BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
-----(cid:91)(cid:92)(cid:9)(cid:91)(cid:92)-----
TRẦN THỊ THANH GIANG
PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM -----(cid:61594)(cid:61595)(cid:61478)(cid:61594)(cid:61595)-----
TRẦN THỊ THANH GIANG
PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. PHAN HIỂN MINH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2010
LỜI CAM ĐOAN ----o0o----
Tôi xin cam đoan số liệu trong bài viết này đã được tôi thu thập và tổng hợp
từ những nguồn thong tin tin cậy. Do đó, số liệu đảm bảo đ ược tính chính xác và
trung thực.
Tôi xin cam đoan Lu ận văn “PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO
HIỂM TẠI VIỆT NAM” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học,
độc lập và làm việc với tinh thần nghiêm túc của bản thân tôi, tôi không sao chép
nguyên bản của bất kỳ luận văn hay t ài liệu nào.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010
Ngư ời thực hiện luận văn
Tr ần Thị Thanh Giang
Đ ại học Kinh tế TP.HCM
MỤC LỤC
(cid:61607) DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
(cid:61607) DANH MỤC BẢNG BIỂU
(cid:61607) LỜI MỞ ĐẦU
(cid:61607) NỘI DUNG
Trang
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM………………………1 1.1. Khái niệm……………………………………………………………………………. 1
1.2. Các thành phần của quỹ đầu tư mạo hiểm………………………………… ……...2
1.3. Phân loại quỹ đầu tư mạo hiểm…………………………………… ……………….3
1.3.1. Dựa vào nguồn huy động vốn……………………………………….…....…......3
1.3.2. Dựa vào cách thức huy động vốn…………………………………… .…...…......5
1.3.3.Dựa vào cơ cấu tổ chức……………………….……………………………….…5
1.4.Đặc điểm hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm…………………………….………7
1.5.Quy trình hoạt động - các giai đoạn của quỹ đầu tư mạo hiểm………….………10
1.5.1. Giai đoạn hình thành quỹ………………………………………………………10
1.5.2. Giai đoạn gọi vốn………………………………………………………………10
1.5.3. Giai đoạn đầu tư………………………………………………………………..10
1.5.4. Giai đoạn tăng cao giá trị………………………………………………… ……11
1.5.5. Giai đoạn thoát vốn…………………………………………………………….11
1.6.Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm……………………………………….. …….…..12
1.6.1.Đối với sự phát triển kinh tế ………………………………………… …...…....12
1.6.2.Đối với sự phát triển của doanh nghi ệp…………………………………......….12
1.6.3.Đối với sự phát triển của thị trường tài chính……………………………….….14
1.7.Kinh nghiệm các nước đối với sự ra đời và phát triển của hoạt động vốn
đầu tư mạo hiểm trên thế giới - bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam……………15
1.7.1. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại các nước phát triển………………..……..15
1.7.1.1. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Mỹ…………………………….…….15
1.7.1.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Nhật……………………..………..…18
1.7.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại các nước đang phát triển………......….…22
1.7.2.1. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc…………………………. 22
1.7.2.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Đài Loan……………………..……...25
1.7.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…………………….…………………..….26
1.7.3.1. Về phía thị trường……………………….…………………..………..........26
1.7.3.2. Về phía chính phủ………………………………...…………................…..27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………………... ……….28
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ
MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM ……………………………………………...……..…..30
2.1.Khái quát tình hình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm qua các giai đoạn
phát triển tại Việt Nam …………………………………………...……………………30
2.1.1. Giai đoạn trước 2002…………………………………………… .…….…....…30
2.1.2. Giai đoạn từ 2002 đến 2006……………………………………….………..…35
2.1.3. Giai đoạn sau 2007 đến nay………………………………………… .…….….37
2.2.Đánh giá nguồn vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam…………………………….....43
2.2.1.Đối tượng phạm vi đầu tư………………………………. ……………………...43
2.2.2.Lĩnh vực đầu tư………………………………………………. ……………..….44
2.2.3.Hình thức đầu tư………………………………………………. ………….....…44
2.2.4.Hiệu quả đầu tư…………………………………. ………………………….…..45
2.2.5.Nguồn vốn huy động………………………………………………. …………...45
2.2.6.Khung pháp lý……………………………………………………. ………...…..45
2.2.7.Đóng góp vào sự phát triển kinh tế…………………….…………………...…..45
2.3.Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của các quỹ đầu tư vốn
mạo hiểm tại Việt Nam……………………………… ……...……………...…………..46
2.3.1. Thuận lợi……………………………………………... ……………………......46
2.3.2. Khó khăn…………………………………...………………………………......47
2.3.2.1.Về phía nội tại nền kinh tế………………………………………….………47
2.3.2.2.Về phía thị trường…………………………………… ……………………..47
2.3.2.3.Về phía chính phủ…………………………………………………… ……..49
2.3.2.4.Về phía quỹ đầu tư……………………………………………………… ….52
2.3.2.5.Về phía các doanh nghiệp…………………………………… ..…………....55
2.4. Thực trạng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam v à hiệu quả hoạt động
của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong thời gian qua…… ………………………….…57
2.5. Triển vọng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu t ư công nghệ cao và
hoạt động đầu tư công nghệ sạch tại Việt Nam…………………..…………..………65
2.5.1. Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động công nghệ cao
và hoạt động công nghệ sạch tại Việt Nam……………………………………..........65
2.5.2. Tình hình thực trạng quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại Việt Nam……..66
2.5.3. Tình hình thực trạng quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch tại Việt Nam….…68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2………………………………………………... …………….70
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM………………......…………………....71
3.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp……………………………………………...…...71
3.1.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo……………………………………….71
3.1.2. Chủ động và chuyên nghiệp trong cách tiếp cận vốn mạo hiểm …………….....72
3.1.3. Định hướng chiến lược phát triển doanh nghi ệp……………………………… .74
3.1.4. Xây dựng khuôn khổ quản trị doanh nghiệp hiện đại…………………………..74
3.1.5. Minh bạch tài chính………………………………………… …………........….75
3.1.6. Thiết lập dự án đáp ứng yêu cầu vốn đầu tư………………………………..…..76
3.1.7. Một số yếu tố giúp doanh nghiệp tiếp cận quỹ đầu tư mạo hiểm…………...….79
3.2. Giải pháp từ phía chính phủ ……………………………………………… …...….82
3.2.1. Thành lập hiệp hội vốn đầu tư mạo hiểm quốc gia…………………………… ..82
3.2.2. Thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa bằng vốn ngân sách Nhà Nước..……..82
3.2.3. Cho vay ưu đãi đối với hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm……………………….82
3.2.4. Ưu đãi về thuế cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới……83
3.2.5. Chính sách đối ngoại ổn định lâu dài……………………………………… ...…83
3.2.6. Các chính sách kinh tế khác …………………………………… ……………....83
3.3. Giải pháp từ phía quỹ đầu tư mạo hiểm………...………………………………..85
3.4. Thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ đầu tư
mạo hiểm công nghệ sạch tại Việt Nam …………………………………………… ...86
3.4.1.Mô hình quỹ…………………………………………………………………….. 87
3.4.2.Thành phần tham gia vào quỹ………………………………………. ……......…88
3.4.3.Lĩnh vực đầu tư……………………………………………....... …….……….…90
3.4.4.Lộ trình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao
và quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch ở Việt Nam…………………...……………..91
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ………………………………… ……………………….…..91
(cid:61607) KẾT LUẬN
(cid:61607) TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
• ADB : Asian Development Bank - Ngân hàng phát triển Châu Á
• AVCJ : Asian Venture Capital Journal - Tạp chí Châu Á đầu tư mạo hiểm
• DN : doanh nghiệp
• ĐTMH : đầu tư mạo hiểm
• ERISA : The Employment Retirement Income Security Act
Đạo Luật Đảm Bảo Thu Nhập Hưu Trí Cho Người Lao Động
• FDI : Foreign Direct Investment – Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
• IPO : Initial Public Offerings - Sự phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
• NASDAQ : National Association of Securities Dealers Automated Quotation
Sàn giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ
• NDF : Nordic Development Fund - Quỹ Phát Triển Bắc Âu
• NVCA : National Venture Capital Association
Hiệp Hội Vốn Mạo Hiểm Quốc Gia
• NVA : Net Asset Value - Giá trị tài sản ròng
• OECD : Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế
• OTC : Over -The –Counter - Chứng khoán chưa niêm yết.
• PE : Private Equity – góp vốn tư nhân
• R&D : Reaserch & Development - Hoạt động nghiên cứu và phát triển
• SBIC : The Small Business Investment Act
Luật đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ
• SMEs : Small and Medium Enterprise – Doanh nghiệp nhỏ và vừa
• UBCKNN : Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nuớc
• WTO : World Trade Organization – Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng :
Bảng 2.1 : Các quỹ ĐTMH tại Việt Nam từ 1991 đến 1996 ……………........................31
Bảng 2.2 : Tình hình sử dụng vốn của các quỹ ĐTMH đến cuối năm 1999.....................32
Bảng 2.3 : Số lượng quỹ ĐTMH ở Châu Á từ 1992 đến 2002 ………………… ….........33
Bảng 2.4 : Các quỹ đầu tư vào Việt Nam thành lập năm 2007…………………….… ….37
Bảng 2.5 : Phân loại quỹ đầu t ư mạo hiểm………………………………………………3 8
Danh mục biểu :
Biểu 2.1 : Quy mô vốn ĐTMH tại Việt Nam từ 1991 đến 2002 ………………..…........32
Biểu 2.2 : Vốn ĐTMH tại Việt Nam từ 2002 đến 2006 …………………………...........36
Biểu 2.3 : Cơ cấu phân bổ vốn của IDG Venture VietNam ……………………............. 64
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đổi mới và phát triển toàn diện nền kinh tế là một chủ trương lớn, mang tính
chất thay đổi căn bản đã được Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam kiên trì thực hiện trong những năm vừa qua.Tr ên cơ sở đó, chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế của Việt Nam là phấn đấu đưa nền kinh tế đất nước đạt được các
tiêu chí của một nước công nghiệp tiên tiến, cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế
phù hợp, đưa mức tăng trưởng GDP tăng lên hàng năm. Đây chính là những yếu tố để
thiết lập tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n ước và hội nhập nền kinh tế
toàn cầu đang diễn ra hiện nay, th ì nhu cầu về vốn trở thành một vấn đề thiết yếu đối
với tất cả các quốc gia, đặc biệt l à đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Ở nước ta, để đáp ứng nhu cầu này, Nhà Nước đã có rất nhiều nỗ lực trong việc
tạo ra các nguồn cung vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế, ví nh ư hoàn thiện hệ thống
ngân hàng, phát triển thị trường chứng khoán…. Tuy nhi ên, những quy định về quy
mô vốn điều lệ, hiệu quả hoạt động kinh doanh, t ài sản thế chấp và mức độ rủi ro…
luôn là những rào cản trên con đường tìm vốn để thành lập doanh nghiệp
cũng như mở rộng qui mô hoạt động. Đặc biệt l à đối với các doanh nghiệp trẻ
có tiềm năng phát triển mạnh, có lợi nhuận khổng lồ nhưng rủi ro cực lớn…Kết quả,
nhu cầu về nguồn vốn mới cho các d oanh nghiệp này ngày càng tăng, đặc biệt là các
doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ kỹ thuật cao.
Quỹ đầu tư mạo hiểm là một loại hình tài trợ tài chính tối ưu nhất cho doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. V ì mục đích của quỹ đầu tư mạo hiểm là
đầu tư vào những doanh nghiêp mới khởi sự và những doanh nghiệp đang ở thời kỳ
tăng trưởng mạnh cần vốn lớn. Quỹ đầu t ư mạo hiểm chấp nhận rủi ro lớn để kỳ vọng
vào mức lợi nhuận trong tương lai cao hơn mức bình quân
Do vậy, tất yếu các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ thành công và phát triển.
Song trên thực tế do những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, các
quỹ này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế nói chung cũng nh ư cho
các doanh nghiệp nói riêng.
Chính vì vậy, việc tìm kiếm các giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, đề tài: “Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam”
vừa nhằm nâng cao vai trò hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam vừa
cung cấp một công cụ đầu tư mới cho các nhà đầu tư. Nhưng quan trọng hơn hết
chính là mục tiêu phát triển ổn định, bền vững quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng và nền
kinh tế Việt Nam nói chung.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là dựa trên những lý luận về hoạt động v à vai
trò của các quỹ đầu tư mạo hiểm, trên cơ sở đó phân tích thực trạng hoạt động của các
quỹ đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam. Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế
trong hoạt động của các quỹ đầu t ư mạo hiểm, chỉ ra đâu là những nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế đó. Từ đó, đề ra giải pháp để phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm
tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Trong chuyên đề này, tác giả tập trung nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn
đối với sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Ngoài ra, còn xem
xét thực trạng quỹ đầu tư mạo hiểm ở một số nước để có cái nhìn khái quát, tương
quan so sánh và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục đích mà đề tài hướng đến, tác giả sử dụng chủ yếu
phương pháp nghiên cứu định lượng và phương pháp nghiên cứu định tính như :
(cid:61623)
Sử dụng phương pháp thống kê lịch sử và phương pháp tổng hợp để
đánh giá về tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt nam trong thời
gian qua.
(cid:61623)
Sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để liên hệ
kinh nghiệm của các nước làm cơ sở đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt nam.
Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo , nội
dung chuyên đề gồm có 3 phần chính sau:
Chương 1 : Tổng quan về quỹ đầu tư mạo hiểm
Chương 2: Thực trạng hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
tại Việt Nam
Trang 1
CHƯƠNG 1 :
TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
1.1. Khái niệm:
Ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập với những kế hoạch kinh doanh
tốt, hứa hẹn mức độ thành công và thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, họ gặp nhiều
khó khăn khi thực hiện bởi thiếu kinh nghiệm quản lý, kinh doanh…đặc biệt là thiếu
vốn. Trong bối cảnh kinh tế lạm phát, việc vay vốn ngân hàng là điều rất khó khăn,
nhất là với các doanh nghiệp không có nhiều tài sản thế chấp.
Sự xuất hiện các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong những năm gần đây,
như một nguồn nước mới xoa dịu “cơn khát” vốn này của các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp trẻ. Vậy đầu tư mạo hiểm là gì ? Hãy cùng tìm hiểu một vài
thông tin về loại hình đầu tư này vì có thể nó sẽ là lời giải bài toán tài chính trong
giai đoạn khởi nghiệp cho doanh nghiệp của bạn.
(cid:61558) Đầu tư mạo hiểm:
Đầu tư mạo hiểm (Venture Capital) là phương thức mà theo đó, nhà đầu tư hay
những tổ chức chuyên môn hóa rót vốn vào những doanh nghiệp mới thành lập,
chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao và thường sử
dụng các công nghệ mới, hiện đại... đang cần tài trợ để phát triển sản phẩm hoặc quá
trình tăng trưởng.
Sở dĩ gọi là "nguồn vốn mạo hiểm" bởi:
- Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay kí quỹ nào. Việc
rót vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành
công doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty.
- Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn
ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương
hiệu, phát triển thị trường...Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu
công ty bị phá sản. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận
từ 35- 50%.
Trang 2
(cid:61558) Quỹ đầu tư mạo hiểm :
Quỹ đầu tư mạo hiểm là một hình thức của quỹ đầu tư tài chính, là một định
chế trung gian chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp mới khởi sự nhằm mong đợi
một sự gia tăng thu nhập cao hơn mức bình quân để bù đắp cho rủi ro của khoản đầu
tư có mức độ rủi ro cao hơn mức bình quân.
Quỹ huy động tiền từ các chủ thể khác nhau, đặt dưới sự quản lý của các tổ
chức chuyên môn quản lý đầu tư. Tiền huy động được đầu tư vào các doanh nghiệp
đang trong giai đoạn khởi sự hoặc tăng trưởng cao. Ngoài việc đầu tư tiền, công ty
quản lý quỹ còn đầu tư kỹ năng quản lý vào các doanh nghiệp nhận vốn để đảm bảo
tính hiệu quả của các doanh nghiệp n ày.
1.2. Các thành phần của quỹ đầu tư mạo hiểm:
Tham gia trực tiếp vào quá trình vận hành của vốn mạo hiểm có ba
đối tượng chủ yếu là các nhà đầu tư mạo hiểm, các nhà quản lý quỹ và các doanh
nhân.
(cid:61607) Các nhà đầu tư mạo hiểm : bất kỳ một cá nhân, một tổ chức nào cũng đều
có thể trở thành nhà đầu tư mạo hiểm. Họ là những nhà tư bản cá nhân giàu có, hoặc
là những công ty, tập đoàn công nghiệp lớn hay các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… hoặc phi tài chính
các tập đoàn sản xuất. Họ có lượng tiền nhàn rỗi lớn sẵn sàng để đầu tư và chấp
nhận rủi ro cao để hy vọng đạt được những mức lợi nhuận vượt trội như mong muốn
trong tương lai.
(cid:61607) Các nhà quản lý quỹ : Họ là những người hành nghề đầu tư mạo hiểm
chuyên nghiệp. Họ chính là những người quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, tiến hành
đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp. Họ vừa có tri thức về công nghệ, vừa có t ài năng
quản trị, họ đảm nhiệm chức năng huy động vốn từ các nh à đầu tư mạo hiểm; tìm
kiếm và đánh giá các cơ hội đầu tư, tiến hành đầu tư theo những chiến lược
làm
nhất định, thực hiện công cuộc thoát vốn để thu hồi vốn v à lợi nhuận cho quỹ,
gia tăng giá trị cho công ty nhận vốn, v à cuối cùng là mang lại lợi nhuận cho
các nhà đầu tư. Quá trình này được tái tạo, lặp đi lặp lại với việc huy động quỹ mới
Trang 3
cho những cơ hội đầu tư mới. Với đặc điểm trên, ta có thể thấy vốn mạo hiểm mang
tính chu kỳ.
(cid:61607) Các doanh nhân: Chủ yếu là các doanh nghiệp mới khởi sự. Họ là những tổ
chức, cá nhân, kỹ sư hay nhà khoa học đang muốn biến một phát hiện công nghệ,
một ý tưởng độc đáo mới mẻ thành một sản phẩm thành công trên thương trường.
nhưng do tiềm lực tài chính có hạn, họ cần có sự góp vốn của các quỹ đ ầu tư mạo
hiểm
Để nhận được những khoản đầu t ư mạo hiểm, họ không chỉ cần có
một ý tưởng có tiềm năng lớn m à còn phải thực hiện những cam kết về
phân chia lợi nhuận cũng như quyền lực với các nhà tư bản mạo hiểm.
Mối quan hệ giữa ba đối t ượng trên được xử lý theo những mô h ình tổ chức
khác nhau. Một mô hình thành công là mô hình đảm bảo được những lợi ích hài
hòa của ba đối tượng này, nhờ đó đạt được đạt ba mục tiêu:
(cid:61623) Duy trì và khuyến khích nguồn sáng tạo ý tưởng công nghệ mới và tinh thần
khởi nghiệp (duy trì nhu cầu về vốn mạo hiểm).
(cid:61623) Tạo động lực cho cá nhân, tổ chức có vốn tham gia đầu t ư mạo hiểm (phát
triển nguồn cung) .
(cid:61623) Phát huy triệt để năng lực đặc biệt của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm
chuyên nghiệp (đảm bảo hiệu quả đầu tư).
1.3. Phân loại quỹ đầu tư mạo hiểm :
1.3.1. Dựa vào nguồn huy động vốn :
Có hai loại : quỹ nội địa và quỹ hải ngoại :
(cid:61607) Quỹ nội địa :
Yếu tố then chốt của quỹ nội địa l à sẽ huy động vốn trong nước để đầu tư vào
các công ty trong nước, công ty quản lý quỹ đă ng ký thành lập trong nước và những
quỹ này sẽ do các chuyên gia trong nước quản lý là chính. Cổ phiếu của quỹ được
niêm yết ở thị trường trong nước.
Trang 4
+ Quỹ nội địa có những điểm mạnh nh ư sau:
(cid:61623) Huy động nguồn vốn từ trong n ước nên tránh được rủi ro về tỉ giá.
(cid:61623) Huy động được nguồn tài chính đa dạng trong nước.
(cid:61623) Không bị hạn chế vốn và ngành nghề đầu tư.
(cid:61623) Quỹ có thể duy trì lâu bền hơn với sự tham gia của nguồn nhân lực ổn định
trong nước.
(cid:61623) Hoạt động của quỹ nội địa sẽ góp phần tạo niềm tin cho các quỹ hải ng oại
mới đi vào thị trường trong nước, làm cho thị trường vốn mạo hiểm ngày càng phát
triển hơn.
+ Một số điểm yếu của quỹ nội địa:
(cid:61623) Nguồn vốn không lớn mạnh nh ư quỹ đầu tư hải ngoại.
(cid:61623) Cần nhiều thời gian để th ành lập và đi vào hoạt động.
(cid:61623) Ít kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp thấp hơn.
(cid:61607) Quỹ hải ngoại :
Nguồn vốn huy động vào quỹ 100% là nguồn vốn nước ngoài, công ty quản lý
quỹ được đăng ký thành lập ở nước ngoài và quỹ được quản lý bởi các chuyên gia
quản lý vốn quốc tế. Các quỹ sẽ t ìm kiếm cơ hội và đầu tư vào các dự án trong nước
để thu lợi nhuận. Cổ phiếu của quỹ đ ược niêm yết ở thị trường nước ngoài.
+ Quỹ hải ngoại có những điểm mạnh nh ư sau:
(cid:61623) Có thể thu hút lượng vốn lớn từ nước ngoài.
(cid:61623) Môi trường thuế và pháp chế ổn định.
(cid:61623) Cơ cấu pháp lý đã thành công ở nhiều nước và có nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động đầu tư.
+ Tuy nhiên quỹ đầu tư hải ngoại cũng có một số điểm yếu nh ư:
(cid:61623) Bị hạn chế số vốn đầu t ư, về ngành nghề kinh doanh.
(cid:61623) Khâu tiếp cận doanh nghiệp trong n ước còn nhiều khó khăn do có sự khác
nhau về môi trường, văn hóa kinh doanh.
(cid:61623) Rủi ro tỷ giá trong chuyển vốn và chuyển lợi nhuận
Trang 5
1.3.2. Dựa vào cách thức huy động vốn :
Chia thành hai loại là quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở :
(cid:61607) Quỹ đầu tư dạng đóng:
Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu t ư ra công chúng tại những thời
điểm định sẵn với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu,
chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát h ành lần đầu ra
công chúng, cổ phiếu đầu tư được giao dịch như các chứng khoán niêm yết khác
trên thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán). Các nh à đầu tư có thể mua
hoặc bán để thu hồi vốn cổ phần hoặc chứng chỉ đầu t ư của họ trên thị trường thứ
cấp thông qua các nhà môi giới, giá cổ phần được xác định bởi lượng cung, cầu trên
thị trường.
(cid:61607) Quỹ đầu tư dạng mở:
Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu t ư ra công chúng và thực hiện
mua lại cổ phiếu, chứng chỉ đầu t ư khi người đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn. Đặc
điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ phiếu, chứng chỉ đầu t ư
của quỹ luôn gắn trực tiếp với giá trị t ài sản thuần của quỹ. Cổ phiếu, chứng chỉ đầu
tư của quỹ dạng mở không giao dịch tr ên thị trường thứ cấp mà giao dịch với quỹ
hoặc các đại lý được ủy quyền. Giá cổ phiếu được xác định bởi giá trị t ài sản thuần
cộng với phần lệ phí giao dịch.
1.3.3. Dựa vào cơ cấu tổ chức :
Phân tích cơ cấu tổ chức của quỹ, có thể chia quỹ th ành ba loại:
(cid:61607) Quỹ đầu tư dạng hợp đồng :
+ Quỹ còn được gọi là quỹ tín thác đầu tư . Trong mô hình này qu ỹ đầu
tư mạo hiểm không có tư cách pháp nhân mà ch ỉ là một lượng tiền nhất định do các
nhà đầu tư đóng góp. Mô hình này thể hiện rõ ở vai trò của ba bên tham gia vào hoạt
động của quỹ: công ty quản lý quỹ, ngân h àng giám sát và các nhà đầu tư.
+ Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành huy động vốn, thực
hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ.
+ Ngân hàng giám sát: ngoài vai trò giám sát, b ảo quản vốn và tài sản của quỹ,
Trang 6
ngân hàng giám sát còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ,
đảm bảo việc tuân thủ các mục ti êu và chính sách đầu tư đã đề ra. Quan hệ giữa
công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát đư ợc thể hiện bằng hợp đồn g quản lý
giám sát, trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện
và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nh à đầu tư.
+ Các nhà đầu tư góp vốn bằng việc mua các chứng chỉ đầu t ư do công ty
quản lý quỹ thay mặt quỹ phát h ành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải
là các cổ đông như mô hình công ty mà chỉ đơn giản là những người thụ hưởng kết
quả kinh doanh từ hoạt động đầu t ư của quỹ.
(cid:61607) Quỹ đầu tư dạng công ty con :
Đây là quỹ đầu tư trực thuộc các định chế t ài chính, là công ty con của
các tập đoàn công nghiệp hay các tổ chức kinh tế lớn (mô hình này là nét đặc trưng
của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Nhật). Những quỹ đầu tư dạng này giúp cho
các công ty mẹ tham gia vào quá trình phát triển của những doanh nghiệp khởi
sự, và cung cấp những phát minh sáng chế cho công ty mẹ. Trong hình thức này,
công ty mẹ thực hiện tài trợ vốn mạo hiểm cho doanh nghiệp l à nhằm tạo mối quan
hệ với những doanh nghiệp mới, để rồi cun g cấp những dịch vụ khác hoặc hy vọng
vào những khoản lợi nhuận ở trong tương lai.
+ Loại hình này có những khuyết điểm như sau:
(cid:61623) Hội đồng quản trị của công ty con sẽ đ ưa ra quyết định phê chuẩn các
khoản đầu tư, trong đó việc quản lý các khoản đầu t ư của quỹ lại do một công ty
quản lý vốn mạo hiểm được thuê đảm trách. Như vậy, hình thức này sẽ không tạo ra
được một loại nhà đầu tư chuyên nghiệp, mà nếu có thì năng lực của họ cũng bị lãng
phí và họ không có quyền đưa ra các quyết định đầu tư.
(cid:61623) Thù lao cho những người quản lý quỹ là một khoản tiền lương và một
khoản thưởng nào đó, không gắn liền với thành quả đầu tư, vì thế tính chất khuyến
khích không mạnh.
(cid:61623) Công ty phải trung thành với lợi ích của công ty mẹ chứ không phải v ì lợi
ích của công ty được nhận đầu tư. Điều này đôi khi dẫn đến xung đột lợi ích giữa
Trang 7
nguồn tài trợ và người khởi nghiệp, giữa quỹ của công ty với nh à đầu tư mạo hiểm
khác.
(cid:61623) Đội ngũ nhân viên quản lý của công ty con là do công ty mẹ cử tới, sau một
thời gian hoạt động, họ trở về l àm việc cho công ty mẹ, tốc độ luân chuyển công
việc cao, vì thế khó hình thành một đội ngũ chuyên gia đầu tư vốn mạo hiểm chuyên
nghiệp.
(cid:61607) Quỹ đầu tư dạng công ty cổ phần :
Trong mô hình này quỹ đầu tư là một pháp nhân đầy đủ, tức l à một công ty
được hình thành theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ
là hội đồng quản trị quỹ. Các nh à đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có
quyền bầu ra các thành viên hội đồng quản trị. Các tổ chức tham gia v ào cơ cấu
hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty là công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản.
Ngoài ra tùy từng nước còn có sự tham gia của các đại lý chuyển nh ượng và nhà
bảo lãnh phát hành.
Với hình thức này, các doanh nghiệp được đầu tư không những nhận được sự
hỗ trợ về vốn mà còn nhận được sự hỗ trợ về các mặt quản lý, hoạt động điề u hành.
1.4. Đặc điểm hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm :
(cid:61607) Lợi nhuận cao, rủi ro đáng kể :
Đây là một điểm đặc biệt tạo nên sự khác biệt với các nguồn t ài trợ vốn khác vì
thành công chủ yếu của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa chủ yếu vào kỹ năng tìm kiếm
những dự án đầu tư ban đầu tương đối nhỏ nhưng lại hàm chứa một tiềm năng tăng
trưởng cao. Đầu tư là hoạt động hy sinh những giá trị hiện tại để đạt đ ược những giá
trị không chắc chắn trong t ương lai. Nhưng khác với đầu tư thông thường mục tiêu
của quỹ đầu tư mạo hiểm là kiếm được các khoản thu nhập vốn v ượt trội hơn mức
trung bình. Vốn mạo hiểm chủ yếu đầu t ư vào những người khổng lồ trong thời th ơ
ấu. Quỹ đầu tư mạo hiểm thường đầu tư vào các công ty trong giai đo ạn mới khởi
sự, đó là những công ty mới, thường là trước khi đạt được khả năng thu lợi nhuận,
trước khi bán được một sản phẩm nào đó, thậm chí trước khi phát triển được sản
phẩm, nhưng phải sẵn sàng theo đuổi một con đường tăng trưởng nhanh. Các nhà tư
Trang 8
bản mạo hiểm nắm giữ cá c công cụ giống như vốn chủ sở hữu, tức là họ tham gia
trực tiếp vào rủi ro kinh doanh của những công ty m à họ đầu tư tài trợ. Đi kèm với
yếu tố rủi ro cao nhưng điều hấp dẫn nhất dối với các nh à đầu tư đó là tiềm năng
mang lại lợi nhuận vượt trội được kỳ vọng của doanh nghiệp đ ược đầu tư. Vì thế có
thể nói trong các loại h ình quỹ đầu tư, quỹ đầu tư vốn mạo hiểm là loại
hình quỹ đầu tư có rủi ro cao nhất. Lợi nhuận ngoạn mục, rủi ro đáng kể chính
là đặc trưng thú vị nhất của vốn mạo hiểm.
