LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên

cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất

xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thanh Tuấn

2

MỤC LỤC

5

TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

11 11 17

1.1. 1.2. 1.3.

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Một số công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài Một số công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án luận án tiếp tục giải quyết

30

33

2.1.

33

2.2.

45

2.3.

60

Chương 3

79

3.1.

79

3.2.

81

3.3.

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA Những vấn đề chung về công nghệ, công nghệ cao, thị trường công nghệ và thị trường công nghệ cao Quan niệm, nội dung và yếu tố tác động đến phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ cao của một số quốc gia và bài học với Việt Nam THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Thành tựu, hạn chế trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

110

126

4.1.

126

4.2.

Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030 Quan điểm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030 Giải pháp phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030

134 169

171 172 182

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

01 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cách mạng 4.0

02 Chuyển giao công nghệ CGCN

03 Công nghệ cao CNC

04 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH

05 Hội nhập kinh tế quốc tế HNKTQT

06 Khoa học và công nghệ KHCN

07 Kinh tế thị trường KTTT

08 Kinh tế - xã hội KT-XH

09 Nghiên cứu và phát triển R&D

Sở hữu công nghiệp 10 SHCN

Sở hữu trí tuệ 11 SHTT

Thị trường công nghệ 12 TTCN

Thị trường công nghệ cao 13 TTCNC

4

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Tên bảng Trang

Bảng 3.1 Số lượng văn bằng bảo hộ của Việt nam được cấp giai

đoạn 2011 - 2019 82

Bảng 3.2 Số lượng văn bằng bảo hộ của người nước ngoài được cấp

giai đoạn 2011 - 2019 82

Bảng 3.3 Tổ chức đăng ký hoạt động KHCN 89

Bảng 3.4 Tổ chức R&D chia theo quy mô nhân lực 90

Bảng 3.5 Tổ chức R&D theo lĩnh vực CNC 90

Bảng 3.6 Số bài báo KHCN công bố trong nước 91

Bảng 3.7 Số bài báo KHCN công bố quốc tế giai đoạn 2014 - 2019 92

Bảng 3.8 Nhân lực R&D qua các năm (người) 93

Bảng 3.9 Cán bộ nghiên cứu chia theo trình độ 94

Bảng 3.10 Tổng chi quốc gia cho R&D 97

Bảng 3.11 Cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin KHCN 103

DANH MỤC CÁC HÌNH

STT

Tên hình

Trang

Hình 2.1

Tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có độ tập trung CNC và

trung bình cao

72

Hình 3.1

Công bố quốc tế của Việt Nam

92

Hình 3.2

Tổng số nhân lực R&D qua các năm

93

Hình 3.3

Nguồn cung công nghệ quan trọng theo lãnh thổ

105

Hình 3.4

Số lượng sáng chế của Việt Nam giai đoạn 2015-2019

105

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Công nghệ cao (CNC) được coi là hàng hóa đặc biệt trên TTCN và để

phát triển TTCNC tất yếu phải chú trọng phát triển loại hàng hóa đặc biệt này.

Xét về bản chất, công nghệ là yếu tố cốt lõi quyết định sự tồn tại và phát triển

của doanh nghiệp và ở cấp độ quốc gia, công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển

KT-XH thông qua việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có. Xét về

bản chất của thị trường thì TTCNC không chỉ là loại thị trường đặc biệt mà còn

là một trong những yếu tố cơ bản quyết định tiềm lực KHCN của mỗi quốc gia.

Việc phát triển TTCNC luôn gắn với việc thực thi pháp luật về SHTT nhằm thúc

đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cũng

như khuyến khích sự sáng tạo KHCN. Khi đánh giá tiềm lực KHCN của một

quốc gia, người ta có thể nhìn nhận thông qua việc tạo lập và vận hành có hiệu

quả hay không các hoạt động của thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói

riêng như: Kết quả của việc tổ chức nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên

cứu, mức độ giao dịch mua - bán, CGCN trên thị trường và các yếu tố tạo lập

TTCN có tác động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH.

Trước yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã

nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển công nghệ, nhất là CNC, coi đó là

nền tảng và nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH và

HNKTQT của đất nước. Điều này được thể hiện trong Luật Công nghệ cao

năm 2008; Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển

Khoa học và công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Đại hội XII của Đảng tiếp tục chủ trương phát triển mạnh mẽ KHCN

nhằm “Làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động

lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức,

nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh

tế…”[40, tr.119-120]. Từ vai trò quan trọng của CNC đối với phát triển kinh

tế - xã hội do đó vấn đề phát triển TTCNC được xác định là một trong những

nội dung trọng tâm của chiến lược phát triển KHCN đến năm 2020.

6

Trên thực tế, cùng với quá trình phát triển KTTT định hướng xã hội

chủ nghĩa, TTCNC ở Việt Nam tuy mới hình thành, phát triển nhưng bước

đầu hoạt động khá hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự phát triển của thị

trường KHCN Việt Nam. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển KT-XH trong

bối cảnh cách mạng 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, trong khi trình độ phát triển của

KHCN Việt Nam còn thấp, thị trường KHCN cũng như TTCNC còn nhỏ lẻ. Vì

thế, Việt Nam chưa thật sự có TTCNC đầy đủ, đặc biệt là cơ chế, chính sách phát

triển thị trường này còn nhiều bất cập, nhất là đối với các hoạt động triển khai, thử

nghiệm, ứng dụng và sử dụng sản phẩm CNC; chưa phát triển được nhiều sản

phẩm có giá trị CNC, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế;

mối quan hệ cung cầu về sản phẩm CNC và dịch vụ CNC còn mất cân đối dẫn

đến giá cả sản phẩm, dịch vụ CNC còn đắt so với sản phẩm cùng loại trên thị

trường thế giới. Do vậy, việc phát triển TTCNC lại càng trở nên cần thiết, cấp

bách cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với mong muốn nghiên cứu một cách cơ

bản, hệ thống, chuyên sâu TTCNC ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị nhằm

cung cấp những luận cứ khoa học cho việc phát triển trường này thời gian tới, tác

giả lựa chọn vấn đề: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam làm đề tài

luận án tiến sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển TTCNC ở Việt Nam và

kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về lĩnh vực này; trên cơ sở đó

đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên

quan đến đề tài.

Luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam, trong

đó tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: quan niệm, nội dung và

yếu tố tác động đến phát triển TTCNC.

7

Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTCNC của Trung Quốc, Cộng hòa

Liên bang Đức, Israel; trên có sở đó rút ra bài học phát triển TTCNC cho Việt

Nam thời gian tới.

Đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong đó tập trung

làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực trạng

phát triển TTCNC ở Việt Nam.

Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển TTCNC ở Việt Nam thời

gian tới nhằm góp phần phát triển thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói

riêng ở Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Phát triển TTCNC.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: Nghiên cứu, đánh giá về sự phát triển về số lượng,

chất lượng nguồn cung, cầu, các tổ chức trung gian môi giới sản phẩm, dịch

vụ CNC trên TTCNC.

Phạm vi không gian: Ở Việt Nam.

Phạm vi thời gian: Số liệu đánh giá thực trạng từ giai đoạn 2011-2019.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường

KHCN nói chung, TTCN và TTCNC nói riêng.

Cơ sở thực tiễn: Luận án tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tiễn một

số cơ quan, địa phương có liên quan đến đề tài; đồng thời nghiên cứu báo cáo

của các bộ, ngành liên quan đến nội dung đề tài, kế thừa kết quả nghiên cứu

của một số công trình khoa học có liên quan đến nội dung luận án.

Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp

nghiên cứu chung của luận án. Trên cơ sở đó, luận án sử dụng phương pháp

đặc thù của khoa học kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng hóa khoa

8

học, kết hợp với các phương pháp khác như: tiếp cận hệ thống; phân tích,

tổng hợp; lịch sử - lôgic; thống kê, so sánh.

Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng trong toàn bộ

luận án với mục đích gạt bỏ những vấn đề không cơ bản, bản chất để tập trung

nghiên cứu những vấn đề cơ bản, bản chất liên quan đến phát triển TTCNC.

Phương pháp này sử dụng trong việc giới hạn mục đích, nhiệm vụ, phạm vi

nghiên cứu ở phần mở đầu; xây dựng quan niệm, xác định nội dung, tiêu chí

đánh giá và phân tích nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTCNC ở Việt Nam ở

chương 2; trong lựa chọn số liệu phân tích thực trạng phát triển TTCNC ở

Việt Nam ở chương 3. Đồng thời, sử dụng trong việc đề xuất quan điểm, giải

pháp phát triển TTCNC ở chương 4. Theo nghiên cứu sinh, để thúc đẩy phát

triển TTCNC ở Việt Nam phải quán triệt nhiều quan điểm và triển khai đồng

bộ hệ thống giải pháp. Tuy nhiên, nhóm quan điểm và giải pháp mà nghiên

cứu sinh đề xuất là những quan điểm và giải pháp cơ bản, bao trùm, quyết

định nhất; khi được triển khai thực hiện tốt sẽ tạo bước đột phá trong phát

triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới.

Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng xuyên suốt các nội dung

nghiên cứu của luận án nhằm luận giải sự phát triển TTCNC Ở Việt Nam

trong mối quan hệ gắn kết các nội dung. Đồng thời nghiên cứu sự phát triển

TTCNC ở Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển TTCNC, gắn với các

yếu tố đặc thù của thị trường này. Phương pháp nghiên cứu này cho phép kết

cấu của luận án được tổ chức theo một bố cục chặt chẽ, logic.

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong các chương của

luận án. Ở chương 1 phương pháp này được sử dụng để phân tích, nghiên cứu

các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; từ đó rút ra những vấn

đề luận án cần tập trung giải quyết. Ở chương 2, phương pháp này được sử

dụng để thực hiện các thao tác xây dựng quan niệm trung tâm, phân tích nội

dung, tiêu chí đánh giá và các nhân tố tác động đến phát triển TTCNC Ở Việt

Nam. Đồng thời, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và rút ra bài học kinh

9

nghiệm phát triển TTCNC cho Việt Nam. Ở chương 3, chương 4 của luận án,

phương pháp này được sử dụng trong thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề

ra; đặc biệt là chỉ rõ thành tựu, hạn chế trong phát triển TTCNC ở Việt Nam.

Phương pháp lịch sử, lôgic được sử dụng chủ yếu ở chương 1, chương 2 và

chương 3 nhằm nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển những vấn đề lý luận có

liên quan đến luận án như: lý luận về các yếu tố cấu thành TTCNC; các yếu tố tác

động, tiêu chí đánh giá sự phát triển TTCNC ở Việt Nam. Việc sử dụng phương

pháp này cho phép nghiên cứu sinh phân tích, đánh giá các hoạt động phát triển

TTCNC trong bối cảnh lịch sử cụ thể, gắn với yêu cầu nhiệm vụ KHCN.

Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng ở cả phần lý luận và thực

trạng của luận án. Trong phần lý luận, việc thống kê, so sánh cho phép nghiên

cứu sinh tiếp cận được với nhiều lý thuyết khác nhau về vấn đề nghiên cứu, từ

đó rút ra “khoảng trống” lý luận cho luận án. Trong phần thực trạng, phương

pháp thống kê, so sánh được sử dụng nhằm đánh giá chính xác, khách quan sự

phát triển TTCNC ở Việt Nam. Với việc thống kê, so sánh số liệu cập nhật,

khách quan cho phép tác giả đánh giá chính xác thành tựu, hạn chế trong phát

triển TTCNC, từ đó chỉ rõ những nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực

trạng này để có quan điểm và giải pháp phù hợp.

5. Những đóng góp mới của luận án

Luận án đã xây dựng các quan niệm công cụ liên quan đến công nghệ

cao, thị trường khoa học công nghệ, thị trường công nghệ cao; trên cơ sở đó

xây dựng quan niệm, nội dung và yếu tố tác động đến phát triển thị trường

công nghệ cao; đánh giá thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao; đồng

thời đề xuất quan điểm và giải pháp sát thực, phù hợp nhằm phát triển thị

trường công nghệ cao ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận

về phát triển TTCNC, trên cơ sở đó luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về phát

triển TTCNC ở Việt Nam.

10

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm

tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị và

kinh tế học về những vấn đề liên quan đến đề tài.

7. Kết cấu của luận án

Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu; 4 chương (11 tiết); Kết luận;

Danh mục các công trình nghiên cứu đã công bố của tác giả có liên quan đến

luận án; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

11

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Một số công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài

1.1.1. Một số công trình khoa học về thị trường công nghệ và thị

trường công nghệ cao

Russell Bratt (1986), “Industrial buying in high tech market” (Mua

công nghiệp trong TTCNC) [127]. Tác giả nghiên cứu hành vi mua của những

người mua máy móc thiết bị phòng thí nghiệm CNC. Nghiên cứu được thực

hiện với 54 tổ chức. Trên cơ sở đó phân tích quá trình mua để xác định các

yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nhà cung cấp trong TTCNC. Mục tiêu chính

của tác giả là phân tích quy trình mua công nghiệp cho các sản phẩm CNC và

xác định tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến nhà cung cấp sản

phẩm CNC. Ở công trình này, tác giả chưa đề cập đến khái niệm TTCNC,

những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường này, mà chủ yếu tập trung

phân tích quy trình mua các sản phẩm CNC và xác định tầm quan trọng của

các yếu tố ảnh hưởng đến nhà cung cấp.

Morone, Joseph G (1993), “In Winning in High-Tech Markets” (chiến

thắng tại TTCNC) [121]. Theo tác giả, thành công hay thất bại trong TTCNC

ít phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài mà chủ yếu phụ thuộc nhiều vào cách

thức tích hợp công nghệ và chiến lược kinh doanh. Qua đó tác giả đặt câu hỏi

tại sao các công ty này thành công trong khi nhiều công ty khác thất bại trong

TTCNC đã bị chi phối bởi sự hiện diện của Hoa Kỳ? Phân tích của Morone

tập trung chủ yếu vào quá trình quyết định của quản lý các cấp lãnh đạo. Ở

công trình này tác giả tập trung làm rõ việc xây dụng các chiến lược kinh

doanh và các yếu tố tác động thông qua các chính sách của chính phủ là nội

dung rất quan trọng trong sự quyết định của các công ty CNC trên TTCNC.

Tác giả cũng đã đề cập đến các yếu tố tác động đến sự phát triển của TTCNC,

nhất là với các công ty CNC của Hoa Kỳ.

12

Samli A. C, Wirth G. P, Wills J. R. (1994), “High-Tech Firms Must

Get More Out of Their International Sales Efforts” (Các công ty CNC phải

nhận được nhiều hơn từ nỗ lực bán hàng quốc tế) [124]. Ở công trình này, các

tác giả đã khái quát ba mục tiêu: Một là, khám phá một số vấn đề chính trong

quản lý bán hàng CNC quốc tế; Hai là, trên cơ sở nghiên cứu vấn đề bán

hàng, xây dựng mô hình quản lý bán hàng CNC quốc tế; Ba là, dựa trên nỗ

lực nghiên cứu sơ bộ phương pháp bán hàng để kiểm tra mô hình và sửa đổi

mô hình đó sao cho hiệu quả. Từ kết quả nghiên cứu thực tế, nhóm tác giả cho

rằng, cạnh tranh quốc tế về CNC sẽ mạnh mẽ hơn. Việc thiết lập lợi thế cạnh

tranh về trị trường CNC không chỉ tốt cho các công ty CNC mà còn tốt cho cả

nền kinh tế quốc gia vì tiềm năng cho sản phẩm CNC rất lớn. Phát huy lợi thế

cạnh tranh trong TTCNC quốc tế có liên quan chặt chẽ đến chức năng quản lý

bán hàng hiệu quả. Theo các tác giả, có bảy yếu tố quan trọng của tiếp thị

CNC và các ngành công nghiệp CNC sẽ định hình chức năng quản lý bán

hàng CNC. Các tính năng này là: đặc điểm thị trường; cân nhắc thời gian;

kiến thức của người tiêu dùng; yêu cầu kỹ năng kỹ thuật bán hàng; nhu cầu thị

trường về công nghệ; nguồn lực của công ty bị giới hạn; chuyển giao tri thức

quốc tế. Tất cả những yếu tố này đều có liên quan đến việc trang bị kiến thức

cho nhân viên bán hàng hoặc khả năng tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh

vực bán sản phẩm, dịch vụ CNC.

Sanjit Senguptan (1998), “Some Approaches to Complementary

Product Strategy ” (Một số phương pháp tiếp cận đến chiến lược sản phẩm bổ

sung) [125]. Tác giả nêu rõ tầm quan trọng của việc phát triển sản phẩm hỗ

trợ trong phát triển TTCNC. Trong đó tác giả phân tích nếu không có các sản

phẩm hỗ trợ, nhiều cải tiến CNC có thể thành phế liệu. Ví dụ sự phát triển của

máy tính để bàn không phải là động lực cho cuộc cách mạng máy tính cá

nhân. Sự đổi mới này phụ thuộc vào phát triển phần mềm xử lý văn bản, bảng

tính và xuất bản trên máy tính, cũng như các thiết bị ngoại vi như máy in

13

laser. Phát triển sản phẩm hỗ trợ cung cấp cơ hội cho các công ty ở TTCNC.

Tuy nhiên, các nhà quản lý phải cân bằng cơ hội đó với rủi ro gia tăng mà các

công ty phải đối mặt trong nỗ lực phát triển sản phẩm có thể mở rộng ra ngoài

phạm vi kinh doanh cốt lõi của họ. Để làm rõ nhận định này tác giả đã tập trung

vào giai đoạn phân tích kinh doanh sớm của quá trình phát triển sản phẩm, đồng

thời chỉ ra và xác định một số phương pháp thay thế mà các công ty sử dụng để

phát triển và tiếp thị sản phẩm hỗ trợ. Nghiên cứu này xem xét lợi thế cạnh tranh

trong chiến lược sản phẩm hỗ trợ, và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh trong chiến lược sản

phẩm hỗ trợ xuất phát từ hiệu ứng nhân trên doanh thu của sản phẩm chính và từ

sự đổi mới của sản phẩm hỗ trợ. Ngay cả khi sản phẩm hỗ trợ có tiềm năng bán

hàng thấp, sản phẩm hỗ trợ vẫn có thể cung cấp một lợi thế cạnh tranh đáng kể

thông qua hiệu ứng nhân của nó trên doanh thu của sản phẩm chính.

Phillip T. Meade, Luis Rabelo (2004), “The technology adoption life

cycle attractor: Understanding the dynamics of high-tech markets” (Yếu tố

thu hút vòng đời của việc áp dụng công nghệ: Hiểu được động lực của

TTCNC) [122]. Theo các tác giả xác định, người tiêu dùng rơi vào một trong

năm phân loại cơ bản: nhà sáng tạo, người dùng đầu tiên, đa số người dùng

đầu, đa số người dùng sau và những người dùng chậm trễ. Mỗi loại người tiêu

dùng này có một bộ nhu cầu, tiêu chí sản phẩm và phản ứng với những cải

tiến mới. Do đó, cần thiết phải có thị trường khác nhau cho mỗi nhóm người

tiêu dùng. Sự khác biệt giữa người tiêu dùng trong thị trường lần đầu (bao

gồm các nhà sáng tạo và người dùng đầu tiên) và đa số người dùng sớm là rất

lớn khiến sản phẩm thường rơi vào tình trạng giảm doanh thu và giảm thị

phần. Do vậy, việc xác định được vòng đời sản phẩm và thị hiếu của người

tiêu dùng là rất quan trọng, đây là một trong những yếu tố quyết định phần

lớn thị phần sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC. Để thực hiện nội dung này

các tác giả chỉ ra 2 phương pháp gồm: phương pháp phân tích định lượng và

định tính. Phương pháp phân tích định lượng có thể hỗ trợ một tổ chức xác

định rõ giai đoạn nào của vòng đời sản phẩm mà họ sử dụng. Phương pháp

14

này được trình bày bằng cách sử dụng một bộ quy tắc đơn giản có thể hỗ trợ

các tổ chức CNC. Và, các tác giả cho rằng, phương pháp đánh giá định tính là

phương tiện tin cậy nhất trong việc xác định vòng đời công nghệ.

Young Roak Kim (2005), Technology Commercialization in Republic of

Korea (Thương mại hóa công nghệ ở Hàn Quốc) [128]. Tác giả khẳng định, việc

CGCN và thương mại hóa công nghệ có vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng

kinh tế của Hàn Quốc; một trong những động lực quan trọng nhất của sự tăng

trưởng là đầu tư vào các cơ sở quy mô lớn, phát triển cơ sở hạ tầng và mua công

nghệ tiên tiến nhất trên thị trường thế giới. Để thực hiện tốt các nội dung này,

cần thực hiện tốt các chính sách, chương trình hỗ trợ của các công ty và chính

phủ về thương mại hóa công nghệ. Tác giả cho rằng để thực hiện thành công

việc thương mại hóa công nghệ cần có trung tâm CGCN. Đây là đơn vị thực

hiện nhiệm vụ cho hoạt động thương mại và dịch vụ CGCN cụ thể là:

Thứ nhất, Dịch vụ tìm kiếm đối tác: Trung tâm có nhiệm vụ đánh giá

công nghệ để bán, dự báo tính khả thi của thị trường và xu hướng của ngành,

xác định những đối tượng được cấp phép hoặc đối tác tiềm năng, hỗ trợ giải

quyết các vấn đề bắt nguồn từ sự khác biệt về pháp luật, về công nghệ.

Thứ hai, Dịch vụ định giá công nghệ: Trung tâm là nghiên cứu khả thi

về công nghệ giai đoạn đầu thông qua phân tích thị trường, kỹ thuật, kinh tế

và thực hiện định giá kinh doanh công nghệ.

Thứ ba, Dịch vụ mua bán và sáp nhập: Trung tâm thúc đẩy mua bán và

sáp nhập liên quan đến các công ty dựa trên công nghệ và liên doanh trong

phòng thí nghiệm, cung cấp dịch vụ toàn diện từ việc tìm kiếm đối tác phù

hợp để ký hợp đồng.

Rudi Bekkers, Arianna Martinelli (2012), “Knowledge positions in

high-tech markets: Trajectories, standards, strategies and true innovators” (Vị

trí tri thức trong TTCNC: Quỹ đạo, tiêu chuẩn, chiến lược và sự đổi mới thực

sự) [126]. Các tác giả nhấn mạnh: Tri thức có vai trò quan trọng trong các loại

thị trường, nhất là TTCN, đặc biệt là TTCNC. Do vậy, công nghệ và tri thức

15

có tính chất hệ thống, dựa trên sự tích hợp của nhiều đóng góp khác nhau liên

quan, liên ngành. Trong cùng ngành, tiêu chuẩn cao ngày càng trở nên quan

trọng, vì chúng cần thiết để đảm bảo khả năng tương tác giữa các sản phẩm và

dịch vụ phức tạp tại các điểm khác nhau trong chuỗi giá trị. Công trình tập

trung vào việc đo lường thực nghiệm vai trò tri thức của các công ty trong các

thị trường dựa trên tiêu chuẩn CNC, trên cơ sở đó chỉ ra có thể đánh giá các

vai trò tri thức là quan trọng bởi chúng được giả định là tăng cơ hội tham gia

thị trường bền vững, sức mạnh thương lượng và doanh thu. Để thực hiện công

trình nghiên cứu này, các tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình

trên W-CDMA, tiêu chuẩn thế hệ thứ ba thành công nhất cho viễn thông di

động. Đây là một điểm tham chiếu quan trọng để xác định vai trò tri thức thực

tế của các công ty liên quan trong hoạt động CNC.

1.1.2. Một số công trình khoa học về phát triển thị trường công nghệ

và thị trường công nghệ cao

Geoffrey.Moore; Paul Johnson; Tom Kippola (1994), “How high -

tech Market develop” (TTCNC phát triển như thế nào) [119]. Công trình đã

chỉ ra làm thế nào để phát triển TTCNC, trong đó chỉ rõ một số giải pháp

quan trọng nhằm giúp cho Nhà nước cũng như các chủ thể tham gia có cách

định hướng, tiếp cận thị trường bảo đảm cho TTCNC phát triển một cách

mạnh mẽ và đạt hiệu quả.

Bruce Buskirk, Allanc Reddy (1994), “Planning market development in

high tech firms” (Lên kế hoạch phát triển thị trường trong các công ty CNC)

[117]. Các tác giả xem xét chiến lược tăng trưởng thay thế cho vai trò của các

công ty CNC. Sử dụng một ma trận chiến lược phát triển mở rộng, đồng thời

đề xuất tỷ lệ thất bại cao giữa các công ty CNC và các sản phẩm là kết quả

của sự thất bại của họ để nhận ra rằng họ không còn cạnh tranh trong

TTCNC. Từ thất bại chiến lược CNC, các tác giả cho rằng TTCNC của các

công ty này không phải là CNC và thất bại là kết quả tất yếu bởi chưa gắn

phát triển TTCNC với nhu cầu CNC. Đây là công trình chỉ ra sự thất bại của

16

một số công ty CNC trong phát triển TTCNC và chỉ ra sự cần thiết trong việc

nghiên cứu phát triển TTCNC theo đúng nghĩa, phù hợp với các loại sản

phẩm, dịch vụ CNC được lưu thông trên TTCNC.

Jonh. Sigurdon (2004), Kinh nghiệm các nước Châu Âu về phát triển

thị trường khoa học - công nghệ [91]. Tác giả đã phân tích khái quát các nhân

tố ảnh hưởng đến sự tiến bộ của công nghệ, đồng thời đánh giá vai trò của

công nghệ có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển thị trường

KHCN, trong đó có TTCNC. Bàn về vấn đề này, tác giả cho rằng thị trường

vốn, lao động, công nghệ kém phát triển, sự vận hành nhịp nhàng của các thể

chế pháp luật, ngành, đào tạo và công nghệ,… sẽ là những nhân tố quan trọng

cần thiết cho tiến bộ công nghệ. Khi đề cập kinh nghiệm của 6 nước Châu Âu

trong phát triển thị trường KHCN, tác giả tập trung làm rõ những nội dung cơ

bản mà các nước trên đều phải nghiên cứu trải nghiệm và thực hiện trong thực

tế đó là phát triển tốt kết cấu hạ tầng nghiên cứu; Nhà nước đẩy mạnh xây dựng

các tổ chức CGCN; nghiêm túc thực hiện các chương trình hỗ trợ CGCN.

JakkiJ Mohr, Sanjit Sengupta, Staley Slater (2010), “Marketing of high -

technology product and innovation” (Tiếp thị sản phẩm CNC và đổi mới) [120].

Nội dung công trình đề cập đến doanh nghiệp CNC trong việc xây dựng kế

hoạch chiến lược phát triển TTCNC, đồng thời làm rõ những yêu cầu đặt ra

trong quá trình định hướng phát triển TTCNC như: quan hệ đối tác và quan hệ

khách hàng; công cụ truyền thông tiếp thị; giá cân nhắc trong TTCNC,... Đặc

biệt, công trình đã làm rõ các bước xây dựng kế hoạch phát triển TTCNC.

Geoffrey Moore (2011), “High tech Market development moded”

(Phát triển TTCNC hiện đại) [118]. Tác giả nghiên cứu một số nội dung về

phát triển TTCNC hiện đại, trong đó chủ yếu đề cập đến thuận lợi, khó khăn

trong phát triển TTCNC của Hoa Kỳ. Trên cơ sở phân tích thuận lợi, khó

này, tác giả làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ các

doanh nghiệp, các tổ chức khác tham gia phát triển TTCNC; đồng thời kiến

nghị một số chính sách thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp và các tổ

chức vào phát triển TTCNC.

17

1.2. Một số công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài

1.2.1. Một số công trình khoa học về thị trường khoa học công nghệ

và thị trường công nghệ

Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Kinh nghiệm xây dựng

TTCN của Trung Quốc” [80]. Bài viết khái quát sự hình thành, phát triển

TTCN của Trung Quốc, đồng thời chỉ ra một số bài học kinh nghiệm mà

Trung quốc đã vận dụng thành công trong phát triển thị trường này. Trong đó

làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho TTCN phát triển, hình

thành các cơ quan có chức năng hỗ trợ cho Nhà nước định hướng, điều hành

TTCN phát triển bao gồm: Ủy ban Kế hoạch; Ủy ban Khoa học; Ủy ban Kinh

tế và Thương mại… Bên cạnh đó, Trung Quốc rất chú trọng trong phát triển

doanh nghiệp KHCN, coi doanh nghiệp KHCN là chủ thể chính để phát triển

thị trường KHCN theo hướng ưu tiên nhập khẩu công nghệ và thu hút vốn

FDI vào TTCN. Đặc biệt, Trung Quốc đã thiết lập đồng bộ nền tảng cho phát

triển TTCN như hệ thống cơ sở nghiên cứu KHCN, pháp luật KHCN, các tổ

chức trung gian của thị trường KHCN.

Hàn Ngọc Lương (2002), “Quản lý TTCN của Trung Quốc”[72]. Đây

là bài viết đánh giá về phương pháp quản lý TTCN của Trung Quốc. Theo tác

giả công tác quản lý TTCN là nội dung rất quan trọng giúp cho thị trường này

phát triển. Do vậy, Bộ KHCN là cơ quan quản lý trực tiếp đối với TTCN và

đồng thời cần tổ chức ra các cơ quan quản lý trực tiếp mà cụ thể là: (1) Trục

trung tâm; (2) Trục hiệp hội TTCN Trung quốc; (3) trục hiệp hội trung tâm

xúc tiến năng suất Trung Quốc. Trong đó đối với mỗi trung tâm đều có vị trí

vai trò quan trọng trong việc điều hành, quản lý và phối hợp với các cơ quan

ban ngành từ Trung ương đến địa phương để thực hiện tốt công tác quản lý và

thúc đẩy cho TTCN phát triển.

Nguyễn Thị Hường (2006), “Thị trường KHCN Việt Nam: thực trạng

và giải pháp” [58]. Tác giả đánh giá toàn diện sự phát triển thị trường KHCN

ở Việt Nam giai đoạn 1990-2005. Trong đó phân tích cơ sở lý luận của quá

18

trình hình thành thị trường KHCN Việt Nam, đồng thời thông qua kinh

nghiệm của Trung quốc, Hàn quốc và một số nước Châu Âu và thực trạng

phát triển thị trường KHCN Việt Nam, tác giả khẳng định phát triển thị

trường KHCN là tất yếu khách quan và thực sự cần thiết không chỉ đối với

nền kinh tế Việt Nam mà còn cần thiết với nhiều nền kinh tế khác. Trên cơ sở

đó tác giả đề xuất 3 quan điểm và 5 nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển

thị trường KHCN, góp phần nâng cao năng lực KHCN quốc gia thời gian tới.

Hoàng Xuân Long (2007), “Tăng cường quản lý TTCN ở địa phương”

[69]. Theo tác giả, TTCN tồn tại ở các quy mô, tốc độ khác nhau, trong đó có

quy mô cấp địa phương. Do trình độ phát triển KHCN và trình độ phát triển

của các địa phương khác nhau nên TTCN phát triển không đồng đều. Vì vậy,

ngoài việc chấp hành các quy định của Bộ KHCN, mỗi địa phương cần có văn

bản quy phạm pháp luật quản lý TTCN riêng. Theo tác giả, hầu hết các địa

phương ở Trung Quốc đều có điều lệ quản lý TTCN trên cơ sở cụ thể hóa

chính sách của trung ương, đặc biệt một số địa phương đã đưa ra các chính

sách thử nghiệm phát triển TTCN nhằm tạo ra sự đột phá hiệu quả hơn. Như

vậy, trong công trình này tác giả đã bàn về kinh nghiệm quản lý TTCN của

các địa phương ở Trung quốc. Đây là những bài học kinh nghiệm quý giá cho

Việt Nam, khi đang đẩy mạnh phát triển TTCN.

Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012), “Bàn về thuật ngữ

thị trường khoa học, TTCN và thị trường thị KHCN” [2]. Đây là công trình

các tác giả nghiên cứu nhằm thống nhất lại cách hiểu rõ ràng nhất về các khái

niệm các thị trường này. Vì theo tác giả thống nhất về cách hiểu các loại thị

trường này là một nội dung rất quan trọng trong việc đề ra chiến lược phát triển

các loại hàng hóa có liên quan. Trên cơ sở phân tích các nội dung liên quan như

làm rõ quan niệm thị trường; làm rõ quan niệm hàng hóa và các thuộc tính của

hàng hóa và các quan niệm liên quan đến thị trường khoa học công nghệ,

TTCN và thị trường khoa học, các tác giả khẳng định sự tồn tại của các loại thị

trường này tùy thuộc vào từng hoàn cảnh sử dụng cho phù hợp.

19

Trần Quốc Khánh (2014), “Thị trường KHCN Việt Nam trước yêu cầu

phát triển và hội nhập quốc tế” [61]. Theo tác giả, thị trường KHCN là một bộ

phận cấu thành của thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò then

chốt trong việc tạo môi trường thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới công

nghệ. Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường KHCN Việt Nam, nhất là

những tồn tại của thị trường này trong thời gian qua, tác giả đề ra 4 giải pháp

phát triển thị trường KHCN thời kỳ hội nhập quốc tế. Đây là những giải pháp

quan trọng cần thực hiện đồng bộ góp phần nâng cao năng lực KHCN quốc

gia, phục vụ phát triển KT- XH của đất nước.

Hồ Ngọc Luật (2015), “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ trường

đại học vào các doanh nghiệp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” [70]. Tác

giả cho rằng, CGCN và thương mại hóa kết quả nghiên cứu đang là vấn đề

được nhiều nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý trong nước và quốc tế quan

tâm. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu góp phần thúc đẩy phát triển thị

trường KHCN và đẩy nhanh ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Từ

đặc điểm của thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tác giả phân tích thực

trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, trên cơ sở đó chỉ ra khó khăn

trong quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Đồng thời tác giả cho

rằng, chính sách cần đổi mới hướng tới doanh nghiệp nhằm thúc đẩy

thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Theo tác giả, thúc đẩy thương mại hóa

kết quả nghiên cứu khoa học từ các trường đại học là nền tảng phát triển thị

trường KHCN ở Trung Quốc.

Vũ Trường Sơn, Lê Vũ Toàn (2015), “Định giá công nghệ và vai trò

của Nhà nước trên TTCN” [92]. Các tác giả cho rằng phát triển TTCN là một

trong những định hướng của hoạt động KHCN. Trong đó việc định giá công

nghệ là yếu tố quan trọng để khai thác, thương mại hóa và CGCN. Việc định

giá công nghệ là căn cứ quan trọng cho cả bên CGCN và bên nhận CGCN

trong việc thực hiện giao dịch công nghệ thành công. Tuy nhiên, trên thực tế

việc thực hiện các giao dịch này còn gặp nhiều rào cản cần tháo gỡ, nhất là

20

các quy định, quy chế, văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ,… còn

nhiều bất cập để định giá công nghệ.

Trên cơ sở đánh giá và phân tích thực trạng định giá công nghệ, tác giả

cho rằng, cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động này, đồng

thời đưa ra khuyến nghị để Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình, đó là: Hoàn

thiện khung pháp lý cho hoạt động định giá công nghệ; Xây dựng các tổ chức và

đào tạo chuyên gia độc lập cho hoạt động định giá công nghệ; Xây dựng mạng

lưới thông tin quốc gia về định giá công nghệ. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn

quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay.

1.2.2. Một số công trình khoa học về phát triển thị trường khoa học

công nghệ, thị trường công nghệ và thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Đinh Văn Ân, Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2004), Phát triển thị trường

KHCN ở Việt Nam [4]. Công trình này đánh giá tổng quan về thị trường

KHCN Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra nhận dạng về thị trường KHCN, kiến

nghị những chính sách ưu tiên phát triển thị trường này. Ngoài ra công trình

còn đề cập đến một số vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận như: Tác động của

sự hình thành, phát triển thị trường KHCN; vai trò của Nhà nước trong quá

trình hình thành, phát triển thị trường KHCN; vai trò của doanh nghiệp trong

đổi mới công nghệ với phát triển thị trường KHCN; vấn đề sở hữu trí tuệ, đầu

tư mạo hiểm đối với phát triển thị trường KHCN.

Nguyễn Văn Tri (2005), “Môi trường pháp lý cho việc hình thành và

phát triển TTCN” [104]. Tác giả bài viết đã khái quát thuận lợi, khó khăn

trong quá trình hình thành và phát triển TTCN Việt Nam. Đặc biệt đã khái

quát cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường này. Đây là

căn cứ pháp lý cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển

KHCN nói chung, phát triển TTCN nói riêng ở Việt Nam. Với công trình này,

tác giả chủ yếu làm rõ quyền và nghĩa vụ CGCN của các doanh nghiệp, nhất

là các doanh nghiệp FDI, quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với các tổ chức và

cá nhân trong hoạt động nghiên cứu KHCN.

21

Lê Thị Khánh Vân (2005), “Chợ công nghệ và thiết bị - hoạt động xúc

tiến hiệu quả để tạo lập và phát triển TTCN” [109]. Tác giả đã khái quát vai trò

rất quan trọng của chợ công nghệ và thiết bị bởi nó không chỉ là nơi tạo cơ hội

kết nối cung cầu về công nghệ và thiết bị, mà còn có tác động rất lớn đến sự phát

triển năng lực KHCN quốc gia, góp phần vào phát triển KT- XH đất nước. Với ý

nghĩa đó, tác giả cho rằng để phát huy tốt vai trò của chợ công nghệ và thiết bị

cần thực hiện tốt 4 giải pháp: Hoàn thiện cơ sở pháp lý mua bán và dịch vụ tư

vấn giao dịch công nghệ; Giải pháp kích cầu công nghệ; Giải pháp kích cung

công nghệ; Phát triển các tổ chức trung gian trong giao dịch công nghệ.

Nguyễn Văn Liên (2006), “Cạnh tranh là động lực thúc đẩy thị trường

KHCN phát triển” [67]. Qua nội dung bài viết tác giả đề cập đến vấn đề cạnh

tranh trên thị trường là một yếu tố rất quan trọng, đây là những nội dung cần

thiết giúp cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp KHCN nói

riêng có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Do vậy, để thị trường

KHCN phát triển lành mạnh, hiệu quả theo tác giả đưa ra một số giải pháp

giúp cho doanh nghiệp cần nắm vững và thực hiện nghiêm túc trong quá trình

R&D thị trường, đồng thời tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà

nước trong việc điều hành, quản lý định hướng bằng nhiều hình thức, phương

pháp cách làm khác nhau nhưng bảo đảm được tính cạnh tranh công bằng

giữa các doanh nghiệp trong phát triển thị trường KHCN.

Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh

tế tri thức, [29]. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã đề cập đến

những vấn đề về CNC và lực lượng sản xuất mới; nền kinh tế tri thức với quá

trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay và đã đề cập đến nhiều nội dung liên

quan mật thiết đến đề tài mà NCS nghiên cứu:

Một là, trên cơ sở làm rõ các khái niệm cơ bản về KH&CN, tác giả đã

phân tích, luận giải đến các vấn đề về CNC; vai trò, đặc điểm các trụ cột của

CNC như: CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - công

nghệ nano, công nghệ năng lượng mới.

22

Hai là, tác giả đã phân tích vai trò của hệ thống CNC đối với lực lượng

sản xuất mới bằng cách so sánh lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất

hiện đại (cốt lõi là hệ thống CNC bao gồm 8 CNC cơ bản và hàng loạt CNC

chuyên ngành) với lực lượng sản xuất cũ trên các yếu tố cấu thành của lực

lượng sản xuất như con người lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.

Ba là, cuốn sách đã trình bày về vai trò, các bộ phận chủ yếu của Khu

CNC và một số Khu CNC được thành lập sớm trên thế giới như Thung lũng

Silicon của Mỹ; Thành phố khoa học Tsukuba của Nhật Bản; Công viên phần

mềm Bangalore của Ấn Độ; Khu CNC Trung Quan Thôn, Bắc Kinh, Trung

Quốc; Khu CNC ở một số nước khác.

Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Môi trường thể chế cho việc phát triển

TTCNC [50]. Tác giả đã khái quát tác động của môi trường pháp lý nói chung,

môi trường thể chế nói riêng đến sự phát triển của TTCNC ở Việt Nam. Theo

tác giả, ngoài những tác động thuận lợi của môi trường thể chế giúp cho

TTCNC phát triển, còn nhiều bất cập trong văn bản quy phạm pháp luật đăng

ký quyền sở hữu công nghiệp. Việc tổ chức thực thi bảo hộ quyền sở hữu

công nghiệp rất kém, điển hình là lĩnh vực phần mềm công nghệ thông tin.

Phạm Văn Dũng (2008), “Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị

trường KHCN ở Việt Nam” [31]. Tác giả bài viết đã khái quát vai trò quan

trọng của thị trường KHCN trong quá trình phát triển KT- XH đất nước. Trên

cơ sở đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp thúc đẩy thị trường KHCN Việt

Nam thời gian tới như: Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ KHCN;

Chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu KHCN sang hoạt động theo mô hình doanh

nghiệp; Hoàn thiện thể chế hỗ trợ thị trường KHCN; Tiếp tục đổi mới kinh tế

theo hướng KTTT, hội nhập. Có thể nói đây là những giải pháp tạo động lực

quan trọng thúc đẩy cho thị trường KHCN Việt Nam từng bước hoàn thiện và

phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Phát triển đồng bộ các loại thị trường

trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [51]. Tác giả đã

23

phân tích làm rõ thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền

KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua, nhất là trong

thời kỳ đổi mới; Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển đồng bộ các loại

thị trường trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong

đó tác giả đề cập giải pháp phát triển TTCNC.

Đoàn Hữu Bẩy (2009), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ -

Kinh nghiệm của Trung Quốc và vận dụng vào Việt Nam [5]. Luận án tiến sĩ

kinh tế, Viện chính trị và kinh tế thế giới. Công trình này phần lớn tập trung

nghiên cứu quá trình phát triển thị trường KHCN của Trung Quốc từ những

năm cải cách, mở cửa (1978 -2008), tiếp cận vấn đề từ các khía cạnh như: Kết

quả đạt được xét về quy mô, trình độ và các yếu tố thị trường của các ngành

và các lĩnh vực... Trên cơ sở đó tác giả rút ra những quan điểm, mục tiêu, giải

pháp và các bài học thành công, thất bại của quá trình phát triển thị trường

KHCN Trung Quốc trong những năm đầu mở cửa, đồng thời đưa ra những bài

học kinh nghiệm đối với sự phát triển của thị trường KHCN ở Việt Nam giai

đoạn (1986 - 2008).

Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học - công nghệ

Việt Nam [32]. Tác giả trình bày khái quát quá trình phát triển thị trường

KHCN từ cơ sở lý luận đến kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản,

Singapo,…Đồng thời, đánh giá thực trạng phát triển thị trường KHCN, những

nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của thị trường KHCN ở

Việt Nam. Đặc biệt, trong công trình này tác giả đã trình bày quan điểm phát

triển thị trường KHCN của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời đề xuất giải pháp

thúc đẩy phát triển thị trường KHCN thời gian tới.

Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Thị trường KHCN Việt Nam trong tiến trình

hội nhập quốc tế [52]. Trong công trình tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý

luận về thị trường KHCN, đồng thời xây dựng các tiêu chí đánh giá và luận giải

các yếu tố tác động đến thị trường KHCN trong tiến trình HNKTQT. Đồng thời

nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường KHCN của một số quốc gia và rút

24

ra bài học kinh nghiệm phát triển thị trường này cho Việt Nam. Ngoài ra, tác giả

đã làm rõ bối cảnh hiện nay tác động đến quá trình phát triển thị trường KHCN ở

Việt Nam, đồng thời phân tích, đánh giá tình hình phát triển thị trường KHCN,

trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam trong

tiến trình HNKTQT ngày càng phát triển sâu rộng.

Trần Văn Minh (2012), “Nghiên cứu phát triển thị trường công nghệ

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” [75]. Luận án tiến sĩ, Đại học Mỏ - Địa chất.

Đây là công trình nghiên cứu về phát triển TTCN của địa phương nhưng cũng

đã đánh giá và khái quát hóa, hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TTCN,

đặc biệt công trình đã xác định được các đặc thù của TTCN, đồng thời đã chỉ

rõ những tiêu chí, nội dung, và các điều kiện để cho TTCN phát triển. Ngoài

ra, công trình cũng đã đánh giá khách quan về thực trạng phát triển TTCN của

cả nước nói chung và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Trên cơ sở đó đã rút ra

được những bài học kinh nghiệm, định hướng, giải pháp phát triển TTCN

trong thời gian tới.

Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh (2014), “Nâng cao vai trò

quản lý của Nhà nước đối với phát triển TTCN” [116]. Ở công trình này, các

tác giả phân tích, nghiên cứu tương đối toàn diện về vai trò của Nhà nước

Việt Nam đối với sự phát triển TTCN. Trên cơ sở tổng quan một số công trình

khoa học liên quan đến đề tài đã công bố gần đây, các tác giả đưa ra quan

niệm về TTCN, đồng thời phân tích 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới sự phát

triển của TTCN. Ngoài ra, tác giả còn đánh giá thực trạng chính sách quản lý

của Nhà nước đối với sự phát triển của TTCN, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp

nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của TTCN Việt

Nam trong thời gian tới.

Nguyễn Quốc Việt, Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2015), “Quản

lý công của OECD trong phát triển thị trường KHCN: Bài học cho Việt Nam”

[114]. Nhóm tác giả phân tích cách tiếp cận mới của OECD trong quản lý

công để tạo ra cơ chế cùng hợp tác làm cho sự phát triển thị trường KHCN

25

ngày càng hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn với nhu cầu của khách hàng.

Trên nền tảng nghiên cứu lý thuyết quản lý công của OECD, nhóm tác giả

công trình đã phân tích và làm rõ mối quan hệ tương tác giữa 3 nhóm chủ thể:

Cơ quan Nhà nước - Viện nghiên cứu, Trường đại học và Doanh nghiệp. Đặc

biệt nhóm tác giả nhấn mạnh vai trò của các nhân tố đóng vai trò trung gian

kết nối, thúc đẩy mối liên hệ giữa Cơ quan Nhà nước - Viện nghiên cứu,

Trường đại học và doanh nghiệp trong quá trình phát triển thị trường KHCN

ở Việt Nam. Theo đó nhóm tác giả đề xuất chính sách, thể chế hoạt động của

các tổ chức trung gian của TTCN.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2015), Báo cáo tổng kết công tác khoa học

công nghệ năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 [6]. Đây là bản

báo cáo thường niên hàng năm của Bộ Khoa học và Công nghệ. Trong phần 6

báo cáo đã đánh giá khái quát tình hình phát triển của thị trường KHCN của

Việt Nam năm 2014 như bối cảnh phát triển của thị trường KHCN; Hình

thành và phát triển các tổ chức trung gian của thị trường KHCN thành, tạo

điều kiện cho các yếu tố của TTCN phát triển, đặc biệt ở các khâu: Ươm tạo

công nghệ; nhập khẩu giải mã, làm chủ công nghệ và CGCN. Các tổ chức

trung gian hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ KHCN được quan tâm xây dựng.

Thị trường KHCN được thúc đẩy phát triển và bước đầu phát huy vai trò cầu

nối, gắn kết hoạt động KHCN với sản xuất, kinh doanh. Các chợ công nghệ

và thiết bị, sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian công nghệ ở quy

mô quốc gia, vùng, địa phương đã góp phần quan trọng thúc đẩy kết nối cung

- cầu công nghệ, gia tăng số lượng và giá trị các giao dịch công nghệ giữa

doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu. Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và

chuyển giao tiến bộ KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở 63 tỉnh, thành

phố được đầu tư nâng cấp. Bên cạnh việc đẩy mạnh hỗ trợ hình thành và phát

triển các định chế trung gian của thị trường KHCN, tạo môi trường thuận lợi

cho hoạt động mua bán, CGCN, kết nối doanh nghiệp với thị trường, các sự

kiện chơ công nghê, thiết bị, kết nối cung cầu công nghệ. Ngày hội khởi

26

nghiệp công nghệ cũng đã tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường

KHCN trong nước. Sàn giao dịch công nghệ vẫn tiếp tục duy trì và triển khai

công tác tư vấn, kết nối cung cầu, môi giới CGCN. Hệ thống cơ sở dữ liệu

cung, cầu công nghệ được thiết kế gồm phần mềm xử lý cơ sở dữ liệu công

nghệ để cập nhật dữ liệu về nhu cầu đổi mới công nghệ, nhu cầu tư vấn cải

tiến kỹ thuật, nhu cầu liên doanh liên kết dựa trên công nghệ...; dữ liệu các

công nghệ sẵn sàng chuyển giao trong và ngoài nước; dữ liệu về chuyên gia

tư vấn công nghệ; dữ liệu doanh nghiệp sản xuất trong các lĩnh vực.

Nguyễn Vũ Thao (2016), “Thúc đẩy phát triển TTCN thông qua hoạt

động kết nối cung - cầu” [95]. Phát triển TTCN là nội dung rất quan trọng đối

với các nền kinh tế trên thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Tác

giả cho rằng, có rất nhiều yếu tố và giải pháp phát triển thị trường này, trong

đó kết nối cung cầu là một trong những nội dung quan trọng. Tác giả khẳng

định, hoạt động kết nối cung - cầu ở Việt Nam đang từng bước được triển

khai với các hình thức ngày càng đa dạng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên trên

thực tế TTCN ở Việt Nam còn nhiều bất cập, sự thiếu đồng bộ trong việc liên

kết giữa người mua và người bán với các nhà cung cấp dịch vụ còn chậm,

chưa mang lại hiệu quả. Vì vậy, sự phát triển của TTCN chưa đúng với tiềm

năng. Do vậy, với mục đích thúc đẩy TTCN phát triển mạnh mẽ hơn thông

qua hoạt động kết nối cung cầu, tác giả đề xuất 4 định hướng gồm: Tổ chức

chuỗi hoạt động tư vấn kỹ thuật, cải tiến công nghệ trực tiếp cho các doanh

nghiệp có nhu cầu cải tiến công nghệ; Hoạt động kết nối tài chính và công

nghệ, tư vấn hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp tham gia chương trình, dự án

hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ; Xây dựng phần mềm quản lý, xử lý dữ liệu

công nghệ như dữ liệu nguồn cung cầu công nghệ; Tổ chức các diễn đàn quốc

tế xúc tiến hợp tác đầu tư và CGCN.

