BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐOÀN TRANH
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Đà Nẵng - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐOÀN TRANH
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 62.31.10.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn: 1. PGS TS VÕ XUÂN TIẾN 2. PGS TS LÊ THẾ GIỚI
Đà Nẵng – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, và có kế thừa
các công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đà Nẵng, ngày 07 tháng 03 năm 2012
Tác giả luận án
ĐOÀN TRANH
1 MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
24
1.1. NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 24
1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 24
1.1.2. Vai trò, vị trí của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 29
1.1.3. Quan niệm về phát triển nông nghiệp 31
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 43
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng hợp lý và
hiện đại 43
1.2.2. Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp 45
1.2.3. Phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp 47
1.2.4. Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp 49
1.2.5. Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao 53
1.2.6. Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện
đại 55
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 58
1.3.1. Những nhân tố tự nhiên 58
1.3.2. Những nhân tố kinh tế 59
1.3.3. Những nhân tố xã hội và thể chế 61
1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ, ĐỊA
PHƯƠNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 66
1.4.1. Kinh nghiệm của quốc tế 66
1.4.2. Kinh nghiệm trong nước 75
1.4.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra 82
2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH
QUẢNG NAM 85
2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG
NAM CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 85
2.1.1. Điều kiện về tự nhiên 85
2.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội 90
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH QUẢNG NAM
94
2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 94
2.2.2. Tình hình qui hoạch và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp 105
2.2.3. Thực trạng về chuyên môn hóa và tập trung hóa trong nông nghiệp 108
2.2.4. Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp thời gian qua 116
2.2.5. Tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp 122
2.2.6. Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp 127
2.2.7. Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam
thời gian qua 130
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM THỜI GIAN QUA 138
2.3.1. Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên 138
2.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp 141
2.3.3. Những nguyên nhân do công tác quản lý trong nông nghiệp 145
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
2.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG 153
TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 157
3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 157
3
3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nông nghiệp 157
3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm đến 159
3.1.3. Định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 163
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH
QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 171
3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 172
3.2.2. Khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp 179
3.2.3. Phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn hóa,
tập trung hóa 184
3.2.4. Hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp 189
3.2.5. Tăng cường thâm canh trong nông nghiệp 194
3.2.6. Mở rộng thị trường và phát triển các ngành hàng nông sản 202
3.2.7. Đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại 209
3.2.8. Đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông nghiệp 212
KẾT LUẬN 223
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 226
TÀI LIỆU THAM KHẢO 228
229 CÁC PHỤ LỤC
4 CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các đặc điểm của cung và cầu nông sản 38
Bảng 1.2: Lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh của hai quốc gia 40
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Quảng Nam 88
Bảng 2.2: Cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu giá trị sản xuất của các tiểu
ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2010 96
Bảng 2.3: Cơ cấu (%) cây trồng tại tỉnh Quảng Nam 97
Bảng 2.4: Cơ cấu cây lương thực tại Quảng Nam theo diện tích gieo trồng 98
Bảng 2.5: Cơ cấu cây công nghiệp hàng năm theo diện tích gieo trồng 98
Bảng 2.6: Cơ cấu cây công nghiệp dài ngày theo diện tích gieo trồng 99
Bảng 2.7: Giá trị sản xuất và cơ cấu ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2000-2010 100
Bảng 2.8: Đàn gia súc, gia cầm và các sản phẩm ngành chăn nuôi tại Quảng
Nam 2004-2010 101
Bảng 2. 9: Cơ cấu ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản 102
Bảng 2.10: Sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản 103
Bảng 2.11: Tình hình giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giai đoạn 2000-2010 104
110 Bảng 2.12: Các cây trồng chuyên canh chủ yếu ở Quảng Nam
Bảng 2.13: Sản lượng và tỷ suất hàng hóa một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu
tại Quảng Nam 113
Bảng 2.14: So sánh qui mô sản xuất của nông hộ và trang trại tại Quảng
Nam 117
Bảng 2.15: So sánh tình hình máy móc, thiết bị trong nông nghiệp của
Quảng Nam với các địa phương và cả nước 123
Bảng 2.16: Kỹ thuật thâm canh lúa theo hướng 3 giảm, 3 tăng 124
Bảng 2.17: Năng suất cây trồng và nuôi trồng thủy sản giai đoạn 1997-2010 125
Bảng 2.18: Cơ cấu chi phí lúa đông xuân 126
5
Bảng 2.19: Các chỉ tiêu tăng trưởng GDP của Quảng Nam giai đoạn 1997-
2010 130
Bảng 2.20: Các nông, thủy sản chủ yếu của Quảng Nam giai đoạn 2000-
2010 131
Bảng 2.21: Các ngành hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Quảng
Nam giai đoạn 2001-2010 (Đơn vị tính: 1000 USD) 133
Bảng 2.22: Chi phí, giá bán và lợi nhuận của 1 kg thóc tại các vùng trong cả
nước 136
Bảng 2.23: Tỷ lệ thiệt hại của ngành nông nghiệp, thủy lợi và giao thông
nông thôn do lũ lụt qua các năm 139
Bảng 2.24: Tỷ trọng đóng góp của lao động, vốn và TFP vào tăng trưởng
của nông nghiệp Quảng Nam và cả nước giai đoạn 1997-2010 141
Bảng 2.25: Đánh giá việc thực hiện các chính sách nông nghiệp, nông thôn
tại Quảng Nam 150
Bảng 3. 1: Sản lượng và năng lực ngành thủy sản Quảng Nam so với các
tỉnh miền Trung và bình quân cả nước năm 2010 161
Bảng 3.2: Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo của Việt Nam đến năm 2020 164
Bảng 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế và phát triển chủ yếu của tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2011-2020 169
Bảng 3.4: Các tiêu chí cơ bản xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của
Quảng Nam 170
Bảng 3.5: Những cây trồng chính phù hợp với vùng đồng bằng và trung du
tại Quảng Nam 172
Bảng 3.6: Thu nhập của các loại rau đậu tại Quảng Nam 176
Bảng 3.7: Chi phí và lợi ích của tình trạng manh mún đất đai 213
6 CÁC HÌNH
Hình 1.1: Quá trình hội nhập thúc đẩy sự tham gia của các nông hộ 37
Hình 1.2: Các đối tác tham gia trên chuỗi ngành hàng nông sản 52
Hình 1.3: Mô hình tác động của chính phủ đến phát triển nông nghiệp qua
các chính sách 65
Hình 1.4: Kênh tiêu thụ mía đường ở Lam Sơn, Thanh Hóa 77
Hình 2.1: Các hiện tượng thời tiết tại Quảng Nam trong năm 86
Hình 2.2: Năng suất lao động xã hội của ngành công nghiệp và dịch vụ so
với nông nghiệp tại Quảng Nam, cả nước và Hà Lan (tính cho năm 1996 và
2010) 95
Hình 2.3: Chiều hướng tăng trưởng sản lượng, vốn đầu tư của Quảng Nam
và cả nước giai đoạn 1996-2010 135
Hình 2.4: Chuỗi tiêu thụ dưa hấu vụ mùa 2010 tại Quảng Nam 143
Hình 2.5: Mức đầu tư mỗi lao động của các ngành giai đoạn 1996-2010 tại
Quảng Nam 145
Hình 2.6: Các nhân tố tác động đến sự không thành công của các chính sách
nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam 152
Hình 3.1: Chuỗi thị trường tiêu biểu của ngành công nghiệp sắn 187
Hình 3.2: Những lợi ích từ việc xây dựng thương hiệu rau sạch Trà Quế 190
Hình 3.3: Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã Điện Quang 192
Hình 3.4: Tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến ngư tại Việt Nam 200
Hình 3.5: Các mối liên kết và các tiến trình hợp tác của một chuỗi ngành
hàng nông sản 206
Hình 3.6: Các khó khăn trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam 216
Hình 3.7: Qui trình ban hành chính sách xuất phát từ cung và cầu đối với
phát triển nông nghiệp 219
Hình 3.8: Những chính sách ưu tiên cần được thực hiện tại Quảng Nam 220
7
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank)
CN và DV Công nghiệp và dịch vụ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CV Mã lực (tiếng Pháp là cheval-vapeur - số nhiều: chevaux-vapeur)
EDI Electronic Data Interchange (Hệ thống truyền dữ liệu điện tử)
EU Liên minh Châu Âu (European Union)
FAO Tổ chức Nông lương Thế giới (Food and Agriculture
Organization)
GAP Phương pháp canh tác tối ưu (Good Agricultural Practices)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
Ha Hecta (đơn vị đo diện tích, 1 ha = 10.000 m2)
HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point
HTX Hợp tác xã
ICOR Tỷ lệ gia tăng vốn và sản lượng (Incremental Capital Output
Ratio)
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organozation)
IPM Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management)
JBIC Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (Japan Bank for
International Cooperation)
KfW Ngân hàng Tái thiết Đức (Kreditanstalt für Wiederaufbau)
M4P Chương trình nâng cao hiệu quả cho người nghèo do ADB tài trợ
NGO Tổ chức phi chính phủ (Non-Government Organization)
NN và PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PRA Đánh giá có sự tham gia tại nông thôn (Participatory Rural
Appraisal)
QĐ Quyết định
8 Stère Đơn vị đo mét khối củi (1 m3) (theo hệ mét của Pháp)
TFP Tổng năng suất các yếu tố (Total Factor Productivity)
TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
UBND Ủy ban Nhân dân
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Programme)
UNESCO Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hiệp Quốc
(United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization)
UPC Universal Product Code (Hệ thống mã vạch quản lý sản phẩm)
USD Đôla Mỹ (United States Dollar)
VietGAP Phương pháp canh tác tối ưu do Việt Nam ban hành
VND Đồng Việt Nam
WB Ngân hàng Thế giới (World Bank)
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)
9 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Từ khi đổi mới đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam đã hình thành hai xu
hướng phát triển khá rõ nét; trong đó, xu hướng phát triển nông nghiệp dựa vào
cung đóng vai trò chủ đạo, điển hình của xu hướng này là cả nước tập trung gia
tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo. Từ khi
hội nhập, nhất là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi
vấn đề an ninh lương thực quốc gia đã được đảm bảo, và nhu cầu của người tiêu
dùng đã thay đổi nhanh chóng cả về cơ cấu lương thực thực phẩm và những kỳ
vọng lớn hơn từ nông nghiệp không chỉ về việc cung ứng đủ lương thực, thực
phẩm; mà còn cả vấn đề bảo vệ môi trường và ổn định xã hội tại nông thôn. Từ
đó, cách tiếp cận theo phía cầu của phát triển nông nghiệp hình thành và phát
triển, điển hình của cách tiếp cận này là sản xuất ra những nông sản đa dạng về
chủng loại, chất lượng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, liên kết các đối
tác trên chuỗi nông sản nhằm có thể đưa nông sản từ nơi sản xuất đến thị trường
với chi phí thấp nhất.
Sau 25 năm đổi mới, nền nông nghiệp tỉnh Quảng Nam nói riêng và Việt
Nam nói chung vẫn được xem là còn lạc hậu, sản xuất nhỏ. Nhưng những đóng
góp của nó trong việc đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị xã hội, góp
phần phát triển kinh tế, đem về ngoại tệ cho quốc gia là đáng kể và Việt Nam
đang được biết đến như một quốc gia có hạng trên thế giới về xuất khẩu nông
sản. Ngoài ra, đã xuất hiện các mô hình sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn
và hình thành các mối liên kết kinh tế từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông
sản. Không chỉ ở Quảng Nam mà cả nước đã hình thành nhiều trang trại sản xuất
hàng hóa có liên kết chặt chẽ với các đối tác để đưa nông sản Việt Nam xuất
khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới. Những mối liên kết kinh tế này đã làm
cho sản xuất của người nông dân ngày càng gắn với nhu cầu của thị trường và
10 nhờ đó làm tăng khả năng hội nhập của nông hộ nhỏ thông qua những mối liên
kết kinh tế này.
So với cả nước, nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam có tốc độ tăng trưởng GDP
chậm, chỉ đạt tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997-2010 là 2,45%, so với
cả nước giai đoạn này là 3,80%. Ngành nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao,
đến 21,2% so với nền kinh tế, và dân số nông thôn chiếm 81,2%. Bình quân đất
nông nghiệp thấp, chỉ 0,41 ha/hộ (cả nước 0,63 ha/hộ), bị chia cắt bởi địa hình
không bằng phẳng và chủ yếu là đất cát pha, độ phì nhiêu kém; thường xuyên bị
bão, lũ, hạn hán và dịch bệnh; cơ sở hạ tầng lạc hậu, năng lực sản xuất của nông
hộ về tài chính, kiến thức và các phương tiện sản xuất còn thấp kém; khoa học
công nghệ ứng dụng vào sản xuất còn hạn chế. Ngoài thủy sản, hiện chưa có
một ngành hàng nông sản nào phát triển và liên kết hiệu quả. Vì vậy, sản xuất
nông nghiệp của Quảng Nam tăng trưởng thấp, phát triển thiếu bền vững và
đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải trước sức ép của quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa, và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Thu nhập, đời sống
của đa số nông dân và dân cư nông thôn còn thấp.
Trong khi đó nhu cầu về các loại nông sản phẩm phục vụ cho sản xuất và đời
sống của mọi tầng lớp dân cư trên địa bàn không ngừng tăng, đặc biệt là giai
đoạn 2011-2020 sắp tới. Và mục tiêu đến năm 2020, sẽ xây dựng Quảng Nam
trở thành tỉnh công nghiệp. Trong đó, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chỉ còn 10%
và với 30% lao động làm nông nghiệp.
Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả
thi nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh là một đòi hỏi hết
sức bức xúc. Xuất phát từ đó tác giả chọn vấn đề: “Phát triển nông nghiệp tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2011-2020” làm đề tài nghiên cứu của luận án, với hy
vọng rằng những nghiên cứu của luận án không chỉ đóng góp về mặt lý luận và
thực tiễn của phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay mà còn góp phần
xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
11
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việt nam là đất nước nông nghiệp, nên phát triển nông nghiệp luôn là mối
quan tâm của Đảng và Nhà nước, cũng là vấn đề được các nhà lý luận, các nhà
kinh tế học, các nhà làm chính sách và các tổ chức tập trung nghiên cứu. Từ khi
đổi mới đến khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu qua việc
gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã có nhiều nghị quyết của
Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn và nông dân; nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong và ngoài nước nghiên cứu về nông
nghiệp.
Nghị quyết quan trọng đầu tiên, đó là Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10-
NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, ngày 5/4/1988 [52] chính thức
đổi mới nền nông nghiệp Việt Nam; thừa nhận hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự
chủ ở nông thôn, bỏ nghĩa vụ thu mua lương thực, thực phẩm theo giá thấp, thực
hiện cơ chế một giá, lưu thông lượng thực tự do. Tiếp theo các Nghị quyết số
05-NQ/TW của BCH TW Đảng khoá VII (1993) [54] về tiếp tục đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn, Nghị quyết số 06-NQ/TW (1998) [53] của Bộ
Chính trị về phát triển nông nghiệp, nông thôn, và Nghị quyết số 03/NQ/CP
(2000) [56] của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại. Trong giai đoạn này,
để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế, Quốc hội đã ban hành Luật đất đai
năm 1993, sửa đổi năm 1998, 2001, 2003 và luật đất đai năm 2005 [40] nhằm
giao quyền sử dụng đất đến các tổ chức và các hộ dân. Để hỗ trợ phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nâng cao mức sống của nông dân, Quốc hội ban hành Nghị
quyết số 15/2003/QH11 (2003) [57] về việc miễn giảm thuế sử dụng đất nông
nghiệp và việc miễn giảm này tiếp tục cho đến năm 2020. Sau khi gia nhập
WTO, hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương số 26-NQ/TW (2008) [55]
ban hành nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm phát triển nông
nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng nông thôn mới và xây dựng lực lượng
nông dân có tri thức, kỹ năng đủ năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.
12
Quan điểm phát triển bền vững cũng đã được khẳng định trong các văn kiện
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Quyết định 153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam) qui định "bảo vệ môi trường là một nội dung cơ
bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển
bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước".
Ngoài những văn kiện của Đảng và Nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển
nông nghiệp Việt Nam như được nêu ở trên, có rất nhiều công trình nghiên cứu
về phát triển nông nghiệp. Tiêu biểu có những công trình nghiên cứu như sau.
- Những nghiên cứu về đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp tạo điều
kiện cho khai thác các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về đất đai cho phát triển
nông nghiệp có các nghiên cứu của GS TSKH Lê Du Phong như Nguồn lực và
động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
(2006) [59]; Vấn đề đất đai ở nông thôn Việt nam (2007) [61]; Chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Hungary trong quá trình chuyển đổi
kinh tế và vận dụng cho Việt Nam (2009) [58]; Thu nhập, đời sống, việc làm của
những người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia
(2007) [60]. Và nghiên cứu của Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm
Văn Hùng, Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam (2007)
[44], Martin Ravallion, Dominique van de Walle, Đất đai trong thời kỳ chuyển
13 đổi: Cải cách và nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam (2008) [71]. Những nghiên
cứu đều cho rằng việc việc chia nhỏ đất đai đã phát huy được tính tự chủ của
nông dân, đáp ứng được việc gia tăng sản lượng; nhưng một thực tế đang đặt ra
là việc chia nhỏ đất đai đã làm cản trở các ứng dụng cơ giới hóa, hiện đại hóa
vào đồng ruộng và đang làm chậm quá trình phát triển nền nông nghiệp hiện đại
tại Việt Nam.
- Những vấn đề về tổ chức sản xuất nông nghiệp có các nghiên cứu như
Chambert R., Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ
(1991) [70]; Ellis Ph., Kinh tế hộ gia đình và phát triển nông nghiệp (1993)
[63]; Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
(1995) [35]; Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, Nông nghiệp Việt Nam - Từ cội nguồn
đến đổi mới (1996) [21], Vũ Trọng Khải, Tích tụ ruộng đất – Trang trại và nông
dân (2008) [36]; Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam:
Hôm nay và mai sau (2008) [73]. Những nghiên cứu này cho thấy chủ trương
đúng đắn trong phát triển kinh tế nông hộ từ những ngày đổi mới; tuy nhiên,
kinh nghiệm của quốc tế về tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản cho thấy tình
trạng manh mún đất đai và năng lực thấp về sản xuất của kinh tế trang trại và
nông hộ hiện nay tại Việt Nam yêu cầu cần phải tổ chức lại theo hướng liên kết
hình thành các vùng chuyên canh, rút nhanh lao động ra khỏi nông nghiệp và
liên kết giữa sản xuất nông nghiệp và các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng
nông sản nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và thương mại hóa.
- Những nghiên cứu về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn có các nghiên cứu như Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam (2002) của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia;
Cơ sở lý thuyết và thực tiễn phát triển nông thôn bền vững (2003) của nhà xuất
bản Nông nghiệp; Đỗ Quốc Sam, Một số vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
sau 20 năm đổi mới (2006) [72]; Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại
14 hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam - Con đường và Bước đi (2006) [89];
Hoàng Ngọc Hòa, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta (2008) [29]; Đặng Kim Sơn, Kinh
nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa (2008) [74]. Các nghiên cứu đều nhấn mạnh đến vai trò của khoa
học, công nghệ và việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
và tiêu thụ nông sản có vai trò nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động trong
sản xuất nông nghiệp.
- Những tổng kết cả về lý luận và thực tiễn quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ có nghiên cứu của Nguyễn Sinh Cúc, Nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (2003) [25]; Đặng Kim Sơn, Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Hôm nay và mai sau (2008) [76];
Nguyễn Văn Bích, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới: quá khứ
và hiện tại (2007) [1]; Nguyễn Danh sơn, Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông
dân Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại (2010)
[73]. Những nghiên cứu này cho thấy rằng nông nghiệp Việt Nam sau đổi mới
trải qua các giai đoạn phát triển: giai đoạn 1986 – 1990, phát triển nông nghiệp
dựa trên kinh tế nông hộ, gia tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực,
xóa đói giảm nghèo nhanh chóng; giai đoạn 1991-1995, nông nghiệp phát triển
toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, gia tăng xuất khẩu nông sản, nhất là
gạo và bắt đầu phát triển kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp; từ năm
1996 đến nay, tiếp tục xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa và phát triển nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những nghiên cứu này cũng
cho rằng vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và mục tiêu nâng cao thu
nhập của nông hộ là những nội dung không thể tách rời trong chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay của Việt Nam
- Những nghiên cứu phát triển nông nghiệp dựa vào đáp ứng nhu cầu thị
trường, hướng đến xuất khẩu và hội nhập vào nền nông sản toàn cầu có nghiên
15 cứu Việt Nam hướng tới 2010 (2001) [92], do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và
được Cơ quan Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) tài trợ. Nghiên cứu này
cho rằng “hội nhập và tăng trưởng kinh tế sẽ mang lại thay đổi và cả rủi ro.
Nhưng rủi ro lớn nhất chính là không theo đuổi tự do hóa sâu sắc hơn, bởi vì
tăng trưởng chậm sẽ làm tổn hại đến tất cả các mục tiêu phát triển của Việt
Nam”; và nghiên cứu này cổ vũ Việt Nam hãy tận dụng tối đa hội nhập kinh tế
để tăng trưởng kinh tế nhanh, trong đó có nông nghiệp, là điều kiện để giảm
nhanh nghèo đói, phát triển nông thôn và gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam. Gần đây có một số nghiên cứu sâu sắc hơn về quan điểm phát triển
nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong cuốn “Thương mại hóa nông nghiệp, chuỗi giá trị và giảm nghèo1” (2004) [99], do Ngân hàng phát
triển Châu Á phát hành, cho rằng những nước đang phát triển sau khi đạt được
an ninh lương thực quốc gia thì cần chuyển đổi nền nông nghiệp từ chỗ dựa vào
sản xuất lương thực là chính sang một nền nông nghiệp có khả năng đáp ứng
nhu cầu của chuỗi thực phẩm toàn cầu trong khi vẫn đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia, tạo thêm thu nhập cho người nông dân và chuyển dần nền kinh tế
sang hoạt động phi nông nghiệp. Trong tác phẩm “Tác động của hội nhập kinh
tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam” (2008) [91] do TS. Nguyễn
Từ chủ biên, cho rằng nông nghiệp phải tận dụng những cơ hội thị trường từ hội
nhập kinh tế quốc tế, đây là cơ hội để nông nghiệp phát triển theo hướng lấy thị
trường toàn cầu làm căn cứ để phát triển.
Một trong những nghiên cứu mới nhất về phát triển nông nghiệp của các tỉnh
miền Trung, luận án tiến sĩ “Phát triển bền vững nông nghiệp Tỉnh KonTum”
(2007) của Hà Ban cho rằng “nông nghiệp và nông thôn bền vững là một nhân
tố của phát triển bền vững”, và sự bền vững ở đây theo khái niệm kinh tế chỉ
1 Agriculture Commercialization, Value Chains, and Poverty Reduction
mối quan hệ ổn định và cân đối giữa sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng.
16
Riêng nghiên cứu về nông nghiệp tại Quảng Nam, luận án tiến sĩ “Chuyển
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng” (1995) [31] của
Vũ Ngọc Hoàng cho rằng nội dung chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có
tính chất quyết định phương hướng, nhịp độ phát triển nông nghiệp, tăng thu
nhập và cải thiện đời sống nông dân. Luận án còn khẳng định chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp hợp lý phải gắn với phát triển công nghiệp chế biến và bảo
vệ môi trường, sinh thái. Và trong bài viết “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng
Nam’ (2004) [30] Vũ Ngọc Hoàng đã có một nhìn nhận mới hơn về chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nông nghiệp dựa theo lợi thế so sánh và theo hướng thị trường:
“Từ xưa tới nay, nông nghiệp Quảng Nam chủ yếu là sản xuất tự túc lương thực,
đại bộ phận đất đai và lao động đã tập trung chủ yếu cho hướng phát triển này.
Qua nhiều trăm năm, nông nghiệp vẫn nhỏ bé và nông dân Quảng Nam vẫn
nghèo. Thực tiễn đã chứng minh rằng, cơ cấu sản xuất ấy không thể giải quyết
cái nghèo được. Cần chuyển mạnh theo hướng một nền nông nghiệp thực phẩm
và nguyên liệu”. Nền nông nghiệp thực phẩm và nguyên liệu ở đây được lý giải
là nền nông nghiệp dựa vào lợi thế so sánh của Quảng Nam để sản xuất ra
những nông sản có giá trị cao thay vì tập trung vào sản xuất lương thực.
Ngoài những tác phẩm và tác giả đã nêu ở trên, có nhiều bài viết của các tác
giả với nhiều cách tiếp cận khác nhau đã nêu nhiều vấn đề về lý luận và những
nội dung cơ bản của phát triển nông nghiệp qua các giai đoạn đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế đã góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của phát
triển nông nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về phát triển nông
nghiệp trên chủ yếu có phạm vi nghiên cứu tại Việt Nam, mà chưa có công trình
nghiên cứu về phát triển nông nghiệp đặt trong bối cảnh của một tỉnh. Vì vậy,
tôi đã kế thừa và chọn lọc những công trình đã nghiên cứu ở trên và các nghiên
cứu khác để thực hiện đề tài “Phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2011-2020”, nhằm tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát triển
nông nghiệp ở phạm vi một tỉnh trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
17 Từ đó, tìm ra các giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2011-2020.
Các nội dung nghiên cứu của luận án bắt đầu từ khái niệm nông nghiệp, phát
triển và phát triển nông nghiệp. Có nhiều khái niệm về ngành nông nghiệp, theo
nghĩa hẹp nông nghiệp gồm có hai ngành trồng trọt và chăn nuôi; theo nghĩa
rộng nông nghiệp gồm có nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và
ngư nghiệp; ngoài ra, theo tổ chức Lương nông Thế giới (FAO), nông nghiệp
theo nghĩa rộng hơn gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing các sản
phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Tuy nhiên, để việc nghiên cứu phù hợp với điều
kiện Việt Nam hiện nay, luận án tiếp cận nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm
nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp) theo cách phân loại ngành nông nghiệp
của hệ thống tài khoản quốc gia Việt Nam hiện nay. Và với quan niệm phát triển
luôn là quá trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những
bước chuyển từ thấp đến cao; nên luận án cho rằng khi xét nông nghiệp là một
ngành kinh tế thì phát triển nông nghiệp là quá trình vận động để nền nông
nghiệp đi từ thủ công đến hiện đại, đi từ tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa
và cao hơn là thương mại hóa.
Trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là lao động thủ công,
sản xuất nhỏ và kỹ thuật lạc hậu, đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang
mở ra nhiều cơ hội và thách thức. Muốn phát triển nền nông nghiệp nhanh và
bền vững cần phải có cơ chế vận hành phù hợp, luận án cho rằng nền nông
nghiệp phải vận hành theo cơ chế sau: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi
ngành hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ
hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2) Sản xuất nông nghiệp gắn với liên
kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng
hóa. Và 3) sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của
phát triển bền vững quốc gia.
18
Với cơ chế vận hành này, nền nông nghiệp sẽ khai thác được lợi thế so sánh
và thâm nhập hiệu quả vào thị trường nông sản trong nước và toàn cầu nhờ tạo
ra những mối liên kết kinh tế ngang và dọc. Đây là cách để khắc phục những
hạn chế vốn có của kinh tế nông hộ và trang trại, vì dù kinh tế nông hộ và trang
trại có phát triển đến qui mô nào thì các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp cũng
không thể tiếp cận thị trường hiệu quả nếu không phát triển các hình thức liên
kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp phải đạt được mục tiêu “phát triển bền vững”
nhằm xây dựng một nền nông nghiệp đảm bảo tăng trưởng nhanh và ổn định;
nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống của
dân cư nông thôn; đảm bảo xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo vệ đất đai, nguồn nước và môi trường sản xuất cũng như
môi trường sống tại nông thôn, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền
vững quốc gia và toàn cầu.
Từ những quan điểm trên, luận án đã xác định được các nội dung chủ yếu
của phát triển nông nghiệp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Đó là: 1)
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý và hiện đại. 2)
Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Phát triển chuyên môn hóa
và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp. 4) Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết
kinh tế trong nông nghiệp. 5) Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh
cao. 6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện
đại.
Từ những cơ sở lý thuyết trên, luận án đã xây dựng hệ thống các chỉ tiêu để
làm cơ sở lượng hóa các nội dung của phát triển nông nghiệp nhằm đánh giá
được thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam với các nội dung:
1) Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. 2) Tình hình qui hoạch
và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Thực trạng về chuyên môn hóa
và tập trung hóa trong nông nghiệp. 4) Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong
19 nông nghiệp thời gian qua. 5) Tình hình thâm canh trong trong sản xuất nông
nghiệp. 6) Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp. 7) Kết
quả và hiệu quả kinh tế, xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua.
Qua đánh giá cho thấy, nông nghiệp Quảng Nam những năm qua phát triển
không đạt hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều nguyên nhân, nhưng theo luận án có ba
nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là: 1) những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên;
2) những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực trong sản
xuất nông nghiệp; và 3) những nguyên nhân do công tác quản lý nông nghiệp.
Từ những đánh giá trên và xuất phát từ đánh giá tác động của hội nhập kinh
tế quốc tế đối với nông nghiệp, định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển
nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 làm căn cứ để đề xuất
các giải pháp. Luận án đã đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông
nghiệp tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2011-2020, gồm: 1) Giải pháp về
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp; 2) khai thác tổng hợp các vùng sinh
thái nông nghiệp; 3) phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy
chuyên môn hóa, tập trung hóa; 4) hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất
trong nông nghiệp; 5) tăng cường thâm canh trong nông nghiệp; 6) mở rộng thị
trường và phát triển các ngành hàng nông sản; 7) đầu tư kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại; và 8) đổi mới cơ chế, chính sách trong
phát triển nông nghiệp.
Tóm lại, xuất phát từ các chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà
nước, và kế thừa nghiên cứu của các tác giả, luận án đã xác định rõ các nội dung
của phát triển nông nghiệp trong trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Ngoài
ra, những nghiên cứu của luận án về thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh
Quảng Nam, những giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp của tỉnh giai đoạn
2011-2020 là những đóng góp khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn cho vấn
đề phát triển nông nghiệp của Việt Nam nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.
20
3. Mục tiêu của luận án
- Hoàn thiện và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và nội dung của phát
triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam; xác định các
nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong quá trình phát triển nông nghiệp
tại Quảng Nam.
- Đề ra các giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2011-2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu gồm những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan
đến phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung vào những nội dung của phát triển
nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế theo hướng hội nhập ngày
càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu; về không gian là tỉnh Quảng Nam; còn
về thời gian chủ yếu từ năm 1997 đến nay và định hướng, giải pháp đến năm
2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tiếp cận nghiên cứu theo các hướng sau đây:
- Một là, đi từ lý luận đến thực tiễn; dùng lý luận để kiểm nghiệm thực tiễn.
Từ cơ sở thực tiễn nhằm hoàn thiện một số vấn đề lý luận của phát triển nông
nghiệp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
- Hai là, tiếp cận theo hướng đa chiều, tức là xem xét sự phát triển của nông
nghiệp tỉnh Quảng Nam trong mối quan hệ với các địa phương trong cả nước,
của ngành nông nghiệp Việt Nam; quan hệ với các ngành kinh tế khác; phát
triển nông nghiệp trong điều kiện hội nhập và trong điều kiện môi trường thay
đổi nhất là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của
sản xuất và đời sống trong đó có sản xuất nông nghiệp.
21
Phương pháp luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải thích các hiện tượng kinh tế, xã
hội.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể và kỹ thuật xử lý số liệu chính gồm có:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Thu thập, hệ thống hóa, xử lý,
phân tích, đánh giá tất cả các số liệu có sẵn theo định hướng nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát và điều tra thực địa: Khảo sát thực tế nhằm lấy các
thông tin về sản lượng, giá cả, thu nhập … tại xã Tam Phước, xã Cẩm Hà, xã
Điện Quang, và các siêu thị. Khảo sát các mô hình sản xuất tại xã Điện Quang,
Cẩm Hà (làng rau Trà Quế). Thu thập các dữ liệu qua thực hiện các nghiên cứu
khoa học về thu hồi đất cho khu công nghiệp và đô thị tại xã Điện Nam, Điện
Ngọc; về thu hồi đất, tổ chức tái định cư và ổn định sinh kế cho các công trình
thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn. Tất cả những khảo sát trên một
phần được thực hiện qua các nghiên cứu khoa học do tác giả thực hiện với đề tài
“Sinh kế bền vững cho cộng đồng tái định cư công trình thuỷ điện ở lưu vực
sông Vu Gia -Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam: Thực trạng và giải pháp” (2009) [84],
và các đề tài do tác giả hướng dẫn sinh viên thực hiện gồm các đề tài “Phát triển
ngành dâu tằm tơ tại Duy Trinh Quảng Nam” (2008) [47]; “Hoàn thiện các
chính sách nhằm hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ dân thuộc diện giải
tỏa đền bù tại huyện Điện Bàn, Quảng Nam” (2009)[27]; “Thực trạng các ngành
hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam” (2010) [85]; Các giải pháp nâng
cao thu nhập cho các nông hộ huyện Điện Bàn (2010) [95].
- Phương pháp đánh giá có sự tham gia (PRA2): Nhằm lấy ý kiến đánh giá
của nông dân về sự thành công và thất bại của các chính sách, những nguyên
nhân dẫn đến sự thất bại của các chính sách; những chính sách nào là quan trọng
đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Kết quả đánh giá được chọn lọc từ
khảo sát 715 phiếu điều tra tại các huyện Phú Ninh (216), Thăng Bình (196), 2 Participatory Rural Appraisal
22 Đại Lộc (169), Trà My (134) qua đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện qui
trình chính sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam” (Nguyễn
Cảnh, 2010) [13].
- Phương pháp phỏng vấn, chuyên gia: Nhằm hoàn thiện các luận cứ của
luận án.
- Các kỹ thuật xử lý số liệu: Kỹ thuật phân tích thống kê, phân tích mô hình
toán kinh tế, mô hình phân tích các nhân tố, mô hình hóa, đồ thị và các kỹ thuật
phân tích khác để phục vụ cho quá trình hoàn thành báo cáo của luận án.
Trong quá trình nghiên cứu, luận án còn dựa trên các quan điểm, định hướng
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đổi mới và phát triển nông nghiệp.
6. Điểm mới của luận án
Trong quá trình nghiên cứu phát triển nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam, luận
án đã đóng góp những điểm mới như sau:
- Về mặt lý luận. Luận án đã tiếp cận nghiên cứu theo hướng: 1) Phát triển
nông nghiệp là quá trình vận động nội tại của ngành nông nghiệp. 2) Tiếp cận
theo hướng đa chiều, tức là xem xét sự phát triển của nông nghiệp tỉnh Quảng
Nam trong mối quan hệ giữa các tiểu ngành, giữa các khâu của quá trình sản
xuất; quan hệ với các ngành kinh tế khác, với các địa phương và với quốc tế;
quan hệ giữa nhà nước với thị trường; quan hệ giữa đơn vị sản xuất nông nghiệp
với các đối tác trên chuỗi ngành hàng nông sản. 3) Tiếp cận theo hướng bền
vững, tức gắn hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp với hiệu quả xã hội, và
mục tiêu bảo vệ môi trường.
Từ những tiếp cận trên, luận án đã xác định rõ: 1) những nội dung cơ bản
của phạm trù phát triển ngành nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay của Việt
Nam; 2) trên cơ sở chỉ ra tính chất phân tán, tính chất vùng của ngành nông
nghiệp, và lý thuyết về phân cấp quản lý kinh tế; luận án đã khẳng định sự cần
thiết và khả năng nâng cao năng lực quản lý nông nghiệp của Nhà nước các cấp
ở địa phương.
23
- Về mặt thực tiễn. Luận án đã phân tích toàn diện thực trạng phát triển nông
nghiệp Quảng Nam trong thời gian qua (1997-2010) thông qua những công cụ
điều tra, phương pháp tiếp cận mới. Chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong phát
triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam bằng các phương pháp phân tích hiện
đại.
- Về phương hướng và giải pháp. Dựa vào cơ sở lý luận, phân tích thực
trạng và nguyên nhân; luận án đã: 1) Làm rõ được phương hướng và mục tiêu
phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đến năm 2020. 2) Đề ra được các giải
pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020.
Luận án cũng cho rằng, chủ thể thực hiện các giải pháp phát triển nông nghiệp
tỉnh Quảng Nam thời gian đến không chỉ có các nông hộ và trang trại, mà các
đối tác khác trên chuỗi cung cấp nông sản và cả cơ quan quản lý nông nghiệp
cấp tỉnh đều tham gia và đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình này.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được bố
cục thành ba chương cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phát triển nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2011-2020
24 CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1. NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
a. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế. Theo nghĩa
hẹp, ngành nông nghiệp gồm có hai tiểu ngành là trồng trọt và chăn nuôi. Theo
nghĩa rộng, ngành nông nghiệp gồm có các ngành là nông nghiệp theo nghĩa hẹp
(gồm trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Trồng trọt là ngành sử dụng đất đai với cây trồng làm đối tượng chính để sản
xuất ra lương thực, thực phẩm, tư liệu cho công nghiệp, và thỏa mãn các nhu cầu
về vui chơi giải trí, tạo cảnh quan (hoa viên, cây kiểng, sân banh, sân golf).
Ngành nông học phân loại cây trồng theo nhiều cách hoặc là 1) dựa trên phương
pháp canh tác chia ra cây trồng nông học (gồm các nhóm cây hạt ngũ cốc, nhóm
cây đậu cho hạt, nhóm cây cho sợi, nhóm cây lấy củ, nhóm cây công nghiệp,
nhóm cây đồng cỏ và thức ăn gia súc) hay cây trồng nghề vườn (gồm các nhóm
rau, nhóm cây ăn trái, nhóm hoa kiểng, nhóm cây đồn điền/cây công nghiệp); 2)
dựa trên công dụng chia ra cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau
và hoa, cây trồng làm thứ ăn gia súc và cây dược liệu; 3) dựa trên yêu cầu về
điều kiện khí hậu chia ra cây ôn đới, cây á nhiệt đới, cây nhiệt đới; hoặc 4) dựa
trên thời gian của chu kỳ sinh trưởng chia ra cây hàng năm, cây lâu năm.
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chủ yếu của nông nghiệp (theo
nghĩa hẹp), với đối tượng sản xuất là các loại động vật nuôi. Ngành chăn nuôi
cung cấp thực phẩm nhiều chất đạm như thịt, sữa, trứng; cung cấp da, len, lông;
sản phẩm phụ của chăn nuôi dùng làm phân bón; đại gia súc dùng làm sức kéo.
Nguồn thức ăn cho chăn nuôi chủ yếu lấy từ ngành trồng trọt, nên chăn nuôi
phát triển sẽ góp phần làm gia tăng hiệu quả của sản phẩm trồng trọt. Ngành
25 chăn nuôi ngày càng chiếm tỷ trọng cao so với trồng trọt trong cơ cấu ngành
nông nghiệp vì trong khẩu phần ăn của con người đang dần thay đổi.
Ngư nghiệp bao gồm đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Đánh bắt là hoạt động
có từ lâu đời của con người nhằm cung cấp thực phẩm cho mình thông qua các
hình thức đánh bắt cá và các sinh vật thủy khác; việc đánh bắt phải kết hợp với
hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhằm bảo vệ môi trường và duy trì nguồn
thủy sản đánh bắt trong tương lai. Nuôi trồng thủy sản là hình thức canh tác thủy
sản có kiểm soát. Nuôi cá là hình thức cơ bản của nuôi trồng thủy sản, trong đó
có nuôi cá nước mặn, nước lợ và nước ngọt; ngoài ra, còn có nuôi rong, nuôi
tôm, nuôi sò, nuôi ngọc trai.
Lâm nghiệp là các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng; khai thác,
vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng; trồng cây, tái tạo rừng, duy trì tác
dụng phòng hộ nhiều mặt của rừng (Bùi Minh Vũ, 2001, tr. 7) [97]. Theo luật
bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam (Luật bảo vệ và phát triển rừng, 2004)
[41] , rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi
sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa
hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1
trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
b. Các nguồn lực cơ bản trong sản xuất nông nghiệp
Các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp gồm tài nguyên thiên nghiên và
môi trường, lao động, vốn, khoa học và công nghệ. Qui mô và chất lượng của
các nguồn lực qui định qui mô và hiệu quả của ngành nông nghiệp.
Tài nguyên thiên nhiên và môi trường được coi là nguồn lực quan trọng trong
nông nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên trong phát triển nông nghiệp gồm có đất
đai, ruộng vườn, đồi núi, ao, hồ, sông, biển, khí hậu và cả sự đa dạng sinh học.
Nền nông nghiệp truyền thống xem tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực thuần
túy, nên đã khai thác triệt để và kết quả đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên
26 nhiên và giảm cấp môi trường. Ngày nay, quan điểm mới trong phát triển nông
nghiệp xem tài nguyên thiên nhiên không chỉ là nguồn lực mà còn là yếu tố của
môi trường có liên quan đến bản thân của quá trình phát triển nông nghiệp và
đến môi trường sống của con người. Thách thức đối với phát triển nông nghiệp
là việc quản lý và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên sao cho để chúng phục vụ
nhu cầu đa dạng của con người, đồng thời duy trì chất lượng lâu dài của những
tài nguyên đó.
Lao động là lực lượng sản xuất quan trọng đồng thời là chủ thể có tính quyết
định đến quá trình sản xuất nông nghiệp và kết quả sinh trưởng của cây trồng, vật
nuôi. Do lao động trong nông nghiệp không đòi hỏi phải được đào tạo chuyên
nghiệp, nghề nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và làm việc theo thời vụ; nên
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng lao động trong nông nghiệp
sẽ thu hẹp và một bộ phận lao động trẻ trong nông nghiệp chuyển dần sang các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, lực lượng lao động trong nông
nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng
tăng lên. Ngày nay, trong nền nông nghiệp hiện đại, người lao động nông nghiệp
càng tiến dần đến trình độ chuyên nghiệp, có kỹ năng nắm bắt các qui trình canh
tác tiên tiến và sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị trong nông nghiệp.
Vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và
đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Theo nghĩa rộng,
ruộng đất, cơ sở hạ tầng và các tài nguyên thiên nhiên có thể được coi như là các
loại vốn trong sản xuất nông nghiệp. Giống như các ngành kinh tế khác, vốn trong
nông nghiệp có thể được chia theo hình thái luân chuyển, hình thái biểu hiện, mục
đích sử dụng hay theo sở hữu. Do đặc điểm sản xuất của nông nghiệp gắn với quá
trình sinh học của cây trồng, vật nuôi; chịu ảnh hưởng rất lớn từ điều kiện tự
nhiên, thời tiết khí hậu; chính vì vậy, 1) nhu cầu vốn và sử dụng vốn trong nông
nghiệp mang tính thời vụ cao; 2) đầu ra sản phẩm mang tính rủi ro cao, có thể mất
vốn khi bị thiên tai, dịch bệnh.
27
Khoa học và công nghệ trong nông nghiệp. “Khoa học là hệ thống tri thức về
các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; còn công nghệ là
tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” (Luật khoa học và công nghệ,
2000) [42]. Công nghệ gồm có “phần cứng” và “phần mềm”. Phần cứng phản
ánh kỹ thuật của phương pháp sản xuất; kỹ thuật là toàn bộ những điều kiện vật
chất để tạo ra sản phẩm, nó là điều kiện cần thiết làm tăng năng suất lao động.
Khi những tiến bộ của của kỹ thuật có tính đột phá sẽ làm thay đổi phương pháp
sản xuất và làm thay đổi công nghệ. Phần mềm của công nghệ là những thành tố
liên quan đến trình độ thành thạo của con người; những thông tin về bí quyết,
qui trình, phương pháp, dữ liệu, bản thiết kế…; và cuối cùng là thành phần tổ
chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối và quản lý.
Trong nông nghiệp, nhờ những tri thức về nông học, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản và những tiến bộ trong thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí
hóa, tự động hóa và sinh học hóa mà năng suất lao động trong nông nghiệp tăng
lên không ngừng. Đối với các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, việc đổi mới
khoa học và công nghệ trong nông nghiệp cần kết hợp cả yếu tố truyền thống và
hiện đại nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực khác trong nông nghiệp.
Vấn đề huy động và sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Khi huy động
và sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp, cần quan tâm những vấn đề
sau:
- Số lượng và chất lượng các nguồn lực được huy động có tính quyết định
đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Gia tăng qui mô các nguồn lực
như vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên làm nông nghiệp tăng
trưởng theo chiều rộng; trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu là tăng trưởng
do tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hay nói một cách
khác đó là nâng cao chất lượng của vốn và lao động. Các nước có nền nông
nghiệp phát triển do hội đủ các điều kiện như chất lượng nguồn nhân lực và
28 trình độ công nghệ thì chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Ngược lại, các
nước đang phát triển do số lượng lao động đông, giá nhân công rẻ và tài nguyên
còn dồi dào có thể duy trì tăng trưởng theo chiều rộng, nhưng cần chuyển dần
sang tăng trưởng theo chiều sâu (Võ Văn Đức chủ biên, 2009) [26].
- Vai trò của Nhà nước và thị trường đối với việc huy động và sử dụng nguồn
lực trong nông nghiệp rất quan trọng. Dưới sự điều tiết của thị trường, các
nguồn lực trong xã hội sẽ được huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất. Tuy
nhiên, phát triển nông nghiệp còn phải gắn liền với vấn đề xóa đói, giảm nghèo,
an ninh lương thực, và bảo vệ môi trường sinh thái; nên nhà nước cần phải có
các biện pháp điều tiết trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực vào
sản xuất nông nghiệp để vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa đạt được các mục tiêu
phát triển của quốc gia.
c. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Với tính cách là một ngành sản xuất đặc thù, nông nghiệp có những đặc điểm
chung như sau:
Sản xuất nông nghiệp có tính vùng rất rõ rệt. Sản xuất nông nghiệp tiến hành
trên không gian rộng lớn, mỗi vùng lại chịu tác động từ những điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, tập quán,… rất khác nhau. Đặc
điểm này đòi hỏi nhà quản lý phải hiểu rõ tính chất vùng, qui hoạch nông
nghiệp, lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phù
hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tránh rủi ro và khai thác lợi thế so sánh nông
sản của mỗi vùng.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp và ngày càng khan
hiếm. Dù cố định về vị trí, tuy nhiên do không bị đào thải trong quá trình sản
xuất, và nếu được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của đất không ngừng tăng lên;
và ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông
nghiệp. Do đó, việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì nhiêu của
đất là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp.
29
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, phát sinh phát
triển theo những quy luật sinh học nhất định. Quá trình sản xuất kinh tế trong
nông nghiệp gắn với quá trình sinh học. Vì vậy muốn hoàn thành quá trình sản
xuất phải hiểu biết sâu sắc chu trình sinh trưởng của sinh vật.
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đặc điểm này xuất phát từ hai
lý do cơ bản. Một là quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tái sản
xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản xuất nhưng không hoàn
toàn trùng khớp với thời gian sản xuất; thứ hai, mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ
phù hợp với một điều kiện thời tiết nhất định. Để khai thác tốt nhất ánh sáng, ôn
độ, độ ẩm, lượng mưa cho cây trồng thì các khâu gieo trồng, bón phân, làm cỏ,
tưới tiêu,… phải đúng thời vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu các phương pháp canh
tác nhằm hạn chế những tác động của thời tiết khí hậu sẽ giúp cho nông nghiệp
phát triển bền vững và ổn định.
1.1.2. Vai trò, vị trí của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Xu hướng nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền kinh tế,
lực lượng lao động nông nghiệp cũng giảm dần và dịch chuyển sang các ngành
kinh tế khác, đất đai trong nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Nhưng sản lượng
nông sản phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu dân số gia tăng, nhiều nông sản là
đầu vào quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ; nông nghiệp vẫn
tiếp tục là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên nhất và ngày càng có vai
trò quan trọng trong việc làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. Như
vậy, ngoài vai trò kinh tế, nông nghiệp bao gồm cả vai trò xã hội và môi trường.
Điều đó được thể hiện như sau.
Đối với phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác. Nông nghiệp không
chỉ là nhân tố mà còn là điều kiện thúc đẩy phát triển các ngành, các lĩnh vực
kinh tế, nó thể hiện qua các vai trò: 1) Nông nghiệp cung cấp lương thực và các
nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác của nền kinh tế. 2) Nông nghiệp tạo ra
thặng dư ngoại tệ nhờ vào xuất khẩu nông sản. 3) Nông nghiệp là thị trường
30 quan trọng cho các ngành khác trong nền kinh tế như ngành sản xuất hàng tiêu
dùng, máy móc và các vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…). 4) Nông
nghiệp là nơi cung cấp nguồn lao động cho khu vực công nghiệp và dịch vụ. 5)
Nông nghiệp còn tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình công
nghiệp hóa.
Đối với sự phát triển của con người, ổn định chính trị xã hội và đảm bảo nền
an ninh quốc phòng. Phát triển nông nghiệp ngoài mục tiêu loại trừ tình trạng
bần cùng và thiếu ăn cho đại đa số người nghèo còn phải đảm bảo an ninh lương
thực. An ninh lương thực đang là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia và cả nhân
loại. Bảo đảm an ninh lương thực (FAO, 2002) [104] sẽ hạn chế những khó
khăn, rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống của người dân, tạo cơ sở cho
việc ổn định chính trị xã hội, giữ vững an ninh và chủ quyền của quốc gia.
Đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Trong nông nghiệp, môi trường
không chỉ là nguồn lực mà còn là yếu tố có liên quan đến bản thân của quá trình
phát triển nông nghiệp và đến môi trường sống của con người. Bảo vệ môi
trường chính là bảo vệ môi trường sản xuất nông nghiệp; bảo tồn đa dạng sinh
học giúp duy trì cân bằng sinh thái, nhờ đó làm chậm quá trình biến đổi khí hậu
toàn cầu. Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần áp dụng
những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo nên sự phát triển bền vững của môi
trường sinh thái.
Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông nghiệp
có vai trò vị trí hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhìn nhận: Nếu
không có một nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền
kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc. Thực tế ở Việt Nam và nhiều
nước đã chứng minh khi nông nghiệp phát triển vững chắc sẽ giúp nền kinh tế
phát triển ổn định, giảm nhanh tình trạng đói nghèo. Chính vì vậy, nông nghiệp
31 được coi là điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc
gia.
1.1.3. Quan niệm về phát triển nông nghiệp
a. Phát triển nông nghiệp
Để hiểu rõ hơn quan niệm về phát triển nông nghiệp, chúng ta sẽ đi từ các
khái niệm liên quan đến phát triển kinh tế.
- Phát triển kinh tế
Hiện tại có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển kinh tế, Giáo trình Kinh
tế phát triển của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng “Phát triển kinh tế
được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, bao gồm cả việc gia
tăng sản lượng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ và
nâng cao chất lượng cuộc sống con người (Phạm Ngọc Linh và cộng sự, 2008,
tr. 14) [38]”.
Với cách hiểu đó, phát triển kinh tế được khái quát theo bốn nội dung: Thứ
nhất, gia tăng nhanh tổng sản lượng của nền kinh tế; đây là nội dung thể hiện
quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức
sống vật chất của mọi người dân trong một quốc gia và thực hiện các nội dung
khác của phát triển. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ; một
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phải đảm bảo tính độc lập sáng tạo của từng
ngành, từng chủ thể kinh tế, nhưng lại có tính liên kết chặt chẽ và hài hòa, đồng
bộ trong một cơ cấu hợp lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ và lấy thị trường,
thị phần quốc tế làm căn cứ. Thứ ba, gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế;
đó là sử dụng và tái đầu tư hợp lý để duy trì qui mô và chất lượng các nguồn lực
nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và liên tục, đồng thời nền kinh tế đó
đủ khả năng vượt qua các biến động của khủng hoảng và thị trường, cũng như
tác động của thiên tai. Thứ tư, nâng cao chất lượng cuộc sống, đó là kết quả của
nâng cao thu nhập đầu người, nhưng không chỉ có vậy, nó đòi hỏi phải có sự
32 phân phối thu nhập công bằng, xóa bỏ nghèo đói, nâng cao phúc lợi cho mọi người dân,… (Tatyana P. Soubbotina , 2005) [77].
Sự phát triển như trên chỉ mới đặt ra sự thay đổi “về chất” của tăng trưởng
khi gắn sự gia tăng thu nhập với việc giải quyết tốt hơn những vấn đề của xã hội,
mà chưa quan tâm đến vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nâng
cao chất lượng môi trường sống của con người. Vì vậy, khái niệm về phát triển
bền vững ra đời.
Năm 1987, lần đầu tiên, Ngân hàng Thế giới đưa ra vấn đề về phát triển bền
vững, theo đó, phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại
mà không làm nguy hại đến đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai. Quan niệm đầu tiên này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống của con người
trong quá trình phát triển. Đến năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về
Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Nam Phi), phát triển bền vững được
đề cập một cách đầy đủ hơn. Phát triển bền vững là sự phát triển không những
chỉ đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà còn không làm ảnh hưởng xấu, cản trở
đến phát triển của các thế hệ tương lai, là quá trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh
tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy phát triển bền
vững với ba trụ cột và cũng là ba nội dung cơ bản: bền vững về kinh tế, bền
vững về xã hội, và bền vững về môi trường.
Ngày nay, phát triển phải là phát triển bền vững. Các tiêu chí chủ yếu để
đánh giá sự bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và
công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài
nguyên thiên nhiên; nâng cao chất lượng môi trường sống. Bên cạnh đó, hợp tác
xuyên quốc gia và toàn cầu về các vấn đề phát triển bền vững cũng phải được
quan tâm nhằm giải quyết những khía cạnh mang tính quốc tế của phát triển bền
33 vững như vấn đề nghèo đói, khí thải, biến đổi khí hậu (Geoff A. Wilson, 2007,
p. 57) [116].
- Phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc gia,
nên những nội dung của phát triển kinh tế nêu trên cũng là những nội dung chủ
yếu mà quá trình phát triển nông nghiệp cần phải đạt tới. Tuy nhiên, ngành nông
nghiệp có một số đặc điểm khác với các ngành kinh tế khác, và phát triển luôn là
quá trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những bước
chuyển từ thấp đến cao; chính vì lý do đó, luận án sẽ xem xét quá trình phát triển
nội tại của ngành kinh tế với những đặc thù riêng có của nền nông nghiệp. Trước
tiên, chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm về ngành kinh tế nói chung và ngành
nông nghiệp nói riêng đã làm hình thành một số quan niệm về phát triển nông
nghiệp.
Theo trường phái cơ cấu kinh tế và quản trị sản xuất thì ngành kinh tế là kết
quả của việc phân công lao động xã hội và ngành này được phân biệt với ngành
khác ở chỗ các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra. Nông
nghiệp là ngành kinh tế cơ bản cũng được hình thành từ quá trình phân công lao
động xã hội. Và theo quan điểm này, điều kiện để nông nghiệp phát triển cần
phải nâng cao qui mô và chất lượng các yếu tố đầu vào, áp dụng các phương
pháp canh tác tiên tiến, đa dạng chủng loại và chất lượng nông sản sản xuất ra.
Trong đó khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng cho quá trình phát triển
này.
Theo trường phái quản trị doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh mà
Micheal Porter là người đại diện, ngành được hình thành dựa vào các sản phẩm
dễ thay thế nhau và các doanh nghiệp luôn chịu các áp lực cạnh tranh trong nội
bộ ngành từ các đối thủ, nhà cung ứng, người tiêu thụ, đối thủ tiềm ẩn, và các
sản phẩm thay thế. Vì vậy, các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh thế
nào để chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh bằng chi phí hạ, tạo sự
34 khác biệt của sản phẩm và chất lượng làm cho doanh nghiệp duy trì được khả
năng cạnh tranh để phát triển. Theo quan điểm này, các đơn vị sản xuất nông
nghiệp muốn duy trì sự phát triển cần định hướng sản xuất nông nghiệp theo thị
trường và khách hàng để từ đó xây dựng các liên kết kinh tế nhằm hình thành
một hệ thống giá trị của chuỗi ngành hàng để đưa nông sản đến người tiêu dùng
với chi phí thấp nhất.
Theo tổ chức lương nông thế giới (FAO) của Liên Hiệp Quốc, nông nghiệp
theo nghĩa rộng hơn còn bảo gồm cả sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing
các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, lâm sản và thủy sản (FAO, 2005, tr. 11)
[106]. Và tổ chức này cho rằng phát triển nông nghiệp bền vững là yêu cầu của
phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay khi mà cả thể giới đang chung
tay làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu. FAO cho rằng phát triển nông
nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và thay
đổi thể chế và công nghệ nhằm đảm bảo duy trì và thỏa mãn nhu cầu của con
người cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển bền vững như vậy (bao gồm
nông, lâm, ngư nghiệp) đảm bảo không tổn hại đến môi trường, với công nghệ
phù hợp, có hiệu quả về kinh tế và được xã hội châp nhận (FAO, 2005, tr. 11)
[106].
Riêng luận án tiếp cận ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng gồm nông nghiệp
theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và ngư nghiệp là cách
phân loại ngành kinh tế phù hợp với hệ thống tài khoản quốc gia. Với cách tiếp
cận ngành nông nghiệp theo kiểu này sẽ làm cho việc nghiên cứu của luận án
phù hợp với chính sách phát triển nông nghiệp của Việt Nam hiện nay.
Hơn nữa, ngành nông nghiệp luôn khác với các ngành kinh tế khác vì có
những đặc điểm sau: 1) Nông nghiệp khởi thủy là hoạt động tự nhiên (săn, bắt,
hái, lượm) của con người nhằm nuôi sống lấy bản thân của mình. Khi xã hội loài
người văn minh hơn và quá trình phân công lao động xã hội phát triển thì hoạt
động nông nghiệp trở thành hoạt động kinh tế, hình thành nền sản xuất hàng hóa
35 và ngành nông nghiệp ra đời. Ngày nay, nhiều ngành kinh tế mới có thể ra đời
và mất đi, nhưng ngành nông nghiệp dù phát triển đến đâu cũng không thể mất
đi phần tự cấp tự túc là hoạt động tự nhiên của nền nông nghiệp. 2) Phương thức
sản xuất đầu tiên của nông nghiệp là đi từ lao động thủ công, “chặt, đốt, chọc,
trỉa” rồi đến nền nông nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày nay, nhưng
việc kết hợp giữa phương thức sản xuất truyền thống và hiện đại vẫn còn tồn tại,
nhiều công đoạn sản xuất của nền nông nghiệp hiện đại vẫn phải dùng đến lao
động thủ công và phương thức sản xuất truyền thống. 3) Chủ thể sản xuất chính
của ngành nông nghiệp là nông dân, và hình thức tổ chức sản xuất hiệu quả nhất
vẫn là kinh tế nông hộ và trang trại; nên để tiêu thụ nông sản không thể thiếu các
hoạt động liên kết kinh tế của các ngành, các lĩnh vực và các đối tác khác trên
chuỗi ngành hàng nông sản.
Ngoài các đặc điểm chung như trên, ngành nông nghiệp Việt Nam còn có đặc
điểm riêng là nền nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phát triển chủ yếu vẫn dựa vào
tài nguyên thiên nhiên và sức lao động; trong khí đó nông nghiệp vẫn tiếp tục
đóng góp vào sự phát triển kinh tế, an ninh lương thực, giảm nghèo, ổn định
chính trị xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Nên trong
giai đoạn hiện nay và những năm đến tại Việt Nam, theo luận án, phát triển
nông nghiệp là quá trình vận động của ngành nông nghiệp nhằm chuyển đổi nền
nông nghiệp từ sản xuất thủ công là chủ yếu sang sản xuất nông nghiệp theo
hướng công nghiệp và hiện đại; chuyển nền nông nghiệp tự cung, tự cấp thành
nền nông nghiệp hàng hóa và cao hơn là nền nông nghiệp thương mại hóa; và
xây dựng nền nông nghiệp sạch, hữu cơ nhằm đáp ứng các mục tiêu của phát
triển bền vững.
b. Xu hướng phát triển nông nghiệp
Để nền nông nghiệp đạt được các bước chuyển đổi nhanh và bền vững như
khái niệm nêu trên, phải tạo ra động lực và cơ chế vận hành phù hợp đối với nền
nông nghiệp. Về bản chất, động lực là cái thôi thúc, thúc đẩy hành vi của con
36 người khai thác hết năng lực (Lê Du Phong, 2006, tr. 28) [59]. Nhờ đổi mới mà
nền nông nghiệp Việt Nam đã tạo ra động lực cho các chủ thể sản xuất nông
nghiệp, nhờ đó những năm qua nền nông nghiệp Việt Nam liên tục tăng trưởng.
Tuy nhiên, động lực chỉ tạo ra sức mạnh của cá nhân, còn cơ chế vận hành phù
hợp sẽ tạo ra sức mạnh của một hệ thống.
Cơ chế vận hành nền nông nghiệp có thể xem là phương thức vận động các
yếu tố nội tại của ngành nông nghiệp để thúc đẩy việc khai thác đầy đủ các
nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu của phát triển. Để ngành nông nghiệp đủ
sức tạo ra sự liên kết nội tại cũng như liên kết với các ngành kinh tế khác; để nền
nông nghiệp từ chỗ sản xuất phân tán sang sản xuất qui mô lớn; và để nền nông
nghiệp có khả năng ứng phó với những biến đổi của thiên nhiên và giá cả thất
thường của thị trường; nền nông nghiệp đó cần có cơ chế vận hành phù hợp.
Theo luận án, cơ chế vận hành đó như sau: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với
chuỗi ngành hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng
những cơ hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2) Sản xuất nông nghiệp
gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản
xuất hàng hóa. Và 3) sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội
dung của phát triển bền vững quốc gia.
1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành hàng nông sản nhằm phát
triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế
Nông dân sản xuất ra nông sản đáp ứng nhu cầu thị trường nhưng lại không
có khả năng đưa nông sản đến với người tiêu dùng hiệu quả. Thông thường, các
chủ thể sản xuất nông nghiệp vẫn phải nhờ đến hệ thống thu mua, công nghiệp
chế biến, hệ thống phân phối và bán lẻ mới đưa được nông sản từ đồng ruộng
đến bàn ăn của người tiêu dùng.
Ngày nay khi xu thế toàn cầu hóa ngày càng phát triển và thông qua hội nhập
kinh tế đã đem lại nhiều cơ hội thị trường cho sản xuất nông nghiệp. Hình 1.1
37 thể hiện sự tham gia của các nông hộ nhỏ và các trang trại trong quá trình hội
nhập (Joachim von Braun, 2005, tr. 45) [102]. Các nông hộ, trang trại nhỏ có chi
phí sản xuất cao thì chỉ quanh quẩn với thị trường trao đổi tại địa phương, còn
những trang trại có điều kiện sản xuất chi phí thấp hơn đã thâm nhập hiệu quả
hơn đối với thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, ở qui mô nông hộ nhỏ
không thể thâm nhập được thị trường toàn cầu mà chỉ có các trang trại qui mô
lớn và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản mới tạo nên chuỗi ngành hàng
nông sản từ nông hộ nhỏ liên kết với thị trường toàn cầu. Bên cạnh đó, việc đầu
tư vào hạ tầng cơ sở, hoàn thiện các thể chế chính sách là điều không thể thiếu
để tạo mọi điều kiện cho các nông hộ nhỏ có thể thu hẹp được khoảng cách tiếp
cận với các thị trường.
Nông dân hướng theo thị trường cạnh tranh toàn cầu
Thị trường hiệu quả
Thị trường thực tế
p ấ h t í h p i h c ó c g n ù V
Nông dân định hướng theo thị trường trong nước
THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
ở s ơ c g n ầ t ạ H
h c á s h n í h c , ế h c ể h T
Nông dân tự cung tự cấp
THỊ TRƯỜNG TỈNH VÀ QUỐC GIA
o a c í h p i h c ó c g n ù V
THỊ TRƯỜNG NÔNG TRẠI VÀ NÔNG SẢN TỰ CUNG TỰ CẤP
Nông hộ nhỏ thu nhập cao Nông hộ nhỏ thu nhập thấp Khoảng cách không thâm nhập được của nông hộ nhỏ Thị trường thâm nhập hiệu quả Thị trường thâm nhập thực tế
Hình 1.1: Quá trình hội nhập thúc đẩy sự tham gia của các nông hộ
Ngoài sự tác động đến các đơn vị sản xuất nông nghiệp, hội nhập kinh tế còn
làm cho mối quan hệ cung cầu nông sản thay đổi. Bảng 1.1 còn cho thấy các đặc
điểm của cung và cầu nông sản trong điều kiện hội nhập kinh tế.
38
Bảng 1.1: Các đặc điểm của cung và cầu nông sản
1. Nông sản cung ứng có tính chất thời vụ và mang tính chất địa phương, vùng rất rõ rệt;
1. Cầu nông sản thường xuyên không chỉ trong phạm vi địa phương, quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu;
2. Cầu nông sản mang tính liên tục, tương
đối ổn định;
2. Cung nông sản không liên tục, không ổn định, thường có độ trễ nhất định so với nhu cầu của thị trường;
3. Cầu nông sản ngày càng đa dạng, không chỉ nông sản tươi sống, mà nhu cầu nông sản chế biến, nông sản chất lượng ngày càng tăng;
3. Nông sản là sản phẩm tươi sống, dễ hư hỏng. Do sản xuất công nghiệp, nông sản có nguy cơ nhiễm dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật, làm giảm chất lượng nông sản và làm mất an toàn thực phẩm;
4. Chế biến và thương mại nông sản cần thực hiện các đơn hàng lớn, yêu cầu đồng nhất về kích cỡ, và chất lượng nông sản ngày càng nâng cao, và bị cạnh tranh lớn từ nông sản nước ngoài.
4. Nông hộ chỉ có khả năng cung ứng các đơn hàng nhỏ, không đồng nhất về kích cỡ và chất lượng. Khả năng cạnh tranh thấp, luôn chịu nhiều rủi ro trước sự biến động của giá cả thị trường.
Đặc điểm của cung nông sản Đặc điểm của cầu nông sản
Bản thân nông hộ và các đơn vị sản xuất nông nghiệp không thể khắc phục
được sự chênh nhau giữa cung và cầu nông sản như được trình bày ở trên, nếu
không có hệ thống kho hàng dự trữ, bảo quản, chế biến, đóng gói phù hợp trước
khi phân phối nông sản đến người tiêu dùng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp
không thể không gắn với quá trình phát triển các chuỗi ngành hàng nông sản.
Nhất là trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu hơn của Việt Nam hiện nay vào
thị trường nông sản toàn cầu thì việc xây dựng các ngành hàng nông sản và phát
triển các chuỗi ngành hàng nông sản mạnh có vai trò thúc đẩy phát triển nông
nghiệp ổn định, bền vững và khắc phục được những thách thức của quá trình hội
nhập đối với nông nghiệp và nông dân.
39
2) Sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế
của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa
Liên kết vùng có nội dung rất rộng, tuy nhiên trong nông nghiệp, liên kết
vùng chính là các hình thức liên kết nhằm hình thành các vùng sản xuất chuyên
canh và tạo nên mối liên kết giữa nông thôn và thành thị.
- Nông hộ nhỏ thường có xu hướng tự túc, vì sự phân công lao động chưa
phát triển. Khi liên kết vùng phát triển từ cấp xã, đến cấp huyện và mở rộng đến
phạm vi rộng hơn, thì đi cùng với nó là sự phân công lao động trong nông
nghiệp ngày càng phát triển. Và quá trình này sẽ làm cho nền nông nghiệp tự
cung tự cấp phát triển thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, và chỉ có sản
xuất hàng hóa mới làm cho kinh tế nông hộ có khả năng tích lũy giá trị thặng dư;
và nhờ đó, kinh tế nông hộ mới phát triển về qui mô để hình thành các trang trại
chuyên môn hóa hoặc các trang trại nông công thương.
- Liên kết vùng với các cấp độ khác nhau sẽ thúc đẩy chuyên môn hóa và đạt
hiệu quả kinh tế của qui mô. Theo lý thuyết về lợi thế só sánh của David
Ricardo điều tốt nhất cho một vùng, một quốc gia là chuyên môn hóa vào sản
xuất những sản phẩm mà nó sản xuất hiệu quả nhất, và mua những sản phẩm mà
nó sản xuất ít hiệu quả hơn so với các vùng và nước khác, ngay cả điều này cũng
đúng cho việc vùng đó, quốc gia đó mua hàng hóa mà nó có thể sản xuất hiệu
quả hơn.
Xét mô hình của D. Ricardo được xây dựng dựa trên các giả định: Có hai
quốc gia A và B cùng sản xuất ra hai loại hàng hóa khác nhau (gạo và vải). Bảng
1.2 minh họa năng suất lao động của mỗi quốc gia là khác nhau. Cùng một số
nhân công sử dụng, quốc gia A đã sản xuất ra số lượng gạo và vải cao hơn hẳn
quốc gia B. Quốc gia A có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai sản phẩm
(50 kg gạo so với 10 kg gạo và 15 mét vải so với 10 mét vải của quốc gia B),
nhưng lợi thế tương đối nghiêng về sản xuất gạo (5/1 so với 3/2); tương tự, sản
xuất vải của quốc gia B sẽ bất lợi ít hơn. Ở đây, chi phí cơ hội của quốc gia A để
40 sản xuất một kg gạo bằng 0,3 mét vải và sản xuất một mét vải bằng 3,3 kg gạo;
trong khi đó, chi phí cơ hội của quốc gia B để sản xuất một kg gạo bằng 1 mét
vải và sản xuất một mét vải bằng 1 kg gạo. Rõ ràng, trong trường hợp này quốc
gia B sẽ có chi phí cơ hội thấp hơn nếu chuyên môn hóa vào sản xuất vải và từ
bỏ sản xuất gạo, và quốc gia A nên tập trung vào sản xuất gạo; thì cả hai quốc
gia sẽ nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của người dân tại quốc gia mình.