(cid:61607) Quản lý một cách chuyên nghiệp:
Vốn mạo hiểm là một khoản tiền được quản lý một cách chuyên nghiệp. Tuy
mang mức độ rủi ro cao, vốn mạo hiểm có đ ường hướng mục tiêu phát triển cụ thể,
chiến lược đầu tư rõ ràng như: lĩnh vực, ngành nghề đầu tư mục tiêu, danh mục đầu
tư tối ưu, điều kiện tiêu chuẩn mà đối tượng nhận đầu tư cần có… Các nhà tư bản
mạo hiểm (tổ chức, cá nhân) tr ên thực tế là những chuyên gia thay mặt cho một tập
hợp các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư theo một cách thức xác định và có cấu trúc
rõ ràng.
(cid:61607) Là một quỹ đầu tư tư nhân :
Vì mức độ rủi ro của quỹ là rất cao nên vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm huy
động sẽ không phải là từ công chúng mà bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho
một số nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, đó là các cá nhân, thể
nhân, các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Các nhà đầu tư thường
đầu tư một lượng vốn tương đối lớn và đổi lại họ đòi hỏi các yêu cầu về kỹ năng
quản lý quỹ rất cao để đảm bảo yếu tố sinh lợi tr ên số vốn đầu tư. Vì vậy, quỹ đầu
tư vốn mạo hiểm là một quỹ đầu tư tư nhân.
(cid:61607) Phần lớn là đầu tư gián tiếp:
Hình thức đầu tư chủ yếu ban đầu của quỹ đầu t ư mạo hiểm là đầu tư trực tiếp.
Tuy nhiên từ đầu những năm 80, hình thức đầu tư đã thay đổi. Việc tiến hành đầu tư
được thực hiện thông qua nh à quản lý đầu tư tư nhân chuyên nghiệp. Xu hướng này
ngày càng phổ biến thể hiện tính chuyên môn hóa trong lĩnh vực đầu tư vốn mạo
hiểm và dần hình thành ngành công nghi ệp đầu tư vốn mạo hiểm .
Trang 9
(cid:61607) Phương thức tiếp cận quỹ:
Nhân tố quan trọng để đạt được thành công là việc áp dụng kỹ thuật quản lý
theo kiểu Mỹ – đó là phương pháp tăng thêm giá tr ị của dự án đầu tư bằng những
đóng góp tích cực vào hoạt động sản xuất kinh doanh. V ì vậy, phương thức tiếp cận
căn bản là cung cấp một nhà quản lý không điều hành, người có thể tư vấn cho
doanh nghiệp những vấn đề về t ài chính, nhân sự marketing, phát triển sản
phẩm,…Từ vị trí này cùng với những hoạt động đầu tư mạo hiểm này cũng đòi hỏi
một nền kinh tế thật năng động v à khuyến khích kinh doanh.
(cid:61607) Tiền mạo hiểm không phải là tiền dài hạn suốt đời :
Vốn mạo hiểm đầu tư vào cân đối tài sản và cơ sở hạ tầng của một doanh
nghiệp cho đến khi doanh nghiệp đạt đ ược quy mô và độ tín nhiệm đủ để có thể
đem bán cho một tập đoàn hay để cho thị trường chứng khoán có thể nhập cuộc và
cấp vốn thanh khoản. Về bản chất, quỹ đầu t ư mạo hiểm góp một phần vốn
vào ý tưởng của một nhà kinh doanh, nuôi dư ỡng nó trong một thời gian
ngắn rồi rút lui với sự giúp đỡ của một ngân h àng đầu tư
(cid:61607) Có sẵn lối thoát vốn:
Thị trường chứng khoán cung cấp một lối thoát “tự nhi ên” cho các nhà đầu tư
mạo hiểm. Tuy nhiên, việc tạo ra nhiều kênh thoát vốn khác nhau: hợp nhất, bán lại
công ty đang quản lý và quan trọng là chuyển quyền sở hữu công ty cũng l à vấn đề
quan trọng. Vì vậy, hoạt động này đòi hỏi một thị trường với những quy định rõ
ràng hoặc có tính chất quốc tế.
(cid:61607) Tài sản thế chấp :
Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm thì tài sản đảm bảo cho vốn đầu tư không phải là
tài sản hữu hình mà chỉ là ý tưởng kinh doanh khả thi, mang tính sáng tạo v à tiềm
năng. Quỹ mạo hiểm là chỗ dựa thích hợp cho những con ng ười tài giỏi và những ý
tưởng hay.
Đó là những đặc điểm nổi bật được rút ra từ các quỹ đầu t ư mạo hiểm đang
hoạt động thành công trên khắp thế giới. Tuy nhiên, không phải bất cứ quỹ đầu tư
mạo hiểm nào cũng mang tất cả những đặc điểm n êu trên, tùy vào môi trư ờng kinh
Trang 10
doanh, các đặc điểm kinh tế- xã hội của từng quốc gia mà hoạt động của quỹ có
những thay đổi tương ứng.
1.5. Quy trình hoạt động - các giai đoạn của quỹ đầu tư mạo hiểm :
Quá trình hoạt động của quỹ đầu t ư vốn mạo hiểm thường được chia
thành năm giai đoạn nối tiếp nhau. Tuy nhi ên, một trong các giai đoạn này có thể
được lặp lại, không nhất thiết phải theo thứ tự.
1.5.1. Giai đoạn hình thành quỹ :
Đây là giai đoạn để có thể hình thành nên một quỹ đầu tư mạo hiểm. Trong
giai đoạn này, các nhà tư bản mạo hiểm nghiên cứu tìm kiếm các nguồn cấp vốn
cho quỹ và các dự án đầu tư, đồng thời cũng tiến hành các thủ tục cam kết đầu tư và
cam kết đóng vốn, các thủ tục chuẩn bị về mặt pháp lý cho sự h ình thành và hoạt
động của quỹ. Thông thường phải mất khoảng thời gian v ài tháng để hình thành nên
quỹ.
1.5.2. Giai đoạn gọi vốn :
Thời kỳ đóng quỹ, gọi vốn đầu tư, đặc biệt là ngày đóng quỹ có thể được gọi là
ngày ra đời quỹ vốn mạo hiểm. Việc đóng đủ vốn có thể kéo d ài đến hai hoặc ba
năm. Vì vậy có thể xây dựng một thời gian biểu nhiều ngày đóng quỹ. Các nhà đầu
tư sẽ có được những quyền ngang nhau căn cứ theo t ỷ lệ góp vốn. Quyền lợi đó tiếp
tục được duy trì trong quá trình đóng vốn trừ khi từng thành viên quyết định thay
đổi vị trí và bán đi cổ phần của mình. Trong quá trình hoạt động các nhà đầu tư sẽ
thường xuyên báo cáo để thấy được số tiền đầu tư như thế nào vào các danh mục
đầu tư, và giá trị thị trường của từng danh mục, từng thời kỳ.
1.5.3. Giai đoạn đầu tư :
+Lợi ích của các nhà đầu tư cũng như các nhà quản lý quỹ phụ thuộc rất lớn
vào kết quả do công cuộc đầu tư mang lại. Do đó, trong từng thời kỳ v ào các danh
mục và dự án, các nhà quản lý quỹ luôn phải mất nhiều thời gian, công sức để chọn
lọc, thẩm định các dự án đầu t ư, thương thuyết mua cổ phiếu hay tham gia vốn v ào
các dự án. Quy trình này diễn ra liên tục trong hai hay ba năm. Quá trình rót vốn
vào một dự án thường được chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ thẩm định
Trang 11
lại để đưa ra quyết định có nên cung cấp vốn tiếp hay không.
+ Vốn mà quỹ đầu tư vào doanh nghiệp được thể hiện dưới hình thức sau: vốn
cổ phần, nợ có khả năng chuyển đổi hoặc kết hợp cả hai h ình thức này
+ Bên cạnh đó, xuất phát từ quyền lợi của quỹ luôn gắn với hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp mà quỹ tiến hành đầu tư, các quỹ có quyền tham gia giám sát, hỗ
trợ, tư vấn,…tích cực về các mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như: hệ thống quản lý, nhân sự, t ài chính, marketing,… đ ể có thể làm tối đa
hóa giá trị của doanh nghiệp mà quỹ đã đầu tư. Phần lớn vốn mạo hiểm muốn thu
hoạch lợi nhuận sau năm năm đầu tư, vì vậy thời gian hoạt động tích cực của quỹ l à
bốn hay năm năm.
1.5.4. Giai đoạn tăng cao giá trị :
Sau khi đã thực hiện đầu tư vào các danh mục, các nhà tư bản mạo hiểm tiếp
tục xây dựng bộ máy quản trị quỹ v à đặt thêm quan hệ với các tổ chức tài
chính, kinh doanh để tăng thêm vốn quỹ. Trung bình quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ thu
hoạch lợi nhuận sau năm năm đầu t ư.
1.5.5. Giai đoạn thoát vốn :
+ Thoát vốn là một khâu vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động của quỹ
đầu tư mạo hiểm và nó phản ánh kết quả đầu tư của quỹ, cho thấy hiệu quả hoạt
động kinh doanh của quỹ, các quỹ thoát vốn bằng cách:
(cid:61623) Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng – IPO
(cid:61623) Bán toàn bộ doanh nghiệp: là việc bán hoặc sáp nhập m ột công ty cho một
công ty khác lớn hơn hoặc bán công ty cho một cá nhân, tổ chức n ào đó.
(cid:61623) Nhượng lại cổ phiếu cho doanh nghiệp nhận đầu t ư.
(cid:61623) Bán số cổ phiếu đã đầu tư cho một cá nhân, hoặc tổ chức thứ ba nào đó.
+ Kết quả thu được qua việc thoát vốn của nh à đầu tư có thể được thể hiện
bằng tiền mặt hoặc các cổ phiếu có khả năng thanh khoản cao tr ên thị trường vốn.
+ Ngoài ra, nếu dự án đầu tư thất bại thì nhà đầu tư có thể thực hiện
những cách thoát vốn như rút vốn hoặc thanh lý tài sản.
Trang 12
Toàn bộ thời gian từ giai đoạn h ình thành quỹ, gọi vốn, đầu tư đến thu hoạch
của một quỹ có thể khác nhau v ì số lượng và thời gian đầu tư vào các dự án của một
quỹ có thể biến thiên khác nhau. Tuy nhiên, th ời gian để hình thành mục tiêu đầu tư
và thu hoạch của các dự án tối thiểu l à năm năm, có khi có thể dài hơn, từ năm đến
mười năm để các dự án của họ có thể đạt đ ược lợi nhuận.
1.6.Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm :
1.6.1. Đối với sự phát triển kinh tế :
+ Khuyến khích sự phát triển khoa học công nghệ, giúp ra đời công nghệ mới,
sản phẩm mới :
Với sự ra đời của nguồn vốn đầu t ư mạo hiểm, nó thúc đẩy khoa học kỹ thuật
và công nghệ ngày càng phát triển. Vốn mạo hiểm được coi là chất xúc tác quan
trọng trong sự phát triển và thương mại hóa những công nghệ mới, sản phẩm
mới, thậm chí
là tạo ra những ngành hoàn toàn mới. Từ đó, thúc đẩy sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất. Do
đó, với việc đầu tư vốn mạo hiểm các nhà đầu tư đã đóng góp rất lớn vào sự hình
thành và phát triển của ngành công nghiệp, điện toán hiện nay, tạo điều kiện thúc
đẩy ngành công nghệ cao phát triển như: điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin,…
+ Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế góp phần giải quyết các vấn đề xã hội:
Bên cạnh vai trò khuyến khích sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ,
vốn mạo hiểm còn đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế x ã hội. Các quỹ đầu
tư mạo hiểm thu hút một lượng vốn nhàn rỗi từ các tập đoàn công nghiệp, các định
chế tài chính trung gian (Ngân hàng, Công ty bảo hiểm, Quỹ hưu trí,..) để tài trợ vốn
cho các doanh nghiệp để đầu tư phát triển. Và sự phát triển của các doanh nghiệp
này không chỉ đem lại lợi nhuận cho chính doanh nghiệp v à các quỹ đầu tư mạo
hiểm đó mà còn góp phần rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc l àm cho người
lao động, qua đó giải quyết được rất nhiều vấn đề xã hội khác.
1.6.2. Đối với sự phát triển của doanh nghiệp :
Quỹ đầu tư mạo hiểm là lối thoát mở ra cho các doanh nghiệp mới, mở rộng cả
về mặt tài chính lẫn phi tài chính. Nó là một quá trình đóng vai trò chất xúc tác
Trang 13
nhằm tăng cường khả năng của doanh nghiệp. Đây chính là sự khác biệt giữa vốn
mạo hiểm và các nguồn vốn tài trợ khác.
(cid:61607) Hỗ trợ tài chính :
Ở những doanh nghiệp có tiềm năng v à lợi nhuận lớn nhưng rủi ro cao
thì việc tiếp cận các nguồn vốn truyền thống (nh ư ngân hàng,
thị trường
chứng khoán…) gặp nhiều trở ngại. Với tiềm lực t ài chính vững mạnh, quỹ đầu tư
mạo hiểm mở ra một kênh cung vốn mới cho các doanh nghiệp này.
Đây là lợi ích cơ bản nhất, quan trọng nhất m à các doanh nghiệp- đặc biệt là
các doanh nghiệp mới khởi sự, nhận được từ nguồn vốn mạo hiểm, bởi v ì các nhà
đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức rủi ro cao để có đ ược một mức lợi nhuận mong
đợi vượt trội nên họ chấp nhận đầu tư vào các doanh nghiệp này và đầu tư dưới
nhiều hình thức khác nhau.
(cid:61607) Hỗ trợ phi tài chính :
+ Khả năng chuyên môn về quản lý:
Trước khi cung ứng vốn vào một dự án của doanh nghiệp, nh à đầu tư mạo
hiểm đã dành nhiều thời gian và năng lực nghiên cứu khả năng thành công của dự
án. Một trong những nhân tố chủ yếu của quá trình đầu tư mạo hiểm là phải đảm
bảo đội ngũ quản lý có năng lực. Các nh à tư bản mạo hiểm tham gia lập kế hoạch
chiến lược, phân tích thị trường, đánh giá rủi ro/lợi nhuận, v à tăng cường bổ sung
vào công tác quản lý.
+ Kiến thức về các ngành nghề kinh doanh:
Dựa trên kinh nghiệm có được từ việc đầu tư ở các thị trường, các ngành nghề
trước đây mà quỹ đầu tư mạo hiểm có thể chia sẻ cho các doanh nghiệp các kiến
thức hữu ích về kinh doanh, từ đó giúp doanh nghiệp xác định được chiến lược kinh
doanh tối ưu cho mình.
+ Thông tin:
Quỹ đầu tư mạo hiểm giữ vai trò của một người cung cấp thông tin cho các
doanh nghiệp. Các nhà tư bản mạo hiểm có khả năng tập hợp thông tin với chi phí
thấp hơn các doanh nghiệp , họ thu thập thông tin dựa tr ên số lượng lớn các nhà đầu
Trang 14
tư, tận dụng được lợi thế về qui mô các ng ành kinh tế, tạo lập một mạng lưới các
nguồn thông tin tham khảo, các nh à cung cấp dịch vụ và các mối liên hệ với các
ngành nghề, thông tin thu được từ một dự án thường hữu ích cho một dự án tiếp
theo.
+ Uy tín:
Với tính chuyên nghiệp của mình việc quỹ đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ góp
phần tích cực làm gia tăng uy tín cũng như danh tiếng của doanh nghiệp. Sự tham
gia của quỹ đầu tư mạo hiểm vào các doanh nghiệp sẽ cung cấp một tín hiệu đáng
tin cậy về khả năng thành công của doanh nghiệp, nâng cao tính hấp dẫn của doanh
nghiệp đối với các nhà quản trị tài năng, các nhà cung c ấp, các khách hàng và các
nhà đầu tư khác.
+ Tập trung vào việc tối đa hóa giá trị doanh nghiệp :
Quỹ là một cổ đông của doanh nghiệp, lợi ích của quỹ gắn liền với sự th ành
công của doanh nghiệp. Do đó, quỹ có động lực rất mạnh mẽ trong việc hỗ trợ, t ư
vấn giúp cho các doanh nghiệp tối đa hóa giá trị của mình.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần thận trọng khi quyết định thời
điểm tiếp nhận nguồn vốn mạo hiểm. Bởi v ì, nếu tiếp nhận nguồn vốn n ày ở giai
đoạn quá sớm, năng lực quản lý ch ưa tốt thì doanh nghiệp có thể đối mặt
với rủi ro mất quyền kiểm soát.
1.6.3. Đối với sự phát triển của thị trường tài chính :
Sự tham gia của quỹ đầu t ư mạo hiểm sẽ tạo ra một kênh tài trợ vốn mới cho
nền kinh tế, góp phần làm đa dạng và phát triển thị trường tài chính theo hướng
hoàn thiện và ổn định.
+ Bổ sung thêm một kênh tài trợ vốn mới:
Quỹ đầu tư mạo hiểm tạo ra một kênh huy động vốn mới tận dụng được nguồn
lực tài chính trong lẫn ngoài nước. Quỹ thu hút vốn nhàn rỗi từ các công ty lớn, các
tổ chức tài chính và phi tài chính đ ể đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp
nhằm thúc đầy sự phát triển của nền kinh tế .
Trang 15
+ Tạo thêm hàng hóa cho thị trường chứng khoán:
Quỹ đầu tư mạo hiểm tác động tích cực tới sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Thông qua việc thoát vốn tốt nhất và phổ biến nhất của các
quỹ đầu tư mạo hiểm là bán chứng khoán của doanh nghiệp nhận đầu t ư ra công
chúng thông qua thị trường chứng khoán , quỹ sẽ góp phần làm phong phú và đa
dạng hàng hoá cho thị trường chứng khoán cả về số l ượng lẫn chất lượng, quỹ đầu
tư vào càng nhiều công ty, khi đến giai đoạn IPO sẽ tạo th êm nhiều hàng hóa mới,
giúp các nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn cho danh mục đầu t ư của mình, thu hút
thêm nhà đầu tư mới, đặc biệt là làm tăng tính thanh khoản cho thị
trường, làm cho
thị trường chứng khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Như vậy, có một sự hỗ
trợ qua lại giữa thị trường chứng khoán và hoạt động của vốn mạo hiểm.
+ Tác dụng ổn định thị trường tài chính của quỹ còn thể hiện ở vai trò chia sẻ
áp lực vay vốn đối với hệ thống ngân h àng:
Với một khối lượng doanh nghiệp ngày càng tăng nhanh và ho ạt động sản
xuất, kinh doanh, phát triển khoa học kỹ thuật ng ày càng lớn mạnh thì nguồn vốn từ
ngân hàng sẽ khó đáp ứng hết nhu cầu vốn ng ày càng cao. Với nguồn vốn và chiến
lược đầu tư dài hạn, quỹ đầu tư mạo hiểm góp phần tăng cường khả năng huy động
những nguồn vốn dài hạn và ổn định, giảm mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp , của
người sử dụng vốn vào các nguồn tài chính có tính biến động cao như nguồn vốn tín
dụng ngắn hạn do hệ thống ngân h àng cung cấp góp phần làm cân đối về vốn trong
nền kinh tế. Như vậy, quỹ đầu tư mạo hiểm đã phần nào san sẻ gánh nặng về vốn
dài hạn với ngành ngân hàng, góp phần cải thiện tình trạng mất cân đối về vốn tại
hệ thống ngân hàng.
1.7.Kinh nghiệm các nước đối với sự ra đời và phát triển của hoạt động vốn
đầu tư mạo hiểm trên thế giới – bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam :
1.7.1.Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại các nước phát triển :
1.7.1.1. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Mỹ:
Nước Mỹ được xem là nơi khai sinh ra ngành đ ầu tư vốn mạo hiểm. Tại đây,
quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên thế giới, Công ty Nghiên Cứu và Phát Triển Mỹ
Trang 16
(ARD Corporation), đ ã được thành lập vào năm 1946 ở Boston nhằm tìm kiếm và
tài trợ cho những dự án có rủi ro cao nh ưng đồng thời cũng mang lại lợi nhuận cao.
Những năm sau đó, hàng loạt những quỹ đầu tư mạo hiểm khác cũng đã ra đời.
Có thể nói, ở Mỹ, chính phủ đ ã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát
triển thị trường vốn mạo hiểm. Những chính sách vĩ mô c ùng với những cải tiến, bổ
sung phù hợp của chính phủ đã tạo điều kiện cho sự phát triển của ng ành công
nghiệp vốn mạo hiểm. Một v ài chính sách quan trọng nhất đó là: chính phủ Mỹ đã
thực thi những chính sách tiền tệ v à tài chính đúng đắn nhằm đảm bảo quan hệ
tương đối giữa tỷ lệ lạm phát thấp với hệ thống tiền tệ v à môi trường tài chính ổn
định. Chính sách thuế qua cải tiến đã có lợi cho những khoản lãi vốn, sự giảm thuế
thu nhập từ lãi vốn đã có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động đầu t ư vốn mạo
hiểm. Thị trường NASDAQ, được xem là chiến lược thoát vốn cho những nhà tư
bản mạo hiểm, đã điều chỉnh bằng cách tăng tính cởi mở, tính công khai, v ì vậy đã
hạn chế tính e ngại bị gian lận, lừa gạt của những nh à đầu tư. Điều này đã tạo ra
một môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, phần nào có thể dự đoán được đã giảm
thiểu những rủi ro môi tr ường cho các nhà đầu tư; một sự tương phản rõ rệt
so với những nước đang phát triển. Một yếu tố quan trọng khác đó l à sự sẵn sàng
đầu tư lớn và liên tục vào những nghiên cứu ở các trường đại học, các cơ
sở nghiên cứu và phát triển. Sự đầu tư này đã tài trợ cho những thế hệ sinh vi ên
trong việc nghiên cứu khoa học – kỹ thuật. Một số đã thành lập công ty và được tài
trợ bởi những nhà đầu tư mạo hiểm.
Sự can thiệp trực tiếp quan trọng nhất của chính phủ Mỹ trong việc
khuyến khích, trợ giúp cho sự tăng tr ưởng của các quỹ đầu tư mạo hiểm là sự thông
qua bộ luật đầu tư những doanh nghiệp nhỏ (The Small Business Investment
Act) năm 1958 cho phép h ình thành những tổ chức đầu tư vào những công ty nhỏ
(SBICs). Việc bộ luật này ban hành đã trở thành một phương tiện truyền bá
cho việc đầu tư vào những công ty nhỏ của tất cả loại h ình, cộng với những ưu
đãi về thu nhập và lãi vốn đã tạo điều kiện cho sự phát triển của vốn mạo hiểm.
Chương trình SBIC trở thành một chương trình mà nhiều quốc gia khác phải học
Trang 17
hỏi, tích cực noi gương. Những chi nhánh SBIC của các ngân h àng được
phép nắm giữ cổ phần trong các công ty nhỏ. Điều n ày tạo ra nhiều vốn
sẵn có cho các công ty mới khởi sự và là một nguồn quan trọng trong những năm
1960 và 1970. Những công ty quản lý quỹ nổi tiếng ng ày nay như Sutter Hill
Ventures, Institutional Venture Partners, Bank of America Ventures, và Menlo
Ventures đã bắt đầu như những SBIC.
Trong lịch sử cũng có những lúc m à những hành động của chính phủ cũng có
thể gây thiệt hại cho ngành công nghiệp vốn mạo hiểm. Một ví dụ nổi bật nhất l à
vào năm 1973, thượng viện Mỹ đã phản ứng lại sự lan rộng của việc tham nhũng
trong các quỹ hưu trí bằng cách thay đổi những quy định về quỹ h ưu trí liên bang.
Trong sự vội vàng, hấp tấp, chính phủ đã thông qua Đạo Luật Đảm Bảo Thu Nhập
Hưu Trí Cho Người Lao Động (the Employment Retirement Income Security
Act (ERISA), những người quản lý quỹ hưu trí phải có trách nhiệm pháp lý cho
những khoản lỗ bị gánh chịu trong các khoản đầu t ư có rủi ro cao. Điều này đã làm
những người quản lý quỹ hưu trí gần như tránh xa việc đầu tư mạo hiểm, và
nó đã phá hủy gần như toàn bộ ngành kinh doanh vốn mạo hiểm. Nhưng sau
đó tình hình đã được cải thiện bằng những vận động tích cực cho việc th ành lập
Hiệp Hội Vốn Mạo Hiểm Quốc Gia (NVCA). Trong năm 1977, nó đã thành
công trong tiến tới nới lỏng dần dần v à hoàn thiện vào năm 1982. Những điều chỉnh
trong những nguyên tắc chỉ đạo quỹ hưu trí đã góp phần tạo ra “giọt đầu tiên” sau
đó là “dòng chảy cuồn cuộn” của những khoản tiền mới v ào các quỹ đầu tư mạo
hiểm. Vào những năm đầu thập niên 1980 và 1990 đã có sự tăng vọt của các khoản
vốn đầu tư mạo hiểm song hành với những cuộc phát hành lần đầu ra công chúng
(Initial Public Offering - IPO ) của những doanh nghiệp được tài trợ bởi vốn mạo
hiểm, cùng với các diễn biến tăng giá ngoạn mục tr ên thị trường chứng khoán
Mỹ là quốc gia tiên phong trên thế giới về đầu tư vốn mạo hiểm, với ý tưởng hỗ trợ
vốn để hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý tưởng sáng tạo và có tiềm năng
trên thị trường, công ty đầu tư vốn mạo hiểm đầu tiên ở Mỹ do hiệu trường đại học
MIT thành lập từ năm 1946, quỹ này đã hỗ trợ công ty công nghệ nổi tiếng tr ên thế
Trang 18
giới DEC. Một số công ty danh tiếng cũng đ ược hình thành và phát triển từ vốn đầu
tư mạo hiểm như: Microsoft, Apple, Yahoo. Vào cu ối năm 1990, tổng số vốn đầu t ư
mạo hiểm tại Mỹ là 36 tỷ USD với 664 quỹ đang hoạt động. Hiện nay tại Mỹ đ ã
hình thành một thị trường vốn mạo hiểm khổng lồ, với h àng chục nghìn các nhà đầu
tư mạo hiểm thường góp vốn vào các công quỹ đầu tư mạo hiểm, có khả năng tài trợ
cho nhiều dự án, đặc biệt là những dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ cao.
Nhiều quỹ đã phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và nêu ra yêu cầu khá
cao đối với các nhà đầu tư tham gia, ví dụ phải có tài sản ít nhất 1 triệu USD và vốn
góp bị giữ trong quỹ ít nhất hai năm .
Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm ở Mỹ cũng không ngừng gia tăng, t ổng số vốn
đầu tư mạo hiểm ở Mỹ năm 1995 l à khoảng 6,2 tỷ USD, năm 1998 l à 12,5 tỷ USD
(trong đó đầu tư mạo hiểm cho phát triển Internet l à hơn 3,5 tỷ USD). Năm 1999,
các nhà đầu tư mạo hiểm đã cung cấp 45 tỷ USD cho các công ty mới th ành lập.
Con số này trong năm 2000 đã tăng lên mức kỷ lục 105 tỷ USD, trong đó 86% d ành
cho các công ty làm về mạng Internet. Đến năm 2006 th ì con số này tăng lên 137 tỷ
USD.
Nước Mỹ ngày nay có hàng trăm nghìn nhà đầu tư mạo hiểm, họ thường góp
vốn vào các công ty hay qu ỹ đầu tư mạo hiểm. Nhiều quỹ đã phát hành cổ phiếu
trên thị trường chứng khóan và nêu ra yêu cầu khá cao đối với các nh à đầu tư tham
gia, thí dụ phải có tài sản ít nhất 1 triệu đô-la Mỹ, thu nhập hàng năm 200.000 USD
và vốn góp bị giam trong quỹ ít nhất v ài năm.
Nguồn vốn mạo hiểm khổng lồ v à gia tăng liên tục tạo ra khả năng đầu t ư
cực lớn cho phát triển các doanh nghiệp khởi sự, v à đây cũng là một nguồn tài
chính dồi dào tạo nên “đất dụng võ” cho một số “ý tưởng khoa học - công nghệ”, là
một ưu thế nổi bật của Mỹ so với các n ước khác.
1.7.1.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Nhật :
Sự phát triển vốn mạo hiểm ở Nhật Bản có thể đ ược chia thành các giai đoạn:
Giai đoạn đầu tiên của sự phát triển vốn mạo hiểm ở Nhật Bản bắt đầu v ào
năm 1963, Chính phủ Nhật Bản cho phép việc sử dụng những quỹ công cộng để
Trang 19
thành lập ba công ty tư vấn và đầu tư những doanh nghiệp vừa v à nhỏ (Small and
Medium Business Investment & Consultation Co.Ltd) ở Tokyo, Nagoya và
Osaka. Chương trình ở Nhật Bản khác nhiều so với ch ương trình SBIC ở Mỹ.
Trong khi ở Nhật Bản chỉ có ba công ty được thành lập, thì ở Mỹ từ khi chương
trình được khởi xướng cho đến năm 1963 đã có gần 500 SBICs được thành lập bởi
những cá nhân, những định chế t ài chính và thậm chí là vài SBICs công cộng.
