyên liệu cho chế biến không có, làm ảnh

hưởng đến tính bền vững của xuất khẩu thủy sản.

Các đơn vị tham gia xuất khẩu và thị trường xuất khẩu. Hiện tại Quảng Nam

có 56 đơn vị tham gia xuất khẩu. Không kể các hợp tác xã, các doanh nghiệp tư

134 nhân trong và ngoài tỉnh tham gia thu mua nông sản xuất khẩu như Công ty

Vijachip Đà Nẵng thu mua hầu hết nguyên liệu giấy tại Quảng Nam để xuất

khẩu đi Nhật Bản qua cảng Đà Nẵng; còn lại 10 công ty tại Quảng Nam tham

gia xuất khẩu các ngành hàng nông sản và thủy sản, nhưng chủ yếu vẫn tập

trung ở Công ty Xuất Nhập Khẩu Quảng Nam, Công ty TNHH Đông An, Công

ty TNHH Đông Phương. Về thị trường, ngoài thị trường khu vực Đông Nam Á

như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan,… các

hàng nông sản của Quảng Nam đã xâm nhập vào các thị trường Bắc Mỹ và EU

trong những năm gần đây. Tuy nhiên, do qui mô và khả năng xúc tiến mở rộng

thị trường còn hạn chế; các hàng xuất khẩu trực tiếp tại địa phương chỉ chiếm 42%20, còn lại do các đơn vị ngoài tỉnh thực hiện.

c. Hiệu quả kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển nông nghiệp của

tỉnh Quảng Nam

Những năm qua, kết quả sử dụng đất đai, lao động và vốn của nông nghiệp

Quảng Nam như sau: 1) Hiệu quả sử dụng đất đai tại Quảng Nam còn thấp, vì

giá trị sản phẩm bình quân thu được của ngành trồng trọt và nuôi trồng thủy sản

tại Quảng Nam chỉ đạt 38,5 triệu đồng/ha (năm 2010), thấp so với trung bình

toàn quốc là 43,6 triệu đồng/ha. 2) Hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp cũng

rất thấp; năm 2010, năng suất lao động xã hội nông nghiệp Quảng Nam đạt 11,2

triệu đồng/lao động nông nghiệp, so với cả nước là 17,4 triệu đồng/lao động

nông nghiệp, chỉ bằng 0,65 lần. 3) Kết quả đầu tư vào nông nghiệp tại Quảng

Nam những năm qua biểu hiện không có hiệu quả (xem hình 2.3); từ năm 2001

đến 2007, tốc độ tăng đầu tư vào nông nghiệp nhanh hơn tốc độ tăng GDP nông

nghiệp; điều này thể hiện vốn đầu tư vào nông nghiệp Quảng Nam đã không

đem lại những thay đổi cơ cấu sản xuất tiến bộ, chuyển đổi kinh tế nông thôn

chậm và không nâng cao được năng suất lao động trong nông nghiệp. Tuy nhiên,

kể từ năm 2008 đến 2010, tốc độ tăng GDP nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam và 20 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.

135 cả nước nhanh hơn tốc độ đầu tư, điều này có liên quan đến biến động giá nông

i

) 6 9 9 1 c ố g m ă n i

p ệ h g n g n ô n ố s n â d , n ố v , g n ợ ư

ớ v o s n ê l g n ă t n ầ l ố s (

l n ả S

sản trên thế giới tăng cao.

Hình 2.3: Chiều hướng tăng trưởng sản lượng, vốn đầu tư của Quảng Nam

và cả nước giai đoạn 1996-2010

Hội nhập kinh tế thấp hơn so với bình quân cả nước, cũng là nguyên nhân

làm cho nông nghiệp Quảng Nam luôn đạt hiệu quả kinh tế thấp hơn: 1) Mức độ

tham gia xuất khẩu nông sản thấp; năm 2010, bình quân xuất khẩu nông sản của

tỉnh Quảng Nam chỉ đạt 81 USD/lao động nông nghiệp và 335 USD/ha; trong

khi, bình quân xuất khẩu nông sản toàn quốc là 685 USD/lao động nông nghiệp

và 1.706 USD/ha. 2) Hội nhập thấp làm cho giá bán nông sản Quảng Nam nói

riêng và duyên hải miền Trung nói chung luôn thấp hơn so với các tỉnh Đồng

bằng Sông Cứu Long và Sông Hồng; đặc biệt chênh lệch giá lúa giữa miền

Trung và các tỉnh vựa lúa hai đầu luôn ở mức từ 500 đồng/kg thóc đến 1.200

đồng/kg thóc (bảng 2.22). Chi phí cao vì điều kiện tự nhiên không thuận lợi,

nhưng giá bán thấp hơn, nên lợi nhuận từ sản xuất lúa ở miền Trung và Quảng

136 Nam chỉ là 9,0%, trong khi tỉnh Bạc Liêu có lợi nhuận 86,6% và tỉnh Thái Bình

là 24,9%.

Bảng 2.22: Chi phí, giá bán và lợi nhuận của 1 kg thóc tại các vùng trong cả

nước

Đơn vị tính Quảng Nam

Bạc Liêu

Thái Bình

Chi phí 1 kg thóc

Đồng

3670

2.263

3.949

Giá bán 1 kg thóc

Đồng

4000

4.223

4.365

Lãi 1 kg thóc

Đồng

330

1.960

871

%

9,0%

86,6%

24,9%

Tỷ lệ lợi nhuận/chi phí

Nguồn: Báo cáo Thường niên lúa gạo Việt Nam năm 2009 và triển vọng năm 2010,

2009, tr. 20 [11], và số liệu của Quảng Nam do tác giả khảo sát tại xã Tam Phước,

huyện Phú Ninh tháng 3/2010.

Những năm qua, theo số liệu điều tra thu nhập của Cục thống kê Quảng

Nam, thu nhập của các hộ dân tại khu vực nông thôn đã tăng từ 1,09 triệu đồng/

người vào năm 1997, lên 3,54 triệu đồng/người vào năm 2008. Tuy nhiên, sự gia

tăng thu nhập trên chưa làm cho các hộ dân ở nông thôn khá lên mà chỉ cho thấy

họ đang trở nên nghèo tương đối so với người dân ở thành thị. Từ năm 1997 đến

2008, thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh tăng 5,4 lần, trong đó khu vực

nông thôn thu nhập chỉ tăng 3,24 lần. Kết quả sau 12 năm, dãn cách về thu nhập

giữa nông thôn và thành thị ngày càng dãn ra; năm 1997, dãn cách thu nhập giữa

nông thôn so với trung bình toàn tỉnh là 1,98 lần, thì đến năm 2008 đã tăng lên

3,3 lần.

Cũng theo kết quả khảo sát, thu nhập bình quân của nhóm hộ giàu nhất với

nhóm hộ nghèo nhất năm 2002 là 4,80 lần; năm 2004 là 5,44 lần; năm 2006 là

5,69 lần và năm 2008 là 5,73 lần. Như vậy từ năm 2002 đến năm 2008 mức tăng

sự phân hoá giàu nghèo của tỉnh tăng 19,4% (Cục Thống Kê Quảng Nam, 2010,

tr. 35) [17].

137

Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, trong 5 năm từ 2004 đến 2009, tỉnh

Quảng Nam có 28.155 lao động đi làm việc tại các thành phố lớn thì có đến

20.903 lao động tại nông thôn, chiếm 74,2% . Chỉ riêng xã Điện Quang có 5.500 lao động nông nghiệp thì có đến 1.000 thanh niên (chiếm 18,2%21) đi làm việc

tại thành phố Hồ Chí Minh. Những hộ gia đình có người rời bỏ nông nghiệp đi

làm xa có thu nhập rất cao so với những hộ chỉ sống bằng nông nghiệp tại địa

phương.

Qua đó cho thấy rằng, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm trong khi việc

dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác không nhanh nên thu

nhập tại nông thôn thấp hơn bình quân cả nước. Nếu không đa dạng hóa ngành

nghề tại nông thôn, nhất là việc chuyển đổi cây trồng vật nuôi đem lại giá trị

kinh tế cao và phát triển các làng nghề nhằm tăng thời gian lao động tại nông

thôn, tăng thu nhập, thì nông hộ Quảng Nam rất khó nâng cao được thu nhập. Vì

vậy mà tỷ lệ hộ nghèo ở Quảng Nam (năm 2010 là 19,65%) luôn cao hơn so với

trung bình cả nước (năm 2009 là 12,3%). Số hộ nghèo năm 2000 so năm 1996

giảm 26.068 hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27% xuống còn 16,84%, bình quân mỗi

năm giảm được 2,55%. Năm 2005 so với năm 2000 đã giảm 36.918 hộ, tỷ lệ hộ

nghèo từ 23,27% giảm còn 10,94%, bình quân mỗi năm giảm 3,1%. Như vậy: ở

giai đoạn 2001-2005 tốc độ giảm hộ nghèo tương đối nhanh so với giai đoạn

1996-2000. Năm 2006-2007, tỷ hộ nghèo toàn tỉnh là 26,7% theo chuẩn mới;

đến năm 2009, toàn tỉnh còn 71.479 hộ nghèo/363.575 hộ dân, chiếm tỷ lệ

19,6%, giảm 3,6% so với năm 2008, tương đương giảm 10.727 hộ (UBND tỉnh

Quảng Nam, 2009, tr. 8) [3]. Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn 17% vẫn còn rất cao

so với toàn quốc (10,6%). Trong khi đó, vùng núi và vùng các dân tộc thiểu số

chiếm tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao từ 50% đến 70%.

Có thể kết luận rằng, hiệu quả kinh tế, xã hội của nền nông nghiệp Quảng

Nam những năm qua đạt chưa cao. Khi phân tích các nội dung về tăng trưởng 21 Khảo sát thực tế của tác giả tại xã Điện Quang tháng 3 năm 2010.

138 nông nghiệp, phát triển xã hội nông thôn, hội nhập thị trường nông sản xuất

khẩu, vấn đề đổi mới chính sách nông nghiệp nông thôn trong quá trình hội nhập

cho thấy tỉnh Quảng Nam luôn đạt ở mức thấp so với trung bình cả nước, một

số tỉnh tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và một số địa phương trong cả

nước.

Việc xác định những nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong phát

triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua là cần thiết nhằm tìm ra các

giải pháp để khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển nông nghiệp

của tỉnh Quảng Nam khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế

toàn cầu.

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM THỜI GIAN QUA

Những thành quả của nông nghiệp Quảng Nam những năm qua so với 81,2%

dân số nông thôn sống chủ yếu bằng nông nghiệp quả thật là khiêm tốn. Nguồn

lao động dồi dào, thời tiết thuận lợi, tài nguyên nước, hải sản, đất đai, rừng

phong phú và đa dạng. Nhưng sản lượng hàng hóa vẫn tăng trưởng chậm; cơ cấu

kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm; ngành hàng

nông sản phát triển không ổn định, khả năng hội nhập nông sản thấp; thu nhập

GDP đầu người tăng chậm và tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn ở mức cao so với cả nước

và các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tất cả những hạn chế trên đã

làm làm nền nông nghiệp Quảng Nam không đạt được hiệu quả kinh tế xã hội

cao.

Những hạn chế trong quá trình phát triển của nông nghiệp Quảng Nam được

đánh giá như trên, chính là do các nguyên nhân cơ bản sau.

2.3.1. Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên

Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển nông

nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua chủ yếu là do yếu tố thời tiết bất lợi và

dịch bệnh trong chăn nuôi.

139

a. Những biến động thất thường của thời tiết

Các thiên tai xảy ra hàng năm tại Quảng Nam làm ngành nông nghiệp, thủy

lợi, và giao thông nông thôn luôn bị tổn thất từ 50% đến 70% (xem bảng 2.23).

Bảng 2.23: Tỷ lệ thiệt hại của ngành nông nghiệp, thủy lợi và giao thông

Năm 2000

Năm 2003

Năm 2005

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

139

132

121

1600

155

3600

Tổng thiệt hại (Tỷ đồng)

30

31

Nông lâm thủy sản (%)

40

6

43

41

Thủy lợi (%) Giao thông (%)

22 24

14 22

25 4

12 14

4 10

17 8 Nguồn: Báo cáo của Ban phòng chống lụt bão của tỉnh Quảng Nam năm 2010

nông thôn do lũ lụt qua các năm

Thời tiết bất lợi thường xảy ra hàng năm ở Quảng Nam gồm bão, lũ lụt, gió

mùa đông bắc, và gió tây nam khô nóng, ngoài ra có các hiện tượng bất lợi xảy

ra trong thời gian ngắn như dông, gió lốc và mưa đá. Tần suất xuất hiện các hiện

tượng thời tiết bất lợi tại Quảng Nam thấp hơn các tỉnh phía Bắc, tuy nhiên vẫn

có những “trận lũ lịch sử” như năm Thìn (1964), năm 1998, hoặc cơn bảo số 6

năm 2006 gây thiệt hại rất lớn về sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam. Một

điều nguy hiểm là tốc độ truyền lũ ngày càng nhanh hơn nên sức tàn phá của các

cơn lũ cũng khốc liệt hơn, điều này xuất phát từ nạn đào đãi vàng và phá rừng

xảy ra phổ biến tại các rừng ở Quảng Nam. Riêng vào mùa nóng, Quảng Nam

hay xuất hiện dông sét, mưa đá và gió lốc gây tổn thất rất nhiều cho mùa màng,

nhất là tại các huyện Đại Lộc, Nông Sơn, Phước Sơn, Trà My, được xem là nơi

có mật độ dông sét lớn nhất Quảng Nam và cả nước (Đinh Phùng Bảo, 2001, tr.

69) [12].

Năm 2007, xảy ra 04 đợt lũ liên tiếp trong vòng một tháng đã gây rất nhiều tổn

thất người và tài sản của các vùng nông thôn phía hạ lưu. Có 42 người chết, 165

người bị thương qua các đợt lũ. Hơn 200.000 nhà dân, trường học, bệnh xá, cơ

quan và địa phương bị cô lập dài ngày, nhất là khu vực miền núi và ven sông Thu

140 Bồn, Vu Gia. 9.600 ngôi nhà, phòng học và trạm y tế bị xiêu vẹo, sập đổ và cuốn

trôi. 25.000 tấn lương thực hư hỏng và cuối trôi; 5.000 ha màu, 500.000 cây lâm

nghiệp bị hư hỏng. 5.000 ha ruộng bị bồi đắp, sạt lở; 50 tàu cá bị chìm, trôi mất

tích. 5.000 mét kè, kênh mương bị sạt lở, hư hại; nhiều công trình thủy lợi quan

trọng như đập Đại Cường, hồ chứa nước Trà Cân bị hư hại nặng. Tổng thiệt hại

vật chất của các đợt lũ trên 1.600 tỷ đồng. Riêng năm 2009, bão lũ gây thiệt hại

lên đến 3.600 tỷ đồng (UBND tỉnh Quảng Nam, 2009, tr 8) [3].

b. Dịch bệnh trong chăn nuôi

Do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm từ đầu năm 2004 và quí I năm 2005 nên

tính đến 1/7/2006 đàn gia cầm chỉ bằng mức năm 1999 và giảm 16,9% so với

năm 2003, là năm trước khi dịch cúm xảy ra (Cục thống kê Quảng Nam, 2010)

[17]. Không chỉ dịch bệnh của gia súc như bệnh lỡ mồm long móng, bệnh dịch

tai xanh ở lợn; dịch cúm ở gia cầm; những năm vừa qua, bệnh dịch ở tôm cũng

gây rất nhiều tổn thất cho các trang trại nuôi trồng thủy sản ở Quảng Nam.

Thời tiết và dịch bệnh đã gây ra nhiều tổn thất cho sản xuất nông nghiệp. Tuy

nhiên, nhờ vào việc điều chỉnh mùa vụ mà tổn thất do thời tiết bất lợi gây ra cho

cây trồng không đáng kể; trái lại, các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, con tôm

đã làm cho ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản có ảnh hưởng rất lớn đến sự

phát triển nông nghiệp và đến thu nhập của nông dân. Nếu việc thực hiện qui

trình chăn nuôi tốt (VietGAP) đúng đắn và tuân thủ đầy đủ qui trình phòng ngừa

dịch bệnh thì có lẽ ngành chăn nuôi của Quảng Nam không phải chịu nhiều tổn

thất như những năm vừa qua. Đây cũng là bài học để hệ thống thú y, khuyến

nông, khuyến ngư của Quảng Nam hoạt động hiệu quả hơn vào những năm đến.

Bên cạnh đó, hệ thống bảo hiểm cây trồng, vật nuôi chưa được các công ty bảo

hiểm tham gia vì hoạt động bảo hiểm trong nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro,

trong khi chi phí nghiệp vụ bảo hiểm tăng cao. Tất cả những tổn thất từ thiên tai

và dịch bệnh nhưng không được bù đắp để duy trì khả năng sản xuất ổn định đã

141 là những nguyên nhân đóng góp vào sự kém phát triển nông nghiệp của tỉnh

Quảng Nam những năm qua.

2.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực

trong sản xuất nông nghiệp

Nguồn lực gắn liền với sản xuất nông nghiệp bao gồm đất đai, lao động, vốn,

khoa học công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Đất đai không đổi, nhưng dân số

gia tăng, trong khi những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất không thay đổi sẽ đưa

đến qui luật năng suất giảm dần xảy ra. Khi nói đến sự đóng góp của các nguồn

lực tạo ra sự tăng trưởng, mô hình số dư Solow được áp dụng tính cho sự tăng

trưởng chung của nền kinh tế và của khu vực nông nghiệp tại Quảng Nam giai

đoạn 1997-2010 thể hiện qua bảng 2.24.

Bảng 2.24: Tỷ trọng đóng góp của lao động, vốn và TFP vào tăng trưởng của nông nghiệp Quảng Nam và cả nước giai đoạn 1997-2010 22

Lao động

Vốn

TFP

%GDP

44,95%

23,2%

31,8%

3,80%

Nông nghiệp cả nước

67,3%

23,8%

8,9%

2,45%

Nông nghiệp Quảng Nam

Nó cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế và của nông nghiệp

tỉnh Quảng Nam chủ yếu do sự đóng góp của lao động, còn đóng góp của tiến

bộ khoa học công nghệ áp dụng vào sản xuất còn rất nhỏ bé. Giai đoạn này,

đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp do vốn là 23,8%, lao động là 67,3% và

tổng năng suất các yếu tố chỉ là 8,92%; so với nông nghiệp cả nước, đóng góp

của vốn là 23,2%, còn lao động là 44,95% và tổng năng suất các yếu tố có khá

hơn 31,8%.

Như vậy, không chỉ nền kinh tế, mà khu vực nông nghiệp tỉnh Quảng Nam

còn rất lạc hậu, vấn đề số lượng và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất

22 Xem phụ lục 1

nông nghiệp cần phải được nâng cao hơn nữa. Hầu như các đầu tư của Nhà nước

142 cho nông nghiệp chủ yếu tập trung vào xây dựng, bảo dưỡng, sửa chữa các công

trình thủy lợi; đặc biệt ngân sách các cấp đầu tư trực tiếp cho công tác khuyến

nông, khoa học công nghệ, hỗ trợ sản xuất trong những năm qua tăng không

đáng kể. Việc đầu tư thấp đã làm tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp chậm

so với các ngành khác của nền kinh tế (UBND tỉnh Quảng Nam, 2009) [3].

Chất lượng lao động trong nông nghiệp còn thấp và đa số lao động lớn tuổi vì

đa số thanh niên đến tuổi lao động rời quê tìm việc tại các thành phố. Hầu hết

lao động tại nông thôn chưa qua đào tạo chiếm 91,1%; các chủ trang trại, nông

dân sản xuất giỏi có trình độ văn hóa thấp và chưa qua các lớp đào tạo về quản

lý, kỹ thuật; bên cạnh đó, thời gian lao động cũng chỉ đạt 79,08% thời gian trong

năm (Cục thống kê Quảng Nam, 2010) [17].

Đầu tư của các hộ nông dân Quảng Nam cho máy kéo, phương tiện vận

chuyển, máy sấy nông sản, máy chế biến thức ăn gia súc đạt mức thấp so với cả

nước và các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Nếu so sánh giữa các khu vực

trong tỉnh Quảng Nam thì trình độ cơ khí hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học

công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn rất khác nhau. Các huyện, thị cánh

Bắc (Điện Bàn, Hội An, Đại Lộc, Duy Xuyên…) có số máy kéo lớn đạt 3,05

chiếc/100 ha, máy kéo nhỏ đạt 4,08 chiếc/100 ha; còn các huyện cánh Nam

(Thăng Bình, Núi Thành, Phú Ninh, Quế Sơn…) chỉ đạt: máy kéo lớn 0,96

chiếc/100ha, máy kéo nhỏ 1,48 chiếc/100 ha; các huyện miền núi thì số lượng

máy móc phục vụ trong nông nghiệp còn ít và không đáng kể (Sở Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn, 2008, tr. 3) [5].

Năng lực liên kết kinh tế “thấp” của các đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản

tại Quảng Nam đã làm cho năng lực cạnh tranh của các đơn vị sản xuất và tiêu

thụ luôn ở thứ hạng thấp nên nông nghiệp Quảng Nam khó phát triển nhanh.

Giá trị sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam chủ yếu dựa vào các nông

hộ. Qua phân tích cho thấy các nông hộ và các trang trại tại Quảng Nam chủ yếu

sử dụng lao động thủ công, trình độ áp dụng thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học

143 hóa, sinh học hóa, điện khí hóa và tự động hóa luôn ở mức thấp. Bên cạnh đó

chưa có mối liên kết ngang trong sản xuất nên chưa tạo nên các vùng sản xuất

chuyên canh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công nghiệp chế biến không phát

triển làm cho đầu ra của nông sản không ổn định, lúc được mùa thì rớt giá, sản

xuất và tiêu thụ nông sản luôn trong tình trạng bấp bênh. Để tiêu thụ nông sản,

nông dân tại Quảng Nam dựa vào thu gom cá nhân là chủ yếu. Cam kết tiêu thụ

sản phẩm với thương lái chủ yếu là cam kết miệng, khi thị trường biến động thì

Thương lái

Nông dân

Giá xuất đi Trung Quốc - Cao nhất: 12000 đ/kg - Thấp nhất: 5000 đ/kg

Giá bán dưa hấu - Cao nhất: 3000 đ/kg - Thấp nhất: 800 đ/kg

Giá thương lái - Cao nhất: 7000 đ/kg - Thấp nhất: 1600 đ/kg

Giá tiêu dùng trong nước -Tại Metro: 7800 đ/kg - Tại chợ + Cao nhất: 8000 đ/kg + Thấp nhất: 4000 đ/kg

người chịu rủi ro chính là nông dân.

Hình 2.4: Chuỗi tiêu thụ dưa hấu vụ mùa 2010 tại Quảng Nam23

Hình 2.4 là chuỗi tiêu thụ dưa hấu của vụ mùa năm 2010 tại Quảng Nam. Chi

phí sản xuất dưa của nông dân khoảng 1200 đồng/kg. Khi được giá thì giá bán là

3000 đồng/kg, và thương lái giao hàng thường gấp đôi khi mua tại ruộng của

nông dân. Nhưng khi mất giá chỉ bán được 800 đồng/kg và thương lái cũng

được gấp đôi. Trong khi đó giá tại siêu thị Metro hầu như ít thay đổi giá, còn giá

tại các chợ Đà Nẵng và xuất khẩu đi Trung Quốc biến động theo giá vụ mùa và

phụ thuộc vào tình hình nhập hàng qua cửa khẩu Trung Quốc.

Việc không kiểm soát được giá đầu ra vì nông dân không liên kết lại để đáp

ứng các đơn hàng cho những nhà bán lẻ lớn như Metro mà chỉ sản xuất đơn lẻ

23 Khảo sát của tác giả vào tháng 4/2010 tại Tam Phước, Phú Ninh; siêu thị Metro; và tại Đà Nẵng.

và tiêu thụ qua thương lái là chủ yếu.

144

Như vậy, việc không nâng cao được khả năng cạnh tranh của các đơn vị sản

xuất và tiêu thụ nông sản tại Quảng Nam có nguyên nhân từ qui mô nhỏ lẻ và

phân tán của các đơn vị này. Nhưng theo kinh nghiệm của các trang trại nhỏ tại

Hà Lan, nếu biết liên kết ngang và tổ chức sản xuất chuyên môn hóa thì khả

năng nâng cao năng lực cạnh tranh của các nông hộ và trang trại nhỏ tại Quảng

Nam là khả thi. Hiện tại, có những mô hình liên kết làm nâng cao khả năng cạnh

tranh của cả đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản như các nông dân tại làng rau

Trà Quế thông qua hợp tác xã Cẩm Hà ký hợp đồng cung ứng rau cho các siêu

thị Big C và Metro; hoặc nông dân tại xã Điện Quang trồng ớt xuất khẩu thông

qua hợp đồng giữa Hợp tác xã Điện Quang với đối tác nước ngoài; hoặc các

HTX Điện Minh 2, Điện An 2, Điện An 3, Điện Hồng, Điện Phước liên kết cùng

nông hộ sản xuất lúa giống, ngô giống để cung ứng thị trường trong và ngoài

tỉnh, giá của lúa giống, ngô giống gấp 1,5 đến 2 lần so với giá lúa thịt thương

phẩm; và để bảo vệ quyền lợi của HTX nông nghiệp sản xuất kinh doanh giống,

các HTX ở huyện Điện Bàn đã liên kết thành lập Hiệp hội sản xuất kinh doanh

giống cây trồng huyện Điện Bàn. Đây là những mô hình liên kết hiệu quả cần

nhân rộng cho các ngành hàng khác trên qui mô toàn tỉnh.

Tóm lại, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam chưa

được khai thác hiệu quả vì kỹ thuật, phương tiện canh tác còn lạc hậu, liên kết

kinh tế không hiệu quả; không chỉ trong khu vực nông nghiệp mà phần còn lại

của nền kinh tế Quảng Nam đều nằm trong tình trạng trên. Chính vì vậy, việc

tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tại Quảng Nam cần phải có

giải pháp phù hợp; không chỉ đẩy mạnh đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học

công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, mà tiến hành đồng thời với việc rút

nhanh chóng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị

trường, thúc đẩy các mối liên kết kinh tế để từng bước nâng cao trình độ phát

triển và sử dụng các nguồn lực của các đơn vị sản xuất nông nghiệp tại Quảng

Nam trong những năm đến.

145

2.3.3. Những nguyên nhân do công tác quản lý trong nông nghiệp

a. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp còn hạn chế

Về đầu tư, kể từ khi chia tách, tỉnh Quảng Nam dồn sức từ mọi nguồn đầu tư

để phát triển công nghiệp. Hình 2.5 thể hiện mức đầu tư trên mỗi lao động giai

đoạn 1996-2010; năm 1996, mức đầu tư cho mỗi lao động nông nghiệp là 0,26

triệu đồng, còn lao động ngành công nghiệp và dịch vụ là 2,75 triệu đồng, gấp

10,4 lần so với lao động nông nghiệp; năm 2010, mức đầu tư cho mỗi lao động

Triệu đồng

Mức đầu tư/Lao động CN &DV

0.923

Mức đầu tư/Lao động nông nghiệp

nông nghiệp là 0,92 triệu đồng, còn lao động ngành công nghiệp và dịch vụ là 35,164 triệu đồng, gấp 38,124 lần so với lao động nông nghiệp.

Hình 2.5: Mức đầu tư mỗi lao động của các ngành giai đoạn 1996-2010 tại

Quảng Nam

Nguồn lực đầu tư của tỉnh Quảng Nam những năm qua, chủ yếu đầu tư vào 4

khu công nghiệp tại Tam Hiệp, Chu Lai, Thuận Yên và Điện Nam-Điện Ngọc

với 1013 ha; ngoài ra tại các huyện, tỉnh qui hoạch 87 cụm công nghiệp với diện tích 3124 ha25. Chủ trương xây dựng nhiều cụm công nghiệp nhằm phát triển

công nghiệp địa phương và giải quyết lao động dư thừa tại nông thôn là phù 24 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010. 25 Xem phụ lục 7

146 hợp. Tuy nhiên, chính sách phát triển công nghiệp chế biến gắn với tiêu thụ

nông sản bằng cách triển khai các dự án mía đường, dứa cô đặc, phát triển điều

nhân xuất khẩu đã không thành công vì điều kiện đất đai khí hậu chưa phù hợp

nên năng suất cây trồng không đạt như dự kiến và nhất là cách thức triển khai

quản lý đầu tư có nhiều khe hở làm thất thoát vốn đầu tư. Kết quả các dự án sau

một thời gian hoạt động càng thêm gánh nặng nợ nần do chi phí cao hơn giá

bán, cuối cùng phải tuyên bố phá sản là điều tất yếu.

Có rất nhiều chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân tại

Quảng Nam chưa thành công được các cơ quan quản lý và cả nông dân đánh giá.

Ngay cả sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thì các chính sách hỗ trợ nông dân

hội nhập thị trường xuất khẩu nông sản vẫn chưa được các cấp quản lý cập nhật

và điều chỉnh kịp thời. Nhiều địa phương như nông dân xã Tam Phước huyện

Phú Ninh, hoặc nông dân và hợp tác xã Điện Quang huyện Điện Bàn phải tự

xoay xở và tìm kiếm đối tác để xuất khẩu nông sản. Nhưng các liên kết kinh tế

giữa nông dân và các đối tác thường tính pháp lý không cao và mọi tổn thất từ

rủi ro do biến động giá hoặc lừa đảo đều rơi vào người nông dân. Bên cạnh đó

chính sách công nghiệp hóa gắn liền với phát triển nông nghiệp chưa đặt thành

trọng tâm khi thu hút vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Nên thời gian

qua, chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đã không thể thực

hiện được và ngành nông nghiệp tại Quảng Nam chỉ đạt mức tăng trưởng thấp

so với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và so với cả nước.

b. Việc thu hồi đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp

và sinh kế của hộ nông dân

Do nhu cầu đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp và thực hiện các công

trình thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn, Quảng Nam thu hồi rất

nhiều đất sản xuất nông nghiệp: 1) Do nhu cầu đô thị hóa, từ năm 2004 đến năm

2010, tỉnh Quảng Nam thu hồi 5.514,5 ha đất sản xuất nông nghiệp (Sở Tài

nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam, 2006, tr. 78) [2]. 2) Do nhu cầu phát

147 triển 4 khu công nghiệp và 87 cụm công nghiệp tại các huyện, đất nông nghiệp

bị thu hồi là 4.136,5 ha (UBND tỉnh Quảng Nam, 2003, 42) [23]. 3) Do nhu cầu

phát triển 55 công trình thủy điện trên hệ thống lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn,

sẽ thu hồi trên 10.000 ha đất sản xuất nông nghiệp và ruộng lúa nước của đồng

bào các dân tộc sống dọc các sông suối và di chuyển trên 14.000 nhân khẩu ra

khỏi vùng lòng hồ thủy điện (Đoàn Tranh, 2009, tr. 52) [84].

Việc tiến hành đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp tại các vùng

nông thôn sẽ tạo nhiều điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và thu hút lao

động nông nghiệp sang các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ. Đây là chính

sách đúng và phù hợp để xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm

2020. Tuy nhiên, cách thức triển khai trong thực tế không làm chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp Quảng Nam theo hướng hiện đại; các nhà

máy chế biến nông sản không phát triển hoặc có xây dựng nhưng bị phá sản hay

hoạt động không hiệu quả; lao động nông nghiệp vẫn không chuyển đổi nghề

nghiệp dù đất đai đã mất cho các khu công nghiệp và khu đô thị. Điển hình là

khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc ra đời từ năm 1995 và sau đó hình

thành nên khu đô thị Điện Nam – Điện Ngọc; dân số nông nghiệp chiếm 80,95%

trong tổng dân số. Sau khi giải tỏa và thu hồi đất nông nghiệp, 43,17% trong

tổng số hộ thuộc diện giải tỏa đã mất dần khả năng tự tạo việc làm bằng nông

nghiệp và để bù đắp sự tổn thất này, các lao động nông nghiệp được hỗ trợ một

lần từ 4 triệu đến 6 triệu đồng để tự chuyển đổi nghề nghiệp. Dù có nhiều chính

sách từ chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện về bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc

làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư đối với nông dân bị thu hồi

đất... nhưng trên thực tế 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau

khi bị thu hồi đất, 13% chuyển sang nghề mới và có tới 15 - 20% không có việc

làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định (Phạm Nguyễn Thu Giang, 2009, tr.

38) [27].

148

Phát triển thủy điện sẽ làm mất đất sản xuất nông nghiệp và đi kèm với nó là

phải chuyển một số rừng phòng hộ sang cấp đất sản xuất cho các hộ tái định cư.

Như thủy điện Sông Tranh 2 đã thu hồi 2127 ha đất sản xuất nông nghiệp màu

mỡ nhất và di chuyển 1.047 hộ, tương ứng 5.379 nhân khẩu tái định cư đến các

vùng cao hơn; và phải qui hoạch lại 2000 ha đất rừng phòng hộ để cấp đất sản

xuất cho các hộ dân (Công ty CP Tư vấn và Phát triển Kỹ thuật Tài nguyên

Nước, 2006, tr. 15) [66]. Việc chuyển đất rừng thành đất sản xuất sẽ rất khó khăn cho sản xuất nông nghiệp vì đất đai tại các vùng này rất dốc (thường từ 80 đến 250) nên sẽ bị rửa trôi lớn và độ mầu mỡ của đất đai sẽ giảm nhanh. Để khắc

phục những tác động từ các công trình thủy điện, tỉnh Quảng Nam phải dành

khoản kinh phí 359,7 tỷ đồng từ nay đến năm 2015 để ổn định sản xuất và đời

sống của các hộ dân tái định cư tại các huyện có công trình thủy điện (Sở Kế

hoạch và Đầu tư Quảng Nam, 2008) [65].

Ngoài việc phải dành ngân sách cho việc khắc phục tái định cư tại các công

trình thủy điện; việc triển khai quá nhiều công trình thủy điện sẽ gây ra thiếu

nước tưới và xâm nhập mặn về mùa khô, và sẽ gây ra lũ lụt về mùa mưa tại các

vùng hạ lưu tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm thủy văn tại Quảng Nam, 55% lượng

mưa cả năm tập trung vào tháng 10, 11 và 12; nên vào mùa này các nhà máy

thủy điện sẽ tập trung xả nước, trong khi 9 tháng còn lại, các nhà máy thủy điện

sẽ lo tích nước mới có nước sản xuất điện. Điều này sẽ gây lũ vào mùa mưa làm

ảnh hưởng đến đời sống của các cư dân ở các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy

Xuyên; trái lại, vào mùa khô sẽ gây nhiễm mặn sâu hơn về thượng lưu của sông

Vu Gia – Thu Bồn làm ảnh hưởng đến nước tưới cho sản xuất nông nghiệp và

nước sinh hoạt cho các huyện đồng bằng và ven biển.

Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp nhưng không chuyển đổi được sinh kế

của các hộ nông nghiệp, không làm chuyển dịch kinh tế nông thôn và nhất là

không làm gia tăng sản xuất nông sản hàng hóa, không thu hút lao động nông

nghiệp sang các ngành khác thì đời sống của các hộ dân tại các vùng bị thu hồi

149 đất nông nghiệp sẽ đối diện với nghèo đói. Tất cả những điều này sẽ ảnh hưởng

đến quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam cả trong hiện tại và

tương lai.

d. Năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp tại

địa phương

Khi xét về việc triển khai các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và

nông dân tại tỉnh Quảng Nam, đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện qui trình chính

sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam” của tác giả Nguyễn

Cảnh (2010) [13] cho thấy việc thực hiện các chính sách về phát triển nông

nghiệp chưa thành công nên đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển nông nghiệp

của tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua.

Trong bảng 2.25 thể hiện kết quả khảo sát 21 chính sách chủ yếu về nông

nghiệp nông thôn hiện được triển khai tại Quảng Nam; trong đó, có 8 chính sách

đối với nông nghiệp, 8 chính sách đối với nông thôn và 5 chính sách đối với

nông dân. Khi được hỏi về sự thành công của các chính sách đối với nông

nghiệp, thì chính sách chuyển đổi cây trồng vật, nuôi cho kết quả 33,5% số hộ

đồng ý, cho vay vốn sản xuất 11,8%, còn lại các chính sách khác dưới 6,5%.

Chính sách đối với nông thôn, chỉ có chính sách xây dựng hạ tầng nông thôn

(đường bê tông, điện, trường học,...) đạt 26,7% số hộ cho là thành công; còn lại

các chính sách khác dưới 6,5%, chính sách khôi phục làng nghề truyền thống là

0%, xem như không thành công. Chính sách đối với nông dân, thì chính sách

xóa đói giảm nghèo đạt 12,6%, còn lại các chính sách khác bằng hoặc dưới 4%.

Qua đánh giá mức độ thành công của các chính sách cho thấy những năm qua,

tỉnh Quảng Nam triển khai các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và

nông dân chỉ đạt mức dưới trung bình. Sự không thành công của các chính sách

bắt nguồn từ đâu? Các khảo sát sâu hơn dưới đây sẽ làm sáng tỏ một phần câu

hỏi trên.

150 Bảng 2.25: Đánh giá việc thực hiện các chính sách nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam26

Các chính sách

Đánh giá mức độ thành công

A. NÔNG NGHIỆP

1 Dồn điền đổi thửa 2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi 3 Cho vay vốn sản xuất 4 Miễn thủy lợi phí 5 Kinh tế vườn, KT tập thể, cải tạo vườn tạp 6 Tiêu thụ sản phẩm 7 Nuôi trồng thủy sản 8 Phòng chống dịch bệnh, thiên tai

6,1% 33,5% 11,8% 1,4% 5,4% 0,4% 0,1% 3,0%

B. NÔNG THÔN Xây dựng hạ tầng nông thôn (đường bê tông, điện, trường học,…)

9

10 Kiên cố hóa kênh mương 11 Đầu tư nông nghiệp, nông thôn 12 Đất đai, giao đất giao rừng 13 Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch 14 Khôi phục làng nghề truyền thống 15 Giải quyết việc làm 16 Bảo vệ môi trường nông thôn

C. NÔNG DÂN 17 Xóa đói giảm nghèo 18 Chăm sóc sức khỏe dân cư 19 Quan tâm xã đặc biệt khó khăn, bãi ngang 20 Hỗ trợ người cao tuổi 21 Cho vay vốn học sinh, sinh viên

26,7% 6,3% 0,8% 2,8% 2,0% 0,0% 0,1% 1,3% 12,6% 0,4% 1,8% 0,9% 4,0%

Xã Tam Phước huyện Phú Ninh được xem là xã thực hiện chuyển đổi cây

trồng khá thành công; hầu như hai phần ba đất sản xuất lúa tại xã đã chuyển

sang trồng các loại dưa và rau đậu đem lại thu nhập cao cho người nông dân,

26 Xem phụ lục 4.

nhưng mọi quyết định trồng cây, con gì đều do người dân lựa chọn theo tín hiệu

151 thị trường thông qua các thu gom tư nhân mà chưa có sự tham gia của hợp tác xã

hoặc cấp chính quyền tại cơ sở. Ngay cả hoạt động khuyến nông cũng không hỗ

trợ được về kỹ thuật trồng trọt mà hầu như người dân tự tìm tòi và học hỏi lẫn

nhau.

Vụ mùa dưa hấu năm 2010, đầu vụ giá 4000 đồng/kg, đến đúng vụ chỉ còn

800 đồng/kg, nhiều nhà trồng dưa cũng phải lao đao vì giá cả. Theo nhiều nông

dân nếu các hộ trồng rải vụ mà không tập trung xuống giống một lần thì có thể

kiểm soát được thị trường; tuy nhiên, không có tổ chức nào đứng ra ký hợp đồng

hoặc hướng dẫn nông dân thực hiện điều này.

Xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, có nhiều thôn nông dân không còn trồng

lúa mà đã chuyển sang trồng các loại hoa màu như ớt, đậu, bắp,… và chăn nuôi

bò cho thu nhập rất cao. Dù vậy, do thiếu đất nên việc làm rất hạn chế, xã có

trên 5000 lao động nông nghiệp nhưng có đến 1000 thanh niên rời bỏ làng đi

vào các tỉnh phía Nam tìm việc làm. Hợp tác xã Điện Quang là một trong những

mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả nhất của tỉnh Quảng Nam

nhưng cũng không đủ nguồn lực để tạo ra nhiều việc làm tại nông thôn.

Như vậy, để thực hiện các chính sách thành công thì việc tạo ra một môi

trường thể chế hiệu quả nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các cán bộ quản lý Nhà

nước với các tổ chức của nông dân luôn là điều quan trọng. Thế thì cơ quan

quản lý nông nghiệp các cấp tại Quảng Nam có đủ năng lực và nguồn lực để

thực hiện các chính sách thành công hay không? Ngành quản lý nông nghiệp tại

tỉnh Quảng Nam thừa nhận rằng, việc nhiều chính sách nông nghiệp, nông thôn

không thành công tại Quảng Nam có nguyên nhân từ sự thiếu năng lực và nguồn

lực từ các cơ quan quản lý.

Cũng qua khảo sát, ý kiến của người nông dân về các nhân tố tác động đến

việc thực hiện không thành công các chính sách tại Quảng Nam trong thời gian

qua; trong đó, do thiếu nguồn lực để thực thi chính sách chiếm 36,2%, chính

sách không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn chiếm 33,4%, không thỏa mãn lợi ích

152 của các nhóm xã hội liên quan là 20,2%, không phổ biến tường tận đến người

dân là 14%, qui trình chính sách không phù hợp là 9%, nội dung chính sách

không phù hợp là 4,6%, còn các nguyên nhân khác là 8,3% (xem hình 2.6).

Hình 2.6: Các nhân tố tác động đến sự không thành công của các chính sách nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam27

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện tỉnh Quảng Nam không

chỉ thiếu về số lượng cán bộ quản lý mà thiếu cả người đủ năng lực để thực thi

các chính sách. Hiện nay, có nhiều chính sách thực hiện không thành công vì

thiếu nguồn lực và năng lực như sau:

- Việc tích tụ ruộng đất trên địa bàn tỉnh chỉ mới thực hiện được 0,13% diện

tích đất sản xuất tính đến năm 2007 (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Quảng Nam, 2008) [6]. Hiện nay chính sách này đang dừng lại vì không có kinh

phí thực hiện và không được sự đồng tình của người dân do va chạm về quyền

27 Xem phụ lục 4

sở hữu và lợi ích sử dụng.

153

- Hiện không đủ kinh phí duy trì cán bộ khuyến nông ở cơ sở để triển khai

các chương trình khuyến nông và chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Chương trình

bò lai Sind rất được nông dân hưởng ứng nhưng cũng không đủ kinh phí và cán

bộ thực hiện; nên đến năm 2008, chỉ mới Sind hóa được 24% cho đàn bò tại

Quảng Nam.

- Quảng Nam là điểm nóng về phá rừng, nhưng lực lượng kiểm lâm không

đủ cả về số lượng và trang bị để thực thi nhiệm vụ. Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn đề xuất kết hợp với bộ đội biên phòng và công an trong việc bảo

vệ rừng nhưng hiện không đủ kinh phí để thực hiện.

2.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG

Những phân tích thực trạng ở trên cho thấy; nông nghiệp tỉnh Quảng Nam

với điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội có thể: 1) sản xuất nhiều loại nông sản

có lợi thế nhờ dựa vào sự đa dạng các vùng sinh thái nông nghiệp; 2) có hệ

thống giao thông thuận lợi cho sự phát triển các thị trường nông sản cả trong

nước và xuất khẩu; 3) có kết cấu hạ tầng khá tốt, có thể liên kết trong và ngoài

tỉnh để hình thành các vùng chuyên canh phục vụ các ngành công nghiệp chế

biến nông sản tạo điều kiện phát triển các ngành hàng nông sản mạnh; 4) có

nhiều mô hình sản xuất và quản lý phù hợp đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn

phát triển; và 5) các cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh hiểu biết sâu sắc những

vấn đề phát triển nông nghiệp tại địa phương. Tất cả những điểm mạnh trên là

cơ sở để nền nông nghiệp tỉnh Quảng Nam tận dụng nhằm phát triển trong

những năm đến.

Tuy nhiên, qua phân tích cũng cho thấy sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng

Nam vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần khắc phục. Nổi bật là những vấn đề chủ

yếu sau:

Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chậm. Nguyên nhân cơ

bản là do qui mô sản xuất nhỏ, nông hộ không có động lực chuyển đổi vì lực

lượng lao động ngày càng già hóa, nguồn lực phân tán, kiến thức về kinh doanh

154 và sản xuất vẫn dựa vào kinh nghiệm, sản xuất nông nghiệp vẫn chưa là thu

nhập chính của đa số nông hộ. Nhiều nông hộ vẫn còn xem việc chuyển đổi cây

trồng vật nuôi là đối diện với rủi ro.

Thứ hai, sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Nguyên nhân là do công nghiệp

chế biến không phát triển và chưa hình thành các các ngành hàng nông sản;

không có đầu ra cho nông sản nên không thể phát triển các vùng chuyên canh;

và công tác dồn điền đổi thửa thời gian qua chưa tạo ra bước đột phá để tập

trung hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Thứ ba, nông hộ nhỏ vẫn chiếm đa số, trang trại chỉ ở qui mô nhỏ; chưa có

trang trại hạt nhân làm nền tảng liên kết ngang và dọc trong nông nghiệp.

Thứ tư, lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Nông hộ không muốn đầu tư cho

cơ giới hóa vì đất đai mỗi hộ thấp, trong khi thời gian nông nhàn ngày càng tăng

lên.

Thứ năm, kết cấu hạ tầng lạc hậu, luôn hư hỏng vì thiên tai; việc quản lý kết

cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư vẫn còn chưa hiệu quả; chưa có chính sách phù

hợp để khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào đầu tư và vận hành

các kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp cách hiệu quả nhất.

Thứ sáu, năng lực của cơ quan quản lý nông nghiệp cấp tỉnh còn nhiều hạn

chế. Không chỉ hạn chế về con người, nguồn lực cho thực thi, mà cả cơ chế phân

cấp để ban hành các chính sách nông nghiệp phù hợp tại mỗi địa phương.

Bên cạnh đó, những tổn thất từ thiên tai, dịch bệnh và những biến động giá

cả trên thị trường luôn ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nông nghiệp và thu nhập

của các hộ nông dân. Rõ ràng sự phát triển của nông nghiệp không thể tự thân

ngành nông nghiệp giải quyết mà cần phải có sự tham gia của các ngành, các đối

tác trên chuỗi cung cấp nông sản và nhất là sự tham gia của cơ quan quản lý các

cấp, các ngành tại địa phương. Kinh nghiệm của Hà Lan cho thấy, chỉ cần 3%

lao động làm nông nghiệp, kết hợp với sự hợp tác của các ngành trên chuỗi

ngành hàng nông sản đã làm gia tăng giá trị nông sản lên nhiều lần, đồng thời

155 Nhà nước đầu tư có hiệu quả vào kết cấu hạ tầng chủ yếu và khoa học công nghệ

trong nông nghiệp mà nông dân có thể làm giàu từ nông nghiệp, đồng thời góp

phần vào phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ khác.

2.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Qua phân tích có thể thấy rằng thế mạnh của nông nghiệp Quảng Nam là

đánh bắt và nuôi trồng thủy sản; chăn nuôi gia súc, gia cầm; canh tác cây công

nghiệp ngắn ngày, cây nguyên liệu giấy và các sản phẩm từ rừng; còn sản xuất

lương thực chỉ nhằm mục đích tự túc là chủ yếu. Tuy nhiên, những năm qua,

tỉnh Quảng Nam chưa tận dụng được các lợi thế so sánh này.

Kết quả là tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam giai

đoạn 1997-2010 luôn thấp (2,45%) hơn so với tốc độ tăng trưởng nông nghiệp

bình quân của cả nước (3,80%); cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch chậm;

các nguồn lực của sản xuất nông nghiệp có dấu hiệu giảm sút do ruộng đất sản

xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần, lao động nông nghiệp bị già hóa và không

được nâng cao kiến thức do hệ thống khuyến nông, khuyến công yếu kém; thu

nhập thấp dẫn đến đầu tư thấp và vì vậy, mà đa số các hộ dân ở nông thôn chiếm

tỷ lệ nghèo cao so với khu vực thành thị và so với bình quân cả nước.

Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, do thiên tai và dịch bệnh xảy ra thường

xuyên mà chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả nên đã gây rất nhiều thiệt hại

cho sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, số lượng và chất lượng các nguồn lực trong

sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp tại Quảng Nam; do lao động nông nghiệp dư thừa, dân còn nghèo

nên khả năng tích lũy để đầu tư vào sản xuất không đáng kể; Thứ ba, việc chậm

đổi mới thể chế, thực hiện chính sách đối với nông nghiệp chưa hiệu quả và đầu

tư hạn chế đã làm cho nông nghiệp phát triển chậm so với các tỉnh vùng kinh tế

trọng điểm miền Trung và so với nông nghiệp cả nước; ngoài ra, chính sách thu

hồi đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp và đô thị, cũng như thủy điện đã

ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp và sinh kế của các hộ nông dân; nạn

156 phá rừng diễn biến ngày càng phức tạp đã gây ra những thảm họa từ lũ lụt ngày

càng nghiêm trọng và nông nghiệp, nông thôn, nông dân thường bị tổn thất lớn

nhất.

Ngoài những điểm yếu và những tồn tại, nông nghiệp Quảng Nam vẫn có

những mô hình sản xuất hiệu quả cần được nghiên cứu để triển khai cho các địa

phương khác tại tỉnh Quảng nam và cả nước. Các vùng chuyên canh như làng

rau Trà Quế thuộc xã Cẩm Hà thành phố Hội An; vùng nông dân liên kết sản

xuất ớt xuất khẩu tại xã Điện Quang; vùng sản xuất lúa giống, ngô giống tại

Điện Minh thông qua Hiệp hội giống cây trồng Điện Bàn, nông dân chuyển đổi

từ trồng lúa sang trồng các loại cây thực phẩm có giá trị cao theo mùa phục vụ

cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tại xã Tam Phước huyện Phú Ninh.

Tóm lại, việc phát hiện được các nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

làm cho nông nghiệp Quảng Nam chậm phát triển, đồng thời nghiên cứu các

những mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, những mối liên kết kinh tế làm

tăng thu nhập của các hộ nông dân sẽ được xem xét khi đề ra các các giải pháp

chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam trong thời gian đến.

157 CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020

3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020

Sau khi phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp Quảng Nam những năm

qua cho thấy, tăng trưởng tổng sản lượng nông nghiệp còn chậm; các nguồn lực

trong sản xuất nông nghiệp sử dụng không hiệu quả; chưa khai thác được lợi thế

so sánh trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Bên cạnh việc xây dựng thành tỉnh

công nghiệp vào năm 2020, tỉnh Quảng Nam phải thúc đẩy khu vực nông nghiệp

phát triển làm nền tảng cho việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến và

các dịch vụ liên quan nhằm tận dụng những cơ hội xuất khẩu nông sản mà quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các căn cứ

tiền đề làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam

cho giai đoạn 2011-2020 là cần thiết; và nó có các nội dung sau.

3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nông nghiệp

Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia đều phải

đối diện với những cơ hội và thách thức từ thị trường, cũng như những tác động

tích cực lẫn tiêu cực đối với các ngành kinh tế trong nước.

Hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực nhất định đối với nền

nông nghiệp của Việt Nam và tỉnh Quảng Nam. Trước tiên, quá trình hội nhập

góp phần đổi mới hệ thống pháp luật, chính sách của Chính phủ đối với phát

triển nông nghiệp; thứ hai, điều này tạo ra thể chế tốt để chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; thứ ba, góp phần nâng cao

trình độ kinh doanh của các đơn vị sản xuất nông nghiệp và ngành công nghiệp,

dịch vụ có liên quan; thứ tư, có cơ hội nâng cao qui mô và chất lượng các nguồn

lực trong sản xuất nông nghiệp và tạo điều kiện liên kết kinh tế giữa nông

nghiệp, công nghiệp chế biến và các dịch vụ như giao thông, tài chính, thông tin

158 liên lạc,… Đặc biệt, hội nhập kinh tế quốc tế làm mở rộng thị trường nông sản,

thúc đẩy thương mại hóa và hình thành hệ thống kinh doanh nông sản, nhờ đó

liên kết các nông hộ, trang trại với chuỗi nông sản toàn cầu.

Mặc dù có những cơ hội, những tác động tích cực, nhưng đối với các quốc

gia có nền nông nghiệp kém phát triển như Việt Nam luôn đối diện với những

thách thức sau:

Đối với ngành nông nghiệp. Những thách thức đang gặp phải đó là: 1) Cạnh

tranh khốc liệt trong và ngoài nước. Dù có thế mạnh về sản xuất nông sản nhưng

các siêu thị tại Việt Nam đầy ắp các trái cây từ Trung Quốc, Thái Lan; thịt từ

Úc, Mỹ; cá từ Nhật Bản, Canada. 2) Tăng khả năng lây lan dịch bệnh. Dịch ốc

bươu vàng, bệnh cúm gia cầm, bệnh lỡ mồm long móng là những dịch, bệnh

mới phát sinh tại Việt Nam và Quảng Nam vào những năm sau hội nhập và gây

rất nhiều tổn thất cho ngành nông nghiệp. 3) Phá hoại tài nguyên và môi trường.

Khai thác triệt để đất đai, nguồn nước nhằm tạo ra nhiều nông sản mà không có

biện pháp bảo vệ môi trường và tái tạo các tài nguyên thiên nhiên đang trở thành

thách thức lớn của ngành nông nghiệp để phát triển bền vững cả trước mắt và

lâu dài. 4) Đòi hỏi về an toàn và chất lượng ngày càng gay gắt. Sản xuất nhỏ,

phân tán khó tạo ra những nông sản đồng đều và chất lượng cao; ngay cả việc

phổ biến các phương pháp canh tác tốt (VietGAP) đến từng hộ nông dân luôn là

thách thức của các nhà quản lý nông nghiệp và các tổ chức khuyến nông.

Đối với nông hộ và các trang trại. Những thách thức mà nông dân và các

trang trại tại Việt Nam và cả tỉnh Quảng Nam đang gặp phải, đó là: 1) Thiếu tổ

chức liên kết các nông hộ và trang trại lại với nhau để đáp ứng các đơn hàng,

nông sản có chất lượng đồng đều và giá rẻ. Các hiệp hội, các hợp tác xã, các

doanh nghiệp do chính nông dân lập ra thì mới có khả năng giảm thiểu thách

thức này. 2) Thiếu thông tin, vốn và kỹ năng để sản xuất ra những sản phẩm đáp

ứng nhu cầu của thị trường. Không có kho bảo quản, không có thiết bị chế biến,

phương tiện bảo quản không phù hợp mà nông sản luôn bị thất thoát lớn, có chất

159 lượng thấp nên giá trị thương phẩm không cao. 3) Không tiếp cận được các

chứng nhận chất lượng nông sản. Sản xuất phân tán, manh mún, không liên kết

thành tổ chức sản xuất mà nông sản khó có chứng nhận chất lượng nông sản và

điều này làm nông hộ nhỏ sản xuất manh mún có nguy cơ bị loại ra khỏi thị

trường.

Như vậy, những thách thức và những tác động tiêu cực đòi hỏi phải thay đổi

cách thức tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản; trong đó, việc liên kết ngang và

dọc nhằm hình thành các vùng chuyên canh và xây dựng các ngành hàng nông

sản mạnh có vai trò quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng

nông sản Việt Nam và của cả tỉnh Quảng Nam.

3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm đến

Sau đổi mới, cùng với cả nước, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã trải qua các

quan điểm phát triển nông nghiệp khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng phát triển nông nghiệp phải tập trung vào gia

tăng sản lượng, bảo đảm an ninh lương thực và thực hiện xóa đói, giảm nghèo;

nên cả nước và các tỉnh tập trung mọi nguồn lực cho sản xuất lương thực mà đặc

biệt là sản xuất lúa, dù việc tập trung sản xuất lương thực đó có hiệu quả kinh tế

hay không.

Quan điểm thứ hai xuất phát từ các nông dân “phá rào” chuyển đổi cây trồng

vật nuôi theo hướng thị trường; hậu quả nhiều vùng bị phá vỡ qui hoạch, môi

trường bị tàn phá vì nông dân phá ruộng lúa chuyển sang nuôi tôm, phá rừng

trồng keo, cao su,… Hiện tượng này có thể làm tăng thu nhập cho một số nông

hộ, xóa đói, giảm nghèo một số bộ phận nông dân, thúc đẩy tăng trưởng nông

nghiệp; nhưng hậu quả là nông nghiệp phát triển không bền vững.

Quan điểm thứ ba cũng là quan điểm của luận án cho rằng cần điều chỉnh

quan điểm thứ nhất theo cách thức khai thác lợi thế so sánh nhằm “bán cái ta có”

và hoàn thiện quan điểm thứ hai theo hướng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị

trường tức chỉ “bán cái thị trường cần”. Và để đảm bảo sự cân đối giữa cung và

160 cầu cần xây dựng và tổ chức các chuỗi nông sản hoàn chỉnh có khả năng cạnh

tranh trên phạm vi toàn cầu.

Quan điểm này cho thấy nông nghiêp tỉnh Quảng Nam, cần phát huy lợi thế

so sánh để sản xuất hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Rõ ràng, nếu tập

trung sản xuất lương thực thì nông dân Quảng Nam sẽ chịu nhiều thiệt thòi so

với nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long vì sản xuất lúa ở Đồng Bằng Sông

Cửu Long có thể đem lại thu nhập ròng trên 30% (United Nations Environment

Programme, 2005, tr. 27) [115]; trong khi, sản xuất lúa tại Quảng Nam chủ yếu

vì mục đích tự túc lương thực hơn là vì mục đích thương mại, vì chi phí sản xuất

cao hầu như không có lãi (Vũ Ngọc Hoàng, 2004) [31]. Chính vì vậy mà cây lúa

không thể trở thành ngành hàng xuất khẩu tại miền Trung cũng như tại Quảng

Nam. Để thoát nghèo, nông dân Quảng Nam phải tìm đến những cây trồng, vật

nuôi có lợi thế nhưng được thị trường trong nước và nước ngoài ưu chuộng.

Những nông sản đó là sản phẩm của các ngành hàng sau:

- Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là thế mạnh của Quảng Nam. Năm 2010,

bình quân thu nhập sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh là 44,5 triệu đồng/ha; trong

khi nuôi thủy sản cho thu nhập cao hơn 175,5 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, không

chỉ có giá trị của ngành này đem lại, mà con cá Hội An, con tôm nước lợ Trường

Giang, con mực bãi ngang Quảng Nam vẫn được đánh giá có chất lượng cao

hơn các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã

phát triển được con cá basa tại các vùng nước ngọt, những năm đến với 10.000

ha mặt nước của các hồ thủy điện sẽ tạo điều kiện cho ngành này phát triển. Nói

về ngư trường đánh bắt hải sản thì Quảng Nam không thua các tỉnh miền Trung,

chỉ vì nông dân Quảng Nam chưa được đầu tư năng lực đánh bắt đủ nên sản

lượng chưa cao. Bảng 3.1 cho thấy, năng lực trang bị tàu thuyền của nông dân

Quảng Nam còn rất thấp, nếu được trang bị đủ như các tỉnh Quảng Ngãi và Bình

Định, thì sản lượng đánh bắt hải sản của Quảng Nam sẽ cao hơn rất nhiều.

161 Bảng 3. 1: Sản lượng và năng lực ngành thủy sản Quảng Nam so với các tỉnh miền Trung và bình quân cả nước năm 2010

Các địa phương và cả nước

Sản lượng thủy sản (tấn)

Sản lượng khai thác (tấn)

Sản lượng nuôi trồng (tấn)

A

1=2+3

2

3

Tỷ lệ nuôi trồng (%) 4=3/1

Diện tích nuôi trồng (1000ha) 5

Số tàu đánh bắt xã bờ (1000CV) 6

40.649

30.751

9.899

24,4%

5,8

23,4

Thừa Thiên- Huế

36.854

35.940

913

2,5%

0,7

30,7

Đà Nẵng

75.941

55.400

20.066

26,4%

7,3

41,6

Quảng Nam

111.129

104.191

6.938

6,2%

1,4

195,7

Quảng Ngãi

150.398

141.655

8.743

5,8%

4,7

265,5

Bình Định

50.765

42.265

8.500

16,7%

3,0

117,8

Phú Yên

88.928

75.241

13.686

15,4%

5,6

38,1

Khánh Hoà

5.127.576

2.420.823

2.706.752

1.66,0

4498,7

52,8% Cả nước Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam và Quảng Nam năm 2010

- Quảng Nam có nhiều cây công nghiệp, cây rau đậu, cây ăn quả và cây

dược liệu là đặc sản mà các tỉnh khác không có hoặc không thể sánh bằng. Cây

ớt Quảng Nam có vị cay nồng đặc biệt, thị trường Á Châu, Châu Âu, và Liên

bang Nga rất chuộng. Vụ mùa năm 2008, 2009 những hộ trồng ớt xuất khẩu ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc 28 thu nhập trên 140 triệu đồng/ha. Cây quế Trà

My, cây tiêu Tiên Phước hơn hẳn cây quế Thanh Hóa, cây tiêu Phú Quốc, cây

tiêu trắng Phú Quốc rất được các nước ưa chuộng nhưng cũng không thể sánh

với tiêu Tiên Phước, Quảng Nam. Trái bòn bon tại huyện Nam Giang tỉnh

Quảng Nam được xem là “nam trân”, về chất lượng hơn hẳn bòn bon ở Phú

Quốc; những năm qua, trái bòn bon được lai tạo ở Thái Lan có vị ngọt hơn và

được nhập khẩu vào Việt Nam. Nếu Quảng Nam đầu tư vào cây bòn bon, chắc

chắn chất lượng không thua trái bòn bon nhập khẩu từ Thái Lan. Ngay cả rau

Trà Quế cũng được xem là đặc sản của Quảng Nam; vùng nước lợ sông Cổ Cò

28 Ngọc Khanh, Quảng Nam: Nông dân trồng ớt trúng đậm. Báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 4/6/2008.

và cách thức canh tác của người trồng rau Trà Quế đã tạo nên hương vị mà

162 không nơi nào có, trừ rau Trà Quế. Về cây dược liệu, Quảng Nam có cây quế,

sâm ba kích, sâm Ngọc Linh là những loại dược liệu quí hiếm. Những năm qua,

tỉnh Quảng Nam đã khai thác được các lợi thế này và đáp ứng được nhu cầu thị

trường trong nước và xuất khẩu.

- Rừng cũng là thế mạnh của Quảng Nam. Với hơn 184 ngàn ha rừng trồng,

chưa kể rừng phân tán thì Quảng Nam là nơi cung cấp nguyên liệu giấy lớn tại

miền Trung. Nếu miền Trung và Quảng Nam đầu tư một nhà máy sản xuất bột

giấy thì sẽ làm gia tăng giá trị cây nguyên liệu giấy thay vì bán sản phẩm “thô”

như hiện nay. Ngoài rừng nguyên liệu giấy, rừng cây dó bầu cũng rất phát triển;

hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ cây dó bầu đang rất phát triển tại các

huyện Nông Sơn, Tiên Phước, Hiệp Đức và được xuất khẩu sang thị trường

Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Không chỉ có vậy, rừng Quảng Nam còn

tạo nên một lưu vực rộng lớn của hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn, mỗi năm cung cấp 18 tỷ m3 nước, và là nguồn thủy năng lớn thứ 4 tại Việt Nam, có thể cung cấp mỗi năm 6 tỷ kWh điện29, đáp ứng đủ điện cho miền Trung cho những

năm đến. Hiện nay, với chủ trương chi trả dịch vụ rừng cho các hộ dân tham gia

bảo vệ và tái sinh rừng theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Thủ tướng chính

phủ [51], chắc chắn sẽ làm gia tăng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp Quảng

Nam trong những năm đến.

Khi phân tích thực trạng cho thấy, nông sản Quảng Nam những năm qua giá

cả không ổn định, nhiều vùng chuyên canh luôn bị phá vỡ. Việc nông dân phá vườn cây, ruộng tôm trồng lúa30 tại đồng bằng sông Cửu Long; hoặc như tại Quảng Nam, nông dân phải chặt bỏ cây quế để trồng cây keo tại Nam Trà My31, phá bỏ ruộng dâu để trồng rau màu tại Duy Trinh32; tất cả những hiện tượng trên

gây ra rất nhiều tổn thất cho nông dân và lãng phí đối với xã hội. Nguyên nhân 29 Xem phụ lục 6. 30 Minh Giảng, Phá cây ăn trái để trồng lúa, VNChannel.NET, ngày 22/5/2008, http://www.vnchannel.net/news/ xa-hoi/200805/pha-cay-an-trai-de-t rong-lua.79102.ht ml 31 Hoàng Thọ, Cây quế 10 năm thu 60 ngàn đồng, Báo Tiền Phong On Line, ngày 16/06/2009. 32 Doãn Hoàng – Văn Sự, Đào ruộng dâu, phá nong tằm, Báo Quảng Nam, ngày 18/5/2009.

163 có nhiều nhưng chủ yếu là do sản phẩm không có đầu ra, nhất là chưa tạo được

mối liên kết giữa các đối tác để hình thành các ngành hàng nông sản mạnh, đủ

sức tiếp cận được các thị trường trong nước cũng như toàn cầu. Và đây cũng là

quan điểm của luận án khi cho rằng việc đảm bảo cân đối cung cầu nông sản có

vai trò quyết định đến phát triển nông nghiệp bền vững.

3.1.3. Định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh

Quảng Nam giai đoạn 2011-2020

a. Định hướng chiến lược của nông nghiệp Việt Nam đến năm 2020

Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm

nhìn đến 2020, nông nghiệp giữ vị trí quan trọng. Nó đóng góp vào sự phát triển

kinh tế, ổn định chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái cho sản xuất và

đời sống. Về mặt kinh tế, tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng nông, lâm,

thủy sản đạt bình quân 4 – 4,5%; đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, đủ

nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng

50 tỷ USD vào năm 2020. Giá trị sản lượng trên 1 ha đất nông nghiệp đạt bình

quân trên 50 triệu đồng; và thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn đạt 1.000

USD/người/năm. Để đạt được những mục tiêu phát triển này, phải nâng mức

đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ 30%

hiện nay lên trên 50%. Về giống, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản

xuất là giống tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ

sinh học trong chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Về tưới tiêu nước và cơ

giới hoá, đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tưới phun, tưới nhỏ giọt, tưới

thấm… cơ giới hoá khâu làm đất trên 70% khâu gieo hạt cây ngắn ngày (Quyết

định 150/2005/QĐ-TTg) [62].

Trong đó, đảm bảo diện tích và sản lượng cây lượng thực, đặc biệt cây lúa có

vai trò ổn định xã hội, xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an ninh lương thực quốc

gia và xuất khẩu gạo vẫn còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam dù

164 có giảm dần đến 2020 chỉ còn 2,1 triệu tấn (xem bảng 3.2). Nếu cơ cấu bữa ăn

của người Việt Nam thay đổi nhanh theo hướng tăng thịt cá và rau quả, thì khả

năng sẽ tăng thêm được sản lượng lương thực xuất khẩu của Việt Nam trong

những năm đến, và dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông sản sẽ tăng cao hơn 50 tỷ

USD vào năm 2020.

Bảng 3. 2: Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo của Việt Nam đến năm 2020

CHỈ TIÊU

2007

2010

2015

2020

1. Dân số (triệu người)

85,2

88,5

93,6

98,6

2. Diện tích lúa (triệu ha)

4,1

4,0

3,8

3,5

3. Diện tích lúa cả năm (tr. ha)

7,2

7,1

6,9

6,8

4. Năng suất lúa (tấn/ha/vụ)

4,98

5,14

5,40

5,56

5. Sản lượng thóc cả năm (tr. tấn)

35,8

36,5

37,2

38,5

6. Nhu cầu (triệu tấn thóc)

29,2

31,1

32,1

35,1

- Thóc giống

1,1

1,1

1,0

1,0

- Chăn nuôi và hao hụt

6,4

7,0

7,5

8,5

- Chế biến

0,2

0,3

0,5

1,0

- Để ăn và dự trữ quốc gia

21,5

22,7

23,1

24,7

Trong đó, riêng để ăn

19,97

17,98

17,55

16,95

7. Cân đối thóc

+6,6

+5,4

+5,1

+3,3

8. Dự kiến xuất khẩu (tr. tấn gạo)

4,3

3,5

3,3

2,1

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Dự thảo chiến lược an ninh lương thực quốc gia, 2008 [10].

Trong xu thế phát triển nông nghiệp chung của cả nước, tỉnh Quảng Nam có

điều kiện lựa chọn định hướng phát triển nông nghiệp trong phạm vi của tỉnh

nhưng có gắn kết với chiến lược, mục tiêu phát triển quốc gia nhằm khai thác

được các lợi thế so sánh của tỉnh Quảng Nam, đồng thời khai thác được các cơ

hội của hội nhập kinh tế quốc tế.

165

b. Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam thời gian đến

Với mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.

Theo luận án, định hướng tổng quát phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2011-2020 sẽ là: Khai thác lợi thế của cây rau đậu và công nghiệp ngắn

ngày, cây nguyên liệu giấy, chăn nuôi và thủy sản nhằm tăng thu nhập của các

nông hộ; liên kết công nghiệp chế biến và ngành dịch vụ liên quan để tổ chức

thành các ngành hàng nông sản có khả năng đáp ứng thị trường nội địa và xuất

khẩu trên cơ sở hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản có khả

năng cạnh tranh cao. Quá trình này sẽ diễn ra đồng thời với quá trình chuyển

dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới và bảo vệ môi trường sản xuất

và môi trường sống tại nông thôn.

Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam như được nêu trên

có xét đến bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, định hướng phát

triển nông nghiệp của cả nước và vị trí của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam trong

điều kiện nguồn lực hiện có và trong chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế, xã

hội nhằm xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.

Trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia thì Việt Nam đến năm

2020 vẫn là nước có khả năng xuất khẩu lương thực sau khi đã đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia. Vì vậy, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam sẽ chuyển dần các

vùng trồng lúa sang các cây trồng, vật nuôi khác đem lại giá trị cao hơn, tăng thu

nhập cho nông hộ và thúc đẩy phát triển nông nghiệp.

Đến năm 2020, ngành nông nghiệp Quảng Nam dự kiến còn 30% lao động

làm việc trong nông nghiệp, nên kinh tế nông hộ và trang trại vẫn chiếm ưu thế.

Vì vậy, việc phát triển các hợp tác xã là cần thiết nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông

sản và phát triển các dịch vụ trong nông nghiệp.

Từ những phân tích trên và rút kinh nghiệm phát triển nông nghiệp dựa trên

nông hộ của các nước, định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam

giai đoạn 2011-2020 dựa trên các mô hình cơ bản sau:

166

1) Xây dựng kinh tế nông hộ và trang trại theo hướng thâm canh và chuyên

môn hóa cao

Kinh tế nông hộ và trang trại sẽ là những loại hình kinh tế đóng góp chủ yếu

cho sự phát triển nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam đến năm 2020. Kinh nghiệm

ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế hộ nông dân với qui mô nhỏ, vừa

hay lớn đều có khả năng thương phẩm hóa sản xuất rất cao và tạo ra giá trị sản

lượng nông nghiệp cao. Nhiều nước, kinh tế nông hộ đạt trình độ thâm canh cao

trong sản xuất trồng trọt, chăn nuôi với việc tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa

và bắt đầu tự động hóa, tạo điều kiện tăng nhanh năng suất lao động nông

nghiệp (Bùi Huy Đáp và cộng sự, 1996, tr. 360) [21].

Hiện nay, ngoài mô hình sản xuất làng rau Trà Quế, tại Quảng Nam có các

vùng chuyên canh rau đậu, dưa leo, dưa hấu tại Tam Phước, Phú Ninh; vùng

chuyên canh ớt tại xã Điện Quang,... Nhờ thành lập các vùng chuyên canh mà

nông dân tại các vùng này có điều kiện thâm canh, thu nhập của nông hộ tăng và

tạo điều kiện phát triển kinh tế trang trại.

2) Xây dựng các hợp tác xã làm đầu mối tiêu thụ nông sản và phát triển các

dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn

Kinh nghiệm cho thấy, kinh tế nông hộ và trang trại trong quá trình sản xuất

kinh doanh luôn có nhu cầu hợp tác. Khi phân tích quá trình sản xuất và tiêu thụ

nông sản tại Quảng Nam, nơi nào mà vai trò của hợp tác xã yếu đi thì vai trò của

các thương lái nổi lên; và trong mối quan hệ mua bán này, nông dân luôn là

người chịu nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, để phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản

hiệu quả, tỉnh Quảng Nam cần xây dựng các hợp tác xã có chức năng toàn diện

và hoạt động đa dạng hơn không chỉ tác động đến phát triển nông nghiệp mà còn

thực hiện được một số chức năng tham gia quản lý nông thôn và các chức năng

quản lý nông nghiệp được chuyển giao từ phía Nhà nước.

167

3) Giảm dần diện tích cây lương thực, ưu tiên phát triển cây rau màu và cây

công nghiệp ngắn ngày, phát triển ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản

Đây là chiến lược phát triển nông nghiệp hợp lý nhằm thai thác được lợi thế

của thời tiết, khí hậu, đất đai và thị trường đối với nông nghiệp Quảng Nam. Xã

Tam Phước huyện Phú Ninh có 570 ha đất nông nghiệp thì nay chỉ còn ¼ diện

tích trồng lúa, còn lại chuyển sang trồng dưa và các cây rau đậu đem lại giá trị

kinh tế cao. Xã Điện Quang huyện Điện Bàn có 700 ha đất canh tác thì chỉ còn

160 ha trồng lúa, còn lại trồng ớt, đậu phộng, bắp, thuốc lá cho giá trị kinh tế

cao hơn; thôn Bến Đền thuộc xã Điện Quang, 100% số hộ từ nhiều năm qua đã

không còn trồng lúa mà chuyển sang trồng các loại hoa màu quanh năm. Ngoài

ra, người dân xã Điện Quang đã bỏ giống bò địa phương và đưa giống bò lai

Sind vào thay thế, nhờ vậy người nuôi bò tại xã Điện Quang có thu nhập từ hoạt

động chăn nuôi rất cao.

Việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi tại các địa phương nêu trên đã đem lại

nhiều thành công, nhưng nó còn mang tính tự phát mà chưa được tổ chức theo

một chương trình phát triển có định hướng của cơ quan Nhà nước. Hiện tại, đa

số các vùng nông thôn tại Quảng Nam vẫn còn bám cây lúa mà chưa dám

chuyển sang các cây trồng, vật nuôi khác vì sợ rủi ro khi tiêu thụ sản phẩm.

Như vậy, việc chuyển sang cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao

đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, phát triển các hợp tác xã hoạt động

đa dạng như hợp tác xã Điện Quang, đồng thời phát triển ngành công nghiệp chế

biến, thúc đẩy các hoạt động kinh doanh nông sản thì sự liên kết giữa sản xuất

và thị trường mới đồng bộ, và ngành nông nghiệp Quảng Nam mới có điều kiện

phát triển bền vững.

4) Xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ, thực hiện triệt để qui trình sản xuất tối

ưu (VietGAP) trong các ngành sản xuất nông nghiệp

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để nâng cao sức cạnh tranh, hàng

nông sản cần phải có xuất xứ, dán nhãn và tuân thủ các qui trình sản xuất an

168 toàn. Hiện nay, rau Trà Quế đã được cấp nhãn hiệu hàng hóa, rồi sẽ có thương

hiệu dưa Tam Phước, ớt Điện Quang, yến sào Hội An,… Tất cả những thủ tục

chứng nhận sản phẩm hữu cơ là cần thiết khi xây dựng thương hiệu nông sản,

điều này đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cơ quan quản lý Nhà nước, doanh

nghiệp, các nông hộ và chủ trang trại.

Việc triển khai các thủ tục này sẽ làm cho chi phí nông sản tăng lên, nhưng

lợi ích là to lớn và lâu dài khi nông sản Quảng Nam muốn tham gia xuất khẩu

nhiều hơn.

Tóm lại, với định hướng phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế so sánh và

thị trường, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam sẽ đạt được các mục tiêu kinh tế, xã

hội đã đặt ra khi hoàn thiện được mô hình phát triển nông nghiệp như được đề

xuất ở trên.

c. Mục tiêu chủ yếu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2011-2020

Với định hướng phát triển nông nghiệp trên, có ba mục tiêu cụ thể mà ngành

nông nghiệp tỉnh Quảng Nam phải đạt được trong chiến lược xây dựng Quảng

Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 như sau:

1) Mục tiêu phát triển kinh tế trong nông nghiệp

Xuất phát từ những chiến lược phát triển nông nghiệp nhằm xây dựng Quảng

Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, một số chỉ tiêu phát triển kinh tế

và nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 được tác giả luận án tính

toán lại để phù hợp với quan điểm, định hướng và chiến lược phát triển nông

nghiệp Quảng nam giai đoạn 2011-2020, và kết quả được thể hiện ở bảng 3.3.

Trong đó, nông nghiệp chỉ còn chiếm tỷ trọng từ 9% đến 10% GDP; lao động

nông nghiệp chiếm khoảng 30%; và giá trị xuất khẩu của hàng nông, lâm, thủy

sản sẽ chiếm khoảng 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Nhằm đạt

được các mục tiêu này, tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng bình quân của

nông nghiệp đạt mức từ 4% đến 4,5% từ nay cho đến năm 2020.

169 Bảng 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế và phát triển chủ yếu của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 33

CÁC CHỈ TIÊU

2005

2010

2011

2015

2020

CÁC CHỈ TIÊU VỀ DÂN SỐ VÀ THU NHẬP

Dân số cả tỉnh (1000 người)

1.416

1.428

1.431

1.444

1460

Tỷ lệ dân số nông thôn (%)

82,9

81,2

78,1

63,7

51,5

Lao động toàn tỉnh (1000 người)

747

784

814

859

934

Lao động nông nghiệp (1000 người)

532

Tỷ lệ lao động nông nghiệp (%)

71

464 59

448 56

359 42

277 30

Thu nhập đầu người (USD)

376

882

971

1917

4202

CÁC CHỈ TIÊU VỀ KINH TẾ

GDP thực tế (Tỷ đồng)

8.815

24.543 28.361 56.456 131.248

GDP giá 1994 (Tỷ đồng)

4.968

9.080 10.252 18.148 35.631

Tốc độ tăng trưởng GDP (%)

12,5

12,9

12,9

15,8

14,3

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp (%)

2,8

1.3

4,0

4,5

4,5

Tốc độ tăng trưởng CN & XD (%)

21,3

18,0

17,2

17,2

14,7

Tốc độ tăng trưởng dịch vụ (%)

13,9

12,5

14,5

17,5

15,5

CƠ CẤU NỀN KINH TẾ (%)

+ Nông nghiệp

31

20

14

10

21

+ Công nghiệp và xây dựng

34

41

43

45

40

+ Dịch vụ

35

39

43

45

39

XUẤT KHẨU (triệu USD)

Tổng kim ngạch xuất khẩu

113

275

448

1.344

3.750

21

22

Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (%)

30

50

60

35

37

Kim ngạch XK nông lâm thủy sản

90

470

1.312

31

14

20

35

35

Xuất khẩu nông nghiệp/tổng kim ngạch xuất khẩu (%) Nguồn: Dựa vào tính toán của đề án phát triển Quảng Nam đến năm 2020 thành tỉnh công

nghiệp của UBND tỉnh Quảng Nam (tr. 8) [23] và theo tính toán của tác giả.

33 Số liệu từ năm 2005 đến 2010 là số liệu thực tế thực hiện được. Số liệu từ năm 2011 đến 2020 theo tính toán của tác giả.

170

Dù xu hướng tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng vị trí của

nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Nam luôn

đóng vai trò quan trọng; nhất là việc đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói, giảm

nghèo và phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nhằm phục vụ cho

quá trình đô thị hóa, phát triển du lịch và quá trình hội nhập đang xảy ra nhanh

chóng tại Quảng Nam cũng như trong cả nước.

2) Mục tiêu phát triển xã hội nông thôn

Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp như trên thì tỉnh Quảng

Nam mới có điều kiện đạt được 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (Quyết

định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ) [68].

Trong số các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, bảng 3.4 là các tiêu chí cơ

bản mà tỉnh Quảng Nam có thể đạt được vào năm 2020. Nếu đạt được các tiêu

chí này thì tỉnh Quảng Nam có điều kiện hoàn thành các tiêu chí còn lại trong

tổng số 19 tiêu quốc gia về nông thôn mới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc

sống tại nông thôn, ổn định chính trị, xã hội và đạt được các mục tiêu của phát

triển nông nghiệp bền vững.

Bảng 3.4: Các tiêu chí cơ bản xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của

Quảng Nam

Các tiêu chí chủ yếu Chỉ tiêu Hiện trạng

70% 47% Đến năm 2020 70% 1. Giao thông nông thôn

70% 60% 70% 2. Kiên cố hóa kênh mương

1000 221 900 3. Thu nhập nông nghiệp (USD)

5% 19,6% 5% 4. Tỷ lệ hộ nghèo

35% 62,4% 30% 5. Cơ cấu lao động nông nghiệp

35% 10% 35% 6. Tỷ lệ lao động qua đào tạo

85% 73% 85% 7. Nước sạch nông thôn

30% 25% 35% 8. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế

171

3) Mục tiêu bảo vệ môi trường

Tỉnh Quảng Nam có đến 51,5% diện tích đất tự nhiên là rừng. Hiện tại, mức

bao phủ rừng đạt 43,5%, nhưng chỉ có 1,8% là rừng giàu, còn lại là rừng nghèo

và rừng trồng; do đó, chức năng điều hòa nguồn nước và khí hậu của rừng giảm

đáng kể. Hậu quả là lũ lụt hàng năm trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn làm

thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng; trong đó, ngành nông nghiệp, các công trình thủy

lợi và giao thông nông thôn chiếm trên 70% giá trị thiệt hại. Chính vì vậy, đến

năm 2020, tỉnh Quảng Nam đặt mục tiêu bao phủ rừng đạt tỷ lệ 51%, nâng tỷ lệ

rừng giàu lên 5% và thực hiện các chương trình phát triển rừng trên đất nương

rẫy kết hợp với việc giao đất giao rừng cho cộng đồng dưới sự quản lý của già

làng kết hợp với chính quyền địa phương (Bùi Quang Thanh, 2007, tr. 192)

[81]].

Quảng Nam có thể làm giàu từ rừng nếu khai thác được những giá trị gia

tăng từ rừng thông qua qui hoạch, khai thác và sử dụng hiệu quả các sản phẩm

từ rừng. Nhờ đó, cải thiện được đời sống của các cộng đồng sống dựa vào rừng,

đồng thời làm giảm những tổn thất cho ngành nông nghiệp và nông thôn phải

gánh chịu hàng năm, tạo điều kiện nông nghiệp tỉnh Quảng Nam phát triển bền

vững.

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH

QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020

Để thực hiện được định hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng

Nam giai đoạn 2011-2020, thì chủ thể thực hiện các giải pháp được đề xuất dưới

đây chủ yếu vẫn là nông hộ, các chủ trang trại; bên cạnh đó vai trò của chính

quyền cấp tỉnh, cấp huyện và xã là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng qui

hoạch, ban hành và thực thi các chính sách phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, để

giúp nông dân từng bước hội nhập và nâng dần vị thế của nhà sản xuất trong

chuỗi ngành hàng nông sản, Nhà nước tỉnh Quảng Nam sẽ là chủ thể chính trong

172 việc đề ra các chính sách tại địa phương nhằm liên kết giữa nông dân với các đối

tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản để các nhà thu gom, các hợp tác xã, các

nhà máy chế biến và nhà xuất khẩu cùng với nông dân thực hiện thành công các

giải pháp được đề nghị dưới đây.

3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp

Những năm đến, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng

Nam có những nội dung sau.

a) Xác định cơ cấu sản xuất có lợi thế tại Quảng Nam

Những nghiên cứu và phân tích thực trạng cho thấy những năm đến chiến

lược phát triển nông nghiệp Quảng Nam phải dựa vào các cây trồng, vật nuôi có

lợi thế so sánh như cây rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày, cây nguyên liệu

giấy, chăn nuôi và thủy sản. Nội dung cụ thể như sau:

Về trồng trọt. Đối với vùng trung du và đồng bằng, đất đai tại đây phù hợp

với các cây trồng chính như được thể hiện trong bảng 3.5. Cây trồng đa dạng

nhưng qui mô nhỏ và phân tán, chính vì vậy mà cây lúa chỉ đáp ứng nhu cầu tự

túc lương thực, thu nhập bằng tiền của nông hộ tại Quảng Nam chủ yếu dựa vào

các cây rau màu và nhóm cây công nghiệp.

Bảng 3.5: Những cây trồng chính phù hợp với vùng đồng bằng và trung du

tại Quảng Nam

Nhóm cây lương thực

Nhóm cây rau đậu

Nhóm cây công nghiệp

Nhóm cây ăn quả

Nhóm cây khác

- Đay, cói - Nông lâm kết hợp

- Xoài - Bưởi - Bòn bon

- Lúa - Bắp - Khoai lang - Sắn

- Đậu phộng - Đậu xanh - Ớt - Mè (vừng) - Dưa

- Dâu tằm - Mía - Thuốc lá - Bông - Hồ tiêu - Điều - Cao su - Quế

Nguồn: Đỗ Cảnh Dương, 2006, tr. 120 [19].

173

Do quá trình đô thị hóa nhanh và hoạt động du lịch phát triển, mà nhu cầu

rau quả ngày càng lớn và đây là cơ hội để nông nghiệp Quảng Nam khai thác

tiềm năng của nhóm cây này; có một số cây rau quả tham gia xuất khẩu thu về

ngoại tệ như cây ớt, thuốc lá, đậu phộng, vừng, dưa hấu. Ngoài ra, một số vùng

sản xuất nông nghiệp nhưng có liên kết với các hoạt động du lịch như làng rau

Trà Quế, hoặc một số vùng khác như làng ươm tơ dệt lụa Đông Yên, Duy Trinh;

làng trái cây Đại Bường, Quế Trung.

Đối với vùng trung du và miền núi. Thế mạnh của vùng này là trồng cây

công nghiệp, cây nguyên liệu giấy; kinh tế vườn theo mô hình nông lâm kết hợp

(Võ Lượng, 1999, tr. 25) [39]. Đối với cây lương thực như lúa, sắn, khoai chỉ

nhằm mục đích tự túc vì sản lượng lúa rẫy chỉ 1,9 tấn/ha/vụ (Ngô Văn Đồng,

2007, tr. 35) [25], lúa nước chỉ đạt mức 2,5 tấn đến 3,5 tấn/ha/vụ và diện tích trồng lúa nước không nhiều, bình quân mỗi hộ chỉ 200 m2 đến 300 m2 (Bùi Văn

Tuất, 2003, tr. 12) [87].

Theo kết quả nghiên cứu trên địa bàn, vùng trung du và vùng núi Quảng Nam

thích hợp cho các cây công nghiệp như cao su, quế; cây keo làm nguyên liệu

giấy; cây xoài, bưởi, bòn bon (Trần Quang Vinh, 2001, tr. 11) [96] là các loại

cây ăn quả thích hợp với đất đai và khí hậu tại Quảng Nam. Riêng cây cà phê và

ca cao không phát triển tốt trên đất đai của Quảng Nam (Nguyễn Văn Tân, 2001,

tr. 28) [80].

Về chăn nuôi. Vùng đồng bằng, trung du và miền núi tỉnh Quảng Nam đều có

thể phát triển ngành chăn nuôi gia súc như heo, bò, dê và gia cầm như gà, vịt.

Bò lai Sind phát triển tốt tại đất Quảng Nam thời gian qua, ưu điểm là cho năng

suất gấp 2 đến 2,5 lần so với bò địa phương, nhiều địa phương như Duy Xuyên,

Điện Bàn có những xã như xã Điện Quang đạt tỷ lệ Sind hóa đàn bò trên 95%.

Các hộ tại đây nuôi bò tập trung không chăn thả, thức ăn có sẵn tại địa phương

và xử lý phân bằng hầm bioga vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa tiết kiệm

được chất đốt và điện thắp sáng. Có nhiều hộ tiết kiệm hàng tháng trên 500 ngàn

174 đồng. Khảo sát tại hộ Đỗ Thị Cam, xã Điện Quang nuôi 14 con bò lai Sind, nuôi tập trung lấy phân cho hầm bioga 12 m3. Hầm được đầu tư 9 triệu đồng, sử dụng

ga nấu cho hai gia đình, dùng thắp sáng hai ngọn đèn cho mỗi nhà. Tại xã Điện

Quang hiện có trên 20 gia đình đầu tư hầm bioga vì chăn nuôi bò rất phát triển ở đây34.

Những năm qua, ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam phát triển chủ yếu dựa

trên hình thức chăn nuôi gia đình với qui mô nhỏ; và cung cấp chủ yếu cho thị

trường nội tỉnh và thành phố Đà Nẵng mà chưa mở rộng ra thị trường xuất khẩu.

Vì vậy, ngành chăn nuôi chưa phát triển. Phương hướng những năm đến, cần

Sind hóa đàn bò toàn tỉnh, nạc hóa đàn heo và phát triển nuôi gà cả hình thức

chăn nuôi gia đình và chăn nuôi công nghiệp, vì tỉnh Quảng Nam có nguồn thức

ăn dồi dào nhờ vào cây bắp, sắn, khoai, và bột cá luôn có sẵn tại địa phương.

Về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Quảng Nam có lợi thế về ngư

trường đánh bắt và mặt nước nuôi trồng thủy sản cả nước mặn, nước lợ và nước

ngọt. Ngành đánh bắt hải sản của tỉnh Quảng Nam đạt sản lượng không cao do

năng lực đánh bắt còn yếu cả về số lượng và công suất tàu thuyền. Đối với

ngành nuôi trồng thủy sản, tiềm năng khai thác mặt nước nuôi trồng rất lớn so

với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đặc biệt, sau khi phát triển 10

công trình thủy điện lớn trên hệ thống sông Vu Gia, Thu Bồn sẽ tạo nên 10.400

ha mặt nước; đây sẽ là tiềm năng để Quảng Nam phát triển nuôi trồng thủy sản

nước ngọt trên các lòng hồ thủy điện.

Ngoài ra, tỉnh Quảng Nam có một lợi thế là kết hợp nuôi trồng thủy sản với

hoạt động du lịch, nếu được tổ chức tốt hơn thì nông dân ngoài việc có thu nhập

từ nuôi thủy sản còn có các thu nhập khác từ hoạt động du lịch; nhất là các vùng

dọc sông Trường Giang và Cù Lao Chàm.

Về lâm nghiệp. Hiện tỉnh Quảng Nam có 184.503 ha đất rừng trồng tập trung,

chưa kể rừng phân tán của các hộ dân có diện tích tương đương. Nên tiềm năng 34 Khảo sát của tác giả ngày 10 tháng 4 năm 2010.

175 phát triển cây nguyên liệu giấy tại Quảng Nam rất lớn. Ngoài việc phát triển

rừng trồng, tỉnh Quảng Nam hiện đứng thứ 4 cả nước về tiềm năng thủy điện, với nguồn thủy năng 18 tỷ m3 mỗi năm và cung cấp hơn 6 tỷ kWh điện/năm. Để

duy trì nguồn nước các công trình thủy điện, Chính phủ cho thực hiện nuôi trồng

và chăm sóc rừng và Nhà nước sẽ chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho các

hộ chăm sóc (Nghị định 99/2010/NĐ-CP) [51].

Hiện tại, tỉnh Quảng Nam thu thuế tài nguyên từ thủy điện A Vương (khoảng

12 tỷ đồng mỗi năm), tỉnh giữ lại 60%, còn 40% giao về 3 huyện là Đông Giang,

Tây Giang và Nam Giang để thực hiện các chương trình phát triển hổ trợ các

cộng đồng tái định cư bị ảnh hưởng bởi thủy điện và cộng đồng dân cư sống trên

địa bàn. Tuy nhiên, số tiền này không đủ để tạo thu nhập của người dân trong

tham gia tái sinh và trồng rừng. Việc triển khai chi trả phí dịch vụ rừng sẽ làm

gia tăng nguồn cho tái sinh rừng; tuy nhiên, cần phải huy động thêm các nguồn

khác trong đó phải có sự đóng góp thêm của nhà máy thủy điện từ lợi nhuận sau

thuế. Điều này sẽ đem lại những lợi ích lớn hơn cho nhà máy thủy điện nếu mọi

người dân đều tham gia bảo vệ rừng để có thu nhập. Trước đây, tại tỉnh Quảng

Nam đã thực hiện chương trình trồng cây lâm nghiệp trên đất nương rẫy và Nhà

nước sẽ cấp bù lương thực cho người dân; xét cho cùng thì trồng lúa trên đất

nương rẫy rất bấp bênh, cuối cùng người dân vùng núi tỉnh Quảng Nam chủ yếu

vẫn dựa vào cây sắn (Đoàn Tranh, 2011, tr. 568) [82]. Đây là cơ hội để tỉnh

Quảng Nam chuyển dịch và gia tăng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp trong

những năm đến.

b. Chuyển dịch theo hướng lựa chọn các cây trồng, vật nuôi phù hợp với

thị trường trong nước và xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao

Bảng 3.6 cho thấy thu nhập của nông dân vùng đồng bằng nhờ vào trồng các

loại cây rau đậu đem lại thu nhập cao hơn hẳn so với trồng lúa chỉ đem lại thu

nhập không quá 3,8 triệu đồng/ha.

176

CHỈ TIÊU

Cà Tím

Rau muống

Dưa Leo

Dưa gang

Xà Lách

Đậu Đũa

Năng suất (tấn/ha) Doanh thu (1000 đ)

24 24.120

47 28.200

23,2 27.840

21,4 21.400

31,2 34.230

15,2 18.240

Chi phí (1000 đ)

11.819

14.970

15.570

8.779

16.230

12.390

Lợi nhuận (1000 đ)

12.301

13.230

12.270

12.621

18.163

5.850

Nguồn: Nguyễn Tấn Cư, 2004 [15].

Bảng 3.6: Thu nhập của các loại rau đậu tại Quảng Nam

Không chỉ các cây rau đậu như được phân tích ở trên; cây lúa giống, cây bắp,

cây công nghiệp ngắn ngày như cây ớt, cây thuốc lá cũng đem lại giá trị cao cho

nông dân. Đối với vùng trung du, việc chuyển từ trồng các cây nguyên liệu giấy,

cây ăn quả được chuyển sang trồng các cây cao su, cây dó bầu đem lại thu nhập

cao hơn. Tại vùng dọc biển và dọc sông Trường Giang nên chuyển các ruộng lúa

năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản đem lại giá trị kinh tế cao gấp 4,5 lần so

với trồng trọt. Nhiều hộ dân tại Điện Dương huyện Điện Bàn chuyển sang trồng

cây cảnh và cỏ Nhật để phục vụ các khách sạn và resort mà có thu nhập cao và

ổn định hơn là sản xuất nông sản.

Ngoài ra, việc hướng đến xuất khẩu mà nhiều nông sản gia tăng giá trị cao

hơn; cây dưa tại Tam Phước, huyện Phú Ninh, cây ớt tại Đại Lộc, Điện Bàn, trái

thanh long tại Núi Thành, cây dó bầu dùng sản xuất các hàng thủ công xuất

khẩu, thủy sản dành cho xuất khẩu,... Tuy nhiên, đa số các hàng xuất khẩu của

Quảng Nam chủ yếu xuất sang là các thị trường Châu Á, là thị trường có giá cả

thấp mà chưa hướng đến thị trường Mỹ là thị trường có đến 2,5 triệu người Việt

Nam sinh sống và có giá trị xuất khẩu cao hơn. Những năm đến, hàng nông sản

xuất khẩu của Quảng Nam cần hướng đến thị trường có giá trị cao này.

c. Chuyển dịch theo hướng phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa

Chuyển dịch theo hướng thành lập các vùng chuyên môn hóa thì mới xây

dựng được nền nông nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Mỗi vùng miền

của Quảng Nam có khả năng thành lập các vùng chuyên canh: 1) Vùng ven biển

177 từ Điện Bàn, Hội An đến Tam Hải và Cù Lao Chàm có các vùng chuyên canh

như vùng rau Trà Quế, rau đắng, trái bắp Hội An; yến sào Hội An, tôm nước lợ

Trường Giang. 2) Vùng trung du và đồng bằng là vùng hạ lưu của sông Vu Gia,

Thu Bồn và sông Tam Kỳ có các vùng chuyên canh cây lúa nước, cây công

nghiệp ngắn ngày, rau đậu, trồng dâu nuôi tằm, cây cảnh, cây ăn trái; chăn nuôi

bò, heo và gia cầm. 3) Vùng núi gồm có vùng núi phía Nam mưa nhiều phù hợp

với cây quế, vùng núi phía Bắc ít mưa hơn có cây trái “bòn bon”. Cả hai vùng là

vùng nguyên liệu giấy, cây công nghiệp, song mây, cây lâm nghiệp, câu dứa,

cây sắn; chăn nuôi đại gia súc như bò, dê.

Đặc điểm là các vùng chuyên canh ở Quảng Nam, trừ vùng nguyên liệu giấy,

vùng cây quế thì các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi khác có qui mô

không lớn nhưng là những đặc sản mà các địa phương khác ít sánh kịp. Chỉ có

chuyển dịch theo hướng thành lập các vùng chuyên canh thì mới có khả năng tập

trung hóa trong sản xuất nông nghiệp và đây cũng là tiền để để phát triển nền

nông nghiệp tỉnh Quảng Nam theo hướng công nghiệp và hiện đại hóa.

d. Chuyển dịch theo hướng phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ

môi trường

Phát triển nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng của sản xuất và tiêu dùng

nông sản. Những năm qua nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nhiều

chương trình sản xuất nông sản hữu cơ và bảo vệ môi trường; những năm đến để

chuyển dịch theo hướng này, nền nông nghiệp cần tập trung vào các lĩnh vực

chủ yếu sau:

- Đối với canh tác cây lương thực và rau đậu: 1) duy trì sản xuất 2 vụ lúa

thay vì sản xuất 3 vụ lúa, để đất phục hồi độ màu mỡ và tránh mùa bão, lũ tại

miền Trung; 2) áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp và phát triển rộng

khắp phương pháp canh tác 3 giảm 3 tăng không chỉ trong sản xuất cây lúa mà

cả trong các loại cây trồng khác; 3) phát triển các vùng rau sạch như vùng rau

Trà Quế và xây dựng thương hiệu rau sạch Quảng Nam.

178

- Đối với nuôi trồng thủy sản cần chuyển theo nuôi thủy sản sinh thái. Mật độ nuôi tôm khoảng 6 đến 8 con/m2 thay vì 10 đến 15 con/m2, lúc đó chi phí xử

lý môi trường, thuốc dịch bệnh sẽ giảm. Không chỉ có vậy, lượng con giống đầu

tư ít lại nhưng cho sản lượng thu hoạch cao hơn vì trọng lượng mỗi con tôm, con

cá khi thu hoạch lớn hơn.

- Chăn nuôi gia súc, gia cầm kết hợp với xử lý hầm bioga vừa bảo vệ môi

trường vừa giảm chi phí cho các hộ nông dân. Các trại chăn nuôi của nông hộ ở

xã Điện Quang là hình mẫu để áp dụng tại các địa phương khác trong tỉnh.

Phát triển ruộng bậc thang tại các vùng cao nhằm nâng cao năng suất -

canh tác lúa của các đồng bào dân tộc, lúa nương chỉ cho năng suất 1 tấn/ha và

chỉ trồng được một vụ; trong khi ruộng lúa nước tại vùng cao có thể cho năng

suất từ 2,5 tấn đến 3,5 tấn/ha/vụ và có thể canh tác 2 vụ. Với năng suất này, các

đồng bào dân tộc sẽ không phá rừng làm rẫy mà sẽ chuyển các nương rẫy sang

trồng cây lâm nghiệp vừa bảo vệ được môi trường vừa tăng thêm thu nhập theo

Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Để triển khai được việc chuyển đổi trên, cơ quan quản lý nông nghiệp tỉnh

Quảng Nam cần triển khai dán nhãn hưu cơ các nông sản, vừa để xây dựng

thương hiệu nông sản của tỉnh, vừa gia tăng giá trị của nông sản khi tiêu thụ tại

các siêu thị.

e. Chuyển dịch nông nghiệp kết hợp với chuyển dịch lao động nông

nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp

Lực lượng lao động trong nông nghiệp còn quá lớn (năm 2010 là 59,1%) là

một bất lợi đối với nền nông nghiệp Quảng Nam, nên việc chuyển dịch lao động

nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp kết hợp cùng với quá trình chuyển

dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là cần thiết để phát triển nông nghiệp tỉnh

Quảng Nam những năm đến. Chỉ có tiến hành nhanh quá trình này thì mới làm

cho: 1) năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp tăng lên; 2) tạo động

lực để cơ giới hóa, chuyên môn hóa, tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp;

179 3) chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn; và 4) tăng thu nhập của các hộ nông nghiệp.

Theo tính toán, từ nay đến năm 2020, mỗi năm cần thiết phải chuyển từ

35.000 đến 40.000 lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực hoạt động phi nông

nghiệp. Để thu hút lao động từ nông nghiệp, ngoài việc phát triển các công

nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, phát triển 70 làng nghề hiện có, tỉnh

Quảng Nam cần tập trung phát triển các hoạt động dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp,

các hoạt động thương mại và dịch vụ gắn với chuỗi ngành hàng nông sản. Tất cả

những biện pháp này làm cho nông hộ “ly nông bất ly hương”.

Tóm lại, các biện pháp chuyển dịch sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng

Nam những năm đến dựa vào các ngành có lợi thế so sánh nhưng phải đáp ứng

tốt nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; việc sản xuất phải theo hướng

chuyên môn hóa, tập trung hóa, khai thác hợp lý vùng sinh thái kinh tế; lấy hiệu

quả kinh tế làm động lực để phát triển và xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ.

Việc chuyển dịch sản xuất như trên phải đồng thời chuyển dịch lao động nông

nghiệp sang các hoạt động kinh tế khác thì mới có cơ hội xây dựng nền nông

nghiệp tại Quảng Nam theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

3.2.2. Khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp

Khai thác tổng hợp sẽ là giải pháp quan trọng khi phát triển các vùng sinh

thái nông nghiệp, trong đó hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển sẽ là cơ sở

để định hướng phát triển vùng sinh thái nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những

năm đến.

a. Phát triển tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp

Việc khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp, ngoài việc phát triển

nông nghiệp cần phải kết hợp với các hoạt động phi nông nghiệp có gắn với

nông nghiệp, vừa để tận dụng mọi nguồn lực tạo ta thu nhập, giảm chi phí cho

nông hộ, còn để phát triển nông nghiệp một cách bền vững. Vì vậy, đối với mỗi

vùng sinh thái sẽ phát triển tổng hợp theo hướng sau.