Quốc gia
Nhân công sử dụng
Sản lượng của gạo
Sản lượng vải
(tính theo ngày)
(kg)
(mét)
10
50
A
15
10
10
B
10
Bảng 1.2: Lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh của hai quốc gia
Khác với lợi thế tuyệt đối chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên, năng suất vượt
trội, chi phí sản xuất thấp; lợi thế so sánh có được từ sự giảm thấp hơn về chi phí
cơ hội. Rõ ràng ví dụ trên minh chứng cho việc tập trung sản xuất vào những
mặt hàng có lợi thế nhất của một vùng, một quốc gia luôn đem lại lợi ích kinh tế
cho nó và cho các vùng, các quốc gia liên kết trao đổi hàng hóa.
- Liên kết vùng ngoài việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tận dụng được lợi thế
của qui mô, còn tạo điều kiện phát triển thị trường nông sản nhờ hình thành mối
liên kết giữa nông thôn và thành thị. Mối liên kết này làm thúc đẩy việc tiêu thụ
nông sản dễ dàng hơn. Ngày nay, khi nói đến phát triển nông nghiệp không thể
không gắn kết với quá trình phát triển và hiện đại hóa nông thôn. Chính quá
trình này làm cho hạ tầng nông thôn phát triển, giảm chi phí sản xuất và thúc
đẩy giao lưu mua bán giữa nông thôn và thành thị. Điều này đến lượt tác động
tích cực đến quá trình phát triển của nông nghiệp.
41
3) Sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của phát
triển bền vững quốc gia
Dù tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm thấp so với các ngành
kinh tế khác, nhưng không vì thế mà vai trò của nông nghiệp giảm đi, nhất là khi
mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế trở thành tiến trình xuyên suốt trên
phạm vi toàn cầu và tại mỗi quốc gia nhằm chống lại sự đói nghèo và biến đổi
khí hậu.
Không giống các ngành sản xuất vật chất khác, ngoài chức năng kinh tế
nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, vải sợi, đóng góp vào sự tăng
trưởng chung của nền kinh tế; nông nghiệp còn có chức năng xã hội và môi
trường (Guido Van Huylenbroeck, 2008) [108]. Nền kinh tế đạt được quá trình
phát triển bền vững chỉ khi sự tăng trưởng của nông nghiệp góp phần đảm bảo
an ninh lương thực, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái. Như
vậy, phát triển nông nghiệp bền vững là điều kiện, là phương tiện để nền kinh tế
đạt được sự phát triển bền vững; mối quan hệ này thể hiện:
- Tăng trưởng nông nghiệp cao và ổn định giúp phát triển bền vững về mặt
kinh tế. Điều này thể hiện rõ qua các chu kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính; vì
nông nghiệp ít bị tác động bởi khủng hoảng nên khi nông nghiệp tăng trưởng
cao sẽ giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng dễ dàng hơn và tạo điều kiện phục
hồi nền kinh tế nhanh hơn.
- Tăng trưởng nông nghiệp cao giúp giảm nghèo nhanh chóng ở nông thôn
và cả thành thị. Điều đó được lý giải: 1) Tăng trưởng nông nghiệp làm tăng sản
lượng lương thực và tăng thu nhập của người dân ở nông thôn nên sẽ có tác
dụng giảm nghèo tuyệt đối do có đủ lương thực tự túc và giảm nghèo tương đối
do thu nhập khu vực nông thôn tăng lên; 2) mặt khác, tăng trưởng trong nông
nghiệp làm giảm giá cả lương thực và người nghèo thành thị có cơ hội giảm
nghèo do đủ sức mua lương thực. Điều này cũng đúng cho phạm vi toàn cầu, khi
sản lượng lương thực thế giới tăng, kéo theo giá nông sản toàn cầu giảm tương
42 ứng và điều này đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia nghèo thiếu lương thực.
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra có thể làm cho một số doanh nghiệp phá sản,
nền kinh tế tăng trưởng chậm; nhưng khi khủng hoảng lương thực xảy ra có thể
gây bất ổn xã hội, chính trị, thậm chí xảy ra chiến tranh. Nên phát triển nông
nghiệp bền vững giúp phát triển bền vững về mặt xã hội.
- Phát triển nông nghiệp bền vững làm chậm quá trình biến đổi khí hậu toàn
cầu. Tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái là nguồn lực quan trọng của
sản xuất nông nghiệp, nếu quá trình phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thì sẽ đóng góp đáng kể vào quá
trình phát triển bền vững về mặt môi trường (FAO, 2003) [105].
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp bền vững và phát triển
bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường không phải lúc nào cũng thuận chiều,
mà đôi lúc trở thành mâu thuẫn vì lợi ích xung đột lẫn nhau: 1) Thu hẹp đất sản
xuất nông nghiệp để phục vụ quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công
nghiệp, phát triển thủy điện, khai thác tài nguyên khoáng sản đã làm ảnh hưởng
đến phát triển nông nghiệp. 2) Công nghiệp, giao thông vận tải phát triển gây ra
ô nhiễm đất, nguồn nước, bầu trời và làm tăng nhanh quá trình biến đổi khí hậu.
Nông nghiệp là ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất từ quá trình phát triển này. 3)
Ngoài ra, chính sách an ninh lương thực, chính sách ưu tiên phát triển công
nghiệp làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển nông nghiệp. Đôi khi phải hy
sinh môi trường để gia tăng sản lượng lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương
thực và xóa đói giảm nghèo.
Như vậy, trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, quan niệm về phát triển
nông nghiệp do luận án trình bày ở trên không thể không gắn chặt phát triển
nông nghiệp với khai thác chuỗi ngành hàng và liên kết vùng. Quá trình này làm
cho vai trò chủ thể của nông dân không còn đơn độc nữa mà đòi hỏi phải có sự
liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân với nhau và giữa nông dân với các đối tác
trên chuỗi cung cấp. Ngoài ra, sự tham gia của chính quyền địa phương vào quá
43 trình này ngày càng có vai trò quan trọng để thúc đẩy nông nghiệp phát triển,
nhất là tham gia đầu tư phát triển; ban hành các chính sách về nông nghiệp, nông
thôn và nông dân; nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhằm tạo ra động lực
và cơ chế vận hành phù hợp để thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Từ khi đổi mới đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam đã hình thành hai xu
hướng phát triển khá rõ nét. Sau đổi mới, xu hướng phát triển nông nghiệp dựa
vào cung đóng vai trò chủ đạo, điển hình của xu hướng này là cả nước tập trung
gia tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói, giảm nghèo. Từ
khi hội nhập, nhất là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì
cách tiếp cận theo phía cầu của phát triển nông nghiệp hình thành và phát triển;
điển hình của cách tiếp cận này là sản xuất nhiều chủng loại nông sản đáp ứng
ngày càng đa dạng của thị trường trong nước và quốc tế.
Khi nghiên cứu phát triển nông nghiệp, luận án xuất phát từ nội tại của ngành
nông nghiệp, nhưng trong quá trình phát triển, ngành nông nghiệp không thể
thoát ly với quá trình biến đổi của nền kinh tế Việt Nam. Nên những nội dung
của phát triển nông nghiệp hiện nay không thể tách rời với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Xuất phát từ những phân tích trên, luận án cho rằng phát triển nông nghiệp của
Việt Nam hiện nay có những nội dung chủ yếu sau:
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng hợp lý và
hiện đại
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “cơ cấu” được sử dụng để chỉ các bộ phận hợp
thành của một tổng thể nào đó và mối quan hệ giữa các bộ phận đó trong tổng
thể. Trong sản xuất nông nghiệp, các bộ phận hợp thành có thể được xem xét ở
ngành, tiểu ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vùng lãnh thổ hoặc thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành rất khác nhau tùy điều kiện
chủ quan, khách quan trong từng thời kỳ của từng vùng, từng địa phương, và
44 từng quốc gia. Hơn nữa, vai trò, vị trí của từng bộ phận trong tổng thể nền nông
nghiệp cũng khác nhau và thường thay đổi. Ví dụ, trong cơ cấu ngành, có thể có
những ngành được xác định là nền tảng, ngành mũi nhọn; hoặc trong ngành
trồng trọt, có thể vùng này chọn cây lương thực là chủ đạo, vùng khác chọn cây
công nghiệp là chủ đạo; hoặc trong các vùng, có thể có vùng kinh tế trọng điểm,
vùng kinh tế động lực,…
Từ đó, luận án cho rằng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp là tổng thể các ngành,
lĩnh vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp với vai trò, vị trí của các thành
phần hợp thành theo tỷ lệ tương ứng ổn định trong một thời kỳ nhất định
(Nguyễn Tiến Dũng, 2003, tr. 14) [20].
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn vận động cùng với sự thay đổi của những
điều kiện khách quan như nhu cầu thị trường, tiến bộ công nghệ, chất lượng
nguồn nhân lực, các đối thủ cạnh tranh, và đối tác kinh tế… Nên có thể hiểu,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là sự chuyển dịch vai trò, vị trí và tỷ lệ
hợp thành của các ngành, lĩnh vực, bộ phận trong sản xuất nông nghiệp theo
hướng hợp lý nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý là chuyển sang cơ cấu có khả năng tái
sản xuất mở rộng, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, đáp ứng được
nhu cầu của thị trường và xã hội, đồng thời cơ cấu đó phải đảm bảo bền vững về
mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Quá trình phát triển nông nghiệp luôn làm chuyển dịch cơ cấu các ngành, các
bộ phận, các nguồn lực để tạo ra một cơ cấu hợp lý, hiện đại hơn đem lại hiệu
quả kinh tế cao hơn, nhờ đó tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển nhanh hơn.
Việc chuyển sang một cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý và hiện đại chính là
chuyển đổi sang một cơ cấu có khả năng khai thác được lợi thế so sánh, lấy thị
trường và thị phần quốc tế làm căn cứ; tăng những ngành có giá trị gia tăng cao,
có hàm lượng khoa học công nghệ, có nhu cầu thị trường lớn và ổn định; tăng
những ngành có suất sử dụng tài nguyên thấp, ít gây hại môi trường.
45
Trong thực tiễn hiện nay tại Việt Nam, nền nông nghiệp có cơ cấu kinh tế
hợp lý và hiện đại khi chuyển dịch theo các xu hướng sau:
- Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng chuyển từ nền nông
nghiệp độc canh, tự cung tự cấp thành nền nông nghiệp hàng hóa và cao hơn là
nền nông nghiệp thương mại hóa.
- Tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp; giảm tỷ
trọng ngành trồng trọt.
- Đối với ngành trồng trọt, xu hướng chuyển dịch là giảm dần diện tích cây
lương thực, tăng diện tích cây ăn quả, cây rau màu, và cây công nghiệp.
- Đối với ngành chăn nuôi, cơ cấu được chuyển dịch theo hướng thay các
giống mới có năng suất cao và chất lượng; đồng thời, chuyển dịch sang đàn vật
nuôi có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ ổn định thay cho những vật
nuôi có giá trị kinh tế thấp.
- Đối với ngành thủy sản, chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng
thủy sản, giảm dần tỷ trọng đánh bắt.
- Đối với cơ cấu lao động, lao động nông nghiệp sẽ giảm dần để chuyển sang
các ngành phi nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng và trẻ hóa lực lượng
lao động trong nông nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp gồm: 1) Tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp trong
GDP. 2) Cơ cấu giá trị sản xuất nội ngành nông, lâm, ngư nghiệp. 3) Cơ cấu
diện tích các loại cây trồng, diện tích các loại mặt nước nuôi trồng thủy sản. 4)
Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động. 4) Cơ cấu về trình độ học
vấn, nghề nghiệp, độ tuổi của lao động nông nghiệp.
1.2.2. Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp
Vùng sinh thái nông nghiệp là vùng sản xuất nông nghiệp gắn liền với các
điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, đất đai, cây trồng và vật nuôi trong một hệ sinh
46 thái hài hòa, đạt tới sự cân bằng các yếu tố cấu thành để nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi (Trần Đức Viên và cộng sự, 1998, tr. 100) [94].
Sản xuất nông nghiệp luôn gắn với đặc điểm vùng, địa phương. Sự tận dụng
điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,... để phát triển cây trồng, vật nuôi theo từng
mùa trong năm là những kiến thức cơ bản của ngành nông học. Việt Nam là
nước nông nghiệp, những kiến thức được tổng kết qua kinh nghiệm như “nhất
thì, nhì thục”, cho thấy trước tiên việc sản xuất nông nghiệp phải hiểu biết điều
kiện sinh thái vùng để đặt cây trồng, vật nuôi đúng vị trí của nó trong môi
trường sao cho đạt năng suất cao; thứ đến, sản xuất nông nghiệp phải có sự
tương tác của con người và khoa học, kỹ thuật để tận dụng tối đa điều kiện tự
nhiên này.
Chính vì vậy, khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp chính là nâng
cao sự hiểu biết của con người về vùng sinh thái nông nghiệp, thông qua tác
động của khoa học, kỹ thuật để điều khiển hệ sinh thái nông nghiệp phù hợp với
môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội nhằm nâng cao năng suất các cây trồng,
vật nuôi, đáp ứng nhu cầu của thị trường mà vẫn duy trì được sự cân bằng của
hệ sinh thái nông nghiệp. Có như vậy, thì sản xuất nông nghiệp mới đóng góp
vào sự phát triển bền vững của vùng sinh thái nông nghiệp, cũng chính là đóng
góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Điều này rất có ý nghĩa trong
điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay tại Việt Nam, khai thác hợp lý các vùng sinh thái
nông nghiệp có những nội dung cơ bản sau:
- Qui hoạch và phân vùng sản xuất nông nghiệp;
- Xác định hệ thống cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý;
- Xây dựng chế độ canh tác cho các vùng sinh thái khác nhau; các vụ mùa
khác nhau;
47
- Ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật để điều khiển hệ sinh thái nhằm
phát triển nông nghiệp trong điều kiện nguồn lực ngày càng khan hiếm,
giảm phát khí thải nhà kính ;
- Phòng chống sâu bệnh tổng hợp; và,
- Khôi phục các vùng sinh thái bị suy thoái do canh tác không hợp lý.
Từ những nội dung trên, việc khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp
thể hiện qua các chỉ tiêu sau: 1) Giống các cây trồng, vật nuôi bản địa được bảo
tồn và phát triển ; 2) Số vụ mùa canh tác cây trồng chủ yếu trong năm; 3) Các
phương pháp canh tác và phòng chống sâu bệnh tổng hợp; 4) diện tích các vùng
chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; và 5) diện tích rừng được khôi phục.
1.2.3. Phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp
Chuyên môn hóa sản xuất là quá trình tập trung các yếu tố sản xuất của một
đơn vị để sản xuất một hay một số sản phẩm hàng hóa phù hợp điều kiện sinh
thái vùng, nguồn lực có sẵn và với nhu cầu của thị trường (Nguyễn Thế Nhã và
cộng sự, 2002, tr. 222) [45].
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến tập trung hóa. Tập
trung hóa sản xuất nông nghiệp là việc tập trung các yếu tố sản xuất của đơn vị
sản xuất để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa, làm cho qui mô của đơn vị sản xuất
nông nghiệp ngày càng phát triển, không chỉ tăng qui mô về đất đai mà cả việc
tập trung vốn trên một đơn vị sản xuất hàng hóa (ha, đầu gia súc). Thúc đẩy
chuyên môn hóa và tập trung hóa tạo điều kiện hình thành các trang trại sản xuất
hàng hóa có qui mô lớn, thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp cơ khí hóa, tự động
hóa, tăng cường năng lực trong liên kết với các đối tác trên chuỗi ngành hàng
nông sản và làm cho trang trại tham gia tích cực vào chuỗi nông sản toàn cầu.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, địa hình, điều kiện khí hậu, đất đai
mà việc chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam
cần chú ý đến các vấn đề sau: 1) Chuyên môn hóa kết hợp với luân canh nhằm
giúp cải thiện chất lượng đất đai, phòng chống sâu bệnh; 2) chuyên môn hóa kết
48 hợp với xen canh, gối vụ nhằm tận dụng điều kiện tự nhiên, địa hình, chu kỳ
sinh trưởng các loại cây trồng để tăng năng suất ruộng đất; 3) chuyên môn hóa
cây trồng kết hợp với phát triển chăn nuôi và ngành nghề nông thôn nhằm kết
hợp hài hòa các yếu tố trong vùng sinh thái, tận dụng thời gian nông nhàn, tăng
thu nhập nông hộ và phát triển nông thôn; 4) trong tập trung hóa thì tích tụ đất
đai đóng vai trò quan trọng để phát triển kinh tế trang trại, phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa, nâng cao khả năng hội nhập của trang trại và các doanh nghiệp
nông nghiệp vào chuỗi nông sản toàn cầu.
Tuy nhiên, quá trình chuyên môn hóa, tập trung hóa kết hợp với khai thác
tổng hợp các nguồn lực trong nông nghiệp như trên phải đảm bảo nguyên tắc:
Không làm cản trở sự phát triển của sản phẩm chuyên môn hóa; duy trì sự cân
bằng hệ sinh thái nông nghiệp; thúc đẩy phân công lao động, chuyển đổi nhanh
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nhất là chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động tại nông thôn.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu hơn vào nền
kinh tế toàn cầu, trước yêu cầu phải chuyển đổi nền nông nghiệp phát triển theo
hướng công nghiệp và hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều kiện để
thúc đẩy chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp là:
1) Nắm bắt các điều kiện tự nhiên của vùng để lựa chọn các cây trồng, vật
nuôi có lợi thế. Những cũng cần nhận thức rằng rằng con người với khoa học kỹ
thuật có thể chế ngự các điều kiện thiên nhiên theo khả năng hoặc tạo ra những
môi trường nhân tạo cho cây trồng, vật nuôi nhằm phát triển các cây trồng, vật
nuôi đáp ứng đồng bộ và kịp thời theo nhu cầu của thị trường.
2) Xây dựng vùng chuyên canh phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường.
Việc lựa chọn sản phẩm không chỉ quan tâm đến số lượng, chất lượng, mà còn
phải quan tâm đến sự kịp thời, đáp ứng được các đơn hàng lớn, và nhất là vấn đề
an toàn thực phẩm.
49
3) Phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là thủy lợi, giao thông vận
tải và thông tin liên lạc nhằm tạo điều kiện cho lưu thông nông sản, hạ chi phí
sản xuất và giao dịch.
4) Phát triển hệ thống công nghiệp và dịch vụ liên kết với nông nghiệp.
Ngành chế biến, bảo quản nông sản; các dịch vụ tài chính, marketing và kinh
doanh nông sản phát triển sẽ giúp phát triển các vùng sản xuất chuyên môn hóa
nông sản.
5) Xây dựng các doanh nghiệp hạt nhân làm đầu mối trong giao dịch nông
sản và liên kết với các nông hộ nhỏ. Mô hình này sẽ giúp không chỉ thúc đẩy
chuyên môn hóa ở các trang trại lớn mà quá trình này cũng sẽ thúc đẩy các nông
hộ nhỏ hơn thực hiện được chuyên môn hóa trong các khâu của quá trình sản
xuất nông nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên, các chỉ tiêu liên quan đến quá trình
chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp như sau: 1) Tỷ
suất giá trị sản phẩm hàng hóa trong tổng giá trị sản xuất của ngành chuyên môn
hóa; 2) qui mô giá trị sản phẩm hàng hóa; 3) tỷ trọng các yếu tố đầu vào cho sản
xuất sản phẩm hàng hóa; 4) diện tích đất đai trên nhân khẩu, lao động, đơn vị
sản xuất nông nghiệp; 5) vốn đầu tư trên đơn vị sản xuất hàng hóa (ha, đầu gia
súc); 6) diện tích đất đai được tích tụ.
1.2.4. Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp
Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp là việc phối hợp các nguồn lực, điều
kiện của sản xuất nông nghiệp thông qua việc thiết lập các hình thức kinh doanh
nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của sản xuất nông nghiệp. Do đó,
phát triển tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, chính là phát triển các hình thức
tổ chức sản xuất phù hợp với qui mô và trình độ tổ chức sản xuất nông nghiệp
nhằm không chỉ tạo ra sản lượng cao mà còn đem lại giá trị kinh tế cao của nông
sản sản xuất ra; ngoài ra, phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong sản xuất
50 và tiêu thụ nông sản cũng là một trong những nội dung quan trọng của phát triển
tổ chức sản xuất trong nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp luôn gắn với quá trình sinh học của
cây trồng vật nuôi, nên các hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trong sản xuất
nông nghiệp là hình thức tổ chức sản xuất của hộ nông dân và trang trại. Ngoài
ra, còn có các hình thức hợp tác xã và các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp.
Hộ nông dân là hình thức tổ chức sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Hình
thức này có ưu điểm là gắn người nông dân với đất đai và phát huy được tính tự
chủ của họ trong sản xuất nông nghiệp; nhờ vậy, mà hộ nông dân luôn tìm mọi
cách để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động ở mức cao nhất. Kinh
nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế hộ nông dân với qui mô nhỏ,
vừa hay lớn đều có khả năng thương phẩm hóa sản xuất rất cao và tạo ra giá trị
sản lượng nông nghiệp cao. Nhiều nước, kinh tế nông hộ đạt trình độ thâm canh
cao trong trồng trọt, chăn nuôi với việc tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa và bắt
đầu tự động hóa, tạo điều kiện tăng nhanh năng suất lao động nông nghiệp.
Một hình thức sản xuất khác trong nông nghiệp được xem là tiên tiến hơn, đó
là các trang trại. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm,
thủy sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, có qui mô ruộng đất và các
yếu tố sản xuất đủ lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý tiên tiến (Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng , 2006, tr. 63) [45]. Sự hình thành của kinh tế
trang trại chủ yếu từ sự vận động đi lên của kinh tế nông hộ. Về hình thức, trang
trại trong quá trình phát triển cũng trải qua ba giai đoạn phát triển. Nó đi từ trang
trại đa dạng, tiến lên trang trại chuyên canh và hình thức cao hơn là trang trại
nông-công-thương nghiệp. Trang trại nông-công-thương nghiệp là hình thức
phát triển cao của kinh tế trang trại có liên kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến
và tổ chức tiêu thụ nông sản.
Ngoài ra, hợp tác xã cũng là một hình thức không thể thiếu trong sản xuất
nông nghiệp. Kinh nghiệm cho thấy, kinh tế nông hộ và trang trại trong quá
51 trình sản xuất kinh doanh luôn có nhu cầu hợp tác. Theo Luật hợp tác xã tại Việt
Nam [10], thì hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra nhằm
cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy
nhiên với mô hình hợp tác hóa, tập thể hóa, xóa bỏ kinh tế hộ nông dân thì sản
xuất không phát triển được, mà cần có mô hình hợp tác hóa thực sự theo đúng
nghĩa hợp tác giữa các hộ nông dân và các trang trại.
Các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Trước đây các doanh nghiệp sản
xuất nông nghiệp gồm các nông trường, lâm trường, và trạm trại. Tuy nhiên,
hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp được thành lập theo luật doanh
nghiệp và hoạt động trên cơ sở liên kết từ khâu sản xuất, đến chế biến và tiêu thụ
nông sản. Doanh nghiệp có thể thuê công nhân nông nghiệp hoặc giao khoán đất
đai; cung cấp giống; kỹ thuật canh tác, chăn nuôi đến hộ nông dân và thu mua
sản phẩm từ nông hộ theo giá cả thỏa thuận.
Dù được tổ chức dưới các hình thức sản xuất nào thì các đơn vị sản xuất
trong nông nghiệp không thể đạt hiệu quả kinh tế nếu không hợp tác và liên kết
kinh tế. Liên kết kinh tế là một phương thức đã xuất hiện từ lâu trong hoạt động
kinh tế, nó là sự hợp tác của hai hay nhiều bên trong quá trình hoạt động, cùng
mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp là sự
hợp tác của các đối tác trên chuỗi ngành hàng nông sản để đưa nông sản từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu thụ nhằm tìm kiếm những cơ hội đem lại lợi nhuận từ sự
liên kết này.
Một hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp được xem là tiến bộ khi nó
đạt được các tiêu chí: 1) Liên kết đó đảm bảo tôn trọng tính độc lập của các đơn
vị sản xuất nông nghiệp đối với sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra;
2) liên kết đó phải tăng khả năng cạnh canh của nông sản sản xuất ra như về chi
phí, mẫu mã, an toàn thực phẩm; 3) liên kết đó phải bền vững và đảm bảo phân
52 chia lợi ích phù hợp giữa các đối tác, đặc biệt đối với nông hộ; 4) liên kết đó
đảm bảo nông sản đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Hiện có hai mô hình liên kết được xem là tiến bộ đối với các nông hộ và các
đơn vị sản xuất nông nghiệp là liên kết ngang và liên kết dọc. Liên kết dọc thể
hiện sự liên kết giữa nông hộ và trang trại với các đối tác trên chuỗi ngành hàng
nông sản. Còn liên kết ngang là sự liên kết của các nông hộ và trang trại nhằm
tạo ra các vùng chuyên canh để thực hiện được các đơn hàng lớn.
Để đưa được nông sản từ nơi sản xuất đến bàn ăn của người tiêu dùng, mỗi
ngành hàng của nông sản sẽ tạo nên chuỗi ngành hàng của riêng nó. Chuỗi
ngành hàng là tập hợp tác tác nhân (hay các bộ phận hợp thành của tác nhân)
kinh tế qui tụ trực tiếp vào việc đưa ra môt sản phẩm cuối cùng (Phạm Văn
Khôi, 2007, tr. 69) [37]. Chuỗi ngành hàng được xem như là chuỗi cung cấp của
ngành hàng đó. Ở mỗi khâu của chuỗi ngành hàng nông sản được chuyển từ đối
tác này sang đối tác khác, và qua mỗi khâu giao dịch sẽ làm cho giá trị nông sản
tăng thêm. Nhưng trên hết chuỗi ngành hàng thể hiện một hệ thống liên kết các
CÁC THỂ CHẾ
Cam kết thương mại An toàn thực phẩm Sở hữu trí tuệ Luật thương mại Chất lượng sản phẩm Luật lao động,…
Dòng thông tin
Bán lẻ
Sản xuất
Thu gom
Chế biến
Bán buôn
Dòng nông sản
Dòng tài chính
Giao thông vận tải Dịch vụ kho hàng, xử lý Nghiên cứu, khuyến nông Thông tin liên lạc Logistics Thông tin, tài chính,…
đối tác trên chuỗi để nâng cao hiệu năng hoạt động và chất lượng của chuỗi cung cấp (Martin Christopher , 2005, tr. 16) [103].
HẠ TẦNG
Hình 1.2: Các đối tác tham gia trên chuỗi ngành hàng nông sản
53
Chuỗi ngành hàng liên kết chặt chẽ từ người sản xuất, người thu gom, người
chế biến, người bán buôn và người bán lẻ (hình 1.2) (Anita Regmi and et al,
2005, p.15) [112]. Ngoài ra, để đảm bảo cho các đối tác cải thiện tốt hơn các
hoạt động của chuỗi thì hạ tầng và thể chế được xem như các hoạt động phụ trợ.
Hạ tầng của chuỗi như giao thông, thông tin liên lạc, dịch vụ kho hàng và
logistics, và các dịch vụ khác như thông tin thị trường, khuyến nông, nghiên
cứu, dịch vụ tài chính. Các thể chế của chuỗi được xây dựng qua các tổ chức
quốc tế, trong nước, địa phương và các hiệp hội; trong đó các luật về thương
mại, các qui định về phương pháp sản xuất tốt, an toàn thực phẩm, chất lượng
sản phẩm; đóng gói, vận chuyển, bảo vệ môi trường; thực hành lao động, hợp
đồng và sở hữu trí tuệ.
Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện hình thức, qui
mô và mối liên kết của các đơn vị sản xuất trong nông nghiệp gồm: 1) Tỷ trọng
của mỗi loại hình sản xuất nông nghiệp đóng góp vào sản lượng và giá trị sản
xuất trong nông nghiệp; 2) cơ cấu sử dụng đất đai, lao động và vốn của các loại
hình sản xuất nông nghiệp; 3) cơ cấu đầu tư của các loại hình sản xuất nông
nghiệp; 4) tỷ lệ nông sản được chế biến (cấp 2, cấp 3); 5) tỷ trọng nông sản chủ
yếu xuất khẩu so với tổng sản lượng; 6) kim ngạch xuất khẩu nông sản (tốc độ);
7) tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nông sản so với tổng kim ngạch xuất khẩu; 8) Thị
phần một số nông sản xuất khẩu chủ yếu; 9) tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tại địa
phương; 10) kim ngạch xuất khẩu tính trên đơn vị canh tác và trên lao động
nông nghiệp.
1.2.5. Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao
Có hai phương thức sản xuất cơ bản trong nông nghiệp; đó là quảng canh và
thâm canh. Quảng canh là phương thức sản xuất nhằm tăng sản lượng nông sản
bằng cách mở rộng diện tích đất đai với cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình
độ kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu dựa vào việc sử dụng độ phì nhiêu tự nhiên của
ruộng đất. Khái niệm này còn được hiểu theo nghĩa tiến bộ hơn, đó là sự tăng
54 sản lượng nông sản dựa trên cơ sở mở rộng diện tích ruộng đất hoặc tăng số đầu
gia súc với kỹ thuật không đổi. Trong giai đoạn đầu phát triển nền nông nghiệp
chủ yếu sử dụng phương thức này, nhưng xu hướng đất đai nông nghiệp ngày
càng thu hẹp, quỹ đất dành cho cây xanh, rừng tăng lên, xu hướng giảm vụ để
đất đai có thời gian tái tạo độ phì nhiêu, nên nền nông nghiệp của các nước
chuyển dần qua phương thức canh tác tiến bộ hơn; đó là phương thức thâm
canh.
Thâm canh ngược lại với quảng canh, là phương thức sản xuất tiên tiến nhằm
tăng sản lượng nông sản bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất,
thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp. Từ
đó cho thấy, bản chất của thâm canh là quá trình đầu tư phụ thêm tư liệu sản
xuất và sức lao động trên đơn vị diện tích, hoàn thiện không ngừng các biện
pháp kỹ thuật, tổ chức và những yếu tố khác của sản xuất với mục đích nâng cao
độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, nhằm thu được nhiều sản phẩm trên một đơn
vị diện tích, với chi phí thấp trên đơn vị sản phẩm. Theo nhà kinh tế học Paul A.
Samuelson đây chính là tích lũy vốn theo chiều sâu, và điều này chỉ xảy ra khi
có cải tiến về giống, kỹ thuật canh tác, áp dụng các công nghệ sinh học, thủy lợi
hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, tự động hóa, đồng thời nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực tại nông thôn thông qua giáo dục, khuyến nông, phát
triển y tế và phát triển cơ sở hạ tầng tại nông thôn.
Những hình thức thâm canh đầu tiên là canh tác lúa nước, nuôi trồng thủy
sản có kiểm soát, chăn nuôi tập trung, trồng cây gây rừng,… Ngày nay, thâm
canh đã đạt đến trình độ cao nhờ áp dụng các tiến bộ của khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp như: 1) Thủy lợi hóa giúp người canh tác kiểm
soát chế độ canh tác cây trồng và nuôi trồng thủy sản, ngày nay nhiều hình thức
tưới tiết kiệm, tưới có kiểm soát, tưới phun, tưới kết hợp bón phân vi lượng giúp
người nuôi trồng kiểm soát được vụ mùa và nâng cao năng suất canh tác. 2) Cơ
giới hóa giúp tiết kiệm lao động, không những khâu làm đất, gieo trồng mà hầu
55 như tất cả các khâu còn lại như phun thuốc, thu hoạch, vận chuyển, sấy, lột vỏ
đều có thể cơ giới hóa được. 3) Hóa học hóa giúp kiểm soát sâu bệnh, cỏ dại, và
nhất là phân vi lượng và phân hóa học là một trong những thành tựu quan trọng
của công nghệ góp phần đem lại năng suất cao trong canh tác cây trồng. 4) Điện
khí hóa giúp giải quyết vấn đề động lực trong sản xuất nông nghiệp và nâng cao
chất lượng cuộc sống tại nông thôn. 5) Tự động hóa giúp việc canh tác và chăn
nuôi kiểm soát được mọi khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp mà không cần
sự tham gia trực tiếp của lao động nông nghiệp. 6) Và sinh học hóa giúp tạo ra
giống cây, con có năng suất cao, chất lượng tốt và góp phần bảo vệ môi trường.
Nhờ vào những tiến bộ về công nghệ sản xuất ở trên mà sản xuất nông
nghiệp đã có những phương pháp canh tác mới như trồng cây trong nhà kính,
chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp. Ngày nay, đa phần các sản phẩm thịt,
sữa, trứng, rau quả được bán tại siêu thị ở nhiều quốc gia được sản xuất theo
phương pháp nông nghiệp công nghiệp hóa.
Từ những nội dung phân tích trên, hệ thống chỉ tiêu thể hiện trình độ thâm
canh trong nông nghiệp gồm: 1) Mức đầu tư trên đơn vị diện tích đất nông
nghiệp và trên lao động nông nghiệp. 2) Diện tích đất trồng trọt được tưới, tiêu
bằng hệ thống thủy lợi. 3) Số lượng máy kéo trên 100 hộ nông dân, trên 100 ha
đất nông nghiệp. 4) Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của mỗi loại sản phẩm. 5) Năng
suất cây trồng, con vật nuôi. 6) Năng suất lao động xã hội của ngành nông
nghiệp.
1.2.6. Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và
hiện đại
Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò
nền tảng cho các hoạt động kinh tế-xã hội được diễn ra một cách bình thường.
Trình độ phát triển kết cấu hạ tầng luôn được xem là thước đo phản ánh trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đối với ngành nông nghiệp, kết cấu
56 hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp gồm các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc
chủ yếu sau:
- Hệ thống thủy lợi gồm các công trình cấp và tiêu nước như đập nước, đập
ngăn mặn, hồ chứa, trạm bơm, hệ thống mương dẫn, cống dẫn và mương nội
đồng. Thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát chế độ canh tác,
nuôi trồng thủy sản, giảm những tác hại của thiên nhiên đối với cây trồng, vật
nuôi.
- Giao thông nội đồng, hệ thống giao thông nông thôn. Do tính không thể
tách rời giữa nông nghiệp, nông thôn; mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xã
hội mà hệ thống giao thông nông thôn phát triển cũng góp phần làm hạ chi phí
trong sản xuất nông nghiệp.
- Hệ thống điện phục vụ nông nghiệp là cơ sở để thực hiện điện khí hóa
trong nông nghiệp, nhất là phát triển thủy lợi, cơ giới hóa, và tự động hóa.
- Nhà lưới, sân phơi, lò sấy; các kho chứa vật tư, nông sản, các khu chế
biến, kho bảo quản hạt giống; các trạm trại giống cây, con. Những cơ sở hạ tầng
này góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng nông sản và
giảm tổn thất sau thu hoạch.
- Các cảng biển, cảng hàng không, cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền; các
hoạt động logistics gắn liền với hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh nông
sản. Các cơ sở hạ tầng này giúp ngành hàng nông sản hội nhập tốt hơn vào chuỗi
nông sản toàn cầu, phát triển thị trường nông sản và giảm thiểu các rủi ro do
biến động giá cả nông sản trên thị trường gây ra nhiều bất lợi đối với sản xuất
nông nghiệp.
Do đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các cây, con; sản xuất nông nghiệp
được tiến hành trên một không gian rộng lớn; nông sản là những loại sản phẩm
tươi sống, dễ hư hỏng, mang tính thời vụ. Các đặc điểm này làm cho ngành nông
nghiệp dễ bị tổn thương bởi thiên tai và thị trường, nên phát triển kết cấu hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp được xem là điều kiện và hệ quả của phát triển
57 nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng là điều kiện vì muốn phát triển sản xuất nông
nghiệp phải xây dựng các cơ sở hạ tầng để đảm bảo nông nghiệp phát triển ổn
định và bền vững; ngược lại, kết cấu hạ tầng là hệ quả vì nông nghiệp phát triển
sẽ làm cho kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện, và mở rộng để đáp ứng tốt hơn
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp.
Đối với Việt Nam, do sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phân tán nên
những năm qua mặc dầu được Nhà nước đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng
phục vụ nông nghiệp nhất là thủy lợi, nhưng phải nói rằng nhiều kết cấu hạ tầng
không đồng bộ, nhiều “nút thắt cổ chai” trong kết cấu hạ tầng vẫn còn tồn tại.
Nhiều công trình đầu tư nhưng việc quản lý vận hành không tốt nên nhiều công
trình không phát huy hiệu quả, xuống cấp, gây nhiều lãng phí đối với nền kinh tế
và xã hội. Nên để đảm bảo nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững, nâng
cao được khả năng cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường nông sản toàn
cầu, việc xây dựng một kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp đồng bộ và hiện
đại thể hiện những nội dung cơ bản là: 1) xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng có
tính hệ thống và đồng bộ, đi trước một bước trong phát triển sản xuất nông
nghiệp, đáp ứng trước mắt nhưng đảm bảo yếu tố lâu dài và hiện đại; 2) cần huy
động nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp
từ nhiều nguồn, không chỉ từ ngân sách mà còn phải huy động các nguồn lực từ
doanh nghiệp và nhân dân; 3) thực hiện quản lý và sử dụng các kết cấu hạ tầng
phục vụ nông nghiệp theo nguyên tắc có sự tham gia, điều này là phù hợp với
nền nông nghiệp nhỏ và phân tán của Việt Nam.
Từ những phân tích trên, hệ thống các chỉ tiêu thể hiện trình độ phát triển kết
cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như sau: 1) Diện tích và tỷ lệ được
tưới, tiêu; 2) Các hồ chứa, các đập ngăn mặn, các trạm bơm; 3) Số km đường
nội đồng, đường cấp phối, mật độ đường; 4) diện tích nhà lưới, sân phơi, kho
tàng, kho bảo quản giống, nhà chế biến; 5) tỷ lệ điện khí hóa, thông tin liên lạc,
kết nối internet.
58 1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP
Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp chính là
nghiên cứu các cách thức tác động và phối hợp các nhân tố để thúc đẩy việc tăng
trưởng trong sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp thường bị tác
động bởi ba nhóm nhân tố cơ bản là các nhân tố tự nhiên, các nhân tố kinh tế và
các nhân tố xã hội, thể chế.
1.3.1. Những nhân tố tự nhiên
Tự nhiên vừa cung cấp các yếu tố vật chất trực tiếp tham gia vào các hoạt
động sản xuất nông nghiệp, vừa tạo ra môi trường cho các hoạt động đó. Những
nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến việc phát triển nông nghiệp là các tài nguyên
thiên nhiên trong nông nghiệp gồm đất đai, rừng, biển, sông ngòi, nguồn nước,
ánh sáng, khí hậu và cả sự đa dạng sinh học (Học viện chính trị Quốc gia HCM,
2004, tr. 130) [32]. Trong đó có những tài nguyên vô hạn (như ánh sáng,…), còn
lại đa số là tài nguyên hữu hạn (như đất đai, rừng, nguồn nước, sự đa dạng sinh
học,…); vì vậy, việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên
trong nông nghiệp sẽ góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Mỗi yếu tố của
tự nhiên tạo nên các đặc điểm riêng có của sản xuất nông nghiệp, sự hiểu biết về
cấu tạo, độ phì nhiêu của đất đai; nắm bắt được đặc điểm chu kỳ sinh trưởng của
cây trồng, vật nuôi; hiểu biết những chu kỳ khí hậu để điều chỉnh thời vụ;… có
vai trò quan trọng để khai thác các nguồn lực quan trọng này trong phát triển
nông nghiệp.
Nhận thức nhân tố tự nhiên đòi hỏi phải tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá
điều kiện khí hậu, thời tiết, tài nguyên thiên nhiên trong nông nghiệp đối với
mỗi vùng, mỗi địa phương,… Trên cơ sở đó, cần xây dựng chiến lược phát triển
nông nghiệp từng ngành, từng vùng địa phương phù hợp với lợi thế tài nguyên,
vị trí địa lý, cây con; đồng thời tiến hành qui hoạch, khai thác, sử dụng tài
59 nguyên gắn với qui hoạch phát triển nông nghiệp và qui hoạch phát triển từng
vùng sinh thái.
Những đánh giá không đúng, thiếu cơ sở khoa học về điều kiện tự nhiên sẽ
dẫn đến sai lầm trong lựa chọn ngành, cây con, sản phẩm; từ đó dẫn đến những
yếu kém trong phát triển nông nghiệp.
1.3.2. Những nhân tố kinh tế
Trong nông nghiệp, các nhân tố kinh tế đảm bảo tăng trưởng nông nghiệp
chính là qui mô và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, thị
trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ nông sản.
a. Qui mô và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp
Các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp gồm đất đai, lao động, vốn, khoa
học và công nghệ, tài nguyên thiên nghiên và môi trường. Qui mô và chất lượng
của các nguồn lực qui định qui mô và hiệu quả của ngành nông nghiệp. Khi huy
động và sử dụng các nguồn lực vào quá trình sản xuất nông nghiệp, cần quan
tâm đến những vấn đề sau.
Qui mô về số lượng và chất lượng các nguồn lực được huy động có tính
quyết định đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Gia tăng qui mô
các nguồn lực như vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên làm nông
nghiệp tăng trưởng theo chiều rộng; trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu gắn
với tăng năng suất lao động nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên
tiến vào quá trình sản xuất. Nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào làm gia tăng tổng năng suất các yếu tố (TFP 3). Khi biến đổi hàm sản xuất Cobb-Douglas Y =
Y = β(%∆ L
K ) + TC. Trong đó: %∆(Y/L) là tốc độ L
ALαKβ, ta được kết quả4: %∆
tăng của sản lượng trên lao động, %∆(K/L) là tốc độ tăng đầu tư trên lao động,
3 Total Factor Productivity. 4 Xem phụ lục 1.
và TC đại diện cho sự thay đổi kỹ thuật hay còn gọi là tổng năng suất các yếu
60 tố. Do , β luôn nhỏ hơn 1 (thường β = ¼) nên sản lượng sẽ tăng chậm hơn vốn.
Trong trường hợp này, TC phải tăng lên nhờ vào đầu tư khoa học công nghệ,
nâng cao chất lượng của lao động, thực hiện các phương pháp thâm canh cao.
Nhờ vào sự tăng lên của TFP mà sản lượng sẽ tăng nhanh hơn vốn đầu tư. Điều
này chứng tỏ rằng chỉ có đầu tư khoa học công nghệ mới nâng cao được chất
lượng của các nguồn lực và đảm bảo cho nông nghiệp tăng trưởng bền vững và
ổn định.
Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp còn phải gắn liền với vấn đề xóa đói giảm
nghèo, an ninh lương lương thực, và bảo vệ môi trường sinh thái. Nên Nhà nước
cần phải có các biện pháp điều tiết trong quá trình huy động và sử dụng các
nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp để vừa đảm bảo gia tăng sản lượng, vừa đạt
được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
b. Thị trường các yếu tố đầu vào và tiêu thụ nông sản
Trong nông nghiệp, có hai thị trường đảm bảo cho quá trình phát triển nông
nghiệp là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ nông sản.
Thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp như thị trường vốn;
thiết bị và vật tư nông nghiệp; quyền sử dụng đất; khoa học và công nghệ. Khi
nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa phát triển đòi hỏi phải phát triển các thị
trường yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, do năng lực kinh tế và trình độ quản lý , mà
nông hộ khó có thể thâm nhập về phía “trước” hoặc phía “sau” trên chuỗi sản
xuất nông sản. Vì vậy, nhà nước phải có các thể chế để phát triển hiệu quả thị
trường yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất; nhưng đồng thời nhà nước
phải kiểm soát thị trường này để giảm thiểu những rủi ro đối với quá trình sản
xuất của nông hộ.
Thị trường tiêu thụ nông sản thường phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về
nông sản. Cung cầu trong nông nghiệp tạo ra cơ chế hình thành giá cả nông sản
và thúc đẩy việc mua bán nông sản phù hợp với các qui luật của thị trường. Cầu
về nông sản là cầu cho tiêu dùng trực tiếp, cầu cho chế biến và cầu cho sản xuất
61 trực tiếp nông nghiệp. Cung về nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng,
cho xuất khẩu mà cả cho dự trữ (Phạm Vân Đình và cộng sự, 1997, tr. 56) [24].
Tại các nước có nền nông nghiệp sản xuất thừa đáp ứng cho nhu cầu xuất
khẩu như Việt Nam, thì nông dân có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường nông
sản cả về mặt chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, giữa cung và cầu nông sản có
những đặc điểm riêng của nó, cầu nông sản đòi hỏi luôn có sẵn, liên tục, khối
lượng lớn và thực phẩm an toàn; thì cung nông sản luôn có đặc tính không ổn
định, theo mùa vụ và không liên tục. Chính vì điều này mà giá cả nông sản luôn
dao động với biên độ lớn, gây nhiều tổn thất đối với vụ mùa và thu nhập của
người nông dân, ngay cả lúc người nông dân được mùa vụ.
Khi tiếp cận sản xuất nông nghiệp theo cung hay theo cầu đều đem lại những
khiếm khuyết bởi sự liên kết giữa sản xuất của người nông dân và thị trường
luôn là khoảng cách lớn. Để đảm bảo cân đối giữa cung và cầu trong sản xuất
nông nghiệp cần phải phát triển các ngành hàng nông sản làm cầu nối giữa nông
dân và thị trường, giảm được những tổn thất mà nông dân phải gánh chịu do sự
biến động giá cả nông sản theo vụ mùa.
1.3.3. Những nhân tố xã hội và thể chế
Các nhân tố xã hội và thể chế trong phát triển nông nghiệp có thể được xem
là các nhân tố liên quan đến tập quán, kinh nghiệm sản xuất trong nông nghiệp,
phát triển hạ tầng nông thôn và đổi mới thể chế đối với nông nghiệp.
a. Tập quán và kinh nghiệm sản xuất
Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất cha
truyền con nối và tạo cho nông dân tâm lý cam chịu và bằng lòng với tập quán
sản xuất tự cung tự cấp. Kinh nghiệm và tâm lý này đã làm cho mục đích sản
xuất của nông dân nghèo chỉ nhằm đảm bảo cái ăn, cái mặc; ý tưởng thay đổi
cách thức sản xuất, tiếp cận thị trường để nâng cao sức sản xuất và cải thiện thu
nhập đối với họ là mạo hiểm vì một vụ mùa thất bát cũng đồng nghĩa với đói
kém.
62
Vì vậy, chỉ có nâng cao thu nhập của nông dân dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động, tăng sản lượng mới làm cho họ chấp nhận thay đổi kinh nghiệm và tập
quán sản xuất tự cấp tự túc để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Thu nhập
của nông dân tăng lên tạo cơ hội cho nông dân có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn
tiêu dùng, tích lũy và đầu tư; kích thích họ tự đổi mới cuộc sống và nâng cao
năng lực sản xuất của chính họ.
Chính vì xuất phát điểm là nền sản xuất nhỏ, canh tác lạc hậu, mà các nông
hộ nhỏ đang phải đối diện với những thách thức khi gia nhập vào WTO. Những
thách thức đó là: 1) Thông tin thị trường, các đối tác không muốn giao dịch với
các nông hộ nhỏ mà chỉ muốn làm việc thông qua đại diện của họ, nên các nông
hộ nhỏ khó tiếp cận thông tin từ các đối tác nếu không liên kết lại theo nhóm
hoặc hình thành các trang trại lớn. 2) Vốn và kỹ năng, chỉ có các trang trại qui
mô lớn mới tập hợp đủ nguồn lực, có khả năng tiếp cận các nguồn vốn, các kỹ
năng và công nghệ sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu. Và nhờ vào khả
năng này mà trang trại lớn mới vượt qua được các rủi ro trong quá trình chuyển
đổi sản xuất. 3) Khối lượng cung ứng lớn, điều này luôn là thách thức lớn đối
với các nông hộ nhỏ, nếu các trang trại không liên kết lại trong sản xuất và cùng
các nhà cung ứng để đáp ứng các đơn hàng lớn và ổn định thì những rủi ro do
giá cả và sản lượng là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra, để bảo đảm khối
lượng cung ứng cần phải áp dụng các công nghệ sản xuất ra hoa, ra trái đồng
loạt, có hệ thống tưới tiêu để sản xuất các sản phẩm trái vụ và phải có hệ thống
các kho hàng phù hợp. 4) Chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm và sản xuất
theo qui trình canh tác phù hợp là yêu cầu bắt buộc khi thâm nhập thị trường
nông sản toàn cầu. Các nông hộ không tham gia vào quá trình này khó có thể
tiêu thụ nông sản vì đòi hỏi phải tuân thủ những qui định và phải qua các kiểm
định để có các chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn.
63
b. Phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Cơ sở hạ tầng nông thôn gồm có đường bộ, đường thuỷ; hệ thống tưới tiêu,
hệ thống cấp thoát nước; cầu cảng; hệ thống điện, thông tin liên lạc. Cơ sở hạ
tầng nông nghiệp, nông thôn là nhân tố ngoại sinh của phát triển nông nghiệp,
nhưng có vai trò thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh và lợi thế so sánh của
nông sản được sản xuất và tiêu thụ.
Phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thủy lợi và thông tin liên lạc
làm giảm chi phí trong sản xuất và tiêu thụ nông sản; phát triển hệ thống cấp
thoát nước, điện làm nâng cao được chất lượng cuộc sống tại nông thôn. Chính
vì vậy mà phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trở thành chính sách quan trọng tại
các nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp, xóa dần khoảng cách nông
thôn và thành thị, và thúc đẩy lưu thông nông sản hàng hóa tạo điều kiện phát
triển nông nghiệp.
c. Đổi mới thể chế trong nông nghiệp
Vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế là vấn đề vừa cổ điển vừa hiện
đại. Ngày nay, những tranh luận trong khoa học không còn ở việc cần hay không
vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế mà ở chỗ làm thế nào để kết hợp
tốt vai trò của nhà nước với thị trường trong phát triển kinh tế. Gần đây, khi
phân tích nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản là xem nhẹ vai trò
quản lý của nhà nước.
Vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp thường được thể hiện ở
những vấn đề chủ yếu sau đây: 1) Hoạch định chiến lược; 2) qui hoạch phát triển
nông nghiệp; 3) ban hành pháp luật, chính sách phát triển nông nghiệp; 4) thực
hiện các chính sách hỗ trợ nông dân theo đúng các cam kết quốc tế; và đặc biệt,
5) đổi mới thể chế đối với nông nghiệp nhằm góp phần thúc đẩy phát triển nông
nghiệp nhanh chóng và bền vững.
64
Theo nghĩa hẹp hơn liên quan đến hoạt động kinh tế, thể chế được xem như
các luật lệ, các chính sách vừa có tác dụng thúc đẩy lại vừa hạn chế những hành
động của cá nhân hoặc các tổ chức tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc đổi mới thế chế nhằm xác lập những qui định mới hoặc sửa đổi những qui
định cũ với ý đồ thay đổi hành vi của các đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản,
cũng như các tổ chức quản lý của nhà nước về nông nghiệp và các ngành liên
quan theo những định hướng mong muốn.
Nhà kinh tế học Josepth E. Stiglitz cho rằng “ sự thành công về mặt kinh tế
đòi hỏi phải tạo nên lực cân bằng giữa chính phủ và thị trường” (Josepth E.
Stiglitz, 2008, tr. 17) [78]. Thị trường có thể tạo ra cơ chế phân bố và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp; nhưng thị trường không thể
giải quyết những rủi ro của sản xuất nông nghiệp và sự biến động giá cả thị
trường nông sản, thị trường cũng không tạo ra cơ chế thu hút đầu tư để phát triển
nông thôn, và thị trường cũng không bảo vệ được môi trường sinh thái trong quá
trình tăng trưởng nông nghiệp. Để đạt được các chức năng kinh tế, xã hội và môi
trường của nông nghiệp và đảm bảo nông nghiệp phát triển bền vững cần có sự
quản lý nhà nước về nông nghiệp thông qua đổi mới các chính sách.
Chính sách nông nghiệp được xem là tổng thể các biện pháp kinh tế và
những biện pháp khác của nhà nước từ trung ương đến địa phương tác động đến
nông nghiệp và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất
định và trong một thời hạn xác định (Phạm Văn Khôi, 2007, tr. 12) [37].
Hình 1.3 cho thấy các loại chính sách mà các cơ quan của chính phủ tác động
đến phát triển nông nghiệp. Các chính sách này phải tác động đến nông nghiệp,
nông thôn và nông dân thì mới đảm bảo đem lại hiệu quả kinh tế xã hội trong
phát triển nông nghiệp. Chính sách nông nghiệp trong một giai đoạn có thể
thành công hoặc thất bại. Chính vì vậy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối
với phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải phân tích tác động của các chính sách
65 nông nghiệp từ đó có giải pháp điều chỉnh; ngoài ra, năng lực của cán bộ quản lý
nông nghiệp đòi hỏi phải được nâng cao cho phù hợp với quá trình phát triển của
Chính phủ
Các địa phương
Các bộ
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN
CHÍNH SÁCH NGÀNH NÔNG SẢN
- Chính sách xóa đói,
- Chính sách lương
giảm nghèo;
thực;
CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN - Chính sách đất đai; - Chính sách đầu tư; - Chính sách nguồn
nhân lực;
- Chính sách khoa học
công nghệ;…
- Chính sách dân số và lao động ở nông thôn; - Chính sách giáo dục, y tế, an sinh xã hội;…
- Chính sách về thị trường nông sản; - Chính sách sản xuất và tiêu thụ nông sản;…
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
nông nghiệp, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế.
Hình 1.3: Mô hình tác động của chính phủ đến phát triển nông nghiệp qua
các chính sách
Như vậy, nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp bao gồm
cả nhân tố nội sinh và ngoại sinh. Những nhân tố về nguồn lực, tập quán và kinh
nghiệm sản xuất, tài nguyên thiên nhiên là nhóm nhân tố quyết định đến việc
tăng trưởng nông nghiệp ổn định trong dài hạn. Nhóm các nhân tố về phát triển
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn góp phần giảm được các chi phí trong sản xuất
và tiêu thụ nông sản. Còn lại nhân tố về đổi mới thể chế nhằm nâng cao hiệu
năng của quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, đặc biệt việc đổi mới thể chế
nhằm tạo ra mối liên kết “4 nhà” trong nông nghiệp một cách hiệu quả.
66 1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ, ĐỊA
PHƯƠNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.4.1. Kinh nghiệm của quốc tế
a. Kinh nghiệm của Hungary về chuyển đổi chính sách phát triển nông
nghiệp
Hungary có diện tích tự nhiên là 93.028 km2, dân số 9,9 triệu người (năm 2010). GDP năm 2009 là 131,3, tỷ USD5, trong đó nông nghiệp chiếm 2,8%,
công nghiệp 35,7%, và dịch vụ 61,5% GDP của nền kinh tế; với lực lượng lao
động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp là 4,5%, công nghiệp 32,1% và dịch
vụ 63,4%.
Trước năm 1990, Hungary là quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong nền kinh tế. Từ năm 1990, Hungary tập trung nỗ lực để chuyển đổi
nền kinh tế theo cơ chế thị trường; trong đó, có những chuyển đổi quan trọng
như công nhận chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai, bất động sản, tư liệu sản
xuất chủ yếu; hình thành hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với quốc
tế để nền kinh tế thị trường vận hành thuận lợi. Đến năm 2004, Hungary trở
thành thành viên của WTO và Liên minh Châu Âu (EU).
Riêng đối với nông nghiệp, Hungary đã có những chuyển đổi chính sách phát
triển nông nghiệp quan trọng sau (Lê Du Phong, 2009) [58]:
- Đất đai của 1500 đơn vị nông, lâm trường và hợp tác xã được đưa vào thị
trường để bán cho các cá nhân và các tổ chức tư nhân; một phần đất đai nông
nghiệp được trả lại cho các cá nhân trước đây và dành một số quỹ đất cấp cho
các xã viên không có đất canh tác. Cho phép hạn điền tích tụ đất đến 300 ha đối
với tổ chức, cá nhân trong nước và 250 ha đối với cá nhân là người nước ngoài.
5 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/hu.html.
Kết quả đến năm 2003, đất đai thuộc sở hữu nhà nước giảm từ 31% xuống còn
67 3%; sở hữu hợp tác xã giảm từ 34% xuống còn 10%; trong khi đó sở hữu tư
nhân đã tăng từ 35% lên 83%.
- Đến năm 2003, đã phát triển được 760.000 trang trại; các trang trại này tự
chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, và
các sản phẩm do các trang trại này làm ra phải cạnh tranh quyết liệt với các nông
sản của các nước thuộc Liên minh Châu Âu và nhiều nước trên thế giới. Điều
này buộc các trang trại của Hungary muốn tồn tại và phát triển phải dựa vào
khoa học và công nghệ.
- Để tạo ra các sản phẩm khoa học – công nghệ thực sự có chất lượng phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp; chính phủ Hungary chỉ giữ lại một số trường công
lập quan trọng phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, còn lại
cho tư nhân hóa các viện và các trường, khuyến khích các doanh nghiệp, cá
nhân thành lập các viện nghiên cứu tư nhân. Để tạo một thị trường khoa học –
công nghệ năng động phục vụ nông nghiệp, chính phủ cho đấu thầu rộng rãi các
chương trình nghiên cứu; hợp tác với các nhà khoa học và các trường thuộc Liên
minh Châu Âu và trên thế giới trong việc nghiên cứu và chuyển giao các kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn. Để giúp các trang trại của Hungary nhanh chóng tiếp
cận được những tiến bộ về khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp,
Chính phủ đã hỗ trợ cho việc ra đời các vườm ươm khoa học - công nghệ trong
lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Các vườn ươm này thực hiện việc
chuyển giao cho các trang trại các giống cây trồng, các con vật nuôi có năng
suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, cũng như giúp các trang trại các phương pháp
canh tác tiên tiến tạo ra các sản phẩm chất lượng cao vừa đảm bảo gìn giữ được
môi trường sinh thái ở địa phương.
- Để nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp, Nhà nước
Hungary không chỉ ban hành các văn bản luật tạo hành lang pháp lý của nền
kinh tế thị trường, mà còn có những chương trình quốc gia về phát triển nông
nghiệp, nông thôn; các chương trình trợ giúp nông nghiệp, nông thôn khi gia
68 nhập WTO và EU; kiểm soát chặt chẽ các vật tư nông nghiệp đầu vào và chất
lượng nông sản sản xuất ra; hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp,
nông thôn để đến năm 2013 sánh kịp với các nước thuộc Liên minh Châu Âu; và
các chương trình như chương trình đất đai mang tính xã hội, chương trình EU
Leader, chương trình phát triển nông nghiệp chung nhận được sự tài trợ từ EU
để nâng cao trình độ nông nghiệp và phát triển nông thôn Hungary tiến kịp với
các nước thuộc Liên minh Châu Âu.
Nhờ vào những chính sách chuyển đổi trên mà nền nông nghiệp Hungary đã
có những bước phát triển vượt bậc, cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi theo hướng
tiến bộ. Đến năm 2009, thu nhập của người dân và của nông dân Hungary đạt
xấp xỉ 2/3 thu nhập trung bình của các nước thuộc Liên minh Châu Âu.
b. Kinh nghiệm của Hà Lan về phát triển nông nghiệp hội nhập vào thị
trường nông sản toàn cầu
Hà Lan có diện tích đất đai tự nhiên là 41.543 km2, diện tích đất nông nghiệp là 23 ngàn km2, dân số là 16,7 triệu người (năm 2010). Năm 2010, GDP đạt
770,3 tỷ USD, nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 2,6%, công nghiệp 24,9%, và dịch vụ 72,4%6. Nền nông nghiệp Hà Lan là nền nông nghiệp dựa
vào trang trại gia đình là chủ yếu nhưng được đánh giá là nền nông nghiệp có
hiệu suất cao hơn hẳn các nền nông nghiệp của Nhật Bản, Mỹ và Pháp, và người
Hà Lan rất tự hào về nền nông nghiệp của họ. Những kinh nghiệm phát triển
nông nghiệp để hội nhập vào thị trường nông sản toàn cầu của Hà Lan như sau
(Nguyễn Công Tạn, 2005) [79].
- Nền nông nghiệp Hà Lan dựa chủ yếu vào các trang trại gia đình đạt trình
độ chuyên môn hóa cao. Dù diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người
khoảng 0,058 ha (Việt Nam 0,109 ha) nhưng chuyên môn hoá cao độ là đặc
trưng nổi bật của các trang trại gia đình ở Hà Lan. Mở rộng quy mô trang trại dù
về trồng trọt hay chăn nuôi theo kinh nghiệm của Hà Lan, phải dựa vào ch uyên 6 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/nl.html.
69 môn hoá. Từ năm 2006, trang trại chuyên môn hoá chiếm tỉ trọng trên 92%, là
hiện tượng hiếm thấy trên thế giới (Statistical Yearbook of the Nethelands,
2007) [114].
- Trình độ chuyên môn hoá đã được cơ quan thống kê phân loại ngày càng
chi tiết. Chẳng hạn, ngành sản xuất rau – hoa – cây cảnh được chia thành loại
sản xuất trong nhà kính, loại sản xuất ngoài trời, sau đó lại chia ra ngành hoa,
rau, trồng trong chậu, vườn ươm,… Trong ngành hoa, lại chia ra các ngành hoa
cắt, chậu củ hoa. Nhiều nhà sản xuất hoa lại chuyên sâu 1 đến 2 loài hoa. Cách
làm này giúp họ nâng cao trình độ công nghệ, năng suất và chất lượng, có lợi
cho cơ giới hoá thao tác, thuận tiện cho việc quản lý, thu hái, phân loại, đóng
gói, bảo quản được thực thi theo yêu cầu tiêu chuẩn hoá, hạ giá thành sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh. Tốc độ phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp
Hà Lan được xếp vào những nước hàng đầu thế giới, đặc biệt là thành tựu tạo
giống và nhà kính, với phương thức đầu tư tập trung vốn và chất xám, theo
hướng đầu tư cao, thu nhập cao, và hiệu suất cao. Chính vì vậy mà hiệu suất sản
xuất của đất ở Hà Lan năm 1991 đạt 2,468 USD/ha, hiệu suất lao động đạt
44,339 USD/người; mức xuất khẩu đạt 18,570 USD/ha (không tính hàng thuỷ sản), tức là 1m2 đất tạo ra 1.86 USD, cao hơn hẳn các nước khác.
- Sản xuất nông nghiệp hướng đến thị trường xuất khẩu. Nền nông nghiệp
Hà Lan là một nền nông nghiệp tạo ra ngoại tệ. Tài nguyên thiên nhiên về nông
nghiệp của Hà Lan thiếu hụt. Đất ít lại trũng, thường xuyên bị uy hiếp của ngập
lụt, nhưng Hà Lan đã tìm tòi, tự khẳng định những lợi thế so sánh của chính
mình để phát triển nền nông nghiệp theo chiến lược của một nền nông nghiệp
hướng ra xuất khẩu. Ở Hà Lan, có loại sản phẩm có hệ số tự túc rất thấp như
lương thực chỉ 25%, ngược lại có loại rất dư thừa như thịt lợn 283%, thịt bò
160%, gà 221%, trứng gà 253%, pho mát 224%, bơ 153%, rau 256%, khoai tây
145%, đường 194%. (hệ số tự túc là tỷ số của sản lượng sản xuất so với nhu cầu nội địa ). Những năng lực dư thừa này đều tập trung vào xuất khẩu. Hà Lan có
70 chín mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới là hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu,
cà chua, khoai tây, hành tây, trứng gà vỏ, pho mát khô, sữa đặc, bia đại mạch,
bánh ca cao, dầu ca cao; và có ba mặt hàng đứng thứ hai thế giới là thịt lợn, sản
phẩm sôcôla, thuốc lá.
- Liên kết kinh tế để nâng cao năng lực cạnh tranh của các đơn vị sản xuất
và tiêu thụ nông sản. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp của Hà Lan là điển hình
của hình thức kinh doanh nông sản dựa trên nền tảng các trang trại gia đình
chuyên môn hóa. Các trang trại chuyên môn hoá dần dần chuyển thành trang trại
lớn hiện đại, sản xuất vì lợi nhuận, tạo nên dạng kinh tế tổ hợp "nông-công-
thương" (agribusiness hoặc agri complex), trong đó tế bào cấu thành những tổ
hợp này chính là những trang trại gia đình. Trong quá trình phát triển nền nông
nghiệp Hà Lan, tổ chức hợp tác xã và các hiệp hội ngành nghề của nông dân và
các tổ chức tín dụng nông thôn đã đóng góp vai trò quan trọng liên kết các trang
trại gia đình.
- "Kỳ tích" nền nông nghiệp Hà Lan có quan hệ trực tiếp đến vai trò của
Nhà nước thông qua các chính sách và thể chế đã làm giảm các khâu hành
chính, tăng hiệu suất quản lý. Những chính sách quan trọng giúp nông nghiệp
Hà Lan phát triển bền vững như: 1) Chính sách tích tụ đất và phát triển kinh tế
trang trại. 2) Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông
nghiệp. Nhà nước đầu tư các công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng, phát triển giao
thông để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp ổn định và đưa nông sản đến mọi
nơi trên thế giới. 3) Chính sách tài trợ sự nghiệp phát triển khoa học, giáo dục và
chuyển giao công nghệ. Hà Lan có nền giáo dục nông nghiệp rất phát triển, mục
tiêu của giáo dục nông nghiệp nhằm nâng cao tố chất nông dân, giúp họ nắm bắt
được tri thức và công nghệ; các thanh niên ở nông thôn bắt buộc phải học các
lớp chuyên nghiệp và các chủ trang trại phải có chứng chỉ về đào tạo chuyên
nghiệp. 4) Chính sách môi trường gắn với sản xuất nông nghiệp. Các nhà sản
xuất, thương mại phải công khai hoá các tiêu chí sản phẩm trên thị trường như
71 chứng chỉ "sản phẩm sinh thái" để nâng cao giá trị thương hiệu của mình và đảm
bảo chất lượng sản phẩm trước người tiêu dùng, thực hiện "trách nhiệm xã hội"
của doanh nghiệp.
Tóm lại, qua những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Hà Lan cho thấy
những phương hướng và nội dung phát triển nông nghiệp trong điều kiện hội
nhập luôn đặt trọng tâm vào sản phẩm, thị trường và mối liên kết kinh tế giữa
các chủ thể làm thế nào nông sản đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
c. Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển nông nghiệp trong hội nhập
kinh tế quốc tế và thực thi các cam kết gia nhập WTO
Trung Quốc có diện tích tự nhiên là 9.596.961 km2, dân số 1,33 tỷ người
(2010). Năm 2009, GDP đạt 5,745 ngàn tỷ USD, trong đó nông nghiệp chiếm
9,6%, công nghiệp 46,8% và dịch vụ 43,6%; lực lượng lao động có 819,5 triệu
người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 39,5%, lao động công nghiệp là 27,2% và lao động dịch vụ là 33,2% 7. Trước cải cách, nền kinh tế có cơ cấu
nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp, đa số dân cư sống ở nông thôn (trên
80%) và có tỷ lệ hộ nghèo cao. Từ sau năm 1970 mở cửa và cải cách kinh tế
hướng theo thị trường, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát
triển theo hướng hiện đại hóa và bền vững. Đến năm 2003, nông dân chiếm
khoảng 70% dân số, lực lượng lao động nông thôn có 490 triệu người, song chỉ
có khoảng 180 triệu người có việc làm ổn định, hơn 300 triệu người còn lại
trong tình trạng bán thất nghiệp do Trung Quốc gia nhập WTO, diện tích đất
canh tác bị thu hẹp để phát triển công nghiệp và đô thị (Hoàng Ngọc Hòa, 2008)
[29].
Với quyết tâm giảm thiểu các tác động tiêu cực từ việc gia nhập WTO, bảo
vệ quyền và lợi ích của người nghèo bằng các chính sách hỗ trợ phát triển nông
7 https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ch.html.
nghiệp, nông thôn sau.
72
- Triệt để cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện
đại và phát triển bền vững. Bảo đảm quyền tự chủ, phát huy tính tích cực của
nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu kinh tế, tách quyền sở hữu với quyền
sử dụng, cải cách theo hướng thị trường; xây dựng địa vị chủ thể của trang trại,
khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa; tôn trọng tinh thần sáng tạo của nông
dân, khoán chế độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương
trấn; kết hợp cải cách nông thôn với cải cách thành thị.
- Chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải tạo đất gieo trồng và giải
quyết vấn đề dôi dư lao động sao cho có hiệu quả. Kết hợp hài hòa kiểu kinh
doanh cần nhiều lao động phân bổ rộng khắp trên địa bàn nông thôn với kiểu
kinh doanh tập trung nhiều vốn và hàm lượng kỹ thuật; nhờ đó phân bổ tối ưu
nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp và từng bước xóa các mảnh ruộng manh
mún để tập trung sản xuất kinh doanh nông nghiệp với qui mô lớn, tạo tiền đề
cho việc đầu tư vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một nền nông nghiệp hàng hóa
hiệu quả, hiện đại và bền vững.