Đến tháng 3 năm 1996, 3 SBIC n ày đã đầu tư vào 2500 doanh nghiệp, trong
đó có 78 doanh nghi ệp đã phát hành ra công chúng. Phần lớn cổ phiếu của
những SBIC này được nắm giữ bởi chính quyền địa ph ương, những ngân
hàng, những công ty bảo hiểm, sở giao dịch chứng khoán, những doanh
nghiệp tư nhân và những văn phòng thương mại. Mặc dù chúng đóng vai
trò quan trọng trong việc hỗ trợ những doanh nghiệp vừa v à nhỏ đang tồn tại
bằng cách cung cấp vốn ổn định v à dài hạn, nhưng nó cũng có vai trò hạn chế trong
việc cung cấp vốn cho những doanh nghiệp mới khởi sự.
Sự xuất hiện vốn mạo hiểm t ư nhân (1970 đến 1973)
Năm 1972, công ty v ốn mạo hiểm tư nhân đầu tiên, Kyoto
Enterprise Development (KED), đư ợc thành lập với sự đầu tư của 43 doanh nghiệp
nổi tiếng. Mô hình của KED là theo mô hình của tổ chức vốn mạo hiểm
đầu tiên ở Mỹ, American Research and Development. Cũng trong năm
1972, The Nippon Enterprise Development (NED) đư ợc thành lập bởi một
nhóm gồm 39 công ty. Tính tổng cộng từ năm 1972 đến 1974 đã có tám công
ty vốn mạo hiểm tư nhân đã ra đời bởi những ngân hàng lớn như Sumitomo,
Mitsubishi, Daiichi Kangyo và những công ty chứng khoán như Yamaichi và
Nikko. Nói cách khác, những định chế tài chính lớn ở Nhật Bản đã thành lập
những công ty con vốn mạo hiểm. Một điều nổi bật l à những công ty Nhật
Bản thường thực hiện những cam kết d ài hạn trong khi đó những nh à tư bản mạo
hiểm Mỹ thường rút lui khi thấy dấu hiệu đầu ti ên của sự khó khăn.
Tình trạng suy thoái gây ra bởi cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đ ã làm
cho số lượng đầu tư giảm sút và nền công nghiệp bị đình trệ. Tuy nhiên, trong số 8
Trang 20
công ty vốn mạo hiểm đã được thành lập thì 6 vẫn còn tồn tại cho đến tận
ngày nay. Ngành công nghiệp vốn mạo hiểm đã được hình thành nhưng nó
không đủ thành công để trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế Nhật
Bản.
Sự bùng nổ vốn mạo hiểm lần thứ hai (1982 đến 1986)
Một lần nữa, những người đóng vai trò chính trong sự bùng nổ vốn mạo hiểm
lần hai này là các ngân hàng và các công ty ch ứng khoán. Mục đích chính của họ l à
sử dụng những khoản đầu t ư mạo hiểm để tạo mối quan hệ với những doanh nghiệp
có quy mô vừa và nhỏ và nhằm cung cấp những dịch vụ khác. Từ năm
1982 đến 1984 đã có 37 công ty vốn mạo hiểm được thành lập, phần lớn trong
đó thuộc quyền sở hữu của những ngân h àng hoặc những công ty chứng khoán lớn.
Những nhà tư bản mạo hiểm Nhật Bản không t ìm kiếm lãi vốn, họ có một động lực
khác, họ muốn phát triển những mối quan hệ ngân h àng dài hạn với những doanh
nghiệp mà họ tài trợ. Tuy nhiên, sự bùng nổ vốn mạo hiểm lần hai cũng giảm sút v ì
sự suy thoái gây ra bởi sự tăng giá đồng yên trong năm 1986 và 1987
Sự bùng nổ vốn mạo hiểm lần ba (1994 đến 2000)
Lần này Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng những biện pháp mới nhằm
tạo điều kiện cho việc hỗ trợ những doanh nghiệp mới khởi sự. Năm 1995, sự sửa
đổi của luật về những biện pháp nhằm tạo điều kiện thu ận lợi cho những doanh
nghiệp mới và việc ban hành luật thành lập những doanh nghiệp vừa v à nhỏ
đã làm cho những doanh nghiệp này có thể dễ dàng nhận được sự hỗ trợ về tài
chính cũng như về thông tin. Những điều luật mới n ày đã khuyến khích sự hình
thành của nhiều công ty vốn mạo hiểm h ơn.
Trong những năm trở lại đây, việc sẵn l òng cung ứng vốn rủi ro cao cho các
hãng mới thành lập của các quan chức Nhật Bản trở th ành một hiện tượng đáng chú
ý. Các ngân hàng ở Nhật Bản đã tận dụng điều này để thực hiện việc gia tăng đầu
tư cho các hãng kinh doanh mới thành lập, với khoảng 70% trong số n ày
được sự bảo lãnh của Chính phủ. Khoảng năm 1997, khi Fuji Bank thiết lập ra bộ
phận được gọi là ”phòng tín dụng cho các doanh nghiệp m ới”, hệ thống ngân hàng
Trang 21
bảo thủ ở Nhật thật sự khó hiểu về h ành động này. Tuy nhiên, hiện nay hầu
như tất cả các ngân hàng lớn ở nước này đều đưa vào danh mục hoạt động
của họ hoạt động tương tự - tức là tìm kiếm những hãng có tiềm năng phát
triển cao và giúp đỡ các hãng này trong việc mở rộng kinh doanh (có thể
là rủi ro cao nhưng lợi nhuận tiềm năng cũng rất hấp dẫn). Bắt đầu áp
dụng hoạt động này, Fuji Bank đã đầu tư 54,7 triệu Yên (486.000 USD) cho 14
công ty mới (chọn lựa từ 205 yêu cầu vay).
Hiện nay, những công ty con vốn mạo hiểm thuộc những định chế t ài chính
lớn như ngân hàng, các công ty ch ứng khoán, công ty bảo hiểm chiếm khoảng 70%
toàn bộ ngành công nghiệp vốn mạo hiểm ở Nhật Bản. Phần còn lại là những công
ty vốn mạo hiểm độc lập với quy mô nhỏ v à một số công ty vốn mạo hiểm n ước
ngoài hoạt động ở Nhật Bản. Những công ty vốn mạo hiểm lớn chiếm ưu thế trong
việc đầu tư và phần lớn chúng thuộc những định chế tài chính.
Nhìn chung, những nhà tư bản mạo hiểm Nhật Bản chỉ nhận đ ược sự đào tạo
giới hạn. Lý do trước tiên là phần lớn những nhà tư bản mạo hiểm chỉ
được cử đến những công ty vốn mạo hiểm từ các doanh nghiệp mẹ v à sau
từ 2 đến 5 năm họ sẽ trở lại doanh nghiệp mẹ. Chính v ì vậy mà những nhà tư
bản mạo hiểm sẽ có rất ít kinh nghiệm cũng nh ư những kỹ năng cần thiết. Th êm
vào đó, những nhà tư bản mạo hiểm chỉ nhận được lương và không có phần thưởng
nào dành cho những thành công và chắc chắn sẽ chịu trách nhiệm cho những đầu t ư
không thành công, vì vậy có rất ít động lực để chấp nhận bất cứ rủi ro n ào.
Vào nửa sau thập niên 1990 là thời kỳ thay đổi về môi tr ường cho vốn mạo
hiểm ở Nhật Bản. Sự phổ biến của Internet và dịch vụ điện thoại không dây đ ã
khuyến khích những nhà doanh nghiệp khai thác những cơ hội kinh doanh mới.
Một loạt những điều luật đ ược thông qua nhằm hỗ trợ những doanh nghiệp
mới thành lập được tài trợ bởi vốn mạo hiểm. Ví dụ trong năm 1994, hội đồng
thương mại đã điều chỉnh lại những quy định của m ình nhằm cho phép những
nhà tư bản mạo hiểm có thể có vị trí trong ban quản trị của những doanh
nghiệp mà họ đầu tư. Luật về những biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
Trang 22
những doanh nghiệp mới đặc th ù (Law on Temporary Measures to Facilitate
Specific New Business) đư ợc điều chỉnh năm 1995 nhằm mở rộng những hỗ trợ về
tài chính và thông tin cũng như những đảm bảo vay nợ cho những doanh nghiệ p
được xem là “mạo hiểm”, đó là những doanh nghiệp đang sản xuất những
sản phẩm hoặc dịch vụ mới hoặc đang sử dụng những công nghệ mới nhằm nâng
cao những sản phẩm hoặc dịch vụ đang tồn tại.
Một sự thay đổi lớn khác v ào năm 1998 là việc ban hành sắc luật hợp danh
hữu hạn (the Limited Partnership Act) cho những quỹ đầu t ư mạo hiểm. Trước khi
thông qua đạo luật này, tất cả những nhà đầu tư trong các quỹ hợp danh đều phải
chịu trách nhiệm vô hạn. Với luật mới, trách nhiệm của các nhà đầu tư chỉ
giới hạn trong những khoản đầu t ư cho đến khi vẫn đáp ứng những ti êu chuẩn
của bộ kinh tế, thương mại và công nghiệp (METI). Năm 1997, để khuyến
khích những “thiên thần đầu tư”, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra sự thay đổi về
luật được gọi là “thuế thiên thần” (Angel Tax) cho phép những nh à đầu tư có thể
khấu trừ những khoản lỗ vốn từ những khoản l ãi vốn trên những đầu tư khác.
Với những biện pháp tích cực tr ên, Chính phủ Nhật Bản đã góp phần
tích cực vào việc thúc đẩy thị trường vốn mạo hiểm phát triển ng ày càng năng
động với quy mô ngày càng lớn.
1.7.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại các nước đang phát triển:
1.7.2.1. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc:
Trung Quốc là một điển hình cho sự thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm từ nguồn
vốn của chính phủ tài trợ. Có bốn hình thức vốn mạo hiểm ở Trung Quốc l à: Vốn
mạo hiểm được Chính phủ tài trợ, Công ty vốn mạo hiểm trách nhiệm h ữu hạn, các
Liên doanh, Quỹ phát triển khoa học. Hiện tại, phần lớn các công ty mạo hiểm
được Chính phủ cung cấp vốn hoặc Chính phủ quản lý. Tuy nhi ên, hai loại hình
công ty vốn mạo hiểm còn lại đang phát triển rất nhanh chóng v à là mũi nhọn
cho sự phát triển trong tương lai. Bên cạnh đó, các liên doanh chiếm 10%
trong tổng số các công ty vốn mạo hiểm , và các tập đoàn lớn trong nước như Stone,
Legend, Zhong Guang Cun Sciece and Hair đ ã gia nhập vào lĩnh vực vốn
Trang 23
mạo hiểm. Trong số các công ty nhận được vốn đầu tư mạo hiểm, 28% đang ở giai
đoạn ban đầu, 53,6% đang ở giai đoạn phát triển và 18,4% đang ở giai đoạn trưởng
thành. Một số công ty thành công có khả năng sẽ cổ phần hóa. Các công ty vốn
mạo hiểm tập trung ở 2 khu vực. Hơn 90% các công ty này đư ợc đặt ở miền Đông
Trung Quốc. Và 89% số công ty vốn mạo hiểm chọn các dự án công nghệ cao trong
lĩnh vực khoa học hoặc chọn các công ty công nghệ cao non trẻ, có nhiều tiềm
năng.
Vào cuối năm 2001 thị trường vốn mạo hiểm ở Trung Quốc có kho ảng 150
công ty với số vốn hơn một tỷ USD. Với những bước phát triển nhanh về kinh tế, về
môi trường đầu tư và vai trò ủng hộ của chính phủ th ì hoạt động đầu tư vốn mạo
hiểm ở Trung Quốc ngày càng phát triển và tạo được sự quan tâm của các nhà đầu
tư mạo hiểm quốc tế.
Các nhân tố dẫn đến sự phát triển nhanh chóng vốn mạo hiểm ở Trung Quốc:
Năm 1999, để thúc đẩy sự phát triển của ng ành công nghệ cao, chính
quyền Trung ương và địa phương đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời công bố liên tiếp các chính sách và luật lệ ưu
đãi. Kết quả là, sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp vừa v à nhỏ tạo ra
tiềm năng lớn cho sự phát triển của các công ty vốn mạo hiểm trong t ương lai.
Sự thành lập của thị trường chứng khoán công nghệ cao đ ã tạo ra môi trường
thuận lợi cho các công ty công nghệ cao. Thị tr ường các công ty phát triển ở Hồng
Kông tạo ra cho các công ty công nghệ cao ở đại lục một h ướng thu hút
vốn từ thị trường nước ngoài. Sau năm 1999, chính quy ền địa phương công bố
rất nhiều luật lệ khuyến khích các công ty công nghệ cao. Môi tr ường pháp lý thuận
lợi đã tạo nên một làn sóng lớn cho các công ty trong n ước, do đó tạo ra thị
trường tiềm năng cho sự phát triển của vốn đầu t ư mạo hiểm.
Sự đa dạng của các công ty vốn mạo hiểm đ ược tạo ra. Rất nhiều công ty đa
quốc gia, các quỹ vốn bảo hiểm n ước ngồi và các tổ chức phi ngân hàng đã bày tỏ
sự quan tâm tới lĩnh vực kinh doa nh vốn mạo hiểm ở Trung Quốc.
Các công ty niêm yết hiện đang trở thành những nhà đầu tư chiến lược của
Trang 24
vốn mạo hiểm và sự phát triển của ngành vốn mạo hiểm đã làm cho nhiều người
dân Trung Quốc chấp nhận khái niệm v à thực tiễn đầu tư mạo hiểm.
Những hạn chế chính của vốn mạo hiểm ở Trung Quốc so với ở Mỹ :
-Nguồn vốn hạn chế. Sau khi nhận đ ược sự khuyến khích từ phía chính
quyền Trung ương, chính quyền địa phương đã thành lập rất nhiều quỹ mạo hiểm
và công ty vốn mạo hiểm, chủ yếu được cung cấp tài chính bởi chính quyền
Trung ương. Ở một chừng mực nào đó, điều này giải quyết được tình trạng
thiếu vốn của các công ty ở Trung Quốc, nh ưng nó cũng hạn chế quy mô cung
cấp vốn mạo hiểm ở Trung Quốc. Ở Mỹ, nguồn vốn Nhà nước chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong vốn thành lập, khoảng 8,3%. Trung Quốc có khoảng 6000 tỷ nhân dân
tệ trong tiết kiệm của nhân dân, nh ưng rất ít trong số đó được đầu tư cho vốn mạo
hiểm. Các quỹ bảo hiểm, an ninh x ã hội không được phép đầu tư vào lĩnh vực vốn
mạo hiểm. Thêm vào đó, rất ít các nhà đầu tư cá nhân.
-Thiếu cơ chế khuyến khích và kiểm sốt, sự thiếu hụt kinh nghiệm quản lý v à
chất lượng nhân viên. Hầu hết các công ty vốn mạo hiểm ở Trung Quốc không thể
cạnh tranh được với các công ty vốn mạo hiểm quốc tế.
-Cơ chế vốn mạo hiểm vẫn chưa được thiết lập. Có một số cách một công ty
mạo hiểm có thể bảo tồn vốn, chẳng hạn nh ư mua lại tài sản, liên kết hoặc thôn
tính. Nhưng ở Trung Quốc, những ph ương pháp này đều trái với pháp luật.
-Tài sản sở hữu trí tuệ và các tài sản phi vật thể không được bảo vệ một cách
thích đáng. Do thiếu sự bảo vệ tài sản trí tuệ, các công ty vốn mạo hiểm đều không
sẵn lòng đầu tư vào những dự án đang ở giai đoạn thử n ghiệm. Điều đó nói lên rằng
có nhiều nguy hiểm cho vốn mạo hiểm ở Trung Quốc h ơn so với ở Mỹ.
-Chất lượng của các hãng trung gian và của nhân viên không đồng đều. Chất
lượng của các công ty trung gian cho vốn mạo hiểm nh ư công ty kế toán, công ty
luật pháp, tổ chức đánh giá kỹ thuật, công ty t ư vấn đầu tư đều rất yếu kém. Họ
thiếu những kỹ năng có chất l ượng cao. Mặc dù có rất nhiều đột phá trong các luật
định đối với họat động kinh doanh vốn mạo hiểm, nh ưng vẫn chưa hoàn chỉnh và bị
lạc hậu.
Trang 25
1.7.2.2. Hoạt động vốn đầu tư mạo hiểm tại Đài Loan:
Vốn mạo hiểm ở Đài Loan tuy nhỏ hơn ở Nhật Bản, Hong Kong thậm
chí Singapore nhưng với số lượng những doanh nghiệp khởi sự v à sự thành
công của các nhà đầu tư mạo hiểm, Đài Loan là điểm năng động nhất ở Châu Á
cho việc đầu tư mạo hiểm. Những mối quan hệ với Mỹ, đặc biệt l à thung
lũng Silicon, sớm quan tâm đến ng ành điện tử như là ngành công nghiệp
then chốt, một Chính phủ năng động, và sự quan tâm đến nền giáo dục đ ã tạo
nên một môi trường thuận lợi cho sự phát triển song song của nền công nghiệp v à
việc đầu tư vốn mạo hiểm.
Những nhà tư bản mạo hiểm Đài Loan không đầu tư nhiều vốn hạt giống mà
tập trung vào giai đoạn khởi động và giai đoạn mở rộng của doanh nghiệp.
Một tài sản quan trọng là một số lượng lớn những kỹ sư người Đài Loan giữ
những vị trí điều hành và quản lý trong những doanh nghiệp kỹ thuật Mỹ. Họ l à
nguồn tư vấn, hướng dẫn kinh doanh cho các doanh nghi ệp ở Đài Loan, thậm chí
quay về thành lập doanh nghiệp.
Năm 1983, một đạo luật được thông qua tạo những ưu đãi về thuế nhằm
khuyến khích những cá nhân sẵn s àng đầu tư vào những công ty vốn mạo hiểm
chuyên nghiệp. Đặc điểm quan trọng nhất của bộ luật này là một sự khấu trừ thuế
lên đến 20% đối với những cá nhân duy tr ì hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm
của họ trong vòng ít nhất hai năm. Đến năm 1991, đạo luật đ ược điều
chỉnh lại, cho phép những nh à đầu tư định chế có cùng mức khấu trừ 20%.
Sự điều chỉnh này đã làm tăng đáng kể nguồn vốn sẵn có cho vốn đầu t ư mạo hiểm
và ảnh hưởng của nó còn có thể thấy qua số lượng quỹ được thành lập sau năm
1991 tăng đáng kể. Đến 1999, chính phủ tuyên bố ngành công nghiệp vốn mạo
hiểm đã trưởng thành và không tiếp tục chương trình khấu trừ 20% thuế. Chính phủ
Đài Loan đã thực hiện những phương pháp khác nhằm đảm bảo cho sự
phát triển của vốn mạo hiểm. Một trong những ph ương pháp đó là sự sẵn
sàng đầu tư các quỹ của chính phủ vào những công ty vốn mạo hiểm.
Hiện nay, Đài Loan đã có thị trường vốn mạo hiểm hoạt động rất hiệu quả và
Trang 26
năng động. Những doanh nghiệp có thể đ ược niêm yết và tăng vốn trên thị
trường chứng khoán. Những doanh nghiệp Đài Loan có quy mô lớn có thể sử
dụng NASDAQ, một vài doanh nghiệp sử dụng những thị tr ường chứng khóan
Châu Á như Singapore và Hong Kong đ ể niêm yết công khai. Một số doanh
nghiệp Đài Loan cũng có thể sử dụng những thị trường công chúng như
một cơ chế cho phép những nhà đầu tư thanh lý những khoản đầu tư của họ.
Những doanh nhân Đài Loan có xu hướng muốn duy trì sự kiểm soát
đối với doanh nghiệp nên rất khó cho những nhà tư bản mạo hiểm có thể đạt đ ược
quyền kiểm soát công ty, họ thường không có vị trí tham gia các quyết định
mang tính chiến lược của doanh nghiệp. Vì vậy, họ có một chiến lược thoát vốn
mà không được sử dụng phổ biến ở hầu hết các n ước khác, đó là có thể bán cổ phần
trên một thị trường vốn tư nhân. Nó có tính thanh khoản và cung cấp cho các nhà
đầu tư nhỏ một con đường để thoát vốn mà không cần phải đợi đến những đợt phát
hành ra công chúng để thu được những đầu tư của họ.
Ngành công nghiệp vốn mạo hiểm ở Đ ài Loan hiện nay đang đối mặt
với một vài vấn đề khó khăn. Một số liên quan đến hoàn cảnh Đài Loan và
một số liên quan đến những vấn đề phát triển kinh tế vĩ mô. Cách phản
ứng của Chính phủ và những công ty vốn mạo hiểm phản ứng nh ư thế nào trước
những thay đổi này sẽ có những tác động quan trọng l ên “sức khỏe” của ngành đầu
tư vốn mạo hiểm và khả năng tiếp tục hỗ trợ những doanh nghiệp mới khởi sự.
1.7.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
1.7.3.1.Về phía thị trường:
Để ngành vốn mạo hiểm lớn mạnh, điều cốt yếu l à phải có nhiều doanh nghiệp
có tiềm năng, đang cần vốn để đầu t ư, đổi mới, và có nhiều nguồn cung cấp các ý
tưởng đổi mới. Do đó, khu vực kinh tế tư nhân cần được hỗ trợ phát triển mạnh mẽ,
lĩnh vực công nghệ cao, trọng điểm đặc biệt phải đ ược chú trọng, tập trung phát
triển.
Những nước có ngành công nghiệp vốn mạo hiểm phát triển đều l à những
nước có thị trường chứng khoán tồn tại khá lâu trước khi có sự ra đời của các quỹ
Trang 27
đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó họ còn thành lập thị trường riêng dành cho các công
ty vừa và nhỏ, công ty mới thành lập có tiềm năng (chẳng hạn ở Nhật Bản).
Cần có một cơ chế hiệu quả để dẫn vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm
đến các doanh nghiệp. H ình thức câu lạc bộ những nh à đầu tư đã xuất hiện từ rất
lâu. Hầu hết các nước đều thiết lập Hiệp Hội vốn mạo hiểm, một trung tâm để
nguồn vốn mạo hiểm được luân chuyển thuận tiện trong khu vực (Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan…).
Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy, điều quan trọng l à phải phát triển các nguồn t ài
chính cho vốn mạo hiểm, chẳng hạn nh ư các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và các
nhà đầu tư tư nhân. Ví dụ: Cho phép các tổ chức như các Quỹ hưu trí hoặc các
công ty bảo hiểm được đầu tư kinh doanh vốn mạo hiểm (Những sửa đổi
trong Luật Đảm bảo An ninh cho những ng ười hưu trí của Mỹ).
Ngoài ra cũng cần phải đẩy mạnh cả về số l ượng lẫn chất lượng các công
ty tư vấn, giúp doanh nghiệp trong việc tiếp cận các quỹ đầu t ư mạo hiểm.
1.7.3.2.Về phía chính phủ:
Môi trường pháp lý cần vững chắc, quy định về sổ sách kế toán gọn nhẹ, đáp
ứng so với các thông lệ tốt nhất của quốc tế, để không g ây trở ngại cho các chuyên
gia quản lý người nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho sự đầu tư của khu vực
tư nhân.
Chính phủ thường có nhiều biện pháp khuyến khích, ưu đãi áp dụng cho các
quỹ đầu tư mạo hiểm. Một số nước như Indonesia, Malaysia… miễn thuế đối
với thu nhập vốn từ việc bán các công ty nhận vốn đầu t ư và cổ tức từ các công ty
nhận vốn đầu tư. Nhiều nền kinh tế như Hông Kông, Nhật, Ấn Độ, Đài
Loan, Hàn Quốc đã cho phép người nước ngoài sở hữu 100% vốn của các công
ty quản lý quỹ. Riêng tại Trung Quốc, năm 2002 tỷ lệ n ày là 33% và đến năm 2005
tăng lên 49%. Ở Bỉ chính phủ đầu tư cổ phần để đầu tư trực tiếp vào các hãng kinh
doanh vốn mạo hiểm, hoặc vào các doanh nghiệp nhỏ . Hay chính phủ cho vay
cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp, dài hạn hoặc có thể không phải trả l ãi cho
các hãng kinh doanh vốn mạo hiểm hoặc các doanh nghiệp nhỏ (Ch ương trình cho
Trang 28
vay tài chính để phát triển Doanh nghiệp của Đan Mạch).
Bên cạnh đó chính phủ cũng có thể sử dụng các kích thích bằng tài chính như
các khuyến khích bằng thuế cho những nh à đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ hoặc
quỹ đầu tư mạo hiểm như trong chương trình đầu tư cho doanh nghiệp vốn
mạo hiểm của Anh hay b ảo lãnh một phần cho những tổn thấ t của các khoản đầu
tư mạo hiểm có mức độ rủi ro cao ở Phần Lan .
Bên cạnh sự tồn tại và phát triển của mô hình quỹ hải ngoại, các nước cũng chú
trọng đến việc thành lập mô hình quỹ nội địa, các công ty đầu t ư tư nhân trong
nước.
Một nhân tố quan trọng nữa đóng góp v ào sự thành công của việc thu
hút vốn mạo hiểm ở một số n ước Châu Á chính là chính phủ đã tạo được niềm tin
cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc đảm bảo lợi ích cho nh à đầu tư, có chính
sách thiết thực và giữ đúng lời hứa khi kêu gọi đầu tư…
Tóm lại, để hỗ trợ cho việc phát triển thị tr ường vốn mạo hiểm, chính phủ
nhiều nước trên thế giới đã có các loại chương trình đầu tư mạo hiểm khác nhau với
ba hình thức chủ yếu là: đầu tư vốn trực tiếp (đầu tư cổ phần, vốn vay của chính
phủ), đưa ra các chính sách khuyến khích về tài chính (khuyến khích thuế,
bảo lãnh vay, bảo lãnh cổ phần) hoặc tạo cơ chế thông thống cho các nh à đầu tư
mạo hiểm hoạt động.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Vốn đầu tư mạo hiểm đã hình thành ở Việt Nam từ những năm 1990, nh ưng
các doanh nghiệp cũng như các cá nhân trong nền kinh tế nước ta còn biết rất ít về
nó. Vốn mạo hiểm là nguồn vốn cổ phần đầu t ư vào các doanh nghi ệp khởi
sự, được huy động từ những nhà đầu tư chấp nhận rủi ro lớn để có đ ược
lợi nhuận cao. Vốn mạo hiểm không chỉ đ ã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời v à
phát triển của những công nghệ mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp mới khởi sự... Hơn thế nữa, nó còn mở ra một kênh đầu tư hấp dẫn cho các
nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm với mong muốn có một tỷ suất sinh lợi cao.
Trang 29
Thực tế đây là một nguồn vốn mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới khởi sự không đủ điều
kiện để nhận sự tài trợ từ ngân hàng thì vốn mạo hiểm là đáp án vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, phát triển ý t ưởng về sản phẩm mới, về khoa học công nghệ,
góp phần phát triển nền kinh tế.
Nghiên cứu thị trường vốn mạo hiểm ở các quốc gia chúng ta thấy rằng, để có
một thị trường vốn mạo hiểm phát triển, một quốc gia cần phải tạo những tiền đề,
môi trường kinh doanh ổn định v à khuôn khổ pháp lý thuận lợi, tạo đ ược niềm tin
cho các nhà đầu tư đặc biệt là những nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư tổ chức. Đây có
lẽ là một vấn đề đáng suy ngẫm đối với Việt Nam.
Trang 30
CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái quát tình hình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm qua các giai đoạn
phát triển tại Việt Nam:
Đầu thập niên 90, với sự phát triển của các doanh nghiệp, sự phát triển của khu
vực tài chính và nhất là sự sốt sắng của chính phủ trong việc thành lập thị
trường chứng khoán. Nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng được thành lập
ở nước ta. Quỹ đầu tư đầu tiên đánh dấu sự hoạt động ở Việt Nam vào năm 1991.
Tuy vậy, từ đó đến nay, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng quỹ đầu tư mạo
hiểm hoạt động chính thức ở Việt Nam liên tục thay đổi.
Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề này, việc thống kê chính xác số lượng
các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động ở từng thời điểm gặp không ít
khó khăn. Có một sự khác biệt rất lớn giữa số liệu của những nguồn tư
liệu (AVCJ, UBCKNN, báo chí, cục thống kê…). Do đó để thuận lợi cho
việc phân tích quá trình thu hút vốn vốn mạo hiểm Việt Nam được chia ra làm ba
giai đoạn.
2.1.1. Giai đoạn trước 2002 :
Đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của một số quỹ đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam,
nhưng sau đó hầu hết các quỹ này đã rút khỏi Việt Nam do hoạt động không hiệu
quả.
+ Giai đoạn 1991-1995: Vốn đầu tư mạo hiểm chảy vào Việt Nam tăng dần,
các nhà đầu tư lạc quan về khả năng sinh lời của các dự án đầu tư do làn sóng công
nghiệp hóa đang lan rộng tại khu vực Đông Nam Á đã tạo ra môi trường thuận lợi
cho việc thu hút FDI các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam, sự kỳ vọng của
nhà đầu tư về một thị trường chứng khoán sớm ra đời theo dự định của chính phủ là
một nhân tố thúc đẩy việc gia tăng vốn mạo hiểm trong giai đoạn này.
+ Từ năm 1996-1999: Không có sự tăng trưởng đáng kể về vốn mạo hiểm ở
Trang 31
Việt Nam. Với suy nghĩ cho rằng ở một đất nước có tiềm năng tăng trưởng cao và
rất nhiều cơ hội đầu tư như ở Việt Nam thì việc sử dụng số vốn đã huy động được sẽ
là điều không mấy khó khăn, nhưng thực tế qua một thời gian hoạt động thì mọi
việc lại không dễ dàng như vậy và dường như các quỹ này đã nhận ra rằng họ không
biết đầu tư vào đâu với số tiền đã huy động. Mặc khác cuộc khủng hoảng tài chính
năm 1997 càng làm cho việc thu hút vốn mạo hiểm trở nên khó khăn hơn. Riêng
năm 1999 , vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam tăng khá mạnh do các quỹ đang có
mặt tại Việt Nam tiếp tục rót vốn vào trước việc chính phủ ban hành hàng loạt các
quy định khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào các công ty tư nhân
trong nước. Bên cạnh đó, thông tin về khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán
đầu tiên của Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh vào năm 2000 góp phần gia tăng dòng
vốn mạo hiểm vào Việt Nam
Bảng 2.1: Các quỹ ĐTMH tại Việt Nam từ 1991 đến 1996.