180

Vùng ven biển. Ngoài việc phát triển đánh bắt hải sản và nuôi thủy sản dưới

dạng công nghiệp để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản. Khi cầu

Cửa Đại hoàn thành, việc giao thông khu vực dọc biển và sông Trường Giang

được lưu thông thuận lợi thì nên chuyển toàn bộ các hộ nông dân và trang trại

theo mô hình nuôi trồng thủy sản, và sản xuất các loại rau đậu, cây trái, cây cảnh

phục vụ cho các hoạt động du lịch, khách sạn tại khu vực này. Một số trang trại

thủy sản có điều kiện nên chuyển sang các hoạt động du lịch trang trại theo các

mô hình sau: 1) Giường và ăn sáng – du lịch phổ biến nhất là ngủ qua đêm,

khách du lịch được ở trong nhà của trang trại và được phục vụ bữa ăn điểm tâm

đầy đủ như là một phần của dịch vụ. 2) Khách sạn nhỏ của tư nhân cho thuê để

ở nửa ngày hoặc cả ngày, đây là một loại dịch vụ cung cấp giường và bữa ăn

điểm tâm cộng thêm bữa ăn tối hoặc cả bữa trưa và bữa tối. Tất cả đều do nông

dân cung cấp, có thể ăn cùng với nông dân, một bữa ăn thịnh soạn có các món

được chế biến từ các sản phẩm của trang trại. Bằng cách này, người nông dân

cho khách du lịch thưởng thức một kinh nghiệm đặc biệt và bổ sung giá trị vào

sản phẩm du lịch. 3) Ăn ở tự phục vụ – nhiều nông dân không muốn nấu nướng

cho khách, nhưng họ có nhà và họ biến chúng thành những căn hộ hoặc lều phục

vụ những ngày nghỉ, được trang bị sao cho khách có thể tự nấu các bữa ăn cho

mình. Một mô hình khác theo kiểu này là tổ chức dịch vụ câu cá và đánh bắt

thủy sản theo yêu cầu của du khách. 4) Các hoạt động cho khách du lịch – nhiều

nông dân còn cung cấp các hoạt động cho khách du lịch, khách có thể ở lại trang

trại hoặc đơn giản chỉ đến trang trại trong thời gian ban ngày. Những hoạt động

này gồm hướng dẫn cách nuôi cá, trồng rau, bơi thuyền, câu cá, chơi các môn

thể thao nước, các cuộc đi tham quan mang tính giáo dục, và các cơ hội để

“kiếm thực phẩm cho bản thân”.

Vùng đồng bằng và trung du. Vùng này có lợi thế so sánh để phát triển một

số mô hình trồng trọt và chăn nuôi theo hình thức chuyên canh và thâm canh kết

hợp với phát triển công nghiệp chế biến và phát triển các hoạt động ngành hàng

181 như sau: 1) Xây dựng các vùng trồng lúa “giống” thay vì trồng lúa “thịt”, giá lúa

giống cao gấp 1,5 lần đến 2 lần giá lúa thịt thương phẩm trong khi chi phí trồng

lúa giống không cao hơn lúa thịt là bao nhiêu, chỉ có công chăm sóc là cao hơn, công chăm sóc một sào 35 lúa thịt cần 8 công thì sào lúa gống tăng thêm 4 công

nữa. Hiện nay một số vùng trồng lúa ở Điện Bàn, Đại Lộc đã dần chuyển sang

vùng trồng lúa giống. 2) Phát triển các vùng chuyên canh rau đậu, cây ăn trái,

cây bắp, cây công nghiệp ngắn ngày đem lại giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với

trồng lúa. Vùng trái thanh long huyện Núi Thành; vùng trồng dưa leo, dưa hấu

Tam Phước; vùng trồng ớt, đậu phộng, mè, bắp tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn;

vùng rau Trà Quế Hội An, Quảng Huế huyện Đại Lộc,… cho thu nhập gấp 4 đến

5 lần so với trồng lúa. 3) Thay các giống bò địa phương bằng giống bò lai Sind

cho năng suất cao gấp 2 đến 2,5 lần. Mô hình nuôi bò lai Sind tại Điện Quang

huyện Điện Bàn kết hợp với xử lý phân bằng hầm bioga đem lại thu nhập cao và

nhiều lợi ích ích kinh tế cho nông hộ và nhất là vấn đề xử lý môi trường tại nông

thôn đối với việc phát triển ngành chăn nuôi tại Quảng Nam.

Vùng núi Quảng Nam. Nói chung nông lâm kết hợp sẽ là giải pháp canh tác

phù hợp cho các vùng địa hình núi dốc tại Quảng Nam. Lâm nghiệp kết hợp với

các cây trồng công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi sẽ là mô hình đem lại hiệu

quả kinh tế cao cho các hộ dân và các trang trại tại Quảng Nam; và mô hình này

cũng phù hợp với các vùng dân tộc thiểu số tại các huyện phía tây Quảng Nam,

vì vừa tạo thu nhập cho đồng bào các dân tộc vừa giúp bảo vệ rừng, tránh xói

mòn đất và duy trì nguồn nước (Đào Bá Hoàn, 2004) [33]. Nói riêng, vùng này

có một số cây trồng, vật nuôi có lợi thế cần khai thác hiệu quả như: 1) Khôi

phục lại giống quế địa phương Quảng Nam (vùng Trà My cũ) là cây đặc sản có

giá trị, nhưng sau thời gian phát triển ào ạt và chọn giống không phù hợp đã làm

cây quế Quảng Nam mất dần thị trường xuất khẩu, trước đây một cây quế cho

thu nhập trên 20 triệu đồng thì hiện nay chỉ cho tối đa 100 ngàn đồng, nên nhiều 35 1 sào = 500 m2

182 nông dân chặt quế trồng keo là vì vậy. 2) Phát triển vùng sâm Ngọc Linh (vùng

Nam Trà My) là cây thuốc có giá trị nhưng hiện nay vẫn chưa phát triển thương

mại và chưa thể xây dựng chỉ dẫn địa lý cho cây này vì có sự tranh chấp giữa

Kon Tum và Quảng Nam về sở hữu chỉ dẫn địa lý. 3) Phát triển cây “bòn bon”

vùng huyện Nam Giang Quảng Nam thành loại trái cây đặc sản. 4) Phát triển

vùng dứa tại các xã vùng núi huyện Đại Lộc và huyện Nam Giang, Quảng Nam.

5) Phát triển nuôi trồng thủy sản trên các lòng hồ thủy điện. 6) Phát triển cây

nguyên liệu giấy tại các rừng sản xuất, đất nương rẫy và rừng phân tán trong

dân. Đây là cây có lợi thế tại vùng này, tỉnh Quảng Nam cần xây dựng nhà máy

chế biến bột giấy sử dụng cây keo và cây bạch đàn làm nguyên liệu thì sẽ làm

gia tăng giá trị cây nguyên liệu giấy và tạo đầu ra ổn định cho cây trồng chiến

lược này.

Để khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp như trên cần phải

nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại mỗi vùng sinh thái để

phát triển cho phù hợp. Trong đó, quan trọng là hoàn thiện công tác qui hoạch

phát triển nông nghiệp.

b. Hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển nông nghiệp

Để chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và khai thác hợp lý các vùng

sinh thái nông nghiệp, thì vấn đề hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển nông

nghiệp tại các vùng sinh thái nông nghiệp là cần thiết.

Qui hoạch vùng lãnh thổ - ngành (địa kinh tế) là sắp xếp, bố trí các hoạt động

kinh tế, xã hội trên một địa bàn lãnh thổ nhất định nhằm cụ thể hóa chiến lược

phát triển của vùng lãnh thổ trong từng thời kỳ và là cơ sở để xây dựng các

chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong ngắn hạn. Như vậy, qui

hoạch có vai trò làm cầu nối để triển khai các chiến lược phát triển trong dài hạn

và các kế hoạch trong ngắn hạn.

Do khoa học, công nghệ phát triển nhanh, thị trường luôn chuyển dịch nên

qui hoạch phải bao hàm các nhân tố “cứng” và “mềm”. Qui hoạch “cứng” đòi

183 hỏi qui hoạch phải tuân thủ các qui chuẩn, tiêu chuẩn, các cơ sở pháp lý và

chính sách để hướng mọi hoạt động phù hợp với qui hoạch; bên cạnh đó, qui

hoạch “mềm” yêu cầu qui hoạch phải có tính linh hoạt hay nói cách khác các kế

hoạch phát triển, các chương trình, dự án luôn được điều chỉnh để mọi hoạt động

thực tiễn luôn hướng đến mục tiêu của chiến lược phát triển.

Những năm qua, công tác qui hoạch của tỉnh Quảng Nam có một số nhược

điểm: 1) Nặng về tổ chức sản xuất mà chưa nghiên cứu và dự báo thấu đáo nhu

cầu của thị trường, sự thay đổi của công nghệ. 2) Căn cứ qui hoạch chưa xuất

phát từ chiến lược phát triển; những thông tin về tài nguyên, nguồn lực, thị

trường,… không đầy đủ, nhiều khi không chính xác. 3) Qui hoạch nhưng không

có kế hoạch cụ thể và không có chính sách và cơ sở pháp lý để đảm bảo phát

triển theo qui hoạch; dẫn đến tùy tiện thay đổi qui hoạch. 4) Chỉ đạo thực hiện

nhiều khi không gắn với qui hoạch. Tất cả những điều đó làm cho chất lượng qui

hoạch thấp không phục vụ cho việc thực hiện các chương trình, đề án phát triển.

Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong giai

đoạn 2011-2020, việc hoàn thiện qui hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng

Nam cần chú ý những vấn đề sau đây:

1) Qui hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải gắn với qui hoạch phát

triển kinh tế, xã hội của toàn tỉnh, của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và

của cả nước và có tính đến yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế.

2) Phải căn cứ vào lợi thế so sánh của từng vùng, nhu cầu của khách hàng

trong nước và các nước, xu hướng tiêu dùng, và sự phát triển của khoa học, công

nghệ.

3) Qui hoạch phải gắn với chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, hình thành các

vùng chuyên canh, và phát triển kinh tế trang trại.

4) Qui hoạch vùng sản xuất cây trồng, vật nuôi phải gắn với qui hoạch chuỗi

ngành hàng nông sản. Hay nói cách khác qui hoạch vùng sản xuất nông nghiệp

phải có qui hoạch ngành chế biến, kho hàng, vận tải và các hoạt động dịch vụ

184 khác đi liền với nó làm thế nào để đưa được nông sản đến người tiêu dùng cuối

cùng.

Ngoài ra, qui hoạch phát triển nông nghiệp phải được triển khai đồng bộ với

qui hoạch đất đai, qui hoạch khu công nghiệp chế biến, khu dân cư nông thôn và

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, viễn thông, trường học,

bệnh viện, chợ,…). Các loại qui hoạch trên đều phải gắn với việc cơ giới hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới và chuyển dịch mạnh cơ cấu

kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của

từng vùng, từng địa phương.

Để triển khai qui hoạch phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam trong

thời gian đến, cần thực hiện nhiều công việc: 1) Ưu tiên dự báo dài hạn nhu cầu

thị trường về các loại nông sản chủ yếu; 2) điều tra và phúc tra tài nguyên, khí

hậu,…; 3) cụ thể hóa qui hoạch chung thành qui hoạch cụ thể cho từng huyện,

từng ngành, từng sản phẩm; 4) có cơ chế, chính sách để gắn qui hoạch với đầu

tư và kế hoạch; 5) tăng cường các biện pháp để thực hiện qui hoạch trong điều

kiện nông dân và trang trại nhỏ là chủ yếu.

Dựa trên chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2020, nếu tỉnh Quảng

Nam hoàn thiện được qui hoạch phát triển nông nghiệp các vùng sinh thái nêu

trên thì sẽ tạo điều kiện xây dựng các chương trình, đề án cho việc chuyển đổi

cây trồng, vật nuôi; phát triển các loại hình dịch vụ, công nghiệp chế biến; liên

kết giữa nông nghiệp, công nghiệp và hoạt động du lịch phù hợp với từng vùng

kinh tế tại Quảng Nam.

3.2.3. Phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn

hóa, tập trung hóa

Phát triển công nghiệp chế biến sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nông sản ổn định và

giúp liên kết kinh tế giữa ngành nông nghiệp với ngành công nghiệp và dịch vụ;

liên kết giữa các đối tác trên chuỗi các ngành hàng nông sản, từ đó có điều kiện

hình thành các vùng chuyên môn hóa và thúc đẩy tập trung hóa. Đối với Quảng

185 Nam, tiềm năng phát triển nông nghiệp khá toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi,

thủy sản và cây lâm nghiệp. Nhưng những năm qua, nông dân Quảng Nam chủ

yếu vẫn bán sản phẩm “thô”; việc đa dạng hóa và làm gia tăng giá trị của các

nông sản thông qua công nghiệp chế biến chưa phát triển. Vì vậy, những năm

đến, Quảng Nam cần phải ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến theo hướng

sau:

a. Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước

và xuất khẩu

Quảng Nam có tiềm năng về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản vì có ngư trường

rộng và có môi trường nước lợ, nước ngọt phong phú cho nuôi trồng thủy sản.

Nghề nuôi cá tại Quảng Nam đang phát triển, nếu công nghiệp chế biến thủy sản

phát triển sẽ thúc đẩy gia tăng số lượng tàu và công suất đánh bắt của ngư dân,

và sẽ mở rộng được vùng nuôi cá nước mặn, nước lợ và nước ngọt tại Quảng

Nam.

b. Phát triển công nghiệp chế biến súc sản, công nghiệp sữa, công nghiệp

chế biến thức ăn gia súc

Ngành chăn nuôi tại Quảng Nam đang phát triển, nhất là gà, heo, bò và trâu,

những năm đến cần hướng ngành chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, chăn

nuôi tập trung tại các vùng trung du tại Quảng Nam. Chăn nuôi bò sữa đang

được thử nghiệm để phát triển trên diện rộng tại Quảng Nam. Tuy nhiên, để ổn

định đầu ra cần phát triển công nghiệp chế biến súc sản và công nghiệp sữa;

không kể xuất khẩu, nhu cầu tiêu thụ nội địa hiện cũng rất lớn và xu hướng cải

thiện dinh dưỡng và cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam đặt ra nhu cầu tiêu thụ

thịt cá tăng lên.

Quảng Nam cũng có tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến thức ăn gia

súc cho heo, gà, tôm, cá ở qui mô vừa và nhỏ vì nguồn bắp, đậu tương và bột cá

luôn có sẵn tại Quảng Nam, và là thành phần chính cho chế biến thức ăn gia súc.

186

c. Phát triển công nghiệp chế biến rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày

Những năm qua ngành rau đậu của Quảng Nam phát triển rất nhanh để phục

vụ cho các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Nhu cầu rau sạch, rau có

chứng nhận hữu cơ, rau được xử lý sẵn trước khi cung cấp cho các siêu thị, nhà

hàng, khách sạn. Vì vậy, việc xây dựng các kho xử lý, bảo quản, đóng gói tại

các vùng sản xuất tập trung như làng rau Trà Quế cần được quan tâm, và đây

cũng là cách thức để gia tăng giá trị cho ngành trồng rau tại Quảng Nam.

Ngoài ra, các cây công nghiệp ngắn ngày như ớt, thuốc lá, vừng, đậu phộng

là những cây công nghiệp đem lại giá trị cao phù hợp với vùng châu thổ và vùng

phù sa tại Quảng Nam. Riêng cây ớt khi bán “thô” đã thu về giá trị gần 140 triệu

đồng/ha, nếu qua chế biến sẽ làm giá trị cây ớt tăng lên rất nhiều, và việc bảo

quản, đóng gói, vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu rất thuận lợi.

d. Phát triển công nghiệp chế biến nguyên liệu giấy và bột giấy

Quảng Nam nói riêng và miền Trung, Tây Nguyên có nhiều rừng và trữ lượng

gỗ rất lớn. Mặt dù rừng phòng hộ và rừng đặc dụng hiện không được khai thác,

nhưng rừng sản xuất tại Quảng Nam có đến 184 ngàn ha, trong đó chưa kể rừng

phân tán nằm tại đất vườn và đất rẫy của các hộ dân chiếm một diện tích tương

đương với rừng sản xuất. Những năm qua, công nghiệp chế biến đồ gỗ và

nguyên liệu giấy có phát triển, nhưng chưa sử dụng các công nghệ hiện đại để

sản xuất ra các sản phẩm gỗ, ván sàn cao cấp (flywood), bột giấy. Hiện nguyên

liệu giấy của Quảng Nam băm từ cây keo, bạch đàn xuất khẩu sang Nhật Bản để

chế biến thành bột giấy; sau đó, bột giấy được nhập vào Việt Nam để sản xuất ra giấy. Nông dân bán 1 stère (1 m3) gỗ keo giá 200 ngàn đồng, sau khi băm thành

nguyên liệu giấy xuất khẩu tại cảng Đà Nẵng là 1,6 triệu đồng/tấn (giá

Vijachip), nhưng khi nhập khẩu từ Nhật Bản, giá bột giấy bình quân là 883

187 USD/tấn36, giá nhập khẩu bột giấy gấp 9,5 lần so với giá xuất khẩu nguyên liệu

giấy.

Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp chế biến bột giấy phải xét đến vùng

nguyên liệu cả miền Trung và Tây Nguyên thì hiệu quả kinh tế mới cao và

Quảng Nam là địa điểm thích hợp để xây dựng một nhà chế biến bột giấy vì nằm

ở vị trí trung tâm của cả nước về giao thông và trung tâm của vùng nguyên liệu.

e. Phát triển công nghiệp chế biến sắn

Hình 3.1 cho thấy chuỗi thị trường liên kết nông dân trồng sắn với các ngành

công nghiệp liên quan đến sản phẩm từ sắn. Sắn được chế biến thành tinh bột

sắn và nhiều sản phẩm có ích từ cây sắn, cây sắn cũng có thể chế tạo ra ethanol

SẮN CỦ TƯƠI (Từ nông dân)

NHÀ MÁY CHẾ BIẾN SẮN (Băm, xắt lát, bột lọc) CHẾ BIẾN SƠ BỘ

BÁNH KẸO

TINH BỘT

ETHANOL

CÔNG NGHIỆP DƯỢC

ĐỒ UỐNG (Rượu)

thay thế nhiên liệu cho các động cơ diesel.

KHÁCH HÀNG

Nhà bán sĩ/Bán lẻ

36 Nguồn: http://www.vietnam-ustrade.org/index.php?f=news&do=detail&id=228&lang=vietnamese

Hình 3.1: Chuỗi thị trường tiêu biểu của ngành công nghiệp sắn

188

Cây sắn là cây lương thực của nông dân nghèo và của các đồng bào dân tộc

vùng cao tại Quảng Nam; trong chiến tranh, cây sắn là cây nuôi sống bộ đội

trong những lúc thiếu lương thực. Ngày nay, cây sắn là cây xóa đói, giảm nghèo

cho các vùng nông thôn, nhất là vùng các dân tộc miền núi canh tác chủ yếu dựa

vào cây sắn.

Ngoài các ngành công nghiệp chế biến chủ yếu trên, việc bảo tồn và phát

triển 70 làng nghề tại Quảng Nam sẽ góp phần phát triển các ngành tiểu thủ

công nghiệp lấy nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm

từ những khiếm khuyết trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến những

năm qua tại Quảng Nam, việc phát triển công nghiệp chế biến những năm đến

cần xuất phát từ mục tiêu phát triển, đồng thời bám sát các quan điểm sau:

+ Lựa chọn công nghệ phù hợp: Là lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng

cao sản lượng, giá trị sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ

sinh thực phẩm.

+ Qui mô sản xuất: Phải phù hợp với vùng nguyên liệu, công nghệ và cơ sở

hạ tầng.

+ Về qui hoạch: Không chỉ qui hoạch vùng nguyên liệu mà qui hoạch phải

gắn với qui hoạch tổng thể kinh tế, xã hội và môi trường. Một nhà máy ra đời

không chỉ đảm bảo về mặt phát triển sản xuất mà phải kết hợp phát triển vùng,

xóa đói giảm nghèo, hạn chế di dân và bảo vệ môi trường sinh thái.

+ Về đầu tư: Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, mở rộng liên

doanh giữa các doanh nghiệp chế biến trong nước và với nhà đầu tư nước ngoài

nhằm tăng nguồn lực về vốn và công nghệ.

Định hướng phát triển như trên sẽ làm hình thành các vùng chuyên canh làm

cho sản xuất hàng hóa phát triển. Quá trình này sẽ làm tập trung các nguồn lực

trong sản xuất nông nghiệp, nhất là tích tụ đất đai. Tuy nhiên, việc dồn điền đổi

thửa vừa qua tại tỉnh Quảng Nam và một số địa phương trong cả nước, có làm

cho các mãnh ruộng liền thửa và diện tích lớn lên, những không làm cho qui mô

189 đất đai trên mỗi đơn vị sản xuất nông nghiệp lớn hơn. Nên việc rút nhanh lao

động ra khỏi nông nghiệp, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân, thì quá trình

chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam mới thúc

đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

3.2.4. Hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp

Mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể

dựa hoàn toàn vào các nông hộ nhỏ mà phải dựa vào các trang trại qui mô lớn và

các loại hình doanh nghiệp trong nông nghiệp. Tuy nhiên, đến năm 2020, lao

động trong nông nghiệp vẫn còn chiếm một lực lượng lớn đến 30%, nên những

năm đến nông nghiệp Quảng Nam vẫn phải dựa vào kinh tế nông hộ và trang

trại là hai hình thức chủ yếu và hoàn thiện các hình thức tổ chức khác như hợp

tác xã kiểu mới và hiệp hội ngành hàng.

a. Nâng cao năng lực kinh tế nông hộ và phát triển kinh tế trang trại

Nâng cao năng lực kinh tế nông hộ chính là việc làm cho các nông hộ nhỏ

liên kết lại thực hiện chuyên môn hóa để cùng đáp ứng đơn hàng của một vài

ngành hàng cụ thể; chỉ có như vậy, nông hộ nhỏ mới có điều kiện áp dụng cơ

giới hóa, không chỉ nâng cao năng lực sản xuất qua tích tụ được đất đai, hình

thành các vùng chuyên canh mà còn tiếp cận được qui trình sản xuất tối ưu,

chứng nhận sản phẩm sạch, hữu cơ, tiếp cận thị trường nông sản và hội nhập vào

các ngành hàng một cách hiệu quả.

Hình 3.2 cho thấy các nông hộ sản xuất rau ở làng rau Trà Quế, xã Cẩm Hà,

Hội An đã nâng cao được năng lực sản xuất nhờ liên kết tạo nên vùng chuyên

canh, đáp ứng được các đơn hàng lớn, đem lại giá trị cao trong sản xuất rau.

Không những rau Trà Quế đã trở thành thương hiệu nhờ biết tạo ra vùng rau

sạch, an toàn và hiện là khách hàng truyền thống của hệ thống siêu thị Metro,

Big C, Co-op Mart và hệ thống các khách sạn lớn tại Quảng Nam và thành phố

Đà Nẵng; mà còn tạo ra những lợi ích khác cho xã hội, cộng đồng kinh tế tại địa

phương, nhất là ngành du lịch tại Quảng Nam.

190

THU NHẬP CHO CÁC NGÀNH VÀ XÃ HỘI

Các công ty Du lịch thu nhập từ hướng dẫn, đưa đón khách

Bán vé tham quan của UBND xã Cẩm Hà

Thu nhập từ các hoạt động du lịch cho Hội An và tỉnh Quảng Nam

Các dịch vụ tư nhân phục vụ tham quan và hướng dẫn trồng rau

Đầu tư của Nhà nước - Hạ tầng - Nhà lưới

LÀNG RAU TRÀ QUẾ - Dùng rong, bánh dầu làm phân bón. Tưới nước sạch - Không dùng phân chuồng, phân hóa học, thuốc trừ sâu - Chứng nhận thương hiệu của Cục Sở hữu Trí tuệ

Giá bán rau tăng nhờ thương hiệu rau sạch

CUNG CẤP QUA HỢP TÁC XÃ (50%) - Siêu thị Metro và Big C tại Đà Nẵng - Siêu thị Coop Mart Tam Kỳ

NGƯỜI TRỒNG BÁN TRỰC TIẾP (50%) - Các khu resort, khách sạn lớn tại Hội An, Đà Nẵng - Các thu gom cá nhân

THU NHẬP TRỰC TIẾP CỦA NGƯỜI TRỒNG RAU

Hình 3.2: Những lợi ích từ việc xây dựng thương hiệu rau sạch Trà Quế 37

Tuy nhiên, trong tương lai xa hơn, nâng cao năng lực của các nông hộ tại

Quảng Nam phải đi liền với các giải pháp đồng bộ về nâng cao thu nhập của

nông hộ, rút nhanh lao động nông nghiệp để chuyển sang các hoạt động phi

nông nghiệp, phát triển các làng nghề, phát triển du lịch nông nghiệp. Đồng thời

Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ nông

dân từ bỏ ruộng đất và chuyển sang các ngành nghề khác. Đây cũng là kinh

nghiệm của Hà Lan khi khuyến khích các trang trại làm ăn thua lỗ chuyển

37 Khảo sát thực tế tại thôn Trà Quế, xã Cẩm Hà tháng 2 năm 2010.

nhượng đất cho các trang trại lớn hơn để hình thành các trang trại có qui mô rất

191 lớn và chính phủ tạo điều kiện để các hộ từ bỏ đất nông nghiệp chuyển sang làm

việc khác.

Đối với phát triển kinh tế trang trại, tỉnh Quảng Nam hiện có 1.021 trang trại

các loại. Trong đó, diện tích đất đai các trang trại chỉ chiếm 9,4%, lao động

chiếm 0,81%, và giá trị sản xuất ra chỉ chiếm 3,9%. Nếu xét theo qui mô đất đai,

lao động và vốn thì tất cả các trang trại tại Quảng Nam được xem là các trang

trại nhỏ chưa đủ năng lực về sản xuất chứ chưa nói đến năng lực tổ chức, liên

kết các nông hộ, năng lực tiếp cận thị trường, năng lực ký kết các hợp đồng với

các nhà chế biến hay các tập đoàn bán lẻ. Chính vì vậy, những năm đến cần xây

dựng các trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và các trang trại

nông, lâm kết hợp có qui mô lớn cả về đất đai, vốn và lao động làm hạt nhân

liên kết các nông hộ; áp dụng cơ giới hóa và thực hiện các biện pháp canh tác

sạch phù hợp với yêu cầu của thị trường và của các đối tác trung gian trên chuỗi

cung cấp.

b. Xây dựng các hợp tác xã kiểu mới

Ngoài hai hình thức tổ chức sản xuất cơ bản trên, việc phát triển các hợp tác

xã sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh

nông sản, và các doanh nghiệp chế biến nhằm thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các

đơn vị sản xuất nông nghiệp và các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản

là cần thiết để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam ổn định và bền vững.

Khác với mô hình hợp tác xã trước đây, hợp tác xã theo mô hình mới phải

hoạt động theo cơ chế thị trường và có các chức năng: 1) Cung cấp các vật tư

đầu vào đảm bảo chất lượng; 2) chuyển giao các kiến thức khuyến nông từ Nhà

nước, các tổ chức; 3) cung cấp các dịch vụ làm đất, thu hoạch, thú y, bảo vệ thực

vật,…; 3) đối tác chính thu gom, xử lý và tiêu thụ nông sản của nông dân; 5) nhà

cung cấp các dịch vụ tài chính, nhận tiền gửi cho nông dân và các hoạt động đầu

tư tại nông thôn; 5) cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi kèm với

192 dịch vụ tín dụng; 6) thực hiện các dịch vụ về môi trường và các hoạt động xã hội

khác tại nông thôn.

Hình 3.3 là mô hình quản lý hợp tác xã Điện Quang. Đây được xem là mô

hình quản lý hiệu quả nhất trong các hợp tác xã tại Quảng Nam. Ngoài các dịch

vụ quản lý nông thôn, các hoạt động tiêu thụ nông sản và giải quyết công ăn việc

làm là điểm nổi bậc của hợp tác xã này. Có hai hoạt động mới đó là hoạt động

quỹ tín dụng và bảo hiểm vật nuôi; khi quỹ tín dụng cho vay mua bò giống,

DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP

người vay được yêu cầu phải ký hợp đồng bảo hiểm vật nuôi với hợp tác xã.

- Cung cấp phân, giống - Dịch vụ thú y

- Cung cấp điện, nước - Dịch vụ thu gom rác

- Tiêu thụ nông sản (ký hợp đồng với đối tác nước ngoài)

HỢP TÁC XÃ ĐIỆN QUANG

Năm 2009 Doanh thu 8 tỷ đồng. Lợi nhuận trên 100 triệu đồng

DỊCH VỤ NÔNG THÔN

BẢO HIỂM VẬT NUÔI - Đơn giá bảo hiểm một con bò 120.000 đ/năm. - Trách nhiệm: + Tiêm chủng 3 lần/năm + Chữa bệnh miễn phí + Chết vì bệnh, đền 80% giá thị trường

QUỸ TÍN DỤNG - Cho vay mua con giống đi kèm với bảo hiểm vật nuôi - Cho vay sản xuất và tiêu dùng - Huy động tiết kiệm - Dự kiến mở rộng đến 3 xã Gò Nổi

Hình 3.3: Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã Điện Quang 38

Sau gần một năm hoạt động tín dụng và bảo hiểm, dư nợ của hợp tác xã đạt

10 tỷ đồng và bảo hiểm được 400 con bò trong tổng số 3000 con bò hiện có tại

xã và số lượng bò tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tăng lên vì lợi ích của hoạt

38 Khảo sát thực tế tại xã Điện Quang vào tháng 4.2010.

động này góp phần giảm tổn thất cho người chăn nuôi bò. Nhờ có hoạt động bảo

193 hiểm mà đàn bò tại xã chưa bao giờ bị dịch lỡ mồm, long móng và dự kiến của

hợp tác xã sẽ triển khai các loại cây trồng vật, nuôi khác trong tương lai.

Hiện tại Quảng Nam có 3 hợp tác xã hoạt động theo mô hình này trong số

hơn 100 hợp tác xã. Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể giao thầu

một số hoạt động như khuyến nông, hoặc giao chủ trì các chương trình phát triển

do Nhà nước đầu tư cho các hợp tác xã. Nên trong tương lai gần, chức năng của

hợp tác xã cần được hoàn thiện theo mô hình hoạt động của hợp tác xã Điện

Quang thì sẽ góp phần phát triển nông nghiệp Quảng Nam ổn định và bền vững

hơn.

Tất cả các hình thức hoạt động của hợp tác xã như trên phải nhằm vào mục

tiêu chính là thúc đẩy hình thành các ngành hàng nông sản và tiêu thụ nông sản

của nông hộ và các trang trại. Với mô hình hoạt động như trên, hợp tác xã sẽ trở

thành đối tác chính của Nhà nước trong việc triển khai các chính sách phát triển

nông nghiệp đến với nông nghiệp, nông thôn và nông dân tại Quảng Nam hiệu

quả hơn.

c. Phát triển các hiệp hội ngành hàng

Hiệp hội ngành hàng có vai trò khác so với hoạt động của hợp tác xã. Ngoài

việc xúc tiến các hoạt động tiêu thụ nông sản, bảo vệ lợi ích của thành viên sản

xuất, hiệp hội ngành hàng cần có vai trò lớn hơn và bổ sung vào một số lĩnh vực

mà hoạt động động của hợp tác xã không thể vươn tới: 1) Liên kết với các hợp

tác xã và Nhà nước trong các hoạt động xúc tiến thương mại, không chỉ dừng ở

việc duy trì, tìm kiếm, mở rộng thị trường để tiêu thụ các loại nông sản hiện có,

mà còn quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, phát hiện, xác định lợi thế

cạnh tranh để hướng dẫn nông dân sản xuất ra những nông sản có tính cạnh

tranh cao hơn; 2) cung cấp thông tin liên quan đến chất lượng nông sản, an toàn

thực phẩm, các phương pháp bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản; 3) phối

hợp với các hợp tác xã và dưới sự tài trợ của Nhà nước, các hiệp hội ngành hàng

tỉnh Quảng Nam cần từng bước phát triển hình thức thương mại điện tử trong

194 giao dịch hàng nông sản; 4) ngoài ra, hiệp hội ngành hàng có thể tham gia sâu

hơn vào quá trình hoạch định chính sách, vào việc thực thi những cam kết quốc

tế của Chính phủ trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và hội nhập kinh tế.

Dù hiệp hội ngành hàng là tổ chức phi lợi nhuận không giống như hoạt động

của hợp tác xã, nhưng hoạt động của hiệp hội ngành hàng đem lại những lợi ích

cho nông hộ, hợp tác xã và cho cả Nhà nước. Vì vậy, ngoài sự đóng góp của

nông hộ và hợp tác xã để duy trì hoạt động của hiệp hội ngành hàng, Nhà nước

cần phải có những hỗ trợ về kinh phí và cả cán bộ nhằm làm cho các hoạt động

của hiệp hội ngành hàng ngày càng hiệu quả.

Mô hình hoạt động của Hiệp hội giống cây trồng Điện Bàn là mô hình hiệp

hội ngành hàng hoạt động khá thành công tại Quảng Nam cần được nghiên cứu

để xây dựng các hiệp hội ngành hàng cho các nông sản còn lại tại Quảng Nam

trong những năm đến.

3.2.5. Tăng cường thâm canh trong nông nghiệp

Việc tăng cường công tác thâm canh trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng

Nam trong những năm đến có các nội dung cơ bản: 1) Đưa nhanh tiến bộ khoa

học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; 2) nâng cao chất lượng lao động nông

nghiệp; và 3) đa dạng hóa các hình thức khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật

trong nông nghiệp.

a. Đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp

Giai đoạn 1997-2010, tổng năng suất các yếu tố đóng góp vào sự phát triển

của nông nghiệp Quảng Nam chỉ là 8,9%, so với tổng năng suất các yếu tố đóng

góp vào sự phát triển nông nghiệp cả nước giai đoạn này là 31,8%. Nói chung,

tình hình ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp

những năm qua tại Quảng Nam còn ở mức thấp nên những năm đến để nâng cao

được chất lượng của vốn đầu tư và lao động, làm cho năng suất lao động nông

nghiệp cao hơn thì giải pháp đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản

xuất nông nghiệp là cần thiết.

195

Do đặc điểm của thời tiết, khí hậu, cấu tạo đất đai, mặt nước và địa hình mà

quá trình đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào từng vùng sinh

thái tại Quảng Nam cần thực hiện theo các hướng cơ bản sau:

1) Lựa chọn các cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao nhưng

phải đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường

Cây quế Trà My có thời gian trồng lâu hơn, mỏng vỏ hơn nhưng chất lượng

tinh dầu quế cao hơn, trong khi giống quế lai thời gian cho thành phẩm nhanh

hơn, vỏ dày hơn nhưng ít tinh dầu quế hơn nên cây quế Trà My bị mất dần thị

trường xuất khẩu. Dưa leo xã Tam Phước không ngọt như dưa Đà Lạt nhưng

dòn hơn nên được thị trường Trung Quốc ưa chuộng hơn. Tương tự như vậy,

cây ớt tại Điện Quang, Đại Lộc có hương thơm và cay hơn nên rất được thị

trường trong nước và xuất khẩu ưa chuộng.

Như vậy, khi nghiên cứu áp dụng giống các loại cây trồng, lúa lai, rau quả,

lợn nạc, bò lai Sind, gia cầm, nuôi trồng thủy sản có giá trị cao phải nghiên cứu

kỹ thị hiếu của thị trường về các nông sản này.