Lương Thanh Hải (2017), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở

Việt Nam” [45]. Đây là công trình khoa học bàn về giải pháp phát triển thị

trường KHCN ở Việt Nam. Theo đó tác giả, sản phẩm KHCN như một loại

27

hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, được mua bán, trao đổi trên thị trường như các

loại hàng hóa, dịch vụ khác, nên thị trường KHCN cũng như các loại thị

trường khác gồm 5 yếu tố cơ bản để hình thành như khung pháp lý cho các

giao dịch trên thị trường, bên mua, bên bán, cơ sở hình thành giá cả và các

hoạt động hỗ trợ xúc tiến giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, từ kết quả

nghiên cứu tác giả khẳng định, còn rất nhiều bất cập, rào cản làm cho thị

trường KHCN chưa phát huy hết vai trò của mình như: Khung pháp lý chưa

đồng bộ; Nhu cầu sản phẩm KHCN chưa cao; Hoạt động CGCN theo chiều

dọc còn ít,… Do đó, để thúc đẩy thị trường KHCN phát triển, tác giả đưa ra

khuyến nghị thực hiện tốt 3 giải pháp cơ bản đó là: Nhà nước xây dựng khung

pháp luật cần thiết để thị trường KHCN hoạt động phù hợp với thông lệ quốc

tế; Áp dụng các biện pháp kích cầu đối với sản phẩm công nghệ; Thực hiện

một số biện pháp tăng cung sản phẩm công nghệ.

Nguyễn Duy Nhiên (2017), Chuyển giao công nghệ cao từ nước ngoài

vào một số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam hiện nay [83].

Tác giả khẳng định trong những năm qua thành tựu công nghệ là thành

quả của cách mạng khoa học công nghệ và hoạt động nghiên cứu, triển khai.

Quá trình vận động và phát triển của cách mạng khoa học nhất là cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ cao, hiện đại

là chìa khóa giúp cho nhiều nước thành công, trở thành những nước công

nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển hùng mạnh. Đây cũng là cơ hội cho các

quốc gia đang phát triển có điều kiện tiếp cận, rút ngắn khoảng cách, cải thiện và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao năng lực sản suất kinh doanh,

sức cạnh tranh, tham gia sâu rộng hội nhập kinh tế thế giới, thông qua các con

đường khác nhau, đặc biệt là qua tiếp nhận chuyển giao công nghệ

Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH, đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong

bối cảnh cách mạng KH CN và toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, Việt

Nam cần có những chiến lược, giải pháp thực hiện chuyển giao CNC, tiên

28

tiến, hiện đại từ nước ngoài vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế, trước hết và

trọng tâm là vào các ngành công nghiệp trọng điểm. Các ngành công nghiệp

trọng điểm đóng vai trò là trụ cột, đầu tầu, động lực, đòn bảy đối với nền kinh

tế của đất nước nói chung, nền công nghiệp nói riêng. Đây là những ngành có

thế mạnh lâu dài, mang lại hiệu quả cao về KT­XH và tác động mạnh mẽ đến

sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Để thực sự khẳng định giá trị, vai

trò, sứ mệnh của mình, các ngành công nghiệp trọng điểm cần phải đảm bảo

thế mạnh về vốn, tài nguyên, lao động, thị trường, trình độ tổ chức quản

lý…và quan trọng hàng đầu là công nghệ.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng, kết quả, thành tựu, hạn chế của CGCN

vào các ngành công nghiệp trọng điểm ở Việt Nam trên các phương diện:

trình độ công nghệ, hình thức/kênh CGCN, các yếu tố điều kiện thực hiện

chuyển giao CNC và tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh; phân tích

nguyên nhân thành công, thất bại của CGCN từ nước ngoài vào một số ngành

công nghiệp trọng điểm Việt Nam. Đồng thời tác giả đề xuất giải pháp đẩy

mạnh thực hiện chuyển giao CNC, tiên tiến, hiện đại từ nước ngoài vào một

số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam trong thời gian tới.

Đại học kinh tế quốc dân (2018), Cơ hội, thách thức và điều kiện phát

triển công nghệ cao Đà Nẵng đến năm 2020 tầm nhìn 2030 [37].

Trong các nội dung của hội thảo các tác giả thông qua các bài tham

luận đã làm rõ hơn các cơ hội, thách thức và điều kiện phát triển của của Khu

công nghệ cao Đà Nẵng. Các cơ hội chủ yếu được chỉ ra là cơ hội để phát

triển các lĩnh vực công nghệ để giải quyết các vấn đề toàn cầu và chuyển đổi

mô hình tăng trưởng ở Đà Nẵng và miền Trung; cơ hội thu hút các nguồn lực

R&D từ từ nước ngoài từ xu hướng quốc tế hóa hoạt động R&D của các công

ty đa quốc gia và sự gia tăng đầu tư cho R&D ở nước ngoài; cơ hội thị trường

để tiêu thụ sản phẩm phẩm công nghệ cao; cơ hội nhận được sự ủng hộ về

nguồn lực và cơ chế - chính sách phát triển do vai trò của của khoa học công

nghệ nói chung và khu công nghệ cao nói riêng đối với chuyển đổi mô hình

tăng trưởng.

29

Đồng thời chỉ ra các thách thức chính là áp lực cạnh tranh từ các

khu công nghệ cao khác trên thế giới cũng như Khu CNC Hòa Lạc và Khu

CNC thành phố Hồ Chí Minh; thách thức trong huy huy động các nguồn

lực tài chính trong nước (nhà nước + tư nhân) cho xây dựng cơ bản và

hoạt động thường xuyên của khu CNC cao Đà Nẵng; thách thức trong

việc thu hút các nhà đầu tư, các trường đại học và các viện nghiên cứu;

thách thức trong thu hút nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (các nhà

khoa học và các kỹ sư giỏi);

Những điểm mạnh chính là môi trường sống hấp dẫn, vị trí địa lý thuận

lợi, chất lượng dịch vụ công cao, tập trung nhiều trường đại học và viện

nghiên cứu, số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp hàng năm. Những khó khăn chủ

yếu là nguồn vốn, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực thương mại hóa công

nghệ của các Viện, Trường trong khu vực, sự hợp tác chưa chặt chẽ giữa các

trường đại học/viện nghiên cứu với các doanh nghiệp. Để phát triển CNC ở

Đà Nẵng trong thời gian tới, các tác giả cũng đã có một số đề xuất về định

hướng phát triển cho Khu công nghệ cao Đà Nẵng trong thời gian tới.

Khu công nghệ cao Đà Nẵng cần được đặt ở vị trí quan trọng trong quá

trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Dự án phát

triển Khu công nghệ cao Đà Nẵng cần được coi là những dự án đầu tư trọng điểm

trong chính sách đổi mới mô hình tăng trưởng ở khu vực miền Trung.

Về mô hình, Khu công nghệ cao Đà Nẵng nên được phát triển thành

một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở. Về huy động các nguồn lực phát triển,

Khu CNC Đà Nẵng cần tranh thủ sự ủng hộ của Đảng, Chính phủ và xã hội

đối với hoạt động khởi nghiệp để phát triển hoặc thu hút các hoạt động khởi

nghiệp; thu hút nguồn lực từ các chương trình, dự án, đề án khoa học và công

nghệ quốc gia; phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan để xây dựng

chính sách thu hút các hoạt động R&D từ các công ty đa quốc gia; phối hợp

với các trường đại học trên địa bàn để đào tạo và thu hút nguồn nhân lực công

nghệ cao cho Khu CNC Đà Nẵng.

30

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã

công bố và những vấn đề đặt ra luận án luận án tiếp tục giải quyết

1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố

Các công trình khoa học đã công bố nghiên cứu về KHCN, TTCN,

TTCNC và phát triển thị trường KHCN, TTCN, TTCNC được tiếp cận nghiên

cứu từ nhiều lĩnh vực và mục đích khác nhau, nên những vấn đề lý luận và

thực tiễn về phát triển thị trường KHCN, TTCN, TTCNC cũng khác nhau.

Kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học nêu ra ở tiết 1.1 và tiết 1.2

được khái quát trên mấy nội dung cơ bản sau đây:

Một là, các công trình lý giải về sự tồn tại của thị trường KHCN, TTCN

và TTCNC và khẳng định các thị trường này là một thành phần rất quan trọng

trong hệ thống các loại thị trường của nền KTTT, có vai trò rất quan trọng đối

với sự phát triển KT- XH của một nền kinh tế.

Hai là, không ít các công trình khoa học đã luận giải, làm rõ cơ sở lý

luận về phát triển thị trường KHCN, TTCN, trong đó có công trình đưa ra

quan niệm về thị trường KHCN, TTCN; Xây dựng nội dung, tiêu chí đánh giá

và phân tích yếu tố tác động đến sự phát triển của các thị trường này.

Ba là, tuy đã một số công trình nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm phát

triển thị trường KHCN, TTCN ở một số quốc gia, nhưng chưa có công trình

nào nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển TTCNC cũng như nghiên cứu tổng

thể, cơ bản về phát triển TTCNC ở Việt Nam.

Bốn là, có nhiều công trình đánh giá khá toàn diện, sâu sắc về thực trạng

phát triển thị trường KHCN, TTCN, trong đó có rất ít công trình tuy đề cập nghiên

cứu về TTCNC nhưng chưa toàn diện trên cả lý luận và đánh giá thực tiễn.

Trên cơ sở bốn nội dung khái quát kết quả nghiên cứu của các công

trình khoa học liên quan đã công bố ở trong và ngoài nước cho thấy, chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về phát

triển TTCNC ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, nghiên cứu đề tài

Phát triển TTCNC ở Việt Nam là nội dung mới không trùng lặp với các công

31

trình nghiên cứu đã được đánh giá nghiệm thu và công bố, được nghiên cứu

trên cơ sở tham khảo, kế thừa, phát triển kết quả nghiên cứu của các công

trình khoa học liên quan đã công bố thời gian gần đây ở trong và ngoài nước.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết

Từ khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công

liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án cho thấy, còn có không ít

khoảng trống khoa học mà luận án cần tập trung giải quyết khi nghiên cứu

vấn đề: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam. Cụ thể là:

Thứ nhất, dưới góc độ kinh tế chính trị cần tiếp tục luận giải làm rõ cơ

sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ:

Quan niệm thế nào về: công nghệ, CNC, TTCN, TTCNC và phát triển TTCNC?

Quan niệm về phát triển TTCNC ở Việt Nam; phát triển TTCNC ở Việt

Nam bao gồm những nội dung gì và yếu tố tác động đến phát triển TTCNC ở

Việt Nam như thế nào? Việt Nam có thể học được gì từ kinh nghiệm phát

triển TTCNC của một số quốc gia trên thế giới?

Thứ hai, đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong đó

cần làm rõ thành tựu, hạn chế; đồng thời chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn

chế và rút ra những vấn đề cần giải quyết từ thực trạng này.

Thứ ba, để phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới, cần phải có

quan điểm và các giải pháp như thế nào cho phù hợp, khả thi?

Từ các câu hỏi trên, luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết các

vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, luận giải cơ sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam;

Hai là, làm rõ những thành tựu, hạn chế về phát triển TTCNC ở Việt

Nam giai đoạn 2011-2019; đồng thời chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn chế,

trên cơ sở đó rút ra những vấn đề cần giải quyết từ thực trạng này.

Ba là, đề xuất quan điểm và giải pháp phù hợp, khả thi để phát triển

TTCNC ở Việt Nam trong thời gian tới.

32

Kết luận chương 1

Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của KHCN và vấn đề phát triển thị

trường KHCN nói chung, TTCNC nói riêng trong xây dựng tiềm lực khoa học

công nghệ và phát triển KT-XH của đất nước đối với các quốc gia trên thế

giới và đặc biệt đối với Việt Nam nói riêng. Trong thời gian qua, đã có rất

nhiều các công trình khoa học cả trong và ngoài nước đã nghiên cứu đánh giá

và từng bước làm rõ các nội dung này. Đây là những cơ sở quan trọng giúp

cho tác giả có thể tìm hiểu, kế thừa và phát triển trong luận án của mình.

Thông qua việc hệ thống hóa, phân tích khảo cứu tư liệu từ các công

trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả đã tổng quan 41 công trình tiêu

biểu gồm 12 công trình nước ngoài và 29 công trình trong nước. Trong đó: 15

công trình nghiên cứu về TTCN, thị trường KHCN; 26 công trình nghiên cứu

về phát triển thị trường KHCN và một số công trình nghiên cứu về những vấn

đề liên quan đến TTCN và CNC. Từ nội dung tổng quan, nghiên cứu sinh đã

khái quát 4 nội dung phản ánh khoảng trống khoa học mà các công trình khoa

học đã công bố chưa đề cập, hoặc đề cập nhưng chưa đầy đủ, toàn diện. Với 4

nội dung này đặt ra 3 vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết,

theo đó là 3 nhiệm vụ mà luận án cần nghiên cứu, làm rõ một cách cơ bản,

toàn diện, hệ thống.

33

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO

Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA

2.1. Những vấn đề chung về công nghệ, công nghệ cao, thị trường

công nghệ và thị trường công nghệ cao

2.1.1. Quan niệm về công nghệ, công nghệ cao

2.1.1.1. Quan niệm về công nghệ

Công nghệ là hệ thống tri thức gắn liền và tương ứng với một tập hợp

kỹ thuật như máy móc, thiết bị… bao gồm tri thức về kỹ năng, bí quyết, kinh

nghiệm… được sử dụng theo một quy trình hợp lý để vận hành, tập hợp kỹ

thuật đó, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa,

dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của con người. Nếu trước đây

quan niệm cho rằng, công nghệ sử dụng phục vụ lao động sản xuất để tạo ra

của cải vật chất, thì hiện nay công nghệ được sử dụng với nghĩa rộng hơn,

không chỉ sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực đời sống tinh thần, văn hóa cũng

như mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Trước hết, theo nhận định của chủ nghĩa Mác - Lênin về khoa học, kỹ

thuật với tư cách là động lực phát triển không chỉ với lực lượng sản xuất mà còn

đối với toàn thể xã hội. C.Mác đã sử dụng khá nhiều thuật ngữ “công nghệ” cho

các trường hợp, lĩnh vực khác nhau, song công nghệ trong lĩnh vực sản xuất và

lưu thông C.Mác cho rằng: “sự lưu thông của tư bản. Khoảng thời gian tư bản

nằm trong lĩnh vực quá trình sản xuất lâu hay mau tùy thuộc vào những điều

kiện công nghệ của quá trình ấy, và sự lưu lại của tư bản trong giai đoạn này trực

tiếp trùng hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, - cho dù có sự khác nhau

như thế nào đi nữa về độ dài của quá trình sản xuất tùy theo ngành sản xuất, đối

tượng sản xuất v.v.. Ở đây độ dài của quá trình sản xuất chẳng qua chỉ là thời

gian lao động cần thiết để chế tạo ra sản phẩm”[74, tr.15]. “Ở đây, hiện tượng tư

bản trở về chậm hơn - thực chất của vấn đề chính là ở đó - bắt nguồn không phải

từ thời gian lưu thông, mà từ chính những điều kiện sản xuất, trong đó lao động

34

trở thành lao động sản xuất; mà những điều kiện ấy thì thuộc số những điều kiện

công nghệ của quá trình sản xuất”[74, tr.304]. Khi bàn đến các yếu tố cấu thành

lực lượng sản xuất, ngoài việc đề cao vai trò của tư liệu sản xuất và người lao

động, C.Mác nhấn mạnh vai trò của khoa học, kỹ thuật và coi đó là một trong

những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và vai

trò của con người và giới tự nhiên đối với công cụ lao động C.Mác cho rằng,

“Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo,

máy sợi con dọc di động, v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của

con người, là vật liệu tự nhiên đã được chuyển hóa thành những cơ quan của ý

chí con người chế ngự giới tự nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong

giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do

bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hóa của tri thức”[74, tr.372].

Nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội loài người thông

qua hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác nhận định: “Sự phát triển của tư bản cố

định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào

thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều

kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm

soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá

trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không

những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực

tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”[74, tr.372, 373].

Như vậy, theo C.Mác, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa

thành máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công cụ sản xuất (tư bản cố định) và được

người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng

sản xuất trực tiếp. Với ý nghĩa đó C.Mác khẳng định: “Sự phát triển của hệ

thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt

được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục

vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to

35

lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc

vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những

yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”[74, tr.367].

Khi bàn về công nghệ có rất nhiều các quan niệm khác nhau tùy thuộc vào

mục đích đặt ra trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu của các tác giả hoặc theo vị trí

vai trò của công nghệ của các tổ chức có những quan niệm khác nhau cụ thể là:

Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương cho rằng công

nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến sản

phẩm hoặc thông tin bao gồm kiến thức, khả năng, thiết bị, sáng chế, công

thức chế tạo, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc chế tạo sản xuất,

hàng hóa hoặc dịch vụ.

Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc: công nghệ là việc áp

dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử

lý nó một cách hệ thống và có phương pháp.

Trong bộ môn khoa học ứng dụng nếu công nghệ được xem như là một

nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp

ứng yêu cầu vật chất và tinh thần của con người thì được hiểu “Công nghệ là

dạng kiến thức có thể áp dụng vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo

các sản phẩm mới” [75, tr.19].

Xét về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nếu công nghệ được

hiểu là một loại tư liệu sản xuất thì được hiểu “Công nghệ là đầu vào cần thiết

của sản xuất và như vậy nó được mua và bán trên thị trường như một loại

hàng hóa được” [75, tr.19].

Ngoài ra trên cơ sở tiếp cận công nghệ là một tập hợp các cách thức và

phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được sử dụng vào sản xuất ở các

ngành khác nhau, để tạo ra các sản phẩm vật chất thì công nghệ được hiểu là

“Công nghệ là một nguồn lực đã được vật thể hóa và cả những kiến thức được

áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho những sản phẩm và

dịch vụ đang có và tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới ”[75, tr.19].

36

Ở nước ta trước đây công nghệ được hiểu là kiến thức, là kết quả của

khoa học ứng dụng có mục đích biến đổi nguồn lực trở thành mục tiêu để sinh

lời. Tuy nhiên cho đến ngày nay cùng với sự phát triển công nghệ trong thực

tiễn, công nghệ đã được hiểu đầy đủ hơn, điều này được quy định cụ thể hóa

thông qua các điều luật như Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11

năm 2006; Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13 năm 2013; Luật

Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 năm 2017 cụ thể là: Công nghệ là

giải pháp, quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện

dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Từ nội hàm của ba quan niệm trên về công nghệ cho thấy, mặc dù từ

năm 2006, khi ban hành Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 đến

nay, quan niệm về công nghệ ở Việt Nam không có gì thay đổi khác biệt. Vì

vậy, tác giả luận án đồng tình và sử dụng quan niệm: Công nghệ là giải pháp,

quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến

đổi nguồn lực thành sản phẩm trong các nội dung nghiên cứu của luận án.

Mặc dù quan niệm về công nghệ là như vậy, song cần thấy rằng, công

nghệ là tên gọi chung của nhiều loại hình công nghệ khác nhau mà mỗi loại

hình công nghệ tuy đều được tích hợp từ thành tựu KHCN đương đại, nhưng có

hàm lượng khác nhau về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; và mỗi loại

hình công nghệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với việc hình thành một ngành

sản xuất hàng hóa, hay dịch vụ mới, hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất hàng hóa,

hay dịch vụ hiện có. Theo Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14, ở Việt

Nam hiện có các loại hình công nghệ phản ánh trình độ công nghệ và vai trò của

chúng, bao gồm: Công nghệ tiên tiến; Công nghệ mới; Công nghệ sạch; CNC.

2.1.1.2. Quan niệm về công nghệ cao

Khi bàn đến lĩnh vực CNC, tùy vào mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên

cứu và lĩnh vực nghiên cứu có nhiều quan niệm khác nhau về CNC. Tuy nhiên,

chưa có quan niệm nào được coi là hoàn hảo và khó xác định được quan niệm hữu

ích nhất trong số các quan niệm đã có. Với sự phát triển của KHCN hiện nay, khi

37

các quy trình tự động hóa, các dây chuyền sản xuất được thực hiện bằng máy tính

được sử dụng rộng rãi thì thuật ngữ CNC ngày càng phổ biến. Ở mỗi quốc gia,

công nghệ được coi là CNC cũng khác nhau.

Theo Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: CNC là công

nghệ với tỷ lệ chi cho R&D lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với các quốc gia

trong đó các sản phẩm và quy trình công nghệ được đổi mới nhanh chóng,

có tác động mạnh mẽ đến sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong R&D, sản

xuất và chiếm lĩnh thị trường trên quy mô thế giới [106, tr. 83].

Theo tư liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế Hoa kỳ

cho rằng: CNC là công nghệ tiên tiến, công nghệ hàng đầu với ba đặc

điểm cơ bản: (1) CNC tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các sản

phẩm có giá trị gia tăng lớn, có đổi mới quan trọng; (2) công nhân

phải có trình độ cao để có thể phát triển công nghệ, nhân lực kết hợp

với công nghệ thiết kế và chế tạo sản phẩm; (3) việc nghiên cứu, phát

triển, thử nghiệm, thương mại hoá, sản xuất, phân phối sản phẩm, dịch

vụ CNC đòi hỏi chi phí lớn [47, tr. 32].

Từ điển Bách khoa của Nhà xuất bản Random House (Mỹ) cho rằng:

CNC là công nghệ đòi hỏi trang thiết bị khoa học tinh vi nhất và kỹ thuật sản

xuất tiên tiến [34, tr.15].

Các quan niệm CNC trên đây tuy khác nhau nhưng cho thấy đặc điểm

chung nhất của CNC là công nghệ dựa trên tri thức khoa học và thành tựu

mới nhất của cuộc cách mạng KHCN với hàm lượng khoa học cao, nhiều

sáng tạo nhất. Ở Việt Nam, quan niệm về CNC đã được trình bày ở các văn

bản quy phạm pháp luật về KHCN, nhất là Luật Chuyển giao công nghệ,

Luật Công nghệ cao, Luật Khoa học và công nghệ đã được ban hành từ năm 2006

đến nay. Trong đó:

Khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 năm 2008 đưa

ra quan niệm: CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu KHCN hiện đại; tạo ra

38

sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện

với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất,

dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có [87, tr.1].

Khoản 6 Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 năm

2017 : CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu KHCN hiện đại; tạo ra sản phẩm

có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi

trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ

mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có [88].

Một loại công nghệ được gọi là CNC phải được thẩm định, đánh giá và

cấp giấy chứng nhận ại thời điểm mà công nghệ được coi là CNC. Theo Điều

5 Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12, Việt Nam tập trung đầu tư ưu tiên

phát triển CNC trong các lĩnh vực: Công nghệ thông tin; Công nghệ sinh học;

Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ tự động hoá. Theo Quyết định số

66/2014/QĐ-TTg ngày 25/11/2014, ở Việt Nam có 58 CNC được ưu tiên đầu

tư phát triển và 114 sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển.

Trước hết căn cứ vào luật Công nghệ cao, các chương trình đề án phát

triển Công nghệ cao của chính phủ và các Bộ, ban, ngành xét về phân loại các

nhóm ngành công nghệ cao cần tập trung nghiên cứu và phát triển có 2 nhóm

ngành cụ thể như sau: (Điều 15, Điều 16 Luật công nghệ cao) tập trung phát

triển công nghệ cao trong các nhóm ngành kinh tế - kỹ thuật và phát triển

công nghệ cao trong nông nghiệp.

Thứ hai, trên thực tế cho chúng ta thấy, với vai trò và đặc trưng của

cuộc cách mạng 4.0 đã tạo ra những “tài sản trí tuệ” có hàm lượng KHCN cao

với các nhóm, ngành được phân chia một cách cụ thể như các nhóm ngành

điện, điện tử, máy tính, chế biến, chế tạo, bảo quản…trở thành yếu tố quan

trọng nhất quyết định giá trị của sản phẩm. Theo đó là sự phát triển của thị

trường công nghệ cao nhằm đáp ứng cung, cầu của các sản phẩm này là

những thị trường mở, thông minh có tính linh hoạt và sáng tạo.

39

Từ những vấn đề trên, tác giả cho rằng: Công nghệ cao ở Việt Nam là công

nghệ thân thiện môi trường được tích hợp từ những thành tựu khoa học công nghệ

hiện đại, có hàm lượng cao trong nghiên cứu và nghiên cứu, tạo ra sản phẩm chất

lượng cao, hiệu quả sử dụng vượt trội với giá trị gia tăng cao góp phần hiện đại hóa

ngành sản xuất, dịch vụ hiện có và hình thành một số ngành sản xuất, dịch vụ mới thúc

đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập, phát triển của đất nước trước tác động của cuộc

cách mạng 4.0.

Nội hàm của quan niệm cho thấy:

Một là, CNC là công nghệ thân thiện môi trường được tích hợp từ những thành

tựu KHCN với hàm lượng cao về R&D;

Hai là, CNC có khả năng tạo ra sản phẩm chất lượng cao, hiệu dụng vượt trội,

giá trị gia tăng cao

Ba là, CNC góp phần hiện đại hóa ngành sản xuất hay dịch vụ hiện có, hoặc

hình thành một ngành sản xuất hay dịch vụ mới.

Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá về một hàng hóa công nghệ cao trong

giai đoạn hiện nay, nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư. Nó đang có sự tác động sâu sắc đến tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội. Đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu nắm chắc bốn

giai đoạn trong vòng đời công nghệ là: Giai đoạn 1: Nghiên cứu và Phát triển.

Giai đoạn 2: Tăng trưởng. Giai đoạn 3: Trưởng thành. Giai đoạn 4: Suy thoái.

Qua đó làm cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, các nhân có điều kiện nhận biết

trình độ công nghệ trong quá trình tiếp cận công nghệ, thông qua quá trình

chuyển giao công nghệ, giao dịch công nghệ phục vụ cho nhu cầu sản xuất

kinh doanh của mình. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho quá trình nghiên cứu tiếp

cận thị trường của các doanh nghiệp khoa học công nghệ, các trung tâm nghiên

cứu và các nhà khoa học. Đồng thời nó là nền tảng giúp cho các tổ chức kiểm

định, đánh giá chất lượng của nhà nước đối với các sản phẩm công nghệ ngày

càng hoàn thiện, tránh được sự lãng phí ngân sách, thời gian, thậm chí là trở

thành “ Bãi thải công nghệ” của các quốc gia khác trên thế giới.

40

2.1.2. Quan niệm về thị trường công nghệ, thị trường công nghệ cao

2.1.2.1. Quan niệm về thị trường công nghệ

Trong các tài liệu khoa học có thể gặp nhiều quan niệm khác nhau về

TTCN, căn cứ vào cách tiếp cận nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, các

quan niệm về TTCN được nhận định và đánh giá khác nhau. Song các quan

niệm này đều thống nhất cho rằng, TTCN là nơi thực hiện giao dịch mua bán

một loại hàng hóa đặc biệt, đó là sản phẩm và dịch vụ công nghệ.

Từ cách tiếp cận coi TTCN là phương thức thương mại hóa kết quả nghiên

cứu gắn kết hoạt động KHCN với thực tiễn sản xuất và đời sống, thì theo nghĩa hẹp

TTCN có thể hiểu là nơi giao dịch sản phẩm, dịch vụ công nghệ, còn theo nghĩa rộng

TTCN là tổng hòa các mối quan hệ trao đổi mua bán, môi giới, giám định thưởng

phạt, khiếu kiện giữa các bên thực hiện giao dịch công nghệ.

Nếu tiếp cận từ vị trí, vai trò của TTCN thì “Thị trường công nghệ có

vai trò quan trọng trong việc kích cung, kích cầu về công nghệ tạo điều kiện

thuận lợi cho các hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là

đổi mới theo hướng thân thiện với môi trường”[113].

Xét trên khía cạnh kết quả nghiên cứu nghiên cứu khoa học cho thấy,

công nghệ là kết quả được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu khoa học hay nói

cách khác công nghệ là kết quả cuối cùng của nghiên cứu khoa học và biểu

hiện cụ thể là “sản phẩm công nghệ” để đưa vào phục vụ thực tiễn. Do vậy,

TTCN được hiểu là nơi trao đổi, mua bán sản phẩm công nghệ hay dịch vụ

công nghệ trên thị trường. Theo đó, có một số quan niệm về TTCN như:

Thị trường công nghệ là nơi thực hiện các giao dịch mua - bán, trao đổi loại

hàng hóa “đặc biệt” là các sản phẩm công nghệ để phát triển KT-XH [75, tr.5]; Thị

trường công nghệ là nơi bán mua hàng hóa công nghệ theo quy luật cung cầu, quy

luật giá trị và các quy luật khác của nền kinh tể thị trường; Hoặc thị trường công

nghệ được hiểu là những thể chế đảm bảo cho việc mua bán công nghệ được thực

hiện thuận lợi trên cơ sở lợi ích của các bên tham gia [94, tr.4].

Như vậy, quan niệm về TTCN căn cứ vào từng cách tiếp cận khác

nhau, các nhà khoa học đã đưa ra quan điểm của mình là nơi thực hiện việc

41

mua bán, trao đổi các sản phẩm công nghệ và dịch vụ KHCN trên cơ sở lợi

ích của các bên tham gia.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển các quan niệm về thị trường đã chỉ ra

trên đây, tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ là bộ phận cấu thành thị

trường khoa học và công nghệ, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch

vụ công nghệ được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa

người sở hữu sản phẩm, dịch vụ công nghệ với người có nhu cầu sử dụng

sản phẩm, dịch vụ công nghệ bằng hợp đồng kinh tế hay thỏa thuận khác

theo quy định của pháp luật hiện hành.

2.1.2.2. Quan niệm thị trường công nghệ cao; đặc điểm và vai trò của

thị trường công nghệ cao

* Quan niệm thị trường công nghệ cao

CNC là sản phẩm của các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử

phát triển xã hội, tuy nhiên việc hiểu và phân tích còn lẫn lộn giữa khoa học

với công nghệ. Chỉ khi cách mạng 4.0 phát triển đã tác động mạnh mẽ đến

mọi mặt của đời sống xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng, thì CNC mới được

nhận thức đúng, đầy đủ, đúng nghĩa. Vì lý do như vậy mà đến nay, không chỉ ở

Việt Nam, mà trên thế giới chưa có một quan niệm thống nhất về TTCNC, phổ

biến chỉ đề cập đến thị trường KHCN. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu về thị

trường được công bố gần đây ở Việt Nam cũng như các nước có nền KTTT

phát triển cao, thì thuật ngữ TTCNC cũng chưa được đề cập cả trong lý luận và

thực tiễn. Đặc biệt, ở các nền KTTT có trình độ KHCN phát triển như Hoa Kỳ,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước Châu Âu khác, nội hàm của

TTCNC được đề cập chủ yếu liên quan đến các hoạt động R&D CNC.

Ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ TTCNC đã đưa vào Luật Công nghệ

cao số 21/2008/QH12 năm 2018; theo đó, “Nhà nước khuyến khích tổ chức,

cá nhân tham gia phát triển thị trường công nghệ cao”[87, tr.12], nhưng trong

các văn bản quy phạm pháp luật về KHCN, về CNC và CGCN cũng như

trong các công trình khoa học công bố gần đây lại chưa có quan niệm thống

42

nhất về TTCNC... Trong các văn bản quy phạm pháp luật và các công trình

khoa học chủ yếu tiếp cận quan niệm về thị trường KHCN. Điển hình

như: “Thị trường KHCN là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển

giao quyền sở hữu có trả tiền những sản phẩm KHCN đã được vật chất

hoá dưới dạng bí quyết, bản vẽ, mô hình của những sản phẩm hay phương

pháp, quy trình sản xuất và quản lý, patent, licence... và những dịch vụ có

liên quan tới việc mua - bán, chuyển giao ấy”[55, tr.105]; “Thị trường

KHCN là một thuật ngữ dùng để chỉ một loại thị trường mà trong đó diễn

ra sự mua bán, trao đổi hàng hoá là sản phẩm, dịch vụ của hoạt động

KHCN”[57, tr.9]; “Thị trường KHCN là thị trường mà ở đó hàng hoá là

các phát minh khoa học, công nghệ; các dịch vụ KHCN gồm cả hữu hình

và vô hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường thể chế xác

định”[32, tr.27]. Các quan niệm này đã từ lâu gây hiểu lầm rằng, thị

trường KHCN, TTCN hay TTCNC là đồng nhất.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị

trường, thị trường KHCN mà tác giả đã tiếp cận nghiên cứu; đồng thời căn cứ

vào đặc thù của CNC tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ cao là thị trường

công nghệ đặc thù, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ

cao được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa người sở hữu

sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao với người có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch

vụ công nghệ cao bằng hợp đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định

của pháp luật hiện hành.

Nội hàm của quan niệm TTCNC chỉ rõ các nội dung sau:

Chủ thể tham gia TTCNC gồm chủ thể nguồn cung, chủ thể nguồn cầu

sản phẩm, dịch vụ CNC và các tổ chức trung gian khác. Chủ thể tham gia

TTCNC rất đa dạng, phong phú, bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp trong và

ngoài nước hoặc bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào đều có quyền tham gia

TTCNC trên cơ sở quy định của pháp luật và nhu cầu cung cấp, trao đổi, môi

giới hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC.

43

Đối tượng tham gia TTCNC: Là sản phẩm hay dịch vụ CNC do CNC

tạo ra ở dạng hữu hình, vô hình, vật chất hay phi vật chất, có chất lượng, tính

năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.

Hoạt động của TTCNC: Theo quy luật của KTTT. TTCNC cũng như

các loại thị trường khác phải tuân thủ nguyên tắc, quy luật KTTT như quy luật

cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...

* Đặc điểm của thị trường công nghệ cao

Một là, thị trường công nghệ cao là thị trường độc quyền đối với sản

phẩm, dịch vụ công nghệ cao

Sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC là hàng hóa đặc biệt bởi vì sản

phẩm, dịch vụ CNC khi mua về nếu không có sự tác động bằng kỹ năng của

con người thì rất khó hoặc không thể sử dụng được; có chi phí cao; sản xuất

mang tính cá biệt hoặc với số lượng hạn chế; có tính rủi ro cao do sản phẩm,

dịch vụ CNC có chi phí đầu tư đầu vào cao nên việc thu hồi chi phí ẩn chứa

nhiều rủi ro hơn và quá trình nghiên cứu không đảm bảo tốt sự bảo mật thì

thông tin, ý tưởng nghiên cứu bị rò rỉ ra bên ngoài sẽ mất đi tính mới, tính

cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ CNC.

Sản phẩm, dịch vụ CNC có tính độc quyền cao. Theo đó, bên mua có

được hợp đồng độc quyền sản phẩm, dịch vụ CNC thì bên mua có quyền sở

hữu và quyền sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC; có quyền chuyển nhượng cho

bên thứ ba với tư cách là bên bán sản phẩm, dịch vụ CNC nếu hợp đồng cho

phép. Tuy nhiên, trong hợp đồng trách nhiệm của bên mua không được phép

chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ CNC cho bên thứ ba.

Hai là, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC phụ thuộc nhiều vào

người cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC

Mối quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị

trường thường xảy ra trường hợp thông tin không cân xứng. Theo đó, người

bán sản phẩm, dịch vụ CNC am hiểu tường tận về thông tin liên quan đến sản

phẩm, dịch vụ CNC hơn người mua. Họ làm chủ quy trình hoạt động, vận hành

44

sản phẩm, dịch vụ CNC; bởi họ nắm rõ bí quyết, tính năng ứng dụng của sản

phẩm, dịch vụ CNC đó; Ngược lại, người mua sản phẩm, dịch vụ CNC biết rất ít

về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ CNC, đồng thời hàng hóa này

thường là các sản phẩm, dịch vụ mới, chưa được thị trường kiểm nghiệm… Do

đó người mua sản phẩm, dịch vụ CNC phải được người bán người mua sản

phẩm, dịch vụ CNC hướng dẫn, phải nghiên cứu, đọc tài liệu kèm theo và đặc

biệt họ phải học cách sử dụng, vận hành sản phẩm, dịch vụ CNC đó.

Ba là, chi phí giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC cao và cần có các tổ

chức dịch vụ khoa học công nghệ

Do tính đặc biệt của sản phẩm, dịch vụ CNC nên giá trị thực của chúng

khó xác định một cách chính xác, là một loại hàng hóa có độ rủi ro cao nên

cần có chi phí trung gian trong việc thẩm định, đánh giá; việc thương thảo,

đàm phán về hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC rất phức tạp, chứa

đựng nhiều điều khoản và phải xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của các

bên tham gia nên làm phát sinh chi phí giao dịch cao. Do vậy, để sản phẩm,

dịch vụ CNC dễ dàng được tiếp cận và trao đổi giữa người mua và người bán

trên TTCNC thì cũng như các thị trường khác cần thiết phải thiêt lập hệ thống

các tổ chức dịch vụ trung gian môi giới cho loại hàng hóa đặc biệt này thông

qua quá trình tư vấn, định giá, thẩm định. Tuy nhiên, những vấn đề này đòi

hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ cao; do vậy, việc hình thành tổ chức

dịch vụ KHCN có chất lượng tốt cần phải coi trọng đội ngũ cán bộ KHCN.

* Vai trò của thị trường công nghệ cao

Thực tế cho thấy, TTCN nói chung, TTCNC nói riêng, mặc dù được

hình thành và phát triển muộn hơn so với các loại thị trường khác trong nền

KTTT như thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động

sản…Tuy nhiên, sau khi TTCNC ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng của

nó trong phát triển KT - XH biểu hiện cụ thể như sau:

Một là, sự ra đời TTCNC đã thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng

và số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa

này trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần rút ngắn khoảng cách

45

trình độ phát triển giữa các nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nền kinh tế có

trình độ công nghệ chậm phát triển có khả tiếp nhận CGCN từ các nền kinh tế

có trình độ KHCN phát triển.

Hai là, TTCNC đã tạo nền tảng cho các hoạt động KHCN phát triển sôi

động, phong phú và đa dạng hơn từ các hoạt động nghiên cứu, triển khai cho

đến CGCN từ các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, góp phần nâng

cao tiềm lực KHCN cho các quốc gia.

Ba là, TTCNC phát triển đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát

triển nguồn nhân lực KHCN, lực lượng lao động được đào tạo ở mọi trình độ

ngày càng đông đảo, góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất.

Bốn là, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, nhất

là những thành tựu bước đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như

đang là xu hướng trên toàn thế giới trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu

trong công nghệ sản xuất, hội tụ kỹ thuật số với các yếu tố cốt lõi như: trí tuệ nhân

tạo (AI), kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data),

Blockchain... đã là những công cụ và nền tảng rất tốt cho sự phát triển của thị

trường công nghệ cao trong giai đoạn mới. Điển hình đó là sự phát triển của thị

trường công nghệ kỹ thuật số, thị trường online… thông qua các hình thức

marketting kỹ thuật số đang là xu hướng chính trong thời đại kinh doanh công

nghệ hiện nay. Thị trường công nghệ kỹ thuật số tác động và có ảnh hưởng đến

hầu hết các hoạt động trong xã hội như tài chính, ngân hàng, lao động, bất động

sản, y tế, giáo dục, truyền thông… và từng bước khẳng định tính ưu việt, nổi trội

của nó đang mang lại trong các hoạt động của đời sống của xã hội loài người.

2.2. Quan niệm, nội dung và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển thị

trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.1. Quan niệm, yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.1.1. Quan niệm thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị

trường, thị trường KHCN và TTCNC; đặc biệt xuất phát từ những nội dung

mang tính đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là đặc

46

thù của các loại hình thị trường hiện nay, tác giả cho rằng: Thị trường công

nghệ cao ở Việt Nam là loại hình thị trường công nghệ đặc thù, mà ở đó diễn ra

hoạt động trao đổi, mua, bán sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao thông qua hợp

đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật.

2.2.1.2. Yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Từ những phân tích, luận giải trên cho thấy, về bản chất, thị trường là

sự kết hợp giữa cung và cầu về một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định, trong đó

người mua và người bán đều cạnh tranh bình đẳng. Xuất phát từ đặc điểm của

nền KTTT nói chung, nhất là đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, có thể khái quát các yếu tố cấu thành TTCNC bao gồm:

Một là, nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;

Hai là, nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;

Ba là, các tổ chức trung gian kết nối cung và cầu sản phẩm, dịch vụ

công nghệ cao.

Trong các yếu tố cấu thành TTCNC nêu trên, thì quy mô nguồn cung

và quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là các yếu tố phản ánh quy mô

TTCNC lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay bán một loại sản phẩm, dịch

vụ CNC với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung - cầu sản phẩm, dịch vụ

CNC quyết định. Điều đó cho thấy, TTCNC là nơi thực hiện sự kết hợp chặt

chẽ gữa hai khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ CNC. Như vậy

TTCNC đòi hỏi phải có: Đối tượng trao đổi, mua, bán là sản phẩm, dịch vụ

CNC; Đối tượng tham gia trao đổi, mua, bán là người bán, người mua và các

tổ chức trung gian kết nối cung - cầu; điều kiện thực hiện là nhu cầu của

nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC.

2.2.2. Quan niệm, nội dung phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.2.1. Quan niệm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Theo quan điểm của các kinh tế học của Trung Quốc, nội dung trọng

tâm của phát triển TTCNC là tăng cường thương mại hoá các kết quả nghiên

cứu và gia tăng tính định hướng thị trường của hoạt động nghiên cứu thông

qua các biện pháp như hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hệ thống

47

trung gian môi giới... Cách tiếp cận này phù hợp với các nước có năng lực

KHCN tương đối phát triển, trong đó có nhiều ngành khoa học trình độ cao.

Trong bối cảnh HNKTQT ngày càng mở rộng và phát triển như ngày

nay, đối với các nước có năng lực KHCN chưa cao trong nền kinh tế chưa

phát triển như Việt Nam thì nội dung phát triển TTCNC không chỉ gia tăng số

lượng và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC, gia tăng các giao dịch và

chủ thể tham gia TTCNC, mà còn phải nâng cao chất lượng phát triển thị

trường, gia tăng dung lượng thị trường, tính hợp lý của cơ cấu TTCNC.

Trên cơ sở quan niệm TTCNC; TTCNC ở Việt Nam và các yếu tố cấu

thành TTCNC, tác giả cho rằng: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt

Nam là quá trình biến đổi các yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao

thông qua sử dụng các cơ chế, chính sách phù hợp để tác động vào quan hệ

kinh tế giữa các lực lượng tham gia thị trường công nghệ cao theo hướng

từng bước gia tăng giá trị của các yếu tố này về số lượng, chất lượng và cơ

cấu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong

bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của cách mạng 4.0.

Nội hàm của quan niệm này chỉ rõ các nội dung:

Thứ nhất, chủ thể tham gia phát triển TTCNC gồm chủ thể cung và cầu

sản phẩm, dịch vụ CNC, các tổ chức trung gian kết nối cung cầu. Trong đó:

Chủ thể cung sản phẩm, dịch vụ CNC là các chủ thể cung trong và

ngoài nước, bao gồm: Tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN, các nhà sáng

chế độc lập, cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan nghiên cứu KHCN của các

bộ, ngành, địa phương. Chủ thể cung nước ngoài chủ yếu được thực hiện

thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc mua bán, trao đổi thông

qua các hợp đồng kinh tế theo luật định.

Chủ thể cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là doanh nghiệp, nhà nước, các tổ

chức và cá nhân khác.

Nhà nước là một chủ thể có nhu cầu cao về sản phẩm, dịch vụ CNC,

đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến việc thực hiện các chức năng quản lý

nhà nước trên các lĩnh vực.

48

Doanh nghiệp có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC liên quan đến

nhu cầu nâng cao, đổi mới năng lực công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả kinh

tế và năng suất lao động trong sản xuất và kinh doanh. Để đổi mới, nâng cao

năng lực công nghệ, doanh nghiệp có thể tự lực phát triển công nghệ hoặc liên

kết với chủ thể khác nhằm tăng cường năng lực công nghệ.

Các tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC phục vụ

cho các hoạt động phát triển của mình

Các tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC

bao gồm: dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ thông tin, dịch vụ tài chính, dịch vụ

pháp lý, dịch vụ giám định công nghệ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhằm

xúc tiến và thúc đẩy các giao dịch CNC trên thị trường.

Thứ hai, nội dung phát triển TTCNC ở Việt Nam là quá trình mở rộng

quy mô, nâng cao chất lượng và hoàn thiện cơ cấu các yếu tố cấu thành

TTCNC như: gia tăng số lượng, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,

dịch vụ CNC; gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC; gia tăng số lượng

và chất lượng các tổ chức trung gian kết nối cung - cầu theo hướng phù hợp

với điều kiện nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, phương thức phát triển TTCNC là sự kết hợp giữa hoạt động của

thị trường với kế hoạch của Nhà nước được thực hiện gián tiếp thông qua: Công

cụ, chính sách kinh tế như đầu tư vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư nước

ngoài nhằm hỗ trợ phát triển thị trường; Hệ thống giáo dục đào tạo nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực cho phát triển TTCNC; Cơ chế chính sách hỗ trợ, bảo

đảm tính pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là bảo đảm quyền sở

hữu trí tuệ, quyền bảo đảm thông tin chính xác về sản phẩm, dịch vụ CNC.

Thứ tư, mục đích phát triển TTCNC nhằm tạo sự thay đổi theo hướng

mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, góp phần

thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới công nghệ và hoạt động ứng

dụng, chuyển giao CNC, hiện đại hóa các ngành sản xuất, dịch vụ có sức cạnh

tranh và hiệu quả KT-XH đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng sản phẩm, dịch

vụ CNC của xã hội.

49

2.2.2.2. Nội dung phát triển thị công nghệ cao ở Việt Nam

Một là, gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nguồn cung sản

phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao

Gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,

dịch vụ CNC là quá trình đánh giá sự gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ

CNC hàng năm; gia tăng về số lượng các giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ

CNC và sự gia tăng về dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường.

Gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường

công nghệ cao

Sản phẩm, dịch vụ CNC bao gồm các sản phẩm CNC và dịch vụ CNC,

sản phẩm, dịch vụ CNC là sản phẩm tạo ra bởi các nhà khoa học, các nhà

nghiên cứu và cơ bản tồn tại ở dạng hữu hình hoặc vô hình được thể hiện dưới

dạng các đối tượng sở hữu trí tuệ như quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp,

nhãn hiệu, sáng chế và giải pháp hữu ích, chỉ dẫn địa lý.

Mặt khác với đặc điểm là một loại hàng hóa đặc biệt, được trao đổi lưu

thông trên thị trường như các loại hàng hóa khác, do vậy các hoạt động dịch

vụ sản phẩm, dịch vụ CNC cũng bao gồm các nội dung cơ bản như dịch vụ

môi giới và cung cấp thông tin trên thị trường, dịch vụ kiểm định và đánh giá

chất lượng sản phẩm, dịch vụ về kỹ thuật và tư vấn kỹ thuật.

Gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường là sự phát

triển về chiều rộng có tốc độ tăng đều ổn định trong các năm các loại sản

phẩm và dịch vụ CNC biểu hiện là gia tăng về các sản phẩm khoa học công

nghệ là đối tượng SHCN, các văn bằng bảo hộ, sáng chế, giải pháp hữu ích,

nhãn hiệu quốc gia, nhãn hiệu quốc tế và sự gia tăng các loại dịch vụ CNC.

Gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường còn được

đánh giá là sự phát triển số lượng các giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC

trên TTCNC qua thời gian hàng năm

Tiêu chí đánh giá gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên

TTCNC thông qua các chỉ số: 1) Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp; 2) Cơ

cấu văn bằng bảo hộ được cấp; 3) Nguồn gốc văn bằng bảo hộ được cấp.

50

Tiêu chí đánh giá gia tăng giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC trên

TTCNC thông qua các chỉ số: 1) Số lượng, giá trị và cơ cấu sản phẩm KHCN

là đối tượng sở hữu công nghiệp; 2) gia tăng giá trị giao dịch công nghệ theo

nhóm ngành; theo loại hình sở hữu; theo quy mô doanh nghiệp.

Nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao

trên thị trường công nghệ cao

Nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC có ý nghĩa quyết định thúc đẩy

TTCN phát triển bền vững. Hiện nay, nguồn cung ứng hàng hóa CNC cho

TTCNC, chủ yếu từ nguồn cung trong nước và nước ngoài.

Cung sản phẩm, dịch vụ CNC có thể hiểu là những người tạo ra (hoặc

không tạo ra) sản phẩm CNC, cung sản phẩm, dịch vụ CNC là khả năng cung

cấp các loại hàng hóa công nghệ có chất lượng cao của các các tổ chức

KHCN (trong đó có các tổ chức của Nhà nước, các doanh nghiệp KHCN) và

đội ngũ các nhà khoa học, nhà sáng chế. Căn cứ vào đặc điểm, loại hình tổ

chức, căn cứ vào mục tiêu và định hướng mỗi tổ chức đều có những năng lực

đặc trưng riêng phù hợp với yêu cầu phát triển của mình, có thể đó là năng lực

về vốn, năng lực cạnh tranh, năng lực tổ chức, năng lực đổi mới sáng tạo,

năng lực nghiên cứu và triển khai, năng lực gắn kết nghiên cứu với sản xuất

của các tổ chức KHCN. Do vậy, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,

dịch vụ CNC hiện nay được hiểu là nâng cao chất lượng nguồn cung trong

nước và nguồn cung ngoài nước.

Thứ nhất, nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trong nước

Các chủ thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC cho TTCNC gồm: Các tổ

chức KHCN, các doanh nghiệp KHCN và các nhà sáng chế độc lập

Các tổ chức khoa học công nghệ

Các tổ chức KHCN (các tổ chức NCKH, các tổ chức nghiên cứu và

triển khai công nghệ); Các trường đại học, học viện và trường cao đẳng; Các

tổ chức dịch vụ KHCN là nơi cung cấp và tạo ra các sản phẩm CNC có chất

lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do vậy, để nâng cao chất

51

lượng các sản phẩm, dịch vụ CNC được tạo ra trong các tổ chức KHCN phải

dựa trên đánh giá về năng lực của các tổ chức KHCN cụ thể là năng lực sáng

tạo và năng lực R&D của các tổ chức KHCN trong điều kiện mới.

Tiêu chí đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN: 1) Gia tăng

số lượng tổ chức KHCN hàng năm; 2) Sự phát triển tổ chức R&D theo quy

mô nguồn nhân lực; 3) Sự phát triển các tổ chức R&D theo lĩnh vực ngành.

Tiêu chí đánh giá năng lực sáng tạo của các tổ chức KHCN được đánh

giá bằng các chỉ số: (1) Số lượng các bài báo được đăng trên các tạp chí khoa

học trong nước và quốc tế uy tín; (2) Số lượng và chất lượng đội ngũ các nhà

khoa học với trình độ chuyên môn cao.