STT Tên Quỹ Thành lập Quy mô(Triệu USD)
Vietnam Fund 1 1991 10
TempletonVietnamOpportunities Fund 1993 2 113
3 Beta Vietnam Fund 1993 71
4 Beta Mekong Fund 1994 25.6
5 Lazard Vietnam Fund 1994 59
6 Vietnam Frontier Investments. Ltd 1995 17
7 Vietnam Enterprise Investments Ltd 1995 17
8 Southeast Asian Frontier Fund 1996 12.5
Tổng Cộng 315.1
Nguồn: Mekong Private Sector Development Facitily
Trong giai đoạn này, có gần 10 quỹ đầu tư tập trung toàn bộ vào Việt
Nam hoặc khu vực Đông Dương xuất hiện, và hơn 300 triệu đô la Mỹ dưới hình
thức quỹ được huy động để đầu tư vào Việt Nam
Tất cả các quỹ đầu tư trên đều do nước ngoài quản lý, tập hợp mọi nguồn vốn
Trang 32
đầu tư ngoài Việt Nam (chủ yếu ở Châu Âu), và được niêm yết trên thị trường
chứng khoán nước ngoài ( Dublin, London và NewYork) theo mô hình “quỹ
đầu tư đóng”
Biểu 2.1: Quy mô vốn ĐTMH tại Việt Nam từ 1991 đến 2002.
Triệu USD
350
318
303
292
276
300
258
247
250
200
157
130
131
150
114
100
22
50
10
0
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nguồn: Asia Venture Capital Journal.
Bảng 2.2:Tình hình sử dụng vốn của các quỹ ĐTMH đến cuối năm 1999.
STT Tên Quỹ Vốn (USD) Vốn đã đầu tư
USD %
Vietnam Fund 54.380.000 41.040.396 75.47 1
Beta Vietnam Fund 52.200.000 34.446.000 65.99 2
Beta Mekong Fund 17.900.000 4.222.000 23.59 3
Dragon Capital 27.000.000 23.733.000 87.78 4
Vietnam Frontier Fund 53.100.100 37.300.000 70.24 5
Lazard Vietnam Fund 59.000.000 10.000.000 19.95 6
Templeton Vietnam Fund 110.000.000 22.000.000 20.00 7
Tổng Cộng 373.580.000 172.708.396 46.23
Nguồn :The VietNam Bussiness Journal.
Với gần 400 triệu USD huy động được từ bên ngoài, các quỹ đã nhanh chóng
bắt tay vào tìm đối tác ở Việt Nam, thẩm định dự án và tiến hành bỏ vốn đầu tư. Tuy
nhiên, sau một thời gian, hoạt động của các quỹ trong giai đoạn này không thành
Trang 33
công, mặc dù đã đầu tư vào nhiều lĩnh vực nhưng đến cuối năm 1999, các quỹ này
chỉ đầu tư được khoảng 172,71 triệu USD, chiếm chỉ 46,23% trên tổng số vốn mà
các quỹ đã huy động được. Không quỹ nào thu hồi vốn thành công trong giai đoạn
này.
Bảng 2.3: Số lượng quỹ ĐTMH ở Châu Á từ 1992 đến 2002.
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
33 43 53 54 62 66 85 124 168 169 175 Australia
58 73 87 101 107 129 190 313 377 397 HongKong 48
13 15 16 16 29 42 41 44 81 77 78 Idia
6 9 14 39 49 46 46 44 36 31 31 Indonesia
116 120 275 276 270 210 231 221 229 232 245 Japan
57 110 126 142 128 123 131 175 180 172 56 Korea
14 16 20 22 38 41 44 14 19 20 28 Malaysia
- - - 3 3 2 1 3 - - - Myanmar
2 2 3 13 16 25 7 30 41 Newzeland 1
4 3 3 7 3 15 57 3 58 - - Pakistan
2 4 5 7 8 10 14 9 19 18 19 Philipines
30 41 59 59 64 85 69 11 117 121 Singapore 25
6 8 9 9 10 12 12 8 9 - - Srilanka
22 24 27 28 53 74 34 124 162 165 161 Taiwan
9 10 10 10 11 10 8 10 17 16 19 Thailand
Vietnam 1 2 3 6 7 7 7 8 7 7 7
354 399 659 753 839 796 918 1068 1406 1460 1510 Total
Nguồn:The 2004 Guide to Venture Capital in Asia
Những quỹ khác cũng đã lần lượt rút dần khỏi Việt Nam sau cuộc khủng hoảng
kinh tế châu Á, để lại duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund do
Công ty Dragon Capital quản lý. “Đợt sóng đầu tiên” dường như bị chìm đi.
+ Do đó, giai đoạn từ năm 1996 đến 2002: Không có một quỹ đầu tư mạo hiểm
mới nào tiếp tục đi vào hoạt động tại Việt Nam, trong khi ở các nước khác trong khu
Trang 34
vực Đông Nám Á vốn đầu tư mạo hiểm lại tăng lên và có dấu hiệu phục hồi sau
cuộc khủng hoảng kinh tế.
+ Giai đoạn từ năm 2000 đến 2002: Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm đã có sự sụt
giảm đáng kể tại Việt Nam (từ 318 triệu USD năm 1999 xuống còn 157 triệu USD
vào năm 2000). Đây cũng là giai đoạn mà nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm đã rút khỏi
Việt Nam sau một thời gian hoạt động không đạt kết quả như mong đợi.
Như vậy trong giai đoạn từ 1991 đến 2002 có thể nói hoạt động của quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam không đạt được thành công như mong đợi. Các quỹ sau thời
gian đi vào hoạt động không hiệu quả đã dần rút khỏi Việt Nam.
(cid:153) Nguyên nhân thất bại của các quỹ đầu tư mạo hiểm những năm 90 như sau:
Về nguyên nhân bên ngoài có thể thấy rằng các nước trong khu vực đã dần dần
hồi phục sau cuộc khủng hoảng nên các quỹ đầu tư mạo hiểm sau một thời gian
không thu được kết quả ở Việt Nam đã bắt đầu rút vốn và chuyển hướng đầu tư sang
các nước trong khu vực.
Nhưng nếu xét về nguyên nhân từ nền kinh tế trong nước có thể thấy rằng
- Do thị trường chứng khoán mới ra đời ở Việt Nam và dường như chưa thể
vận hành mạnh mẽ để thật sự trở thành kênh thu hồi vốn cho các quỹ. Vì vậy các
quỹ này bị hạn chế kênh thu hồi vốn.
- Do số lượng doanh nghiệp nhà nước còn khá nhiều. Khu vực kinh tế tư nhân
bị chèn ép : Chính sách chính thức đã ưu tiên các doanh nghiệp nhà nước nhiều
hơn so với các công ty tư nhân về các mặt, ví dụ như cơ hội tiếp cận tín
dụng, giấy phép hạn ngạch. Do đó, sự phát triển của các công ty tư nhân còn hạn
chế, chưa được sự hỗ trợ mạnh mẽ để phát triển.
- Cơ chế luật pháp ở Việt Nam còn hạn chế các loại hình đầu tư mà quỹ đầu tư
mạo hiểm – với tư cách là nhà đầu tư nước ngoài được phép theo đuổi – đặc biệt
trong hoạt động đầu tư vào các công ty trong nước. Môi trường kinh doanh
không ổn định, các chính sách không rõ ràng luôn luôn thay đổi đã hạn chế cơ hội
đầu tư của các quỹ.
Trang 35
Đó là một trong những nguyên nhân khiến các quỹ đầu tư mạo đã có nhiều
thất bại trong thời gian đầu thâm nhập vào Việt Nam. Tuy vậy, họ vẫn duy trì để
đảm bảo uy tín đối với thị trường. Nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm khi vào Việt Nam
phải mất tới năm năm mới có những đồng lãi đầu tiên.
2.1.2. Giai đoạn từ 2002 đến 2006 :
Các quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu chú ý tới Việt Nam vào năm 1995 nhưng làn
sóng đầu tư mạo hiểm chỉ thực sự mạnh sau năm 2003. Có thể kể lên những cái tên
như IDG, Vinacapital, Mekong Capital, Dragon Capital...
Giai đoạn này, trong số sáu quỹ đầu tư vào Việt Nam hoặc Đông Dương được
thành lập giữa thập niên 1990, chỉ còn một quỹ Vietnam Enterprise
Investments Ltd (VEIL) vẫn tích cực đầu tư và huy động thêm vốn.
Ở giai đoạn này, nhận thấy chiều hướng kinh doanh đang trở nên hứa
hẹn, vốn nước ngoài đã đổ vào trở lại Việt Nam qua các quỹ đầu tư nước ngoài.
Các quỹ đầu tư lớn hoạt động tại Việt Nam tích cực nhòm ngó đến các công ty vừa
cổ phần hóa, và khối doanh nghiệp tư nhân.
Ngày 22/04/2002 với sự ra đời của MeKong Enterprise Fund (MEF)-Do
MeKong Capital quản lý với tổng số vốn đầu tư 18,5 triệu USD đã đánh dấu sự
phục hồi của thị trường vốn mạo hiểm tại Việt Nam. Các nhà đầu tư của quỹ bao
gồm: Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB); Quỹ Phát Triển Bắc Âu (NDF); Văn
phòng vụ kinh tế Thụy Sĩ (SECO), quỹ hợp tác công nghiệp Phần Lan (Finnfund),
công ty đầu tư vào các nước đang phát triển của Bỉ (BIO),… Đây là quỹ đầu tư mạo
hiểm chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng ở khu vực sông
MeKong gồm: Việt Nam, Lào và Capuchia, quỹ chủ yếu tập trung đầu tư vào các
doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là quỹ sẽ ưu tiên đầu tư vào những công
ty xuất khẩu tận dụng được lợi thế cạnh tranh của vùng.
Năm 2003 có nhiều bước phát triển mới đối với vốn đầu tư mạo hiểm
ở Việt Nam. Ngày 11/11/2003, Vina Capital –Công ty quản lý của Quỹ đầu tư tư
nhân Vietnam Opportunity Fund (VOF) đã chính thức đi vào hoạt động tại Việt
Nam. Số vốn ban đầu của quỹ là 10 triệu USD, dự kiến sẽ tăng lên 50 triệu USD
Trang 36
trong vòng ba năm tiếp theo và được thành lập bởi các thành viên: Milleniu,
Partners (New York), Deustche Bank Securities, HongKong’a Sun Wah Group,
Pacific Alliance Group. Đối tượng mà quỹ nhắm đến để đầu tư là các doanh nghiệp
đang hoạt động kém hiệu quả, quỹ sẽ tham gia vào quá trình tái cơ cấu để nâng cao
giá trị và phát triển doanh nghiệp sau đó tiến hành bán lại hoặc đưa ra niêm yết trên
thị trường chứng khoán.
Biểu 2.2: Vốn ĐTMH tại Việt Nam từ 2002 đến 2006 (Triệu USD)
2300
2500
2000
1500
1000
500
218
500
228
130
0
2002
2003
2004
2005
2006
Nguồn :Asia Venture capital Journal
Tháng 8/2004 quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Venture Vietnam đã chính thức đi
vào hoạt động, trong giai đoạn đầu IDG sẽ tiến hành khảo sát nhiều doanh nghiệp ở
Việt Nam và sẽ tiến hành đầu tư 100 triệu USD vào khoảng 30-40 doanh nghiệp có
triển vọng kinh doanh tốt với mức dự tính như sau: 30% vốn cho ngành viễn thông
và công nghệ không dây, 25% vốn cho công nghiệp phần mềm, 15% vốn cho ngành
công nghệ sinh học và phần vốn còn lại cho các ngành khác.
Tháng 3 năm 2005, IDG Venture chính thức đầu tư vào Việt Nam. Các doanh
nghiệp mà quỹ đầu tư mạo hiểm hướng đến là những doanh nghiệp trẻ
thuộc các lĩnh vực: thương mại điện tử, phần mềm, viễn thông,... Đây là các
doanh nghiệp đã có sản phẩm nhưng chưa tạo ra được nguồn thu, có ý tưởng phát
triển sản phẩm, mở rộng kinh doanh nhưng thiếu vốn.
Tháng 9 năm 2006, quỹ đầu tư Private Equity New Markets (PENM) được
quản lý bởi ngân hàng BankInvest Đan Mạch – quản lý khối tài sản 23 tỷ USD,
trong đó dành ba tỷ USD đầu tư vào các nước đang phát triển.Trước đó sự xuất hiện
Trang 37
của quỹ Vietnam Holding có số vốn 112 triệu USD cũng làm giới tài chính chú ý,
60% nguồn vốn của quỹ này được huy động từ các nhà đầu tư Thụy Sĩ. Trong năm
2006 cũng xuất hiện một số quỹ đầu tư ở Việt Nam như: DWS Vietnam Fund của
ngân hàng Deutsche Bank, BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment Fund,
Dragon Capital Management's Vietnam Growth Fund Limited , Korea Investment
Trust Management's Vietnam Growth Fund, Golden Bridge Financial Group's Vina
Blue Ocean Fund .
Hầu hết các quỹ đầu tư đều nhắm đến khả năng mua lại cổ phần từ
những công ty nhà nước được cổ phần hóa hoặc những công ty tư nhân quy mô
nhỏ đang cần nguồn vốn để tái cấu trúc công ty, mở rộng quy mô hoạt động.
2.1.3 Giai đoạn sau 2007 đến nay:
Bảng 2.4: Các quỹ đầu tư vào Việt Nam thành lập năm 2007
Tên quỹ Ngày chính thức hoạt động Quốc gia
T.I.M Vietnam Tiger Fund Fullerton Vietnam Fund Hwang /DBS Indochina Fund Tongyang Vietnam 14/5/2007 23/4/2007 21/4/2007 02/4/2007 Liechtenstein Singapore Malaysia Hàn Quốc
KITM WW Vietnam Real Est Indochina Capital Vietnam 16/3/2007 02/3/2007 Hàn Quốc Anh
DBS Indochina Fund Lion Capital Vietnam Fund Korea WW CHN Viet MC EQ MA Maps Oppo Viet & CHN 01/3/2007 02/2/2007 25/1/2007 08/1/2007 Singapore Singapore Hàn Quốc Hàn Quốc
Nguồn: HSBC, Bloomberg
Có thể nói 2007 là năm bùng nổ các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với
sự xuất hiện của khá nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, từ Hàn Quốc có
các quỹ: Korea WW CHN Viet MC EQ, MA Maps Oppo Viet & CHN, Tongyang
Vietnam, KITM WW Vietnam Real Est, từ Singapore: DBS Indochina Fund, Lion
Capital Vietnam Fund và Fullerton Vietnam Fund, từ Malaysia có quỹ: Hwang/DBS
Indochina Fund, từ Anh có quỹ: Indochina Capital Vietnam, và từ Liechtenstein có
Trang 38
quỹ T.I.M Vietnam Tiger Fund.
Bảng 2.5 : Phân loại quỹ đầu tư mạo hiểm
Loại Quỹ Hình thức hoạt động Các quỹ tiêu biểu tại VN
Quỹ đầu tư mạo hiểm Chuyên đầu tư vào doanh IDG Việt Nam
nghiệp đang trong giai
đoạn khởi nghiệp nhưng
có triển vọng phát triển
Chuyên đầu tư vào doanh Mekong Capital; Dragon
nghiệp đã có những bước Capital; VOF; Indochina
phát triển ổn định và đang Capital
có dự định niêm yết trên
thị trường chứng khoán.
Nguồn : Mekong Capital
Với hàng loạt các quỹ thành lập, có thể nói thị trường quỹ đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam đang rất sôi động. Tuy nhiên trong số đó những quỹ đầu tư có thể xem
là tiêu biểu cho loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm lại chưa nhiều, nếu không muốn nói
là rất ít.
Đây là giai đoạn Việt Nam bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài
+ Giai đoạn 2008 – 2009 : giai đoạn khủng hoảng của các quỹ đầu tư mạo hiểm
chính thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn ở Mỹ năm 2007, nhưng đến 2008-2009
Việt Nam mới bị ảnh hưởng. Do đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai
đoạn này cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Năm 2008 dòng vốn đầu tư mạo hiểm đã giảm một phần ba trong quý 4/2008.
Nguyên nhân là do suy thoái kinh tế toàn cầu tạo nên nỗi e ngại khi đầu tư vào các
hoạt động liên quan đến phần mềm, đồng thời các doanh nghiệp ngành năng lượng
gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn.
Tổng lượng vốn thành lập mới các công ty đã giảm xuống còn 5,4%, mức thấp
nhất kể từ đầu năm 2005 – Hiệp hội các Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia và công ty
Trang 39
kiểm toán PricewaterhouseCoopers nêu ra trong một nghiên cứu công bố hôm nay.
Đầu tư nói chung trong cả năm 2008 lần đầu tiên giảm sút kể từ năm 2003 với mức
giảm 8%.
Các nhà đầu tư mạo hiểm đã né tránh các doanh nghiệp máy tính, công nghệ
sinh học và năng lượng. Đặc biệt, loại hình đầu tư cho các công ty tiến hành chuyển
đổi thành công ty đại chúng hoặc bị bán cho các công ty lớn hơn giảm mạnh nhất.
Nhóm công ty kiểu này trong quý 4/2008 nhận được đầu tư ít hơn 39% so với cùng
kỳ năm ngoái. Và trong cả năm 2008, chỉ có sáu doanh nghiệp IPO được tài trợ
bằng vốn đầu tư mạo hiểm.
Qua 2009 là năm chứng kiến những khó khăn của các quỹ đầu tư mạo hiểm
đang hoạt động tại Việt Nam. Các quỹ đầu tư phải đối mặt với một năm 2009 đầy
chông gai.Có quỹ đã phải thu hẹp quy mô hoạt động hoặc phá sản. Một số quỹ đứng
trước nguy cơ bị ép phải thoái vốn khỏi Việt Nam.
Các quỹ một thời góp phần tạo nên làn sóng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam
đang rơi vào giai đoạn khó khăn nhất từ trước tới nay: lỗ lớn, thiếu tiền mặt, gọi vốn
hay lập quỹ mới đều trong tình hình nan giải.
Vào đầu tháng 9/2009, Indochina Capital Vietnam Holdings Limited (ICV) đã
tuyên bố quyết định thoái vốn tại Việt Nam để đóng quỹ và thanh lý toàn bộ danh
mục đầu tư. Quỹ này được thành lập năm 1999, hoạt động được mười năm. Tuy
nhiên, tính đến ngày 31/7 năm 2009, giá trị tài sản ròng của ICV tại Việt Nam là
242,9 triệu USD, chỉ bằng một nửa so với giá trị ban đầu. Cũng trong năm 2009,
Indochina Capital đã mất 53% giá trị. Trong số các quỹ đầu tư mạo hiểm nước
ngoài tại Việt Nam, nổi bật nhất hiện nay vẫn là Vina Capital và Dragon Capital.
Nếu như hai năm 2008-2009 vừa qua là thời kỳ ảm đạm và thất bại đối với hầu
hết các quỹ đầu tư trong và ngoài nước thì đầu 2010 năm nay, nhiều quỹ đầu tư bắt
đầu gặt hái thành quả. Mức tăng trưởng đầy triển vọng và khả năng sinh lời của các
doanh nghiệp trong nước đã trở thành tâm điểm giải ngân của các quỹ đầu tư lớn.
Mekong Capital đã đưa ra thông tin về kết quả hoạt động đầy ấn tượng trong
năm 2009 của 21 công ty thuộc danh mục đầu tư của ba quỹ do Mekong Capital
Trang 40
quản lý. Bất chấp kinh tế toàn cầu vẫn còn đang trong giai đoạn khủng hoảng, các
công ty thuộc danh mục đầu tư của Mekong Capital vẫn đạt mức tăng trưởng lợi
nhuận thuần bình quân là 103% so với năm 2008. Cả ba quỹ đều hoạt động tốt với
kết quả tăng trưởng lợi nhuận thuần trung vị tính chung trên 21 công ty đạt 75%.
Còn đối với VinaCapital, giá trị tài sản ròng (NAV) của ba quỹ VOF, VNL và
VNI do VinaCapital quản lý đã đạt 1,746 tỷ USD.
Theo ông Andy Ho, Giám đốc điều hành Tập đoàn VinaCapital, NAV của
VOF trong quý 1 vừa qua cũng có sự tăng trưởng đáng kể so với tổng số vốn 785
triệu USD trong năm 2009 tăng 29,7%. Trong cơ cấu tài sản của VOF, cổ phiếu
niêm yết chiếm 39,5% NAV, tương đương với 310,075 triệu USD, tiếp theo là bất
động sản (28,2% NAV tương đương 221,37 triệu USD), tiền mặt và các tài sản khác
(13,1% NAV xấp xỉ 102,835 triệu USD), cổ phiếu OTC (9,1% NAV đạt 71,435
triệu USD). Bên cạnh đó, Quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng Vietnam Infrastructure Limited
(VNI) có NAV tính đến 31/12/2009 đạt 267 triệu USD, tăng 5,5% so với cuối năm
2008, từ mức giảm 29,1% trong năm 2008. Được biết, ngoài việc quản lý ba quỹ
trên, hiện VinaCapital còn cùng Tập đoàn Draper Fisher Jurvetson (DFJ) quản lý
quỹ đầu tư mạo hiểm DFJV, chuyên tập trung đầu tư vào các công ty hoạt động
trong lĩnh vực Internet, viễn thông và truyền thông.
Với quy mô 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, chủ yếu là các doanh
nghiệp tư nhân, thị trường đầu tư PE chắc chắn sẽ là sự lựa chọn ưu tiên của các quỹ
đầu tư trong chu kỳ đi lên sau khủng hoảng.
Nếu xét về nguồn vốn thì ba quỹ nước ngoài đi đầu trong lĩnh vực đầu tư vào
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là VinaCapital, Mekong Capital và Dragon
Capital. Việc Indochina Capital đóng quỹ đầu tư vào năm 2009 đã cản trở phần nào
những quỹ đầu tư đang có ý định góp vốn vào các quỹ PE tại Việt Nam trong giai
đoạn trước. Khi nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là khối SMEs luôn cần vốn để tăng cường hiệu suất sản xuất đem lại lợi
nhuận cao hơn.
Trang 41
Gần đây nhất, tập đoàn quản lý quỹ VinaCapital đã thông báo đầu tư 15 triệu
đô la vào tập đoàn Prime – tập đoàn sản xuất gạch ốp lát lớn nhất Việt Nam.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu có
nhiều lợi thế luôn là “địa chỉ tốt” để các quỹ đầu tư tìm đến. Sự hiện diện của quỹ
với tư cách là cổ đông lớn sẽ làm tăng giá trị cổ phiếu doanh nghiệp. Một số doanh
nghiệp khi được các quỹ đầu tư đã phát triển ấn tượng bất chấp cả thời kỳ suy thoái.
Ví dụ như công ty CP Kỹ Thuật số có lợi nhuận thuần tăng 366% trong năm 2009;
công ty bảo vệ thực vật An Giang đạt tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần là 125%;
còn công ty thực phẩm Masan đạt 75% tăng trưởng lợi nhuận thuần trong năm vừa
qua.
Một trong những thuận lợi khác để khuyến khích các quỹ đầu tư lớn giải ngân
là thị trường vốn đang mở rộng cửa, sự phát triển của thị trường tài chính và khung
pháp lý ngày càng hoàn thiện cùng với kinh nghiệm của các nhà đầu tư sau thời gian
dài thử thách trong lĩnh vực này tại Việt Nam. Các quỹ lớn như Mekong Capital,
Vina Capital đều có dự tính mở rộng quỹ trong lĩnh vực này trong những năm tới.
Điều đó chứng tỏ các quỹ đều muốn nắm bắt các cơ hội ngay từ giai đoạn đầu phục
hồi của nền kinh tế trước giai đoạn tăng trưởng “nóng” bằng cách nhắm vào các
doanh nghiệp tư nhân tiềm năng.
(cid:153) Quỹ đầu tư có đầu cơ hay không :
Tháng 6/2010, sự kiện quỹ đầu tư Dragon Capital bán ra 19 triệu cổ phiếu của
Ngân hàng Sacombank, một quỹ con của Dragon Capital. Điều này đặt ra câu hỏi là
liệu các quỹ đầu tư đang có mặt ở thị trường vốn Việt Nam đang chuyển hướng
sang đầu cơ?
Sự kiện này đã tác động mạnh đến thị trường. Tạo ra tin đồn là Dragon Capital
bị nhà đầu tư ngoại ép phải thoái vốn. Và thông tin quỹ VEIL của Dragon Capital
rút vốn đã tác động mạnh đến thị trường. Vì trong danh mục đầu tư của quỹ này
đang có nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn niêm yết trên sàn như HAG,
VNM, FPT, ACB, REE,…………
Trang 42
Nhưng sau đó cũng trong tháng 6/2010 quỹ Dragon Capital đã chính thức ký
hợp đồng hợp tác đầu tư với công ty bất động sản Sacomreal. Theo đó, Dragon
Capital hoàn tất việc nắm giữ khoảng 7,5% vốn cổ phần của doanh nghiệp này.
Không chỉ đơn thuần là tái cấu trúc danh mục đầu tư, điều chỉnh tỷ trọng giữa
nhóm ngành ngân hàng và bất động sản, Dragon Capital đã thực hiện thành công
phép tính "19 triệu cổ phiếu = 19 triệu cổ phiếu + 230 tỷ đồng". Bán STB vào thời
điểm Sacombank tăng vốn từ 6.700,5 tỷ đồng lên 9.179 tỷ đồng, Dragon Capital vừa
thu được lợi nhuận, vừa đủ để làm cổ đông chiến lược với tỷ lệ sở hữu là 7,68%.
Hơn nữa, với việc tăng vốn điều lệ từ 6.700,5 tỷ đồng lên 9.179 tỷ đồng,
Dragon Capital vẫn có thêm 19 triệu cổ phiếu (bằng con số vừa bán) mà chỉ mất có
khoảng 150 tỷ đồng để mua 12,55 triệu cổ phần mới và nhận thêm số cổ tức bằng cổ
phiếu là 6,45 triệu cổ phần. Bởi lần tăng vốn này, các cổ đông sẽ nhận 15% cổ tức
bằng cổ phiếu và được quyền mua với giá 12.000 đồng/cổ phần theo tỷ lệ mười cổ
phần được quyền mua hai cổ phần mới.
Trên thị trường, kể từ thời điểm Dragon công bố thoái vốn từ đầu tháng 6 đến
ngày 22/6, giá cổ phiếu STB đã tăng từ 20.600 lên 21.800 đồng/cổ phiếu. Trong một
số phiên giao dịch, STB là động lực tăng điểm cho toàn thị trường do động thái gom
hàng của các nhà đầu tư lớn. Nếu tính trung bình mức giá hơn 20.000/cổ phiếu,
Dragon Capital đã thu lại được 380 tỷ đồng từ việc bán 19 triệu cổ phiếu STB, trong
khi chỉ phải bỏ ra 150 tỷ đồng để có được 19 triệu cổ phiếu từ đợt tăng vốn của
STB.
Dragon Capital đã chọn đầu tháng 6/2010 để thoái vốn ở Sacombank, thời
điểm thị giá STB xấp xỉ 20.000 đồng/cổ phiếu, thấp nhất trong vòng một năm qua.
Mức giá này của STB, thậm chí xuống thấp hơn chút nữa, vẫn đảm bảo cho Dragon
Capital có lời.
Tuy nhiên, việc Dragon Capital thoái vốn ở một ngân hàng rồi lại đầu tư vào
một công ty thuộc lĩnh vực bất động sản, chưa thể khẳng định Dragon Capital
chuyển hướng sang đầu cơ. Đó có thể chỉ đơn thuần là việc tái cấu trúc danh mục
đầu tư của quỹ. Xét về dài hạn, thị trường bất động sản là một ngành mũi nhọn
Trang 43
nhiều tiềm năng, tăng trưởng tốt và Sacomreal là một doanh nghiệp tiềm năng mà
Tuy vậy, với việc thoái vốn này của Dragon Capital nhà đầu tư nhỏ vẫn bị ảnh
quỹ nhắm tới.
hưởng từ việc các quỹ đầu tư cơ cấu lại danh mục cổ phiếu. Vì các quỹ đầu tư
thường có vốn mạnh, kinh nghiệm và thông tin nhiều… nên khi công bố mua hay
bán một cổ phiếu nào đó đương nhiên giá cổ phiếu sẽ biến động mạnh.
Việc mua vào, bán ra cổ phiếu của doanh nghiệp nào đó là hết sức bình thường
của một quỹ đầu tư. Các quỹ bán ra cổ phiếu để cơ cấu lại danh mục là công việc
chuyên môn thuần túy.
Do đó, việc các quỹ có tham gia đầu cơ hay không, rất khó nói thế nào là đầu
tư hay đầu cơ. Vấn đề này cần phải xem lại thời gian nắm giữ của từng cổ phiếu
trong danh mục đầu tư của quỹ.