2) Đưa tiến bộ khoa học, công nghệ vào nông nghiệp phải dựa vào tiến bộ

sinh học và sinh thái làm trung tâm

Việc nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Núi Thành với mật độ cao nên sau vài

vụ mùa cho thu hoạch cao, nhiều ruộng nuôi tôm ở huyện Núi Thành xảy ra dịch

bệnh hàng loạt gây nhiều tổn thất cho nông dân. Phương pháp canh tác lúa và

các loại cây trồng theo phương pháp 3 giảm 3 tăng vừa tiết kiệm chi phí sản xuất

vừa tăng năng suất và giảm nhiều chi phí, trong đó cải thiện môi trường đất,

nước là một trong những mô hình canh tác sinh thái đem lại hiệu quả kinh tế và

bảo tồn môi trường hiện đang áp dụng tại Quảng Nam và một số địa phương

trên cả nước.

Như vậy, các phương pháp canh tác phòng trừ dịch bệnh tổng hợp, nuôi

trồng thủy sản sinh thái, chăn nuôi kết hợp với xử lý hầm bioga là những ứng

196 dụng tiến bộ khoa học vừa có tác dụng bảo vệ môi trường, vừa đem lại hiệu quả

kinh tế cho người nông dân.

3) Hoàn thiện hệ thống thủy lợi và áp dụng các phương pháp tưới tiên tiến

Tại Quảng Nam, hệ thống mương tưới cấp 2, cấp 3 đưa nước vào ruộng chủ

yếu là mương hở nên tốn nhiều diện tích đất, cản trở giao thông, thất thoát nhiều

nước và hay bị hư hỏng sau mỗi mùa lũ, mỗi năm tỉnh tốn rất nhiều kinh phí để

khắc phục và sửa chữa. Vì vậy, việc chuyển sang sử dụng hệ thống dẫn nước

bằng ống vừa không cản trở giao thông, vừa tiết kiệm nước; dù kinh phí đầu tư

có cao hơn nhưng bù lại chi phí vận hành và sửa chữa hàng năm sẽ giảm đi rất

nhiều. Đối với các vùng rau màu, bắp, mía, dưa, ớt,… xã Tam Phước, Điện

Quang đang chuyển sang sử dụng phương pháp tưới tiết kiệm nước cho hiệu quả

kinh tế cao và ít công chăm sóc hơn.

4) Thực hiện cơ giới hóa các khâu sử dụng nhiều lao động trong canh tác

Trong canh tác, khâu làm đất, gieo trồng và thu hoạch là các khâu tốn nhiều

lao động nhất; khi thực hiện cơ giới hóa đồng thời kết hợp với tích tụ ruộng đất

và giảm lao động trong các khâu này. Xã Điện Quang chỉ có 160 ha ruộng nước

và 600 ha đất hoa màu nhưng nông dân ở đây đầu tư 15 máy kéo làm đất loại

3200 mã lực và 7 máy gặt đập liên hợp, chưa kể các loại máy gieo hạt, máy bơm

nước, … nên vào vụ mùa và kết thúc vụ mùa ở xã Điện Quang chỉ trong thời

gian 20 ngày. Thời gian còn lại đội máy kéo và đội gặt đập liên hợp của xã đi

phục vụ làm đất và gặt lúa cho các xã khác tại huyện Điện bàn.

Tuy nhiên, không phải các trang trại và nông dân nào tại Quảng Nam cũng

đều có điều kiện cơ giới hóa cao như tại xã Điện Quang. Vấn đề ở đây là 1) việc

chuyển đổi cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả cao nên nhiều hộ nông dân

mạnh dạn đầu tư máy móc nông nghiệp, và 2) một điều khá đặc biệt tại xã Điện Quang là có đến 100039 thanh niên trong tổng số 5500 lao động rời bỏ làng đi

lao động tại thành phố Hồ Chí Minh, chính vì thiếu lao động nông nghiệp khi 39 Theo điều tra khảo sát của tác giả vào tháng 4 năm 2010 tại xã Điện Quang.

197 vào mùa vụ đã khuyến khích các nông dân có tiền bỏ vốn đầu tư chuyển sang

hoạt động dịch vụ nông nghiệp đem lại thu nhập cao hơn.

5) Thực hiện chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp

Quảng Nam có nhiều điều kiện về chăn nuôi gia súc, gia cầm cả ở vùng đồng

bằng, trung du và miền núi. Ở đồng bằng và trung du nên thực hiện chăn nuôi

công nghiệp và bán công nghiệp, vừa có điều kiện đưa giống mới, tiếp cận

phương pháp chăn nuôi tiên tiến, kiểm soát được dịch bệnh, xử lý môi trường và

bảo hiểm được vật nuôi. Mô hình cho vay vốn mua bò lai Sind, kết hợp với bảo

hiểm vật nuôi và hỗ trợ mỗi hộ chăn nuôi xây dựng hầm bioga từ 1,5 triệu đồng

đến 2 triệu đồng của xã Điện Quang là mô hình chăn nuôi gia đình cần nghiên

cứu phát triển. Vấn đề là phải xây dựng mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả

như hợp tác xã Điện Quang tại các địa phương khác ở Quảng Nam.

6) Thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh hiệu quả

Những năm vừa qua, tỉnh Quảng Nam là địa phương chịu nhiều tổn thất về

dịch bệnh, đặc biệt ngành chăn nuôi. Theo khảo sát và đánh giá thì các biện

pháp phòng, chống dịch bệnh vừa qua có nhiều bất cập: 1) Người nông dân chưa

được hướng dẫn sử dụng các phương pháp canh tác tốt, nhất là trong nuôi trồng

thủy sản; 2) mạng lưới thú y hầu như không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêm chủng

các bệnh như tai xanh ở lợn, dịch lỡ mồm, long móng ở gia súc, cúm gia cầm; 3)

chương trình tiêm chủng thường không được cấp đủ kinh phí trong phòng ngừa

bệnh dịch, nhưng khi xảy ra dịch bệnh thì cần bao nhiêu tiền cũng có để ‘dập”

dịch, đây là cách làm chưa phù hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước ở tỉnh

Quảng Nam; 4) chưa có hệ thống bảo hiểm cây trồng, vật nuôi hiệu quả nên

chưa huy động được mọi thành phần tham gia vào phòng, chống dịch bệnh.

Nên những năm đến, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh được đề xuất

như sau: 1) Khuyến khích chăn nuôi tập trung và thực hiện đầy đủ công tác vệ

sinh và lịch tiêm chủng đối với gia cầm, gia súc; 2) hướng dẫn nuôi trồng thủy

sản với mật độ phù hợp và xây dựng hệ thống thủy lợi xử lý nước thải và nước

198 cấp cho nuôi trồng thủy sản; 3) qui định tất cả các loại hình chăn nuôi gia cầm,

gia súc phải tuân thủ qui trình tiêm phòng vắc xin; 4) phát triển hệ thống bảo

hiểm vật nuôi kết hợp với hoạt động thú y có hiệu quả như mô hình của hợp tác

xã Điện Quang tại các hợp tác xã khác còn lại trong tỉnh Quảng Nam; 5) những

nơi không có hợp tác xã, phát triển các đại lý dịch vụ thú ý thay cơ quan quản lý

thú y cấp huyện, xã thực hiện các dịch vụ này và tăng cường vai trò kiểm soát từ

phía các cấp quản lý.

b. Nâng cao chất lượng của lao động nông nghiệp

Để chuyển nhanh cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng năng suất lao động nông

nghiệp, thúc đẩy áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp thì giải

pháp rút lao động nông nghiệp sang các ngành khác và nâng cao chất lượng, kỹ

năng lao động nông nghiệp là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp

Quảng Nam vào những năm đến.

Hiện nay, bình quân mỗi năm tại Quảng Nam tăng thêm 15.000 người bổ

sung vào lực lượng lao động toàn tỉnh; như vậy, mỗi năm tỉnh phải có giải pháp

rút 30.000 lao động nông nghiệp sang các ngành khác; đây cũng là mục tiêu của

đề án xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, mà

những năm qua chưa làm được. Ngoài ra, việc xây dựng các khu chế biến nông

sản, phát triển các dịch vụ nông nghiệp như tổ máy cày, làm đất; tổ gặt, phơi,

sấy; tổ bảo vệ thực vật, tổ cung cấp nước thủy lợi mang tính chuyên nghiệp cũng

là cách rút nhanh lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp.

Song song với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành khác,

thì việc nâng cao chất lượng và kỹ năng lao động nông nghiệp theo những cách

thức như sau:

- Nâng cao trình độ văn hóa, khoa học cho nông dân để họ trở thành chủ thể

sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đủ sức tiếp nhận sự tác động từ

bên ngoài thông qua chính sách đầu tư của Nhà nước về giống mới, phương

199 pháp canh tác mới, các tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất, thu hoạch, chế biến

nông sản.

- Tạo lập cơ sở pháp lý và chính sách khuyến khích việc đa dạng hóa các

hình thức khuyến nông, chuyển giao công nghệ cho nông dân. Nhất là chuyển

giao kiến thức về phương pháp sản xuất sạch trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi

trồng thủy sản. Kinh nghiệm ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới và thực

tiễn ở nước ta cho thấy, có thể vận dụng các kênh khuyến nông từ Nhà nước; từ

các viện, các trường đại học; từ các doanh nghiệp cung cấp giống hoặc tiêu thụ

nông sản; từ các nhà đầu tư, các tổ chức phi chính phủ (NGO); hoặc từ các cộng

đồng nông dân và các hội nghề nghiệp.

- Nâng cao kiến thức cho nông dân về ngành hàng, thị trường nông sản, và

cả các phương pháp bảo quản, chế biến nông sản trước khi đưa ra thị trường.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia và tại Việt Nam cho thấy việc chuyển giao

kiến thức đối với khu vực nông nghiệp cần tiến hành nhiều hình thức: 1) đào tạo

kiến thức nông nghiệp ở các cấp học từ phổ thông cho đến đại học và sau đại

học để đào tạo thành những cán bộ khuyến nông, những chuyên gia về nông

nghiệp; 2) đối với thanh niên trẻ nông thôn cần khuyến khích và hỗ trợ học nghề

một cách bài bản, chính quy để đủ khả năng tự tạo việc làm ở nông thôn hoặc

tham gia thị trường lao động ở thành thị hoặc xuất khẩu lao động; 3) đối với lao

động lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp, cần đào tạo tại chỗ, ngắn hạn, gắn việc đào

tạo với thực hành tại đồng ruộng. Tất cả những biện pháp này là phù hợp với về

đề án dạy nghề cho lao động nông thôn của Chính phủ (Quyết định số

1956/2009/QĐ-TTg) [69].

c. Đa dạng hóa các hình thức khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật sản

xuất

Hiện nay hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm và khuyến công

trong nông nghiệp được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp thôn, xã như được

thể hiện trong hình 3.4 (Nghị định 13/CP) [50].

200

Bộ NN & PTNT

Chính phủ

Các tác nhân khuyến nông tự nguyện

Trung tâm khuyến nông, ngư quốc gia

Quốc gia

UBND

Trung tâm khuyến nông

Sở NN & PTNT

UBND

Tỉnh

Trạm khuyến nông

Phòng nông nghiệp

Khuyến nông cơ sở

HTX dịch vụ nông nghiệp

UBND

Viện khoa học Trường đại học Tổ chức quốc tế Doanh nghiệp … Các tổ chức đoàn thể

Huyện

Nông dân sản xuất giỏi

Câu lạc bộ khuyến nông

Nhóm nông dân

Nông dân tiếp sức

Thôn

Hình 3.4: Tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến ngư tại Việt Nam

Cách thức tổ chức hệ thống khuyến nông như trên vừa mang tính quản lý

hành chính vừa không huy động được sự tham gia tích cực của các viện, trường,

doanh nghiệp và các tổ chức khác. Và điều quan trọng là nông dân hiện nay

không muốn thụ động tiếp nhận các dịch vụ khuyến nông, mà họ muốn bỏ tiền

ra để tiếp nhận những kiến thức mà họ cần. Vì vậy, cách tiếp cận mới về khuyến

nông cần tuân thủ 6 nguyên tắc cơ bản sau (Roger D. Norton, 2004, tr. 417)

[110]:

- Chính sách khuyến nông thành công không thể chỉ tập trung vào chuyển

giao công nghệ, mà những khó khăn của nông dân sẽ được trao đổi với đơn vị

cung cấp dịch vụ khuyến nông cho mỗi trường hợp cụ thể, trong trường hợp đó

lợi ích từ khuyến nông sẽ được chia sẻ giữa nhà nông và người cung cấp. Như

vậy, khuyến nông là một quá trình tương tác, có sự tham gia của các bên, kinh

nghiệm của nông dân không kém quan trọng hơn kinh nghiệm của các chuyên

201 gia khuyến nông; nên, khuyến nông không thể là quá trình chuyển giao kiến

thức một chiều và đôi lúc không cần thiết đối với nông dân như thời gian vừa

qua.

- Nông dân là khách hàng, là nhà tài trợ cho các hoạt động khuyến nông và là

đối tác tham gia hoàn thiện kiến thức khuyến nông, chứ không chỉ là người

hưởng lợi. Lúc đó cán bộ và chuyên gia khuyến nông chỉ là nhà tư vấn để thực

hiện các yêu cầu của nhà nông.

- Xuất phát từ nhu cầu thị trường để thúc đẩy hợp tác khuyến nông giữa nông

dân và đơn vị cung cấp hàng hóa và dịch vụ khuyến nông. Một xã tại Hậu Giang

ký hợp đồng thuê một giảng viên nông nghiệp thực hiện chăm sóc các vụ mùa

trái cây của mình và lợi ích được chia sẻ rõ ràng. Đây là mối quan hệ đối tác

xuất phát từ nhu cầu thị trường.

- Tài trợ công tác khuyến nông chủ yếu phải từ Nhà nước, nhưng hoạt động

khuyến nông phải được giao cho các tổ chức khác. Nhà nước chỉ tăng cường vai

trò giám sát, kiểm tra và chi trả. Cách làm này sẽ đem lại nhiều tiết kiệm và hiệu

quả hơn là Nhà nước tổ chức bộ phận khuyến nông riêng của mình như hiện

nay.

- Cần phân cấp nhiều hơn cho các đầu tư nghiên cứu và hoạt động khuyến

nông về các tỉnh mà không nên tập trung tại trung ương gây nhiều lãng phí và

không phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Trừ những nghiên cứu mang

tính quốc gia, cần phải phân cấp kinh phí để các tỉnh quan hệ với các đối tác để

thực hiện các yêu cầu khuyến nông trên địa bàn của địa phương mình.

Phương pháp tham gia của nông dân trong nghiên cứu, khắc phục, kiểm tra

và phổ biến kiến thức khuyến nông là phương pháp chủ yếu khi thực hiện công

tác khuyến nông. Nên cũng không lạ khi có nhiều nông dân chế ra những máy

móc hiệu quả hơn so với nghiên cứu của các chuyên gia tại các viện nghiên cứu,

vì các nghiên cứu này xuất phát không có sự tham gia của nông dân.

202

Những biện pháp tăng cường công tác thâm canh như trên vừa giúp các đơn

vị sản xuất nông nghiệp có khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học, công nghệ từ

nhiều kênh khác nhau, vừa nâng cao được kiến thức cho lao động nông nghiệp.

3.2.6. Mở rộng thị trường và phát triển các ngành hàng nông sản

a. Xác định các thị trường chủ yếu cho nông sản tỉnh Quảng Nam

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời Việt Nam là quốc gia xuất

khẩu nhiều nông sản, nhất là lương thực và thủy sản và cũng là những ngành có

lợi thế của nông nghiệp Quảng Nam. Qua phân tích thực trạng thị trường tỉnh

Quảng Nam cho thấy nông nghiệp tỉnh Quảng Nam cần tập trung vào những

nông sản có lợi thế; đó là cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau đậu, cây cảnh,

thủy sản, cây lâm nghiệp và các cây công nghiệp và dược liệu như quế, sâm

Ngọc Linh, và những cây trồng, vật nuôi là đặc sản của tỉnh Quảng Nam.

Dựa vào lợi thế so sánh đó, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam mà cụ thể là nông

hộ, trang trại cũng như các đối tác trên chuỗi ngành hàng như các nhà thu gom,

các hợp tác xã, các nhà máy chế biến, các nhà xuất khẩu và cả các nhà làm chính

sách phải làm cho nông sản của Quảng Nam đến được các thị trường trong nước

và nước ngoài. Theo luận án, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam cần tập trung vào

các thị trường chủ yếu sau:

1) Thị trường nông sản trong nước

Ngoài việc cung cấp nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, dự trữ của nhân

dân trong tỉnh, việc sản xuất nông sản cần đáp ứng tốt các thị trường sau:

- Cung cấp nông sản cho thành phố Đà Nẵng, và các khu công nghiệp vùng

kinh tế trọng điểm miền Trung. Quá trình đô thị hóa nhanh tại thành phố Đà

Nẵng đã làm thu hẹp đất nông nghiệp và hiện nay nguồn nông sản được cung

cấp cho thành phố Đà Nẵng chủ yếu từ tỉnh Quảng Nam như lương thực, rau

đậu, thịt gia súc, gia cầm. Không kể các vùng chuyên canh rau khác thì làng rau

Trà Quế cung cấp cho hệ thống chợ đầu mối và hệ thống siêu thị tại Đà Nẵng

hơn một tấn rau mỗi ngày và nhu cầu này đang tăng cao, nên làng rau Trà Quế

203 đang có kế hoạch tăng từ 10 ha trồng rau lên 20 ha; chưa kể các loại thịt khác,

thì hiện nay tại Đà Nẵng tiêu thụ mỗi ngày hơn 3000 tấn thịt gà và nguồn cung

chủ yếu từ tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, các khu công nghiệp tại Quảng Nam, Đà

Nẵng, Dung Quất cũng là thị trường nông sản quan trọng của tỉnh Quảng Nam.

- Cung cấp nông sản cho các khu du lịch vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung. Không kể các nguồn lương thực, thực phẩm sạch cung cấp cho các khu

nghỉ dưỡng, du lịch phục vụ khách du lịch trong nước và nước ngoài tại Quảng

Nam và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; có rất nhiều nông sản

hoặc có nguồn gốc từ nông sản phục vụ cho đối tượng khách hàng cao cấp này.

Ngành trồng cây cảnh và cỏ Nhật trang trí các khu du lịch đang trở thành ngành

có thu nhập cao cho các nông dân ở Điện Bàn và Hội An; ngành nuôi thủy sản

phục vụ du lịch sinh thái, đánh bắt cá, lặn biển của ngư dân tại sông Trường

Giang, vùng rừng dừa 7 mẫu Hội An, vùng cửa Tam Quang, Núi Thành và Cù

Lao Chàm đã tạo thêm thu nhập không chỉ cho nông dân và ngư dân mà còn làm

phát triển các dịch vụ du lịch gắn liền với nông nghiệp. Ngoài ra, các ngành thủ

công, mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống gắn liền với nông sản như làng ươm tơ

dệt lụa Duy Trinh; làng mộc Kim Bồng; làng mây tre Núi Thành, Duy Xuyên,

Điện Bàn;… đã làm tăng thu nhập cho nông hộ tỉnh Quảng Nam.

- Cung cấp nông sản cho chế biến tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung. Hiện nay, cây mía tại Quảng Nam vẫn cung cấp nhu cầu cho Nhà máy

Đường tỉnh Quảng Ngãi; cây dứa vùng Đại Lộc, Nam Giang cung cấp cho Nhà

máy Chế biến Dứa tỉnh Bình Định, cây sắn tại Quảng Nam cũng là cây công

nghiệp quan trọng trong chế biến nhiên liệu sinh học và tinh bột sắn dùng cho

công nghiệp dược phẩm và thực phẩm;…

Tóm lại, nông sản tỉnh Quảng Nam dù sản lượng không lớn nhưng đa dạng

và là những đặc sản gắn liền với điều kiện khí hậu, đất đai, ngành nghề truyền

thống riêng có của Quảng Nam. Việc khai thác thị trường trong nước đối với

204 những nông sản có lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho nông nghiệp tỉnh Quảng Nam

phát triển bền vững và ổn định trong thời gian đến.

2) Thị trường nông sản nước ngoài

Nông lâm thủy sản xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam có khối lượng không lớn

nhưng đa dạng, và có đặc điểm là những nông sản khác biệt, có phẩm chất cao

được nhiều thị trường nước ngoài ưu chuộng.

Theo báo cáo đánh giá công tác xuất nhập khẩu tỉnh Quảng Nam giai đoạn

2006-2010 và định hướng kế hoạch giai đoạn 2011-2015 của Sở Công Thương

tỉnh Quảng Nam thì hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh được mở rộng đến trên 40

quốc gia và vùng lãnh thổ. Chiếm tỷ trọng cao và ổn định là thị trường Đài Loan

11%, Hàn Quốc 4%, Trung Quốc 7%, Nhật 3%, Mỹ 7% và EU khoảng 30%.

Sau khi gia nhập WTO đã xuất hiện những rào cản kỹ thuật và thuế quan tại một

số nước như Nhật, EU và Mỹ về vệ sinh an toàn thực phẩm, áp thuế chống bán

phá giá, truy xuất nguồn gốc khai thác thủy sản, nhãn mác, yêu cầu có chứng

nhận Global GAP,… đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và xuất khẩu. Nên

nhiều doanh nghiệp đã hướng đến các thị trường dễ tính hơn như các nước Ả

Rập, Nga, Marocco, Pakistan, Bangladesh,…

b. Phát triển các ngành hàng nông sản có khả năng hội nhập thị trường

nông sản toàn cầu

Xét theo lợi thế so sánh, tỉnh Quảng Nam có thể hình thành các ngành hàng

chủ yếu sau.

1) Ngành hàng thủy - hải sản. Là ngành hàng chiếm tỷ trọng lớn của tổng

kim ngạch xuất khẩu nông sản. Gồm có hải sản đông lạnh, hải sản khô, yến sào

và xuất khẩu chủ yếu sang các nước Châu Á, EU và Mỹ. Hiện nay, các doanh

nghiệp đang hướng đến thị trường Nhật, EU và Mỹ dù có khắc khe về tiêu chuẩn

nhưng cho lợi nhuận cao hơn. Nước mắm xuất khẩu cũng là mặt hàng có tiếng

của Quảng Nam nhưng chưa được quan tâm nhiều.

205

2) Ngành hàng cây công nghiệp và dược liệu. Các cây thuốc lá, đậu phộng,

mè, ớt, tiêu, quế, sâm Ngọc Linh, sắn lát,… là các nông sản rất được ưa chuộng.

Cây thuốc lá, sắn lát xuất cho thị trường Trung Quốc; quế, sâm Ngọc Linh xuất

nhiều vào thị trường Đài Loan, Trung Quốc do cây quế Quảng Nam có phẩm

chất cao hơn giống quế các địa phương khác (quế Thanh Hóa); ớt Điện Bàn, Đại

Lộc, tiêu Tiên Phước của Quảng Nam rất được thị trường Hàn Quốc, Ấn Độ ưa

chuộng nhờ có hương vị cay nồng và thơm.

3) Ngành hàng cây ăn quả và rau đậu. Sản lượng ngành này ở Quảng Nam

có qui mô không lớn nhưng được các nước láng giềng ưa chuộng. Trái Thanh

Long Núi Thành xuất đi các nước Châu Á; dưa leo, dưa hấu tại xã Tam Phước

Phú Ninh luôn được thị trường Trung Quốc ưa chuộng so với loại này trồng tại

các địa phương khác ở Việt Nam. Tỉnh Quảng Nam đang tiến hành các thủ tục

chứng nhận chỉ dẫn địa lý các loại dưa tại xã Tam Phước sau khi có chứng nhận

thương hiệu rau Trà Quế Hội An. Ngoài ra, cây bòn bon ở Nam Giang đang

được nghiên cứu cho ra quả quanh năm và cải thiện chất lượng ngon hơn để trở

thành loại trái cây xuất khẩu đặc sản của tỉnh Quảng Nam nhằm cạnh tranh với

trái bòn bon được nhập khẩu từ Thái Lan.

4) Ngành hàng cây nguyên liệu giấy. Quảng Nam có khoảng 184 ngàn ha

rừng trồng và có diện tích rừng phân tán trong nhân dân tương đương với diện

tích rừng trồng. Cây nguyên liệu giấy hiện chủ yếu xuất khẩu đi Nhật và được

chế biến thành bột giấy và nhập khẩu vào lại Việt Nam.

5) Ngành hàng mỹ nghệ về gỗ, mây, tre, nứa, lá, trầm hương. Tỉnh Quảng

Nam là tỉnh có trữ lượng cây mây, cây gió cho trầm hương lớn nhất cả nước. Vì

vậy, ngành thủ công mỹ nghệ tại Quảng Nam rất phát triển; Công ty TNHH Chế

biến mây tre gỗ Nam Phước hiện là đối tác với tập đoàn Thụy Điển IKEA để

cung cấp hàng mây tre đến Châu Âu với doanh số đạt gần 1 triệu USD hàng

năm. Hàng mỹ nghệ trầm hương làm từ cây gió hiện rất được thị trường Trung

Quốc, Đài Loan ưa chuộng và các làng nghề tại Tiên Phước, Nông Sơn đang

206 phát triển nhanh chóng và tạo ra nhiều thu nhập cho các nông hộ nhờ chuyển đổi

sang các sản phẩm mỹ nghệ này.

Tại Quảng Nam, các ngành hàng rất đa dạng nhưng có chung một đặc điểm

là qui mô nhỏ, hoạt động không ổn định, và nhất là thiếu một cơ chế hợp tác của

các đối tác trên chuỗi ngành hàng. Nên những giải pháp để thúc đẩy hình thành

các ngành hàng nông sản tại Quảng Nam trong những năm đến là phải tạo được

cơ chế liên kết và phối hợp các khâu, các quá trình của chuỗi ngành hàng nông

sản. Để liên kết và phối hợp các khâu của một ngành hàng thành công, đòi hỏi

phải đạt được ba tiêu chí. Đó là: 1) phải xây dựng được các tiêu chuẩn của một

ngành hàng; 2) phải liên kết được các thị trường và đối tác trên chuỗi; và 3) phải

Các tiêu chuẩn Chuỗi thị trường Các thị trường Cơ chế hợp tác

Nhà sản xuất

Sản xuất

Nhà thu gom

Hợp tác xã

Thu gom

Nhà chế biến

Chế biến

Nhà chế biến nhỏ

- Giao dịch giao ngay - Giao dịch qua hợp đồng - Giao dịch giao sau (chưa phổ biến tại Quảng Nam) - Chứng nhận về chất lượng của bên thứ 3

Nhà bán buôn/bán lẻ

Bán buôn/ bán lẻ

Khách hàng

Thị trường trong nước

Các tiêu chuẩn trong sản xuất - VietGAP - HACCP - Hữu cơ Các tiêu chuẩn trong đóng gói và logistics - Xử lý - Xe bảo quản - Container - Pallet Các tiêu chuẩn về truyền dữ liệu - UPC - EDI - Thương mại điện tử

Giao dịch chính thức Giao dịch không chính thức

Thị trường xuất khẩu

đảm bảo các cơ chế hợp tác của các đối tác, như được thể hiện trong hình 3.5.

Hình 3.5: Các mối liên kết và các tiến trình hợp tác của một chuỗi ngành

hàng nông sản

207

Các tiêu chuẩn: Nó được xem là công cụ để kết nối được các khâu riêng lẻ

trên hệ thống kinh doanh nông sản. Tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chuẩn ở khâu

sản xuất, khâu đóng gói, logistics, và cả các dữ liệu được trao đổi trên hệ thống

kinh doanh nông sản. Các tiêu chuẩn được áp dụng có thể do các tổ chức thương

mại quốc tế, các quốc gia, hoặc do các doanh nghiệp thiết lập và làm cơ sở giao

dịch trên thị trường. Thường có các tiêu chuẩn cơ bản sau: 1) UPC (Universal

Product Code) là hệ thống đánh số nhận dạng thông qua mã vạch được sử dụng

rộng rãi trong quản lý kho hàng và hàng hóa. UPC được phát triển vào những

thập niên 1970 và 1980. 2) EDI (Electronic Data Interchange) là phương thức

trao đổi dữ liệu giữa các tổ chức qua phương tiện điện từ. Nó là giai đoạn đầu

của thư điện tử (e-mail). Nó được phát triển vào những năm 1990. Ngày nay,

các doanh nghiệp sử dụng phương thức giao dịch và truyền dữ liệu qua internet

(Internet business to business system) thay cho EDI. 3) HACCP (Hazard

Analysis and Critical Control Point) là phương pháp tiếp cận đối với việc quản

lý an toàn thực phẩm nhờ vào thực hiện các nguyên tắc nhận diện những nguy

hiểm xuất hiện trên chuỗi cung cấp thực phẩm và thiết lập hệ thống kiểm soát tại

từng khâu để ngăn ngừa rủi ro mất an toàn thực phẩm xảy ra (Sara Mortimore

and et al, 2001, p. 46) [109].

- Các thị trường: Nó được xem là cơ chế hiệu quả để phân phối các nguồn

lực và dòng sản phẩm giữa các đối tác trên chuỗi trên cơ sở cạnh tranh giữa

người mua và người bán. Đối với mỗi ngành hàng nông sản sẽ có khâu quyết

định khi thiết lập chuỗi thị trường. Ví dụ, đối với chuỗi thị trường của tinh bột

sắn thì nhà máy chế biến đóng vai trò quyết định trong liên kết các thị trường;

trái lại, đối với ngành hàng rau Trà Quế thì nhà bán lẻ (Metro, Big C) đóng vai

trò quyết định liên kết giữa nông dân và người tiêu dùng.

- Cơ chế phối hợp các đối tác: Là thông lệ kinh doanh được thiết lập giữa các

đối tác thông qua các hình thức giao dịch nông sản. Thông thường có ba hình

208 thức giao dịch cơ bản là giao dịch giao ngay, giao dịch theo hợp đồng và giao

dịch thị trường kỳ hạn: 1) Giao dịch giao ngay (spot transaction) là thỏa thuận

mua bán hàng hóa theo giá cả của thị trường tại thời điểm thỏa thuận và việc

giao nhận hàng, thanh toán ngay lập tức hay tại một thời điểm nào đó trong

tương lai. 2) Sản xuất theo hợp đồng (contract farming) là thỏa thuận giữa

những người nông dân với các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh

doanh trong việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp dựa trên thỏa

thuận giao hàng trong tương lai, với giá cả đã được định trước. Có các mô hình

sản xuất theo hợp đồng, gồm: a) Mô hình tập trung; b) mô hình trang trại hạt

nhân; c) mô hình đa thành phần; d) mô hình phi chính thức và e) mô hình trung

gian. 3) Giao dịch thị trường kỳ hạn gồm có 3 hình thức giao dịch là giao dịch

kỳ hạn (forward transaction), giao dịch tương lai (future transaction) và giao

dịch quyền chọn (option transaction). Trong đó, a) giao dịch kỳ hạn là thỏa

thuận mua bán một số lượng hàng hóa mà việc chuyển giao hàng hóa được thực

hiện sau một thời gian nhất định, với giá cả đã đồng ý ngày hôm nay; b) giao

dịch tương lai là thỏa thuận mua bán một số lượng hàng hóa nhất định theo một

mức giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao hàng

hóa được thực hiện vào một ngày trong tương lai thông qua Sở giao dịch hàng

hóa; c) giao dịch quyền chọn hay còn gọi là giao dịch thông qua hợp đồng quyền

chọn, nó là hợp đồng lựa chọn nhằm mua hoặc bán một quyền chứ không bắt

buộc để mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa. Giao dịch quyền chọn là cách

thức hạn chế rủi ro của những người sở hữu các hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng

tương lai. Cũng như giao dịch tương lai, giao dịch quyền chọn chỉ được đảm bảo

khi giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa (Bảo Trung, 2008) [86].

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ, nhưng nhu cầu

nông sản lại mang tính liên tục. Chỉ có hoạt động kinh doanh nông sản mới khắc

phục được tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp và đáp ứng liên tục được nhu

cầu của người tiêu dùng nhờ vào hệ thống dự trữ, chế biến, bảo quản và cung

209 ứng. Ngày nay, tổ chức các ngành hàng nông sản là cốt lõi của phát triển hoạt

động kinh doanh nông sản.

3.2.7. Đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại

Kết cấu hạ tầng nông thôn nói chung và kết kết hạ tầng phục vụ sản xuất

nông nghiệp nói riêng phát triển là điều kiện bảo đảm cho sản xuất nông nghiệp,

nâng cao chất lượng cuộc sống tại nông thôn. Những năm qua, việc đầu tư xã

hội cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp chỉ 3% đến 4% trong tổng vốn đầu tư;

và ngân sách dành cho các kết cấu hạ tầng tại nông thôn từ khi tách tỉnh đến nay

khoảng 13.000 tỷ đồng, nhờ đó kết cấu hạ tầng tại nông thôn tại tỉnh Quảng

Nam có cải thiện. Tuy nhiên, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn những năm đến với mức đầu tư xã hội như trên sẽ không đảm

bảo, hơn nữa việc đầu tư các kết cấu hạ tầng chủ yếu phục vụ nông nghiệp như

thủy lợi, đường giao thông, điện phục vụ sản xuất nông nghiệp đa số chi từ ngân

sách; hầu như chưa huy động được sự đầu tư từ các doanh nghiệp, nhân dân

trong việc cùng đầu tư và tham gia quản lý các kết cấu hạ tầng phục vụ nông

nghiệp một cách hiệu quả.

Vì vậy, để đảm bảo một kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp đồng bộ và

hiện đại phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, luận án đề xuất các giải pháp cụ thể sau:

a. Hiện đại hóa các kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trọng yếu

Thứ nhất, tập trung ưu tiên cho các chương trình thủy lợi để chủ động tưới

tiêu và điều tiết lũ giảm nhẹ các tác hại của thiên tai. Xây dựng các hồ, đập thủy

lợi, chương trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi hóa đất màu và nâng cấp, sửa chữa, kiên

cố, mở rộng hệ thống kênh các công trình thủy lợi đã có để nâng cao hiệu quả

tưới cho lúa, màu, nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt cho dân cư, công

nghiệp, dịch vụ. Gắn kết giữa phát triển kết cấu hạ tầng với việc dồn điền, đổi

thửa, tích tụ ruộng đất để mở rộng sản xuất nông nghiệp. Củng cố hệ thống đê,

kè, bảo đảm quy trình quản lý vận hành an toàn các hồ đập và hệ thống thủy

210 điện bậc thang. Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành việc nâng cấp, tu bổ và xây

dựng các hồ, đập lớn; sắp xếp, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi để

nâng cao hiệu quả sử dụng công trình; tiếp tục xây dựng và đưa vào vận hành

các nhà máy thủy điện lớn trên địa bàn tỉnh. Nâng cao năng lực phòng, chống,

giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ động thực hiện các giải pháp phòng

tránh một cách hiệu quả thiên tai.