- Kết hợp đầu tư mạnh vào nông nghiệp với chính sách miễn giảm nhiều
khoản thuế, phí đối với nông nghiệp và nông dân. Đến năm 2006, Trung Quốc
đã miễn giảm toàn bộ thuế nông nghiệp cho nông dân trên cả nước. Đồng thời,
đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn kết hợp với chính
sách trợ cấp cho nông dân (khoảng 66,4 tỷ nhân dân tệ, tương đương 8 tỷ USD);
nhờ vậy, dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng kinh tế
Trung Quốc vẫn đạt tăng trưởng trên 6%.
- Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp tìm việc tại các thành phố.
Mỗi năm Trung Quốc có khoảng 8 triệu lao động nông thôn ra các thành phố tìm
việc, tiến hành sửa đổi các qui định thừa nhận tính pháp lý đối với nhà cửa và hộ
khẩu của những người có việc làm ổn định tại nơi mới đến; nông dân được
quyền hoạt động kinh doanh ở quê hay chuyển đến nơi khác vẫn được hưởng
các quyền lợi, nghĩa vụ bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.
73
Thực tế diễn ra sau những năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO cho thấy,
nông nghiệp, nông dân và nông thôn không lâm vào kịch bản u ám như nhiều
người dự đoán. Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu nhiều ngành hàng nông sản của
Trung Quốc đã gia tăng. Nhờ các chính sách ứng phó, hỗ trợ kịp thời và có hiệu
quả của Chính phủ, mà sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn tiếp tục
phát triển, cuộc sống của người dân được cải thiện; nhờ vậy tỷ lệ hộ nghèo chỉ
còn 2,8% (năm 2009).
d. Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp của một số quốc gia thuộc Cộng
đồng ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) có 10 quốc gia thành viên (chưa tính Đông Timo), diện tích tự nhiên khoảng 4.464.322 km2, dân số
ước lượng khoảng 577 triệu người. Năm 2008, GDP của khối này khoảng 1.505,7 tỷ USD, GDP đầu người bình quân là 2.609 USD8.
Các quốc gia trong Cộng đồng ASEAN có nhiều nét tương đồng với nhau
trên lĩnh vực nông nghiệp (trừ Singapore), với đa số dân cư sống tại nông thôn
và có nhiều nông sản được xuất khẩu đến các quốc gia khác trên thế giới. Hiện
nay, các quốc gia ASEAN vẫn coi phát triển nông nghiệp là giải pháp quan
trọng nhằm đối phó với những khó khăn của khủng hoảng kinh tế và chính sách
của các quốc gia này tập trung vào các nội dung: 1) đa dạng hóa sản xuất nông
nghiệp; 2) nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản; và 3)
nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hỗ trợ của nhà nước (Nguyễn Danh Sơn
và cộng sự, 2010) [73].
- Về chính sách đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp. Chính sách này được
chú trọng, vì 1) nông nghiệp là ngành ít bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế và
việc phục hồi và đa dạng hóa sẽ không mấy khó khăn về vốn và phương tiện sản
8 http://vi.wikipedia.org/wiki/HiephoicacquocgiaDongNamA.
xuất; 2) phục hồi và đa dạng hóa sản xuất sẽ giải quyết được tình trạng đói
74 nghèo và thiếu việc làm cho một bộ phận lao động ở đô thị bị mất việc làm quay
trở về nông thôn.
Tại Indonesia, trong kế hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2005-2009,
Chính phủ đã đề ra chương trình đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nông
nghiệp gồm nông, lâm, ngư nghiệp; khuyến khích chế biến các sản phẩm nông
nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao, phát triển các hoạt động sau thu hoạch. Các
chính sách này tác động tích cực lên 31 ngành hàng nông sản lớn là cây lương
thực, cây công nghiệp, cây rau quả và chăn nuôi.
Tại Malaysia, trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và 2006-2010, việc đa dạng
hóa được tập trung vào các hoạt động chế biến loại cây trồng có tiềm năng như
dầu cọ, cao su, hồ tiêu, gỗ,… Mở rộng qui mô của các ngành như đánh bắt hải
sản, ngành trồng hoa, cá cảnh, các loại thảo dược. Phát triển các mô hình nông –
lâm nghiệp kết hợp, phát triển chăn nuôi tại các đồn điền.
Tại Philippines, trong kế hoạch 2004-2010, mở rộng ít nhất 2 triệu ha đất
nông nghiệp mới với việc tạo ra 2 triệu việc làm mới trong nông nghiệp.
Tại Thái Lan, việc đa dạng hóa tập trung vào sản xuất và chế biến các nông
sản đem lại giá trị cao như gạo sạch (organic rice), thực phẩm an toàn, các hải
sản tươi sống và đóng hộp, các loại rau, hoa quả,… Phát triển giống cây trồng và
con vật nuôi mới cho năng suất cao và phát triển theo mô hình chuyên môn hóa
và cơ giới hóa nông nghiệp.
- Về chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu nông
sản. Thái Lan tập trung vào nâng cao chất lượng các nông sản được chế biến;
thực hiện việc kiểm soát tiêu chuẩn, vệ sinh, an toàn thực phẩm, thực hiện đăng
ký bản quyền và bằng sáng chế; đi đầu trong khu vực về sản xuất các sản phẩm
nông nghiệp sạch và an toàn và nhờ vậy nông sản Thái Lan có tính cạnh tranh
cao. Malaysia tập trung vào nâng cao năng suất, hạ chi phí sản xuất, thúc đẩy
xuất khẩu, Malaysia chủ trương nâng cao hiệu quả của hệ thống tiếp thị và đẩy
mạnh mạng lưới phát triển toàn cầu. Indonesia và Philippines có phần thấp kém
75 hơn, chủ yếu tập trung áp dụng các giống mới, đa dạng nông sản, tập trung vào
giảm tổn thất sau thu hoạch và từng bước xuất khẩu các nông sản có lợi thế.
- Về chính sách cải thiện và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hỗ trợ
của nhà nước. Phụ thuộc vào thể chế hội nhập khu vực và WTO mà các dịch vụ
hỗ trợ từ nhà nước của các quốc gia thuộc ASEAN tập trung vào các lĩnh vực
chủ yếu như: 1) Tăng cường đầu tư khoa học - công nghệ, nghiên cứu và triển
khai nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển nông nghiệp; 2) triển khai các chương
trình đào tạo và khuyến nông; 3) nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, cải thiện hệ
thống tưới tiêu; 4) hỗ trợ các hoạt động đầu vào, nhất là tín dụng; 5) phát triển
mạng lưới tiếp thị cho các sản phẩm nông nghiệp.
Như vậy, ở những mức độ khác nhau, các quốc gia ASEAN đều chú trọng
phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại; xây dựng các mối liên kết kinh tế
nhằm phát triển các ngành hàng nông sản có khả năng cạnh tranh cao; trong đó
vấn đề khoa học – công nghệ, đa dạng hóa và đặc biệt chú trọng đến công tác
chế biến và công nghệ sau thu hoạch, tăng năng suất lao động với mục đích tạo
ra nhiều giá trị giá tăng.
1.4.2. Kinh nghiệm trong nước
a. Kinh nghiệm phát triển vùng nguyên liệu mía của Tổng công ty cổ
phần Mía đường Lam Sơn
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, dân số có 3,67 triệu người; lao
động có khoảng 2,16 triệu người, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh. Có 24
huyện, 2 thị xã và 1 thành phố. Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn đã làm thay
đổi diện mạo về kinh tế xã hội của 11 huyện trung du miền núi và đóng góp rất
lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
Tiền thân của Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn là Nhà máy đường Lam
Sơn hoạt động từ tháng 11/1986 với công suất 1.500 tấn mía/ngày (TMN), năm
1993 nâng công suất lên 2.500 TMN; vào tháng 3/1999 xây dựng thêm nhà máy
mới với công suất 4000 TMN. Từ một nhà máy chế biến đường vàng mơ, vào
76 năm 1987, vùng mía nguyên liệu mới có gần 5.000 ha; nay đã có hai nhà máy,
công suất 7.000 tấn mía/ngày, làm ra mỗi năm 100-110 nghìn tấn đường kính
xuất khẩu và tiêu dùng. Một vùng mía nguyên liệu liên kết với nông dân 11
huyện trung du, miền núi 16.000 ha và lớn lao hơn là trong đó 35.000 lao động
trồng mía kéo theo 65.000 khẩu nông thôn. Rồi từ một nhà máy 350 cán bộ,
công nhân, nay trưởng thành một Tổng công ty quản lý điều hành 16 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong đó hàng nghìn lao động công nghiệp 9. Niên
vụ 1999-2000 nhiều nhà máy chế biến đường trên cả nước phải đóng cửa vì
thiếu nguyên liệu, thì doanh nghiệp chế biến đường Lam Sơn vẫn tiếp tục mở
rộng công suất, phát triển và kinh doanh có hiệu quả. Điều đó có được nhờ vào
chiến lược xây dựng vùng nguyên liệu mía ổn định tại các huyện và xã của tỉnh
Thanh Hóa.
Việc phát triển vùng nguyên liệu mía là một trong những nhân tố giúp cho
Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn xây dựng thành công chuỗi ngành hàng mía
đường tại tỉnh Thanh Hoa. Chính nhờ vai trò của công nghiệp chế biến đường
mà Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn đã liên kết được các nông hộ để hình
thành vùng nguyên liệu mía mà chưa có tỉnh nào trong nước làm được. Không
chỉ có vậy, chuỗi ngành hàng mía đường Lam Sơn còn hình thành được mối liên
kết dọc, kết nối những người sản xuất mía với các đối tác khác trên chuỗi, tạo
nên sự thịnh vượng cho cả một vùng nông thôn rộng lớn, giúp chính quyền địa
phương giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, và xóa đói giảm nghèo. Những
nghiên cứu cho thấy sự thành công này là nhờ vào những chiến lược mà Tổng
Công ty Mía đường Lam Sơn đã theo đuổi như sau (Nguyễn Từ, 2005) [90].
- Xây dựng “tam giác quan hệ” trong quá trình giải quyết nguyên liệu mía
cho nhà máy chế biến: 1) Nông hộ thấy rằng trồng mía đem lại nhiều lợi ích hơn
là trồng các nông sản khác; 2) sự ủng hộ của chính quyền địa phương và các tổ 9 Website: www.lasuco.com.vn của Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn
77 chức trong vùng luôn đi cùng với sự thành công của doanh nghiệp; 3) doanh
nghiệp tồn tại nhờ có vùng nguyên liệu ổn định.
- Doanh nghiệp không chờ hưởng lợi trên cây mía, mà chủ động cung cấp
vốn, phân bón, giống tốt, kỹ thuật để nông dân yên tâm trồng mía mà không sợ
rủi ro; đồng thời cử 60 cán bộ kỹ thuật bám sát vùng nguyên liệu, hỗ trợ trực
tiếp kỹ thuật trồng mía cho nông dân, cả các vùng dân tộc thiểu số.
- Thành lập Hiệp hội Mía đường Lam Sơn gồm có ba thành viên chủ chốt:
1) Ngân hàng; 2) các nông trường quốc doanh và nông dân trồng mía; 3) và
doanh nghiệp mía đường Lam Sơn. Lợi ích của người trồng mía cũng là lợi ích
của doanh nghiệp, và ngân hàng đã xây dựng được một thị trường tín dụng
không gì vững chắc hơn.
- Doanh nghiệp mía đường Lam Sơn là đối tác chủ yếu quyết định chuỗi
ngành hàng mía đường tại địa phương, như được thể hiện trong hình 1.4 (Quỹ
Hộ nông dân
5%
15%
80%
Hợp tác xã
Chủ hợp đồng
Thu gom cá nhân
100%
100%
100%
Tổng CT Mía đường Lam Sơn
20%
80%
100%
20%
80%
Bán buôn
Bán lẻ
Nhà máy chế biến thực phẩm
Người tiêu dùng
nghiên cứu ICARD-MISPA, 2004, tr. 37) [ 64].
Hình 1. 4: Kênh tiêu thụ mía đường ở Lam Sơn, Thanh Hóa
78
Tổng Công ty Mía đường Lam Sơn tiêu thụ toàn bộ số mía của vùng nguyên
liệu Lam Sơn, do không thể trực tiếp ký hợp đồng với 65.000 hộ trồng mía, nên
doanh nghiệp phải ký qua chủ hợp đồng là những trang trại có năng lực về tài
chính, kinh nghiệm, kiến thức và người mà các hộ nông dân nhỏ hơn tin tưởng
và hợp tác với chủ hợp đồng để cung cấp đơn hàng lớn hơn cho doanh nghiệp;
đối tác thu gom thứ hai cũng rất quan trong, đó là các hợp tác xã tiêu thụ nhưng
vai trò vẫn còn nhỏ bé so với chủ hợp đồng; còn các thu gom cá nhân là các đối
tác thu mua của các hộ trồng mía tại các vùng xa nhà máy chế biến, chủ yếu là
các vùng dân tộc. Qua kinh nghiệm phát triển vùng nguyên liệu mía tại tỉnh
Thanh Hóa cho thấy việc hình thành chuỗi ngành hàng nông sản, tạo nên các
mối liên kết ngang trong sản xuất nông nghiệp và hình thành mối liên kết dọc
giữa các đối tác đã đem lại nhiều lợi ích không chỉ đối với nông dân mà cả các
đối tác trên chuỗi; cả các đối tác cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, cũng như đem lại
những lợi ích cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện.
b. Liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để phát triển bền vững cây cà
phê ở tỉnh Đắk Lắk 10
Diện tích cà phê ở Ðắk Lắk hiện có khoảng 180.000 ha, sản lượng cà phê
nhân xô đạt khoảng 400.000 tấn/năm, trong đó diện tích, sản lượng do các hộ gia
đình quản lý chiếm gần 80%. Ðiều có ý nghĩa quyết định đến vấn đề chất lượng
của cà phê Ðắk Lắk là cung đoạn đầu (chăm sóc và thu hái). Ðể có năng suất
cao, lợi nhuận nhiều, một số người trồng cà phê ở Ðắk Lắk áp dụng những biện
pháp canh tác cực đoan, để lại hậu quả xấu cho môi trường và cho chính sự phát
triển của vườn cây, như chặt bỏ cây che mát, bón thật nhiều phân hóa học, phun
thật nhiều thuốc kích thích, thuốc bảo vệ thực vật... để đạt năng suất tối đa.
Còn khâu thu hái và chế biến nhiều hộ đã làm chất lượng cà phê không đạt,
10 Nguồn: www.nhandan.com.vn
như thu hái cà phê lúc cà phê chưa chín đầy đủ; chế biến khô theo cách phơi sân
79 đất hoặc xi-măng, sau đó xay xát. Cà phê chế biến theo kiểu này làm hạt nhân
teo tóp, sạm mầu, tỷ lệ hạt đen, vỡ và mốc nhiều nên giá bán bao giờ cũng thấp
hơn loại cà phê chín đều từ hai đến ba giá. Mặc dù, UBND tỉnh Ðắk Lắk có chỉ
thị cấm thu hái cà phê xanh. Song trên thực tế, người trồng cà phê vẫn bất chấp
các yêu cầu, khuyến cáo của nhà quản lý cũng như doanh nghiệp xuất khẩu.
Thời gian qua Công ty cà phê Thắng Lợi đã tổ chức liên kết các hộ sản xuất
lại với nhau (dưới hình thức tổ hợp tác) để sản xuất, thu hái, chế biến theo một
quy trình nghiêm ngặt.
Với 15 đội sản xuất, chăm sóc và quản lý hơn 2.000 ha cà phê trải rộng trên
địa bàn năm xã thuộc bốn huyện, thành phố (tỉnh Ðắk Lắk); cà phê của Công ty
luôn cho năng suất bình quân 3 tấn nhân/ha. Chất lượng cũng như giá bán, bao
giờ cũng cao hơn so với những vùng khác từ 1.000 đến 1.500 đồng/kg quả tươi.
Các hộ sản xuất được cán bộ kỹ thuật của Công ty hướng dẫn và áp dụng triệt để
quy trình nông học sạch và tiên tiến đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ thế mà thương
hiệu cà phê Thắng Lợi được khách hàng khó tính như Mitsubishi (Nhật Bản)
bao tiêu sản phẩm với giá luôn cao hơn giá thị trường từ 100-200 USD/tấn. Kể
cả những năm 2001-2003, khi cà phê rớt giá (chỉ còn 4 nghìn đồng/kg), người
trồng cà phê của Công ty Thắng Lợi cũng trụ vững nhờ tiêu chí chất lượng được
quan tâm hàng đầu.
Rõ ràng, hình thức liên kết này đem lại lợi ích cả cho người sản xuất, nhà chế
biến cà phê và nhà xuất khẩu. Ðây sẽ là một trong những định hướng chiến lược
kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam để giúp cho cây cà
phê Việt Nam nói chung và cây cà phê Ðắk Lắk nói riêng phát triển bền vững.
c. Dồn điền đổi thửa để chuyên canh mía ở xã Phổ Nhơn, huyện Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi 11
Phổ Nhơn là xã miền núi nằm về phía bắc huyện Đức Phổ, cách Nhà máy
đường Phổ Phong 7 km. Toàn xã có 1.692 hộ với 7.192 nhân khẩu. Đây là xã 11 Nguồn: http://baoquangngai.com.vn/
80 thuần nông, nhân dân trong xã có truyền thống trồng mía lâu đời, với diện tích
hàng năm từ 950-1.100 ha (kể cả mía rẫy).
Tuy nhiên trong những năm qua giá thành sản xuất mía vẫn còn cao, lợi
nhuận đạt thấp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do vùng
mía ở đây còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, đất mía xen kẽ với đất lúa và nhiều
cây trồng khác. Diện tích mía canh tác của từng hộ ít (bình quân từ 1000- 1500m2/hộ), tập quán sản xuất còn mang tính quảng canh; giao thông, thuỷ lợi
tưới, tiêu phục vụ cho đồng mía quá yếu kém. Đó là những nguyên nhân chính
gây trở ngại không thể triển khai áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất mía, dẫn đến vùng mía thiếu ổn định và năng suất mía thấp (từ 45-50 tấn/ha, chữ đường bình quân từ 9,50-10 ccs 12).
Xuất phát từ tình hình trên, năm 2007 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Quảng Ngãi và Công ty Đường Quảng Ngãi đã tham mưu cho UBND tỉnh
chọn xã Phổ Nhơn là 1 trong 3 xã trong tỉnh xây dựng mô hình HTX điểm
chuyên canh mía kết hợp chăn nuôi, nhằm thực hiện thí điểm việc dồn điền, đổi
thửa, sản xuất mía tập trung chuyên canh, đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.
HTX bắt đầu tiến hành thực hiện thí điểm việc dồn điền, đổi thửa để chuyên canh mía từ năm 2007, với tổng diện tích là 108.338 m2 (gồm có 135 thửa của
126 hộ xã viên tại đồng Miếu An Lợi, xã Phổ Nhơn).. Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa được 104.835 m2 (do trừ diện tích để sử dụng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi là 3.485 m2), được chia thành 14 lô (thửa) cho 14 nhóm hộ xã viên canh tác, bình quân mỗi lô là 7.489,5 m2.
Diện tích đất "bị mất" do sử dụng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng được chia
đều cho tất cả diện tích các hộ xã viên có tham gia dồn điền, đổi thửa cùng chịu (bình quân 17 m2/sào). Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa, diện tích đất canh tác tăng lên so với ban đầu gần 950 m2, do san lấp các ao, hố bom và bờ thửa, 12 Commercial Cane Sugar (percentage).
81 bờ lô trong vùng. Diện tích này đã được UBND xã cấp cho 2 hộ xã viên còn
thiếu đất sản xuất theo Nghị định 64/NĐ-CP.
Qua việc dồn điền, đổi thửa, xã viên đã có diện tích thửa đất lớn hơn so với
trước và thấy rất thuận tiện cho việc làm đất bằng cơ giới, có mương tưới,
mương tiêu phục vụ sản xuất, có đường giao thông nội đồng rộng 4 m chạy giữa
vùng nguyên liệu, rút ngắn cự ly vận chuyển mía bằng thủ công ở những điểm
xa nhất.
Sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa, năng suất mía đã tăng lên 92 tấn/ha,
chữ đường Nhà máy đường Phổ Phong mua tại ruộng đạt 10,50 ccs, doanh thu
tiền bán mía nguyên liệu và mía giống đạt 50 triệu đồng/ha.
Rút kinh nghiệm từ mô hình trên, năm 2008 HTX tiếp tục thực hiện dồn điền,
đổi thửa được 33,4 ha, năng suất thu hoạch bình quân đạt 83,5 tấn/ha. Năm 2009
thực hiện dồn điền đổi thửa được 69,342 ha, do ảnh hưởng hậu quả bão lụt nên
năng suất bình quân đạt 69,85 tấn/ha, chữ đường bình quân đạt 10,30 ccs. Tính
đến nay toàn HTX đã dồn điền, đổi thửa được 112,9 ha (hơn 90% diện tích đất
trồng mía) và đã làm được 5.943 m đường giao thông nội đồng, 9.428 m mương
tưới, tiêu.
Hiện nay, xã Phổ Nhơn đã hình thành được những cánh đồng chuyên canh
mía liên vùng, liên thửa, rộng lớn, có hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng khá
hoàn chỉnh, thuận tiện cho việc đưa cơ giới hoá vào nông nghiệp, nông thôn.
Những hộ chuyên canh mía đã thấy rõ ích lợi của việc dồn điền đổi thửa, nên
hầu hết đều tự nguyện vào HTX. Qua sản xuất chuyên canh mía, nhiều gia đình
trước đây đời sống còn khó khăn, thiếu thốn, nay đã có thu nhập khá từ cây mía.
Nhiều hộ đã có thu nhập hàng năm khoảng 200 triệu đồng từ việc làm mía ruộng
và mía rẫy.
82
1.4.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra
Từ những thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên thế giới và
trong nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về phát triển nông
nghiệp sau đây cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bài học thứ nhất, nông dân là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển sản
xuất nông nghiệp. Mọi hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đều gắn với
quyền tự chủ của người nông dân, cả quyền đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm
làm ra.
Bài học thứ hai, chỉ có nâng cao năng suất lao động mới thúc đẩy sản xuất
hàng hóa trong nông nghiệp.
Bài học thứ ba, chỉ có sản xuất nông nghiệp qui mô lớn bằng cách liên kết
ngang các nông hộ hoặc hình thành các trang trại lớn, và việc áp dụng nhanh các
tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp, đi liền với rút nhanh lao động ra
khỏi nông nghiệp bằng cách phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp tại nông
thôn, thì mới phát triển nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa.
Bài học thứ tư, đa dạng hóa nông sản, thúc đẩy công nghiệp chế biến nông
sản, và hình thành các ngành hàng nông sản mạnh thì mới phát triển nông
nghiệp ổn định và thúc đẩy xuất khẩu nông sản.
Bài học thứ năm, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế và khủng hoảng kinh tế; hơn nữa, ngành nông nghiệp là ngành chịu
nhiều rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh và thị trường. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn
vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp và nông thôn;
hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn và nông dân một cách đồng bộ thông qua các
chương trình mục tiêu có tính quốc gia và quốc tế.
Bài học thứ sáu, vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp rất lớn,
rất quyết định; nhất là việc ban hành các chính sách, thực hiện qui hoạch phát
triển nông nghiệp, kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào, chất lượng nông sản;
vừa hạn chế những rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp, đồng thời phát huy hết
83 khả năng của đất đai, năng lực của người nông dân và các đối tác khác trên
chuỗi ngành hàng nông sản.
1.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này luận án tiếp cận nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm nông
nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp); ngoài chức năng kinh tế, nông nghiệp còn
có chức năng xã hội và môi trường. Và với quan niệm phát triển luôn là quá
trình tự thân vận động bên trong mỗi sự vật làm cho nó có những bước chuyển
từ thấp đến cao; nên luận án cho rằng phát triển nông nghiệp là quá trình vận
động để nền nông nghiệp đi từ thủ công đến hiện đại, đi từ tự cung tự cấp đến
sản xuất hàng hóa và cao hơn là thương mại hóa; và xây dựng nền nông nghiệp
sạch, hữu cơ đang trở thành xu thế của phát triển nông nghiệp.
Luận án cũng đề xuất một cơ chế vận hành cho nền nông nghiệp Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Đó là 1) sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành
hàng nông sản nhằm phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; 2) sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng
nhằm tận dụng được lợi thế của qui mô và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa; và 3)
sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần thực hiện các nội dung của phát triển
bền vững quốc gia.
Từ những quan điểm trên, luận án đã xây dựng được các nội dung chủ yếu
của phát triển nông nghiệp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Đó là: 1)
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hợp lý và hiện đại. 2)
Khai thác hợp lý các vùng sinh thái nông nghiệp. 3) Phát triển chuyên môn hóa
và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp. 4) Phát triển tổ chức sản xuất và liên kết
kinh tế trong nông nghiệp. 5) Phát triển nền nông nghiệp có trình độ thâm canh
cao. 6) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng bộ và hiện
đại.
Luận án cũng đã nêu được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển nông
nghiệp gồm những nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế. Những kinh
84 nghiệm từ các nước trên thế giới và một số địa phương trong nước về phát triển
nông nghiệp là những cơ sở để luận án rút ra các bài học trong phát triển nông
nghiệp cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những nội dung của chương đã tổng kết được những cơ sở lý luận và thực
tiễn của phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay và những năm đến tại
Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu này sẽ là nền tảng để luận án thực hiện
việc phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam thời gian
qua.
85
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH
QUẢNG NAM
2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA TỈNH
QUẢNG NAM CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Quảng Nam là tỉnh ven biển Việt Nam, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Diện tích tự nhiên 10,406 ngàn km2 với 18 đơn vị hành chính gồm
hai thành phố, và 16 huyện; có 240 xã, phường và dân số 1,428 triệu người, có
cả miền núi, trung du, đồng bằng, đô thị, vùng cát ven biển và hải đảo. Những
nhân tố về tự nhiên và kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc phát triển nông
nghiệp của tỉnh Quảng Nam như sau.
2.1.1. Điều kiện về tự nhiên
a. Đặc điểm khí hậu
Quảng Nam nằm ở vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa mưa nhiều vào nửa
cuối mùa nóng, nửa đầu mùa lạnh ở Trung Bộ (Nguyễn Trọng Uyên, 1990, tr. 9) [93]. Nhiệt độ bình quân không chênh lệch nhiều, dao động ở mức từ 22oC đến 30oC, trong năm có thể xuất hiện một số ngày nắng nóng cao đến 40oC. Mưa
nhiều vào các tháng 10 và 11 và những tháng này thường xuất hiện những cơn lũ
trên các lưu vực sông Tam kỳ, Vu Gia và Thu Bồn. Những cơn lũ thường gây ra
thiệt hại về người và tài sản nhưng cũng đem lại những cánh đồng giàu phù sa
cho các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn. Những loại thời tiết bất lợi ở
vùng này là bão, mưa lớn, gió tây nam khô nóng, và sương muối. Mỗi năm có từ
3 đến 4 cơn bão và đi kèm là những cơn mưa lớn, hiện tượng gió tây nam khô
nóng ở Quảng Nam có cường độ thấp và số ngày xuất hiện ít hơn so với các tỉnh
phía Bắc miền Trung, sương muối ít xuất hiện và chỉ thường xuất hiện vào vụ
Đông Xuân khi những năm có thời tiết lạnh giá đột xuất.
86
Nhìn chung thời tiết tại Quảng Nam thuận lợi cho các cây trồng, vật nuôi.
Những hiện tượng bất lợi của thời tiết đều có xuất hiện nhưng không lớn, chỉ có
bão, mưa lớn kèm theo những cơn lũ ngày càng nhanh hơn và sức tàn phá lớn
Nhiệt độ
Giờ nắng, lượng mưa, độ ẩm
1.000
35
900
30
800
25
700
600
20
500
15
400
300
10
200
5
100
0
0
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 7
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12
Độ ẩm
Lượng mưa
Nhiệt độ
Giờ nắng
Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam, 2010
hơn vì rừng đầu nguồn bị tàn phá nhiều do đào đãi vàng, và phá rừng.
Hình 2.1: Các hiện tượng thời tiết tại Quảng Nam trong năm
b. Đặc điểm địa mạo, địa chất
Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông,
hình thành 3 vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và
ven biển; mặt khác các sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ,... đã chia nhỏ các lưu
vực và tạo nên những tiểu vùng sản xuất có những nét đặc thù riêng.
Vùng miền núi gồm 08 huyện phía tây của tỉnh, là vùng núi cao, đầu nguồn
các lưu vực sông, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhân dân sống
chủ yếu bằng sản xuất nông, lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu. Thế
mạnh của vùng là rừng, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc.
Vùng có các khu rừng đặc sản như sâm Ngọc Linh, quế Trà My, Phước Sơn, có
những khu vực đất đai thuận lợi cho phát triển cây cao su (Hiệp Đức), hồ tiêu
87 (Tiên Phước) và các cây công nghiệp dài ngày khác tạo điều kiện để hình thành
các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm. (Nam,
Bắc Trà My, Phước Sơn, Tiên Phước, Hiệp Đức, Đông Giang, Tây Giang, Nam
Giang).
Vùng Trung du với độ cao trung bình 100 m, địa hình đồi bát úp xen kẽ các
dải đồng bằng, thuộc miền tây các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Đại Lộc,
Quế Sơn... Nhân dân có truyền thống trồng lúa, màu, cây công nghiệp, chăn
nuôi, trồng rừng, khai thác khoáng sản nhỏ.
Vùng đồng bằng và ven biển có 2 dạng địa hình khác nhau:
- Vùng đồng bằng nhỏ, hẹp thuộc hạ lưu các sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ,
được phù sa bồi đắp hàng năm, nhân dân có truyền thống thâm canh lúa nước và
cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm.
- Vùng ven biển đa phần là đất cát, sản xuất chủ yếu là hoa màu, trồng rừng
chống cát bay, nuôi trồng và đánh bắt hải sản,... Trong quá trình công nghiệp
hoá thì vùng này có lợi thế về mặt bằng xây dựng thuận lợi, gần các sân bay, bến
cảng, các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và lưới điện quốc gia.
Hải đảo có Cù Lao Chàm cách Hội An 25 km là vùng sinh quyển biển có giá
trị cả về nguồn thủy sản, yến sào và du lịch.
Tình hình thổ nhưỡng Quảng Nam gồm 10 loại đất khác nhau: cồn cát và đất
cát ven biển, nhóm đất mặn, đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất dốc
tụ, đất bạc màu xói mòn trơ sỏi đá,... Quan trọng nhất là nhóm đất phù sa thuộc
hạ lưu các con sông thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau
đậu; nhóm đất đỏ vàng ở khu vực trung du, miền núi thích hợp với cây lâm
nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, cây dược liệu,... Nhìn chung, đất
đai phía Bắc Quảng Nam phì nhiêu hơn nhờ phù sa của sông Vu Gia – Thu Bồn,
càng về phía nam từ Quế Sơn trở vào đất xám bạc màu là chủ yếu.
88
c. Đặc điểm sử dụng đất đai
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 1.043.838 ha. Đất đã sử dụng là 735.689
ha vào các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, còn lại 308.149 ha là đất chưa sử
dụng gồm đất bằng, đất đồi núi chưa sử dụng còn lớn, vấn đề đặt ra là cần khai
thác để phủ xanh các vùng đất này một cách hợp lý và đạt hiệu quả. Tình hình
sử dụng đất thể hiện ở bảng 2.1. Thực trạng cơ cấu sử dụng đất trên cho thấy,
việc sử dụng đất hiện nay chủ yếu vào nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất rừng chiếm
51,5% diện tích, đất chưa sử dụng chiếm 29,5%, và đất sản xuất nông nghiệp
chiếm 11%.
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Quảng Nam
Đơn vị: ha
Tổng số %
Tổng diện tích 1.043.838 100
A. Đất đã sử dụng 735.689 70,5
I. Đất nông nghiệp 115.309 11,0
II. Đất lâm nghiệp 537.619 51,5
1. Đất có rừng tự nhiên 353.116 33,8
2. Đất có rừng trồng 184.503 17,7
III. Đất chuyên dùng 62.022 5,9
IV. Đất ở 20.739 2,0
1. Đất ở đô thị 2.426,30 0,2
2. Đất ở nông thôn 18.313 1,8
B. Đất chưa sử dụng 308.149 29,5
Trong đó: - Đất bằng chưa sử dụng 19.692 1,9
Nguồn: Sở Kế hoạch Đầu tư Quảng Nam, 2006 [65]
- Đất đồi núi chưa sử dụng 288.456 27,6
Trong đất sản xuất nông nghiệp, có 55.294 ha dùng vào trồng lúa, 30.723 ha
dùng sản xuất cây hàng năm, 24.597 ha dùng vào sản xuất cây lâu năm, và 572
89 ha đất đồng cỏ dùng trong chăn nuôi. Ngoài ra, có 3.398 ha mặt nước dùng trong
nuôi trồng thủy sản. Bình quân đất nông nghiệp không bao gồm đất rừng trồng ở
Quảng Nam chỉ có 0,41 ha/hộ nông nghiệp, thấp hơn đất nông nghiệp bình quân
cả nước (0,63 ha/hộ), để thấy rằng qui mô sản sản xuất của nông hộ ở Quảng
Nam rất nhỏ bé.
Đất lâm nghiệp có rừng chiếm phần lớn diện tích của Quảng Nam, 51,5%.
Năm 2008, độ che phủ của rừng đạt 43,5% (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Quảng Nam, 2008) [4], nhưng đa số là rừng nghèo và rừng trồng. Trong
đó, đất rừng sản xuất là 184.503 ha, rừng phòng hộ là 258.325 ha, và rừng đặc
dụng là 94.790 ha. Diện tích rừng tự nhiện tại tỉnh Quảng Nam còn khoảng 388.800 ha với trữ lượng gỗ khoảng 30 triệu m3 và 50 triệu cây tre nứa, trong đó
rừng giàu có khoảng 10.000 ha, phân bố chủ yếu ở các đỉnh núi cao, giao thông
đi lại khó khăn. Ngoài gỗ, rừng Quảng Nam còn có các loại lâm sản quí như
trầm, quế, sâm, trẩu, đặc biệt là song mây. Song mây có nhiều tại các rừng ở các
huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Phước Sơn, Đông Giang, Nam Giang, sản
lượng khai thác hàng năm khoảng 1500 tấn (Thái Thanh Hà, 2006, tr. 18) [28].
Song mây là lâm sản ngoài gỗ đã tạo ra nhiều công ăn việc làm tại Quảng Nam
và là mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu được các nước ưa chuộng.
d. Đặc điểm thủy văn, tài nguyên nước và biển
Hệ thống sông ngòi nằm trên địa phận tỉnh Quảng Nam có tổng chiều dài 900
km, trong đó có 337 km đã đưa vào khai thác, bao gồm các con sông chính.
Nguồn nước mặt lớn với diện tích lưu vực sông Vu Gia là 5.500 km2, Thu Bồn 3.350 km2, Tam Kỳ 800 km2, Cu Đê 400km2, Tuý Loan 300 km2, LiLi 280 km2. Lưu lượng dòng chảy bình quân sông Vu Gia 400 m3/s, Thu Bồn 200 m3/s, vào mùa kiệt lưu lượng sông Vu Gia ở mức 45 m3/s, Thu Bồn ở mức 28 m3/s; vào những năm có mưa lớn, lưu lượng dòng chảy của Vu Gia ở mức 7000 m3/s, Thu Bồn ở mức 5700 m3/s (Nguyễn Kim Ngọc, 2003, tr. 19) [48]. Chính nhờ
nguồn nước dồi dào mà Quảng Nam có điều kiện thuận lợi về cung cấp nước
90 cho phát triển sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác cũng như dân
sinh; hiện trên lưu vực hai sông Vu Gia Thu Bồn có 10 công trình thủy điện lớn
và 50 công trình thủy điện vừa và nhỏ, có khả năng cung cấp hơn 6 tỉ KWh/năm,
là tỉnh có tiềm năng thủy điện xếp thứ 4 ở Việt Nam (ADB, 2008, p.195) [100].
Quảng Nam có bờ biển dài trên 125 km và thềm lục địa rộng lớn, có nguồn
hải sản phong phú thuộc vùng biển Nam Trung bộ. Theo số liệu của Viện Quy
hoạch thủy sản thì vùng biển Nam Trung bộ có trữ lượng cá 42 vạn tấn, khả
năng đánh bắt hàng năm 20 vạn tấn, trữ lượng mực 7000 tấn, tôm biển 4000 tấn.
Trữ lượng hải sản không có ranh giới theo tỉnh và di chuyển giữa các tỉnh trong
vùng. Quảng Nam có điều kiện để phát triển ngành đánh bắt xa bờ. Bên cạnh
khai thác tiềm năng phát triển nghề khơi, Quảng Nam có tiềm năng nuôi trồng
thuỷ sản ở các hồ thủy điện, vùng ven sông, ven biển và ở đảo Cù Lao Chàm.
2.1.2. Điều kiện về kinh tế - xã hội
a. Về kinh tế
Sau 14 năm tái lập tỉnh (1997-2010) quy mô nền kinh tế tăng lên đáng kể và
có bước phát triển khá nhanh. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GDP) tăng liên
tục qua các năm, bình quân trong 14 năm tăng 11,05%, trong đó khu vực công
nghiệp - xây dựng tăng 18,7%; khu vực dịch vụ tăng 12,07%; nông, lâm, thủy sản
tăng 2,45%. Nhờ vậy, đến năm 2010 tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh tăng gấp 3,7
lần so năm 1997. Trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng gấp 8,7 lần; dịch
vụ gấp 4,3 lần; nông, lâm, thủy sản gấp 1,4 lần.
Quảng Nam có vị trí khá thuận lợi trong phát triển kinh tế, nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung, có hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ
Sơn, nằm trên trục đường du lịch “Con đường di sản miền Trung”, và hành lang
kinh tế Đông Tây (Đoàn Tranh, 2008) [83]. Quảng Nam là cầu nối giữa Đà
Nẵng và khu công nghiệp Dung Quất, có hai sân bay lớn và nhiều cảng biển lớn,
nếu cầu Cửa Đại nối bờ nam và bắc Hội An, và đường cao tốc Đà Nẵng nối liền
91 Dung Quất hoàn thành thì vấn đề giao thông và liên kết kinh tế giữa Quảng Nam
và các tỉnh trong khu vực càng thuận lợi; nhất là trong việc tận dụng hạ tầng và
phát triển thị trường tiêu thụ nông sản từ Quảng Nam đến các tỉnh lân cận.
Các hoạt động mua sắm hiện đại đã và đang phát triển mạnh tại các tỉnh miền
Trung; các hình thức mua sắm siêu thị đã dần thay đổi thói quen mua sắm của
người tiêu dùng; và nhu cầu thực phẩm sạch, thực phẩm chế biến sẵn đã trở
thành nhu cầu lớn và đòi hỏi việc sản xuất nông nghiệp cần phải thay đổi. Đây
cũng là cơ hội cho sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam. Tuy nhiên, công
nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát triển chậm và hiệu quả thấp, hầu hết
các cơ sở chế biến công nghệ trung bình và lạc hậu. Các dự án đầu tư vào chế
biến nông sản thực phẩm như Nhà máy Đường, Nhà máy Chế biến Nước Dứa,
Nhà máy Chế biến hạt Điều hoạt động kém hiệu quả, nguồn nguyên liệu khan
hiếm, và các nhà máy này đã phá sản hoặc đang trong tình trạng phá sản. Hiện
nay chỉ còn tồn tại các nhà máy chế biến thủy sản, nhà máy tinh bột sắn còn hoạt
động. Nói chung, công nghệ chế biến nông, lâm, thủy sản và các hoạt động
ngành hàng nông sản tại Quảng Nam còn nhỏ lẻ, lạc hậu, chưa có mối liên kết
chặt chẽ giữa các tổ chức kinh tế và nông dân.
Quảng Nam hiện tổng kết được có 70 làng nghề cần được bảo tồn và phát
triển (Sở Công Thương Quảng Nam, 2008) [22]. Trước đây, hoạt động làng
nghề gắn với lúc nông nhàn của sản xuất nông nghiệp và sử dụng các nguyên
liệu từ sản xuất nông nghiệp như như dệt vải, lụa, dệt chiếu, hàng thủ công mỹ
nghệ, mây tre, sản xuất nước mắm,… Ngày nay, làng nghề có xu hướng chuyên
môn hóa theo lao động và ngành nghề. Tuy nhiên, hoạt động làng nghề phát
triển sẽ thúc đẩy hoạt động du lịch, giúp chuyển đổi lao động và ngành nghề tại
nông thôn, và đây cũng là cơ hội tốt để tăng thu nhập của các hộ dân tại nông
thôn và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp với đời sống nông thôn
tại Quảng Nam.
92
b. Về thu nhập và tỷ lệ hộ nghèo
Năm 2010, so với cả nước, thì Quảng Nam có thu nhập bình quân đầu người
thuộc loại thấp, chỉ đạt 882 USD/người, thấp so với bình quân cả nước là 1169
USD. Tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao, 17%, cao nhất trong các tỉnh vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung và so với bình quân cả nước (10,6%). Nếu xét theo
huyện tại Quảng Nam, có 8 huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo rất cao, từ 50%
đến 70%.
c. Về dân số, dân tộc và dân cư
Năm 2010, dân số trung bình toàn tỉnh đạt 1.428.000 người, xếp thứ 18/63
tỉnh thành và thứ 2 ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung về quy mô dân số. Đa
số là dân tộc kinh chiếm 93% dân số, còn lại 7% là các đồng bào dân tộc, chủ
yếu sống ở 8 huyện miền núi. Dân số sống tại nông thôn vẫn còn chiếm rất cao,
81,2%, và lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm 59,1%. Quy mô dân số
của tỉnh lớn nhưng phân bố dân cư không đều chủ yếu tập trung ở những huyện
đồng bằng, ven biển; các huyện miền núi, trung du có mật độ dân cư thưa thớt
tập trung chủ yếu dọc theo đường lộ, ven suối.
d. Về hạ tầng nông thôn
Ngoài tuyến đường quốc lộ 1A, 14B, 14E, 14D, đường Hồ Chí Minh, đường
cao tốc Đà Nẵng – Dung Quất. Nội tỉnh có 6.355 km đường bộ, mật độ đường 0,61 km/km2 và 4,4 km/1000 dân; trong đó có 2.299,6 km đường nhựa, bê tông
xi măng, 347,6 km đường cấp phối và 3.708 km đường đất. Hiện có 93,3% số xã
có đường ô tô đến trung tâm xã, 74% số xã có đường liên thôn được bê tông; số
xã có đường liên thôn được bê tông hóa từ 50% trở lên đạt 40,7% (cả nước là
42,6%) (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam, 2009) [3]. Về
đường sông, trên địa bàn tỉnh có khoảng 941 km sông ngoài tự nhiên, hiện đang
quản lý và khai thác 313 km trên 11 sông chính.
93
Về thủy lợi, toàn tỉnh có 73 hồ chứa, 728 đập dâng và 230 trạm bơm điện với
tổng năng lực tưới trên 71 ngàn ha lúa và 12 ngàn ha màu. Hệ thống kênh thủy lợi
được thường xuyên nâng cấp sửa chữa, bê tông hóa, đáp ứng tưới tiêu khoảng 90%
diện tích lúa nước vùng trung du và đồng bằng.
Đến năm 2010, có 94% số xã có điện lưới, các xã còn lại sử dụng điện tại chỗ
bằng nguồn máy phát diesel, thủy điện nhỏ, điện mặt trời và hiện có 97% số hộ dân
tại nông thôn có điện; 97% số xã có điện thoại tại trụ sở xã, 82% số xã có điểm bưu
điện văn hóa ; 98% số xã có trạm y tế xã; 8,3% số xã có trường trung học phổ thông,
87,07% số xã có trường trung học cơ sở, 100% số xã có trường tiểu học và 82% số
xã có trường mẫu giáo.
Trong bối cảnh một tỉnh có xuất phát điểm kinh tế thấp, thuần nông và tỷ
lệ hộ nghèo cao, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, bên cạnh đó các tác động bất
lợi diễn biến khủng hoảng kinh tế những năm 1997-1999 và năm 2007-2008,
và thiên tai thường xuyên xảy ra. Sau 14 năm tái lập tỉnh, Quảng Nam đã nỗ
lực vượt khó đạt được những thành tựu rất quan trọng, nền kinh tế đạt mức độ
tăng trưởng nhanh, hầu hết các ngành, các lĩnh vực chủ yếu đều thu được những
kết quả vượt trội so với mục tiêu kế hoạch đề ra; cơ sở hạ tầng và dịch vụ được
tăng cường, sự nghiệp văn hoá, giáo dục và y tế có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ và nhiều mặt mất cân đối; đời sống
đại bộ phận dân cư khu vực nông thôn, miền núi còn khó khăn; chất lượng tăng
trưởng thấp. Việc nghiên cứu thực trạng sản xuất nông nghiệp Quảng Nam qua
xem xét các nội dung liên quan đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
phát triển các vùng sinh thái nông nghiệp, thực hiện chuyên môn hóa, tập rung hóa
sản xuất nông nghiệp, ttổ chức sản xuất trong nông nghiệp và liên kết kinh tế, xây
dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp; đồng thời, đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của
nông nghiệp Quảng Nam những năm qua. Từ đó, tìm hiểu những nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng tăng trưởng của nông nghiệp tại Quảng Nam, làm cơ sở để
94 đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam giai đoạn 2011-
2020.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH QUẢNG
NAM
Nghị quyết của tỉnh Quảng Nam, đến năm 2020 sẽ xây dựng Quảng Nam trở
thành tỉnh công nghiệp. Đây là xu thế, tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng với
81,2% dân số sống tại nông thôn, với 51,5% là đất rừng, 11% đất sản xuất nông
nghiệp, và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 21,2% (năm 2010),
Quảng Nam vẫn đang là tỉnh thuần nông. Việc tiến hành công nghiệp hóa của
tỉnh Quảng Nam không thể nằm ngoài xu thế phát triển của vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung, quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt nam và đặc biệt không
thể thoát ly từ nông nghiệp.
Muốn phát triển phải thoát nghèo và nâng cao thu nhập, đa số dân số Quảng
Nam là nông dân và họ cũng là những người nghèo nhất. Quảng Nam không thể
phát triển và tiến hành công nghiệp hóa thành công nếu không làm cho khu vực
nông nghiệp giàu lên. Việc nghiên cứu thực trạng phát triển nông nghiệp của
tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua sẽ không nằm ngoài những nội dung cơ bản
của phát triển nông nghiệp Việt Nam và những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội
của tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy khi phân tích thực trạng phát triển nông
nghiệp Quảng Nam sẽ gồm các nội dung cơ bản sau.
2.2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm qua đã có sự
chuyển dịch không theo hướng tiến bộ vì quá trình dịch chuyển này không làm
cho năng suất lao động xã hội của ngành nông nghiệp tăng lên so với ngành
công nghiệp và dịch vụ. Điều đó được thể hiện như sau: Tỷ trọng nông nghiệp
năm 1996 là 50,0% GDP giảm xuống còn 21,2% GDP vào năm 2010; tương ứng
95 thời gian này, công nghiệp đã tăng từ 18,6% lên 39,8%; và dịch vụ đã tăng từ
31,4% lên 39,1%.
Hình 2.2: Năng suất lao động xã hội của ngành công nghiệp và dịch vụ so
với nông nghiệp tại Quảng Nam, cả nước và Hà Lan (tính cho năm 1996 và
2010)
Năm 2010, lao động nông nghiệp chiếm 59,1%, tương ứng chiếm 21,2%
GDP; trong khi lao động ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 40,9% nhưng
chiếm đến 78,8% GDP. Điều đó chứng tỏ năng suất lao động xã hội trong ngành
công nghiệp và dịch vụ so với ngành nông nghiệp gấp (78,8/40,9):(21,2/59,1) =
5,38 lần; so với toàn quốc, tỷ lệ này là (79,4/51,8): (20,58/48,2) = 3,59 lần; so
với Hà Lan là đất nước có nền nông nghiệp phát triển, thì tỷ lệ này là
(98/97)/(2/3) = 1,52 lần (OECD, 2008, tr. 9) [111].
Tương tự với cách xác định trên, năm 1996, năng suất lao động xã hội trong
ngành công nghiệp và dịch vụ so với ngành nông nghiệp gấp 4,0 lần, so với toàn
quốc là 6,55 lần. Hình 2.2 cho thấy năng suất lao động xã hội của ngành nông
96 nghiệp của Quảng Nam giảm xuống trong giai đoạn 1996-2010, trong khi nông
nghiệp cả nước có năng suất lao động xã hội gia tăng theo hướng tiến bộ hơn.
Điều này do lao động nông nghiệp ở Quảng Nam dịch chuyển sang các ngành
chậm hơn so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
b. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông - lâm - thủy sản
Năm 1996, trồng trọt chiếm tỷ trọng 56,6%, chăn nuôi 17,7%, lâm nghiệp
10,5%, và thủy sản 15,3%; đến năm 2010, trồng trọt chiếm tỷ trọng 46,0%,
chăn nuôi 18,4%, lâm nghiệp 6,3%, và thủy sản 29,2% (xem bảng 2.2). Giá trị
sản xuất của ngành nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) vẫn còn chiếm tỷ
trọng lớn trong ngành nông, lâm, thủy sản ở Quảng Nam, nên Quảng Nam
vẫn đang là tỉnh nông nghiệp thuần túy.
1996 2000 2005 2006
2007
2008
2009
2010
CƠ CẤU NỀN KINH TẾ (%)
Nông nghiệp
50,0
41,5
31,0
29,0
26,1
25.8
23.0
21.2
18,6
25,3
34,0
35,5
37,9
37.3
38.6
39.8
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
31,4
33,2
35,0
35,5
36,0
36.9
38.4
39.1
CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CỦA CÁC TIỂU NGÀNH NÔNG NGHIỆP (%)
+ Trồng trọt
56,6
52,2 47,1
48,6
50,0
50,2 47.7
46.0
+ Chăn nuôi
17,7 19,2 20,8
20,2
19,4
19,8
18.9
18.4
+ Lâm nghiệp
10,5
8,5
6,9
7,0
6,6
5,7
6.0
6.3
15,3 20,1 25,2
23,9
24,3
27.3
29.2
+ Thủy sản 24,2 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)
Bảng 2.2: Cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu giá trị sản xuất của các tiểu ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2010
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi vì ảnh hưởng của dịch bệnh mà có xu
hướng giảm, trong khi ngành lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng gia tăng trở lại
do ngành trồng rừng phát triển. Ngoài ra, thực hiện chính sách của tỉnh cho phép
chuyển đổi các ruộng năng suất thấp dọc các xã vùng cát thuộc các huyện Điện
Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành sang nuôi tôm nước mặn và nước lợ.
97 Nếu xét về hiệu quả thì sự chuyển dịch này nhằm khai thác được tiềm năng đất
đai và lợi thế vùng, vì ngành trồng trọt thu về 38,45 triệu đồng/ha, trong khi nuôi trồng thủy sản thu được đến 175,5 triệu đồng/ha13.
c. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt
Năm 2001, giá trị sản xuất cây lương thực chiếm tỷ trọng 73,4%, rau đậu
7,8%, cây công nghiệp hàng năm 9,2% và cây công nghiệp lâu năm 2,4%, cây
ăn quả 3,0%; đến năm 2010, tỷ trọng cây lương thực chiếm 68,4%, rau đậu
11,0%, cây công nghiệp hàng năm 7,9% và cây công nghiệp lâu năm 4,6%, cây
ăn quả 5,0% (xem bảng 2.3). Cây lương thực có xu hướng giảm; các cây rau
đậu, cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm có xu hướng tăng, nhất là cây rau,
đậu phát triển khá nhanh nhờ vào tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng.
Bảng 2.3: Cơ cấu (%) cây trồng tại tỉnh Quảng Nam
2001
2010
Loại cây
%
%
%
%
Giá trị SX (106 đồng)
Diện tích (ha)
Giá trị SX (106 đồng)
Diện tích (ha)
Tổng số
1.340.185 100 166.740 100
4.535.801 100 175.395
100
Cây lương thực
819.001 61,1 122.449 73,4
2.225.102 49,1 119.930
68,4
Rau đậu
196.000 14,6
13.086 7,8
1.043.387 23,0
19.220
11,0
109086
8,1
15.388 9,2
388.778
8,6
13.783
7,9
Cây công nghiệp hàng năm
Cây CN lâu năm
21.854
1,6
4.000 2,4
83.355
1,8
8.125
4,6
4.981 3,0
9,4
353.956
7,8
8.782
5,0
126.439 Cây ăn quả (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)
Đối với cây lương thực gồm cây có hạt và cây cho bột cũng dịch chuyển khá
tích cực. Trong giai đoạn 2001-2010, diện tích cây lúa hầu như không biến đổi
nhiều; nhưng cây ngô phát triển mạnh đã tăng diện tích từ 9.665 ha (8,9%) lên
13.117 ha (10,9%) do chăn nuôi phát triển; đặc biệt cây sắn cũng tăng rất nhanh
13 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
về diện tích nhờ vào công nghiệp chế biến sắn phát triển. Cây khoai có xu hướng
98 giảm diện tích do đầu ra hạn chế vì chủ yếu bán sản phẩm tươi hoặc chế biến thô
(bảng 2.4).
2001
2005
2010
Loại cây
Ha
%
Ha
%
Ha
%
Bảng 2. 4: Cơ cấu cây lương thực tại Quảng Nam theo diện tích gieo trồng
Tổng số
122.449
118.210
119.930
- Lúa
89.012
72.7
84.324
71.3
85.323
71.1
- Ngô
9.665
7.9
10.568
8.9
13.117
10.9
- Khoai
10.882
8.9
9.219
7.8
6.590
5.5
- Sắn
11.475
9.4
13.241
11.2
14.200
11.8
0.7
700
0.6
1.415
1.2
858 - Khác (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)
Đối với cây công nghiệp hàng năm, giai đoạn 2001-2010, một số cây có giá
trị cao như cây lạc tăng diện tích từ 8.589 ha (chiếm55,6% đất cây công nghiệp
hàng năm) lên 10.785 ha, chiếm 74,6% đất cây công nghiệp hàng năm. Riêng
cây mía giảm nhanh do Nhà máy Đường Quảng Nam phá sản; cây bông tăng
nhanh từ năm 2005, chiếm 9,2% diện tích, thì đến năm 2010 chỉ còn 1,1%; cây
thuốc lá có xu hướng giảm dần diện tích, từ 994 ha năm 2001, xuống còn 510 ha
năm 2010 (xem bảng 2.5).
2001
2005
2010
%
%
%
Ha 15.388 8.589 994 3.479 36
55.8 6.5 22.6 0.2
60.2 4.5 9.2 9.2
Ha 13.785 10.290 510 475 150
74.6 3.7 3.4 1.1
Bảng 2. 5: Cơ cấu cây công nghiệp hàng năm theo diện tích gieo trồng
Tổng số - Lạc - Thuốc lá - Mía - Bông
Ha 14.899 8.962 665 1.364 1.370 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)
Đối với cây công nghiệp lâu năm, giai đoạn 2001-2010, chuyển dịch theo
hướng tăng diện tích cây cao su, còn các cây chè, hồ tiêu, dừa và điều liên tục
giảm diện tích (xem bảng 2.6).
99
2001
2005
2010
Bảng 2.6: Cơ cấu cây công nghiệp dài ngày theo diện tích gieo trồng
Loại cây
Ha
Ha 4.000 1.330 1.131 70 744 725
% 100,0 33.3 28.3 1.8 18.6 18.1
% 100,0 8.6 46.9 4.7 9.0 30.8
8.294 469 5.977 390 174 1.284
% 100,0 5.7 72.1 4.7 2.1 15.5
Ha 5.418 Tổng cộng 466 Chè 2.542 Cao su 254 Hồ Tiêu 489 Dừa Điều 1.667 (Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010)
Tóm lại, những năm qua việc chuyển dịch các cây trồng theo hướng 1) gia
tăng các cây trồng có giá trị cao và đem lại lợi nhuận cho nông hộ; 2) gia tăng
các cây trồng phù hợp với mỗi vùng sinh thái như cây rau đậu, cây công nghiệp
ngắn ngày có giá trị cao tăng nhanh tại các vùng đất phù sa dọc theo sông Vu
Gia, Thu Bồn và sông Tam Kỳ, cây cao su thích hợp với đất tại huyện Hiệp
Đức, Núi Thành, Thăng Bình, cây ăn quả phát triển mạnh tại các huyện Đại Lộc,
Tiên Phước, Nam Giang; 3) cây trồng phát triển nhờ vào công nghiệp chế biến
như cây sắn phát triển nhanh nhờ vào công nghiệp chế biến sắn phát triển, trong
khi cây mía giảm rất nhanh vì không có công nghiệp chế biến.
Tuy nhiên, cây lương thực, đặc biệt cây lúa vẫn duy trì diện tích và gia tăng
sản lượng, có nhiều lý do nhưng tập trung vào các lý do chính sau: 1) cây lương
thực vẫn được duy trì nhằm đảm bảo vấn đề an ninh lương thực; nhất là tại 8
huyện miền núi của Quảng Nam; 2) nhiều vùng cây lúa đã gia tăng sản lượng
hàng hóa nhờ vào năng suất cao như tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn và các vùng
này đa số các hộ làm ăn giỏi đã liên kết lại để sản xuất lúa giống cho giá trị kinh
tế gấp 1,5 lần so với lúa thịt; 3) tâm lý sợ rủi ro khi chuyển đổi cây trồng vẫn
còn tồn tại trong đa số nông hộ.
Giao thông và hoạt động thương mại phát triển làm cho sản xuất nhằm đảm
bảo an ninh lương thực không còn là mục tiêu chủ yếu nữa; mà mục tiêu của
tỉnh Quảng Nam là chuyển dịch từ sản xuất các cây lương thực có giá trị thấp
sang các cây trồng có giá trị cao hơn. Giá trị sản xuất bình quân 1 ha trồng trọt
100 là 38,43 triệu đồng; trong đó, cây lương thực là 14,6 triệu đồng, cây rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày là 43,3 triệu đồng14; và lợi nhuận từ trồng lúa chỉ 3,8
triệu đồng/ha, trong khi trồng cà tím, dưa leo, rau muống có thể cho lợi nhuận
ròng từ 9 triệu đồng đến 13 triệu đồng/ha (Nguyễn Tấn Cư, 2004, tr. 46) [15].
Nên những năm đến, ngành trồng trọt của Quảng Nam cần dịch chuyển theo
hướng gia tăng sản xuất hàng hóa và gắn với hiệu quả kinh tế.
d. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành chăn nuôi
Những năm qua, ngành chăn nuôi tại Quảng Nam phát triển không ổn định,
năm 2005, cơ cấu giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi chiếm 20,8%, thì đến
năm 2010 giảm xuống còn 18,4%. Trong nội ngành chăn nuôi, đã có sự dịch
chuyển đáng kể giữa gia súc và gia cầm; trong khi, cơ cấu giá trị sản xuất của
ngành gia súc đã tăng từ 68,84% năm 2000 lên 82,66% vào năm 2010; ngược
lại, gia cầm đã giảm từ 16,34% xuống còn 11,07% tương ứng cùng kỳ; sản
phẩm không qua giết thịt cũng không tăng do kế hoạch nuôi bò sữa của Quảng
Nam không thành công (xem bảng 2.7).
Bảng 2.7: Giá trị sản xuất và cơ cấu ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam giai
Năm
Tổng số
Gia súc
Gia cầm
Sản phẩm không qua giết thịt
GIÁ TRỊ SẢN XUẤT (Triệu đồng)
2000
490.790
337.883
80.208
35.457
2005
817.425
666.034
76.786
37.819
2010
1.808.246
1.494.646
200.093
75.535
CƠ CẤU (%)
2000
100,0
68,84
16,34
7,22
2005
100,0
81,48
9,39
4,63
2010
100,0
82,66
11,07
4,18
Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010
14 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
đoạn 2000-2010
101
Đối với cơ cấu đàn gia súc, gia cầm cũng biến động, năm 2004, đàn trâu có
59,3 ngàn con, đàn bò có 177,6 ngàn con, đàn lợn có 558,8 ngàn con, gia cầm có
4.082 ngàn con; đến năm 2010, đàn trâu có 79,7 ngàn con, đàn bò có 210,5 ngàn
con, đàn lợn có 590,3 ngàn con, gia cầm có 3.655 ngàn con (xem bảng 2.8).
Bảng 2.8: Đàn gia súc, gia cầm và các sản phẩm ngành chăn nuôi tại Quảng
Trâu
Bò
Lợn
Gia cầm
Con
Con
Con
Con
Chỉ số PT (%)
Chỉ số PT (%)
Chỉ số PT (%)
Chỉ số PT (%)
2004
59.274
100,0 177.626
100,0 555.812
100,0 4.082.240
100,0
2005
68.087
114.9 197.009
110.9 576.470
103.7 3.922.589
96.1
2006
78.977
116.0 233.678
118.6 587.875
102.0 3.526.569
89.9
2007
81.693
103.4 239.726
102.6 578.690
98.4 3.361.127
95.3
2008
81.167
99.4 228.340
95.3 586.312
101.3 3.410.374
101.5
2009
79.538
98.0 210.287
92.1 578.580
98.7 3,531.008
103.5
2010
79.700
100.2 210.500
100.1 590.300
102.0 3.655.000
103.5
Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010 (ghi chú: Chỉ số phát triển (PT)
được tính so với năm trước)
Nam 2004-2010
Việc ngành chăn nuôi không nâng được giá trị sản xuất và đầu gia súc, gia
cầm luôn biến động, vì: 1) ngành chăn nuôi luôn đối diện với dịch bệnh; 2) công
nghiệp chế biến súc sản không phát triển; 3) chưa có giải pháp giải quyết vấn đề
môi trường trong chăn nuôi; 4) ngành chăn nuôi bán công nghiệp và công
nghiệp chưa phát triển; 5) hoạt động thú y kém phát triển. Chăn nuôi gia súc, gia
cầm vẫn là ngành lợi thế của Quảng Nam, nhất là các huyện đồng bằng và trung
du như Đại Lộc, Điện bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Núi
Thành và 8 huyện miền núi Quảng Nam (Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn,
Tiên Phước, Hiệp Đức, Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang).
102
Những năm qua, tại Quảng Nam vẫn có nhiều địa phương thành công trong
chăn nuôi như xã Điện Quảng, huyện Điện Bàn đã nâng đàn bò Sind hóa lên
95%, trong khi cả tỉnh chỉ có 24%. Nông dân ở đây thực hiện chăn nuôi bán
công nghiệp kết hợp với xử lý môi trường bằng hầm bioga đã tăng nhiều lợi ích
cho nông hộ. Nhờ vậy, diện tích đồng cỏ ở xã phát triển lên đến 140 ha (Lưu
Hoàng Vĩnh, 2010, tr. 15) [[95]. Và Điện Quang cũng là xã áp dụng mô hình
bảo hiểm trâu, bò kết hợp với hoạt động thú y, nhờ vậy mà những năm qua xã
này chưa xảy ra dịch lỡ mồm long móng trên đàn giá súc.
e. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Về giá trị sản xuất, năm 2001 ngành thủy sản đạt 577,2 tỷ đồng thì đến năm
2010 đạt được 2.213 tỷ đồng tăng 3,8 lần. Trong đó, cơ cấu sản lượng ngành
khai thác vẫn chiếm tỷ trọng cao so với ngành nuôi trồng, năm 2001 ngành khai
thác chiếm 91,6% tổng sản lượng thì đến năm 2010 vẫn còn chiếm đến 73,6%.
Điều này là bất lợi cho đầu vào nguyên liệu của ngành chế biến thủy sản, vì
ngành khai thác phụ thuộc vào thời tiết trên biển, nhất là khi mùa mưa bão ở
miền Trung luôn là thảm họa cho tàu thuyền ra khơi.
2001
2010
%
%
%
%
Giá trị SX (106 đồng)
Sản lượng (tấn)
Giá trị SX (106 đồng)
Sản lượng (tấn)
Bảng 2. 9: Cơ cấu ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản
Tổng số
577.246 100,0
43.350
100,0 2.213.013 100,0 75.941
100,0
1. Khai thác
384.586
66,6
39.719
91,6 1.549.725
70,0 55.875
73,6
169.569
3.631
29,4
8,4
647.071
29,2 20.066
26,4
2. Nuôi trồng thủy sản Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010
Về diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản nước lợi và nước ngọt cũng có
những dịch chuyển theo hướng tăng diện tích nuôi trồng và gia tăng sản lượng.
Năm 2001, diện tích nuôi tôm nước lợ và mặn là 1.950 ha, thì đến năm 2010
tăng lên 2.233 ha; trong khi đó, nuôi cá nước ngọt do ít bị dịch bệnh hơn nên
103 diện tích tăng rất nhanh; năm 2001 chỉ có 3.422 ha, thì đến năm 2010 đã tăng
lên 5.095 ha. Trong giai đoạn này, diện tích mặt nước lợ và mặn tăng 1,14 lần,
nước ngọt tăng 1,49 lần; nhưng sản lượng thủy sản nước lợ và mặn tăng 5,18 lần
(12.455/2.405) và sản lượng nước ngọt tăng 6,21 lần (7.611/1.226) (bảng 2.10).
2001
2010
%
%
%
%
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng (tấn) 3.631 100,0
5.372
100,0 20.066
100,0
7.328
100,0
2.405
66,2
1.950
36,3 12.455
62,1
2.233
30,5
Bảng 2.10: Sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản
Tổng số 1. Nước mặn và lợ + Tôm
2.350
64,7
1.950
36,3 12.000
59,8
1.900
25,9
+ Thủy sản khác
55
1,5
0,0
455
2,3
333
4,5
2. Nước ngọt + Cá
1.226 1.153
33,8 31,8
3.422 3.420
63,7 63,7
7.611 7.500
37,9 37,4
5.,095 5.060
69,5 69,1
111
0,6
35
0,5
2,0
2
0,0 73 + Thủy sản khác Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010
Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã tập trung chuyển dịch theo hướng nuôi
trồng thủy sản cả nước ngọt, nước lợ và mặn để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho
chế biến, điều đó dựa vào điều kiện tự nhiên và mặt nước nuôi trồng thủy sản
hiện có tại Quảng Nam. Tuy nhiên, so với các tỉnh miền Trung, việc khai thác
lợi thế trong khai thác, đánh bắt hải sản của Quảng Nam còn yếu, nhất là về đầu
tư số lượng tàu thuyền, công suất tàu thuyền tỉnh Quảng Nam thấp hơn tỉnh Quảng Ngãi 4,7 lần, Bình Định 6,4 lần và Khánh Hòa 2,83 lần15. Sản lượng thủy
sản nuôi trồng gia tăng, nhưng còn một số tồn tại mà ngành nuôi trồng đang gặp
phải: 1) hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản chưa phát triển nên dịch bệnh
hay lây lan giữa các đầm nuôi tôm; 2) ô nhiễm môi trường từ các khu công
nghiệp, nhất là dọc sông Trường Giang; 3) việc nạo vét và chuyển sông Trường
Giang sang hoạt động giao thông và du lịch sẽ thu hẹp đáng kể diện tích nước lợ
nuôi thủy sản trong tương lai. 15 Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2010.
104
f. Chuyển dịch cơ cấu trong ngành lâm nghiệp
Những năm qua, ngành lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam chuyển dịch theo xu
hướng sau: 1) Năm 1996, giá trị sản xuất lâm nghiệp có cơ cấu 10,5% thì đến
năm 2010 chỉ còn 6,3%, xu hướng này phù hợp với chính sách đóng cửa rừng hiện nay; 2) khối lượng gỗ khai thác năm 2000 là 69.119 m3 thì đến năm 2010 khai thác được 187.385 m3, tăng 171%. Trong đó, gỗ rừng trồng chiếm đến
98,3%; tuy nhiên, giá trị gia tăng của ngành lâm nghiệp chưa cao do chủ yếu vẫn
là bán nguyên liệu thô mà chưa có các nhà máy chế biến gỗ cao cấp.
2000
2001
2004
2008
2009
2010
GTSX THEO GIÁ THỰC TẾ (tỷ đồng)
217.781
22.1659 238.024
388.597
442.298
491.285
Bảng 2.11: Tình hình giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giai đoạn 2000-2010
Tổng số
53.882
51.215
41.410
78.934
134.349
172.701
Trồng và nuôi rừng
158.616 172.256
257.424
251.807
260.554
152.184
11.715
11.828
24.359
52.239
56.142
58.030
24,7
23,1
17,4
24,9
25,8
30,9
Khai thác lâm sản Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác CƠ CẤU GIÁ TRỊ SẢN XUẤT (%) Trồng và nuôi rừng
69,9
71,6
72,4
63,3
60,5
56,3
Khai thác lâm sản
11,8
13,7
12,7
10,2
5,3
5,4
Dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010
Ngoài ra, nhờ triển khai trồng mới theo chương trình 661 mà diện tích rừng
trồng tập trung đã tăng từ 5.801 ha năm 2000 lên 12.126 ha vào năm 2010. Bảng
2.11 cho thấy giá trị sản xuất nội ngành lâm nghiệp có đã có bước chuyển biến
tích cực trong giai đoạn 2000-2010, giá trị sản xuất của trồng và nuôi rừng đã
tăng từ 24,7% lên 30,9% và giá trị khai thác lâm sản đã giảm tương ứng từ
69,9% xuống còn 56,3% trong giai đoạn này.