2.2. Đánh giá nguồn vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam:
2.2.1. Đối tượng phạm vi đầu tư :
Đối với các quỹ thành lập ở những năm đầu của thập niên 90 (fist wave), hầu
hết các khoản đầu tư đều được thực hiện từ những năm đầu khi quỹ mới
vào hoạt động tại Việt Nam (1991-1996). Đây là thời kỳ mà hệ thống
những quy định về sự tham gia góp vốn của nước ngoài vào công ty trong
nước chưa được hoàn thiện, khu vực tư nhân còn nhiều hạn chế. Do đó việc
đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam chưa phải là hấp dẫn đối với các quỹ, loại
hình doanh nghiệp mà quỹ tập trung đầu tư là các dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI thành lập theo luật đầu tư nước ngoài. Quy mô danh mục
đầu tư không tăng mà có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, những quỹ này lại chủ yếu
đầu tư vào các doanh nghiệp trong giai đoạn tăng trưởng, có nhu cầu về vốn
để mở rộng sản xuất, không chú trọng đến các doanh nghiệp mới khởi sự.
Đối với các quỹ thành lập từ năm 2002 đến nay (second wave), những
quỹ này có nhiều cơ hội, dự án tốt để đầu tư hơn. Bởi ở giai đoạn này, với nỗ lực
của nhà nước qua những chính sách khuyến khích và cải cách, số lượng
doanh nghiệp ở mọi hình thức đã tăng lên vượt bậc. Điểm mới so với các
Trang 44
quỹ thành lập trước đó là có những quỹ sẽ tập trung đầu tư vào những doanh
nghiệp khởi sự, bắt đầu kinh doanh, chưa hề có thành tựu trong quá khứ.
Tuy vậy, các quỹ đầu tư vẫn tập trung đầu tư chủ yếu vào những công
ty đã trưởng thành có uy tín. Nên nếu chỉ tính đến vốn mạo hiểm đúng
nghĩa tức là đầu tư vào doanh nghiệp khởi sự, rủi ro cao thì có thể nói số quỹ
đầu tư mạo hiểm chỉ đếm được trên đầu ngón tay. ( IDG, Mekong capital, Vina
capital..)
2.2.2. Lĩnh vực đầu tư :
Lĩnh vực hoạt động của quỹ tương đối đa dạng từ sản xuất đến thương mại,
dịch vụ, tài chính… bao gồm các dự án khách sạn, khu vui chơi giải trí, các dự án
dân dụng và thương mại, các nhà máy xi măng, công ty thép, tòa nhà cho thuê, nhà
máy sản xuất đường, hàng thô, hàng đã qua chế biến, hàng dệt may… Một số quỹ
đầu tư mạo hiểm cũng đầu tư vào các ngân hàng thương mại (ACB, Phương Nam,
Sacom bank). Riêng IDGVV thì tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghệ
cao ví dụ như phần mềm, viễn thông, mạng vô tuyến…
2.2.3. Hình thức đầu tư :
Hình thức đầu tư phổ biến là mua cổ phần đối với các công ty cổ phần hóa. Chỉ
một số các quỹ đầu tư vào công ty cổ phần thành lập từ đầu và nợ có khả năng
chuyển đổi đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Trong
khi đặc trưng của quỹ đầu tư mạo hiểm là chỉ đầu tư vào cổ phần của các công
ty mới khởi sự, chưa niêm yết. Thời điểm phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng là lúc các quỹ đầu tư mạo hiểm thoát vốn chứ không phải là thời điểm bắt
đầu đầu tư. Vì vậy, có thể nói rằng nếu xem các quỹ đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam là quỹ đầu tư mạo hiểm thì thị trường vốn mạo hiểm Việt Nam là một thị
trường không đúng nghĩa, còn nếu xem xét đúng theo nghĩa đầu tư mạo hiểm thì
thị trường vốn mạo hiểm Việt Nam cực kỳ nhỏ bé
2.2.4. Hiệu quả đầu tư :
Đối với các quỹ thành lập ở những năm đầu của thập niên 90 (fist wave), quy
Trang 45
mô các quỹ không lớn, hiệu quả đầu tư không cao nếu không muốn nói là
thấp. Ngoại trừ VEIL, tất cả các quỹ còn lại đều hoạt động thua lỗ, tài sản ròng
giảm dần. Không có cơ hội đầu tư mới cũng như không huy động được
thêm nguồn vốn mới, những quỹ này đã và đang tìm mọi cách để bán các khoản
đầu tư nhằm rút khỏi Việt Nam.
Đối với các quỹ thành lập từ năm 2002 đến nay ( second wave),các quỹ này
đều mới thành lập, thời gian hoạt động còn ít, tuy vậy hiệu quả đầu tư là khá cao.
Và với một quy mô khá lớn, đổi mới về mặt chiến lược so với các quỹ
trước cùng một đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, các quỹ này đã hứa hẹn
những sự thành công rực rỡ trong tương lai.
2.2.5. Nguồn vốn huy động :
Tất cả các quỹ này đều được huy động vốn bên ngoài Việt Nam như ở
đảo British Virgin, Cayman hay Baharmas, với cơ cấu hơn 80% ở ngoài Châu Á.
Cổ phiếu của hầu hết quỹ được niêm yết ở thị trường chứng khoán nước
ngoài như Sở giao dịch chứng khoán Ireland. Các quỹ này đều là quỹ đóng, được
quản lý bởi các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp.
Do tính chất rủi ro cao, nên đối tượng huy động vốn của các quỹ không phải từ
công chúng mà từ các định chế tài chính và đầu tư lớn.
2.2.6. Khung pháp lý :
Các quỹ đăng ký thành lập ở nước ngoài nên sổ sách kế toán, nghĩa vụ thuế
phải theo luật ở nơi đăng ký. Mặt khác, hoạt động đầu tư của quỹ ở Việt Nam. Do
đó, quỹ còn phải tuân thủ pháp luật Việt Nam như luật doanh nghiệp và luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam và do Bộ Tài Chính quản lý…
2.2.7. Đóng góp vào sự phát triển kinh tế :
Đến thời điểm này, sự đóng góp của quỹ đầu tư mạo hiểm vào nền kinh tế
nước ta là khá khiêm tốn. Tuy các quỹ đã tạo ra một kênh cung vốn mới
cho những doanh nghiệp tiềm năng nhưng số dự án nhận được vốn cũng
như sự giúp đỡ và tư vấn từ quỹ đầu tư mạo hiểm là không nhiều. Hiện nay
các doanh nghiêp vẫn chủ yếu là mong chờ sự cung cấp vốn từ ngân hàng .
Trang 46
Tuy nhiên, quỹ đầu tư mạo hiểm đã góp phần đáng kể vào việc phát triển các
dịch vụ hỗ trợ tài chính đa dạng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nội địa. Đối
với các doanh nghiệp tương đối non trẻ cần sự hợp tác để đưa doanh nghiệp lên
một tầm cao mới thì sự hiện diện của những nhà đầu tư vốn mạo hiểm tại Việt Nam
là một phát triển đáng trân trọng.
2.3. Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của các quỹ đầu tư vốn
mạo hiểm tại Việt Nam :
2.3.1. Thuận lợi :
+ Việt Nam có ưu thế về môi trường đầu tư, được đánh giá là một trong những
quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định.
+ Việt Nam là một thị trường mới, rất có nhiều tiềm năng để khai thác một tỷ
suất sinh lợi cao, đặc biệt là cho các nhà đầu tư mạo hiểm.
+ Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành điểm đến của rất nhiều nhà
đầu tư nước ngoài bởi những chính sách mở của thông thoáng hơn, từng bước cải
thiện môi trường pháp lý, môi trường đầu tư và các doanh nghiệp trong nước ngày
càng năng động hơn.
+Thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, số lượng
doanh nghiệp gia tăng mạnh mẽ trong thời gian qua, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các quỹ đầu tư lựa chọn
+ Việt Nam là quốc gia có chế độ chính trị ổn định, có chủ trương chính sách
đầu tư và phát triển kinh tế nhất quán theo quan điểm kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
+Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, có nguồn nhân công giá rẻ cũng như yếu
tố giá thành trong sản xuất và nghiên cứu thấp nên sẽ giảm được chi phí hoạt động.
+ Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, hiện có một lực lượng các chuyên gia,
các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là một lực lượng hùng hậu,
có trình độ đã và đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao trên thế giới, họ có
mong muốn được tham gia xây dựng và chuyển giao công nghệ về Việt Nam, được
Trang 47
tham gia làm việc và đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của công nghệ Việt
Nam.
+ Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua và
từng bước hoàn thiện thị trường chứng khoán phát triển bền vững,…
2.3.2. Khó khăn :
2.3.2.1.Về phía nội tại nền kinh tế :
+ Việt Nam hiện là một nước đang phát triển với một điểm xuất phát là một
nước nông nghiệp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nền kinh tế vẫn còn dựa vào
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ trọng chưa cao. Quy mô các
ngành kinh tế của Việt Nam còn khá nhỏ bé so với quốc tế và các nước trong khu
vực.
+ Với chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai
nhưng còn gặp nhiều trở ngại. Một thời gian dài đa số các doanh nghiệp đều là
doanh nghiệp nhà nước nên các quỹ đầu tư mạo hiểm có rất ít cơ hội để đầu tư.
+ Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) còn thấp ở cả khu vực kinh tế tư
nhân lẫn khu vực quốc doanh. Chi tiêu của ngân sách cho công tác R&D còn quá ít
khiến trong suốt thời gian qua, chúng ta không có nhiều ý tưởng mới để các quỹ đầu
tư mạo hiểm nhận thấy được cơ hội đầu tư.
+ Bên cạnh đó hệ thống giáo dục của nước ta còn nhiều bất cập và xa rời thực
tiễn nên chưa thể cung cấp nguồn lao động có trình độ cao cho nền kinh tế, điều này
cũng làm hạn chế sự đầu tư của các quỹ do chưa đủ niềm tin và nghi ngờ về khả
năng của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.3.2.2. Về phía thị trường :
(cid:131) Hạn chế của thị trường chứng khoán :
Sau mười năm hoạt động, có thể khẳng định rằng thị trường chứng khoán Việt
Nam vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, nhất là về tính thanh khoản do những tồn tại
sau:
+Doanh nghiệp không minh bạch về tình trạng tài chính nhằm che dấu sự thật
hoạt động kém hiệu quả của mình, nhằm định hướng cho dư luận đánh giá chứng
Trang 48
khoán cao hơn thực tế chất lượng chứng khoán mà doanh nghiệp phát hành. Từ đó,
tiếp tục giữ ổn định giá chứng khoán hoặc thậm chí gây “cơn sốt” giá mới cho
chứng khoán doanh nghiệp đã và sẽ phát hành.
+Những quy định về công bố thông tin và kiểm soát, thẩm định, cũng như tư
vấn thông tin chứng khoán của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chứng
khoán có liên quan đã và đang có kẽ hở, tồn tại nhiều bất cập và bị lợi dụng, khiến
chất lượng thông tin chứng khoán thiếu minh bạch, không kịp thời, không hệ thống
và thiếu chính xác, gây bất lợi cho nhà đầu tư.
+Khả năng phân tích tài chính, cũng như khả năng kiểm soát và thẩm định
thông tin của bản thân nhà đầu tư chứng khoán còn nhiều bất cập, hạn chế về kiến
thức và thiếu kinh nghiệm, trong khi các dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán và dịch
vụ thông tin hỗ trợ các nhà đầu tư vừa thiếu, vừa yếu, vừa không thuận lợi, không vì
lợi ích của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư tư nhân nhỏ.
+Thiếu các nhà đầu tư dài hạn và các nhà đầu tư có tổ chức, trên thị trường chủ
yếu là các nhà đầu tư ngắn hạn hay nhà đầu tư tư nhân. Những người này do thiếu
kiến thức về chứng khoán cũng như khả năng phân tích và đầu tư chứng khoán, họ
thường hành động theo phong trào, mục đích tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn, không
ổn định. Do vậy khi mua, họ sẽ đồng loạt mua và đẩy giá cổ phiếu lên rất cao,
ngược lại khi họ cố gắng bán, họ sẽ đẩy giá cổ phiếu xuống rất thấp.
Có thể nói đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho sự tăng cao hay
giảm sút liên tục của chỉ số VN-INDEX trong thời gian qua, làm cho biến động giá
cả trên thị trường không phản ánh đúng tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp niêm yết. Kết quả, các quỹ rất khó khăn trong việc bán các khoản đầu tư
theo đúng giá thực của nó để thoát vốn.
(cid:131) Chưa có một thị trường vốn mạo hiểm đúng nghĩa :
Một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư vốn
mạo hiểm phát triển là cần có một cơ chế hiệu quả dẫn vốn từ các nhà đầu
tư mạo hiểm tới các doanh nghiệp. Song trên thực tế nước ta chưa thiết lập một
phương tiện nào giúp cho nguồn vốn này được luân chuyển một cách thuận tiện.
Trang 49
Hay nói cách khác là chưa tạo ra địa điểm để cung và cầu vốn mạo hiểm gặp
nhau.
2.3.2.3.Về phía chính phủ :
(cid:131) Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện:
Trong thời gian qua, với chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư chính phủ đã ban
hành nhiều chủ trương chính sách nhằm tạo nên sự thông thoáng cho nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật của nước ta đang được xúc tiến cải tổ nhưng thực tế
nhiều năm qua cho thấy nó vẫn luôn không theo kịp nhịp đập của thị trường, và
trường hợp của quỹ đầu tư mạo hiểm cũng không phải là một ngoại lệ.
Hoạt động ở Việt Nam thời gian qua , quỹ vẫn chưa có được những quy định
một cách rõ ràng, những thông tư hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, các quỹ đã gặp nhiều
khó khăn trong quá trình thành lập và hoạt động. Hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện không những gây khó khăn cho quỹ trong quá trình hoạt động mà còn đã hạn
chế rất lớn cơ hội đầu tư cho các quỹ, đồng thời làm giảm hiệu quả đầu tư của quỹ.
Hiện nay để thành lập một quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn chưa có một luật nào
điều chỉnh, nghị định hay thông tư nào hướng dẫn cụ thể, mà chúng ta chỉ có thể áp
dụng các văn bản pháp lý sau:
+Nghị định số 144/2003/NĐ_CP của chính phủ quy định về đầu tư chứng
khoán và các công ty quản lý quỹ, việc áp dụng này không thể điều chỉnh hết mọi
vấn đề phức tạp trong quá trình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm.
+Nghị định số 175/2005/QĐ-TTG của chính phủ đã đề cập đến việc khuyến
khích các doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập các quỹ đầu tư, quỹ tín thác và
công ty quản lý quỹ theo quy định của pháp luật.
+Nghị định số 99/2003/NĐ-CP về việc ban hành quy chế khu công nghệ cao
có đề cập :” quỹ đầu tư mạo hiểm là tổ chức tài chính được thành lập theo quy định
của pháp luật để đầu tư vào các hoạt động ưu tạo công nghệ cao và các doanh
nghiệp công nghệ cao hoạt động trên cơ sở điều lệ và tổ chức hoạt động của quỹ.
Nhà nước hỗ trợ và tạo kinh phí ban đầu để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm phát
triển công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ cao trong nước .
Trang 50
+Như vậy, Nhà nước chưa chỉ rõ cơ sở pháp lý nào áp dụng cho hình thức
hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với các lĩnh vực công nghệ cao, bên cạnh
đó Nhà nước cũng chưa quy định rõ ràng về mức độ, cơ chế góp vốn từ ngân sách
nhà nước vào các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Các chính sách về thuế và ưu đãi thuế thay đổi thường xuyên cũng là một trong
những nguyên nhân hạn chế sự đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng và đầu
tư nước ngoài nói chung. Với việc ban hành nghị định 164-quy định thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với các dự án mới đầu tư vào
Việt Nam kể từ ngày 01/01/2004 là 20% ( trước đây là 10% ), được áp dụng trong
15 năm đầu , sau thời gian này sẽ tăng lên 28% và nghị định 158 – quy định 9 loại
hàng hóa , dịch vụ bán cho các doanh nghiệp chế suất và khu công nghiệp phải chịu
mức thuế là 5% ( trước đây là 0% ) – đ ã gây ra nhiều bất lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài, trong đó có các nhà mạo tư mạo hiểm. Với việc ban hành nghị định 158
và 164 đã làm giảm lợi thế so sánh của Việt Nam trong cuộc canh tranh với các
nước khu vực, làm giảm đầu tư mới và tái đầu tư, hạn chế phát triển nghành nghề và
dịch vụ mới và hậu quả là mất cơ hội thu thuế. Chính sách thuế thay đổi trong một
thời gian ngắn đã làm mất lòng tin của nhiều nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam .
Bên cạnh việc thay đổi thường xuyên, cách tính thu nhập chịu thuế cũng là
một rào cản nữa đối với các nhà đầu tư. Mặc dù hiện nay thuế suất thu nhập doanh
nghiệp của Việt Nam là 25% , ngang bằng với các nước trong khu vực nhưng với
các quy định về khống chế chi phí tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi ở mức 10% đồng
thời không cho phép hạch toán một số chi phí hợp lý khác, nên tiền thuế thu nhập
mà doanh nghiệp phải nộp là khá lớn.
Bên cạnh đó hệ thống pháp lý chưa đồng bộ và chưa thực sự phát huy được
hiệu quả, trong đó quyền sở hữu trí tuệ chưa được bảo vệ thỏa đáng. Sự thiếu ổn
định, dứt khoát trong việc bảo hộ các bản quyền phát minh, sáng chế cũng tạo tâm
lý bất an cho cac doanh nghiệp mới khởi sự, mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu
tư mạo hiểm. Ngoài ra chúng ta còn thiếu một cơ chế hoạt động hiệu quả để dẫn
vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm tới các doanh nghiệp. Các định chế công hoạt động
Trang 51
kém hiệu quả, không cung cấp được những hỗ trợ cần thiết cho các nhà đầu tư trong
việc tìm hiểu thông tin doanh nghiệp, thị trường. Các chương trình quảng bá tên
tuổi, hình ảnh, xúc tiến thương mại đầu tư dành cho các doanh nghiệp chưa được
thực hiện một cách triệt để. Từ đó, các nhà đầu tư mạo hiểm không có nhiều cơ hội
để sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư hấp dẫn .
(cid:131) Nhà nước không tạo niềm tin đối với nhà đầu tư nước ngoài :
Có thể nói các nhà đầu tư đã mất niềm tin đối với chính phủ bởi những cơ
quan, quan chức cao cấp của nước ta đã không thực hiện đúng những kế hoạch,
cam kết, lời hứa khi kêu gọi các nhà đầu tư. Ví dụ: nhà nước ta dự kiến
thành lập thị trường chứng khóan năm đầu thập niên 90 nhưng đến năm 2000 thị
trường chứng khóan mới ra đời; hứa sẽ có chính sách ưu đãi đối với mười ngành
công nghiệp lớn, ưu đãi thuế khi đầu tư công nghệ thông tin (IT), soạn thảo
phần mềm... nhưng trên thực tế nhà đầu tư vẫn chưa nhận hoặc rất ít những ưu
đãi này, dẫn đến có rất nhiều nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực IT bị thua lỗ
(trích lời của ông Vũ Hữu Điền – chuyên viên phân tích cao cấp của Dragon
Capital).
(cid:131) Thiếu sự hỗ trợ của nhà nước :
Để quỹ đầu tư mạo hiểm có thể phát huy hết vai trò cũng như lợi ích
của mình thì những quan tâm, ưu đãi của nhà nước là hết sức quan trọng. Nhưng
trên thực tế, sự hỗ trợ của nhà nước đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm hết sức nhỏ
nhoi.
Trong các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động ở Việt Nam, hoàn toàn không
có một quỹ nội địa hay nói một cách nôm na là không có sự tham gia của nước chủ
nhà. Do đó, nó đã không tạo được lòng tin cho người đầu tư trong và ngoài nước,
các tổ chức tài chính lớn, cũng như doanh nghiệp nhận đầu tư.
Tóm lại, với nhiều nguyên nhân xuất phát từ môi trường pháp lý đã dẫn đến sự
thận trọng của các nhà đầu tư mạo hiểm trong quá trình đầu tư, cũng như sự ra đi
của một số quỹ. Tuy nhiên, sự khó khăn của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong thời
gian qua cũng xuất phát từ bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm
Trang 52
2.3.2.4.Về phía quỹ đầu tư :
(cid:131) Chiến lược kinh doanh không phù hợp :
Chiến lược hoạt động thời gian đầu của các quỹ đầu tư cũng có nhiều
điểm không tương thích với môi trường kinh tế Việt Nam. Do đó, các quỹ đầu tư
mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đã gặp phải không ít những sai lầm nghiêm trọng.
Đa số các quỹ chưa năng động và cứng nhắc trong việc xây dựng cũng như lựa chọn
loại hình đầu tư. Hầu hết các quỹ chỉ tập trung tìm kiếm các dự án có quy mô
lớn, trong khi thực tế vốn trung bình đầu tư vào một dự án tại Việt Nam
chỉ vào khoảng một triệu USD. Hơn thế, ngoài yêu cầu về quy mô, các quỹ còn có
các đòi hỏi khá khắt khe về tỷ suất sinh lời của các dự án. Với chiến lược này cùng
với sự khan hiếm cơ hội đầu tư, dẫn đến ngay từ thời gian đầu, thị trường đầu tư
của các quỹ đã bị trói buộc.
Điều này thể hiện rõ nhất qua xu hướng hoạt động của quỹ Beta Fund và
Templetion Việt Nam Fund , tiêu chí của Beta Fund là chỉ đầu tư vào các doanh
nghiệp liên doanh hoặc các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có giá trị từ 1-5
triệu USD và tuyệt đối không đầu tư các doanh nghiệp trong nước. Templetion Việt
Nam Fund thì chỉ tập trung đầu tư vào nhữnh dự án có giá trị từ 10 triệu USD trở
lên, do đó các quỹ này rất khó khăn trong việc tìm kiếm cc dự án đầu tư. Trong thời
gian tồn tại ở Việt Nam, Templetion Việt Nam Fund chỉ đầu tư vào hai dự án: khách
sạn Matropole Hanoi và căn hộ cho thuê Mayfair.
Bên cạnh đó, tiêu chuẩn đánh giá của một số quỹ đầu tư mạo hiểm quá cao
đòi hỏi các dự án phải có tỉ suất sinh lời nội bộ từ IRR cao, vượt quá khả năng của
một số doanh nghiệp. Điều này làm cho cơ hội đầu tư của các quỹ bị hạn chế. Ngoài
ra, một số quỹ chưa thực sự am hiểu môi trường Việt Nam. Xuất phát từ nghiên cứu
thị trường chưa kĩ hoặc sai lầm trong việc chọn đối tác, nhận thức sai lầm về môi
trường kinh doanh ở Việt Nam khiến cho các quỹ tự xây dựng dự án và chọn đối tác
nước ngoài hơn là hợp tác với các doanh nghiệp nội địa đôi khi gây hại cho chính
Sự thất bại của các quỹ đầu tư mạo hiểm còn bắt nguồn từ sự mâu thuẩn
bản thân các quỹ mà điển hình là dự án Indochina Juice của Beta Fund .
Trang 53
giữa công ty mẹ và văn phòng đại diện công ty tại Việt Nam. Họ dường như chưa
có tiếng nói chung trong việc lựa chọn dự án đầu tư. Có những văn phòng đại diện ở
Việt Nam đề xuất những dự án mang tính khả thi cao nhưng công ty mẹ không đồng
ý với những dự án đó mà ngược lại cònn đưa ra những dự án đầu tư khác bắt buộc
văn phòng đại diện tại Việt Nam phải tiến hành đầu tư mà không cần biết dự án này
có khả thi hơn hay không. Những việc này là do một phần trình độ quản lý yếu kém,
thiếu sự trong sáng trong đầu tư, thiếu tính minh bạch trong báo cáo tài chính, sự cố
chấp cũng như thái độ thiếu thận trọng khi lựa chọn quyết định .
(cid:131) Hạn chế của mô hình quỹ hải ngoại:
• Hạn chế về lĩnh vực ngành nghề, đối tượng đầu tư :
Thứ nhất, do không thích vướng phải thủ tục rườm rà khi đầu tư vào các doanh
nghiệp trong nước nên các quỹ hải ngoại thường hướng đến các các doanh ngiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, các quỹ hải ngoại đi theo danh mục đầu tư mang lại lợi nhuận cao
nhất, do đó họ sẽ tập trung đầu tư vào các lĩnh vực mà ít nhiều không theo
chiến lược phát triển kinh tế của nước ta.
Thứ ba, Quyết định số 260/2002/QĐ-BKH về 35 ngành nghề nhà đầu
tư nước ngoài có thể đầu tư thực chất là không quá gò bó đối với các nhà
đầu tư nước ngoài. Mà chính thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam làm cho quy
định này trở thành rào cản. Bởi vì khi thành lập, các doanh nghiệp thường
đăng ký kinh doanh ở nhiều ngành nghề, và chỉ cần một ngành nghề trong
số đó không nằm trong 35 ngành nghề quy định thì quỹ sẽ không thể góp vốn
đầu tư.
• Hạn chế về quyền kiểm soát :
Do hạn chế về vốn góp cũng như những yếu tố khác, thường quỹ đầu
tư hải ngoại không thể nắm một quyền kiểm soát cao cũng như những chức
vụ quan trọng để có thể ảnh hưởng đến những quyết định của công ty, đảm bảo
nguồn vốn đầu tư của họ được sử dụng có hiệu quả.
• Nhà quản lý là người nước ngoài :
Trang 54
Trong cơ cấu tổ chức quỹ hải ngoại, phần lớn các nhà quản lý đều là
người nước ngoài. Sự khác biệt về ngôn ngữ, tác phong làm việc hay thiếu am hiểu
về môi trường pháp lý sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài
trong vấn đề tiếp cận với doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra do không nắm
bắt được tâm lý, thói quen tiêu dùng của người dân cũng như môi trường kinh
tế trong nước, quỹ hải ngoại có thể đầu tư vào những sản phẩm không thích hợp,
không đáp ứng nhu cầu xã hội.
• Rào cản về vốn :
Trước đây, theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức
nước ngoài chỉ được đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước không quá 30% vốn
điều lệ. Và mới đây đã nâng lên 40% đối với các doanh nghiệp chưa niêm yết (49%
với các doanh nghiệp niêm yết). Tuy nhiên, đối với các quỹ hải ngoại, tỷ lệ
này không phải là vấn đề chính. Vấn đề ở đây là quy mô các doanh nghiệp Việt
Nam quá nhỏ bé. Do đó, khi con số 30% hay 40% vốn điều lệ quy về số
tuyệt đối, thì khoản đầu tư tối đa là không đáng kể so với quy mô của
quỹ. Để đầu tư hết nguồn huy động được, các quỹ buộc phải trải rộng danh mục
đầu tư. Điều này ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư của quỹ do sự mất cân đối hay sự
pha lõang giữa trách nhiệm và năng lực quản lý.
• Rủi ro tỷ giá :
Ở nước ta trong thời gian qua tình hình tỷ giá tương đối ổn định, các quỹ
không mấy bận tâm đến vấn đề này. Song có thể khẳng định tỷ giá là một rủi ro
tiềm ẩn đối với các quỹ hải ngoại. Là một nhân tố khá nhạy cảm với thay đổi của
môi trường kinh tế, môi trường chính trị… biến động của tỷ giá là khó lường trước
được. Dao động tỷ giá quá lớn sẽ để lại những thiệt hại to lớn cho nền kinh tế nói
chung và các nhà đầu tư nói riêng trong vấn đề thu hồi vốn.
Một vấn đề cần đề cập đến là quyền kiểm soát của Ngân hàng Nhà Nước đối
với các hoạt động giao dịch bằng ngoại tệ của quỹ hải ngoại. Tất cả các giao dịch
bằng ngoại tệ như mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay… đều phải thông qua Ngân
hàng Nhà Nước. Nếu đứng trên quan điểm của Nhà Nước, quy định này là
Trang 55
phù hợp. Đó là một trong những công cụ để kiểm soát quan hệ cung cầu
ngoại tệ cũng như hạn chế xảy ra khủng hoảng tài chính. Nhưng khi đứng trên
quan điểm của quỹ, quy định này là một trở ngại làm giảm hiệu quả hoạt động của
quỹ. Thủ tục đầu tư trở nên rườm rà, mất thời gian, mất cơ hội đầu tư tốt, làm
nản lòng các nhà đầu tư.
• Khó huy động vốn trong nước :
Ở Việt Nam, các quỹ hải ngoại chỉ huy động vốn từ nước ngoài, và hoạt động
của các quỹ chỉ đơn giản là hoạt động đầu tư để thu lãi trên thị trường Việt Nam.
Do vậy, có thể nói quỹ đã không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Việt Nam có cơ
hội đầu tư cũng như không góp phần huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta.
2.3.2.5.Về phía các doanh nghiệp :
(cid:131) Sự thiếu minh bạch của các doanh nghiệp Việt Nam:
Điều này làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn khi tiến hành đánh giá
doanh nghiệp trước khi đầu tư cũng như trong quá trình giám sát, củng cố doanh
nghiệp, làm cho các nhà đầu tư từ bỏ ý định đầu tư. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam
hoạt động không có chiến lược, hệ thống quản trị kém từ đó các nhà đầu tư rất khó
khăn khi đưa ra các quyết định nhanh chóng, kịp thời, chính xác để có thể làm tăng
thu nhập, làm tăng giá trị doanh nghiệp.
(cid:131) Thiếu những dự án khả thi:
Số lượng doanh nghiệp gia tăng mạnh mẽ trong thời gian qua, đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các quỹ đầu tư lựa chọn.
Tuy nhiên, những dự án có tiềm năng tốt, thực sự hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu của
các quỹ đầu tư lại chưa nhiều, số lượng dự án xin tài trợ nhiều nhưng số lượng dự án
được xem xét lại thấp.
(cid:131) Ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa kinh doanh á đông :
Môi trường và nền văn hóa của giới kinh doanh trong nước cũng là một nguyên
nhân dẫn đến sự không thành công của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ta thời
gian qua. Để hạn chế rủi ro, các quỹ tập trung đầu tư vào các công ty đã qua thử
thách. Nên khi vào Việt Nam, các quỹ tìm được rất ít cơ hội góp một số vốn có ý
Trang 56
nghĩa vào các công ty có sẵn (chẳng hạn như doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa).