Các doanh nghiệp khoa học công nghệ

Doanh nghiệp khoa học công nghệ là những doanh nghiệp mà hoạt

động sản xuất kinh doanh khởi nguồn từ các kết quả ứng dụng hoặc sử dụng

công nghệ, bí quyết công nghệ từ các kết quả nghiên cứu của các Viện nghiên

cứu, trường đại học, nhà khoa học hoặc nhập khẩu công nghệ. Là một chủ thể

với vai trò cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường các doanh nghiệp

KHCN có nhiệm vụ: 1) Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, tạo giá trị

gia tăng lớn cho xã hội; 2) tập trung đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng; 3) kích

thích nghiên cứu phát triển và thu hút các nguồn lực có trình độ cao; 4) Là

một trong những chủ thể để hình thành và phát triển TTCNC.

Các doanh nghiệp KHCN bao gồm các trung tâm công nghệ, các vườn

ươm tạo công nghệ, các trạm, trại sản xuất và dịch vụ công nghệ… Với chức

năng là nguồn cung hàng hóa công nghệ, trong đó có sản phẩm, dịch vụ CNC

trên cơ sở sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNC theo đơn đặt hàng hoặc cũng có

thể sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNC qua quá trình phân tích nắm bắt xu

hướng và nhu cầu của thị trường, do đó các loại hình doanh nghiệp KHCN

ngày càng phát triển đa dạng phong phú hơn với sự phát triển của TTCNC.

Nâng cao chất lượng nguồn cung CNC của các doanh nghiệp KHCN là nâng

cao năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai, năng lực

52

gắn kết nghiên cứu với sản xuất y trên cơ sở các tiêu chí đánh giá: 1) Sự gia

tăng của các doanh nghiệp KHCN; 2) Doanh thu, số lao động, vốn, giá trị

công nghệ mà doanh nghiệp đang nắm giữ; 3) Số lượng và giá trị văn bằng

bảo hộ đang nắm giữ; Số lượng và giá trị công nghệ của doanh nghiệp; 4) Số

lượng các dự án liên kết, hợp tác với doanh nghiệp; 5) Số đề tài, dự án đã

R&D đã đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.

Các nhà sáng chế độc lập

Các nhà sáng chế độc lập là nhà cung ứng công nghệ nội sinh, họ là các

giáo sư, các nhà khoa học được đào tạo cơ bản hoặc là những người đam mê

khoa học. Thực tiễn, số lượng sản phẩm KHCN được tạo ra từ nguồn này

không lớn do cơ chế khuyến kích thành quả tạo ra đối với họ còn nhiều bất

cập. Nếu được sự quan tâm và khích lệ cũng như tạo cơ chế thì sẽ có nhiều

sản phẩm xuất hiện cung ứng cho thị trường từ nguồn cung này.

Thứ hai, nguồn cung ngoài nước

Trong quá trình phát triển TTCNC hiện nay, ngoài nguồn cung sản

phẩm, dịch vụ CNC trong nước thì nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC từ các

thị trường ngoài nước có vai trò rất quan trọng, tạo ra sự phong phú, đa dạng

nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC hiện nay.

Sản phẩm, dịch vụ CNC nước ngoài, nhất là nguồn sản phẩm, dịch vụ

CNC hiện đại, có hàm lượng khoa học cao của các quốc gia có trình độ phát

triển trên thế giới sẽ có giá trị rất lớn đối với các nước đang phát triển có trình

độ KHCN còn hạn chế. Với lý do đó, để từng bước rút ngắn chênh lệch về

trình độ công nghệ đòi hỏi các quốc gia đang phát triển cần thực hiện việc tiếp

thu ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ CNC tiên tiến của nước ngoài để đổi mới

công nghệ trong nước. Tuy nhiên, quan trọng nhất trong thu hút sản phẩm,

dịch vụ CNC nước ngoài là phải có sự hiểu biết về thông tin, chủng loại để

phù hợp với điều kiện thực tiễn của quốc gia mình, tránh tình trạng trở thành

bãi thải công nghệ của các quốc gia phát triển. Trong thực tế hiện nay, thu hút

sản phẩm, dịch vụ CNC nước ngoài bằng nhiều con đường khác nhau như

53

giao dịch mua, bán trực tiếp thông qua hội thảo khoa học, hội chợ, triển lãm

trình diễn công nghệ quốc tế hoặc cũng có thể thu hút gián tiếp bằng cách tiếp

cận thông qua CGCN từ các doanh nghiệp FDI, thông qua các chương trình

hợp tác nghiên cứu khoa học… dựa trên các tiêu chí như: 1) số lượng các hợp

đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN; 2) số lượng các hợp đồng

chuyển giao quyền sở hữu đối tượng SHCN.

Hai là, gia tăng cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao

Nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch

vụ CNC của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả

quản lý, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hay hiệu quả sản xuất, kinh

doanh… Trong thực tế TTCNC, nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC rất

phong phú gồm nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác, trong đó:

* Cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của nhà nước.

Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân sách

nhà nước để trực tiếp triển khai hoặc là tài trợ cho các chủ thể khác triển khai thực

hiện các hoạt động KHCN. Việc sử dụng nguồn kinh phí này trên cơ sở các mục

tiêu, định hướng và quy hoạch chiến lược của Nhà nước. Do vậy, việc đánh giá

năng lực cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của nhà nước được đánh giá thông qua tính

hiệu quả trong đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN.

Tiêu chí đánh giá năng lực cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của nhà nước được

thể hiện thông qua các chỉ số: 1) Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho hoạt động

KHCN; 2) Mức độ giải ngân kinh phí cho nghiên cứu khoa học của nhà nước.

* Cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của doanh nghiệp

Khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp được thể hiện ở lượng

vốn đầu tư và năng lực tiếp thu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trên cơ

sở chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, phù hợp với

yêu cầu phát triển và sức ép cạnh tranh của thị trường, trình độ quản lý cơ sở

hạ tầng của doanh nghiệp, trình độ và năng lực công nghệ của đội ngũ nhân

lực, nguồn tài chính bảo đảm cho đổi mới công nghệ…

54

Tiêu chí đánh giá khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp

được thể hiện thông qua các chỉ số: (1) trình độ nguồn nhân lực trong R&D

công nghệ trong doanh nghiệp; (2) Nguồn kinh phí cho đổi mới công nghệ

của doanh nghiệp.

Ba là, gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới

trên thị trường công nghệ cao

Sản phẩm, dịch vụ CNC với đặc điểm là một loại hàng hóa đặc biệt và

có những đặc điểm rất riêng so với các loại hàng hóa thông thường khác như

bất thông tin đối xứng, giá trị định lượng của hàng hóa khó xác định, tính

pháp lý của hàng hóa khó nhận biết (Quyền SHTT). Do đó, để sản phẩm, dịch

vụ CNC có thể lưu thông và đạt được mục đích yêu cầu của cả bên cung và

bên cầu cần phải có các tổ chức dịch vụ trung gian, môi giới với nhiệm vụ

cung cấp thông tin, tư vấn hỗ trợ dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý, giám định

kiểm định… nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.

Theo Khoản 2 Điều 1, Thông tư số 16/2014/TT-BKHCN của Bộ KHCN,

các loại hình tổ chức trung gian bao gồm: (i) Sàn giao dịch công nghệ; (ii) Trung

tâm giao dịch công nghệ; (ii) Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động CGCN;

(iv) Trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ; (v) Trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng

tạo; (vi) Cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN.

Các tổ chức trung gian, môi giới được thành lập và hoạt động dưới

nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức này bao gồm các cơ quan chức

năng của Nhà nước, các hiệp hội, các công ty tư vấn độc lập, các tổ chức

phi chính phủ. Các tổ chức này tiến hành các hoạt động tư vấn kỹ thuật, tư

vấn pháp lý, tư vấn quản lý, thông tin và môi giới công nghệ dưới các tên

gọi: trung tâm, viện nghiên cứu, công ty của địa phương, quốc gia, khu

vực và quốc tế.

Sự gia tăng về số lượng và chất lượng của các tổ chức trung gian được

đánh giá là sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của các thành phần, các

bộ phận của các tổ chức trung gian theo thời gian hàng năm.

55

2.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường công nghệ cao ở

Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và tác động mạnh mẽ

của cách mạng 4.0, phát triển TTCNC ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,

trong đó có yếu tố chủ quan, có yếu tố khách quan. Đó là:

2.2.3.1. Yếu tố khách quan

Thứ nhất, xu thế toàn cầu hóa và mức độ hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu hiện nay. Một nền

kinh tế muốn phát triển, tất yếu phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập

quốc tế và khắc phục những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Đối với lĩnh

vực KHCN nói chung, TTCN nói riêng, trong đó có TTCNC, hội nhập quốc

tế là con đường ngắn nhất, kinh tế nhất, hiệu quả nhất để các nền kinh tế học

hỏi, thu hút nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực KHCN. Khi tham gia hội nhập

quốc tế, nhất là HNKTQT, các tổ chức kinh tế đều bình đẳng tiếp cận để tìm

kiếm bạn hàng, đối tác trong việc mua, bán, trao đổi sản phẩm, dịch vụ CNC

với các đối tác nước ngoài - tăng nguồn cung ngoài nước; Đồng thời, với xu

thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các tổ chức kinh tế muốn tồn tại và phát

triển bền vững, phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm,

dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, giá cạnh tranh. Muốn vậy

các tổ chức kinh tế phải chú trọng đầu tư, ưu tiên đổi mới công nghệ - tăng

nguồn cầu trong nước. Có thể nói, việc tăng nguồn cung và cầu sản phẩm,

dịch vụ CNC là kết quả của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đây là

yếu tố góp phần thúc đẩy TTCNC phát triển. Như vậy, mức độ hội nhập quốc

tế có tác động lớn tới việc thúc đẩy phát triển TTCNC của mỗi nền kinh tế.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng thị trường công nghệ cao

Cơ sở hạ tầng TTCNC gồm hệ thống trang thiết bị, phòng thí nghiệm

phục vụ cho việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ CNC; hệ thống thông tin liên

lạc như internet, điện thoại,…; hệ thống các cơ sở dịch vụ phục vụ giao dịch;

các trung tâm giao dịch Techmart; sàn giao dịch công nghệ, các sàn giao dịch

56

điện tử về công nghệ (Techmart online). Cơ sở hạ tầng tác động đến sự phát

triển TTCNC thông qua ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, cả tích cực và tiêu

cực. Theo đó, cơ sở hạ tầng TTCNC đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy sự phát

triển của TTCNC; Ngược lại, cơ sở hạ tầng TTCNC không đồng bộ, thiếu

hiện đại sẽ kìm hãm hoặc hạn chế sự phát triển của TTCNC.

Thứ ba, hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Cho đến nay, hệ thống thị trường ở Việt Nam đã được hình thành và

phát triển như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường bất động sản, thị

trường vốn, thị trường sức lao động.... Hệ thống thị trường bước đầu phát

triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của TTCNC, bởi vì các loại

thị trường này có quan hệ tương tác, hỗ trợ và thúc đẩy TTCNC phát triển.

Tuy nhiên, hệ thống thị trường thiếu đồng bộ; theo đó, chỉ có thị trường hàng

hóa và dịch vụ phát triển mạnh còn các thị trường khác hiện còn tồn tại không ít

hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập trong việc phát triển hệ thống thị

trường đã và đang là lực cản, kìm hãm sự phát triển của TTCNC. Do vậy Nhà

nước cần có chính sách phát triển hệ thống thị trường theo hướng đồng bộ, hiện

đại, liên thông để thúc đẩy sự phát triển của TTCNC. Thực tế cho thấy, hệ thống

thị trường là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển của TTCNC.

Thứ tư, mức độ cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường công nghệ cao

Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế quan trọng trong nền

KTTT. Quy luật cạnh tranh chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế, nhất là đối

với doanh nghiệp. Yếu tố cạnh tranh chỉ thực sự phát huy tác động tích cực khi

các chủ thể tham gia TTCNC cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch đúng

quy định của pháp luật. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là HNKTQT quốc

tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay, cạnh tranh không chỉ diễn ra trên phạm vị

lãnh thổ quốc gia mà còn diễn ra trên phạm vị khu vực và quốc tế, do đó các chủ

thể tham gia TTCNC, trong đó có doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền

vững phải nâng cao sức cạnh tranh nhằm củng cố, mở rộng thị phần, nâng cao khả

năng ứng phó với các biến động bất lợi, trên cơ sở đó xác lập vị thế trên thị trường

57

và nâng cao hiệu quả kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó làm gia tăng

nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC. Muốn như vậy, đòi hỏi các chủ thể kinh tế, nhất

là doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm,

dịch vụ thông qua đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đặc biệt là các dây

chuyền công nghệ phù hợp với điều kiện thực tiễn TTCNC.

Thứ năm, các quy luật kinh tế thị trường

Với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT, song sự phát triển của

TTCNC ở Việt Nam, vẫn chịu sự tác động bởi quy luật KTTT như quy luật cạnh

tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,... Các quy luật KTTT là nhân tố quan

trọng, có tác động thuận và nghịch đối với sự phát triển của TTCNC. Theo đó, các

quy luật này chi phối hoạt động của các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là doanh

nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển bền vững đòi hỏi phải

thường xuyên cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tích cực đổi mới

dây chuyền công nghệ theo hướng hiện đại. Điều đó có nghĩa, đã làm gia tăng

nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, trên cơ sở đó gián tiếp thúc đẩy TTCNC phát

triển. Đó là tác động thuận chiều của các quy luật KTTT. Ngược lại, khi các tổ

chức kinh tế, kể cả doanh nghiệp không tự đổi mới sáng tạo, không cải tiến công

nghệ sản xuất, kinh doanh hay công nghệ quản lý, chẳng những tự làm mất đi sức

cạnh tranh của mình, mà còn cản trở TTCNC phát triển.

Thứ sáu, tác động của cách mạng 4.0

Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp, hiện nay đang

bước vào cách mạng 4.0. Trong đó, cách mạng 4.0 với việc sử dụng các thiết

bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng

công nghiệp này là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người

(cả lao động chân tay và trí óc) bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn

toàn trong quá trình sản xuất nhất định giúp cho các nước trên thế giới phát

triển các ngành công nghệ thông tin, công nghệ nano, công nghệ vật liệu,

công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ... có tính

thân thiện với môi trường. Cuộc cách mạng này sẽ làm thay đổi lực lượng sản

58

xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn đường trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội.

2.2.3.2. Yếu tố chủ quan

Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng

của nền kinh tế quốc dân

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng của nền

kinh tế quốc gia là yếu tố tác động hai chiều, cả tích cực và tiêu cực đối với

phát triển TTCNC.

Trình độ phát triển KT-XH là nhân tố góp phần gia tăng nguồn cung và

nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC cho TTCNC thông qua tăng đầu tư phát

triển KHCN quốc gia như đầu tư NSNN cho phát triển KHCN, thu hút nguồn

vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư nghiên cứu,

triển khai thành tựu KHCN vào sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, trình độ phát

triển của KT-XH còn gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC do nhu cầu

đổi mới công nghệ của các tổ chức, cá nhân tăng, theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC

phát triển; ngược lại, khi trình độ KT-XH thấp thì cả nguồn cung và nguồn

cầu sản phẩm, dịch vụ CNC giảm, kết quả là TTCNC không thể phát triển.

Mô hình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia sẽ quyết định trình độ đổi

mới công nghệ của quốc gia đó, theo đó sẽ tác động tới sự phát triển của TTCNC.

Nếu quốc gia theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào nguồn lực

tài nguyên thiên nhiên và sử dụng lao động phổ thông sẽ không tạo được nhu cầu

cao về sản phẩm, dịch vụ CNC và đổi mới sáng tạo. Ngược lại những quốc gia

theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào KHCN và đổi mới sáng tạo

sẽ đầu tư lớn, có hiệu quả để thúc đẩy quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC,

theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC phát triển mạnh mẽ và ngược lại.

Thứ hai, năng lực khoa học công nghệ quốc gia, trình độ năng lực của

các tổ chức khoa học công nghệ

Năng lực KHCN quốc gia là nhân tố quyết định nguồn cung và cầu sản

phẩm, dịch vụ CNC. Các quốc gia có TTCNC phát triển là các quốc gia có

59

năng lực KHCN phát triển. Các công nghệ mới, CNC, công nghệ tiên tiến đều

được sản xuất ở các quốc gia có năng lực KHCN phát triển, vì các quốc gia

này có đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, nguồn vốn và các thông tin

cần thiết để nghiên cứu và triển khai công nghệ. Trong đó, trình độ và năng

lực của các tổ chức KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản

phẩm, dịch vụ CNC cũng như thực hiện việc thương mại hóa sản phẩm, dịch

vụ CNC. Ngược lại, ở các quốc gia có năng lực KHCN kém sẽ khó khăn

trong quá trình triển khai hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ; theo

đó nguồn cung và cầu sản phẩm, dịch vụ CNC sẽ không nhiều, và do đó

TTCNC cũng khó phát triển.

Thứ ba, hệ thống cơ chế chính sách, pháp lý về quản lý khoa học công nghệ

Để TTCNC vận hành hiệu quả, hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ

CNC đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia TTCNC đòi hỏi Nhà nước

phải có hệ thống cơ chế chính sách, pháp về KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp

thời nhằm điều tiết hoạt động cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể tham gia TTCN nói chung,

TTCNC nói riêng. Trong đó, quyền SHTT là một trong những thể chế hỗ trợ

quan trọng nhất cho sự vận hành của thị trường, bởi quyền SHTT đảm bảo để

các sản phẩm KHCN có thể trở thành hàng hóa. Vì vậy, nếu hệ thống cơ chế

chính sách, pháp quản lý KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp thời sẽ là nhân tố góp

phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của TTCNC; Ngược lại, khi hệ thống cơ

chế chính sách, pháp quản lý KHCN không đồng bộ, hay không phù hợp,

thiếu tính kịp thời sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển của TTCNC.

Như vậy, để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay cần thiết phải

quan tâm và chú trọng đến các yếu tố tác động đến sự phát triển của thị

trường này. Các yếu tố cho dù là khách quan hay chủ quan, tác động trực tiếp

hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, đều ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển

của TTCNC. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò riêng nhưng có mối liên hệ tác động

qua lại chặt chẽ với nhau, góp phần thúc đẩy TTCNC phát triển.

60

2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ cao của một số

quốc gia và bài học với Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ và phát triển thị

trường công nghệ cao của một số quốc gia

Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, bắt kịp cách mạng 4.0, vấn đề phát

triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCNC nói riêng có vai trò đặc

biệt quan trọng và cần thiết không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với nhiều

nền kinh tế trên thế giới. Nắm bắt xu thế này, nhiều quốc gia đã triển khai

thành công việc phát triển thị trường KHCN, nhất là TTCNC. Tuy nhiên, tùy

theo trình độ phát triển mà mỗi nền kinh tế triển khai phát triển TTCNC theo

những cách thức và phương pháp khác nhau. Sau đây là kinh nghiệm phát

triển TTCN và TTCNC của Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Israen.

2.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Phát triển TTCNC trong bối cảnh cách mạng 4.0 là một nội dung rất

quan trọng mà chính phủ Trung Quốc đã quan tâm từ rất sớm và coi đây là

yếu tố cần thiết để tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Phát triển TTCNC được đánh giá là một sáng tạo mang tính đột phá của chính

phủ Trung Quốc trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quá trình

phát triển TTCN nói chung, TTCNC nói riêng của Trung Quốc đã được triển

khai từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20 và được chia thành 3 giai đoạn. Giai

đoạn 1 (còn gọi là giai đoạn thai nghén); Giai đoạn 2 (Giai đoạn khởi động);

Giai đoạn 3 (Giai đoạn phát triển) [80]. Thực tiễn quá trình phát triển TTCN

nói chung, TTCNC nói riêng, ở Trung Quốc được đánh giá có nhiều nội dung

sáng tạo, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Từ thực tế phát triển

TTCNC của Trung Quốc, nhất là giai đoạn 3 (giai đoạn phát triển) có thể rút

ra mấy kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D, theo hướng

ưu tiên đầu tư R&D CNC. Trong giai đoạn 3, nhất là từ năm 1996, là giai

đoạn Trung Quốc tập trung đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D,

61

trong đó đã tiến hành chuyển đổi các cơ quan nghiên cứu ứng dụng thành

doanh nghiệp KHCN. Các tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc đơn vị cung cấp

dịch vụ công cộng phi lợi nhuận được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt

động và là đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị nghiên cứu phi lợi nhuận.

Quá trình chuyển cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung

Quốc đã tác động tích cực trong việc gắn kết quá trình nghiên cứu với quá

trình sản xuất, qua đó huy động được nhiều nguồn lực từ sản xuất để phát

triển KHCN, trên cơ sở đó phát triển thị trường KHCN. Điều đó cho thấy,

việc phát triển thị trường KHCN là kết quả trực tiếp của quá trình chuyển đổi

cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung Quốc, nhờ đó góp phần

tạo nguồn cung sản phẩm hàng hoá, dịch vụ CNC cho TTCNC. Thực hiện cơ

chế mới, hầu hết các cơ quan R&D đã xây dựng bộ phận nghiên cứu thị

trường KHCN nói chung, TTCNC nói riêng, các nhà khoa học đã phối hợp

với các doanh nghiệp để tìm hiểu nhu cầu đổi mới công nghệ, nhất là CNC và

xúc tiến hợp đồng. Các cơ quan R&D đã có các đơn vị phát triển công nghệ

nhằm đáp ứng nhu cầu công nghệ, trong đó chủ yếu là CNC.

Thứ hai, phát triển các tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ,

nhất là CNC. Để phát triển TTCN, trong đó có TTCNC, Trung Quốc đặc biệt

chú trọng phát triển hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ,

nhất là CNC nhằm tạo quan hệ, kết nối cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC.

Hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ bao gồm: Đơn vị sự

nghiệp; các đơn vị thuộc các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ

chức tư nhân. Trong đó, các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ chức

tư nhân hoạt động theo phương thức tự hạch toán, được Nhà nước tạo điều

kiện hoạt động, ưu đãi về thuế; Các đơn vị sự nghiệp bao gồm các trung tâm

thông tin, tư vấn, đào tạo, môi giới CGCN, các sàn giao dịch công nghệ, trung

tâm phát triển sản xuất,... hoạt động theo phương thức sự nghiệp có thu, hạch

toán một phần, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên và hoạt

động Nhà nước yêu cầu hoặc đặt hàng theo kế hoạch hàng năm. Phần thu từ

62

các dịch vụ được chi cho đầu tư phát triển, chi trả lương,... Có thể nói, các

đơn vị sự nghiệp được Nhà nước đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng. Cho đến nay, ở

Trung Quốc có khoảng 60.000 trung tâm thông tin, tư vấn, môi giới CGCN

với khoảng trên 1,2 triệu cán bộ KHCN, thực hiện nhiệm vụ gắn kết giữa các

tổ chức KHCN với các tổ chức có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC, nhất là

các doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ ở các tổ chức trung gian kết nối cung cầu

công nghệ được nhà nước đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn.

Thứ ba, ban hành chính sách hỗ trợ phát triển KHCN, trên cơ sở đó

phát triển TTCNC. Để hiện thực hóa chính sách hỗ trợ phát triển KHCN và

phát triển TTCNC, Trung Quốc đã tiến hành thành lập một số Quỹ như: Quỹ

phát triển công nghệ, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ phát triển sáng chế. Trong

đó: Quỹ phát triển công nghệ có 2 nguồn vốn gồm nguồn vốn từ Bộ Tài chính

và nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trong giai đoạn sản xuất thử nghiệm; Quỹ đầu tư mạo hiểm (chủ yếu ở

các nhà đầu tư nước ngoài) đầu tư cho các dự án công nghệ có triển vọng;

Quỹ phát triển sáng chế để đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế về công

nghệ, trong đó ưu tiên đối với CNC. Ngoài ra, Trung Quốc có những chính

sách khuyến khích doanh nghiệp R&D và đổi mới công nghệ; nếu doanh

nghiệp dành một phần lợi nhuận để mua công nghệ sẽ được miễn thuế thu

nhập cho phần kinh phí đó.

Thứ tư, sử dụng công cụ tài chính làm động lực thúc đẩy sự phát triển

của các cơ quan R&D, thông qua đó phát triển TTCNC. Trung Quốc đặt mục

tiêu đến năm 2020 đầu tư 2.5% GDP cho phát triển KHCN. Trong đó, chi đầu

tư R&D tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ

thông tin, truyền thông, công nghệ môi trường, công nghệ nano, vật liệu mới,

hàng không, quốc phòng, an ninh… Hằng năm Trung quốc tăng tỷ trọng vốn

đầu tư R&D. Giai đoạn 2012-2016, tỷ lệ chi đầu tư R&D tăng từ 1,91% lên

2,11%; Năm 2016 Trung quốc đầu tư R&D là 1.567,67 tỷ NDT, tăng 52,2%

so với năm 2012; Năm 2017 chi đầu tư R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so

63

với năm 2016 [102]. Nhờ sử dụng hiệu quả công cụ tài chính mà số lượng

đơn xin phép cấp bằng sáng chế năm 2016 tăng 69%, trong đó số bằng sáng

chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012 [101]. Mặt khác, để nâng

cao năng lực công nghệ quốc gia, Trung Quốc thực hiện chủ trương chuyển từ

nhập khẩu máy móc, thiết bị là chủ yếu sang nhập quy trình, bí quyết công

nghệ. Thực chất của chủ trương này là tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ

CNC trong nước để phát triển TTCNC. Kết quả thực hiện chủ trương này là

TTCNC ở Trung Quốc luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm.

Cụ thể: Năm 2011 đạt 476,4 tỷ NDT, năm 2012 đạt 643,7 tỷ NDT, năm 2013

đạt 746,9 tỷ NDT [43].

Thứ năm, đẩy mạnh phát triển sàn giao dịch công nghệ là vấn đề cốt lõi

để phát triển TTCNC. Sàn giao dịch công nghệ ở Trung Quốc giữ vai trò cốt

lõi trong tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ,

đánh giá khoa học và định giá công nghệ. Đây là các yếu tố có vai trò quan

trọng trong việc phát triển TTCNC. Đối với các sàn giao dịch công nghệ, mặc

dù Bộ KHCN Trung Quốc là đơn vị ra quyết định thành lập và xây dựng mô

hình hoạt động, nhưng các sàn giao dịch công nghệ này không được nhà nước

cấp kinh phí hoạt động mà phải tự hạch toán thu chi trên cơ sở nhiệm vụ được

giao theo chức năng, nhiệm vụ của sàn giao dịch công nghệ.

Đến năm 2018, Trung Quốc đã có 1 sàn giao dịch nhà nước và 29 sàn

giao dịch cấp tỉnh hoạt động độc lập, cạnh tranh với nhau. Mỗi sàn giao dịch

công nghệ được hình thành, phát triển theo nhu cầu của TTCN của mỗi địa

phương đó. Mỗi sàn hoạt động trong một lĩnh vực riêng, phù hợp với nhu cầu

của thị trường từng khu vực. Ngoài ra, các sàn giao dịch công nghệ nhỏ ở cấp

huyện, thị trấn cũng được xây dựng phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực nông

nghiệp như cung cấp nước sạch, cải tạo đất, điện thông minh, thiết bị xe máy.

Đối tượng khách hàng của các sàn giao dịch công nghệ gồm doanh

nghiệp, cơ quan nghiên cứu, cá nhân có năng lực đến từ các cơ sở giáo dục

đại học, khu công nghiệp, Sở KHCN các tỉnh, các tổ chức khác có nhu cầu mua,

64

bán công nghệ hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu… Kinh phí hoạt động của

các sàn giao dịch công nghệ từ các đối tượng khách hàng này. Nhờ đẩy mạnh

phát triển sàn giao dịch công nghệ mà số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ nói

chung, sản phẩm, dịch vụ CNC nói riêng được giao dịch ngày càng gia tăng,

không chỉ đáp ứng nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của xã hội, mà còn thúc đẩy

TTCNC ở Trung Quốc không ngừng phát triển. Đó là cách thức để Trung Quốc

đạt được mục tiêu đến năm 2025 trở thành một nước có nền CNC.

2.3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức

Từ thực tiễn phát triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCN

nói riêng, trong đó có TTCNC ở Cộng hòa liên bang Đức (sau đây gọi tắt là

Đức) thời gian qua có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, phát triển thị trường KHCN theo hướng ưu tiên đầu tư cho

R&D làm nền tảng phát triển TTCN, trên cơ sở đó phát triển TTCNC. Để

phát triển thị trường KHCN, Chính phủ Đức coi trọng kiến tạo khung pháp lý,

ban hành các chính sách khuyến khích, trong đó trọng tậm là chính sách hỗ

trợ tăng cường năng lực R&D. Phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị

trường KHCN đến một trình độ nhất định là cách thức phát triển TTCN, trong

đó có TTCNC không chỉ được tiến hành ở Đức, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh

thổ khác cũng tiến hành. Tuy nhiên, là quốc gia có nền kinh tế phát triển đứng

hàng thứ tư thế giới và có vai trò dẫn dắt nền kinh tế của khối Liên minh Châu

Âu, đặc biệt trong lĩnh vực KHCN, Đức là một trong những nước hàng đầu về

R&D, nên việc phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị trường KHCN theo

hướng ưu tiên đầu tư cho R&D ở Đức có những đặc thù và đạt được kết quả

mà không phải quốc gia nào cũng làm được. Theo đó, các hoạt động R&D rất

được coi trọng và Chính phủ Đức hỗ trợ các hoạt động R&D bằng cách đầu tư

hàng tỷ đô la nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động này. Đặc

biệt, đến năm 2019, Chính phủ Đức đã dành 2,98% GDP cho R&D và đặt

mục tiêu đạt 3% GDP năm 2020 cho hoạt động này [15]. Nhờ coi trọng ưu

tiên đầu tư cho hoạt động R&D mà TTCN nói chung, TTCNC ở Đức được

đánh giá là phát triển rất mạnh mẽ, mang lại hiệu quả thiết thực.

65

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển các tổ chức trung gian kết nối cung cầu

sản phẩm, dịch vụ công nghệ nói chung, sản phẩm, dịch vụ CNC nói riêng.

Ở Đức, các tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản phẩm, dịch vụ công

nghệ được gọi chung là Trung tâm công nghệ. Các hình thức tổ chức của

Trung tâm công nghệ gồm có: Trung tâm tư vấn; Trung tâm thông tin

patent; Trung tâm chuyển giao và trình diễn công nghệ; Trung tâm hỗ trợ

khởi lập doanh nghiệp. Các Trung tâm công nghệ được thành lập ở tất cả

các bang, do chính quyền bang chủ trì phối hợp với cơ quan quản lý KHCN

và một số cơ quan liên quan của Liên bang thành lập. Các Trung tâm công

nghệ có chức năng hỗ trợ các hoạt động CGCN được tiến hành dễ dàng,

nhanh và hiệu quả hơn. Chức năng cụ thể của các Trung tâm công nghệ

được quy định như sau:

Trung tâm tư vấn có chức năng thực hiện dịch vụ tư vấn, giúp đỡ trọn

gói việc tư vấn CGCN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ; Giúp đỡ tìm kiếm

thông tin và xử lý theo yêu cầu; Môi giới giữa đối tác hợp tác và đối tác

chuyển giao; Tổ chức mạng liên kết, quan hệ hợp tác liên kết với đối tác.

Trung tâm thông tin patent có chức năng chỉ dẫn về bảo vệ và hỗ trợ

patent; Giúp tìm kiếm patent; Tổ chức, môi giới làm việc với các nhà sáng

chế; Tổ chức các hội thảo, lớp học...

Trung tâm chuyển giao và trình diễn công nghệ có chức năng tư vấn và

trình diễn công nghệ đặc thù; Tiến hành các công việc liên quan đến các dự án

CGCN do Nhà nước tài trợ; Tra cứu, cung cấp các kết quả nghiên cứu cơ bản;

Giúp chuẩn bị khi đưa các công nghệ mới vào sử dụng,...

Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp có chức năng tư vấn hỗ trợ

doanh nghiệp trẻ giai đoạn mới thành lập; Duy trì các hỗ trợ cho các doanh

nghiệp tiếp tục phát triển ở các giai đoạn tiếp theo; Cung ứng cơ sở hạ tầng,

diện tích cho thuê (phòng họp, phòng thí nghiệm,…); Tiến hành các dịch vụ

chung (điện thoại, văn thư); Môi giới các dịch vụ và tiến hành các tư vấn

(ngân hàng, kế toán,...).

66

Việc quy định chức năng như trên chỉ mang tính tương đối, thể hiện

chức năng chủ yếu của các Trung tâm công nghệ khi thành lập, còn thực tế

các Trung tâm công nghệ hoạt động theo phương thức kết hợp các chức năng

kể trên. Tuy nhiên, để các Trung tâm công nghệ hoạt động, Chính phủ Đức hỗ

trợ cơ sở hạ tầng, chi phí bộ máy và hoạt động. Đối với cơ sở hạ tầng, Chính

phủ Đức hỗ trợ dưới dạng một Chương trình, trong đó các Trung tâm công

nghệ được tài trợ tối đa 80% theo tỷ lệ liên bang 50%, bang 50% [14]; Đối

với chi phí bộ máy và hoạt động, Chính phủ hỗ trợ dưới dạng một Chương

trình, trong đó các Trung tâm công nghệ được tài trợ tối đa 60% nhưng không

quá 200 ngàn euro/năm cho một Trung tâm công nghệ, theo tỷ lệ Liên bang

75%, Bang 25% [14].

Thứ ba, ưu tiên đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh

nghiệp. Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp là một trong các hình thức tổ

chức của Trung tâm công nghệ. Ngoài chức năng của một Trung tâm công

nghệ, Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp còn có nhiệm vụ tổ chức liên

kết giữa các đối tác cần thiết cho việc khởi lập doanh nghiệp như: Ngân hàng,

cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ các nhà khoa học,... Mục tiêu ưu tiên đầu

tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện

pháp lý cho việc hình thành quan điểm, ý tưởng công nghệ; Hỗ trợ, giúp đỡ

thành lập doanh nghiệp trẻ, nhất là doanh nghiệp công nghệ mới thành lập và

đồng hành cùng các doanh nghiệp này trong 3 đến 5 năm sau khi thành lập.

Qua đó hỗ trợ chuyển giao tri thức và công nghệ nhằm tăng cường tiềm lực

đổi mới của vùng và hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng; đồng thời tạo

mạng liên kết quốc gia và quốc tế.

Nguồn vốn tham gia đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập

doanh nghiệp từ nhiều chủ thể khác nhau như chính quyền các cấp, doanh

nghiệp, cơ quan quản lý và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Các nguồn

vốn đó bao gồm: Chính quyền Liên bang 23%; Chính quyền Bang 13%;

Doanh nghiệp 12%; Ngân hàng thương mại 11%; Phòng thương mại và Công

67

nghiệp 9%; Còn lại là đóng góp của các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội,...

Tùy theo vai trò của các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp ở mỗi vùng

kinh tế khác nhau mà tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm từ 40-60% [14]. Đặc

biệt, giai đoạn hình thành thì tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm tỷ trọng cao

hơn, ở giai đoạn phát triển thì tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm tỷ trọng thấp

hơn vì ở giai đoạn này các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp đã có thể

trang trải được chi phí hoạt động của mình.

Nhờ chủ trương ưu tiên đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập

doanh nghiệp của Chính phủ Đức, mà từ 1983 đến nay thành lập 360 Trung

tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp. Theo đó, các Trung tâm hỗ trợ khởi lập

doanh nghiệp đã ươm tạo thành công 16.000 doanh nghiệp, tạo ra 150.000

chỗ làm việc; tỷ lệ duy trì và phát triển là 90%; đã có 8.000 doanh nghiệp phát

triển độc lập mà không cần đến sự hỗ trợ của Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh

nghiệp; thời gian lập nghiệp của các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp

bình quân là 4 năm [14].

2.3.1.3. Kinh nghiệm của Israel

Là quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt, đất đai

khô hạn do luôn bị thiếu nước, nhưng nhờ áp dụng thành công thành tựu KHCN,

mà Israel đã vươn lên rất mạnh mẽ với nhiều điều kỳ diệu trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội, đặc biệt Israel có thị trường KHCN phát triển hàng đầu khu vực

và trên thế giới. Và đó là lý do vì sao Israel có TTCNC phát triển. Từ thực tiễn

phát triển TTCNC của Israel có thể rút ra được một số kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, thương mại hoá sản phẩm KHCN dựa trên nguyên tắc thị

trường. Để thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN, đẩy nhanh quá trình ứng

dụng sản phẩm KHCN vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch

vụ ở Israel, năm 1969 Chính phủ Israel thành lập Văn phòng Nhà khoa học

trưởng trực thuộc Bộ Công thương (hiện nay là Bộ Kinh tế và Công nghiệp). Từ

năm 2016 đến nay, Văn phòng Nhà khoa học trưởng đổi tên thành Cơ quan đổi

mới sáng tạo quốc gia trực thuộc Bộ Kinh tế và Công nghiệp [64]. Cơ quan đổi

mới sáng tạo quốc gia có nhiệm vụ điều phối các Chương trình quốc gia đầu tư

68

cho R&D ở khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm KHCN, trong

đó có sản phẩm, dịch vụ CNC. Đây được coi là thành tố cơ bản trong hệ thống

hỗ trợ quốc gia cho KHCN và đổi mới sáng tạo. Mỗi năm Cơ quan đổi mới sáng

tạo quốc gia đã hỗ trợ cho hơn 500 công ty với trên 1.000 dự án, giá trị tài trợ

chiếm 20-50% ngân sách dành cho nghiên cứu [64].

Đặc biệt, ở Israel tuy quá trình hoạch định và thực thi chính sách đổi

mới sáng tạo quốc gia đều có sự tham gia của các Bộ, song chức năng chủ trì,

điều phối và xây dựng chính sách phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo quốc

gia do Bộ Kinh tế và Công nghiệp thực hiện. Mặc dù ở các Bộ đều có Cơ

quan đổi mới sáng tạo quốc gia với vai trò là cơ quan hoạch định chính sách

đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN và quản lý kinh

phí tài trợ cho các dự án do Bộ mình quản lý thì Cơ quan đổi mới sáng tạo

quốc gia thuộc Bộ Kinh tế và Công nghiệp giữ vai trò là cơ quan chủ trì và

điều phối Diễn đàn KHCN ở tất cả các Bộ.

Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò trọng yếu trong việc thúc đẩy R&D. Để

phát triển TTCN, đặc biệt là phát triển TTCNC, vấn đề cốt lõi là thúc đẩy

R&D phát triển. Để thúc đẩy R&D phát triển, Chính phủ Israel luôn giữ vai

trò trọng yếu trong việc hỗ trợ thúc đẩy R&D. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này của

Chính phủ Israel tuân theo nguyên tắc không can thiệp trực tiếp, chỉ hỗ trợ mà

không bao cấp và chỉ thực hiện hỗ trợ những lĩnh vực KHCN mà khu vực tư

nhân không muốn đầu tư, không có khả năng đầu tư, hoặc không được phép

đầu tư. Nói cách khác, Chính phủ Israel chỉ hỗ trợ những lĩnh vực KHCN cần

có sự can thiệp của Nhà nước. Cụ thể là Israel ưu tiên hỗ trợ cho nghiên cứu

cơ bản và hỗ trợ chuyển giao kết quả nghiên cứu cho khu vực sản xuất dưới

dạng các chương trình tài trợ. Theo đó, Chính phủ Israel thực hiện chính sách

hỗ trợ 50% cho R&D ở các công ty nội địa có sẵn cơ sở sản xuất, sản phẩm

được sản xuất ra trên lãnh thổ Israel và phục vụ xuất khẩu, các bí quyết công

nghệ không được chuyển giao ra nước ngoài. Từ năm 2005 đến nay, Chính

phủ Israel cho phép chuyển giao các kết quả nghiên cứu, bí quyết công nghệ

69

do Nhà nước hỗ trợ, hoặc tài trợ ra nước ngoài. Nhờ những chính sách như

vậy mà cho đến nay, ngành công nghiệp CNC ở Israel là ngành công nghệ mở

và hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường thế giới [64].

Thứ ba, tiếp cận kết nối cầu - cung thay vì cung - cầu công nghệ [64]

tăng cường vai trò của nhà khoa học và doanh nghiệp trong việc lựa chọn các

dự án công nghệ triển vọng và có tiềm năng để triển khai. Ở Israel, việc lựa

chọn dự án KHCN để Nhà nước hỗ trợ, hay tài trợ từ quá trình nghiên cứu

đến thương mại hoá sản phẩm KHCN được thực hiện theo nguyên tắc xuất

phát từ nhu cầu thị trường, cầu quyết định cung thay vì việc nhà khoa học cứ

tiến hành triển khai nghiên cứu và cho ra công nghệ, kể cả CNC sau đó mới

tìm kiếm thị trường, tìm đến nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ KHCN. Để kết nối

cầu - cung theo nguyên tắc xuất phát từ nhu cầu thị trường, Chính phủ Israel

đặc biệt đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ KHCN cũng như các doanh nghiệp

- nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ, trong đó có sản

phẩm, dịch vụ CNC, trong việc tìm kiếm, lựa chọn dự án công nghệ, đặc biệt

là dự án CNC để đưa vào triển khai nghiên cứu và thử nghiệm.

Như vậy có thể thấy, thị trường và nhu cầu thị trường do khu vực sản

xuất đề xuất là yếu tố tiên quyết để nghiên cứu, xem xét lựa chọn dự án công

nghệ nào, nhất là CNC được hỗ trợ, tài trợ để triển khai và thương mại hoá

trong thực tiễn.

Thứ tư, phát huy vai trò các tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản

phẩm, dịch vụ CNC trong việc thúc đẩy thương mại hoá và CGCN, nhất là

CNC tại các cơ sở giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học là một thành

tố quan trọng cấu thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Israel, vì thế Chính

phủ luôn coi trọng kết nối giữa tổ chức trung gian kết nối cung cầu với cơ sở

giáo dục đại học nhằm hỗ trợ thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN và

CGCN. Thực tế ở Israel cho thấy, có đến 75% sáng chế được tạo ra bởi các cơ

sở giáo dục đại học có tiềm năng thương mại hoá và CGCN [64]. Đóng vai

trò quan trọng trong việc chuyển giao kết quả nghiên cứu từ các cơ sở giáo

70

dục đại học cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC là

Các Công ty CGCN - một hình thức tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản

phẩm, dịch vụ công nghệ, nhất là sản phẩm, dịch vụ CNC. Ở Israel, sở hữu

Công ty CGCN có thể là tư nhân, nhà nước hay cơ sở giáo dục đại học. Việc

hỗ trợ thương mại hoá sản phẩm, dịch vụ CNC được tiến hành như sau: Khi

nhà khoa học có sáng chế sẽ thông báo cho các Công ty CGCN. Các Công ty

CGCN sẽ tiến hành các công việc như: Đánh giá mức độ thương mại hoá tiềm

năng đối với sản phẩm, dịch vụ KHCN; Xây dựng kế hoạch kinh doanh,

quảng bá, thu hút khách hàng; Soạn thảo hợp đồng CGCN; Xác định tỷ lệ lợi

nhuận giữa các bên; Hỗ trợ giao dịch với các nhà đầu tư. Như vậy, các nhà khoa

học chỉ chuyên tâm nghiên cứu, sáng tạo. Khi hợp đồng CGCN được thực hiện

thành công, các nhà khoa học có sản phẩm, dịch vụ được chuyển giao sẽ nhận

40% giá trị hợp đồng, 60% còn lại được chia thành 3 phần bằng nhau: Một phần

nộp ngân sách các cơ sở giáo dục đại học; Một phần nộp vào quỹ phát triển

phòng thí nghiệm nghiên cứu; Phần còn lại thuộc các Công ty CGCN [64].

Thứ năm, thông qua các quy định về sở hữu trí tuệ để khuyến khích các

nhà khoa học nghiên cứu, sáng tạo và tích cực thương mại hoá công nghệ nói

chung, CNC nói riêng. Để đảm bảo quyền lợi cho cơ sở giáo dục đại học và

doanh nghiệp khi tham gia hoạt động CGCN; đồng thời khuyến khích các nhà

khoa học cũng như các cơ sở giáo dục đại học nghiên cứu và đẩy mạnh

thương mại hoá công nghệ, đặc biệt là CNC, Chính phủ Israel quy định

nghiêm ngặt về quyền sở hữu trí tuệ trong hợp đồng CGCN. Theo đó, doanh

nghiệp nhận CGCN phải cam kết đưa công nghệ ra thị trường, không có

quyền công bố kết quả nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học. Quyền sở

hữu trí tuệ thuộc về cơ sở giáo dục đại học và được quy định rõ trong hợp

đồng CGCN. Mặt khác, các cơ sở giáo dục đại học không có quyền kinh

doanh bằng chính công nghệ do mình nghiên cứu, sáng chế nếu không có sự

hợp tác với doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ Israel không cho bán mà chỉ

cho phép các cơ sở giáo dục đại học chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho

doanh nghiệp theo hợp đồng CGCN.

71

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trên cơ sở đó đẩy mạnh xuất khẩu

sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC.

Israel là quốc gia tiên tiến nhất ở Tây Á và Trung Đông về phát triển

kinh tế, khoa học, nhất là công nghiệp. Nền giáo dục đại học chất lượng và việc hình thành cộng đồng dân cư có trình độ học vấn cao là nguyên nhân chủ

yếu thúc đẩy sự bùng nổ CNC và phát triển kinh tế nhanh chóng của Israel. Tuy nhiên, do nằm trong khu vực luôn tiềm ẩn nhiều bất ổn về chính trị, kinh

tế, quân sự nên Chính phủ Israel đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác R&D với các quốc gia có nền công nghiệp phát triển. Và, Israel là quốc gia đầu tiên

được Intel, Micrisoft và các tập đoàn đa quốc gia CNC như IBM, Google, Apple, Hewlett-Packard, Systems, Facebook, Cisco, Motorola lựa chọn để

xây dựng cơ sở R&D của họ ở nước ngoài.

Một trong những chương trình hợp tác quốc tế thành công giữa Israel

và Mỹ là Quỹ BIRD (Binational Industrial Research and Development) nhằm tài trợ cho các dự án phát triển sản xuất công nghiệp phi quốc phòng phục vụ

lợi ích giữa hai quốc gia. Có thể khẳng định, sự thành công của Israel trong phát triển CNC cũng như phát triển TTCNC là kết quả kết hợp hài hòa giữa

chính sách hỗ trợ, thu hút nhân tài của Chính phủ với việc xã hội hóa R&D như các “Vườn ươm công nghệ”, cùng với việc tiếp thu, hợp tác tốt trong

R&D về công nghiệp với các nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Đặc biệt,

các ngành công nghiệp có hàm lượng CNC có tốc độ tăng trưởng cao hơn những ngành có hàm lượng công nghệ thấp và trung bình. Nhờ đó, xuất khẩu

sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC luôn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm, dịch vụ công nghệ xuất khẩu của Israel. Theo đó, tốc độ phát triển

bình quân của ngành công nghiệp đạt 3,8%, trong đó các ngành CNC có tốc độ tăng trưởng 6,7%, các ngành công nghệ trung bình cao và trung bình tăng

trưởng 2,2% và 3%, ngành công nghiệp công nghệ thấp tăng trưởng 0,3% [64]. Trong đó, ngành chế tạo của Israel phát triển vượt bậc, được đánh giá là

trung tâm phát triển CNC của thế giới như Thung lũng Silicon thứ hai sau Mỹ. Cũng nhờ thành tựu đó mà hệ thống vũ khí CNC do Israel thiết kế, chế tạo và

nhập khẩu đang chiếm ưu thế trong lĩnh vực quân sự ở quốc gia này.

72

Đối với Israel, tỉ trọng sản phẩm, dịch vụ có độ tập trung CNC và trung

bình cao chiếm tỉ trọng lớn và tăng trưởng ổn định (Hình 2.1). Với khả năng

xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC, nên nền kinh tế Israel có

năng lực cạnh tranh cao và ít đối thủ. Do đó, Israel được các tổ chức quốc tế

đánh giá cao trong bảng xếp hạng hàng năm. Những năm gần đây, tuy kinh tế

thế giới gặp nhiều khó khăn, Israel vẫn là quốc gia ít chịu ảnh hưởng nhất.

Hình 2.1: Tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có độ

tập trung công nghệ cao và trung bình cao

Nguồn: [14]

2.3.2. Một số bài học rút ra về phát triển thị trường công nghệ cao

cho Việt Nam

Từ kinh nghiệm phát triển TTCN, nhất là kinh nghiệm phát triển

TTCNC của Trung Quốc, Đức và Israel có thể rút ra một số bài học về phát

triển TTCNC cho Việt Nam như sau:

2.3.2.1. Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Nhận thức được TTCNC là một thị trường đặc biệt, nếu không có sự

can thiệp của Nhà nước thì thị trường này rất khó phát triển. Chính vì vậy, các

quốc gia đều quan tâm đến vấn đề này như Nhà nước Đức tạo ra các điều kiện

73

khung, các biện pháp khuyến khích, cụ thể là Nhà nước hỗ trợ tăng cường

năng lực làm R&D, khuyến khích chuyển đổi cơ cấu, giúp đỡ các dự án

CGCN cho doanh nghiệp hoặc như Trung Quốc xác định giai đoạn đầu của sự

phát triển cần phải được có sự quản lý theo hệ thống và thống nhất. Chính phủ

sẽ can thiệp trực tiếp vào một số nhân tố cơ bản của thị trường như xác lập và

bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy hệ thống trung gian môi giới,… Về

vai trò của Nhà nước Trung Quốc và CHLB Đức trong việc hỗ trợ, đầu tư

phát triển (hạ tầng cơ sở), các tổ chức trung gian kết nối cung cầu cần được

nghiên cứu, vận dụng cho việc phát triển hệ thống các tổ chức trung gian kết

nối cung cầu của địa phương, đặc biệt là tại các thành phố lớn,… là những bài

học kinh nghiệm rất quan trọng để Việt Nam tiếp thu và vận dụng.

2.3.2.2. Đẩy mạnh phát triển các yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao

Một là, nhằm gia tăng số lượng các chủ thể tham gia vào TTCNC, cần có

cơ chế chính sách khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích việc hình thành

các tổ chức KHCN thuộc khu vực tư nhân, khu vực doanh nghiệp như thành lập

các viện nghiên cứu, trường đại học, phòng thí nghiệm, các trung tâm ứng dụng

nghiên cứu triển khai… trong các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp. Ngoài ra tạo

các cơ chế mở, các điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học có thể tham gia các

hoạt động đồng thời cả ở khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân.