Thứ hai, bổ sung, sửa đổi cơ chế khuyến khích phát triển giao thông nông

thôn phù hợp với từng vùng. Ưu tiên phát triển giao thông ở miền núi bảo đảm

đi lại thông suốt bốn mùa đến các xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm. Có

chương trình nạo vét các luồng lạch, cửa sông để phát triển giao thông đường

thủy nhằm phục vụ du lịch và phòng, chống thiên tai. Thực hiện dự án di dân, tái

định cư ven biển; xây dựng và triển khai dự án tổng thể về xây dựng kết cấu hạ

tầng vùng lũ lụt.

Thứ ba, phát triển hệ thống lưới điện, nâng cao chất lượng điện phục vụ sản

xuất, sinh hoạt cho cư dân ở nông thôn. Phát triển hệ thống bưu chính, viễn

thông, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin ở nông thôn, miền núi.

Thứ tư, đầu tư nâng cao năng lực khảo, kiểm nghiệm giống, khuyến nông.

Nhất là các trạm trại giống lâm nghiệp; nhân giống cây Sâm Ngọc Linh, cây sắn,

cây mía; trạm nhân giống bò lai Sind,.... Tỉnh cần trích thêm ngân sách để

nghiên cứu về giống, cải tạo và nhân giống hàng loạt để giúp giải quyết vấn đề

cây giống đối với ngành nông nghiệp Quảng Nam

Thứ năm, xây dựng nhà lưới và nhà bảo quản cho các vùng chuyên canh rau.

Ngành rau đậu Quảng Nam đang phát triển rất nhanh để đáp ứng nhu cầu đô thị

hóa, các siêu thị và các khu du lịch. Vùng rau Trà Quế hiện được thành phố Hội

An hỗ trợ xây dựng các nhà lưới để canh tác rau quanh năm; hợp tác xã Cẩm Hà

hàng ngày thu mua rau của các nông hộ và cung cấp cho các siêu thị nhưng theo

cán bộ hợp tác xã, nếu có nhà xử lý và bảo quản rau thì chất lượng rau sau thu

hoạch sẽ bảo quản tốt hơn và cung ứng ổn định hơn. Hiện nay do không có khu

211 bảo quản và chế biến mà hợp tác xã không thể cung cấp đủ rau theo yêu cầu của

các siêu thị. Ngoài vùng rau Trà Quế, hiện Quảng Nam có rất nhiều vùng rau

chuyên canh tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành,

Tam Kỳ nhưng chưa được đầu tư để sản xuất rau sạch và chế biến phù hợp theo

yêu cầu của các siêu thị và các cửa hàng kinh doanh rau sạch tại các thành phố.

Nếu được hỗ trợ về tín dụng, giống mới, chế biến, bảo quản và tiêu thụ thì ngành

rau đậu tại Quảng Nam sẽ phát triển và đáp ứng nhu cầu tốt hơn.

Thứ sáu, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại. Hệ thống kết cấu

hạ tầng thương mại là hệ thống các loại hình và cấp độ chợ như chợ bán buôn,

chợ đầu mối, và chợ giao dịch. Hệ thống mạng lưới chợ sẽ thúc đẩy việc trao đổi

mua bán nông sản và thông qua hoạt động của mạng lưới chợ mà giá cả được

điều tiết phù hợp với thị trường, thông tin minh bạch và nhà sản xuất có điều

kiện cải thiện chất lượng và gia tăng giá trị nông sản.

b. Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và thực hiện quản lý có sự tham gia

Trước hết, thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, tích cực huy động

các nguồn đóng góp trong dân và các tổ chức xã hội và của doanh nghiệp.

Những năm qua, vốn ngân sách đầu tư vào xây dựng các công trình kết cấu hạ

tầng, như: điện, đường, thủy lợi, trường học, trạm y tế... ở nông thôn trên 13.000

tỉ đồng. Những năm đến, ngoài vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ ngân

sách, cần hình thành các nguồn vốn khác như tín dụng đầu tư; thu hút các

chương trình mục tiêu quốc gia và mở rộng thêm các hình thức đầu tư của các

thành phần kinh tế khác vào phát triển các công trình hạ tầng trực tiếp phục vụ

sản xuất - kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng phục vụ cho nông nghiệp...,

trong đó có cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm ODA và FDI). Chỉ có

như vậy, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Quảng Nam mới có

bước phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, làm thay đổi đáng kể diện mạo nông thôn.

212

Thứ hai, thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, cơ

chế nâng cao năng lực quản lý cộng đồng. Cơ chế quản lý rõ ràng, đơn giản

cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với phương châm “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra” để phát huy được sức người, sức của từ nhân dân.

Trước đây, nhiều địa phương trong tỉnh đã vận động nhân dân hiến đất, không

nhận tiền đền bù để xây dựng các công trình giao thông và thủy lợi bảo đảm tiến

độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống

thiên tai; thực hiện có hiệu quả phong trào bê-tông hóa nông thôn, chỉnh trang

các trung tâm xã, cụm xã, từng bước hiện đại hóa nông thôn. Những kinh

nghiệm này cần phải tiếp tục phát huy trong những năm đến. Hiện nay, Công ty

Quản lý Thủy nông tỉnh là đơn vị quản lý các công trình thủy lợi lớn của tỉnh,

nhưng cơ chế quản lý hệ thống mương cấp 3 ở các xã vẫn còn cồng kềnh và

chưa mang tính tham gia. Cần phải chuyển qua cơ chế đấu thầu vận hành để vừa

tiết kiệm đầu tư từ ngân sách, vừa khai thác được các nguồn lực khác vào đầu tư

kết cấu hạ tầng, còn khuyến khích sự tham gia quản lý của các hợp tác xã, đơn

vị, và cá nhân ở địa phương. Chắc chắn, điều này sẽ làm cho các công trình kết

cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư được khai thác hiệu quả và đồng bộ hơn.

Những chính sách đầu tư trên là cần thiết để phát triển các kết cấu hạ tầng

nông nghiệp, nông thôn để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn tỉnh Quảng Nam những năm đến. Và điều này cũng phù

hợp với những cam kết của Chính phủ Việt Nam khi trở thành thành viên của

WTO.

3.2.8. Đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông nghiệp

a. Hoàn thiện các chính sách đất đai liên quan đến phát triển nông nghiệp

Theo Luật đất đai ở Việt Nam, đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân và chưa

được công nhận là hàng hóa. Nhưng khi được giao đất, nông dân có được bảy

quyền: cho thuê, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, chuyển đổi, cho tặng và góp

vốn làm nền tảng giải quyết các mối quan hệ về đất đai.

213

Sau đổi mới, đất đai được chia trở lại cho nông dân, quá trình này đã giải

phóng được lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo ra những thành quả về

sản xuất nông nghiệp trong những năm đổi mới. Những lợi ích và chi phí của

việc chia nhỏ đất đai đối với nông dân và đối với cộng đồng nông nghiệp là thực

tế đang diễn ra như được thể hiện trong bảng 3.7.

Bảng 3.7: Chi phí và lợi ích của tình trạng manh mún đất đai

Lợi ích của nhiều thửa

Chi phí của nhiều thửa

Lợi ích riêng

Lợi ích cộng đồng

Chi phí riêng

Chi phí cộng đồng

Công bằng về đất đai giữa các hộ Tăng tính đa dạng cây trồng

Giải phóng được ít lao động Cơ giới hóa chậm Ứng dụng công nghệ mới bị chậm Kế hoạch xây dựng vùng sản xuất lớn khó khăn Chi phí giao dịch cao khi sử dụng thế chấp Quản lý nhà nước có khó khăn

Tăng chi phí sản xuất Sử dụng nhiều lao động Mất đất do nhiều bờ Tiếp cận khó khăn Tăng mâu thuẫn giữa các hộ gần nhau Thủy lợi khó khăn Cơ giới hóa khó khăn Ứng dụng công nghệ mới khó khăn

Giảm rủi ro - Lụt lội - Sâu bệnh Linh hoạt trong thừa kế Linh hoạt trong luân canh cây trồng Dễ dàng thế chấp, bán, chuyển nhượng Dễ bố trí lao động, vụ mùa Dễ quản lý vì diện tích nhỏ

Nguồn: Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, 2007, tr. 237 [44].

Nhưng trước yêu cầu phải chuyển đổi nền nông nghiệp theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, tình trạng chia nhỏ đất đai đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn:

1) Mâu thuẫn giữa việc chia nhỏ đất đai với yêu cầu tập trung đất đai để nâng

cao hiệu quả sử dụng. 2) Mâu thuẫn giữa việc yêu cầu giảm nhanh lao động

trong nông nghiệp với việc nông dân “bị trói” vào đất đai; một phần do chính

sách đất đai, phần khác do sự phát triển của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

và dịch vụ không gắn với với dịch chuyển lao động nông nghiệp sang lĩnh vực

214 phi nông nghiệp. 3) Mâu thuẫn giữa việc muốn thúc đẩy kinh tế trang trại và các

doanh nghiệp nông nghiệp qui mô lớn với chính sách hạn điền đã làm tăng chi

phí, nhất là thuế, nên đã không thu hút được đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp.

Từ những phân tích trên, chính sách đất đai, theo luận án, cần hoàn thiện theo

hướng sau:

- Cần quán triệt phương châm qui hoạch “mềm” trên diện tích đất sử dụng

và sản xuất nông nghiệp lâu dài. Qui hoạch mềm cho phép nông dân chuyển đổi

cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế so sánh và nhu cầu của thị trường; cho

phép tập trung và tích tụ đất đai phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội và định hướng qui hoạch.

- Hoàn thiện chính sách chuyển nhượng đất đai nông nghiệp theo hướng

không phụ thuộc vào nơi cư trú, cho phép hình thức cho thuê đất theo thời hạn,

góp vốn bằng đất và bãi bỏ qui định người nhận chuyển nhượng phải là người

trực tiếp sản xuất. Hiện tại, cả nước đã có nhiều mô hình tập trung, tích tụ đất

cần nghiên cứu như cho thuê hoặc góp ruộng đất để thành lập các hợp tác xã của

nhóm hộ theo mô hình của Nhật Bản là mô hình do “cộng đồng tự thỏa thuận và

chung đất nông nghiệp lại với nhau, do một người hoặc một nhóm nhỏ điều

hành chung và tổ chức sản xuất nông nghiệp chung, phân chia lợi nhuận theo sự

đóng góp của từng hộ và cho nhóm điều hành; mô hình này đã được áp dụng

khá thành công ở Nhật Bản hơn 20 năm qua” (Huỳnh Văn Chương, 2008, tr. 26)

[18] mà hiện nay đang triển khai thử nghiệm cho các hộ nông dân tại tỉnh Gia Lai40; hoặc góp đất để hình thành các trang trại hợp doanh hoặc các trang trại

trách nhiệm hữu hạn như 10 nông dân ở An Giang đứng ra thành lập công ty cổ phần41. Các kiểu tích tụ, tập trung đất như trên cần có chính sách bổ sung để

việc tập trung, tích tụ ruộng đất phù hợp với pháp luật Việt Nam, phù hợp với cơ 40 Công Luân, Mô hình liên minh sản xuất giúp người nông dân chủ động trong sản xuất, Báo điện tử Công thương, www.baocongthuong.com.vn, ngày 23/6/2009. 41 http://vietbao.vn/Kinh-te/Nong-dan-nuoi-ca-basa-o-An-Giang-lap-cong-ty/10831276/87/.

215 chế của thị trường và không làm tăng chi phí, nhất là thuế sử dụng đất nông

nghiệp khi ruộng đất được tích tụ.

- Tăng thêm thời gian sử dụng đất nông nghiệp theo đúng mục đích và bãi

bỏ chính sách “hạn điền”, vì nó đã hạn chế khả năng tập trung, tích tụ ruộng đất

và làm tăng chi phí của các trang trại và doanh nghiệp có qui mô lớn, nhất là

thuế sử dụng đất nông nghiệp và các chi phí liên quan đến quản lý đất nông

nghiệp khác.

- Quá trình tập trung, tích tụ đất đai để hình thành các trang trại, các doanh

nghiệp nông nghiệp lớn sẽ làm đại bộ phận các nông hộ nhỏ không muốn giữ đất

và từ bỏ ngành nông nghiệp để chuyển sang các hoạt động kinh tế phi nông

nghiệp. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ nông dân khi chuyển giao đất để

chuyển đổi sinh kế, nghề nghiệp và việc làm mới. Nhất là đào tạo lao động trẻ

nông thôn để chuyển sang lao động phi nông nghiệp một cách bền vững.

- Đối với các vùng núi cao nơi có các dân tộc thiểu số sinh sống. Chính sách

giao đất, giao rừng và cấp sổ đỏ không nên giao về cá nhân mà giao cho cộng

đồng và “hội đồng già làng” quản lý; điều này phù hợp với luật tục quản lý rừng

và đất đai của cộng đồng các dân tộc vùng núi. Vừa qua, tại Quảng Nam nhiều

gia đình dân tộc chuyển nhượng đất rừng cho các cá nhân miền “xuôi” và chính

những người nhận chuyển nhượng thuê lại chính người chuyển nhượng đất để

trồng rừng (Bùi Quang Thanh, 2007, tr. 166)[81]. Điều này đã làm phát sinh

nhiều vấn đề về qui hoạch và quản lý bảo vệ rừng tại Quảng Nam những năm

qua.

Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế trong sản xuất nông

nghiệp. Nếu chính sách đất đai trong nông nghiệp phù hợp thì sẽ là chính sách

“cởi trói” để nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp Quảng Nam nói

riêng khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, thu hút

nhiều nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp; từ đó tạo điều kiện tăng nhanh tổng

216 sản lượng, thúc đẩy hình thành nhanh một nền sản xuất nông nghiệp công

nghiệp hóa và hiện đại hóa.

b. Nhà nước là chủ thể chính trong đảm bảo nông nghiệp phát triển bền

vững

Đây là vấn đề nhận thức về vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển

nông nghiệp khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế. Khi gia

nhập WTO, một số chính sách trợ cấp xuất khẩu và một số hỗ trợ nông nghiệp

không được phép, còn lại các hỗ trợ đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân

nằm trong hộp xanh (green box) là những gói hỗ trợ được phép thực hiện (Phạm

Thị Tước, 2006) [88]. Đó là nghiên cứu phát triển, đầu tư hạ tầng cơ sở, chính

sách thú y, kể cả trả tiền trực tiếp cho nông dân để thay đổi cơ cấu sản xuất hay

tiến hành các biện pháp môi trường. Những đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh

vực trên, nhất là giống mới, thủy lợi, hạ tầng và những chính sách khuyến khích

sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nhiều hơn từ các doanh nghiệp trong nước và

nước ngoài; thúc đẩy sự tham gia của các viện, các trường đại học trong việc đổi

mới chương trình đào tạo, đào tạo ra những cán bộ khuyến nông, thú y, các

chuyên gia về phát triển nông nghiệp đủ năng lực để giúp nền nông nghiệp Việt

Nam phát triển bền vững.

Hình 3.6: Các khó khăn trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam

217

Kết quả khảo sát đánh giá về những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp của

tỉnh Quảng Nam (hình 3.6) (Nguyễn Cảnh, 2001) [13], các nông dân và trang

trại đánh giá những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp những năm qua là do:

Thứ nhất, do thiếu vốn sản xuất (có 65% số hộ đánh giá); thứ hai, khó khăn về

tiêu thụ nông sản (41%); thứ ba, khó khăn về khuyến nông và kỹ thuật sản xuất

(23%); thứ tư, khó khăn về cách phòng chống dịch bệnh (18%); thứ năm, tư liệu

sản xuất thiếu và vật tư nông nghiệp kém chất lượng (15%); và những khó khăn

khác chiếm 6%.

Vì vậy, những năm đến để đạt được các mục tiêu phát triển nông nghiệp,

UBND tỉnh Quảng Nam và các cấp quản lý chức năng trở thành một đối tác

quan trọng của nông nghiệp và là chủ thể chính trong việc tạo sự liên kết của các

đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản. Nhất là việc điều chỉnh và đổi mới

một số chính sách trong quyền hạn của tỉnh, trong trường hợp cần thiết cần kiến

nghị với Chính phủ để bổ sung và hoàn thiện một số chính sách liên quan đến

phát triển nông nghiệp như sau:

- Về tài chính, tín dụng. Cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: 1) Đa dạng

hóa và đổi mới hoạt động của các tổ chức tín dụng nông nghiệp; tại Quảng Nam

mô hình quỹ tín dụng thuộc hợp tác xã Điện Quang hoạt động khá hiệu quả

trong phục vụ sản xuất nông nghiệp cần được nghiên cứu và nhân rộng, nhất là

việc liên kết cho vay với các hoạt động của hợp tác xã về cung ứng vật tư đầu

vào, dịch vụ nông nghiệp và các hoạt động bảo hiểm cây trồng, vật nuôi; 2) tạo

thuận lợi hơn về thủ tục cho vay, tăng hạn mức cho vay cũng như có chính sách

hổ trợ lãi suất cho vay tại các quỹ tín dụng nông nghiệp.

- Về tư liệu sản xuất. Biện pháp cơ bản cho giải quyết vấn đề này gồm: 1)

Nhà nước đầu tư nghiên cứu các loại máy móc phục vụ khâu làm đất, gieo trồng,

thu hoạch và bảo quản không chỉ cho cây lúa mà cả cho cây bắp, cây sắn, khoai,

đậu mè; ngay cả vấn đề xử lý rau và cây trái trước khi đưa ra thị trường vẫn

chưa được nghiên cứu đầy đủ, nông dân phải tự mày mò đôi khi sử dụng nhiều

218 phương pháp xử lý gây mất an toàn thực phẩm; 2) có chính sách hỗ trợ lãi suất

tín dụng hoặc cấp tín dụng mua trả góp các tư liệu sản xuất trong nông nghiệp

bằng các chương trình cụ thể, khuyến khích sự cạnh tranh, không nên triển khai

như chương trình đánh bắt xa bờ vừa gây tổn thất vừa không hiệu quả; 3) có qui

định quản lý và các hình thức chế tài đối với việc vi phạm cung cấp và bán các

vật tư nông nghiệp kém phẩm chất. Công bố của Bộ Nông nghiệp và PTNT cho

thấy qua kiểm tra phân bón tại 11 công ty với 81 chỉ tiêu thì có đến 45 chỉ tiêu

không đạt chất lượng (Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp, 2009, tr. 69)

[9] gây nhiều tổn thất cho nông dân.

- Về thị trường tiêu thụ. Phát triển các ngành hàng nông sản mạnh cũng

đồng nghĩa tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Ngoài việc phát

triển các hệ thống chợ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, Nhà nước cũng

cần có chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế đất phi nông

nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp; không chỉ áp dụng cho các đối tác trong

lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà cần phải áp dụng cho các đối tác

khác trên chuỗi ngành hàng nông sản như các nhà máy chế biến, các cơ sở kinh

doanh. Khi bổ sung các chính sách ưu đãi cho các đối tác khác trên chuỗi ngành

hàng cũng là hỗ trợ để thúc đẩy phát triển nông nghiệp trong những năm đến.

c. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước địa phương về nông nghiệp,

nông thôn và nông dân

Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là ba đối tượng có vai trò và vị trí khác

nhau trong phát triển nông nghiệp; nông nghiệp là sinh kế, là hoạt động kinh tế

chủ yếu tại nông thôn; nông thôn là địa bàn chủ yếu cho các hoạt động nông

nghiệp và là nơi sinh sống của đa số cư dân nông nghiệp; còn nông dân là chủ

thể chính của hoạt động nông nghiệp, là mục tiêu của phát triển nông nghiệp. Vì

vậy, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp

phải nhằm vào nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

219

Khi phân tích thực tiễn phát triển nông nghiệp tại Quảng Nam, những nhân tố

tác động đến việc thực hiện không thành công có nhân tố thiếu nguồn lực và

không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nên luận án đề xuất các biện pháp nâng cao

năng lực quản lý của Nhà nước có các nội dung cơ bản là: 1) hoàn thiện qui

trình ra chính sách; 2) nâng cao năng lực cán bộ quản lý nông nghiệp các cấp.

1) Hoàn thiện qui trình ra chính sách

Chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân là tổng thể các biện

pháp bao gồm biện pháp kinh tế, xã hội, hành chính để đạt được các mục tiêu

Các đặc điểm của cộng đồng nông nghiệp

phát triển trong ngắn hạn và dài hạn của quốc gia, của tỉnh hoặc một khu vực.

Nông nghiệp cải cách tăng cường quyền và trách nhiệm

Mặt cầu Khả năng của nông dân để đòi hỏi quản lý tốt từ Nhà nước

Phân quyền chính trị, lập kế hoạch tham gia

Kinh tế chính trị

Quản lý nông nghiệp, nông thôn - Hiệu quả và công bằng trong cung cấp dịch vụ - Chất lượng đổi mới - Kiểm soát tham nhũng - Củng cố quyền bao gồm các quyền về lương thực

Mặt cung Năng lực của cơ quan quản lý nông nghiệp cần cải cách để hoạt động hiệu quả

Cải cách tăng năng lực quản lý Nhà nước về nông nghiệp Cải cách quản lý cung ứng, thị trường

Các vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan quản lý nông nghiệp

Hình 3.7: Qui trình ban hành chính sách xuất phát từ cung và cầu đối với

phát triển nông nghiệp

220

Như vậy, qui trình ra chính sách phải xuất phát từ nhu cầu của nông nghiệp,

nông thôn và nông dân (xem hình 3.7) (Ngân hàng Thế giới, 2007, tr. 406) [46].

Từ đó, Nhà nước điều chỉnh khả năng cung tức là năng lực của cơ quan quản lý

có đáp ứng được các nhu cầu từ nông dân, để khi chính sách được triển khai

thực hiện phải đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu đối với phát triển nông

nghiệp, nông thôn, như: 1) Hiệu quả và công bằng trong cung cấp dịch vụ; 2)

chất lượng đổi mới; 3) kiểm soát tham nhũng; và 4) củng cố các quyền trong đó

các quyền đáp ứng đủ lương thực hoặc quyền được tham gia trong quá trình thực

hiện các dự án, chương trình.

Hình 3.8: Những chính sách ưu tiên cần được thực hiện tại Quảng Nam Kết quả khảo sát về các chính sách nào cần được ưu tiên tại Quảng Nam42,

thì đa số các hộ nông dân đều quan tâm đến chính sách tiêu thụ nông sản, chính

sách tạo việc làm ở nông thôn, chính sách đất đai và chính sách đào tạo (hình

3.8) (Nguyễn Cảnh, 2010) [13]. Nếu tỉnh Quảng Nam dựa vào nhu cầu này để

42 Xem phụ lục 4.

điều chính các nguồn lực nhằm thực thi chính sách theo những mức độ ưu tiêu

221 khác nhau thì chắc chắn sự thành công của chính sách sẽ cao hơn và nông

nghiệp sẽ phát triển ổn định và bền vững hơn.

2) Nâng cao năng lực cán bộ quản lý các cấp về nông nghiệp, nông thôn và

nông dân

Công tác cán bộ là một phần không thể thiếu trong việc nâng cao năng lực

quản lý của Nhà nước các cấp về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tỉnh

Quảng Nam hiện rất thiếu cán bộ quản lý trong ngành nông nghiệp và phát triển

nông thôn, nhất là cán bộ khuyến nông; để nâng cao chất lượng cán bộ và khắc

phục tình trạng thiếu cán bộ cần có các biện pháp sau; 1) Nâng cao trình độ và

kiến thức các cán bộ hiện có về nông nghiệp và phát triển nông thôn, về quá

trình hội nhập kinh tế có tác động đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, kiến

thức về kinh doanh nông sản và phát triển ngành hàng nông sản; 2) giao thầu

một số dự án, chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn về các viện, các

trường đại học, các tổ chức nghiên cứu tính khả thi trước khi triển khai; khi triển

khai nên giao thầu cho các hợp tác xã, các tổ chức và cá nhân đủ năng lực để

thực hiện các chính sách như các chương trình khuyến nông, phòng chống dịch

bệnh, công tác thú ý, chăm sóc, nghiên cứu phát triển giống cây trồng, vật nuôi

mới, tái sinh rừng,… Các cơ quan của tỉnh chỉ tăng cường công tác kiểm tra,

giám sát.

3.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã là thành phần chủ yếu trong cơ cấu nền

kinh tế Quảng Nam những năm qua. Những năm đến, nông nghiệp Quảng Nam

phải đóng vai trò tích cực hơn, không chỉ góp phần tạo nên sự tăng trưởng chung

của nền kinh tế tại Quảng Nam; mà điều quan trọng hơn, nông nghiệp Quảng

Nam có khả năng liên kết chặt chẽ với phần còn lại của nền kinh tế để đạt được

mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.

Lợi ích của nông nghiệp không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế, mà nông

nghiệp còn đóng góp vào quá trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn, và

222 bảo vệ môi trường sinh thái. Những giải pháp được đề xuất nhằm đảm bảo phát

triển nông nghiệp Quảng Nam những năm đến đạt được sự cân đối giữa cung và

cầu nông sản; nền nông nghiệp phải phát triển theo hướng thương mại hóa, công

nghiệp hóa và hiện đại hóa. Lúc đó, nông nghiệp sẽ có vai trò lớn hơn không chỉ

đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn đóng góp lớn hơn trong việc

bảo tồn văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái (Geoff A. Wilson, 2007, p.

17) [116] tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.

Trong các giải pháp và các chính sách được đề nghị và trong suốt quá trình

phân tích của luận án; những nội dung liên quan đến việc phát triển các ngành

hàng nông sản và tạo điều kiện để phát triển các hoạt động kinh doanh nông sản

tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn đóng vai trò quan

trọng. Hay nói cách khác, việc xây dựng một nền nông nghiệp thương mại hóa

luôn là trọng tâm, là cốt lõi khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,

nhất là sau khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới. Bên cạnh

đó, việc nâng cao năng lực quản lý Nhà nước cấp tỉnh là những giải pháp tạo ra

môi trường thể chế để cho mọi hoạt động kinh tế nông nghiệp phát triển phù hợp

với những mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường mà chiến lược phát triển nông

nghiệp và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam đã đề ra đến năm 2020.

223

KẾT LUẬN

Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc

tế hiện nay luôn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu, nhà làm chính sách và các

quốc gia quan tâm, vì nông nghiệp có liên quan mật thiết đến việc giải quyết

những vấn đề thiết yếu như nuôi sống loài người, xóa đói, giảm nghèo và làm

chậm quá trình biến đổi khí hậu; mà ngày nay, nó không chỉ là vấn đề của một

quốc gia mà đang trở thành vấn đề của toàn cầu. Tuy nhiên, do đặc thù và yêu

cầu của mỗi nước khác nhau, mà phương pháp tiếp cận, nội dung, đối tượng và

phạm vi nghiên cứu của phát triển nông nghiệp diễn ra theo những chiều hướng

nghiên cứu khác nhau.

Luận án, với đề tài “Phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-

2020”, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển

nông nghiệp của Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng thời gian

qua và giai đoạn 2011-2020. Những kết quả mà luận án đã đạt được qua nghiên

cứu, như sau:

- Thứ nhất, từ việc nghiên cứu các khái niệm liên quan đến nông nghiệp

theo nghĩa rộng (gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), vai trò và vị trí của

nông nghiệp đối với quá trình phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam

và tiếp cận lý thuyết biện chứng về sự phát triển; luận án cho rằng phát triển

nông nghiệp là quá trình vận động để nền nông nghiệp đi từ thủ công đến hiện

đại, đi từ tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa. Và để nông nghiệp phát triển

nhanh và ổn định cần một cơ chế vận hành phù hợp; theo luận án, cơ chế vận

hành đó là: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành hàng nông sản nhằm

phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của quá trình hội nhập; 2)

sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui

mô và thúc đẩy phát triển thị trường nông sản; và 3) sản xuất nông nghiệp bền

vững góp phần đạt được các nội dung của phát triển bền vững quốc gia. Từ đó

nâng cao vai trò của địa phương trong phát triển nông nghiệp.

224

Thứ hai, đã xây dựng được các nội dung của phát triển nông nghiệp trong

giai đoạn hiện nay của Việt Nam có xét đến yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế

nhằm khai thác được lợi thế so sánh và đáp ứng nhu cầu đa dạng nông sản của

thị trường. Một hệ thống chỉ tiêu gắn liền với mỗi nội dung phát triển nông

nghiệp cũng đã được đề xuất nhằm có thể lượng hóa các nội dung của phát triển

nông nghiệp làm cơ sở so sánh và đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội của

quá trình phát triển nông nghiệp.

Thứ ba, đã chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp

trong giai đoạn hiện nay gồm có các nhân tố liên quan đến điều kiện tự nhiên,

kinh tế, xã hội và thể chế. Các bài học kinh nghiệm tại các nước và trong nước

đã củng cố tính logic các nội dung của phát triển nông nghiệp trong điều kiện

hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Thứ tư, luận án đã đánh giá được thực trạng phát triển nông nghiệp Quảng

Nam theo các nội dung đã xây dựng; chỉ ra được những nguyên nhân của những

hạn chế, yếu kém của quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam qua các

năm. Đây chính là các căn cứ để đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp

tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020.

Thứ năm, từ những căn cứ như hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến nông

nghiệp, quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam, định hướng chiến

lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020;

luận án đã đề ra được các mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đến

năm 2020 gắn với ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Về phát triển kinh

tế, tăng trưởng tổng sản lượng nông nghiệp phải đạt từ 4% đến 4,5%, phát triển

các ngành hàng xuất khẩu để đến năm 2020, tổng sản phẩm nông nghiệp Quảng

Nam chiếm tỷ trọng chỉ còn 10% GDP và lao động nông nghiệp còn 30%; về xã

hội phải đặt mục tiêu đạt 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; về môi trường

cần đặt vấn đề bảo vệ và phát triển rừng có vai trò quan trọng trong phát triển

nông nghiệp tại Quảng Nam.

225

Thứ sáu, tất cả những vấn đề nêu trên là căn cứ tiền đề để luận án đề ra các

giải pháp. Có tám nhóm giải pháp chủ yếu1) Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu

sản xuất nông nghiệp; 2) khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp; 3)

phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn hóa, tập

trung hóa; 4) hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp; 5)

tăng cường thâm canh trong nông nghiệp; 6) mở rộng thị trường và phát triển

các ngành hàng nông sản; 7) đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn

đồng bộ và hiện đại; và 8) đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông

nghiệp.

Tóm lại, luận án đã đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra ban đầu. Tuy nhiên,

nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi cấp tỉnh và thời gian khá rộng, đối với

cấp tỉnh hệ thống số liệu thống kê hầu như không đầy đủ, nhất là tỉnh Quảng

Nam do chia tách tỉnh nên nhiều khi số liệu không liên tục, nên các điều tra khảo

sát thực địa đã được tiến hành nhằm bổ sung nguồn dữ liệu phục vụ quá trình

phân tích đánh giá. Do đó, dù có nhiều nỗ lực để hoàn thành luận án nhưng cũng

không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp

của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để hoàn thiện và phát triển hơn nữa

nghiên cứu của mình.

226 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. (2002), Mô hình cho thuê lưới điện hạ áp: Một hình thức đầu tư và tổ

chức bán điện ở nông thôn, Tạp chí Điện lực, (số 5/2002), tr. 9-11, Hà

Nội.

2. (2008), Giao thông vận tải và phát triển kinh tế miền Trung, Tây Nguyên,

Tạp chí Giao thông Vận tải (số 10/2008), tr. 12-15, Hà nội.

3. (2009), Phân tích lợi thế kinh tế: Phương pháp tiếp cận trong việc xác

định ngành có lợi thế so sánh của các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm

miền Trung, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Liên kết kinh tế trên địa

bàn miền Trung-Tây Nguyên, Đại học Đà Nẵng, 4/2009, tr. 75-85, Đà

Nẵng.

4. (2009), Những nội dung cơ bản của phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện

nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 12/2009), tr. 62-69, Hà Nội.

5. (2010), Qui trình quản lý tài chính dự án đầu tư do các ngân hàng đa

phương tài trợ, Tạp chí Giao thông Vận tải, (số 11/2010), tr. 42-42, Hà

Nội.

6. (2011), Nghiên cứu tái định cư thủy điện ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb

Từ điển Bách khoa, tr. 18-29, Hà Nội.

for re-settled communities, CRBOM Small 7. (2011) Livelihoods

Publiccations Series No. 36, Center for River Basin Organization and

Management, Indonesia (www.crbom.org/SPS/).

8. (2011) Good practices for hydropower development, CRBOM Small

Publiccations Series No. 39, Center for River Basin Organization and

Management, Indonesia (www.crbom.org/SPS/).

227

9. (2011), Các giải pháp kinh tế - xã hội phát triển bền vững thủy điện tại

miền Trung và Tây Nguyên, Hội thảo tại Đại Học Đà Nẵng 9/2011, tr.

568-576, Đà Nẵng.

228 TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT

1. PGS. TS. Nguyễn Văn Bích, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm

đổi mới: Quá khứ và hiện tại (2007), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Báo cáo điều chỉnh qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Nam đến

năm 2010 (2006), Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Nam, Tam Kỳ.

3. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 và nhiệm vụ kế hoạch năm

2010, UBND tỉnh Quảng Nam, tháng 11/2009.

4. Báo cáo của Sở NN và PTNT về Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn,

nông dân với UBND tỉnh Quảng Nam ngày 12/04/2008.

5. Báo cáo của Sở NN và PTNT Quảng Nam về vấn đề cơ khí hóa nông nghiệp

tại Quảng Nam, năm 2009.

6. Báo cáo hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh

Quảng Nam”, ngày 25/01/2008.

7. Báo cáo Khung qui hoạch quản lý rủi ro thiên tai tổng hợp tỉnh Quảng Nam,

Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Nam, 2009, Tam Kỳ.

8. Báo cáo Tổng kết hoạt động khuyến nông, khuyến ngư năm 2008 và định

hướng khuyến nông, khuyến ngư năm 2009 của Trung Tâm Khuyến nông –

Khuyến ngư Quốc gia, Hà Nội, 18/12/2008.

Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp: Nông nghiệp Việt Nam năm 9.

2008, triển vọng 2009 (2009), Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp

nông thôn.

10. Bộ Nông nghiệp và PTNT, Dự thảo chiến lược an ninh lương thực quốc gia,

2008, Hà Nội.

11. Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2009 và triển vọng

2010, Trung tâm Thông tin NNPTNT (AgroInfo), Hà Nội.

229 12. Đinh Phùng Bảo, Đặc điểm khí hậu, thủy văn tỉnh Quảng Nam (2001), Đề

tài nghiên cứu của Trung Tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn tỉnh Quảng Nam,

Tam Kỳ.

13. Nguyễn Cảnh, Hoàn thiện qui trình chính sách công nhằm xây dựng nông

thôn mới ở Quảng Nam (2010), Đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học

và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.

14. PGS. TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi

mới (2003), Nxb Thống kê, Hà Nội.

15. Nguyễn Tấn Cư, Xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn tại Quảng Nam

(2004), Đề tài nghiên cứu khoa học của Chi cục Bảo vệ Thực vật Quảng

Nam, Tam Kỳ.