Lý do đơn giản là họ luôn bị coi là những người lạ và bị quản trị viên các công ty
trong nước e dè khả năng bị đối tác nước ngoài thôn tính.
+ Các công ty vừa và nhỏ ở Việt Nam chủ yếu được quản lý theo kiểu “gia
đình trị” nên quyền lực quản lý luôn được đặt lên hàng đầu và rất khó chia sẽ cùng
người khác nên hình thức nợ vay được ưa chuộng hơn so với vốn cổ phần, đây cũng
là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Hơn nữa rất khó để các nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm bắt được
chính xác tình hình của doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư do tư tưởng bí mật thông
tin vẫn còn tồn tại.
Mức độ chấp nhận rủi ro và tinh thần mạo hiểm của các doanh nghiệp Việt
Nam còn tương đối thấp so với các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó hạn chế khả năng
cung cấp những ý tưởng táo bạo dẫn đến sự hạn chế hoạt động của các quỹ đầu tư
vốn mạo hiểm ở Việt Nam.
(cid:153) Tác động của những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của quỹ
đầu tư mạo hiểm :
- Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động đầu
tư vốn mạo hiểm, tuy nhiên thị trường vốn mạo hiểm tại Việt nam thời gian qua đã
không đạt được những kết quả như người ta từng mong đợi. Ta thấy rằng, các quỹ
đầu tư mạo hiểm đang hoạt động ở Việt Nam đều là quỹ hải ngoại nên khi tham gia
vào thị trường Việt Nam các quỹ này còn bị hạn chế về số lượng và ngành nghề đầu
tư. Các quỹ chủ yếu tập trung đầu tư vào những doanh nghiệp đã trưởng thành chứ
không phải là những doanh nghiệp mới khởi sự, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ
của Việt Nam rất khó tiếp cận được nguồn vốn tài trợ này.
- Theo đúng đặc điểm của vốn mạo hiểm thì thời điểm doanh nghiệp phát
hành IPO là thời điểm mà doanh nghiệp sẽ tiến hành công cuộc thoát vốn của các
quỹ, trong khi ở Việt Nam đây là giai đoạn để các quỹ tiến hành đầu tư vào các
doanh nghiệp. Như vậy giữa cung vốn đầu tư mạo hiểm của các quỹ và cầu vốn đầu
Trang 57
tư mạo hiểm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa tìm được một điểm chung để có
thể phát huy được hiệu quả thật sự lớn của kênh tài trợ vốn này.
- Sự hạn chế về hiệu quả hoạt động của vốn đầu tư mạo hiệm tại Việt Nam
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà qua tìm hiểu ta có thể nhận thấy bên
cạnh những thuận lợi mà thị trường Việt Nam có được vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
làm hạn chế hiệu quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm.
2.4.Thực trạng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam và hiệu quả hoạt
động của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong thời gian qua :
Trong thời gian qua các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đầu tư tài trợ vốn cho rất
nhiều DN VN và các DN này đã đạt được mức tăng trưởng đáng kể. Điều này đã
cho thấy hiệu quả trong hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm của các quỹ đầu tư mạo
hiểm. Tiêu biểu có thể kể đến các quỹ đầu tư mạo hiểm sau :
(cid:153) Mekong Capital:
Quá trình đầu tư tài trợ vốn cho các DNVN của Mekong Capital như sau :
Năm 2002:
Ngày 22/04/2002 khai trương MeKong Enterprise Fund
Năm 2003:
Ngày 20/03/2003 MeKong Enterprise Fund đầu tư 900,000 USD vào công ty
cổ phần xây dựng và kiến trúc AA.
Ngày 20/03/2003 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,600,000 USD vào công
ty cổ phần nhựa Tân Đại Dương.
Ngày 16/10/2003 MeKong Enterprise Fund đầu tư 745,000 USD vào công ty
cổ phần tin học Lạc Việt.
Năm 2004:
Ngày 14/01/2004 MeKong Enterprise Fund đầu tư thêm 630,000 USD vào
công ty cổ phần xây dựng và kiến trúc AA.
Ngày 29/04/2004 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,850,000 USD vào công
ty cổ phần dây điện từ Ngô Han.
Trang 58
Ngày 15/06/2004 MeKong Enterprise Fund đầu tư 900,000 USD vào công ty
cổ phần sản xuất và thương mại Nam Hoa.
Ngày 24/11/2004 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,000,000 USD vào công
ty cổ phần Minh Phúc.
Năm 2005:
Ngày 25/02/2005 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,350,000 USD vào công
ty cổ phần chế biến gỗ Đức Thành.
Ngày 15/04/2005 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,850,000 USD vào cty cổ
phần may Minh Hoàng.
Ngày 19/08/2005 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,850,000 USD vào công
ty cổ phần Gas Saigon.
Ngày 07/12/2005 MeKong Enterprise Fund đầu tư 1,550,000 USD vào cty cổ
phần Mặt Trời Vàng.
Năm 2006:
Ngày 05/06/2006 khai trương MeKong Enterprise Fund II qui mô 50triệu
USD.
Ngày 13/11/2006 MeKong Enterprise Fund II đầu tư hơn 6triệu USD vào
công ty cổ phần hàng gia dụng Quốc Tế(ICP).
Năm 2007:
Ngày 05/01/2007 MeKong Enterprise Fund II đầu tư 6,250,000 USD vào cty
cp dây diện từ Ngô Hàn.
Ngày 16/05/2007 Mekong Capital khai trương quỹ 100 triệu USD Vietnam
Azalea Fund Limited
Ngày 25/05/2007 Mekong Enterprise Fund II., Ltd cam kết đầu tư 4.5 triệu
USD vào Công ty cổ phần Thế Giới Di Động.
Ngày 01/10/2007 Mekong Enterprise Fund II., Ltd đầu tư 5.4 triệu USD vào
Công ty cổ phần Veture International (Việt Nam) (“VIVCO”).
Ngày 20/12/2007 Mekong Enterprise Fund II., Ltd đầu tư 4 triệu USD vào
Công ty cổ phần Thông Minh MK.
Trang 59
Năm 2008:
Ngày 16/01/2008 Vietnam Azalea Fund Limited đầu tư 3 triệu USD
Traphaco.
Ngày 28/01/2008 Vietnam Azalea Fund Limited đầu tư gần 12 triệu USD
vào Công ty cổ phần Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận (“PNJ”)
Ngày 06/03/2008 Vietnam Azalea Fund Limited đầu tư gần 14 triệu USD
vào Công Ty Cổ Phần Đầu Tư – Kinh Doanh Nhà (“INTRESCO”)
Ngày 12/03/2008 Mekong Enterprise Fund II., Ltd cam kết đầu tư 5 triệu
USD vào Công ty Cổ Phần Mai Sơn.
Ngày 12/03/2008 Mekong Enterprise Fund II., Ltd cam kết đầu tư 2.6 triệu
USD vào Công Ty Cổ Phần Thương Mại Dịch Vụ Cổng Vàng.
Trong năm 2009 các công ty Các công ty thuộc danh mục đầu tư do Mekong
Capital quản lý đạt mức tăng trưởng lợi nhuận thuần 89%.
Trong 6 tháng đầu năm 2010, 21 công ty thuộc danh mục đầu tư của 3 quỹ do
Mekong Capital quản lý đạt tỷ trọng bình quân tăng trưởng lợi nhuận thuần là 30% .
Trong đó, Công ty Bao bì Minh Phúc đạt tăng trưởng lợi nhuận thuần 382%; Công
ty Dây điện từ Ngô Han đạt tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần là 381%.
Cả ba quỹ đều hoạt động tốt với kết quả tăng trưởng lợi nhuận thuần trung vị
tính chung trên 21 công ty đạt 75%. Đặc biệt các công ty tiêu dùng như bán lẻ, nhà
hàng, thực phẩm và hàng tiêu dùng hoạt động rất hiệu quả.Trong khi đó, nhiều công
ty sản xuất tăng cường hiệu suất đáng kể đem lại lợi nhuận cao hơn.
Một số công ty đã không ngừng phát triển nhờ vào các kế hoạch được thực hiện bởi
đội ngũ lãnh đạo cùng sự hỗ trợ của Mekong Capital:
Công ty CP Kỹ Thuật số: Lợi nhuận thuần của Công ty CP Kỹ Thuật số tăng
245% trong năm 2009, kết quả của việc tái tổ chức thành công các trung tâm/cửa
hàng có lợi nhuận cao của công ty.
Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang: Bảo vệ Thực vật An Giang đạt tỷ lệ tăng
trưởng lợi nhuận thuần là 125% trong năm 2009. Đây là kết quả của việc củng cố
Trang 60
xây dựng đội ngũ và mạng lưới kinh doanh. Điều này cũng đem lại kết quả là doanh
số bán cao hơn cùng thị phần về bảo vệ cây trồng được mở rộng.
Công ty Thực phẩm Masan: Thực phẩm Masan đạt 65% tăng trưởng lợi nhuận
thuần trong năm 2009, nhờ vào đội ngũ lãnh đạo giỏi va việc mở rộng hoạt động
thành công sang lĩnh vực mỳ ăn liền với hai nhãn hàng Omachi và Tiến Vua.
(cid:153) Vina Capital:
Vina Capital chính thức ra đời và hoạt động ngày 11/11/2003 tại Thành Phố Hồ
Chí Minh. Số vốn ban đầu của quỹ là mười triệu USD. Hiện tại, Vina Captital đang
quản lý bốn quỹ đầu tư là: Vietnam Opportunity Fund (VOF), ViNa Land Limited
(VNL), Vietnam Infrastructure Limited (VNI) và DFJ Vinacapital (DFJV).
Tuy nhiên, trong 4 quỹ đó chỉ có DFJV có quy mô hơn 30 triệu USD là liên
doanh giữa Vina Capital và DFJ, chuyên về đầu tư mạo hiểm cho các công ty trong
lĩnh vực công nghệ.
Năm 2006, DFJV đã đầu tư vào công ty thương mại điện tử Gophatdat.com.
đây là một công ty chuyên cung cấp thong tin thương mại điện tử dành cho các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngày 17/10/2006, tại Hà Nội, Quỹ đầu tư DFJ VinaCapital L.P (Vương quốc
Anh), có tổng vốn ban đầu 50 triệu USD, đã đầu tư vào VON (Vietnam Online
Network) số vốn trị giá 2 triệu USD. Đây chính là điểm mốc quan trọng giúp VON
có thêm sức bật để trở thành công ty sở hữu những mạng trực tuyến vào loại lớn
nhất Việt Nam hiện nay. VON là công ty chuyên cung cấp thong tin trực tuyến với 3
website (TimNhanh.com.vn, Yume.vn, và Kiemviec.com).
Ngày 1/11/2007, quỹ đầu tư DFJ Vina Capital L.P thong báo quyết định đầu tư
vào Công ty cổ phần truyền thông GAPIT là một công ty kinh doanh dịch vụ trên
điện thoại di động. Việc đầu tư này được thực hiện thông qua các điều khoản hai
bên thống nhất, qua đó GAPIT sẽ phát hành cổ phiếu Seria A cho DFJV; phần vốn
được đầu tư này sẽ được dùng để mở rộng hoạt động kinh doanh của GAPIT. Tuy
DFJV và GAPIT đều từ chối công bố tỷ lệ phát hành và giá trị cụ thể của khoản đầu
tư này nhưng đó là một khoản đầu tư tương ứng với một tỷ lệ sở hữu đủ để quỹ đầu
Trang 61
tư này hỗ trợ tài chính và để tham gia trong Hội đồng Quản trị và Ban điều hành của
GAPIT. VinaCapital cũng như quỹ đầu tư này rất quan tâm tới lĩnh vực công nghệ,
truyền thông, đặc biệt là thông tin di động tại VN. Theo đánh giá của nhà đầu tư
này, GAPIT là một trong những DN có tiềm năng trong sự quan tâm đó.
Ngày 8/1/2008, Đầu tư DFJ VinaCapital L.P (DFJV) và Chicilon Media đã
chính thức ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư với giá trị là 3 triệu USD.
Theo đó, DFJV sẽ cam kết hỗ trợ Chicilon Media mua thêm ít nhất 7.000 màn hình
LCD trong năm 2008 nhằm đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xây dựng
thương hiệu của công ty này tại Việt Nam.
Bằng việc ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư với DFJV, Chicilon sẽ có thêm
nguồn lực để tiếp tục mở rộng hoạt động của mình không những chỉ về tài chính mà
còn là các cơ hội làm việc chung các công ty trong danh mục đầu tư của DFJV,
Vietnam Opportunity Fund, VinaLand và quỹ Đầu tư Hạ tầng Việt Nam (VNI) - vốn
là các đơn vị cùng thuộc quyền quản lý của VinaCapital Group.
Danh mục đầu tư phong phú, đa dạng của tập đoàn VinaCapital, đặc biệt các
đơn vị hoạt động trong lĩnh vực bất động sản như các khách sạn cao cấp bao gồm
khách sạn Metropole Sofitel Hà Nội, Hilton Hanoi Opera... sẽ là những khách hàng
đầy tiềm năng cho quá trình phát triển các dịch vụ của Chicilon Media.
Bên cạnh đó, DFJV còn tham gia vào hoạt động quản lý của Chicilon Media
để mở rộng dịch vụ cung cấp các chiến lược quảng cáo truyền thông ngoài trời cho
các khách hàng, nâng chất lượng dịch vụ của Chicilon Media lên một tầm cao
chuyên nghiệp mới.
Chicilon Media (Việt Nam) được thành lập từ đầu năm 2001. Đây là công ty
chuyên về in quảng cáo và quảng cáo truyền thông qua hệ thống màn hình tinh thể
lỏng thuộc hệ thống Chicilon toàn cầu.
Ngày 20/5/2008, Quỹ đầu tư công nghệ thông tin và viễn thông DFJ
VinaCapital L.P (DFJV) ký kết hợp đồng đầu tư vào công ty mobizCom - một công
ty chuyên cung cấp công nghệ bảo mật để giữ an toàn cho rất nhiều loại giao dịch
bằng điện thoại di động (ĐTDĐ). quỹ DFJV chọn mobizCom đầu tư bởi công ty
Trang 62
này đang phát triển công nghệ chứng thực và xác thực một lần (OTAC- One Time
Authentication Certification) có tính bảo mật cao.
công ty này thường cung cấp các giải pháp giao dịch tài chính di động trực tuyến.
Quỹ DFJV sẽ nắm giữ hơn 30% cổ phần của mobizCom.
Cùng với việc góp vốn đầu tư, quỹ sẽ giúp mobizCom hợp tác với những công
ty thương mại và tài chính để xây dựng các giải pháp thanh toán linh hoạt nhằm
tăng lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh và tăng tính tiện lợi trong giao dịch cho
khách hàng.
Ngoài ra trong năm 2008, quỹ DFJV cũng đầu tư vào Yeah 1!TV là một kênh
truyền hình dành cho tuổi thanh thiếu niên.
Ngày 28/01/2010, Quỹ DFJ VinaCapital do Tập đoàn VinaCapital quản lý đã
chính thức ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư chiến lược 2 triệu USD vào Công ty
TS24 để phát triển mạng lưới vả đa dạng hóa các dịch vụ liên quan đến các Giải
pháp Kê khai và Nộp thuế trên trang web TaxOnline.
Ngoài ra, DFJV còn đầu tư vào DirectWithHotels – một công ty chuyên cung
cấp dịch vụ đặt phòng trực tuyến cho các khách sạn vừa và nhỏ.
Mục tiêu của quỹ DFJ VinaCapital L.P. là các công ty viễn thông Nhà nước
đang tiến hành cổ phần hóa như VinaPhone, MobiFone; các doanh nghiệp hoạt
động trong ngành công nghệ thông tin như FPT, Internet và kết nối không dây, sản
xuất và gia công phần mềm, truyền thông kỹ thuật số, hạ tầng mạng.
(cid:153) IDG Venture VietNam (IDGVV) :
IDGVV là quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên về công nghệ cao có mặt tại Việt
Nam, thành lập 08/2004 với số vốn là 100 triệu USD đầu tư chủ yếu vào các công ty
tư nhân thuộc lĩnh vực viễn thông, truyền thông và công nghệ.
Đến nay IDGVV đã đầu tư cho rất nhiều doanh nghiệp ví dụ như
Peacesoft, Isphere, Vinagame, Vietnamwork.com, Dreamwork, Công ty cổ phần
dịch vụ giải pháp không dây (MSS), Công ty cổ phần Yêu âm nhạc, Vinapay
giải ngân được 20 triệu USD trong tổng số 100 triệu USD đầu tư của quỹ. Quá
trình đầu tư sẽ được chia làm nhiều giai đoạn giải ngân. Sau khi đầu tư, IDGVV
Trang 63
giúp cho các doanh nghiệp này phát triển gia tăng giá trị, sau đó sẽ thu hồi lợi
nhuận từ việc đưa lên sàn chứng khóan hoặc bán lại cho một tập đòan lớn khác
muốn chiếm lĩnh thị trường tại Việt Nam. Để hoạt động đầu tư mạo hiểm của IDG
thành công tại Việt Nam, IDG không chỉ cung cấp vốn mà cả thông tin cho họ.
Chính vì thế, IDG sẽ cho ra đời các ấn phẩm về CNTT như PCWorld,
Computer World, Telecom World... nhằm cập nhật những thông tin mới nhất
về CNTT trên thế giới.
Năm 2004 IDG Ventures đã rót vốn từ Quỹ đầu tư mạo hiểm của tập
đồn này tại Việt Nam cho VinaGame và Vietnam Works.com/Navigos Group.
VinaGame được thành lập tháng 9/2004, là doanh nghiệp đầu tiên tại
VN tập trung kinh doanh ngành trò chơi trực tuyến. Cuối 2004, VinaGame
đã ký hợp đồng với Kingsoft (Trung Quốc) để phát hành game online Võ lâm
truyền kỳ tại VN. Với nguồn đầu tư từ IDG, IDG đã hết sức kỳ vọng vào việc viết
phần mềm cho game trực tuyến. Còn VietnamWorks là công ty hoạt động trong
lĩnh vực tuyển dụng trực tuyến tại VN. Được biết, trong vòng 2 năm qua,
doanh nghiệp này đã tăng trưởng 400% và đang phấn đấu để năm nay tăng
trưởng 300%. Thời gian tới, bên cạnh những trọng tâm hàng đầu là thông tin
dịch vụ tuyển dụng, IDG mong muốn Vietnam Works tập trung vào các lĩnh vực
như ký hợp đồng, cung cấp công văn mang tính tạm thời cũng như đưa ra
các tư vấn về nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
Vào đầu năm 2007, Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên của Mỹ tại Việt
Nam(IDG) đã công bố tiếp tục đầu tư vào Công ty cổ phần Vega Software và Công
ty cổ phần Goldsun Focus Media. Media là một trong những bước đầu tư của công
ty tại Việt Nam. Đây là công ty thứ 15 và 16 mà Tập đòan Dữ liệu quốc tế (IDG)
đầu tư vào Việt Nam. Goldsun Focus Media là một công ty hoạt động trong lĩnh vực
quảng cáo điện tử trên thị trường Việt Nam, Còn Vega Software hiện là một
trong những công ty phần mềm thành công tại Việt Nam.
Từ đó đến nay IDGVV đã đầu tư cho 39 công ty CNTT. Quỹ đầu tư mạo hiểm
của IDGVV có toàn bộ vốn góp từ Mỹ. Quỹ sẽ xem xét và thẩm định kế hoạch đầu
Trang 64
tư dựa vào tiềm năng phát triển, cơ hội trên thị trường , đội ngũ quản lý và người
lãnh đạo, vị trí cạnh tranh. Trong giai đoạn đầu IDGVV tiến hành khảo sát nhiều
doanh nghiệp Việt Nam, Các công ty cổ phần hóa là đối tượng IDGVV quan tâm
đầu tư dựa theo các tiêu chí và mức phân bổ như sau:
Mức phân bổ vốn:
- 30% đầu tư vào ngành viễn thông và công nghệ không dây.
- 25% đầu tư vào ngành công nghệ phần mềm.
- 15% đầu tư vào ngành công nghệ sinh học.
- Phần còn lại sẽ đầu tư vào các ngành khác có liên quan.
Biểu 2.3 : Cơ cấu phân bổ vốn của IDG Venture VietNam.
20
30
viÔn th«ngvµ c«ng nghÖ kh«ng d©y
c«ng nghÖ phÇn mÒm
c«ng nghÖ sinh häc
15
kh¸c
25
Nguồn : IDGVV
Quá trình đầu tư sẽ được chia làm nhiều giai đoạn giải ngân. Sau khi đầu tư,
IDGVV giúp cho các doanh nghiệp này phát triển gia tăng giá trị, sau đó sẽ thu hồi
lợi nhuận từ việc đưa lên sàn chứng khoán hoặc bán lại cho một tập đoàn lớn khác
muốn chiếm lĩnh thị trường tại Việt Nam. Để hoạt động đầu tư mạo hiểm của
IDGVV thành công tại Việt Nam, IDGVV không chỉ cung cấp vốn mà cả thông
tin cho họ.
Như vậy, với việc ra đời của IDGVV đã mang đến một nguồn vốn lớn cho thị
trường Việt Nam, một thị trường mà lĩnh vực khoa học công nghệ có tiềm năng sẽ
phát triển khá mạnh trong tương lai. Qua quá trình hoạt động và những kết quả đạt
Trang 65
được quỹ sẽ tạo ra một cú hích cho sự phát triển của ngành công nghệ cao ở Việt
Nam trong thời gian tới.
2.5. Triển vọng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư công nghệ cao và hoạt động
đầu tư công nghệ sạch tại Việt Nam:
Đầu tư các nguồn tài chính lớn để phát triển công nghệ cao và công nghệ sạch
ngày nay đã trở thành yếu tố bức thiết. Đầu tư vào công nghệ cao và công nghệ sạch
mang lại lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, nó đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn,
đồng thời rủi ro lại cao, vì các phát minh sáng chế trong lĩnh vực này thường có tính
đột phá cao, lợi ích lớn, mục tiêu đạt được rất cao, song phần lớn chỉ mới là ý tưởng.
Để biến những ý tưởng đó thành hiện thực thì phải có nguồn vốn đầu tư ban đầu, tuy
có tính mạo hiểm nhưng nếu thành công thì lợi nhuận thu được gấp hàng trăm, hàng
nghìn lần lượng vốn bỏ ra. Đây chính là “cục nam châm” hấp dẫn các nhà đầu tư.
2.5.1. Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động công nghệ cao và
hoạt động công nghệ sạch tại Việt Nam :
+ Công nghệ cao và công nghệ sạch là chìa khóa đi vào tri thức, là những ngành
được ưu tiên đầu tư phát triển ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế mạnh và đang
phát triển.
Để phát triển công nghệ cao và công nghệ sạch thì cần phải phát triển các DN
công nghệ cao và DN công nghệ sạch có khả năng nghiên cứu và phát triển các ý
tưởng mới, sáng tạo.Các nước có nền công nghệ cao và công nghệ sạch phát triển
như Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore đều có những chính sách hỗ trợ
các DN công nghệ cao và DN công nghệ sạch .
Nguồn vốn đầu tư cho ngành công nghệ cao và công nghệ sạch trong giai đoạn
hình thành và phát triển không thể là nguồn vốn tín dụng thông thường từ ngân hàng
mà phải từ nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ và nguồn vốn đầu tư mạo hiểm của các
công ty và quỹ mạo hiểm.
Để phát triển công nghệ cao và công nghệ sạch không thể thiếu việc nghiên
cứu và triển khai các cơ chế đầu tư tài chính và thành lập các quỹ đầu tư phù hợp
với loại hình này. Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì quỹ đầu tư mạo
Trang 66
hiểm có thể được xem là một loại hình tài trợ vốn khá thành công vì các quỹ sẵn
sàng chấp nhận một mức rủi ro cao để kỳ vọng vào một sự thành công vượt bậc cho
những ý tưởng sáng tạo. Đây được xem là cầu nối để biến những ý tưởng sáng tạo
về khoa học công nghệ đi vào ứng dụng trong thực tế nhằm mang lại những tiến bộ
phục vụ cho con người.
Như chúng ta đã biết, phần lớn những công ty sản xuất sản phẩm công nghệ
cao và công nghệ sạch đều mới thành lập và ra đời nhằm thực hiện các phát minh
sáng chế, do đó việc huy động vốn truyền thống thông qua ngân hàng sẽ gặp nhiều
khó khăn, còn hệ thống tài chính phi ngân hàng thì tiềm lực tài chính còn rất hạn
chế. Vì vậy, việc hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam nhằm huy động vốn
để đầu tư nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao và công nghệ sạch là cần thiết và phù
hợp với xu thế của thế giới.
Một vấn đề nữa là nếu như có quỹ ĐTMH công nghệ cao và quỹ ĐTMH công
nghệ sạch trong nước với tiềm lực và hiệu quả đáng kể thì sẽ tạo niền tin cho các
nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài. Đây sẽ là một lực hút nam châm thu hút nguồn
vốn mạo hiểm chảy vào ngành công nghệ cao và công nghệ sạch trong nước. Có
nguồn vốn đủ mạnh để tài trợ thì mới tạo ra những bước đột phá cho ngành công
nghệ cao và công nghệ sạch đang khát vốn của Việt Nam.
2.5.2. Tình hình thực trạng quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại Việt
Nam:
Năm 2006, Bộ Khoa Học & Công Nghệ đưa ra dự thảo thành lập quỹ đầu tư
Theo dự thảo, vốn điều lệ của quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao sẽ là 450 tỷ
mạo hiểm công nghệ cao bằng vốn ngân sách Nhà Nước.
đồng. Số vốn này được xác định trên cơ sở dự kiến số lượng doanh nghiệp công
nghệ cao, công nghệ mới của Việt Nam đang chuẩn bị hình thành.
Nó khá khiêm tốn so với vốn của nhiều quỹ cùng loại của nước ngoài. Tuy
nhiên, theo dự kiến, để tăng vốn, quỹ sẽ huy động thêm các nguồn ngoài ngân sách
(các khoản tài trợ, hợp tác, liên doanh của các doanh nghiệp trong ngoài nước, các
tổ chức quốc tế, các khoản thu từ hoạt động của quỹ...).
Trang 67
Quỹ sẽ xét chọn dự án đầu tư một cách công khai, theo cơ chế cạnh tranh và
theo các trọng điểm ưu tiên đầu tư của quỹ. Tất nhiên, các dự án được chọn phải
đảm bảo tạo ra sản phẩm có triển vọng, và doanh nghiệp đề xuất đầu tư phải có năng
lực thực hiện.
Theo đó, quỹ đầu tư vào doanh nghiệp dưới dạng góp cổ phần sẽ không quá
30% tổng vốn của dự án đầu tư, mua lại cổ phần và các loại chứng khoán của doanh
nghiệp công nghệ cao, công nghệ mới. Khi doanh nghiệp trưởng thành đến mức nào
đó, như niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chuyển nhượng quyền cổ phần,
quỹ sẽ rút vốn đầu tư.
Vì đây là lần đầu tiên Việt Nam thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao
nên chắc chắn còn rất thiếu kinh nghiệm.
Điều đó sẽ gây nhiều khó khăn trong quá trình quản lý và sử dụng nguồn vốn
của quỹ. Độ rủi ro cao khi sử dụng nguồn vốn của quỹ sẽ dẫn đến hệ quả làm thâm
thủng ngân sách nhà nước.
Do đó, ngày 9/11/2007, thủ tướng chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo không thành
lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao bằng vốn ngân sách Nhà Nước.
Vì vậy, tính đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam chỉ có quỹ đầu tư mạo hiểm
của tập đoàn IDG (Mỹ) được thành lập năm 2004, mang tên IDG Venture Việt
Nam và quỹ DFJ Vina Captal được thành lập vào tháng 10/2007 chuyên đầu tư
trong lĩnh vực công nghệ cao.
Với số quỹ ban đầu 100 triệu USD đã được IDGVV đầu tư hết, chủ yếu vào
các công ty tư nhân thuộc lĩnh vực viễn thông, truyền thông và công nghệ
IDGVV dự kiến sẽ mở thêm hai quỹ đầu tư mạo hiểm với tổng vốn 400 triệu
USD vào lĩnh vực công nghệ thông tin tại Việt Nam
IDGVV sẽ đầu tư quỹ mạo hiểm thứ hai với số vốn 150 triệu USD trong năm
2011, tập trung vào các công ty mới bắt hoạt động được một hai năm, có tiềm năng
phát triển trong tương lai nhưng đang gặp khó khăn về vốn.
Trang 68
Và sang năm 2012, IDGVV sẽ đưa ra quỹ thứ ba, với số vốn là 250 triệu USD.
Mục tiêu của quỹ này là đầu tư vào các công ty đã hoạt động được từ hai năm trở
lên, đã có những sản phẩm có thương hiệu trên thị trường.
IDGVV sẽ tập trung vào sáu lĩnh vực: viễn thông và mạng kỹ thuật số; máy
tính, phần cứng và phần mềm; các phụ tùng, thiết bị công nghiệp điện tử; giải trí và
game; điện tử và máy tính; và ứng dụng phần mềm.
Còn quỹ đầu tư công nghệ DFJ VinaCapital LP (DFJV) tính đến 2009, sau hai
năm thành lập (với số vốn huy động là 32 triệu USD) đến nay đã đầu tư vào bảy
công ty tư nhân trong lĩnh vực internet, truyền thông và giải pháp cho điện thoại di
động.