Hai là, để tạo điều kiện thuận lợi cho TTCNC phát triển, cần xác định phát

triển doanh nghiệp KHCN là một giải pháp cần thiết và rất quan trọng. Việc phát

triển các doanh nghiệp KHCN góp phần ứng dụng nhanh và thương mại hóa các

công nghệ đã được nghiên cứu tạo ra lực thúc đẩy cho TTCNC phát triển. Các

doanh nghiệp KHCN được hình thành trên cơ sở các vườn ươm công nghệ, đây là

mô hình nhằm đáp ứng các điều kiện về vốn, cơ sở hạ tầng, nhân lực.

Ba là, phát triển các hoạt đông tư vấn, môi giới là nội dung rất quan

trọng để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Từ việc học tập thành lập

các sàn giao dịch công nghệ Thượng Hải, Trung tâm sức sản xuất Quảng

Đông của Trung Quốc và 4 loại hình Trung tâm dịch vụ CGCN của Cộng hòa

74

liên bang Đức với các chức năng, nhiệm vụ phong phú, thích hợp với từng

tình hình của các vùng, miền, trình độ phát triển là các mô hình khác nhau về

hỗ trợ phát triển TTCNC. Chúng ta học tập vận dụng cho việc hình thành các

sàn giao dịch công nghệ quốc gia và vùng, địa phương giai đoạn từ nay đến

2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã hình

thành được 20 sàn giao dịch công nghệ (tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà

Nẵng, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Bình, Nghệ An,…). Ngoài ra

hệ thống các tổ chức trung gian bước đầu đã được hình thành, đang phát triển

nhanh và đa dạng, cả về hình thức và nội dung hoạt động. Mạng lưới các tổ

chức trung gian tư vấn, đánh giá, môi giới CGCN được tăng cường. Hoạt

động của thị trường KHCN ngày càng sôi động với các Chợ công nghệ và

thiết bị quốc gia và quốc tế (Techmart), sàn giao dịch công nghệ (SGDCN),

các sàn giao dịch điện tử về công nghệ (Techmart online), hoạt động kết nối

cung - cầu công nghệ ở các địa phương và vai trò gia tăng của các Trung tâm

ứng dụng tiến bộ KHCN ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày

càng phát triển mạnh. Đây là những tiền đề hết sức thuận lợi để chúng ta có

thể phát triển TTCNC trong thời gian tới.

2.3.2.3. Nâng cao năng lực của các chủ thể tham gia thị trường công

nghệ cao ở Việt Nam

Một là, từ kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thực hiện đẩy mạnh

thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC của các tổ chức KHCN công lập

thông qua các biện pháp như giảm trợ cấp đối với các tổ chức KHCN nhằm

gây áp lực và buộc các tổ chức này phải hoạt động theo nhu cầu của thị

trường; Nâng cao quyền tự chủ của các tổ chức KHCN trong việc cung cấp

hàng hóa, dịch vụ; sát nhập các tổ chức KHCN vào các doanh nghiệp nhằm

gắn kết các hoạt động KHCN với thực tiễn sản xuất kinh doanh. Đối với nước

ta đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế và thực hiện chính sách “Đi tắt đón

đầu” thì cần phải cải cách các tổ chức KHCN công lập theo hướng gắn kết với

nhu cầu của thực tiễn sản xuất, kinh doanh, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu

75

trách nhiệm trong hoạt động nghiên cứu, đặc biệt là đẩy mạnh việc chuyển

đổi các tổ chức này sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Đó là bài học

chúng ta cần phải vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của đất

nước trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, hình thành các quỹ và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đổi

mới công nghệ nhằm định hướng cho các doanh nghiệp vào việc tiếp nhận các

CNC, công nghệ hiện đại. Việc thành lập Quỹ phát triển công nghệ cho các

doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quỹ phát triển sáng chế;

doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần kinh phí mua

công nghệ; doanh nghiệp được trích 5% doanh thu (không tính thuế) để

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là các cơ chế, chính sách cần

học tập cho việc kích cầu công nghệ của các doanh nghiệp… là những nội

dung cần thiết nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong quá trình

tham gia phát triển TTCNC hiện nay. Về cơ bản các cơ chế chính sách này

cũng đang được bắt đầu triển khai và thực hiện có hiệu quả tạo ra những hiệu

ứng tốt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, Thủ tướng chính phủ đã

ban hành quyết định số 04/2021/QĐ-TTg, ngày 29/01/2021 về Điều lệ tổ

chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và quyết định này có

hiệu lực từ ngày 15/3/2021 với các mục đích cụ thể như sau: 1) Hỗ trợ doanh

nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ được khuyến khích

chuyển giao quy định tại Luật CGCN; 2) Thúc đẩy việc CGCN phục vụ phát

triển nông nghiệp ở vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế -

xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; 3) Hỗ trợ ươm tạo công nghệ, ươm tạo

doanh nghiệp KHCN, giải mã công nghệ; 4) Hỗ trợ đào tạo nhân lực KHCN

phục vụ việc chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ. Có thể nói đây là

những thuận lợi rất quan trọng giúp cho hoạt động KHCN của nước ta có điều

kiện phát triển vững chắc hơn trong thời gian tới.

Có thể khẳng định những kinh nghiệm thành công trong phát triển thị

trường CNC thời gian qua của một số quốc gia mà luận án đã tiến hành khảo sát

76

là những bài học có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trong quá trình phát triển

thị trường CNC trong thời gian tới. Tuy nhiên, với đặc điểm thị trường CNC của

Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển thì việc nghiên cứu

những kinh nghiệm không thành công của các quốc gia trên thế giới về phát triển

thị trường này cũng là nội dung vô cùng cần thiết và quan trọng, giúp cho chúng

ta có điều kiện nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện trong quá trình phát

triển thị trường CNC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những thời gian

tiếp theo. Trong phạm vi của luận án tập trung nghiên cứu và đánh giá một số

kinh nghiệm không thành công của Trung Quốc trong quá trình phát triển thị

trường khoa học công nghệ nói chung và thị trường công nghệ cao nói riêng.

Trước hết là việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Trung Quốc với các quốc gia

trên thế giới là rất nghiêm trọng đặc biệt là các quốc gia có nền khoa học công

nghệ phát triển như Hoa Kỳ, Nga và các nước Châu Âu cụ thể là vi phạm tại

Điều 3, Điều 28 của Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí

tuệ về các hoạt động vi phạm sở hữu trí tuệ, buộc chuyển giao công nghệ của

Trung Quốc, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ đã chính thức gửi yêu cầu

tham vấn với Trung Quốc lên Tổ chức Thương mại Thế giới. Trong yêu cầu

tham vấn ghi rõ: Trung Quốc đã từ chối để các đối tác nước ngoài được có khả

năng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình khi liên doanh với đối tác Trung

Quốc sau khi hợp đồng chuyển giao công nghệ kết thúc. Trung Quốc cũng áp đặt

các điều khoản hợp đồng có tính bắt buộc, gây bất lợi, nhằm tạo ra sự phân biệt

đối xử, chống lại và không tạo thuận lợi cho công nghệ nước ngoài nhập khẩu.

Thông qua một loạt công cụ cụ thể để thực hiện chính sách buộc

chuyển giao công nghệ không công bằng, phân biệt và hạn chế đầu tư của

Trung Quốc như Luật Ngoại thương của Trung Quốc; Quy định của Trung

Quốc về nhập khẩu và xuất khẩu công nghệ; Luật về Doanh nghiệp liên doanh

cổ phần Trung Quốc - Nước ngoài; các quy định triển khai Luật này... với các

quy định như: Các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải có thời gian thực

hiện ít nhất 10 năm và cho phép bên liên doanh của Trung Quốc được sử dụng

77

công nghệ này vĩnh viễn sau khi hợp đồng đã hết hạn, hay quy định chủ sở

hữu nước ngoài không được phép ngăn cản các nhà cấp giấy phép của Trung

Quốc cải tiến công nghệ và sở hữu những cải tiến đó...

Trước đó, Nhật Bản (năm 2009) và Liên minh châu Âu (năm 2011) từng

gửi yêu cầu tham vấn về việc Trung Quốc buộc chuyển giao công nghệ vi phạm

Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ lên Tổ chức

thương mại thế giới.

Thứ hai là việc không nhất quán của Trung Quốc trong quá trình

chuyển giao công nghệ với Nga nhất là trong lĩnh vực công nghệ quân sự.

Năm 1995, Nga-Trung đã ký thỏa thuận đồng ý lắp ráp 200 chiếc Su-27SK

(J-11 phiên bản Trung Quốc), nhưng sau khi lắp ráp 100 chiếc ở Thẩm

Dương, phía Trung Quốc từ chối sản xuất dư thừa máy bay, bởi vì Trung

Quốc đã nghiên cứu chế tạo các linh kiện cho máy bay của mình, trong 10

năm đã học được cách lắp ráp J-11 trên nền tảng Su-27. Hơn nữa, các kỹ sư

Trung Quốc không chỉ phỏng chế thiết bị radar và điện tử hàng không của

Su-27, mà còn giải quyết được một số vấn đề khó về kỹ thuật, trên máy bay

đã lắp ráp động cơ phản lực nội địa. Ngoài ra, máy bay trang bị cho tàu sân

bay J-15 cũng rất giống Su-33 của Nga.

78

Kết luận chương 2

Phát triển TTCNC hiện nay là một tất yếu khách quan phù hợp với xu

thế của thực tiễn. Đây là xu hướng phát triển của tất cả các quốc gia trên thế

giới nói chung và các nước có nền kinh tế đang phát triển nói riêng, là cơ hội

thuận lợi để các quốc gia đi sau có cơ hội tiếp cận với trình độ công nghệ tiên

tiến của thế giới góp phần vào quá trình phát triển KT-XH của quốc gia mình.

Đối với nước ta phát triển TTCNC là một đòi hỏi khách quan nhằm

nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia, gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản

xuất kinh doanh, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.

Trong thực tế phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề

cả lý luận và thực tiễn cần phải giải quyết. Tiếp cận nghiên cứu vấn đề dưới

góc độ khoa học kinh tế chính trị cho thấy phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện

nay được được thể hiện qua ba nội dung cơ bản: Gia tăng về số lượng và nâng

cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC; Gia tăng

cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC; Gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức

trung gian môi giới trên TTCNC. Đây là những nội dung cơ bản và cần thiết

cần tập trung phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ CNC có chất lượng

tốt, hiệu quả kinh tế cao và thân thiện với môi trường.

Để thúc đẩy TTCNC phát triển cần nắm chắc các yếu tố tác động và

đặc biệt cần phải vận dụng linh hoạt sáng tạo bài học kinh nghiệm của các

quốc gia trên thế giới có TTCNC phát triển, là cơ sở để xác định quan điểm

và giải pháp phát triển TTCNC trong thời gian tới.

79

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO

Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

3.1. Một số thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường công

nghệ cao ở Việt Nam

3.1.1. Những thuận lợi trong phát triển thị trường công nghệ cao ở

Việt Nam

Đến nay, Việt Nam đã hội nhập và tham gia khá đầy đủ các hiệp định,

điều ước quốc tế có liên quan đến thị trường KH&CN như: Tham gia Hiệp

định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu tài sản

trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO tháng 1/2007; Công ước Berne về bảo hộ

các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; Công ước Ro-ma bảo hộ người

biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép… Vấn đề

hội nhập kinh tế quốc tế đã phần nào tác động tích cực đến việc gìn giữ

thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp, hạn chế tình trạng bắt chước, làm giả

nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp; Nâng cao năng lực và khả

năng đổi mới của các tổ chức KH&CN Việt Nam.

Để có thể tận dụng hiệu quả các cơ hội cũng như ứng phó với những

thách thức mà việc hội nhập đem lại, trong 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà

nước đã đặc biệt chú trọng sửa đổi, bổ sung và kiện toàn cơ sở pháp lý hỗ trợ

thị trường KH&CN nói chung và thị trường CNC nói riêng phát triển.

Điển hình như ngày 13/11/ 2008 Quốc hội khóa X đã ban hành luật

Công nghệ cao, Ngày 31/12/2010 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết

định số 2457/ QĐ_ TTg về việc phê duyệt chương trình quốc gia phát

triển công nghệ cao đến năm 2020; Ngày 1/6/2013, Quốc hội đã thông qua

Luật KH&CN số 29/2013/QH13 thay thế cho Luật KH&CN số

21/2000/QH10. Tiếp theo đó, ngày ngày 9/11/2013, Thủ tướng Chính phủ

cũng đã ban hành Quyết định 2075/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát

triển thị trường KH&CN đến năm 2020; ngày 19/6/2017 Quốc hội khóa

80

14 ban hành luật chuyển giao công nghệ… là những văn bản tạo cơ sở

hành lang pháp lý cho thị trường CNC ngày càng phát triển, có vai trò

then chốt trong việc tạo môi trường thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới

công nghệ; nâng cao năng lực KH&CN quốc gia phục vụ phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước… Nhờ đó, thị trường CNC Việt Nam đến nay đã

gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ phát triển. Loại hình hàng hóa trên thị

trường CNC ngày càng đa dạng và phong phú.

Các hình thức giao dịch trên thị trường này theo đó cũng đa dạng hơn,

gồm có các hình thức như: Giao dịch mua, bản quyền sở hữu, quyền sử dụng

đối tượng sở hữu công nghiệp, giao dịch chuyển giao công nghệ là các thiết

bị, máy móc, công nghệ thuần tuý giữa các chủ thể tham gia thị trường.

Nhìn chung, thị trường CNC ở Việt Nam trong thời gian qua đã có những

bước phát triển vượt bậc, bởi đã tận dụng khá nhiều các cơ hội của quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế mang lại. Điều này được thể hiện cụ thể trong quy mô và

tốc độ phát triển của thị trường này ở nước ta trong vài năm trở lại đây:

Thứ nhất, số lượng sản phẩm CNC (bao gồm: Số lượng văn bằng bảo

hộ được cấp; Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp; Nguồn gốc các văn bằng

bảo hộ được cấp; Các loại hình giao dịch văn bằng bảo hộ) có chiều hướng

gia tăng; Nhận thức về sản phẩm CNC của các thành phần kinh tế cũng đã

phát triển theo hướng thị trường.

Thứ hai, loại hình giao dịch văn bằng bảo hộ được xem xét trên hai nội

dung cơ bản, đó là giao dịch quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và

giao dịch quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, thị trường trong nước đã hình thành nhiều loại dịch vụ

KH&CN (điển hình như: kiểm định mẫu nguyên liệu và sản phẩm, giám định

các sản phẩm KH&CN, pháp lý về sở hữu công nghệ và chuyển giao công

nghệ, dịch vụ tài chính), bước đầu đáp ứng nhu cầu mua bán các sản phẩm

KH&CN trên thị truờng KH&CN, số lượng các DN KH&CN cũng đã có

những chuyển biến về cả chất lẫn lượng.

81

3.1.2. Một số khó khăn trong phát triển thị trường công nghệ cao ở

Việt Nam

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, quá trình phát triển thị trường

KH&CN của nước ta còn tồn tại một số khó khăn nhất định sau:

Một là, so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội

nhập kinh tế quốc tế, giá trị và lượng hàng hóa CNC được giao dịch ở nước ta

hiện nay chưa nhiều.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự tạo ra những động lực

lớn, để hình thành nên các tổ chức KH&CN ở khu vực DN và khu vực tư

nhân, trong khi sức ép cạnh tranh quốc tế ngày lại càng tăng.

Ba là, mặc dù chất lượng phát triển thị trường CNC đã tăng lên nhưng

so với yêu cầu đặt ra thì vẫn còn nhiều bất cập.

Bốn là, thị trường CNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu

thành thị trường chưa phát triển đồng bộ; Năng lực của nhiều chủ thể trên thị

trường còn thấp, số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển ở nước ta đã

tăng lên đáng kể, tuy nhiên tốc độ tăng không đồng đều, chưa đáp ứng được

các yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nước ta trong tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

3.2. Thành tựu, hạn chế trong phát triển thị trường công nghệ cao

ở Việt Nam

3.2.1. Thành tựu

3.2.1.1. Số lượng, chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ

cao trên thị trường công nghệ cao ngày càng gia tăng

Một là, gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị

trường công nghệ cao

Thứ nhất, gia tăng số lượng sản phẩm công nghệ cao

Sự gia tăng số lượng các sản phẩm CNC được đánh giá là sự gia tăng

các sản phẩm CNC là đối tượng SHCN và trên các tiêu chí: (1) Số lượng văn

bằng bảo hộ được cấp; (2) Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp; (3) Nguồn

gốc các văn bằng bảo hộ được cấp.

82

Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp

Số văn bằng bảo hộ người Việt Nam được cấp

Loại đơn

TT

đăng ký

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

1

Sáng chế

40

76

109

205

169

45

59

36

63

2 Giải pháp

59

74

66

86

45

114

118

290

230

hữu ích

3 Kiểu dáng

công

807

631

852

984

841

877

1339

1277

1234

nghiệp

4 Nhãn hiệu 15502 14976

14503

15378 14207 13672 15172 14492 22265

Tổng số

16394 15711

15488

16464 15197 14739 16738 16264 23898

Bảng 3.1. Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp giai đoạn 2011 - 2019

Nguồn:[27]

TT

Số văn bằng bảo hộ người nước ngoài được cấp 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 1203 1332 1325 1347 1636 2014 945 65 33 23

980 28

20

31

24

28

2019 2451 72

1 2 3

338

440

510

650

545

577

928

1083

938

5938 5066 5156 5201 4133 4368 4229 4070

6555

4 T. số

Loại đơn đăng ký Sáng chế Giải pháp hữu ích Kiểu dáng công nghiệp Nhãn hiệu

7244 6514 6902 7203 6034 6316 6821 7232 10016

Bảng 3.2. Số lượng văn bằng bảo hộ của người nước ngoài được cấp giai đoạn 2011 - 2019

Nguồn:[27]

Theo số liệu thống kê tại Bảng 3.1 tổng số văn bằng bảo hộ được Cục

SHTT Việt Nam cấp cho người Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2019 gia

tăng hàng năm. Trong sự gia tăng này, số lượng các văn bằng bảo hộ cho

người Việt Nam sự gia tăng lớn về quy mô, tốc độ và chiếm tỷ trọng lớn. Số

lượng văn bằng bảo hộ được cấp đã tăng từ 23.638 văn bằng năm 2011 lên

33.914 văn bằng năm 2019, tăng gần 1,5 lần. Bảng 3.1 cũng cho thấy trước

năm 2018 số lượng văn bằng bảo hộ có tốc độ tăng đều hàng năm, nhưng từ

sau năm 2019 sổ lượng văn bằng bảo hộ có sự gia tăng đột biến (từ 16.738

văn bằng năm 2017 lên 23.898 văn bằng năm 2019); tốc độ tăng năm 2019 so

83

với năm 2017 là 70,03% [Phụ lục 2]. Theo số liệu thống kê bảng 3.2 số lượng

các văn bằng bảo hộ cấp cho người nước ngoài có sự gia tăng giữa các năm,

nhưng sự gia tăng này là không liên tục và ổn định (số lượng năm 2012, 2013,

2015, 2016, 2017 thấp hơn so với năm 2011. Tỷ lệ tăng giữa các năm tăng

không cao. Điều này phản ánh, lượng văn bằng bảo hộ cấp cho các chủ thể

nước ngoài trong giai đoạn 2011-2019 có sự gia tăng nhưng không liên tục,

không ổn định và có đóng góp không nhiều vào sự gia tăng của sản phẩm,

dịch vụ CNC là các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp [11].

Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp

Về cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp, đối với cả người Việt Nam và

người nước ngoài, theo thống kê tại Bảng 3.1 và 3.2 cho thấy sản phẩm công

nghệ là nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và

gia tăng đột biến trong các năm 2017, 2018, 2019 còn sản phẩm công nghệ là

các văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích chiếm số lượng và tỷ lệ rất

thấp trong tổng sổ loại sản phẩm, dịch vụ CNC.

Nguồn gốc các văn bằng bảo hộ được cấp

Nguồn gốc các văn bằng bảo hộ được cấp cho thấy, các sáng chế do

các tổ chức CNC của Việt Nam làm ra ít hơn nhiều so với các sáng chế do các

tổ chức CNC nước ngoài đăng ký bảo hộ tại Việt Nam (tổng số năm 2018 là

205/2.014, năm 2019 có tỷ lệ là 169/2.451 sáng chế), nhưng người Việt Nam

có ưu thế hơn hẳn ở giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và bằng độc quyền

kiểu dáng công nghiệp [Phụ lục 3].

Hiện nay ở nước ta có nhiều loại hình dịch vụ trên TTCNC, trong đó có

những dịch vụ chủ yếu như sau: Dịch vụ kiểm định mẫu nguyên liệu và sản

phẩm: ở nước ta đây là loại hình dịch vụ phát triển như kiểm định về chất

lượng sản phẩm, sức bền vật liệu; Dịch vụ giám định các sản phẩm CNC:

Hiện nay, ở nước ta dịch vụ giám định các sản phẩm CNC của yếu là do các

cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xét duyệt, thẩm định các dự án đầu tư, chưa

có tổ chức giám định chuyên nghiệp phục vụ cho các chủ thể trên TTCNC;

84

Dịch vụ pháp lý về sở hữu công nghệ và CGCN: Hiện nay dịch vụ này đã

phát triển, tuy nhiên chỉ tập trung ở dịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, ít có

dịch vụ đăng ký bảo hộ sáng chế; Dịch vụ tài chính: Thực hiện chính sách ưu

đãi đối với hoạt động KHCN. Các ngân hàng đã cho vay để hỗ trợ các hoạt

động KHCN. Tuy nhiên, do tính rủi ro cao nên các ngân hàng chủ yếu cho các

doanh nghiệp nhà nước vay, còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt là

doanh nghiệp vừa và nhỏ doanh nghiệp KHCN khó tiếp cận được nguồn vốn

vay. Ở nước ta đã có quỹ đầu mạo hiểm của nước ngoài, nhưng quỹ này mới

đi vào hoạt động nên chưa có nhiều đóng góp thiết thực.

Đối với công tác thẩm định cơ sở khoa học các quy hoạch, đề án và thẩm

định công nghệ các dự án đầu tư, Bộ KHCN đã chủ trì thẩm định, góp ý kiến đối

với 5 quy hoạch phát triển KT-XH, 4 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, 33 dự

án đầu tư và 1 đề án phát triển ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, Bộ KHCN đã thành lập

6 hội đồng thẩm định công nghệ do các nhà đầu tư đề xuất trong các lĩnh vực về

môi trường, hóa chất, dầu khí, xử lý rác thải. Đối với công tác thẩm định và cấp

giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng CGCN, năm 2017 Bộ Khoa học và Công

nghệ đã cấp giấy chứng nhận cho 16 hợp đồng CGCN (trong đó có 11 hợp đồng

CGCN cấp mới và 5 hợp đồng CGCN sửa đổi, bổ sung) [10].

Theo Bộ KHCN, giai đoạn 2015 - 2018, số lượng hợp đồng tư vấn,

CGCN đạt trung bình 3.000 hợp đồng/năm, tăng trưởng 12%/năm; giá trị hợp

11 đồng tư vấn, CGCN trung bình 54,5 tỷ đồng/năm, có mức tăng trưởng

10%/năm. Bên cạnh đó, các trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN đã làm chủ

gần 300 công nghệ, 50% trung tâm đã tạo ra doanh thu trung bình trên 60 tỷ

đồng/năm, lợi nhuận khoảng 10 tỷ đồng/năm [36].

Hoạt động CGCN được thực hiện phong phú, đa dạng đạt nhiều kết quả

tốt theo 2 loại hình quyền sử dụng đối tượng SHCN và quyền sở hữu đối

tượng SHCN ([Phụ lục 13] và [Phụ lục 14]).

Qua bảng số liệu cho thấy đối với loại hình chuyển giao giữa Việt Nam

với Việt Nam cả về quyền sử dụng và quyền sở hữu đối tượng công nghiệp có

85

sự phát triển theo các năm, đặc biệt là các nằm từ 2015 đến 2019, điều này thể

hiện sự kết nối cung cầu của các hội chợ công nghệ hàng năm đã có những

thành công nhất định.

Đối với loại hình thứ hai là quá trình chuyển giao giữa Việt Nam với

nước ngoài về quyền sử dụng và quyền sở hữu đối tượng công nghiệp cũng đã

có sự phát triển, tuy nhiên hình thức chuyển giao về quyền sử dụng đối tượng

công nghiệp vẫn chiếm ưu thế hơn về hình thức chuyển giao quyền sở hữu đối

tượng công nghiệp, điều này cho ta thấy các chủ thể nước ngoài vẫn nắm giữ

và hạn chế quyền sở hữu mà chủ yếu chuyển giao quyền sử dụng đối tượng

SHCN. Đây là một nội dung đặt ra đối với các tổ chức trong hoạt động dịch

vụ công nghệ trong thời gian tới.

Thứ hai, gia tăng số lượng giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ công

nghệ cao trên thị trường công nghệ cao

Dựa trên các số liệu của Tổng Cục thống kê, giao dịch công nghệ tính

trung bình trên mỗi doanh nghiệp của cả giai đoạn 2012-2018 là gần 1,345

trđ/DN /năm, trong đó tỷ lệ chi phí giao dịch công nghệ nước ngoài so với

giao dịch công nghệ trong nước có xu hướng tăng mạnh, từ 0,66 lần năm

2012 đã tăng lên 1,59 lần năm 2018. Trong đó, nhóm ngành điện, điện tử,

máy tính là nhóm ngành có giao dịch công nghệ lớn nhất, đạt gần 1,917

trđ/DN /năm (chiếm 22,15% giao dịch công nghệ trên thị trường ngành chế

biến, chế tạo), tiếp đến là nhóm ngành kim loại và chế tạo máy (đạt gần 1,896

trđ/DN /năm, chiếm 21,92%), thấp nhất là ngành gỗ, giấy chỉ đạt 0,707 triệu

đồng/doanh nghiệp/năm (chiếm 8,17%). Trong đó, chi phí giao dịch công

nghệ có nguồn gốc nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể so với

chi phí giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước, đặc biệt là ngành kim

loại và chế tạo máy, năm 2012 tỷ trọng giá trị giao dịch công nghệ có nguồn

gốc nước ngoài chỉ bằng 1,67 lần thì năm 2018 đã tăng lên 12,76 lần.

Tốc độ tăng trưởng trung bình giá trị giao dịch công nghệ không đều

trong giai đoạn nghiên cứu, mức biến động này chủ yếu xảy ra ở giá trị giao

86

dịch công nghệ nước ngoài. Tính trung bình tốc độ tăng trưởng trung bình của

cả giai đoạn 2012-2018 là 19% trong đó tốc độ tăng giá trị giao dịch công

nghệ trong nước và nước ngoài tương ứng là 10% và 28%. Trong giá trị giao

dịch công nghệ thì giá trị mua công nghệ chiếm 84,1% trong khi giá trị nâng

cấp công nghệ chiếm 15,9%. Xét về giá trị mua nâng cấp công nghệ từ nhà

cung cấp hay từ khách hàng, số liệu thống kê cho thấy, doanh nghiệp chủ yếu

mua và nâng cấp công nghệ có chuyển giao từ doanh nghiệp khách hàng

(752,27 trđ/DN/năm) gấp 1,61 lần giá trị mua và nâng cấp công nghệ từ nhà

cung cấp (466,54 trđ/DN/năm) [Phụ lục 12].

Giá trị giao dịch xét theo nhóm ngành. Đánh giá giá trị giao dịch công

nghệ theo nhóm ngành con của ngành công nghiệp chế biến chế tạoViệt Nam

giai đoạn 2012-2018 có thể thấy, nhóm ngành điện điện tử máy tính là nhóm

ngành có giá trị giao dịch công nghệ lớn nhất 1916,75 trđ/DN/năm, tiếp đến là

nhóm ngành kim loại và chế tạo máy (1895,29 trđ/DN/năm). Trong đó, giá trị

giao dịch công nghệ nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể

so với giá trị giao dịch công nghệ trong nước đặc biệt là ngành kim loại và

chế tạo máy, năm 2012 tỷ trọng giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài chỉ

bằng 1,67 lần thì năm 2018 con số này đã tăng lên 12,76 lần. Đây cũng là

ngành thuộc nhóm CNC do vậy, nhu cầu mua công nghệ là khá lớn, đặc biệt

là những CNC mà hiện Việt Nam chưa đủ khả năng tự sản xuất [15].

Điểm đáng lưu ý là nhóm ngành chế biến thực phẩm có tổng giá trị

giao dịch công nghệ khá cao (1549,16 trđ/DN/năm) trong giai đoạn 2012-

2018. Theo nhận định của các chuyên gia, công nghiệp chế biến nông, lâm,

thuỷ sản của Việt Nam đang có đà phát triển tốt với nhu cầu lớn về thu hút

vốn và công nghệ hiện đại. Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã hình thành hệ

thống công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản công suất thiết kế đảm bảo chế

biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm, với trên 7.500 doanh nghiệp

quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản

nhỏ, lẻ, hộ gia đình. Trong đó, một số ngành hàng hoặc sản phẩm có thiết bị

87

chế biến hiện đại, mang tầm của khu vực và thế giới. Trong đó tốc độ tăng

trưởng mạnh nhất là giá trị mua công nghệ nước ngoài với tỷ lệ 34%/năm.

Kim ngạch xuất khẩu của ngành liên tục tăng mạnh, sản phẩm đã dần có chỗ

đứng trên thị trường thế giới là minh chứng cho kết quả đầu tư công nghệ hợp

lý của ngành. Trong các nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo thì ngành

chế biến gỗ giấy là ngành có giá trị giao dịch công nghệ thấp nhất (706,90

vnđ/DN/năm). Ngành công nghiệp chế biến gỗ đã trở thành một trong năm

ngành mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù thời gian qua ngành đã có

một số nỗ lực trong cải tiến công nghệ sử dụng trong chế biến gỗ giấy. Nhiều

công nghệ mới, hiện đại như công nghệ xử lý biến tính gỗ, tạo các vật liệu

composite gỗ cũng đã được đầu tư tại Việt Nam.

Tuy nhiên, những công nghệ này cần mức đầu tư tương đối lớn đặc biệt

là công nghệ nước ngoài, với trên 76% doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngành

thì việc đầu tư những công nghệ này thường vượt quá khả năng của doanh

nghiệp. Do vậy, giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài của ngành chế biến gỗ

là thấp nhất trong tất cả các nhóm ngành (338,16 trđ/DN/năm).

Nhìn chung, giai đoạn năm 2016-2018, giá trị giao dịch công nghệ đạt

mức tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước đó. Ba nhóm ngành có giá trị

giao dịch CNC trong giai đoạn này là hóa chất cao su, chế biến thực phẩm,

điện điện tử máy tính. Đánh giá tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2012-2018 có

thể thấy tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ nước ngoài tăng mạnh hơn

tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ trong nước ở tất cả hầu hết ngành.

Tốc độ tăng trưởng giá trị giao dịch công nghệ trong nước cao nhất là ở nhóm

dệt may (20%) và giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài cao nhất ở nhóm

ngành chế biến gỗ giấy (48%) [15].

Giá trị giao dịch xét theo loại hình sở hữu. Trong hai đối tượng doanh

nghiệp là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân thì giá trị giao dịch

công nghệ của doanh nghiệp FDI đạt ở mức cao (1839,75 trđ/DN/năm), gấp

1,65 lần nhóm doanh nghiệp tư nhân [15].

88

Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2012-2018 của doanh nghiệp FDI đạt

23% trong khi doanh nghiệp tư nhân lên tới 26%. Đáng chu ý là giá trị giao

dịch công nghệ trong nước của doanh nghiệp FDI có mức tăng trưởng thấp

7%. Điều này cho thấy sản phẩm công nghệ Việt Nam sản xuất và chế tạo còn

hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu cao của doanh nghiệp FDI.

Xét về giao dịch công nghệ theo nhóm ngành công nghệ cao

Với nhóm ngành CNC, tốc độ tăng giá trị giao dịch công nghệ nước

ngoài khá cao so với tốc độ tăng giá trị giao dịch công nghệ trong nước (cao

hơn 2,2 lần). Với các doanh nghiệp này, các công nghệ trong nước gần như

không có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ hiện đại và ngày càng tăng

của thị trường. Nhìn chung, xu hướng tăng trưởng thường thấp ở các năm đầu

của giai đoạn nghiên cứu 2012-2015 và tăng cao ở giai đoạn 2017-2018. Đây

là tín hiệu đáng mừng, phần nào phản ánh doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến

đầu tư nâng cấp công nghệ để đổi mới mở rộng sản xuất.

Giá trị giao dịch xét theo quy mô doanh nghiệp. Đánh giá giá trị

giao dịch công nghệ phân theo quy mô doanh nghiệp có thể thấy các

doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì giá trị giao dịch công nghệ nhìn

chung càng cao và ngược lại. Đầu tư công nghệ là rất tốn kém đặc biệt là

các công nghệ hiện đại, không nhiều doanh nghiệp Việt Nam có đủ tiềm

lực đầu tư công nghệ quy mô lớn. Do vậy, các doanh nghiệp nhỏ và siêu

nhỏ khả năng đầu tư công nghệ là rất khó khăn. Điều này dẫn đến giá trị

giao dịch công nghệ của nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ chỉ

khoảng 593,67 tr.đ/DN/năm với giá trị giao dịch trong nước và nước

ngoài gần như không có sự khác biệt [15].

Tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ của doanh nghiệp quy mô lớn

khá thấp, chỉ đạt 8% trong khi hai nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa

đạt trung bình 28-30%. Điều này có thể lý giải do các doanh nghiệp quy mô

lớn thường là các doanh nghiệp có thời gian hoạt động khá dài, tuổi doanh

nghiệp lớn nên các doanh nghiệp này phần nhiều đã đầu tư công nghệ trong

89

các giai đoạn trước, từ năm 2012-2018 các doanh nghiệp này chủ yếu đầu tư

nâng cấp, giá trị đầu tư công nghệ luôn ở mức cao nên tốc độ tăng trưởng có

xu hướng tăng nhanh [15].

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ

cao trên thị trường công nghệ cao

Nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trong nước

Thứ nhất, các tổ chức khoa học công nghệ

Sự phát triển của các tổ chức KHCN là một yếu tố rất quan trọng trong

nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường trên

cơ sở đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN và năng lực sáng tạo

của các tổ chức này.

Một là, năng lực nghiên cứu và phát triển của các tổ chức khoa học

công nghệ

Tiêu chí đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN: 1) Gia tăng

số lượng các tổ chức KHCN hàng năm; 2) Sự phát triển tổ chức R&D theo

quy mô nguồn nhân lực; 3) Sự phát triển tổ chức R&D theo lĩnh vực ngành.

Cơ quan cấp giấy chứng nhận

Loại tổ chức

Tổng số

Công lập Ngoài công lập Tổng cộng

1900 2.184 4.084

Bộ KHCN 992 971 1.963

Các sở KHCN 908 1213 2.121

Bảng 3.3. Tổ chức đăng ký hoạt động khoa học công nghệ (đến năm 2018)

Nguồn:[11]

Qua bảng số liệu 3.3 cho thấy năm 2018 đã có hơn 250 tổ chức mới đăng ký hoạt động KHCN. Theo đó, đến hết năm 2018, cả nước có 4.084 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, trong đó có 1.900 tổ chức công lập 2.184 tổ chức ngoài công lập. Như vậy trong 5 năm tính từ năm 2014 (có 2.490 tổ chức) trung bình mỗi năm có khoảng 300 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN. Theo kết quả điều tra R&D năm 2018 trong số 1.280 tổ chức KHCN có hoạt động R&D có 687 tổ chức R&D (bằng 53,87%), 404 trường đại học (31,46%) và 189 tổ chức dịch vụ CNC (14,77%). Các tổ chức này tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh [Phụ lục 16].

90

Các tổ chức R&D được tổ chức dưới hình thức Viện hàn lâm, viện,

trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử

nghiệm… với chức năng chính là tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát

triển. Trong cơ cấu các tổ chức R&D được cơ cấu theo quy mô nhân lực; theo

lĩnh vực CNC và theo vùng địa lý.

Xét theo quy mô nhân lực các tổ chức có dưới 30 người chiếm hơn một

nửa (371/687) tổng số các tổ chức R&D; số tổ chức có từ trên 30 đến dưới

100 người chiếm khoảng 1/3(215/687) và số tổ chức trên 100 người chiếm

gần 15%. (Bảng 3.4).

Quy mô

Dưới 30 người Từ 30 đến dưới 50 người Từ 50 đến dưới 100 người Trên 100 người Tổng cộng

Số lượng 371 118 97 101 687

Tỷ lệ % 54,00 17,18 14,12 14,7 100

Bảng 3.4. Tổ chức nghiên cứu và phát triển chia theo quy mô nhân lực

Nguồn: [11] Thứ hai: Phân chia tổ chức nghiên cứu và phát triển theo lĩnh vực công

nghệ cao

Lĩnh vực 1. Khoa học tự nhiên 2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ 3. Khoa học y, dược 4. Khoa học nông nghiệp 5. Khoa học xã hội 6. Khoa học nhân văn Tổng cộng

Số lượng 96 195 45 154 165 32 687

Tỷ lệ % 13,97 28,38 6,55 22,42 24,02 4,66 100

Bảng 3.5. Tổ chức nghiên cứu và phát triển theo lĩnh vực công nghệ cao

Nguồn:[11]

Từ bảng 3.5 cho thấy các tổ chức R&D về khoa học kỹ thuật và công

nghệ chiếm tỷ lệ lớn nhất với 195 tổ chức (chiếm 28,38%), đây là lĩnh vực

bao gồm rất nhiều ngành khác nhau. Tiếp theo là lĩnh vực khoa học xã hội với

165 tổ chức (chiếm 24,02%), khoa học nông nghiệp đứng thứ 3 với 154 tổ

chức (chiếm 22,42%), còn lại là các tổ chức khác

91

Theo phân vùng địa lý từ bảng [Phụ lục 15] cho thấy hầu hết các tổ

chức R&D tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn của cả nước là Hà Nội và TP.

Hồ Chí Minh chiếm khoảng 66,96% bằng 2/3 số lượng các tổ chức R&D của

cả nước. Còn lại các tổ chức được chia đều cho các vùng trong đó vùng Tây

Bắc có số lượng ít nhất chiếm khoảng 1,31%. Điều này thể hiện sự phát triển

vượt trội về trình độ KHCN của các trung tâm và thành phố lớn, những nơi có

điều kiện thuận lợi và nền tảng tốt cho quá trình nghiên cứu sáng tạo về các

lĩnh vực khoa học nói chung trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước.

Hai là, năng lực sáng tạo của các tổ chức khoa học công nghệ

Năng lực này được đánh giá bằng các chỉ số: (1) Số lượng các bài báo

được đăng trên các tạp chí khoa học trong nước và quốc tế uy tín; (2) Số

lượng và chất lượng đội ngũ các nhà khoa học với trình độ chuyên môn, năng

lực sáng tạo khoa học.

(1) Số lượng các bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học trong

nước và quốc tế uy tín

Cơ sở dữ liệu công bố Việt Nam tập hợp các công bố từ 236 tạp chí

KHCN (chiếm 70% tổng số tạp chí KHCN trong nước) tổng cộng đến hết

năm 2017 đạt trên 240 nghìn bài báo khoa học. Trong những năm vừa qua,

mỗi năm có khoảng trên 19.000 bài, năm 2017 đạt 19.575 bài. Số lượng bài

báo khoa học công bố hằng năm đều tăng tuy không nhiều (Bảng 3.6).

Số bài báo gia tăng hàng năm 18.077 18.710 18.975 19.234 19.535 19.575 20.125 21.085

Tỷ lệ tăng % 1,8 3,5 1,4 1,3 1,6 0,2 1,3 1,1

Năm 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Bảng 3.6. Số bài báo công bố trong nước

Nguồn: [12]

92

Phân theo lĩnh vực KHCN, các bài báo khoa học của Việt Nam tập

trung nhiều nhất trong khoa học tự nhiên, chiếm hơn ¼ tổng số các bài báo

khoa học được công bố, tiếp theo là khoa học xã hội và nhân văn và khoa học

y dược có số lượng công bố tương đương nhau khoảng 18% đến 19%. Khoa

học kỹ thuật và công nghệ chiếm khoảng 12,1% và thấp nhất là khoa học

nông nghiệp chiếm khoảng 5,2%.

Bảng 3.7. Số bài báo công bố quốc tế giai đoạn 2014 - 2019

Năm Số bài báo khoa học Tốc độ tăng (%) 2019 2018 8.821 12.431 40,93 33,61 2017 6.602 12,25 2016 5.866 29,52 2014 4.071 7,87

2015 4.529 11,25 Nguồn: [12]

Hình 3.1. Công bố quốc tế của Việt Nam

Nguồn: [12]

Số bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí quốc tế giai đoạn

2014 - 2018 đã tăng gấp đôi, từ 4.071 lên 8.821 bài. Đặc biệt số lượng các bài

báo đã có sự tăng mạnh trong 3 năm gần đây (Bảng 3.7), điều này thể hiện

chất lượng và kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam đã có sự phát triển

mạnh và có sự tiệm cận với trình độ khoa học của thế giới trong điều kiện hội

nhập quốc tế ngày càng hiệu quả [Phụ lục 7].

93

(2) Số lượng và chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực khoa học công

nghệ. Đánh giá về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực khoa học công

nghệ trên cơ sở đánh giá thông qua nguồn nhân lực R&D và đánh giá về trình

độ cán bộ nghiên cứu.

Nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển

Kết quả tổng hợp Điều tra R&D 2020 và Điều tra doanh nghiệp 2020

cho thấy năm 2019, cả nước có 178.673 người tham gia các hoạt động R&D,

tăng khoảng 43.892 người so với năm 2011 (Bảng 3.8).

Bảng 3.8. Nhân lực nghiên cứu và phát triển giai đoạn 2011-2019

2015 2013 2011 2019 2017

131.045 11.522 24.179 167.746 105.230 9.781 19.770 134.781

Nhân lực theo chức năng 136.070 140.086 128.997 Cán bộ nghiên cứu 12.430 11.066 12.799 Cán bộ kỹ thuật 25.547 26.157 22.984 Cán bộ hỗ trợ 172.683 178.673 164.744 Tổng cộng Nguồn: [12][13] [15]

Hình 3.2. Nhân lực nghiên cứu và phát triển giai đoạn 2011-2019

Nguồn: [12][13] [15]

94

Lực lượng R&D tập trung nhiều ở khu vực trường đại học, chiếm 51,25%,

tiếp theo là các tổ chức R&D với 19,8%. Nhân lực làm R&D trong khu vực doanh

nghiệp chỉ chiếm 15,2%. Điểm cần lưu ý là lực lượng cán bộ nghiên cứu chiếm tỉ

lệ quá lớn trong lực lượng R&D (78,12%), trong khi cán bộ kỹ thuật lại chỉ có

chưa đến 7%, phản ánh nghiên cứu thực hành còn ít. Chi tiết phân bố theo chức

năng làm việc và khu vực hoạt động được trình bày ở [Phụ lục 17].

Cán bộ nghiên cứu

Lực lượng cán bộ nghiên cứu, đặc biệt là cán bộ nghiên cứu có trình độ

cao là các nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa

học. Trên thực tế lực lượng cán bộ này đang tham gia công tác và hoạt động đa

dạng trong các khu vực như các tổ chức R&D; tổ chức giáo dục đại học; Doanh

nghiệp; đơn vị hành chính, sự nghiệp tổ chức dịch vụ khoa học [Phụ lục 9].

Cán bộ nghiên cứu chỉ những người có trình độ từ cao đẳng trở lên.

Trong những năm qua số lượng và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu đã

được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại

học (Tiến sĩ, thạc sĩ) trong tổng số cán bộ nghiên cứu đã tăng từ 43,8% năm

2011 lên 55,4% năm 2019 (Bảng 3.9).

Bảng 3.9. Cán bộ nghiên cứu và phát triển theo trình độ

2011 %

2013 %

2015

%

2017 %

2019 %

Trình độ

Tiến sĩ

9,5

14.376

10,97 15.874 11,67

16.180

12,1

Thạc sĩ

35,06

51.128

39,02 55.890 41,07

57.630

43,3

Đại học

51,69

60.719

46,33 57.022 41,91

59.768

42,1

11.50 1 34.61 8 55.11 6

10,9 3 32,9 0 52,3 8

12.26 1 45.22 4 66.68 4

3.995

3,8

4.828

3,74

4.822

3,68

7.284

5,35

7.527

2,5

100

100

131.045

100

100

141,105 100

Cao đẳng Tổng cộng

105.23 0

128.99 7

136.07 0

Nguồn: [12][13][15]

Thứ hai, các doanh nghiệp khoa học công nghệ

Theo báo cáo của Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN,

tính đến hết năm 2019, cả nước có 3 khu CNC (Hòa Lạc; Đà Nẵng, Thành

95

phố Hồ Chí Minh) thường xuyên được đầu tư xây dựng, nâng cấp mới các cơ sở vật

chất, trong đó chính phủ đã thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, trung

tâm đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật. Ngoài ra, có khoảng 2.800 doanh nghiệp

KHCN, trong đó, 480 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận Doanh nghiệp

KHCN, có 39 tổ chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận DN CNC và 24 tổ

chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động CNC, có 400 DN đang

hoạt động tại các khu CNC. Cả nước hiện có 20 Sàn giao dịch công nghệ, 63 trung

tâm ứng dụng và phát triển công nghệ, 43 vườn ươm công nghệ [12].

Đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp KHCN theo số liệu

[8][9][10][11][12], số lượng các doanh nghiệp KHCN có sự gia tăng hàng năm về

số lượng. Từ 204 doanh nghiệp năm 2015 lên đến 480 doanh nghiệp năm 2019. Ở

một số địa phương có sự phát triển nhanh về số lượng các doanh nghiệp KHCN

như Hà Nội năm 2017 tăng từ 38 lên 44 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh

tăng từ 29 lên 58 doanh nghiệp, Thanh Hóa tăng từ 18 lên 23 doanh nghiệp.

Nguồn cung ngoài nước

Thực tế trong giai đoạn vừa qua, nhu cầu nhập khẩu công nghệ của

nước ta là khá đa dạng và phong phú. Xét về loại công nghệ quan trọng của

doanh nghiệp thì công nghệ nhập khẩu từ doanh nghiệp, tổ chức tại các nước

phát triển luôn cao hơn việc nhập công nghệ từ các doanh nghiệp còn lại ở các

quốc gia khác. Ngành hóa chất, cao su và ngành kim loại chế tạo máy cho

thực trạng mua công nghệ trung bình từ thị trường Mỹ lớn nhất; còn Hàn

Quốc và Singapore là thị trường có giá trị nhập khẩu công nghệ lớn nhất đối

với hầu hết các nhóm ngành.

Trung Quốc cũng là nguồn cung công nghệ lớn của Việt Nam với đặc

điểm chung là giá bán máy móc, thiết bị công nghệ thường rẻ hơn đang kể so

với các thị trường nhập khẩu khác tính chung cho hầu hết các nhóm ngành.

Xét theo loại công nghệ quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp thì Trung

Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) là nguồn cung công nghệ lớn nhất của Việt

Nam, đến 41% tổng số doanh nghiệp lựa chọn. Doanh nghiệp sử dụng công

96

nghệ quan trọng nhất từ thị trường Việt Nam cũng chiếm khoảng 25%, còn

các nước phát triển khác (ngoại trừ Mỹ, Hàn Quốc và Singapore) có 24%

doanh nghiệp lựa chọn để nhập máy móc, thiết bị công nghệ để phục vụ sản

xuất [Phụ lục 18]. Một điểm đáng lưu ý là khi so sánh giai đoạn 2016-2018

với giai đoạn 2012-2015 thì các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường nhập

khẩu máy móc, thiết bị công nghệ của các quốc gia phát triển và giảm nhập

khẩu máy móc công nghệ của các quốc gia đang phát triển [15].

3.2.1.2. Nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của các chủ thể

ngày càng gia tăng

Một là, nguồn cầu từ Chính phủ

Chính phủ vừa là chủ thể cung cấp để tạo cung công nghệ cho TTCN vừa

là chủ thể mua công nghệ mới hoặc đổi mới công nghệ nhằm để đáp ứng yêu cầu

phát triển KT - XH của đất nước, đảm bảo anh ninh quốc phòng và nâng cao chất

lượng dịch vụ công,... Vì thế, nguồn cầu của Chính phủ có thể được đáp ứng

thông qua đầu thầu, mua trực tiếp từ nguồn trong nước hoặc nhập khẩu,...

Ở nước ta, Chính phủ là một chủ thể có nhu cầu cao về sản phẩm CNC

để phục vụ cho các hoạt động của mình. Trong những năm qua, mặc dù còn

nhiều khó khăn về kinh phí, Chính phủ vẫn chủ trọng gia tăng đầu tư cho

CNC. Cụ thể, Chính phủ đã đầu tư 1,4% đến 1,8% chi phí hành năm xấp xỉ

bằng 0,4% GDP [12].

Từ năm 2011 đến 2019, tổng chi sự nghiệp khoa học là 85.522 tỷ đồng

tương ứng với 0,81% chi NSNN, trong đó chi cho sự nghiệp KHCN trung

ương là 65.315 tỷ chiếm 76,78% và sự nghiệp KHCN địa phương là 20.207 tỷ

đồng chiếm 23,22 % [Phụ lục 19].

Trong tổng số kinh phí chi cho sự nghiệp KHCN thì lượng kinh phí chủ

yếu được đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đây là tiêu

chí chính để đánh giá cường độ R&D của một quốc gia (Tỷ lệ chi quốc gia

cho R&D trên GDP) và so sánh quốc tế. Trong những năm vừa qua tổng chi

cho R&D của quốc gia đã được gia tăng tương đối và đạt nhiều hiệu quả tốt.

97

Bảng 3.10. Tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển

2013 2017

2019 2015 2011 5.294 13.390 18.496 26.368 28.152 0,44 0,19 0,37 0,52

Năm Tổng chi R&D (Tỷ đồng) Tỷ lệ trên GDP (%) 0,54 Nguồn:[11][12][13][14]

Từ bảng 3.11 cho thấy năm 2019 tổng chi quốc gia cho R&D của Việt

Nam là 28,152 bằng 0,54% GDP. Theo đó, tỷ trọng cho quốc gia cho

R&D/GDP đã liên tục tăng từ 0,19% năm 2011 đến 0,54% năm 2019. Điều

đó thể hiện sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư của doanh nghiệp, các thành phần

kinh tế đặc biệt là các tập đoàn doanh nghiệp công nghệ lớn cả trong và ngoài

nước như tập đoàn Viettel, Vingroup, công ty Bkav… Đây là kết quả quan

trọng công tác đẩy mạnh xã hội hóa trong R&D công nghệ.