105
Những năm đến, ngành lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam vẫn đóng vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, nhất là ngành sản xuất đồ gỗ và bột giấy
phát triển sẽ thúc đẩy trồng rừng tập trung và phân tán trên đất vườn, đất dốc và
đất nương rẫy. Điều này sẽ nâng cao được thu nhập của các hộ dân sống ở vùng
trung du và vùng núi tỉnh Quảng Nam.
g. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp
Cơ cấu lao động trong nông nghiệp cũng có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng
lao động công nghiệp, dịch vụ tăng từ 20% năm 1996 lên 40,9% năm 2010,
tương ứng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống còn 59,1%. Tuy nhiên so
với chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong GDP trong giai đoạn này từ
50% năm 1996 xuống còn 21,2% năm 2010; thì tốc độ giảm lao động nông
nghiệp vẫn chậm hơn rất nhiều so với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Vì vậy
mà tỷ lệ đô thị hóa ở tỉnh Quảng Nam chỉ mới đạt 17,8% vẫn còn chậm so với tỷ
lệ đô thị hóa cả nước là 30%.
Tóm lại, nền nông nghiệp Quảng Nam trong tổng thể nền kinh tế hiện vẫn
còn chiếm tỷ trọng cao, ngay bản thân ngành nông – lâm – thủy sản thì ngành
trồng trọt còn chiếm tỷ trọng quá lớn, mà chưa chuyển dịch sang ngành chăn
nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong những năm đến, việc thúc đẩy chuyển
dịch lao động nông nghiệp sang các ngành khác sẽ là biện pháp cơ bản để đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; và phát triển ngành công nghiệp
chế biến, xây dựng các ngành hàng mạnh làm cơ sở chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng hiệu quả và tận dụng các lợi thế của Quảng Nam.
2.2.2. Tình hình qui hoạch và khai thác các vùng sinh thái nông nghiệp
Hiện tại, tỉnh Quảng Nam hình thành 3 vùng sinh thái là:
1) Vùng đồng bằng và ven biển gồm các vùng hạ lưu thuộc hệ thống sông Vu
Gia – Thu Bồn, Tam Kỳ và vùng dọc sông Trường Giang, người dân ở đây có
truyền thống thâm canh cây lúa nước, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây
thực phẩm; đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
106
2) Vùng trung du với độ cao trung bình 100 m, địa hình đồi bát úp xen kẽ các
dải đồng bằng, thuộc miền Tây các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Đại Lộc,
Quế Sơn, Phú Ninh, Núi Thành... Nhân dân có truyền thống trồng lúa, màu, cây
công nghiệp, chăn nuôi, trồng rừng.
3) Vùng núi gồm 08 huyện phía Tây của tỉnh, là vùng núi cao, đầu nguồn các
lưu vực sông, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc ít người. Nhân dân sống chủ
yếu bằng sản xuất nông, lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu. Thế
mạnh của vùng này là rừng, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc.
Vùng có các khu rừng đặc sản như sâm Trà Linh, quế Trà My, Phước Sơn, có
những khu vực đất đai thuận lợi cho phát triển cây cao su (Hiệp Đức), tiêu (Tiên
Phước) và các cây công nghiệp dài ngày khác tạo điều kiện để hình thành các
vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản, và thực phẩm.
Trong mỗi vùng có các vùng vùng sinh thái nông nghiệp đặc thù phản ánh
điều kiện đất đai, mặt nước, địa hình, khí hậu; và cũng từ đó hình thành nên các
tập quán sản xuất, canh tác khác nhau tạo nên các thế mạnh và đặc sản của từng
vùng.
- Vùng ven biển dọc theo sông Trường Giang và sông Cổ Cò đã hình thành
nên vùng khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản lớn của tỉnh Quảng Nam.
Năm 2001 vùng này khai thác được 39,7 ngàn tấn hải sản thì đến năm 2010 đã
tăng lên 55,9 ngàn tấn. Cùng kỳ, thì diện tích nuôi trồng thủy sản và sản lượng
nuôi trồng thủy sản đã tăng tương ứng từ 5.372 ha và sản lượng 3.631 tấn thủy
sản năm 2001 lên 7.328 ha và sản lượng 20.066 tấn thủy sản vào năm 2010. Dù
tỉnh Quảng Nam đã có chương trình thu hẹp nuôi trồng thủy sản trên sông
Trường Giang để nẹo vét sông này phục vụ lưu thông thủy và du lịch, nhưng
nhờ chính sách khuyến khích chuyển đổi các ruộng lúa nước dọc sông Trường
Giang năng suất không cao sang nuôi trồng thủy sản và khuyến khích nuôi cá
nước ngọt, nuôi tôm nước mặn dọc biển đã thúc đẩy mở rộng vùng sinh thái
nuôi trồng thủy sản những năm qua tại vùng này.
107
- Vùng đồng bằng hạ lưu sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ đã hình thành nên
vùng thâm canh lúa nước, trồng các cây công nghiệp ngắn ngày và cây thực
phẩm. Những năm qua, vùng này đã tạo nên những cánh đồng lúa năng suất cao
đạt đến 6,5 tấn/ha/vụ tại các huyện như Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Phú
Ninh. Vùng này cũng là nơi cung cấp thực phẩm cho các khu công nghiệp và
các vùng đô thị và du lịch tại Quảng Nam, Đà Nẵng và các tỉnh lân cận; vùng
rau Trà Quế, Hội An, Tam Phước, huyện Phú Ninh, Quảng Quế, huyện Đại Lộc;
vùng trồng ớt Điện Quang, thuốc lá Điện Bàn, Đại Lộc, vùng bắp huyện Duy
Xuyên, vùng cây cảnh Hội An, Điện Bàn... đã trở thành những địa danh nổi
tiếng cho những nông sản có chất lượng được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
- Vùng trung du và miền núi, thế mạnh là trồng rừng và chăn nuôi đại gia súc.
Những năm qua, tỉnh Quảng Nam nâng được tỷ trọng chăn nuôi đến 18,4%
trong giá trị sản xuất nông nghiệp nhờ vào việc phát triển đàn gia súc tại các
vùng trung du và vùng núi. Trong đó, năm 2010, đàn bò có 210.287 con, trâu
79.700 con, lợn 590.300 con, thì các huyện trung du và miền núi chiếm trên
70% đàn gia súc, nhất là tại các huyện Đại Lộc, Quế Sơn, Thăng Bình, Núi
Thành, Tiên Phước, Hiệp Đức. Diện tích rừng trồng tập trung 10 năm qua toàn
tỉnh đã trồng mới được 81.217 ha, bình quân mỗi năm tăng 10,4 %, trong đó
năm 2009 trồng được 10.126 ha, năm 2010 đạt 12.126 ha tăng 43,9% so với
năm 2001; trong đó dự án trồng mới 5 triệu ha rừng của Chính phủ đạt 23.486
ha chiếm 28,9% trong tổng số. Nhờ vậy, năm 2005, tổng diện tích rừng là
448.147 ha, độ che phủ của rừng chỉ đạt 42,5%; năm 2009 tổng diện tích rừng là
457.626 ha, độ che phủ đạt đến 44% (Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].
Ngoài việc trồng và khôi phục rừng, tỉnh Quảng Nam có những vùng cây trồng
rất nổi tiếng như vùng trái cây bòn bon huyện Nam Giang; quế, tiêu Tiên Phước,
Trà My; sâm Ngọc Linh. Những năm qua tỉnh qui hoạch và phát triển thêm vùng
cây cao su ở Hiệp Đức, cây dó bầu tại các huyện miền núi làm cho nghề thủ
công từ cây dó bầu ngày càng phát triển, nhất là tại huyện Nông Sơn.
108
Tuy nhiên, việc qui hoạch và phân vùng sinh thái nông nghiệp của tỉnh
Quảng Nam vẫn mang tính tổng quát, nặng về về quản lý hành chính mà chưa đi
vào nghiên cứu chi tiết cho mỗi loại cây trồng, vật nuôi trên mỗi vùng miền
nhằm khai thác tốt nhất điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu để đem lại hiệu
quả cao nhất cho người sản xuất. Ngay cả khung pháp lý và nguồn lực đầu tư để
đảm bảo công tác qui hoạch thực hiện được vẫn là còn hình thức và ở giai đoạn
lập kế hoạch; trên thực tế việc chỉ đạo sản xuất của ngành nông nghiệp và các cơ
quan chức năng chưa được phối hợp đồng bộ. Ví dụ, việc chuyển đổi cây trồng,
vật nuôi của nông dân xã Tam Phước, hoặc việc bỏ trồng cây lương thực sang
trồng cây lạc, ớt ở thôn Bến Đền, xã Điện Quang; hoặc nông dân chặt hết cây
dâu chuyển sang trồng bắp tại xã Duy Trinh, hoặc cây quế Trà My bị triệt hạ để
trồng cây keo,... tất cả đều phá vỡ qui hoạch và chạy theo những tín hiệu thị
trường mà không có sự kiểm soát và điều chỉnh qui hoạch kịp thời từ các cơ
quan chức năng của tỉnh Quảng Nam. Ngay cả, việc qui hoạch các cụm công
nghiệp tại các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã làm mất nhiều đất nông
nghiệp, nhưng lại không thu hút được các nhà máy. Trừ các huyện Đại Lộc, Duy
Xuyên, Điện Bàn, và Núi Thành, còn lại các cụm công nghiệp tại các huyện
khác không phát huy hiệu quả, gây lãng phí về đất đai; nên đến năm 2010, tỉnh
Quảng Nam phải rà soát để hủy các cụm công nghiệp không hiệu quả.
Nên việc xem xét lại các cở sở của qui hoạch phát triển nông nghiệp tại các
vùng sinh thái, cũng như các cơ sở pháp lý, nguồn lực cho chỉ đạo điều hành và
điều chỉnh qui hoạch cần phải được quan tâm trong những năm đến tại Quảng
Nam.
2.2.3. Thực trạng về chuyên môn hóa và tập trung hóa trong nông nghiệp
Những năm qua, quá trình chuyên môn hóa, tâp trung hóa sản xuất trong
nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã phát triển theo xu hướng sau.
109
a. Đối với vùng chuyên canh cây trồng và chăn nuôi
Do đặc điểm tự nhiên, việc lựa chọn cây trồng, vật nuôi ở Quảng Nam đã
được sàn lọc qua nhiều năm. Hiện tỉnh Quảng Nam có các vùng chuyên canh
chủ yếu sau:
- Vùng chuyên canh cây lúa. Cây lúa nước là nghề truyền thống của người
nông dân Quảng Nam vì vùng đất dọc hạ lưu sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ
phù hợp với loại cây này. Nên qua các năm diện tích cây lúa hầu như không
giảm nhiều, năm 2001 đất trồng lúa chiếm 72,7% diện tích đất trồng cây lương
thực, thì đến năm 2010 vẫn duy trì ở mức 71,1%. Tuy nhiên, nông dân các
huyện Điện Bàn, Đại Lộc thông qua Hiệp hội Giống cây Trồng Điện Bàn đã
hình thành nên vùng lúa giống thay vì trồng lúa thịt, cả tỉnh hiện có 900 ha trồng
lúa giống thì huyện Đại Lộc có đến 720 ha. Lúa giống đòi hỏi công lao động
tăng gấp đôi, từ 4 công/sào lên 8 công/sào, nhưng giá bán cao hơn giá lúa thịt
trên 1,5 lần. Chính vì vậy, diện tích trồng lúa không giảm nhiều mà biến cây lúa
tự túc thành cây lúa hàng hóa.
- Vùng trồng ngô. Ngô chủ yếu được trồng tại các bãi bồi dọc sông Vu Gia,
Thu Bồn và Tam Kỳ, vùng chuyên canh cây ngô tại Quảng Nam phát triển
nhanh từ 9,6 ngàn ha năm 2001, lên 13,1 ngàn ha năm 2010; vì 1) giống ngô
mới cho năng suất cao; 2) ngành chăn nuôi phát triển nên có nhiều nhà máy chế
biến thức ăn gia súc ra đời đã thúc đẩy các vùng trồng ngô phát triển.
- Vùng trồng khoai. Khoai chủ yếu được trồng tại các vùng bãi bồi, huyện
Thăng Bình là địa phương trồng khoai nhiều nhất tỉnh Quảng Nam và cũng là
nơi có sản phẩm khoai lang nổi tiếng, khoai Trà Đỏa. Tuy nhiên, khoai lang chủ
yếu bán tươi sống nên giá trị thương phẩm không cao; vì vậy, diện tích không
tăng mà giảm dần.
- Cây sắn đang là cây trồng cho thu nhập tại các vùng trung du và miền núi
Quảng Nam. Cây sắn đã tăng diện tích từ 11,5 ngàn ha năm 2001 lên 14,2 ngàn
110 ha vào năm 2010; diện tích và sản lượng cây sắn đang có xu hướng tăng nhanh,
vì 1) nhiều nhà máy chế biến sắn ra đời, nhất là sản xuất tinh bột sắn và ethanol;
2) giá sắn tăng từ 1.600/kg tươi đã lên 2.000 đồng/kg tươi, nên nhiều nông dân
đã chặt bỏ cây lâu năm khác chuyển sang trồng sắn; 3) cây sắn có thể trồng xen
canh cùng với các lâu năm như cây keo, cây cao su,... nên sản lượng tăng nhanh;
4) giống sắn mới cho năng suất cao nên thúc đẩy ngành hàng sắn phát triển.
Năm 2001
Năm 2010
%
%
%
%
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Bảng 2. 12: Các cây trồng chuyên canh chủ yếu ở Quảng Nam
568.611 100,0 121.034 100,0
706.196 100,0 119.930 100,0
1. Cây lương thực
- Lúa
330.508
58,1
89.012
73,5
415.566
58,8
85.323
71,1
- Ngô
35.610
6,3
9.665
8,0
52.700
7,5
13.117
10,9
- Khoai
64.563
11,4
10.882
9,0
35.210
5,0
6.590
5,5
- Sắn
126.715
22,3
11.475
9,5
196.050
27,8
14.200
11,8
13.086 100,0
192.269 100,0
19.220 100,0
2. Cây rau đậu 109.,878 100,0
- Cây rau
104.738
95,3
8.096
61,9
185.011
96,2
13.600
70,8
15.388 100,0
13.783 100,0
3. Cây CN hàng năm
- Lạc
9.486
14.320
8.589
55,8
10.290
74,7
- Mía
115.650
3.479
22,6
19.960
475
3,4
3. Cây CN lâu
4.000 100,0
8.125 100,0
năm
- Chè
1.930
1.330
33,3
814
520
6,4
- Cao su
-
1.131
28,3
980
3.989
49,1
- Hồ tiêu
25
70
1,8
380
395
4,9
370
725
18,1
1.880
1.284
15,5
- Điều
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010
- Vùng rau đậu. Cây rau đậu Quảng Nam tăng rất nhanh cả về diện tích và
sản lượng. Năm 2001, diện tích và sản lượng rau tương ứng là 8 ngàn ha và 105
tấn rau, thì đến năm 2010, tăng lên 13,6 ngàn ha và sản lượng là 185 ngàn tấn.
111 Cây rau tăng nhanh, vì 1) thị trường tiêu thụ phát triển, các siêu thị Metro, Big
C,... đặt hàng nhưng nông dân sản xuất không đủ theo yêu cầu; 2) các vùng bãi
bồi dọc hệ thống sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ phù hợp để trồng các loại rau,
đậu; 3) giá cả tăng và thu nhập ổn định cả năm. Người trồng rau Trà Quế, Hội
An thu nhập bình quân mỗi ngày 100.000 đồng từ rau, chưa kể các thu nhập
khác.
- Đối với các cây công nghiệp ngắn ngày. Cây lạc có xu hướng tăng nhanh
do giá trị kinh tế cao; trong khi, cây mía bị chặt bỏ và thay vào đó nông dân
trồng sắn đem lại hiệu quả cao. Những năm qua, vùng chuyên canh cây công
nghiệp ngắn ngày biến động lớn, vì: 1) phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường và
giá cả; 2) đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày có thể chuyển sang trồng cây
lương thực, thưc phẩm một cách dễ dàng, phụ thuộc vào cây nào đem lại thu
nhập cao hơn; và 3) tùy thuộc vào sự phát triển của công nghiệp chế biến nông
sản. Nhà máy Đường Quảng Nam, Nhà máy Dứa phá sản đã làm vùng nguyên
liệu cây mía, cây dứa giảm đáng kể.
- Đối với cây công nghiệp lâu năm. Ngoài các cây lâu năm truyền thống của
Quảng Nam như cây quế, cây tiêu, cây chè, điều nhân, thì cây cao su đang tăng
nhanh. Năm 1998 cây cao su đưa vào trồng tại Hiệp Đức 10 ha đến nay đã hình
thành vùng cao su tập trung tại 2 huyện Hiệp Đức và Núi Thành với diện tích
4.189 ha (Hiệp Đức: 2.538 ha, Núi Thành: 981 ha, Nam Giang: 502 ha và huyện
Phước Sơn: 100 ha), mô hình trồng cao su tiểu điền 48 ha ở Thăng Bình và các
địa phương khác trong tỉnh đang trong xu thế phát triển. Cây cao su phát triển
tốt, diện tích ngày càng mở rộng; đến nay đã đưa vào khai thác trên 1.200 ha,
năng suất bình quân ước đạt 9,92 tạ/ha, sản lượng ước đạt 1.174 tấn, doanh thu
đạt trên 25 tỷ đồng. Có thể nói điều kiện tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng của các
huyện miền núi, trung du Quảng Nam phù hợp với cây cao su, đem lại hiệu quả
112 kinh tế cao góp phần vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho người nông dân
(Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].
- Các vùng chuyên canh cây trồng khác. Ngoài tập trung phát triển 67.695
ha rừng trồng làm nguyên liệu giấy, các cây trồng chuyên canh khác tập trung
tại các vùng trung du như vùng quế tại Trà My, vùng tiêu ở Tiên Phước, vùng
sâm Ngọc Linh ở Nam Trà My, cây ăn quả bòn bon ở Nam Giang.
Từ sản lượng cây ngô và các cây lương thực, rau đậu khác đã tạo nên nguồn
thức ăn dồi dào trong chăn nuôi, làm cơ sở để phát triển kinh tế trang trại chăn
nuôi gia súc, gia cầm... các mô hình kinh tế hộ làm ăn có hiệu quả ở các địa
phương trên ngày càng nhiều, cụ thể là qua 2 năm gần đây trang trại chăn nuôi ở
các huyện Đại Lộc, Điện Bàn tăng đáng kể. Các trang trại chăn nuôi gia công gà
công nghiệp ở Điện Hoà, Điện Thắng, Điện Thọ... ngày càng được mở rộng, thu
nhập của người lao động khá cao. Tuy nhiên, việc chăn nuôi vẫn còn ở qui mô
nhỏ, chăn nuôi công nghiệp chưa phát triển do thiếu công nghiệp chế biến súc
sản.
Dù diện tích cây trồng chủ yếu ở Quảng Nam vẫn là cây lúa, tuy nhiên, nhiều
nông dân đã mạnh dạng chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang cây lúa hàng hóa
bằng cách nâng cao giá trị cây lúa thông qua phát triển các cánh đồng lúa giống.
Bên cạnh đó, các cây trồng và vật nuôi khác là nguồn thu nhập bằng tiền chủ
yếu cho nông dân nên đã làm nông sản hàng hóa tăng lên. Vùng chuyên canh
của tỉnh Quảng Nam có qui mô không lớn, nhưng các cây trồng, vật nuôi chủ
yếu có sản lượng hàng hóa gia tăng đáng kể những năm qua; bảng 2.13 thể hiện
các tỷ suất hàng hóa các cây trồng, vật nuôi chủ yếu tại Quảng Nam hiện nay.
Để đạt được điều đó, nhờ vào 1) năng suất cây trồng, vật nuôi cao hơn nên có
điều kện gia tăng sản lượng hàng hóa; 2) thị trường nông sản phát triển, nhất là
quá trình đô thị hóa, các khu công nghiệp, du lịch phát triển nhanh làm nhu cầu
nông sản tăng lên; bên cạnh đó nhu cầu nông sản xuất khẩu cũng tăng lên, nhất
113 là nông sản cung ứng cho thị trường Trung Quốc; 3) giao thông phát triển đã
làm cho nông sản lưu thông từ đồng bằng lên miền núi, từ nông thôn đến thành
thị một cách dễ dàng, và có chi phí rẻ; 4) an ninh lương thực không còn là vấn
đề sống còn vì nó có thể được đảm bảo nhờ hệ thống kinh doanh lương thực
ngày càng phát triển trên phạm vi cả nước.
Bảng 2. 13: Sản lượng và tỷ suất hàng hóa một số cây trồng, vật nuôi chủ
Sản lượng
Sản lượng
yếu tại Quảng Nam
Loại cây, con
Đơn vị tình
Tỷ suất hàng hóa
Loại cây, con
Đơn vị tình
Tỷ suất hàng hóa
415.566
21% Bông
Lúa
Tấn
Tấn
330
98%
Ngô
Tấn
52.700
70% Chè
Tấn
814
80%
Khoai
Tấn
35.210
62% Cao su
Tấn
980
99%
Sắn
Tấn
196.050
82% Hồ tiêu
Tấn
380
85%
Rau
Tấn
185.011
90% Dừa
Tấn
3.039
86%
Đậu
Tấn
7.258
85% Điều
Tấn
1.880
96%
Lạc
Tấn
14.320
70% Gia cầm
Con
3.655.000
75%
Thuốc lá
Tấn
1.098
90% Lợn
Con
590.300
84%
Mía
Tấn
19.960
90% Bò
Con
210.500
90%
Vừng
Tấn
1.579
98% Trâu
Con
79.700
85%
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam và tham khảo từ luận án tiến sĩ của Vũ Ngọc Hoàng, tr. 70 [30]; cây lúa, cây sắn và cao su do tác giả điều tra và tính toán.
Tuy nhiên, những năm qua tại Quảng Nam, nhiều vùng chuyên canh bị phá
vỡ do công nghiệp chế biến không phát triển và thị trường bị thu hẹp. Vừa qua
Nhà máy Đường phá sản làm diện tích trồng mía năm 2000 từ 5.069 ha giảm
còn 475 ha vào năm 2010. Nhà máy Dứa xuất khẩu, Nhà máy Điều xuất khẩu
hoạt động cầm chừng đã làm nông dân phá bỏ trồng dứa tại huyện Tiên Phước,
Trà My; cây điều tại huyện Thăng Bình, Núi Thành cũng bị chặt bỏ dần. Làng tơ
tằm Đông Yên Duy Trinh trước đây có hơn 100 ha dâu, thì nay chỉ còn 7 ha
(Nguyễn Thị Minh Nghĩa, 2008, tr. 29) [47], ngành tơ tằm của Quảng Nam hầu
114 như kiệt quệ. Hiện nay nông dân huyện Nam Trà My phải chặt bỏ cây quế16 vì
giá rẻ và sản phẩm không ai mua.
b. Đối với vùng nuôi trồng thủy sản
Các vùng chuyên canh thủy sản phát triển khá ổn định trên đất Quảng Nam,
diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2001 là 5.372 ha, đến năm 2010 là 7.345 ha,
tăng 36,7 % ; trong đó diện tích nuôi tôm nước lợ năm 2010 giảm so với năm
2001 là 2,6% (-50ha). Sản lượng nuôi trồng năm 2001 đạt 3.631 tấn, đến năm
2010 đạt 20.066 tấn, tăng 463%. Mặc dù diện tích tăng không cao nhưng nhờ sự
chuyển đổi con giống trong sản xuất nên sản lượng tăng mạnh làm cho giá trị
sản phẩm trên đơn vị diện tích tăng nhanh, năm 2010 giá trị sản phẩm trên đơn
vị diện tích đạt 175,5 triệu, tăng 94,8 triệu đồng/ha so với năm 2001. Cụ thể là
người nuôi chuyển từ tôm sú năng suất thấp sang nuôi tôm thẻ chân trắng cho
năng suất cao, nên sản lượng tôm nuôi năm 2010 đạt 12.000 tấn, gấp 5,1 lần so
với năm 2001. Đặc biệt là tôm thẻ chân trắng nuôi trên cát năm 2010 đạt 60 ha
tập trung và năng suất đạt 14 tấn/ha/vụ.
Riêng nuôi cá nước ngọt, năm 2001 có 3.422 ha thì đến năm 2010 diện tích
đạt đến 5.059 ha, đưa sản lượng cá nước ngọt năm 2010 đạt 7.611 tấn, gấp 6,2
lần so với sản lượng năm 2001. Những địa phương có phong trào nuôi cá nước
ngọt khá mạnh như Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình; nhiều hộ đã cải tạo
những vùng đất trũng hoang hoá và tận dụng các hồ, đập, công trình thuỷ lợi để
nuôi cá; điển hình ở Điện Bàn có hộ nuôi cá thu đến 500 triệu đồng/ha/năm...
Tuy vậy, với tiềm năng trên 10.000 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ
sản, trong đó đến 4.000 ha có khả năng nuôi tôm và trên 6.000 ha có khả năng
nuôi cá nước ngọt còn bỏ hoang hoá, chưa đưa vào sử dụng cần phải được đầu
16 Thùy Dương, Cây Quế: Đắng cay ai biết…?, Báo Quảng Nam, ngày 22/05/2009.
tư thích đáng, khuyến khích nhân dân khai hoang mở rộng diện tích nuôi trồng
115 thuỷ sản, phát huy tối đa thế mạnh lợi thế so sánh của địa phương về ngành kinh
tế này (Cục Thống kê Quảng Nam, 2010) [17].
c. Về tích tụ đất đai
Trong nông nghiệp Việt Nam, việc tập trung hóa chủ yếu dựa vào việc tích tụ
đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Nên khi nghiên cứu về thực trạng quá trình
tập trung hóa tại Quảng Nam, luận án tập trung vào vần đề tích tụ đất đai. Giống
như trên phạm vi toàn quốc, việc tích tụ đất đai tại Quảng Nam những năm qua
chủ yếu thực hiện qua công tác dồn điền đổi thửa. Đến năm 2010, cả tỉnh Quảng
Nam đã có 6/18 huyện (Đại Lộc, Thăng Bình, Phú Ninh, Điện Bàn, Duy Xuyên,
Quế Sơn) đã triển khai thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp
với tổng diện tích đất thực hiện 9.364 ha, trong đó đã đo đạc trên 1.300 ha và đã
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên 430 ha; thực hiện trên 65 xã, thị
trấn, trong đó 22 xã đã thực hiện trên 80% diện tích đất nông nghiệp của xã; số
thôn thực hiện là 228 thôn, trong đó có trên 150 thôn đã thực hiện trên 80% diện
tích đất nông nghiệp của thôn. Bình quân trước khi dồn điền, đổi thửa là 4,25
thửa/hộ và 545 m2/thửa; bình quân sau dồn, đổi thửa: 2,25 thửa/hộ và 1.050
m2/thửa. Địa phương đi đầu trong công tác dồn điền, đổi thửa là huyện Đại Lộc
đã triển khai với qui mô lớn 16/18 xã, thị trấn ở 142/161 thôn với tổng diện tích
đã thực hiện trên 4.000 ha đạt 59,5% kế hoạch, chiếm 42,7% diện tích thực hiện
của toàn tỉnh.
Tuy nhiên, việc tích tụ ruộng đất theo hình thức dồn điền đổi thửa không
giúp chuyển đổi lao động nông nghiệp tại nông thôn. Việc tập trung đất đai trên
mỗi đơn vị sản xuất nông nghiệp trước và sau dồn điền đổi thửa không thay đổi,
chỉ làm cho số thửa ít lại và diện tích mỗi thửa tăng lên. Nên luận án cho rằng,
tập trung hóa những năm đến tại Quảng Nam cần phải chuyển đổi lao động nông
nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp, thì quá trình tập trung hóa mới làm tăng
qui mô nguồn lực đối với mỗi nông hộ, nhất là nguồn lực về đất đai thì mới có
116 điều kiện phát triển kinh tế trang trại và làm hình thành các trang trại hạt nhân.
Từ đó, mới hình thành các vùng chuyên canh lớn hơn đi liền với quá trình tích tụ
đất đai.
Từ những phân tích trên cho thấy, thời gian qua quá trình chuyên môn hóa và
tập trung hóa ở tỉnh Quảng Nam còn nhiều hạn chế, nên đã làm cho nông nghiệp
tăng trưởng chậm: 1) cây trồng, vật nuôi tỉnh Quảng Nam rất đa dạng nhưng có
qui mô nhỏ, phân tán; 2) công nghiệp chế biến nông sản không phát triển, nhiều
nhà máy chế biến bị phá sản nên nhiều vùng chuyên canh ngày càng thu hẹp
diện tích; 3) các ngành hàng nông sản chưa phát triển, nên quá trình hình thành
liên kết dọc các đối tác trên chuỗi cung cấp không ổn định. Điều này làm cho
quá trình liên kết ngang luôn bị phá vỡ; và vì vậy, các vùng chuyên canh nhiều
cây trồng, vật nuôi luôn biến động.
Những năm đến, các hạn chế trên phải được khắc phục thì mới có khả năng
phát triển các vùng chuyên canh tại Quảng Nam; từ đó mới đẩy nhanh quá trình
tập trung hóa, nhất là quá trình tích tụ đất đai để hình thành nền nông nghiệp
công nghiệp và hiện đại
2.2.4. Tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế trong nông nghiệp thời gian qua
a. Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp
Đến năm 2009, tỉnh Quảng Nam có 12 doanh nghiệp nông nghiệp; 109 hợp
tác xã; và 264.114 hộ nông lâm thủy sản, trong đó có 1.021 trang trại các loại.
Thực trạng phát triển của các đơn vị kinh tế trong nông nghiệp trong thời gian
qua tại Quảng Nam có thể được đánh giá như sau.
Các doanh nghiệp nông nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực lâm nghiệp. Bình quân mỗi doanh nghiệp có 871 ha, nhưng hiệu
quả kinh doanh chỉ đạt 8,85 triệu đồng/ha, so với các doanh nghiệp nông nghiệp
cả nước là 38,23 triệu đồng/ha; chính vì vậy, mà tỷ suất doanh thu trên vốn chỉ
là 0,07, tức 1 đồng vốn chỉ tạo ra được 0,07 đồng doanh thu.
117
Tỉnh Quảng Nam hiện có 109 hợp tác xã, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ nông nghiệp. Theo đánh giá, chỉ một số ít hợp tác xã hoạt động có hiệu
quả, còn đa số các hợp tác xã khó khăn về nguồn vốn, dịch vụ cung ứng và đầu
ra của sản phẩm. Nhưng phải nói rằng, hoạt động kinh tế của đa số hợp tác xã
thiếu sức sống do không gắn liền với hoạt động kinh tế của nông hộ và của các
trang trại; hợp tác xã chưa hoạt động như là cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ
nông sản. Cơ chế hoạt động của hợp tác xã vẫn còn muốn dựa vào chính sách hỗ
trợ của nhà nước, chưa phải là “con đẻ” của trang trại và nông hộ nên khó có thể
hoạt động hiệu quả.
Bảng 2. 14: So sánh qui mô sản xuất của nông hộ và trang trại tại Quảng
Diện tích
Lao động
Giá trị sản xuất và dịch vụ
Số đơn vị
(ha)
%
(người)
%
(tỷ đồng)
%
Nam
Tổng số
113.047 100,0
479.273 100,0
7.329
100,0
Nông hộ
264.114
102.514 90,7
475.500
99,2
7.127
97,3
10.533 9,3
1.021
3.773
0,8
201
2,7
Trang trại Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam năm 2010
Đối với kinh tế nông hộ và trang trại. Nông hộ tại Quảng Nam chiếm 72,2%
số hộ tại nông thôn. Tình hình chung, kinh tế nông hộ của tỉnh Quảng Nam đa
số có qui mô nhỏ cả về diện tích đất đai, vốn và lao động. Bình quân đất sản
xuất mỗi nông hộ chỉ là 0,41 ha; với đất đai ít, thời gian lao động ở nông thôn
chỉ là 79,1%, thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm 76,7%, và các nông hộ sử dụng
thời gian còn lại cho hoạt động phi nông nghiệp để tăng thu nhập. Qui mô của
các trang trại cũng rất nhỏ bé; đến cuối năm 2009, các trang trại có diện tích đất
đai là 10.533 ha, lao động được sử dụng 3.773 người; bình quân, diện tích một
trang trại là 10,3 ha và số lao động bình quân là 3,7 lao động. Vốn đầu tư bình
quân mỗi trang trại 200,6 triệu đồng, trang trại có vốn đầu tư cao nhất là trang
trại chăn nuôi, trang trại kinh doanh tổng hợp. Giá trị sản lượng hàng hoá của
118 các trang trại đạt 201,3 tỷ đồng, bình quân mỗi trang trại là 197,2 triệu đồng,
trang trại có giá trị hàng hoá bình quân cao nhất là trang trại chăn nuôi, kinh
doanh tổng hợp và thuỷ sản (Cục Thống Kê Quảng Nam, 2010) [17]. Tuy nhiên,
giống như tình trạng phát triển kinh tế trang trại cả nước, các trang trại tại
Quảng Nam vẫn chưa thể đa dạng hóa các hình thức trang trại, trang trại gia
đình vẫn là chủ yếu; qui mô các trang trại nhỏ về diện tích đất đai, vốn đầu tư,
nhân lực và cả giá trị hàng hóa sản xuất ra. Dù thu nhập của các trang trại vượt
trội, gấp 5 lần so với nông hộ; nhưng so với nền nông nghiệp toàn tỉnh, thì diện
tích canh tác của các trang trại chỉ chiếm 9,3%, lao động chiếm 0,81% và giá trị
hàng hóa sản xuất ra cũng rất khiêm tốn, chỉ chiếm 2,7%.
Những năm qua, nông hộ tỉnh Quảng Nam vẫn đóng vai trò quan trọng góp
phần tạo ra giá trị vật chất cho tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, để xây dựng một
nền nông nghiệp chuyên môn hóa, hiện đại hóa không thể dựa vào nông hộ với
qui mô nguồn lực còn nhỏ bé và phân tán như trên, mà chỉ có thể dựa vào các
trang trại nông, lâm, thủy sản. Dù hiện tại mức đóng góp của các trang trại tại
Quảng Nam còn nhỏ bé; nhưng xu hướng phát triển và hội nhập hiện nay, tỉnh
Quảng Nam phải thúc đẩy để sớm ra đời các trang trại hạt nhân có qui mô lớn
để giúp nông nghiệp Quảng Nam tăng trưởng nhanh hơn.
b. Tình hình liên kết kinh tế trong nông nghiệp
Những năm qua, các mối liên kết kinh tế trong nông nghiệp Quảng Nam thể
hiện qua các hình thức liên kết sau:
Liên kết nội ngành mà chủ yếu là mối liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi.
Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm Quảng Nam phát triển nhờ vào nguồn nguyên
liệu có sẵn tại địa phương; như huyện Nam Giang, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện
Bàn, Thăng Bình và Quế Sơn có 7.599 ha trồng ngô, chiếm 60% diện tích trồng
ngô cả tỉnh nên tại các địa phương này có đàn gia súc, gia cầm chiếm trên 55%
cả tỉnh. Chăn nuôi phát triển tạo điều kiện phát triển các cây trồng phù hợp,
cung cấp phân bón và sức kéo,...; như xã Điện Quang huyện Điện Bàn là xã có
119 đàn bò lai Sind lớn nhất tỉnh, đã dành 140 ha đồng cỏ để phục vụ cho chăn nuôi
bò. Ngoài diện tích trồng ngô, thì cây sắn, cây đậu tương, cám gạo và bột cá có
sẵn tại địa phương cũng tạo nên nguồn thức ăn tương đối dồi dào cho ngành
chăn nuôi.
Liên kết vùng sinh thái là liên kết nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực và
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại mỗi vùng. Tại các vùng trung du, miền núi
tỉnh Quảng Nam, ngoài việc kết hợp trồng cây lâu năm với chăn nuôi đại gia súc
tại các huyện Nam Giang, Đông Giang, Hiệp Đức, Trà My; các hình thức canh
tác sinh thái vườn-ao-chuồng (VAC) rất phát triển tại các huyện này. Tại huyện
Tiên Phước và các huyện trung du đã thực hiện mô hình VAC đem lại hiệu quả
và thu nhập ổn định cho nông dân (Võ Lượng, 1999, tr. 18) [39].
Liên kết ngang hình thành các vùng chuyên canh. Đây là mối liên kết quan
trọng làm cơ sở để thực hiện chuyên môn hóa, tập trung hóa trong sản xuất nông
nghiệp. Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã phát triển nhiều vùng chuyên
chuyên canh, tiến hành dồn điền đổi thửa nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển. Tuy nhiên, theo phân tích ở trên, quá trình chuyên môn hóa và tập
trung hóa ở Quảng Nam không phát triển, nên đã làm các mối liên kết ngang
hình thành các vùng chuyên canh luôn bị phá vỡ; điều này chủ yếu do các mối
liên kết dọc không phát triển tại Quảng Nam những năm qua.
Liên kết dọc hình thành các ngành hàng nông sản. Trên phạm vi nền kinh tế
thì đây là mối liên kết ngành, trong đó nông sản là đầu vào của công nghiệp chế
biến và kinh doanh nông sản. Mối liên kết này lại được thực hiện thông qua các
chủ thể là các đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm hình thành nên các ngành hàng
nông sản. Mối liên kết này quan trọng vì là cơ sở để thúc đẩy hoạt động kinh
doanh nông sản phát triển.
Những năm qua, các nông hộ, trang trại và các hợp tác xã tại tỉnh Quảng
Nam đã kiên kết và hình thành nên các vùng chuyên canh như vùng chuyên canh
rau Trà Quế, Hội An; vùng rau Quảng Quế, Đại Lộc; vùng rau Tam Phước, Phú
120 Ninh; vùng trồng dâu nuôi tằm Duy Trinh, Duy Xuyên, vùng lúa giống, bắp
giống Điện Bàn;… Tuy nhiên, qui mô các vùng chuyên canh này còn nhỏ bé và
cũng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh và các vùng lân cận. Các
vùng chuyên canh lớn hơn như vùng mía Quế Sơn, vùng cây nguyên liệu giấy
tại các huyện phía tây Quảng Nam, vùng chuyên canh cây quế Trà My, vùng
chuyên canh cây dứa tại Đại Lộc và Nam Giang,… Những cây trồng này được
xem là những cây trồng có lợi thế của tỉnh Quảng Nam nhưng phát triển không
ổn định, giá cả nông sản luôn bấp bênh.
Những mối liên kết ngang này không mở rộng được qui mô để đạt hiệu quả,
đó là do mối liên kết dọc của các đơn vị sản xuất nông sản không gắn bó mật
thiết với các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản như các nhà thu gom,
các nhà chế biến và các nhà xuất khẩu. Ngoài ngành hàng thủy sản, nguyên liệu
giấy, cây sắn khá ổn định vì có nhiều nhà máy chế biến hoạt động hiệu quả; các
ngành hàng khác như hạt điều, tiêu, chè luôn biến động theo giá cả của hệ thống
thu gom cá nhân; các ngành hàng có xu hướng giảm dần như cây quế, dâu tằm,
cây bông, cây mía do thiếu công nghiệp chế biến, giá thành sản suất cao hơn thị
trường hoặc thị trường bị thu hẹp.
Xét trên phạm vi nền kinh tế tỉnh Quảng Nam, để nghiên cứu mối liên kết
giữa tăng trưởng công nghiệp có ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng nông
nghiệp; luận án đã dùng mô hình Hwa Erh Cheng (Đinh Phi Hổ và cộng sự,
+ ε
2006, tr. 245) [34] để nghiên cứu liên kết này và mô hình liên kết có dạng: A0 = β0 + β1I0 + β2LnY + β3 (LnY)2
Trong đó, A0 là tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, I0 là tốc độ tăng
trưởng của ngành công nghiệp và xây dựng và Y là thu nhập bình quân đầu
người. β0, β1, β2, β3 là các tham số của mô hình.
121
Dựa trên số liệu của Việt Nam giai đoạn 1990-2010 và của Quảng Nam giai
đoạn 1997-2010. Mối liên kết giữa nông nghiệp và công nghiệp của Việt Nam thể hiện qua mô hình17:
A0 = -12,289 + 0,131I0 + 5,317LnY – 0,467(LnY)2 (với R2 = 63,5%)
Và đối với Quảng Nam, mô hình có dạng: A0 = -35,701 + 0,254I0 + 12,6701LnY – 1,202(LnY)2 (với R2 = 88,3%)
Kết quả từ hai mô hình cho thấy, 1) giữa tốc độ tăng trưởng công nghiệp và
tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có tương quan và có ý nghĩa kinh tế; khi ngành
công nghiệp phát triển sẽ làm cho nông nghiệp phát triển, nhất là công nghiệp
chế biến nông sản; 2) với khoảng tin cậy 85% thì cả hai mô hình đều cho thấy
tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp tương quan có ý nghĩa thống kê với tốc độ
tăng trưởng của công nghiệp; 3) so với cả nước, ảnh hưởng tăng trưởng giữa
công nghiệp và nông nghiệp được giải thích ở mức 66,3%; trong khi tại tỉnh
Quảng Nam, quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp được giải thích ở mức
88,3% cao hơn nhiều so với toàn quốc.
Qua những tham số phân tích trên cho thấy, những năm đến tại Quảng Nam
cần quan tâm nhiều đến phát triển công nghiệp chế biến, vì nó sẽ tác động rất
lớn đến sự tăng trưởng của nông nghiệp. Tuy nhiên, có thể nói rằng, mối liên kết
giữa công nghiệp chế biến và nông nghiệp tại Quảng Nam những năm qua chưa
thật sự bền vững và ngành công nghiệp Quảng Nam chưa làm được nhiều trong
việc góp phần đưa nông sản của nông dân tỉnh Quảng Nam đến thị trường một
cách hiệu quả và mối liên kết này vẫn được xem là mối liên kết “yếu”.
Như vậy, qui mô nhỏ và thiếu năng lực về vốn, đồng thời chưa tạo được các
mối liên kết kinh tế ngang và dọc hiệu quả đã làm cho các ngành hàng nông sản
tại Quảng Nam không khai thác được các lợi thế so sánh của mình; và cũng vì
vậy mà những năm qua, nền nông nghiệp Quảng Nam khó phát triển theo hướng
chuyên môn hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa. 17 Xem phụ lục 2.
122
2.2.5. Tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp
Những năm qua, tình hình thâm canh trong sản xuất nông nghiệp của Quảng
Nam thể hiện như sau:
Đầu tư xã hội và việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp. Những năm qua, suất đầu tư trên một đơn vị diện tích và trên lao
động tại Quảng Nam còn thấp. Năm 2010, mức đầu tư tại Quảng Nam là 3,83
triệu đồng/ha và 0,92 triệu đồng/lao động nông nghiệp; trong khi đó, suất đầu tư
cả nước tương ứng là 4,8 triệu đồng/ha và 1,93 triệu đồng/lao động nông nghiệp.
Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư vào khu vực nông nghiệp tại Quảng Nam ngày
càng giảm thấp; năm 1997, đầu tư của xã hội cho khu vực nông nghiệp chiếm
22,3%; thì đến năm 2010, mức đầu tư chỉ còn 3,7%, tương ứng 1,75% của GDP.
Giai đoạn 1997 đến 2010, chỉ có một dự án đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng
thủy sản, chiếm chỉ 0,82% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Quảng Nam thời
gian này.
Việc đầu tư thấp vào nông nghiệp không chỉ về qui mô đồng vốn mà còn thể
hiện việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong cơ khí hóa, thủy lợi
hóa, điện khí hóa, sinh học hóa, hóa học học, tự động hóa trong nông nghiệp còn
ở trình độ thấp, lạc hậu.
- Đối với đầu tư máy công tác vào sản xuất nông nghiệp. Theo Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam (2009) [5], mức độ áp dụng cơ giới
hóa tại Quảng Nam chỉ đạt dưới 20% cho mọi khâu trong sản xuất nông nghiệp;
hầu như các khâu làm đất, gieo cấy, thu hoạch, phơi,… chủ yếu vẫn là lao động
thủ công, lao động bằng máy móc chiếm tỷ lệ thấp, riêng các huyện miền núi
của tỉnh Quảng Nam, lao động nông nghiệp chỉ là lao động thủ công.
Bảng 2.15 cho thấy, mức độ trang bị động lực của nông nghiệp tỉnh Quảng
Nam đạt rất thấp, chỉ 0,34 cv/ha, so với bình quân toàn quốc là 1,16cv/ha. Trong
khi đó, theo Cục Chế biến thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, tại Thái Lan mức độ
trang bị động lực là 4 cv/ha, Hàn Quốc 4,2 cv/ha, Trung Quốc 6,06 cv/ha. Máy
123 gặt đập liên hợp liên hợp ở Quảng Nam chỉ có 71 chiếc, An Giang có đến 1.445
chiếc, trong khi tỉnh Quảng Nam có 80.812 ha trồng lúa, màu; còn An Giang có
110.00 ha; điều này cho thấy năng lực đầu tư vào thiết bị cơ giới và máy công
tác tại Quảng Nam còn ở mức rất thấp. Công suất của các máy công tác ở các
khâu gặt đập, tuốc lúa, xay xát lúa đều có mức trang bị thấp hơn rất nhiều so với
các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và so với trung bình của toàn quốc
Bảng 2.15: So sánh tình hình máy móc, thiết bị trong nông nghiệp của
Quảng Nam với các địa phương và cả nước
So sánh các chỉ tiêu cơ bản
GHI CHÚ
TT
Loại sản phẩm
Đơn vị tính
Năm 2009
Quảng Nam
Máy
151
1
0,34 cv/ ha
Máy
819
2
So với cả nước
Máy
3
Máy kéo các loại có công suất >50 mã lực Máy kéo các loại có công suất <50 mã lực Máy gặt lúa các loại: - Máy gặt lúa rãi hàng - Máy gặt lúa liên hợp
1.383 1.312 71
4 Máy xay xát gạo
Máy
4.774
So với tỉnh An Giang
5 Máy sấy các loại
Máy
77
20 tấn/ngày 0,1 máy/ 100ha
Các nơi khác 1,16 cv/ ha 1.832 387 1.445 500 – 1.000 tấn/ngày 1,9 máy/ 100ha
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT [16], Tổng cục Thống Kê năm 2009, và website: http://www.2lua.vn/article/can-day-nhanh-co-gioi-hoa-nong-nghiep.
- Về thủy lợi, Quảng Nam là một trong các tỉnh có mạng lưới các công
trình thủy lợi tương đối rộng khắp đảm bảo tưới đến 90% ruộng đất sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên, như tình trạng cả nước, kỹ thuật tưới vẫn là tưới ngập,
công nghệ tưới này được xem là lạc hậu vì tốn nhiều nước. Riêng hệ thống thủy
lợi cho nuôi trồng thủy sản hầu như Nhà nước không đầu tư, mà để các đơn vị
sản xuất và nông dân tự lo liệu; chính vì vậy mà nguồn nước nuôi trồng thủy sản
không xử lý, được xả từ các hồ nuôi gây lây lan dịch bệnh trên diện rộng. Nên
những năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản ở Quảng Nam luôn bị dịch bệnh gây
ra nhiều tổn thất cho nông dân.
124
- Về giống cây, con năng suất cao, Quảng Nam đã đưa các giống lúa và ngô
mới có năng cao thay 100% các giống cũ có năng suất thấp. Về giống gia súc,
Quảng Nam đã cải tạo đàn bò toàn tỉnh theo hướng Sind hóa, hiện đã đạt được
tỷ lệ 24% bò lai Sind (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam,
2009) [3]; đàn lợn toàn tỉnh cũng được nạc hóa bằng các giống mới.
- Về kỹ thuật thâm canh theo phương pháp 3 giảm, 3 tăng đã được bắt đầu
triển khai từ năm 2008, và sẽ triển khai trên hầu hết diện tích canh tác lúa và các
loại cây trồng hoa màu khác tại Quảng Nam vào những năm đến. Phương pháp
thâm canh 3 giảm, 3 tăng không chỉ đem lại lợi ích là giảm chi phí, tăng năng
suất đất đai, mà còn đem lại lợi ích bảo vệ môi trường, tăng chất lượng nông sản
(xem bảng 2.16).
Bảng 2. 16: Kỹ thuật thâm canh lúa theo hướng 3 giảm, 3 tăng
Hiệu quả
Phương pháp truyền thống
Phương pháp 3 giảm, 3 tăng
Gieo sạ
5 kg thóc/sào
2,5 - 3kg /sào
Giảm 2 – 2,5kg/sào
Bón phân Urê
6 - 10 kg/sào
4,5 - 5 kg/sào
Giảm 30-50%/sào
Số lần phun thuốc
9 lần
5 - 6 lần
Giảm 3 - 4 lần
Năng suất
40 tạ/ha
47,2 tạ/ha
Tăng 7,2 tạ/ha
Chi phí giảm 140.000 đồng/sào Ghi chú: Sào = 500 m2. Nguồn: Báo cáo của Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quảng Nam
Nhờ triển khai các biện pháp thâm canh trên mà năng suất cây trồng và nuôi
trồng thủy sản tại Quảng Nam có tăng. Tuy nhiên, so với bình quân cả nước,
năng suất các loại cây trồng và nuôi trồng thủy sản tại Quảng Nam còn ở mức
thấp (xem bảng 2.17).
Những cánh đồng mầu mỡ tại huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên của
Quảng Nam có năng suất lúa đạt đến 6,5 tấn/ha/vụ, có thể so với tỉnh Thái Bình
có năng suất lúa bình quân 6,6 tấn/ha/vụ, nhưng đa số các rộng lúa còn lại năng
suất thấp hơn. Cây mía ở Quảng Nam chỉ đạt 36,8 tấn/ha, thấp so với bình quân
125 cả nước (59,9 tấn/ha), nhưng so với tỉnh Trà Vinh (108,8 tấn/ha) thì năng suất
cây mía ở Quảng Nam không thể sánh bằng. Cây điều năng suất ở tỉnh Quảng
Nam là 1,5 tấn/ha cao hơn bình quân cả nước (0,9 tấn/ha); tuy nhiên, cây này
chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Bộ và năng suất cây điều ở Bình Phước
đến 4 tấn/ha, nên việc trồng điều ở Quảng Nam ngày càng thu hẹp là vì vậy.
Như vậy, chỉ trừ năng suẩt nuôi trồng thủy sản, cây ngô cao hơn bình quân cả
nước và các địa phương vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, còn lại năng suất
các loại cây trồng còn thấp so với cả nước và nhiều tỉnh tại Việt Nam.
Bảng 2. 17: Năng suất cây trồng và nuôi trồng thủy sản giai đoạn 1997-2010
Đơn vị tính: Tấn/ha
Lúa
Ngô
Mía
Chè
Hồ tiêu
Hạt điều
Thủy sản
3,1
3,0
33,0
2,1
0,4
0,8
0,4
1997
3,7
3,0
34,0
2,2
0,4
0,9
0,5
2000
4,4
4,1
39,4
1,9
1,0
1,9
0,8
2005
4,6
4,2
43,4
2,0
1,2
1,9
0,9
2006
4,7
4,4
42,1
2,0
1,2
1,9
1,2
2008
4,8
4.2
36,8
1,7
1,0
1,5
2,7
2010
5,3
4,1
59,9
7,4
2,5
0,9
2,5
Toàn quốc năm 2010
Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam và Niêm Giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
Năm
Đối với trình độ lao động trong nông nghiệp. Lao động là chủ thể tiếp thu
các phương pháp canh tác mới, tiếp nhận các tiến bộ khoa học công nghệ vào
nông nghiệp, thì lực lượng lao động nông nghiệp tại Quảng Nam chưa qua đào
tạo chiếm đến 98,33%; số lao động được đào tạo thì trình độ sơ cấp là 0,71%,
trung cấp là 0,79%, cao đẳng là 0,11% và trình độ đại học trở lên là 0,07% (Cục
Thống kê Quảng Nam, 2010) [17]. Bên cạnh đó, thời gian lao động chỉ chiếm
79,1%, nên nông hộ sẽ không có động lực đầu tư máy móc thiết bị vào sản xuất
nông nghiệp, mà thay vào đó, lao động thủ công được sử dụng nhiều hơn trong
các hoạt động nặng nhọc như khâu làm đất, gieo mạ, giặt lúa, vận chuyển thủ
126 công. Khi phân tích về cơ cấu chi phí sản xuất lúa Đông Xuân cho thấy nông
dân Quảng Nam lao động thủ công nhiều hơn so với trung bình các tỉnh trên
toàn quốc (bảng 2.18). Chi phí lao động tự làm của nông dân Quảng Nam chiếm
31,39%; trong khi, tỉnh Vĩnh Long 14,6%, và tỉnh Nam Định là 21,5%.
Bảng 2. 18: Cơ cấu chi phí lúa đông xuân
CÁC CHI PHÍ
Quảng Nam
Vĩnh Long
Chi phí về giống
6,52
6,4
5,0
Chi phí phân bón
25,88
31,8
29,9
Thuốc bảo vệ thực vật
16,97
8,4
7,0
Chi phí thuê ngoài, lãi vay
19,24
35,8
36,6
Chi phí lao động tự làm
31,39
14,6
21,5
TỔNG
100
100
100 Nguồn: Báo cáo thường niên lúa gạo Việt Nam, 2009 và triển vọng 2010, tr. 80 [11]. Số liệu của Quảng Nam do tác giả khảo sát tại xã Tam Phước huyện Phú Ninh, tháng 3/2010.
Đơn vị tính: % Nam Định
Theo điều tra, các thanh niên trai trẻ của Quảng Nam rời bỏ làng quê đi tìm
việc tại các thành phố lớn trong cả nước, nên lực lượng lao động chính trong
nông nghiệp hiện nay tại Quảng Nam là những người lớn tuổi (Sở Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Quảng Nam, 2008) [4]. Với sự phân tán nguồn lực và
già hóa lao động trong nông nghiệp như trên, thì việc triển khai các biện pháp
thâm canh trong nông nghiệp Quảng Nam sẽ càng khó khăn hơn.
Tóm lại, vấn đề thâm canh trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời
gian qua thể hiện các hạn chế chủ yếu sau: 1) công nghệ tưới của hệ thống thủy
lợi còn lạc hậu, tốn nhiều nước, nhất là hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản
chưa được đầu tư thích đáng, trong khi ngành nuôi trồng thủy sản là thế mạnh
của Quảng Nam; 2) việc đầu tư cơ giới hóa vào các khâu sản xuất còn ở mức
thấp, lực cản của vấn đề này về cơ bản vẫn do lực lượng lao động trong nông
nghiệp còn quá nhiều. Việc giải phóng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ
là giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc đưa cơ giới vào thay sức người trong sản
127 xuất nông nghiệp vào những năm đến. Biện pháp này sẽ đi cùng với chuyển đổi
kinh tế nông thôn, phát triển các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp tại nông
thôn và nâng cao thu nhập của các hộ nông nghiệp.
2.2.6. Thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp
Tỉnh Quảng Nam là tỉnh nông nghiệp, nên từ những năm sau ngày thống nhất
đất nước, nhiều công trình hạ tầng phục vụ nông nghiệp được Nhà nước đầu tư,
trong đó công trình đại thủy nông Phú Ninh là một trong những công trình trọng
điểm phục vụ sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam. Đến năm 2010, nhiều kết
cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp được xây dựng như sau.
Về hệ thống thủy lợi. Cả tỉnh hiện có 73 hồ chứa nước lớn, nhỏ với tổng dung
tích hữu ích 420,2 triệu m3, đảm bảo tưới cho hơn 14.500 ha. Đập dâng kiên cố
có 728 đập; bình quân mỗi năm số công trình vừa nêu chủ động cung ứng nước
tưới cho khoảng 80.812 ha đất canh tác lúa và các loại hoa màu. Bảo đảm nước
tưới cho 85,6% diện tích gieo trồng lúa và 12.000 ha đất màu. Hệ thống đê ngăn
mặn dài 183 km, ngăn mặn cho 9.500 ha. Có 43,5 km kè chống sạt lở bờ sông
(Sở Nông nghiệp và PTNT, 2009) [7]. Hệ thống thuỷ lợi đã phát huy hiệu quả
phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên các mặt như tưới nước phục vụ phát triển
sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai hạn hán, nhiễm mặn trong vụ sản
xuất hè thu, giảm lũ sớm đầu mùa tháng 9 và lũ muộn vào tháng 12 bảo vệ sản
xuất. Các công trình thuỷ lợi cũng đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho nhân
dân trong vùng hưởng lợi.
Về hệ thống đường nông thôn và đường nội đồng. Ngoài hệ thống đường
quốc lộ, cả tỉnh Quảng Nam hiện có đường huyện lộ khoảng 1087 km và đưòng
xã có khoảng 3000 km; đường sông khoảng 500 km, trong 8 năm (2001 - 2008)
tỉnh đã bê-tông hóa được 2.096 km đường các loại với tổng kinh phí đầu tư trên
510 tỉ đồng. Hệ thống đường quốc lộ cùng với đường bộ, đường thuỷ nội địa,
cảng biển, sân bay đã nối liền các vùng kinh tế đồng bằng, trung du, miền núi và
các trung tâm đô thị trong tỉnh ra với cả nước và các nước đã góp phần tích cực
128 để nông sản của tỉnh Quảng Nam đến các thị trường ngày càng nhanh chóng.
Riêng đường nội đồng vẫn còn cấp phối đường đất, tỉnh có chủ trường kết hợp
dồn điền đổi thửa với qui hoạch lại đường nội đồng. Tuy nhiên, do địa hình bị
chia cắt và việc dồn điền đổi thửa không tiến triển nên hệ thống đường nội đồng
hầu như không phát triển thêm trong những năm qua.
Hệ thống điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Trong những năm qua, hệ
thống mạng lưới điện đã được đầu tư rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Hệ thống trạm
bơm điện có 230 trạm bơm điện trục ngang với tổng công suất 250.000 m3/h,
tưới cho 12.000 ha. Đến cuối năm 2010, đã có 96,6% số xã, 92,7% số thôn và
95,3% số hộ nông thôn được sử dụng điện. Đã có 224 bưu cục khu vực và bưu
điện văn hóa xã; bình quân 100 người dân có 0,88 người sử dụng In-tơ-nét và
17,44 người sử dụng điện thoại (Cục thống kê Quảng Nam, 2010) [17].
Ngoài những kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp cơ bản trên, những năm
qua tỉnh Quảng Nam đã đầu tư các cảng cá và âu thuyền tránh bão tại Cù Lao
Chàm, Cửa Đại và cửa Tam Hòa huyện Núi Thành, có trên 15 trạm trại với 15.000 m2, hàng trăm m2 nhà lưới cho vùng rau Trà Quế Hội An.
Mặc dầu, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Nam khá
phát triển, đảm bảo sản xuất nông nghiệp những năm qua phát triển ổn định.
Nhưng phải nói rằng các kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp còn lạc hậu,
thường bị hư hỏng sau mùa bão, lũ, nhất là các công trình thủy lợi, giao thông
nông thôn. Vốn đầu tư xã hội hàng năm dành cho nông nghiệp chỉ chiếm từ 3%
đến 4%; trong khi đó phần vốn ngân sách Nhà nước đầu tư vào nông nghiệp thì
90% chủ yếu dành cho thủy lợi và các chương trình kiên cố hóa kênh mương.
Còn lại các kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp khác như đường nội
đồng, sân phơi, kho tàng, khu chế biến,... chủ yếu do các hợp tác xã và nhân dân
đầu tư, nên qui mô nhỏ và tạm bợ, chưa đáp ứng cho một nền nông nghiệp phát
triển. Hiện nay, toàn tỉnh có 66 xã nghèo, trong đó có 53 xã đặc biệt khó khăn;
129 còn 29 xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm xã, trong khi nguồn ngân sách của
tỉnh chưa thể đáp ứng đủ để đầu tư kết cấu hạ tầng cho các xã này.
Đối với ngành nuôi trồng thủy sản, thiếu hệ thống thủy lợi là tình trạng chung
của nghề nuôi tôm nước lợ của nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Trong năm 2011, toàn bộ 15 ha nuôi tôm thẻ chân trắng của 20 hộ dân thuộc 2
xã Tam Quang và Tam Hải (Núi Thành) đều bị dịch bệnh gây hại. Theo nhiều
nông dân, nguyên nhân chính khiến cho tôm nuôi bị dịch bệnh và chết hàng loạt
là do chưa có hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Vấn đề quản lý, bảo dưỡng và vận hành các công trình thủy lợi tại Quảng
Nam vẫn còn nhiều lãng phí và thiếu đồng bộ. Hiện Công ty TNHH MTV Khai
thác Thủy lợi Quảng Nam – doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước được giao quản
lý và khai thác 17 hồ chứa, 25 trạm bơm điện, 3 đập dâng kiên cố, 27 đập dâng
bán kiên cố và đảm bảo tưới cho gần 46 ngàn ha. Số còn lại do các địa phương,
các hợp tác xã và cá nhân quản lý. Để vận hành các công trình này, ngoài 317
đơn vị quản lý công trình thủy nông độc lập, còn có 192 tổ chức thủy nông cơ sở
tham gia đảm trách phần kênh mương nội đồng thuộc hệ thống các công trình
thủy lợi do Công ty quản lý. Đây là các tổ chức hợp tác dùng nước giữa Công ty
và các hợp tác xã địa phương, nguồn kinh phí được thu từ phí nội đồng khoảng
300 ngàn đồng/ha/vụ. Theo lãnh đạo của Công ty, với cơ chế mỗi thủy nông
viên quản lý 16 ha đất canh tác thì tổng số tiền mà thủy nông viên thu được
trong một vụ sản xuất là 4,8 triệu đồng, bình quân mỗi tháng thủy nông viên
được trả thu nhập khoảng 1,5 triệu đồng. Với mức thu nhập như vậy, nhiều thủy
nông viên đã bỏ việc và vì vậy mà việc cung ứng nước tưới trên hàng loạt cánh
đồng gặp rất nhiều khó khăn. Nói rõ hơn, không có “ông dẫn nước” nên nhiều
nơi đã xảy ra tình trạng ruộng lúa nhiều nơi thừa nước, có nơi bị khô hạn.
Dù mức đầu tư đầu tư vào nông nghiệp còn ở mức thấp, nhưng phải nói
những năm qua, tỉnh Quảng Nam tập trung rất nhiều nguồn lực cho thủy lợi,
giao thông nông thôn, và điện phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điều này đóng góp
130 rất lớn vào sự phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm qua, tuy nhiên
kết cấu hạ tầng vẫn còn lạc hậu, tính kiên cố còn thấp hay bị hư hỏng sau mỗi
mùa lũ lụt và việc quản lý vận hành các công trình này vẫn còn nhiều vấn đề cần
phải được giải quyết trong thời gian đến.
2.2.7. Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của nông nghiệp tỉnh Quảng
Nam thời gian qua
a. Kết quả sản xuất nông nghiệp đạt được qua các năm
Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp của Quảng Nam tăng trưởng bình quân
giai đoạn 1997-2010 chỉ đạt 2,45% (bảng 2.19), thấp hơn so với các tỉnh vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung (từ 3,8% đến 4,2%) và so với bình quân cả nước
trong giai đoạn này là 3,80%.
Bảng 2. 19: Các chỉ tiêu tăng trưởng GDP của Quảng Nam giai đoạn 1997-
1997 2000 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Bình quân 1997-2010
Nền kinh tế
8,9
7,3
12,5
13,5
14,4
12,7
11,1
12,5
11,25
Nông nghiệp
2,9
2,4
2,8
3,9
2,8
0,9
0.5
1.3
2,45
17,3
14,5
21,3
21,6
22,1
17,7
16,1
18,0
18,70
Công nghiệp và XD
Dịch vụ
14,1
9,2
13,9
14,0
15,7
15,5
11,9
12,5
12,07
Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
2010 Đơn vị tính: %
Ở Quảng Nam, đất sản xuất nông nghiệp bình quân là 0,41 ha/hộ nông
nghiệp, trong khi bình quân quân cả nước là 0,63 ha, Quảng Ngãi là 0,36 ha và
Bình Định là 0,43 ha. Bảng 2.20 thể hiện sản lượng các nông sản, thủy sản và
chăn nuôi của Quảng Nam tăng trưởng đều qua các năm nhưng tốc độ tăng
trưởng không cao, trừ ngành rau đậu. Năm 2010, sản lượng lương thực có hạt
bình quân đầu người của Quảng Nam là 328 kg/năm; trong khi bình quân cả
131 nước là 510 kg. Sản lượng thủy sản bình quân đầu người của Quảng Nam cũng
thấp so với bình quân cả nước. Năm 2010, thủy sản của Quảng Nam đạt 53,2 kg/người/năm, trong khi bình quân cả nước là 59 kg/người/năm18.
Bảng 2.20: Các nông, thủy sản chủ yếu của Quảng Nam giai đoạn 2000-
2010 Đơn vị tính: Tấn
Các nông sản
2000
2006
2007
2008
2009
2010
Sản lượng lúa
329.958
385.159
395.095
380.528
394.412
415.566
Ngô
26.494
48.276
51.176
54.074
50.142
52.700
Khoai
58.727
54.660
50.370
43.704
35.371
35.210
Sắn
115.026
191.210
199.322
199.789 195.935
196.050
Rau, đậu các loại
98.084
175.604
188.160
201.680
191.209
192.269
Mía
170.358
45.888
46.471
38.465
24.298
19.960
Thuốc lá
2.157
1.376
949
780
1.046
1.098
Chè (Búp tươi)
1.935
815
821
845
873
520
Cao su (Mủ tươi)
-
34
186
500
866
3.989
Hồ tiêu
22
208
205
252
388
410
Sản lượng thủy sản
39.871
55.578
59.598
64.841
71.648
75.941
+ Khai thác
37.050
48.996
50.556
52.643
54.836
55.875
+ Nuôi trồng
2.821
6.582
9.042
12.198
16.812
20.066
Trâu, bò (con)
229.771
312.655
321.419
309.507
289.825
290.200
Lợn (con)
474.116
587.875
578.690
586.319
578.480
590.300
Gia cầm(1000con)
3.568
3.398
3.410
3.531
3.655
3.817 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010
Nếu xem xét về ngư trường đánh cá và mặt nước nuôi trồng thủy sản thì
Quảng Nam có lợi thế không thua gì các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung; tuy nhiên, việc sản lượng nông sản của Quảng Nam những năm qua tăng
trưởng không cao có nguyên nhân từ chất lượng các nguồn lực trong sản xuất
nông nghiệp không được đầu tư đúng mức. Nhiều cánh đồng ở huyện Điện Bàn,
Duy Xuyên, Thăng Bình, Tam Kỳ ở Quảng Nam đạt 6,5 tấn/ha/vụ, cao hơn bình
quân cả nước là 5,3 tấn/ha/vụ; nhưng nhiều cánh đồng ở vùng trung du miền núi 18 Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2010.
132 chỉ đạt sản lượng thấp (từ 1,9 đến 2,5 tấn/ha/vụ); ngoài ra, mỗi năm ở Quảng
Nam còn gánh chịu nhiều cơn bão và lũ cũng như dịch bệnh, nên đã gây nhiều
tổn thất đối với sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, thu hút đầu tư để nâng cao
năng lực sản xuất cho nông nghiệp Quảng Nam vẫn còn hạn chế, năng lực đánh
bắt thủy sản của Quảng Nam còn thấp so với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung; năm 2010, công suất tàu đánh bắt xa bờ của Quảng Nam chỉ 41.600
CV, trong khi Quảng Ngãi là 195.700 CV, Bình Định là 265.500 CV, vượt xa về
năng lực đánh bắt so với Quảng Nam.
b. Tình hình tiêu thụ và xuất khẩu nông sản
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước, đáp ứng nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho thành phố Đà Nẵng, các khu du lịch và các khu công
nghiệp tại vùng trọng điểm kinh tế miền Trung; đối với nông sản xuất khẩu,
những năm qua tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả sau:
Về qui mô các ngành hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của
Quảng Nam tăng liên tục qua các năm; năm 2000, kim ngạch xuất khẩu chỉ là 7
triệu USD, đến năm 2010 đã tăng lên 37,5 triệu USD, chiếm 13,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu toàn tỉnh (chỉ chiếm 0,2% so với 19 tỷ USD xuất khẩu nông sản
của toàn quốc). Ngành hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm gỗ, mây tre, quế, hải
sản và yến sào. Những năm gần đây đã tăng thêm các ngành hàng xuất khẩu mới
như nguyên liệu giấy, tinh bột sắn, nhân hạt điều. Trong các ngành hàng thì
hàng thủy sản luôn chiếm từ 43% đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản
và tốc độ tăng bình quân đạt 20%/năm; trong khi hàng nông lâm sản chỉ tăng trưởng khoảng 5,5%/năm19 (xem bảng 2.21).
Năm 2010, bình quân xuất khẩu của tỉnh là 81USD/lao động nông nghiệp, và
giá trị xuất khẩu đạt 335 USD/ha, trong khi đó bình quân toàn quốc là 685
USD/lao động nông nghiệp và 1.706 USD/ha. So với Hà Lan là nước có nền
nông nghiệp phát triển thì mức xuất khẩu trên một đơn vị diện tích canh tác đạt 19 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
133 18.570 USD/ha (không tính hàng thuỷ sản), cao hơn hẳn Việt Nam và các nước
khác (Nguyễn Công Tạn, 2005) [79].