Hiện quỹ đã giải ngân trên 50% tổng số vốn huy động, dự kiến trong năm 2010
quỹ DFJV sẽ giải ngân hết đồng thời mục tiêu của quỹ sau khi giải ngân hết sẽ huy
động thêm vốn để đầu tư vào lĩnh vực công nghệ ở Việt Nam (có thể mở rộng quỹ
hoặc huy động thêm một quỹ mới).
Với những đặc điểm và ưu thế riêng của nguồn vốn mạo hiểm thì việc thành
lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao nội địa tại Việt Nam không chỉ là giải pháp
thiết thực cho sự phát triển của thị trường vốn mạo hiểm tại Việt Nam mà còn là
một cú hích cho hoạt động công nghệ tại Việt Nam, đẩy mạnh chương trình phát
triển quốc gia.
2.5.3 Tình hình thực trạng quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch tại Việt
Nam:
Xu hướng đầu tư trong lĩnh vực công nghệ năng lượng sạch là một xu hướng
công nghệ mới trong những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2010.
Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực
công nghệ sạch. Tính đến thời điểm hiện tại mới chỉ có duy nhất Dragon Capital là
quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên đầu tư phát triển trong lĩnh vực công nghệ sạch tại
Việt Nam.
Ngày 7/7/2010, tại Thành phố Hồ Chí Minh, công ty quản lý quỹ đầu tư
Dragon Capital đã ra mắt quỹ đầu tư cấp khu vực đầu tiên về năng lượng tái tạo, sản
Trang 69
xuất nước sạch và xử lý chất thải tại Việt Nam. Quỹ này mang tên quỹ đầu tư phát
triển sạch Mekong Brahmaputra.
Mekong Brahmaputra Clean Development (MBCDF) là quỹ đầu tiên tập trung
vào hoạt động phát triển sử dụng công nghệ sạch tại khu vực đồng bằng sông Mê
Kông bao gồm Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan và khu vực đồng bằng sông
Brahmaputra bao gồm Bangladesh, Nepal, Bhutan và Sri Lanka.
Quỹ này sẽ đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, sản
xuất sạch, xử lý nước và rác thải…
Đây là quỹ đầu tư bền vững đầu tiên được ra mắt tại Việt Nam và cũng là quỹ
huy động được lượng vốn lớn nhất trong năm 2010 tính tới thời điểm hiện tại của
Dragon Capital. Theo thông tin trên website của Dragon Capital, quy mô tối đa của
quỹ là 100 triệu USD sau đợt huy động vốn thứ hai vào năm 2011. Mỗi khoản đầu
tư có quy mô từ 1-7 triệu USD, thời gian nắm giữ trung bình bảy năm.
Mekong Brahmaputra Clean Development sẽ nắm giữ từ 20-49% vốn tại các
doanh nghiệp tham gia đầu tư và cử đại diện tham gia vào ban lãnh đạo.
Quỹ đầu tư phát triển sạch Mekong Brahmaputra đã hút được lượng vốn đầu
tư khoảng 45 triệu USD trong đợt huy động vốn đầu tiên, từ nhóm tổ chức tài chính
hàng đầu như FMO, Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB, Finnfund và BIO sẽ do
Dragon Capital quản lý. Quỹ này chú trọng đến sự tự chủ về năng lượng đồng thời
bảo đảm vấn đề về môi trường, hai vấn đề quyết định trong việc phát triển kinh tế
bền vững ở Việt Nam và khu vực châu Á.
Quỹ sẽ xúc tiến các dự án về thủy điện nhỏ, điện gió, quang điện, điện sinh
khối, tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, xử lý nước thải khu công nghiệp,
xử lý rác thải đô thị, cung cấp nước sạch ở các vùng khó khăn.
Mekong Brahmaputra Clean Development (MBDCF) được điều hành bởi
chuyên gia về lĩnh vực đầu tư sạch Gavin Smith và chuyên gia tài chính Joseph J.
Hoess cùng với đội ngũ nhân viên tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bangkok.
Trang 70
Theo một chuyên gia, môi trường là một vấn đề cấp bách ở Việt Nam, đồng
thời là một lĩnh vực đầu tư có khả năng sinh lời, vì thế đây sẽ là một lĩnh vực đầu tư
hấp dẫn của các doanh nghiệp tư nhân.
Quỹ sẽ thực hiện các hoạt động đầu tư đáp ứng nguyên tắc vì con người, hành
tinh và lợi nhuận. Trên đây là những giá trị đảm bảo mỗi hoạt động đầu tư sẽ tạo
ảnh hưởng tích cực lên môi trường và đóng góp vào sự phát triển bền vững.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 :
Các quỹ đầu tư mạo hiểm sau khi thành lập và đi vào hoạt động ở thị trường
Việt Nam đã góp phần làm đa dạng, phong phú hơn các kênh tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp Việt Nam, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt nam
cũng gặp nhiều khó khăn do môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều hạn chế,
chính sách và pháp lý còn nhiều bất cập chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế của
đất nước đã làm cho nguồn vốn này chưa thật sự phát huy hết tác dụng, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp mới khởi sự với những ý tưởng mới
về khoa học công nghệ của Việt Nam chưa tiếp cận được với nguồn vốn này trong
khi nhu cầu được tài trợ về vốn thì lại rất lớn. Ngoài ra, do bản thân các quỹ đầu tư
mạo hiểm cũng chưa có một chiến lược đúng đắn khi tiến hành đầu tư vào Việt
Nam. Do đó, hoạt động đầu tư mạo hiểm ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề phải giải
quyết.
Trang 71
CHƯƠNG 3 :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM
3.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp :
3.1.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo :
Chất lượng lãnh đạo doanh nghiệp là thách thức lớn đối với Việt Nam trên
đường hội nhập. Theo thống kê sơ bộ, có tới hơn 40% chủ doanh nghiệp ở
Việt Nam chưa qua đào tạo, đặc biệt là những doanh nhân Việt Nam xuất
phát từ những ngành, nghề chuyên môn, mà không được đào tạo về kỹ năng quản
trị doanh nghiệp.
Có thể thấy điều này qua một so sánh đơn giản: từ quản lý một công ty nhỏ
với hơn chục con người đến việc điều hành một tập đồn vài trăm con người
thì bản thân người quản lý tập đồn ấy đã phải tự mình học hỏi để lớn mạnh,
trưởng thành lên rất nhiều. Không phải doanh nghiệp có triển vọng cao nào
cũng có đầy đủ đội ngũ các nhà quản lý giỏi, nhưng những Giám đốc đang điều
hành doanh nghiệp phải là những người có khả năng làm việc trên tinh thần hợp tác
và có hiểu biết sâu sắc về ngành, thị trường, khách hàng. Sự hiểu biết này sẽ tạo ra
sự an tâm cho các nhà đầu tư vốn ít liên quan trực tiếp đến quá trình hoạt động
của doanh nghiệp. Họ tin rằng các nhà quản lý tinh thông là những người biết
được sự chuyển biến của thị trường và có khả năng đưa doanh nghiệp của mình đi
đúng hướng. Đã đến lúc cần có sự quan tâm thích đáng ở cấp vĩ mô để thúc
đẩy có tính hệ thống và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế.
Để nâng tầm quản lý cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cần phải:
+ Xem trọng việc học của người điều hành. Yếu tố con người quyết
định năng suất lao động, vì thế điều cốt lõi nằm ở chỗ, doanh nhân phải là
người đầu tiên cần học cách quản lý điều hành doanh nghiệp.
+ Tiếp cận các tiêu chuẩn, các thông lệ của thế giới thì cần chú trọng
phát triển những kiến thức, kỹ năng chủ yếu như: Năng lực về ngoại ngữ, đây là
Trang 72
một trong những điểm yếu nhất đối với các doanh nghiệp của Việt Nam. Kiến thức
cơ bản về văn hóa xã hội, lịch sử trong kinh doanh quốc tế. Giao tiếp quốc
tế và xử lý sự khác biệt về văn hóa trong kinh doanh. Thông lệ quốc tế
trong lĩnh vực (ngành) kinh doanh.
+ Giám đốc và nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm hàng đầu đến chiến
lược phát triển con người, điều hành doanh nghiệp bằng những hệ thống quản lý
chất lượng tiêu chuẩn quốc tế và không ngừng học hỏi. Đó chính là cách làm của
những nhà quản lý hiện đại, những nhà quản lý giỏi đã và đang sẵn sàng cùng
doanh nghiệp của mình bước vào cuộc cạnh tranh, hội nhập với bạn bè quốc tế.
3.1.2. Chủ động và chuyên nghiệp trong cách tiếp cận vốn mạo hiểm :
Mặc dù ai cũng biết rằng bán một phần doanh nghiệp cho quỹ đầu tư là để tăng
uy tín và mức tin cậy trên thị trường, xem như đó là cơ hội tái cấu trúc doanh
nghiệp để có một chiến lược kinh doanh dài hạn và mang tính chuyên nghiệp, vạch
ra lộ trình tham gia thị trường chứng khoán, nhưng để được các quỹ này
chính thức đầu tư theo phương thức toàn diện thì không dễ chút nào. Và nếu
không thận trọng, đôi khi doanh nghiệp sẽ bị thôn tính hoặc mất quyền kiểm soát.
Qua kết quả khảo sát, các doanh nghiệp Việt Nam cho biết họ sẽ xem xét đến
nguồn tài trợ của vốn đầu tư mạo hiểm khi cần tài trợ vốn cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, họ vẫn còn một số e ngại nên việc tiếp cận này còn hạn chế và đóng góp
của thị trường vốn đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế Việt Nam còn khá nhỏ bé,
mặc dù loại hình đầu tư này đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 90.
Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng trong đó phải kể
đến một lý do xuất phát từ phía các doanh nghiệp Việt Nam, do còn e ngại cho nên
họ chưa thật sự chủ động và chưa có một chiến lược hiệu quả trong việc tiếp cận
nguồn vốn này. Một số lý do mà doanh nghiệp Việt Nam chưa muốn tiếp cận vốn
đầu tư mạo hiểm :
+ Thứ nhất, các doanh nghiệp cho rằng đối với họ đây vẫn còn là một hình thức
đầu tư khá xa lạ, chưa phổ biến nhiều ở Việt Nam. Hầu hết các quỹ đầu tư dưới
dạng mua cổ phần của công ty nhà nước tiến hành cổ phần hóa hoặc những công ty
Trang 73
tư nhân đang cần vốn để tái cấu trúc hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Chưa có nhiều quỹ đầu tư vào doanh nghiệp ngay giai đoạn khởi sự - một thời điểm
mà doanh nghiệp rất cần một nguồn tài trợ để có thể hạn chế đến mức thấp nhất rủi
ro tài chính,vì trong giai đoạn này DN phải đối mặt với rủi ro kinh doanh khá cao.
+ Thứ hai, một khi có sự đầu tư từ bên ngoài thì vấn đề chi phối hoạt động
được các doanh nghiệp quan tâm rất nhiều. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các quỹ làm
các doanh nghiệp lo ngại về một sự kiểm soát công ty trong tương lai. Mục tiêu của
quỹ đầu tư là gia tăng giá trị doanh nghiệp để thu được lợi nhuận vì thế họ đưa ra
những chiến lược kinh doanh mà đôi khi không phù hợp với mục tiêu chung của
doanh nghiệp, của môi trường kinh doanh Á Đông. Chính điều này cũng làm cho
các doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại với vốn đầu tư mạo hiểm .
+ Thứ ba, quy mô nhỏ bé của doanh nghiệp cũng là một trở ngại, liệu với quy
mô nhỏ bé các DN có thu hút được sư chú ý của các quỹ đầu tư trong khi bản thân
các DN chưa có một chiến lược cụ thể nào để có thể tiếp cận vốn ĐTMH. Các DN
ngại rằng khi các quỹ đầu tư vào Việt Nam chỉ chú ý đến các doanh nghiệp đã có
một vị thế trên thị trường, còn các DN nhỏ thì khó tạo được sự thu hút đầu tư.
+ Thứ tư, một vấn đề được đề cập đến là các doanh nghiệp cần một tổ chức có
thể hỗ trợ cho họ một cách khách quan và đầy đủ thông tin về đặc thù của loại vốn
đầu tư này và hoạt động của quỹ tại Việt Nam. Để các DN có một chiến lược tiếp
cận vốn hiệu quả thì trước hết họ phải hiểu rõ về vốn ĐTMH và những đặc trưng
khi vốn hoạt động tại Việt Nam Tuy nhiên những thông tin này còn khá hiếm hoi và
đôi khi doanh nghiệp không thể tìm được một cách đầy đủ để xem xét, trong khi đối
với họ vốn đầu tư mạo hiểm còn quá mới mẻ.
Như vậy, để có một giải pháp hiệu quả cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam phát triển thì bản thân các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho
mình một chiến lược lâu dài về vốn đầu tư mạo hiểm , cho từng giai đoạn phát triển
của mình. Điều này sẽ góp phần làm cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tiếp
cận, hạn chế những e ngại khi quyết định tìm đến nguồn tài trơ này. Nắm bắt được
các nhu cầu mà các quỹ muốn tìm kiếm ở mình và xây dựng một chiến lược để thu
Trang 74
hút sự chú ý của quỹ đầu tư mạo hiểm là một giải pháp thuyết phục nhất để các
doanh nghiệp tiếp cận với vốn đầu tư mạo hiểm chủ động, hiệu quả.
3.1.3. Định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp :
Một chiến lược tốt, sẽ giúp các nhà quản lý và đội ngũ nhân viên nhận
biết được phương hướng hành động và đem lại sự thành công cho doanh nghiệp.
Trái lại, một tổ chức không có chiến lược chẳng khác nào con thuyền không người
lái và có thể dẫn đến sự lãng phí khổng lồ về thời gian và các nguồn lực. Rất nhiều
công ty đã có nhận thức sai lầm rằng mọi hoạt động kinh doanh đang tiến triển tốt
đẹp hoặc quá tốt đẹp, thì không cần xây dựng chiến lược phát triển. Tuy nhiên,
chúng ta không thể chờ đến khi trời mưa mới lo sửa mái nhà, mà phải làm
điều này trước khi nó xảy ra. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải:
-Xây dựng chiến lược dựa trên thực lực của công ty. Ban lãnh đạo phải xác
định những năng lực chủ chốt của mình. Đó có thể là các mặt mạnh về tổ chức, có
các kỹ năng nổi trội, nắm giữ nhiều nhà quản trị tài năng, có công nghệ vượt trội,
thương hiệu nổi tiếng, nguồn vốn hùng hậu, chiếm thị phần lớn trong các thị trường
chủ chốt.
-Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải nhận biết những mặt yếu của doanh
nghiệp. Chúng có thể là mạng lưới phân phối kém hiệu quả, quan hệ lao động
không tốt, thiếu các nhà quản trị có kinh nghiệm quốc tế, sản phẩm lạc hậu so với
các đối thủ cạnh tranh.
-Xây dựng các kế hoạch kinh doanh cũng như kế hoạch tài chính, xác định
cấu trúc vốn trong từng giai đoạn cho doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng. Việc xác
định nguồn vốn nào sẽ được huy động cho từng thời kỳ giúp doanh nghiệp biết
được nên thu hút nguồn vốn mạo hiểm ở thời điểm nào là tối ưu nhất, tận dụng
được ưu điểm cũng như hạn chế những nhược điểm của nguồn vốn này.
3.1.4. Xây dựng khuôn khổ quản trị doanh nghiệp hiện đại :
Trong tất cả các chỉ tiêu thẩm định một dự án,có thể nói yếu tố quản
trị doanh nghiệp được các quỹ đầu tư đặt lên hàng đầu. Do đó các doanh nghiệp
vừa và nhỏ cần phải xây dựng một mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại
Trang 75
cho doanh nghiệp mình.
Quản trị doanh nghiệp là những cơ chế, quy định thông qua đó công
ty được điều hành và kiểm sốt. Cơ cấu quản trị doanh nghiệp xác định quyền hạn
và trách nhiệm giữa những thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm
các Cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban kiểm sốt và những người
liên quan khác của công ty. Đồng thời, quản trị doanh nghiệp cũng lập ra các
nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong công ty, qua đó ngăn chặn sự
lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết cho
công ty. Đó là những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao
dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không
có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và
không minh bạch. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khối doanh nghiệp cả
về số lượng và quy mô, đặc biệt là sự hình thành các công ty lớn, Quản trị Doanh
nghiệp, công cụ giúp tách biệt giữa sở hữu và quản lý.
Quản trị doanh nghiệp tốt sẽ giúp cho công ty nâng cao khả năng tiếp cận vốn
và hoạt động hiệu quả hơn.
Nâng cao kiến thức về quản trị doanh nghiệp cũng như thực tế triển khai
quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp Việt Nam cần được cải
thiện.
3.1.5. Minh bạch tài chính :
Để tìm hiểu thông tin, trước lúc quyết định đầu tư, bắt tay hợp tác với các
doanh nghiệp Việt Nam, thông thường các nhà đầu tư nước ngoài lấy báo cáo tài
chính làm căn cứ. Thế nhưng sự thiếu minh bạch của các báo cáo khiến nhà đầu tư
trở nên e ngại. Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp cũng khiến
các doanh nghiệp phải dè chừng đối thủ, không để lộ “nội tình” của doanh
nghiệp cho nhà đầu tư , nhằm tránh những bất lợi về thông tin. Các doanh nghiệp
có tiềm năng tăng trưởng cao chỉ có thể thu hút sự chú ý của quỹ đầu tư mạo hiểm
thông qua các thông tin được cung cấp trên thị trường, đặc biệt là các thông tin
về tình hình tài chính. Các thông tin này phải đảm bảo chính xác để bảo
Trang 76
vệ lợi ích cho các quỹ, vì đây là cơ sở để các quỹ đề ra các quyết định trong hoạt
động đầu tư kinh doanh vốn.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng chưa sẵn sàng trả chi phí cho việc kiểm
toán độc lập. Tình hình tài chính thường bị làm sai lệch khi thể hiện trên các báo cáo
tài chính khiến cho doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ điều kiện của các quỹ vì việc
cung cấp thông tin tài chính minh bạch cho các nhà đầu tư góp phần giảm thiểu rủi
ro do “thông tin bất cân xứng”.
Các doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao chỉ có thể thu hút sự chú ý
của quỹ đầu tư mạo hiểm thông qua các thông tin được cung cấp trên thị trường,
đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính. Các thông tin này phải đảm bảo
chính xác để bảo vệ lợi ích cho các quỹ, vì đây là cơ sở để các quỹ đề ra các quyết
định trong hoạt động đầu tư kinh doanh vốn. Do đó, doanh nghiệp cần thực hiện
công khai minh bạch báo cáo tài chính, đây là một trong những điều kiện tạo
thuận lợi cho quỹ xem xét đầu tư vào doanh nghiệp .
Hiện nay, chất lượng thông tin được công bố trong các báo cáo thường niên
của các công ty niêm yết chưa đầy đủ và chưa tuân thủ theo các yêu cầu công bố
thông tin phi tài chính của OECD. Đối với các công ty không niêm yết, chỉ có một
số nhỏ là thực hiện nghĩa vụ báo cáo cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Việc cưỡng
chế thực thi pháp luật đối với các trường hợp không tuân thủ còn yếu. Chất lượng
thông tin được công bố còn thấp. Do đó, doanh nghiệp cần thực hiện công khai
minh bạch báo cáo tài chính.
3.1.6. Thiết lập dự án đáp ứng yêu cầu vốn đầu tư :
Thông thường các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm thường xét những
quy tắc cơ bản để đánh giá mức độ hấp dẫn của một dự án đầu tư. Khi đánh giá công
ty và xét duyệt bản kế hoạch kinh doanh, những khía cạnh cơ bản sau đây sẽ được
các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung xem xét mà các doanh nghiệp
cần phải hiểu:
+ Một đội ngũ lãnh đạo quản lý hiệu quả:
Doanh nghiệp cần đảm bảo tất cả các thành viên trong tập thể quản lý của bạn
Trang 77
đều là những người có kinh nghiệm và năng lực. Họ có phải là người tài giỏi,
có năng lực cao, có kinh nghiệm chuyên biệt của họ trong lĩnh vực kinh doanh và có
tâm huyết với sự phát triển của công ty không ? Tỷ lệ sở hữu của họ trong công ty là
như thế nào? Quỹ quan tâm đến những thành tựu của đội ngũ quản lý và điều hành
công ty và những thành công của họ khi tiến hành công việc kinh doanh trước đây.
Do đó, doanh nghiệp phải cung cấp một kế hoạch tuyển dụng rõ ràng. Các
nhà đầu tư mạo hiểm biết rằng khi kế hoạch kinh doanh được triển khai, khó khăn
là không thể tránh khỏi. Và họ tìm kiếm một tập thể quản lý có khả năng chèo lái
con thuyền qua những cơn bão.
+ Một mô hình kinh doanh vững chắc:
Doanh nghiệp phải có được một mô hình kinh doanh đã được kiểm
chứng với một hướng đi rõ ràng cho những khoản lợi nhuận dài hạn. Doanh
nghiệp cần trình bày tỉ mỉ nội dung chi tiết những gì đang bán, tới ai, tại mức giá
nào và đang tiếp cận các khách hàng như thế nào, thuyết phục họ mua sắm theo
phương cách nào và trợ giúp họ khi có khúc mắc ra sao.
Doanh thu cho mô hình kinh doanh, các bước tiến triển và tính bền vững cũng như
khả năng thu lợi nhuận của mô hình có rõ ràng hay không?
+ Một bản kế hoạch kinh doanh đáng tin cậy:
Một bản kế hoạch kinh doanh tốt phải đưa ra các dự đoán đáng tin cậy về tốc
độ tăng trưởng và giải thích cụ thể cho chiến lược kinh doanh của công ty.
Nó phải thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về thị trường, về vị thế cạnh tranh
và các cơ hội kinh doanh mới. Và thị trường mục tiêu của doanh nghiệp phải khá
lớn để khoản đầu tư là có ý nghĩa.
+ Sản phẩm dịch vụ công nghệ sẵn sàng tung ra thị trường :
Doanh nghiệp cần trải qua được giai đoạn thử nghiệm sản phẩm và đạt được
các kết quả tốt, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Việc sản phẩm của doanh nghiệp
thỏa mãn một phân đoạn khách hàng là chưa đủ, nó có thể phải thoả mãn
nhu cầu của nhiều phân đoạn khách hàng khác nhau
Trang 78
Sản phẩm dịch vụ hoặc công nghệ có mang tính độc đáo, chất lượng có khác
biệt với những sản phẩm cùng loại, có mang lại giá trị cho khách hàng và có những
lợi thế cạnh tranh gì? Những rào cản để xâm nhập thị trường đối với các công ty đối
thủ cạnh tranh là như thế nào?
+ Thị trường:
Thị trường cho sản phẩm, dịch vụ hướng đến là thị trường trong nước, khu vực
hay toàn cầu ?
Có những đối thủ cạnh tranh nào trên thị trường?
Công ty có những chiến lược gì để vượt trội đối thủ trên thị trường?
Nguồn khách hàng tiềm năng của công ty như thế nào ?
+ Một chiến lược lợi nhuận và thanh khoản rõ ràng cho các khoản
đầu tư mạo hiểm:
Các nhà đầu tư mạo hiểm đầu tư đơn thuần vì các khoản lợi nhuận tài
chính. Khi đến thời điểm thích hợp, họ sẽ muốn doanh nghiệp ủng hộ quyết dịnh
của họ về việc bán công ty, sáp nhập với công ty khác hay bán cổ phần ra công
chúng. Doanh nghiệp có thể muốn thay đổi thế giới và đưa công ty lên những
tầm cao mới, nhưng các nhà đầu tư mạo hiểm chỉ muốn chắc chắn rằng
luôn có một lối đi sáng sủa cho họ.
+ Một báo cáo tài chính chi tiết :
Doanh nghiệp sẽ cần cung cấp các bản báo cáo tài chính hàng tháng nêu rõ chi
tiết về việc các đồng tiền được chi tiêu ra sao. Tất cả các khoản tài chính từ thời
điểm doanh nghiệp bắt đầu khởi sự công ty sẽ cần được kiểm toán bởi các
công ty kiểm toán độc lập. Doanh nghiệp sẽ phải đảm bảo các chuẩn mức
kế toán tài chính cao nhất và quản lý cẩn thận nguồn vốn đầu tư của họ.Doanh
nghiệp phải đưa ra những dự báo về tình hình tài chính của công ty có hợp lý
không? Công ty kỳ vọng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận đầu tư như thế nào?
Dựa trên những thành tựu của công ty, những đánh giá về giá trị công ty có
hợp lý không, có tiềm năng để phát triển và đáp ứng được các điều kiện thị trường
hiện tại không ? Những điều khoản đầu tư (terms and conditions of investment) như
Trang 79
thế nào thì công ty sẽ chấp nhận ? Sự tham dự của các chuyên gia quản lý quỹ đầu
tư mạo hiểm trong hội đồng quản trị của công ty sẽ được doanh nghiệp tiếp nhận
như thế nào ?
+ Vị trí của nhà đầu tư mạo hiểm trong ban quản lý:
Các nhà đầu tư mạo hiểm kiểm soát và bảo vệ khoản đầu tư của doanh nghiệp
thông qua ban giám đốc công ty. Họ muốn một vài chiếc ghế trong đó tương xứng
với tỷ lệ cổ phần của họ tại công ty. Thách thức của doanh nghiêp sẽ là đưa ra số
ghế của các nhà đầu tư mạo hiểm và số ghế của mình sao cho hợp lý và vẫn đảm
bảo quyền kiểm soát thuộc về mình.
+ Một chiến lược nhân sự rõ ràng:
Các nhà đầu tư mạo hiểm mong muốn một sự chắc chắn rằng tập thể quản lý
luôn đồng hành cùng với mối quan tâm của họ trong việc gia tăng giá trị cổ phiếu.
Họ cũng muốn đảm bảo rằngdoanh nghiệp luôn có một kế hoạch kế nhiệm rõ ràng
nếu như ban quản lý hiên tại làm việc không hiệu quả.
+ Một cấu trúc vốn hợp lý:
Doanh nghiệp cần phải xác định một cấu trúc vốn hợp lý trong từng giai đoạn,
mức độ sử dụng đòn bẩy. Và sau khi huy động được vốn đầu tư mạo hiểm, doanh
nghiệp rất có thể phải chia cổ phiếu thành hai loại: một là loại cổ phiếu ưu đãi với
các quyền đặc biệt dành cho các nhà đầu tư mạo hiểm và loại thứ hai là cổ phiếu
phổ thông dành cho những người khác
+ Một sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả:
Doanh nghiệp cần đảm bảo rằng các sáng chế, nhãn hiệu hay những phát minh
then chốt khác không bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Doanh nghiệp nên sẵn sàng
bộ hồ sơ xin bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hay bất cứ yếu tố nào khác phân biệt công
ty với các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp phải có được một quyền sở hữu rõ ràng
đối với tất cả các tài sản của công ty.
3.1.7. Một số yếu tố giúp doanh nghiệp tiếp cận quỹ đầu tư mạo hiểm :
Khi tiếp cận với các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, các doanh
nghiệp cần phải chú trọng các yếu tố :
Trang 80
+ Phải nắm được thông tin về quỹ đầu tư mà mình đang tiếp cận. Các tiêu chí
đầu tư và mục đích của quỹ đề ra.
+ Doanh nghiệp nên xem xét nhà đầu tư có quan tâm đến ngành nghề
cũng như địa bàn hoạt động của doanh nghiệp không? Mang một dự án sản xuất
hàng tiêu dùng đến một nhà đầu tư chuyên về công nghệ cao, cũng như đem một dự
án thuộc khu vực tư nhân trong nước đến viếng một nhà đầu tư chuyên về
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… thì là không tìm đúng chỗ.
+ Chuẩn bị một bản kế hoạch kinh doanh hoàn hảo để trình bày với nhà đầu tư.
Thêm vào đó cần phải có những kế hoạch và dự án một cách chi tiết trong
vòng ít nhất ba năm tới. Bản kế hoạch kinh doanh nên trình bày những vấn đề mà
nhà đầu tư quan tâm.
+ Những bản báo cáo tài chính doanh nghiệp đưa ra phải đầy đủ, chính
xác, rõ ràng. Vì bất kỳ một sự không chính xác hoặc thiếu chi tiết sẽ dẫn đến nhà
đầu tư phải gánh chịu rủi ro.
+ Phải có sự tâm huyết và quyết tâm triển khai các ý tưởng kinh doanh của
mình. Nhiều khi các công ty có những ý tưởng rất hay nhưng thời cơ để thực hiện ý
tưởng này chưa đến hoặc chưa thích hợp với thị trường trong nước. Tuy nhiên,
doanh nghiệp cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu và hoàn thiện ý tưởng của mình và biết
lựa chọn thời điểm thích hợp để biến ý tưởng thành hiện thực.
+ Nhà đầu tư chú trọng nhất đến thành phần ban quản trị, do đó doanh
nghiệp nên thuyết minh kỹ lưỡng hơn về phần này. Họ thường muốn ban
giám đốc gồm những chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành, đã được đào tạo
cẩn thận và nắm giữ các chức vụ có liên quan trước khi tham gia dự án.
+ Doanh nghiệp cũng nên trao đổi cởi mở và chia sẻ thông tin với các chuyên
gia đầu tư mạo hiểm. Quan trọng hơn cả là phải cùng nhau tạo dựng mối quan hệ tin
cậy và hợp tác lẫn nhau. Thông thường các chuyên gia đầu tư mạo hiểm có rất nhiều
kinh nghiệm trong quản lý điều hành nên có thể tư vấn giúp đỡ doanh nghiệp trong
lúc trao đổi về ý tưởng hay đề án kinh doanh. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể
phát triển thêm ý tưởng và thực hiện tốt hơn những ý tưởng kinh doanh của mình.