Hai là, nguồn cầu từ doanh nghiệp (gồm doanh nghiệp trong nước và

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

Hiện nay, tính trên phạm vi cả nước có gần 800.000 doanh nghiệp

đang hoạt động. Trên thực tế mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi

nhuận, nếu công nghệ hiện tại đang sử dụng vẫn còn có khả năng sinh lợi thì

doanh nghiệp sẽ ít có khả năng đổi mới công nghệ hiện đại hơn.

Trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cần đến những giải

pháp công nghệ để tăng năng suất và hoạt động hiệu quả ở tất cả các khâu.

Trong môi trường cạnh tranh và toàn cầu hóa như hiện nay, những doanh nghiệp

không kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo mà vẫn chọn phương

thức kinh doanh truyền thống sẽ có nguy cơ rời khỏi thị trường. Đặc biệt, trước

những thay đổi nhanh chóng từ cách mạng 4.0, nếu doanh nghiệp không thích

ứng nhanh và tận dụng tốt lợi thế từ nền tảng công nghệ hiện đại để đổi mới, tối

ưu hóa sản xuất sẽ phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu và khó tồn tại.

Thực tiễn cho thấy, đổi mới công nghệ là rất quan trọng đối với mỗi

doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng

cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng

sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu.

98

Nhờ đó, sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng

nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp không

kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo, kinh doanh theo phương thức

truyền thống sẽ có nguy cơ bị loại khỏi thị trường rất lớn.

Những năm gần đây, cùng với phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt

trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, đã xuất hiện nhiều phương thức

kinh doanh mới dựa trên nền tảng phát triển trực tuyến như: Kết nối vạn vật,

dữ liệu lớn, điện toán đám mây, công nghệ tự động hóa trong sản xuất và

kiểm soát chất lượng… Những phương thức kinh doanh này không chỉ giúp

doanh nghiệp vận dụng để gia tăng năng suất và kiểm soát chất lượng mà còn

có thể kết hợp với nhau để đổi mới các hoạt động của doanh nghiệp từ phân

tích hành vi của khách hàng, sáng tạo sản phẩm mới, quảng bá sản phẩm, tư

vấn trực tuyến, kiểm soát sản xuất và chất lượng tự động, quản lý tài chính,

làm việc từ xa,... Thông qua đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý,

đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả

hơn thông qua tối ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải

thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng khâu tiêu thụ sản phẩm và

chính sách hậu mãi. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, có nhiều yếu tố ảnh

hưởng đến khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như: Loại hình

doanh nghiệp; Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp; Tuổi, giới tính của nhân

lực trong doanh nghiệp... Các đặc điểm của doanh nghiệp như quy mô vốn,

quy mô lao động, thời gian hoạt động, mối quan hệ với doanh nghiệp cùng

ngành/doanh nghiệp nhà nước đều có tác động tới quyết định đổi mới công

nghệ của doanh nghiệp.

Trong thời gian vừa qua, có một số doanh nghiệp tập đoàn kinh tế lớn

không ngừng quan tâm đổi mới công nghệ do tiềm lực của những doanh

nghiệp này lớn, doanh thu hàng năm cao và một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới

công nghệ khá nhanh là: công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng

không, tài chính - ngân hàng như Tập đoàn viễn thông Quân đội, Ngân hàng

99

Quân đội, Tập đoàn Vingroup… Đặc biệt, để phù hợp với điều kiện trong

hoạt động thực tiễn hiện nay, nhất là sự tác động của dịch bệnh Covid 19,

đang ảnh hưởng đến hầu khắp các mặt hoạt động trong đời sống xã hội của

nước ta như kinh tế, y tế, giáo dục.... các ban ngành đã đưa ra những giải pháp

phù hợp mang tính tích hợp CNC như dạy và học online, thanh toán điện tử ,

giao dịch trực tuyến, khai báo, kê khai thông tin cá nhân bằng các phần mềm

CNC và thông minh…Đây là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao

nguồn cầu công nghệ của các tổ chức trong xã hội.

Ba là, nguồn cầu từ các doanh nghiệp khoa học công nghệ

Khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp được thể hiện ở lượng

vốn đầu tư và năng lực tiếp thu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trên cơ

sở chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, phù hợp với

yêu cầu phát triển và sức ép cạnh tranh của thị trường, trình độ quản lý cơ sở

hạ tầng của doanh nghiệp, trình độ và năng lực công nghệ của đội ngũ nhân

lực, nguồn tài chính bảo đảm cho đổi mới công nghệ,…

Năm 2015 chỉ có 204 doanh nghiệp đăng ký là doanh nghiệp KHCN,

nhưng tính đến tháng 7/2017, cả nước có 303 doanh nghiệp được cấp giấy

chứng nhận doanh nghiệp KHCN, tăng 69 doanh nghiệp so với thời điểm

tháng 6/2016. Tổng doanh thu năm 2016 của các doanh nghiệp KHCN đạt

14.400 tỷ đồng, tăng 16,3% so với năm 2015. Tổng lợi nhuận sau thuế đạt gần

1.300 tỷ đồng, tăng 2,35% so với năm 2015. Các doanh ngiệp này đã giải

quyết được hơn 16.612 việc làm cho xã hội [14]. Hiện nay cả nước có khoảng

480 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN, 39 tổ

chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp CNC, 24 tổ chức

và doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng CNC.

Theo đó, căn cứ báo cáo của 165 doanh nghiệp cung cấp thông tin về

tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2018 doanh nghiệp KHCN đã

tạo ra việc làm cho 23.989 người lao động, tổng doanh thu của 165 doanh

nghiệp năm 2018 đạt hơn 160.000 tỷ đồng, trong đó có 151 doanh nghiệp có

100

doanh thu từ sản phẩm KHCN với tổng giá trị đạt 8.672,8 tỷ đồng; 147 doanh

nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2018 đạt 5.215,2 tỷ đồng.

Đặc biệt trong 165 doanh nghiệp KHCN có 110 doanh nghiệp thực hiện đầu

tư cho phát triển KHCN với tổng kinh phí đầu tư đạt 853,5 tỷ đồng, 36 doanh

nghiệp trích lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp với tổng kinh phí

trích lập năm 2018 là 55,6 tỷ đồng. [12]

Các doanh nghiệp KHCN chú trọng tới việc đầu tư hoạt động cho

R&D, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

Trong số các doanh nghiệp KHCN khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy

chứng nhận từ kết quả của các nhiệm vụ nghiên cứu KHCN được tài trợ từ

NSNN, số còn lại hơn 90% doanh nghiệp tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận

chuyển giao kết quả KHCN bằng nguồn vốn chính của doanh nghiệp.

Bốn là, nguồn cầu từ các Viện nghiên cứu, trường đại học, cá nhân

trong xã hội.

Với mục đích nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, giảng dạy và

áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở

tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ. Nhu cầu mua công nghệ chủ yếu để đáp ứng

yêu cầu nghiên cứu khoa học, R&D ngày càng cao; từ đó góp phần quan

trọng tạo nguồn cung công nghệ chất lượng cao.

3.2.1.3. Số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới trên

TTCNC có sự phát triển và ngày càng gia tăng

Tổ chức trung gian, môi giới là các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp

các dịch vụ hỗ trợ đổi mới, chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm CNC.

Tùy theo từng loại hình, chức năng, quy mô và chuyên môn hóa khác nhau,

các tổ chức này thực hiện cung cấp các loại hình dịch vụ thông tin và môi

giới, dịch vụ sở hữu trí tuệ, dịch vụ thương thảo, đàm phán hợp đồng CGCN,

dịch vụ đánh giá, định giá công nghệ, dịch vụ pháp lý, dịch vụ quản lý dự án,

dịch vụ hỗ trợ tài chính, dịch vụ tiếp thị và thị trường sản phẩm. Thực tế, cũng

có nhiều tổ chức vừa cung cấp một số dịch vụ chuyên sâu, đồng thời thực

101

hiện chức năng tích hợp hệ thống các loại hình dịch vụ khác với mục tiêu đáp

ứng nhu cầu về dịch vụ trọn gói cho khách hàng.

Hiện nay cả nước có 20 sàn giao dịch công nghệ tại các địa phương;

63 trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN, trung tâm thông tin KHCN; 04 khu

CNC; 08 công viên phần mềm; 186 tổ chức cung cấp dịch vụ đại diện sở

hữu công nghiệp; 01 tổ chức giám định sở hữu công nghiệp; khoảng 240 tổ

chức thẩm định giá, 47 cơ sở ươm tạo công nghệ; 23 tổ chức thúc đẩy kinh

doanh; 170 không gian làm việc chung, 50 trung tâm CGCN thuộc các viện

nghiên cứu, trường đại học và các loại hình tổ chức khác (hiệp hội, doanh

nghiệp có đăng ký ngành nghề liên quan đến tư vấn, môi giới CGCN, ...), 01

sàn giao dịch công nghệ Vùng Duyên hải Bắc Bộ kết nối 05 sàn giao dịch

trong khu vực gồm Quảng Ninh, Hải phòng Thái Bình, Nam Định, Ninh

Bình, 01 sàn giao dịch Vùng Đồng Bắc Sông Cửu Long dự kiến kết nối các

sàn giao dịch công nghệ trong khu vực như Cần Thơ, Tiền Giang, An Giang

đang trong giai đoạn thành lập [15].

Bên cạnh đó các hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ, chợ công

nghệ và thiết bị, chợ công nghệ và thiết bị trực tuyến, công tác hỗ trợ các địa

phương, cơ quan, DN xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu công nghệ tiếp tục

được triển khai hiệu quả. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu về công nghệ liên tục được

cập nhật bao gồm 2.000 nguồn cung, với 1.600 nguồn cung công nghệ từ

viện, trường và 400 nguồn cung từ các đơn vị, tổ chức nước ngoài; 412 nguồn

cầu công nghệ; đã trình diễn, giới thiệu khoảng 800 nguồn cung công nghệ.

Qua đó, hỗ trợ và ký kết thành công gần 150 hợp đồng CGCN, thỏa thuận hợp

tác với trị giá gần 800 tỷ đồng [36].

Các sự kiện chợ công nghệ, thiết bị (Techmart), kết nối cung cầu công

nghệ (Techdemo), ngày hội khởi nghiệp công nghệ cũng đã tạo được hiệu ứng

tích cực đối với TTCNC trong nước. Thực tế cho thấy, tổ chức trung gian

đang là “điểm nghẽn” hiện nay của TTCNC với kết quả điều tra 264 tổ chức

trung gian (được chia thành 03 khu vực: miền Bắc, miền Trung và miền Nam)

102

cho thấy: có hai loại hình chủ yếu là doanh nghiệp (64.0%) và trung tâm/viện

nghiên cứu (36.0%) với số vốn khoảng dưới 10 tỷ - 50 tỷ đồng, hoạt động chủ

yếu thông qua các hình thức: dịch vụ tư vấn (83.3%), hỗ trợ kỹ thuật (54.9%),

giới thiệu tư vấn chuyển giao (22.0%), đổi mới sáng tạo (14.0%), bảo hộ sở

hữu trí tuệ (11.4%), thẩm định/kiểm định/hợp chuẩn, hợp quy (9.5%) và sự

kiện công nghệ (5.2%) [36].

Để gia tăng giá trị giao dịch công nghệ hàng năm, Bộ KHCN tổ chức

các hoạt động xúc tiến và kết nối cung cầu công nghệ: Giai đoạn 2016-2018

đã tổ chức gần 1.000 phiên kết nối cung cầu, kết nối đầu tư cho hơn 5.000 tổ

chức, doanh nghiệp về các công nghệ mới theo nhu cầu của doanh nghiệp và

các địa phương; đã lựa chọn và giới thiệu được hơn 1.500 quy trình, công

nghệ, thiết bị, sản phẩm và kết quả nghiên cứu của gần 1.000 doanh nghiệp

trong nước và quốc tế, tổ chức KHCN, các Sở KHCN và các doanh nghiệp

của tỉnh thành, đồng thời đã xây dựng bộ dữ liệu của 3.500 nhà khoa học, nhà

quản lý và 480 đề tài. Các sự kiện kết nối cung cầu công nghệ (Techdemo),

Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) và các Sàn giao dịch công nghệ, Trung

tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN đã mở ra nhiều cơ hội thương mại

hóa các sản phẩm KHCN của doanh nghiệp, viện, trường, tổ chức KHCN. Đã

có hơn 2000 hợp đồng và biên bản được ký kết trong giai đoạn 2012-2017 với

tổng giá trị giao dịch đạt gần 4.200 tỷ đồng, trong giai đoạn 2015-2018 đã có

hơn 1200 hợp đồng và biên bản được ký kết với tổng giá trị giao dịch đạt gần

1.000 tỷ đồng [36].

Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu các kết quả nghiên cứu, được mô

tả tóm tắt và số hóa toàn văn, được công bố trên mạng Vista, hiện có 265.515

cơ sở dữ liệu công bố, có 35.101 cơ sở dữ liệu về nhiệm vụ KHCN, có 22.412

thông tin công nghệ, có 365.619 thông tin sáng chế,… [15]. Trong giai đoạn

2016-2019, các nhiệm vụ cấp quốc gia chiếm khoảng 30%, cấp Bộ 34%, cấp

tỉnh 31%, cấp cơ sở 5% (hiện phần lớn, các kết quả nghiên cứu tập trung ở

các viện/trường, các tổ chức KHCN. Ước tính trung bình hàng năm (2016-

103

2019) có khoảng 1.400 kết quả nghiên cứu được đăng ký tại Cục Thông tin

KHCN Quốc gia, trong đó có nhiều nhiệm vụ triển khai 2-3 năm. Ví dụ năm

2018, Cục đã cấp khoảng 1.250 giấy đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ

KHCN cấp quốc gia và cấp Bộ. Ngoài ra, các địa phương trong cả nước trong

2017-2019 đã triển khai khoảng 1.100 nhiệm vụ (khoa học nông nghiệp

chiếm khoảng 31%; khoa học kỹ thuật và công nghệ chiếm 25%; khoa học xã

hội chiếm 19%; khoa học nhân văn chiếm 8%; khoa học tự nhiên chiếm 6%;

khoa học y, dược chiếm 11%) [15]. Các kết quả nghiên cứu này là sản phẩm

của các nhiệm vụ KHCN, gồm: báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện nhiệm vụ,

báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ; phụ lục tổng hợp các số liệu điều

tra, khảo sát, bản đồ, bản vẽ, ảnh, tài liệu đa phương tiện; phần mềm được

đăng ký và giao nộp tại Cục Thông tin KHCN quốc gia. Theo quy định, các

nhiệm vụ sau khi nghiệm thu phải được đăng ký tại Cục Thông tin KHCN

Quốc gia. Các kết quả nghiên cứu này có thể được coi là nguồn hàng hóa

KHCN có tiềm năng ứng dụng vào cuộc sống, đặc biệt là các kết quả của các

đề tài, dự án về nông nghiệp, y dược, kỹ thuật và công nghệ.

Bảng 3.11. Cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin khoa học công nghệ

Cơ sở dữ liệu

Cơ sở dữ liệu công bố Cơ sở dữ liệu nhiệm vụ Cơ sở dữ liệu công nghệ Cơ sở dữ liệu sáng chế Cơ sở dữ liệu tiêu chuẩn Dữ liệu mở Số lượng 265.515 35.101 22.412 365.619 15.872 24 Ghi chú

Nguồn: Cục Thông tin KHCN Quốc gia

Ngoài ra, năm 2019 Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức rất nhiều

các hoạt động như sự kiện trình diễn, kết nối cung cầu, chuỗi sự kiện chợ

công nghệ, triển lãm quốc tế góp phần nâng cao các hoạt động xúc tiến thị

trường. Các sự kiện này đã tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường

KHCN trong nước kết nối với thị trường quốc tế [Phụ lục 10].

104

3.2.2. Hạn chế

Một là, gia tăng về số lượng và chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch

vụ công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao chưa nhiều

Nguồn cung công nghệ nội sinh của Việt Nam còn nghèo nàn, chưa đáp

ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Việc thương mại hóa kết quả R&D

của Việt Nam còn nhiều bất cập việc triển khai thương mại hóa còn lúng túng

và chưa có chiều sâu. Năng lực đổi mới công nghệ không cao và hầu hết các DN

tiếp nhận công nghệ chủ yếu ở dạng thiết bị, máy móc và dây chuyền công

nghệ đồng bộ, việc tiếp nhận công nghệ ở dạng bí quyết công nghệ rất hạn

chế,... cụ thể như ngành kim loại và chế tạo máy Việt Nam chủ yếu dừng

lại ở hoạt động gia công chế biến thô, các sản phẩm tinh hàm lượng chất

xám cao còn rất hạn chế. Điều này phán ảnh ở giá trị giao dịch công nghệ

của ngành chủ yếu là mua máy móc công nghệ trong nước. Tuy nhiên, xu

hướng chuyển dịch sang mua máy móc công nghệ là khá rõ khi tốc độ tăng

trưởng giao dịch công nghệ trong nước là âm trong cả giai đoạn nghiên cứu

trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài có sự

tăng trưởng nhẹ lên 13% [15].

Các tổ chức R&D phát triển chưa đồng bộ, việc kết nối giữa nhà nghiên

cứu, doanh nghiệp, các học viện, nhà trường và các trung tâm nghiên cứu còn

rời rạc. Theo thống kê các tổ chức R&D khu vực nhà nước thuộc bộ ngành

chiếm tỷ lệ lớn (gần 70%), trong khi đó, tỷ lệ các tổ chức thuộc trường đại

học, học viện và DN nhà nước lại chiếm tỷ lệ nhỏ (hơn 30%). Điều này phản

ánh hệ thống các tổ chức R&D ở nước ta vẫn mang tính độc lập, sự liên kết,

đan xen với khối đại học và khối DN chưa nhiều…

Nguồn cung công nghệ ngoài nước cũng còn nhiều hạn chế, các công

nghệ chủ yếu được nhập từ Trung quốc với tỷ lệ cao 25%, công nghệ nhập từ

Mỹ và các nước công nghiệp phát triển còn ở mức khiêm tốn (Khoảng 25%),

còn lại là nhập từ các nước khác chiếm khoảng 25% (Hình 3.3). Tuy nhiên,

một vấn đề đặt ra hiện nay đó là hầu hết nguồn công nghệ nhập khẩu chủ yếu

105

từ Trung Quốc nên chất lượng công nghệ đang là vấn đề thách thức của Việt

Nam, nếu chính sách nhập khẩu không chặt chẽ, không tính toán kỹ lưỡng sẽ

dẫn tới hậu quả khôn lường mà các thế hệ sau phải mất rất nhiều năm để khắc

phục, đồng thời để lại hậu quả nặng nề cho sự phát triển của quốc gia.

Hình 3.3. Nguồn cung công nghệ quan trọng theo lãnh thổ

Hình 3.4: Số lượng sáng chế của Việt Nam giai đoạn 2015-2019

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ

Theo “Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu 2019”, Việt Nam đứng thứ

76 về năng lực đổi mới sáng tạo, tuy nhiên chỉ số sáng chế trên một triệu dân

lại đứng thứ 91 (với 0,21 sáng chế trên một triệu dân). Con số này thấp hơn

rất nhiều so với nhiều nước như Thái Lan (0,97), Malaysia (36.5), Trung

Quốc (50), Hàn Quốc (100) [15]. Kết quả này cho thấy, nguồn cung nội địa

của Việt Nam trong ngắn hạn là rất hạn chế.

106

Thực trạng về số lượng sáng chế được cấp bằng sáng chế hàng năm giai

đoạn 2015-2019 ở Việt Nam được thể hiện ở Hình 3.4 cho thấy, số lượng

sáng chế được cấp hàng năm ở Việt Nam mặc dù có xu hướng tăng lên, tuy

nhiên là khá thấp với mức trung bình khoảng 120 sáng chế/năm. Điều này cho

thầy nguồn cung công nghệ ở Việt Nam là tương đối hạn chế. Nếu lấy số liệu

năm 2018, là năm có số lượng sáng chế lớn nhất để tính thì cứ trung bình có

72 nhà khoa học có trình độ tiến sỹ thì có một sáng chế được công nhận.

Hai là, nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao còn nhiều hạn chế

Nhu cầu công nghệ tại các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học công

nghệ của 63 tỉnh/thành để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giải mã và CGCN

không có sự biến động nhiều trong ba năm gần đây [15]. Thậm chí năm 2019

còn có xu hướng giảm so với năm 2018. Thống kê tổng số nhu cầu công nghệ

năm 2016 là 95 công nghệ ở các lĩnh vực như công nghệ sinh học; công nghệ

thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ

vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp. Năm 2017, số nhu cầu

công nghệ của các Trung tâm là 93 công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ

sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi

trường. Năm 2018, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 115 công nghệ

ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp,

sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2019, số nhu cầu công nghệ của các

Trung tâm là 105 công nghệ ở một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ sinh học;

công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp;

công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp.

Doanh nghiệp KHCN ở nước ta có quy mô nhỏ bé và năng lực cạnh

tranh thấp so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Quy mô này được thể

hiện ở số doanh thu, số lao động, số vốn bình quân của loại hình doanh

nghiệp còn thấp. Với quy mô nhỏ bé và không thay đổi nhiều trong tiến trình

HNKTQT, các doanh nghiệp KHCN chưa đảm nhận đầy đủ vai trò là bà đỡ

trong việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu CNC vào thị trường, chưa tận

107

dụng được những cơ hội mở rộng thị trường do tác động của HNKTQT mang

lại. Đặc biệt khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn

nhiều bất cập trong bối cảnh HNKTQT. Điều này được thế hiện ở hai nội

dung: (1) Đầu tư, chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp Việt

Nam thấp so với các nước trong khu vực; (2) Năng lực tiếp thu công nghệ

của doanh nghiệp thấp, hoạt động đổi mới sáng tạo và đổi mới quy trình

còn thấp. Năm 2018 trong tổng số doanh nghiệp phản hồi có 72,3% không

có đổi mới sáng tạo; 5,2% chỉ thực hiện đổi mới sản phẩm; 10,7% chỉ thực

hiện đổi mới quy trình sản xuất; 11,8% đã thực hiện đổi mới sáng tạo về

sản phẩm và quy trình sản xuất kinh doanh [12]. Mặt khác, hầu hết các

doanh nghiệp của Việt Nam là nhỏ và vừa nên nguồn vốn hạn hẹp, đa phần

công nghệ mà các doanh nghiệp đang sử dụng lạc hậu so với mức trung

bình của thế giới 2-3 thế hệ. Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản

xuất công nghiệp (chiếm khoảng 1/3 tổng số doanh nghiệp) thì nhóm doanh

nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến chỉ đạt khoảng dưới 20% (chủ yếu là

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) [12].

Với mức đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam

thấp, chiếm khoảng 0,1 - 0,3% doanh thu của doanh nghiệp (trong khi đó con

số này ở Ấn Độ khoảng 5%, Hàn Quốc là 10% [6]) nên năng lực cạnh tranh

của các doanh nghiệp Việt Nam không cao. Ngoài ra, tốc độ đổi mới công nghệ

và thiết bị mới đạt bình quân khoảng 10,68%/năm trong giai đoạn 2011 - 2014

(mục tiêu đề ra là đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011 - 2015) Riêng trong giai

đoạn 2010 - 2013 chỉ đạt 9,1% và có xu hướng giảm (trong đó, năm 2010 đạt

11 3%, năm 2011 đạt 10,33%, năm 2012 đạt 6,8% và năm 2013 đạt 8%) [12].

Kết quả khảo sát 7.621 doanh nghiệp tại 63 tỉnh thành của Việt Nam

cho thấy: chỉ có 11,9% doanh nghiệp thực hiện các hoạt động nghiên cứu và

triển khai (R&D), 16,4% doanh nghiệp đổi mới máy móc, thiết bị hiện có mà

không thực hiện các hoạt động R&D, còn lại 71,7% doanh nghiệp không

tham gia bất kỳ hoạt động nào liên quan tới đổi mới công nghệ [15].

108

Ba là, số lượng và chất lượng các tổ chức dịch vụ trung gian trên

TTCNC còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn

Sự gắn kết cung, cầu công nghệ trên thị trường còn yếu (trong khi đó ở

các nước phát triển, sự gắn kết này rất cao, còn các nước đang phát triển và

kém phát triển sự gắn kết yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu của nhau).

Số lượng các tổ chức trung gian, môi giới ở nước ta còn ít, chủ yếu là

các tổ chức công lập, có rất ít các tổ chức thuộc khu vực tư nhân. Đồng thời,

thiếu vắng nhiều tổ chức chuyên nghiệp cung các các dịch vụ quan trọng trên

TTCNC như dịch vụ giám định công nghệ, dịch vụ xác định giá trị công

nghệ... Năng lực hệ thống trung gian, môi giới cho việc đổi mới công nghệ ở

nước ta chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu do thực tiễn đặt ra. Các tổ chức

trung gian, môi giới vẫn hoạt động độc lập, rời rạc, chưa có sự liên kết, hợp

tác với nhau thành mạng lưới.

DN chưa mạnh dạn đầu tư hoặc tham gia vào sàn giao dịch công nghệ

nên số lượng các giao dịch còn ít. Số lượng tổ chức hỗ trợ trung gian vừa

thiếu vừa yếu;

Chợ công nghệ hoạt động với quy mô nhỏ, hoạt động mờ nhạt và phân

tán; năng lực về thông tin công nghệ của các tổ chức tư vấn còn rất yếu; các

tổ chức dịch vụ hầu hết tập trung ở một số thành phố lớn; năng lực tiếp thị

chưa khuyến khích được nhu cầu đổi mới công nghệ của DN (đặc biệt DN

nhỏ và vừa); mạng lưới dịch vụ chưa cao nên đã hạn chế khả năng cung cấp

dịch vụ trọn gói; các chuyên gia về KHCN số lượng ít và phân tán; đặc biệt

vai trò của Nhà nước vẫn còn thiếu sự gắn kết, thúc đẩy dịch vụ trung gian

công nghệ phát triển, trong đó có cơ chế hiện chưa tạo điều kiện tốt cho các tổ

chức dịch vụ tư nhân phát triển. Ngoài ra, các DN Việt Nam chưa có thói

quen thuê tư vấn trong các khâu của quy trình CGCN, chủ yếu là giao dịch để

mua được máy móc, thiết bị; hoạt động của các tổ chức tư vấn trải rộng trên

nhiều lĩnh vực và tỷ lệ tư vấn trong các hợp đồng CGCN không đáng kể ví dụ

như lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công

109

nghiệp tăng không đều, không ổn định qua các năm, đặc biệt là lượng giao

dịch quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp giữa Việt Nam - Nước

ngoài [Phụ lục 13]. Lượng chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng SHCN

cho nước sở tại từ các chủ thể nước ngoài không nhiều so với các loại hình

chuyển giao khác. Loại hình giao dịch quyền sở hữu đối tượng SHCN giữa

Việt Nam - Nước ngoài chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ [Phụ lục 14].

Các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và

Đà Nẵng chưa được đầu tư và phát triển tương xứng với sứ mệnh là trung tâm

kết nối cung cầu về công nghệ và tài sản trí tuệ tại 3 khu vực.

Các tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao về đánh giá, định giá

công nghệ và cung cấp các dịch vụ thông tin, môi giới công nghệ còn yếu về

chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tạo được niềm tin cần thiết đối với cả bên

cung và cầu công nghệ. Hơn nữa, hoạt động của các tổ chức này còn mang

tính riêng rẽ, thiếu kết nối nên đã hạn chế sức lan tỏa trong khai thác thông tin

công nghệ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, định giá so với việc hoạt

động trong một mạng lưới được kết nối giữa các tổ chức trung gian.

Các hiệp hội, ngành hàng, các đại diện thương mại, đại diện ngoại

giao,… chưa chú ý huy động tham gia hoạt động xúc tiến TTCNC nên chưa

phát huy được vai trò của các tổ chức này trong hoạt động thúc đẩy giao dịch

công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp.

Các nguồn công nghệ sẵn có từ nước ngoài chưa được chú ý đúng mức

trong tổ chức thực hiện Chương trình phát triển thị trường KHCN. Mạng lưới

các chuyên gia giỏi ngoài nước (các hiệp hội quốc tế, chuyên gia người nước

ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài) chưa được thu hút để hỗ

trợ các tổ chức trung gian, môi giới và các doanh nghiệp trong nước giúp tìm

kiếm, lựa chọn, tiếp thu và làm chủ công nghệ (cả mới và không còn mới

nhưng đang có giá trị sinh lời cao) cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp ở Việt nam.

Ngoài ra, còn một số hạn chế khác như: Vai trò và nhận thức quản lý

của Nhà nước về TTCN còn mờ nhạt, thiếu sâu sát và quyết liệt; tầm nhìn

110

ngắn hạn; Thiếu sự quyết liệt trong việc đẩy nhanh chuyển đổi các tổ chức

KHCN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ; Chưa thoát khỏi mô

hình tăng trưởng truyền thống là dựa vào khai thác tài nguyên và sử dụng

nguồn nhân lực giá rẻ; Đội ngũ nguồn nhân lực TTCN còn yếu thiếu tính

chuyên nghiệp; Năng lực của các tổ chức trung gian chưa thật sự đóng vai

trò quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh sự phát triển của TTCNC.

3.3. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra

từ thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

3.3.1. Nguyên nhân thành tựu

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được

nhiều thành tựu quan trọng

Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát

triển mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, tiềm lực và quy mô nền kinh

tế tăng lên. Điều này được thể hiện:

Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây nước ta

tương đối ổn định và đạt ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5

năm 2011-2015 tăng 5,9%/năm. GDP/người năm 2015 đạt 2.228 USD. Tổng

sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm từ năm 2016 đến 2019 tăng 6,5

- 7%/năm. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 3.200- 3.500

USD. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và sự gia tăng của vốn đầu tư nước

ngoài có tác động lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và

đẩy mạnh CGCN từ nước ngoài, từ đó tác động tích cực đến tăng trưởng của

cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường.

Hai là, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế được tăng cường. Điều này giúp cho việc

xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của TTCNC.

Ba là, Việt Nam đầu tư phát triển mạnh một số ngành công nghiệp mới,

CNC. Sản phẩm công nghiệp của nền kinh tế phát triển ngày càng đa dạng và

111

phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện. Các nội dung này đã thúc

đẩy nhu cầu công nghệ mới, CNC và tạo ta sự đa dạng phong phú về loại hình

sản phẩm CNC trên thị trường.

Thứ hai, tiềm lực khoa học công nghệ của nước ta ngày càng được tăng

cường và phát triển

Trong 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm trở lại đây nhận thức được

vai trò rất cần thiết và quan trọng của KHCN đối với quá trình CNH, HĐH ở

Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa

học và phát triển công nghệ của đất nước, từ đó tiềm lực KH &CN ngày càng

được tăng cường cụ thể:

Với đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo, trong đó nhiều cán bộ có trình độ

đại học trở lên. Đây là lực lượng tiềm tàng cho phát triển KHCN ở nước ta. Tổng

dự toán chi NSNN cho sự nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn 2016 - 2019 là

46.729 tỷ đồng. Trong đó, năm 2016 là 10.471 tỷ đồng; năm 2017 là 11.243 tỷ

đồng; năm 2018 là 12.190 tỷ đồng; năm 2019 là 12.825 tỷ đồng [12]. Việc đầu

tư nâng cấp cơ sở vật chất và tăng cường trang thiết bị cho các tổ chức nghiên

cứu phát triển nhất là đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm đã đáp ứng được

phần nào nhu cầu trước mắt của một số tổ chức nghiên cứu phát triển.

Hệ thống các tổ chức nghiên cứu phát triển theo hướng tăng cường liên

kết giữa nghiên cứu và sản xuất kinh doanh thông qua việc định hướng hoạt

động nghiên cứu và ứng dụng kết quả CNC theo nhu cầu thực tế phát triển

KT - XH và đơn đặt hàng của doanh nghiệp.

Thứ ba, hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý KHCN ngày

càng được hoàn thiện

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,

chính sách và biện pháp để gắn KHCN với sản xuất, với đời sống, với nền

kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường và phục vụ cho nền kinh tế hội

nhập với kinh tế quốc tế. Bằng các cơ chế chính sách phù hợp với lợi ích của

người sáng tạo và nhà đầu tư, hoạt động ký kết hợp đồng KHCN đã đạt được

112

những hiệu quả rất quan trọng. Nhiều tổ chức KHCN công lập, tỷ lệ kinh phí

thu được từ hợp đồng công nghệ chiếm phần đáng kể trong tổng kinh phí hoạt

động của đơn vị. Bằng những kết quả thực tiễn cho thấy hoạt động CGCN

thông qua ký kết hợp đồng kinh tế là bước đi cần thiết để thương mại hoá sản

phẩm CNC và hình thành TTCNC. Cụ thể như sau:

Trong những năm gần đây, việc ban hành hệ thống các luật và văn bản

dưới luật khác đã tạo ra một khung khổ pháp lý tương đối đầy đủ cho phát

triển TTCN và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Các

văn bản liên quan đến phát triển TTCN được ban hành nhanh và nhiều hơn

sau Quyết định 214/2005/QĐ-TTg ngày 30/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt đề án phát triển TTCN. Điều đó một phần là do sự nhìn nhận của

Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng của phát triển TTCN ngày càng cao.

Ngoài ra, nhiều văn bản pháp lý liên quan đến phát triển thị trường

KHCN cũng được ban hành kịp thời: Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày

08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển thị

trường KHCN đến năm 2020; Thông tư số 32/2014/TT-BKHCN của Bộ

KHCN ngày 16/11/2014 về quản lý Chương trình phát triển TTCNC đến năm

2020; Thông tư liên tịch số 59/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/4/2015

hướng dẫn quản lý tài chính thực hiện chương trình phát triển thị trường

KHCN đến năm 2020; Nghị định 76/2018/NĐ-CP quy định hỗ trợ doanh

nghiệp có dự án thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư nhận

CGCN từ các tổ chức KHCN. Hình thức hỗ trợ là cho vay vốn với lãi suất ưu

đãi, hỗ trợ lãi suất vay để thực hiện CGCN; Nghị định 154/2018/ NĐ-CP sửa

đổi bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong

quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ và một số quy định về kiểm

tra chuyên ngành. Mặt khác để hỗ trợ và thức đẩy cho thị trường KHCN nói

chung và TTCNC nói riêng nhà nước còn ban hành, bổ sung, sửa đổi rất nhiều

các văn bản về Luật, Nghị định, Quy định, quyết định, thông tư [Phụ lục1] tạo

cơ sở pháp lý cho thị trường này ngày càng phát triển, trong đó có:

113

Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013; Luật Chuyển giao công nghệ

năm 2017; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017; Nghị định số

76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật CGCN; Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy

định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo;

Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định về đầu tư cho doanh

nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày

15/5/2018 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua

việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước; Nghị định

số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KHCN.

Ngoài ra còn có: Thông tư số 63/2018/TT-BTC ngày 30/7/2018 hướng

dẫn một số điều của Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định việc

quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện

nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước; Thông tư số 10/2019/TT-BTC ngày

20/2/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản

là kết quả của nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước.

Thứ tư, tích cực đổi mới chính sách ngoại giao, đẩy mạnh quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới.

Trong điều kiện mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng

mạnh mẽ, đặc biệt là những tác động tích cực của toàn cầu hoá mang lại nhiều

cơ hội cho các quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng cụ

thể như sau: trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã

thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh

nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác mang lại lợi ích cho các bên

tham gia hợp tác. Mặt khác toàn cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng

cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà

bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.

Có thể nói đây là cơ hội rất phù hợp để Việt Nam có thể tham gia hội

nhập sâu rộng vào thị trường thế giới nhằm phá thế bao vây, cấm vận của các

114

thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc…,Chính vì vậy ngay sau khi giải phóng thống nhất

đất nước, đặc biệt là sau khi thực hiện đường lối đổi mới Việt Nam đã tham

gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn

đề Campuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và

cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc

(ngày 10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại

viên trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-

7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam ra nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của

nước ta với khu vực Đông Nam Á.

Cho đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193

quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu

dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt

Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình,

hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đây là những tiền đề rất quan

trọng phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường

quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm tạo ra môi

trường thuận lợi thu hút các dòng vốn đầu tư của nước ngoài thông qua hợp

tác, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ…, với các đối tác

bên ngoài, nhất là các quốc gia có trình độ khoa học công nghệ phát triển như

Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…, Trên cơ sở đó giúp cho thị

trường khoa học công nghệ nói chung và thị trường công nghệ cao nói riêng

của nước ta có điều kiện phát triển mạnh mẽ thông qua quá trình chuyển giao

công nghệ, học tập, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.

* Nguyên nhân khách quan

Một là, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng và có những biểu hiện mới.

Ngày nay toàn cầu hóa đang trở thành xu hướng tất yếu khách quan của

sự phát triển kinh tế thế giới. Nó cho phép các nước đang phát triển có cơ hội

115

và điều kiện để tiếp nhận các dòng vốn, công nghệ; mở rộng thị trường; tiếp

nhận kỹ năng và kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao nhất.

Các nền kinh tế đang phát triển và kinh tế chuyển đổi sẽ có cơ hội để thực

hiện mô hình phát triển rút ngắn, nghĩa là thông qua HNKTQT để đi tắt và

tiến tới những bước phát triển cao hơn trên cơ sở hưởng thụ và vận dụng có

hiệu quả các nguồn lực bên ngoài đã được khai thông và kết nối với các

nguồn lực bên trong, TTCN của các quốc gia được kết nối với TTCN thế giới.

Toàn cầu hóa và HNKTQT được đẩy mạnh và là xu hướng chủ đạo

trong sự vận động của kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển và

xã hội hóa lực lượng sản xuất, nó làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và

phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp quốc

gia mà còn trên quy mô toàn thế giới, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng

gay gắt dẫn đến việc các doanh nghiệp, các chủ thể phải đổi mới công nghệ,

tăng năng suất lao động, mặt khác làm cho tự do hóa thương mại, đầu tư, tài

chính, CGCN được đẩy mạnh ở cả cấp độ song phương và đa phương, khu

vực và toàn cầu. Các định chế, thể chế kinh tế quốc tế, trong đó có các định

chế liên quan đến TTCN ngày càng hoàn thiện, phát triển, tạo điều kiện cho

việc thâm nhập, phụ thuộc lẫn nhau giữa TTCN ở các quốc gia. Sự hợp tác

quốc tế về CNC ngày càng phát triển và trở nên cần thiết đối với các nước.

Do hoạt động CNC hiện nay đòi hỏi sự đầu tư lớn về vốn, công nghệ, nhân

lực và để phát huy lợi thế so sánh trong nghiên cứu CNC, các quốc gia ngày

càng tăng cường hợp tác với nhau trong nghiên cứu triển khai TTCNC.

Hai là, nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KHCN hiện đại

và xu hướng TCH, HNKTQT, nền KTTT thế giới có bước phát triển và biến

đổi mạnh mẽ. Trong nền KTTT phát triển, trước áp lực ngày càng lớn của

cạnh tranh các nhà sản xuất, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải

không ngừng gia tăng đầu tư và đổi mới công nghệ trong sản xuất nhằm tăng

cường năng lực cạnh tranh.

116

Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt của nền KTTT toàn cầu hóa,

các doanh nghiệp mới thường ra đời từ một sáng chế, một công nghệ mới. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu ráo riết hiện nay không còn chỗ đứng cho các

doanh nghiệp làm ăn theo đường mòn không chịu đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới đang trải qua những bước thăng

trầm, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu như chiến tranh lạnh, chủ nghĩa bảo hộ của các nước lớn… đã gây ra tổn thất nặng nề

cho nền kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế này diễn ra cùng với khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu và môi trường. Do vậy, sau

cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ có sự tái cấu trúc nền kinh tế và có sự biến đổi nhanh chóng, kinh tế tri thức được phát triển mạnh mẽ, KHCN ngày

càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển, các nước phát triển sẽ tập trung phát triển CNC và chuyển dịch công nghệ thấp cho các nước đang phát triển.

3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế * Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT

định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, những yếu tố thích ứng với KTTT sẽ phát triển, trong khi các yếu tố đòi hỏi quá trình chuyển đối về tổ

chức và cơ chế như việc đổi mới các tổ chức KHCN công lập lại phát triển

chậm hơn. Như vậy, các yếu tố của TTCNC ở nước ta đã không cùng có một điểm xuất phát trong quá trình hình thành và phát triển, do đó sự chênh lệch,

phát triển không đồng bộ giữa chúng là một kết quả tất yếu.

Thứ hai, cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN

còn hạn chế.

Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN vẫn dàn trải, thiếu

tập trung và hiệu quả sử dụng không cao. Các chủ thể chưa được bình đẳng thật sự trong việc tiếp cận với các nguồn đầu tư cho hoạt động CNC của nhà

nước. Đơn vị, tổ chức sử dụng nguồn vốn cho KHCN chủ yếu vẫn là các tổ chức KHCN nhà nước. Việc cấp phát kinh phí vẫn mang tính bình quân, bao cấp và nặng tư tưởng hành chính hoá.

117

Thứ ba, hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn gặp

nhiều khó khăn, bất cập.

Môi trường kinh doanh chưa thực sự lành mạnh, bình đẳng làm cho

nhiều doanh nghiệp có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm và chưa chịu nhiều sức

ép cạnh tranh để ứng dụng kết quả nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Hiện

tượng đặc quyền, đặc lợi vẫn tồn tại khiến cho các doanh nghiệp phải dành

nguồn lực vào các chi phí khác thay vì đầu tư đổi mới công nghệ.

Nhiều doanh nghiệp thiếu quy hoạch và chiến lược phát triển, thiếu quy

hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ trình độ cao, thiếu sự gắn bó và phối hợp giữa

chiến lược đổi mới, CGCN với chiến lược phát triển và kinh doanh. Nhiều

doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự có nhu cầu tự thân

đối với đổi mới công nghệ do năng lực quản lý yếu kém của người lãnh đạo

hoặc do thiếu động lực để phát triển doanh nghiệp trong dài hạn.

Năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thấp, gây khó khăn cho

việc huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ. Cơ chế hỗ trợ từ nguồn ngân sách

nhà nước cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn nhiều điểm chưa hợp lý,

chưa đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn hỗ trợ. Cơ chế xin - cho, sự

phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại trong hỗ trợ của nhà nước cho doanh nghiệp đổi

mới công nghệ. Một số quỹ hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp đã

được hình thành song trên thực tế vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng.

* Nguyên nhân khách quan

Một là, mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ là mô hình mới, đòi

hỏi nhiều cơ chế hoạt động đặc thù.

Trên thực tế cho thấy các nhà nghiên cứu thường gặp khó khăn trong

việc thành lập hoặc là hợp tác với các doanh nghiệp KHCN, bởi vì phần đông

các nhà nghiên cứu là viên chức nhà nước nên không có tư cách pháp nhân để

tự sản xuất kinh doanh. Lợi ích của nhà nghiên cứu không được đảm bảo và

không rõ ràng trong việc thành lập và hợp tác với các doanh nghiệp KHCN.

Các doanh nghiệp KHCN khó tiếp cận với các nguồn vốn từ ngân hàng

để thực hiện việc sản xuất, kinh doanh. Điều này là do các nguyên nhân sau:

(1) Các doanh nghiệp KHCN khó có tài sản bảo đảm vay, bởi vì tài sản chủ

118

yếu của doanh nghiệp là tài sản trí tuệ nên rất khó thực hiện việc cầm cố, thế

chấp, bảo đảm vay; (2) Các ngân hàng khó đánh giá thực trạng tình hình tài

chính, khả năng sinh lời và thanh toán các khoản nợ vay của doanh nghiệp

KHCN, do đó cản trở việc ra quyết định cho vay.

Hai là, cơ chế quản lý của các tổ chức KHCN công lập còn nhiều bất cập

Tư duy ngại đổi mới, ngại chịu trách nhiệm, nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại

vào nguồn trợ cấp từ ngân sách nhà nước vẫn tồn tại trong các tổ chức KHCN

công lập từ đó dẫn đến chậm đổi mới cơ chế quản lý cán bộ hoạt động trong lĩnh

vực KHCN, không khuyến khích tính chủ động và sáng tạo của đội ngũ này.

Cơ chế cấp kinh phí của nhà nước cho các tổ chức KHCN công lập còn

bất cập, mang tính cào bằng trong việc trả lương cho các nhà khoa học nên

không khuyến khích nghiên cứu và làm phân tán lực lượng nghiên cứu.

Quyền sở hữu đối với các loại tài sản trong đơn vị sự nghiệp KHCN

công lập chưa rõ ràng khi chuyển sang mô hình mới. Thủ tục hành chính

cho việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp KHCN công lập thành doanh nghiệp

KHCN còn rườm rà.

Công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều bất cập, Luật Sở hữu

trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019) được xây dựng trên

những nguyên tắc cơ bản là: kế thừa có chọn lọc, bổ sung các quy định còn

thiếu, các quy định mới về sở hữu trí tuệ (SHTT) đảm bảo tính thống nhất,

đồng bộ giữa các quy định pháp luật SHTT và giữa các quy định liên quan

đến SHTT của các ngành luật khác; đảm bảo sự tương thích giữa các quy

định SHTTcủa Việt nam và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên, đảm bảo các quy định về quyền SHTT phù hợp với điều kiện của Việt

nam. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật hiện hành về SHTT, vẫn

còn tồn tại một số hạn chế, bất cập điển hình sau:

Thứ nhất, Khoản 4 Điều 19 Luật SHTT quy định tác giả có quyền bảo vệ

sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên

tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín

của tác giả. Quy định này dễ gây hiểu nhầm, mà theo đó, tác giả chỉ có quyền

bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc

119

xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào khi hành vi đó gây phương hại đến

danh dự và uy tín tác giả, còn nếu không gây phương hại đến danh dự và uy tín

của tác giả thì không sao, vì vậy, nên tình trạng cắt xén nội dung tác phẩm của

tác giả này, tác giả kia để biến thành sản phẩm “trí tuệ” của chính mình đang

diễn ra tương đối nhiều.

Thứ hai, Điều 72 Luật SHTT quy định về điều kiện chung đối với nhãn

hiệu hàng hóa được bảo hộ: Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ

ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được

thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch

vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Như vậy,

phạm vi dấu hiệu được công nhận là nhãn hiệu hàng hóa vẫn rất hẹp và không

tương thích với quy định của Hiệp định TRIPs. Trong khi đó, theo các văn bản

pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia, các dấu hiệu có thể

được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa được quy định rất rộng.

Chính vì vậy, trong thời gian qua rất nhiều các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý

của Việt Nam bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bởi các doanh nghiệp, tổ

chức nước ngoài điển hình là các vụ Gạo ST25, Cà phê Trung Nguyên, thuốc

lá Vinataba, Petro Vietnam, bánh phồng tôm Sa Giang, kẹo dừa Bến Tre,

võng xếp Duy Lợi, cà phê Buôn Ma Thuật, Đắk Lắk...

Ngoài ra, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong

phát triển thị trường CNC ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đó là hiện

tượng “Chảy máu chất xám” nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Nhiều năm

qua, "chảy máu chất xám" được coi là một hiện tượng phức tạp, buộc nhiều

quốc gia cần xem xét và điều chỉnh, từ đó có chính sách, biện pháp khắc

phục. Bởi, dù thế nào thì trong thế giới hiện đại, sự phát triển của mỗi quốc

gia luôn cần tới vai trò của tri thức, trí tuệ. Ở đây, vấn đề đặt ra cho mỗi người

lao động trí óc là tâm nguyện cống hiến cho Tổ quốc, là sự đồng cảm và chia

sẻ với những khó khăn của đất nước; bên cạnh đó là vai trò của Nhà nước

trong việc tạo điều kiện tốt nhất để các chủ nhân của "chất xám" sống và cống

hiến cho đất nước một cách tốt nhất. Trên thực tế cho thấy, trong những năm

vừa qua, Đảng, Nhà nước ta đã có rất nhiều các chủ trương, biện pháp nhằm

120

khuyến khích cho các cán bộ của Việt Nam được tham gia học tập, nghiên

cứu ở các nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức…

bằng các đề án khác nhau như các đề án 322, 599, 911 của Bộ giáo dục và đào

đạo. Tuy nhiên, sau quá trình học tập, nghiên cứu ở nước ngoài thì nhiều cán

bộ nghiên cứu đã lựa chọn làm việc công tác ở nước ngoài với các lý do khác

nhau như có môi trường nghiên cứu tốt, trang thiết bị, máy móc, phòng thí

nghiệm đạt chuẩn, mức lương cao… những điều mà Việt Nam không thể đáp

ứng được. Theo báo cáo của Cục Đào tạo với nước ngoài thuộc Bộ Giáo dục

và Đào tạo theo đề án 322, có 2.268 du học sinh được đưa đi đào tạo tiến sĩ

nhưng chỉ khoảng một nửa số đó (1.074 tiến sĩ) là quay về nước, mà về rồi thì

cũng không hẳn sẽ làm việc trong trường đại học, viện nghiên cứu... Do vậy,

trong thời gian tới để hạn chế thấp nhất hiện tượng “chảy máu chất xám”

chúng ta cần phải có một hệ thống chính sách cân bằng được giữa nhiều mặt:

tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học; cải thiện hệ thống đãi ngộ (cả

vật chất lẫn tinh thần). Mặt khác chúng ta cũng cần phải có một hệ thống

kiểm soát hiệu quả công tác thật sự hữu hiệu, chính xác, khoa học, phù hợp

với điều kiện thực tiễn.

3.3.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển thị trường công

nghệ cao ở Việt Nam

Từ thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế

trong phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian qua, đã và đang đặt ra một số

mâu thuẫn cần tập trung giải quyết:

Thứ nhất, mâu thuẫn quy mô cung, quy mô cầu hàng hóa CNC với phát

triển của thị trường CNC với còn nhiều bất cập

Hiện nay, xét về quy mô cung hàng hóa CNC trên phạm vi cả nước

nhìn chung số lượng các tổ chức KHCN còn chưa nhiều (tính đến hết năm 2019

cả nước mới có 480 doanh nghiệp KHCN), đây là lực lượng chính bảo đảm

trong cung cấp CNC trên thị trường. Trong thời gian quan mặc dù hoạt động

của các tổ chức này đã đạt được một số kết quả quan trọng trong nghiên cứu và

triển khai nhưng việc chuyển giao, thương mại hóa các sản phẩm công nghệ

còn hạn chế, tình trạng bao cấp đối với các tổ chức KHCN nhất là các tổ chức

121

KHCN của nhà nước vẫn còn lớn, việc chuyển đổi hoạt động của các tổ chức

KHCN sang hoạt động mô hình doanh nghiệp KHCN còn chậm chưa đáp ứng

được yêu cầu của thực tiễn.