Bảng 2. 21: Các ngành hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của
Quảng Nam giai đoạn 2001-2010 (Đơn vị tính: 1000 USD)
2001
2005
2006
2009
2010
1. Hàng thuỷ hải sản
7,791
22,711
26,414
23,973
30,653
- Hải sản đông
2,977
16,149
10,797
11,840
21,101
2. Hàng nông sản
1,631
6,579
3,709
20,753
6,875
- Nhân hạt điều
945
3,950
1,538
2,221
908
345
647
625
522
686
- Quế Nguồn : Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010
Tính bền vững của các ngành hàng xuất khẩu. Ngoài ngành hàng thủy sản và
tinh bột sắn đang trở thành ngành hàng có nhu cầu lớn cả trong nước và quốc tế;
còn những ngành hàng như nguyên liệu giấy, gỗ, mây tre, hồ tiêu, quế và nhân
điều xuất khẩu không ổn định vì có lý do từ nguồn cung và từ thị trường. Những
năm qua, cây quế không xuất khẩu được vì thị trường Đài Loan giảm mua, nên
nông dân chặt cây quế để trồng cây keo xuất khẩu; nhưng từ năm 2007, giá
nguyên liệu giấy xuống nhanh do thị trường Nhật Bản dừng nhập khẩu nên
người trồng keo điêu đứng. Ngành gỗ, mây tre, song mây và hồ tiêu do nguồn
cung không ổn định và khối lượng cung nhỏ nên đơn hàng xuất khẩu phải qua
các trung gian. Ngành tinh bột sắn phát triển khá ổn định, nhưng công nghiệp
chế biến tinh bột sắn gây ô nhiễm môi trường nên ngành công nghiệp này đang
đối diện với chi phí tăng do tăng chi phí xử lý môi trường. Ngành hàng thủy sản
lại quá phụ thuộc vào đánh bắt (tỷ lệ đánh bắt chiếm 73,6%), đến mùa mưa bão
không đánh bắt được nên nguồn nguyên liệu cho chế biến không có, làm ảnh
hưởng đến tính bền vững của xuất khẩu thủy sản.
Các đơn vị tham gia xuất khẩu và thị trường xuất khẩu. Hiện tại Quảng Nam
có 56 đơn vị tham gia xuất khẩu. Không kể các hợp tác xã, các doanh nghiệp tư
134 nhân trong và ngoài tỉnh tham gia thu mua nông sản xuất khẩu như Công ty
Vijachip Đà Nẵng thu mua hầu hết nguyên liệu giấy tại Quảng Nam để xuất
khẩu đi Nhật Bản qua cảng Đà Nẵng; còn lại 10 công ty tại Quảng Nam tham
gia xuất khẩu các ngành hàng nông sản và thủy sản, nhưng chủ yếu vẫn tập
trung ở Công ty Xuất Nhập Khẩu Quảng Nam, Công ty TNHH Đông An, Công
ty TNHH Đông Phương. Về thị trường, ngoài thị trường khu vực Đông Nam Á
như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan,… các
hàng nông sản của Quảng Nam đã xâm nhập vào các thị trường Bắc Mỹ và EU
trong những năm gần đây. Tuy nhiên, do qui mô và khả năng xúc tiến mở rộng
thị trường còn hạn chế; các hàng xuất khẩu trực tiếp tại địa phương chỉ chiếm 42%20, còn lại do các đơn vị ngoài tỉnh thực hiện.
c. Hiệu quả kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển nông nghiệp của
tỉnh Quảng Nam
Những năm qua, kết quả sử dụng đất đai, lao động và vốn của nông nghiệp
Quảng Nam như sau: 1) Hiệu quả sử dụng đất đai tại Quảng Nam còn thấp, vì
giá trị sản phẩm bình quân thu được của ngành trồng trọt và nuôi trồng thủy sản
tại Quảng Nam chỉ đạt 38,5 triệu đồng/ha (năm 2010), thấp so với trung bình
toàn quốc là 43,6 triệu đồng/ha. 2) Hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp cũng
rất thấp; năm 2010, năng suất lao động xã hội nông nghiệp Quảng Nam đạt 11,2
triệu đồng/lao động nông nghiệp, so với cả nước là 17,4 triệu đồng/lao động
nông nghiệp, chỉ bằng 0,65 lần. 3) Kết quả đầu tư vào nông nghiệp tại Quảng
Nam những năm qua biểu hiện không có hiệu quả (xem hình 2.3); từ năm 2001
đến 2007, tốc độ tăng đầu tư vào nông nghiệp nhanh hơn tốc độ tăng GDP nông
nghiệp; điều này thể hiện vốn đầu tư vào nông nghiệp Quảng Nam đã không
đem lại những thay đổi cơ cấu sản xuất tiến bộ, chuyển đổi kinh tế nông thôn
chậm và không nâng cao được năng suất lao động trong nông nghiệp. Tuy nhiên,
kể từ năm 2008 đến 2010, tốc độ tăng GDP nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam và 20 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010.
135 cả nước nhanh hơn tốc độ đầu tư, điều này có liên quan đến biến động giá nông
i
) 6 9 9 1 c ố g m ă n i
p ệ h g n g n ô n ố s n â d , n ố v , g n ợ ư
ớ v o s n ê l g n ă t n ầ l ố s (
l n ả S
sản trên thế giới tăng cao.
Hình 2.3: Chiều hướng tăng trưởng sản lượng, vốn đầu tư của Quảng Nam
và cả nước giai đoạn 1996-2010
Hội nhập kinh tế thấp hơn so với bình quân cả nước, cũng là nguyên nhân
làm cho nông nghiệp Quảng Nam luôn đạt hiệu quả kinh tế thấp hơn: 1) Mức độ
tham gia xuất khẩu nông sản thấp; năm 2010, bình quân xuất khẩu nông sản của
tỉnh Quảng Nam chỉ đạt 81 USD/lao động nông nghiệp và 335 USD/ha; trong
khi, bình quân xuất khẩu nông sản toàn quốc là 685 USD/lao động nông nghiệp
và 1.706 USD/ha. 2) Hội nhập thấp làm cho giá bán nông sản Quảng Nam nói
riêng và duyên hải miền Trung nói chung luôn thấp hơn so với các tỉnh Đồng
bằng Sông Cứu Long và Sông Hồng; đặc biệt chênh lệch giá lúa giữa miền
Trung và các tỉnh vựa lúa hai đầu luôn ở mức từ 500 đồng/kg thóc đến 1.200
đồng/kg thóc (bảng 2.22). Chi phí cao vì điều kiện tự nhiên không thuận lợi,
nhưng giá bán thấp hơn, nên lợi nhuận từ sản xuất lúa ở miền Trung và Quảng
136 Nam chỉ là 9,0%, trong khi tỉnh Bạc Liêu có lợi nhuận 86,6% và tỉnh Thái Bình
là 24,9%.
Bảng 2.22: Chi phí, giá bán và lợi nhuận của 1 kg thóc tại các vùng trong cả
nước
Đơn vị tính Quảng Nam
Bạc Liêu
Thái Bình
Chi phí 1 kg thóc
Đồng
3670
2.263
3.949
Giá bán 1 kg thóc
Đồng
4000
4.223
4.365
Lãi 1 kg thóc
Đồng
330
1.960
871
%
9,0%
86,6%
24,9%
Tỷ lệ lợi nhuận/chi phí
Nguồn: Báo cáo Thường niên lúa gạo Việt Nam năm 2009 và triển vọng năm 2010,
2009, tr. 20 [11], và số liệu của Quảng Nam do tác giả khảo sát tại xã Tam Phước,
huyện Phú Ninh tháng 3/2010.
Những năm qua, theo số liệu điều tra thu nhập của Cục thống kê Quảng
Nam, thu nhập của các hộ dân tại khu vực nông thôn đã tăng từ 1,09 triệu đồng/
người vào năm 1997, lên 3,54 triệu đồng/người vào năm 2008. Tuy nhiên, sự gia
tăng thu nhập trên chưa làm cho các hộ dân ở nông thôn khá lên mà chỉ cho thấy
họ đang trở nên nghèo tương đối so với người dân ở thành thị. Từ năm 1997 đến
2008, thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh tăng 5,4 lần, trong đó khu vực
nông thôn thu nhập chỉ tăng 3,24 lần. Kết quả sau 12 năm, dãn cách về thu nhập
giữa nông thôn và thành thị ngày càng dãn ra; năm 1997, dãn cách thu nhập giữa
nông thôn so với trung bình toàn tỉnh là 1,98 lần, thì đến năm 2008 đã tăng lên
3,3 lần.
Cũng theo kết quả khảo sát, thu nhập bình quân của nhóm hộ giàu nhất với
nhóm hộ nghèo nhất năm 2002 là 4,80 lần; năm 2004 là 5,44 lần; năm 2006 là
5,69 lần và năm 2008 là 5,73 lần. Như vậy từ năm 2002 đến năm 2008 mức tăng
sự phân hoá giàu nghèo của tỉnh tăng 19,4% (Cục Thống Kê Quảng Nam, 2010,
tr. 35) [17].
137
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, trong 5 năm từ 2004 đến 2009, tỉnh
Quảng Nam có 28.155 lao động đi làm việc tại các thành phố lớn thì có đến
20.903 lao động tại nông thôn, chiếm 74,2% . Chỉ riêng xã Điện Quang có 5.500 lao động nông nghiệp thì có đến 1.000 thanh niên (chiếm 18,2%21) đi làm việc
tại thành phố Hồ Chí Minh. Những hộ gia đình có người rời bỏ nông nghiệp đi
làm xa có thu nhập rất cao so với những hộ chỉ sống bằng nông nghiệp tại địa
phương.
Qua đó cho thấy rằng, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm trong khi việc
dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác không nhanh nên thu
nhập tại nông thôn thấp hơn bình quân cả nước. Nếu không đa dạng hóa ngành
nghề tại nông thôn, nhất là việc chuyển đổi cây trồng vật nuôi đem lại giá trị
kinh tế cao và phát triển các làng nghề nhằm tăng thời gian lao động tại nông
thôn, tăng thu nhập, thì nông hộ Quảng Nam rất khó nâng cao được thu nhập. Vì
vậy mà tỷ lệ hộ nghèo ở Quảng Nam (năm 2010 là 19,65%) luôn cao hơn so với
trung bình cả nước (năm 2009 là 12,3%). Số hộ nghèo năm 2000 so năm 1996
giảm 26.068 hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 27% xuống còn 16,84%, bình quân mỗi
năm giảm được 2,55%. Năm 2005 so với năm 2000 đã giảm 36.918 hộ, tỷ lệ hộ
nghèo từ 23,27% giảm còn 10,94%, bình quân mỗi năm giảm 3,1%. Như vậy: ở
giai đoạn 2001-2005 tốc độ giảm hộ nghèo tương đối nhanh so với giai đoạn
1996-2000. Năm 2006-2007, tỷ hộ nghèo toàn tỉnh là 26,7% theo chuẩn mới;
đến năm 2009, toàn tỉnh còn 71.479 hộ nghèo/363.575 hộ dân, chiếm tỷ lệ
19,6%, giảm 3,6% so với năm 2008, tương đương giảm 10.727 hộ (UBND tỉnh
Quảng Nam, 2009, tr. 8) [3]. Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn 17% vẫn còn rất cao
so với toàn quốc (10,6%). Trong khi đó, vùng núi và vùng các dân tộc thiểu số
chiếm tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao từ 50% đến 70%.
Có thể kết luận rằng, hiệu quả kinh tế, xã hội của nền nông nghiệp Quảng
Nam những năm qua đạt chưa cao. Khi phân tích các nội dung về tăng trưởng 21 Khảo sát thực tế của tác giả tại xã Điện Quang tháng 3 năm 2010.
138 nông nghiệp, phát triển xã hội nông thôn, hội nhập thị trường nông sản xuất
khẩu, vấn đề đổi mới chính sách nông nghiệp nông thôn trong quá trình hội nhập
cho thấy tỉnh Quảng Nam luôn đạt ở mức thấp so với trung bình cả nước, một
số tỉnh tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và một số địa phương trong cả
nước.
Việc xác định những nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong phát
triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua là cần thiết nhằm tìm ra các
giải pháp để khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển nông nghiệp
của tỉnh Quảng Nam khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
toàn cầu.
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM THỜI GIAN QUA
Những thành quả của nông nghiệp Quảng Nam những năm qua so với 81,2%
dân số nông thôn sống chủ yếu bằng nông nghiệp quả thật là khiêm tốn. Nguồn
lao động dồi dào, thời tiết thuận lợi, tài nguyên nước, hải sản, đất đai, rừng
phong phú và đa dạng. Nhưng sản lượng hàng hóa vẫn tăng trưởng chậm; cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm; ngành hàng
nông sản phát triển không ổn định, khả năng hội nhập nông sản thấp; thu nhập
GDP đầu người tăng chậm và tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn ở mức cao so với cả nước
và các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tất cả những hạn chế trên đã
làm làm nền nông nghiệp Quảng Nam không đạt được hiệu quả kinh tế xã hội
cao.
Những hạn chế trong quá trình phát triển của nông nghiệp Quảng Nam được
đánh giá như trên, chính là do các nguyên nhân cơ bản sau.
2.3.1. Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên
Những nguyên nhân do điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển nông
nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian qua chủ yếu là do yếu tố thời tiết bất lợi và
dịch bệnh trong chăn nuôi.
139
a. Những biến động thất thường của thời tiết
Các thiên tai xảy ra hàng năm tại Quảng Nam làm ngành nông nghiệp, thủy
lợi, và giao thông nông thôn luôn bị tổn thất từ 50% đến 70% (xem bảng 2.23).
Bảng 2.23: Tỷ lệ thiệt hại của ngành nông nghiệp, thủy lợi và giao thông
Năm 2000
Năm 2003
Năm 2005
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
139
132
121
1600
155
3600
Tổng thiệt hại (Tỷ đồng)
30
31
Nông lâm thủy sản (%)
40
6
43
41
Thủy lợi (%) Giao thông (%)
22 24
14 22
25 4
12 14
4 10
17 8 Nguồn: Báo cáo của Ban phòng chống lụt bão của tỉnh Quảng Nam năm 2010
nông thôn do lũ lụt qua các năm
Thời tiết bất lợi thường xảy ra hàng năm ở Quảng Nam gồm bão, lũ lụt, gió
mùa đông bắc, và gió tây nam khô nóng, ngoài ra có các hiện tượng bất lợi xảy
ra trong thời gian ngắn như dông, gió lốc và mưa đá. Tần suất xuất hiện các hiện
tượng thời tiết bất lợi tại Quảng Nam thấp hơn các tỉnh phía Bắc, tuy nhiên vẫn
có những “trận lũ lịch sử” như năm Thìn (1964), năm 1998, hoặc cơn bảo số 6
năm 2006 gây thiệt hại rất lớn về sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam. Một
điều nguy hiểm là tốc độ truyền lũ ngày càng nhanh hơn nên sức tàn phá của các
cơn lũ cũng khốc liệt hơn, điều này xuất phát từ nạn đào đãi vàng và phá rừng
xảy ra phổ biến tại các rừng ở Quảng Nam. Riêng vào mùa nóng, Quảng Nam
hay xuất hiện dông sét, mưa đá và gió lốc gây tổn thất rất nhiều cho mùa màng,
nhất là tại các huyện Đại Lộc, Nông Sơn, Phước Sơn, Trà My, được xem là nơi
có mật độ dông sét lớn nhất Quảng Nam và cả nước (Đinh Phùng Bảo, 2001, tr.
69) [12].
Năm 2007, xảy ra 04 đợt lũ liên tiếp trong vòng một tháng đã gây rất nhiều tổn
thất người và tài sản của các vùng nông thôn phía hạ lưu. Có 42 người chết, 165
người bị thương qua các đợt lũ. Hơn 200.000 nhà dân, trường học, bệnh xá, cơ
quan và địa phương bị cô lập dài ngày, nhất là khu vực miền núi và ven sông Thu
140 Bồn, Vu Gia. 9.600 ngôi nhà, phòng học và trạm y tế bị xiêu vẹo, sập đổ và cuốn
trôi. 25.000 tấn lương thực hư hỏng và cuối trôi; 5.000 ha màu, 500.000 cây lâm
nghiệp bị hư hỏng. 5.000 ha ruộng bị bồi đắp, sạt lở; 50 tàu cá bị chìm, trôi mất
tích. 5.000 mét kè, kênh mương bị sạt lở, hư hại; nhiều công trình thủy lợi quan
trọng như đập Đại Cường, hồ chứa nước Trà Cân bị hư hại nặng. Tổng thiệt hại
vật chất của các đợt lũ trên 1.600 tỷ đồng. Riêng năm 2009, bão lũ gây thiệt hại
lên đến 3.600 tỷ đồng (UBND tỉnh Quảng Nam, 2009, tr 8) [3].
b. Dịch bệnh trong chăn nuôi
Do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm từ đầu năm 2004 và quí I năm 2005 nên
tính đến 1/7/2006 đàn gia cầm chỉ bằng mức năm 1999 và giảm 16,9% so với
năm 2003, là năm trước khi dịch cúm xảy ra (Cục thống kê Quảng Nam, 2010)
[17]. Không chỉ dịch bệnh của gia súc như bệnh lỡ mồm long móng, bệnh dịch
tai xanh ở lợn; dịch cúm ở gia cầm; những năm vừa qua, bệnh dịch ở tôm cũng
gây rất nhiều tổn thất cho các trang trại nuôi trồng thủy sản ở Quảng Nam.
Thời tiết và dịch bệnh đã gây ra nhiều tổn thất cho sản xuất nông nghiệp. Tuy
nhiên, nhờ vào việc điều chỉnh mùa vụ mà tổn thất do thời tiết bất lợi gây ra cho
cây trồng không đáng kể; trái lại, các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, con tôm
đã làm cho ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển nông nghiệp và đến thu nhập của nông dân. Nếu việc thực hiện qui
trình chăn nuôi tốt (VietGAP) đúng đắn và tuân thủ đầy đủ qui trình phòng ngừa
dịch bệnh thì có lẽ ngành chăn nuôi của Quảng Nam không phải chịu nhiều tổn
thất như những năm vừa qua. Đây cũng là bài học để hệ thống thú y, khuyến
nông, khuyến ngư của Quảng Nam hoạt động hiệu quả hơn vào những năm đến.
Bên cạnh đó, hệ thống bảo hiểm cây trồng, vật nuôi chưa được các công ty bảo
hiểm tham gia vì hoạt động bảo hiểm trong nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro,
trong khi chi phí nghiệp vụ bảo hiểm tăng cao. Tất cả những tổn thất từ thiên tai
và dịch bệnh nhưng không được bù đắp để duy trì khả năng sản xuất ổn định đã
141 là những nguyên nhân đóng góp vào sự kém phát triển nông nghiệp của tỉnh
Quảng Nam những năm qua.
2.3.2. Những nguyên nhân do trình độ phát triển và sử dụng các nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp
Nguồn lực gắn liền với sản xuất nông nghiệp bao gồm đất đai, lao động, vốn,
khoa học công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Đất đai không đổi, nhưng dân số
gia tăng, trong khi những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất không thay đổi sẽ đưa
đến qui luật năng suất giảm dần xảy ra. Khi nói đến sự đóng góp của các nguồn
lực tạo ra sự tăng trưởng, mô hình số dư Solow được áp dụng tính cho sự tăng
trưởng chung của nền kinh tế và của khu vực nông nghiệp tại Quảng Nam giai
đoạn 1997-2010 thể hiện qua bảng 2.24.
Bảng 2.24: Tỷ trọng đóng góp của lao động, vốn và TFP vào tăng trưởng của nông nghiệp Quảng Nam và cả nước giai đoạn 1997-2010 22
Lao động
Vốn
TFP
%GDP
44,95%
23,2%
31,8%
3,80%
Nông nghiệp cả nước
67,3%
23,8%
8,9%
2,45%
Nông nghiệp Quảng Nam
Nó cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế và của nông nghiệp
tỉnh Quảng Nam chủ yếu do sự đóng góp của lao động, còn đóng góp của tiến
bộ khoa học công nghệ áp dụng vào sản xuất còn rất nhỏ bé. Giai đoạn này,
đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp do vốn là 23,8%, lao động là 67,3% và
tổng năng suất các yếu tố chỉ là 8,92%; so với nông nghiệp cả nước, đóng góp
của vốn là 23,2%, còn lao động là 44,95% và tổng năng suất các yếu tố có khá
hơn 31,8%.
Như vậy, không chỉ nền kinh tế, mà khu vực nông nghiệp tỉnh Quảng Nam
còn rất lạc hậu, vấn đề số lượng và chất lượng các nguồn lực trong sản xuất
22 Xem phụ lục 1
nông nghiệp cần phải được nâng cao hơn nữa. Hầu như các đầu tư của Nhà nước
142 cho nông nghiệp chủ yếu tập trung vào xây dựng, bảo dưỡng, sửa chữa các công
trình thủy lợi; đặc biệt ngân sách các cấp đầu tư trực tiếp cho công tác khuyến
nông, khoa học công nghệ, hỗ trợ sản xuất trong những năm qua tăng không
đáng kể. Việc đầu tư thấp đã làm tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp chậm
so với các ngành khác của nền kinh tế (UBND tỉnh Quảng Nam, 2009) [3].
Chất lượng lao động trong nông nghiệp còn thấp và đa số lao động lớn tuổi vì
đa số thanh niên đến tuổi lao động rời quê tìm việc tại các thành phố. Hầu hết
lao động tại nông thôn chưa qua đào tạo chiếm 91,1%; các chủ trang trại, nông
dân sản xuất giỏi có trình độ văn hóa thấp và chưa qua các lớp đào tạo về quản
lý, kỹ thuật; bên cạnh đó, thời gian lao động cũng chỉ đạt 79,08% thời gian trong
năm (Cục thống kê Quảng Nam, 2010) [17].
Đầu tư của các hộ nông dân Quảng Nam cho máy kéo, phương tiện vận
chuyển, máy sấy nông sản, máy chế biến thức ăn gia súc đạt mức thấp so với cả
nước và các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Nếu so sánh giữa các khu vực
trong tỉnh Quảng Nam thì trình độ cơ khí hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn rất khác nhau. Các huyện, thị cánh
Bắc (Điện Bàn, Hội An, Đại Lộc, Duy Xuyên…) có số máy kéo lớn đạt 3,05
chiếc/100 ha, máy kéo nhỏ đạt 4,08 chiếc/100 ha; còn các huyện cánh Nam
(Thăng Bình, Núi Thành, Phú Ninh, Quế Sơn…) chỉ đạt: máy kéo lớn 0,96
chiếc/100ha, máy kéo nhỏ 1,48 chiếc/100 ha; các huyện miền núi thì số lượng
máy móc phục vụ trong nông nghiệp còn ít và không đáng kể (Sở Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, 2008, tr. 3) [5].
Năng lực liên kết kinh tế “thấp” của các đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản
tại Quảng Nam đã làm cho năng lực cạnh tranh của các đơn vị sản xuất và tiêu
thụ luôn ở thứ hạng thấp nên nông nghiệp Quảng Nam khó phát triển nhanh.
Giá trị sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam chủ yếu dựa vào các nông
hộ. Qua phân tích cho thấy các nông hộ và các trang trại tại Quảng Nam chủ yếu
sử dụng lao động thủ công, trình độ áp dụng thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học
143 hóa, sinh học hóa, điện khí hóa và tự động hóa luôn ở mức thấp. Bên cạnh đó
chưa có mối liên kết ngang trong sản xuất nên chưa tạo nên các vùng sản xuất
chuyên canh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công nghiệp chế biến không phát
triển làm cho đầu ra của nông sản không ổn định, lúc được mùa thì rớt giá, sản
xuất và tiêu thụ nông sản luôn trong tình trạng bấp bênh. Để tiêu thụ nông sản,
nông dân tại Quảng Nam dựa vào thu gom cá nhân là chủ yếu. Cam kết tiêu thụ
sản phẩm với thương lái chủ yếu là cam kết miệng, khi thị trường biến động thì
Thương lái
Nông dân
Giá xuất đi Trung Quốc - Cao nhất: 12000 đ/kg - Thấp nhất: 5000 đ/kg
Giá bán dưa hấu - Cao nhất: 3000 đ/kg - Thấp nhất: 800 đ/kg
Giá thương lái - Cao nhất: 7000 đ/kg - Thấp nhất: 1600 đ/kg
Giá tiêu dùng trong nước -Tại Metro: 7800 đ/kg - Tại chợ + Cao nhất: 8000 đ/kg + Thấp nhất: 4000 đ/kg
người chịu rủi ro chính là nông dân.
Hình 2.4: Chuỗi tiêu thụ dưa hấu vụ mùa 2010 tại Quảng Nam23
Hình 2.4 là chuỗi tiêu thụ dưa hấu của vụ mùa năm 2010 tại Quảng Nam. Chi
phí sản xuất dưa của nông dân khoảng 1200 đồng/kg. Khi được giá thì giá bán là
3000 đồng/kg, và thương lái giao hàng thường gấp đôi khi mua tại ruộng của
nông dân. Nhưng khi mất giá chỉ bán được 800 đồng/kg và thương lái cũng
được gấp đôi. Trong khi đó giá tại siêu thị Metro hầu như ít thay đổi giá, còn giá
tại các chợ Đà Nẵng và xuất khẩu đi Trung Quốc biến động theo giá vụ mùa và
phụ thuộc vào tình hình nhập hàng qua cửa khẩu Trung Quốc.
Việc không kiểm soát được giá đầu ra vì nông dân không liên kết lại để đáp
ứng các đơn hàng cho những nhà bán lẻ lớn như Metro mà chỉ sản xuất đơn lẻ
23 Khảo sát của tác giả vào tháng 4/2010 tại Tam Phước, Phú Ninh; siêu thị Metro; và tại Đà Nẵng.
và tiêu thụ qua thương lái là chủ yếu.
144
Như vậy, việc không nâng cao được khả năng cạnh tranh của các đơn vị sản
xuất và tiêu thụ nông sản tại Quảng Nam có nguyên nhân từ qui mô nhỏ lẻ và
phân tán của các đơn vị này. Nhưng theo kinh nghiệm của các trang trại nhỏ tại
Hà Lan, nếu biết liên kết ngang và tổ chức sản xuất chuyên môn hóa thì khả
năng nâng cao năng lực cạnh tranh của các nông hộ và trang trại nhỏ tại Quảng
Nam là khả thi. Hiện tại, có những mô hình liên kết làm nâng cao khả năng cạnh
tranh của cả đơn vị sản xuất và tiêu thụ nông sản như các nông dân tại làng rau
Trà Quế thông qua hợp tác xã Cẩm Hà ký hợp đồng cung ứng rau cho các siêu
thị Big C và Metro; hoặc nông dân tại xã Điện Quang trồng ớt xuất khẩu thông
qua hợp đồng giữa Hợp tác xã Điện Quang với đối tác nước ngoài; hoặc các
HTX Điện Minh 2, Điện An 2, Điện An 3, Điện Hồng, Điện Phước liên kết cùng
nông hộ sản xuất lúa giống, ngô giống để cung ứng thị trường trong và ngoài
tỉnh, giá của lúa giống, ngô giống gấp 1,5 đến 2 lần so với giá lúa thịt thương
phẩm; và để bảo vệ quyền lợi của HTX nông nghiệp sản xuất kinh doanh giống,
các HTX ở huyện Điện Bàn đã liên kết thành lập Hiệp hội sản xuất kinh doanh
giống cây trồng huyện Điện Bàn. Đây là những mô hình liên kết hiệu quả cần
nhân rộng cho các ngành hàng khác trên qui mô toàn tỉnh.
Tóm lại, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam chưa
được khai thác hiệu quả vì kỹ thuật, phương tiện canh tác còn lạc hậu, liên kết
kinh tế không hiệu quả; không chỉ trong khu vực nông nghiệp mà phần còn lại
của nền kinh tế Quảng Nam đều nằm trong tình trạng trên. Chính vì vậy, việc
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tại Quảng Nam cần phải có
giải pháp phù hợp; không chỉ đẩy mạnh đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, mà tiến hành đồng thời với việc rút
nhanh chóng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị
trường, thúc đẩy các mối liên kết kinh tế để từng bước nâng cao trình độ phát
triển và sử dụng các nguồn lực của các đơn vị sản xuất nông nghiệp tại Quảng
Nam trong những năm đến.
145
2.3.3. Những nguyên nhân do công tác quản lý trong nông nghiệp
a. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp còn hạn chế
Về đầu tư, kể từ khi chia tách, tỉnh Quảng Nam dồn sức từ mọi nguồn đầu tư
để phát triển công nghiệp. Hình 2.5 thể hiện mức đầu tư trên mỗi lao động giai
đoạn 1996-2010; năm 1996, mức đầu tư cho mỗi lao động nông nghiệp là 0,26
triệu đồng, còn lao động ngành công nghiệp và dịch vụ là 2,75 triệu đồng, gấp
10,4 lần so với lao động nông nghiệp; năm 2010, mức đầu tư cho mỗi lao động
Triệu đồng
Mức đầu tư/Lao động CN &DV
0.923
Mức đầu tư/Lao động nông nghiệp
nông nghiệp là 0,92 triệu đồng, còn lao động ngành công nghiệp và dịch vụ là 35,164 triệu đồng, gấp 38,124 lần so với lao động nông nghiệp.
Hình 2.5: Mức đầu tư mỗi lao động của các ngành giai đoạn 1996-2010 tại
Quảng Nam
Nguồn lực đầu tư của tỉnh Quảng Nam những năm qua, chủ yếu đầu tư vào 4
khu công nghiệp tại Tam Hiệp, Chu Lai, Thuận Yên và Điện Nam-Điện Ngọc
với 1013 ha; ngoài ra tại các huyện, tỉnh qui hoạch 87 cụm công nghiệp với diện tích 3124 ha25. Chủ trương xây dựng nhiều cụm công nghiệp nhằm phát triển
công nghiệp địa phương và giải quyết lao động dư thừa tại nông thôn là phù 24 Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Nam năm 2010. 25 Xem phụ lục 7
146 hợp. Tuy nhiên, chính sách phát triển công nghiệp chế biến gắn với tiêu thụ
nông sản bằng cách triển khai các dự án mía đường, dứa cô đặc, phát triển điều
nhân xuất khẩu đã không thành công vì điều kiện đất đai khí hậu chưa phù hợp
nên năng suất cây trồng không đạt như dự kiến và nhất là cách thức triển khai
quản lý đầu tư có nhiều khe hở làm thất thoát vốn đầu tư. Kết quả các dự án sau
một thời gian hoạt động càng thêm gánh nặng nợ nần do chi phí cao hơn giá
bán, cuối cùng phải tuyên bố phá sản là điều tất yếu.
Có rất nhiều chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân tại
Quảng Nam chưa thành công được các cơ quan quản lý và cả nông dân đánh giá.
Ngay cả sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thì các chính sách hỗ trợ nông dân
hội nhập thị trường xuất khẩu nông sản vẫn chưa được các cấp quản lý cập nhật
và điều chỉnh kịp thời. Nhiều địa phương như nông dân xã Tam Phước huyện
Phú Ninh, hoặc nông dân và hợp tác xã Điện Quang huyện Điện Bàn phải tự
xoay xở và tìm kiếm đối tác để xuất khẩu nông sản. Nhưng các liên kết kinh tế
giữa nông dân và các đối tác thường tính pháp lý không cao và mọi tổn thất từ
rủi ro do biến động giá hoặc lừa đảo đều rơi vào người nông dân. Bên cạnh đó
chính sách công nghiệp hóa gắn liền với phát triển nông nghiệp chưa đặt thành
trọng tâm khi thu hút vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Nên thời gian
qua, chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đã không thể thực
hiện được và ngành nông nghiệp tại Quảng Nam chỉ đạt mức tăng trưởng thấp
so với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và so với cả nước.
b. Việc thu hồi đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
và sinh kế của hộ nông dân
Do nhu cầu đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp và thực hiện các công
trình thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn, Quảng Nam thu hồi rất
nhiều đất sản xuất nông nghiệp: 1) Do nhu cầu đô thị hóa, từ năm 2004 đến năm
2010, tỉnh Quảng Nam thu hồi 5.514,5 ha đất sản xuất nông nghiệp (Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam, 2006, tr. 78) [2]. 2) Do nhu cầu phát
147 triển 4 khu công nghiệp và 87 cụm công nghiệp tại các huyện, đất nông nghiệp
bị thu hồi là 4.136,5 ha (UBND tỉnh Quảng Nam, 2003, 42) [23]. 3) Do nhu cầu
phát triển 55 công trình thủy điện trên hệ thống lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn,
sẽ thu hồi trên 10.000 ha đất sản xuất nông nghiệp và ruộng lúa nước của đồng
bào các dân tộc sống dọc các sông suối và di chuyển trên 14.000 nhân khẩu ra
khỏi vùng lòng hồ thủy điện (Đoàn Tranh, 2009, tr. 52) [84].
Việc tiến hành đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp tại các vùng
nông thôn sẽ tạo nhiều điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và thu hút lao
động nông nghiệp sang các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ. Đây là chính
sách đúng và phù hợp để xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020. Tuy nhiên, cách thức triển khai trong thực tế không làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp Quảng Nam theo hướng hiện đại; các nhà
máy chế biến nông sản không phát triển hoặc có xây dựng nhưng bị phá sản hay
hoạt động không hiệu quả; lao động nông nghiệp vẫn không chuyển đổi nghề
nghiệp dù đất đai đã mất cho các khu công nghiệp và khu đô thị. Điển hình là
khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc ra đời từ năm 1995 và sau đó hình
thành nên khu đô thị Điện Nam – Điện Ngọc; dân số nông nghiệp chiếm 80,95%
trong tổng dân số. Sau khi giải tỏa và thu hồi đất nông nghiệp, 43,17% trong
tổng số hộ thuộc diện giải tỏa đã mất dần khả năng tự tạo việc làm bằng nông
nghiệp và để bù đắp sự tổn thất này, các lao động nông nghiệp được hỗ trợ một
lần từ 4 triệu đến 6 triệu đồng để tự chuyển đổi nghề nghiệp. Dù có nhiều chính
sách từ chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện về bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc
làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư đối với nông dân bị thu hồi
đất... nhưng trên thực tế 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau
khi bị thu hồi đất, 13% chuyển sang nghề mới và có tới 15 - 20% không có việc
làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định (Phạm Nguyễn Thu Giang, 2009, tr.
38) [27].
148
Phát triển thủy điện sẽ làm mất đất sản xuất nông nghiệp và đi kèm với nó là
phải chuyển một số rừng phòng hộ sang cấp đất sản xuất cho các hộ tái định cư.
Như thủy điện Sông Tranh 2 đã thu hồi 2127 ha đất sản xuất nông nghiệp màu
mỡ nhất và di chuyển 1.047 hộ, tương ứng 5.379 nhân khẩu tái định cư đến các
vùng cao hơn; và phải qui hoạch lại 2000 ha đất rừng phòng hộ để cấp đất sản
xuất cho các hộ dân (Công ty CP Tư vấn và Phát triển Kỹ thuật Tài nguyên
Nước, 2006, tr. 15) [66]. Việc chuyển đất rừng thành đất sản xuất sẽ rất khó khăn cho sản xuất nông nghiệp vì đất đai tại các vùng này rất dốc (thường từ 80 đến 250) nên sẽ bị rửa trôi lớn và độ mầu mỡ của đất đai sẽ giảm nhanh. Để khắc
phục những tác động từ các công trình thủy điện, tỉnh Quảng Nam phải dành
khoản kinh phí 359,7 tỷ đồng từ nay đến năm 2015 để ổn định sản xuất và đời
sống của các hộ dân tái định cư tại các huyện có công trình thủy điện (Sở Kế
hoạch và Đầu tư Quảng Nam, 2008) [65].
Ngoài việc phải dành ngân sách cho việc khắc phục tái định cư tại các công
trình thủy điện; việc triển khai quá nhiều công trình thủy điện sẽ gây ra thiếu
nước tưới và xâm nhập mặn về mùa khô, và sẽ gây ra lũ lụt về mùa mưa tại các
vùng hạ lưu tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm thủy văn tại Quảng Nam, 55% lượng
mưa cả năm tập trung vào tháng 10, 11 và 12; nên vào mùa này các nhà máy
thủy điện sẽ tập trung xả nước, trong khi 9 tháng còn lại, các nhà máy thủy điện
sẽ lo tích nước mới có nước sản xuất điện. Điều này sẽ gây lũ vào mùa mưa làm
ảnh hưởng đến đời sống của các cư dân ở các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy
Xuyên; trái lại, vào mùa khô sẽ gây nhiễm mặn sâu hơn về thượng lưu của sông
Vu Gia – Thu Bồn làm ảnh hưởng đến nước tưới cho sản xuất nông nghiệp và
nước sinh hoạt cho các huyện đồng bằng và ven biển.
Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp nhưng không chuyển đổi được sinh kế
của các hộ nông nghiệp, không làm chuyển dịch kinh tế nông thôn và nhất là
không làm gia tăng sản xuất nông sản hàng hóa, không thu hút lao động nông
nghiệp sang các ngành khác thì đời sống của các hộ dân tại các vùng bị thu hồi
149 đất nông nghiệp sẽ đối diện với nghèo đói. Tất cả những điều này sẽ ảnh hưởng
đến quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam cả trong hiện tại và
tương lai.
d. Năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp tại
địa phương
Khi xét về việc triển khai các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và
nông dân tại tỉnh Quảng Nam, đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện qui trình chính
sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam” của tác giả Nguyễn
Cảnh (2010) [13] cho thấy việc thực hiện các chính sách về phát triển nông
nghiệp chưa thành công nên đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển nông nghiệp
của tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua.
Trong bảng 2.25 thể hiện kết quả khảo sát 21 chính sách chủ yếu về nông
nghiệp nông thôn hiện được triển khai tại Quảng Nam; trong đó, có 8 chính sách
đối với nông nghiệp, 8 chính sách đối với nông thôn và 5 chính sách đối với
nông dân. Khi được hỏi về sự thành công của các chính sách đối với nông
nghiệp, thì chính sách chuyển đổi cây trồng vật, nuôi cho kết quả 33,5% số hộ
đồng ý, cho vay vốn sản xuất 11,8%, còn lại các chính sách khác dưới 6,5%.
Chính sách đối với nông thôn, chỉ có chính sách xây dựng hạ tầng nông thôn
(đường bê tông, điện, trường học,...) đạt 26,7% số hộ cho là thành công; còn lại
các chính sách khác dưới 6,5%, chính sách khôi phục làng nghề truyền thống là
0%, xem như không thành công. Chính sách đối với nông dân, thì chính sách
xóa đói giảm nghèo đạt 12,6%, còn lại các chính sách khác bằng hoặc dưới 4%.
Qua đánh giá mức độ thành công của các chính sách cho thấy những năm qua,
tỉnh Quảng Nam triển khai các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và
nông dân chỉ đạt mức dưới trung bình. Sự không thành công của các chính sách
bắt nguồn từ đâu? Các khảo sát sâu hơn dưới đây sẽ làm sáng tỏ một phần câu
hỏi trên.
150 Bảng 2.25: Đánh giá việc thực hiện các chính sách nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam26
Các chính sách
Đánh giá mức độ thành công
A. NÔNG NGHIỆP
1 Dồn điền đổi thửa 2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi 3 Cho vay vốn sản xuất 4 Miễn thủy lợi phí 5 Kinh tế vườn, KT tập thể, cải tạo vườn tạp 6 Tiêu thụ sản phẩm 7 Nuôi trồng thủy sản 8 Phòng chống dịch bệnh, thiên tai
6,1% 33,5% 11,8% 1,4% 5,4% 0,4% 0,1% 3,0%
B. NÔNG THÔN Xây dựng hạ tầng nông thôn (đường bê tông, điện, trường học,…)
9
10 Kiên cố hóa kênh mương 11 Đầu tư nông nghiệp, nông thôn 12 Đất đai, giao đất giao rừng 13 Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch 14 Khôi phục làng nghề truyền thống 15 Giải quyết việc làm 16 Bảo vệ môi trường nông thôn
C. NÔNG DÂN 17 Xóa đói giảm nghèo 18 Chăm sóc sức khỏe dân cư 19 Quan tâm xã đặc biệt khó khăn, bãi ngang 20 Hỗ trợ người cao tuổi 21 Cho vay vốn học sinh, sinh viên
26,7% 6,3% 0,8% 2,8% 2,0% 0,0% 0,1% 1,3% 12,6% 0,4% 1,8% 0,9% 4,0%
Xã Tam Phước huyện Phú Ninh được xem là xã thực hiện chuyển đổi cây
trồng khá thành công; hầu như hai phần ba đất sản xuất lúa tại xã đã chuyển
sang trồng các loại dưa và rau đậu đem lại thu nhập cao cho người nông dân,
26 Xem phụ lục 4.
nhưng mọi quyết định trồng cây, con gì đều do người dân lựa chọn theo tín hiệu
151 thị trường thông qua các thu gom tư nhân mà chưa có sự tham gia của hợp tác xã
hoặc cấp chính quyền tại cơ sở. Ngay cả hoạt động khuyến nông cũng không hỗ
trợ được về kỹ thuật trồng trọt mà hầu như người dân tự tìm tòi và học hỏi lẫn
nhau.
Vụ mùa dưa hấu năm 2010, đầu vụ giá 4000 đồng/kg, đến đúng vụ chỉ còn
800 đồng/kg, nhiều nhà trồng dưa cũng phải lao đao vì giá cả. Theo nhiều nông
dân nếu các hộ trồng rải vụ mà không tập trung xuống giống một lần thì có thể
kiểm soát được thị trường; tuy nhiên, không có tổ chức nào đứng ra ký hợp đồng
hoặc hướng dẫn nông dân thực hiện điều này.
Xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, có nhiều thôn nông dân không còn trồng
lúa mà đã chuyển sang trồng các loại hoa màu như ớt, đậu, bắp,… và chăn nuôi
bò cho thu nhập rất cao. Dù vậy, do thiếu đất nên việc làm rất hạn chế, xã có
trên 5000 lao động nông nghiệp nhưng có đến 1000 thanh niên rời bỏ làng đi
vào các tỉnh phía Nam tìm việc làm. Hợp tác xã Điện Quang là một trong những
mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả nhất của tỉnh Quảng Nam
nhưng cũng không đủ nguồn lực để tạo ra nhiều việc làm tại nông thôn.
Như vậy, để thực hiện các chính sách thành công thì việc tạo ra một môi
trường thể chế hiệu quả nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các cán bộ quản lý Nhà
nước với các tổ chức của nông dân luôn là điều quan trọng. Thế thì cơ quan
quản lý nông nghiệp các cấp tại Quảng Nam có đủ năng lực và nguồn lực để
thực hiện các chính sách thành công hay không? Ngành quản lý nông nghiệp tại
tỉnh Quảng Nam thừa nhận rằng, việc nhiều chính sách nông nghiệp, nông thôn
không thành công tại Quảng Nam có nguyên nhân từ sự thiếu năng lực và nguồn
lực từ các cơ quan quản lý.
Cũng qua khảo sát, ý kiến của người nông dân về các nhân tố tác động đến
việc thực hiện không thành công các chính sách tại Quảng Nam trong thời gian
qua; trong đó, do thiếu nguồn lực để thực thi chính sách chiếm 36,2%, chính
sách không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn chiếm 33,4%, không thỏa mãn lợi ích
152 của các nhóm xã hội liên quan là 20,2%, không phổ biến tường tận đến người
dân là 14%, qui trình chính sách không phù hợp là 9%, nội dung chính sách
không phù hợp là 4,6%, còn các nguyên nhân khác là 8,3% (xem hình 2.6).
Hình 2.6: Các nhân tố tác động đến sự không thành công của các chính sách nông nghiệp, nông thôn tại Quảng Nam27
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện tỉnh Quảng Nam không
chỉ thiếu về số lượng cán bộ quản lý mà thiếu cả người đủ năng lực để thực thi
các chính sách. Hiện nay, có nhiều chính sách thực hiện không thành công vì
thiếu nguồn lực và năng lực như sau:
- Việc tích tụ ruộng đất trên địa bàn tỉnh chỉ mới thực hiện được 0,13% diện
tích đất sản xuất tính đến năm 2007 (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Quảng Nam, 2008) [6]. Hiện nay chính sách này đang dừng lại vì không có kinh
phí thực hiện và không được sự đồng tình của người dân do va chạm về quyền
27 Xem phụ lục 4
sở hữu và lợi ích sử dụng.
153
- Hiện không đủ kinh phí duy trì cán bộ khuyến nông ở cơ sở để triển khai
các chương trình khuyến nông và chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Chương trình
bò lai Sind rất được nông dân hưởng ứng nhưng cũng không đủ kinh phí và cán
bộ thực hiện; nên đến năm 2008, chỉ mới Sind hóa được 24% cho đàn bò tại
Quảng Nam.
- Quảng Nam là điểm nóng về phá rừng, nhưng lực lượng kiểm lâm không
đủ cả về số lượng và trang bị để thực thi nhiệm vụ. Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đề xuất kết hợp với bộ đội biên phòng và công an trong việc bảo
vệ rừng nhưng hiện không đủ kinh phí để thực hiện.
2.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
Những phân tích thực trạng ở trên cho thấy; nông nghiệp tỉnh Quảng Nam
với điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội có thể: 1) sản xuất nhiều loại nông sản
có lợi thế nhờ dựa vào sự đa dạng các vùng sinh thái nông nghiệp; 2) có hệ
thống giao thông thuận lợi cho sự phát triển các thị trường nông sản cả trong
nước và xuất khẩu; 3) có kết cấu hạ tầng khá tốt, có thể liên kết trong và ngoài
tỉnh để hình thành các vùng chuyên canh phục vụ các ngành công nghiệp chế
biến nông sản tạo điều kiện phát triển các ngành hàng nông sản mạnh; 4) có
nhiều mô hình sản xuất và quản lý phù hợp đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn
phát triển; và 5) các cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh hiểu biết sâu sắc những
vấn đề phát triển nông nghiệp tại địa phương. Tất cả những điểm mạnh trên là
cơ sở để nền nông nghiệp tỉnh Quảng Nam tận dụng nhằm phát triển trong
những năm đến.
Tuy nhiên, qua phân tích cũng cho thấy sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng
Nam vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần khắc phục. Nổi bật là những vấn đề chủ
yếu sau:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chậm. Nguyên nhân cơ
bản là do qui mô sản xuất nhỏ, nông hộ không có động lực chuyển đổi vì lực
lượng lao động ngày càng già hóa, nguồn lực phân tán, kiến thức về kinh doanh
154 và sản xuất vẫn dựa vào kinh nghiệm, sản xuất nông nghiệp vẫn chưa là thu
nhập chính của đa số nông hộ. Nhiều nông hộ vẫn còn xem việc chuyển đổi cây
trồng vật nuôi là đối diện với rủi ro.
Thứ hai, sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Nguyên nhân là do công nghiệp
chế biến không phát triển và chưa hình thành các các ngành hàng nông sản;
không có đầu ra cho nông sản nên không thể phát triển các vùng chuyên canh;
và công tác dồn điền đổi thửa thời gian qua chưa tạo ra bước đột phá để tập
trung hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, nông hộ nhỏ vẫn chiếm đa số, trang trại chỉ ở qui mô nhỏ; chưa có
trang trại hạt nhân làm nền tảng liên kết ngang và dọc trong nông nghiệp.
Thứ tư, lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Nông hộ không muốn đầu tư cho
cơ giới hóa vì đất đai mỗi hộ thấp, trong khi thời gian nông nhàn ngày càng tăng
lên.
Thứ năm, kết cấu hạ tầng lạc hậu, luôn hư hỏng vì thiên tai; việc quản lý kết
cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư vẫn còn chưa hiệu quả; chưa có chính sách phù
hợp để khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào đầu tư và vận hành
các kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp cách hiệu quả nhất.
Thứ sáu, năng lực của cơ quan quản lý nông nghiệp cấp tỉnh còn nhiều hạn
chế. Không chỉ hạn chế về con người, nguồn lực cho thực thi, mà cả cơ chế phân
cấp để ban hành các chính sách nông nghiệp phù hợp tại mỗi địa phương.
Bên cạnh đó, những tổn thất từ thiên tai, dịch bệnh và những biến động giá
cả trên thị trường luôn ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nông nghiệp và thu nhập
của các hộ nông dân. Rõ ràng sự phát triển của nông nghiệp không thể tự thân
ngành nông nghiệp giải quyết mà cần phải có sự tham gia của các ngành, các đối
tác trên chuỗi cung cấp nông sản và nhất là sự tham gia của cơ quan quản lý các
cấp, các ngành tại địa phương. Kinh nghiệm của Hà Lan cho thấy, chỉ cần 3%
lao động làm nông nghiệp, kết hợp với sự hợp tác của các ngành trên chuỗi
ngành hàng nông sản đã làm gia tăng giá trị nông sản lên nhiều lần, đồng thời
155 Nhà nước đầu tư có hiệu quả vào kết cấu hạ tầng chủ yếu và khoa học công nghệ
trong nông nghiệp mà nông dân có thể làm giàu từ nông nghiệp, đồng thời góp
phần vào phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ khác.
2.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Qua phân tích có thể thấy rằng thế mạnh của nông nghiệp Quảng Nam là
đánh bắt và nuôi trồng thủy sản; chăn nuôi gia súc, gia cầm; canh tác cây công
nghiệp ngắn ngày, cây nguyên liệu giấy và các sản phẩm từ rừng; còn sản xuất
lương thực chỉ nhằm mục đích tự túc là chủ yếu. Tuy nhiên, những năm qua,
tỉnh Quảng Nam chưa tận dụng được các lợi thế so sánh này.
Kết quả là tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp của Quảng Nam giai
đoạn 1997-2010 luôn thấp (2,45%) hơn so với tốc độ tăng trưởng nông nghiệp
bình quân của cả nước (3,80%); cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch chậm;
các nguồn lực của sản xuất nông nghiệp có dấu hiệu giảm sút do ruộng đất sản
xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần, lao động nông nghiệp bị già hóa và không
được nâng cao kiến thức do hệ thống khuyến nông, khuyến công yếu kém; thu
nhập thấp dẫn đến đầu tư thấp và vì vậy, mà đa số các hộ dân ở nông thôn chiếm
tỷ lệ nghèo cao so với khu vực thành thị và so với bình quân cả nước.
Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, do thiên tai và dịch bệnh xảy ra thường
xuyên mà chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả nên đã gây rất nhiều thiệt hại
cho sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, số lượng và chất lượng các nguồn lực trong
sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp tại Quảng Nam; do lao động nông nghiệp dư thừa, dân còn nghèo
nên khả năng tích lũy để đầu tư vào sản xuất không đáng kể; Thứ ba, việc chậm
đổi mới thể chế, thực hiện chính sách đối với nông nghiệp chưa hiệu quả và đầu
tư hạn chế đã làm cho nông nghiệp phát triển chậm so với các tỉnh vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung và so với nông nghiệp cả nước; ngoài ra, chính sách thu
hồi đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp và đô thị, cũng như thủy điện đã
ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp và sinh kế của các hộ nông dân; nạn
156 phá rừng diễn biến ngày càng phức tạp đã gây ra những thảm họa từ lũ lụt ngày
càng nghiêm trọng và nông nghiệp, nông thôn, nông dân thường bị tổn thất lớn
nhất.
Ngoài những điểm yếu và những tồn tại, nông nghiệp Quảng Nam vẫn có
những mô hình sản xuất hiệu quả cần được nghiên cứu để triển khai cho các địa
phương khác tại tỉnh Quảng nam và cả nước. Các vùng chuyên canh như làng
rau Trà Quế thuộc xã Cẩm Hà thành phố Hội An; vùng nông dân liên kết sản
xuất ớt xuất khẩu tại xã Điện Quang; vùng sản xuất lúa giống, ngô giống tại
Điện Minh thông qua Hiệp hội giống cây trồng Điện Bàn, nông dân chuyển đổi
từ trồng lúa sang trồng các loại cây thực phẩm có giá trị cao theo mùa phục vụ
cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tại xã Tam Phước huyện Phú Ninh.
Tóm lại, việc phát hiện được các nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
làm cho nông nghiệp Quảng Nam chậm phát triển, đồng thời nghiên cứu các
những mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, những mối liên kết kinh tế làm
tăng thu nhập của các hộ nông dân sẽ được xem xét khi đề ra các các giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam trong thời gian đến.
157 CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Sau khi phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp Quảng Nam những năm
qua cho thấy, tăng trưởng tổng sản lượng nông nghiệp còn chậm; các nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp sử dụng không hiệu quả; chưa khai thác được lợi thế
so sánh trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Bên cạnh việc xây dựng thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2020, tỉnh Quảng Nam phải thúc đẩy khu vực nông nghiệp
phát triển làm nền tảng cho việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến và
các dịch vụ liên quan nhằm tận dụng những cơ hội xuất khẩu nông sản mà quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các căn cứ
tiền đề làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp Quảng Nam
cho giai đoạn 2011-2020 là cần thiết; và nó có các nội dung sau.
3.1.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nông nghiệp
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia đều phải
đối diện với những cơ hội và thách thức từ thị trường, cũng như những tác động
tích cực lẫn tiêu cực đối với các ngành kinh tế trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực nhất định đối với nền
nông nghiệp của Việt Nam và tỉnh Quảng Nam. Trước tiên, quá trình hội nhập
góp phần đổi mới hệ thống pháp luật, chính sách của Chính phủ đối với phát
triển nông nghiệp; thứ hai, điều này tạo ra thể chế tốt để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; thứ ba, góp phần nâng cao
trình độ kinh doanh của các đơn vị sản xuất nông nghiệp và ngành công nghiệp,
dịch vụ có liên quan; thứ tư, có cơ hội nâng cao qui mô và chất lượng các nguồn
lực trong sản xuất nông nghiệp và tạo điều kiện liên kết kinh tế giữa nông
nghiệp, công nghiệp chế biến và các dịch vụ như giao thông, tài chính, thông tin
158 liên lạc,… Đặc biệt, hội nhập kinh tế quốc tế làm mở rộng thị trường nông sản,
thúc đẩy thương mại hóa và hình thành hệ thống kinh doanh nông sản, nhờ đó
liên kết các nông hộ, trang trại với chuỗi nông sản toàn cầu.
Mặc dù có những cơ hội, những tác động tích cực, nhưng đối với các quốc
gia có nền nông nghiệp kém phát triển như Việt Nam luôn đối diện với những
thách thức sau:
Đối với ngành nông nghiệp. Những thách thức đang gặp phải đó là: 1) Cạnh
tranh khốc liệt trong và ngoài nước. Dù có thế mạnh về sản xuất nông sản nhưng
các siêu thị tại Việt Nam đầy ắp các trái cây từ Trung Quốc, Thái Lan; thịt từ
Úc, Mỹ; cá từ Nhật Bản, Canada. 2) Tăng khả năng lây lan dịch bệnh. Dịch ốc
bươu vàng, bệnh cúm gia cầm, bệnh lỡ mồm long móng là những dịch, bệnh
mới phát sinh tại Việt Nam và Quảng Nam vào những năm sau hội nhập và gây
rất nhiều tổn thất cho ngành nông nghiệp. 3) Phá hoại tài nguyên và môi trường.
Khai thác triệt để đất đai, nguồn nước nhằm tạo ra nhiều nông sản mà không có
biện pháp bảo vệ môi trường và tái tạo các tài nguyên thiên nhiên đang trở thành
thách thức lớn của ngành nông nghiệp để phát triển bền vững cả trước mắt và
lâu dài. 4) Đòi hỏi về an toàn và chất lượng ngày càng gay gắt. Sản xuất nhỏ,
phân tán khó tạo ra những nông sản đồng đều và chất lượng cao; ngay cả việc
phổ biến các phương pháp canh tác tốt (VietGAP) đến từng hộ nông dân luôn là
thách thức của các nhà quản lý nông nghiệp và các tổ chức khuyến nông.
Đối với nông hộ và các trang trại. Những thách thức mà nông dân và các
trang trại tại Việt Nam và cả tỉnh Quảng Nam đang gặp phải, đó là: 1) Thiếu tổ
chức liên kết các nông hộ và trang trại lại với nhau để đáp ứng các đơn hàng,
nông sản có chất lượng đồng đều và giá rẻ. Các hiệp hội, các hợp tác xã, các
doanh nghiệp do chính nông dân lập ra thì mới có khả năng giảm thiểu thách
thức này. 2) Thiếu thông tin, vốn và kỹ năng để sản xuất ra những sản phẩm đáp
ứng nhu cầu của thị trường. Không có kho bảo quản, không có thiết bị chế biến,
phương tiện bảo quản không phù hợp mà nông sản luôn bị thất thoát lớn, có chất
159 lượng thấp nên giá trị thương phẩm không cao. 3) Không tiếp cận được các
chứng nhận chất lượng nông sản. Sản xuất phân tán, manh mún, không liên kết
thành tổ chức sản xuất mà nông sản khó có chứng nhận chất lượng nông sản và
điều này làm nông hộ nhỏ sản xuất manh mún có nguy cơ bị loại ra khỏi thị
trường.
Như vậy, những thách thức và những tác động tiêu cực đòi hỏi phải thay đổi
cách thức tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản; trong đó, việc liên kết ngang và
dọc nhằm hình thành các vùng chuyên canh và xây dựng các ngành hàng nông
sản mạnh có vai trò quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
nông sản Việt Nam và của cả tỉnh Quảng Nam.
3.1.2. Quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm đến
Sau đổi mới, cùng với cả nước, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã trải qua các
quan điểm phát triển nông nghiệp khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng phát triển nông nghiệp phải tập trung vào gia
tăng sản lượng, bảo đảm an ninh lương thực và thực hiện xóa đói, giảm nghèo;
nên cả nước và các tỉnh tập trung mọi nguồn lực cho sản xuất lương thực mà đặc
biệt là sản xuất lúa, dù việc tập trung sản xuất lương thực đó có hiệu quả kinh tế
hay không.
Quan điểm thứ hai xuất phát từ các nông dân “phá rào” chuyển đổi cây trồng
vật nuôi theo hướng thị trường; hậu quả nhiều vùng bị phá vỡ qui hoạch, môi
trường bị tàn phá vì nông dân phá ruộng lúa chuyển sang nuôi tôm, phá rừng
trồng keo, cao su,… Hiện tượng này có thể làm tăng thu nhập cho một số nông
hộ, xóa đói, giảm nghèo một số bộ phận nông dân, thúc đẩy tăng trưởng nông
nghiệp; nhưng hậu quả là nông nghiệp phát triển không bền vững.
Quan điểm thứ ba cũng là quan điểm của luận án cho rằng cần điều chỉnh
quan điểm thứ nhất theo cách thức khai thác lợi thế so sánh nhằm “bán cái ta có”
và hoàn thiện quan điểm thứ hai theo hướng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị
trường tức chỉ “bán cái thị trường cần”. Và để đảm bảo sự cân đối giữa cung và
160 cầu cần xây dựng và tổ chức các chuỗi nông sản hoàn chỉnh có khả năng cạnh
tranh trên phạm vi toàn cầu.
Quan điểm này cho thấy nông nghiêp tỉnh Quảng Nam, cần phát huy lợi thế
so sánh để sản xuất hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Rõ ràng, nếu tập
trung sản xuất lương thực thì nông dân Quảng Nam sẽ chịu nhiều thiệt thòi so
với nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long vì sản xuất lúa ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long có thể đem lại thu nhập ròng trên 30% (United Nations Environment
Programme, 2005, tr. 27) [115]; trong khi, sản xuất lúa tại Quảng Nam chủ yếu
vì mục đích tự túc lương thực hơn là vì mục đích thương mại, vì chi phí sản xuất
cao hầu như không có lãi (Vũ Ngọc Hoàng, 2004) [31]. Chính vì vậy mà cây lúa
không thể trở thành ngành hàng xuất khẩu tại miền Trung cũng như tại Quảng
Nam. Để thoát nghèo, nông dân Quảng Nam phải tìm đến những cây trồng, vật
nuôi có lợi thế nhưng được thị trường trong nước và nước ngoài ưu chuộng.
Những nông sản đó là sản phẩm của các ngành hàng sau:
- Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là thế mạnh của Quảng Nam. Năm 2010,
bình quân thu nhập sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh là 44,5 triệu đồng/ha; trong
khi nuôi thủy sản cho thu nhập cao hơn 175,5 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, không
chỉ có giá trị của ngành này đem lại, mà con cá Hội An, con tôm nước lợ Trường
Giang, con mực bãi ngang Quảng Nam vẫn được đánh giá có chất lượng cao
hơn các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã
phát triển được con cá basa tại các vùng nước ngọt, những năm đến với 10.000
ha mặt nước của các hồ thủy điện sẽ tạo điều kiện cho ngành này phát triển. Nói
về ngư trường đánh bắt hải sản thì Quảng Nam không thua các tỉnh miền Trung,
chỉ vì nông dân Quảng Nam chưa được đầu tư năng lực đánh bắt đủ nên sản
lượng chưa cao. Bảng 3.1 cho thấy, năng lực trang bị tàu thuyền của nông dân
Quảng Nam còn rất thấp, nếu được trang bị đủ như các tỉnh Quảng Ngãi và Bình
Định, thì sản lượng đánh bắt hải sản của Quảng Nam sẽ cao hơn rất nhiều.
161 Bảng 3. 1: Sản lượng và năng lực ngành thủy sản Quảng Nam so với các tỉnh miền Trung và bình quân cả nước năm 2010
Các địa phương và cả nước
Sản lượng thủy sản (tấn)
Sản lượng khai thác (tấn)
Sản lượng nuôi trồng (tấn)
A
1=2+3
2
3
Tỷ lệ nuôi trồng (%) 4=3/1
Diện tích nuôi trồng (1000ha) 5
Số tàu đánh bắt xã bờ (1000CV) 6
40.649
30.751
9.899
24,4%
5,8
23,4
Thừa Thiên- Huế
36.854
35.940
913
2,5%
0,7
30,7
Đà Nẵng
75.941
55.400
20.066
26,4%
7,3
41,6
Quảng Nam
111.129
104.191
6.938
6,2%
1,4
195,7
Quảng Ngãi
150.398
141.655
8.743
5,8%
4,7
265,5
Bình Định
50.765
42.265
8.500
16,7%
3,0
117,8
Phú Yên
88.928
75.241
13.686
15,4%
5,6
38,1
Khánh Hoà
5.127.576
2.420.823
2.706.752
1.66,0
4498,7
52,8% Cả nước Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam và Quảng Nam năm 2010
- Quảng Nam có nhiều cây công nghiệp, cây rau đậu, cây ăn quả và cây
dược liệu là đặc sản mà các tỉnh khác không có hoặc không thể sánh bằng. Cây
ớt Quảng Nam có vị cay nồng đặc biệt, thị trường Á Châu, Châu Âu, và Liên
bang Nga rất chuộng. Vụ mùa năm 2008, 2009 những hộ trồng ớt xuất khẩu ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc 28 thu nhập trên 140 triệu đồng/ha. Cây quế Trà
My, cây tiêu Tiên Phước hơn hẳn cây quế Thanh Hóa, cây tiêu Phú Quốc, cây
tiêu trắng Phú Quốc rất được các nước ưa chuộng nhưng cũng không thể sánh
với tiêu Tiên Phước, Quảng Nam. Trái bòn bon tại huyện Nam Giang tỉnh
Quảng Nam được xem là “nam trân”, về chất lượng hơn hẳn bòn bon ở Phú
Quốc; những năm qua, trái bòn bon được lai tạo ở Thái Lan có vị ngọt hơn và
được nhập khẩu vào Việt Nam. Nếu Quảng Nam đầu tư vào cây bòn bon, chắc
chắn chất lượng không thua trái bòn bon nhập khẩu từ Thái Lan. Ngay cả rau
Trà Quế cũng được xem là đặc sản của Quảng Nam; vùng nước lợ sông Cổ Cò
28 Ngọc Khanh, Quảng Nam: Nông dân trồng ớt trúng đậm. Báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 4/6/2008.
và cách thức canh tác của người trồng rau Trà Quế đã tạo nên hương vị mà
162 không nơi nào có, trừ rau Trà Quế. Về cây dược liệu, Quảng Nam có cây quế,
sâm ba kích, sâm Ngọc Linh là những loại dược liệu quí hiếm. Những năm qua,
tỉnh Quảng Nam đã khai thác được các lợi thế này và đáp ứng được nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu.
- Rừng cũng là thế mạnh của Quảng Nam. Với hơn 184 ngàn ha rừng trồng,
chưa kể rừng phân tán thì Quảng Nam là nơi cung cấp nguyên liệu giấy lớn tại
miền Trung. Nếu miền Trung và Quảng Nam đầu tư một nhà máy sản xuất bột
giấy thì sẽ làm gia tăng giá trị cây nguyên liệu giấy thay vì bán sản phẩm “thô”
như hiện nay. Ngoài rừng nguyên liệu giấy, rừng cây dó bầu cũng rất phát triển;
hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ cây dó bầu đang rất phát triển tại các
huyện Nông Sơn, Tiên Phước, Hiệp Đức và được xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Không chỉ có vậy, rừng Quảng Nam còn
tạo nên một lưu vực rộng lớn của hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn, mỗi năm cung cấp 18 tỷ m3 nước, và là nguồn thủy năng lớn thứ 4 tại Việt Nam, có thể cung cấp mỗi năm 6 tỷ kWh điện29, đáp ứng đủ điện cho miền Trung cho những
năm đến. Hiện nay, với chủ trương chi trả dịch vụ rừng cho các hộ dân tham gia
bảo vệ và tái sinh rừng theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Thủ tướng chính
phủ [51], chắc chắn sẽ làm gia tăng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp Quảng
Nam trong những năm đến.
Khi phân tích thực trạng cho thấy, nông sản Quảng Nam những năm qua giá
cả không ổn định, nhiều vùng chuyên canh luôn bị phá vỡ. Việc nông dân phá vườn cây, ruộng tôm trồng lúa30 tại đồng bằng sông Cửu Long; hoặc như tại Quảng Nam, nông dân phải chặt bỏ cây quế để trồng cây keo tại Nam Trà My31, phá bỏ ruộng dâu để trồng rau màu tại Duy Trinh32; tất cả những hiện tượng trên
gây ra rất nhiều tổn thất cho nông dân và lãng phí đối với xã hội. Nguyên nhân 29 Xem phụ lục 6. 30 Minh Giảng, Phá cây ăn trái để trồng lúa, VNChannel.NET, ngày 22/5/2008, http://www.vnchannel.net/news/ xa-hoi/200805/pha-cay-an-trai-de-t rong-lua.79102.ht ml 31 Hoàng Thọ, Cây quế 10 năm thu 60 ngàn đồng, Báo Tiền Phong On Line, ngày 16/06/2009. 32 Doãn Hoàng – Văn Sự, Đào ruộng dâu, phá nong tằm, Báo Quảng Nam, ngày 18/5/2009.
163 có nhiều nhưng chủ yếu là do sản phẩm không có đầu ra, nhất là chưa tạo được
mối liên kết giữa các đối tác để hình thành các ngành hàng nông sản mạnh, đủ
sức tiếp cận được các thị trường trong nước cũng như toàn cầu. Và đây cũng là
quan điểm của luận án khi cho rằng việc đảm bảo cân đối cung cầu nông sản có
vai trò quyết định đến phát triển nông nghiệp bền vững.
3.1.3. Định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2011-2020
a. Định hướng chiến lược của nông nghiệp Việt Nam đến năm 2020
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến 2020, nông nghiệp giữ vị trí quan trọng. Nó đóng góp vào sự phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái cho sản xuất và
đời sống. Về mặt kinh tế, tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng nông, lâm,
thủy sản đạt bình quân 4 – 4,5%; đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, đủ
nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng
50 tỷ USD vào năm 2020. Giá trị sản lượng trên 1 ha đất nông nghiệp đạt bình
quân trên 50 triệu đồng; và thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn đạt 1.000
USD/người/năm. Để đạt được những mục tiêu phát triển này, phải nâng mức
đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ 30%
hiện nay lên trên 50%. Về giống, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản
xuất là giống tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ
sinh học trong chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Về tưới tiêu nước và cơ
giới hoá, đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tưới phun, tưới nhỏ giọt, tưới
thấm… cơ giới hoá khâu làm đất trên 70% khâu gieo hạt cây ngắn ngày (Quyết
định 150/2005/QĐ-TTg) [62].
Trong đó, đảm bảo diện tích và sản lượng cây lượng thực, đặc biệt cây lúa có
vai trò ổn định xã hội, xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia và xuất khẩu gạo vẫn còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam dù
164 có giảm dần đến 2020 chỉ còn 2,1 triệu tấn (xem bảng 3.2). Nếu cơ cấu bữa ăn
của người Việt Nam thay đổi nhanh theo hướng tăng thịt cá và rau quả, thì khả
năng sẽ tăng thêm được sản lượng lương thực xuất khẩu của Việt Nam trong
những năm đến, và dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông sản sẽ tăng cao hơn 50 tỷ
USD vào năm 2020.
Bảng 3. 2: Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo của Việt Nam đến năm 2020
CHỈ TIÊU
2007
2010
2015
2020
1. Dân số (triệu người)
85,2
88,5
93,6
98,6
2. Diện tích lúa (triệu ha)
4,1
4,0
3,8
3,5
3. Diện tích lúa cả năm (tr. ha)
7,2
7,1
6,9
6,8
4. Năng suất lúa (tấn/ha/vụ)
4,98
5,14
5,40
5,56
5. Sản lượng thóc cả năm (tr. tấn)
35,8
36,5
37,2
38,5
6. Nhu cầu (triệu tấn thóc)
29,2
31,1
32,1
35,1
- Thóc giống
1,1
1,1
1,0
1,0
- Chăn nuôi và hao hụt
6,4
7,0
7,5
8,5
- Chế biến
0,2
0,3
0,5
1,0
- Để ăn và dự trữ quốc gia
21,5
22,7
23,1
24,7
Trong đó, riêng để ăn
19,97
17,98
17,55
16,95
7. Cân đối thóc
+6,6
+5,4
+5,1
+3,3
8. Dự kiến xuất khẩu (tr. tấn gạo)
4,3
3,5
3,3
2,1
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Dự thảo chiến lược an ninh lương thực quốc gia, 2008 [10].
Trong xu thế phát triển nông nghiệp chung của cả nước, tỉnh Quảng Nam có
điều kiện lựa chọn định hướng phát triển nông nghiệp trong phạm vi của tỉnh
nhưng có gắn kết với chiến lược, mục tiêu phát triển quốc gia nhằm khai thác
được các lợi thế so sánh của tỉnh Quảng Nam, đồng thời khai thác được các cơ
hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
165
b. Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam thời gian đến
Với mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
Theo luận án, định hướng tổng quát phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2011-2020 sẽ là: Khai thác lợi thế của cây rau đậu và công nghiệp ngắn
ngày, cây nguyên liệu giấy, chăn nuôi và thủy sản nhằm tăng thu nhập của các
nông hộ; liên kết công nghiệp chế biến và ngành dịch vụ liên quan để tổ chức
thành các ngành hàng nông sản có khả năng đáp ứng thị trường nội địa và xuất
khẩu trên cơ sở hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản có khả
năng cạnh tranh cao. Quá trình này sẽ diễn ra đồng thời với quá trình chuyển
dịch kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới và bảo vệ môi trường sản xuất
và môi trường sống tại nông thôn.
Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam như được nêu trên
có xét đến bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, định hướng phát
triển nông nghiệp của cả nước và vị trí của nông nghiệp tỉnh Quảng Nam trong
điều kiện nguồn lực hiện có và trong chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội nhằm xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
Trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia thì Việt Nam đến năm
2020 vẫn là nước có khả năng xuất khẩu lương thực sau khi đã đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Vì vậy, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam sẽ chuyển dần các
vùng trồng lúa sang các cây trồng, vật nuôi khác đem lại giá trị cao hơn, tăng thu
nhập cho nông hộ và thúc đẩy phát triển nông nghiệp.
Đến năm 2020, ngành nông nghiệp Quảng Nam dự kiến còn 30% lao động
làm việc trong nông nghiệp, nên kinh tế nông hộ và trang trại vẫn chiếm ưu thế.
Vì vậy, việc phát triển các hợp tác xã là cần thiết nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông
sản và phát triển các dịch vụ trong nông nghiệp.
Từ những phân tích trên và rút kinh nghiệm phát triển nông nghiệp dựa trên
nông hộ của các nước, định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2011-2020 dựa trên các mô hình cơ bản sau:
166
1) Xây dựng kinh tế nông hộ và trang trại theo hướng thâm canh và chuyên
môn hóa cao
Kinh tế nông hộ và trang trại sẽ là những loại hình kinh tế đóng góp chủ yếu
cho sự phát triển nông nghiệp tại tỉnh Quảng Nam đến năm 2020. Kinh nghiệm
ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế hộ nông dân với qui mô nhỏ, vừa
hay lớn đều có khả năng thương phẩm hóa sản xuất rất cao và tạo ra giá trị sản
lượng nông nghiệp cao. Nhiều nước, kinh tế nông hộ đạt trình độ thâm canh cao
trong sản xuất trồng trọt, chăn nuôi với việc tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa
và bắt đầu tự động hóa, tạo điều kiện tăng nhanh năng suất lao động nông
nghiệp (Bùi Huy Đáp và cộng sự, 1996, tr. 360) [21].
Hiện nay, ngoài mô hình sản xuất làng rau Trà Quế, tại Quảng Nam có các
vùng chuyên canh rau đậu, dưa leo, dưa hấu tại Tam Phước, Phú Ninh; vùng
chuyên canh ớt tại xã Điện Quang,... Nhờ thành lập các vùng chuyên canh mà
nông dân tại các vùng này có điều kiện thâm canh, thu nhập của nông hộ tăng và
tạo điều kiện phát triển kinh tế trang trại.
2) Xây dựng các hợp tác xã làm đầu mối tiêu thụ nông sản và phát triển các
dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn
Kinh nghiệm cho thấy, kinh tế nông hộ và trang trại trong quá trình sản xuất
kinh doanh luôn có nhu cầu hợp tác. Khi phân tích quá trình sản xuất và tiêu thụ
nông sản tại Quảng Nam, nơi nào mà vai trò của hợp tác xã yếu đi thì vai trò của
các thương lái nổi lên; và trong mối quan hệ mua bán này, nông dân luôn là
người chịu nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, để phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản
hiệu quả, tỉnh Quảng Nam cần xây dựng các hợp tác xã có chức năng toàn diện
và hoạt động đa dạng hơn không chỉ tác động đến phát triển nông nghiệp mà còn
thực hiện được một số chức năng tham gia quản lý nông thôn và các chức năng
quản lý nông nghiệp được chuyển giao từ phía Nhà nước.
167
3) Giảm dần diện tích cây lương thực, ưu tiên phát triển cây rau màu và cây
công nghiệp ngắn ngày, phát triển ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản
Đây là chiến lược phát triển nông nghiệp hợp lý nhằm thai thác được lợi thế
của thời tiết, khí hậu, đất đai và thị trường đối với nông nghiệp Quảng Nam. Xã
Tam Phước huyện Phú Ninh có 570 ha đất nông nghiệp thì nay chỉ còn ¼ diện
tích trồng lúa, còn lại chuyển sang trồng dưa và các cây rau đậu đem lại giá trị
kinh tế cao. Xã Điện Quang huyện Điện Bàn có 700 ha đất canh tác thì chỉ còn
160 ha trồng lúa, còn lại trồng ớt, đậu phộng, bắp, thuốc lá cho giá trị kinh tế
cao hơn; thôn Bến Đền thuộc xã Điện Quang, 100% số hộ từ nhiều năm qua đã
không còn trồng lúa mà chuyển sang trồng các loại hoa màu quanh năm. Ngoài
ra, người dân xã Điện Quang đã bỏ giống bò địa phương và đưa giống bò lai
Sind vào thay thế, nhờ vậy người nuôi bò tại xã Điện Quang có thu nhập từ hoạt
động chăn nuôi rất cao.
Việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi tại các địa phương nêu trên đã đem lại
nhiều thành công, nhưng nó còn mang tính tự phát mà chưa được tổ chức theo
một chương trình phát triển có định hướng của cơ quan Nhà nước. Hiện tại, đa
số các vùng nông thôn tại Quảng Nam vẫn còn bám cây lúa mà chưa dám
chuyển sang các cây trồng, vật nuôi khác vì sợ rủi ro khi tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, việc chuyển sang cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao
đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, phát triển các hợp tác xã hoạt động
đa dạng như hợp tác xã Điện Quang, đồng thời phát triển ngành công nghiệp chế
biến, thúc đẩy các hoạt động kinh doanh nông sản thì sự liên kết giữa sản xuất
và thị trường mới đồng bộ, và ngành nông nghiệp Quảng Nam mới có điều kiện
phát triển bền vững.
4) Xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ, thực hiện triệt để qui trình sản xuất tối
ưu (VietGAP) trong các ngành sản xuất nông nghiệp
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để nâng cao sức cạnh tranh, hàng
nông sản cần phải có xuất xứ, dán nhãn và tuân thủ các qui trình sản xuất an
168 toàn. Hiện nay, rau Trà Quế đã được cấp nhãn hiệu hàng hóa, rồi sẽ có thương
hiệu dưa Tam Phước, ớt Điện Quang, yến sào Hội An,… Tất cả những thủ tục
chứng nhận sản phẩm hữu cơ là cần thiết khi xây dựng thương hiệu nông sản,
điều này đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cơ quan quản lý Nhà nước, doanh
nghiệp, các nông hộ và chủ trang trại.
Việc triển khai các thủ tục này sẽ làm cho chi phí nông sản tăng lên, nhưng
lợi ích là to lớn và lâu dài khi nông sản Quảng Nam muốn tham gia xuất khẩu
nhiều hơn.
Tóm lại, với định hướng phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế so sánh và
thị trường, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam sẽ đạt được các mục tiêu kinh tế, xã
hội đã đặt ra khi hoàn thiện được mô hình phát triển nông nghiệp như được đề
xuất ở trên.
c. Mục tiêu chủ yếu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2011-2020
Với định hướng phát triển nông nghiệp trên, có ba mục tiêu cụ thể mà ngành
nông nghiệp tỉnh Quảng Nam phải đạt được trong chiến lược xây dựng Quảng
Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 như sau:
1) Mục tiêu phát triển kinh tế trong nông nghiệp
Xuất phát từ những chiến lược phát triển nông nghiệp nhằm xây dựng Quảng
Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, một số chỉ tiêu phát triển kinh tế
và nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 được tác giả luận án tính
toán lại để phù hợp với quan điểm, định hướng và chiến lược phát triển nông
nghiệp Quảng nam giai đoạn 2011-2020, và kết quả được thể hiện ở bảng 3.3.
Trong đó, nông nghiệp chỉ còn chiếm tỷ trọng từ 9% đến 10% GDP; lao động
nông nghiệp chiếm khoảng 30%; và giá trị xuất khẩu của hàng nông, lâm, thủy
sản sẽ chiếm khoảng 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Nhằm đạt
được các mục tiêu này, tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng bình quân của
nông nghiệp đạt mức từ 4% đến 4,5% từ nay cho đến năm 2020.
169 Bảng 3.3: Các chỉ tiêu kinh tế và phát triển chủ yếu của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 33
CÁC CHỈ TIÊU
2005
2010
2011
2015
2020
CÁC CHỈ TIÊU VỀ DÂN SỐ VÀ THU NHẬP
Dân số cả tỉnh (1000 người)
1.416
1.428
1.431
1.444
1460
Tỷ lệ dân số nông thôn (%)
82,9
81,2
78,1
63,7
51,5
Lao động toàn tỉnh (1000 người)
747
784
814
859
934
Lao động nông nghiệp (1000 người)
532
Tỷ lệ lao động nông nghiệp (%)
71
464 59
448 56
359 42
277 30
Thu nhập đầu người (USD)
376
882
971
1917
4202
CÁC CHỈ TIÊU VỀ KINH TẾ
GDP thực tế (Tỷ đồng)
8.815
24.543 28.361 56.456 131.248
GDP giá 1994 (Tỷ đồng)
4.968
9.080 10.252 18.148 35.631
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
12,5
12,9
12,9
15,8
14,3
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp (%)
2,8
1.3
4,0
4,5
4,5
Tốc độ tăng trưởng CN & XD (%)
21,3
18,0
17,2
17,2
14,7
Tốc độ tăng trưởng dịch vụ (%)
13,9
12,5
14,5
17,5
15,5
CƠ CẤU NỀN KINH TẾ (%)
+ Nông nghiệp
31
20
14
10
21
+ Công nghiệp và xây dựng
34
41
43
45
40
+ Dịch vụ
35
39
43
45
39
XUẤT KHẨU (triệu USD)
Tổng kim ngạch xuất khẩu
113
275
448
1.344
3.750
21
22
Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (%)
30
50
60
35
37
Kim ngạch XK nông lâm thủy sản
90
470
1.312
31
14
20
35
35
Xuất khẩu nông nghiệp/tổng kim ngạch xuất khẩu (%) Nguồn: Dựa vào tính toán của đề án phát triển Quảng Nam đến năm 2020 thành tỉnh công
nghiệp của UBND tỉnh Quảng Nam (tr. 8) [23] và theo tính toán của tác giả.
33 Số liệu từ năm 2005 đến 2010 là số liệu thực tế thực hiện được. Số liệu từ năm 2011 đến 2020 theo tính toán của tác giả.
170
Dù xu hướng tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng vị trí của
nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Nam luôn
đóng vai trò quan trọng; nhất là việc đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói, giảm
nghèo và phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nhằm phục vụ cho
quá trình đô thị hóa, phát triển du lịch và quá trình hội nhập đang xảy ra nhanh
chóng tại Quảng Nam cũng như trong cả nước.
2) Mục tiêu phát triển xã hội nông thôn
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp như trên thì tỉnh Quảng
Nam mới có điều kiện đạt được 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ) [68].
Trong số các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, bảng 3.4 là các tiêu chí cơ
bản mà tỉnh Quảng Nam có thể đạt được vào năm 2020. Nếu đạt được các tiêu
chí này thì tỉnh Quảng Nam có điều kiện hoàn thành các tiêu chí còn lại trong
tổng số 19 tiêu quốc gia về nông thôn mới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống tại nông thôn, ổn định chính trị, xã hội và đạt được các mục tiêu của phát
triển nông nghiệp bền vững.
Bảng 3.4: Các tiêu chí cơ bản xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của
Quảng Nam
Các tiêu chí chủ yếu Chỉ tiêu Hiện trạng
70% 47% Đến năm 2020 70% 1. Giao thông nông thôn
70% 60% 70% 2. Kiên cố hóa kênh mương
1000 221 900 3. Thu nhập nông nghiệp (USD)
5% 19,6% 5% 4. Tỷ lệ hộ nghèo
35% 62,4% 30% 5. Cơ cấu lao động nông nghiệp
35% 10% 35% 6. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
85% 73% 85% 7. Nước sạch nông thôn
30% 25% 35% 8. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế
171
3) Mục tiêu bảo vệ môi trường
Tỉnh Quảng Nam có đến 51,5% diện tích đất tự nhiên là rừng. Hiện tại, mức
bao phủ rừng đạt 43,5%, nhưng chỉ có 1,8% là rừng giàu, còn lại là rừng nghèo
và rừng trồng; do đó, chức năng điều hòa nguồn nước và khí hậu của rừng giảm
đáng kể. Hậu quả là lũ lụt hàng năm trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn làm
thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng; trong đó, ngành nông nghiệp, các công trình thủy
lợi và giao thông nông thôn chiếm trên 70% giá trị thiệt hại. Chính vì vậy, đến
năm 2020, tỉnh Quảng Nam đặt mục tiêu bao phủ rừng đạt tỷ lệ 51%, nâng tỷ lệ
rừng giàu lên 5% và thực hiện các chương trình phát triển rừng trên đất nương
rẫy kết hợp với việc giao đất giao rừng cho cộng đồng dưới sự quản lý của già
làng kết hợp với chính quyền địa phương (Bùi Quang Thanh, 2007, tr. 192)
[81]].
Quảng Nam có thể làm giàu từ rừng nếu khai thác được những giá trị gia
tăng từ rừng thông qua qui hoạch, khai thác và sử dụng hiệu quả các sản phẩm
từ rừng. Nhờ đó, cải thiện được đời sống của các cộng đồng sống dựa vào rừng,
đồng thời làm giảm những tổn thất cho ngành nông nghiệp và nông thôn phải
gánh chịu hàng năm, tạo điều kiện nông nghiệp tỉnh Quảng Nam phát triển bền
vững.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH
QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Để thực hiện được định hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2011-2020, thì chủ thể thực hiện các giải pháp được đề xuất dưới
đây chủ yếu vẫn là nông hộ, các chủ trang trại; bên cạnh đó vai trò của chính
quyền cấp tỉnh, cấp huyện và xã là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng qui
hoạch, ban hành và thực thi các chính sách phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, để
giúp nông dân từng bước hội nhập và nâng dần vị thế của nhà sản xuất trong
chuỗi ngành hàng nông sản, Nhà nước tỉnh Quảng Nam sẽ là chủ thể chính trong
172 việc đề ra các chính sách tại địa phương nhằm liên kết giữa nông dân với các đối
tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản để các nhà thu gom, các hợp tác xã, các
nhà máy chế biến và nhà xuất khẩu cùng với nông dân thực hiện thành công các
giải pháp được đề nghị dưới đây.
3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Những năm đến, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng
Nam có những nội dung sau.
a) Xác định cơ cấu sản xuất có lợi thế tại Quảng Nam
Những nghiên cứu và phân tích thực trạng cho thấy những năm đến chiến
lược phát triển nông nghiệp Quảng Nam phải dựa vào các cây trồng, vật nuôi có
lợi thế so sánh như cây rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày, cây nguyên liệu
giấy, chăn nuôi và thủy sản. Nội dung cụ thể như sau:
Về trồng trọt. Đối với vùng trung du và đồng bằng, đất đai tại đây phù hợp
với các cây trồng chính như được thể hiện trong bảng 3.5. Cây trồng đa dạng
nhưng qui mô nhỏ và phân tán, chính vì vậy mà cây lúa chỉ đáp ứng nhu cầu tự
túc lương thực, thu nhập bằng tiền của nông hộ tại Quảng Nam chủ yếu dựa vào
các cây rau màu và nhóm cây công nghiệp.
Bảng 3.5: Những cây trồng chính phù hợp với vùng đồng bằng và trung du
tại Quảng Nam
Nhóm cây lương thực
Nhóm cây rau đậu
Nhóm cây công nghiệp
Nhóm cây ăn quả
Nhóm cây khác
- Đay, cói - Nông lâm kết hợp
- Xoài - Bưởi - Bòn bon
- Lúa - Bắp - Khoai lang - Sắn
- Đậu phộng - Đậu xanh - Ớt - Mè (vừng) - Dưa
- Dâu tằm - Mía - Thuốc lá - Bông - Hồ tiêu - Điều - Cao su - Quế
Nguồn: Đỗ Cảnh Dương, 2006, tr. 120 [19].
173
Do quá trình đô thị hóa nhanh và hoạt động du lịch phát triển, mà nhu cầu
rau quả ngày càng lớn và đây là cơ hội để nông nghiệp Quảng Nam khai thác
tiềm năng của nhóm cây này; có một số cây rau quả tham gia xuất khẩu thu về
ngoại tệ như cây ớt, thuốc lá, đậu phộng, vừng, dưa hấu. Ngoài ra, một số vùng
sản xuất nông nghiệp nhưng có liên kết với các hoạt động du lịch như làng rau
Trà Quế, hoặc một số vùng khác như làng ươm tơ dệt lụa Đông Yên, Duy Trinh;
làng trái cây Đại Bường, Quế Trung.
Đối với vùng trung du và miền núi. Thế mạnh của vùng này là trồng cây
công nghiệp, cây nguyên liệu giấy; kinh tế vườn theo mô hình nông lâm kết hợp
(Võ Lượng, 1999, tr. 25) [39]. Đối với cây lương thực như lúa, sắn, khoai chỉ
nhằm mục đích tự túc vì sản lượng lúa rẫy chỉ 1,9 tấn/ha/vụ (Ngô Văn Đồng,
2007, tr. 35) [25], lúa nước chỉ đạt mức 2,5 tấn đến 3,5 tấn/ha/vụ và diện tích trồng lúa nước không nhiều, bình quân mỗi hộ chỉ 200 m2 đến 300 m2 (Bùi Văn
Tuất, 2003, tr. 12) [87].
Theo kết quả nghiên cứu trên địa bàn, vùng trung du và vùng núi Quảng Nam
thích hợp cho các cây công nghiệp như cao su, quế; cây keo làm nguyên liệu
giấy; cây xoài, bưởi, bòn bon (Trần Quang Vinh, 2001, tr. 11) [96] là các loại
cây ăn quả thích hợp với đất đai và khí hậu tại Quảng Nam. Riêng cây cà phê và
ca cao không phát triển tốt trên đất đai của Quảng Nam (Nguyễn Văn Tân, 2001,
tr. 28) [80].
Về chăn nuôi. Vùng đồng bằng, trung du và miền núi tỉnh Quảng Nam đều có
thể phát triển ngành chăn nuôi gia súc như heo, bò, dê và gia cầm như gà, vịt.
Bò lai Sind phát triển tốt tại đất Quảng Nam thời gian qua, ưu điểm là cho năng
suất gấp 2 đến 2,5 lần so với bò địa phương, nhiều địa phương như Duy Xuyên,
Điện Bàn có những xã như xã Điện Quang đạt tỷ lệ Sind hóa đàn bò trên 95%.
Các hộ tại đây nuôi bò tập trung không chăn thả, thức ăn có sẵn tại địa phương
và xử lý phân bằng hầm bioga vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa tiết kiệm
được chất đốt và điện thắp sáng. Có nhiều hộ tiết kiệm hàng tháng trên 500 ngàn
174 đồng. Khảo sát tại hộ Đỗ Thị Cam, xã Điện Quang nuôi 14 con bò lai Sind, nuôi tập trung lấy phân cho hầm bioga 12 m3. Hầm được đầu tư 9 triệu đồng, sử dụng
ga nấu cho hai gia đình, dùng thắp sáng hai ngọn đèn cho mỗi nhà. Tại xã Điện
Quang hiện có trên 20 gia đình đầu tư hầm bioga vì chăn nuôi bò rất phát triển ở đây34.
Những năm qua, ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Nam phát triển chủ yếu dựa
trên hình thức chăn nuôi gia đình với qui mô nhỏ; và cung cấp chủ yếu cho thị
trường nội tỉnh và thành phố Đà Nẵng mà chưa mở rộng ra thị trường xuất khẩu.
Vì vậy, ngành chăn nuôi chưa phát triển. Phương hướng những năm đến, cần
Sind hóa đàn bò toàn tỉnh, nạc hóa đàn heo và phát triển nuôi gà cả hình thức
chăn nuôi gia đình và chăn nuôi công nghiệp, vì tỉnh Quảng Nam có nguồn thức
ăn dồi dào nhờ vào cây bắp, sắn, khoai, và bột cá luôn có sẵn tại địa phương.
Về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Quảng Nam có lợi thế về ngư
trường đánh bắt và mặt nước nuôi trồng thủy sản cả nước mặn, nước lợ và nước
ngọt. Ngành đánh bắt hải sản của tỉnh Quảng Nam đạt sản lượng không cao do
năng lực đánh bắt còn yếu cả về số lượng và công suất tàu thuyền. Đối với
ngành nuôi trồng thủy sản, tiềm năng khai thác mặt nước nuôi trồng rất lớn so
với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đặc biệt, sau khi phát triển 10
công trình thủy điện lớn trên hệ thống sông Vu Gia, Thu Bồn sẽ tạo nên 10.400
ha mặt nước; đây sẽ là tiềm năng để Quảng Nam phát triển nuôi trồng thủy sản
nước ngọt trên các lòng hồ thủy điện.
Ngoài ra, tỉnh Quảng Nam có một lợi thế là kết hợp nuôi trồng thủy sản với
hoạt động du lịch, nếu được tổ chức tốt hơn thì nông dân ngoài việc có thu nhập
từ nuôi thủy sản còn có các thu nhập khác từ hoạt động du lịch; nhất là các vùng
dọc sông Trường Giang và Cù Lao Chàm.
Về lâm nghiệp. Hiện tỉnh Quảng Nam có 184.503 ha đất rừng trồng tập trung,
chưa kể rừng phân tán của các hộ dân có diện tích tương đương. Nên tiềm năng 34 Khảo sát của tác giả ngày 10 tháng 4 năm 2010.
175 phát triển cây nguyên liệu giấy tại Quảng Nam rất lớn. Ngoài việc phát triển
rừng trồng, tỉnh Quảng Nam hiện đứng thứ 4 cả nước về tiềm năng thủy điện, với nguồn thủy năng 18 tỷ m3 mỗi năm và cung cấp hơn 6 tỷ kWh điện/năm. Để
duy trì nguồn nước các công trình thủy điện, Chính phủ cho thực hiện nuôi trồng
và chăm sóc rừng và Nhà nước sẽ chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho các
hộ chăm sóc (Nghị định 99/2010/NĐ-CP) [51].
Hiện tại, tỉnh Quảng Nam thu thuế tài nguyên từ thủy điện A Vương (khoảng
12 tỷ đồng mỗi năm), tỉnh giữ lại 60%, còn 40% giao về 3 huyện là Đông Giang,
Tây Giang và Nam Giang để thực hiện các chương trình phát triển hổ trợ các
cộng đồng tái định cư bị ảnh hưởng bởi thủy điện và cộng đồng dân cư sống trên
địa bàn. Tuy nhiên, số tiền này không đủ để tạo thu nhập của người dân trong
tham gia tái sinh và trồng rừng. Việc triển khai chi trả phí dịch vụ rừng sẽ làm
gia tăng nguồn cho tái sinh rừng; tuy nhiên, cần phải huy động thêm các nguồn
khác trong đó phải có sự đóng góp thêm của nhà máy thủy điện từ lợi nhuận sau
thuế. Điều này sẽ đem lại những lợi ích lớn hơn cho nhà máy thủy điện nếu mọi
người dân đều tham gia bảo vệ rừng để có thu nhập. Trước đây, tại tỉnh Quảng
Nam đã thực hiện chương trình trồng cây lâm nghiệp trên đất nương rẫy và Nhà
nước sẽ cấp bù lương thực cho người dân; xét cho cùng thì trồng lúa trên đất
nương rẫy rất bấp bênh, cuối cùng người dân vùng núi tỉnh Quảng Nam chủ yếu
vẫn dựa vào cây sắn (Đoàn Tranh, 2011, tr. 568) [82]. Đây là cơ hội để tỉnh
Quảng Nam chuyển dịch và gia tăng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp trong
những năm đến.
b. Chuyển dịch theo hướng lựa chọn các cây trồng, vật nuôi phù hợp với
thị trường trong nước và xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao
Bảng 3.6 cho thấy thu nhập của nông dân vùng đồng bằng nhờ vào trồng các
loại cây rau đậu đem lại thu nhập cao hơn hẳn so với trồng lúa chỉ đem lại thu
nhập không quá 3,8 triệu đồng/ha.
176
CHỈ TIÊU
Cà Tím
Rau muống
Dưa Leo
Dưa gang
Xà Lách
Đậu Đũa
Năng suất (tấn/ha) Doanh thu (1000 đ)
24 24.120
47 28.200
23,2 27.840
21,4 21.400
31,2 34.230
15,2 18.240
Chi phí (1000 đ)
11.819
14.970
15.570
8.779
16.230
12.390
Lợi nhuận (1000 đ)
12.301
13.230
12.270
12.621
18.163
5.850
Nguồn: Nguyễn Tấn Cư, 2004 [15].
Bảng 3.6: Thu nhập của các loại rau đậu tại Quảng Nam
Không chỉ các cây rau đậu như được phân tích ở trên; cây lúa giống, cây bắp,
cây công nghiệp ngắn ngày như cây ớt, cây thuốc lá cũng đem lại giá trị cao cho
nông dân. Đối với vùng trung du, việc chuyển từ trồng các cây nguyên liệu giấy,
cây ăn quả được chuyển sang trồng các cây cao su, cây dó bầu đem lại thu nhập
cao hơn. Tại vùng dọc biển và dọc sông Trường Giang nên chuyển các ruộng lúa
năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản đem lại giá trị kinh tế cao gấp 4,5 lần so
với trồng trọt. Nhiều hộ dân tại Điện Dương huyện Điện Bàn chuyển sang trồng
cây cảnh và cỏ Nhật để phục vụ các khách sạn và resort mà có thu nhập cao và
ổn định hơn là sản xuất nông sản.
Ngoài ra, việc hướng đến xuất khẩu mà nhiều nông sản gia tăng giá trị cao
hơn; cây dưa tại Tam Phước, huyện Phú Ninh, cây ớt tại Đại Lộc, Điện Bàn, trái
thanh long tại Núi Thành, cây dó bầu dùng sản xuất các hàng thủ công xuất
khẩu, thủy sản dành cho xuất khẩu,... Tuy nhiên, đa số các hàng xuất khẩu của
Quảng Nam chủ yếu xuất sang là các thị trường Châu Á, là thị trường có giá cả
thấp mà chưa hướng đến thị trường Mỹ là thị trường có đến 2,5 triệu người Việt
Nam sinh sống và có giá trị xuất khẩu cao hơn. Những năm đến, hàng nông sản
xuất khẩu của Quảng Nam cần hướng đến thị trường có giá trị cao này.
c. Chuyển dịch theo hướng phát triển chuyên môn hóa và tập trung hóa
Chuyển dịch theo hướng thành lập các vùng chuyên môn hóa thì mới xây
dựng được nền nông nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Mỗi vùng miền
của Quảng Nam có khả năng thành lập các vùng chuyên canh: 1) Vùng ven biển
177 từ Điện Bàn, Hội An đến Tam Hải và Cù Lao Chàm có các vùng chuyên canh
như vùng rau Trà Quế, rau đắng, trái bắp Hội An; yến sào Hội An, tôm nước lợ
Trường Giang. 2) Vùng trung du và đồng bằng là vùng hạ lưu của sông Vu Gia,
Thu Bồn và sông Tam Kỳ có các vùng chuyên canh cây lúa nước, cây công
nghiệp ngắn ngày, rau đậu, trồng dâu nuôi tằm, cây cảnh, cây ăn trái; chăn nuôi
bò, heo và gia cầm. 3) Vùng núi gồm có vùng núi phía Nam mưa nhiều phù hợp
với cây quế, vùng núi phía Bắc ít mưa hơn có cây trái “bòn bon”. Cả hai vùng là
vùng nguyên liệu giấy, cây công nghiệp, song mây, cây lâm nghiệp, câu dứa,
cây sắn; chăn nuôi đại gia súc như bò, dê.
Đặc điểm là các vùng chuyên canh ở Quảng Nam, trừ vùng nguyên liệu giấy,
vùng cây quế thì các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi khác có qui mô
không lớn nhưng là những đặc sản mà các địa phương khác ít sánh kịp. Chỉ có
chuyển dịch theo hướng thành lập các vùng chuyên canh thì mới có khả năng tập
trung hóa trong sản xuất nông nghiệp và đây cũng là tiền để để phát triển nền
nông nghiệp tỉnh Quảng Nam theo hướng công nghiệp và hiện đại hóa.
d. Chuyển dịch theo hướng phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, bảo vệ
môi trường
Phát triển nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng của sản xuất và tiêu dùng
nông sản. Những năm qua nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nhiều
chương trình sản xuất nông sản hữu cơ và bảo vệ môi trường; những năm đến để
chuyển dịch theo hướng này, nền nông nghiệp cần tập trung vào các lĩnh vực
chủ yếu sau:
- Đối với canh tác cây lương thực và rau đậu: 1) duy trì sản xuất 2 vụ lúa
thay vì sản xuất 3 vụ lúa, để đất phục hồi độ màu mỡ và tránh mùa bão, lũ tại
miền Trung; 2) áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp và phát triển rộng
khắp phương pháp canh tác 3 giảm 3 tăng không chỉ trong sản xuất cây lúa mà
cả trong các loại cây trồng khác; 3) phát triển các vùng rau sạch như vùng rau
Trà Quế và xây dựng thương hiệu rau sạch Quảng Nam.
178
- Đối với nuôi trồng thủy sản cần chuyển theo nuôi thủy sản sinh thái. Mật độ nuôi tôm khoảng 6 đến 8 con/m2 thay vì 10 đến 15 con/m2, lúc đó chi phí xử
lý môi trường, thuốc dịch bệnh sẽ giảm. Không chỉ có vậy, lượng con giống đầu
tư ít lại nhưng cho sản lượng thu hoạch cao hơn vì trọng lượng mỗi con tôm, con
cá khi thu hoạch lớn hơn.
- Chăn nuôi gia súc, gia cầm kết hợp với xử lý hầm bioga vừa bảo vệ môi
trường vừa giảm chi phí cho các hộ nông dân. Các trại chăn nuôi của nông hộ ở
xã Điện Quang là hình mẫu để áp dụng tại các địa phương khác trong tỉnh.
Phát triển ruộng bậc thang tại các vùng cao nhằm nâng cao năng suất -
canh tác lúa của các đồng bào dân tộc, lúa nương chỉ cho năng suất 1 tấn/ha và
chỉ trồng được một vụ; trong khi ruộng lúa nước tại vùng cao có thể cho năng
suất từ 2,5 tấn đến 3,5 tấn/ha/vụ và có thể canh tác 2 vụ. Với năng suất này, các
đồng bào dân tộc sẽ không phá rừng làm rẫy mà sẽ chuyển các nương rẫy sang
trồng cây lâm nghiệp vừa bảo vệ được môi trường vừa tăng thêm thu nhập theo
Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Để triển khai được việc chuyển đổi trên, cơ quan quản lý nông nghiệp tỉnh
Quảng Nam cần triển khai dán nhãn hưu cơ các nông sản, vừa để xây dựng
thương hiệu nông sản của tỉnh, vừa gia tăng giá trị của nông sản khi tiêu thụ tại
các siêu thị.
e. Chuyển dịch nông nghiệp kết hợp với chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp
Lực lượng lao động trong nông nghiệp còn quá lớn (năm 2010 là 59,1%) là
một bất lợi đối với nền nông nghiệp Quảng Nam, nên việc chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp kết hợp cùng với quá trình chuyển
dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là cần thiết để phát triển nông nghiệp tỉnh
Quảng Nam những năm đến. Chỉ có tiến hành nhanh quá trình này thì mới làm
cho: 1) năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp tăng lên; 2) tạo động
lực để cơ giới hóa, chuyên môn hóa, tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp;
179 3) chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn; và 4) tăng thu nhập của các hộ nông nghiệp.
Theo tính toán, từ nay đến năm 2020, mỗi năm cần thiết phải chuyển từ
35.000 đến 40.000 lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực hoạt động phi nông
nghiệp. Để thu hút lao động từ nông nghiệp, ngoài việc phát triển các công
nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, phát triển 70 làng nghề hiện có, tỉnh
Quảng Nam cần tập trung phát triển các hoạt động dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp,
các hoạt động thương mại và dịch vụ gắn với chuỗi ngành hàng nông sản. Tất cả
những biện pháp này làm cho nông hộ “ly nông bất ly hương”.
Tóm lại, các biện pháp chuyển dịch sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng
Nam những năm đến dựa vào các ngành có lợi thế so sánh nhưng phải đáp ứng
tốt nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; việc sản xuất phải theo hướng
chuyên môn hóa, tập trung hóa, khai thác hợp lý vùng sinh thái kinh tế; lấy hiệu
quả kinh tế làm động lực để phát triển và xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ.
Việc chuyển dịch sản xuất như trên phải đồng thời chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang các hoạt động kinh tế khác thì mới có cơ hội xây dựng nền nông
nghiệp tại Quảng Nam theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
3.2.2. Khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp
Khai thác tổng hợp sẽ là giải pháp quan trọng khi phát triển các vùng sinh
thái nông nghiệp, trong đó hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển sẽ là cơ sở
để định hướng phát triển vùng sinh thái nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những
năm đến.
a. Phát triển tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp
Việc khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp, ngoài việc phát triển
nông nghiệp cần phải kết hợp với các hoạt động phi nông nghiệp có gắn với
nông nghiệp, vừa để tận dụng mọi nguồn lực tạo ta thu nhập, giảm chi phí cho
nông hộ, còn để phát triển nông nghiệp một cách bền vững. Vì vậy, đối với mỗi
vùng sinh thái sẽ phát triển tổng hợp theo hướng sau.
180
Vùng ven biển. Ngoài việc phát triển đánh bắt hải sản và nuôi thủy sản dưới
dạng công nghiệp để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản. Khi cầu
Cửa Đại hoàn thành, việc giao thông khu vực dọc biển và sông Trường Giang
được lưu thông thuận lợi thì nên chuyển toàn bộ các hộ nông dân và trang trại
theo mô hình nuôi trồng thủy sản, và sản xuất các loại rau đậu, cây trái, cây cảnh
phục vụ cho các hoạt động du lịch, khách sạn tại khu vực này. Một số trang trại
thủy sản có điều kiện nên chuyển sang các hoạt động du lịch trang trại theo các
mô hình sau: 1) Giường và ăn sáng – du lịch phổ biến nhất là ngủ qua đêm,
khách du lịch được ở trong nhà của trang trại và được phục vụ bữa ăn điểm tâm
đầy đủ như là một phần của dịch vụ. 2) Khách sạn nhỏ của tư nhân cho thuê để
ở nửa ngày hoặc cả ngày, đây là một loại dịch vụ cung cấp giường và bữa ăn
điểm tâm cộng thêm bữa ăn tối hoặc cả bữa trưa và bữa tối. Tất cả đều do nông
dân cung cấp, có thể ăn cùng với nông dân, một bữa ăn thịnh soạn có các món
được chế biến từ các sản phẩm của trang trại. Bằng cách này, người nông dân
cho khách du lịch thưởng thức một kinh nghiệm đặc biệt và bổ sung giá trị vào
sản phẩm du lịch. 3) Ăn ở tự phục vụ – nhiều nông dân không muốn nấu nướng
cho khách, nhưng họ có nhà và họ biến chúng thành những căn hộ hoặc lều phục
vụ những ngày nghỉ, được trang bị sao cho khách có thể tự nấu các bữa ăn cho
mình. Một mô hình khác theo kiểu này là tổ chức dịch vụ câu cá và đánh bắt
thủy sản theo yêu cầu của du khách. 4) Các hoạt động cho khách du lịch – nhiều
nông dân còn cung cấp các hoạt động cho khách du lịch, khách có thể ở lại trang
trại hoặc đơn giản chỉ đến trang trại trong thời gian ban ngày. Những hoạt động
này gồm hướng dẫn cách nuôi cá, trồng rau, bơi thuyền, câu cá, chơi các môn
thể thao nước, các cuộc đi tham quan mang tính giáo dục, và các cơ hội để
“kiếm thực phẩm cho bản thân”.
Vùng đồng bằng và trung du. Vùng này có lợi thế so sánh để phát triển một
số mô hình trồng trọt và chăn nuôi theo hình thức chuyên canh và thâm canh kết
hợp với phát triển công nghiệp chế biến và phát triển các hoạt động ngành hàng
181 như sau: 1) Xây dựng các vùng trồng lúa “giống” thay vì trồng lúa “thịt”, giá lúa
giống cao gấp 1,5 lần đến 2 lần giá lúa thịt thương phẩm trong khi chi phí trồng
lúa giống không cao hơn lúa thịt là bao nhiêu, chỉ có công chăm sóc là cao hơn, công chăm sóc một sào 35 lúa thịt cần 8 công thì sào lúa gống tăng thêm 4 công
nữa. Hiện nay một số vùng trồng lúa ở Điện Bàn, Đại Lộc đã dần chuyển sang
vùng trồng lúa giống. 2) Phát triển các vùng chuyên canh rau đậu, cây ăn trái,
cây bắp, cây công nghiệp ngắn ngày đem lại giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với
trồng lúa. Vùng trái thanh long huyện Núi Thành; vùng trồng dưa leo, dưa hấu
Tam Phước; vùng trồng ớt, đậu phộng, mè, bắp tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn;
vùng rau Trà Quế Hội An, Quảng Huế huyện Đại Lộc,… cho thu nhập gấp 4 đến
5 lần so với trồng lúa. 3) Thay các giống bò địa phương bằng giống bò lai Sind
cho năng suất cao gấp 2 đến 2,5 lần. Mô hình nuôi bò lai Sind tại Điện Quang
huyện Điện Bàn kết hợp với xử lý phân bằng hầm bioga đem lại thu nhập cao và
nhiều lợi ích ích kinh tế cho nông hộ và nhất là vấn đề xử lý môi trường tại nông
thôn đối với việc phát triển ngành chăn nuôi tại Quảng Nam.
Vùng núi Quảng Nam. Nói chung nông lâm kết hợp sẽ là giải pháp canh tác
phù hợp cho các vùng địa hình núi dốc tại Quảng Nam. Lâm nghiệp kết hợp với
các cây trồng công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi sẽ là mô hình đem lại hiệu
quả kinh tế cao cho các hộ dân và các trang trại tại Quảng Nam; và mô hình này
cũng phù hợp với các vùng dân tộc thiểu số tại các huyện phía tây Quảng Nam,
vì vừa tạo thu nhập cho đồng bào các dân tộc vừa giúp bảo vệ rừng, tránh xói
mòn đất và duy trì nguồn nước (Đào Bá Hoàn, 2004) [33]. Nói riêng, vùng này
có một số cây trồng, vật nuôi có lợi thế cần khai thác hiệu quả như: 1) Khôi
phục lại giống quế địa phương Quảng Nam (vùng Trà My cũ) là cây đặc sản có
giá trị, nhưng sau thời gian phát triển ào ạt và chọn giống không phù hợp đã làm
cây quế Quảng Nam mất dần thị trường xuất khẩu, trước đây một cây quế cho
thu nhập trên 20 triệu đồng thì hiện nay chỉ cho tối đa 100 ngàn đồng, nên nhiều 35 1 sào = 500 m2
182 nông dân chặt quế trồng keo là vì vậy. 2) Phát triển vùng sâm Ngọc Linh (vùng
Nam Trà My) là cây thuốc có giá trị nhưng hiện nay vẫn chưa phát triển thương
mại và chưa thể xây dựng chỉ dẫn địa lý cho cây này vì có sự tranh chấp giữa
Kon Tum và Quảng Nam về sở hữu chỉ dẫn địa lý. 3) Phát triển cây “bòn bon”
vùng huyện Nam Giang Quảng Nam thành loại trái cây đặc sản. 4) Phát triển
vùng dứa tại các xã vùng núi huyện Đại Lộc và huyện Nam Giang, Quảng Nam.
5) Phát triển nuôi trồng thủy sản trên các lòng hồ thủy điện. 6) Phát triển cây
nguyên liệu giấy tại các rừng sản xuất, đất nương rẫy và rừng phân tán trong
dân. Đây là cây có lợi thế tại vùng này, tỉnh Quảng Nam cần xây dựng nhà máy
chế biến bột giấy sử dụng cây keo và cây bạch đàn làm nguyên liệu thì sẽ làm
gia tăng giá trị cây nguyên liệu giấy và tạo đầu ra ổn định cho cây trồng chiến
lược này.
Để khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp như trên cần phải
nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại mỗi vùng sinh thái để
phát triển cho phù hợp. Trong đó, quan trọng là hoàn thiện công tác qui hoạch
phát triển nông nghiệp.
b. Hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển nông nghiệp
Để chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và khai thác hợp lý các vùng
sinh thái nông nghiệp, thì vấn đề hoàn thiện công tác qui hoạch phát triển nông
nghiệp tại các vùng sinh thái nông nghiệp là cần thiết.
Qui hoạch vùng lãnh thổ - ngành (địa kinh tế) là sắp xếp, bố trí các hoạt động
kinh tế, xã hội trên một địa bàn lãnh thổ nhất định nhằm cụ thể hóa chiến lược
phát triển của vùng lãnh thổ trong từng thời kỳ và là cơ sở để xây dựng các
chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong ngắn hạn. Như vậy, qui
hoạch có vai trò làm cầu nối để triển khai các chiến lược phát triển trong dài hạn
và các kế hoạch trong ngắn hạn.
Do khoa học, công nghệ phát triển nhanh, thị trường luôn chuyển dịch nên
qui hoạch phải bao hàm các nhân tố “cứng” và “mềm”. Qui hoạch “cứng” đòi
183 hỏi qui hoạch phải tuân thủ các qui chuẩn, tiêu chuẩn, các cơ sở pháp lý và
chính sách để hướng mọi hoạt động phù hợp với qui hoạch; bên cạnh đó, qui
hoạch “mềm” yêu cầu qui hoạch phải có tính linh hoạt hay nói cách khác các kế
hoạch phát triển, các chương trình, dự án luôn được điều chỉnh để mọi hoạt động
thực tiễn luôn hướng đến mục tiêu của chiến lược phát triển.
Những năm qua, công tác qui hoạch của tỉnh Quảng Nam có một số nhược
điểm: 1) Nặng về tổ chức sản xuất mà chưa nghiên cứu và dự báo thấu đáo nhu
cầu của thị trường, sự thay đổi của công nghệ. 2) Căn cứ qui hoạch chưa xuất
phát từ chiến lược phát triển; những thông tin về tài nguyên, nguồn lực, thị
trường,… không đầy đủ, nhiều khi không chính xác. 3) Qui hoạch nhưng không
có kế hoạch cụ thể và không có chính sách và cơ sở pháp lý để đảm bảo phát
triển theo qui hoạch; dẫn đến tùy tiện thay đổi qui hoạch. 4) Chỉ đạo thực hiện
nhiều khi không gắn với qui hoạch. Tất cả những điều đó làm cho chất lượng qui
hoạch thấp không phục vụ cho việc thực hiện các chương trình, đề án phát triển.
Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong giai
đoạn 2011-2020, việc hoàn thiện qui hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng
Nam cần chú ý những vấn đề sau đây:
1) Qui hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải gắn với qui hoạch phát
triển kinh tế, xã hội của toàn tỉnh, của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và
của cả nước và có tính đến yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế.
2) Phải căn cứ vào lợi thế so sánh của từng vùng, nhu cầu của khách hàng
trong nước và các nước, xu hướng tiêu dùng, và sự phát triển của khoa học, công
nghệ.
3) Qui hoạch phải gắn với chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, hình thành các
vùng chuyên canh, và phát triển kinh tế trang trại.
4) Qui hoạch vùng sản xuất cây trồng, vật nuôi phải gắn với qui hoạch chuỗi
ngành hàng nông sản. Hay nói cách khác qui hoạch vùng sản xuất nông nghiệp
phải có qui hoạch ngành chế biến, kho hàng, vận tải và các hoạt động dịch vụ
184 khác đi liền với nó làm thế nào để đưa được nông sản đến người tiêu dùng cuối
cùng.
Ngoài ra, qui hoạch phát triển nông nghiệp phải được triển khai đồng bộ với
qui hoạch đất đai, qui hoạch khu công nghiệp chế biến, khu dân cư nông thôn và
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, viễn thông, trường học,
bệnh viện, chợ,…). Các loại qui hoạch trên đều phải gắn với việc cơ giới hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới và chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của
từng vùng, từng địa phương.
Để triển khai qui hoạch phát triển nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam trong
thời gian đến, cần thực hiện nhiều công việc: 1) Ưu tiên dự báo dài hạn nhu cầu
thị trường về các loại nông sản chủ yếu; 2) điều tra và phúc tra tài nguyên, khí
hậu,…; 3) cụ thể hóa qui hoạch chung thành qui hoạch cụ thể cho từng huyện,
từng ngành, từng sản phẩm; 4) có cơ chế, chính sách để gắn qui hoạch với đầu
tư và kế hoạch; 5) tăng cường các biện pháp để thực hiện qui hoạch trong điều
kiện nông dân và trang trại nhỏ là chủ yếu.
Dựa trên chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2020, nếu tỉnh Quảng
Nam hoàn thiện được qui hoạch phát triển nông nghiệp các vùng sinh thái nêu
trên thì sẽ tạo điều kiện xây dựng các chương trình, đề án cho việc chuyển đổi
cây trồng, vật nuôi; phát triển các loại hình dịch vụ, công nghiệp chế biến; liên
kết giữa nông nghiệp, công nghiệp và hoạt động du lịch phù hợp với từng vùng
kinh tế tại Quảng Nam.
3.2.3. Phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn
hóa, tập trung hóa
Phát triển công nghiệp chế biến sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nông sản ổn định và
giúp liên kết kinh tế giữa ngành nông nghiệp với ngành công nghiệp và dịch vụ;
liên kết giữa các đối tác trên chuỗi các ngành hàng nông sản, từ đó có điều kiện
hình thành các vùng chuyên môn hóa và thúc đẩy tập trung hóa. Đối với Quảng
185 Nam, tiềm năng phát triển nông nghiệp khá toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi,
thủy sản và cây lâm nghiệp. Nhưng những năm qua, nông dân Quảng Nam chủ
yếu vẫn bán sản phẩm “thô”; việc đa dạng hóa và làm gia tăng giá trị của các
nông sản thông qua công nghiệp chế biến chưa phát triển. Vì vậy, những năm
đến, Quảng Nam cần phải ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến theo hướng
sau:
a. Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu
Quảng Nam có tiềm năng về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản vì có ngư trường
rộng và có môi trường nước lợ, nước ngọt phong phú cho nuôi trồng thủy sản.
Nghề nuôi cá tại Quảng Nam đang phát triển, nếu công nghiệp chế biến thủy sản
phát triển sẽ thúc đẩy gia tăng số lượng tàu và công suất đánh bắt của ngư dân,
và sẽ mở rộng được vùng nuôi cá nước mặn, nước lợ và nước ngọt tại Quảng
Nam.
b. Phát triển công nghiệp chế biến súc sản, công nghiệp sữa, công nghiệp
chế biến thức ăn gia súc
Ngành chăn nuôi tại Quảng Nam đang phát triển, nhất là gà, heo, bò và trâu,
những năm đến cần hướng ngành chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, chăn
nuôi tập trung tại các vùng trung du tại Quảng Nam. Chăn nuôi bò sữa đang
được thử nghiệm để phát triển trên diện rộng tại Quảng Nam. Tuy nhiên, để ổn
định đầu ra cần phát triển công nghiệp chế biến súc sản và công nghiệp sữa;
không kể xuất khẩu, nhu cầu tiêu thụ nội địa hiện cũng rất lớn và xu hướng cải
thiện dinh dưỡng và cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam đặt ra nhu cầu tiêu thụ
thịt cá tăng lên.
Quảng Nam cũng có tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến thức ăn gia
súc cho heo, gà, tôm, cá ở qui mô vừa và nhỏ vì nguồn bắp, đậu tương và bột cá
luôn có sẵn tại Quảng Nam, và là thành phần chính cho chế biến thức ăn gia súc.
186
c. Phát triển công nghiệp chế biến rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày
Những năm qua ngành rau đậu của Quảng Nam phát triển rất nhanh để phục
vụ cho các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Nhu cầu rau sạch, rau có
chứng nhận hữu cơ, rau được xử lý sẵn trước khi cung cấp cho các siêu thị, nhà
hàng, khách sạn. Vì vậy, việc xây dựng các kho xử lý, bảo quản, đóng gói tại
các vùng sản xuất tập trung như làng rau Trà Quế cần được quan tâm, và đây
cũng là cách thức để gia tăng giá trị cho ngành trồng rau tại Quảng Nam.
Ngoài ra, các cây công nghiệp ngắn ngày như ớt, thuốc lá, vừng, đậu phộng
là những cây công nghiệp đem lại giá trị cao phù hợp với vùng châu thổ và vùng
phù sa tại Quảng Nam. Riêng cây ớt khi bán “thô” đã thu về giá trị gần 140 triệu
đồng/ha, nếu qua chế biến sẽ làm giá trị cây ớt tăng lên rất nhiều, và việc bảo
quản, đóng gói, vận chuyển, tiêu thụ và xuất khẩu rất thuận lợi.
d. Phát triển công nghiệp chế biến nguyên liệu giấy và bột giấy
Quảng Nam nói riêng và miền Trung, Tây Nguyên có nhiều rừng và trữ lượng
gỗ rất lớn. Mặt dù rừng phòng hộ và rừng đặc dụng hiện không được khai thác,
nhưng rừng sản xuất tại Quảng Nam có đến 184 ngàn ha, trong đó chưa kể rừng
phân tán nằm tại đất vườn và đất rẫy của các hộ dân chiếm một diện tích tương
đương với rừng sản xuất. Những năm qua, công nghiệp chế biến đồ gỗ và
nguyên liệu giấy có phát triển, nhưng chưa sử dụng các công nghệ hiện đại để
sản xuất ra các sản phẩm gỗ, ván sàn cao cấp (flywood), bột giấy. Hiện nguyên
liệu giấy của Quảng Nam băm từ cây keo, bạch đàn xuất khẩu sang Nhật Bản để
chế biến thành bột giấy; sau đó, bột giấy được nhập vào Việt Nam để sản xuất ra giấy. Nông dân bán 1 stère (1 m3) gỗ keo giá 200 ngàn đồng, sau khi băm thành
nguyên liệu giấy xuất khẩu tại cảng Đà Nẵng là 1,6 triệu đồng/tấn (giá
Vijachip), nhưng khi nhập khẩu từ Nhật Bản, giá bột giấy bình quân là 883
187 USD/tấn36, giá nhập khẩu bột giấy gấp 9,5 lần so với giá xuất khẩu nguyên liệu
giấy.
Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp chế biến bột giấy phải xét đến vùng
nguyên liệu cả miền Trung và Tây Nguyên thì hiệu quả kinh tế mới cao và
Quảng Nam là địa điểm thích hợp để xây dựng một nhà chế biến bột giấy vì nằm
ở vị trí trung tâm của cả nước về giao thông và trung tâm của vùng nguyên liệu.
e. Phát triển công nghiệp chế biến sắn
Hình 3.1 cho thấy chuỗi thị trường liên kết nông dân trồng sắn với các ngành
công nghiệp liên quan đến sản phẩm từ sắn. Sắn được chế biến thành tinh bột
sắn và nhiều sản phẩm có ích từ cây sắn, cây sắn cũng có thể chế tạo ra ethanol
SẮN CỦ TƯƠI (Từ nông dân)
NHÀ MÁY CHẾ BIẾN SẮN (Băm, xắt lát, bột lọc) CHẾ BIẾN SƠ BỘ
BÁNH KẸO
TINH BỘT
ETHANOL
CÔNG NGHIỆP DƯỢC
ĐỒ UỐNG (Rượu)
thay thế nhiên liệu cho các động cơ diesel.
KHÁCH HÀNG
Nhà bán sĩ/Bán lẻ
36 Nguồn: http://www.vietnam-ustrade.org/index.php?f=news&do=detail&id=228&lang=vietnamese
Hình 3.1: Chuỗi thị trường tiêu biểu của ngành công nghiệp sắn
188
Cây sắn là cây lương thực của nông dân nghèo và của các đồng bào dân tộc
vùng cao tại Quảng Nam; trong chiến tranh, cây sắn là cây nuôi sống bộ đội
trong những lúc thiếu lương thực. Ngày nay, cây sắn là cây xóa đói, giảm nghèo
cho các vùng nông thôn, nhất là vùng các dân tộc miền núi canh tác chủ yếu dựa
vào cây sắn.
Ngoài các ngành công nghiệp chế biến chủ yếu trên, việc bảo tồn và phát
triển 70 làng nghề tại Quảng Nam sẽ góp phần phát triển các ngành tiểu thủ
công nghiệp lấy nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm
từ những khiếm khuyết trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến những
năm qua tại Quảng Nam, việc phát triển công nghiệp chế biến những năm đến
cần xuất phát từ mục tiêu phát triển, đồng thời bám sát các quan điểm sau:
+ Lựa chọn công nghệ phù hợp: Là lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng
cao sản lượng, giá trị sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ
sinh thực phẩm.
+ Qui mô sản xuất: Phải phù hợp với vùng nguyên liệu, công nghệ và cơ sở
hạ tầng.
+ Về qui hoạch: Không chỉ qui hoạch vùng nguyên liệu mà qui hoạch phải
gắn với qui hoạch tổng thể kinh tế, xã hội và môi trường. Một nhà máy ra đời
không chỉ đảm bảo về mặt phát triển sản xuất mà phải kết hợp phát triển vùng,
xóa đói giảm nghèo, hạn chế di dân và bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Về đầu tư: Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, mở rộng liên
doanh giữa các doanh nghiệp chế biến trong nước và với nhà đầu tư nước ngoài
nhằm tăng nguồn lực về vốn và công nghệ.
Định hướng phát triển như trên sẽ làm hình thành các vùng chuyên canh làm
cho sản xuất hàng hóa phát triển. Quá trình này sẽ làm tập trung các nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp, nhất là tích tụ đất đai. Tuy nhiên, việc dồn điền đổi
thửa vừa qua tại tỉnh Quảng Nam và một số địa phương trong cả nước, có làm
cho các mãnh ruộng liền thửa và diện tích lớn lên, những không làm cho qui mô
189 đất đai trên mỗi đơn vị sản xuất nông nghiệp lớn hơn. Nên việc rút nhanh lao
động ra khỏi nông nghiệp, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân, thì quá trình
chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam mới thúc
đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
3.2.4. Hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp
Mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể
dựa hoàn toàn vào các nông hộ nhỏ mà phải dựa vào các trang trại qui mô lớn và
các loại hình doanh nghiệp trong nông nghiệp. Tuy nhiên, đến năm 2020, lao
động trong nông nghiệp vẫn còn chiếm một lực lượng lớn đến 30%, nên những
năm đến nông nghiệp Quảng Nam vẫn phải dựa vào kinh tế nông hộ và trang
trại là hai hình thức chủ yếu và hoàn thiện các hình thức tổ chức khác như hợp
tác xã kiểu mới và hiệp hội ngành hàng.
a. Nâng cao năng lực kinh tế nông hộ và phát triển kinh tế trang trại
Nâng cao năng lực kinh tế nông hộ chính là việc làm cho các nông hộ nhỏ
liên kết lại thực hiện chuyên môn hóa để cùng đáp ứng đơn hàng của một vài
ngành hàng cụ thể; chỉ có như vậy, nông hộ nhỏ mới có điều kiện áp dụng cơ
giới hóa, không chỉ nâng cao năng lực sản xuất qua tích tụ được đất đai, hình
thành các vùng chuyên canh mà còn tiếp cận được qui trình sản xuất tối ưu,
chứng nhận sản phẩm sạch, hữu cơ, tiếp cận thị trường nông sản và hội nhập vào
các ngành hàng một cách hiệu quả.
Hình 3.2 cho thấy các nông hộ sản xuất rau ở làng rau Trà Quế, xã Cẩm Hà,
Hội An đã nâng cao được năng lực sản xuất nhờ liên kết tạo nên vùng chuyên
canh, đáp ứng được các đơn hàng lớn, đem lại giá trị cao trong sản xuất rau.
Không những rau Trà Quế đã trở thành thương hiệu nhờ biết tạo ra vùng rau
sạch, an toàn và hiện là khách hàng truyền thống của hệ thống siêu thị Metro,
Big C, Co-op Mart và hệ thống các khách sạn lớn tại Quảng Nam và thành phố
Đà Nẵng; mà còn tạo ra những lợi ích khác cho xã hội, cộng đồng kinh tế tại địa
phương, nhất là ngành du lịch tại Quảng Nam.
190
THU NHẬP CHO CÁC NGÀNH VÀ XÃ HỘI
Các công ty Du lịch thu nhập từ hướng dẫn, đưa đón khách
Bán vé tham quan của UBND xã Cẩm Hà
Thu nhập từ các hoạt động du lịch cho Hội An và tỉnh Quảng Nam
Các dịch vụ tư nhân phục vụ tham quan và hướng dẫn trồng rau
Đầu tư của Nhà nước - Hạ tầng - Nhà lưới
LÀNG RAU TRÀ QUẾ - Dùng rong, bánh dầu làm phân bón. Tưới nước sạch - Không dùng phân chuồng, phân hóa học, thuốc trừ sâu - Chứng nhận thương hiệu của Cục Sở hữu Trí tuệ
Giá bán rau tăng nhờ thương hiệu rau sạch
CUNG CẤP QUA HỢP TÁC XÃ (50%) - Siêu thị Metro và Big C tại Đà Nẵng - Siêu thị Coop Mart Tam Kỳ
NGƯỜI TRỒNG BÁN TRỰC TIẾP (50%) - Các khu resort, khách sạn lớn tại Hội An, Đà Nẵng - Các thu gom cá nhân
THU NHẬP TRỰC TIẾP CỦA NGƯỜI TRỒNG RAU
Hình 3.2: Những lợi ích từ việc xây dựng thương hiệu rau sạch Trà Quế 37
Tuy nhiên, trong tương lai xa hơn, nâng cao năng lực của các nông hộ tại
Quảng Nam phải đi liền với các giải pháp đồng bộ về nâng cao thu nhập của
nông hộ, rút nhanh lao động nông nghiệp để chuyển sang các hoạt động phi
nông nghiệp, phát triển các làng nghề, phát triển du lịch nông nghiệp. Đồng thời
Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ nông
dân từ bỏ ruộng đất và chuyển sang các ngành nghề khác. Đây cũng là kinh
nghiệm của Hà Lan khi khuyến khích các trang trại làm ăn thua lỗ chuyển
37 Khảo sát thực tế tại thôn Trà Quế, xã Cẩm Hà tháng 2 năm 2010.
nhượng đất cho các trang trại lớn hơn để hình thành các trang trại có qui mô rất
191 lớn và chính phủ tạo điều kiện để các hộ từ bỏ đất nông nghiệp chuyển sang làm
việc khác.
Đối với phát triển kinh tế trang trại, tỉnh Quảng Nam hiện có 1.021 trang trại
các loại. Trong đó, diện tích đất đai các trang trại chỉ chiếm 9,4%, lao động
chiếm 0,81%, và giá trị sản xuất ra chỉ chiếm 3,9%. Nếu xét theo qui mô đất đai,
lao động và vốn thì tất cả các trang trại tại Quảng Nam được xem là các trang
trại nhỏ chưa đủ năng lực về sản xuất chứ chưa nói đến năng lực tổ chức, liên
kết các nông hộ, năng lực tiếp cận thị trường, năng lực ký kết các hợp đồng với
các nhà chế biến hay các tập đoàn bán lẻ. Chính vì vậy, những năm đến cần xây
dựng các trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và các trang trại
nông, lâm kết hợp có qui mô lớn cả về đất đai, vốn và lao động làm hạt nhân
liên kết các nông hộ; áp dụng cơ giới hóa và thực hiện các biện pháp canh tác
sạch phù hợp với yêu cầu của thị trường và của các đối tác trung gian trên chuỗi
cung cấp.
b. Xây dựng các hợp tác xã kiểu mới
Ngoài hai hình thức tổ chức sản xuất cơ bản trên, việc phát triển các hợp tác
xã sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
nông sản, và các doanh nghiệp chế biến nhằm thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các
đơn vị sản xuất nông nghiệp và các đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản
là cần thiết để phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam ổn định và bền vững.
Khác với mô hình hợp tác xã trước đây, hợp tác xã theo mô hình mới phải
hoạt động theo cơ chế thị trường và có các chức năng: 1) Cung cấp các vật tư
đầu vào đảm bảo chất lượng; 2) chuyển giao các kiến thức khuyến nông từ Nhà
nước, các tổ chức; 3) cung cấp các dịch vụ làm đất, thu hoạch, thú y, bảo vệ thực
vật,…; 3) đối tác chính thu gom, xử lý và tiêu thụ nông sản của nông dân; 5) nhà
cung cấp các dịch vụ tài chính, nhận tiền gửi cho nông dân và các hoạt động đầu
tư tại nông thôn; 5) cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi kèm với
192 dịch vụ tín dụng; 6) thực hiện các dịch vụ về môi trường và các hoạt động xã hội
khác tại nông thôn.
Hình 3.3 là mô hình quản lý hợp tác xã Điện Quang. Đây được xem là mô
hình quản lý hiệu quả nhất trong các hợp tác xã tại Quảng Nam. Ngoài các dịch
vụ quản lý nông thôn, các hoạt động tiêu thụ nông sản và giải quyết công ăn việc
làm là điểm nổi bậc của hợp tác xã này. Có hai hoạt động mới đó là hoạt động
quỹ tín dụng và bảo hiểm vật nuôi; khi quỹ tín dụng cho vay mua bò giống,
DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP
người vay được yêu cầu phải ký hợp đồng bảo hiểm vật nuôi với hợp tác xã.
- Cung cấp phân, giống - Dịch vụ thú y
- Cung cấp điện, nước - Dịch vụ thu gom rác
- Tiêu thụ nông sản (ký hợp đồng với đối tác nước ngoài)
HỢP TÁC XÃ ĐIỆN QUANG
Năm 2009 Doanh thu 8 tỷ đồng. Lợi nhuận trên 100 triệu đồng
DỊCH VỤ NÔNG THÔN
BẢO HIỂM VẬT NUÔI - Đơn giá bảo hiểm một con bò 120.000 đ/năm. - Trách nhiệm: + Tiêm chủng 3 lần/năm + Chữa bệnh miễn phí + Chết vì bệnh, đền 80% giá thị trường
QUỸ TÍN DỤNG - Cho vay mua con giống đi kèm với bảo hiểm vật nuôi - Cho vay sản xuất và tiêu dùng - Huy động tiết kiệm - Dự kiến mở rộng đến 3 xã Gò Nổi
Hình 3.3: Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã Điện Quang 38
Sau gần một năm hoạt động tín dụng và bảo hiểm, dư nợ của hợp tác xã đạt
10 tỷ đồng và bảo hiểm được 400 con bò trong tổng số 3000 con bò hiện có tại
xã và số lượng bò tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tăng lên vì lợi ích của hoạt
38 Khảo sát thực tế tại xã Điện Quang vào tháng 4.2010.
động này góp phần giảm tổn thất cho người chăn nuôi bò. Nhờ có hoạt động bảo
193 hiểm mà đàn bò tại xã chưa bao giờ bị dịch lỡ mồm, long móng và dự kiến của
hợp tác xã sẽ triển khai các loại cây trồng vật, nuôi khác trong tương lai.
Hiện tại Quảng Nam có 3 hợp tác xã hoạt động theo mô hình này trong số
hơn 100 hợp tác xã. Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể giao thầu
một số hoạt động như khuyến nông, hoặc giao chủ trì các chương trình phát triển
do Nhà nước đầu tư cho các hợp tác xã. Nên trong tương lai gần, chức năng của
hợp tác xã cần được hoàn thiện theo mô hình hoạt động của hợp tác xã Điện
Quang thì sẽ góp phần phát triển nông nghiệp Quảng Nam ổn định và bền vững
hơn.
Tất cả các hình thức hoạt động của hợp tác xã như trên phải nhằm vào mục
tiêu chính là thúc đẩy hình thành các ngành hàng nông sản và tiêu thụ nông sản
của nông hộ và các trang trại. Với mô hình hoạt động như trên, hợp tác xã sẽ trở
thành đối tác chính của Nhà nước trong việc triển khai các chính sách phát triển
nông nghiệp đến với nông nghiệp, nông thôn và nông dân tại Quảng Nam hiệu
quả hơn.
c. Phát triển các hiệp hội ngành hàng
Hiệp hội ngành hàng có vai trò khác so với hoạt động của hợp tác xã. Ngoài
việc xúc tiến các hoạt động tiêu thụ nông sản, bảo vệ lợi ích của thành viên sản
xuất, hiệp hội ngành hàng cần có vai trò lớn hơn và bổ sung vào một số lĩnh vực
mà hoạt động động của hợp tác xã không thể vươn tới: 1) Liên kết với các hợp
tác xã và Nhà nước trong các hoạt động xúc tiến thương mại, không chỉ dừng ở
việc duy trì, tìm kiếm, mở rộng thị trường để tiêu thụ các loại nông sản hiện có,
mà còn quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, phát hiện, xác định lợi thế
cạnh tranh để hướng dẫn nông dân sản xuất ra những nông sản có tính cạnh
tranh cao hơn; 2) cung cấp thông tin liên quan đến chất lượng nông sản, an toàn
thực phẩm, các phương pháp bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản; 3) phối
hợp với các hợp tác xã và dưới sự tài trợ của Nhà nước, các hiệp hội ngành hàng
tỉnh Quảng Nam cần từng bước phát triển hình thức thương mại điện tử trong
194 giao dịch hàng nông sản; 4) ngoài ra, hiệp hội ngành hàng có thể tham gia sâu
hơn vào quá trình hoạch định chính sách, vào việc thực thi những cam kết quốc
tế của Chính phủ trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và hội nhập kinh tế.
Dù hiệp hội ngành hàng là tổ chức phi lợi nhuận không giống như hoạt động
của hợp tác xã, nhưng hoạt động của hiệp hội ngành hàng đem lại những lợi ích
cho nông hộ, hợp tác xã và cho cả Nhà nước. Vì vậy, ngoài sự đóng góp của
nông hộ và hợp tác xã để duy trì hoạt động của hiệp hội ngành hàng, Nhà nước
cần phải có những hỗ trợ về kinh phí và cả cán bộ nhằm làm cho các hoạt động
của hiệp hội ngành hàng ngày càng hiệu quả.
Mô hình hoạt động của Hiệp hội giống cây trồng Điện Bàn là mô hình hiệp
hội ngành hàng hoạt động khá thành công tại Quảng Nam cần được nghiên cứu
để xây dựng các hiệp hội ngành hàng cho các nông sản còn lại tại Quảng Nam
trong những năm đến.
3.2.5. Tăng cường thâm canh trong nông nghiệp
Việc tăng cường công tác thâm canh trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng
Nam trong những năm đến có các nội dung cơ bản: 1) Đưa nhanh tiến bộ khoa
học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; 2) nâng cao chất lượng lao động nông
nghiệp; và 3) đa dạng hóa các hình thức khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật
trong nông nghiệp.
a. Đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Giai đoạn 1997-2010, tổng năng suất các yếu tố đóng góp vào sự phát triển
của nông nghiệp Quảng Nam chỉ là 8,9%, so với tổng năng suất các yếu tố đóng
góp vào sự phát triển nông nghiệp cả nước giai đoạn này là 31,8%. Nói chung,
tình hình ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
những năm qua tại Quảng Nam còn ở mức thấp nên những năm đến để nâng cao
được chất lượng của vốn đầu tư và lao động, làm cho năng suất lao động nông
nghiệp cao hơn thì giải pháp đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp là cần thiết.
195
Do đặc điểm của thời tiết, khí hậu, cấu tạo đất đai, mặt nước và địa hình mà
quá trình đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào từng vùng sinh
thái tại Quảng Nam cần thực hiện theo các hướng cơ bản sau:
1) Lựa chọn các cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao nhưng
phải đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường
Cây quế Trà My có thời gian trồng lâu hơn, mỏng vỏ hơn nhưng chất lượng
tinh dầu quế cao hơn, trong khi giống quế lai thời gian cho thành phẩm nhanh
hơn, vỏ dày hơn nhưng ít tinh dầu quế hơn nên cây quế Trà My bị mất dần thị
trường xuất khẩu. Dưa leo xã Tam Phước không ngọt như dưa Đà Lạt nhưng
dòn hơn nên được thị trường Trung Quốc ưa chuộng hơn. Tương tự như vậy,
cây ớt tại Điện Quang, Đại Lộc có hương thơm và cay hơn nên rất được thị
trường trong nước và xuất khẩu ưa chuộng.
Như vậy, khi nghiên cứu áp dụng giống các loại cây trồng, lúa lai, rau quả,
lợn nạc, bò lai Sind, gia cầm, nuôi trồng thủy sản có giá trị cao phải nghiên cứu
kỹ thị hiếu của thị trường về các nông sản này.
2) Đưa tiến bộ khoa học, công nghệ vào nông nghiệp phải dựa vào tiến bộ
sinh học và sinh thái làm trung tâm
Việc nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Núi Thành với mật độ cao nên sau vài
vụ mùa cho thu hoạch cao, nhiều ruộng nuôi tôm ở huyện Núi Thành xảy ra dịch
bệnh hàng loạt gây nhiều tổn thất cho nông dân. Phương pháp canh tác lúa và
các loại cây trồng theo phương pháp 3 giảm 3 tăng vừa tiết kiệm chi phí sản xuất
vừa tăng năng suất và giảm nhiều chi phí, trong đó cải thiện môi trường đất,
nước là một trong những mô hình canh tác sinh thái đem lại hiệu quả kinh tế và
bảo tồn môi trường hiện đang áp dụng tại Quảng Nam và một số địa phương
trên cả nước.
Như vậy, các phương pháp canh tác phòng trừ dịch bệnh tổng hợp, nuôi
trồng thủy sản sinh thái, chăn nuôi kết hợp với xử lý hầm bioga là những ứng
196 dụng tiến bộ khoa học vừa có tác dụng bảo vệ môi trường, vừa đem lại hiệu quả
kinh tế cho người nông dân.
3) Hoàn thiện hệ thống thủy lợi và áp dụng các phương pháp tưới tiên tiến
Tại Quảng Nam, hệ thống mương tưới cấp 2, cấp 3 đưa nước vào ruộng chủ
yếu là mương hở nên tốn nhiều diện tích đất, cản trở giao thông, thất thoát nhiều
nước và hay bị hư hỏng sau mỗi mùa lũ, mỗi năm tỉnh tốn rất nhiều kinh phí để
khắc phục và sửa chữa. Vì vậy, việc chuyển sang sử dụng hệ thống dẫn nước
bằng ống vừa không cản trở giao thông, vừa tiết kiệm nước; dù kinh phí đầu tư
có cao hơn nhưng bù lại chi phí vận hành và sửa chữa hàng năm sẽ giảm đi rất
nhiều. Đối với các vùng rau màu, bắp, mía, dưa, ớt,… xã Tam Phước, Điện
Quang đang chuyển sang sử dụng phương pháp tưới tiết kiệm nước cho hiệu quả
kinh tế cao và ít công chăm sóc hơn.
4) Thực hiện cơ giới hóa các khâu sử dụng nhiều lao động trong canh tác
Trong canh tác, khâu làm đất, gieo trồng và thu hoạch là các khâu tốn nhiều
lao động nhất; khi thực hiện cơ giới hóa đồng thời kết hợp với tích tụ ruộng đất
và giảm lao động trong các khâu này. Xã Điện Quang chỉ có 160 ha ruộng nước
và 600 ha đất hoa màu nhưng nông dân ở đây đầu tư 15 máy kéo làm đất loại
3200 mã lực và 7 máy gặt đập liên hợp, chưa kể các loại máy gieo hạt, máy bơm
nước, … nên vào vụ mùa và kết thúc vụ mùa ở xã Điện Quang chỉ trong thời
gian 20 ngày. Thời gian còn lại đội máy kéo và đội gặt đập liên hợp của xã đi
phục vụ làm đất và gặt lúa cho các xã khác tại huyện Điện bàn.
Tuy nhiên, không phải các trang trại và nông dân nào tại Quảng Nam cũng
đều có điều kiện cơ giới hóa cao như tại xã Điện Quang. Vấn đề ở đây là 1) việc
chuyển đổi cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả cao nên nhiều hộ nông dân
mạnh dạn đầu tư máy móc nông nghiệp, và 2) một điều khá đặc biệt tại xã Điện Quang là có đến 100039 thanh niên trong tổng số 5500 lao động rời bỏ làng đi
lao động tại thành phố Hồ Chí Minh, chính vì thiếu lao động nông nghiệp khi 39 Theo điều tra khảo sát của tác giả vào tháng 4 năm 2010 tại xã Điện Quang.
197 vào mùa vụ đã khuyến khích các nông dân có tiền bỏ vốn đầu tư chuyển sang
hoạt động dịch vụ nông nghiệp đem lại thu nhập cao hơn.
5) Thực hiện chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp
Quảng Nam có nhiều điều kiện về chăn nuôi gia súc, gia cầm cả ở vùng đồng
bằng, trung du và miền núi. Ở đồng bằng và trung du nên thực hiện chăn nuôi
công nghiệp và bán công nghiệp, vừa có điều kiện đưa giống mới, tiếp cận
phương pháp chăn nuôi tiên tiến, kiểm soát được dịch bệnh, xử lý môi trường và
bảo hiểm được vật nuôi. Mô hình cho vay vốn mua bò lai Sind, kết hợp với bảo
hiểm vật nuôi và hỗ trợ mỗi hộ chăn nuôi xây dựng hầm bioga từ 1,5 triệu đồng
đến 2 triệu đồng của xã Điện Quang là mô hình chăn nuôi gia đình cần nghiên
cứu phát triển. Vấn đề là phải xây dựng mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả
như hợp tác xã Điện Quang tại các địa phương khác ở Quảng Nam.
6) Thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh hiệu quả
Những năm vừa qua, tỉnh Quảng Nam là địa phương chịu nhiều tổn thất về
dịch bệnh, đặc biệt ngành chăn nuôi. Theo khảo sát và đánh giá thì các biện
pháp phòng, chống dịch bệnh vừa qua có nhiều bất cập: 1) Người nông dân chưa
được hướng dẫn sử dụng các phương pháp canh tác tốt, nhất là trong nuôi trồng
thủy sản; 2) mạng lưới thú y hầu như không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêm chủng
các bệnh như tai xanh ở lợn, dịch lỡ mồm, long móng ở gia súc, cúm gia cầm; 3)
chương trình tiêm chủng thường không được cấp đủ kinh phí trong phòng ngừa
bệnh dịch, nhưng khi xảy ra dịch bệnh thì cần bao nhiêu tiền cũng có để ‘dập”
dịch, đây là cách làm chưa phù hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước ở tỉnh
Quảng Nam; 4) chưa có hệ thống bảo hiểm cây trồng, vật nuôi hiệu quả nên
chưa huy động được mọi thành phần tham gia vào phòng, chống dịch bệnh.
Nên những năm đến, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh được đề xuất
như sau: 1) Khuyến khích chăn nuôi tập trung và thực hiện đầy đủ công tác vệ
sinh và lịch tiêm chủng đối với gia cầm, gia súc; 2) hướng dẫn nuôi trồng thủy
sản với mật độ phù hợp và xây dựng hệ thống thủy lợi xử lý nước thải và nước
198 cấp cho nuôi trồng thủy sản; 3) qui định tất cả các loại hình chăn nuôi gia cầm,
gia súc phải tuân thủ qui trình tiêm phòng vắc xin; 4) phát triển hệ thống bảo
hiểm vật nuôi kết hợp với hoạt động thú y có hiệu quả như mô hình của hợp tác
xã Điện Quang tại các hợp tác xã khác còn lại trong tỉnh Quảng Nam; 5) những
nơi không có hợp tác xã, phát triển các đại lý dịch vụ thú ý thay cơ quan quản lý
thú y cấp huyện, xã thực hiện các dịch vụ này và tăng cường vai trò kiểm soát từ
phía các cấp quản lý.
b. Nâng cao chất lượng của lao động nông nghiệp
Để chuyển nhanh cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng năng suất lao động nông
nghiệp, thúc đẩy áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp thì giải
pháp rút lao động nông nghiệp sang các ngành khác và nâng cao chất lượng, kỹ
năng lao động nông nghiệp là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp
Quảng Nam vào những năm đến.
Hiện nay, bình quân mỗi năm tại Quảng Nam tăng thêm 15.000 người bổ
sung vào lực lượng lao động toàn tỉnh; như vậy, mỗi năm tỉnh phải có giải pháp
rút 30.000 lao động nông nghiệp sang các ngành khác; đây cũng là mục tiêu của
đề án xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, mà
những năm qua chưa làm được. Ngoài ra, việc xây dựng các khu chế biến nông
sản, phát triển các dịch vụ nông nghiệp như tổ máy cày, làm đất; tổ gặt, phơi,
sấy; tổ bảo vệ thực vật, tổ cung cấp nước thủy lợi mang tính chuyên nghiệp cũng
là cách rút nhanh lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp.
Song song với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành khác,
thì việc nâng cao chất lượng và kỹ năng lao động nông nghiệp theo những cách
thức như sau:
- Nâng cao trình độ văn hóa, khoa học cho nông dân để họ trở thành chủ thể
sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đủ sức tiếp nhận sự tác động từ
bên ngoài thông qua chính sách đầu tư của Nhà nước về giống mới, phương
199 pháp canh tác mới, các tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất, thu hoạch, chế biến
nông sản.
- Tạo lập cơ sở pháp lý và chính sách khuyến khích việc đa dạng hóa các
hình thức khuyến nông, chuyển giao công nghệ cho nông dân. Nhất là chuyển
giao kiến thức về phương pháp sản xuất sạch trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi
trồng thủy sản. Kinh nghiệm ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới và thực
tiễn ở nước ta cho thấy, có thể vận dụng các kênh khuyến nông từ Nhà nước; từ
các viện, các trường đại học; từ các doanh nghiệp cung cấp giống hoặc tiêu thụ
nông sản; từ các nhà đầu tư, các tổ chức phi chính phủ (NGO); hoặc từ các cộng
đồng nông dân và các hội nghề nghiệp.
- Nâng cao kiến thức cho nông dân về ngành hàng, thị trường nông sản, và
cả các phương pháp bảo quản, chế biến nông sản trước khi đưa ra thị trường.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia và tại Việt Nam cho thấy việc chuyển giao
kiến thức đối với khu vực nông nghiệp cần tiến hành nhiều hình thức: 1) đào tạo
kiến thức nông nghiệp ở các cấp học từ phổ thông cho đến đại học và sau đại
học để đào tạo thành những cán bộ khuyến nông, những chuyên gia về nông
nghiệp; 2) đối với thanh niên trẻ nông thôn cần khuyến khích và hỗ trợ học nghề
một cách bài bản, chính quy để đủ khả năng tự tạo việc làm ở nông thôn hoặc
tham gia thị trường lao động ở thành thị hoặc xuất khẩu lao động; 3) đối với lao
động lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp, cần đào tạo tại chỗ, ngắn hạn, gắn việc đào
tạo với thực hành tại đồng ruộng. Tất cả những biện pháp này là phù hợp với về
đề án dạy nghề cho lao động nông thôn của Chính phủ (Quyết định số
1956/2009/QĐ-TTg) [69].
c. Đa dạng hóa các hình thức khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật sản
xuất
Hiện nay hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm và khuyến công
trong nông nghiệp được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp thôn, xã như được
thể hiện trong hình 3.4 (Nghị định 13/CP) [50].
200
Bộ NN & PTNT
Chính phủ
Các tác nhân khuyến nông tự nguyện
Trung tâm khuyến nông, ngư quốc gia
Quốc gia
UBND
Trung tâm khuyến nông
Sở NN & PTNT
UBND
Tỉnh
Trạm khuyến nông
Phòng nông nghiệp
Khuyến nông cơ sở
HTX dịch vụ nông nghiệp
UBND
Viện khoa học Trường đại học Tổ chức quốc tế Doanh nghiệp … Các tổ chức đoàn thể
Huyện
Nông dân sản xuất giỏi
Câu lạc bộ khuyến nông
Nhóm nông dân
Nông dân tiếp sức
Xã
Thôn
Hình 3.4: Tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến ngư tại Việt Nam
Cách thức tổ chức hệ thống khuyến nông như trên vừa mang tính quản lý
hành chính vừa không huy động được sự tham gia tích cực của các viện, trường,
doanh nghiệp và các tổ chức khác. Và điều quan trọng là nông dân hiện nay
không muốn thụ động tiếp nhận các dịch vụ khuyến nông, mà họ muốn bỏ tiền
ra để tiếp nhận những kiến thức mà họ cần. Vì vậy, cách tiếp cận mới về khuyến
nông cần tuân thủ 6 nguyên tắc cơ bản sau (Roger D. Norton, 2004, tr. 417)
[110]:
- Chính sách khuyến nông thành công không thể chỉ tập trung vào chuyển
giao công nghệ, mà những khó khăn của nông dân sẽ được trao đổi với đơn vị
cung cấp dịch vụ khuyến nông cho mỗi trường hợp cụ thể, trong trường hợp đó
lợi ích từ khuyến nông sẽ được chia sẻ giữa nhà nông và người cung cấp. Như
vậy, khuyến nông là một quá trình tương tác, có sự tham gia của các bên, kinh
nghiệm của nông dân không kém quan trọng hơn kinh nghiệm của các chuyên
201 gia khuyến nông; nên, khuyến nông không thể là quá trình chuyển giao kiến
thức một chiều và đôi lúc không cần thiết đối với nông dân như thời gian vừa
qua.
- Nông dân là khách hàng, là nhà tài trợ cho các hoạt động khuyến nông và là
đối tác tham gia hoàn thiện kiến thức khuyến nông, chứ không chỉ là người
hưởng lợi. Lúc đó cán bộ và chuyên gia khuyến nông chỉ là nhà tư vấn để thực
hiện các yêu cầu của nhà nông.
- Xuất phát từ nhu cầu thị trường để thúc đẩy hợp tác khuyến nông giữa nông
dân và đơn vị cung cấp hàng hóa và dịch vụ khuyến nông. Một xã tại Hậu Giang
ký hợp đồng thuê một giảng viên nông nghiệp thực hiện chăm sóc các vụ mùa
trái cây của mình và lợi ích được chia sẻ rõ ràng. Đây là mối quan hệ đối tác
xuất phát từ nhu cầu thị trường.
- Tài trợ công tác khuyến nông chủ yếu phải từ Nhà nước, nhưng hoạt động
khuyến nông phải được giao cho các tổ chức khác. Nhà nước chỉ tăng cường vai
trò giám sát, kiểm tra và chi trả. Cách làm này sẽ đem lại nhiều tiết kiệm và hiệu
quả hơn là Nhà nước tổ chức bộ phận khuyến nông riêng của mình như hiện
nay.
- Cần phân cấp nhiều hơn cho các đầu tư nghiên cứu và hoạt động khuyến
nông về các tỉnh mà không nên tập trung tại trung ương gây nhiều lãng phí và
không phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Trừ những nghiên cứu mang
tính quốc gia, cần phải phân cấp kinh phí để các tỉnh quan hệ với các đối tác để
thực hiện các yêu cầu khuyến nông trên địa bàn của địa phương mình.
Phương pháp tham gia của nông dân trong nghiên cứu, khắc phục, kiểm tra
và phổ biến kiến thức khuyến nông là phương pháp chủ yếu khi thực hiện công
tác khuyến nông. Nên cũng không lạ khi có nhiều nông dân chế ra những máy
móc hiệu quả hơn so với nghiên cứu của các chuyên gia tại các viện nghiên cứu,
vì các nghiên cứu này xuất phát không có sự tham gia của nông dân.
202
Những biện pháp tăng cường công tác thâm canh như trên vừa giúp các đơn
vị sản xuất nông nghiệp có khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học, công nghệ từ
nhiều kênh khác nhau, vừa nâng cao được kiến thức cho lao động nông nghiệp.
3.2.6. Mở rộng thị trường và phát triển các ngành hàng nông sản
a. Xác định các thị trường chủ yếu cho nông sản tỉnh Quảng Nam
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời Việt Nam là quốc gia xuất
khẩu nhiều nông sản, nhất là lương thực và thủy sản và cũng là những ngành có
lợi thế của nông nghiệp Quảng Nam. Qua phân tích thực trạng thị trường tỉnh
Quảng Nam cho thấy nông nghiệp tỉnh Quảng Nam cần tập trung vào những
nông sản có lợi thế; đó là cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau đậu, cây cảnh,
thủy sản, cây lâm nghiệp và các cây công nghiệp và dược liệu như quế, sâm
Ngọc Linh, và những cây trồng, vật nuôi là đặc sản của tỉnh Quảng Nam.
Dựa vào lợi thế so sánh đó, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam mà cụ thể là nông
hộ, trang trại cũng như các đối tác trên chuỗi ngành hàng như các nhà thu gom,
các hợp tác xã, các nhà máy chế biến, các nhà xuất khẩu và cả các nhà làm chính
sách phải làm cho nông sản của Quảng Nam đến được các thị trường trong nước
và nước ngoài. Theo luận án, nông nghiệp tỉnh Quảng Nam cần tập trung vào
các thị trường chủ yếu sau:
1) Thị trường nông sản trong nước
Ngoài việc cung cấp nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, dự trữ của nhân
dân trong tỉnh, việc sản xuất nông sản cần đáp ứng tốt các thị trường sau:
- Cung cấp nông sản cho thành phố Đà Nẵng, và các khu công nghiệp vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung. Quá trình đô thị hóa nhanh tại thành phố Đà
Nẵng đã làm thu hẹp đất nông nghiệp và hiện nay nguồn nông sản được cung
cấp cho thành phố Đà Nẵng chủ yếu từ tỉnh Quảng Nam như lương thực, rau
đậu, thịt gia súc, gia cầm. Không kể các vùng chuyên canh rau khác thì làng rau
Trà Quế cung cấp cho hệ thống chợ đầu mối và hệ thống siêu thị tại Đà Nẵng
hơn một tấn rau mỗi ngày và nhu cầu này đang tăng cao, nên làng rau Trà Quế
203 đang có kế hoạch tăng từ 10 ha trồng rau lên 20 ha; chưa kể các loại thịt khác,
thì hiện nay tại Đà Nẵng tiêu thụ mỗi ngày hơn 3000 tấn thịt gà và nguồn cung
chủ yếu từ tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, các khu công nghiệp tại Quảng Nam, Đà
Nẵng, Dung Quất cũng là thị trường nông sản quan trọng của tỉnh Quảng Nam.
- Cung cấp nông sản cho các khu du lịch vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung. Không kể các nguồn lương thực, thực phẩm sạch cung cấp cho các khu
nghỉ dưỡng, du lịch phục vụ khách du lịch trong nước và nước ngoài tại Quảng
Nam và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; có rất nhiều nông sản
hoặc có nguồn gốc từ nông sản phục vụ cho đối tượng khách hàng cao cấp này.
Ngành trồng cây cảnh và cỏ Nhật trang trí các khu du lịch đang trở thành ngành
có thu nhập cao cho các nông dân ở Điện Bàn và Hội An; ngành nuôi thủy sản
phục vụ du lịch sinh thái, đánh bắt cá, lặn biển của ngư dân tại sông Trường
Giang, vùng rừng dừa 7 mẫu Hội An, vùng cửa Tam Quang, Núi Thành và Cù
Lao Chàm đã tạo thêm thu nhập không chỉ cho nông dân và ngư dân mà còn làm
phát triển các dịch vụ du lịch gắn liền với nông nghiệp. Ngoài ra, các ngành thủ
công, mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống gắn liền với nông sản như làng ươm tơ
dệt lụa Duy Trinh; làng mộc Kim Bồng; làng mây tre Núi Thành, Duy Xuyên,
Điện Bàn;… đã làm tăng thu nhập cho nông hộ tỉnh Quảng Nam.
- Cung cấp nông sản cho chế biến tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung. Hiện nay, cây mía tại Quảng Nam vẫn cung cấp nhu cầu cho Nhà máy
Đường tỉnh Quảng Ngãi; cây dứa vùng Đại Lộc, Nam Giang cung cấp cho Nhà
máy Chế biến Dứa tỉnh Bình Định, cây sắn tại Quảng Nam cũng là cây công
nghiệp quan trọng trong chế biến nhiên liệu sinh học và tinh bột sắn dùng cho
công nghiệp dược phẩm và thực phẩm;…
Tóm lại, nông sản tỉnh Quảng Nam dù sản lượng không lớn nhưng đa dạng
và là những đặc sản gắn liền với điều kiện khí hậu, đất đai, ngành nghề truyền
thống riêng có của Quảng Nam. Việc khai thác thị trường trong nước đối với
204 những nông sản có lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho nông nghiệp tỉnh Quảng Nam
phát triển bền vững và ổn định trong thời gian đến.
2) Thị trường nông sản nước ngoài
Nông lâm thủy sản xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam có khối lượng không lớn
nhưng đa dạng, và có đặc điểm là những nông sản khác biệt, có phẩm chất cao
được nhiều thị trường nước ngoài ưu chuộng.
Theo báo cáo đánh giá công tác xuất nhập khẩu tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2006-2010 và định hướng kế hoạch giai đoạn 2011-2015 của Sở Công Thương
tỉnh Quảng Nam thì hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh được mở rộng đến trên 40
quốc gia và vùng lãnh thổ. Chiếm tỷ trọng cao và ổn định là thị trường Đài Loan
11%, Hàn Quốc 4%, Trung Quốc 7%, Nhật 3%, Mỹ 7% và EU khoảng 30%.
Sau khi gia nhập WTO đã xuất hiện những rào cản kỹ thuật và thuế quan tại một
số nước như Nhật, EU và Mỹ về vệ sinh an toàn thực phẩm, áp thuế chống bán
phá giá, truy xuất nguồn gốc khai thác thủy sản, nhãn mác, yêu cầu có chứng
nhận Global GAP,… đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và xuất khẩu. Nên
nhiều doanh nghiệp đã hướng đến các thị trường dễ tính hơn như các nước Ả
Rập, Nga, Marocco, Pakistan, Bangladesh,…
b. Phát triển các ngành hàng nông sản có khả năng hội nhập thị trường
nông sản toàn cầu
Xét theo lợi thế so sánh, tỉnh Quảng Nam có thể hình thành các ngành hàng
chủ yếu sau.
1) Ngành hàng thủy - hải sản. Là ngành hàng chiếm tỷ trọng lớn của tổng
kim ngạch xuất khẩu nông sản. Gồm có hải sản đông lạnh, hải sản khô, yến sào
và xuất khẩu chủ yếu sang các nước Châu Á, EU và Mỹ. Hiện nay, các doanh
nghiệp đang hướng đến thị trường Nhật, EU và Mỹ dù có khắc khe về tiêu chuẩn
nhưng cho lợi nhuận cao hơn. Nước mắm xuất khẩu cũng là mặt hàng có tiếng
của Quảng Nam nhưng chưa được quan tâm nhiều.
205
2) Ngành hàng cây công nghiệp và dược liệu. Các cây thuốc lá, đậu phộng,
mè, ớt, tiêu, quế, sâm Ngọc Linh, sắn lát,… là các nông sản rất được ưa chuộng.
Cây thuốc lá, sắn lát xuất cho thị trường Trung Quốc; quế, sâm Ngọc Linh xuất
nhiều vào thị trường Đài Loan, Trung Quốc do cây quế Quảng Nam có phẩm
chất cao hơn giống quế các địa phương khác (quế Thanh Hóa); ớt Điện Bàn, Đại
Lộc, tiêu Tiên Phước của Quảng Nam rất được thị trường Hàn Quốc, Ấn Độ ưa
chuộng nhờ có hương vị cay nồng và thơm.
3) Ngành hàng cây ăn quả và rau đậu. Sản lượng ngành này ở Quảng Nam
có qui mô không lớn nhưng được các nước láng giềng ưa chuộng. Trái Thanh
Long Núi Thành xuất đi các nước Châu Á; dưa leo, dưa hấu tại xã Tam Phước
Phú Ninh luôn được thị trường Trung Quốc ưa chuộng so với loại này trồng tại
các địa phương khác ở Việt Nam. Tỉnh Quảng Nam đang tiến hành các thủ tục
chứng nhận chỉ dẫn địa lý các loại dưa tại xã Tam Phước sau khi có chứng nhận
thương hiệu rau Trà Quế Hội An. Ngoài ra, cây bòn bon ở Nam Giang đang
được nghiên cứu cho ra quả quanh năm và cải thiện chất lượng ngon hơn để trở
thành loại trái cây xuất khẩu đặc sản của tỉnh Quảng Nam nhằm cạnh tranh với
trái bòn bon được nhập khẩu từ Thái Lan.
4) Ngành hàng cây nguyên liệu giấy. Quảng Nam có khoảng 184 ngàn ha
rừng trồng và có diện tích rừng phân tán trong nhân dân tương đương với diện
tích rừng trồng. Cây nguyên liệu giấy hiện chủ yếu xuất khẩu đi Nhật và được
chế biến thành bột giấy và nhập khẩu vào lại Việt Nam.
5) Ngành hàng mỹ nghệ về gỗ, mây, tre, nứa, lá, trầm hương. Tỉnh Quảng
Nam là tỉnh có trữ lượng cây mây, cây gió cho trầm hương lớn nhất cả nước. Vì
vậy, ngành thủ công mỹ nghệ tại Quảng Nam rất phát triển; Công ty TNHH Chế
biến mây tre gỗ Nam Phước hiện là đối tác với tập đoàn Thụy Điển IKEA để
cung cấp hàng mây tre đến Châu Âu với doanh số đạt gần 1 triệu USD hàng
năm. Hàng mỹ nghệ trầm hương làm từ cây gió hiện rất được thị trường Trung
Quốc, Đài Loan ưa chuộng và các làng nghề tại Tiên Phước, Nông Sơn đang
206 phát triển nhanh chóng và tạo ra nhiều thu nhập cho các nông hộ nhờ chuyển đổi
sang các sản phẩm mỹ nghệ này.
Tại Quảng Nam, các ngành hàng rất đa dạng nhưng có chung một đặc điểm
là qui mô nhỏ, hoạt động không ổn định, và nhất là thiếu một cơ chế hợp tác của
các đối tác trên chuỗi ngành hàng. Nên những giải pháp để thúc đẩy hình thành
các ngành hàng nông sản tại Quảng Nam trong những năm đến là phải tạo được
cơ chế liên kết và phối hợp các khâu, các quá trình của chuỗi ngành hàng nông
sản. Để liên kết và phối hợp các khâu của một ngành hàng thành công, đòi hỏi
phải đạt được ba tiêu chí. Đó là: 1) phải xây dựng được các tiêu chuẩn của một
ngành hàng; 2) phải liên kết được các thị trường và đối tác trên chuỗi; và 3) phải
Các tiêu chuẩn Chuỗi thị trường Các thị trường Cơ chế hợp tác
Nhà sản xuất
Sản xuất
Nhà thu gom
Hợp tác xã
Thu gom
Nhà chế biến
Chế biến
Nhà chế biến nhỏ
- Giao dịch giao ngay - Giao dịch qua hợp đồng - Giao dịch giao sau (chưa phổ biến tại Quảng Nam) - Chứng nhận về chất lượng của bên thứ 3
Nhà bán buôn/bán lẻ
Bán buôn/ bán lẻ
Khách hàng
Thị trường trong nước
Các tiêu chuẩn trong sản xuất - VietGAP - HACCP - Hữu cơ Các tiêu chuẩn trong đóng gói và logistics - Xử lý - Xe bảo quản - Container - Pallet Các tiêu chuẩn về truyền dữ liệu - UPC - EDI - Thương mại điện tử
Giao dịch chính thức Giao dịch không chính thức
Thị trường xuất khẩu
đảm bảo các cơ chế hợp tác của các đối tác, như được thể hiện trong hình 3.5.
Hình 3.5: Các mối liên kết và các tiến trình hợp tác của một chuỗi ngành
hàng nông sản
207
Các tiêu chuẩn: Nó được xem là công cụ để kết nối được các khâu riêng lẻ
trên hệ thống kinh doanh nông sản. Tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chuẩn ở khâu
sản xuất, khâu đóng gói, logistics, và cả các dữ liệu được trao đổi trên hệ thống
kinh doanh nông sản. Các tiêu chuẩn được áp dụng có thể do các tổ chức thương
mại quốc tế, các quốc gia, hoặc do các doanh nghiệp thiết lập và làm cơ sở giao
dịch trên thị trường. Thường có các tiêu chuẩn cơ bản sau: 1) UPC (Universal
Product Code) là hệ thống đánh số nhận dạng thông qua mã vạch được sử dụng
rộng rãi trong quản lý kho hàng và hàng hóa. UPC được phát triển vào những
thập niên 1970 và 1980. 2) EDI (Electronic Data Interchange) là phương thức
trao đổi dữ liệu giữa các tổ chức qua phương tiện điện từ. Nó là giai đoạn đầu
của thư điện tử (e-mail). Nó được phát triển vào những năm 1990. Ngày nay,
các doanh nghiệp sử dụng phương thức giao dịch và truyền dữ liệu qua internet
(Internet business to business system) thay cho EDI. 3) HACCP (Hazard
Analysis and Critical Control Point) là phương pháp tiếp cận đối với việc quản
lý an toàn thực phẩm nhờ vào thực hiện các nguyên tắc nhận diện những nguy
hiểm xuất hiện trên chuỗi cung cấp thực phẩm và thiết lập hệ thống kiểm soát tại
từng khâu để ngăn ngừa rủi ro mất an toàn thực phẩm xảy ra (Sara Mortimore
and et al, 2001, p. 46) [109].
- Các thị trường: Nó được xem là cơ chế hiệu quả để phân phối các nguồn
lực và dòng sản phẩm giữa các đối tác trên chuỗi trên cơ sở cạnh tranh giữa
người mua và người bán. Đối với mỗi ngành hàng nông sản sẽ có khâu quyết
định khi thiết lập chuỗi thị trường. Ví dụ, đối với chuỗi thị trường của tinh bột
sắn thì nhà máy chế biến đóng vai trò quyết định trong liên kết các thị trường;
trái lại, đối với ngành hàng rau Trà Quế thì nhà bán lẻ (Metro, Big C) đóng vai
trò quyết định liên kết giữa nông dân và người tiêu dùng.
- Cơ chế phối hợp các đối tác: Là thông lệ kinh doanh được thiết lập giữa các
đối tác thông qua các hình thức giao dịch nông sản. Thông thường có ba hình
208 thức giao dịch cơ bản là giao dịch giao ngay, giao dịch theo hợp đồng và giao
dịch thị trường kỳ hạn: 1) Giao dịch giao ngay (spot transaction) là thỏa thuận
mua bán hàng hóa theo giá cả của thị trường tại thời điểm thỏa thuận và việc
giao nhận hàng, thanh toán ngay lập tức hay tại một thời điểm nào đó trong
tương lai. 2) Sản xuất theo hợp đồng (contract farming) là thỏa thuận giữa
những người nông dân với các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh
doanh trong việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp dựa trên thỏa
thuận giao hàng trong tương lai, với giá cả đã được định trước. Có các mô hình
sản xuất theo hợp đồng, gồm: a) Mô hình tập trung; b) mô hình trang trại hạt
nhân; c) mô hình đa thành phần; d) mô hình phi chính thức và e) mô hình trung
gian. 3) Giao dịch thị trường kỳ hạn gồm có 3 hình thức giao dịch là giao dịch
kỳ hạn (forward transaction), giao dịch tương lai (future transaction) và giao
dịch quyền chọn (option transaction). Trong đó, a) giao dịch kỳ hạn là thỏa
thuận mua bán một số lượng hàng hóa mà việc chuyển giao hàng hóa được thực
hiện sau một thời gian nhất định, với giá cả đã đồng ý ngày hôm nay; b) giao
dịch tương lai là thỏa thuận mua bán một số lượng hàng hóa nhất định theo một
mức giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao hàng
hóa được thực hiện vào một ngày trong tương lai thông qua Sở giao dịch hàng
hóa; c) giao dịch quyền chọn hay còn gọi là giao dịch thông qua hợp đồng quyền
chọn, nó là hợp đồng lựa chọn nhằm mua hoặc bán một quyền chứ không bắt
buộc để mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa. Giao dịch quyền chọn là cách
thức hạn chế rủi ro của những người sở hữu các hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng
tương lai. Cũng như giao dịch tương lai, giao dịch quyền chọn chỉ được đảm bảo
khi giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa (Bảo Trung, 2008) [86].
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ, nhưng nhu cầu
nông sản lại mang tính liên tục. Chỉ có hoạt động kinh doanh nông sản mới khắc
phục được tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp và đáp ứng liên tục được nhu
cầu của người tiêu dùng nhờ vào hệ thống dự trữ, chế biến, bảo quản và cung
209 ứng. Ngày nay, tổ chức các ngành hàng nông sản là cốt lõi của phát triển hoạt
động kinh doanh nông sản.
3.2.7. Đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và hiện đại
Kết cấu hạ tầng nông thôn nói chung và kết kết hạ tầng phục vụ sản xuất
nông nghiệp nói riêng phát triển là điều kiện bảo đảm cho sản xuất nông nghiệp,
nâng cao chất lượng cuộc sống tại nông thôn. Những năm qua, việc đầu tư xã
hội cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp chỉ 3% đến 4% trong tổng vốn đầu tư;
và ngân sách dành cho các kết cấu hạ tầng tại nông thôn từ khi tách tỉnh đến nay
khoảng 13.000 tỷ đồng, nhờ đó kết cấu hạ tầng tại nông thôn tại tỉnh Quảng
Nam có cải thiện. Tuy nhiên, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn những năm đến với mức đầu tư xã hội như trên sẽ không đảm
bảo, hơn nữa việc đầu tư các kết cấu hạ tầng chủ yếu phục vụ nông nghiệp như
thủy lợi, đường giao thông, điện phục vụ sản xuất nông nghiệp đa số chi từ ngân
sách; hầu như chưa huy động được sự đầu tư từ các doanh nghiệp, nhân dân
trong việc cùng đầu tư và tham gia quản lý các kết cấu hạ tầng phục vụ nông
nghiệp một cách hiệu quả.
Vì vậy, để đảm bảo một kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp đồng bộ và
hiện đại phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, luận án đề xuất các giải pháp cụ thể sau:
a. Hiện đại hóa các kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trọng yếu
Thứ nhất, tập trung ưu tiên cho các chương trình thủy lợi để chủ động tưới
tiêu và điều tiết lũ giảm nhẹ các tác hại của thiên tai. Xây dựng các hồ, đập thủy
lợi, chương trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi hóa đất màu và nâng cấp, sửa chữa, kiên
cố, mở rộng hệ thống kênh các công trình thủy lợi đã có để nâng cao hiệu quả
tưới cho lúa, màu, nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt cho dân cư, công
nghiệp, dịch vụ. Gắn kết giữa phát triển kết cấu hạ tầng với việc dồn điền, đổi
thửa, tích tụ ruộng đất để mở rộng sản xuất nông nghiệp. Củng cố hệ thống đê,
kè, bảo đảm quy trình quản lý vận hành an toàn các hồ đập và hệ thống thủy
210 điện bậc thang. Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành việc nâng cấp, tu bổ và xây
dựng các hồ, đập lớn; sắp xếp, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi để
nâng cao hiệu quả sử dụng công trình; tiếp tục xây dựng và đưa vào vận hành
các nhà máy thủy điện lớn trên địa bàn tỉnh. Nâng cao năng lực phòng, chống,
giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ động thực hiện các giải pháp phòng
tránh một cách hiệu quả thiên tai.
Thứ hai, bổ sung, sửa đổi cơ chế khuyến khích phát triển giao thông nông
thôn phù hợp với từng vùng. Ưu tiên phát triển giao thông ở miền núi bảo đảm
đi lại thông suốt bốn mùa đến các xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm. Có
chương trình nạo vét các luồng lạch, cửa sông để phát triển giao thông đường
thủy nhằm phục vụ du lịch và phòng, chống thiên tai. Thực hiện dự án di dân, tái
định cư ven biển; xây dựng và triển khai dự án tổng thể về xây dựng kết cấu hạ
tầng vùng lũ lụt.
Thứ ba, phát triển hệ thống lưới điện, nâng cao chất lượng điện phục vụ sản
xuất, sinh hoạt cho cư dân ở nông thôn. Phát triển hệ thống bưu chính, viễn
thông, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin ở nông thôn, miền núi.
Thứ tư, đầu tư nâng cao năng lực khảo, kiểm nghiệm giống, khuyến nông.
Nhất là các trạm trại giống lâm nghiệp; nhân giống cây Sâm Ngọc Linh, cây sắn,
cây mía; trạm nhân giống bò lai Sind,.... Tỉnh cần trích thêm ngân sách để
nghiên cứu về giống, cải tạo và nhân giống hàng loạt để giúp giải quyết vấn đề
cây giống đối với ngành nông nghiệp Quảng Nam
Thứ năm, xây dựng nhà lưới và nhà bảo quản cho các vùng chuyên canh rau.
Ngành rau đậu Quảng Nam đang phát triển rất nhanh để đáp ứng nhu cầu đô thị
hóa, các siêu thị và các khu du lịch. Vùng rau Trà Quế hiện được thành phố Hội
An hỗ trợ xây dựng các nhà lưới để canh tác rau quanh năm; hợp tác xã Cẩm Hà
hàng ngày thu mua rau của các nông hộ và cung cấp cho các siêu thị nhưng theo
cán bộ hợp tác xã, nếu có nhà xử lý và bảo quản rau thì chất lượng rau sau thu
hoạch sẽ bảo quản tốt hơn và cung ứng ổn định hơn. Hiện nay do không có khu
211 bảo quản và chế biến mà hợp tác xã không thể cung cấp đủ rau theo yêu cầu của
các siêu thị. Ngoài vùng rau Trà Quế, hiện Quảng Nam có rất nhiều vùng rau
chuyên canh tại huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành,
Tam Kỳ nhưng chưa được đầu tư để sản xuất rau sạch và chế biến phù hợp theo
yêu cầu của các siêu thị và các cửa hàng kinh doanh rau sạch tại các thành phố.
Nếu được hỗ trợ về tín dụng, giống mới, chế biến, bảo quản và tiêu thụ thì ngành
rau đậu tại Quảng Nam sẽ phát triển và đáp ứng nhu cầu tốt hơn.
Thứ sáu, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại. Hệ thống kết cấu
hạ tầng thương mại là hệ thống các loại hình và cấp độ chợ như chợ bán buôn,
chợ đầu mối, và chợ giao dịch. Hệ thống mạng lưới chợ sẽ thúc đẩy việc trao đổi
mua bán nông sản và thông qua hoạt động của mạng lưới chợ mà giá cả được
điều tiết phù hợp với thị trường, thông tin minh bạch và nhà sản xuất có điều
kiện cải thiện chất lượng và gia tăng giá trị nông sản.
b. Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và thực hiện quản lý có sự tham gia
Trước hết, thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, tích cực huy động
các nguồn đóng góp trong dân và các tổ chức xã hội và của doanh nghiệp.
Những năm qua, vốn ngân sách đầu tư vào xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng, như: điện, đường, thủy lợi, trường học, trạm y tế... ở nông thôn trên 13.000
tỉ đồng. Những năm đến, ngoài vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ ngân
sách, cần hình thành các nguồn vốn khác như tín dụng đầu tư; thu hút các
chương trình mục tiêu quốc gia và mở rộng thêm các hình thức đầu tư của các
thành phần kinh tế khác vào phát triển các công trình hạ tầng trực tiếp phục vụ
sản xuất - kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng phục vụ cho nông nghiệp...,
trong đó có cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm ODA và FDI). Chỉ có
như vậy, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Quảng Nam mới có
bước phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, làm thay đổi đáng kể diện mạo nông thôn.
212
Thứ hai, thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, cơ
chế nâng cao năng lực quản lý cộng đồng. Cơ chế quản lý rõ ràng, đơn giản
cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” để phát huy được sức người, sức của từ nhân dân.
Trước đây, nhiều địa phương trong tỉnh đã vận động nhân dân hiến đất, không
nhận tiền đền bù để xây dựng các công trình giao thông và thủy lợi bảo đảm tiến
độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống
thiên tai; thực hiện có hiệu quả phong trào bê-tông hóa nông thôn, chỉnh trang
các trung tâm xã, cụm xã, từng bước hiện đại hóa nông thôn. Những kinh
nghiệm này cần phải tiếp tục phát huy trong những năm đến. Hiện nay, Công ty
Quản lý Thủy nông tỉnh là đơn vị quản lý các công trình thủy lợi lớn của tỉnh,
nhưng cơ chế quản lý hệ thống mương cấp 3 ở các xã vẫn còn cồng kềnh và
chưa mang tính tham gia. Cần phải chuyển qua cơ chế đấu thầu vận hành để vừa
tiết kiệm đầu tư từ ngân sách, vừa khai thác được các nguồn lực khác vào đầu tư
kết cấu hạ tầng, còn khuyến khích sự tham gia quản lý của các hợp tác xã, đơn
vị, và cá nhân ở địa phương. Chắc chắn, điều này sẽ làm cho các công trình kết
cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư được khai thác hiệu quả và đồng bộ hơn.
Những chính sách đầu tư trên là cần thiết để phát triển các kết cấu hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Quảng Nam những năm đến. Và điều này cũng phù
hợp với những cam kết của Chính phủ Việt Nam khi trở thành thành viên của
WTO.
3.2.8. Đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông nghiệp
a. Hoàn thiện các chính sách đất đai liên quan đến phát triển nông nghiệp
Theo Luật đất đai ở Việt Nam, đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân và chưa
được công nhận là hàng hóa. Nhưng khi được giao đất, nông dân có được bảy
quyền: cho thuê, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, chuyển đổi, cho tặng và góp
vốn làm nền tảng giải quyết các mối quan hệ về đất đai.
213
Sau đổi mới, đất đai được chia trở lại cho nông dân, quá trình này đã giải
phóng được lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo ra những thành quả về
sản xuất nông nghiệp trong những năm đổi mới. Những lợi ích và chi phí của
việc chia nhỏ đất đai đối với nông dân và đối với cộng đồng nông nghiệp là thực
tế đang diễn ra như được thể hiện trong bảng 3.7.
Bảng 3.7: Chi phí và lợi ích của tình trạng manh mún đất đai
Lợi ích của nhiều thửa
Chi phí của nhiều thửa
Lợi ích riêng
Lợi ích cộng đồng
Chi phí riêng
Chi phí cộng đồng
Công bằng về đất đai giữa các hộ Tăng tính đa dạng cây trồng
Giải phóng được ít lao động Cơ giới hóa chậm Ứng dụng công nghệ mới bị chậm Kế hoạch xây dựng vùng sản xuất lớn khó khăn Chi phí giao dịch cao khi sử dụng thế chấp Quản lý nhà nước có khó khăn
Tăng chi phí sản xuất Sử dụng nhiều lao động Mất đất do nhiều bờ Tiếp cận khó khăn Tăng mâu thuẫn giữa các hộ gần nhau Thủy lợi khó khăn Cơ giới hóa khó khăn Ứng dụng công nghệ mới khó khăn
Giảm rủi ro - Lụt lội - Sâu bệnh Linh hoạt trong thừa kế Linh hoạt trong luân canh cây trồng Dễ dàng thế chấp, bán, chuyển nhượng Dễ bố trí lao động, vụ mùa Dễ quản lý vì diện tích nhỏ
Nguồn: Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, 2007, tr. 237 [44].
Nhưng trước yêu cầu phải chuyển đổi nền nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tình trạng chia nhỏ đất đai đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn:
1) Mâu thuẫn giữa việc chia nhỏ đất đai với yêu cầu tập trung đất đai để nâng
cao hiệu quả sử dụng. 2) Mâu thuẫn giữa việc yêu cầu giảm nhanh lao động
trong nông nghiệp với việc nông dân “bị trói” vào đất đai; một phần do chính
sách đất đai, phần khác do sự phát triển của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ không gắn với với dịch chuyển lao động nông nghiệp sang lĩnh vực
214 phi nông nghiệp. 3) Mâu thuẫn giữa việc muốn thúc đẩy kinh tế trang trại và các
doanh nghiệp nông nghiệp qui mô lớn với chính sách hạn điền đã làm tăng chi
phí, nhất là thuế, nên đã không thu hút được đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp.
Từ những phân tích trên, chính sách đất đai, theo luận án, cần hoàn thiện theo
hướng sau:
- Cần quán triệt phương châm qui hoạch “mềm” trên diện tích đất sử dụng
và sản xuất nông nghiệp lâu dài. Qui hoạch mềm cho phép nông dân chuyển đổi
cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế so sánh và nhu cầu của thị trường; cho
phép tập trung và tích tụ đất đai phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và định hướng qui hoạch.
- Hoàn thiện chính sách chuyển nhượng đất đai nông nghiệp theo hướng
không phụ thuộc vào nơi cư trú, cho phép hình thức cho thuê đất theo thời hạn,
góp vốn bằng đất và bãi bỏ qui định người nhận chuyển nhượng phải là người
trực tiếp sản xuất. Hiện tại, cả nước đã có nhiều mô hình tập trung, tích tụ đất
cần nghiên cứu như cho thuê hoặc góp ruộng đất để thành lập các hợp tác xã của
nhóm hộ theo mô hình của Nhật Bản là mô hình do “cộng đồng tự thỏa thuận và
chung đất nông nghiệp lại với nhau, do một người hoặc một nhóm nhỏ điều
hành chung và tổ chức sản xuất nông nghiệp chung, phân chia lợi nhuận theo sự
đóng góp của từng hộ và cho nhóm điều hành; mô hình này đã được áp dụng
khá thành công ở Nhật Bản hơn 20 năm qua” (Huỳnh Văn Chương, 2008, tr. 26)
[18] mà hiện nay đang triển khai thử nghiệm cho các hộ nông dân tại tỉnh Gia Lai40; hoặc góp đất để hình thành các trang trại hợp doanh hoặc các trang trại
trách nhiệm hữu hạn như 10 nông dân ở An Giang đứng ra thành lập công ty cổ phần41. Các kiểu tích tụ, tập trung đất như trên cần có chính sách bổ sung để
việc tập trung, tích tụ ruộng đất phù hợp với pháp luật Việt Nam, phù hợp với cơ 40 Công Luân, Mô hình liên minh sản xuất giúp người nông dân chủ động trong sản xuất, Báo điện tử Công thương, www.baocongthuong.com.vn, ngày 23/6/2009. 41 http://vietbao.vn/Kinh-te/Nong-dan-nuoi-ca-basa-o-An-Giang-lap-cong-ty/10831276/87/.
215 chế của thị trường và không làm tăng chi phí, nhất là thuế sử dụng đất nông
nghiệp khi ruộng đất được tích tụ.
- Tăng thêm thời gian sử dụng đất nông nghiệp theo đúng mục đích và bãi
bỏ chính sách “hạn điền”, vì nó đã hạn chế khả năng tập trung, tích tụ ruộng đất
và làm tăng chi phí của các trang trại và doanh nghiệp có qui mô lớn, nhất là
thuế sử dụng đất nông nghiệp và các chi phí liên quan đến quản lý đất nông
nghiệp khác.
- Quá trình tập trung, tích tụ đất đai để hình thành các trang trại, các doanh
nghiệp nông nghiệp lớn sẽ làm đại bộ phận các nông hộ nhỏ không muốn giữ đất
và từ bỏ ngành nông nghiệp để chuyển sang các hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ nông dân khi chuyển giao đất để
chuyển đổi sinh kế, nghề nghiệp và việc làm mới. Nhất là đào tạo lao động trẻ
nông thôn để chuyển sang lao động phi nông nghiệp một cách bền vững.
- Đối với các vùng núi cao nơi có các dân tộc thiểu số sinh sống. Chính sách
giao đất, giao rừng và cấp sổ đỏ không nên giao về cá nhân mà giao cho cộng
đồng và “hội đồng già làng” quản lý; điều này phù hợp với luật tục quản lý rừng
và đất đai của cộng đồng các dân tộc vùng núi. Vừa qua, tại Quảng Nam nhiều
gia đình dân tộc chuyển nhượng đất rừng cho các cá nhân miền “xuôi” và chính
những người nhận chuyển nhượng thuê lại chính người chuyển nhượng đất để
trồng rừng (Bùi Quang Thanh, 2007, tr. 166)[81]. Điều này đã làm phát sinh
nhiều vấn đề về qui hoạch và quản lý bảo vệ rừng tại Quảng Nam những năm
qua.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế trong sản xuất nông
nghiệp. Nếu chính sách đất đai trong nông nghiệp phù hợp thì sẽ là chính sách
“cởi trói” để nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp Quảng Nam nói
riêng khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, thu hút
nhiều nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp; từ đó tạo điều kiện tăng nhanh tổng
216 sản lượng, thúc đẩy hình thành nhanh một nền sản xuất nông nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa.
b. Nhà nước là chủ thể chính trong đảm bảo nông nghiệp phát triển bền
vững
Đây là vấn đề nhận thức về vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển
nông nghiệp khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế. Khi gia
nhập WTO, một số chính sách trợ cấp xuất khẩu và một số hỗ trợ nông nghiệp
không được phép, còn lại các hỗ trợ đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân
nằm trong hộp xanh (green box) là những gói hỗ trợ được phép thực hiện (Phạm
Thị Tước, 2006) [88]. Đó là nghiên cứu phát triển, đầu tư hạ tầng cơ sở, chính
sách thú y, kể cả trả tiền trực tiếp cho nông dân để thay đổi cơ cấu sản xuất hay
tiến hành các biện pháp môi trường. Những đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh
vực trên, nhất là giống mới, thủy lợi, hạ tầng và những chính sách khuyến khích
sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nhiều hơn từ các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài; thúc đẩy sự tham gia của các viện, các trường đại học trong việc đổi
mới chương trình đào tạo, đào tạo ra những cán bộ khuyến nông, thú y, các
chuyên gia về phát triển nông nghiệp đủ năng lực để giúp nền nông nghiệp Việt
Nam phát triển bền vững.
Hình 3.6: Các khó khăn trong sản xuất nông nghiệp tại Quảng Nam
217
Kết quả khảo sát đánh giá về những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp của
tỉnh Quảng Nam (hình 3.6) (Nguyễn Cảnh, 2001) [13], các nông dân và trang
trại đánh giá những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp những năm qua là do:
Thứ nhất, do thiếu vốn sản xuất (có 65% số hộ đánh giá); thứ hai, khó khăn về
tiêu thụ nông sản (41%); thứ ba, khó khăn về khuyến nông và kỹ thuật sản xuất
(23%); thứ tư, khó khăn về cách phòng chống dịch bệnh (18%); thứ năm, tư liệu
sản xuất thiếu và vật tư nông nghiệp kém chất lượng (15%); và những khó khăn
khác chiếm 6%.
Vì vậy, những năm đến để đạt được các mục tiêu phát triển nông nghiệp,
UBND tỉnh Quảng Nam và các cấp quản lý chức năng trở thành một đối tác
quan trọng của nông nghiệp và là chủ thể chính trong việc tạo sự liên kết của các
đối tác khác trên chuỗi ngành hàng nông sản. Nhất là việc điều chỉnh và đổi mới
một số chính sách trong quyền hạn của tỉnh, trong trường hợp cần thiết cần kiến
nghị với Chính phủ để bổ sung và hoàn thiện một số chính sách liên quan đến
phát triển nông nghiệp như sau:
- Về tài chính, tín dụng. Cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: 1) Đa dạng
hóa và đổi mới hoạt động của các tổ chức tín dụng nông nghiệp; tại Quảng Nam
mô hình quỹ tín dụng thuộc hợp tác xã Điện Quang hoạt động khá hiệu quả
trong phục vụ sản xuất nông nghiệp cần được nghiên cứu và nhân rộng, nhất là
việc liên kết cho vay với các hoạt động của hợp tác xã về cung ứng vật tư đầu
vào, dịch vụ nông nghiệp và các hoạt động bảo hiểm cây trồng, vật nuôi; 2) tạo
thuận lợi hơn về thủ tục cho vay, tăng hạn mức cho vay cũng như có chính sách
hổ trợ lãi suất cho vay tại các quỹ tín dụng nông nghiệp.
- Về tư liệu sản xuất. Biện pháp cơ bản cho giải quyết vấn đề này gồm: 1)
Nhà nước đầu tư nghiên cứu các loại máy móc phục vụ khâu làm đất, gieo trồng,
thu hoạch và bảo quản không chỉ cho cây lúa mà cả cho cây bắp, cây sắn, khoai,
đậu mè; ngay cả vấn đề xử lý rau và cây trái trước khi đưa ra thị trường vẫn
chưa được nghiên cứu đầy đủ, nông dân phải tự mày mò đôi khi sử dụng nhiều
218 phương pháp xử lý gây mất an toàn thực phẩm; 2) có chính sách hỗ trợ lãi suất
tín dụng hoặc cấp tín dụng mua trả góp các tư liệu sản xuất trong nông nghiệp
bằng các chương trình cụ thể, khuyến khích sự cạnh tranh, không nên triển khai
như chương trình đánh bắt xa bờ vừa gây tổn thất vừa không hiệu quả; 3) có qui
định quản lý và các hình thức chế tài đối với việc vi phạm cung cấp và bán các
vật tư nông nghiệp kém phẩm chất. Công bố của Bộ Nông nghiệp và PTNT cho
thấy qua kiểm tra phân bón tại 11 công ty với 81 chỉ tiêu thì có đến 45 chỉ tiêu
không đạt chất lượng (Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp, 2009, tr. 69)
[9] gây nhiều tổn thất cho nông dân.
- Về thị trường tiêu thụ. Phát triển các ngành hàng nông sản mạnh cũng
đồng nghĩa tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Ngoài việc phát
triển các hệ thống chợ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, Nhà nước cũng
cần có chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế đất phi nông
nghiệp và thuế thu nhập doanh nghiệp; không chỉ áp dụng cho các đối tác trong
lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà cần phải áp dụng cho các đối tác
khác trên chuỗi ngành hàng nông sản như các nhà máy chế biến, các cơ sở kinh
doanh. Khi bổ sung các chính sách ưu đãi cho các đối tác khác trên chuỗi ngành
hàng cũng là hỗ trợ để thúc đẩy phát triển nông nghiệp trong những năm đến.
c. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước địa phương về nông nghiệp,
nông thôn và nông dân
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là ba đối tượng có vai trò và vị trí khác
nhau trong phát triển nông nghiệp; nông nghiệp là sinh kế, là hoạt động kinh tế
chủ yếu tại nông thôn; nông thôn là địa bàn chủ yếu cho các hoạt động nông
nghiệp và là nơi sinh sống của đa số cư dân nông nghiệp; còn nông dân là chủ
thể chính của hoạt động nông nghiệp, là mục tiêu của phát triển nông nghiệp. Vì
vậy, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp
phải nhằm vào nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
219
Khi phân tích thực tiễn phát triển nông nghiệp tại Quảng Nam, những nhân tố
tác động đến việc thực hiện không thành công có nhân tố thiếu nguồn lực và
không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nên luận án đề xuất các biện pháp nâng cao
năng lực quản lý của Nhà nước có các nội dung cơ bản là: 1) hoàn thiện qui
trình ra chính sách; 2) nâng cao năng lực cán bộ quản lý nông nghiệp các cấp.
1) Hoàn thiện qui trình ra chính sách
Chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân là tổng thể các biện
pháp bao gồm biện pháp kinh tế, xã hội, hành chính để đạt được các mục tiêu
Các đặc điểm của cộng đồng nông nghiệp
phát triển trong ngắn hạn và dài hạn của quốc gia, của tỉnh hoặc một khu vực.
Nông nghiệp cải cách tăng cường quyền và trách nhiệm
Mặt cầu Khả năng của nông dân để đòi hỏi quản lý tốt từ Nhà nước
Phân quyền chính trị, lập kế hoạch tham gia
Kinh tế chính trị
Quản lý nông nghiệp, nông thôn - Hiệu quả và công bằng trong cung cấp dịch vụ - Chất lượng đổi mới - Kiểm soát tham nhũng - Củng cố quyền bao gồm các quyền về lương thực
Mặt cung Năng lực của cơ quan quản lý nông nghiệp cần cải cách để hoạt động hiệu quả
Cải cách tăng năng lực quản lý Nhà nước về nông nghiệp Cải cách quản lý cung ứng, thị trường
Các vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan quản lý nông nghiệp
Hình 3.7: Qui trình ban hành chính sách xuất phát từ cung và cầu đối với
phát triển nông nghiệp
220
Như vậy, qui trình ra chính sách phải xuất phát từ nhu cầu của nông nghiệp,
nông thôn và nông dân (xem hình 3.7) (Ngân hàng Thế giới, 2007, tr. 406) [46].
Từ đó, Nhà nước điều chỉnh khả năng cung tức là năng lực của cơ quan quản lý
có đáp ứng được các nhu cầu từ nông dân, để khi chính sách được triển khai
thực hiện phải đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu đối với phát triển nông
nghiệp, nông thôn, như: 1) Hiệu quả và công bằng trong cung cấp dịch vụ; 2)
chất lượng đổi mới; 3) kiểm soát tham nhũng; và 4) củng cố các quyền trong đó
các quyền đáp ứng đủ lương thực hoặc quyền được tham gia trong quá trình thực
hiện các dự án, chương trình.
Hình 3.8: Những chính sách ưu tiên cần được thực hiện tại Quảng Nam Kết quả khảo sát về các chính sách nào cần được ưu tiên tại Quảng Nam42,
thì đa số các hộ nông dân đều quan tâm đến chính sách tiêu thụ nông sản, chính
sách tạo việc làm ở nông thôn, chính sách đất đai và chính sách đào tạo (hình
3.8) (Nguyễn Cảnh, 2010) [13]. Nếu tỉnh Quảng Nam dựa vào nhu cầu này để
42 Xem phụ lục 4.
điều chính các nguồn lực nhằm thực thi chính sách theo những mức độ ưu tiêu
221 khác nhau thì chắc chắn sự thành công của chính sách sẽ cao hơn và nông
nghiệp sẽ phát triển ổn định và bền vững hơn.
2) Nâng cao năng lực cán bộ quản lý các cấp về nông nghiệp, nông thôn và
nông dân
Công tác cán bộ là một phần không thể thiếu trong việc nâng cao năng lực
quản lý của Nhà nước các cấp về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tỉnh
Quảng Nam hiện rất thiếu cán bộ quản lý trong ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn, nhất là cán bộ khuyến nông; để nâng cao chất lượng cán bộ và khắc
phục tình trạng thiếu cán bộ cần có các biện pháp sau; 1) Nâng cao trình độ và
kiến thức các cán bộ hiện có về nông nghiệp và phát triển nông thôn, về quá
trình hội nhập kinh tế có tác động đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, kiến
thức về kinh doanh nông sản và phát triển ngành hàng nông sản; 2) giao thầu
một số dự án, chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn về các viện, các
trường đại học, các tổ chức nghiên cứu tính khả thi trước khi triển khai; khi triển
khai nên giao thầu cho các hợp tác xã, các tổ chức và cá nhân đủ năng lực để
thực hiện các chính sách như các chương trình khuyến nông, phòng chống dịch
bệnh, công tác thú ý, chăm sóc, nghiên cứu phát triển giống cây trồng, vật nuôi
mới, tái sinh rừng,… Các cơ quan của tỉnh chỉ tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát.
3.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã là thành phần chủ yếu trong cơ cấu nền
kinh tế Quảng Nam những năm qua. Những năm đến, nông nghiệp Quảng Nam
phải đóng vai trò tích cực hơn, không chỉ góp phần tạo nên sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế tại Quảng Nam; mà điều quan trọng hơn, nông nghiệp Quảng
Nam có khả năng liên kết chặt chẽ với phần còn lại của nền kinh tế để đạt được
mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
Lợi ích của nông nghiệp không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế, mà nông
nghiệp còn đóng góp vào quá trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn, và
222 bảo vệ môi trường sinh thái. Những giải pháp được đề xuất nhằm đảm bảo phát
triển nông nghiệp Quảng Nam những năm đến đạt được sự cân đối giữa cung và
cầu nông sản; nền nông nghiệp phải phát triển theo hướng thương mại hóa, công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Lúc đó, nông nghiệp sẽ có vai trò lớn hơn không chỉ
đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn đóng góp lớn hơn trong việc
bảo tồn văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái (Geoff A. Wilson, 2007, p.
17) [116] tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Trong các giải pháp và các chính sách được đề nghị và trong suốt quá trình
phân tích của luận án; những nội dung liên quan đến việc phát triển các ngành
hàng nông sản và tạo điều kiện để phát triển các hoạt động kinh doanh nông sản
tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn đóng vai trò quan
trọng. Hay nói cách khác, việc xây dựng một nền nông nghiệp thương mại hóa
luôn là trọng tâm, là cốt lõi khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,
nhất là sau khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới. Bên cạnh
đó, việc nâng cao năng lực quản lý Nhà nước cấp tỉnh là những giải pháp tạo ra
môi trường thể chế để cho mọi hoạt động kinh tế nông nghiệp phát triển phù hợp
với những mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường mà chiến lược phát triển nông
nghiệp và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam đã đề ra đến năm 2020.
223
KẾT LUẬN
Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay luôn là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu, nhà làm chính sách và các
quốc gia quan tâm, vì nông nghiệp có liên quan mật thiết đến việc giải quyết
những vấn đề thiết yếu như nuôi sống loài người, xóa đói, giảm nghèo và làm
chậm quá trình biến đổi khí hậu; mà ngày nay, nó không chỉ là vấn đề của một
quốc gia mà đang trở thành vấn đề của toàn cầu. Tuy nhiên, do đặc thù và yêu
cầu của mỗi nước khác nhau, mà phương pháp tiếp cận, nội dung, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của phát triển nông nghiệp diễn ra theo những chiều hướng
nghiên cứu khác nhau.
Luận án, với đề tài “Phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-
2020”, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển
nông nghiệp của Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng thời gian
qua và giai đoạn 2011-2020. Những kết quả mà luận án đã đạt được qua nghiên
cứu, như sau:
- Thứ nhất, từ việc nghiên cứu các khái niệm liên quan đến nông nghiệp
theo nghĩa rộng (gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), vai trò và vị trí của
nông nghiệp đối với quá trình phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam
và tiếp cận lý thuyết biện chứng về sự phát triển; luận án cho rằng phát triển
nông nghiệp là quá trình vận động để nền nông nghiệp đi từ thủ công đến hiện
đại, đi từ tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa. Và để nông nghiệp phát triển
nhanh và ổn định cần một cơ chế vận hành phù hợp; theo luận án, cơ chế vận
hành đó là: 1) Sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi ngành hàng nông sản nhằm
phát triển các loại thị trường và tận dụng những cơ hội của quá trình hội nhập; 2)
sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết vùng nhằm tận dụng được lợi thế của qui
mô và thúc đẩy phát triển thị trường nông sản; và 3) sản xuất nông nghiệp bền
vững góp phần đạt được các nội dung của phát triển bền vững quốc gia. Từ đó
nâng cao vai trò của địa phương trong phát triển nông nghiệp.
224
Thứ hai, đã xây dựng được các nội dung của phát triển nông nghiệp trong
giai đoạn hiện nay của Việt Nam có xét đến yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm khai thác được lợi thế so sánh và đáp ứng nhu cầu đa dạng nông sản của
thị trường. Một hệ thống chỉ tiêu gắn liền với mỗi nội dung phát triển nông
nghiệp cũng đã được đề xuất nhằm có thể lượng hóa các nội dung của phát triển
nông nghiệp làm cơ sở so sánh và đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội của
quá trình phát triển nông nghiệp.
Thứ ba, đã chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp
trong giai đoạn hiện nay gồm có các nhân tố liên quan đến điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội và thể chế. Các bài học kinh nghiệm tại các nước và trong nước
đã củng cố tính logic các nội dung của phát triển nông nghiệp trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Thứ tư, luận án đã đánh giá được thực trạng phát triển nông nghiệp Quảng
Nam theo các nội dung đã xây dựng; chỉ ra được những nguyên nhân của những
hạn chế, yếu kém của quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam qua các
năm. Đây chính là các căn cứ để đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp
tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020.
Thứ năm, từ những căn cứ như hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến nông
nghiệp, quan điểm phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam, định hướng chiến
lược và mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020;
luận án đã đề ra được các mục tiêu phát triển nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đến
năm 2020 gắn với ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Về phát triển kinh
tế, tăng trưởng tổng sản lượng nông nghiệp phải đạt từ 4% đến 4,5%, phát triển
các ngành hàng xuất khẩu để đến năm 2020, tổng sản phẩm nông nghiệp Quảng
Nam chiếm tỷ trọng chỉ còn 10% GDP và lao động nông nghiệp còn 30%; về xã
hội phải đặt mục tiêu đạt 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; về môi trường
cần đặt vấn đề bảo vệ và phát triển rừng có vai trò quan trọng trong phát triển
nông nghiệp tại Quảng Nam.
225
Thứ sáu, tất cả những vấn đề nêu trên là căn cứ tiền đề để luận án đề ra các
giải pháp. Có tám nhóm giải pháp chủ yếu1) Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp; 2) khai thác tổng hợp các vùng sinh thái nông nghiệp; 3)
phát triển công nghiệp chế biến làm động lực thúc đẩy chuyên môn hóa, tập
trung hóa; 4) hoàn thiện các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp; 5)
tăng cường thâm canh trong nông nghiệp; 6) mở rộng thị trường và phát triển
các ngành hàng nông sản; 7) đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
đồng bộ và hiện đại; và 8) đổi mới cơ chế, chính sách trong phát triển nông
nghiệp.
Tóm lại, luận án đã đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra ban đầu. Tuy nhiên,
nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi cấp tỉnh và thời gian khá rộng, đối với
cấp tỉnh hệ thống số liệu thống kê hầu như không đầy đủ, nhất là tỉnh Quảng
Nam do chia tách tỉnh nên nhiều khi số liệu không liên tục, nên các điều tra khảo
sát thực địa đã được tiến hành nhằm bổ sung nguồn dữ liệu phục vụ quá trình
phân tích đánh giá. Do đó, dù có nhiều nỗ lực để hoàn thành luận án nhưng cũng
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để hoàn thiện và phát triển hơn nữa
nghiên cứu của mình.
226 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. (2002), Mô hình cho thuê lưới điện hạ áp: Một hình thức đầu tư và tổ
chức bán điện ở nông thôn, Tạp chí Điện lực, (số 5/2002), tr. 9-11, Hà
Nội.
2. (2008), Giao thông vận tải và phát triển kinh tế miền Trung, Tây Nguyên,
Tạp chí Giao thông Vận tải (số 10/2008), tr. 12-15, Hà nội.
3. (2009), Phân tích lợi thế kinh tế: Phương pháp tiếp cận trong việc xác
định ngành có lợi thế so sánh của các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Liên kết kinh tế trên địa
bàn miền Trung-Tây Nguyên, Đại học Đà Nẵng, 4/2009, tr. 75-85, Đà
Nẵng.
4. (2009), Những nội dung cơ bản của phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện
nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 12/2009), tr. 62-69, Hà Nội.
5. (2010), Qui trình quản lý tài chính dự án đầu tư do các ngân hàng đa
phương tài trợ, Tạp chí Giao thông Vận tải, (số 11/2010), tr. 42-42, Hà
Nội.
6. (2011), Nghiên cứu tái định cư thủy điện ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb
Từ điển Bách khoa, tr. 18-29, Hà Nội.
for re-settled communities, CRBOM Small 7. (2011) Livelihoods
Publiccations Series No. 36, Center for River Basin Organization and
Management, Indonesia (www.crbom.org/SPS/).
8. (2011) Good practices for hydropower development, CRBOM Small
Publiccations Series No. 39, Center for River Basin Organization and
Management, Indonesia (www.crbom.org/SPS/).
227
9. (2011), Các giải pháp kinh tế - xã hội phát triển bền vững thủy điện tại
miền Trung và Tây Nguyên, Hội thảo tại Đại Học Đà Nẵng 9/2011, tr.
568-576, Đà Nẵng.
228 TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. PGS. TS. Nguyễn Văn Bích, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm
đổi mới: Quá khứ và hiện tại (2007), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Báo cáo điều chỉnh qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Nam đến
năm 2010 (2006), Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Nam, Tam Kỳ.
3. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 và nhiệm vụ kế hoạch năm
2010, UBND tỉnh Quảng Nam, tháng 11/2009.
4. Báo cáo của Sở NN và PTNT về Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn,
nông dân với UBND tỉnh Quảng Nam ngày 12/04/2008.
5. Báo cáo của Sở NN và PTNT Quảng Nam về vấn đề cơ khí hóa nông nghiệp
tại Quảng Nam, năm 2009.
6. Báo cáo hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh
Quảng Nam”, ngày 25/01/2008.
7. Báo cáo Khung qui hoạch quản lý rủi ro thiên tai tổng hợp tỉnh Quảng Nam,
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Nam, 2009, Tam Kỳ.
8. Báo cáo Tổng kết hoạt động khuyến nông, khuyến ngư năm 2008 và định
hướng khuyến nông, khuyến ngư năm 2009 của Trung Tâm Khuyến nông –
Khuyến ngư Quốc gia, Hà Nội, 18/12/2008.
Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp: Nông nghiệp Việt Nam năm 9.
2008, triển vọng 2009 (2009), Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp
nông thôn.
10. Bộ Nông nghiệp và PTNT, Dự thảo chiến lược an ninh lương thực quốc gia,
2008, Hà Nội.
11. Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2009 và triển vọng
2010, Trung tâm Thông tin NNPTNT (AgroInfo), Hà Nội.
229 12. Đinh Phùng Bảo, Đặc điểm khí hậu, thủy văn tỉnh Quảng Nam (2001), Đề
tài nghiên cứu của Trung Tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn tỉnh Quảng Nam,
Tam Kỳ.
13. Nguyễn Cảnh, Hoàn thiện qui trình chính sách công nhằm xây dựng nông
thôn mới ở Quảng Nam (2010), Đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học
và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.
14. PGS. TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới (2003), Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Nguyễn Tấn Cư, Xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn tại Quảng Nam
(2004), Đề tài nghiên cứu khoa học của Chi cục Bảo vệ Thực vật Quảng
Nam, Tam Kỳ.
16. Cục Thống kê Quảng Nam (2010) , Niên giám thống kê năm 2010, Tam Kỳ.
17. Cục Thống kê Quảng Nam (2010) Kinh tế - xã hội Quảng Nam 10 năm
2001-2010¸ Tam Kỳ.
18. TS Huỳnh Văn Chương, Ths. Phạm Hữu Tỵ, Điều chỉnh chính sách đất đai
để xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững nông thôn (2008), Khoa Tài
nguyên đất và Môi trường Nông nghiệp, ĐH Nông Lâm Huế, Tài liệu hội
thảo: Trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách và cán bộ nghiên cứu và
phát triển về Nông nghiệp –Nông thôn – Nông dân, TP Huế, 12-2008.
19. PGS. TS. Đỗ Cảnh Dương, Điều tra đánh giá đất vùng gò đồi các huyện
đồng bằng, trung du tỉnh Quảng Nam phục vụ qui hoạch phát triển nông
nghiệp bền vững (2006), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường ĐH Mỏ -
Địa chất, Tam Kỳ.
20. Nguyễn Tiến Dũng, Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam (2003), luận án tiến sĩ, Trường ĐH
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
21. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, Nông nghiệp Việt Nam: Từ cội nguồn đến đổi
mới (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
230 22. Đề án bảo tồn làng nghề Quảng Nam giai đoạn 2008-2015 và định hướng
đến 2020 (2008), Sở Công Thương Quảng Nam, Tam Kỳ.
23. Đề án phát triển Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp theo hướng tăng mạnh
sản xuất công nghiệp và dịch vụ (2003), UBND tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.
24. PGS. TS Phạm Vân Đình, TS. Đỗ Kim Chung, Kinh tế nông nghiệp (1997),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
25. Ngô Văn Đồng, Xác định một số giống lúa cạn có năng suất cao và các mô
hình canh tác lúa cạn có hiệu quả ở vùng núi Quảng Nam (2007), Đề tài
ngiên cứu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, Tam
Kỳ.
26. PGS. TS. Võ Văn Đức (chủ biên), Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ
yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (2009), Nxb Chính trị
27. Phạm Nguyễn Thu Giang, Hoàn thiện các chính sách nhằm hỗ trợ chuyển
Quốc gia, Hà Nội.
đổi nghề nghiệp cho các hộ dân thuộc diện giải tỏa đền bù tại huyện Điện
Bàn, Quảng Nam (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học, Đà Nẵng.
28. TS Thái Thanh Hà, Chuỗi giá trị song mây tỉnh Quảng Nam (2006), GTZ và
SME Development, Hà Nội.
29. GS. TS. Hoàng Ngọc Hòa, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta (2008), Nxb Chính
trị Quốc gia, Ha Nội.
30. TS Vũ Ngọc Hoàng, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Quảng Nam, Tạp chí
Cộng sản số 54/2004.
31. TS Vũ Ngọc Hoàng “Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp Quảng Nam” (1995),
Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
32. Học viện chính trị Quốc gia HCM, Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2004.
231 33. Đào Bá Hoàn, Xây dựng các mô hình VAC phù hợp với từng vùng sinh thái
ở tỉnh Quảng Nam (2004), đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ.
34. TS. Đinh phi Hổ, TS. Lê Ngọc Uyển, Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực
tiến (2006), Nxb Thống kê, TP HCM.
35. Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,
36.PGS TS Vũ Trọng Khải, Tích tụ ruộng đất – Trang trại và nông dân, Tạp
Nxb Khoa học Xã hội, TP HCM, 1995.
chí Nghiên cứu kinh tế số 365, tháng 10/2008.
37. PGS. TS. Phan Văn Khôi, Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp,
nông thôn (2007), Nxb ĐH kinh tế quốc dân, Hà Nội.
38. TS Phạm Ngọc Linh, TS Nguyễn Thị Kim Dung, Giáo trình kinh tế phát
triển (2008), Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
39. Võ Lượng, Xây dựng mô hình kinh tế hộ gia đình trên cơ sở sử dụng có hiệu
quả đất nông - lâm nghiệp tại huyện miền núi Tiên Phước tỉnh Quảng Nam
(1999), đề tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm Khuyến nông – Khuyến
lâm Quảng Nam, Tam Kỳ.
40. Luật đất đai năm 1993, sửa đổi năm 1998, 2001, 2003 và luật đất đai năm
2005.
41. Luật bảo vệ và phát triển rừng, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 6, ngày
03/12/2004.
42. Luật Khoa học và Công nghệ, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7, ngày 09 tháng 6 năm 2000.
43. Luật hợp tác xã, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 4, ngày 10 tháng 12 năm 2003.
232 44. Sally P. Marsh, T Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam (2007), Trung Tâm nghiên cứu
45. GS-TS Nguyễn Thế Nhã, TS Vũ Đình Thắng, Giáo trình kinh tế nông
Nông nghiệp Quốc tế của Úc, Hà Nội.
nghiệp (2002), Nxb Thống Kê.
46. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển thế giới (2008), Tăng cường nông
nghiệp cho phát triển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Minh Nghĩa, Phát triển ngành dâu tằm tơ tại Duy Trinh Quảng
Nam (2008), Đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
48. PGS TS Nguyễn Kim Ngọc, Nghiên cứu cân bằng và qui hoạch tổng thể
khai thác sử dụng bền vững các nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh Quảng Nam (2003), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường ĐH Mỏ -
Địa chất, Tam Kỳ.
49. TS. Lương Tất Nhợ (chủ biên), Khả năng cạnh tranh ngành chăn nuôi bò
sữa Việt Nam (2005), Viện kinh tế nông nghiệp, Hà Nội.
50. Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 ban hành bản quy định về công tác khuyến
nông.
51. Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ về
52. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10-NQ/TWvề đổi mới quản lý kinh tế nông
chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
53. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn
nghiệp, ngày 5/4/1988.
54. Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm BCH TW Đảng khoá
đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.
VII về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, ngày
10/6/1993.
233 55. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCHTW(khoá X) số 26-NQ/TW về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 5/8/2008.
56. Nghị quyết số 03/NQ/CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.
57. Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/06/2003 về việc miễn giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp.
58. GS. TSKH Lê Du Phong (Chủ biên), Chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn, nông dân của Hungary trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận
dụng cho Việt Nam (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. GS. TSKH Lê Du Phong (Chủ biên), Nguồn lực và động lực phát triển trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (2006), Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội.
60. GS. TSKH Lê Du Phong, Thu nhập, đời sống, việc làm của những người có
đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia (2007),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. GS. TSKH Lê Du Phong, Vấn đề đất đai ở nông thôn Việt nam, Tạp chí
nghiên cứu kinh tế tháng 12/2007.
62. Phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Quyết định 150/2005/QĐ-TTg,
ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
63. Ellis Ph., Kinh tế hộ gia đình và phát triển nông nghiệp (1993), NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
64. Quỹ nghiên cứu ICARD-MISPA, Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác
động của ngành mía đường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, (2004),
Hà Nội.
65. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015,
Sở KH và ĐT Quảng Nam, 2006.
234 66. Qui hoạch tổng thể tái định cư thủy điện Sông Tranh 2 (2006), Công ty CP
Tư vấn và Phát triển Kỹ thuật Tài nguyên Nước, Đà Nẵng.
67. Quyết Định số 4002/2008/QĐ-UBND ngày 02/12/20085, về Ban hành Kế
hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh Quảng Nam
68. Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về Việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
69. Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009, về đề án
dạy nghề cho lao động nông thôn.
70. Chambert R., Phát triển nông thôn - Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ
(1991), NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
71. Martin Ravallion, Dominique van de Walle, Đất đai trong thời kỳ chuyển
đổi: Cải cách và nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam (2008), NXB Văn hóa
thông tin, Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.
72. GS. Đỗ Quốc Sam, Một số vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa sau 20
năm đổi mới (2006), Hà Nội.
73. PGS. TS Nguyễn Danh Sơn (chủ biên), Nông nghiệp, nông thôn, nông dân
Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại, (2010),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
74. TS. Đặng Kim Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân trong quá trình công nghiệp hóa (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. TS Đặng Kim Sơn, Công nghiệp hóa từ nông nghiệp (2002), Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
76. TS. Đăng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Hôm nay
và mai sau (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Tatyana P. Soubbotina, Không chỉ là tăng trưởng kinh tế (2005), World
Bank, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
235 78. Josepth E. Stiglitz, Vận hành toàn cầu hóa (2008), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí
Minh.
79. Nguyễn Công Tạn, Nghiên cứu về Hà Lan (20050, Báo nông thôn ngày nay.
80. Nguyễn Văn Tân, Khảo sát, đánh giá khả năng thích nghi của cây cà phê,
ca cao trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (2001), Đề tài nghiên cứu khoa học của
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, Tam Kỳ.
81. TS. Bùi Quang Thanh, Nghiên cứu các luật tục của đồng bào dân tộc thiểu
số phục vụ đầu tư phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống văn hóa cơ
sở (2007), đề tài nghiên cứu của tỉnh Quảng Nam, Hà Nội.
82. Đoàn Tranh (2011), Các giải pháp kinh tế - xã hội phát triển bền vững thủy
điện tại miền Trung và Tây Nguyên, Hội thảo tại Đại Học Đà Nẵng 9/2011,
Đà Nẵng.
83. Đoàn Tranh, Giao thông vận tải và phát triển kinh tế miền trung Tây nguyên
(2008), Tạp chí GTVT số 10/2008.
84. Đoàn Tranh, Sinh kế bền vững cho cộng đồng tái định cư công trình thuỷ
điện ở lưu vực sông Vu Gia -Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam: Thực trạng và giải
pháp (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học của Mạng lưới Sông ngòi Việt
Nam, Hà Nội.
85. Nguyễn Thị Đoan Trang (2010), Thực trạng các ngành hàng nông sản xuất
khẩu của tỉnh Quảng Nam, đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân,
Đà Nẵng
86. Bảo Trung, Thể chế giao dịch nông sản: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và bài
học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 364 – Tháng 9/2008.
87. Bùi Văn Tuất, Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển kinh
tế hộ gia đình xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, (2003), Đề
tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu, Ứng dụng và Chuyển
giao Khoa học Công nghệ, Quảng Nam Tam Kỳ.
236 88. Phạm Thị Tước, Những cam kết WTO và khả năng tác động đến nông
nghiệp Việt Nam (2006), Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hà Nội.
89. Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
ở Việt Nam - Con đường và Bước đi (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. TS. Nguyễn Từ, Những biện pháp chủ yếu để giải quyết nguyên liệu mía ở
Công ty Mía đường Lam Sơn, (2005), Tài liệu báo cáo hội thảo ngành Mía
Đường, Hà Nội.
91. TS. Nguyễn Từ (chủ biên), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam (2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. UNDP, Việt Nam hướng tới 2010, tập 1&2 (2001), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
93. PGS Nguyễn Trọng Uyên, Đánh giá khả năng khai thác sử dụng tài nguyên
thiên nhiên Việt Nam phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
(1990), Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện kế hoạch dài hạn và phân bố
lực lượng sản xuất, Hà Nội.
94. Trần Đức Viên, Phạm Văn Phê, Sinh thái học nông nghiệp (1998), Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
95. Lưu Hoàng Vĩnh (2010), Các giải pháp nâng cao thu nhập cho các nông hộ
huyện Điện Bàn, Đề tài nghiên cứu khoa học tại Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
96. Trần Quang Vinh, Nghiên cứu khảo nghiệm một số giống cây ăn quả tại
Quảng Nam (2001), Đề tài nghiên cứu khoa học của Trung tâm giống thực
nghiệm Nông lâm nghiệp Quảng Nam, Tam Kỳ.
97. GS TS Bùi Minh Vũ, Giáo trình Kinh tế Lâm nghiệp (2001), Nxb Thống kê.
98. E. Wayne Nafziger, Kinh tế học của các nước đang phát triển (1998), Nxb
Thống kê, Hà nội.
B. TIẾNG ANH
99. Asian Development Bank, Agriculture commercialization, Value Chains,
and Poverty Reduction (2004), www.markets4poor.org.
237 100. Asian Development Bank, Strategic Environmental Assessment of the
Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin
(2008), Hanoi.
101. Joachim Von Braun, Agricultural Commercialization Economic
Development and Nutrition (1994), International Food Policy Research
Institute, The Johns Hopkins University Press, London.
in Liberalized Trade 102. Joachim von Braun, Small-scale Farmers
Environment (2005), International Food Policy Research Institute (IFPRI).
103. Martin Christopher, Logistics and Supply Chain Management (2005),
Prentice Hall, London.
104. Food and Agriculture Organization, Trade and Food Security:
Conceptualizing the Linkages (2002), Rome.
105. FAO Agriculture Department Report, Good Agricultural Practice
Approach (2003), Rome, Italy.
106. FAO, (2005), Participatory policy development for sustainable agriculture
and rural development, Rome.
107. Shaun Ferris and Et al, Market Facilitator’s Guide to Participatory
Agroenterprise Development (2006), International Center for Tropical
Agriculture, Columbia, USA.
108. Guido Van Huylenbroeck, Multifunctionality of Agriculture: A Review of
Definitions, Evidence and Instruments (2008), Ghent University, Department
of Agricultural Economics, Belgium.
109. Sara Mortimore and Carol Wallace, Food industry briefing series: HACCP
(2001), Blackwell Science Ltd., London.
110. Roger D. Norton, Agricultural Development Policy: Concept and
Experience (2004), John Wily & Sons, Ltd.
111. OECD Economic Survey – Nethelands (2008).
238 112. Anita Regmi, Mark Gehlhar, New directions in global food markets
(2005), USDA.
113. Paul A. Samuelson and William D. Nordhaus, Economics 16th, Mc Graw-
Hill Inc., 1996, New York.
114. Statistical Yearbook of the Nethelands (2007).
115. Integrated Assessment of the Impact of Trade Liberalization - A Country
Study on the Viet Nam Rice Sector. (2005), United Nations Environment
Programme (UNEP).
116. Geoff A. Wilson, Multifunctional Agriculture: A Transition Theory
Perspective (2007), Cromwell Press, Trowbridge, UK.
239
CÁC PHỤ LỤC
240 PHỤ LỤC 1
MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ GÓP PHẦN TĂNG TRƯỞNG
GDP TRONG NÔNG NGHIỆP CẢ NƯỚC VÀ QUẢNG NAM
1. Xác định mô hình tổng năng suất các yếu tố (TFP 43)
Trong nông nghiệp, các yếu tố sản xuất chính gồm đất đai (N), lao động (L)
và vốn (K). Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, thì tiến bộ về giống cây trồng,
vật nuôi, phương pháp canh tác, những thuận lợi và bất lợi của thời tiết, kinh
nghiệm của người nông dân là những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tăng
trưởng trong nông nghiệp. Thông thường, tổng sản lượng hay tổng sản phẩm
trong nước (Y) được biễu diễn như là một hàm của các đầu vào yếu tố sản xuất
là : Y = f(T, L, K, N, E)
Trong đó, T là tiến bộ công nghệ, L là lao động, K là vốn, N là đất đai, và E
là trình độ quản lý. Đất đai là tài nguyên thiên khó thay thế trong nông nghiệp,
được đánh giá là không sinh sản thêm thông qua sản xuất, nhiều nhà kinh tế cho
đó là nhân tố cố định hầu như không liên quan đến tăng trưởng; bằng chứng là
Nhật, Thụy Sĩ, Israel có mức tăng trưởng nhanh, mặc dầu thiếu thốn đất đai và
tài nguyên thiên nhiên; trong trường hợp này, ta xem đất đai như là vốn trong
sản xuất nông nghiệp. Trình độ quản lý xem như là một dạng của nguồn lao
động, các nhân tố tiến bộ kỹ thuật và các thuận lợi khác xem là không thay đổi.
Lúc đó, hàm sản xuất chỉ còn ba biến và được biễu diễn là :
Y = g(T, L, K).
Vào năm 1920, nhà tóan học Charles Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas
β
(1)
α K TL Y =
đã biễu diễn hàm sản xuất trên dưới dạng :
Trong đó, α là độ co dãn của sản lượng theo lao động (khi giữ cho vốn
43 Total Factor Productivity .
không đổi); β là độ co dãn của sản lượng theo vốn (khi giữ cho lao động không
241 đổi); khi α+ β = 1, để biễu thị rằng lợi tức là không đổi theo qui mô (tức là, khi
tăng đầu vào lao động một cách tỷ lệ, thì sản lượng sẽ tăng lên theo tỷ lệ). Giả
thuyết thêm rằng cạnh tranh là hoàn hảo, với các yếu tố sản xuất có sản phẩm
biên và sự thay đổi công nghệ không có ảnh hưởng. Biến đổi hàm (1) bằng cách
lấy logarit cho kết quả:
LnY = LnT + αLnL + βLnK (2)
.
=
.
+ α
+ β
.
.
dY dt
1 Y
dT dt
1 T
dL dt
1 L
dK dt
1 K
Vi phân theo thời gian, nó sẽ cho ta kết quả :
Phương trình trên là theo thời gian liên tục, còn sự xấp xỉ không liên tục. Lấy
=
dY Y
dT T
dL + α + β L
dK K
theo tỷ lệ thay đổi hàng năm của các biến số là:
Đây là tỷ lệ thay đổi hàng năm của các biến số mà chúng được biễu diễn dưới
dạng: %∆Y = TC + α(%∆L) + β(%∆K) (3)
Trong đó: %∆Y là tốc độ tăng của sản lượng, %∆L là tốc độ tăng của lao
động, %∆K là tốc độ tăng của vốn, và TC đại diện cho sự thay đổi kỹ thuật hay
còn gọi là tổng năng suất các yếu tố TFP.
Để giải thích tăng trưởng trên đầu người, chúng ta có thể loại bỏ L như là
nguồn tăng trưởng riêng (Paul A. Samuelson, 1996, p. 556) [113].
Ta có phương trình sau:
Y L
%∆ = %∆Y - %∆L (4)
Từ phương trình (3) và (4) ta có phương trình:
K L
Y L
= β(%∆ ) + TC (5) %∆
Mối quan hệ này chứng tỏ, nếu việc thay đổi công nghệ bằng không thì việc
đầu tư vốn trên lao động càng sâu (thâm canh cao) sẽ tác động đến việc tăng sản
242 lượng nông sản trên đầu người. Tuy nhiên, β luôn nhỏ hơn 1 (thường β = ¼) nên
sản lượng sẽ tăng chậm hơn vốn, điều này phản ánh qui luật sinh lợi giảm dần.
Cuối cùng chỉ có sự áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất mới đảm bảo cho
sản lượng tăng nhanh hơn vốn (E. Wayne Nafziger, 1998) [98].
2. Xác định hệ số α+ β của Việt Nam giai đoan 1996-2010
Số liệu thu nhập GDP, số lao động và vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1996-2010
cho ở bảng sau:
Y (tỷ đồng) (giá cố định Lao động (1000 người) Vốn (tỷ đồng) (giá cố định)
213.833 231.264 244.596 256.272 273.666 292.535 313.247 336.242 362.435 393.031 425.373 461.344 490.458 516.566 551.609 35.442 36.000 36.556 37.109 37.610 38.563 39.508 40.574 41.586 42.775 43.980 45.208 46.461 47.744 48.756 68.696 79.911 79.361 84.051 93.681 103.629 117.020 131.136 147.408 160.702 176.701 214.632 203.687 220.790 231.207 Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Hồi qui các số liệu trên theo mô hình phương trình (2) và đặt Y = LnY; X1 =
LnL và X2 = LnK.
243
SUMMARY OUTPUT
Regression Statistics
Multiple R R Square Adjusted R Square Standard Error Observations
0.998873792 0.997748853 0.997373662 0.015853754 15
ANOVA
df
SS
MS
F
2659.308
0.668394498 0.000251342
Regression Residual Total
2 12 14
1.336788995 0.003016098 1.339805094
Coefficients
Standard Error
P-value
Intercept X Variable 1 X Variable 2
-10.201335 1.868474155 0.263210659
2.098052396 0.273415008 0.069456025
t Stat -4.86228801 6.833839047 3.789601557
0.00039 1.81E-05 0.002578
Kết quả như sau:
Chúng ta xác định được α = 1,868 và β = 0,26.
3. Số liệu của Việt Nam giai đoạn 1996 đến 2010
Cả nền kinh tế
Ngành nông nghiệp
%GDP
%L
%K
%GDP
%L
%K
Năm
9.34%
1.61%
10.98%
4.40%
-0.64%
4.64%
1996
8.15%
1.57%
16.33%
4.33%
-0.73%
14.56%
1997
5.76%
1.55%
-0.69%
3.53%
-0.80%
-6.04%
1998
4.77%
1.51%
5.91%
5.23%
-0.90%
21.81%
1999
6.79%
1.35%
11.46%
4.63%
-1.11%
9.09%
2000
6.89%
2.53%
10.62%
2.98%
-0.14%
-24.36%
2001
7.08%
2.45%
12.92%
4.17%
0.03%
4.52%
2002
7.34%
2.70%
12.06%
3.62%
0.04%
8.08%
2003
7.79%
2.50%
12.41%
4.36%
-0.05%
4.98%
2004
8.44%
2.86%
9.02%
4.02%
-0.12%
3.65%
2005
8.23%
2.82%
9.96%
3.69%
-0.30%
8.93%
2006
8.48%
2.79%
21.47%
3.76%
0.08%
4.28%
2007
6.31%
2.77%
-5.10%
4.68%
0.32%
-4.14%
2008
244
5.32%
2.76%
1.82%
1.39%
5.28%
8.40%
2009
6.78%
2.12%
2.78%
-5.20%
0.25%
4.72%
2010
Bình quân
7.12%
2.30%
9.14%
3.80%
-0.53%
3.39%
Với β = 0,26, lúc đó ta xác định được yếu tố K với 0,26 (%∆K); tính TC
bằng phương trình (5); và tính yếu tố L dựa vào công thức (3). Dựa vào kết quả
số bình quân của bảng trên, ta có kết quả như sau:
Cả nền kinh tế TC %∆L %∆K %GDP
Ngành nông nghiệp TC %∆L %∆K %GDP
0,8%
3,95%
2,40%
7,12%
1,20%
1,71%
0,9%
3,80%
11,2%
55,5%
33,4%
100%
31,8% 44,95%
23,2%
100%
Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố Tỷ trọng đóng góp của mỗi yếu tố
4. Số liệu của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1997 đến 2010
Cả nền kinh tế
Ngành nông nghiệp
Năm`
%GDP
%L
%K
%GDP
%L
%K
8.90
1.37%
19.3%
2.87
1.51%
-4.10%
1997
7.46
2.59%
0.1%
2.16
1.16%
0.60%
1998
6.75
2.11%
27.0%
2.18
0.81%
1.69%
1999
7.32
3.76%
58.7%
2.43
-0.01%
2.96%
2000
8.50
1.90%
29.4%
3.01
1.21%
19.77%
2001
9.04
1.80%
3.2%
2.99
-0.70%
13.03%
2002
10.36
1.87%
18.3%
4.15
0.98%
2.76%
2003
11.55
1.59%
14.8%
3.20
0.16%
0.22%
2004
12.48
1.62%
23.1%
2.78
-0.15%
-3.62%
2005
13.46
1.53%
22.5%
3.87
-0.40%
3.62%
2006
14.42
1.37%
12.4%
2.82
-0.36%
-0.28%
2007
12.70
0.90%
-4.6%
0.91
-3.75%
-14.81%
2008
11.05
0.67%
20.4%
0.50
-3.62%
5.10%
2009
245
2010
12.50
0.80%
20.9%
1.28
-3.16%
7.82%
Bình quân
11.25%
1.73%
17.0%
2.45%
-0.48%
2.24%
Cũng căn cứ vào cách tính trên và dựa vào kết quả số bình quân của bảng
trên, ta có kết quả như sau:
Cả nền kinh tế TC %∆L %∆K %GDP
Ngành nông nghiệp TC %∆L %∆K %GDP
3,3%
3,49%
4,4% 11,25%
0,2%
1,65%
0,6%
2,45%
29,7%
31,1%
39,2%
100
8,9%
67,3%
23,8%
100%
Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố Tỷ trọng đóng góp của mỗi yếu tố
246 PHỤ LỤC 2
MÔ HÌNH Hwa Erh Cheng
TÁC ĐỘNG CỦA NÔNG NGHIỆP ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CÔNG
NGHIỆP VÀ THU NHẬP GDP ĐẦU NGƯỜI TẠI VIỆT NAM
A. Đặt bài toán
Mô hình Hwa Erh Cheng cho mối quan hệ tăng trưởng giữa công nghiệp,
nông nghiệp và GDP đầu người, được Hwa Erh Cheng44 xây dựng như sau:
A0 = f[I0, LnY, (LnY)2]
Trong đó I0 là tộc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp và xây dựng, A0 là
tộc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp và Y là thu nhập bình quân đầu người
(tính bằng USD).
Ban đầu Hwa Erh Cheng giả định tốc độ tăng trưởng công nghiệp và nông
nghiệp là hàm phi tuyến với GDP trên đầu người.
+ εI
(1)
+ εA
(2) I0 = αILnY + βI(LnY)2 A0 = αALnY + βA(LnY)2
Trong đó εI và εA là sai số ngẫu nhiên.
GDP được xem là biến đại diện cho các giai đoạn phát triển kinh tế. Chúng ta
có thể xây dựng tương quan hồi qui giữa εI và εA.
(3) εA = λεI + u
(4) Phương trình (1) có thể viết lại với dạng sau: εA = A0 - αALnY - βA(LnY)2
Và phương trình (2) được viết lại dưới dạng sau:
44 TS. Đinh phi Hổ, TS. Lê Ngọc Uyển, Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiến (2006), Nxb Thống kê, TP HCM, tr 247 [34]. Hwa Erh Cheng là tiến sĩ Đại học Cornell, chuyên về kinh tế phát triển và kinh tế lượng. Năm 1977 ông làm việc ở phòng nghiên cứu của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, năm 2000 ông là kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại vùng Đông Á. Ông cũng là cố vấn cho tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc giai đoạn 1999-2001.
(5) εI = I0 - αILnY - βI(LnY)2
247
(6)
(7) Thay phương trình (4), (5) vào phương trình (3), ta có: A0 - αALnY - βA(LnY)2 = λI0 - λαILnY - λβI(LnY)2 + u A0 = λI0 + (αA - λαI)LnY + (βA - λβI)(LnY)2 + u
Đặt β1 = λ; β2 = αA - λαI; β3 = βA - λβI.
Lúc đó phương trình (7) có thể viết lại như sau:
+ εA
A0 = β0 + β1I0 + β2LnY + β3 (LnY)2
B. MÔ HÌNH TÍNH CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Số liệu cụ thể giai đoạn 1990 đến 2010 tại Việt Nam như sau:
Y (USD) LnY (LnY)2 Năm Ao Io
1990 1.0 2.3 40 3.7 13.6
1991 2.2 7.7 71 4.3 18.2
1992 6.9 12.8 101 4.6 21.3
1993 3.3 12.6 126 4.8 23.4
1994 3.4 13.4 158 5.1 25.6
1995 4.8 13.6 199 5.3 28.0
1996 4.4 14.5 232 5.4 29.7
1997 4.3 12.6 264 5.6 31.1
1998 3.5 8.3 299 5.7 32.5
1999 5.2 7.7 326 5.8 33.5
2000 4.6 10.1 356 5.9 34.5
2001 3.0 10.4 383 5.9 35.4
2002 4.2 9.5 421 6.0 36.5
2003 3.6 10.5 476 6.2 38.0
2004 4.4 10.2 549 6.3 39.8
2005 4.0 10.7 637 6.5 41.7
2006 3.7 10.4 731 6.6 43.5
2007 3.8 10.2 799 6.7 44.7
248
2008 4.7 6.0 969 6.9 47.3
2009 1.8 5.5 1,071 7.0 48.7
2010 2.8 7.7 1,169 7.1 49.9
1. Kết quả xử lý bài toán trên SPSS
Model Summary
Change Statistics
Std. Error of the Estimate
Mode l 1
R .635(a)
R Square .404
Adjusted R Square .298
1.0562
R Square Change F Change 3.836
.404
Sig. F Chang e .029
Durbin- Watson 2.715
df1 3
df2 17
a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Model 1
Regression
12.837
3
4.279
3.836
.029(a)
Residual
18.965
17
1.116
Total
31.802
20
a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao
Coefficients
Standardiz ed Coefficients
Unstandardized Coefficients
95% Confidence Interval for B
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Lower Bound
Upper Bound
Correlations Parti al
Zero- order
Part
-12.289 9.770
-1.258
.225
-32.901
8.323
.131
.116
.313
1.131
.274
-.114
.376
.569
.264
.212
Model (Constant) Io LnY LnY2
5.317 3.925 .357 -.467
3.872 -3.769
1.355 -1.309
.193 .208
-2.964 -1.219
13.598 .286
.098 .041
.312 -.303
.254 -.245
a Dependent Variable: Ao 3. Kết quả mô hình
Mô hình có dạng: A0 = -12,289 + 0,131I0 + 5,317LnY – 0,467(LnY)2
4. Nhận xét và kiểm định mô hình
a. Mô hình có ý nghĩa về kinh tế, và cho thấy mối tương quan giữa tăng trưởng
trong nông nghiệp và tăng trưởng trong công nghiệp. Khi giữ các yếu tố khác
không đổi, thì khi công nghiệp tăng trưởng 1% sẽ làm nông nghiệp tăng trưởng
0,131%.
249 b. Tham số của tăng trưởng công nghiệp có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa α
= 15%, lúc đó tham số t của mô hình t = 1,113 > t (α =15%, n=20) = 1,064. Điều này
có thể cho rằng với khoảng tin cậy 85%, tăng trưởng của công nghiệp có ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng của nông nghiệp.
c. R2 = 63,5% chỉ ra sự tăng trưởng của nông nghiệp có thể được giải thích từ sự
tăng trưởng của công nghiệp và chiếm một tỷ lệ đến 63,5% để giải thích cho sự
tăng trưởng của nông nghiệp. Chú ý rằng tham số F = 3,836 > F(3,17; α = 0,05) = 3,2
cho thấy sự tăng trưởng của công nghiệp giải thích đáng kể sự tăng trưởng của
nông nghiệp.
C. MÔ HÌNH TÍNH CHO NỀN KINH TẾ TỈNH QUẢNG NAM
1. Số liệu cụ thể giai đoạn 1997 đến 2010 tại Quảng Nam
LnY Ao Io Y Năm
(LnY)2 24.1 2.9 17.3 135 4.9 1997
2.2 17.0 155 5.0 25.4 1998
2.2 12.9 168 5.1 26.2 1999
2.4 14.5 192 5.3 27.6 2000
3.0 17.0 211 5.3 28.6 2001
3.0 18.0 235 5.5 29.8 2002
4.2 19.4 268 5.6 31.2 2003
3.2 20.2 316 5.8 33.1 2004
2.8 21.3 391 6.0 35.6 2005
3.9 21.6 470 6.2 37.8 2006
2.8 22.1 541 6.3 39.6 2007
0.9 17.7 683 6.5 42.6 2008
0.5 16.1 813 6.7 44.9 2009
1.3 18.0 882 6.8 46.0 2010
250
2. Kết quả xử lý bài toán trên SPSS cho Quảng Nam
Model Summary
Change Statistics
Std. Error of the Estimate
Mode l 1
.5572
R Square Change F Change 11.799
.780
Sig. F Chang e .001
Durbin- Watson 2.605
df1 3
df2 10
R .883(a)
R Square .780
Adjusted R Square .714
a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao
ANOVA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Model 1
Regression
10.991
3
3.664
11.799
.001(a)
Residual
3.105
10
.311
Total
14.096
13
a Predictors: (Constant), LnY2, Io, LnY b Dependent Variable: Ao
Coefficients
Standardized Coefficients
95% Confidence Interval for B
Correlations
Unstandardized Coefficients Std. Error
B
Beta
Zero- order Partial Part
.099
Model (Constant) Io LnY LnY2
-35.701 27.898 .070 9.816 .835
.254 12.870 -1.202
t -1.280 3.649 1.311 -1.440
Sig. .230 .004 .219 .180
.649 7.974 -8.717
Upper Lower Bound Bound -97.862 26.461 .410 -9.002 34.743 .658 -3.062
.461 -.492 -.505
.756 .383 -.414
.542 .195 -.214
a Dependent Variable: Ao 3. Kết quả mô hình
Mô hình có dạng: A0 = -35,701 + 0,254I0 + 12,6701LnY – 1,202(LnY)2
4.. Nhận xét và kiểm định mô hình
a. Mô hình có ý nghĩa về kinh tế, và cho thấy mối tương quan giữa tăng trưởng
trong nông nghiệp và tăng trưởng trong công nghiệp. Khi giữ các yếu tố khác
không đổi, thì khi công nghiệp tăng trưởng 1% sẽ làm nông nghiệp tăng trưởng
0,254%.
b. Tham số của tăng trưởng công nghiệp có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa α
= 5%, lúc đó tham số t của mô hình t = 3,649 > t (α =5%, n=13) = 2,228. Điều này có
thể cho rằng với khoảng tin cậy 95%, tăng trưởng của công nghiệp có ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng của nông nghiệp.
251 c. R2 = 88,3% chỉ ra sự tăng trưởng của nông nghiệp có thể được giải thích từ sự
tăng trưởng của công nghiệp và chiếm một tỷ lệ đến 88,3% để giải thích cho sự
tăng trưởng của nông nghiệp. Chú ý rằng tham số F = 11,799 > F(3,10; α = 0,05) =
3,7 cho thấy sự tăng trưởng của công nghiệp giải thích đáng kể sự tăng trưởng
của nông nghiệp.
252 PHỤ LỤC 3
CÁC BẢN ĐỒ MINH HỌA VỀ QUẢNG NAM
A. Bản đồ vùng ngập mặn dọc biển Quảng Nam và Đà Nẵng
Về mùa khô, khi dòng chảy Vu Gia, Thu Bồn cạn kiệt làm cho khả năng
thâm nhập mặn sâu hơn vào các nhánh sông. Nước mặn thâm nhập sâu vào các
sông như Vĩnh Điện, Bà Rén, Ly Ly gây ra thiếu nước cho sinh hoạt, và đặc biệt
cho thủy lợi và các trạm bơm hoạt động không đủ công suất. Tương lai khi các
thủy điện lưu vực sông Vu Gia Thu Bồn đưa vào khai thác đủ, thì khả năng thiếu
nước cho sinh hoạt và thủy lợi là điều khó tránh khỏi, không chỉ tại Quảng Nam
Nguồn: Strategic Environmental Assessment of the Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin, ADB, Hanoi, 2008, tr. 201 [100].
mà cả vùng Đà Nẵng.
253 B. Bản đồ phân bố không gian lượng mưa hàng năm tại Quảng Nam
Tại Quảng Nam, mùa mưa lũ được xác định từ tháng 10 đến tháng 12, trong
đó tập trung chủ yếu vào tháng 10 và 11. Tổng lượng mưa 3 tháng mùa lũ chiếm
trên 50% tổng lượng mưa năm và được phân bố rất không đều giữa các tháng.
Riêng 2 tháng 10 và 11 chiếm đến 40% đến 45% tổng lượng mưa của năm, đạt
trên 900 mm, vùng thượng nguồn lưu vực sông Thu Bồn đạt trên 1300 mm đến
2000 mm, nơi có lượng mưa lớn nhất là Trà My, đạt 2020 mm. Vùng tây bắc
của tỉnh có lượng mưa nhỏ chỉ 100 mm, nơi nhỏ nhất là Đông Giang (Hiên),
89,6 mm, chiếm 4,1% lượng mưa năm, các nơi khác đều lớn hơn 200 mm.
Nguồn: Đinh Phùng Bảo, Đặc điểm khí hậu, thủy văn tỉnh Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu của Trung Tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2001, tr 71 [12].
254 PHỤ LỤC 4
TỔNG HỢP KẾT QUẢ
NỘI DUNG
CÂU HỎI
Tổng
Phú Ninh
Thăng Bình
Đại Lộc
Trà My
1. TỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA NÔNG DÂN VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TẠI TỈNH QUẢNG NAM
Câu 1 Chính sách thành công?
227
215 197 160
799
Dồn điền đổi thửa
1
1
48
0
49
Kinh tế vườn, KTTT, cải tạo vườn tạp
2
19
4
18
2
43
Phòng chống dịch bệnh, thiên tai
3
4
14
5
1
24
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
4
101
25
59
83
268
Cho vay vốn sản xuất
5
40
25
13
16
94
Xóa đói giảm nghèo
6
26
27
14
34
101
Cho vay vốn HS-SV
7
10
14
8
32
Xây dựng hạ tầng NT (đường BT, điện, trường học,…
8
57
75
49
32
213
Kiên cố hóa kênh mương
9
11
2
12
25
50
Đầu tư nông nghiệp nông thôn
10
4
2
6
Đất đai, giao đất giao rừng
11
19
1
2
22
12 Miễn thủy lợi phí
9
1
1
11
Nuôi trồng thủy sản
13
0
1
1
Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch
14
2
12
2
16
Khôi phục làng nghề truyền thống
15
0
Giải quyết việc làm
16
1
1
Bảo vệ môi trường nông thôn
17
10
10
Chăm sóc sức khỏe dân cư
18
3
3
Tiêu thụ sản phẩm
19
3
3
Quan tâm xã đặc biệt khóa khăn, bãi ngang
20
1
13
14
Hỗ trợ người cao tuổi
21
1
4
2
7
Câu 2 Chính sách không thành công?
Dồn điền đổi thửa
1
10
2
12
Kinh tế vườn, KTTT, cải tạo vườn tạp
2
4
6
3
13
Phòng chống dịch bệnh, thiên tai
3
7
2
7
31
47
255 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
69
29
56
33
187
4
Cho vay vốn sản xuất
4
11
1
10
26
5
Xóa đói giảm nghèo
14
10
8
2
34
6
Cho vay vốn HS-SV
17
17
7
Xây dựng hạ tầng NT (đường BT, điện, trường học,…
46
10
21
77
8
Kiên cố hóa kênh mương
3
2
2
7
9
Đầu tư nông nghiệp nông thôn
0
10
Đất đai, giao đất giao rừng
9
2
6
18
1
11
12 Miễn thủy lợi phí
2
2
Nuôi trồng thủy sản
0
13
Xây dựng CT vệ sinh, nước sạch
2
1
4
7
14
Khôi phục làng nghề truyền thống
2
14
16
15
Giải quyết việc làm
4
26
11
41
16
Bảo vệ môi trường nông thôn
20
8
11
39
17
Chăm sóc sức khỏe dân cư
4
21
14
39
18
Tiêu thụ sản phẩm
19
14
23
5
61
19
Quan tâm xã đặc biệt khóa khăn, bãi ngang
2
2
20
Hỗ trợ người cao tuổi
3
3
21
Câu 3 Chính sách tác động nhiều nhất đối với nông dân?
Đất đai
3
17
42
54
116
1
Đường bê tông nông thôn
33
36
51 155
275
2
Ưu tiên người nghèo
17
38
41 155
251
3
Hỗ trợ tín dụng lãi suất
21
37
29 145
232
4
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
3
3
8
8
22
5
Miễn thủy lợi phí, thuế nông nghiệp
4
1
5
6
Chính sách khác
27
2
31
60
7
Không ý kiến
112
89
201
8
Câu 4 Nông dân vay vốn từ đâu?
Ngân hàng chính sách
67
59
65
67
258
1
Ngân hàng NN & PTNT
21
53
11
46
131
2
Nguồn khác
18
9
1
28
3
Chưa vay
19
30
40
89
4
256
5
Không ý kiến
112
89
201
Câu 5 Nhà nước nên trợ giúp nông dân những gì?
20
25
26
94
165
1
Tiêu thụ hàng hóa, tạo đầu ra cho sản phẩm
2
Hỗ trợ vốn sản xuất với lãi suất thấp
46
57
86
189
Phòng chống dịch bệnh, thiên tai
12
83
9
104
Hỗ trợ giống cây trồng
30
14
19
26
89
Hỗ trợ kỹ thuật sản xuất
46
25
28
99
Hỗ trợ tư liệu sản xuất
4
53
61
0
118
Xây dựng nhà máy chế biến nông sản
2
7
12
0
21
Cho vay vốn HSSV
12
2
12
1
27
Quan tâm đến xã ĐB khó khăn, bãi ngang
4
0
73
1
78
Làm đường bê tông nông thôn
13
21
2
36
Cho vay xóa đói giảm nghèo
14
21
2
37
Tạo việc làm cho dân cư
0
Câu 6 Đề nghị của nông dân
Giải quyết việc làm cho dân
14
27
9
19
69
Cho vay vốn HSSV
3
34
5
42
Cho vay vốn sản xuất kinh doanh
30
22
33
17
102
Xóa đói giảm nghèo
14
10
4
8
36
Làm đường bê tông nông thôn
14
12
45
8
79
Bảo vệ môi trường nông thôn
6
13
3
22
Chăm sóc sức khỏe dân cư
7
23
13
14
57
Đầu tư tín dụng
2
7
5
14
Phòng chống dịch bệnh, thiên tai
6
8
8
16
38
Giao đất giao rừng
5
5
1
11
Quan tâm gia đình chính sách, nghèo
2
2
6
10
Khảo sát thực tiễn khi ban hành chính sách
4
21
1
12
38
Tạo đầu ra cho sản phẩm
30
0
8
19
57
Khôi phục làng nghề truyền thống
2
12
0
14
Hỗ trợ giống cây trồng
10
19
9
38
Phổ biến kỹ thuật sản xuất
3
12
12
27
Không đề nghị
99
58
123
280
257
TỔNG HỢP KẾT QUẢ
NỘI DUNG
CÂU HỎI
Tổng
Phú Ninh
Thăng Bình
Đại Lộc
Trà My
2. TỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA NÔNG DÂN VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TẠI TỈNH QUẢNG NAM
Câu 1 Nguyên nhân dẫn đến chính sách thành công?
Nông dân chấp nhận
216
196
169 134
715
1
Đưa lại lợi ích quyền lợi cho nông dân
224
202
193 156
775
2
Đưa lại lợi ích cho nhà nước, tỉnh, huyện
16
85
23
22
146
3
Đưa lại lợi ích cho nhà đầu tư
16
38
18
18
90
4
Ít gây hậu quả xấu đới với nông thôn
8
82
30
10
130
5
Có ý tưởng ban hành chính sách đúng
16
97
33
56
202
6
Trước khi ban hành có khảo sát thực tiễn
19
83
24
24
150
7
Nội dung chính sách đúng rõ ràng
19
72
16
15
122
8
Tạo đủ nguồn lực để thực hiện chính sách
27
103
24
30
184
9
Ban hành chính sách không sớm không muộn
25
93
28
16
162
10
Phân công trách nhiệm chỉ đạo rõ ràng
4
65
17
11
97
11
Phổ biến kịp thời chính sách đến với nông dân
7
74
41
13
135
12
Được cán bộ đồng tình thực hiện đúng
11
59
28
11
109
13
Được nông dân đồng tình thực hiện tốt
182
159
189 136
666
14
Có sơ kết tháo gỡ vướng mắc
11
24
17
11
63
15
Câu 2 Nguyên nhân dẫn đến chính sách không thành công?
Chính sách không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
32
157
33
45
267
Qui trình chính sách không phù hợp
69
3
72
Nội dung chính sách không phù hợp
37
37
Không phổ biến tường tận đến người dân
19
48
22
23
112
Không thỏa mãn lợi ích của các nhóm xã hội liên quan
30
29
64
38
161
Thiếu nguồn lực để thực thi chính sách
54
122
43
70
289
9
66
Nguyên nhân khác
11
22
24
258
Câu 3 Biết chính sách nông nghiệp, nông thôn qua đâu?
Cán bộ địa phương trực tiếp phổ biến
117
167 135
205
624
Qua loa, đài truyền thanh xã, huyện
130
120
63
62
375
Qua đài truyền hình
21
122
34
13
190
Qua văn bản do chính quyền gửi đến
2
66
17
85
Qua dọc, tìm hiểu ở trạm văn hóa xã
4
49
12
6
71
Câu 4 Mức độ hiểu biết về chính sách nông nghiệp, nông thôn?
Được đọc nguyên văn
3
68
10
8
89
Được phổ biến nội dung tóm tắt
44
138
40
27
249
Được phổ biến và giải thích kỹ càng
57
153
68
45
323
Được phổ biến những không giải thích
54
94
46
33
227
Được phổ biến chiếu lệ
12
55
8
33
108
Được phổ biến những không giải đáp thắc mắc
35
35
68
215
77
Không được phổ biến, tự tìm hiểu
28
28
Cán bộ truyền đạt sai
10
10
Câu 5 Những chính sách tác động đến nông dân?
Hỗ trợ lãi suất tín dụng
195
144
121 108
568
Bê tông hóa giao thông nông thôn
185
149
80 115
529
Ưu tiên người nghèo
34
144
42
65
285
Đất đai
31
103
36
22
192
Chính sách khác
3
23
16
12
54
Câu 6 Việc triển khai chính sách được thực hiện như thế nào?
Công khai minh bạch
152
171
75 109
507
Không công khai, không minh bạch
105
34
25
51
215
Câu 7 Hiệu quả của các chính sách?
Trồng rừng phòng hộ
23
70
58
151
Xã đặc biệt khó khăn
19
135
70
224
Giao thông NT, kiên cố hóa kênh mương
127
140
112
68
447
Kinh tế vườn, kinh tế TT
17
73
26
56
172
Phát triển chăn nuôi bò
15
77
71
56
219
Dồn điền đổi thửa
13
88
138
239
Các chương trình khuyến nông của tỉnh
18
63
11
12
104
259
Câu 8 Các khó khăn, trở lực trong sản xuất, kinh doanh?
Nhu cầu vốn sản xuất
174
144
111
94
523
Thị trường tiêu thụ
124
107
30
325
64
Tư liệu sản xuất
8
116
80
14
14
Cách phòng chống dịch bệnh
29
140
83
9
19
Khuyến nông, kỹ thuật sản xuất
19
186
58
37
72
Khó khăn khác
8
48
23
10
7
Câu 9 Nhà nước nên ưu tiên thực hiện chính sách nào?
20
306
150
74
62
Chính sách thị trường, tiêu thụ hàng hóa
16
170
82
45
27
Chính sách đất đai
32
190
102
21
35
Chính sách tạo việc làm
99
83
11
5
Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn: Nguyễn Cảnh, Hoàn thiện qui trình chính sách công nhằm xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2010 [13].
260 PHỤ LỤC 5
CÁC LÀNG NGHỀ TẠI QUẢNG NAM
Tên dự án
Địa điểm
Mục tiêu
Ghi chú
Huyện, thị, thành phố
Bảo tồn, phát triển làng nghề
Thời gian thực hiện
Tổng mức đầu tư 3
1
Làng nghề chiếu chẻ Triêm Tây
Xã Điện Phương
2008- 2015
3
1
Làng nghề dệt Nông Sơn
Xã Điện Phước
2008- 2015
1
Làng nghề mây, tre An Thanh
Xã Điện Thắng Nam
2008- 2015
Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống
Huyện Điện Bàn
Phát triển làng nghề gắn với du lịch
11
10
2
1
Làng nghề đúc nhôm đồng Phước Kiều Làng nghề bê thui cầu Mống Phát triển nghề mới
2008- 2015 2008- 2015
2
1
2
Làng nghề sản xuất hàng tre
2008- 2015
Xã Điện Phương Xã Điện Phương Thôn Câu Nhi Đông - xã Điện An
Bảo tồn, phát triển làng nghề
42
Bánh tráng
3
Khu 3, 4 - Thị trấn Ái Nghĩa
2008- 2015
Mây tre đan
4,5
2008- 2015
Trung An - Thị trấn Ái Nghĩa
11
9
Huyện Đại Lộc
Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa - vải
4 thôn xã Đại Nghĩa
2008- 2015
Mây tre đan
2
2008- 2015
Đông Lâm, Mỹ An - Đại Quang
Bánh tráng
2,5
Hà Nha - Đại Đồng
2008- 2015
Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống
Bánh tráng
2
2008- 2015
Bánh tráng
2
2008- 2015
261 Tịnh Đông Tây - Đại Lãnh Đông Gia, Phú Mỹ - Đại Minh
Mây tre đan
4
Ngọc Thạch - Đại Hưng
2008- 2015
Xã Đại Hồng
5
Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
2008- 2015
Làm chổi đót
3
2008- 2015
Minh Tân, Mỹ Tây - Đại Phong
Mây tre đan
5
Xuân Nam - Đại Thắng
2008- 2015
38
16
Phát triển gắn với du lịch Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
Làm hương Phú Lộc
6
5
Trống Lâm Yên
6
5
Điêu khắc Đá mỹ nghệ
Trồng hoa cây cảnh
5
9 thôn xã Đại Hoà Phú Lộc - Đại Hoà Ấp Nam - Đại Minh Thạnh Trung - Đại Chánh Khu 8 - Thị trấn Ái Nghĩa
Phát triển làng nghề mới
2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015 2008- 2015
29
Đan lưới nuôi trai
2
Quảng Huế - Đại Hoà
2008- 2015
Đan lưới xuất khẩu
2
Khu 3 - Thị trấn Ái Nghĩa
2008- 2015
13
Làng Rau sạch
2
2008- 2015
Nghĩa Nam - Thị trấn Ái Nghĩa
Mây tre lá
2
Đức Hoà - Đại Nghĩa
2008- 2015
Mây tre đan
2
Hà Thanh, Bàn Tân - Đại
2008- 2015
Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Điểm du lịch làng nghề Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn,
262
Đồng
tăng thu nhập
Mây tre đan
2
Thôn 14 - Đại Lãnh
2008- 2015
Mây tre đan
2
2008- 2015
Đông Gia, Phú Mỹ - Đại Minh
Mây tre đan
2
Hội Khách - Đại Sơn
2008- 2015
Mây tre đan
2
Hoà Hữu - Đại Hồng
2008- 2015
Mây tre đan
2
2008- 2015
Phú Phước, Mỹ Tây - Đại Phong
Mây tre đan
2
Tập Phước - Đại Chánh
2008- 2015
Mây tre đan
2
Thanh Vân - Đại Cường
2008- 2015
Dệt lụa - vải
5
Khu trung tâm xã Đại Cường
2008- 2015
Bảo tồn, phát triển làng nghề
5
Nước mắm
Tam Tiến
4
2008- 2015
2
1
Mây, tre lá Núi Thành
Thị trấn, Tam Hiệp
2008- 2015
Huyện Núi Thành
Phát triển nghề mới
6
Tráng bánh tráng
Tam Hiệp
1
2008- 2015
3
Mây tre
Tam Hiệp
2
2008- 2015
Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Giải quyết nông nhàn, tăng thu nhập Khôi phục làng nghề truyền thống nâng cao mức sống của người dân Khôi phục làng nghề truyền thống nâng cao mức sống của người dân Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ
263
Mộc
3
Thị trấn, Tam Hiệp
2008- 2015
Phát triển làng nghề gắn du lịch
16
Làng mộc Kim Bồng Xã Cẩm Kim
8
2008- 2015
2
Thị xã Hội An
6
Làng nghề gốm Thanh Hà
Phường Thanh Hà
2008- 2015
Làng rau Trà Quế
Xã Cẩm Hà
2
2008- 2015
Bảo tồn, phát triển làng nghề
9
4
Làng nghề chế biến bún Phương Hoà
Phường Phương Hoà
2008- 2015
3
Xã Tam Phú
3
TP Tam Kỳ
Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Tân Phú
2008- 2015
2
2008- 2015
Làng nghề chế biến trà hương tam Kỳ
P. Hoà Hương, Phước Hoà, An Sơn
Giải quyết việc làm phát triển kinh tế hộ Bảo tồn làng nghề có giá trị về mặt lịch sử và kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập Bảo tồn làng nghề có giá trị về mặt lịch sử và kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập Góp phần đa dạng hoá loại hình du lịch, tăng thu nhập Bảo tồn nghề truyền thống, nâng cao năng suất, đa dạng sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế địa phương Bảo tồn nghề TT, giải quyết việc làm Bảo tồn nghề TT, nâng cao nặng lực cạnh tranh, góp phần phát triển kinh tế địa phương
Phát triển làng nghề gắn với du lịch
4
1
264
4
2008- 2015
Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân
Thôn Thạch tân, Xã Tam Thăng
Phát triển nghề mới
1
1
1
Xã Tam Ngọc, Nam Kỳ
2008- 2015
Làng nghề tranh tre mỹ nghệ, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác
Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, phát triển bền vững và bảo tồn giá trị văn hoá TT Phát triển thành sản phẩm đặc trưng của thành phố và gắn với du lịch sinh thái làng quê Tam Ngọc
7
Bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch
Xã Tam Vinh
5
Làng nghề đan lát tam Vinh
2008- 2015
2
Huyện Phú Ninh
Làng mộc Vân Hà
2
Vân hà, xã Tam Thành
2008- 2015
Bảo tồn, phát triển làng nghề
5
Nghề chổi đốt
1
Xã Quế Xuân 1
2008- 2015
Nghề mây tre đan
Xã Quế Phú
1
2008- 2015
4
Huyện Quế Sơn
Nghề phở sắn
2
Thị trấn Đông Phú
2008- 2015
Mở rộng, phát triển ngành nghề truyền thống, kết hợp với phụ vụ du lịch Khôi phục nghề truyền thống bị mai một Mở rộng phát triển nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Mở rộng phát triển nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Đầu tư hỗ trợ chuyển giao công nghệ, phát triển vùng nguyên liệu, góp phần giải quyết lao động nông nhàn
265
Nghề bánh Tráng
Xã Quế Trung
1
2008- 2015
Phát triển làng nghề gắn với du lịch
3
1
Mỹ nghệ trầm hương Xã Quế Trung
3
2008- 2015
Bảo tồn, phát triển làng nghề
19
15
xã Duy Trinh
Làng nghề dệt vải Thi Lai - Phú Bông
2008- 2015
2
Xã Duy Hải
4
2008- 2015
Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường Phát triển làng nghề gắn với du lịch
22
Duy Trinh
10
Làng nghề dâu tằm, tơ lụa Đông Yên
2008- 2015
2
Huyện Duy Xuyên
12
Làng nghề dệt vải Mã Châu
TT Nam Phước
2008- 2015
Bảo tồn nghề TT, phát triển kinh tế địa phương Phát triển nghề gắn với du lịch Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, nhằm phát triển bền vững và bảo tồn giá trị văn hoá TT Phát triển làng nghề gắn với du lịch văn hoá - lịch sử, nhằm phát triển bền vững và bảo tồn gia strị văn hoá TT
Phát triển Làng nghề mới
5
2008- 2015
Duy Thu
1
Làng nghề đan tre Thạnh Xuyên
2008- 2015
4
1
Duy Thu
Làng nghề đan mây tre Tĩnh Yên
2008- 2015
Duy Tân
1
Làng nghề đan mây tre Phú Nhuận
2008- 2015
Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm Phát triển nghề, giải quyết việc làm
Làng nghề chế biến,
Duy Nghĩa
2008- Phát triển nghề,
2
266
2015 giải quyết việc
bảo quản thuỷ sản Thuận Ân Bảo tồn, phát triển làng nghề
20,5
6,5
TT Hà Lam
Làng nghề hương Quán Hương
2008- 2015
Làng nghề đan tre
2
Bình Phụng, Bình Quế
2008- 2015
5
8
Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe
Thôn6, Bình Dương
2008- 2015
Huyện Thăng Bình
Làng nghề bánh tráng
2
Thị trấn hà Lam
2008- 2015
Bình Quế
2
Làng nghề đan tre Bình Quế
2008- 2015
làm Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống
Phát triển làng nghề gắn với du lịch
7
1
TT Hà Lam
7
Làng nghề làm hương Quán Hương
2008- 2015
Điểm du lịch làng nghề
Bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với du lịch
10
5
2008- 2015
Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Ðhơ- Rồng
xã Tà Lu, huyện Ðông Giang
2
Huyện miền núi
5
2008- 2015
Làng nghề dệt thổ cẩm Zara
xã Tabhing, huyện Nam Giang
Phát huy bản sắc văn hoá Cơtu gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế địa phương Phát huy bản sắc văn hoá Cơtu gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế địa phương
Nguồn: Đề án bảo tồn làng nghề Quảng Nam giai đoạn 2008-2015 và định hướng đến 2020, Sở Công Thương Quảng Nam, Tam Kỳ, 2008 [22].
267 PHỤ LỤC 6
Công suất (MW)
TT
Các nhà máy
Chiều cao đập (m)
Vốn đầu tư (tỷ đồng)
Bể chứa (triệu m3)
Sản lượng (triệu kWh/năm)
Dự kiến Thiết kế
CÔNG TRÌNH MỚI 2.645,90 1.287,60 1.497,30 1.391,60
6.019,26 9.178,72
HỆ THỐNG BẬC THANG THỦY ĐIỆN VU GIA THU BỒN
Sông Vu Gia
1.773,62
829,55 1.088,10
956,80
4.267,49
1 A Vương
266,50
99,00
210,00
210,00
808,00 4.165,00
2 Sông Côn 2
210,90
56,50
60,00
57,00
249,00 1.050,00
4 Dak Mi 4
278,90
105,00
210,00
180,00
787,00 4.150,05
Tr' Hy Tây Giang
5
7,22
18,00
25,00
25,00
100,00
360,00
6 Sông Bung 2
101,80
97,00
100,00
100,00
440,10 2.473,80
7 Sông Bung 3
182,00
34,55
16,00
16,00
57,38
315,00
8 Sông Bung 3A
6,50
50,00
21,00
21,00
62,62
303,74
9 Sông Bung 4
493,30
109,50
165,00
156,00
623,80 4.011,80
10 Sông Bung 4A
11,90
35,00
15,00
62,62
303,74
15,00
11 Sông Bung 5
19,80
37,00
60,00
268,90 1.305,90
85,00
12 Sông Bung 6
20,50
268,90 1.305,94
60,00
13 Dâk Pring 1
2,56
18,00
6,30
37,28
128,82
7,50
14 Dâk Pring 2
5,40
15 Chà Vàl
0,34
11,50
4,50
4,50
22,81
79,94
16 Nước Chè
170,00
18,40
45,00
14,00
72,00
300,00
18,00
1,10
31,00
17 Za Hung
18,00
78,00
358,38
15,90
0,30
18 An Điềm 2
15,60
78,27
268,26
0,60
5,00
19 Đại Đồng
0,60
3,12
13,36
1,60
5,00
20 Sông Cùng
1,60
8,10
21,43
6,50
12,00
21 Sông Giằng 1
13,50
32,26
111,22
18,00
26,50
22 Sông Giằng 2
18,00
89,41
242,36
7,00
22,00
23 Sông Giằng 3
7,00
33,69
126,60
5,00
24 Sông Giằng 4
5,00
22,81
79,94
268
25 Pà Dồn
3,00
3,00
14,04
52,24
26 MR Teh
1,50
1,50
6,15
27,80
27 Dak Se
12,00
2,50
2,50
12,55
52,57
28 A Vương 2
3,50
3,50
17,65
74,21
29 A Re
2,20
2,20
11,03
45,65
Sông Thu Bồn
872,28
458,05
409,20
434,80
1.751,77 9.178,72
1 Sông Tranh 2
462,40
92,00
130,00
190,00
618,10 4.150,40
26,15
32,50
2 Khe Diên
9,00
9,00
42,30
140,40
3 Trà Linh 3
8,00
6,00
6,00
30,09
124,95
4 Trà Linh 1
8,00
3,20
3,20
15,98
58,09
5 Trà Linh 2
8,00
11,00
11,00
54,88
180,44
6 DaK Di 1
22,00
95,00
11,00
11,00
45,67
187,65
7 DaK Di 2
35,00
126,00
12,00
12,00
49,20
190,66
8 DaK Di 4
12,00
9,00
9,00
45,70
168,49
9 Sông Tranh 1
29,60
25,00
20,00
103,00
488,00
60,00
10 Nước Lah
1,70
1,70
8,49
31,94
11 Nước Biêu
12,50
3,50
3,50
16,70
56,47
12 Phước Hiệp
2,20
2,20
10,86
35,91
13 Nước Ta
3,60
3,60
15,50
60,00
14 Sông Tranh 3
31,60
78,50
49,00
49,00
203,40
962,90
15 Sông Tranh 4
34,60
53,00
42,00
42,00
174,70
934,10
16 Sông Tranh 5
66,93
32,00
49,00
201,60 1.175,00
17 Mroong
18 Hr nuh
19 R la
9,00
20 Pa Oi ( Laê ê)
4,55
42,00
36,00
174,68
21 Z' Lao
3,00
11,60
58,65
22 Sông Bui
2,20
10,00
23 Nước Nát
2,00
9,00
24 Trà Leng 1
3,00
17,00
25 Trà Leng 2
5,00
27,00
269
26 Nước Oa 3
1,20
5,00
27 Bồng Miêu
3,00
28 Tiên An
3,00
29 Suối Ô
3,00
30 Suối Tươm
1,20
31 Dak Mi 4C
26,00
Các thủy điện đang hoạt động
350,00
33,16
139,65
7,90
25,00
1 Duy Sơn 2
1,00
2 Nước Oa
2,25
3 Hồ Phú Ninh
350,00
33,00
2,50
1,60
4 Cà Đập
0,20
5 Dak Sa
0,60
6 An Điêm 1
0,16
134,00
5,40
25,00
TỔNG
6.027,16 9.203,72
2.645,90 1.637,60 1.530,46 1.531,25 Nguồn: Strategic Environmental Assessment of the Quang Nam Province Hydropower Plan for the Vu Gia-Thu Bon River Basin, ADB, Hanoi, 2008, tr. 195 [100].
270 PHỤ LỤC 7
DỰ KIẾN QUY HOẠCH CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Stt Khu, Cụm công nghiệp
Địa điểm
Diện tích (ha)
Ghi chú
A Khu công nghiệp
1.013
1
Khu CN Tam Hiệp
80
Huyện Núi Thành
2
Khu CN bắc Chu Lai
290
Huyện Núi Thành
3
Khu CN Thuận Yên
Thị xã Tam kỳ
225
4
Huyện Điện bàn
418
Khu CN Điện Nam-Điện Ngọc
B Cụm công nghiệp
3.123,5
I
Thị xã Tam Kỳ
1
15
Cụm CN-TCCN Trường Xuân
Tổ 1 và 2, P.Trường Xuân
2
16
Cụm CN-TCCN P.An Phú
Thôn 8, P.An Phú
3
18
Cụm CN-TCCN P.An Sơn
Khối 8, phường An Sơn
4
10
Cụm CN-TCCN Trung tâm phường An Phú
Thôn 6, phường An Phú
5
10
Cụm CN-TCCN P.Tân Thạnh
Tổ 14 phường Tân Thạnh
6
10
Cụm CN-TCCN P.Hòa Hương
Tổ 12 phường Hòa Hương
10
7
Cụm CN-TCCN xã Tam Dân
Thôn Công thương, xã Tam Dân
II Huyện Quế Sơn
8
Cụm CN khu Dốc Đỏ
30
Thị trấn Đông Phú
9
10
Cụm CN khu Đồng Hùng – Cấm Dơi
Thị trấn Đông Phú
271 Xã Quế Cường
10 Cụm CN Quế Cường
30
11 Cụm CN Mộc Bài
Xã Quế Phú
30
12 Cụm CN Bà Rén
Xã Quế xuân
60
13 Cụm CN Núi Đất
Xã Quế xuân
10
14 Cụm CN Trung Hạ
Xã Quế Trung
25
15 Cụm CN Chợ Đàn
Xã Quế Châu
35
16 Cụm CN Quế Phước
Xã Quế Phước
26
17 Cụm CN Gò Đông
Xã Quế Thuận
10
18 Cụm CN Gò Ông May
20
Thôn 6 Xã Quế Thuận
19 Cụm CN Gò Mã Súng
10
Thôn 4 Xã Quế Phong
20 Cụm CN Nà Ban
10
Thôn 6 Xã Quế phong
21 Cụm CN phước Bình
Xã Quế Lộc
5
22 Cụm CN Gò Láng
Xã Quế Hiệp
5
23 Cụm CN Rừng Đình
Xã Quế An
13
24 Cụm CN Rừng Ông Nạc Xã Quế An
20
25 Cụm CN An Xuân
Xã Phú Thọ
15
III Huyện Hiệp Đức
26 Cụm CN Tân An
TT Tân An
5
27 Cụm CN Việt An
Xã Bình Lâm
3
28 Cụm CN Sông Trà
Xã Sông Trà
1,7
29 Cụm CN bà Huỳnh
Xã Sông Trà
10
30 Cụm CN Mò O
Xã Sông Trà
31 Cụm CN An Tráng
Xã Bình Sơn
5
IV Huyện Điện Bàn
32 Cụm CN Vĩnh Điện
TT Vĩnh Điện
3
33 Cụm CN Điện An
Xã Điện An
8
34 Cụm CN Điện Minh
Xã Điện Minh
3
35 Cụm CN Điện Phương
Xã Điện Phương
5
36 Cụm CN Điện Nam
Xã Điện Nam
20,5
272 Xã Điện Ngọc
37 Cụm CN Điện Ngọc
12
38 Cụm CN Điện Dương
Xã Điện Dương
20
39 Cụm CN Điện Thắng
Xã Điện Thắng
105,7
40 Cụm CN Điện Hòa
Xã Điện Hòa
16,9
41 Cụm CN Điện Tiến
Xã Điện Tiến
80
42 Cụm CN Điện Phước
Xã Điện Phước
6,5
43 Cụm CN Điện Thọ
Xã Điện Thọ
9
44 Cụm CN Điện Hồng
Xã Điện Hồng
9
45 Cụm CN Điện Quang
Xã Điện Quang
7,6
46 Cụm CN Điện Trung
Xã Điện Trung
6,8
47 Cụm CN Điện Phong
Xã Điện Phong
24,6
V Huyện Thăng Bình
48 Cụm CN Bắc Hà Lam
Xã Bình Nguyên
250
49 Cụm CN Nam Hà Lam
TT Hà Lam
100
140
50 Cụm CN Bình Phục-Bình
Triều
Tất Viên-Chợ Được, xã Bình Phục-Bình Triều
375
51 Cụm CN đường thanh niên ven biển
Xã bình Minh, Bình Dương, Bình Nam
52 Cụm CN Bình Trung –
150
Bình An
Kế Xuyên-Quán Gò
53 Cụm CN Vinh Huy
Xã Bình Trị
230
54 Cụm CN ngã 3 Bình Quý
Xã Bình Quý
100
– Gò Dài
55 Cụm CN Hà Châu
Xã Bình Phú
88
VI Huyện Hiên
56 Cụm CN Prao
2
TT Prao, huyện Hiên
57 Cụm CN và làng nghề
1,2
Azứt
Xã Bhalêê, huyện Hiên
58 Cụm CN sông Vàng
5
Xã Ba, huyện Hiên
59 Cụm CN A Vờ
7
273 Xã Mà Cooih, huyện Hiên
60 Cụm CN và làng nghề A
4
Tiêng
Xã A Tiêng, huyện Hiên
61 Cụm CN A san
4
Xã A Xan, huyện Hiên
VII Huyện Tiên Phước
62 Cụm CN phía tây thị trấn
10
Tiên Kỳ
Xã Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước
5
63 Cụm CN Đông Nam TT
Tiên Kỳ
TT Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước
64 Cụm CN dịch vụ nội thị
2
TT Tiên Kỳ
TT Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước
5
65 Cụm CN trung tâm cụm
xã Tiên Lãnh
Xã Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước
5
66 Cụm CN trung tâm cụm
xã Tiên Cảnh
Xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước
5
67 Cụm CN xã Tiên Sơn
Xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước
5
68 Cụm CN Tiên Thọ
Xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước
10
69 Cụm CN Tiên Hiệp
Xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước
VIII Huyện Đại Lộc
70 Cụm CN TT Ái Nghĩa
TT Ái Nghĩa
34
71 Cụm CN xã Đại Hiệp
Xã Đại Hiệp
5
72 Cụm CN xã Đại Đồng
Xã Đại Đồng
20
73 Cụm CN xã Đại Nghĩa
Xã Đại Nghĩa
15
IX Huyện Duy Xuyên
74 Cụm CN Tây An
70
274 Xã Duy Trung, Duy Xuyên
270
75 Cụm CN –TTCN, làng nghề Mã Châu
TT Nam Phước, Duy Xuyên
76 Cụm CN –TTCN, làng
155
nghề Thi Lai-Đông Yên
Xã Duy Trinh, Duy Xuyên
77 Cum TTCN, làng nghề
100
Bàn Thạch
Xã Duy Vinh, Duy Xuyên
78 Cụm CN –TTCN, làng
20
nghề La Tháp
Xã Duy Hòa, Duy Xuyên
79 Cụm CN , làng nghề An
20
Lương
Xã Duy Hải, Duy Xuyên
80 Cum TTCN Duy Phước Xã Duy Phước,
20
Duy Xuyên
X Huyện Núi Thành
TT Núi Thành
7
81 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề khối 7
14
Xã Tam Hiệp, Núi Thành
82 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề thôn 7 Tam Hiệp
83 Trung tâm làng nghề sửa
4
chữa tàu thuyền
Xã Tam Quang, Núi Thành
30
84 Làng nghề làm muối Khương Đại
Xã Tam Hiệp, Núi Thành
85 Cụm TTCN và Trung
12
tâm làng nghề Tịch Tây
Xã Tam Nghĩa, Núi Thành
86 Cụm TTCN và Trung
4
tâm làng nghề An Thiện
Xã Tam Nghĩa, Núi Thành
11
87 Cụm TTCN và Trung tâm làng nghề Lý Trà
Xã Tam Anh, Núi Thành
Nguồn: Đề án phát triển Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp theo hướng tăng mạnh sản xuất công nghiệp và dịch vụ, UBND tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ, 2003, tr.42 [23].
275