Trang 81
+ Trong một môi trường cạnh tranh, một danh nghiệp muốn tồn tại thì
doanh nghiệp đó phải có những lợi thế riêng. Ví dụ: bằng phát minh sáng chế, sở
hữu công nghệ hay một địa điểm tốt, một thị trường tiềm năng. Nói tóm lại,
dự án của doanh nghiệp phải nằm trong một ngành nghề có khả năng phát
triển mạnh và thị trường ngày càng bành trướng. Họ sẽ không quan tâm nếu thị
trường cho sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp quá hạn hẹp.
+ Bên cạnh đó, các nhà đầu tư mạo hiểm cũng e ngại một sản phẩm
mà sản phẩm đó quá độc đáo. Những sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đưa
ra không nên quá cách mạng nó chỉ nên là một sự tiến triển, đáp ứng những gì
thị trường đang cần và muốn.
+ Nhà đầu tư mạo hiểm không hề có ý định sát cánh làm ăn với doanh
nghiệp suốt đời mà thường rút tiền ra sau một khoảng thời gian nhất định. Do đó
trong bản dự thảo, doanh nghiệp cần bàn đến một lối ra cho họ sau khoảng thời
gian ấy, chẳng hạn như sẽ có một đối tác nào mua lại cổ phần, và dĩ nhiên hay nhất
là công ty sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
+ Đã mạo hiểm bỏ vốn vào dự án thì dĩ nhiên là nhà đầu tư cũng muốn có chân
trong hội đồng quản trị và nhận được đều đặn những bản báo cáo tài chính của công
ty. Đây không hẳn là một trở ngại vì sự góp mặt của nhà đầu tư sẽ có thể
mang lại nhiều đóng góp quý giá. Do đó doanh nghiệp nên chuẩn bị tư
tưởng để chấp nhận điều này.
+ Bên cạnh đó, để tiếp cận các quỹ đầu tư, doanh nghiệp nên thể hiện được
tính chuyên nghiệp, phải xây dựng được hệ thống công bố thông tin rộng rãi, minh
bạch ví dụ như thiết lập trang web, có công ty kiểm toán riêng.
+ Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải thận trọng trong việc xác định
thời điểm đầu tư cũng như lượng vốn tiếp nhận. Bởi nếu nhận vốn quá sớm, doanh
nghiệp sẽ có nguy cơ “ bán lúa non” do quỹ đầu tư mạo hiểm thường sau thời gian
3-5 năm sẽ tìm cách rút vốn hoặc nếu lượng vốn tiếp nhận quá lớn doanh nghiệp có
nguy cơ bị mất quyền kiểm soát.
Tóm lại, nhìn chung tất cả những trở ngại nói trên đều bắt nguồn từ
Trang 82
việc tiếp cận quỹ đầu tư mạo hiểm không phải là việc mà nhà kinh doanh
làm thường xuyên nên không am hiểu về việc này. Tốt nhất doanh nghiệp
nên tìm một công ty tư vấn có nhiều kinh nghiệm tìm vốn để giúp.
3.2. Giải pháp từ phía chính phủ :
3.2.4. Thành lập hiệp hội vốn đầu tư mạo hiểm quốc gia :
Hiệp hội vốn mạo hiểm quốc gia sẽ là nơi hội tụ các nhà đầu tư vốn mạo hiểm
tại Việt Nam, là nơi kết nối và chia sẻ các thông tin liên quan đến hoạt động đầu
tư vốn mạo hiểm. Các nhà đầu tư mạo hiểm có thể cùng nhau hợp tác đầu tư vào
một dự án nhằm chia sẻ rủi ro cho mình. Đây là xu hướng phổ biến trên thế giới
hiện nay. Vì vậy, chính phủ cần khuyến khích các nhà đầu tư mạo hiểm thành lập
và tham gia quản lý hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm.
3.2.5. Thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa bằng vốn ngân sách Nhà
Nước :
Bằng cách đầu tư vào quỹ, thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm bằng vốn ngân sách
nhà nước, Chính phủ đóng vai là người cung cấp “vốn mồi” cho quỹ ĐTMH. Quỹ
sẽ đầu tư trực tiếp vào các dự án tiềm năng, đổi mới công nghệ trong nhiều lĩnh vực
ngành nghề ở những địa phương khác nhau mà các tổ chức hoặc cá nhân không thể
hoặc không có khả năng tài trợ. Việc làm này có ý nghĩa như việc cung cấp vốn hạt
giống cho dự án và được đánh giá là mở ra triển vọng trong việc tạo ra việc làm và
thúc đẩy tăng trưởng, tạo ra nhiều cơ hội cho khả năng sáng tạo và đổi mới trong xã
hội. Các quỹ này có thể sẽ thuộc trung ương hay địa phương quản lý.
3.2.6. Cho vay ưu đãi đối với hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm :
Nhằm tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm được phát triển, chính
phủ cần khuyến khích các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động đầu tư mạo hiểm
bằng cách cho các quỹ đầu tư vốn mạo hiểm vay với lãi suất thấp ưu đãi và tiền vay
linh hoạt. Việc khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động đầu
tư mạo hiểm nhằm gia tăng lượng cung cầu vốn đầu tư mạo hiểm trên thị trường.
Trang 83
3.2.7. Ưu đãi về thuế cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi
mới :
Đầu tư mạo hiểm tức là phải gánh chịu những rủi ro rất lớn, có thể được lợi
nhuận rất cao nhưng cũng có thể thất bại. Chính vì yếu tố rủi ro cao hơn nên thiết
nghĩ chúng ta phải có một chính sách thuế thích hợp để thu hút được nguồn vốn đầu
tư mạo hiểm. Cụ thể là cần có chính sách miễn giảm thuế đối với phần thu nhập
phát sinh khi nhà đầu tư mạo hiểm kết thúc dự án đầu tư, kể cả các lợi tức phát sinh
trong quá trình hoạt động. Chính sách thuế cũng cần ưu đãi đối với phần thu nhập
phát sinh của các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, nhằm thu hút các nguồn vốn từ các
cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức vào hoạt động đầu tư mạo hiểm. Tất cả các chính
sách ưu đãi thuế phải dựa vào luật đầu tư mạo hiểm hoặc dựa vào danh mục các
ngành nghề nhà nước khuyến khích đầu tư mạo hiểm trong các lĩnh vực công nghệ
được ưu tiên đầu tư.
Như vậy, đối với các lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích đầu tư để phát triển
mạnh như khoa học công nghệ mới, để có thể thu hút được nguồn vốn mạo hiểm thì
có thể xem xét miễn, giảm thuế đối với các khoản lãi vốn phát sinh khi nhà đầu tư
kết thúc quá trình đầu tư.
3.2.8. Chính sách đối ngoại ổn định lâu dài :
Điều này sẽ tránh gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Quan trọng hơn nữa là một
chính sách vĩ mô ổn định sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu
tư nước ngoài rất sợ đầu tư ở một quốc gia mà chính sách đối ngoại và vĩ mô cứ
thay đổi liên tục vì sự thay đổi bất thường trong chính sách này của nhà nước rất dễ
ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh cũng như đồng vốn mà họ bỏ ra đầu tư.
3.2.9. Các chính sách kinh tế khác :
Thị trường vốn đầu tư mạo hiểm đòi hỏi một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,
đồng tiền ổn định, lạm phát thấp, kiềm chế tham nhũng…những thành quả của một
chính sách vĩ mô tốt.
Nhà nước phải xây dựng khung pháp lý rõ ràng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ kinh tế vận động theo xu hướng thị
Trang 84
trường, làm nền tảng hoạt động cho các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng như có các
chính sách thu hút nguồn vốn mạo hiểm từ nước ngoài. Cụ thể:
- Cho quỹ một tư cách pháp nhân cũng như xác định rõ cơ quan ban ngành
quản lý quỹ.(UBCKNN, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư hay Bộ Tài Chính)
- Đơn giản hóa các thủ tục khi đầu tư vào một doanh nghiệp.
- Hệ thống pháp luật phải phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo cơ hội cho nhà
đầu tư trong nước có thể hòa nhập với môi trường kinh doanh toàn cầu và nhà đầu
tư nước ngoài có thể tin tưởng hơn môi trường đầu tư Việt Nam
- Đồng bộ, nhất quán trong hệ thống tránh sự chồng chéo giữa các quy định.
- Hợp nhất các luật điều chỉnh cho hoạt động kinh tế và tạo môi trường đầu tư
bình đẳng cho mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, tuy đã có quy định về công khai báo cáo tài chính nhưng Nhà
Nước lại chưa quy định kèm theo tính minh bạch của báo cáo tài chính.
Mà nếu báo cáo tài chính khi công khai ra công chúng, nếu không đảm bảo tính
minh bạch thì không thể bảo vệ được các nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà Nước cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Quy định tất cả các loại hình doanh nghiệp đều phải công khai minh
bạch báo cáo tài chính trên các báo chuyên ngành như công báo, đầu tư hoặc thời
báo kinh tế…. Các báo cáo tài chính trước khi công khai phải được kiểm
toán bởi doanh nghiệp kiểm toán độc lập, kết quả kiểm toán chính là xác
nhận đảm bảo tính minh bạch của các thông tin trong các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
- Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động dịch vụ kiểm toán
và kế toán của Việt Nam để nâng cao chất lượng các báo cáo kiểm toán.
- Hoàn thiện hệ thống kế toán phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Khuyến khích việc thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng, không dùng
tiền mặt.
Ngoài ra, để hoạt động của vốn mạo hiểm hiệu quả, cần thiết phải phát
triển các công ty tư vấn, các định chế tài chính chuyên hỗ trợ trong việc
Trang 85
lập dự án nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận với các quỹ đầu tư mạo hiểm dễ
dàng hơn.
3.3. Giải pháp từ phía quỹ đầu tư mạo hiểm :
Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, để cho hoạt động đầu tư ngày càng có hiệu
quả, các quỹ cần xây dựng cho mình một danh mục đầu tư linh động hơn. Sự tương
phản trong hoạt động của Dragon Capital và một số quỹ ở “làn sóng thứ nhất” đã
minh chứng cho điều này. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp
Dragon Capital trở thành quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả nhất trong giai đoạn đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam vẫn còn là một thị trường nhỏ, số lượng dự án
DN có quy mô lớn chưa nhiều. Nên khi các quỹ nhắm đến việc đầu tư vào những
DN vừa và nhỏ thì các quỹ sẽ tìm thấy nhiều cơ hội đầu tư hơn. Ngoài ra, trong một
thị trường phát triển năng động như VN, đầu tư vào DN vừa và nhỏ sẽ giảm thiểu
được rủi ro vì các DN vừa và nhỏ thường linh động hơn khi xảy ra khủng hoảng.
Công tác thẩm định của quỹ cần phải sâu sát với môi trường và các chính sách
của VN. Hiện nay, chúng ta khuyến khích hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu,
khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch. Nếu các
quỹ đầu tư vào những lĩnh vực này thì sẽ có nhiều lợi thế : vừa am hiểu thị trường
nước ngoài, đủ năng lực đáp ứng những yêu cầu về tiêu chuẩn của sản phẩm vừa
được hưởng những ưu đãi của Nhà Nước, chắc chắn hoạt động sẽ hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, các quỹ cần phải hạ thấp các tiêu chuẩn trong việc đánh giá các
dự án để tiến hành đầu tư. Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế hậu khủng hoảng
năm 2007-2009, việc các quỹ đòi hỏi tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư phải đạt mức
cao là điều khó có thể thực hiện. Cùng với sự cứng nhắc trong việc lựa chọn danh
mục đầu tư trong thời gian qua, các quỹ đã tự trói mình trong việc tìm kiếm dự án
để tiến hành đầu tư. Để giải thoát mình ra khỏi những khó khăn đó, các quỹ nên dựa
vào bản thân mình, đó là hạ thấp tiêu chuẩn đồng thời nên tin tưởng đầu tư vào các
DN vừu và nhỏ.
Một giải pháp quan trọng nữa cho các quỹ ĐTMH đó là các quỹ phải tập hợp
lại, thành lập một hiệp đầu tư mạo hiểm đúng với bản chất của nó khuyến khích
Trang 86
chuyên gia có kinh nghiệm về quản lý quỹ, về đầu tư mạo hiểm tham gia quản lý
hiệp hội. Việc hiệp hội đầu tư mạo hiểm ra đời sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong
việc giảm thiểu rủi ro cho các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn của quá trình
đầu tư. Hiệp hội sẽ cung cấp thông tin có giá trị về các dự án đầu tư cho các thành
viên xem xét, tham gia tài trợ, tạo ra nhiều cơ hội cho các quỹ có thể tham gia hợp
tác tài trợ cho cùng một dự án nhằm chia sẽ rủi ro trong suốt quá trình đầu tư. Và
đây là một xu thế phổ biến trên thế giới hiện nay.
3.4. Thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ đầu tư mạo hiểm
công nghệ sạch tại Việt Nam:
Tiềm lực để phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam trong tương lai là rất
khả quan. Vì vậy cần phải thành lập một quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ của Việt
Nam với những lý do sau:
• Bổ sung vào thị trường vốn đầu tư mạo hiểm Việt Nam một quỹ nội địa đang
thiếu vắng từ trước đến nay, góp phần làm cho thì trường này phát triển bền vững và
hiệu quả.
• Định hướng được mục tiêu đi tắt, đón đầu về khoa học công nghệ .
• Việc thành lập này đã được sự quan tâm, đề xuất của cấp quản lý nên việc
triển khai sẽ thuận lợi hơn
• Hiện tại, ở Việt Nam có quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao đang hoạt động
là IDGVV và DFJV. Trong khi đó quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch chỉ có một
quỹ duy nhất mới được thành lập gần đây là Dragon Capital. Tuy nhiên, với nhu cầu
đặt ra cho mục tiêu phát triển khoa học công nghệ thì nguồn tài trợ này còn khá nhỏ
bé. Vì thế, việc ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ đầu tư mạo
hiểm công nghệ sạch ở Việt Nam là rất cần thiết.
• Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch
này sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động nguồn vốn từ trong nước, kết hợp với việc
huy động nguồn vốn từ bên ngoài để tài trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam, nên
việc tiếp cận, nắm bắt nhu cầu và phương thức kinh doanh sẽ có nhiều thuận lợi
hơn.
Trang 87
• Việc ra đời của quỹ này bên cạnh sự thúc đẩy sự phát triển khoa học công
nghệ còn có một vai trò rất lớn là tạo niềm tin cho việc ra đời của nhiều quỹ đầu tư
mạo hiểm nội địa trong tương lai.
3.4.1. Mô hình quỹ:
Biện pháp hữu hiệu nhất, đồng thời cũng là con đường tất yếu mà các nước
công nghiệp đi trước đã và đang áp dụng là thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm từ nguồn
vốn Nhà Nước (chủ yếu là nguồn vốn khoa học công nghệ và vốn vay ngân hàng)
để hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển công nghệ cao và công nghệ sạch, hình
thành hệ thống các doanh nghiệp khoa học công nghệ vừa và nhỏ có năng lực cạnh
tranh tốt.
Đối với nước ta, trong giai đoạn đầu (không dưới mười năm) nên tiến hành
quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm theo các nguyên tắc sau:
- Mục đích của quỹ: Phát triển doanh nghiệp công nghệ cao và công nghệ sạch,
tạo cơ chế hỗ trợ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp.
- Hình thức quản lý: Quỹ đầu tư mạo hiểm là doanh nghiệp chịu trách nhiệm bảo
toàn và phát triển vốn.
- Nguồn vốn bao gồm: Vốn điều lệ chủ yếu của Nhà nước, vốn của các cổ đông
và cá nhân, vốn quyên góp của xã hội và các nguồn đầu tư khác.
- Đối tượng đầu tư: Những dự án đổi mới công nghệ có hàm lượng công nghệ
cao và công nghệ sạch của các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đầy đủ.
- Phương thức đầu tư:
• Đầu tư theo cổ phần tham gia (phương thức đầu tư chủ yếu): Trọng điểm lựa
chọn là doanh nghiệp kinh doanh có thành tích nổi bật, dự án có khả năng phát triển
và hiệu suất hoàn trả đầu tư cao, đã có quy mô phát triển nhất định, thị trường xác
định rõ ràng, trong vòng 3-5 năm khả năng mở rộng thị trường và thực thi chuyển
nhượng cổ phần còn lại tương đối lớn.
• Đầu tư khống chế cổ phần hoặc đầu tư độc lập: Trọng điểm lựa chọn là dự án
khởi nghiệp có tiềm năng phát triển tốt, dự án có quyền sở hữu trí tuệ, thành tựu
công nghệ có trình độ dẫn đầu trong nước, triển vọng thị trường đặc biệt tốt.
Trang 88
• Hợp tác đầu tư (cho vay chu chuyển ngắn hạn): Hỗ trợ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp chấp nhận đầu tư và công nghiệp hoá thành quả theo
phương thức rót vốn ngắn hạn, nâng cao tỷ lệ chu chuyển và tỷ lệ hoàn trả vốn.
Trọng điểm lựa chọn là doanh nghiệp có thành tích kinh doanh tương đối tốt, có tiền
vốn đáng tin cậy và có năng lực trả thu nhập tiến hành hợp tác đầu tư.
Ngoài ra, để thuận lợi cho các công ty quản lý quỹ được chủ động hơn thì quỹ
nên là quỹ dạng đóng, quỹ sẽ không bị áp lực thu hồi vốn từ các nhà đầu tư.
Quỹ được tổ chức dưới dạng công ty, có tư cách pháp nhân, có điều lệ riêng,
có tính chất hoạt động như một công ty tài chính cổ phần và những người góp vốn
vào quỹ có tư cách là các cổ đông. Hoạt động của quỹ sẽ chịu sự điều chỉnh của luật
công ty và các quy định dưới luật khác dành riêng cho quỹ đầu tư nói chung và quỹ
đầu tư mạo hiểm nói riêng bởi vì quỹ không phải là những công ty kinh doanh
thông thường tạo ra lợi nhuận từ hoạt động sản xuất và cung cấp hàng hoá dịch vụ
mà hoạt động nhằm đem lại lợi nhuận cho các cổ đông từ việc lựa chọn và quản lý
các khoản đầu tư mạo hiểm. Ở đây, hội đồng quản trị có vai trò lớn nhất trong việc
giám sát công ty quản lý quỹ vì lợi ích của nhà đầu tư. Việc giám sát được thực hiện
căn cứ trên những chiến lược mà đại hội cổ đông đã lựa chọn và quyết định.
3.4.2. Thành phần tham gia vào quỹ:
Công ty quản lý quỹ đầu tư: có thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty liên doanh. Việc thành lập công ty quản lý quỹ phải tuân thủ luật
doanh nghiệp và phải có giấy phép hoạt động. Mỗi công ty quản lý quỹ có thể thành
lập và quản lý nhiều quỹ đầu tư khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu đầu tư và sự tham
gia của các nhà đầu tư nhưng các quỹ này phải độc lập với nhau. Các công ty quản
lý quỹ chủ yếu do những chuyên gia người Việt Nam quản lý, bên cạnh đó có thể có
những chuyên gia người nước ngoài trong thời gian đầu khi mà trình độ cũng như
kinh nghiệm của Việt Nam chưa đủ. Các chuyên gia quản lý quỹ phải là những
người có trình độ, giỏi về chuyên môn, có kiến thức rộng, là những nhà quản lý
chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và thành tích trong quá khứ. Các thành viên này tìm
kiếm, khảo sát, thẩm định các cơ hội tìm năng cho quỹ, cũng như hỗ trợ cho các
Trang 89
công ty mà quỹ đầu tư và chiến lược thoát vốn cho quỹ.
Các nhà đầu tư mạo hiểm: bao gồm các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước,
các nhà tư bản mạo hiểm nước ngoài có nguồn vốn nhàn rỗi, các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm.,…Tuy nhiên, đầu
tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao và công nghệ sạch là lĩnh vực đầu tư còn
khá mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, đối tượng nhà đầu tư trong nước mà quỹ nên tập
trung thu hút nhiều là các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm để tận dụng
được nguồn vốn lớn, uy tín sẵn có và đội ngũ nhân sự có sự am hiểu về lĩnh vực tài
chính.
- Vốn nhà nước: đóng vai trò là vốn khởi sự . Ngoài ra quỹ sẽ huy động vốn từ
các nguồn khác thông qua các hình thức góp vốn, hợp tác, liên doanh,…
- Nguồn vốn chính: được huy động từ các định chế tài chính trong nước được
huy động từ các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, các quỹ đầu tư,…
tiềm lực tài chính ở khu vực này rất lớn. Vì thế có được sự tham gia của các tổ chức
định chế này thì nguồn vốn của quỹ huy động được sẽ rất cao.
- Kinh nghiệm từ các tổ chức tài chính quốc tế: tuy đây không phải là nguồn
vốn chính nhưng nó góp phần quan trọng trong việc tiếp nhận kinh nghiệm quản lý
cũng như sự hỗ trợ từ các tổ chức này. Ngoài ra các tập đoàn kinh tế, các công ty
lớn (trong và ngoài nước), các công ty đa quốc gia,…cũng là những nguồn cung cấp
vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ ĐTMH công nghệ sạch của
Việt Nam.
Các doanh nghiệp được đầu tư: tập trung vào các doanh nghiệp, các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu phát triển các ý tưởng, các sáng kiến khoa học, công nghệ nhưng
họ bị giới hạn về tiềm lực tài chính và cần sự hỗ trợ từ phía các quỹ đầu tư mạo
hiểm.
Mối quan hệ giữa các thành phần này được gắn kết chặt chẽ với nhau nhằm đạt
được mục tiêu: duy trì và khuyến khích tính sáng tạo khoa học công nghệ và tinh
thần khởi nghiệp, tạo động lực cho các cá nhân, tổ chức có vốn tham gia vào quỹ
đầu tư mạo hiểm, phát huy triệt để năng lực của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo
Trang 90
hiểm và đảm bảo hiệu quả đầu tư.
3.4.3. Lĩnh vực đầu tư :
Quỹ sẽ tập trung đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ để đáp ứng nhu cầu
về vốn cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, triển khai khoa học công nghệ góp
phần tạo nên những chuyển biến tích cực cho các đơn vị tiếp nhận đầu tư về vốn và
khả năng quản lý.
+ Các lĩnh vực đầu tư vào công nghệ cao :
• Điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông
• Cơ điện tử phục vụ sản xuất, lắp ráp thiết bị tự động, thiết bị viễn thông
• Công nghệ sinh học
• Vật liệu mới
• Sản xuất phần mềm
• Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ
• Vườm ươm doanh nghiệp
+ Một số lĩnh vực đầu tư vào công nghệ sạch :
• Nhiên liệu sinh học
• Pin quang điện năng lượng mặt trời
• Năng lượng gió
3.4.4. Lộ trình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và quỹ
đầu tư mạo hiểm công nghệ sạch ở Việt Nam :
Giai đoạn hình thành quỹ: các nhà quản lý quỹ nhận định và tìm kiếm các cơ
hội đầu tư, chọn lọc dự án. Đồng thời cũng lên kế hoạch chi tiết về nguồn vốn: mức
vốn, số lần gọi vốn, hình thức,…và tiến hành các thủ tục để chuẩn bị về mặt pháp lý
cho sự hình thành và hoạt động của quỹ. Thời gian này có thể kéo dài một đến hai
năm (2010 đến 2012)
Giai đoạn huy động vốn: tổ chức huy động và ấn định ngày đóng quỹ. Các nhà
đầu tư có được những quyền lợi theo tỷ lệ vốn góp và những thỏa thuận theo hợp
đồng ký kết với quỹ. Trong quá trình hoạt động, các nhà đầu tư sẽ thường xuyên
Trang 91
được báo cáo về số vốn đầu tư đã được sử dụng như thế nào vào các danh mục đầu
tư và giá trị danh mục ở từng thời kỳ. Quá trình này có thể kéo dài hai đến ba năm
(2012-2014)
Giai đoạn đầu tư: Các nhà quản lý quỹ sẽ tiến hành thẩm định, chọn lọc các
dự án đầu tư, thương thuyết mua cổ phần hay tham gia góp vốn vào các dự án. Để
đảm bảo quyền lợi của quỹ gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp, các quỹ sẽ
có quyền giám sát hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp về chiến lược sản xuất kinh
doanh, về quản trị nhân sự, quản trị tài chính. Quá trình này có thể kéo dài đến bốn
năm (2014-2017)
Giai đoạn gia tăng giá trị : các nhà quản lý quỹ tiếp tục xây dựng bộ máy quản
trị và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính, kinh doanh để có thể làm tăng
thêm giá trị vốn cho quỹ. Trong giai đọan này các nhà quản lý quỹ tiếp tục hỗ trợ
cho doanh nghiệp để nhằm tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp mà quỹ đã đầu tư.
Thời gian này có thể kéo dài hai năm (2017-2019)
Giai đoạn thoát vốn: đây là giai đoạn phản ánh kết quả đầu tư của quỹ. Sau khi
giá trị đầu tư đạt đến mức mong muốn, các quỹ sẽ tiến hành công cuộc thoát vốn
bằng những phương thức sau:
• Phát hành hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng-IPO.
• Bán số cổ phần đã đầu tư.
• Bán toàn bộ doanh nghiệp: bán công ty cho một tổ chức, cá nhân hoặc tiến
hành sáp nhập với một doanh nghiệp lớn hơn.Thời gian này có thể kéo dài hai năm
(2019-2021).
Toàn bộ thời gian từ giai đoạn hình thành quỹ, gọi vốn, đầu tư đến thu hoạch
của quỹ có thể khác nhau vì số lượng và thời gian đầu tư của các dự án có thể biến
thiên khác nhau. Tuy nhiên thời gian tối thiểu phải là năm năm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 :
Từ kinh nghiệm của các nước cho thấy, để phát triển hoạt động đầu tư vốn mạo
hiểm thì vai trò của nước chủ nhà, chính phủ là rất quan trọng.Huy động, mở rộng
Trang 92
và đầu tư có hiệu quả nguồn vốn đầu tư mạo hiểm cho quá trình phát triển doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường là công việc cần thiết của các nhà quản lý nhà
nước cũng như các nhà quản lý của quỹ đầu tư mạo hiểm. Để có thể phát triển thị
trường vốn mạo hiểm thì cần phải có sự phối hợp từ nhiều phía, từ phía chính phủ
với vai trò hoàn thiện môi trường đầu tư, môi trường pháp lý để có thể thu hút được
các quỹ đầu tư. Về phía các doanh nghiệp cũng phải chủ động hơn trong việc tiếp
cận cũng như nắm bắt được các yêu cầu của các quỹ và cũng rất cần một chiến lược
đầu tư phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm. Việc thực hiện tốt các giải pháp sẽ là cơ hội để tạo môi trường, điều kiện tốt
cho hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
KẾT LUẬN
Qua những trình bày trên, chúng ta có th ể thấy rõ ràng, vốn mạo hiểm là
một động lực rất lớn để tăng tr ưởng kinh tế của tất cả các n ước, là yếu
tố cốt lõi để có được những bước đi thần kỳ.
Ở Việt Nam, quỹ đầu tư vốn mạo hiểm đã xuất hiện từ rất lâu. Đó
là một điều đáng trân trọng vì nó đã góp phần đa dạng hóa loại hình tài chính
nước ta, mở ra kênh cung vốn mới cho các doanh nghiệp. Nh ưng do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà ch ủ yếu là sự nhỏ bé của thị trường chứng khoán,
thị truờng các dự án tốt, những ủng hộ đúng mức của nh à nước và một số
nhược điểm vốn có của cơ cấu quỹ hải ngoại đã làm cho thị trường vốn mạo
hiểm nước ta không phát huy hết tác dụng, vai tr ò, ý nghĩa cũng như mở rộng về
quy mô.
Trên cở sở vận dụng những kiến thức đ ã học trong nhà trường,
ngoài xã hội, tham khảo tài liệu về vốn mạo hiểm. Qua việc nghi ên cứu,
phân tích tình hình hoạt động thực tiễn của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt
Nam, tìm hiểu kinh nghiệm của các nước khác, tác giả đã hoàn thành chuyên đề
này với mong muốn đưa ra những giải pháp khả thi tối ưu nhằm thúc đẩy
sự phát triển hoạt động đầu t ư vốn mạo hiểm tại Việt Nam .
Tuy vậy, vì còn hạn chế về trình độ và nguồn tư liệu chưa được dồi dào, do
đó điều không tránh khỏi l à trong chuyên đề chắc chắn vẫn còn nhiều
điểm cần phải được nghiên cứu thêm để làm rõ và hoàn thiện hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hải Lý (2003), “ Làn sóng thứ hai”, Thời báo kinh tế sài gòn số 51
2. Phương Linh (2005) , “Quỹ Đầu Tư phát triển địa phương : những kết quả
và hạn chế”, Tạp chí thông tin tài chính số 6
3. Trần Ngọc Thơ PGS-TS (chủ biên), Phan Thị Bích Nguyệt PGS-TS,
Nguyễn Thị Liên Hoa TS, Nguyễn Thị Uyên Uyên TS (2005) , Tài chính
doanh nghiệp hiện đại, Nhà Xuất Bản Thống Kê.
Tiếng Anh
4. AVCJ (2002), The 2003 Guide to Venture Capital in Asia , Asian Venture
Capital Journal
5. Anthony Aglward (1999), Trends in Venture Capital Finance in
Developing Countries, International Finance Corporation
Tài liệu trên mạng :
6. Trang web : www.dragoncapital.com
7. Trang web : www.mekongcapital.com
8. Trang web : www.idgvv.com
9. Trang web : www.vinacapital.com
10. Trang web : www.indochinacapital.com
11. Trang web : www.tuoitre.com.vn
12. Trang web : www.ifc.org
13. Trang web : www.mpdf.org
14. Trang web : www.vietfun.com
15. Trang web : www.finansa.com
16. Trang web : www.icaminvest.com