Mặt khác, chất lượng đầu tư cho R&D của nước ta còn thấp, năng lực

khoa học chưa cao, năng lực đổi mới sáng tạo còn nhiều hạn chế. Đây là

những yếu tố làm cho quy mô nguồn cung hàng hóa công nghệ chưa cao

Theo số liệu Điều tra của Bộ KHCN, tổng đầu tư cho R&D năm 2018

của cả nước khoảng 26.386 tỷ đồng (xấp xỉ 1,137 tỷ USD, xấp xỉ 0,47% GDP

cùng thời kỳ). Trong đó 49% vốn đầu tư cho R&D đến từ ngân sách nhà

nước; 38% đến từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, và khoảng 13% đến từ khu

vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về phân bổ ngân sách cho R&D, các dự án

R&D được thực hiện ở doanh nghiệp có tổng ngân sách lên đến 19.260 tỷ

(chiếm 73% tổng chi cho R&D của cả nước). Tuy nhiên, nguồn vốn R&D nhà

nước đầu tư để thực hiện tại các doanh nghiệp chiếm đến 31% con số này. Về

chi phí R&D được thực hiện ở các tổ chức KHCN, nguồn vốn của nhà nước chiếm

đến 98% kinh phí R&D thực hiện ở đây. Kết quả này gợi ý rằng đầu tư cho R&D

của Việt Nam là khá thấp cả về mặt tuyệt đối và tương đối so với Thái Lan (đầu tư

5,1 tỷ USD cho R&D, chiếm 0,5% GDP), Malaysia (9,7 tỷ USD và 1,3% GDP),

Singapore (10,1 tỷ USD và 2,1% GDP) và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản

(169,5 tỷ USD và 3,4% GDP) hay Hàn Quốc (73,1 tỷ USD và 4,3% GDP). Vì vậy,

nguồn cung công nghệ trong nước sẽ hết sức hạn chế trong trung và ngắn hạn [15].

Bên cạnh đó năng lực KHCN của Việt Nam so với thế giới là tương đối

thấp. Ngoại trừ hai yếu tố là chi tiêu của các công ty cho R&D và mua sắm

chính phủ về sản phẩm công nghệ của chính phủ đạt ở mức trung bình (cả

điểm số và thứ hạng), các chỉ tiêu khác phản ánh năng lực đổi mới sáng tạo

của Việt Nam như chất lượng của các trường đại học, hợp tác đại học và

doanh nghiệp về R&D, sự sẵn có của các nhà khoa học và các kỹ sư, số lượng

sáng chế được đăng ký trên một triệu dân là khá thấp.

Để mở rộng và phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay ngoài mở rộng

quy mô về nguồn cung thì quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là rất

122

cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu công nghệ tại các

Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN của 63 tỉnh/thành để phục vụ nhu cầu

nghiên cứu, giải mã và CGCN không có sự biến động nhiều trong ba năm gần

đây (Bảng 3.14), thậm chí năm 2019 còn có xu hướng giảm so với năm 2018.

Thống kê tổng số nhu cầu công nghệ năm 2016 là 95 công nghệ ở các lĩnh

vực như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết

kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động

hóa; công nghiệp. Năm 2017, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 93

công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm,

nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2018, số nhu cầu

công nghệ của các Trung tâm là 115 công nghệ ở một số lĩnh vực như công

nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý

môi trường. Năm 2019, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 105 công

nghệ ở một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm;

xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y

dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp [15].

Mặt khác, xét nhu cầu công nghệ theo thống kê từ các Sàn giao dịch

công nghệ và thiết bị đang hoạt động tại các tỉnh/thành của Việt Nam (cập

nhật đến 6/2020), nhu cầu về công nghệ, công nghệ tại các sàn giao dịch công

nghệ và thiêt bị cho thấy như sau nhu cầu về công nghệ thông qua sàn giao

dịch công nghệ và thiết bị chủ yếu thông qua sàn giao dịch quốc gia, nhu cầu

công nghệ của các địa phương là không đồng đều, có sự chênh lệch về nhu

cầu khá lớn giữa các trung tâm thành phố lớn trên phạm vi cả nước, cá biệt có

những sàn giao dịch công nghệ và thiết bị không có cầu về hàng hóa công

nghệ, như sàn giao dịch An Giang, Hải Dương, Cần Thơ,…[Phụ lục 20].

Như vậy, việc mở rộng và phát triển thị trường CNC ở Việt Nam trong

thời gian tới cần tập trung giải quyết hài hòa việc phát triển nguồn cung và

cầu hàng hóa CNC. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và tuân theo đúng quy

luật kinh tế, giải quyết được mâu thuẫn này sẽ là động lực rất quan trọng góp

phần phát triển thị trường CNC ở nước ta hiện nay theo hướng bền vững.

123

Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng TTCNC với phát

triển của các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC còn nhiều bất cập.

Mạng lưới tổ chức trung gian TTCNC đang trong giai đoạn hình thành,

còn manh mún và hạn chế về năng lực

Các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và

Đà Nẵng chưa được đầu tư và phát triển tương xứng với sứ mệnh là trung tâm

kết nối cung cầu về công nghệ và tài sản trí tuệ tại 3 khu vực.

Các tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao về đánh giá, định giá

công nghệ và cung cấp các dịch vụ thông tin, môi giới công nghệ còn yếu về

chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tạo được niềm tin cần thiết đối với cả bên

cung và cầu công nghệ. Hơn nữa, hoạt động của các tổ chức này còn mang

tính riêng rẽ, thiếu kết nối nên đã hạn chế sức lan tỏa trong khai thác thông tin

công nghệ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, định giá so với việc hoạt

động trong một mạng lưới được kết nối giữa các tổ chức trung gian.

Các hiệp hội, ngành hàng, các đại diện thương mại, đại diện ngoại

giao… chưa được chú ý huy động tham gia hoạt động xúc tiến TTCNC nên

chưa phát huy được vai trò của các tổ chức này trong hoạt động thúc đẩy giao

dịch công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp.

Các nguồn công nghệ sẵn có từ nước ngoài chưa được chú ý đúng mức

trong tổ chức thực hiện chương trình phát triển TTCNC. Mạng lưới các

chuyên gia giỏi ngoài nước (các hiệp hội quốc tế, chuyên gia người nước

ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài) chưa được thu hút để hỗ

trợ các tổ chức trung gian, môi giới và các doanh nghiệp trong nước giúp tìm

kiếm, lựa chọn, tiếp thu và làm chủ công nghệ.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển TTCNC với hệ thống

thiết chế hiện nay còn chưa đồng bộ, đầy đủ.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách thúc đẩy phát

triển thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng, song các chính sách này

hoặc là đang còn quá mới hoặc là chưa thực sự hấp dẫn các doanh nghiệp, tổ

chức và các nhà khoa học như quy định về việc trích thu nhập tính thuế hàng

124

năm để lập quỹ phát triển KHCN doanh nghiệp trong Luật thuế thu nhập doanh

nghiệp chưa tạo được động lực cho các doanh nghiệp đầu tư cho KHCN.

Từ thực tế những vấn đề bất cập còn tồn tại trong chính sách và cơ chế

quản lý nhà nước về hành lang pháp lý chưa minh bạch, các thủ tục hành

chính nhằm công nhận các phát minh sáng chế hoặc kết quả nghiên cứu của

các nhà khoa học là cá nhân có nhiều phức tạp. Đây chính là những tác động

tiêu cực, thủ tiêu tính sáng tạo của các nhà khoa học và là nhân tố làm giảm

cung của TTCNC.

Nhu cầu sử dụng các sản phẩm sản phẩm, dịch vụ CNC đến từ tất cả

các thành phần trong xã hội. Đối với các thành phần có liên quan đến nhà nước,

trong hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có tác động trực tiếp đến việc thay đổi

và đổi mới sử dụng các sản phẩm CNC ví dụ như các chính sách mua sắm các sản

phẩm công nghệ của Chính phủ nhằm trang bị cho các cơ quan tổ chức trong bộ

máy chính phủ làm việc góp một phần không nhỏ vào việc kích cầu các loại hình

sản phẩm đặc thù này. Các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong

đầu tư vào mua sắm và đổi mới công nghệ trong sản xuất và cung cấp dịch vụ

cũng đóng góp phần quan trọng vào thúc đẩy cầu đối với các sản phẩm công nghệ.

Ngoài ra, những quy định chi tiết về sự lạc hậu của một số các tiêu chuẩn khoa

học, công nghệ trong quá trình áp dụng vào sản xuất và cung ứng dịch vụ nhằm

đáp ứng với những quy định mới của chính phủ. Ví dụ như những quy định về

lượng khí thải, chất thải ra môi trường sẽ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới

công nghệ để nhằm giảm khí thải theo quy định. Đây là những tác động tích cực

trực tiếp lên cầu của sản phẩm CNC trên thị trường.

Ngược lại, sự “dễ dãi” trong cơ chế chính sách đối với các tiêu chuẩn

về công nghệ, máy móc áp dụng cho quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ có

tác động tiêu cực đến nhu cầu về sản phẩm công nghệ trên thị trường. Hiệu lực

của pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp còn nhiều hạn chế, quyền sở

hữu công nghiệp đặc biệt là năng lực để thực thi quyền sở hữu chưa tốt. Khung

pháp luật về sở hữu công nghiệp chưa đầy đủ và chưa có tính hiệu lực cao, đây

là tình trạng khá phổ biến khiến cho cầu công nghệ còn thấp dù chính phủ đã

rất nỗ lực đưa ra nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của TTCNC.

125

Kết luận chương 3

Trong thời gian vừa qua, TTCNC ở Việt Nam đã có bước phát triển do tận dụng được các cơ hội của quá trình HNKTQT mang lại. Sự phát triển này thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau về số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường như: số lượng, chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC ngày càng gia tăng; Nhu cầu về hàng háo CNC của các chủ thể ngày càng gia tăng; Số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC có sự phát triển và ngày càng gia tăng

Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đến nay TTCNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu thành thị trường chưa phát triển đồng bộ, năng lực của nhiều chủ thể trên TTCNC còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nước ta hiện nay cụ thể là gia tăng về số lượng và chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC còn chưa nhiều; nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC còn nhiều hạn chế; số lượng và chất lượng các tổ chức dịch vụ trung gian trên TTCNC còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Những thành tựu trong quá trình phát triển TTCNC thời gian qua có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng; tiềm lực KHCN của nước ta ngày càng được tăng cường và phát triển; hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý KHCN ngày càng được hoàn thiện; xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có những biểu hiện mới; nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng

Bên cạnh đó những hạn chế trong phát triển TTCNC hiện nay bắt nguồn từ những nguyên nhân cụ thể như sau: Chính sách thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ còn bất hợp lý, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển; cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN còn hạn chế; hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, bất cập; mô hình doanh nghiệp KHCN là mô hình mới, đòi hỏi nhiều cơ chế hoạt động đặc thù; cơ chế quản lý các tổ chức KHCN công lập còn nhiều bất cập

Vì vậy, trên cơ sở những thành tựu và hạn chế cần có những quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm hạn chế những tồn tại và phát huy các thế mạnh đã đạt được nhằm phát triển TTCNC trong thời gian tới đạt kết quả tốt góp phần nâng cao tiềm lực KHCN đất nước.

126

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

4.1. Quan điểm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

đến năm 2030

4.1.1. Phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước đối

với sự phát triển thị trường công nghệ cao

Có thể thấy rằng nhà nước là một chủ thể quan trọng tham gia TTCNC.

Bên cạnh vai trò có thể là người cung hay cầu đối với sản phẩm CNC, Nhà nước

còn có tư cách là người quản lý, điều hành, định hướng đối với các hoạt động

của thị trường. Vai trò này thể hiện chủ yếu là tạo cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý

cho các hoạt động thị trường. Đối với TTCNC với những đặc thù như đã trình

bày, thì vai trò quản lý của Nhà nước lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng do

vậy để thực hiện tốt vai trò của Nhà nước trong việc định hướng quản lý và phát

triển TTCNC trong thời gian tới cần thực hiện một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích cho các

doanh nghiệp đổi mới phát triển, đặc biệt là ưu đãi sự liên kết giữa các tổ

chức CNC với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh…Các

chính sách này được thực hiện thông qua việc tạo điều kiện cho các cơ

chế kiêm nhiệm và di chuyển nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sang

các tổ chức CNC và ngược lại, thực hiện ưu tiên về nguồn vốn đầu tư của

Nhà nước đối với các hình thức liên kết này. Ngoài ra, thực hiện tốt chính

sách miễn giảm thuế với các hoạt động đổi mới công nghệ, chính sách hỗ

trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các hoạt động phát triển, nhập khẩu

CNC, công nghệ tiên tiến của các tổ chức CNC và các doanh nghiệp trong

quá trình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, Nhà nước trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư cho KHCN

từ nguồn ngân sách để thực hiện một số hoạt động KHCN có tầm quan trọng

đối với việc phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, sự

127

phát triển và ổn định quốc gia. Trên cơ sở gia tăng đầu tư NSNN của nhà

nước hướng tới mục tiêu thúc đẩy các yếu tố cơ bản của TTCNC, xây dựng

kết cấu hạ tầng, hoàn thiện môi trường và tài trợ cho các hoạt động mà khu

vực kinh tế tư nhân không muốn làm như nghiên cứu cơ bản.

Ngoài ra, bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ NSNN cần phải chú trọng việc

đa dạng hóa, thu hút vốn đầu tư từ xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp…

thông qua việc thúc đẩy gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các tổ chức

KHCN, các trường đại học, viện nghiên cứu trên phạm vi cả nước. Mặt khác

nhằm huy động vốn cho TTCNC phát triển chúng ta cần quan tâm đến việc

hình thành các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm và để nguồn vốn đầu tư mạo hiểm

phát triển và hoạt động hiệu quả Việt Nam cần xây dựng hệ thống khuôn khổ

pháp luật, chính sách và có những cơ chế ưu đãi cho các hoạt động này.

Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò xúc tác, tạo điều kiện cho TTCNC hoạt

động thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật và tạo môi trường thuận

lợi để những người mua và người bán các sản phẩm CNC đến với nhau, trên

cơ sở đó có thể trao đổi sản phẩm và bảo đảm lợi ích của họ đối với các sản

phẩm CNC được giao dịch; Các quy tắc, luật lệ do Nhà nước ban hành trong

lĩnh vực này thường bao gồm những quy định liên quan tới việc đăng ký để

được công nhận quyền sở hữu trí tuệ; các quy định về mua bán, trao đổi,

CGCN và đặc biệt là những thủ tục xử lý tranh chấp khi các quyền lợi liên

quan tới quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm.

4.1.2. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải phù hợp

với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững

Việc phát triển TTCNC phải căn cứ vào đặc điểm của nền kinh tế nước ta

là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước đang phát triển và có nền

kinh tế chuyển đổi, nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mô

hình quản lý để từ đó xác định một phương pháp, bước đi và mô hình phù hợp

với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta, tránh tình trạng dập khuôn, bắt

chước mô hình bên ngoài, đi quá xa với hiện trạng của nền kinh tế nước ta.

128

Trong thời gian tới, lộ trình và mô hình phát triển TTCNC nước ta cần

phải đảm bảo một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, tăng cường vai trò điều hành định hướng của nhà nước trong

việc phát triển TTCNC.

Nội dung quản lý Nhà nước về thị trường KHCN nói chung và TTCNC

nói riêng đan xen trong các văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý

KHCN. Vì vậy trong thời gian tới, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm quản lý

Nhà nước về TTCNC của các bộ, ngành và địa phương (hiện nay mới có Bộ

KHCN có cơ quan chuyên trách quản lý thị trường KHCN là Cục Thị trường

và Doanh nghiệp KHCN). Nội dung quản lý Nhà nước về TTCNC cần được

điều chỉnh và bổ sung trong các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó phải

cụ thể hoá trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý Nhà nước về phát triển

TTCNC. Thực hiện việc báo cáo và thống kê định kỳ về thị trường KHCN nói

chung và TTCNC nói riêng.

Thứ hai, thúc đẩy cầu trên TTCNC, trong đó chủ yếu là thúc đẩy cầu

hàng hoá CNC của doanh nghiệp.

Trên cơ sở hệ thống thể chế, chính sách phát triển TTCNC, chúng ta

cần phải thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và phải xác

định doanh nghiệp là hạt nhân, là chủ thể chính trong cầu về hàng hoá

CNC. Điều này có cơ sở khách quan từ sức ép cạnh tranh quốc tế ngày

càng tăng của quá trình HNKTQT buộc các doanh nghiệp phải nâng cao

năng lực cạnh tranh, đổi mới sản xuất, từ đó thúc đẩy nhu cầu đổi mới công

nghệ của doanh nghiệp. Trên cơ sở thực hiện tốt một số nội dung như: (i)

nhận dạng được nhóm các doanh nghiệp có triển vọng để phát triển cầu công

nghệ; (ii) trên cơ sở đó làm cho các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan

trọng của việc đổi mới mô hình kinh doanh của họ theo hướng dựa vào công

nghệ; (iii) nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp hoặc

giúp các doanh nghiệp hạn chế được các điểm yếu về năng lực hấp thụ công

129

nghệ; (iv) tạo ra được thế hệ doanh nghiệp mới được hình thành từ các sáng

chế của các trường đại học/viện nghiên cứu; (v) xây dựng cơ sở dữ liệu về cầu

công nghệ (cầu về sáng chế, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ nhân lực).

Thứ ba, nâng cao năng lực cung hàng hoá CNC và phát triển các tổ

chức trung gian, môi giới trên TTCNC.

Trước sức ép của cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT, nhu cầu của

doanh nghiệp đối với hàng hoá CNC không chỉ là các kết quả nghiên cứu, các

công nghệ chung chung, mà là các công nghệ có ứng dụng trong thực tiễn sản

xuất kinh doanh. Điều này đặt ra nhu cầu phải nâng cao năng lực cung hàng

hoá CNC và phát triển các tổ chức trung gian, môi giới. Căn cứ vào điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, để thực hiện được việc này chúng ta

phải: (1) Hoàn thiện và cải tổ các tổ chức CNC công lập hiện có; (2) Khuyến

khích phát triển các tổ chức CNC ngoài khu vực công lập, đặc biệt là các tổ

chức CNC nước ngoài; (3) Thực hiện chính sách "sao chép có sáng tạo" như

kinh nghiệm của các nước Đông Á; (4) Phát triển các tổ chức trung gian, môi

giới nhằm gắn kết giữa cung và cầu trên TTCNC.

4.1.3. Phải bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia thị

trường công nghệ cao trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường

Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện

chứng giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội và tôn trọng các

quy luật kinh tế khách quan trong quá trình phát triển kinh tế. Để thực hiện

quan điểm này cần phải làm tốt một số yêu cầu

Một là, phải tôn trọng và bảo đảm lợi ích các chủ thể tham gia trên

TTCNC trong quá trình HNKTQT

Việt Nam tham gia vào HNKTQT nhằm đảm bảo cho chúng ta tham

gia đầy đủ vào hệ thống phân công lao động quốc tế, thu được các giá trị gia

tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu để mang lại lợi ích

lớn nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập vào TTCNC khu vực và thế giới

không bao giờ mang lại lợi ích hoàn toàn hoặc là bị thiệt hại hoàn toàn, mà đó

130

là quá trình hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối

với các chủ thể tham gia TTCNC. Trong nhiều trường hợp cụ thể, chúng ta

bắt buộc phải cân nhắc giữa lợi ích đạt được và những khó khăn để có một sự

lựa chọn về bước đi, về chính sách cho phù hợp. Tham gia vào TTCNC có rất

nhiều các chủ thể tham gia trong đó có các chủ thể trong nước, nước ngoài,…

Do vậy, trong quá trình phát triển cần coi trọng và giải quyết hài hòa các lợi

ích của các chủ thể, tránh tình trạng coi trọng hoặc xem nhẹ vai trò của các

chủ thể nhằm tạo ra động lực phát triển toàn diện, hiệu quả và thiết thực.

Trong điều kiện ngày nay, phải luôn xác định lợi ích của dân tộc, quốc

gia lên hàng đầu, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các chủ thể

Việt Nam với nước ngoài và khai thác được lợi ích của nước đi sau trong

HNKTQT. Đây là quá trình đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc chung,

thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế

mà Việt Nam tham gia nhưng cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc quốc tế,

có đối sách phù hợp nhằm mang lại lợi ích tối đa cho đất nước và các chủ thể

Việt Nam. Việc phát triển TTCNC trong bối cảnh hội nhập cũng phải đảm bảo

việc thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới và đảm bảo môi trường thuận lợi cho việc

nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp

lý giữa lợi ích của nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ chức KHCN và xã hội.

Hai là, phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay phải tuân theo các quy

luật của KTTT

Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế thế

giới, cùng với đó là quá trình tự do hóa thương mại đã buộc các nước khi

tham gia hội nhập kinh tế, đều phải thực hiện các cam kết, điều luật, nguyên

tắc và thông lệ quốc tế chung những “quy tắc” và những “luật chơi” của các

tổ chức quốc tế và khu vực.

Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình phát triển TTCNC cần phải

được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tuân thủ các quy luật kinh tế khách

quan của nền KTTT như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh

131

tranh… có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và tuân theo những thông lệ,

quy định quốc tế. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước chỉ là điều kiện cần, còn

chủ yếu là sự nỗ lực quyết tâm chuyển đổi, chủ động hội nhập của các chủ thể

tham gia trên thị trường như Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động

trên lĩnh vực CNC. Do vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng để phát

triển TTCNC bền vững, hiệu quả có tính khả thi là những chính sách hỗ trợ

phải đảm bảo tính minh bạch tuân theo quy luật KTTT, không trái với các quy

định và thông lệ quốc tế và những cam kết của Chính phủ.

4.1.4. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải trên cơ sở

kết hợp giữa nội lực và ngoại lực góp phần tăng cường tiềm lực khoa học

công nghệ quốc gia

Quan điểm này là sự vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp giữa nội lực

với ngoại lực trong CNH, HĐH vào lĩnh vực KHCN. Đây là vấn đề có ý

nghĩa chiến lược bởi lẽ, nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con

đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó sẽ giúp rút ngắn

khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và

trên thế giới tạo điều kiện nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia,

góp phần từng bước phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay.

Thực tiễn cho thấy, KHCN ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong

phát triển KT-XH của các quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt

Nam nói riêng. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình phát triển nếu chỉ dựa

vào nội lực nhỏ bé trong nước thì quá trình phát triển sẽ rất chậm chạp và khó

khăn. Trong khi đó, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra thời cơ lớn cho

tất cả các nước trong việc du nhập công nghệ từ nước tiên tiến hơn mình để

phát triển nhanh. Trong bối cảnh đó, phát huy cao độ nội lực và khai thác, tận

dụng tối đa ngoại lực cho phát triển KHCN và TTCNC là vấn đề tất yếu trong

chiến lược phát triển rút ngắn, đi tắt đón đầu về công nghệ.

Ngoại lực ở đây cần được hiểu là những thành tựu tiên tiến về công

nghệ hiện đại ở các nước trên thế giới mà Việt Nam có thể huy động được cho

132

phát triển TTCNC. Nó không chỉ là những công nghệ hiện đại có được thông

qua con đường hợp tác và CGCN mà còn bao gồm cả các yếu tố khác như vốn

đầu tư, nguồn nhân lực, kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý….

Tuy nhiên, muốn sử dụng nguồn ngoại lực có hiệu quả thì phải phát huy

nội lực của đất nước. Chính nội lực mới là nhân tố quyết định đến khả năng huy

động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực. Trong đó, chủ yếu nhất là vai

trò quan trọng của Nhà nước trong định hướng điều hành quản lý TTCNC, nguồn

nhân lực KHCN chất lượng cao và nguồn nhân lực trên các lĩnh vực khác,...

Không có hoặc thiếu nguồn nội lực mạnh thì chỉ tiếp nhận được những nguồn

ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là “rác thải công nghệ” của các nước khác.

Quán triệt quan điểm này cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:

Một là, giữ vững quan điểm nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng.

Đây là vấn đề trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình phát

triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Có khai thác và phát huy tốt nội lực thì

mới có cơ sở để thu hút được ngoại lực và sử dụng chúng có hiệu quả. Nội

lực càng mạnh thì càng bảo đảm được tính độc lập, tự chủ về KHCN, nâng

cao được năng lực KHCN CNC nội sinh từ đó hạn chế được nguy cơ lệ

thuộc vào công nghệ nước ngoài. Đồng thời, nhờ thu hút được nguồn ngoại

lực thì Việt Nam có thể rút ngắn được khoảng cách chênh lệch về trình độ

công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, học tập được những

kinh nghiệm quý giá trong quá trình phát triển TTCN từ các phương thức,

cách thức quản lý, điều hành, vận hành thị trường… của các nước tiên tiến

trên thế giới. Điều này sẽ giúp cho quá trình hình thành và phát triển TTCNC

của nước ta sẽ nhanh hơn, không phải mò mẫm, tìm tòi, thử nghiệm nhất là

đối với các lĩnh vực công nghệ mới.

Trong phát huy nội lực, quan trọng nhất là cần tập trung khai thác

phát huy thế mạnh và tiềm năng lớn của các tổ chức KHCN, các trường đại

học, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KHCN, cùng với

nguồn nhân lực KHCN tương đối hùng hậu của các tổ chức KHCN quốc

133

gia đứng chân trên địa bàn cả nước, nhất là ở Thành phố Hà Nội và Thành

phố Hồ Chí Minh; huy động các nguồn lực từ trong dân, các doanh nghiệp,

các nhà đầu tư cho thực hiện các nhiệm vụ KHCN và phát triển TTCNC

trong giai đoạn hiện nay.

Trong khai thác ngoại lực cần chú ý đẩy mạnh hoạt động hợp tác về KHCN

với các nước có trình độ công nghệ hiện đại và TTCN phát triển như Hoa Kỳ, Nhật

Bản, Ixraen…. Thực hiện hợp tác toàn diện cả trong đào tạo nguồn nhân lực

KHCN, trong NCKH và trong chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, trong

chuyển giao quy trình quản lý, phương thức, cách thức phát triển TTCN.

Hai là, có cơ chế chính sách phù hợp, kết hợp đầu tư có trọng tâm,

trọng điểm với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động KHCN trong phát triển

TTCNC ở nước ta hiện nay.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, tạo môi trường

thông thoáng, minh bạch bình đẳng giữa đầu tư trong nước và nước ngoài,

giữa tư nhân với nhà nước. Đồng thời, mở rộng liên kết hợp tác với các địa

phương trong nước, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các đối

tác chiến lược, các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia và các tổ chức

quốc tế có năng lực, uy tín trong phát triển TTCN, để tăng cường các nguồn

lực, mở rộng thị trường chia sẻ kinh nghiệm, CGCN, phối hợp đào tạo nguồn

nhân lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra, hiện nay nguồn kinh phí đầu tư cho KHCN nói chung và phát

triển TTCNC nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, để phát huy nội lực thì hoạt động

đầu tư cho CNC cần có trong tâm, trọng điểm, tập trung vào một số lĩnh vực

CNC mũi nhọn, then chốt như: công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin;

Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ tự động hóa. Đồng

thời, có cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp

trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, CGCN và đầu tư cho phát triển

KHCN làm nền tảng cho phát triển TTCNC giai đoạn tiếp theo.

134

4.2. Giải pháp phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến

năm 2030

4.2.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển thị trường công nghệ

cao ở Việt Nam

Từ thực tiễn phát triển TTCNC trong thời gian qua kinh nghiệm của

nhiều quốc gia và cho thấy, để phát triển TTCNC, việc hoàn thiện hệ thống

thể chế, chính sách là vô cùng cần thiết và quan trọng, đây chính là cơ sở, là

nền tảng pháp lý cho TTCNC phát triển. Đối với Việt Nam TTCNC đang trong

quá trình phát triển, đồng thời chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố đối với quá

trình phát triển của thị trường này như áp lực của cuộc cách mạng 4.0, áp lực của

HNKTQT trong điều kiện mới và nhất là chịu sự tác động của các quy luật kinh

tế trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa,… Do vậy để TTCNC phát

triển nhanh, bền vững trong thời gian tới, cần có sự can thiệp của Nhà nước

thông qua hệ thống cơ chế, chính sách về TTCNC. Để thực hiện tốt giải pháp

này cần hoàn thiện thể chế chính sách theo các nội dung chính như sau:

4.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ, CGCN và

cạnh tranh.

Để thực hiện được việc này, chúng ta phải rà soát lại hệ thống văn bản

pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh nhằm khắc phục ngay

những quy định không thống nhất trong các văn bản, xoá bỏ những bất cập và

tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách này, đặc biệt là các văn bản

quy định các nội dung chi tiết như các nghị định, thông tư về SHTT, CGCN

và cạnh tranh nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCNC và phù hợp với các

cam kết của Việt Nam trong các định chế quốc tế và khu vực.

Việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, chính sách này

phải hướng vào việc tạo ra môi trường thuận lợi cho TTCNC phát triển theo

các nguyên tắc, quy luật của thị trường, tạo điều kiện cho các quan hệ thị

trường phát triển và đảm bảo các yêu cầu sau. (1) Không làm ảnh hưởng lớn

trên TTCNC; (2) Phải phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và hoàn

135

cảnh cụ thể của đất nước; (3) Phải tính toán, vận dụng uyển chuyển các

nguyên tắc trong các hiệp định quốc tế để đảm bảo lợi ích của xã hội, nhà

nước và các chủ thể trên TTCNC.

Trên cơ sở nguyên tắc như vậy, việc hoàn thiện, điều chỉnh bổ sung hệ

thống văn bản pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh như sau:

Thứ nhất, đối với luật pháp, chính sách về SHTT trước hết cần được bổ

sung, hoàn thiện theo hướng đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tăng cường các công

cụ, chế tài để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền SHTT, sau đó sẽ được

hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài

trong việc đầu tư và CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích các

doanh nghiệp trong nước đầu tư cho phát triển KHCN. Việc hoàn thiện luật

pháp, chính sách về SHTT được thực hiện thông qua các nội dung sau:

Xây dựng các quy định mới về bảo hộ và thực thi quyền SHTT đối với

các loại hàng hoá CNC mới xuất hiện trên thị trường như các hàng hoá CNC

liên quan tới môi trường kỹ thuật số, internet, tự động hóa,…

Nâng mức xử phạt và tạo ra cơ chế xử phạt bằng kinh tế sao cho lợi ích

từ việc vi phạm SHTT phải luôn thấp hơn mức phạt của các cơ quan chức

năng đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm quyền SHTT.

Bổ sung, ban hành kịp thời một số văn bản dưới luật như các thông tư,

nghị định để hướng dẫn thi hành luật SHTT như thông tư hướng dẫn xử lý vi

phạm trong lĩnh vực SHTT, thông tư hướng dẫn, quy định về quyền tác giả và

quyền liên quan và các văn bản liên quan khác.

Thứ hai, đối với luật pháp, chính sách về CGCN cần được xây dựng,

hoàn thiện theo hướng bảo đảm nội dung đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng nhằm

thúc đẩy chuyển giao hàng hoá CNC. Luật pháp và chính sách CGCN cần bổ sung

các quy định mới đối với một số nội dung còn thiếu như các nội dung về định giá

công nghệ, các tổ chức trung gian môi giới công nghệ và chợ công nghệ, thiết bị,

sàn giao dịch công nghệ. Bổ sung thêm chính sách khuyến khích ưu đãi đối với

các đối tượng tham gia dịch vụ CGCN, chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công

136

tác quản lý trong lĩnh vực KHCN. Tiếp đến, hoàn thiện các văn bản, chính sách

hướng dẫn thực hiện công tác quản lý nhà nước về CGCN trong các lĩnh vực.

Hoàn thiện và cập nhật cho phù hợp với thực tế hệ thống danh mục các công nghệ

ưu tiên chuyển giao, công nghệ được miễn, giảm thuế khi chuyển giao, công nghệ

trong nước chưa sản xuất dược miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu.

Thứ ba, hệ thống luật pháp và chính sách về cạnh tranh cần được hoàn

thiện và bổ sung theo hướng xây dựng một môi trường cạnh tranh thống nhất,

lành mạnh, bình đẳng, đồng bộ đối với các chủ thể trên TTCNC, bao gồm cả

chủ thể nước ngoài

Môi trường cạnh tranh đó phải hướng tới việc tạo điều kiện cho tự do

nghiên cứu, trao đổi, lưu thông hàng hoá trên TTCNC và đảm bảo sự bình

đẳng giữa các chủ thể trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh

trên thị trường. Một môi trường thống nhất, thông thoáng, cạnh tranh lành

mạnh, bình đẳng sẽ giúp cho kiểm soát độc quyền, xóa bỏ bao cấp, đặc quyền,

đặc lợi, từ đó tạo ra sức ép đổi mới công nghệ và ứng dụng tiến bộ KHCN của

các doanh nghiệp. Để thực hiện điều này, trước mắt, cần đẩy mạnh việc thực

hiện Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các văn bản hướng

dẫn thực hiện các luật này. Bên cạnh đó, luật pháp, chính sách về cạnh tranh

có mối liên hệ với nhiều luật pháp, chính sách khác như SHTT, CGCN,... Vì

vậy, cần thiết phải hình thành một cơ chế phối hợp và thông tin thường xuyên

trong quá trình thực thi luật pháp và chính sách về cạnh tranh.

4.2.1.2. Hoàn thiện chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát

triển thị trường công nghệ cao

Trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư từ NSNN cho phát triển

TTCNC, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đầu tư vào phát

triển cơ sở hạ tầng, phát triển các tổ chức trung gian và thúc đẩy nhu cầu đổi

mới công nghệ của doanh nghiệp. Nâng tỷ lệ chi cho KHCN ở nước ta từ

NSNN hàng năm trong những năm tới lên mức 2,5 - 3 % tổng chi ngân sách,

tương ứng với 1% GDP [12].

137

Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ NSNN, cần phải: (1) Thực

hiện việc phân bổ và cấp kinh phí ngân sách nhà nước theo cơ chế khoán, cơ

chế đấu thầu tuyển chọn và từ nhu cầu thực tiễn; (2) Thực hiện việc đánh giá

và quản lý các dự án KHCN được đầu tư từ nguồn NSNN theo kết quả sản

phẩm đầu ra trên cơ sở kinh phí, nhiệm vụ được giao; (3) Hoàn thiện lại hệ

thống các cơ quan quản lý, phân bổ NSNN về KHCN theo hướng tinh gọn,

hợp lý và hiệu quả; (4) Từng bước xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước đổi

với một số hoạt động nghiên cứu ứng dụng; (5) Giao quyền tự chủ về tài

chính cho các tổ chức KHCN và khuyến khích các tổ chức này thực hiện cơ

chế tự trang trải kinh phí, theo mô hình doanh nghiệp.

Ngoài ra, trong điều kiện HNKTQT, nhà nước cần phải tạo điều kiện

cho các tổ chức, nhà khoa học nước ngoài tham gia giải quyết các nhiệm vụ

KHCN của nhà nước. Nhà nước chỉ giao cho các tổ chức KHCN CNC, các

nhà khoa học trong nước thực hiện các đề tài, dự án phục vụ trực tiếp trong

lĩnh vực quốc phòng, an ninh phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách lớn

của Đảng, Nhà nước. Đối với những nhiệm vụ KHCN khác do nhà nước đặt

hàng, nên tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức, nhà khoa học

nước ngoài tham gia đấu thầu cạnh tranh để thực hiện nhiệm vụ đó. Điều này

sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KHCN của nhà

nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình.

4.2.1.3. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế linh hoạt để thúc đẩy sự phát

triển của thị trường công nghệ cao

Thực hiện việc miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu

tư vào các hoạt động đổi mới công nghệ như: sản xuất thử nghiệm, sản xuất

sản phẩm mới, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ. Miễn thuế cho

các hoạt động trung gian, môi giới trên TTCNC như: triển lãm, giới thiệu sản

phẩm mới, hội chợ công nghệ, thiết bị. Miễn giảm tiền thuê đất để làm nơi

nghiên cứu, sản xuất sản phẩm mới cho các doanh nghiệp và tổ chức KHCN.

Cho phép để lại phần lãi thu nhập trước thuế của doanh nghiệp để đầu tư vào

138

các dự án phát triển công nghệ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Miễn, giảm

thuế nhập khẩu các thiết bị phục vụ hoạt động KHCN và các thiết bị tiên tiến, CNC.

Tránh tình trạng lợi dụng chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước

nhằm duy trì độc quyền, không thay đổi tư duy mới phù hợp với điều kiện thực tiễn,

CGCN hiện đại của nhiều doanh nghiệp, chính sách thuế nhập khẩu cần phải linh

hoạt, đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tránh bảo hộ tràn lan.

Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí đối với việc thành

lập mới các doanh nghiệp KHCN hoặc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang cơ

chế doanh nghiệp. Đánh thuế môi trường và có các chế tài nghiêm khắc đối

với các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm để buộc họ phải đổi

mới và sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, không gây ô nhiễm. Đảm bảo và

tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường KHCN tiếp cận được các

nguồn vốn tín dụng vởỉ lãi suất thấp.

Ở nước ta, nguồn vốn tín dụng sẽ là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy

phát triển TTCNC. Nguồn vốn này hướng vào việc phục vụ các chủ thể đi

tiên phong trong R&D công nghệ với các tiêu chí như: lượng vốn và thời gian

vay hợp lý, lãi suất ưu đãi và thủ tục vay gọn nhẹ. Để làm được điều này, cần

chú trọng các nội dung sau:

Đơn giản hoá các điều kiện vay vốn triển khai các dự án KHCN. Để

được vay vốn, thông thường phải có tài sản thế chấp hoặc phải có sự bảo lãnh

của tổ chức có uy tín. Đối với các tổ chức KHCN ở nước ta thì hình thức bảo

lãnh là phù hợp nhất. Đối tượng đứng ra bảo lãnh có thể là cơ quan chủ quản

hoặc là tổ chức thụ hưởng kết quả nghiên cứu khoa học.

Thẩm định hồ sơ vay vốn cần xem xét tới tính đặc thù của hoạt động

KHCN, đây là hoạt động nghiên cứu sản xuất thử và thực nghiệm nên khó

tính toán lỗ lãi và có nhiều rủi ro, do vậy việc thẩm định hồ sơ vay cần có cơ

chế riêng, đặc thù cho các hoạt động KHCN.

Tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể tham gia TTCNC tiếp cận với quỹ

phát triển KHCN. Hiện nay, Chính phủ đã thành lập Quỹ phát triển KHCN quốc

139

gia. Tuy nhiên, để phát huy chức năng, vai trò của quỹ này, trong thời gian tới

cần hoàn thiện mô hình quỹ, nâng cao tiềm lực tài chính của quỹ.

Thành lập hệ thống tổ chức tín dụng riêng, đặc thù nhằm mục đích hỗ

trợ các hoạt động KHCN. Trong điều kiện hiện nay, khi các tổ chức tín dụng

hoạt dộng theo cơ chế thị trường, việc vay vốn với lãi suất ưu đãi khó có thể

thực hiện được nếu không có hệ thống tín dụng phát triển KHCN riêng. Vì

vậy cần có một hệ thống tổ chức tín dụng hỗ trợ phát triển KHCN dưới dạng

một ngân hàng đặc biệt để cho các dự án KHCN vay với lãi suất ưu đãi.

4.2.1.4. Hoàn thiện chính sách nhập khẩu công nghệ, nhất là công nghệ

cao từ nước ngoài vào Việt Nam.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện

nay, vấn đề tiếp cận các công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một nội dung rất

quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhằm

khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và hạn chế những công

nghệ cũ, lạc hậu từ nước ngoài vào Việt Nam, nhà nước cần có quy định về

thẩm định các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam nhằm tăng cường

công tác kiểm tra chất lượng công nghệ thông qua các nội dung như: xác định

rõ những tiêu chuẩn, những giới hạn nhất định đối với các công nghệ được

chuyển giao; thực hiện sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ được

chuyển giao; tổ chức nắm bắt thông tin về năng lực công nghệ, trình độ công

nghệ của các quốc gia, tập đoàn quốc tế...

Để khuyến khích việc đầu tư, chuyển giao các CNC vào Việt Nam nhà

nước phải kịp thời sửa đổi những quy định không phù hợp liên quan đến hoạt

động CGCN cao, hoàn thiện cơ chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào các ngành CNC theo hướng: (1) đưa ra các biện pháp ưu đãi lớn cho đầu

tư vào ngành CNC, các ưu đãi này phải mang tính cạnh tranh so với các nước

trong khu vực; (2) Thực hiện tổt việc bảo hộ quyền SHTT nhằm giúp các đối

tác nước ngoài yên tâm khi đầu tư vào vào ngành CNC ở Việt Nam.

140

Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư và CGCN theo hướng từ hoạt động

xúc tiến chung theo thị trường sang xúc tiến theo địa chỉ nhằm thu hút trực

tiếp các nhà đầu tư nước ngoài có trình độ CNC vào Việt Nam đầu tư. Ngoài

ra, các cơ quan nhà nước cần chủ động tìm hiểu, đặt quan hệ và tiếp cận với

các chủ thể có năng lực KHCN phát triển, trình độ cao trên thế giới và khuyến

khích họ đầu tư hoặc liên kết với các chủ thể trong nước.

4.2.2. Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ hàng hóa công nghệ

cao trên thị trường công nghệ cao

Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC là giải pháp hết sức

quan trọng trong phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay. Nguồn cung sản

phẩm, dịch vụ CNC hiện nay bao gồm các chủ thể cung trong nước và cung

ngoài nước. Cung sản phẩm, dịch vụ CNC là một trong những yếu tố cơ bản

cấu thành TTCNC. Qua quá trình đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở

Việt Nam thời gian qua cho thấy chất lượng và số lượng sản phẩm và dịch vụ

CNC còn nhiều hạn chế, tuy có sự gia tăng nhưng không ổn định … Những

hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có hình

thành và phát triển các doanh nghiệp KHCN chưa cao, các hoạt động của quỹ

đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn cho các dự án KHCN chưa nhiều và chưa hiệu

quả; số tổ chức KHCN đạt chuẩn quốc tế còn ít … Do vậy, cần phải có những

giải pháp để khắc phục hạn chế trên, góp phần phát triển TTCNC ở Việt Nam

thời gian tới. Các biện pháp cần thực hiện bao gồm:

4.2.2.1. Thúc đẩy việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa

học công nghệ

Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp KHCN được hình thành từ hai

nguồn chính là chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập thành doanh nghiệp

và hình thành các doanh nghiệp KHCN mới trên cơ sở các kết quả nghiên cứu

mới. Trong thời gian tới, giải pháp để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp

KHCN như sau:

141

Thứ nhất, khắc phục những bất cập trong việc chuyển đổi các tổ chức

KHCN công lập sang mô hình doanh nghiệp.

Trong thời gian vừa qua việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập

sang mô hình doanh nghiệp còn chậm và có nhiều bất cập nảy sinh, do vậy để

thúc đẩy quá trình chuyển đổi này, cần phải khắc phục các vấn đề như sau:

Xác định rõ quyền sở hữu các văn bằng bảo hộ, sáng chế trong đơn vị

sự nghiệp KHCN công lập khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp. Các văn

bằng bảo hộ, sáng chế của đơn vị sự nghiệp KHCN công lập có nhiều chủ sở

hữu khác nhau như nhà nước, tổ chức KHCN hay của cá nhân nhà khoa học. Khi

chuyển sang mô hình doanh nghiệp, giá trị các văn bằng thuộc sở hữu nhà nước

và sở hữu chung của tổ chức KHCN rất khó xác định là thuộc về ai, do vậy cản

trở cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang mô hình doanh nghiệp. Trong

bối cảnh hiện nay, nên quy định các văn bằng, sáng chế thuộc sở hữu nhà nước

và sở hữu chung của các tổ chức KHCN khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp

là sở hữu của nhà khoa học tạo ra các sáng chế đó nhưng nhà khoa học phải có

trách nhiệm nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền theo một tỷ lệ nhất định

khi thương mại hoá các văn bằng bảo hộ và sáng chế đó.

Xác định rõ quyền lợi của các nhà khoa học khi tổ chức KHCN mà họ

đang làm việc chuyển sang mô hình doanh nghiệp KHCN và sử dụng kết quả

nghiên cứu của họ. Khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp, các nhà khoa học

có thể là cổ đông hoặc là thành viên trong doanh nghiệp KHCN. Nếu các nhà

khoa học không có nhu cầu tham gia vào doanh nghiệp, doanh nghiệp KHCN

có thể trả tiền mua toàn bộ hoặc trả dần hàng năm giá trị kết quả nghiên cứu

sản phẩm KHCN. Đảm bảo những lợi ích cơ bản cho đội ngũ cán bộ của tổ

chức KHCN khi chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Khi chuyển đổi, chế

độ lương của dội ngũ cán bộ cũng sẽ được chuyển đổi sang thang bảng lương

của doanh nghiệp. Đây là vướng mắc lớn nếu như mức lương của đội ngũ cán

bộ thấp hơn mức lương cũ. Do vậy, cần phải tăng lương và có chính sách ưu

tiên về chế độ lương cho đội ngũ cán bộ của các tổ chức KHCN khi chuyển

đổi sang mô hình doanh nghiệp.

142

Thứ hai, thực hiện việc bồi dưỡng tinh thần doanh nhân nhằm khuyến

khích hoạt động kinh doanh của các nhà khoa học.

Để thúc đẩy việc hình thành các doanh nghiệp KHCN từ các nhà khoa

học, cần phải bồi dưỡng tinh thần kinh doanh nhằm giúp các nhà khoa học

khai thác và thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu KHCN của họ. Việc bồi

dưỡng tinh thần doanh nhân được thực hiện thông qua các khoá đào tạo, các

hội nghị, hội thảo trao đổi về tinh thần doanh nhân với các nội dung về quản

lý công nghệ, quản trị doanh nghiệp... để giúp họ có tinh thần và bước khởi

đầu tốt cho việc hình thành các doanh nghiệp KHCN.

Thứ ba, phát triển hình thức vườn ươm doanh nghiệp

Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp KHCN

thì mô hình vườn ươm doanh nghiệp được xác định là phù hợp nhất. Vườn ươm

doanh nghiệp được xây dựng để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp thông

qua việc cung cấp các dịch vụ và các nguồn lực hỗ trợ như cơ sở vật chất, hạ tầng

kỹ thuật, tư vấn kỹ thuật, thủ tục pháp lý, hành chính... Mục tiêu chính của vườn

ươm doanh nghiệp là nhằm tạo ra các doanh nghiệp hoạt động thành công trên thị

trường sau khi rời khỏi vườn ươm. Đối với mô hình vườm ươm doanh nghiệp ở

nước ta trong thời gian tới, mô hình hợp lý nhất là mô hình có sự liên kết công - tư

theo hình thức doanh nghiệp. Mô hình này sẽ vừa nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của

nhà nước vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của khu vực tư nhân.

Để vườn ươm doanh nghiệp phát triển và có tính khả thi, trước hết các

vườn ươm này phải đảm bảo có được cơ sở vật chất hợp lý, đội ngũ nhân lực

thích hợp và có sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước như miễn giảm thuế cho doanh

nghiệp được ươm tạo, tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn tài chính, đơn

giản hoá các thủ tục hành chính,...

4.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn

cho các dự án khoa học công nghệ

Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trên TTCNC, giải pháp cơ

bản nhất là phát triển các hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm. Để phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm cần có các biện pháp như sau:

143

Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ cần có các quy định cụ thể hướng dẫn hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm như: phạm vi đầu tư mạo hiểm, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, quy chế thành lập và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Khi hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm đã phát triển, nhà nước cần tiến tới ban hành riêng một đạo luật về quỹ đầu tư mạo hiểm.

Hai là, hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước và

quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh.

Trong quá trình hoạt động ban đầu, quỹ đầu tư mạo hiểm cần có sự trợ giúp từ nhà nước, sau đó nguồn thu từ các khoản đầu tư của quỹ mạo hiểm sẽ tự bổ sung để quỹ phát triển. Quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước có thể hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như: các quỹ thuộc Trung ương quản lý, các quỹ địa phương, các quỹ trực thuộc các trường đại học. Mục đích của quỹ là hỗ trợ cho các dự án ươm tạo và đổi mới công nghệ trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và ở nhiều địa phương khác nhau. Để quỹ này hoạt động có hiệu quả, Chính phủ thuê các chuyên gia quản lý quỹ có kinh nghiệm và ràng buộc trách nhiệm như: cơ chế tiền lương, thưởng từ lợi nhuận của quỹ,... Hình thành các quỹ liên doanh trên cơ sở nhà nước góp vốn với các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín. Quỹ liên doanh này vừa có kinh nghiệm quản lý quỹ của các tổ chức tài chính quốc tế vừa có uy tín do sự bảo lãnh của Nhà nước. Vai trò của nhà nước đối với quỹ này là việc tạo dựng niềm tin và khuyến khích đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới, nhà nước không nên can thiệp sâu vào hoạt động cụ thể của quỹ liên doanh.

Khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm. Việc khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm gia tăng lượng vốn đầu tư mạo hiểm cho quỹ. Các ngân hàng sẽ cho quỹ đầu tư vốn mạo hiểm vay với các mức lãi suất ưu đãi và với cơ chế bảo đảm tiền vay.

Ba là, thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động đầu tư vốn

mạo hiểm.

Hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm thường tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy,

Chính phủ cần khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư vốn mạo hiểm

144

thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Chính sách thuế cũng cần ưu đãi đối

với phần thu nhập phát sinh của nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, nhằm thu hút

các nguồn vốn từ các cá nhân và nhà đầu tư.

4.2.2.3 Chủ động nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học công

nghệ, xây dựng một số tổ chức khoa học công nghệ đạt chuẩn quốc tế

Các tổ chức KHCN muốn phát triển thì nhiệm vụ trọng tâm là phải tự

đổi mới, nâng cao năng lực của mình để chủ động tham gia và thích ứng với

hoàn cảnh mới thông qua các giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân

lực KHCN theo chuẩn quốc tế.