16. Cục Thống kê Quảng Nam (2010) , Niên giám thống kê năm 2010, Tam Kỳ.

17. Cục Thống kê Quảng Nam (2010) Kinh tế - xã hội Quảng Nam 10 năm

2001-2010¸ Tam Kỳ.

18. TS Huỳnh Văn Chương, Ths. Phạm Hữu Tỵ, Điều chỉnh chính sách đất đai

để xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững nông thôn (2008), Khoa Tài

nguyên đất và Môi trường Nông nghiệp, ĐH Nông Lâm Huế, Tài liệu hội

thảo: Trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách và cán bộ nghiên cứu và

phát triển về Nông nghiệp –Nông thôn – Nông dân, TP Huế, 12-2008.

19. PGS. TS. Đỗ Cảnh Dương, Điều tra đánh giá đất vùng gò đồi các huyện

đồng bằng, trung du tỉnh Quảng Nam phục vụ qui hoạch phát triển nông

nghiệp bền vững (2006), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường ĐH Mỏ -

Địa chất, Tam Kỳ.

20. Nguyễn Tiến Dũng, Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam (2003), luận án tiến sĩ, Trường ĐH

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

21. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, Nông nghiệp Việt Nam: Từ cội nguồn đến đổi

mới (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

230 22. Đề án bảo tồn làng nghề Quảng Nam giai đoạn 2008-2015 và định hướng

đến 2020 (2008), Sở Công Thương Quảng Nam, Tam Kỳ.

23. Đề án phát triển Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp theo hướng tăng mạnh

sản xuất công nghiệp và dịch vụ (2003), UBND tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.

24. PGS. TS Phạm Vân Đình, TS. Đỗ Kim Chung, Kinh tế nông nghiệp (1997),

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

25. Ngô Văn Đồng, Xác định một số giống lúa cạn có năng suất cao và các mô

hình canh tác lúa cạn có hiệu quả ở vùng núi Quảng Nam (2007), Đề tài

ngiên cứu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, Tam

Kỳ.

26. PGS. TS. Võ Văn Đức (chủ biên), Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ

yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (2009), Nxb Chính trị

27. Phạm Nguyễn Thu Giang, Hoàn thiện các chính sách nhằm hỗ trợ chuyển

Quốc gia, Hà Nội.

đổi nghề nghiệp cho các hộ dân thuộc diện giải tỏa đền bù tại huyện Điện

Bàn, Quảng Nam (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học, Đà Nẵng.

28. TS Thái Thanh Hà, Chuỗi giá trị song mây tỉnh Quảng Nam (2006), GTZ và

SME Development, Hà Nội.

29. GS. TS. Hoàng Ngọc Hòa, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta (2008), Nxb Chính

trị Quốc gia, Ha Nội.

30. TS Vũ Ngọc Hoàng, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng Nam, Tạp chí

Cộng sản số 54/2004.

31. TS Vũ Ngọc Hoàng “Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp Quảng Nam” (1995),

Luận án tiến sĩ, Hà Nội.

32. Học viện chính trị Quốc gia HCM, Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội, 2004.

231 33. Đào Bá Hoàn, Xây dựng các mô hình VAC phù hợp với từng vùng sinh thái

ở tỉnh Quảng Nam (2004), đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và

Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.

34. TS. Đinh phi Hổ, TS. Lê Ngọc Uyển, Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực

tiến (2006), Nxb Thống kê, TP HCM.

35. Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,

36.PGS TS Vũ Trọng Khải, Tích tụ ruộng đất – Trang trại và nông dân, Tạp

Nxb Khoa học Xã hội, TP HCM, 1995.

chí Nghiên cứu kinh tế số 365, tháng 10/2008.

37. PGS. TS. Phan Văn Khôi, Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp,

nông thôn (2007), Nxb ĐH kinh tế quốc dân, Hà Nội.

38. TS Phạm Ngọc Linh, TS Nguyễn Thị Kim Dung, Giáo trình kinh tế phát

triển (2008), Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

39. Võ Lượng, Xây dựng mô hình kinh tế hộ gia đình trên cơ sở sử dụng có hiệu

quả đất nông - lâm nghiệp tại huyện miền núi Tiên Phước tỉnh Quảng Nam

(1999), đề tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến

lâm Quảng Nam, Tam Kỳ.

40. Luật đất đai năm 1993, sửa đổi năm 1998, 2001, 2003 và luật đất đai năm

2005.

41. Luật bảo vệ và phát triển rừng, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 6, ngày

03/12/2004.

42. Luật Khoa học và Công nghệ, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7, ngày 09 tháng 6 năm 2000.

43. Luật hợp tác xã, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa

XI, kỳ họp thứ 4, ngày 10 tháng 12 năm 2003.

232 44. Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, Phát triển nông

nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam (2007), Trung Tâm nghiên cứu

45. GS-TS Nguyễn Thế Nhã, TS Vũ Đình Thắng, Giáo trình kinh tế nông

Nông nghiệp Quốc tế của Úc, Hà Nội.

nghiệp (2002), Nxb Thống Kê.

46. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển thế giới (2008), Tăng cường nông

nghiệp cho phát triển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Minh Nghĩa, Phát triển ngành dâu tằm tơ tại Duy Trinh Quảng

Nam (2008), Đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.

48. PGS TS Nguyễn Kim Ngọc, Nghiên cứu cân bằng và qui hoạch tổng thể

khai thác sử dụng bền vững các nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội

tỉnh Quảng Nam (2003), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường ĐH Mỏ -

Địa chất, Tam Kỳ.

49. TS. Lương Tất Nhợ (chủ biên), Khả năng cạnh tranh ngành chăn nuôi bò

sữa Việt Nam (2005), Viện kinh tế nông nghiệp, Hà Nội.

50. Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 ban hành bản quy định về công tác khuyến

nông.

51. Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ về

52. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10-NQ/TWvề đổi mới quản lý kinh tế nông

chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.

53. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn

nghiệp, ngày 5/4/1988.

54. Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khoá

đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.

VII về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, ngày

10/6/1993.

233 55. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCHTW(khoá X) số 26-NQ/TW về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 5/8/2008.

56. Nghị quyết số 03/NQ/CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.

57. Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/06/2003 về việc miễn giảm thuế sử

dụng đất nông nghiệp.

58. GS. TSKH Lê Du Phong (Chủ biên), Chính sách phát triển nông nghiệp,

nông thôn, nông dân của Hungary trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận

dụng cho Việt Nam (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

59. GS. TSKH Lê Du Phong (Chủ biên), Nguồn lực và động lực phát triển trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (2006), Nxb

Lý luận Chính trị, Hà Nội.

60. GS. TSKH Lê Du Phong, Thu nhập, đời sống, việc làm của những người có

đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng

kinh tế-xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia (2007),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. GS. TSKH Lê Du Phong, Vấn đề đất đai ở nông thôn Việt nam, Tạp chí

nghiên cứu kinh tế tháng 12/2007.

62. Phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Quyết định 150/2005/QĐ-TTg,

ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ.

63. Ellis Ph., Kinh tế hộ gia đình và phát triển nông nghiệp (1993), NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

64. Quỹ nghiên cứu ICARD-MISPA, Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác

động của ngành mía đường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, (2004),

Hà Nội.

65. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015,

Sở KH và ĐT Quảng Nam, 2006.

234 66. Qui hoạch tổng thể tái định cư thủy điện Sông Tranh 2 (2006), Công ty CP

Tư vấn và Phát triển Kỹ thuật Tài nguyên Nước, Đà Nẵng.

67. Quyết Định số 4002/2008/QĐ-UBND ngày 02/12/20085, về Ban hành Kế

hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ

thiên tai đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh Quảng Nam

68. Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng

Chính phủ về Việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

69. Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009, về đề án

dạy nghề cho lao động nông thôn.

70. Chambert R., Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ

(1991), NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

71. Martin Ravallion, Dominique van de Walle, Đất đai trong thời kỳ chuyển

đổi: Cải cách và nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam (2008), NXB Văn hóa

thông tin, Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.

72. GS. Đỗ Quốc Sam, Một số vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa sau 20

năm đổi mới (2006), Hà Nội.

73. PGS. TS Nguyễn Danh Sơn (chủ biên), Nông nghiệp, nông thôn, nông dân

Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại, (2010),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

74. TS. Đặng Kim Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân trong quá trình công nghiệp hóa (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. TS Đặng Kim Sơn, Công nghiệp hóa từ nông nghiệp (2002), Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

76. TS. Đăng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Hôm nay

và mai sau (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Tatyana P. Soubbotina, Không chỉ là tăng trưởng kinh tế (2005), World

Bank, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

235 78. Josepth E. Stiglitz, Vận hành toàn cầu hóa (2008), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí

Minh.

79. Nguyễn Công Tạn, Nghiên cứu về Hà Lan (20050, Báo nông thôn ngày nay.

80. Nguyễn Văn Tân, Khảo sát, đánh giá khả năng thích nghi của cây cà phê,

ca cao trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (2001), Đề tài nghiên cứu khoa học của

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, Tam Kỳ.

81. TS. Bùi Quang Thanh, Nghiên cứu các luật tục của đồng bào dân tộc thiểu

số phục vụ đầu tư phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống văn hóa cơ

sở (2007), đề tài nghiên cứu của tỉnh Quảng Nam, Hà Nội.

82. Đoàn Tranh (2011), Các giải pháp kinh tế - xã hội phát triển bền vững thủy

điện tại miền Trung và Tây Nguyên, Hội thảo tại Đại Học Đà Nẵng 9/2011,

Đà Nẵng.

83. Đoàn Tranh, Giao thông vận tải và phát triển kinh tế miền trung Tây nguyên

(2008), Tạp chí GTVT số 10/2008.

84. Đoàn Tranh, Sinh kế bền vững cho cộng đồng tái định cư công trình thuỷ

điện ở lưu vực sông Vu Gia -Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam: Thực trạng và giải

pháp (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học của Mạng lưới Sông ngòi Việt

Nam, Hà Nội.

85. Nguyễn Thị Đoan Trang (2010), Thực trạng các ngành hàng nông sản xuất

khẩu của tỉnh Quảng Nam, đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân,

Đà Nẵng

86. Bảo Trung, Thể chế giao dịch nông sản: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và bài

học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 364 – Tháng 9/2008.

87. Bùi Văn Tuất, Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển kinh

tế hộ gia đình xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, (2003), Đề

tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu, Ứng dụng và Chuyển

giao Khoa học Công nghệ, Quảng Nam Tam Kỳ.

236 88. Phạm Thị Tước, Những cam kết WTO và khả năng tác động đến nông

nghiệp Việt Nam (2006), Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hà Nội.

89. Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

ở Việt Nam - Con đường và Bước đi (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. TS. Nguyễn Từ, Những biện pháp chủ yếu để giải quyết nguyên liệu mía ở

Công ty Mía đường Lam Sơn, (2005), Tài liệu báo cáo hội thảo ngành Mía

Đường, Hà Nội.

91. TS. Nguyễn Từ (chủ biên), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với

phát triển nông nghiệp Việt Nam (2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

92. UNDP, Việt Nam hướng tới 2010, tập 1&2 (2001), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

93. PGS Nguyễn Trọng Uyên, Đánh giá khả năng khai thác sử dụng tài nguyên

thiên nhiên Việt Nam phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội

(1990), Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện kế hoạch dài hạn và phân bố

lực lượng sản xuất, Hà Nội.

94. Trần Đức Viên, Phạm Văn Phê, Sinh thái học nông nghiệp (1998), Nxb Giáo

Dục, Hà Nội.

95. Lưu Hoàng Vĩnh (2010), Các giải pháp nâng cao thu nhập cho các nông hộ

huyện Điện Bàn, Đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.

96. Trần Quang Vinh, Nghiên cứu khảo nghiệm một số giống cây ăn quả tại

Quảng Nam (2001), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm giống thực

nghiệm Nông lâm nghiệp Quảng Nam, Tam Kỳ.

97. GS TS Bùi Minh Vũ, Giáo trình Kinh tế Lâm nghiệp (2001), Nxb Thống kê.

98. E. Wayne Nafziger, Kinh tế học của các nước đang phát triển (1998), Nxb

Thống kê, Hà nội.

B. TIẾNG ANH

99. Asian Development Bank, Agriculture commercialization, Value Chains,

and Poverty Reduction (2004), www.markets4poor.org.

237 100. Asian Development Bank, Strategic Environmental Assessment of the

Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin

(2008), Hanoi.

101. Joachim Von Braun, Agricultural Commercialization Economic

Development and Nutrition (1994), International Food Policy Research

Institute, The Johns Hopkins University Press, London.

in Liberalized Trade 102. Joachim von Braun, Small-scale Farmers

Environment (2005), International Food Policy Research Institute (IFPRI).

103. Martin Christopher, Logistics and Supply Chain Management (2005),

Prentice Hall, London.

104. Food and Agriculture Organization, Trade and Food Security:

Conceptualizing the Linkages (2002), Rome.

105. FAO Agriculture Department Report, Good Agricultural Practice

Approach (2003), Rome, Italy.

106. FAO, (2005), Participatory policy development for sustainable agriculture

and rural development, Rome.

107. Shaun Ferris and Et al, Market Facilitator’s Guide to Participatory

Agroenterprise Development (2006), International Center for Tropical

Agriculture, Columbia, USA.

108. Guido Van Huylenbroeck, Multifunctionality of Agriculture: A Review of

Definitions, Evidence and Instruments (2008), Ghent University, Department

of Agricultural Economics, Belgium.

109. Sara Mortimore and Carol Wallace, Food industry briefing series: HACCP

(2001), Blackwell Science Ltd., London.

110. Roger D. Norton, Agricultural Development Policy: Concept and

Experience (2004), John Wily & Sons, Ltd.

111. OECD Economic Survey – Nethelands (2008).

238 112. Anita Regmi, Mark Gehlhar, New directions in global food markets

(2005), USDA.

113. Paul A. Samuelson and William D. Nordhaus, Economics 16th, Mc Graw-

Hill Inc., 1996, New York.

114. Statistical Yearbook of the Nethelands (2007).

115. Integrated Assessment of the Impact of Trade Liberalization - A Country

Study on the Viet Nam Rice Sector. (2005), United Nations Environment

Programme (UNEP).

116. Geoff A. Wilson, Multifunctional Agriculture: A Transition Theory

Perspective (2007), Cromwell Press, Trowbridge, UK.

239

CÁC PHỤ LỤC

240 PHỤ LỤC 1

MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ GÓP PHẦN TĂNG TRƯỞNG

GDP TRONG NÔNG NGHIỆP CẢ NƯỚC VÀ QUẢNG NAM

1. Xác định mô hình tổng năng suất các yếu tố (TFP 43)

Trong nông nghiệp, các yếu tố sản xuất chính gồm đất đai (N), lao động (L)

và vốn (K). Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, thì tiến bộ về giống cây trồng,

vật nuôi, phương pháp canh tác, những thuận lợi và bất lợi của thời tiết, kinh

nghiệm của người nông dân là những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tăng

trưởng trong nông nghiệp. Thông thường, tổng sản lượng hay tổng sản phẩm

trong nước (Y) được biễu diễn như là một hàm của các đầu vào yếu tố sản xuất

là : Y = f(T, L, K, N, E)

Trong đó, T là tiến bộ công nghệ, L là lao động, K là vốn, N là đất đai, và E

là trình độ quản lý. Đất đai là tài nguyên thiên khó thay thế trong nông nghiệp,

được đánh giá là không sinh sản thêm thông qua sản xuất, nhiều nhà kinh tế cho

đó là nhân tố cố định hầu như không liên quan đến tăng trưởng; bằng chứng là

Nhật, Thụy Sĩ, Israel có mức tăng trưởng nhanh, mặc dầu thiếu thốn đất đai và

tài nguyên thiên nhiên; trong trường hợp này, ta xem đất đai như là vốn trong

sản xuất nông nghiệp. Trình độ quản lý xem như là một dạng của nguồn lao

động, các nhân tố tiến bộ kỹ thuật và các thuận lợi khác xem là không thay đổi.

Lúc đó, hàm sản xuất chỉ còn ba biến và được biễu diễn là :

Y = g(T, L, K).

Vào năm 1920, nhà tóan học Charles Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas

β

(1)

α K TL Y =

đã biễu diễn hàm sản xuất trên dưới dạng :

Trong đó, α là độ co dãn của sản lượng theo lao động (khi giữ cho vốn

43 Total Factor Productivity .

không đổi); β là độ co dãn của sản lượng theo vốn (khi giữ cho lao động không

241 đổi); khi α+ β = 1, để biễu thị rằng lợi tức là không đổi theo qui mô (tức là, khi

tăng đầu vào lao động một cách tỷ lệ, thì sản lượng sẽ tăng lên theo tỷ lệ). Giả

thuyết thêm rằng cạnh tranh là hoàn hảo, với các yếu tố sản xuất có sản phẩm

biên và sự thay đổi công nghệ không có ảnh hưởng. Biến đổi hàm (1) bằng cách

lấy logarit cho kết quả:

LnY = LnT + αLnL + βLnK (2)

.

=

.

+ α

+ β

.

.

dY dt

1 Y

dT dt

1 T

dL dt

1 L

dK dt

1 K

Vi phân theo thời gian, nó sẽ cho ta kết quả :

Phương trình trên là theo thời gian liên tục, còn sự xấp xỉ không liên tục. Lấy

=

dY Y

dT T

dL + α + β L

dK K

theo tỷ lệ thay đổi hàng năm của các biến số là:

Đây là tỷ lệ thay đổi hàng năm của các biến số mà chúng được biễu diễn dưới

dạng: %∆Y = TC + α(%∆L) + β(%∆K) (3)

Trong đó: %∆Y là tốc độ tăng của sản lượng, %∆L là tốc độ tăng của lao

động, %∆K là tốc độ tăng của vốn, và TC đại diện cho sự thay đổi kỹ thuật hay

còn gọi là tổng năng suất các yếu tố TFP.

Để giải thích tăng trưởng trên đầu người, chúng ta có thể loại bỏ L như là

nguồn tăng trưởng riêng (Paul A. Samuelson, 1996, p. 556) [113].

Ta có phương trình sau:

Y L

%∆ = %∆Y - %∆L (4)

Từ phương trình (3) và (4) ta có phương trình:

K L

Y L

= β(%∆ ) + TC (5) %∆

Mối quan hệ này chứng tỏ, nếu việc thay đổi công nghệ bằng không thì việc

đầu tư vốn trên lao động càng sâu (thâm canh cao) sẽ tác động đến việc tăng sản

242 lượng nông sản trên đầu người. Tuy nhiên, β luôn nhỏ hơn 1 (thường β = ¼) nên

sản lượng sẽ tăng chậm hơn vốn, điều này phản ánh qui luật sinh lợi giảm dần.

Cuối cùng chỉ có sự áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất mới đảm bảo cho

sản lượng tăng nhanh hơn vốn (E. Wayne Nafziger, 1998) [98].

2. Xác định hệ số α+ β của Việt Nam giai đoan 1996-2010

Số liệu thu nhập GDP, số lao động và vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1996-2010

cho ở bảng sau:

Y (tỷ đồng) (giá cố định Lao động (1000 người) Vốn (tỷ đồng) (giá cố định)

213.833 231.264 244.596 256.272 273.666 292.535 313.247 336.242 362.435 393.031 425.373 461.344 490.458 516.566 551.609 35.442 36.000 36.556 37.109 37.610 38.563 39.508 40.574 41.586 42.775 43.980 45.208 46.461 47.744 48.756 68.696 79.911 79.361 84.051 93.681 103.629 117.020 131.136 147.408 160.702 176.701 214.632 203.687 220.790 231.207 Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Hồi qui các số liệu trên theo mô hình phương trình (2) và đặt Y = LnY; X1 =

LnL và X2 = LnK.

243

SUMMARY OUTPUT

Regression Statistics

Multiple R R Square Adjusted R Square Standard Error Observations

0.998873792 0.997748853 0.997373662 0.015853754 15

ANOVA

df

SS

MS

F

2659.308

0.668394498 0.000251342

Regression Residual Total

2 12 14

1.336788995 0.003016098 1.339805094

Coefficients

Standard Error

P-value

Intercept X Variable 1 X Variable 2

-10.201335 1.868474155 0.263210659

2.098052396 0.273415008 0.069456025

t Stat -4.86228801 6.833839047 3.789601557

0.00039 1.81E-05 0.002578

Kết quả như sau:

Chúng ta xác định được α = 1,868 và β = 0,26.

3. Số liệu của Việt Nam giai đoạn 1996 đến 2010

Cả nền kinh tế

Ngành nông nghiệp

%GDP

%L

%K

%GDP

%L

%K

Năm

9.34%

1.61%

10.98%

4.40%

-0.64%

4.64%

1996

8.15%

1.57%

16.33%

4.33%

-0.73%

14.56%

1997

5.76%

1.55%

-0.69%

3.53%

-0.80%

-6.04%

1998

4.77%

1.51%

5.91%

5.23%

-0.90%

21.81%

1999

6.79%

1.35%

11.46%

4.63%

-1.11%

9.09%

2000

6.89%

2.53%

10.62%

2.98%

-0.14%

-24.36%

2001

7.08%

2.45%

12.92%

4.17%

0.03%

4.52%

2002

7.34%

2.70%

12.06%

3.62%

0.04%

8.08%

2003

7.79%

2.50%

12.41%

4.36%

-0.05%

4.98%

2004

8.44%

2.86%

9.02%

4.02%

-0.12%

3.65%

2005

8.23%

2.82%

9.96%

3.69%

-0.30%

8.93%

2006

8.48%

2.79%

21.47%

3.76%

0.08%

4.28%

2007

6.31%

2.77%

-5.10%

4.68%

0.32%

-4.14%

2008

244

5.32%

2.76%

1.82%

1.39%

5.28%

8.40%

2009

6.78%

2.12%

2.78%

-5.20%

0.25%

4.72%

2010

Bình quân

7.12%

2.30%

9.14%

3.80%

-0.53%

3.39%

Với β = 0,26, lúc đó ta xác định được yếu tố K với 0,26 (%∆K); tính TC

bằng phương trình (5); và tính yếu tố L dựa vào công thức (3). Dựa vào kết quả

số bình quân của bảng trên, ta có kết quả như sau:

Cả nền kinh tế TC %∆L %∆K %GDP

Ngành nông nghiệp TC %∆L %∆K %GDP

0,8%

3,95%

2,40%

7,12%

1,20%

1,71%

0,9%

3,80%

11,2%

55,5%

33,4%

100%

31,8% 44,95%

23,2%

100%

Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố Tỷ trọng đóng góp của mỗi yếu tố

4. Số liệu của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1997 đến 2010

Cả nền kinh tế

Ngành nông nghiệp

Năm`

%GDP

%L

%K

%GDP

%L

%K

8.90

1.37%

19.3%

2.87

1.51%

-4.10%

1997

7.46

2.59%

0.1%

2.16

1.16%

0.60%

1998

6.75

2.11%

27.0%

2.18

0.81%

1.69%

1999

7.32

3.76%

58.7%

2.43

-0.01%

2.96%

2000

8.50

1.90%

29.4%

3.01

1.21%

19.77%

2001

9.04

1.80%

3.2%

2.99

-0.70%

13.03%

2002

10.36

1.87%

18.3%

4.15

0.98%

2.76%

2003

11.55

1.59%

14.8%

3.20

0.16%

0.22%

2004

12.48

1.62%

23.1%

2.78

-0.15%

-3.62%

2005

13.46

1.53%

22.5%

3.87

-0.40%

3.62%

2006

14.42

1.37%

12.4%

2.82

-0.36%

-0.28%

2007

12.70

0.90%

-4.6%

0.91

-3.75%

-14.81%

2008

11.05

0.67%

20.4%

0.50

-3.62%

5.10%

2009

245

2010

12.50

0.80%

20.9%

1.28

-3.16%

7.82%

Bình quân

11.25%

1.73%

17.0%

2.45%

-0.48%

2.24%

Cũng căn cứ vào cách tính trên và dựa vào kết quả số bình quân của bảng

trên, ta có kết quả như sau:

Cả nền kinh tế TC %∆L %∆K %GDP

Ngành nông nghiệp TC %∆L %∆K %GDP

3,3%

3,49%

4,4% 11,25%

0,2%

1,65%

0,6%

2,45%

29,7%

31,1%

39,2%

100

8,9%

67,3%

23,8%

100%

Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố Tỷ trọng đóng góp của mỗi yếu tố

246 PHỤ LỤC 2

MÔ HÌNH Hwa Erh Cheng

TÁC ĐỘNG CỦA NÔNG NGHIỆP ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CÔNG

NGHIỆP VÀ THU NHẬP GDP ĐẦU NGƯỜI TẠI VIỆT NAM

A. Đặt bài toán

Mô hình Hwa Erh Cheng cho mối quan hệ tăng trưởng giữa công nghiệp,

nông nghiệp và GDP đầu người, được Hwa Erh Cheng44 xây dựng như sau:

A0 = f[I0, LnY, (LnY)2]

Trong đó I0 là tộc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp và xây dựng, A0 là

tộc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp và Y là thu nhập bình quân đầu người

(tính bằng USD).

Ban đầu Hwa Erh Cheng giả định tốc độ tăng trưởng công nghiệp và nông

nghiệp là hàm phi tuyến với GDP trên đầu người.

+ εI

(1)

+ εA

(2) I0 = αILnY + βI(LnY)2 A0 = αALnY + βA(LnY)2

Trong đó εI và εA là sai số ngẫu nhiên.

GDP được xem là biến đại diện cho các giai đoạn phát triển kinh tế. Chúng ta

có thể xây dựng tương quan hồi qui giữa εI và εA.

(3) εA = λεI + u

(4) Phương trình (1) có thể viết lại với dạng sau: εA = A0 - αALnY - βA(LnY)2

Và phương trình (2) được viết lại dưới dạng sau:

44 TS. Đinh phi Hổ, TS. Lê Ngọc Uyển, Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiến (2006), Nxb Thống kê, TP HCM, tr 247 [34]. Hwa Erh Cheng là tiến sĩ Đại học Cornell, chuyên về kinh tế phát triển và kinh tế lượng. Năm 1977 ông làm việc ở phòng nghiên cứu của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, năm 2000 ông là kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại vùng Đông Á. Ông cũng là cố vấn cho tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc giai đoạn 1999-2001.

(5) εI = I0 - αILnY - βI(LnY)2

247

(6)

(7) Thay phương trình (4), (5) vào phương trình (3), ta có: A0 - αALnY - βA(LnY)2 = λI0 - λαILnY - λβI(LnY)2 + u A0 = λI0 + (αA - λαI)LnY + (βA - λβI)(LnY)2 + u

Đặt β1 = λ; β2 = αA - λαI; β3 = βA - λβI.

Lúc đó phương trình (7) có thể viết lại như sau:

+ εA

A0 = β0 + β1I0 + β2LnY + β3 (LnY)2

B. MÔ HÌNH TÍNH CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

1. Số liệu cụ thể giai đoạn 1990 đến 2010 tại Việt Nam như sau:

Y (USD) LnY (LnY)2 Năm Ao Io

1990 1.0 2.3 40 3.7 13.6

1991 2.2 7.7 71 4.3 18.2

1992 6.9 12.8 101 4.6 21.3

1993 3.3 12.6 126 4.8 23.4

1994 3.4 13.4 158 5.1 25.6

1995 4.8 13.6 199 5.3 28.0

1996 4.4 14.5 232 5.4 29.7

1997 4.3 12.6 264 5.6 31.1

1998 3.5 8.3 299 5.7 32.5

1999 5.2 7.7 326 5.8 33.5

2000 4.6 10.1 356 5.9 34.5

2001 3.0 10.4 383 5.9 35.4

2002 4.2 9.5 421 6.0 36.5

2003 3.6 10.5 476 6.2 38.0

2004 4.4 10.2 549 6.3 39.8

2005 4.0 10.7 637 6.5 41.7

2006 3.7 10.4 731 6.6 43.5

2007 3.8 10.2 799 6.7 44.7

248

2008 4.7 6.0 969 6.9 47.3

2009 1.8 5.5 1,071 7.0 48.7

2010 2.8 7.7 1,169 7.1 49.9

1. Kết quả xử lý bài toán trên SPSS

Model Summary

Change Statistics

Std. Error of the Estimate

Mode l 1

R .635(a)

R Square .404

Adjusted R Square .298

1.0562

R Square Change F Change 3.836

.404

Sig. F Chang e .029

Durbin- Watson 2.715

df1 3

df2 17

a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao

ANOVA

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

Model 1

Regression

12.837

3

4.279

3.836

.029(a)

Residual

18.965

17

1.116

Total

31.802

20

a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao

Coefficients

Standardiz ed Coefficients

Unstandardized Coefficients

95% Confidence Interval for B

B

Std. Error

Beta

t

Sig.

Lower Bound

Upper Bound

Correlations Parti al

Zero- order

Part

-12.289 9.770

-1.258

.225

-32.901

8.323

.131

.116

.313

1.131

.274

-.114

.376

.569

.264

.212

Model (Constant) Io LnY LnY2

5.317 3.925 .357 -.467

3.872 -3.769

1.355 -1.309

.193 .208

-2.964 -1.219

13.598 .286

.098 .041

.312 -.303

.254 -.245

a Dependent Variable: Ao 3. Kết quả mô hình

Mô hình có dạng: A0 = -12,289 + 0,131I0 + 5,317LnY – 0,467(LnY)2

4. Nhận xét và kiểm định mô hình

a. Mô hình có ý nghĩa về kinh tế, và cho thấy mối tương quan giữa tăng trưởng

trong nông nghiệp và tăng trưởng trong công nghiệp. Khi giữ các yếu tố khác

không đổi, thì khi công nghiệp tăng trưởng 1% sẽ làm nông nghiệp tăng trưởng

0,131%.

249 b. Tham số của tăng trưởng công nghiệp có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa α

= 15%, lúc đó tham số t của mô hình t = 1,113 > t (α =15%, n=20) = 1,064. Điều này

có thể cho rằng với khoảng tin cậy 85%, tăng trưởng của công nghiệp có ảnh

hưởng đến sự tăng trưởng của nông nghiệp.

c. R2 = 63,5% chỉ ra sự tăng trưởng của nông nghiệp có thể được giải thích từ sự

tăng trưởng của công nghiệp và chiếm một tỷ lệ đến 63,5% để giải thích cho sự

tăng trưởng của nông nghiệp. Chú ý rằng tham số F = 3,836 > F(3,17; α = 0,05) = 3,2

cho thấy sự tăng trưởng của công nghiệp giải thích đáng kể sự tăng trưởng của

nông nghiệp.

C. MÔ HÌNH TÍNH CHO NỀN KINH TẾ TỈNH QUẢNG NAM

1. Số liệu cụ thể giai đoạn 1997 đến 2010 tại Quảng Nam

LnY Ao Io Y Năm

(LnY)2 24.1 2.9 17.3 135 4.9 1997

2.2 17.0 155 5.0 25.4 1998

2.2 12.9 168 5.1 26.2 1999

2.4 14.5 192 5.3 27.6 2000

3.0 17.0 211 5.3 28.6 2001

3.0 18.0 235 5.5 29.8 2002

4.2 19.4 268 5.6 31.2 2003

3.2 20.2 316 5.8 33.1 2004

2.8 21.3 391 6.0 35.6 2005

3.9 21.6 470 6.2 37.8 2006

2.8 22.1 541 6.3 39.6 2007

0.9 17.7 683 6.5 42.6 2008

0.5 16.1 813 6.7 44.9 2009

1.3 18.0 882 6.8 46.0 2010

250

2. Kết quả xử lý bài toán trên SPSS cho Quảng Nam

Model Summary

Change Statistics

Std. Error of the Estimate

Mode l 1

.5572

R Square Change F Change 11.799

.780

Sig. F Chang e .001

Durbin- Watson 2.605

df1 3

df2 10

R .883(a)

R Square .780

Adjusted R Square .714

a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao

ANOVA

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

Model 1

Regression

10.991

3

3.664

11.799

.001(a)

Residual

3.105

10

.311

Total

14.096

13

a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao

Coefficients

Standardized Coefficients

95% Confidence Interval for B

Correlations

Unstandardized Coefficients Std. Error

B

Beta

Zero- order Partial Part

.099

Model (Constant) Io LnY LnY2

-35.701 27.898 .070 9.816 .835

.254 12.870 -1.202

t -1.280 3.649 1.311 -1.440

Sig. .230 .004 .219 .180

.649 7.974 -8.717

Upper Lower Bound Bound -97.862 26.461 .410 -9.002 34.743 .658 -3.062

.461 -.492 -.505

.756 .383 -.414

.542 .195 -.214

a Dependent Variable: Ao 3. Kết quả mô hình

Mô hình có dạng: A0 = -35,701 + 0,254I0 + 12,6701LnY – 1,202(LnY)2

4.. Nhận xét và kiểm định mô hình

a. Mô hình có ý nghĩa về kinh tế, và cho thấy mối tương quan giữa tăng trưởng

trong nông nghiệp và tăng trưởng trong công nghiệp. Khi giữ các yếu tố khác

không đổi, thì khi công nghiệp tăng trưởng 1% sẽ làm nông nghiệp tăng trưởng

0,254%.

b. Tham số của tăng trưởng công nghiệp có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa α

= 5%, lúc đó tham số t của mô hình t = 3,649 > t (α =5%, n=13) = 2,228. Điều này có

thể cho rằng với khoảng tin cậy 95%, tăng trưởng của công nghiệp có ảnh hưởng

đến sự tăng trưởng của nông nghiệp.

251 c. R2 = 88,3% chỉ ra sự tăng trưởng của nông nghiệp có thể được giải thích từ sự

tăng trưởng của công nghiệp và chiếm một tỷ lệ đến 88,3% để giải thích cho sự

tăng trưởng của nông nghiệp. Chú ý rằng tham số F = 11,799 > F(3,10; α = 0,05) =

3,7 cho thấy sự tăng trưởng của công nghiệp giải thích đáng kể sự tăng trưởng

của nông nghiệp.

252 PHỤ LỤC 3

CÁC BẢN ĐỒ MINH HỌA VỀ QUẢNG NAM

A. Bản đồ vùng ngập mặn dọc biển Quảng Nam và Đà Nẵng

Về mùa khô, khi dòng chảy Vu Gia, Thu Bồn cạn kiệt làm cho khả năng

thâm nhập mặn sâu hơn vào các nhánh sông. Nước mặn thâm nhập sâu vào các

sông như Vĩnh Điện, Bà Rén, Ly Ly gây ra thiếu nước cho sinh hoạt, và đặc biệt

cho thủy lợi và các trạm bơm hoạt động không đủ công suất. Tương lai khi các

thủy điện lưu vực sông Vu Gia Thu Bồn đưa vào khai thác đủ, thì khả năng thiếu

nước cho sinh hoạt và thủy lợi là điều khó tránh khỏi, không chỉ tại Quảng Nam

Nguồn: Strategic Environmental Assessment of the Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin, ADB, Hanoi, 2008, tr. 201 [100].

mà cả vùng Đà Nẵng.

253 B. Bản đồ phân bố không gian lượng mưa hàng năm tại Quảng Nam

Tại Quảng Nam, mùa mưa lũ được xác định từ tháng 10 đến tháng 12, trong

đó tập trung chủ yếu vào tháng 10 và 11. Tổng lượng mưa 3 tháng mùa lũ chiếm

trên 50% tổng lượng mưa năm và được phân bố rất không đều giữa các tháng.

Riêng 2 tháng 10 và 11 chiếm đến 40% đến 45% tổng lượng mưa của năm, đạt

trên 900 mm, vùng thượng nguồn lưu vực sông Thu Bồn đạt trên 1300 mm đến

2000 mm, nơi có lượng mưa lớn nhất là Trà My, đạt 2020 mm. Vùng tây bắc

của tỉnh có lượng mưa nhỏ chỉ 100 mm, nơi nhỏ nhất là Đông Giang (Hiên),

89,6 mm, chiếm 4,1% lượng mưa năm, các nơi khác đều lớn hơn 200 mm.

Nguồn: Đinh Phùng Bảo, Đặc điểm khí hậu, thủy văn tỉnh Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu của Trung Tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2001, tr 71 [12].

254 PHỤ LỤC 4

TỔNG HỢP KẾT QUẢ

NỘI DUNG

CÂU HỎI

Tổng

Phú Ninh

Thăng Bình

Đại Lộc

Trà My

1. TỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA NÔNG DÂN VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Câu 1 Chính sách thành công?

227

215 197 160

799

Dồn điền đổi thửa

1

1

48

0

49

Kinh tế vườn, KTTT, cải tạo vườn tạp

2

19

4

18

2

43

Phòng chống dịch bệnh, thiên tai

3

4

14

5

1

24

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi

4

101

25

59

83

268

Cho vay vốn sản xuất

5

40

25

13

16

94

Xóa đói giảm nghèo

6

26

27

14

34

101

Cho vay vốn HS-SV

7

10

14

8

32

Xây dựng hạ tầng NT (đường BT, điện, trường học,…

8

57

75

49

32

213

Kiên cố hóa kênh mương

9

11

2

12

25

50

Đầu tư nông nghiệp nông thôn

10

4

2

6

Đất đai, giao đất giao rừng

11

19

1

2

22

12 Miễn thủy lợi phí

9

1

1

11

Nuôi trồng thủy sản

13

0

1

1

Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch

14

2

12

2

16

Khôi phục làng nghề truyền thống

15

0

Giải quyết việc làm

16

1

1

Bảo vệ môi trường nông thôn

17

10

10

Chăm sóc sức khỏe dân cư

18

3

3

Tiêu thụ sản phẩm

19

3

3

Quan tâm xã đặc biệt khóa khăn, bãi ngang

20

1

13

14

Hỗ trợ người cao tuổi

21

1

4

2

7

Câu 2 Chính sách không thành công?

Dồn điền đổi thửa

1

10

2

12

Kinh tế vườn, KTTT, cải tạo vườn tạp

2

4

6

3

13

Phòng chống dịch bệnh, thiên tai

3

7

2

7

31

47

255 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi

69

29

56

33

187

4

Cho vay vốn sản xuất

4

11

1

10

26

5

Xóa đói giảm nghèo

14

10

8

2

34

6

Cho vay vốn HS-SV

17

17

7

Xây dựng hạ tầng NT (đường BT, điện, trường học,…

46

10

21

77

8

Kiên cố hóa kênh mương

3

2

2

7

9

Đầu tư nông nghiệp nông thôn

0

10

Đất đai, giao đất giao rừng

9

2

6

18

1

11

12 Miễn thủy lợi phí

2

2

Nuôi trồng thủy sản

0

13

Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch

2

1

4

7

14

Khôi phục làng nghề truyền thống

2

14

16

15

Giải quyết việc làm

4

26

11

41

16

Bảo vệ môi trường nông thôn

20

8

11

39

17

Chăm sóc sức khỏe dân cư

4

21

14

39

18

Tiêu thụ sản phẩm

19

14

23

5

61

19

Quan tâm xã đặc biệt khóa khăn, bãi ngang

2

2

20

Hỗ trợ người cao tuổi

3

3

21

Câu 3 Chính sách tác động nhiều nhất đối với nông dân?

Đất đai

3

17

42

54

116

1

Đường bê tông nông thôn

33

36

51 155

275

2

Ưu tiên người nghèo

17

38

41 155

251

3

Hỗ trợ tín dụng lãi suất

21

37

29 145

232

4

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng

3

3

8

8

22

5

Miễn thủy lợi phí, thuế nông nghiệp

4

1

5

6

Chính sách khác

27

2

31

60

7

Không ý kiến

112

89

201

8

Câu 4 Nông dân vay vốn từ đâu?

Ngân hàng chính sách

67

59

65

67

258

1

Ngân hàng NN & PTNT

21

53

11

46

131

2

Nguồn khác

18

9

1

28

3

Chưa vay

19

30

40

89

4

256

5

Không ý kiến

112

89

201

Câu 5 Nhà nước nên trợ giúp nông dân những gì?

20

25

26

94

165

1

Tiêu thụ hàng hóa, tạo đầu ra cho sản phẩm

2

Hỗ trợ vốn sản xuất với lãi suất thấp

46

57

86

189

Phòng chống dịch bệnh, thiên tai

12

83

9

104

Hỗ trợ giống cây trồng

30

14

19

26

89

Hỗ trợ kỹ thuật sản xuất

46

25

28

99

Hỗ trợ tư liệu sản xuất

4

53

61

0

118

Xây dựng nhà máy chế biến nông sản

2

7

12

0

21

Cho vay vốn HSSV

12

2

12

1

27

Quan tâm đến xã ĐB khó khăn, bãi ngang

4

0

73

1

78

Làm đường bê tông nông thôn

13

21

2

36

Cho vay xóa đói giảm nghèo

14

21

2

37

Tạo việc làm cho dân cư

0

Câu 6 Đề nghị của nông dân

Giải quyết việc làm cho dân

14

27

9

19

69

Cho vay vốn HSSV

3

34

5

42

Cho vay vốn sản xuất kinh doanh

30

22

33

17

102

Xóa đói giảm nghèo

14

10

4

8

36

Làm đường bê tông nông thôn

14

12

45

8

79

Bảo vệ môi trường nông thôn

6

13

3

22

Chăm sóc sức khỏe dân cư

7

23

13

14

57

Đầu tư tín dụng

2

7

5

14

Phòng chống dịch bệnh, thiên tai

6

8

8

16

38

Giao đất giao rừng

5

5

1

11

Quan tâm gia đình chính sách, nghèo

2

2

6

10

Khảo sát thực tiễn khi ban hành chính sách

4

21

1

12

38

Tạo đầu ra cho sản phẩm

30

0

8

19

57

Khôi phục làng nghề truyền thống

2

12

0

14

Hỗ trợ giống cây trồng

10

19

9

38

Phổ biến kỹ thuật sản xuất

3

12

12

27

Không đề nghị

99

58

123

280

257

TỔNG HỢP KẾT QUẢ

NỘI DUNG

CÂU HỎI

Tổng

Phú Ninh

Thăng Bình

Đại Lộc

Trà My

2. TỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA NÔNG DÂN VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Câu 1 Nguyên nhân dẫn đến chính sách thành công?

Nông dân chấp nhận

216

196

169 134

715

1

Đưa lại lợi ích quyền lợi cho nông dân

224

202

193 156

775

2

Đưa lại lợi ích cho nhà nước, tỉnh, huyện

16

85

23

22

146

3

Đưa lại lợi ích cho nhà đầu tư

16

38

18

18

90

4

Ít gây hậu quả xấu đới với nông thôn

8

82

30

10

130

5

Có ý tưởng ban hành chính sách đúng

16

97

33

56

202

6

Trước khi ban hành có khảo sát thực tiễn

19

83

24

24

150

7

Nội dung chính sách đúng rõ ràng

19

72

16

15

122

8

Tạo đủ nguồn lực để thực hiện chính sách

27

103

24

30

184

9

Ban hành chính sách không sớm không muộn

25

93

28

16

162

10

Phân công trách nhiệm chỉ đạo rõ ràng

4

65

17

11

97

11

Phổ biến kịp thời chính sách đến với nông dân

7

74

41

13

135

12

Được cán bộ đồng tình thực hiện đúng

11

59

28

11

109

13

Được nông dân đồng tình thực hiện tốt

182

159

189 136

666

14

Có sơ kết tháo gỡ vướng mắc

11

24

17

11

63

15

Câu 2 Nguyên nhân dẫn đến chính sách không thành công?

Chính sách không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn

32

157

33

45

267

Qui trình chính sách không phù hợp

69

3

72

Nội dung chính sách không phù hợp

37

37

Không phổ biến tường tận đến người dân

19

48

22

23

112

Không thỏa mãn lợi ích của các nhóm xã hội liên quan

30

29

64

38

161

Thiếu nguồn lực để thực thi chính sách

54

122

43

70

289

9

66

Nguyên nhân khác

11

22

24

258

Câu 3 Biết chính sách nông nghiệp, nông thôn qua đâu?

Cán bộ địa phương trực tiếp phổ biến

117

167 135

205

624

Qua loa, đài truyền thanh xã, huyện

130

120

63

62

375

Qua đài truyền hình

21

122

34

13

190

Qua văn bản do chính quyền gửi đến

2

66

17

85

Qua dọc, tìm hiểu ở trạm văn hóa xã

4

49

12

6

71

Câu 4 Mức độ hiểu biết về chính sách nông nghiệp, nông thôn?

Được đọc nguyên văn

3

68

10

8

89

Được phổ biến nội dung tóm tắt

44

138

40

27

249

Được phổ biến và giải thích kỹ càng

57

153

68

45

323

Được phổ biến những không giải thích

54

94

46

33

227

Được phổ biến chiếu lệ

12

55

8

33

108

Được phổ biến những không giải đáp thắc mắc

35

35

68

215

77

Không được phổ biến, tự tìm hiểu

28

28

Cán bộ truyền đạt sai

10

10

Câu 5 Những chính sách tác động đến nông dân?

Hỗ trợ lãi suất tín dụng

195

144

121 108

568

Bê tông hóa giao thông nông thôn

185

149

80 115

529

Ưu tiên người nghèo

34

144

42

65

285

Đất đai

31

103

36

22

192

Chính sách khác

3

23

16

12

54

Câu 6 Việc triển khai chính sách được thực hiện như thế nào?

Công khai minh bạch

152

171

75 109

507

Không công khai, không minh bạch

105

34

25

51

215

Câu 7 Hiệu quả của các chính sách?

Trồng rừng phòng hộ

23

70

58

151

Xã đặc biệt khó khăn

19

135

70

224

Giao thông NT, kiên cố hóa kênh mương

127

140

112

68

447

Kinh tế vườn, kinh tế TT

17

73

26

56

172

Phát triển chăn nuôi bò

15

77

71

56

219

Dồn điền đổi thửa

13

88

138

239

Các chương trình khuyến nông của tỉnh

18

63

11

12

104

259

Câu 8 Các khó khăn, trở lực trong sản xuất, kinh doanh?

Nhu cầu vốn sản xuất

174

144

111

94

523

Thị trường tiêu thụ

124

107

30

325

64

Tư liệu sản xuất

8

116

80

14

14

Cách phòng chống dịch bệnh

29

140

83

9

19

Khuyến nông, kỹ thuật sản xuất

19

186

58

37

72

Khó khăn khác

8

48

23

10

7

Câu 9 Nhà nước nên ưu tiên thực hiện chính sách nào?

20

306

150

74

62

Chính sách thị trường, tiêu thụ hàng hóa

16

170

82

45

27

Chính sách đất đai

32

190

102

21

35

Chính sách tạo việc làm

99

83

11

5

Chính sách đào tạo nguồn nhân lực

Nguồn: Nguyễn Cảnh, Hoàn thiện qui trình chính sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2010 [13].

260 PHỤ LỤC 5

CÁC LÀNG NGHỀ TẠI QUẢNG NAM

Tên dự án

Địa điểm

Mục tiêu

Ghi chú

Huyện, thị, thành phố

Bảo tồn, phát triển làng nghề

Thời gian thực hiện

Tổng mức đầu tư 3

1

Làng nghề chiếu chẻ Triêm Tây

Xã Điện Phương

2008- 2015

3

1

Làng nghề dệt Nông Sơn

Xã Điện Phước

2008- 2015

1

Làng nghề mây, tre An Thanh

Xã Điện Thắng Nam

2008- 2015

Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống

Huyện Điện Bàn

Phát triển làng nghề gắn với du lịch

11

10

2

1

Làng nghề đúc nhôm đồng Phước Kiều Làng nghề bê thui cầu Mống Phát triển nghề mới

2008- 2015 2008- 2015

2

1

2

Làng nghề sản xuất hàng tre

2008- 2015

Xã Điện Phương Xã Điện Phương Thôn Câu Nhi Đông - xã Điện An

Bảo tồn, phát triển làng nghề

42

Bánh tráng

3

Khu 3, 4 - Thị trấn Ái Nghĩa

2008- 2015

Mây tre đan

4,5

2008- 2015

Trung An - Thị trấn Ái Nghĩa

11

9

Huyện Đại Lộc

Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa - vải

4 thôn xã Đại Nghĩa

2008- 2015

Mây tre đan

2

2008- 2015

Đông Lâm, Mỹ An - Đại Quang

Bánh tráng

2,5

Hà Nha - Đại Đồng

2008- 2015

Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống

Bánh tráng

2

2008- 2015

Bánh tráng

2

2008- 2015

261 Tịnh Đông Tây - Đại Lãnh Đông Gia, Phú Mỹ - Đại Minh

Mây tre đan

4

Ngọc Thạch - Đại Hưng

2008- 2015

Xã Đại Hồng

5

Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa

2008- 2015

Làm chổi đót

3

2008- 2015

Minh Tân, Mỹ Tây - Đại Phong

Mây tre đan

5

Xuân Nam - Đại Thắng

2008- 2015

38

16

Phát triển gắn với du lịch Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa

Làm hương Phú Lộc

6

5

Trống Lâm Yên

6

5

Điêu khắc Đá mỹ nghệ

Trồng hoa cây cảnh

5

9 thôn xã Đại Hoà Phú Lộc - Đại Hoà Ấp Nam - Đại Minh Thạnh Trung - Đại Chánh Khu 8 - Thị trấn Ái Nghĩa

Phát triển làng nghề mới

2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015

29

Đan lưới nuôi trai

2

Quảng Huế - Đại Hoà

2008- 2015

Đan lưới xuất khẩu

2

Khu 3 - Thị trấn Ái Nghĩa

2008- 2015

13

Làng Rau sạch

2

2008- 2015

Nghĩa Nam - Thị trấn Ái Nghĩa

Mây tre lá

2

Đức Hoà - Đại Nghĩa

2008- 2015

Mây tre đan

2

Hà Thanh, Bàn Tân - Đại

2008- 2015

Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn,

262

Đồng

tăng thu nhập

Mây tre đan

2

Thôn 14 - Đại Lãnh

2008- 2015

Mây tre đan

2

2008- 2015

Đông Gia, Phú Mỹ - Đại Minh

Mây tre đan

2

Hội Khách - Đại Sơn

2008- 2015

Mây tre đan

2

Hoà Hữu - Đại Hồng

2008- 2015

Mây tre đan

2

2008- 2015

Phú Phước, Mỹ Tây - Đại Phong

Mây tre đan

2

Tập Phước - Đại Chánh

2008- 2015

Mây tre đan

2

Thanh Vân - Đại Cường

2008- 2015

Dệt lụa - vải

5

Khu trung tâm xã Đại Cường

2008- 2015

Bảo tồn, phát triển làng nghề

5

Nước mắm

Tam Tiến

4

2008- 2015

2

1

Mây, tre lá Núi Thành

Thị trấn, Tam Hiệp

2008- 2015

Huyện Núi Thành

Phát triển nghề mới

6

Tráng bánh tráng

Tam Hiệp

1

2008- 2015

3

Mây tre

Tam Hiệp

2

2008- 2015

Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Khôi phục làng nghề truyền thống nâng cao mức sống của người dân Khôi phục làng nghề truyền thống nâng cao mức sống của người dân Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ

263

Mộc

3

Thị trấn, Tam Hiệp

2008- 2015

Phát triển làng nghề gắn du lịch

16

Làng mộc Kim Bồng Xã Cẩm Kim

8

2008- 2015

2

Thị xã Hội An

6

Làng nghề gốm Thanh Hà

Phường Thanh Hà

2008- 2015

Làng rau Trà Quế

Xã Cẩm Hà

2

2008- 2015

Bảo tồn, phát triển làng nghề

9

4

Làng nghề chế biến bún Phương Hoà

Phường Phương Hoà

2008- 2015

3

Xã Tam Phú

3

TP Tam Kỳ

Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Tân Phú

2008- 2015

2

2008- 2015

Làng nghề chế biến trà hương tam Kỳ

P. Hoà Hương, Phước Hoà, An Sơn

Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ Bảo tồn làng nghề có giá trị về mặt lịch sử và kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập Bảo tồn làng nghề có giá trị về mặt lịch sử và kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập Góp phần đa dạng hoá loại hình du lịch, tăng thu nhập Bảo tồn nghề truyền thống, nâng cao năng suất, đa dạng sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế địa phương Bảo tồn nghề TT, giải quyết việc làm Bảo tồn nghề TT, nâng cao nặng lực cạnh tranh, góp phần phát triển kinh tế địa phương

Phát triển làng nghề gắn với du lịch

4

1

264

4

2008- 2015

Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân

Thôn Thạch tân, Xã Tam Thăng

Phát triển nghề mới

1

1

1

Xã Tam Ngọc, Nam Kỳ

2008- 2015

Làng nghề tranh tre mỹ nghệ, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác

Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, phát triển bền vững và bảo tồn giá trị văn hoá TT Phát triển thành sản phẩm đặc trưng của thành phố và gắn với du lịch sinh thái làng quê Tam Ngọc

7

Bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch

Xã Tam Vinh

5

Làng nghề đan lát tam Vinh

2008- 2015

2

Huyện Phú Ninh

Làng mộc Vân Hà

2

Vân hà, xã Tam Thành

2008- 2015

Bảo tồn, phát triển làng nghề

5

Nghề chổi đốt

1

Xã Quế Xuân 1

2008- 2015

Nghề mây tre đan

Xã Quế Phú

1

2008- 2015

4

Huyện Quế Sơn

Nghề phở sắn

2

Thị trấn Đông Phú

2008- 2015

Mở rộng, phát triển ngành nghề truyền thống, kết hợp với phụ vụ du lịch Khôi phục nghề truyền thống bị mai một Mở rộng phát triển nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Mở rộng phát triển nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Đầu tư hỗ trợ chuyển giao công nghệ, phát triển vùng nguyên liệu, góp phần giải quyết lao động nông nhàn

265

Nghề bánh Tráng

Xã Quế Trung

1

2008- 2015

Phát triển làng nghề gắn với du lịch

3

1

Mỹ nghệ trầm hương Xã Quế Trung

3

2008- 2015

Bảo tồn, phát triển làng nghề

19

15

xã Duy Trinh

Làng nghề dệt vải Thi Lai - Phú Bông

2008- 2015

2

Xã Duy Hải

4

2008- 2015

Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường Phát triển làng nghề gắn với du lịch

22

Duy Trinh

10

Làng nghề dâu tằm, tơ lụa Đông Yên

2008- 2015

2

Huyện Duy Xuyên

12

Làng nghề dệt vải Mã Châu

TT Nam Phước

2008- 2015

Bảo tồn nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Phát triển nghề gắn với du lịch Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, nhằm phát triển bền vững và bảo tồn giá trị văn hoá TT Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, nhằm phát triển bền vững và bảo tồn gia strị văn hoá TT

Phát triển Làng nghề mới

5

2008- 2015

Duy Thu

1

Làng nghề đan tre Thạnh Xuyên

2008- 2015

4

1

Duy Thu

Làng nghề đan mây tre Tĩnh Yên

2008- 2015

Duy Tân

1

Làng nghề đan mây tre Phú Nhuận

2008- 2015

Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm

Làng nghề chế biến,

Duy Nghĩa

2008- Phát triển nghề,

2

266

2015 giải quyết việc

bảo quản thuỷ sản Thuận Ân Bảo tồn, phát triển làng nghề

20,5

6,5

TT Hà Lam

Làng nghề hương Quán Hương

2008- 2015

Làng nghề đan tre

2

Bình Phụng, Bình Quế

2008- 2015

5

8

Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe

Thôn6, Bình Dương

2008- 2015

Huyện Thăng Bình

Làng nghề bánh tráng

2

Thị trấn hà Lam

2008- 2015

Bình Quế

2

Làng nghề đan tre Bình Quế

2008- 2015

làm Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống

Phát triển làng nghề gắn với du lịch

7

1

TT Hà Lam

7

Làng nghề làm hương Quán Hương

2008- 2015

Điểm du lịch làng nghề

Bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch

10

5

2008- 2015

Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Ðhơ- Rồng

xã Tà Lu, huyện Ðông Giang

2

Huyện miền núi

5

2008- 2015

Làng nghề dệt thổ cẩm Zara

xã Tabhing, huyện Nam Giang

Phát huy bản sắc văn hoá Cơtu gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế địa phương Phát huy bản sắc văn hoá Cơtu gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế địa phương

Nguồn: Đề án bảo tồn làng nghề Quảng Nam giai đoạn 2008-2015 và định hướng đến 2020, Sở Công Thương Quảng Nam, Tam Kỳ, 2008 [22].

267 PHỤ LỤC 6

Công suất (MW)

TT

Các nhà máy

Chiều cao đập (m)

Vốn đầu tư (tỷ đồng)

Bể chứa (triệu m3)

Sản lượng (triệu kWh/năm)

Dự kiến Thiết kế

CÔNG TRÌNH MỚI 2.645,90 1.287,60 1.497,30 1.391,60

6.019,26 9.178,72

HỆ THỐNG BẬC THANG THỦY ĐIỆN VU GIA THU BỒN

Sông Vu Gia

1.773,62

829,55 1.088,10

956,80

4.267,49

1 A Vương

266,50

99,00

210,00

210,00

808,00 4.165,00

2 Sông Côn 2

210,90

56,50

60,00

57,00

249,00 1.050,00

4 Dak Mi 4

278,90

105,00

210,00

180,00

787,00 4.150,05

Tr' Hy Tây Giang

5

7,22

18,00

25,00

25,00

100,00

360,00

6 Sông Bung 2

101,80

97,00

100,00

100,00

440,10 2.473,80

7 Sông Bung 3

182,00

34,55

16,00

16,00

57,38

315,00

8 Sông Bung 3A

6,50

50,00

21,00

21,00

62,62

303,74

9 Sông Bung 4

493,30

109,50

165,00

156,00

623,80 4.011,80

10 Sông Bung 4A

11,90

35,00

15,00

62,62

303,74

15,00

11 Sông Bung 5

19,80

37,00

60,00

268,90 1.305,90

85,00

12 Sông Bung 6

20,50

268,90 1.305,94

60,00

13 Dâk Pring 1

2,56

18,00

6,30

37,28

128,82

7,50

14 Dâk Pring 2

5,40

15 Chà Vàl

0,34

11,50

4,50

4,50

22,81

79,94

16 Nước Chè

170,00

18,40

45,00

14,00

72,00

300,00

18,00

1,10

31,00

17 Za Hung

18,00

78,00

358,38

15,90

0,30

18 An Điềm 2

15,60

78,27

268,26

0,60

5,00

19 Đại Đồng

0,60

3,12

13,36

1,60

5,00

20 Sông Cùng

1,60

8,10

21,43

6,50

12,00

21 Sông Giằng 1

13,50

32,26

111,22

18,00

26,50

22 Sông Giằng 2

18,00

89,41

242,36

7,00

22,00

23 Sông Giằng 3

7,00

33,69

126,60

5,00

24 Sông Giằng 4

5,00

22,81

79,94

268

25 Pà Dồn

3,00

3,00

14,04

52,24

26 MR Teh

1,50

1,50

6,15

27,80

27 Dak Se

12,00

2,50

2,50

12,55

52,57

28 A Vương 2

3,50

3,50

17,65

74,21

29 A Re

2,20

2,20

11,03

45,65

Sông Thu Bồn

872,28

458,05

409,20

434,80

1.751,77 9.178,72

1 Sông Tranh 2

462,40

92,00

130,00

190,00

618,10 4.150,40

26,15

32,50

2 Khe Diên

9,00

9,00

42,30

140,40

3 Trà Linh 3

8,00

6,00

6,00

30,09

124,95

4 Trà Linh 1

8,00

3,20

3,20

15,98

58,09

5 Trà Linh 2

8,00

11,00

11,00

54,88

180,44

6 DaK Di 1

22,00

95,00

11,00

11,00

45,67

187,65

7 DaK Di 2

35,00

126,00

12,00

12,00

49,20

190,66

8 DaK Di 4

12,00

9,00

9,00

45,70

168,49

9 Sông Tranh 1

29,60

25,00

20,00

103,00

488,00

60,00

10 Nước Lah

1,70

1,70

8,49

31,94

11 Nước Biêu

12,50

3,50

3,50

16,70

56,47

12 Phước Hiệp

2,20

2,20

10,86

35,91

13 Nước Ta

3,60

3,60

15,50

60,00

14 Sông Tranh 3

31,60

78,50

49,00

49,00

203,40

962,90

15 Sông Tranh 4

34,60

53,00

42,00

42,00

174,70

934,10

16 Sông Tranh 5

66,93

32,00

49,00

201,60 1.175,00

17 Mroong

18 Hr nuh

19 R la

9,00

20 Pa Oi ( Laê ê)

4,55

42,00

36,00

174,68

21 Z' Lao

3,00

11,60

58,65

22 Sông Bui

2,20

10,00

23 Nước Nát

2,00

9,00

24 Trà Leng 1

3,00

17,00

25 Trà Leng 2

5,00

27,00

269

26 Nước Oa 3

1,20

5,00

27 Bồng Miêu

3,00

28 Tiên An

3,00

29 Suối Ô

3,00

30 Suối Tươm

1,20

31 Dak Mi 4C

26,00

Các thủy điện đang hoạt động

350,00

33,16

139,65

7,90

25,00

1 Duy Sơn 2

1,00

2 Nước Oa

2,25

3 Hồ Phú Ninh

350,00

33,00

2,50

1,60

4 Cà Đập

0,20

5 Dak Sa

0,60

6 An Điêm 1

0,16

134,00

5,40

25,00

TỔNG

6.027,16 9.203,72

2.645,90 1.637,60 1.530,46 1.531,25 Nguồn: Strategic Environmental Assessment of the Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin, ADB, Hanoi, 2008, tr. 195 [100].

270 PHỤ LỤC 7

DỰ KIẾN QUY HOẠCH CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Stt Khu, Cụm công nghiệp

Địa điểm

Diện tích (ha)

Ghi chú

A Khu công nghiệp

1.013

1

Khu CN Tam Hiệp

80

Huyện Núi Thành

2

Khu CN bắc Chu Lai

290

Huyện Núi Thành

3

Khu CN Thuận Yên

Thị xã Tam kỳ

225

4

Huyện Điện bàn

418

Khu CN Điện Nam-Điện Ngọc

B Cụm công nghiệp

3.123,5

I

Thị xã Tam Kỳ

1

15

Cụm CN-TCCN Trường Xuân

Tổ 1 và 2, P.Trường Xuân

2

16

Cụm CN-TCCN P.An Phú

Thôn 8, P.An Phú

3

18

Cụm CN-TCCN P.An Sơn

Khối 8, phường An Sơn

4

10

Cụm CN-TCCN Trung tâm phường An Phú

Thôn 6, phường An Phú

5

10

Cụm CN-TCCN P.Tân Thạnh

Tổ 14 phường Tân Thạnh

6

10

Cụm CN-TCCN P.Hòa Hương

Tổ 12 phường Hòa Hương

10

7

Cụm CN-TCCN xã Tam Dân

Thôn Công thương, xã Tam Dân

II Huyện Quế Sơn

8

Cụm CN khu Dốc Đỏ

30

Thị trấn Đông Phú

9

10

Cụm CN khu Đồng Hùng – Cấm Dơi

Thị trấn Đông Phú

271 Xã Quế Cường

10 Cụm CN Quế Cường

30

11 Cụm CN Mộc Bài

Xã Quế Phú

30

12 Cụm CN Bà Rén

Xã Quế xuân

60

13 Cụm CN Núi Đất

Xã Quế xuân

10

14 Cụm CN Trung Hạ

Xã Quế Trung

25

15 Cụm CN Chợ Đàn

Xã Quế Châu

35

16 Cụm CN Quế Phước

Xã Quế Phước

26

17 Cụm CN Gò Đông

Xã Quế Thuận

10

18 Cụm CN Gò Ông May

20

Thôn 6 Xã Quế Thuận

19 Cụm CN Gò Mã Súng

10

Thôn 4 Xã Quế Phong

20 Cụm CN Nà Ban

10

Thôn 6 Xã Quế phong

21 Cụm CN phước Bình

Xã Quế Lộc

5

22 Cụm CN Gò Láng

Xã Quế Hiệp

5

23 Cụm CN Rừng Đình

Xã Quế An

13

24 Cụm CN Rừng Ông Nạc Xã Quế An

20

25 Cụm CN An Xuân

Xã Phú Thọ

15

III Huyện Hiệp Đức

26 Cụm CN Tân An

TT Tân An

5

27 Cụm CN Việt An

Xã Bình Lâm

3

28 Cụm CN Sông Trà

Xã Sông Trà

1,7

29 Cụm CN bà Huỳnh

Xã Sông Trà

10

30 Cụm CN Mò O

Xã Sông Trà

31 Cụm CN An Tráng

Xã Bình Sơn

5

IV Huyện Điện Bàn

32 Cụm CN Vĩnh Điện

TT Vĩnh Điện

3

33 Cụm CN Điện An

Xã Điện An

8

34 Cụm CN Điện Minh

Xã Điện Minh

3

35 Cụm CN Điện Phương

Xã Điện Phương

5

36 Cụm CN Điện Nam

Xã Điện Nam

20,5

272 Xã Điện Ngọc

37 Cụm CN Điện Ngọc

12

38 Cụm CN Điện Dương

Xã Điện Dương

20

39 Cụm CN Điện Thắng

Xã Điện Thắng

105,7

40 Cụm CN Điện Hòa

Xã Điện Hòa

16,9

41 Cụm CN Điện Tiến

Xã Điện Tiến

80

42 Cụm CN Điện Phước

Xã Điện Phước

6,5

43 Cụm CN Điện Thọ

Xã Điện Thọ

9

44 Cụm CN Điện Hồng

Xã Điện Hồng

9

45 Cụm CN Điện Quang

Xã Điện Quang

7,6

46 Cụm CN Điện Trung

Xã Điện Trung

6,8

47 Cụm CN Điện Phong

Xã Điện Phong

24,6

V Huyện Thăng Bình

48 Cụm CN Bắc Hà Lam

Xã Bình Nguyên

250

49 Cụm CN Nam Hà Lam

TT Hà Lam

100

140

50 Cụm CN Bình Phục-Bình

Triều

Tất Viên-Chợ Được, xã Bình Phục-Bình Triều

375

51 Cụm CN đường thanh niên ven biển

Xã bình Minh, Bình Dương, Bình Nam

52 Cụm CN Bình Trung –

150

Bình An

Kế Xuyên-Quán Gò

53 Cụm CN Vinh Huy

Xã Bình Trị

230

54 Cụm CN ngã 3 Bình Quý

Xã Bình Quý

100

– Gò Dài

55 Cụm CN Hà Châu

Xã Bình Phú

88

VI Huyện Hiên

56 Cụm CN Prao

2

TT Prao, huyện Hiên

57 Cụm CN và làng nghề

1,2

Azứt

Xã Bhalêê, huyện Hiên

58 Cụm CN sông Vàng

5

Xã Ba, huyện Hiên

59 Cụm CN A Vờ

7

273 Xã Mà Cooih, huyện Hiên

60 Cụm CN và làng nghề A

4

Tiêng

Xã A Tiêng, huyện Hiên

61 Cụm CN A san

4

Xã A Xan, huyện Hiên

VII Huyện Tiên Phước

62 Cụm CN phía tây thị trấn

10

Tiên Kỳ

Xã Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước

5

63 Cụm CN Đông Nam TT

Tiên Kỳ

TT Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước

64 Cụm CN dịch vụ nội thị

2

TT Tiên Kỳ

TT Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước

5

65 Cụm CN trung tâm cụm

xã Tiên Lãnh

Xã Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước

5

66 Cụm CN trung tâm cụm

xã Tiên Cảnh

Xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước

5

67 Cụm CN xã Tiên Sơn

Xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước

5

68 Cụm CN Tiên Thọ

Xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước

10

69 Cụm CN Tiên Hiệp

Xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước

VIII Huyện Đại Lộc

70 Cụm CN TT Ái Nghĩa

TT Ái Nghĩa

34

71 Cụm CN xã Đại Hiệp

Xã Đại Hiệp

5

72 Cụm CN xã Đại Đồng

Xã Đại Đồng

20

73 Cụm CN xã Đại Nghĩa

Xã Đại Nghĩa

15

IX Huyện Duy Xuyên

74 Cụm CN Tây An

70

274 Xã Duy Trung, Duy Xuyên

270

75 Cụm CN –TTCN, làng nghề Mã Châu

TT Nam Phước, Duy Xuyên

76 Cụm CN –TTCN, làng

155

nghề Thi Lai-Đông Yên

Xã Duy Trinh, Duy Xuyên

77 Cum TTCN, làng nghề

100

Bàn Thạch

Xã Duy Vinh, Duy Xuyên

78 Cụm CN –TTCN, làng

20

nghề La Tháp

Xã Duy Hòa, Duy Xuyên

79 Cụm CN , làng nghề An

20

Lương

Xã Duy Hải, Duy Xuyên

80 Cum TTCN Duy Phước Xã Duy Phước,

20

Duy Xuyên

X Huyện Núi Thành

TT Núi Thành

7

81 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề khối 7

14

Xã Tam Hiệp, Núi Thành

82 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề thôn 7 Tam Hiệp

83 Trung tâm làng nghề sửa

4

chữa tàu thuyền

Xã Tam Quang, Núi Thành

30

84 Làng nghề làm muối Khương Đại

Xã Tam Hiệp, Núi Thành

85 Cụm TTCN và Trung

12

tâm làng nghề Tịch Tây

Xã Tam Nghĩa, Núi Thành

86 Cụm TTCN và Trung

4

tâm làng nghề An Thiện

Xã Tam Nghĩa, Núi Thành

11

87 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề Lý Trà

Xã Tam Anh, Núi Thành

Nguồn: Đề án phát triển Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp theo hướng tăng mạnh sản xuất công nghiệp và dịch vụ, UBND tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2003, tr.42 [23].

275