Theo thống kê, nguồn nhân lực KH&CN thời gian qua phát triển cả về

số lượng và chất lượng với khoảng 67.000 cán bộ nghiên cứu (đạt 7

người/vạn dân); trong đó, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn trên thế giới.

Đội ngũ nhân lực tăng nhanh là nhân tố quan trọng giúp hoạt động KH&CN

đóng góp đáng kể trong việc cải thiện chất lượng tăng trưởng và sức cạnh

tranh của nền kinh tế. Việc đầu tư cho KH&CN những năm qua cũng có bước

tiến vượt bậc. Để cạnh tranh được trong bối cảnh các công nghệ phát triển

nhanh như hiện nay, nguồn nhân lực phải đáp ứng yêu cầu và tiêu chuẩn rất

cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhưng nguồn nhân lực của

nước ta theo các chuyên gia đánh giá vẫn còn một khoảng cách không nhỏ với

đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, việc đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực bậc cao ở những lĩnh vực then

chốt và lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh cần được quan tâm nhiều hơn.

Do đặc thù lao động của nhân lực KHCN là lao động sáng tạo, cần tính

tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao, nên việc đổi mới cơ chế quản lý nguồn nhân

lực CNC trong các tổ chức KHCN công lập phải hướng vào việc phát huy

tính sáng tạo của đội ngũ này. Để thực hiện được việc này cần đổi mới cơ chế

quản lý nhân lực KHCN như sau:

Hàng năm tiến hành rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ hiện có

và quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ có năng lực chuyên môn, tâm huyết,

trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Chuyển đổi mô hình

145

quản lý nhân lực KHCN từ mô hình quản lý hành chính sang mô hình quản lý

theo sản phẩm đầu ra. Phương thức quản lý theo sản phẩm đầu ra dựa trên các

tiêu chí định lượng rõ ràng về sản phẩm đầu ra và trên sự tự giác, tự chịu trách

nhiệm. Lương và lợi ích của nhà khoa học được xác định trên cơ sở kết quả của

sản phẩm đầu ra, tránh được tình trạng cào bằng trong nghiên cứu khoa học.

Xây dựng môi trường làm việc thuận lợi cho nghiên cứu của các nhà

khoa học. Môi trường này phải đảm bảo nguyên tắc tự do tư tưởng, tự do sáng

tạo và phát triển.

Xây dựng văn hoá nghiên cứu, sáng tạo trong các tổ chức KHCN. Để

xây dựng được văn hoá này, bản thân các nhà lãnh đạo tổ chức KHCN là tấm

gương sáng về tinh thần nghiên cứu, sáng tạo, luôn tôn trọng và khích lệ kết

quả nghiên cứu, sáng tạo của các nhà khoa học, đồng thời lãnh đạo các tổ

chức KHCN đưa ra được tầm nhìn và tư duy chiến lược phát triển đơn vị

mình là phải dựa trên nghiên cứu, sáng tạo và làm cho mọi cán bộ trong tổ

chức hiểu và cam kết thực hiện tốt mục tiêu chiến lược của tổ chức KHCN.

Bên cạnh việc đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KHCN cũng cần phải

bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ này để tiếp cận tới trình độ quốc tế theo các nội

dung cụ thể sau đây:

Có chính sách đào tạo mới, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên

môn đáp ứng yêu cầu thực tiễn đối với đội ngũ cán bộ là chuyên gia, kỹ thuật

viên; từ đó hình thành được đội ngũ cán bộ nòng cốt có trình độ cao; các

chuyên gia, nhà khoa học giỏi và chính đội ngũ này sẽ là đầu tàu dẫn dắt,

định hướng phát triển lĩnh vực thị trường công nghệ theo kịp các nước trong

khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, đội

ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thị trường công nghệ cần có tác phong

làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo và trách nhiệm cao với nghê. Nêu các nhà

khoa học được quan tâm, đầu tư đào tạo bôi dưỡng và được trả lương tương

xứng với sự đóng góp sẽ là cơ sở quan trọng trong việc tạo nguồn cung công

nghệ cho thị trường công nghệ. Mặt khác, khi trình độ chuyên môn cao, họ sẽ

đóng góp đáng kể vào việc thâm định, đánh giá chât lượng và giá cả các sản

146

phẩm công nghệ trong quá trình CGCN vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là

các công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài.

Xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo lại cán bộ

KHCN ở nước ngoài, trong đó chú trọng việc đi đào tạo ở các nước có tiềm

lực CNC mạnh. Hình thức đào tạo là cử đi nghiên cứu, học tập hoặc là hợp

tác nghiên cứu với các viện, các trung tâm nghiên cứu quốc tế. Việc này sẽ

giúp cho đội ngũ cán bộ CNC của Việt Nam tiếp thu được những tri thức,

công nghệ của nước ngoài, làm quen với môi trường quốc tế và cải thiện

trình độ ngoại ngữ. Đối tượng đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ KHCN

đầu ngành, nhất là đội ngũ cán bộ KHCN thuộc các lĩnh vực CNC và đội

ngũ cán bộ trẻ có tiềm năng.

Thứ hai, nâng cao năng lực ứng dụng thực tiễn thông qua việc giao cho

các tổ chức KHCN quyền khai thác thương mại các sản phẩm CNC được nhà

nước tài trợ kinh phí.

Đối với những đề tài, dự án KHCN do nhà nước tài trợ kinh phí, thu

nhập được tạo ra từ việc chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu sẽ

giao cho đơn vị chủ trì và chủ nhiệm đê tài, dự án đó quản lý và tự phân

phối theo một tỷ lệ nhất định nhằm khuyến khích chuyển hoá kết quả

nghiên cứu CNC vào thực tiễn. Đối với những công nghệ do các nhà khoa

học tự thực hiện nhưng có sử dụng thiết bị, phòng thí nghiệm của tổ chức

KHCN thì toàn bộ thu nhập thu dược từ việc CGCN sẽ thuộc về nhà khoa

học và nhà khoa học sẽ trả phí sử dụng thiết bị, phòng thí nghiệm của tổ

chức KHCN.

Hiện nay, các tổ chức CNC ở Việt Nam chủ yếu là các tổ chức KHCN

công lập với bất cập lớn nhất là năng lực nghiên cứu KHCN còn có điểm hạn

chế chưa đáp ứng được yêu cầu HNKTQT, do vậy, để phát triển các tổ chức

KHCN nhà nước không nên đầu tư dàn trải mà tập trung đầu tư xây dựng mới

hoặc nâng cấp một số tổ chức KHCN hiện có thành những tổ chức nghiên cứu

trọng điểm, đạt trình độ quốc tế để làm đầu tàu trong việc HNKTQT. Tổ chức

KHCN trình độ quốc tế được xây dựng trên các nội dung như sau:

147

Một là, nguồn đầu tư và kinh phí xây dựng. Vì tổ chức KHCN đạt trình

độ quốc tế cần có yêu cầu cao về nhân lực, cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm

nên kinh phí dầu tư cho các tổ chức này là rất lớn, lâu dài và có độ rủi ro nhất

định. Do vậy, nguồn kinh phí để đầu tư cho các tổ chức này nên được đa dạng

hoá, trước mắt là từ nguồn ngân sách nhà nước và các khoản vay do nhà nước

bảo lãnh. Bên cạnh đó, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư từ khu

vực doanh nghiệp và khu vực tư nhân, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.

Hai là, hướng và lĩnh vực nghiên cứu các tổ chức KHCN tập trung vào

các ngành CNC, công nghệ mũi nhọn được nhà nước ưu tiên phát triển. Việc

lựa chọn hướng nghiên cứu sẽ căn cứ vào thế mạnh của tổ chức như về đội

ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị,... trong đó, quan trọng nhất là đội

ngũ các nhà khoa học đầu ngành, đạt chuẩn trình độ quốc tế.

Ba là, cơ cấu tổ chức, từng bước điều chỉnh cơ cấu tổ chức KHCN theo

hướng nhỏ gọn, trong đó nòng cốt là các nhóm nghiên cứu trình độ quốc tế.

Trưởng nhóm nghiên cứu được toàn quyền trong việc lựa chọn đề tài nghiên

cứu và thành viên của nhóm. Các nhà khoa học gắn kết với tổ chức thông qua

các hợp đồng lao động có thời hạn nhất định.

4.2.3. Tạo lập và thúc đẩy nhu cầu sản phẩm, dịch vụ hàng hóa công

nghệ cao trên thị trường công nghệ cao

Cầu về sản phẩm, dịch vụ hàng hóa CNC là toàn bộ nhu cầu về sản

phẩm, dịch vụ CNC của các chủ thể trong nền kinh tế. Trên TTCN, người có

nhu cầu sử dụng công nghệ cũng hết sức phong phú, đa dạng. Họ có thể là

Nhà nước, các cá nhân, DN hoặc các tổ chức KHCN hoặc các tổ chức tư nhân

trong nước và nước ngoài. Nhu cầu này được biểu hiện bao gồm cả số lượng

và chất lượng, cơ cấu sản phẩm, dịch vụ CNC. Để phát triển TTCNC thì một

trong những giải pháp cơ bản là thực hiện tốt việc tạo lập và thúc đẩy nhu cầu

sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường. Trong thời gian qua, nguồn cung trên

TTCNC ở nước ta đang có xu hướng tăng đều qua các năm, góp phần nâng

cao chất lượng phát triển sản phẩm và dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị

trường. Tuy nhiên, nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC của các chủ thể như

148

Nhà nước, các tổ chức KHCN và các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đáp

ứng được mức tăng nhanh chóng của nguồn cung hàng hóa này. Do vậy, thúc

đẩy nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường là một trong những giải

pháp cơ bản, quan trọng để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Để thực

hiện giải pháp này cần thực hiện tốt các nội dung cơ bản như sau:

4.2.3.1. Nâng cao khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ nhất, xây dựng mục tiêu phát triển và chiến lược kinh doanh dài

hạn dựa trên đổi mới công nghệ.

Trong xu thế cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, muốn tồn tại và

phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam phải đưa mục tiêu đổi mới công nghệ

và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tham gia chuỗi giá trị của mạng

lưới sản xuất quốc tế vào chiến lược kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp.

Để chiến lược này mang tính khả thi, doanh nghiệp phải nắm bắt được

các xu hướng phát triển CNC liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình,

hiểu kỹ môi trường kinh doanh và nắm bắt được xu thế vận động của TTCNC

trong nước cũng như quốc tế, đồng thời phải nắm rõ thực trạng năng lực cạnh

tranh của mình như năng lực vốn, năng lực công nghệ, đội ngũ nhân lực...

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp theo

chuẩn quốc tế

Đối với Việt Nam, nguồn lực KH&CN nói chung và thị trường công

nghệ nói riêng vừa yếu vừa thiếu, thực sự chưa quan tâm cho nhân tố con

người: Vì thế, trong thời gian tới cần tập trung đầu tư nâng cao chất lượng

đội ngũ nguồn nhân lực cho thị trường công nghệ theo hướng đảm bảo cả vê

chât và về lượng ở các vị trí công tác đảm nhiệm, đội ngũ cán bộ hoạt động

trong lĩnh vực thị trường công nghệ cần có am hiểu sâu về KH&CN.

Để phát huy lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT, trước hết

doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò của việc nâng cao chất lượng đội ngũ

nhân lực theo chuẩn quốc tế để từ đó có biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng thích

hợp. Để thực hiện việc này, doanh nghiệp cần phải:

149

Có chiến lược và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý

cho doanh nghiệp trong bối cảnh HNKTQT. Chiến lược và kế hoạch này phải

gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp trong từng giai đoạn.

Có khoản đầu tư thích đáng cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực.

Tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo để đặt hàng và chủ động xây dựng

các chương trình đào tạo về quản lý công nghệ, về HNKTQT cho phù hợp với

yêu cầu của doanh nghiệp. Tranh thủ các khoản hỗ trợ của nhà nước trong

việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực của doanh nghiệp. Thông báo sớm về nhu

cầu nhân lực cần được đào tạo, nhu cầu tuyển dụng cho các cơ sở đào tạo để

họ có kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

Có chính sách giữ chân và thu hút đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên

môn kỹ thuật giỏi một cách hợp lý thông qua chính sách lương, thưởng, đãi

ngộ và chính sách phát triển. Để thu hút và giữ chân đội ngũ này, doanh

nghiệp nên chú trọng việc tạo cơ hội học tập, phát triển, tạo ra môi trường cho

đội ngũ này ứng dụng những điều đã học vào nơi làm việc và tạo con đường

phát triển nghề nghiệp cho họ lâu dài. Đồng thời doanh nghiệp cũng nên có

chính sách thoả đáng trong việc thưởng về vật chất và tinh thần để khuyến

khích và thu hút đội ngũ nhân lực giỏi về làm việc cho doanh nghiệp.

Thứ ba, thường xuyên nắm bắt thông tin về thị trường KHCN khu vực

và thế giới, chú trọng việc sử dụng công tác tư vấn CGCN từ bên ngoài

Trong bối cảnh HNKTQT, doanh nghiệp có rất nhiều cơ hội để lựa

chọn công nghệ từ bên ngoài, đặc biệt là từ các đổi tác nước ngoài. Do vậy, để

tận dụng những cơ hội tốt do quá trình HNKTQT mang lại, doanh nghiệp phải

thường xuyên nắm bắt thông tin về công nghệ có liên quan đến lĩnh vực hoạt

động của mình trong khu vực và trên thế giới. Việc nắm bắt này sẽ giúp

doanh nghiệp chủ động nắm được tình hình phát triển công nghệ để nhận biết,

đánh giá, lựa chọn công nghệ phù hợp nhằm đầu tư có hiệu quả, đáp ứng được

tốt nhất những yêu cầu của doanh nghiệp khi có nhu cầu đổi mới công nghệ.

150

Việc nắm bắt các thông tin sẽ do doanh nghiệp tự thực hiện hoặc thông

qua sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian, môi giới, các trung tâm thông tin

công nghệ, trung tâm xúc tiến thương mại của nhà nước như các hình thức

tham gia hội chợ, triển lãm công nghệ, thiết bị, cử đoàn cán bộ đi khảo sát,

nghiên cứu ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, do hạn chế

về năng lực, đặc biệt là do sự biến động khó lường của thị trường KHCN khu

vực và thế giới nên doanh nghiệp rất khó có khả năng lựa chọn được phương

án CGCN tối ưu. Do vậy, doanh nghiệp không nên tự mình lựa chọn mà nên

sử dụng các tổ chức trung gian, môi giới hoặc là chuyên gia tư vấn CGCN,

các tổ chức này sẽ giúp doanh nghiệp theo dõi xu hướng phát triển và tình

hình liên quan đến công nghệ để giúp doanh nghiệp tìm được công nghệ thích

hợp và hiệu quả nhất, tránh được các rủi ro có thể gặp phải.

Thứ tư, nâng cao khả năng tiếp cận đến các nguồn vốn đổi mới công

nghệ của các tổ chức tín dụng.

Để đổi mới công nghệ doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng tiếp

cận đến các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn của các tổ chức tín

dụng. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp cần lưu ý những vấn đề sau:

Tăng cường tính khả thi, hiệu quả của dự án đổi mới công nghệ và nâng

cao trình độ đội ngũ cán bộ xây dựng dự án. Chú trọng các hoạt động dịch vụ

tư vấn xây dựng dự án, đặc biệt là tư vấn của ngân hàng. Các dự án và

phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả là cơ sở quan trọng cho quyết định

vay vốn của ngân hàng, đồng thời, doanh nghiệp nên sử dụng tư vấn của ngân

hàng, vì điều này tạo cơ hội cho các ngân hàng tìm hiểu các nguồn thông tin

thực tế của doanh nghiệp, từ đó dễ đưa ra các quyết định cho vay vốn.

Nâng cao chất lượng thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Các

doanh nghiệp cần quan tâm xây dựng hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ hiệu

quả, tổ chức hệ thống thông tin trung thực, khách quan và minh bạch, từ đó

giúp cho các tổ chức tín dụng dễ dàng thẩm định năng lực của doanh nghiệp

để cho vay vốn.

151

Sử dụng vốn vay ngân hàng hiệu quả, đúng mục đích, đối tượng, phối

hợp với các tổ chức tín dụng để tuân thủ nghiêm ngặt các chế tài về tín dụng

trước, trong và sau khi vay vốn.

4.2.3.2. Thúc đẩy nhu cầu và nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm

chủ và áp dụng công nghệ cao của các doanh nghiệp

Triển khai thực hiện cơ chế đối tác công tư, liên kết tổ chức KHCN với

doanh nghiệp để thúc đẩy CGCN và thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản

xuất kinh doanh. Hỗ trợ các các doanh nghiệp có điều kiện thành lập tổ chức R&D.

Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết với

doanh nghiệp trong nước trong chuỗi cung ứng sản phẩm và các tổ chức

KHCN công lập thực hiện việc tìm kiếm, lựa chọn và khai thác công nghệ khi

tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc

ngành công nghiệp hỗ trợ nhập khẩu li xăng và bí quyết công nghệ để nhanh

chóng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo.

Lồng ghép các nhu cầu của thị trường KHCN trong việc triển khai thực

hiện các chương trình KHCN quốc gia để tăng nhanh số lượng sản phẩm, sản

phẩm, dịch vụ CNC sản xuất trong nước được giao dịch trên TTCNC.

Tăng cường các dịch vụ tư vấn hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xác

định nhu cầu, tìm kiếm, lựa chọn, thương thảo, ký kết hợp đồng CGCN từ các

nguồn trong nước và nước ngoài.

Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các rào cản kỹ thuật và chính

sách bảo hộ thương mại tại các thị trường có liên quan đến hàng hoá, dịch vụ

của Việt Nam.

4.2.3.3. Tăng cường nhu cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao từ phía

Nhà nước và nhu cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao từ phía cá nhân

Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân

sách nhà nước để trực tiếp triển khai hoặc là tài trợ cho các chủ thể khác triển

khai thực hiện các hoạt động KHCN

Nhà nước cần hàng hóa công nghệ để vận hành bộ máy Nhà nước được

hiệu quả; cung cấp ưu đãi hoặc miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng chính sách,

hoặc cho toàn bộ cộng đồng; giải quyết những vấn đề công ích phát sinh từ đời

152

sống, có ý nghĩa chiến lược, xã hội quan trọng. Cũng như doanh nghiệp, để đáp

ứng nhu cầu đối với hàng hóa KHCN của mình, Nhà nước có thể chọn giải pháp

thị trường, tức là mua sản phẩm KHCN có sẵn, hoặc thuê dịch vụ KHCN để có

được kết quả mong muốn. Mặc khác, Nhà nước có thể chọn giải pháp phi thị

trường như tự tổ chức nghiên cứu để cung cấp hàng hóa KHCN mong muốn, cho

tới nay tự làm vẫn là chủ yếu, nhưng xu thế chuyển sang thị trường đã bắt đầu

xuất hiện, đây là yếu tố quan trọng để phát triển thị trường KHCN.

Việc sử dụng nguồn kinh phí này trên cơ sở các mục tiêu, định hướng

và quy hoạch chiến lược của Nhà nước. Do vậy, việc đánh giá cầu sản phẩm,

dịch vụ CNC của nhà nước được đánh giá thông qua tính hiệu quả trong đầu

tư vốn từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN

Nhu cầu của cá nhân đối với tri thức KHCN cũng rất lớn. Cá nhân có

thể thỏa mãn nhu cầu này thông qua việc đọc, nghe, hoặc xem các ấn phẩm

KHCN thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cá nhân cũng có thể tham

gia các lớp học bồi dưỡng kiến thức chính thức cũng như không chính thức,

hoặc tìm kiếm tư vấn từ các tổ chức, cá nhân thích hợp. Có thể nói thị trường

hàng hóa công nghệ phục vụ nhu cầu cá nhân là rất lớn và ngày càng phát

triển. Khác với doanh nghiệp và Nhà nước, việc đáp ứng nhu cầu tri thức

KHCN của cá nhân thông qua đọc, nghe, hoặc xem các ấn phẩm KHCN

thường phải thông qua các trung gian, do đó vấn đề bản quyền tác giả là quan

trọng để đáp ứng nhu cầu về hàng hóa KHCN từ phía cá nhân.

4.2.4. Đẩy mạnh phát triển các tổ chức trung gian môi giới trên thị

trường công nghệ cao

Hình thành và phát triển tổ chức trung gian của TTCNC có vai trò đầu

mối trong mạng lưới và cung cấp các dịch vụ công có tính hệ thống, hỗ trợ

hiệu quả cho các tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ môi giới có giá trị

gia tăng cao cho các doanh nghiệp. Chuyên nghiệp hóa các hoạt động của tổ

chức trung gian của TTCNC đang hoạt động, nâng cao hiệu quả của các hoạt

động dịch vụ hỗ trợ, kết nối cung - cầu công nghệ, đáp ứng yêu cầu giảm

thiểu chi phí giao dịch và minh bạch các thông tin về hàng hóa và dịch vụ

153

được giao dịch mua bán trên TTCNC. Hình thành và phát triển mạng lưới các

tổ chức trung gian TTCNC đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, phát

huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng và nhà đầu tư trong việc tìm kiếm,

lựa chọn, giao dịch và ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC.

Dịch vụ môi giới, trung gian đóng vai trò quan trọng trong việc thương

mại hóa kết quả nghiên cứu đối với hàng hóa công nghệ. Các dịch vụ trung gian

cơ bản của TTCN gồm: dịch vụ thông tin công nghệ; tư vấn về quản lý công nghệ

và CGCN; đánh giá, định giá tài sản công nghệ; dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng, quảng

cáo tiếp thị, môi giới; dịch vụ tài chính; dịch vụ SHTT,...Tuy nhiên, trong thời

gian qua, hệ thống các tổ chức trung gian, môi giới ở nước ta còn nhiều bất cập,

chưa đảm nhận đầy đủ vai trò gắn kết cung - cầu trên TTCNC, do vậy, trong thời

gian tới, để thực hiện tốt hơn kết nối cung cầu công nghệ góp phần phát triển

TTCNC, nhà nước cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây:

4.2.4.1. Hình thành các tổ chức trung gian, môi giới chuyên tư vấn về

hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế

Nhằm trợ giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tận dụng được cơ hội

trong bối cảnh HNKTQT, cần thiết phải hình thành một số tổ chức trung gian,

môi giới nhằm tư vấn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ các hoạt động hội nhập, giao

lưu quốc tế. Các tổ chức này có chức năng chính là làm cầu nối để hỗ trợ các chủ

thể Việt Nam tiếp xúc, giao lưu, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Trước mắt,

các tổ chức trung gian, môi giới này hoạt động theo cơ chế tự chịu trách nhiệm

về tài chính, có sự hỗ trợ kinh phí ban đầu từ nguồn ngân sách nhà nước.

4.2.4.2. Phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường công nghệ cao, tiếp

tục củng cố các tổ chức trung gian, môi giới hiện có và khuyến khích khu vực

tư nhân tham gia đầu tư phát triển các tổ chức trung gian, môi giới, đặc biệt

là đầu tư từ khu vực nước ngoài

Đầu tư, nâng cấp và phát triển sàn giao dịch công nghệ quốc gia, sàn

giao dịch công nghệ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số sàn

giao dịch công nghệ cấp vùng.

154

Liên kết các sàn giao dịch công nghệ quốc gia, các sàn giao dịch công

nghệ vùng và địa phương, phát triển mạng lưới các điểm kết nối cung cầu

trong cả nước về thị trường KHCN, thực hiện liên thông giữa thị trường

KHCN trong nước với thị trường quốc tế.

Xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu tích hợp, dùng chung về thị trường

KHCN, bao gồm các dữ liệu, thông tin về cung - cầu công nghệ, các kết quả

nghiên cứu, tài sản trí tuệ (sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế mạch tích

hợp), các tài liệu về đo lường, tiêu chuẩn, chất lượng, hàng rào kỹ thuật, công

cụ bảo hộ mậu dịch, các tổ chức trung gian, các chuyên gia tư vấn về thị

trường KHCN. Vận hành có hiệu quả cổng giao dịch công nghệ quốc gia liên

thông với các sàn giao dịch công nghệ trong nước và quốc tế.

Mặt khác, để hoàn thiện các tổ chức trung gian, môi giới hiện có, Nhà

nước cần cải tổ và củng cố những tổ chức đã có theo hướng chuyên môn hoá

vào một số lĩnh vực hiện nay chưa phát triển như lĩnh vực đánh giá, thẩm định

và giám định công nghệ. Đồng thời, nhà nước cần lựa chọn các tổ chức trung

gian, môi giới trọng điểm để có chính sách hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ

thuật và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC.

Nhà nước cũng cần phải đẩy mạnh việc xã hội hoá các tổ chức trung gian,

môi giới, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đưa ra các ưu đãi về

tài chính và hỗ trợ về thủ tục nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế, kể

cả các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh vào hoạt động

cung cấp dịch vụ trung gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC.

4.2.4.3 Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về năng lực, phẩm chất

của các cá nhân, tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới.

Điều này xuất phát từ thực tế là trong bối cảnh thực tiễn, các doanh

nghiệp và các chủ thể trên TTCNC không muốn sử dụng dịch vụ tư vấn,

môi giới do không muốn chia sẻ thông tin và do hạn chế về trình độ, năng

lực của các tổ chức trung gian, môi giới. Do vậy nhà nước cần có các quy

định về trình độ chuyên môn và nguyên tắc đạo đức của đội ngũ tư vấn,

155

môi giới bằng việc cấp chứng chỉ hành nghề trung gian, tư vấn và đưa ra

ràng buộc pháp lý buộc các chuyên gia tư vấn phải tuân thủ nguyên tắc giữ

bí mật thông tin cho khách hàng.

4.2.4.4. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực

trung gian, môi giới khoa học công nghệ

Các tổ chức trung gian, môi giới cần phải chú trọng công tác phát triển đội

ngũ cán bộ, chuyên gia môi giới, bởi vì đây là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo

chất lượng tư vấn, môi giới. Các tổ chức trung gian, môi giới phải có kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác trung

gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC, trong đó chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng

ở nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế. Để phát triển đội ngũ này, nhà nước cần có

chính sách hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung vào các vấn đề như

kỹ năng đàm phán, soạn thảo hợp đồng CGCN, những vấn đề pháp lý trong mua

bán hàng hoá CNC, phương pháp đánh giá và định giá công nghệ. Ngoài ra, các tổ

chức trung gian, môi giới cũng cần có biện pháp thu hút các nhà khoa học có trình

độ cao đã nghỉ hưu và có nhiều kinh nghiệm để tham gia vào các tổ chức này.

4.2.4.5. Hình thành những tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới riêng cho

một số đối tượng đặc thù và các hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới do

Nhà nước đỡ đầu.

Do các chủ thể khác nhau sẽ có những yêu cầu về dịch vụ CNC khác

nhau, do vậy, để đáp ứng được nhu cầu này, trong thời gian tới cần phải hình

thành các tổ chức trung gian, môi giới cho một số đối tượng đặc thù, trước hết

là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho lĩnh vực nông nghiệp.

Hiệp hội đại diện cho các tổ chức trung gian, môi giới trước cơ quan

quản lý nhà nước và công chúng, là nơi tập hợp các đề xuất, kiến nghị của tổ

chức trung gian, môi giới thành viên đối với nhà nước, đồng thời nhà nước

thông qua hiệp hội để có sự quản lý thống nhất, tập trung đối với các tổ chức

trung gian, môi giới này. Giúp cho việc bảo vệ các tổ chức thành viên trước

sức ép cạnh tranh từ các tổ chức trung gian, môi giới nước ngoài và giúp mở

rộng thị trường quốc tế cho các tồ chức trung gian, môi giới trong nước.

156

Hình thành hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới là một chiến lược

quan trọng trong bối cảnh HNKTQT. Hiệp hội sẽ kết hợp, liên kết các tổ chức

trung gian, môi giới lại với nhau để nâng cao vị thế các tổ chức trung gian,

môi giới. Hiệp hội sẽ giúp cho các tổ chức trung gian, môi giới thành viên các

nhiệm vụ sau đây như liên kết và kết nối các tổ chức trung gian, môi giới

thành một hệ thống gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi, cung cấp,

chia sẻ thông tin, hợp tác kinh doanh nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của chủ

thể trên TTCNC; Hỗ trợ cho các tổ chức trung gian môi giới nâng cao năng

lực cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.

4.2.4.6. Thúc đẩy phát triển nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ

cao, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ tại

các doanh nghiệp và đẩy mạnh phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công

nghệ cao trên thị trường công nghệ cao

Hỗ trợ nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo, năng lực hấp thụ công

nghệ,lựa chọn công nghệ, hiểu biết pháp lý về chuyển giao, xuất nhập khẩu

công nghệ.

Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu, tìm kiếm, lựa

chọn, thương thảo, ký kết hợp đồng CGCN từ các nguồn trong nước và nước

ngoài.Chú trọng vào các ngành hàng chiếm tỉ trọng cao.

Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các rào cản kỹ thuật và chính

sách bảo hộ thương mại tại các thị trường có liên quan đến hàng hoá, dịch vụ

của Việt Nam.

Hỗ trợ tiếp thu, làm chủ và ứng dụng các sáng chế và bí quyết công

nghệ, CGCN tại các doanh nghiệp; chú trọng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực sản

xuất kinh doanh đòi hỏi các công nghệ sản xuất thông minh, công nghệ I 4.0

và các công nghệ bảo quản, chế biến sâu để đáp ứng yêu cầu của các hiệp

định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.

Hỗ trợ thương mại hoá, tiếp thu, làm chủ và áp dụng kết quả nghiên

cứu, tài sản trí tuệ tại các doanh nghiệp, nhất là các kết quả nghiên cứu, tài

157

sản trí tuệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nướccó khả năng đáp ứng nhu cầu

đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.

Phát triển các kênh nhập khẩu công nghệ tiên tiến có hiệu quả từ nước

ngoài, nhất là công nghệ từ các nước tiên tiến, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh

doanh và đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đối

với một số lĩnh vực công nghiệp/ngành hàng quan trọng.

Hỗ trợ nhập khẩu các công nghệ đa dụng, đa mục đích, công nghệ cốt

lõi.Thực hiện các dự án giải mã công nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo

của 3-5 ngành hàng trọng điểm quốc gia theo phương thức đối tác công tư

Thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người

Việt Nam ở nước ngoài tham gia hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp

và phát triển thị trường KHCN tại Việt Nam.

4.2.5. Đẩy mạnh quá trình mở rộng, liên kết hợp tác quốc tế

Tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện về lĩnh vực KHCN nói chung và

TTCNC nói riêng với những đối tác có tiềm lực KHCN lớn, từ đó hướng tới

thành lập và mở rộng các Viện/Trung tâm nghiên cứu trọng điểm về phát triển

công nghệ quốc gia mang tầm quốc tế là nội dung rất quan trọng. Thời gian

qua, Việt Nam tích cực hợp tác quốc tế sâu rộng với nhiều quốc gia về phát

triển KHCN cũng như TTCNC, một số tổ chức NCKH và phát triển công

nghệ tiên tiến quốc tế đã được Chính phủ cho phép thành lập như: Viện Toán

cao cấp, viện nghiên cứu ứng dụng đa ngành, định hướng công nghệ công

nghiệp hoạt động theo cơ chế đặt hàng). Các tổ chức này hoạt động theo cơ

chế đặc thù với tính tự chủ cao và phát triển xứng tầm quốc tế. Tuy nhiên, số

lượng các tổ chức này rất ít nên cần phải tăng cường mở rộng hợp tác quôc tế

với nhiều quốc gia phat triển khác để tạo nên tảng cho nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ ở trình độ cao đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước

và gia tăng xuất khẩu sản phẩm CNC ra nước ngoài trên cơ sở thực hiện một

số nội dung như sau:

158

4.2.5.1. Tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học

công nghệ

Thông qua việc tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về KHCN với

các tổ chức nước ngoài, các tổ chức KHCN Việt Nam sẽ học hỏi, tiếp thu

tri thức, kinh nghiệm, từ đó nâng cao năng lực và trình độ của mình. Để

thực hiện được việc này, các tổ chức KHCN phải chủ động thực hiện các

nội dung sau:

Tổ chức KHCN tích cực tham gia mạng lưới nghiên cứu quốc tế, tham

gia một số chương trình, đề án nghiên cứu với các tổ chức nước ngoài. Chủ

động mời các tổ chức nước ngoài và các nhà khoa học quốc tế tham gia vào

các đề tài, chương trình nghiên cứu KHCN của mình. Để từ đó học hỏi và đào

tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Khuyến khích cán bộ khoa học tham gia các hoạt động KHCN với các

đơn vị nước ngoài như tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế, trao đổi hợp tác

ngắn ngày hoặc dài ngày ở nước ngoài. Cử cán bộ đến làm việc tại cơ quan

nghiên cứu của nước ngoài với tư cách là thành viên của nhóm nghiên cứu

trong các dự án liên kết, hợp tác quốc tế do nước ngoài chủ trì và tài trợ.

4.2.5.2. Thiết lập hệ thống cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới

công nghệ ở các nước phát triển do nhà nước trực tiếp quản lý.

Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực do bối cảnh

HNKTQT mang lại, chúng ta phải nắm bắt các thông tin về thực trạng, xu

hướng phát triển công nghệ của các quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới.

Để thực hiện được việc này, Nhà nước cần phải thành lập một hệ thống các cơ

quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ ở các nước do nhà nước

trực tiếp quản lý. Các cơ quan này sẽ trực tiếp tìm hiểu, chọn lọc các nhà đầu

tư và làm dịch vụ cho các dự án CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, thu thập

các thông tin về các đối tác, các bí quyết công nghệ, chính sách, chiến lược

phát triển KHCN của các quốc gia,... Thông qua các cơ quan này, chúng ta

thực hiện việc kiểm soát ngay từ đầu chất lượng công nghệ nhập khẩu vào

159

nước ta, giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tìm kiếm được những CNC,

có chất lượng và hạn chế những công nghệ lạc hậu.

4.2.5.3. Thực hiện việc đa dạng hoá và linh hoạt từ trong hoạt động

chuyển giao công nghệ từ các chủ thế nước ngoài vào Việt Nam và đồng bộ

hoá các tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế.

Trong bối cảnh HNKTQT hiện nay, mỗi quốc gia, chủ thể nước ngoài có

những thế mạnh nhất định về một loại hình hoạt động KHCN nào đó. Để tận

dụng được những ưu thế về KHCN của từng quốc gia, từng chủ thể nước ngoài

trên thị trường, các chủ thể Việt Nam cần phải đa dạng hoá kênh CGCN vào Việt

Nam. Việc này sẽ giúp cho các chủ thể Việt Nam tiếp nhận được nhiều loại hình

công nghệ từ các nước, tránh được các rủi ro gặp phải về CGCN từ nước ngoài.

CGCN từ nước ngoài cũng cần phải được linh hoạt, đa dạng trên các

nội dung như: xác định đối tượng CGCN; đối tác CGCN; kênh CGCN; nội

dung và phương thức CGCN. Mỗi một hình thức CGCN khác nhau sẽ có

những ưu điểm và hạn chế khác nhau, các chủ thể Việt Nam phải căn cứ vào

mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn và năng lực cụ thể của mình để chủ

động lựa chọn hình thức CGCN từ nước ngoài cho phù hợp.

Đồng bộ các tiêu chuẩn Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế để tạo ra

một chuẩn mực chung trong CGCN giữa các chủ thể tham gia thị trường trong

nước và ngoài nước. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tiếp

cận và áp dụng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn quốc

tế nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường. Để đáp ứng và phù

hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao các

yếu tố nội tại của doanh nghiệp như nâng cao chất lượng lao động, chất lượng

quản lý, trình độ kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật....

4.2.5.3. Nâng cao uy tín và xây dựng thương hiệu của các chủ thể trên

thị trường công nghệ cao trong điều kiện hội hhập kinh tế quốc tế.

Để chủ động HNKTQT, các chủ thể tham gia TTCNC phải xác định

được lợi thế so sánh của mình để xây dựng một chiến lược hội nhập phù hợp,

160

trong đó chú trọng việc khẳng định uy tín và xây dựng thương hiệu cho tổ

chức mình. Trong bối cảnh HNKTQT, việc khẳng định uy tín và thương

hiệu có vai trò quan trọng, trở thành một loại tài sản quý của các chủ thể

tham gia TTCNC. Nhằm nâng cao uy tín và khẳng định thương hiệu, các

chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường các hoạt động quảng bá hình

ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, triển lãm, giới thiệu các

thành tựu khoa học tại các hội chợ công nghệ để mở rộng các cơ hội giao

lưu, hợp tác, tích cực giới thiệu sản phẩm CNC của tổ chức mình trên thị

trường quốc tế.

4.2.5.4. Tăng cường sự hợp tác giữa các chủ thể trên thị trường công

nghệ cao, đặc biệt là đối với các chủ thể nước ngoài.

Thực tế hiện nay cho thấy, các chủ thể tham gia TTCNC đều cùng một

mục tiêu phát triển là nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia, gắn kết nghiên cứu

KHCN với sản xuất kinh doanh, do vậy để giảm thiểu những tác động tiêu

cực từ quá trình HNKTQT, các chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường hợp

tác với nhau, đặc biệt là các chủ thể nước ngoài. Sự hợp tác sẽ giúp cho các

chủ thể trên TTCNC phát huy được các lợi thế của mình, tương trợ lẫn nhau

cùng phát triển, cùng lớn mạnh. Sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC

được thực hiện theo các liên kết ngang với các mô hình như: hợp tác giữa tổ

chức KHCN - tổ chức trung gian, môi giới - doanh nghiệp; giữa các tổ chức

KHCN với nhau; giữa các tổ chức trung gian, môi giới với nhau.

Để sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC có hiệu quả đòi hỏi các

chủ thể phải tăng tính liên kết, hợp tác trong các hoạt động của mình, có sự

phân công, phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động KHCN. Sự hợp tác

của các chủ thể trên TTCNC được thực hiện thông qua các hình thức như:

cùng nhau thực hiện, tài trợ cho các dự án, chương trình KHCN, hỗ trợ

chuyển giao tri thức và công nghệ; trao đổi, bố trí các cán bộ KHCN đến công

tác, làm việc tại đơn vị đối tác, cùng nhau đưa sản phẩm ra thị trường.

161

4.2.5.5. Phát triển và hoàn thiện các quỹ hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc

tế cho các chủ thế trên thị trường công nghệ cao

Một là, đối với quỹ phát triển khoa học công nghệ trong doanh nghiệp

Hiện nay, nhà nước đã cho phép doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển

KHCN trong doanh nghiệp, tuy nhiên, trong quy chế tổ chức và hoạt động của

Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành

khác chưa có nhiều các quy định liên quan đến nội dung HNKTQT của doanh

nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới quy chế này cần được bổ sung, sửa đổi

một số nội dung như sau:

Tăng nguồn vốn hình thành quỹ cho các hoạt động HNKTQT của

doanh nghiệp. Bên canh việc trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để

lập Quỹ và từ các nguồn khác như: vốn đóng góp tự nguyện không vì mục

đích lợi nhuận của các tồ chức hợp pháp, cá nhân trong và ngoài nước; nguồn

vốn hợp pháp khác.

Bổ sung các quy định về sử dụng quỹ, bên cạnh các nội dung liên

quan đến mục tiêu phát triển doanh nghiệp như: Chi hoạt động quản lý chung

của quỹ; thực hiện các đề tài/dự án KHCN; hỗ trợ phát triển hoạt động nghiên

cứu KHCN của doanh nghiệp… cần bổ sung nội dung liên quan đến việc

khảo sát tìm hiểu công nghệ ở nước ngoài, thuê chuyên gia, tư vấn quốc tế về

công nghệ, chi phí liên kết, hợp tác với các tổ chức KHCN.

Định hướng việc sử dụng quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp

căn cứ theo nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh HNKTQT,

trong đó chú trọng việc sử dụng quỹ cho các hoạt động mở rộng thị phần, mở

rộng sản phẩm ra nước ngoài.

Hai là, hình thành các quỹ hỗ trợ hội nhập quốc tế cho các chủ thể trên

thị trường công nghệ cao

Để đáp ứng tốt hơn việc HNKTQT cho các chủ thể tham gia TTCNC,

nhà nước nên thành lập quỹ hỗ trợ hội nhập quốc tế cho các chủ thể này. Mục

tiêu của quỹ là trợ giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC có được thông tin

về thị trường KHCN thế giới; trợ giúp các khoá đào tạo, bồi dưỡng các kiến

162

thức về công nghệ, HNKTQT, đàm phán quốc tế, hỗ trợ phát triển nhân lực

cho các chủ thể trên thị trường KHCN...

Nguồn của quỹ sẽ do ngân sách nhà nước tài trợ và từ đóng góp của các

chủ thể tham gia TTCNC. Ngoài ra, quỹ còn huy động từ nguồn vốn vay ưu

đãi của nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.

4.2.6. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với phát triển thị

trường công nghệ cao ở Việt Nam

Căn cứ vào thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong thời gian

vừa qua và qua kinh nghiệm phát triển TTCNC của một số quốc gia thì nhà

nước có vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển của TTCNC Ở Việt

Nam. Do vậy, trong thời gian tới, để TTCNC ở Việt Nam phát triển, nhà nước

phải thực hiện đồng bộ và hệ thống các giải pháp khác nhau nhằm nâng cao

hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với TTCNC cụ thể là:

4.2.6.1. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiệu lực

quản lý nhà nước về TTCNC

Sửa đổi, bổ sung các chính sách liên quan để khuyến khích mạnh mẽ các

hoạt động đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nhu cầu thương

mại hoá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ, tiếp thu, làm chủ và ứng dụng công

nghệ mới, tiên tiến. Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong triển khai thực hiện

các giải pháp về kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh để

kích cầu công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp.

Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về

TTCNC. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, chỉ tiêu, chế độ báo cáo thống kê và

cập nhật thông tin về TTCNC. Điều tra thống kê hoạt động đổi mới sáng tạo

tại doanh nghiệp và giao dịch hàng hoá, dịch vụ KHCN trên thị trường.

Quy định rõ các cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển

TTCNC; về tổ chức và hoạt động của các sàn giao dịch công nghệ, định chế trung

gian; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tại TTCNC.

163

Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hỗ trợ nâng cao năng lực

tiếp thu, làm chủ công nghệ mới và bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong giao

dịch, mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC; xây dựng tiêu chí đánh giá, định giá tài sản

trí tuệ; cơ chế chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ.

4.2.6.2. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển của thị

trường công nghệ cao trong điều kiện mới

Trong thời gian vừa qua, một trong những nguyên nhân dẫn đến

TTCNC chưa phát triển là do nhận thức của một số cơ quan nhà nước, một số

ngành còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với quan điểm của Đảng,

Nhà nước về phát triển thị trường này. Điều này được thể hiện ở các nội dung

chủ yếu như: Chưa xác định được mô hình, nội dung và cách thức phát triển

TTCNC phù hợp trong bối cảnh HNKTQT; vẫn còn tình trạng bảo hộ các tổ

chức KHCN công lập; Chưa có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đổi mới

công nghệ... Do vậy, việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển

của TTCNC trong tiến trình HNKTQT thời gian tới là cần thiết. Từ những nội

dung còn tồn tại đó để thực hiện giải pháp này, cần phải thực hiện toàn diện

các giải pháp cụ thể như sau nhằm tạo nên sự chuyển biến về mặt nhận thức:

Trước hết, thực hiện tốt việc quán triệt đầy đủ, chính xác các chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước về TTCNC. Tuyên truyền, phổ biến đường lối,

chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển TTCNC cho xã hội. Đẩy mạnh

công tác giáo dục, phổ biến pháp luật, chính sách phát triển TTCNC tới các chủ

thể trên thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp, các tổ chức KHCN. Hình thành

văn hoá SHTT, văn hoá tôn trọng quyền SHTT trong xã hội.

Thứ hai, đổi mới tư duy, tạo nhận thức mới về TTCNC. Đổi mới tư

duy, tạo sự thống nhất trong nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là cấp

hoạch định chính sách về nội dung quan trọng hàng đầu trong phát triển

TTCNC là phải phát triển đồng bộ, đầy đủ, hài hoà và bền vững các yếu tố

cấu thành thị trường, phát triển phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng

phát triển, tránh sự phát triển khập khiễng, mất cân đối giữa các yếu tố. Tư

164

duy, nhận thức mới này được thể hiện ở sự thay đổi về tư duy, nhận thức theo

chiều rộng, số lượng, ngắn hạn, cục bộ sang tư duy theo chiều sâu, chất

lượng, bền vững và dài hạn trong việc phát triển TTCNC. Những tư duy, nhận

thức mới này phải được quán triệt đầy đủ trong việc đề ra chủ trương, chính

sách và các hoạt động quản lý, điều hành thị trường. Nhà nước cần chú trong

việc nghiên cứu các lý luận mới về phát triển nhanh, đồng bộ TTCNC, đồng

thời đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn phát triển thị trường này ở nước ta hiện

nay và vận dụng kinh nghiệm quốc tế để làm cơ sở cho việc hoạch định chính

sách, đường lối phát triển TTCNC ở nước ta thời gian tới.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức về vai trò và

những tác động của HNKTQT đối với TTCNC cho các chủ thể tham gia thị

trường thông qua các hình thức khác nhau như tuyên truyền trên các phương

tiện thông tin đại chúng, diễn đàn, hội nghị, hội thảo... với các nội dung về cơ

hội, thách thức trong điều kiện mới, trong đó chú trọng nội dung nâng cao

nhận thức của doanh nghiệp về sự cần thiết phải chủ động đổi mới và phát

triển công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thực tiễn. Để việc

tuyên truyền có hiệu quả nên khuyến khích các nhà khoa học, các cán bộ quản

lý KHCN tham gia trực tiếp vào công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và

kinh nghiệm về HNKTQT. Thông qua việc tuyên truyền này, các chủ thể

tham gia TTCNC sẽ chủ động hơn trong việc nâng cao năng lực để thích ứng

với bối cảnh và điều kiện mới.

Thứ tư, thường xuyên lấy ý kiến đóng góp của các chủ thể tham gia thị

trường trong việc xây dựng pháp luật và chính sách của nhà nước liên quan đến

việc phát triển TTCNC. Việc đóng góp ý kiến của chủ thể tham gia TTCNC giúp

cho các chính sách của chính phủ phù hợp với thực tiễn hơn, hạn chế được

những tồn tại, bất cập trong các chính sách của nhà nước. Việc đóng góp ý kiến

được thực hiện thông qua góp ý trực tiếp hoặc là góp ý tại các hội nghị, hội thảo

xây dựng các dự thảo chính sách. Việc đóng góp ý kiến của các chủ thể đối với

chính sách của nhà nước phải trên cơ sở lợi ích chung, tránh những lợi ích cục

165

bộ, có như vậy các ý kiến đóng góp của các chủ thể mới có giá trị và hiệu quả

đối với chính sách của nhà nước trong việc phát triển TTCNC.

4.2.6.3. Nâng cao hiệu lực quản lý và thực thi pháp luật của nhà nước

với thị trường công nghệ cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Trên quan điểm và kinh nghiệm quốc tế về vai trò hết sức quan trọng

của nhà nước trong việc phát triển TTCNC từ đó nhà nước thực hiện tốt vai

trò của mình thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước

trong việc phát triển TTCNC, bản thân nhà nước cũng cần có bộ máy quản lý

nhà nước niệu quả, tinh gọn, chuyên nghiệp, đáp ứng được các yêu cầu thực

tiễn đặt ra, các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối

với TTCNC trong điều kiện mới là:

Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về thị trường công nghệ

cao theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp.

Một là, tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hoá các hoạt động nghiệp

vụ của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật ở trung ương

và địa phương có liên quan tới TTCNC nhằm thực hiện hiệu quả các mục

tiêu, cam kết quốc tế của Việt Nam. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ

quản lý, cán bộ chuyên môn, cán bộ hoạch định chính sách liên quan tới

TTCNC thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần tránh hiện tượng do năng

lực thực thi pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước kém hiệu quả mà đưa ra

những điều khoản không phù hợp với thực tiễn hoặc gây khó khăn, bất lợi cho

các hoạt động giao dịch, mua bán hàng hoá KHCN nói chung và sản phẩm,

dịch vụ CNC nói riêng.

Hai là, nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế hoạt động và hệ thống tổ chức

các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật liên quan tới

TTCNC. Tiến tới thành lập tòa án chuyên trách về SHTT. Khắc phục tình

trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ chức, đơn vị có liên quan thông qua

việc phân công cụ thể quyền hạn cho từng cơ quan. Củng cổ, kiện toàn các tổ

chức quản lý về TTCNC ở các ngành và địa phương.

166

Ba là, phân cấp mạnh hơn giữa các Bộ, ngành và địa phương trong

quản lý các hoạt động liên quan tới TTCNC theo hướng giao thêm nhiều

quyền hơn cho các địa phương trong việc thực hiện các hoạt động quản lý nhà

nước. Chẳng hạn như giao cho các địa phương quyền xác nhận các đối tượng

được hưởng chính sách miễn giảm thuế liên quan đến hoạt động nghiên cứu

KHCN, CGCN hoặc là các tổ chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ

sản phẩm, dịch vụ CNC.

Bốn là, thành lập các tổ chức bảo vệ bản quyền quyền SHTT. Các tổ

chức này kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuyên truyền,

phổ biến và thực thi hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tới TTCNC.

Thứ hai, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách liên quan

tới thị trường công nghệ cao

Để tăng cường công tác thực thi pháp luật, chính sách liên quan tới

TTCNC cần phải: (1) Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp

luật về SHTT; (2) Nâng cao hiệu quả công tác xét xử các tranh chấp về quyền

SHTT; (3) Tăng cường công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực SHTT

và lĩnh vực cạnh tranh; (4) Kết hợp đồng thời các biện pháp hành chính, dân

sự và hình sự để đảm bảo thực thi quyền SHTT; (5) Tiếp tục triển khai các

chương trình hành động về phòng, chống xâm phạm quyền SHTT và các

chương trình chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.

Ngoài ra, cần phải phát triển các dịch vụ hỗ trợ việc thực thi các văn

bản pháp luật như dịch vụ đăng ký hợp đồng công nghệ, dịch vụ đăng ký

quyền SHTT, dịch vụ thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật...

Thứ ba, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc phát triển đồng bộ

các chủ thể trên thị trường công nghệ cao

Nhà nước xây dựng và lập quy hoạch, kế hoạch phát triển các chủ thể

trên TTCNC trong từng giai đoạn, thực hiện lồng ghép quy hoạch phát triển

các chủ thể này với quy hoạch phát triển chung của TTCNC nhằm đảm bảo sự

phát triển đồng bộ các chủ thể trên TTCNC. Nhà nước tác động và can thiệp

167

trực tiếp vào sự hình thành và phát triển các chủ thể trên TTCNC thông qua các

công cụ điều tiết của nhà nước. Đối với những chủ thể chậm phát triển hoặc phát

triển chưa đồng bộ với các chủ thể khác (như các tổ chức trung gian, môi giới, tư

vấn... ), nhà nước sẽ đầu tư vốn, nhân lực cơ sở vật chất hoặc tạo điều kiện thuận

lợi về cơ chế, chính sách cho chủ thể đó hình thành và phát triển. Đối với những

chủ thể đã có nhưng năng lực còn nhiều bất cập như các tổ chức KHCN công lập,

nhà nước sẽ tiến hành chuyển đổi, sắp xếp lại sang mô hình doanh nghiệp, đảm

bảo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính.

Thủ tục hành chính phải đơn giản, thuận tiện, rõ ràng nhằm tạo điều

kiện cho các chủ thể trên TTCNC phát triển như tạo điều kiện về thủ tục

cho các tổ chức KHCN đổi mới theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,

tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn đổi mới công

nghệ... Ngoài ra, nhà nước tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ

tầng cho việc phát triển TTCNC đồng bộ, hiện đại như hệ thống thông tin,

hệ thống văn phòng, trung tâm giao dịch , sàn giao dịch công nghệ, các hội

chợ triển lãm công nghệ.

168

Kết luận chương 4

Trước bối cảnh mới hiện nay, TTCNC ở Việt Nam ngày càng có vai trò

quan trọng và có nhiều cơ hội để phát triển góp phần quan trọng vào quá

trình phát triển KT-XH của đất nước. Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của

Việt Nam, để phát triển TTCNC ở Việt Nam chúng ta phải có những nhận

thức đầy đủ về quan điểm phát triển thị trường này trong thực tiễn. Các

quan điểm đó là: phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước

đối với sự phát triển của TTCNC; Phát triển TTCNC ở Việt Nam phải phù

hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững; Phải bảo

đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia TTCNC trên cơ sở tôn trọng

các quy luật KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát triển TTCNC ở Việt

Nam phải trên cơ sở kết hợp giữa nội lực và ngoại lực góp phần tăng cường

tiềm lực KHCN quốc gia.

Trên cơ sở các quan điểm nêu trên, cần thực hiện nhiều giải pháp khác

nhau để phát triển TTCNC trong điều kiện HNKTQT trong đó có những giải

pháp từ phía nhà nước và những giải pháp từ phía các chủ thể trên TTCNC

như : Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển TTCNC ở Việt Nam; phát

triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường; tạo lập và thúc đẩy

nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường; đẩy mạnh việc phát triển các

tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC; nâng cao vai trò quản lý của nhà

nước đối với phát triển TTCNC ở Việt Nam. Mỗi giải pháp đều có vị trí ý

nghĩa quan trọng góp phần thúc đẩy và nâng cao chất lượng phát triển

TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Do đó, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các

giải pháp cả từ phía Nhà nước và các chủ thể trên TTCNC và coi đây là

những nội dung quan trọng từng bước nâng cao chất lượng phát triển TTCNC

trong giai đoạn hiện nay.

169

KẾT LUẬN

Từ việc thực hiện chủ đề nghiên cứu, tác giả luận án đưa ra một số kết

luận như sau:

TTCNC đóng vai trò quyết định trong việc phát triển tiềm lực KHCN

quốc gia, gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất, kinh doanh, tạo

động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, hầu hết các

quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt nam nói riêng đều quan tâm

và đầu tư thích đáng cho việc phát triển TTCNC, coi đây là một nội dung

quan trọng góp phần vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước.

Ngày nay, trong điều kiện HNKTQT ngày càng sâu rộng, phát triển

thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng đang bị chi phối và ảnh

hưởng của rất nhiều các yếu tố, nhất là sự tác động của cuộc cách mạng 4.0.

Do vậy, phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay cần được tiến hành với

những nội dung cơ bản: (1) Gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng

nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC; (2) Gia tăng cầu về sản

phẩm, dịch vụ CNC; (3) Gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức trung

gian môi giới trên TTCNC.

Những phân tích về tác động của các yếu tố đến phát triển TTCNC cho thấy,

tiến trình này tạo ra các cơ hội và thách thức đối với quy mô và tốc độ phát triển,

chất lượng phát triển và tính đồng bộ trong việc phát triển các yếu tố cấu thành

TTCNC. Trong các tác động này, việc thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của

doanh nghiệp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn công nghệ từ bên ngoài

và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế, chính sách theo thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế là

những tác động quan trọng đến phát triển TTCNC.

Từ việc tìm hiểu kinh nghiệm phát triển TTCNC trên thế giới cho thấy,

để phát triển TTCNC trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia đã thực hiện

nhiều biện pháp khác nhau một cách linh hoạt, đa dạng căn cứ vào điều kiện,

hoàn cảnh và trình độ phát triển về kinh tế, KHCN của từng nước, trong đó

các quốc gia rất chú trọng việc phát huy vai trò, chức năng của nhà nước đối

với phát triển TTCNC, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

170

pháp luật và các chính sách phát triển TTCNC, tăng cường tiềm lực KHCN

của quốc gia, đẩy mạnh và mở rộng quá trình HNKTQT, thúc đẩy nhanh quá

trình CGCN cả trong và ngoài nước.

Trong thời gian vừa qua, TTCNC ở Việt Nam đã có bước phát triển do

tận dụng được các cơ hội của tiến trình HNKTQT mang lại như: Hệ thống

pháp luật, chính sách phát triển TTCNC ngày càng đầy đủ và hoàn thiện đáp

ứng yêu cầu trong các hiệp định, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;

Nhu cầu đối mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam gia tăng. Tuy

nhiên, nhìn tổng thể, đến nay, TTCNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu

tố cấu thành thị trường chưa phát triển đồng bộ, chưa đáp ứng được các yêu

cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay.

Những thành tựu và hạn chế đó có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách

quan khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do những bất cập

trong hệ thống pháp luật và chính sách phát triển TTCNC.

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, để phát triển

TTCNC ở Việt Nam trong thời gian tới chúng ta phải quán triệt đày đủ các quan

điểm sau:Phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước đối với sự phát

triển của TTCNC; phát triển TTCNC ở Việt Nam phải phù hợp với thực tiễn phát

triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững; Phải bảo đảm hài hoà lợi ích của các

chủ thể tham gia TTCNC trên cơ sở tôn trọng các quy luật KTTT định hướng xã

hội chủ nghĩa; phát triển TTCNC ở Việt Nam phải trên cơ sở kết hợp giữa nội lực

và ngoại lực góp phần tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia

Trên cơ sở quan điểm nêu trên, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp

khác nhau để phát triển TTCNC trong điều kiện mới. Những giải pháp này

bao gồm những giải pháp từ phía nhà nước và những giải pháp từ phía các

chủ thể trên TTCNC. Trong các giải pháp được đưa ra, nhóm giải pháp từ phía

nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển

TTCNC là nhóm giải pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với việc

phát triển TTCNC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

171

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thanh Tuấn (2016), “TTCNC ở Việt Nam thực trạng và giải pháp phát

triển”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 12, tr.93 - 95.

2. Nguyễn Thanh Tuấn (2017), “Vai trò của Nhà nước trong phát triển

TTCNC ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương, số 3, tr.31 - 33

3. Nguyễn Thanh Tuấn (2019), “Kinh nghiệm phát triển thị trường KHCN

của Trung quốc và tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự

báo, số 28, tr.68 - 71.

4. Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Đức Hoàng Thọ (2020), “Developing high-

tech market and sustainable agriculture in Israen: policy implications

for Viet Nam” (Phát triển TTCNC và nông nghiệp bền vững ở Israen:

Hàm ý chính sách cho Việt Nam). Labour, social publishing house,

july, 2020, pp. 105 - 116.

5. Nguyễn Thanh Tuấn (2020), “Sàn giao dịch công nghệ yếu tố quan trọng

trong phát triển tổ chức trung gian của thị trường KHCN hiện nay”,

Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 28, tr.41 - 43.

172

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Vân Anh (2012), Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động

CGCN ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Bách Khoa

Hà Nội, Hà Nội.

2. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012), “Bàn về thuật ngữ

thị trường khoa học, TTCN và thị trường KHCN”, Tạp chí Hoạt động

khoa học, số 10, tr. 10 -12

3. Phạm Ngọc Ánh (chủ biên) (2007), Thúc đẩy các tổ chức KHCN chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 4. Đinh Văn Ân, Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2004), Phát triển thị trường

KHCN ở Việt Nam, Nxb khoa học và kỹ thuật Hà Nội.

5. Đoàn Hữu Bẩy (2009), Phát triển thị trường KHCN kinh nghiệm của Trung Quốc và vận dụng vào Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện chính trị và kinh tế thế giới.

6. Bộ KHCN (2015), Báo cáo tổng kết công tác KHCN năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 7. Bộ KHCN (2015), KHCN Việt Nam năm 2014, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

8. Bộ KHCN (2016), KHCN Việt Nam năm 2015, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

9. Bộ KHCN (2017), KHCN Việt Nam năm 2016, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

10. Bộ KHCN (2018), KHCN Việt Nam năm 2017, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

11. Bộ KHCN (2019), KHCN Việt Nam năm 2018, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

12. Bộ KHCN (2020), KHCN Việt Nam năm 2019, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

13. Bộ KHCN (2019), Báo cáo tổng kết công tác KHCN năm 2018 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2019. Hà Nội.

173

14. Bộ KHCN (2018), Tổng luận số 6/2018, Thị trường KHCN, kinh nghiệm

phát triển tại các nước và bài học cho Việt Nam, Hà Nội.

15. Bộ KHCN (2020), Đề án chương trình phát triển KHCN đến năm 2030, Hà Nội. 16. David w. Pearse: Từ điển kinh tế học hiện đại. Nxb Chính-trị Quốc gia,

Hà Nội, 1999. tr.632.

17. Đinh Thị Kim Chi (2015), Phát triển thị trường sức lao động trên địa bàn tỉnh Bình Dương đến năm 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học, Liên hiệp Khoa học Kinh tế Kỹ thuật Môi trường miền Nam

18. Phạm Đình Chướng (2006), “Gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức về vấn đề sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Hoạt động khoa học (571), tr. 25-26

19. Cục Sở hữu trí tuệ (2011), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2010, Hà Nội. 20. Cục Sở hữu trí tuệ (2012), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2011, Hà Nội. 21. Cục Sở hữu trí tuệ (2013), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2012, Hà Nội. 22. Cục Sở hữu trí tuệ (2014), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2013, Hà Nội. 23. Cục Sở hữu trí tuệ (2015), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2014, Hà Nội. 24. Cục Sở hữu trí tuệ (2016), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2015, Hà Nội. 25. Cục Sở hữu trí tuệ (2017), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016, Hà Nội. 26. Cục Sở hữu trí tuệ (2018), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2017, Hà Nội. 27. Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2018, Hà Nội. 28. Vũ Đình Cự (2002), KHCN hướng tới thế kỷ XXI - định hướng và chính sách,

Uỷ ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khoá IX.

29. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế

tri thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Lê Đăng Doanh (2006), “Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, tăng cung

cho TTCN”, Báo Nhân dân, số 65, tr. 12-14

31. Phạm Văn Dũng (2008), “Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 32, tr. 25-28.

32. Phạm Văn Dũng (2008), "Chính sách tạo lập và phát triển thị trường

khoa học - công nghệ ở một số quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu Đông

Bắc Á, số 1, tr. 34-45.

174

33. Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Phan Xuân Dũng (2004), CGCN ở Việt Nam thực trạng và giải pháp,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Phan Xuân Dũng (2008), Công nghệ tiên tiến và CNC với tiến trình công

nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Đại học kinh tế Quốc dân (2019), Vai trò của các tổ chức trung gian

trên thị trường KHCN tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công

nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

37. Đại học kinh tế Quốc dân (2020), Cơ hội, thách thức và điều kiện phát

triển công nghệ cao Đà Nẵng đến năm 2020 tầm nhìn 2030: Kỷ yếu hội

thảo khoa học quốc gia

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Đề án xây dựng đội ngũ trí thức trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, HNKTQT, trình

Hội nghị lần thứ VII BCH Trung ương Đảng khoá X, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. Nguyễn Điền, Phan Thị Kim Phương (2005), “Thị trường KHCN thành

phố Hồ Chí Minh: tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển”, Tạp

chí Nghiên cứu kinh tế, số 6, tr. 63-69

42. Nguyễn Xuân Điền (2017), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới

chính sách về KHCN nhằm phát triển thị trường KHCN đáp ứng yêu

cầu hội nhập”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 5, tr. 13-17.

43. Phạm Thị Hà (2017), “Kinh nghiệm quốc tế về sử dụng các công cụ tài

chính thúc đẩy phát triển TTCN và những bài học rút ra cho Việt

Nam”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 5, tr. 36 - 40.

44. Thanh Hà (2004), “Phát triển thị trường KHCN tại Việt Nam: Nhiều

vướng mắc cần tháo gỡ”, Tạp chí Tia sáng số 7, tr. 14-17.

175

45. Lương Thanh Hải (2017), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt

Nam”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 3, tr. 45-48.

46. Trần Thanh Hải (2012), “Thuật ngữ thị trường KHCN, TTCN tiếp cận từ

pháp luật về sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 15, tr. 23-27.

47. Dương Quỳnh Hoa (2009), “Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách

phát triển khoa học - công nghệ”, Tạp chí Kinh tế và Chính trị Thế giới,

số, 157, tr. 20 -28.

48. Trần Thị Mai Hoa (2008), “Đầu tư mạo hiểm - hình thức đầu tư cần

quan tâm”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 588, tr. 68-73.

49. Học viện Tài chính (2017), Cơ chế chính sách và công cụ tài chính kế

toán phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Tài

chính, Hà Nội.

50. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Môi trường thể chế cho việc phát triển

TTCNC, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trung tâm đào tạo bồi

dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Phát triển đồng bộ các loại thị trường

trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

52. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Thị trường KHCN Việt Nam trong tiến

trình hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Võ Hưng, Nguyễn Lan Anh, Trần Ngọc Ca (2003), Công nghệ

và phát triển TTCN ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

54. Vũ Văn Hưng (2008), “Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KHCN: chính

sách cần được phát huy”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 592, tr. 46-48.

55. Nguyễn Đình Hương (2006), Phát triển các loại thị trường trong nền KTTT

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

56. Lan Hương (2007), “Một số giải pháp phát triển KHCN trong thời kỳ

hội nhập quốc tế”, Tạp chí Công nghiệp, số 4, tr. 14-15.

176

57. Nguyễn Thị Hường (2007), Phát triển thị trường KHCN Việt Nam trong

điều kiện HNKTQT, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

58. Nguyễn Thị Hường (2006), Thị trường KHCN Việt Nam: thực trạng và

giải pháp, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

59. Nguyễn Mạnh Khang (2004), “Luật Sở hữu trí tuệ và vấn đề phát triển thị

trường KHCN tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo (6), tr 15-16.

60. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy trí tuệ Việt Nam, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Trần Quốc Khánh (2014), “Thị trường KHCN Việt Nam trước yêu cầu

phát triển và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 864, tr. 201-203.

62. Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Thị Ngọc Anh (2015), “Tác động của sáng

chế đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển tiềm lực

KHCN”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2, tr. 14-23.

63. Cao Minh Kiểm (2011), “Tình hình công bố khoa học của Việt Nam giai

đoạn 2000 - 2009”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 621, tr. 30 - 32.

64. Đỗ Hương Lan, Lê Thái Hòa (2020), “Thương mại hóa sản phẩm

KHCN: Bài học kinh nghiệm từ Israel”, Tạp chí Khoa học Công nghệ

Việt Nam, số 4, tr. 56-59.

65. Trần Việt Lâm (2005), “Phát triển thị trường KHCN: những vấn đề từ

phía doanh nghiệp”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 102, tr. 9-10.

66. Nguyễn Thùy Linh (2017), Chính sách tài chính với sự phát triển của

thị trường KHCN, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Tài chính, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Liên (2006), “Cạnh tranh là động lực thúc đẩy thị trường

KHCN phát triển”, Tạp chí Xây dựng, số 6, tr. 3- 6.

68. Hoàng Xuân Long (2005), “Kinh nghiệm của Trung quốc về quản lý

TTCN ở địa phương”, Tạp chí KHCN, số 2, tr. 35-38.

69. Hoàng Xuân Long (2007), “Tăng cường quản lý TTCN ở địa phương”,

Tạp chí KHCN, số 8, tr. 14-15.

177

70. Hồ Ngọc Luật (2015), “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ trường

đại học vào các doanh nghiệp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp”,

Tạp chí Chính sách và quản lý KHCN, số 12, tr. 26-30.

71. Đoàn Đức Lương (2009), “Vai trò của sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu

khoa học và CGCN trong các trường đại học”, Tạp chí Khoa học, Đại

học Huế số 51, tr. 17-21.

72. Hàn Ngọc Lương (2002), “Quản lý TTCN của Trung Quốc”, Tạp chí

Hoạt động khoa học, số 10, tr. 20 -25.

73. C.Mác (1894), “Sự san bằng tỷ suất lợi nhuận chung do cạnh tranh, giá cả thị

trường và giá trị thị trường, lợi nhuận siêu ngạch” C. Mác và Ph. Ăngghen

toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.263 - 303.

74. C.Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG ST, H. 2000, tập 46, Phần

II, tr.15,304,372,367

75. Trần Văn Minh (2012), Nghiên cứu phát triển TTCN trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh, Luận án tiến sĩ, Đại học Mỏ địa chất, Hà Nội.

76. Mai Văn Nam (2010), “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp”, Tạp chí Phát

triển kinh tế số 231, tr. 41- 43.

77. Đoàn Năng (9/2009), “Hệ thống pháp luật KHCN Việt Nam - 50 năm

hình thành và phát triển”, Tạp chí Hoạt động Khoa học số 604, tr. 15-20.

78. Ngân hàng thế giới (2002), Báo cáo phát triển thế giới 2002 - Xây

dựng thể chế hỗ trợ thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Ngô Tuấn Nghĩa (2008), “Kinh nghiệm thế giới trong việc huy động và

sử dụng nguồn tài chính phục vụ nghiên cứu khoa học công nghệ trong

khu vực doanh nghiệp”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế

giới, số 7, tr. 31-40.

80. Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Kinh nghiệm xây dựng

TTCN của Trung Quốc" Tạp chí Hoạt động khoa học, số 11, tr. 17 - 21.

178

81. Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Về TTCN tại Việt Nam”,

Tạp chí Hoạt động khoa học, số 6, tr. 32 - 36.

82. Phan Thị Bích Nguyệt (7/2009), “Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cho đổi mới

công nghệ tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 225, tr. 23-27.

83. Nguyễn Duy Nhiên (2017), Chuyển giao công nghệ cao từ nước ngoài

vào một số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam hiện nay Luận

án tiến sĩ kinh tế chính trị, Đại học quốc gia, Hà nội.

84. Nguyễn Minh Phong (Chủ biên - 2005), Phát triển thị trường khoa học-

công nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước, Nxb Tài

chính, Hà Nội.

85. Quốc hội (2000), Luật KHCN, số 29/2013/QH13, ngày 18/6/2013.

86. Quốc hội (2006), Luật CGCN số 80/2006/QH11

87. Quốc hội (2008), Luật CNC, số 21/2008/QH12, ngày 13/11/2008.

88. Quốc hội (2017), Luật Chuyển giao công nghiệp số 07/2017/QH14 ngày

19/6/2017.

89. Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân

lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá,

Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

90. Phạm Văn Quý (2003), “Phát triển nguồn nhân lực CNC-Kinh nghiệm

của Trung Quốc”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 5, tr. 37-39.

91. Jonh Sigurdon (2004), Kinh nghiệm các nước Châu Âu về phát triển thị

trường khoa học - công nghệ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

92. Vũ Trường Sơn, Lê Vũ Toàn (2015), “Định giá công nghệ và vai trò của

Nhà nước trên TTCN”, Tạp chí KHCN Việt Nam, số 6, tr. 23-26.

93. Dương Minh Tâm (2009), “Về đầu tư mạo hiểm trong CNC”, Tạp chí

Hoạt động khoa học, số 604, tr. 12-14.

94. Nguyễn Chiến Thắng (2012), "Phát triển thị trường KHCN nhằm thúc đẩy

tái cơ cẩu nền kinh tế giai đoạn 2011-2020", Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

179

95. Nguyễn Vũ Thao (2016), “Thúc đẩy phát triển TTCN thông qua hoạt

động kết nối cung - cầu”, Tạp chí KHCN Việt Nam, số 11, tr. 19 - 22.

96. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê

duyệt Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011-2020.

97. Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 29/03/2013

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày

01/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về Phát triển KHCN

phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

98. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 08/11/2013

Phê duyệt Chương trình phát triển thị trường KHCN đến năm 2020.

99. Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 76/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật CGCN.

100. Nguyễn Tiệp (2010), Giáo trình thị trường lao động, Nxb Lao động -

xã hội, Hà Nội

101. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2016). Công báo thống kê kinh tế -

xã hội Trung Quốc năm 2016.

102. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2017). Công báo thống kê kinh tế -

xã hội Trung Quốc năm 2017.

103. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2018). Công báo thống kê kinh tế -

xã hội Trung Quốc năm 2018.

104. Nguyễn Văn Tri (2005), “Môi trường pháp lý cho việc hình thành và

phát triển TTCN”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4, tr. 102 - 105.

105. Tạ Doãn Trịnh (2009), “Bản chất kinh tế của tri thức KHCN”, Tạp chí

Hoạt động khoa học, số 600, tr. 28-32.

106. Dương Kỳ Trường (2007), “Hiện trạng và xu thế phát triển khu khoa

học công nghệ nông nghiệp của Tung Quốc”, Tạp chí Hoạt động Khoa

học, số 3, tr. 98-104.

180

107. Vũ Anh Tuấn (2006), Phát triển thị trường khoa học-công nghệ ở Tp.

Hồ Chí Minh, Nxb Thống kê, Hà Nội.

108. Lê Văn Tuyên (2018), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Công thương, số 1, tr. 93 - 97.

109. Lê Thị Khánh Vân (2005), “Chợ công nghệ và thiết bị - hoạt động xúc

tiến hiệu quả để tạo lập và phát triền TTCN”. Tạp chí Thông tin và tư

liệu, số 8, tr. 46 - 49.

110. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), TTCN và vấn đề

đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

111. Viện Chiến lược và chính sách KHCN (2003), Công nghệ và phát triển

TTCN ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

112. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển

KTTT, Nxb Tri thức bách khoa, Hà Nội.

113. Hồ Đức Việt (2010), Xây dựng, phát triển thị trường KHCN trong nền

KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

114. Nguyễn Quốc Việt, Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2015), “Quản

lý công của OECD trong phát triển thị trường KHCN. Tạp chí Nghiên

cứu Châu Phi và Trung Đông, số 5, tr. 32 -35.

115. Đỗ Văn Vĩnh (2002), “Bàn về phát triển TTCN ở nước ta”, Tạp chí

Hoạt động khoa học, số 2, tr. 21 -25.

116. Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh (2014), “Nâng cao vai trò

quản lý của Nhà nước đối với phát triển TTCN”, Tạp chí Kinh tế và

phát triển, số 205, tr. 42 - 45.

Tiếng Anh

117. Bruce.Buskirk, Allanc.Reddy. (1994), “Planning market development in

high tech firms”, Technovation, pp. 493-503

118. Geoffrey.Moore; Paul Johnson; Tom Kippola (1994), “How high - tech

Market develope”, Market business new, pp. 234 - 241.

181

119. Geoffrey. Moore (2011), “High tech Market development moded”.

Industrial Marketing Management, pp. 133-142.

120. JakkiJ.Mohr, Sanjit.Sengupta, Staley.Slater. (2010), “Marketing of high

- technology product and innovation” Technological Forecasting &

Social Change, pp. 578 - 584.

121. Morone, Joseph G. (1993), “In Winning in High-Tech Markets”, Boston

Harvard Business School Press, pp. 325 - 332.

122. Phillip T. Meade, Luis Rabelo (2004), The technology adoption life

cycle attractor: Understanding the dynamics of high-tech markets

Technological Forecasting & Social Change, pp. 667-684.

123. Richard T. Gretz, SumanBasuroy (2013), “Why Quality May Not

Always Win: The Impact of Product Generation Life Cycles on Quality

and Network Effects 8in High-tech Markets”, Journal of Retailing 89,

pp. 281-300.

124. Samli A. C, Wirth G. P, Wills J. R (1994), “High-Tech Firms Must Get

More Out of Their International Sales Efforts”, Industrial Marketing

Management, pp. 333-342.

125. Sanjit Sengupta (1998), “Some Approaches to Complementary

ProductStrategy” J. prod innov manage, pp. 352- 367.

126. Rudi Bekkers, Arianna Martinelli (2012), Knowledge positions in high-

tech markets: Trajectories, standards, strategies and true innovators

Technological Forecasting & Social Change, pp. 1194-1216.

127. Russell Bratt (1986), “Industrial buying in high tech market” Industrial

Marketing Managerment, pp. 293 - 298.

128. Young Roak Kim (2005), “Technology Commercialization in Republic

of Korea”, Korea Technology Transfer Center.

182

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ ĐƯỢC BAN HÀNH ĐẾN NĂM 2019

Tên văn bản

TT I 1

2

Luật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 luật có liên quan đến quy hoạch (số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KHCN). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch

(số 35/2018/QH14 ngày 20/11/2018, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số

điều Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Đo lường, Luật Tiêu chuẩn, Quy

chuẩn kỹ thuật).

3

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở

hữu trí tuệ (số 42/2019/QH14).

II Nghị định

1 Nghị định số 04/2018/NĐ-CP ngày 10/01/2018 của Chính phủ quy định về

cơ chế ưu đãi đối với khu CNC Đà Năng.

2 Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản

phẩm, hàng hóa.

3 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi

tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật CGCN năm 2017.

4 Nghị định số 78/2018/NĐ-CP ngày 16/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và

Quy chuẩn kỹ thuật.

5 Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09/11/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung,

bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực quản lý nhà

nước của Bộ KHCN và một số quy định về kiểm tra chuyên ngành.

6 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KHCN.

183

7 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 15/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết việc lập, thẩm định, phê duyệt, công bố, thực hiện đánh giá và điều chỉnh quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử.

8 Nghị định số 51/2019/NĐ-CP ngày 13/6/2019 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong hoạt động KHCN và CGCN.

9 Nghị định số 60/2019/NĐ-CP ngày 05/7/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Mính, nhà nước và các giải thưởng khác về KHCN.

III Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ 1 Quyết định số 08/2018/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo trực thuộc Bộ KHCN.

2 Quyết định số 24/2018/QĐ-TTg ngày 18/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 78/2013/QĐ-TTg ngày 25/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục và lộ trình phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ và các tổ máy phát điện hiệu suất thấp không được xây dựng mới.

3 Quyết định số 30/2018/QĐ-TTg ngày 31/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác nhận hàng hóa sử dụng trực tiếp cho phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN, đổi mới công nghệ; phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất của dự án.

4 Quyết định số 76/2018/QĐ-TTg ngày 16/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ KHCN. 5 Quyết định số 996/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

6 Quyết định số 1285/2018/QĐ-TTg ngày 01/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nguồn tin KHCN phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 7 Quyết định số 1780/2018/QĐ-TTg ngày 19/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Khu CNC công nghệ sinh học Đồng Nai. 8 Quyết định số 1851/2018/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

184

9 Quyết định số 08/2019/QĐ-TTg ngày 15/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trực thuộc Bộ KHCN.

10 Quyết định số 09/2019/QĐ-TTg ngày 15/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc trực thuộc Bộ KHCN.

11 Quyết định số 18/2019/QĐ-TTg ngày 19/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy

định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng.

12 Quyết định số 100/2019/QĐ-TTg ngày 19/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc”.

13 Quyết định số 104/2019/QĐ-TTg ngày 22/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về phòng ngừa, phát hiện và chuẩn bị ứng phó nguy cơ, sự cố hóa học, sinh học, bức xạ và hạt nhân giai đoạn 2019-2025.

14 Quyết định số 1068/2019/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia.

IV Thông tư 1

2

3

4

5

6

Thông tư số 01/2018/TT-BKHCN ngày 12/4/2018 quy định tổ chức quản lý Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Thông tư số 02/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 quy định chế độ báo cáo thực hiện hợp đồng CGCN thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, mẫu văn bản trong hoạt động cấp Giấy phép CGCN, đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung hoạt động CGCN. Thông tư số 03/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 14/2015/TT-BKHCN ngày 19/8/2015 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KHCN. Thông tư số 04/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 ban hành Danh mục các cuộc điều tra thống kê KHCN ngoài Chương trình điều tra thống kê quốc gia. Thông tư số 05/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-BKHCN ngày 16/11/2015 quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành và cộng tác viên thanh tra ngành KHCN. Thông tư số 06/2018/TT-BKHCN ngày 06/6/2018 ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dầu nhờn động cơ đốt trong”.

185

7

8

9

Thông tư số 07/2018/TT-BKHCN ngày 06/6/2018 ban hành sửa đổi 1:2018 QCVN 9:2012/BKHCN quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về tương thích điện từ đối với thiết bị điện và điện tử gia dụng vào các mục đích tương tự. Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN ngày 15/6/2018 sửa đổi, bổ sung Khoản 7 Điều 6 Thông tư số 15/8/2015T-BKHCN ngày 25/8/2015 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu. Thông tư số 09/2018/TT-BKHCN ngày 01/7/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 09/2016/TT-BKHCN ngày 09/6/2016 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển hàng nguy hiểm là các chất ô xy hóa, hợp chất hữu cơ (thuộc loại 5) và các chất ăn mòn (thuộc loại 8) bằng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa.

10 Thông tư số 10/2018/TT-BKHCN ngày 01/7/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 06/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dầu nhờn động cơ đốt trong”.

11 Thông tư số 11/2018/TT-BKHCN ngày 06/8/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo cho các trạm quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục

12 Thông tư số 12/2018/TT-BKHCN ngày 31/8/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về xây dựng, ký kết và quản lý các chương trình hợp tác quốc tế của Quỹ Phát triển KHCN Quốc gia trong tài trợ thực hiện nhiệm vụ KHCN, hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực KHCN quốc gia.

13 Thông tư số 13/2018/TT-BKHCN ngày 05/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT ngày 09/6/2014 của Bộ trưởng Bộ KHCN - Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về bảo đảm an toàn bức xạ trong y tế.

14 Thông tư số 14/2018/TT-BKHCN ngày 15/11/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thiết bị X - quang di động; X - quang chụp mạch, chiếu can thiệp, X - quang chụp rang.

15 Thông tư số 15/2018/TT-BKHCN ngày 15/11/2018 của Bộ trưởng Bộ

KHCN quy định chế độ báo cáo thống kê ngành KHCN.

16 Thông tư số 16/2018/TT-BKHCN ngày 29/11/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về tổ chức hoạt động và cơ chế phối hợp hoạt động của Mạng lưới các cơ quan thông báo và hỏi đáp và Ban liên ngành về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.

17 Thông tư số 17/2018/TT-BKHCN ngày 10/12/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi và xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành KHCN.

18 Thông tư số 18/2018/TT-BKHCN ngày 18/12/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

186

19 Thông tư số 01/2019/TT-BKHCN ngày 30/5/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN

quy định về đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ.

20 Thông tư số 02/2019/TT-BKHCN ngày 03/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Danh mục công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp CNC.

21 Thông tư số 03/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý của Bộ KHCN. 22 Thông tư số 04/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành quy định về việc sử dụng hóa chất để thực hiện thí nghiệm, nghiên cứu khoa học.

23 Thông tư số 05/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.

24 Thông tư số 07/2019/TT-BKHCN ngày 26/7/2019 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2013/TT-BKHCN ngày 26/9/2014 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đo lường đối với phương tiện đo nhóm 2.

25 Thông tư số 08/2019/TT-BKHCN ngày 25/9/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm chiếu sáng bằng công nghệ đèn LED”.

26 Thông tư số 09/2019/TT-BKHCN ngày 30/9/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN

ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em”.

27 Thông tư số 10/2019/TT-BKHCN ngày 29/10/2019 của Bộ trưởng Bộ

KHCN quy định quản lý nhiệm vụ KHCN theo Nghị định thư.

28 Thông tư số 12/2019/TT-BKHCN ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tiêu chí xác định sản phẩm, thiết bị sử dụng nước tiết kiệm. 29 Thông tư số 13/2019/TT-BKHCN ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thép làm cốt bê tông”. 30 Thông tư số 14/2019/TT-BKHCN ngày 05/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN

ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG)”.

31 Thông tư số 15/2019/TT-BKHCN ngày 05/12/2019 của Bộ trưởng Bộ

KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thép không gỉ”.

32 Thông tư số 16/2019/TT-BKHCN ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tặng cờ thi đua, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KHCN và Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp KHCN”.

33 Thông tư số 17/2019/TT-BKHCN ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn đánh giá trình độ công nghệ, năng lực công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực sản xuất.

34 Thông tư số 18/2019/TT-BKHCN ngày 15/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đánh giá hoạt động và chất lượng dịch vụ của tổ chức sự nghiệp công lập trong lĩnh vực KHCN.

Nguồn: [11]

187

Phụ lục 2: ĐƠN ĐĂNG KÝ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP ĐÃ NỘP VÀ BẰNG

ĐỘC QUYỀN KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP ĐÃ CẤP TỪ 2011 ĐẾN 2019

Năm

Tổng số Tổng số

2011-2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số Số đơn đăng ký đã nộp Người Người nước Việt ngoài Nam 3.576 7.116 1.007 1.861 1.158 1.583 1.179 1.694 1.650 1.841 13.640 33.027 Số bằng độc quyền đã cấp Người Người nước Việt ngoài Nam 2.483 4.165 577 877 928 1.339 1.083 1.277 938 1.234 9.422 20.522 6.648 1.454 2.267 2.360 2.172 29.944

10.692 2.868 2.741 2.873 3.491 46.667 Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN

Phụ lục 3: ĐƠN ĐĂNG KÝ SÁNG CHẾ VÀ BẰNG ĐỘC QUYỀN SÁNG CHẾ

Số đơn đăng ký sáng chế Số bằng độc quyền sáng

đã nộp chế đã cấp

Năm Người Người Người Người Tổng Tổng Việt nước Việt nước số số Nam ngoài Nam ngoài

2011-2015 2.196 19.100 21.296 243 5.785 6.028

2016 560 4.668 5.228 76 1.347 1.423

2017 592 4.790 5.382 109 1.636 1.745

2018 646 5.425 6.071 205 2.014 2.219

2019 720 6.800 7.520 169 2.451 2.620

Tổng số 7.259 67.676 74.935 1.220 21.803 23.023

Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN

188

Phụ lục 4: HOẠT ĐỘNG SÁNG CHẾ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Năm

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Đơn đăng ký sáng chế Số lượng 301 382 443 487 583 560 592 646 720

Bằng độc quyền sáng chế Tăng (%) Số lượng 12,4 40 12,50 45 31,11 59 -38,98 36 75,00 63 20,63 76 43,42 109 88,07 205 -17,56 169

Tăng (%) 15,65 26,91 15,97 9,93 19,71 -3,95 5,71 9,12 11,46 Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN

Phụ lục 5: Công bố quốc tế của Việt Nam và các nước ASEAN giai

đoạn 2014 - 2019

2014 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nước

Malaysia 28.865 27.518 30.334 32.776 33.186 35.854 214.020

Singapo 20.064 20.631 21.645 22.343 22.481 22.778 149.325

Indonesia 6.760 8.350 12.427 20.462 32.289 43.816 129.462

Thái Lan 13.675 13.191 14.885 16.446 17.729 19.507 107.944

Việt Nam 4.071 4.529 5.866 6.602 8.821 12.431 46.094

Philipin 2.255 2.727 3.100 3.375 3.731 5.097 22.244

Brunei 391 442 527 513 472 569 3.207

Campuchia 330 359 403 431 486 518 2.800

Myanmar 154 225 313 444 565 729 2.542

Lào 226 247 271 240 297 339 1.827

Nguồn: [12]

189

Lĩnh vực

Phụ lục 6: 10 CHUYÊN NGÀNH NGHIÊN CỨU CÓ SỐ LƯỢNG CÔNG BỐ HÀNG ĐẦU 2015 1.132 967 562(7) 588(5) 567(6) 606(3) 293(10)

2017 2019 2018 2016 1.578 2.488 3.326 1.545 1.273 1.820 2.843 1.340 692(5) 937(4) 1.204 1.927 775(3) 1.057(3) 1.157 1.885 822(5) 1.181 1.778 718(4) 939 1.357 638(7) 746(7) 905 1.289 492(9) 519(10) TT 1 Kỹ thuật 2 Khoa học máy tính 3 Vật lý và thiên văn học 4 Toán học 5 Khoa học vật liệu 6 Dược phẩm/y học 7 Khoa học môi trường

8 591(4) 691(6) 752(6) 1.041 1.202

9 434(8) 479(10) 540(9) 761 917

KH nông nghiệp và sinh học Hóa sinh, di truyền và sinh học phân tử 10 Kỹ thuật hóa học 426(9) 520(8) 564(8) 842 792

Chú thích: Trong ngoặc là thứ tự công bố trong năm tương ứng của lĩnh vực

Nguồn: [12]

Phụ lục 7: 10 TỔ CHỨC CÓ CÔNG BỐ QUỐC TẾ CAO NHẤT NĂM 2019

TT Tên đơn vị Số lượng công bố

1 Trường Đại học Tôn Đức Thắng 2.710

2 Trường Đại học Duy Tân 1.165

3 Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam 1.128

4 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 1.110

5 Đại học Quốc gia Hà Nội 981

6 Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh 554

7 Trường Đại học Hà Nội 553

8 Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 553

9 Viện KHCN tính toán 499

10 Trường Đại học Cần Thơ 320

Nguồn: [12]

190

Phụ lục 8: CÔNG BỐ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM NĂM 2019 THEO CHUYÊN NGÀNH

TT Chuyên ngành Số bài Tỷ lệ (%)

1 Kỹ thuật 3.326 26,76

2 Khoa học máy tính 2.843 22,87

3 Vật lý và thiên văn 1.927 15,50

4 Toán học 1.885 15,16

5 Khoa học vật liệu 1.778 14,30

6 Y học 1.357 10,92

7 Khoa học môi trường 1.289 10,37

8 Hóa học 1.272 10,23

9 Khoa học nông nghiệp và sinh học 1.202 9,67

10 Khoa học xã hội 952 7,66

11 Hóa sinh, di truyền học và sinh học phân tử 917 7,38

12 Kỹ thuật hóa học 792 6,37

13 Năng lượng 761 6,12

14 Kinh doanh, quản trị và kế toán 634 5,10

15 Khoa học trái đất và hành tinh 527 4,24

16 Khoa học ra quyết định 497 4,00

17 Kinh tế, kinh tế lượng và tài chính 466 3,75

Nguồn: [12]

191

Phụ lục 9: PHÂN BỐ CÁN BỘ NGHIÊN CỨU THEO KHU VỰC THỰC HIỆN NĂM 2017

Cán bộ nghiên cứu 2013 2015 2017 Khuvực thực hiện

Tổchức R&D

Tổ chức giáo dục đại học

Doanh nghiệp

Đơn vị hành chính, sự nghiệp

Tổ chức dịch vụ KHCN

Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số 3.781 9.405 15.661 939 29.786 9.624 35.922 19.279 803 65.628 205 1.231 15.876 2.150 19.462 695 3.932 8.296 829 13.752 71 638 1.607 101 2.417 4.029 9.261 12.694 697 26.681 10.619 40.011 17.624 841 69.095 239 1.293 17.126 4.356 23.014 865 4.718 8.069 1.297 14.949 122 607 1.509 93 2.331 3.367 8.815 16.635 1.002 29.819 7.959 31.582 22.819 1.075 63.435 185 1.154 15.175 2.039 18.553 481 3.411 11.403 659 15.954 269 260 652 53 1.234

Nguồn: [11]

192

Phụ lục 10: CHUỖI CÁC HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NĂM 2019

Chuỗi sự kiện TT Địa điểm

1 Trình diễn, kết nối cung cầu công nghệ 2019 Gia Lai

Chợ công nghệ thiết bị và ngày hội khởi nghiệp sáng tạo

2 vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Techmart - Techfest Cần Thơ

Mekong 2019)

Chợ công nghệ và thiết bị chuyên ngành công nghệ sinh 3 Hà Nội học - Biotechmart

Triển lãm quốc tế lần thứ 6 về công nghệ thí nghiệm, phân TP. Hồ 4 tích chuẩn đoán và công nghệ sinh học (Analytica Việt Chí Minh Năm 2019)

Triển lãm quốc tế về sản phẩm, dịch vụ viễn thông, công TP. Hồ 5 nghệ thông tin và truyền thông 2019(Ictcomm 2019) Chí Minh

Triển lãm quốc tế chuyên ngành thiết bị và công nghệ chế 6 Hà Nội biến nông - lâm - thủy sản 2019(Growtech 2019)

7 Triển lãm quốc tế về điều khiển và tự động hóa Hà Nội

Nguồn: [12]

193

Phụ lục 11: CHI CHO R&D THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ NGUỒN CẤP KINH PHÍ NĂM 2017

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Tổng chi NSNN NSTW NSĐP Doanh nghiệp Nước ngoài Nguồn khác Nguồn cấp kinh phí Tổ chức GDĐH

12.970,57 5.083,69 1.160,17 344,75 5.266,66 336,88

778,42

10.122,28 326,26

331,29

25,10

8.859,95 553,32

26,36

3.275,74

106,01

93,74

0

2.780,96 294,96

0,06

26.368,59 5.515,96 1.585,20

369,85

16.907,57 1.185,16

804,84

Thành phần kinh tế Nhà nước Ngoài nhà nước Có vốn đầu tư nước ngoài Tổng

Nguồn: Điều tra R&D,

Cục Thông tin KHCN Quốc gia.

Phụ lục 12: GIÁ TRỊ GIAO DỊCH CÔNG NGHỆ TOÀN NGÀNH

CÔNG NGHIỆP CHẾ TÁC

Tăng

trưởng

Giá tri trung bình

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2012-

(trđ/DN)

2018

Giá

trị mua/nâng

cấp

công

nghệ

474.33 284.92 537.68

816.52

1,065.74 745.46

860.34

10%

trong nước

Giá

trị mua/nâng

cấp

công

nghệ

313.21 300.60 512.84

428.23

663.29

1,038.24 1,369.78

28%

nước ngoài

Tổng

giá

trị

mua/nâng cấp công

787.54 585.52 1,050.52 1,244.75 1,729.03 1,783.70 2,230.12

19%

nghệ

194

Số lượng hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng SHCN đã được đăng ký

Năm

Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng SHCN Các bên ký kết

Các bên ký kết

Tổng số

541 (1666)

2011

37 (153)

31 (87)

594 (1695)

2012

703 (1659)

2013

843 (2221)

2014

848 (2414)

2015

29 (141) 57 (288) 57 (169) 48 (172) 51 (110)

60 (189) 53 (303) 49 (174)

43 (88)

46 (86)

994 (2163)

2016

46 (97)

1015 (2721)

2017

950 (1906)

2018

117 (2492)

2019

VN-VN VN-NN NN-NN Tổng số VN-VN VN-NN NN-NN 179 (820) 206 (908) 220 (558) 334 (802) 307 (827) 334 (885) 339 (961) 267 (614) 376 (959)

710 (1947) 792 (2343) 864 (2073) 935 (2101) 1051 (2736) 1122 (2887) 1180 (2583) 1248 (3364) 134 (2970)

225 (848) 258 (899) 294 (690) 348 (806) 352 (903) 359 (1087) 361 (914) 398 (1231) 394 (958)

325 (693) 357 (700) 423 (912) 456 (1116) 492 (1413) 614 (1192) 630 (1663) 633 (1156) 746 (1426)

456 (958) 477 (1156) 513 (1214) 540 (1123) 648 (1723) 720 (1712) 761 (1540) 781 (1604) 901 (1908)

58 (129) 69 (529) 47 (104)

50 (136) 54 (107)

Phụ lục 13: HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI TƯỢNG SHCN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2019

Nguồn:[27]

195

Phụ lục 14: HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐỐI TƯỢNG SHCN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2019

Số lượng hợp đồng chuyển giao

Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển

quyền sử dụng đối tượng SHCN đã

giao quyền sử dụng đối tượng SHCN

được đăng ký

Năm

Các bên ký kết

Các bên ký kết

VN-

NN-

Tổng

VN-

VN-

NN-

VN-VN

Tổng số

NN

NN

số

VN

NN

NN

56

30

170

64

54

25

2011

84 (102)

143 (510)

(205)

(193)

(500)

(73)

(281)

(156)

8

60

16

212

89

45

2012

136 (309)

142 (575)

(320)

(148)

(777)

(198)

(169)

(208)

9

93

21

204

109

46

2013

90 (146)

164 (341)

(369)

(122)

(637)

(152)

(144)

(45)

73

24

206

90

104

22

2014

110 (257)

216 (815)

(455)

(104)

(816)

(188)

(461)

(166)

92

28

255

95

85

23

2015

135 (315)

203 (969)

(714)

(400)

(1429)

(251)

(612)

(106)

89

14

215

118

89

18

2016

112 (200)

225 (1057)

(361)

(84)

(645)

(240)

(455)

(362)

75

14

239

107

61

10

2017

150 (292)

178 (587)

(283)

(35)

(610)

(191)

(337)

(59)

53

11

221

150

75

14

2018

157 (221)

239 (530)

(162)

(30)

(413)

(287)

(226)

(17)

50

26

198

177

41

10

2019

122 (204)

228 (390)

(134)

(79)

(417)

(261)

(98)

(31)

Nguồn:[27]

196

Phụ lục 15: TỔ CHỨC R&D THEO VÙNG ĐỊA LÝ

Tổ chức R&D Vùng

1. Hà Nội 2. TP. Hồ Chí Minh 3. Đồng bằng Sông Hồng 4. Tây Bắc 5. Đông Bắc 6. Bắc Trung Bộ 7. Nam Trung Bộ 8. Tây Nguyên 9. Đông Nam Bộ 10. Đồng bằng sông Cửu Long Tổng Số lượng 329 131 24 9 29 49 29 23 28 36 687 Tỷ lệ % 47,89 19,07 3,49 1,31 4,22 7,13 4,22 3,35 4,08 5,24 100

Nguồn: [11]

Phụ lục 16: TỔ CHỨC KHCN CÓ HOẠT ĐỘNG R&D

Loại hình tổ chức CNC

Vùng

Đại học Dịch vụ

1. Hà Nội 2. TP. Hồ Chí Minh 3. Đồng bằng Sông Hồng 4. Tây Bắc 5. Đông Bắc 6. Bắc Trung Bộ 7. Nam Trung Bộ 8. Tây Nguyên 9. Đông Nam Bộ 10. Đồng bằng sông Cửu Long Tổng

62 46 57 18 57 36 34 18 27 49 404

53 24 14 7 12 20 15 7 14 23 189

Tổng số 444 201 95 34 98 105 78 48 69 108 1280

R&D 329 131 24 9 29 49 29 23 28 36 687

Nguồn: [11]

197

Phụ lục 17: NHÂN LỰC R&D THEO KHU VỰC THỰC HIỆN

VÀ CHỨC NĂNG LÀM VIỆC

Khu vực thực hiện Tổng số

Chức năng làm việc Cán bộ kỹ thuật 2.406 2.981 442 3.148 2.089 Cán bộ nghiên cứu 26.681 69.095 2.331 14.949 23.014

Cán bộ hỗ trợ 5.110 34.197 16.405 88.481 456 3.229 2.487 20.584 26.192 1.089 172.683 136.070 11.066 25.547 Tổ chức nghiên cứu CNC Trường đại học, học viện, cao đẳng Tổ chức dịch vụ nghiên cứu CNC Đơn vị sự nghiệp hành chính Doanh nghiệp Tổng cộng

Nguồn: [11]

Phụ lục 18: NGUỒN CUNG CÔNG NGHỆ QUAN TRỌNG NHẤT CỦA DOANH

NGHIỆP PHÂN THEO NHÓM NGÀNH VÀ VÙNG LÃNH THỔ

Các nước và vùng lãnh thổ phát triển

Ngành

Mỹ Đài Loan Trung Quốc Việt Nam Hàn Quốc + Singapore

Các nước phát triển khác

8.895 1.405 1.308 1.071 1.472 5.810 420 518 685 1,307 2.539 129 698 140 664 Các nước đang phát triển Các nước đang phát triển khác 9.257 9.089 849 268 2.478 980 425 47 1.127 1,425 1.428 79 2,349 240 2.692 544 168 46 37 72

1.443 649 259 1.145 81 905 68

606 270 142 341 26 176 34 Công nghiệp chế tác Chế biến thực phẩm Dệt may Chế biến gỗ giấy Hóa chất, cao su Kim loại và chế tạo máy Điện điện tử máy tính

Nguồn: [15]

198

Phụ lục 19: KINH PHÍ SỰ NGHIỆP KHCN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Ngân sách TW Ngân sách ĐP Năm Tỷ đồng Tỷ lệ % Tỷ đồng Tỷ lệ %

4.870 5.410 5.813 5.745 7.640 8.121 8.731 9.440 9545 65.315 76 76 75 75 78 78 78 77 78 76,78 1.560 1.750 1.920 1.935 2.150 2.350 2.512 2.750 3280 20.207 24 24 25 25 22 22 22 23 23 23,22 Tổng số (Tỷ đồng) 6.430 7.160 7.733 7.680 9.790 10.471 11.243 12.190 12.825 85.522 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng cộng

Nguồn: [12]

Phụ lục 20: NHU CẦU CÔNG NGHỆ ĐƯỢC HIỂN THỊ TỪCÁC SÀN GIAO

DỊCH CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ VIỆT NAM

TT Tên sàn giao dịch Ghi chú

1 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Việt Nam 2 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hải Phòng 3 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Bắc Giang 4 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị An Giang 5 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hải Dương 6 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Quảng Ninh 7 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Đà Nẵng 8 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hưng Yên 9 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị HCM 10 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Quảng Nam 11 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Cần Thơ 12 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hà Tĩnh

Tổng cộng: Cầu công nghệ/Thiết bị 5327 21 10 0 0 0 493 0 0 0 94 14 5959

Nguồn: Thống kê từ các các Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị