LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất
xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thanh Tuấn
2
MỤC LỤC
5
TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
11 11 17
1.1. 1.2. 1.3.
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Một số công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài Một số công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án luận án tiếp tục giải quyết
30
33
2.1.
33
2.2.
45
2.3.
60
Chương 3
79
3.1.
79
3.2.
81
3.3.
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA Những vấn đề chung về công nghệ, công nghệ cao, thị trường công nghệ và thị trường công nghệ cao Quan niệm, nội dung và yếu tố tác động đến phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ cao của một số quốc gia và bài học với Việt Nam THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Thành tựu, hạn chế trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
110
126
4.1.
126
4.2.
Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030 Quan điểm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030 Giải pháp phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030
134 169
171 172 182
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
01 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cách mạng 4.0
02 Chuyển giao công nghệ CGCN
03 Công nghệ cao CNC
04 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
05 Hội nhập kinh tế quốc tế HNKTQT
06 Khoa học và công nghệ KHCN
07 Kinh tế thị trường KTTT
08 Kinh tế - xã hội KT-XH
09 Nghiên cứu và phát triển R&D
Sở hữu công nghiệp 10 SHCN
Sở hữu trí tuệ 11 SHTT
Thị trường công nghệ 12 TTCN
Thị trường công nghệ cao 13 TTCNC
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Số lượng văn bằng bảo hộ của Việt nam được cấp giai
đoạn 2011 - 2019 82
Bảng 3.2 Số lượng văn bằng bảo hộ của người nước ngoài được cấp
giai đoạn 2011 - 2019 82
Bảng 3.3 Tổ chức đăng ký hoạt động KHCN 89
Bảng 3.4 Tổ chức R&D chia theo quy mô nhân lực 90
Bảng 3.5 Tổ chức R&D theo lĩnh vực CNC 90
Bảng 3.6 Số bài báo KHCN công bố trong nước 91
Bảng 3.7 Số bài báo KHCN công bố quốc tế giai đoạn 2014 - 2019 92
Bảng 3.8 Nhân lực R&D qua các năm (người) 93
Bảng 3.9 Cán bộ nghiên cứu chia theo trình độ 94
Bảng 3.10 Tổng chi quốc gia cho R&D 97
Bảng 3.11 Cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin KHCN 103
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
Hình 2.1
Tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có độ tập trung CNC và
trung bình cao
72
Hình 3.1
Công bố quốc tế của Việt Nam
92
Hình 3.2
Tổng số nhân lực R&D qua các năm
93
Hình 3.3
Nguồn cung công nghệ quan trọng theo lãnh thổ
105
Hình 3.4
Số lượng sáng chế của Việt Nam giai đoạn 2015-2019
105
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công nghệ cao (CNC) được coi là hàng hóa đặc biệt trên TTCN và để
phát triển TTCNC tất yếu phải chú trọng phát triển loại hàng hóa đặc biệt này.
Xét về bản chất, công nghệ là yếu tố cốt lõi quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp và ở cấp độ quốc gia, công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển
KT-XH thông qua việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có. Xét về
bản chất của thị trường thì TTCNC không chỉ là loại thị trường đặc biệt mà còn
là một trong những yếu tố cơ bản quyết định tiềm lực KHCN của mỗi quốc gia.
Việc phát triển TTCNC luôn gắn với việc thực thi pháp luật về SHTT nhằm thúc
đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cũng
như khuyến khích sự sáng tạo KHCN. Khi đánh giá tiềm lực KHCN của một
quốc gia, người ta có thể nhìn nhận thông qua việc tạo lập và vận hành có hiệu
quả hay không các hoạt động của thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói
riêng như: Kết quả của việc tổ chức nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên
cứu, mức độ giao dịch mua - bán, CGCN trên thị trường và các yếu tố tạo lập
TTCN có tác động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
Trước yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển công nghệ, nhất là CNC, coi đó là
nền tảng và nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH và
HNKTQT của đất nước. Điều này được thể hiện trong Luật Công nghệ cao
năm 2008; Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển
Khoa học và công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục chủ trương phát triển mạnh mẽ KHCN
nhằm “Làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động
lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế…”[40, tr.119-120]. Từ vai trò quan trọng của CNC đối với phát triển kinh
tế - xã hội do đó vấn đề phát triển TTCNC được xác định là một trong những
nội dung trọng tâm của chiến lược phát triển KHCN đến năm 2020.
6
Trên thực tế, cùng với quá trình phát triển KTTT định hướng xã hội
chủ nghĩa, TTCNC ở Việt Nam tuy mới hình thành, phát triển nhưng bước
đầu hoạt động khá hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự phát triển của thị
trường KHCN Việt Nam. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển KT-XH trong
bối cảnh cách mạng 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, trong khi trình độ phát triển của
KHCN Việt Nam còn thấp, thị trường KHCN cũng như TTCNC còn nhỏ lẻ. Vì
thế, Việt Nam chưa thật sự có TTCNC đầy đủ, đặc biệt là cơ chế, chính sách phát
triển thị trường này còn nhiều bất cập, nhất là đối với các hoạt động triển khai, thử
nghiệm, ứng dụng và sử dụng sản phẩm CNC; chưa phát triển được nhiều sản
phẩm có giá trị CNC, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế;
mối quan hệ cung cầu về sản phẩm CNC và dịch vụ CNC còn mất cân đối dẫn
đến giá cả sản phẩm, dịch vụ CNC còn đắt so với sản phẩm cùng loại trên thị
trường thế giới. Do vậy, việc phát triển TTCNC lại càng trở nên cần thiết, cấp
bách cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với mong muốn nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống, chuyên sâu TTCNC ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị nhằm
cung cấp những luận cứ khoa học cho việc phát triển trường này thời gian tới, tác
giả lựa chọn vấn đề: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam làm đề tài
luận án tiến sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển TTCNC ở Việt Nam và
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về lĩnh vực này; trên cơ sở đó
đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên
quan đến đề tài.
Luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam, trong
đó tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: quan niệm, nội dung và
yếu tố tác động đến phát triển TTCNC.
7
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TTCNC của Trung Quốc, Cộng hòa
Liên bang Đức, Israel; trên có sở đó rút ra bài học phát triển TTCNC cho Việt
Nam thời gian tới.
Đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong đó tập trung
làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực trạng
phát triển TTCNC ở Việt Nam.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển TTCNC ở Việt Nam thời
gian tới nhằm góp phần phát triển thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói
riêng ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phát triển TTCNC.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu, đánh giá về sự phát triển về số lượng,
chất lượng nguồn cung, cầu, các tổ chức trung gian môi giới sản phẩm, dịch
vụ CNC trên TTCNC.
Phạm vi không gian: Ở Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Số liệu đánh giá thực trạng từ giai đoạn 2011-2019.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường
KHCN nói chung, TTCN và TTCNC nói riêng.
Cơ sở thực tiễn: Luận án tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tiễn một
số cơ quan, địa phương có liên quan đến đề tài; đồng thời nghiên cứu báo cáo
của các bộ, ngành liên quan đến nội dung đề tài, kế thừa kết quả nghiên cứu
của một số công trình khoa học có liên quan đến nội dung luận án.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp
nghiên cứu chung của luận án. Trên cơ sở đó, luận án sử dụng phương pháp
đặc thù của khoa học kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng hóa khoa
8
học, kết hợp với các phương pháp khác như: tiếp cận hệ thống; phân tích,
tổng hợp; lịch sử - lôgic; thống kê, so sánh.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng trong toàn bộ
luận án với mục đích gạt bỏ những vấn đề không cơ bản, bản chất để tập trung
nghiên cứu những vấn đề cơ bản, bản chất liên quan đến phát triển TTCNC.
Phương pháp này sử dụng trong việc giới hạn mục đích, nhiệm vụ, phạm vi
nghiên cứu ở phần mở đầu; xây dựng quan niệm, xác định nội dung, tiêu chí
đánh giá và phân tích nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTCNC ở Việt Nam ở
chương 2; trong lựa chọn số liệu phân tích thực trạng phát triển TTCNC ở
Việt Nam ở chương 3. Đồng thời, sử dụng trong việc đề xuất quan điểm, giải
pháp phát triển TTCNC ở chương 4. Theo nghiên cứu sinh, để thúc đẩy phát
triển TTCNC ở Việt Nam phải quán triệt nhiều quan điểm và triển khai đồng
bộ hệ thống giải pháp. Tuy nhiên, nhóm quan điểm và giải pháp mà nghiên
cứu sinh đề xuất là những quan điểm và giải pháp cơ bản, bao trùm, quyết
định nhất; khi được triển khai thực hiện tốt sẽ tạo bước đột phá trong phát
triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới.
Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng xuyên suốt các nội dung
nghiên cứu của luận án nhằm luận giải sự phát triển TTCNC Ở Việt Nam
trong mối quan hệ gắn kết các nội dung. Đồng thời nghiên cứu sự phát triển
TTCNC ở Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển TTCNC, gắn với các
yếu tố đặc thù của thị trường này. Phương pháp nghiên cứu này cho phép kết
cấu của luận án được tổ chức theo một bố cục chặt chẽ, logic.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong các chương của
luận án. Ở chương 1 phương pháp này được sử dụng để phân tích, nghiên cứu
các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; từ đó rút ra những vấn
đề luận án cần tập trung giải quyết. Ở chương 2, phương pháp này được sử
dụng để thực hiện các thao tác xây dựng quan niệm trung tâm, phân tích nội
dung, tiêu chí đánh giá và các nhân tố tác động đến phát triển TTCNC Ở Việt
Nam. Đồng thời, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và rút ra bài học kinh
9
nghiệm phát triển TTCNC cho Việt Nam. Ở chương 3, chương 4 của luận án,
phương pháp này được sử dụng trong thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề
ra; đặc biệt là chỉ rõ thành tựu, hạn chế trong phát triển TTCNC ở Việt Nam.
Phương pháp lịch sử, lôgic được sử dụng chủ yếu ở chương 1, chương 2 và
chương 3 nhằm nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển những vấn đề lý luận có
liên quan đến luận án như: lý luận về các yếu tố cấu thành TTCNC; các yếu tố tác
động, tiêu chí đánh giá sự phát triển TTCNC ở Việt Nam. Việc sử dụng phương
pháp này cho phép nghiên cứu sinh phân tích, đánh giá các hoạt động phát triển
TTCNC trong bối cảnh lịch sử cụ thể, gắn với yêu cầu nhiệm vụ KHCN.
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng ở cả phần lý luận và thực
trạng của luận án. Trong phần lý luận, việc thống kê, so sánh cho phép nghiên
cứu sinh tiếp cận được với nhiều lý thuyết khác nhau về vấn đề nghiên cứu, từ
đó rút ra “khoảng trống” lý luận cho luận án. Trong phần thực trạng, phương
pháp thống kê, so sánh được sử dụng nhằm đánh giá chính xác, khách quan sự
phát triển TTCNC ở Việt Nam. Với việc thống kê, so sánh số liệu cập nhật,
khách quan cho phép tác giả đánh giá chính xác thành tựu, hạn chế trong phát
triển TTCNC, từ đó chỉ rõ những nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực
trạng này để có quan điểm và giải pháp phù hợp.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã xây dựng các quan niệm công cụ liên quan đến công nghệ
cao, thị trường khoa học công nghệ, thị trường công nghệ cao; trên cơ sở đó
xây dựng quan niệm, nội dung và yếu tố tác động đến phát triển thị trường
công nghệ cao; đánh giá thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao; đồng
thời đề xuất quan điểm và giải pháp sát thực, phù hợp nhằm phát triển thị
trường công nghệ cao ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận
về phát triển TTCNC, trên cơ sở đó luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về phát
triển TTCNC ở Việt Nam.
10
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị và
kinh tế học về những vấn đề liên quan đến đề tài.
7. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu; 4 chương (11 tiết); Kết luận;
Danh mục các công trình nghiên cứu đã công bố của tác giả có liên quan đến
luận án; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1. Một số công trình khoa học về thị trường công nghệ và thị
trường công nghệ cao
Russell Bratt (1986), “Industrial buying in high tech market” (Mua
công nghiệp trong TTCNC) [127]. Tác giả nghiên cứu hành vi mua của những
người mua máy móc thiết bị phòng thí nghiệm CNC. Nghiên cứu được thực
hiện với 54 tổ chức. Trên cơ sở đó phân tích quá trình mua để xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nhà cung cấp trong TTCNC. Mục tiêu chính
của tác giả là phân tích quy trình mua công nghiệp cho các sản phẩm CNC và
xác định tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến nhà cung cấp sản
phẩm CNC. Ở công trình này, tác giả chưa đề cập đến khái niệm TTCNC,
những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường này, mà chủ yếu tập trung
phân tích quy trình mua các sản phẩm CNC và xác định tầm quan trọng của
các yếu tố ảnh hưởng đến nhà cung cấp.
Morone, Joseph G (1993), “In Winning in High-Tech Markets” (chiến
thắng tại TTCNC) [121]. Theo tác giả, thành công hay thất bại trong TTCNC
ít phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài mà chủ yếu phụ thuộc nhiều vào cách
thức tích hợp công nghệ và chiến lược kinh doanh. Qua đó tác giả đặt câu hỏi
tại sao các công ty này thành công trong khi nhiều công ty khác thất bại trong
TTCNC đã bị chi phối bởi sự hiện diện của Hoa Kỳ? Phân tích của Morone
tập trung chủ yếu vào quá trình quyết định của quản lý các cấp lãnh đạo. Ở
công trình này tác giả tập trung làm rõ việc xây dụng các chiến lược kinh
doanh và các yếu tố tác động thông qua các chính sách của chính phủ là nội
dung rất quan trọng trong sự quyết định của các công ty CNC trên TTCNC.
Tác giả cũng đã đề cập đến các yếu tố tác động đến sự phát triển của TTCNC,
nhất là với các công ty CNC của Hoa Kỳ.
12
Samli A. C, Wirth G. P, Wills J. R. (1994), “High-Tech Firms Must
Get More Out of Their International Sales Efforts” (Các công ty CNC phải
nhận được nhiều hơn từ nỗ lực bán hàng quốc tế) [124]. Ở công trình này, các
tác giả đã khái quát ba mục tiêu: Một là, khám phá một số vấn đề chính trong
quản lý bán hàng CNC quốc tế; Hai là, trên cơ sở nghiên cứu vấn đề bán
hàng, xây dựng mô hình quản lý bán hàng CNC quốc tế; Ba là, dựa trên nỗ
lực nghiên cứu sơ bộ phương pháp bán hàng để kiểm tra mô hình và sửa đổi
mô hình đó sao cho hiệu quả. Từ kết quả nghiên cứu thực tế, nhóm tác giả cho
rằng, cạnh tranh quốc tế về CNC sẽ mạnh mẽ hơn. Việc thiết lập lợi thế cạnh
tranh về trị trường CNC không chỉ tốt cho các công ty CNC mà còn tốt cho cả
nền kinh tế quốc gia vì tiềm năng cho sản phẩm CNC rất lớn. Phát huy lợi thế
cạnh tranh trong TTCNC quốc tế có liên quan chặt chẽ đến chức năng quản lý
bán hàng hiệu quả. Theo các tác giả, có bảy yếu tố quan trọng của tiếp thị
CNC và các ngành công nghiệp CNC sẽ định hình chức năng quản lý bán
hàng CNC. Các tính năng này là: đặc điểm thị trường; cân nhắc thời gian;
kiến thức của người tiêu dùng; yêu cầu kỹ năng kỹ thuật bán hàng; nhu cầu thị
trường về công nghệ; nguồn lực của công ty bị giới hạn; chuyển giao tri thức
quốc tế. Tất cả những yếu tố này đều có liên quan đến việc trang bị kiến thức
cho nhân viên bán hàng hoặc khả năng tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh
vực bán sản phẩm, dịch vụ CNC.
Sanjit Senguptan (1998), “Some Approaches to Complementary
Product Strategy ” (Một số phương pháp tiếp cận đến chiến lược sản phẩm bổ
sung) [125]. Tác giả nêu rõ tầm quan trọng của việc phát triển sản phẩm hỗ
trợ trong phát triển TTCNC. Trong đó tác giả phân tích nếu không có các sản
phẩm hỗ trợ, nhiều cải tiến CNC có thể thành phế liệu. Ví dụ sự phát triển của
máy tính để bàn không phải là động lực cho cuộc cách mạng máy tính cá
nhân. Sự đổi mới này phụ thuộc vào phát triển phần mềm xử lý văn bản, bảng
tính và xuất bản trên máy tính, cũng như các thiết bị ngoại vi như máy in
13
laser. Phát triển sản phẩm hỗ trợ cung cấp cơ hội cho các công ty ở TTCNC.
Tuy nhiên, các nhà quản lý phải cân bằng cơ hội đó với rủi ro gia tăng mà các
công ty phải đối mặt trong nỗ lực phát triển sản phẩm có thể mở rộng ra ngoài
phạm vi kinh doanh cốt lõi của họ. Để làm rõ nhận định này tác giả đã tập trung
vào giai đoạn phân tích kinh doanh sớm của quá trình phát triển sản phẩm, đồng
thời chỉ ra và xác định một số phương pháp thay thế mà các công ty sử dụng để
phát triển và tiếp thị sản phẩm hỗ trợ. Nghiên cứu này xem xét lợi thế cạnh tranh
trong chiến lược sản phẩm hỗ trợ, và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh trong chiến lược sản
phẩm hỗ trợ xuất phát từ hiệu ứng nhân trên doanh thu của sản phẩm chính và từ
sự đổi mới của sản phẩm hỗ trợ. Ngay cả khi sản phẩm hỗ trợ có tiềm năng bán
hàng thấp, sản phẩm hỗ trợ vẫn có thể cung cấp một lợi thế cạnh tranh đáng kể
thông qua hiệu ứng nhân của nó trên doanh thu của sản phẩm chính.
Phillip T. Meade, Luis Rabelo (2004), “The technology adoption life
cycle attractor: Understanding the dynamics of high-tech markets” (Yếu tố
thu hút vòng đời của việc áp dụng công nghệ: Hiểu được động lực của
TTCNC) [122]. Theo các tác giả xác định, người tiêu dùng rơi vào một trong
năm phân loại cơ bản: nhà sáng tạo, người dùng đầu tiên, đa số người dùng
đầu, đa số người dùng sau và những người dùng chậm trễ. Mỗi loại người tiêu
dùng này có một bộ nhu cầu, tiêu chí sản phẩm và phản ứng với những cải
tiến mới. Do đó, cần thiết phải có thị trường khác nhau cho mỗi nhóm người
tiêu dùng. Sự khác biệt giữa người tiêu dùng trong thị trường lần đầu (bao
gồm các nhà sáng tạo và người dùng đầu tiên) và đa số người dùng sớm là rất
lớn khiến sản phẩm thường rơi vào tình trạng giảm doanh thu và giảm thị
phần. Do vậy, việc xác định được vòng đời sản phẩm và thị hiếu của người
tiêu dùng là rất quan trọng, đây là một trong những yếu tố quyết định phần
lớn thị phần sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC. Để thực hiện nội dung này
các tác giả chỉ ra 2 phương pháp gồm: phương pháp phân tích định lượng và
định tính. Phương pháp phân tích định lượng có thể hỗ trợ một tổ chức xác
định rõ giai đoạn nào của vòng đời sản phẩm mà họ sử dụng. Phương pháp
14
này được trình bày bằng cách sử dụng một bộ quy tắc đơn giản có thể hỗ trợ
các tổ chức CNC. Và, các tác giả cho rằng, phương pháp đánh giá định tính là
phương tiện tin cậy nhất trong việc xác định vòng đời công nghệ.
Young Roak Kim (2005), Technology Commercialization in Republic of
Korea (Thương mại hóa công nghệ ở Hàn Quốc) [128]. Tác giả khẳng định, việc
CGCN và thương mại hóa công nghệ có vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế của Hàn Quốc; một trong những động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng là đầu tư vào các cơ sở quy mô lớn, phát triển cơ sở hạ tầng và mua công
nghệ tiên tiến nhất trên thị trường thế giới. Để thực hiện tốt các nội dung này,
cần thực hiện tốt các chính sách, chương trình hỗ trợ của các công ty và chính
phủ về thương mại hóa công nghệ. Tác giả cho rằng để thực hiện thành công
việc thương mại hóa công nghệ cần có trung tâm CGCN. Đây là đơn vị thực
hiện nhiệm vụ cho hoạt động thương mại và dịch vụ CGCN cụ thể là:
Thứ nhất, Dịch vụ tìm kiếm đối tác: Trung tâm có nhiệm vụ đánh giá
công nghệ để bán, dự báo tính khả thi của thị trường và xu hướng của ngành,
xác định những đối tượng được cấp phép hoặc đối tác tiềm năng, hỗ trợ giải
quyết các vấn đề bắt nguồn từ sự khác biệt về pháp luật, về công nghệ.
Thứ hai, Dịch vụ định giá công nghệ: Trung tâm là nghiên cứu khả thi
về công nghệ giai đoạn đầu thông qua phân tích thị trường, kỹ thuật, kinh tế
và thực hiện định giá kinh doanh công nghệ.
Thứ ba, Dịch vụ mua bán và sáp nhập: Trung tâm thúc đẩy mua bán và
sáp nhập liên quan đến các công ty dựa trên công nghệ và liên doanh trong
phòng thí nghiệm, cung cấp dịch vụ toàn diện từ việc tìm kiếm đối tác phù
hợp để ký hợp đồng.
Rudi Bekkers, Arianna Martinelli (2012), “Knowledge positions in
high-tech markets: Trajectories, standards, strategies and true innovators” (Vị
trí tri thức trong TTCNC: Quỹ đạo, tiêu chuẩn, chiến lược và sự đổi mới thực
sự) [126]. Các tác giả nhấn mạnh: Tri thức có vai trò quan trọng trong các loại
thị trường, nhất là TTCN, đặc biệt là TTCNC. Do vậy, công nghệ và tri thức
15
có tính chất hệ thống, dựa trên sự tích hợp của nhiều đóng góp khác nhau liên
quan, liên ngành. Trong cùng ngành, tiêu chuẩn cao ngày càng trở nên quan
trọng, vì chúng cần thiết để đảm bảo khả năng tương tác giữa các sản phẩm và
dịch vụ phức tạp tại các điểm khác nhau trong chuỗi giá trị. Công trình tập
trung vào việc đo lường thực nghiệm vai trò tri thức của các công ty trong các
thị trường dựa trên tiêu chuẩn CNC, trên cơ sở đó chỉ ra có thể đánh giá các
vai trò tri thức là quan trọng bởi chúng được giả định là tăng cơ hội tham gia
thị trường bền vững, sức mạnh thương lượng và doanh thu. Để thực hiện công
trình nghiên cứu này, các tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình
trên W-CDMA, tiêu chuẩn thế hệ thứ ba thành công nhất cho viễn thông di
động. Đây là một điểm tham chiếu quan trọng để xác định vai trò tri thức thực
tế của các công ty liên quan trong hoạt động CNC.
1.1.2. Một số công trình khoa học về phát triển thị trường công nghệ
và thị trường công nghệ cao
Geoffrey.Moore; Paul Johnson; Tom Kippola (1994), “How high -
tech Market develop” (TTCNC phát triển như thế nào) [119]. Công trình đã
chỉ ra làm thế nào để phát triển TTCNC, trong đó chỉ rõ một số giải pháp
quan trọng nhằm giúp cho Nhà nước cũng như các chủ thể tham gia có cách
định hướng, tiếp cận thị trường bảo đảm cho TTCNC phát triển một cách
mạnh mẽ và đạt hiệu quả.
Bruce Buskirk, Allanc Reddy (1994), “Planning market development in
high tech firms” (Lên kế hoạch phát triển thị trường trong các công ty CNC)
[117]. Các tác giả xem xét chiến lược tăng trưởng thay thế cho vai trò của các
công ty CNC. Sử dụng một ma trận chiến lược phát triển mở rộng, đồng thời
đề xuất tỷ lệ thất bại cao giữa các công ty CNC và các sản phẩm là kết quả
của sự thất bại của họ để nhận ra rằng họ không còn cạnh tranh trong
TTCNC. Từ thất bại chiến lược CNC, các tác giả cho rằng TTCNC của các
công ty này không phải là CNC và thất bại là kết quả tất yếu bởi chưa gắn
phát triển TTCNC với nhu cầu CNC. Đây là công trình chỉ ra sự thất bại của
16
một số công ty CNC trong phát triển TTCNC và chỉ ra sự cần thiết trong việc
nghiên cứu phát triển TTCNC theo đúng nghĩa, phù hợp với các loại sản
phẩm, dịch vụ CNC được lưu thông trên TTCNC.
Jonh. Sigurdon (2004), Kinh nghiệm các nước Châu Âu về phát triển
thị trường khoa học - công nghệ [91]. Tác giả đã phân tích khái quát các nhân
tố ảnh hưởng đến sự tiến bộ của công nghệ, đồng thời đánh giá vai trò của
công nghệ có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển thị trường
KHCN, trong đó có TTCNC. Bàn về vấn đề này, tác giả cho rằng thị trường
vốn, lao động, công nghệ kém phát triển, sự vận hành nhịp nhàng của các thể
chế pháp luật, ngành, đào tạo và công nghệ,… sẽ là những nhân tố quan trọng
cần thiết cho tiến bộ công nghệ. Khi đề cập kinh nghiệm của 6 nước Châu Âu
trong phát triển thị trường KHCN, tác giả tập trung làm rõ những nội dung cơ
bản mà các nước trên đều phải nghiên cứu trải nghiệm và thực hiện trong thực
tế đó là phát triển tốt kết cấu hạ tầng nghiên cứu; Nhà nước đẩy mạnh xây dựng
các tổ chức CGCN; nghiêm túc thực hiện các chương trình hỗ trợ CGCN.
JakkiJ Mohr, Sanjit Sengupta, Staley Slater (2010), “Marketing of high -
technology product and innovation” (Tiếp thị sản phẩm CNC và đổi mới) [120].
Nội dung công trình đề cập đến doanh nghiệp CNC trong việc xây dựng kế
hoạch chiến lược phát triển TTCNC, đồng thời làm rõ những yêu cầu đặt ra
trong quá trình định hướng phát triển TTCNC như: quan hệ đối tác và quan hệ
khách hàng; công cụ truyền thông tiếp thị; giá cân nhắc trong TTCNC,... Đặc
biệt, công trình đã làm rõ các bước xây dựng kế hoạch phát triển TTCNC.
Geoffrey Moore (2011), “High tech Market development moded”
(Phát triển TTCNC hiện đại) [118]. Tác giả nghiên cứu một số nội dung về
phát triển TTCNC hiện đại, trong đó chủ yếu đề cập đến thuận lợi, khó khăn
trong phát triển TTCNC của Hoa Kỳ. Trên cơ sở phân tích thuận lợi, khó
này, tác giả làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ các
doanh nghiệp, các tổ chức khác tham gia phát triển TTCNC; đồng thời kiến
nghị một số chính sách thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp và các tổ
chức vào phát triển TTCNC.
17
1.2. Một số công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
1.2.1. Một số công trình khoa học về thị trường khoa học công nghệ
và thị trường công nghệ
Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Kinh nghiệm xây dựng
TTCN của Trung Quốc” [80]. Bài viết khái quát sự hình thành, phát triển
TTCN của Trung Quốc, đồng thời chỉ ra một số bài học kinh nghiệm mà
Trung quốc đã vận dụng thành công trong phát triển thị trường này. Trong đó
làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho TTCN phát triển, hình
thành các cơ quan có chức năng hỗ trợ cho Nhà nước định hướng, điều hành
TTCN phát triển bao gồm: Ủy ban Kế hoạch; Ủy ban Khoa học; Ủy ban Kinh
tế và Thương mại… Bên cạnh đó, Trung Quốc rất chú trọng trong phát triển
doanh nghiệp KHCN, coi doanh nghiệp KHCN là chủ thể chính để phát triển
thị trường KHCN theo hướng ưu tiên nhập khẩu công nghệ và thu hút vốn
FDI vào TTCN. Đặc biệt, Trung Quốc đã thiết lập đồng bộ nền tảng cho phát
triển TTCN như hệ thống cơ sở nghiên cứu KHCN, pháp luật KHCN, các tổ
chức trung gian của thị trường KHCN.
Hàn Ngọc Lương (2002), “Quản lý TTCN của Trung Quốc”[72]. Đây
là bài viết đánh giá về phương pháp quản lý TTCN của Trung Quốc. Theo tác
giả công tác quản lý TTCN là nội dung rất quan trọng giúp cho thị trường này
phát triển. Do vậy, Bộ KHCN là cơ quan quản lý trực tiếp đối với TTCN và
đồng thời cần tổ chức ra các cơ quan quản lý trực tiếp mà cụ thể là: (1) Trục
trung tâm; (2) Trục hiệp hội TTCN Trung quốc; (3) trục hiệp hội trung tâm
xúc tiến năng suất Trung Quốc. Trong đó đối với mỗi trung tâm đều có vị trí
vai trò quan trọng trong việc điều hành, quản lý và phối hợp với các cơ quan
ban ngành từ Trung ương đến địa phương để thực hiện tốt công tác quản lý và
thúc đẩy cho TTCN phát triển.
Nguyễn Thị Hường (2006), “Thị trường KHCN Việt Nam: thực trạng
và giải pháp” [58]. Tác giả đánh giá toàn diện sự phát triển thị trường KHCN
ở Việt Nam giai đoạn 1990-2005. Trong đó phân tích cơ sở lý luận của quá
18
trình hình thành thị trường KHCN Việt Nam, đồng thời thông qua kinh
nghiệm của Trung quốc, Hàn quốc và một số nước Châu Âu và thực trạng
phát triển thị trường KHCN Việt Nam, tác giả khẳng định phát triển thị
trường KHCN là tất yếu khách quan và thực sự cần thiết không chỉ đối với
nền kinh tế Việt Nam mà còn cần thiết với nhiều nền kinh tế khác. Trên cơ sở
đó tác giả đề xuất 3 quan điểm và 5 nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
thị trường KHCN, góp phần nâng cao năng lực KHCN quốc gia thời gian tới.
Hoàng Xuân Long (2007), “Tăng cường quản lý TTCN ở địa phương”
[69]. Theo tác giả, TTCN tồn tại ở các quy mô, tốc độ khác nhau, trong đó có
quy mô cấp địa phương. Do trình độ phát triển KHCN và trình độ phát triển
của các địa phương khác nhau nên TTCN phát triển không đồng đều. Vì vậy,
ngoài việc chấp hành các quy định của Bộ KHCN, mỗi địa phương cần có văn
bản quy phạm pháp luật quản lý TTCN riêng. Theo tác giả, hầu hết các địa
phương ở Trung Quốc đều có điều lệ quản lý TTCN trên cơ sở cụ thể hóa
chính sách của trung ương, đặc biệt một số địa phương đã đưa ra các chính
sách thử nghiệm phát triển TTCN nhằm tạo ra sự đột phá hiệu quả hơn. Như
vậy, trong công trình này tác giả đã bàn về kinh nghiệm quản lý TTCN của
các địa phương ở Trung quốc. Đây là những bài học kinh nghiệm quý giá cho
Việt Nam, khi đang đẩy mạnh phát triển TTCN.
Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012), “Bàn về thuật ngữ
thị trường khoa học, TTCN và thị trường thị KHCN” [2]. Đây là công trình
các tác giả nghiên cứu nhằm thống nhất lại cách hiểu rõ ràng nhất về các khái
niệm các thị trường này. Vì theo tác giả thống nhất về cách hiểu các loại thị
trường này là một nội dung rất quan trọng trong việc đề ra chiến lược phát triển
các loại hàng hóa có liên quan. Trên cơ sở phân tích các nội dung liên quan như
làm rõ quan niệm thị trường; làm rõ quan niệm hàng hóa và các thuộc tính của
hàng hóa và các quan niệm liên quan đến thị trường khoa học công nghệ,
TTCN và thị trường khoa học, các tác giả khẳng định sự tồn tại của các loại thị
trường này tùy thuộc vào từng hoàn cảnh sử dụng cho phù hợp.
19
Trần Quốc Khánh (2014), “Thị trường KHCN Việt Nam trước yêu cầu
phát triển và hội nhập quốc tế” [61]. Theo tác giả, thị trường KHCN là một bộ
phận cấu thành của thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò then
chốt trong việc tạo môi trường thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới công
nghệ. Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường KHCN Việt Nam, nhất là
những tồn tại của thị trường này trong thời gian qua, tác giả đề ra 4 giải pháp
phát triển thị trường KHCN thời kỳ hội nhập quốc tế. Đây là những giải pháp
quan trọng cần thực hiện đồng bộ góp phần nâng cao năng lực KHCN quốc
gia, phục vụ phát triển KT- XH của đất nước.
Hồ Ngọc Luật (2015), “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ trường
đại học vào các doanh nghiệp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” [70]. Tác
giả cho rằng, CGCN và thương mại hóa kết quả nghiên cứu đang là vấn đề
được nhiều nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý trong nước và quốc tế quan
tâm. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu góp phần thúc đẩy phát triển thị
trường KHCN và đẩy nhanh ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Từ
đặc điểm của thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tác giả phân tích thực
trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, trên cơ sở đó chỉ ra khó khăn
trong quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Đồng thời tác giả cho
rằng, chính sách cần đổi mới hướng tới doanh nghiệp nhằm thúc đẩy
thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Theo tác giả, thúc đẩy thương mại hóa
kết quả nghiên cứu khoa học từ các trường đại học là nền tảng phát triển thị
trường KHCN ở Trung Quốc.
Vũ Trường Sơn, Lê Vũ Toàn (2015), “Định giá công nghệ và vai trò
của Nhà nước trên TTCN” [92]. Các tác giả cho rằng phát triển TTCN là một
trong những định hướng của hoạt động KHCN. Trong đó việc định giá công
nghệ là yếu tố quan trọng để khai thác, thương mại hóa và CGCN. Việc định
giá công nghệ là căn cứ quan trọng cho cả bên CGCN và bên nhận CGCN
trong việc thực hiện giao dịch công nghệ thành công. Tuy nhiên, trên thực tế
việc thực hiện các giao dịch này còn gặp nhiều rào cản cần tháo gỡ, nhất là
20
các quy định, quy chế, văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ,… còn
nhiều bất cập để định giá công nghệ.
Trên cơ sở đánh giá và phân tích thực trạng định giá công nghệ, tác giả
cho rằng, cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động này, đồng
thời đưa ra khuyến nghị để Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình, đó là: Hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động định giá công nghệ; Xây dựng các tổ chức và
đào tạo chuyên gia độc lập cho hoạt động định giá công nghệ; Xây dựng mạng
lưới thông tin quốc gia về định giá công nghệ. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Một số công trình khoa học về phát triển thị trường khoa học
công nghệ, thị trường công nghệ và thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Đinh Văn Ân, Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2004), Phát triển thị trường
KHCN ở Việt Nam [4]. Công trình này đánh giá tổng quan về thị trường
KHCN Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra nhận dạng về thị trường KHCN, kiến
nghị những chính sách ưu tiên phát triển thị trường này. Ngoài ra công trình
còn đề cập đến một số vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận như: Tác động của
sự hình thành, phát triển thị trường KHCN; vai trò của Nhà nước trong quá
trình hình thành, phát triển thị trường KHCN; vai trò của doanh nghiệp trong
đổi mới công nghệ với phát triển thị trường KHCN; vấn đề sở hữu trí tuệ, đầu
tư mạo hiểm đối với phát triển thị trường KHCN.
Nguyễn Văn Tri (2005), “Môi trường pháp lý cho việc hình thành và
phát triển TTCN” [104]. Tác giả bài viết đã khái quát thuận lợi, khó khăn
trong quá trình hình thành và phát triển TTCN Việt Nam. Đặc biệt đã khái
quát cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường này. Đây là
căn cứ pháp lý cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển
KHCN nói chung, phát triển TTCN nói riêng ở Việt Nam. Với công trình này,
tác giả chủ yếu làm rõ quyền và nghĩa vụ CGCN của các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp FDI, quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với các tổ chức và
cá nhân trong hoạt động nghiên cứu KHCN.
21
Lê Thị Khánh Vân (2005), “Chợ công nghệ và thiết bị - hoạt động xúc
tiến hiệu quả để tạo lập và phát triển TTCN” [109]. Tác giả đã khái quát vai trò
rất quan trọng của chợ công nghệ và thiết bị bởi nó không chỉ là nơi tạo cơ hội
kết nối cung cầu về công nghệ và thiết bị, mà còn có tác động rất lớn đến sự phát
triển năng lực KHCN quốc gia, góp phần vào phát triển KT- XH đất nước. Với ý
nghĩa đó, tác giả cho rằng để phát huy tốt vai trò của chợ công nghệ và thiết bị
cần thực hiện tốt 4 giải pháp: Hoàn thiện cơ sở pháp lý mua bán và dịch vụ tư
vấn giao dịch công nghệ; Giải pháp kích cầu công nghệ; Giải pháp kích cung
công nghệ; Phát triển các tổ chức trung gian trong giao dịch công nghệ.
Nguyễn Văn Liên (2006), “Cạnh tranh là động lực thúc đẩy thị trường
KHCN phát triển” [67]. Qua nội dung bài viết tác giả đề cập đến vấn đề cạnh
tranh trên thị trường là một yếu tố rất quan trọng, đây là những nội dung cần
thiết giúp cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp KHCN nói
riêng có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Do vậy, để thị trường
KHCN phát triển lành mạnh, hiệu quả theo tác giả đưa ra một số giải pháp
giúp cho doanh nghiệp cần nắm vững và thực hiện nghiêm túc trong quá trình
R&D thị trường, đồng thời tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà
nước trong việc điều hành, quản lý định hướng bằng nhiều hình thức, phương
pháp cách làm khác nhau nhưng bảo đảm được tính cạnh tranh công bằng
giữa các doanh nghiệp trong phát triển thị trường KHCN.
Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh
tế tri thức, [29]. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã đề cập đến
những vấn đề về CNC và lực lượng sản xuất mới; nền kinh tế tri thức với quá
trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay và đã đề cập đến nhiều nội dung liên
quan mật thiết đến đề tài mà NCS nghiên cứu:
Một là, trên cơ sở làm rõ các khái niệm cơ bản về KH&CN, tác giả đã
phân tích, luận giải đến các vấn đề về CNC; vai trò, đặc điểm các trụ cột của
CNC như: CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - công
nghệ nano, công nghệ năng lượng mới.
22
Hai là, tác giả đã phân tích vai trò của hệ thống CNC đối với lực lượng
sản xuất mới bằng cách so sánh lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất
hiện đại (cốt lõi là hệ thống CNC bao gồm 8 CNC cơ bản và hàng loạt CNC
chuyên ngành) với lực lượng sản xuất cũ trên các yếu tố cấu thành của lực
lượng sản xuất như con người lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Ba là, cuốn sách đã trình bày về vai trò, các bộ phận chủ yếu của Khu
CNC và một số Khu CNC được thành lập sớm trên thế giới như Thung lũng
Silicon của Mỹ; Thành phố khoa học Tsukuba của Nhật Bản; Công viên phần
mềm Bangalore của Ấn Độ; Khu CNC Trung Quan Thôn, Bắc Kinh, Trung
Quốc; Khu CNC ở một số nước khác.
Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Môi trường thể chế cho việc phát triển
TTCNC [50]. Tác giả đã khái quát tác động của môi trường pháp lý nói chung,
môi trường thể chế nói riêng đến sự phát triển của TTCNC ở Việt Nam. Theo
tác giả, ngoài những tác động thuận lợi của môi trường thể chế giúp cho
TTCNC phát triển, còn nhiều bất cập trong văn bản quy phạm pháp luật đăng
ký quyền sở hữu công nghiệp. Việc tổ chức thực thi bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp rất kém, điển hình là lĩnh vực phần mềm công nghệ thông tin.
Phạm Văn Dũng (2008), “Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị
trường KHCN ở Việt Nam” [31]. Tác giả bài viết đã khái quát vai trò quan
trọng của thị trường KHCN trong quá trình phát triển KT- XH đất nước. Trên
cơ sở đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp thúc đẩy thị trường KHCN Việt
Nam thời gian tới như: Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ KHCN;
Chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu KHCN sang hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp; Hoàn thiện thể chế hỗ trợ thị trường KHCN; Tiếp tục đổi mới kinh tế
theo hướng KTTT, hội nhập. Có thể nói đây là những giải pháp tạo động lực
quan trọng thúc đẩy cho thị trường KHCN Việt Nam từng bước hoàn thiện và
phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Phát triển đồng bộ các loại thị trường
trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [51]. Tác giả đã
23
phân tích làm rõ thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua, nhất là trong
thời kỳ đổi mới; Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển đồng bộ các loại
thị trường trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong
đó tác giả đề cập giải pháp phát triển TTCNC.
Đoàn Hữu Bẩy (2009), Phát triển thị trường khoa học và công nghệ -
Kinh nghiệm của Trung Quốc và vận dụng vào Việt Nam [5]. Luận án tiến sĩ
kinh tế, Viện chính trị và kinh tế thế giới. Công trình này phần lớn tập trung
nghiên cứu quá trình phát triển thị trường KHCN của Trung Quốc từ những
năm cải cách, mở cửa (1978 -2008), tiếp cận vấn đề từ các khía cạnh như: Kết
quả đạt được xét về quy mô, trình độ và các yếu tố thị trường của các ngành
và các lĩnh vực... Trên cơ sở đó tác giả rút ra những quan điểm, mục tiêu, giải
pháp và các bài học thành công, thất bại của quá trình phát triển thị trường
KHCN Trung Quốc trong những năm đầu mở cửa, đồng thời đưa ra những bài
học kinh nghiệm đối với sự phát triển của thị trường KHCN ở Việt Nam giai
đoạn (1986 - 2008).
Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học - công nghệ
Việt Nam [32]. Tác giả trình bày khái quát quá trình phát triển thị trường
KHCN từ cơ sở lý luận đến kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapo,…Đồng thời, đánh giá thực trạng phát triển thị trường KHCN, những
nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của thị trường KHCN ở
Việt Nam. Đặc biệt, trong công trình này tác giả đã trình bày quan điểm phát
triển thị trường KHCN của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời đề xuất giải pháp
thúc đẩy phát triển thị trường KHCN thời gian tới.
Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Thị trường KHCN Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế [52]. Trong công trình tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý
luận về thị trường KHCN, đồng thời xây dựng các tiêu chí đánh giá và luận giải
các yếu tố tác động đến thị trường KHCN trong tiến trình HNKTQT. Đồng thời
nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường KHCN của một số quốc gia và rút
24
ra bài học kinh nghiệm phát triển thị trường này cho Việt Nam. Ngoài ra, tác giả
đã làm rõ bối cảnh hiện nay tác động đến quá trình phát triển thị trường KHCN ở
Việt Nam, đồng thời phân tích, đánh giá tình hình phát triển thị trường KHCN,
trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam trong
tiến trình HNKTQT ngày càng phát triển sâu rộng.
Trần Văn Minh (2012), “Nghiên cứu phát triển thị trường công nghệ
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” [75]. Luận án tiến sĩ, Đại học Mỏ - Địa chất.
Đây là công trình nghiên cứu về phát triển TTCN của địa phương nhưng cũng
đã đánh giá và khái quát hóa, hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TTCN,
đặc biệt công trình đã xác định được các đặc thù của TTCN, đồng thời đã chỉ
rõ những tiêu chí, nội dung, và các điều kiện để cho TTCN phát triển. Ngoài
ra, công trình cũng đã đánh giá khách quan về thực trạng phát triển TTCN của
cả nước nói chung và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Trên cơ sở đó đã rút ra
được những bài học kinh nghiệm, định hướng, giải pháp phát triển TTCN
trong thời gian tới.
Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh (2014), “Nâng cao vai trò
quản lý của Nhà nước đối với phát triển TTCN” [116]. Ở công trình này, các
tác giả phân tích, nghiên cứu tương đối toàn diện về vai trò của Nhà nước
Việt Nam đối với sự phát triển TTCN. Trên cơ sở tổng quan một số công trình
khoa học liên quan đến đề tài đã công bố gần đây, các tác giả đưa ra quan
niệm về TTCN, đồng thời phân tích 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới sự phát
triển của TTCN. Ngoài ra, tác giả còn đánh giá thực trạng chính sách quản lý
của Nhà nước đối với sự phát triển của TTCN, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của TTCN Việt
Nam trong thời gian tới.
Nguyễn Quốc Việt, Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2015), “Quản
lý công của OECD trong phát triển thị trường KHCN: Bài học cho Việt Nam”
[114]. Nhóm tác giả phân tích cách tiếp cận mới của OECD trong quản lý
công để tạo ra cơ chế cùng hợp tác làm cho sự phát triển thị trường KHCN
25
ngày càng hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn với nhu cầu của khách hàng.
Trên nền tảng nghiên cứu lý thuyết quản lý công của OECD, nhóm tác giả
công trình đã phân tích và làm rõ mối quan hệ tương tác giữa 3 nhóm chủ thể:
Cơ quan Nhà nước - Viện nghiên cứu, Trường đại học và Doanh nghiệp. Đặc
biệt nhóm tác giả nhấn mạnh vai trò của các nhân tố đóng vai trò trung gian
kết nối, thúc đẩy mối liên hệ giữa Cơ quan Nhà nước - Viện nghiên cứu,
Trường đại học và doanh nghiệp trong quá trình phát triển thị trường KHCN
ở Việt Nam. Theo đó nhóm tác giả đề xuất chính sách, thể chế hoạt động của
các tổ chức trung gian của TTCN.
Bộ Khoa học và Công nghệ (2015), Báo cáo tổng kết công tác khoa học
công nghệ năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 [6]. Đây là bản
báo cáo thường niên hàng năm của Bộ Khoa học và Công nghệ. Trong phần 6
báo cáo đã đánh giá khái quát tình hình phát triển của thị trường KHCN của
Việt Nam năm 2014 như bối cảnh phát triển của thị trường KHCN; Hình
thành và phát triển các tổ chức trung gian của thị trường KHCN thành, tạo
điều kiện cho các yếu tố của TTCN phát triển, đặc biệt ở các khâu: Ươm tạo
công nghệ; nhập khẩu giải mã, làm chủ công nghệ và CGCN. Các tổ chức
trung gian hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ KHCN được quan tâm xây dựng.
Thị trường KHCN được thúc đẩy phát triển và bước đầu phát huy vai trò cầu
nối, gắn kết hoạt động KHCN với sản xuất, kinh doanh. Các chợ công nghệ
và thiết bị, sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian công nghệ ở quy
mô quốc gia, vùng, địa phương đã góp phần quan trọng thúc đẩy kết nối cung
- cầu công nghệ, gia tăng số lượng và giá trị các giao dịch công nghệ giữa
doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu. Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và
chuyển giao tiến bộ KHCN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở 63 tỉnh, thành
phố được đầu tư nâng cấp. Bên cạnh việc đẩy mạnh hỗ trợ hình thành và phát
triển các định chế trung gian của thị trường KHCN, tạo môi trường thuận lợi
cho hoạt động mua bán, CGCN, kết nối doanh nghiệp với thị trường, các sự
kiện chơ công nghê, thiết bị, kết nối cung cầu công nghệ. Ngày hội khởi
26
nghiệp công nghệ cũng đã tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường
KHCN trong nước. Sàn giao dịch công nghệ vẫn tiếp tục duy trì và triển khai
công tác tư vấn, kết nối cung cầu, môi giới CGCN. Hệ thống cơ sở dữ liệu
cung, cầu công nghệ được thiết kế gồm phần mềm xử lý cơ sở dữ liệu công
nghệ để cập nhật dữ liệu về nhu cầu đổi mới công nghệ, nhu cầu tư vấn cải
tiến kỹ thuật, nhu cầu liên doanh liên kết dựa trên công nghệ...; dữ liệu các
công nghệ sẵn sàng chuyển giao trong và ngoài nước; dữ liệu về chuyên gia
tư vấn công nghệ; dữ liệu doanh nghiệp sản xuất trong các lĩnh vực.
Nguyễn Vũ Thao (2016), “Thúc đẩy phát triển TTCN thông qua hoạt
động kết nối cung - cầu” [95]. Phát triển TTCN là nội dung rất quan trọng đối
với các nền kinh tế trên thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Tác
giả cho rằng, có rất nhiều yếu tố và giải pháp phát triển thị trường này, trong
đó kết nối cung cầu là một trong những nội dung quan trọng. Tác giả khẳng
định, hoạt động kết nối cung - cầu ở Việt Nam đang từng bước được triển
khai với các hình thức ngày càng đa dạng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên trên
thực tế TTCN ở Việt Nam còn nhiều bất cập, sự thiếu đồng bộ trong việc liên
kết giữa người mua và người bán với các nhà cung cấp dịch vụ còn chậm,
chưa mang lại hiệu quả. Vì vậy, sự phát triển của TTCN chưa đúng với tiềm
năng. Do vậy, với mục đích thúc đẩy TTCN phát triển mạnh mẽ hơn thông
qua hoạt động kết nối cung cầu, tác giả đề xuất 4 định hướng gồm: Tổ chức
chuỗi hoạt động tư vấn kỹ thuật, cải tiến công nghệ trực tiếp cho các doanh
nghiệp có nhu cầu cải tiến công nghệ; Hoạt động kết nối tài chính và công
nghệ, tư vấn hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp tham gia chương trình, dự án
hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ; Xây dựng phần mềm quản lý, xử lý dữ liệu
công nghệ như dữ liệu nguồn cung cầu công nghệ; Tổ chức các diễn đàn quốc
tế xúc tiến hợp tác đầu tư và CGCN.
Lương Thanh Hải (2017), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở
Việt Nam” [45]. Đây là công trình khoa học bàn về giải pháp phát triển thị
trường KHCN ở Việt Nam. Theo đó tác giả, sản phẩm KHCN như một loại
27
hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, được mua bán, trao đổi trên thị trường như các
loại hàng hóa, dịch vụ khác, nên thị trường KHCN cũng như các loại thị
trường khác gồm 5 yếu tố cơ bản để hình thành như khung pháp lý cho các
giao dịch trên thị trường, bên mua, bên bán, cơ sở hình thành giá cả và các
hoạt động hỗ trợ xúc tiến giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, từ kết quả
nghiên cứu tác giả khẳng định, còn rất nhiều bất cập, rào cản làm cho thị
trường KHCN chưa phát huy hết vai trò của mình như: Khung pháp lý chưa
đồng bộ; Nhu cầu sản phẩm KHCN chưa cao; Hoạt động CGCN theo chiều
dọc còn ít,… Do đó, để thúc đẩy thị trường KHCN phát triển, tác giả đưa ra
khuyến nghị thực hiện tốt 3 giải pháp cơ bản đó là: Nhà nước xây dựng khung
pháp luật cần thiết để thị trường KHCN hoạt động phù hợp với thông lệ quốc
tế; Áp dụng các biện pháp kích cầu đối với sản phẩm công nghệ; Thực hiện
một số biện pháp tăng cung sản phẩm công nghệ.
Nguyễn Duy Nhiên (2017), Chuyển giao công nghệ cao từ nước ngoài
vào một số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam hiện nay [83].
Tác giả khẳng định trong những năm qua thành tựu công nghệ là thành
quả của cách mạng khoa học công nghệ và hoạt động nghiên cứu, triển khai.
Quá trình vận động và phát triển của cách mạng khoa học nhất là cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ cao, hiện đại
là chìa khóa giúp cho nhiều nước thành công, trở thành những nước công
nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển hùng mạnh. Đây cũng là cơ hội cho các
quốc gia đang phát triển có điều kiện tiếp cận, rút ngắn khoảng cách, cải thiện và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao năng lực sản suất kinh doanh,
sức cạnh tranh, tham gia sâu rộng hội nhập kinh tế thế giới, thông qua các con
đường khác nhau, đặc biệt là qua tiếp nhận chuyển giao công nghệ
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong
bối cảnh cách mạng KH CN và toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, Việt
Nam cần có những chiến lược, giải pháp thực hiện chuyển giao CNC, tiên
28
tiến, hiện đại từ nước ngoài vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế, trước hết và
trọng tâm là vào các ngành công nghiệp trọng điểm. Các ngành công nghiệp
trọng điểm đóng vai trò là trụ cột, đầu tầu, động lực, đòn bảy đối với nền kinh
tế của đất nước nói chung, nền công nghiệp nói riêng. Đây là những ngành có
thế mạnh lâu dài, mang lại hiệu quả cao về KTXH và tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Để thực sự khẳng định giá trị, vai
trò, sứ mệnh của mình, các ngành công nghiệp trọng điểm cần phải đảm bảo
thế mạnh về vốn, tài nguyên, lao động, thị trường, trình độ tổ chức quản
lý…và quan trọng hàng đầu là công nghệ.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, kết quả, thành tựu, hạn chế của CGCN
vào các ngành công nghiệp trọng điểm ở Việt Nam trên các phương diện:
trình độ công nghệ, hình thức/kênh CGCN, các yếu tố điều kiện thực hiện
chuyển giao CNC và tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh; phân tích
nguyên nhân thành công, thất bại của CGCN từ nước ngoài vào một số ngành
công nghiệp trọng điểm Việt Nam. Đồng thời tác giả đề xuất giải pháp đẩy
mạnh thực hiện chuyển giao CNC, tiên tiến, hiện đại từ nước ngoài vào một
số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam trong thời gian tới.
Đại học kinh tế quốc dân (2018), Cơ hội, thách thức và điều kiện phát
triển công nghệ cao Đà Nẵng đến năm 2020 tầm nhìn 2030 [37].
Trong các nội dung của hội thảo các tác giả thông qua các bài tham
luận đã làm rõ hơn các cơ hội, thách thức và điều kiện phát triển của của Khu
công nghệ cao Đà Nẵng. Các cơ hội chủ yếu được chỉ ra là cơ hội để phát
triển các lĩnh vực công nghệ để giải quyết các vấn đề toàn cầu và chuyển đổi
mô hình tăng trưởng ở Đà Nẵng và miền Trung; cơ hội thu hút các nguồn lực
R&D từ từ nước ngoài từ xu hướng quốc tế hóa hoạt động R&D của các công
ty đa quốc gia và sự gia tăng đầu tư cho R&D ở nước ngoài; cơ hội thị trường
để tiêu thụ sản phẩm phẩm công nghệ cao; cơ hội nhận được sự ủng hộ về
nguồn lực và cơ chế - chính sách phát triển do vai trò của của khoa học công
nghệ nói chung và khu công nghệ cao nói riêng đối với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng.
29
Đồng thời chỉ ra các thách thức chính là áp lực cạnh tranh từ các
khu công nghệ cao khác trên thế giới cũng như Khu CNC Hòa Lạc và Khu
CNC thành phố Hồ Chí Minh; thách thức trong huy huy động các nguồn
lực tài chính trong nước (nhà nước + tư nhân) cho xây dựng cơ bản và
hoạt động thường xuyên của khu CNC cao Đà Nẵng; thách thức trong
việc thu hút các nhà đầu tư, các trường đại học và các viện nghiên cứu;
thách thức trong thu hút nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (các nhà
khoa học và các kỹ sư giỏi);
Những điểm mạnh chính là môi trường sống hấp dẫn, vị trí địa lý thuận
lợi, chất lượng dịch vụ công cao, tập trung nhiều trường đại học và viện
nghiên cứu, số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp hàng năm. Những khó khăn chủ
yếu là nguồn vốn, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực thương mại hóa công
nghệ của các Viện, Trường trong khu vực, sự hợp tác chưa chặt chẽ giữa các
trường đại học/viện nghiên cứu với các doanh nghiệp. Để phát triển CNC ở
Đà Nẵng trong thời gian tới, các tác giả cũng đã có một số đề xuất về định
hướng phát triển cho Khu công nghệ cao Đà Nẵng trong thời gian tới.
Khu công nghệ cao Đà Nẵng cần được đặt ở vị trí quan trọng trong quá
trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Dự án phát
triển Khu công nghệ cao Đà Nẵng cần được coi là những dự án đầu tư trọng điểm
trong chính sách đổi mới mô hình tăng trưởng ở khu vực miền Trung.
Về mô hình, Khu công nghệ cao Đà Nẵng nên được phát triển thành
một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở. Về huy động các nguồn lực phát triển,
Khu CNC Đà Nẵng cần tranh thủ sự ủng hộ của Đảng, Chính phủ và xã hội
đối với hoạt động khởi nghiệp để phát triển hoặc thu hút các hoạt động khởi
nghiệp; thu hút nguồn lực từ các chương trình, dự án, đề án khoa học và công
nghệ quốc gia; phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan để xây dựng
chính sách thu hút các hoạt động R&D từ các công ty đa quốc gia; phối hợp
với các trường đại học trên địa bàn để đào tạo và thu hút nguồn nhân lực công
nghệ cao cho Khu CNC Đà Nẵng.
30
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề đặt ra luận án luận án tiếp tục giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố
Các công trình khoa học đã công bố nghiên cứu về KHCN, TTCN,
TTCNC và phát triển thị trường KHCN, TTCN, TTCNC được tiếp cận nghiên
cứu từ nhiều lĩnh vực và mục đích khác nhau, nên những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển thị trường KHCN, TTCN, TTCNC cũng khác nhau.
Kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học nêu ra ở tiết 1.1 và tiết 1.2
được khái quát trên mấy nội dung cơ bản sau đây:
Một là, các công trình lý giải về sự tồn tại của thị trường KHCN, TTCN
và TTCNC và khẳng định các thị trường này là một thành phần rất quan trọng
trong hệ thống các loại thị trường của nền KTTT, có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển KT- XH của một nền kinh tế.
Hai là, không ít các công trình khoa học đã luận giải, làm rõ cơ sở lý
luận về phát triển thị trường KHCN, TTCN, trong đó có công trình đưa ra
quan niệm về thị trường KHCN, TTCN; Xây dựng nội dung, tiêu chí đánh giá
và phân tích yếu tố tác động đến sự phát triển của các thị trường này.
Ba là, tuy đã một số công trình nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm phát
triển thị trường KHCN, TTCN ở một số quốc gia, nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển TTCNC cũng như nghiên cứu tổng
thể, cơ bản về phát triển TTCNC ở Việt Nam.
Bốn là, có nhiều công trình đánh giá khá toàn diện, sâu sắc về thực trạng
phát triển thị trường KHCN, TTCN, trong đó có rất ít công trình tuy đề cập nghiên
cứu về TTCNC nhưng chưa toàn diện trên cả lý luận và đánh giá thực tiễn.
Trên cơ sở bốn nội dung khái quát kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học liên quan đã công bố ở trong và ngoài nước cho thấy, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về phát
triển TTCNC ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, nghiên cứu đề tài
Phát triển TTCNC ở Việt Nam là nội dung mới không trùng lặp với các công
31
trình nghiên cứu đã được đánh giá nghiệm thu và công bố, được nghiên cứu
trên cơ sở tham khảo, kế thừa, phát triển kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học liên quan đã công bố thời gian gần đây ở trong và ngoài nước.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Từ khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công
liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án cho thấy, còn có không ít
khoảng trống khoa học mà luận án cần tập trung giải quyết khi nghiên cứu
vấn đề: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, dưới góc độ kinh tế chính trị cần tiếp tục luận giải làm rõ cơ
sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ:
Quan niệm thế nào về: công nghệ, CNC, TTCN, TTCNC và phát triển TTCNC?
Quan niệm về phát triển TTCNC ở Việt Nam; phát triển TTCNC ở Việt
Nam bao gồm những nội dung gì và yếu tố tác động đến phát triển TTCNC ở
Việt Nam như thế nào? Việt Nam có thể học được gì từ kinh nghiệm phát
triển TTCNC của một số quốc gia trên thế giới?
Thứ hai, đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong đó
cần làm rõ thành tựu, hạn chế; đồng thời chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn
chế và rút ra những vấn đề cần giải quyết từ thực trạng này.
Thứ ba, để phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới, cần phải có
quan điểm và các giải pháp như thế nào cho phù hợp, khả thi?
Từ các câu hỏi trên, luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết các
vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, luận giải cơ sở lý luận về phát triển TTCNC ở Việt Nam;
Hai là, làm rõ những thành tựu, hạn chế về phát triển TTCNC ở Việt
Nam giai đoạn 2011-2019; đồng thời chỉ ra nguyên nhân thành tựu, hạn chế,
trên cơ sở đó rút ra những vấn đề cần giải quyết từ thực trạng này.
Ba là, đề xuất quan điểm và giải pháp phù hợp, khả thi để phát triển
TTCNC ở Việt Nam trong thời gian tới.
32
Kết luận chương 1
Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của KHCN và vấn đề phát triển thị
trường KHCN nói chung, TTCNC nói riêng trong xây dựng tiềm lực khoa học
công nghệ và phát triển KT-XH của đất nước đối với các quốc gia trên thế
giới và đặc biệt đối với Việt Nam nói riêng. Trong thời gian qua, đã có rất
nhiều các công trình khoa học cả trong và ngoài nước đã nghiên cứu đánh giá
và từng bước làm rõ các nội dung này. Đây là những cơ sở quan trọng giúp
cho tác giả có thể tìm hiểu, kế thừa và phát triển trong luận án của mình.
Thông qua việc hệ thống hóa, phân tích khảo cứu tư liệu từ các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả đã tổng quan 41 công trình tiêu
biểu gồm 12 công trình nước ngoài và 29 công trình trong nước. Trong đó: 15
công trình nghiên cứu về TTCN, thị trường KHCN; 26 công trình nghiên cứu
về phát triển thị trường KHCN và một số công trình nghiên cứu về những vấn
đề liên quan đến TTCN và CNC. Từ nội dung tổng quan, nghiên cứu sinh đã
khái quát 4 nội dung phản ánh khoảng trống khoa học mà các công trình khoa
học đã công bố chưa đề cập, hoặc đề cập nhưng chưa đầy đủ, toàn diện. Với 4
nội dung này đặt ra 3 vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết,
theo đó là 3 nhiệm vụ mà luận án cần nghiên cứu, làm rõ một cách cơ bản,
toàn diện, hệ thống.
33
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO
Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
2.1. Những vấn đề chung về công nghệ, công nghệ cao, thị trường
công nghệ và thị trường công nghệ cao
2.1.1. Quan niệm về công nghệ, công nghệ cao
2.1.1.1. Quan niệm về công nghệ
Công nghệ là hệ thống tri thức gắn liền và tương ứng với một tập hợp
kỹ thuật như máy móc, thiết bị… bao gồm tri thức về kỹ năng, bí quyết, kinh
nghiệm… được sử dụng theo một quy trình hợp lý để vận hành, tập hợp kỹ
thuật đó, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng của con người. Nếu trước đây
quan niệm cho rằng, công nghệ sử dụng phục vụ lao động sản xuất để tạo ra
của cải vật chất, thì hiện nay công nghệ được sử dụng với nghĩa rộng hơn,
không chỉ sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực đời sống tinh thần, văn hóa cũng
như mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trước hết, theo nhận định của chủ nghĩa Mác - Lênin về khoa học, kỹ
thuật với tư cách là động lực phát triển không chỉ với lực lượng sản xuất mà còn
đối với toàn thể xã hội. C.Mác đã sử dụng khá nhiều thuật ngữ “công nghệ” cho
các trường hợp, lĩnh vực khác nhau, song công nghệ trong lĩnh vực sản xuất và
lưu thông C.Mác cho rằng: “sự lưu thông của tư bản. Khoảng thời gian tư bản
nằm trong lĩnh vực quá trình sản xuất lâu hay mau tùy thuộc vào những điều
kiện công nghệ của quá trình ấy, và sự lưu lại của tư bản trong giai đoạn này trực
tiếp trùng hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, - cho dù có sự khác nhau
như thế nào đi nữa về độ dài của quá trình sản xuất tùy theo ngành sản xuất, đối
tượng sản xuất v.v.. Ở đây độ dài của quá trình sản xuất chẳng qua chỉ là thời
gian lao động cần thiết để chế tạo ra sản phẩm”[74, tr.15]. “Ở đây, hiện tượng tư
bản trở về chậm hơn - thực chất của vấn đề chính là ở đó - bắt nguồn không phải
từ thời gian lưu thông, mà từ chính những điều kiện sản xuất, trong đó lao động
34
trở thành lao động sản xuất; mà những điều kiện ấy thì thuộc số những điều kiện
công nghệ của quá trình sản xuất”[74, tr.304]. Khi bàn đến các yếu tố cấu thành
lực lượng sản xuất, ngoài việc đề cao vai trò của tư liệu sản xuất và người lao
động, C.Mác nhấn mạnh vai trò của khoa học, kỹ thuật và coi đó là một trong
những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và vai
trò của con người và giới tự nhiên đối với công cụ lao động C.Mác cho rằng,
“Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo,
máy sợi con dọc di động, v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của
con người, là vật liệu tự nhiên đã được chuyển hóa thành những cơ quan của ý
chí con người chế ngự giới tự nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong
giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do
bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hóa của tri thức”[74, tr.372].
Nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội loài người thông
qua hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác nhận định: “Sự phát triển của tư bản cố
định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều
kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm
soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá
trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không
những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực
tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”[74, tr.372, 373].
Như vậy, theo C.Mác, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa
thành máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công cụ sản xuất (tư bản cố định) và được
người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Với ý nghĩa đó C.Mác khẳng định: “Sự phát triển của hệ
thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt
được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục
vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to
35
lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc
vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những
yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”[74, tr.367].
Khi bàn về công nghệ có rất nhiều các quan niệm khác nhau tùy thuộc vào
mục đích đặt ra trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu của các tác giả hoặc theo vị trí
vai trò của công nghệ của các tổ chức có những quan niệm khác nhau cụ thể là:
Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương cho rằng công
nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến sản
phẩm hoặc thông tin bao gồm kiến thức, khả năng, thiết bị, sáng chế, công
thức chế tạo, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc chế tạo sản xuất,
hàng hóa hoặc dịch vụ.
Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc: công nghệ là việc áp
dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử
lý nó một cách hệ thống và có phương pháp.
Trong bộ môn khoa học ứng dụng nếu công nghệ được xem như là một
nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp
ứng yêu cầu vật chất và tinh thần của con người thì được hiểu “Công nghệ là
dạng kiến thức có thể áp dụng vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo
các sản phẩm mới” [75, tr.19].
Xét về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nếu công nghệ được
hiểu là một loại tư liệu sản xuất thì được hiểu “Công nghệ là đầu vào cần thiết
của sản xuất và như vậy nó được mua và bán trên thị trường như một loại
hàng hóa được” [75, tr.19].
Ngoài ra trên cơ sở tiếp cận công nghệ là một tập hợp các cách thức và
phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được sử dụng vào sản xuất ở các
ngành khác nhau, để tạo ra các sản phẩm vật chất thì công nghệ được hiểu là
“Công nghệ là một nguồn lực đã được vật thể hóa và cả những kiến thức được
áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho những sản phẩm và
dịch vụ đang có và tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới ”[75, tr.19].
36
Ở nước ta trước đây công nghệ được hiểu là kiến thức, là kết quả của
khoa học ứng dụng có mục đích biến đổi nguồn lực trở thành mục tiêu để sinh
lời. Tuy nhiên cho đến ngày nay cùng với sự phát triển công nghệ trong thực
tiễn, công nghệ đã được hiểu đầy đủ hơn, điều này được quy định cụ thể hóa
thông qua các điều luật như Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11
năm 2006; Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13 năm 2013; Luật
Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 năm 2017 cụ thể là: Công nghệ là
giải pháp, quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
Từ nội hàm của ba quan niệm trên về công nghệ cho thấy, mặc dù từ
năm 2006, khi ban hành Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 đến
nay, quan niệm về công nghệ ở Việt Nam không có gì thay đổi khác biệt. Vì
vậy, tác giả luận án đồng tình và sử dụng quan niệm: Công nghệ là giải pháp,
quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến
đổi nguồn lực thành sản phẩm trong các nội dung nghiên cứu của luận án.
Mặc dù quan niệm về công nghệ là như vậy, song cần thấy rằng, công
nghệ là tên gọi chung của nhiều loại hình công nghệ khác nhau mà mỗi loại
hình công nghệ tuy đều được tích hợp từ thành tựu KHCN đương đại, nhưng có
hàm lượng khác nhau về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; và mỗi loại
hình công nghệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với việc hình thành một ngành
sản xuất hàng hóa, hay dịch vụ mới, hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất hàng hóa,
hay dịch vụ hiện có. Theo Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14, ở Việt
Nam hiện có các loại hình công nghệ phản ánh trình độ công nghệ và vai trò của
chúng, bao gồm: Công nghệ tiên tiến; Công nghệ mới; Công nghệ sạch; CNC.
2.1.1.2. Quan niệm về công nghệ cao
Khi bàn đến lĩnh vực CNC, tùy vào mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu và lĩnh vực nghiên cứu có nhiều quan niệm khác nhau về CNC. Tuy nhiên,
chưa có quan niệm nào được coi là hoàn hảo và khó xác định được quan niệm hữu
ích nhất trong số các quan niệm đã có. Với sự phát triển của KHCN hiện nay, khi
37
các quy trình tự động hóa, các dây chuyền sản xuất được thực hiện bằng máy tính
được sử dụng rộng rãi thì thuật ngữ CNC ngày càng phổ biến. Ở mỗi quốc gia,
công nghệ được coi là CNC cũng khác nhau.
Theo Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: CNC là công
nghệ với tỷ lệ chi cho R&D lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với các quốc gia
trong đó các sản phẩm và quy trình công nghệ được đổi mới nhanh chóng,
có tác động mạnh mẽ đến sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong R&D, sản
xuất và chiếm lĩnh thị trường trên quy mô thế giới [106, tr. 83].
Theo tư liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế Hoa kỳ
cho rằng: CNC là công nghệ tiên tiến, công nghệ hàng đầu với ba đặc
điểm cơ bản: (1) CNC tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn, có đổi mới quan trọng; (2) công nhân
phải có trình độ cao để có thể phát triển công nghệ, nhân lực kết hợp
với công nghệ thiết kế và chế tạo sản phẩm; (3) việc nghiên cứu, phát
triển, thử nghiệm, thương mại hoá, sản xuất, phân phối sản phẩm, dịch
vụ CNC đòi hỏi chi phí lớn [47, tr. 32].
Từ điển Bách khoa của Nhà xuất bản Random House (Mỹ) cho rằng:
CNC là công nghệ đòi hỏi trang thiết bị khoa học tinh vi nhất và kỹ thuật sản
xuất tiên tiến [34, tr.15].
Các quan niệm CNC trên đây tuy khác nhau nhưng cho thấy đặc điểm
chung nhất của CNC là công nghệ dựa trên tri thức khoa học và thành tựu
mới nhất của cuộc cách mạng KHCN với hàm lượng khoa học cao, nhiều
sáng tạo nhất. Ở Việt Nam, quan niệm về CNC đã được trình bày ở các văn
bản quy phạm pháp luật về KHCN, nhất là Luật Chuyển giao công nghệ,
Luật Công nghệ cao, Luật Khoa học và công nghệ đã được ban hành từ năm 2006
đến nay. Trong đó:
Khoản 1 Điều 3 Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 năm 2008 đưa
ra quan niệm: CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu KHCN hiện đại; tạo ra
38
sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện
với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất,
dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có [87, tr.1].
Khoản 6 Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 năm
2017 : CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu KHCN hiện đại; tạo ra sản phẩm
có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi
trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ
mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có [88].
Một loại công nghệ được gọi là CNC phải được thẩm định, đánh giá và
cấp giấy chứng nhận ại thời điểm mà công nghệ được coi là CNC. Theo Điều
5 Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12, Việt Nam tập trung đầu tư ưu tiên
phát triển CNC trong các lĩnh vực: Công nghệ thông tin; Công nghệ sinh học;
Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ tự động hoá. Theo Quyết định số
66/2014/QĐ-TTg ngày 25/11/2014, ở Việt Nam có 58 CNC được ưu tiên đầu
tư phát triển và 114 sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển.
Trước hết căn cứ vào luật Công nghệ cao, các chương trình đề án phát
triển Công nghệ cao của chính phủ và các Bộ, ban, ngành xét về phân loại các
nhóm ngành công nghệ cao cần tập trung nghiên cứu và phát triển có 2 nhóm
ngành cụ thể như sau: (Điều 15, Điều 16 Luật công nghệ cao) tập trung phát
triển công nghệ cao trong các nhóm ngành kinh tế - kỹ thuật và phát triển
công nghệ cao trong nông nghiệp.
Thứ hai, trên thực tế cho chúng ta thấy, với vai trò và đặc trưng của
cuộc cách mạng 4.0 đã tạo ra những “tài sản trí tuệ” có hàm lượng KHCN cao
với các nhóm, ngành được phân chia một cách cụ thể như các nhóm ngành
điện, điện tử, máy tính, chế biến, chế tạo, bảo quản…trở thành yếu tố quan
trọng nhất quyết định giá trị của sản phẩm. Theo đó là sự phát triển của thị
trường công nghệ cao nhằm đáp ứng cung, cầu của các sản phẩm này là
những thị trường mở, thông minh có tính linh hoạt và sáng tạo.
39
Từ những vấn đề trên, tác giả cho rằng: Công nghệ cao ở Việt Nam là công
nghệ thân thiện môi trường được tích hợp từ những thành tựu khoa học công nghệ
hiện đại, có hàm lượng cao trong nghiên cứu và nghiên cứu, tạo ra sản phẩm chất
lượng cao, hiệu quả sử dụng vượt trội với giá trị gia tăng cao góp phần hiện đại hóa
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có và hình thành một số ngành sản xuất, dịch vụ mới thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập, phát triển của đất nước trước tác động của cuộc
cách mạng 4.0.
Nội hàm của quan niệm cho thấy:
Một là, CNC là công nghệ thân thiện môi trường được tích hợp từ những thành
tựu KHCN với hàm lượng cao về R&D;
Hai là, CNC có khả năng tạo ra sản phẩm chất lượng cao, hiệu dụng vượt trội,
giá trị gia tăng cao
Ba là, CNC góp phần hiện đại hóa ngành sản xuất hay dịch vụ hiện có, hoặc
hình thành một ngành sản xuất hay dịch vụ mới.
Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá về một hàng hóa công nghệ cao trong
giai đoạn hiện nay, nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Nó đang có sự tác động sâu sắc đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu nắm chắc bốn
giai đoạn trong vòng đời công nghệ là: Giai đoạn 1: Nghiên cứu và Phát triển.
Giai đoạn 2: Tăng trưởng. Giai đoạn 3: Trưởng thành. Giai đoạn 4: Suy thoái.
Qua đó làm cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, các nhân có điều kiện nhận biết
trình độ công nghệ trong quá trình tiếp cận công nghệ, thông qua quá trình
chuyển giao công nghệ, giao dịch công nghệ phục vụ cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh của mình. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho quá trình nghiên cứu tiếp
cận thị trường của các doanh nghiệp khoa học công nghệ, các trung tâm nghiên
cứu và các nhà khoa học. Đồng thời nó là nền tảng giúp cho các tổ chức kiểm
định, đánh giá chất lượng của nhà nước đối với các sản phẩm công nghệ ngày
càng hoàn thiện, tránh được sự lãng phí ngân sách, thời gian, thậm chí là trở
thành “ Bãi thải công nghệ” của các quốc gia khác trên thế giới.
40
2.1.2. Quan niệm về thị trường công nghệ, thị trường công nghệ cao
2.1.2.1. Quan niệm về thị trường công nghệ
Trong các tài liệu khoa học có thể gặp nhiều quan niệm khác nhau về
TTCN, căn cứ vào cách tiếp cận nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, các
quan niệm về TTCN được nhận định và đánh giá khác nhau. Song các quan
niệm này đều thống nhất cho rằng, TTCN là nơi thực hiện giao dịch mua bán
một loại hàng hóa đặc biệt, đó là sản phẩm và dịch vụ công nghệ.
Từ cách tiếp cận coi TTCN là phương thức thương mại hóa kết quả nghiên
cứu gắn kết hoạt động KHCN với thực tiễn sản xuất và đời sống, thì theo nghĩa hẹp
TTCN có thể hiểu là nơi giao dịch sản phẩm, dịch vụ công nghệ, còn theo nghĩa rộng
TTCN là tổng hòa các mối quan hệ trao đổi mua bán, môi giới, giám định thưởng
phạt, khiếu kiện giữa các bên thực hiện giao dịch công nghệ.
Nếu tiếp cận từ vị trí, vai trò của TTCN thì “Thị trường công nghệ có
vai trò quan trọng trong việc kích cung, kích cầu về công nghệ tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là
đổi mới theo hướng thân thiện với môi trường”[113].
Xét trên khía cạnh kết quả nghiên cứu nghiên cứu khoa học cho thấy,
công nghệ là kết quả được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu khoa học hay nói
cách khác công nghệ là kết quả cuối cùng của nghiên cứu khoa học và biểu
hiện cụ thể là “sản phẩm công nghệ” để đưa vào phục vụ thực tiễn. Do vậy,
TTCN được hiểu là nơi trao đổi, mua bán sản phẩm công nghệ hay dịch vụ
công nghệ trên thị trường. Theo đó, có một số quan niệm về TTCN như:
Thị trường công nghệ là nơi thực hiện các giao dịch mua - bán, trao đổi loại
hàng hóa “đặc biệt” là các sản phẩm công nghệ để phát triển KT-XH [75, tr.5]; Thị
trường công nghệ là nơi bán mua hàng hóa công nghệ theo quy luật cung cầu, quy
luật giá trị và các quy luật khác của nền kinh tể thị trường; Hoặc thị trường công
nghệ được hiểu là những thể chế đảm bảo cho việc mua bán công nghệ được thực
hiện thuận lợi trên cơ sở lợi ích của các bên tham gia [94, tr.4].
Như vậy, quan niệm về TTCN căn cứ vào từng cách tiếp cận khác
nhau, các nhà khoa học đã đưa ra quan điểm của mình là nơi thực hiện việc
41
mua bán, trao đổi các sản phẩm công nghệ và dịch vụ KHCN trên cơ sở lợi
ích của các bên tham gia.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển các quan niệm về thị trường đã chỉ ra
trên đây, tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ là bộ phận cấu thành thị
trường khoa học và công nghệ, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch
vụ công nghệ được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa
người sở hữu sản phẩm, dịch vụ công nghệ với người có nhu cầu sử dụng
sản phẩm, dịch vụ công nghệ bằng hợp đồng kinh tế hay thỏa thuận khác
theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.1.2.2. Quan niệm thị trường công nghệ cao; đặc điểm và vai trò của
thị trường công nghệ cao
* Quan niệm thị trường công nghệ cao
CNC là sản phẩm của các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử
phát triển xã hội, tuy nhiên việc hiểu và phân tích còn lẫn lộn giữa khoa học
với công nghệ. Chỉ khi cách mạng 4.0 phát triển đã tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt của đời sống xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng, thì CNC mới được
nhận thức đúng, đầy đủ, đúng nghĩa. Vì lý do như vậy mà đến nay, không chỉ ở
Việt Nam, mà trên thế giới chưa có một quan niệm thống nhất về TTCNC, phổ
biến chỉ đề cập đến thị trường KHCN. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu về thị
trường được công bố gần đây ở Việt Nam cũng như các nước có nền KTTT
phát triển cao, thì thuật ngữ TTCNC cũng chưa được đề cập cả trong lý luận và
thực tiễn. Đặc biệt, ở các nền KTTT có trình độ KHCN phát triển như Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước Châu Âu khác, nội hàm của
TTCNC được đề cập chủ yếu liên quan đến các hoạt động R&D CNC.
Ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ TTCNC đã đưa vào Luật Công nghệ
cao số 21/2008/QH12 năm 2018; theo đó, “Nhà nước khuyến khích tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển thị trường công nghệ cao”[87, tr.12], nhưng trong
các văn bản quy phạm pháp luật về KHCN, về CNC và CGCN cũng như
trong các công trình khoa học công bố gần đây lại chưa có quan niệm thống
42
nhất về TTCNC... Trong các văn bản quy phạm pháp luật và các công trình
khoa học chủ yếu tiếp cận quan niệm về thị trường KHCN. Điển hình
như: “Thị trường KHCN là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển
giao quyền sở hữu có trả tiền những sản phẩm KHCN đã được vật chất
hoá dưới dạng bí quyết, bản vẽ, mô hình của những sản phẩm hay phương
pháp, quy trình sản xuất và quản lý, patent, licence... và những dịch vụ có
liên quan tới việc mua - bán, chuyển giao ấy”[55, tr.105]; “Thị trường
KHCN là một thuật ngữ dùng để chỉ một loại thị trường mà trong đó diễn
ra sự mua bán, trao đổi hàng hoá là sản phẩm, dịch vụ của hoạt động
KHCN”[57, tr.9]; “Thị trường KHCN là thị trường mà ở đó hàng hoá là
các phát minh khoa học, công nghệ; các dịch vụ KHCN gồm cả hữu hình
và vô hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường thể chế xác
định”[32, tr.27]. Các quan niệm này đã từ lâu gây hiểu lầm rằng, thị
trường KHCN, TTCN hay TTCNC là đồng nhất.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị
trường, thị trường KHCN mà tác giả đã tiếp cận nghiên cứu; đồng thời căn cứ
vào đặc thù của CNC tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ cao là thị trường
công nghệ đặc thù, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ
cao được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa người sở hữu
sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao với người có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch
vụ công nghệ cao bằng hợp đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Nội hàm của quan niệm TTCNC chỉ rõ các nội dung sau:
Chủ thể tham gia TTCNC gồm chủ thể nguồn cung, chủ thể nguồn cầu
sản phẩm, dịch vụ CNC và các tổ chức trung gian khác. Chủ thể tham gia
TTCNC rất đa dạng, phong phú, bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp trong và
ngoài nước hoặc bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào đều có quyền tham gia
TTCNC trên cơ sở quy định của pháp luật và nhu cầu cung cấp, trao đổi, môi
giới hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC.
43
Đối tượng tham gia TTCNC: Là sản phẩm hay dịch vụ CNC do CNC
tạo ra ở dạng hữu hình, vô hình, vật chất hay phi vật chất, có chất lượng, tính
năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.
Hoạt động của TTCNC: Theo quy luật của KTTT. TTCNC cũng như
các loại thị trường khác phải tuân thủ nguyên tắc, quy luật KTTT như quy luật
cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...
* Đặc điểm của thị trường công nghệ cao
Một là, thị trường công nghệ cao là thị trường độc quyền đối với sản
phẩm, dịch vụ công nghệ cao
Sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC là hàng hóa đặc biệt bởi vì sản
phẩm, dịch vụ CNC khi mua về nếu không có sự tác động bằng kỹ năng của
con người thì rất khó hoặc không thể sử dụng được; có chi phí cao; sản xuất
mang tính cá biệt hoặc với số lượng hạn chế; có tính rủi ro cao do sản phẩm,
dịch vụ CNC có chi phí đầu tư đầu vào cao nên việc thu hồi chi phí ẩn chứa
nhiều rủi ro hơn và quá trình nghiên cứu không đảm bảo tốt sự bảo mật thì
thông tin, ý tưởng nghiên cứu bị rò rỉ ra bên ngoài sẽ mất đi tính mới, tính
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ CNC.
Sản phẩm, dịch vụ CNC có tính độc quyền cao. Theo đó, bên mua có
được hợp đồng độc quyền sản phẩm, dịch vụ CNC thì bên mua có quyền sở
hữu và quyền sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC; có quyền chuyển nhượng cho
bên thứ ba với tư cách là bên bán sản phẩm, dịch vụ CNC nếu hợp đồng cho
phép. Tuy nhiên, trong hợp đồng trách nhiệm của bên mua không được phép
chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ CNC cho bên thứ ba.
Hai là, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC phụ thuộc nhiều vào
người cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC
Mối quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị
trường thường xảy ra trường hợp thông tin không cân xứng. Theo đó, người
bán sản phẩm, dịch vụ CNC am hiểu tường tận về thông tin liên quan đến sản
phẩm, dịch vụ CNC hơn người mua. Họ làm chủ quy trình hoạt động, vận hành
44
sản phẩm, dịch vụ CNC; bởi họ nắm rõ bí quyết, tính năng ứng dụng của sản
phẩm, dịch vụ CNC đó; Ngược lại, người mua sản phẩm, dịch vụ CNC biết rất ít
về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ CNC, đồng thời hàng hóa này
thường là các sản phẩm, dịch vụ mới, chưa được thị trường kiểm nghiệm… Do
đó người mua sản phẩm, dịch vụ CNC phải được người bán người mua sản
phẩm, dịch vụ CNC hướng dẫn, phải nghiên cứu, đọc tài liệu kèm theo và đặc
biệt họ phải học cách sử dụng, vận hành sản phẩm, dịch vụ CNC đó.
Ba là, chi phí giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC cao và cần có các tổ
chức dịch vụ khoa học công nghệ
Do tính đặc biệt của sản phẩm, dịch vụ CNC nên giá trị thực của chúng
khó xác định một cách chính xác, là một loại hàng hóa có độ rủi ro cao nên
cần có chi phí trung gian trong việc thẩm định, đánh giá; việc thương thảo,
đàm phán về hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC rất phức tạp, chứa
đựng nhiều điều khoản và phải xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên tham gia nên làm phát sinh chi phí giao dịch cao. Do vậy, để sản phẩm,
dịch vụ CNC dễ dàng được tiếp cận và trao đổi giữa người mua và người bán
trên TTCNC thì cũng như các thị trường khác cần thiết phải thiêt lập hệ thống
các tổ chức dịch vụ trung gian môi giới cho loại hàng hóa đặc biệt này thông
qua quá trình tư vấn, định giá, thẩm định. Tuy nhiên, những vấn đề này đòi
hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ cao; do vậy, việc hình thành tổ chức
dịch vụ KHCN có chất lượng tốt cần phải coi trọng đội ngũ cán bộ KHCN.
* Vai trò của thị trường công nghệ cao
Thực tế cho thấy, TTCN nói chung, TTCNC nói riêng, mặc dù được
hình thành và phát triển muộn hơn so với các loại thị trường khác trong nền
KTTT như thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động
sản…Tuy nhiên, sau khi TTCNC ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng của
nó trong phát triển KT - XH biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, sự ra đời TTCNC đã thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng
và số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa
này trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần rút ngắn khoảng cách
45
trình độ phát triển giữa các nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nền kinh tế có
trình độ công nghệ chậm phát triển có khả tiếp nhận CGCN từ các nền kinh tế
có trình độ KHCN phát triển.
Hai là, TTCNC đã tạo nền tảng cho các hoạt động KHCN phát triển sôi
động, phong phú và đa dạng hơn từ các hoạt động nghiên cứu, triển khai cho
đến CGCN từ các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, góp phần nâng
cao tiềm lực KHCN cho các quốc gia.
Ba là, TTCNC phát triển đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát
triển nguồn nhân lực KHCN, lực lượng lao động được đào tạo ở mọi trình độ
ngày càng đông đảo, góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất.
Bốn là, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, nhất
là những thành tựu bước đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như
đang là xu hướng trên toàn thế giới trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu
trong công nghệ sản xuất, hội tụ kỹ thuật số với các yếu tố cốt lõi như: trí tuệ nhân
tạo (AI), kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data),
Blockchain... đã là những công cụ và nền tảng rất tốt cho sự phát triển của thị
trường công nghệ cao trong giai đoạn mới. Điển hình đó là sự phát triển của thị
trường công nghệ kỹ thuật số, thị trường online… thông qua các hình thức
marketting kỹ thuật số đang là xu hướng chính trong thời đại kinh doanh công
nghệ hiện nay. Thị trường công nghệ kỹ thuật số tác động và có ảnh hưởng đến
hầu hết các hoạt động trong xã hội như tài chính, ngân hàng, lao động, bất động
sản, y tế, giáo dục, truyền thông… và từng bước khẳng định tính ưu việt, nổi trội
của nó đang mang lại trong các hoạt động của đời sống của xã hội loài người.
2.2. Quan niệm, nội dung và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển thị
trường công nghệ cao ở Việt Nam
2.2.1. Quan niệm, yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
2.2.1.1. Quan niệm thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị
trường, thị trường KHCN và TTCNC; đặc biệt xuất phát từ những nội dung
mang tính đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là đặc
46
thù của các loại hình thị trường hiện nay, tác giả cho rằng: Thị trường công
nghệ cao ở Việt Nam là loại hình thị trường công nghệ đặc thù, mà ở đó diễn ra
hoạt động trao đổi, mua, bán sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao thông qua hợp
đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Từ những phân tích, luận giải trên cho thấy, về bản chất, thị trường là
sự kết hợp giữa cung và cầu về một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định, trong đó
người mua và người bán đều cạnh tranh bình đẳng. Xuất phát từ đặc điểm của
nền KTTT nói chung, nhất là đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, có thể khái quát các yếu tố cấu thành TTCNC bao gồm:
Một là, nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;
Hai là, nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;
Ba là, các tổ chức trung gian kết nối cung và cầu sản phẩm, dịch vụ
công nghệ cao.
Trong các yếu tố cấu thành TTCNC nêu trên, thì quy mô nguồn cung
và quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là các yếu tố phản ánh quy mô
TTCNC lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay bán một loại sản phẩm, dịch
vụ CNC với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung - cầu sản phẩm, dịch vụ
CNC quyết định. Điều đó cho thấy, TTCNC là nơi thực hiện sự kết hợp chặt
chẽ gữa hai khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ CNC. Như vậy
TTCNC đòi hỏi phải có: Đối tượng trao đổi, mua, bán là sản phẩm, dịch vụ
CNC; Đối tượng tham gia trao đổi, mua, bán là người bán, người mua và các
tổ chức trung gian kết nối cung - cầu; điều kiện thực hiện là nhu cầu của
nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC.
2.2.2. Quan niệm, nội dung phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
2.2.2.1. Quan niệm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Theo quan điểm của các kinh tế học của Trung Quốc, nội dung trọng
tâm của phát triển TTCNC là tăng cường thương mại hoá các kết quả nghiên
cứu và gia tăng tính định hướng thị trường của hoạt động nghiên cứu thông
qua các biện pháp như hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hệ thống
47
trung gian môi giới... Cách tiếp cận này phù hợp với các nước có năng lực
KHCN tương đối phát triển, trong đó có nhiều ngành khoa học trình độ cao.
Trong bối cảnh HNKTQT ngày càng mở rộng và phát triển như ngày
nay, đối với các nước có năng lực KHCN chưa cao trong nền kinh tế chưa
phát triển như Việt Nam thì nội dung phát triển TTCNC không chỉ gia tăng số
lượng và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC, gia tăng các giao dịch và
chủ thể tham gia TTCNC, mà còn phải nâng cao chất lượng phát triển thị
trường, gia tăng dung lượng thị trường, tính hợp lý của cơ cấu TTCNC.
Trên cơ sở quan niệm TTCNC; TTCNC ở Việt Nam và các yếu tố cấu
thành TTCNC, tác giả cho rằng: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt
Nam là quá trình biến đổi các yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao
thông qua sử dụng các cơ chế, chính sách phù hợp để tác động vào quan hệ
kinh tế giữa các lực lượng tham gia thị trường công nghệ cao theo hướng
từng bước gia tăng giá trị của các yếu tố này về số lượng, chất lượng và cơ
cấu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của cách mạng 4.0.
Nội hàm của quan niệm này chỉ rõ các nội dung:
Thứ nhất, chủ thể tham gia phát triển TTCNC gồm chủ thể cung và cầu
sản phẩm, dịch vụ CNC, các tổ chức trung gian kết nối cung cầu. Trong đó:
Chủ thể cung sản phẩm, dịch vụ CNC là các chủ thể cung trong và
ngoài nước, bao gồm: Tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN, các nhà sáng
chế độc lập, cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan nghiên cứu KHCN của các
bộ, ngành, địa phương. Chủ thể cung nước ngoài chủ yếu được thực hiện
thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc mua bán, trao đổi thông
qua các hợp đồng kinh tế theo luật định.
Chủ thể cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là doanh nghiệp, nhà nước, các tổ
chức và cá nhân khác.
Nhà nước là một chủ thể có nhu cầu cao về sản phẩm, dịch vụ CNC,
đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến việc thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực.
48
Doanh nghiệp có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC liên quan đến
nhu cầu nâng cao, đổi mới năng lực công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế và năng suất lao động trong sản xuất và kinh doanh. Để đổi mới, nâng cao
năng lực công nghệ, doanh nghiệp có thể tự lực phát triển công nghệ hoặc liên
kết với chủ thể khác nhằm tăng cường năng lực công nghệ.
Các tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC phục vụ
cho các hoạt động phát triển của mình
Các tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC
bao gồm: dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ thông tin, dịch vụ tài chính, dịch vụ
pháp lý, dịch vụ giám định công nghệ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhằm
xúc tiến và thúc đẩy các giao dịch CNC trên thị trường.
Thứ hai, nội dung phát triển TTCNC ở Việt Nam là quá trình mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng và hoàn thiện cơ cấu các yếu tố cấu thành
TTCNC như: gia tăng số lượng, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,
dịch vụ CNC; gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC; gia tăng số lượng
và chất lượng các tổ chức trung gian kết nối cung - cầu theo hướng phù hợp
với điều kiện nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ ba, phương thức phát triển TTCNC là sự kết hợp giữa hoạt động của
thị trường với kế hoạch của Nhà nước được thực hiện gián tiếp thông qua: Công
cụ, chính sách kinh tế như đầu tư vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư nước
ngoài nhằm hỗ trợ phát triển thị trường; Hệ thống giáo dục đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho phát triển TTCNC; Cơ chế chính sách hỗ trợ, bảo
đảm tính pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là bảo đảm quyền sở
hữu trí tuệ, quyền bảo đảm thông tin chính xác về sản phẩm, dịch vụ CNC.
Thứ tư, mục đích phát triển TTCNC nhằm tạo sự thay đổi theo hướng
mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, góp phần
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới công nghệ và hoạt động ứng
dụng, chuyển giao CNC, hiện đại hóa các ngành sản xuất, dịch vụ có sức cạnh
tranh và hiệu quả KT-XH đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng sản phẩm, dịch
vụ CNC của xã hội.
49
2.2.2.2. Nội dung phát triển thị công nghệ cao ở Việt Nam
Một là, gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nguồn cung sản
phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao
Gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,
dịch vụ CNC là quá trình đánh giá sự gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ
CNC hàng năm; gia tăng về số lượng các giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ
CNC và sự gia tăng về dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường.
Gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường
công nghệ cao
Sản phẩm, dịch vụ CNC bao gồm các sản phẩm CNC và dịch vụ CNC,
sản phẩm, dịch vụ CNC là sản phẩm tạo ra bởi các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu và cơ bản tồn tại ở dạng hữu hình hoặc vô hình được thể hiện dưới
dạng các đối tượng sở hữu trí tuệ như quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu, sáng chế và giải pháp hữu ích, chỉ dẫn địa lý.
Mặt khác với đặc điểm là một loại hàng hóa đặc biệt, được trao đổi lưu
thông trên thị trường như các loại hàng hóa khác, do vậy các hoạt động dịch
vụ sản phẩm, dịch vụ CNC cũng bao gồm các nội dung cơ bản như dịch vụ
môi giới và cung cấp thông tin trên thị trường, dịch vụ kiểm định và đánh giá
chất lượng sản phẩm, dịch vụ về kỹ thuật và tư vấn kỹ thuật.
Gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường là sự phát
triển về chiều rộng có tốc độ tăng đều ổn định trong các năm các loại sản
phẩm và dịch vụ CNC biểu hiện là gia tăng về các sản phẩm khoa học công
nghệ là đối tượng SHCN, các văn bằng bảo hộ, sáng chế, giải pháp hữu ích,
nhãn hiệu quốc gia, nhãn hiệu quốc tế và sự gia tăng các loại dịch vụ CNC.
Gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường còn được
đánh giá là sự phát triển số lượng các giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC
trên TTCNC qua thời gian hàng năm
Tiêu chí đánh giá gia tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC trên
TTCNC thông qua các chỉ số: 1) Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp; 2) Cơ
cấu văn bằng bảo hộ được cấp; 3) Nguồn gốc văn bằng bảo hộ được cấp.
50
Tiêu chí đánh giá gia tăng giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC trên
TTCNC thông qua các chỉ số: 1) Số lượng, giá trị và cơ cấu sản phẩm KHCN
là đối tượng sở hữu công nghiệp; 2) gia tăng giá trị giao dịch công nghệ theo
nhóm ngành; theo loại hình sở hữu; theo quy mô doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao
trên thị trường công nghệ cao
Nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC có ý nghĩa quyết định thúc đẩy
TTCN phát triển bền vững. Hiện nay, nguồn cung ứng hàng hóa CNC cho
TTCNC, chủ yếu từ nguồn cung trong nước và nước ngoài.
Cung sản phẩm, dịch vụ CNC có thể hiểu là những người tạo ra (hoặc
không tạo ra) sản phẩm CNC, cung sản phẩm, dịch vụ CNC là khả năng cung
cấp các loại hàng hóa công nghệ có chất lượng cao của các các tổ chức
KHCN (trong đó có các tổ chức của Nhà nước, các doanh nghiệp KHCN) và
đội ngũ các nhà khoa học, nhà sáng chế. Căn cứ vào đặc điểm, loại hình tổ
chức, căn cứ vào mục tiêu và định hướng mỗi tổ chức đều có những năng lực
đặc trưng riêng phù hợp với yêu cầu phát triển của mình, có thể đó là năng lực
về vốn, năng lực cạnh tranh, năng lực tổ chức, năng lực đổi mới sáng tạo,
năng lực nghiên cứu và triển khai, năng lực gắn kết nghiên cứu với sản xuất
của các tổ chức KHCN. Do vậy, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm,
dịch vụ CNC hiện nay được hiểu là nâng cao chất lượng nguồn cung trong
nước và nguồn cung ngoài nước.
Thứ nhất, nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trong nước
Các chủ thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC cho TTCNC gồm: Các tổ
chức KHCN, các doanh nghiệp KHCN và các nhà sáng chế độc lập
Các tổ chức khoa học công nghệ
Các tổ chức KHCN (các tổ chức NCKH, các tổ chức nghiên cứu và
triển khai công nghệ); Các trường đại học, học viện và trường cao đẳng; Các
tổ chức dịch vụ KHCN là nơi cung cấp và tạo ra các sản phẩm CNC có chất
lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do vậy, để nâng cao chất
51
lượng các sản phẩm, dịch vụ CNC được tạo ra trong các tổ chức KHCN phải
dựa trên đánh giá về năng lực của các tổ chức KHCN cụ thể là năng lực sáng
tạo và năng lực R&D của các tổ chức KHCN trong điều kiện mới.
Tiêu chí đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN: 1) Gia tăng
số lượng tổ chức KHCN hàng năm; 2) Sự phát triển tổ chức R&D theo quy
mô nguồn nhân lực; 3) Sự phát triển các tổ chức R&D theo lĩnh vực ngành.
Tiêu chí đánh giá năng lực sáng tạo của các tổ chức KHCN được đánh
giá bằng các chỉ số: (1) Số lượng các bài báo được đăng trên các tạp chí khoa
học trong nước và quốc tế uy tín; (2) Số lượng và chất lượng đội ngũ các nhà
khoa học với trình độ chuyên môn cao.
Các doanh nghiệp khoa học công nghệ
Doanh nghiệp khoa học công nghệ là những doanh nghiệp mà hoạt
động sản xuất kinh doanh khởi nguồn từ các kết quả ứng dụng hoặc sử dụng
công nghệ, bí quyết công nghệ từ các kết quả nghiên cứu của các Viện nghiên
cứu, trường đại học, nhà khoa học hoặc nhập khẩu công nghệ. Là một chủ thể
với vai trò cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường các doanh nghiệp
KHCN có nhiệm vụ: 1) Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, tạo giá trị
gia tăng lớn cho xã hội; 2) tập trung đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng; 3) kích
thích nghiên cứu phát triển và thu hút các nguồn lực có trình độ cao; 4) Là
một trong những chủ thể để hình thành và phát triển TTCNC.
Các doanh nghiệp KHCN bao gồm các trung tâm công nghệ, các vườn
ươm tạo công nghệ, các trạm, trại sản xuất và dịch vụ công nghệ… Với chức
năng là nguồn cung hàng hóa công nghệ, trong đó có sản phẩm, dịch vụ CNC
trên cơ sở sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNC theo đơn đặt hàng hoặc cũng có
thể sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNC qua quá trình phân tích nắm bắt xu
hướng và nhu cầu của thị trường, do đó các loại hình doanh nghiệp KHCN
ngày càng phát triển đa dạng phong phú hơn với sự phát triển của TTCNC.
Nâng cao chất lượng nguồn cung CNC của các doanh nghiệp KHCN là nâng
cao năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai, năng lực
52
gắn kết nghiên cứu với sản xuất y trên cơ sở các tiêu chí đánh giá: 1) Sự gia
tăng của các doanh nghiệp KHCN; 2) Doanh thu, số lao động, vốn, giá trị
công nghệ mà doanh nghiệp đang nắm giữ; 3) Số lượng và giá trị văn bằng
bảo hộ đang nắm giữ; Số lượng và giá trị công nghệ của doanh nghiệp; 4) Số
lượng các dự án liên kết, hợp tác với doanh nghiệp; 5) Số đề tài, dự án đã
R&D đã đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.
Các nhà sáng chế độc lập
Các nhà sáng chế độc lập là nhà cung ứng công nghệ nội sinh, họ là các
giáo sư, các nhà khoa học được đào tạo cơ bản hoặc là những người đam mê
khoa học. Thực tiễn, số lượng sản phẩm KHCN được tạo ra từ nguồn này
không lớn do cơ chế khuyến kích thành quả tạo ra đối với họ còn nhiều bất
cập. Nếu được sự quan tâm và khích lệ cũng như tạo cơ chế thì sẽ có nhiều
sản phẩm xuất hiện cung ứng cho thị trường từ nguồn cung này.
Thứ hai, nguồn cung ngoài nước
Trong quá trình phát triển TTCNC hiện nay, ngoài nguồn cung sản
phẩm, dịch vụ CNC trong nước thì nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC từ các
thị trường ngoài nước có vai trò rất quan trọng, tạo ra sự phong phú, đa dạng
nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC hiện nay.
Sản phẩm, dịch vụ CNC nước ngoài, nhất là nguồn sản phẩm, dịch vụ
CNC hiện đại, có hàm lượng khoa học cao của các quốc gia có trình độ phát
triển trên thế giới sẽ có giá trị rất lớn đối với các nước đang phát triển có trình
độ KHCN còn hạn chế. Với lý do đó, để từng bước rút ngắn chênh lệch về
trình độ công nghệ đòi hỏi các quốc gia đang phát triển cần thực hiện việc tiếp
thu ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ CNC tiên tiến của nước ngoài để đổi mới
công nghệ trong nước. Tuy nhiên, quan trọng nhất trong thu hút sản phẩm,
dịch vụ CNC nước ngoài là phải có sự hiểu biết về thông tin, chủng loại để
phù hợp với điều kiện thực tiễn của quốc gia mình, tránh tình trạng trở thành
bãi thải công nghệ của các quốc gia phát triển. Trong thực tế hiện nay, thu hút
sản phẩm, dịch vụ CNC nước ngoài bằng nhiều con đường khác nhau như
53
giao dịch mua, bán trực tiếp thông qua hội thảo khoa học, hội chợ, triển lãm
trình diễn công nghệ quốc tế hoặc cũng có thể thu hút gián tiếp bằng cách tiếp
cận thông qua CGCN từ các doanh nghiệp FDI, thông qua các chương trình
hợp tác nghiên cứu khoa học… dựa trên các tiêu chí như: 1) số lượng các hợp
đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN; 2) số lượng các hợp đồng
chuyển giao quyền sở hữu đối tượng SHCN.
Hai là, gia tăng cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao
Nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch
vụ CNC của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hay hiệu quả sản xuất, kinh
doanh… Trong thực tế TTCNC, nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC rất
phong phú gồm nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác, trong đó:
* Cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của nhà nước.
Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước để trực tiếp triển khai hoặc là tài trợ cho các chủ thể khác triển khai thực
hiện các hoạt động KHCN. Việc sử dụng nguồn kinh phí này trên cơ sở các mục
tiêu, định hướng và quy hoạch chiến lược của Nhà nước. Do vậy, việc đánh giá
năng lực cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của nhà nước được đánh giá thông qua tính
hiệu quả trong đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN.
Tiêu chí đánh giá năng lực cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của nhà nước được
thể hiện thông qua các chỉ số: 1) Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho hoạt động
KHCN; 2) Mức độ giải ngân kinh phí cho nghiên cứu khoa học của nhà nước.
* Cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của doanh nghiệp
Khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp được thể hiện ở lượng
vốn đầu tư và năng lực tiếp thu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trên cơ
sở chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, phù hợp với
yêu cầu phát triển và sức ép cạnh tranh của thị trường, trình độ quản lý cơ sở
hạ tầng của doanh nghiệp, trình độ và năng lực công nghệ của đội ngũ nhân
lực, nguồn tài chính bảo đảm cho đổi mới công nghệ…
54
Tiêu chí đánh giá khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
được thể hiện thông qua các chỉ số: (1) trình độ nguồn nhân lực trong R&D
công nghệ trong doanh nghiệp; (2) Nguồn kinh phí cho đổi mới công nghệ
của doanh nghiệp.
Ba là, gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới
trên thị trường công nghệ cao
Sản phẩm, dịch vụ CNC với đặc điểm là một loại hàng hóa đặc biệt và
có những đặc điểm rất riêng so với các loại hàng hóa thông thường khác như
bất thông tin đối xứng, giá trị định lượng của hàng hóa khó xác định, tính
pháp lý của hàng hóa khó nhận biết (Quyền SHTT). Do đó, để sản phẩm, dịch
vụ CNC có thể lưu thông và đạt được mục đích yêu cầu của cả bên cung và
bên cầu cần phải có các tổ chức dịch vụ trung gian, môi giới với nhiệm vụ
cung cấp thông tin, tư vấn hỗ trợ dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý, giám định
kiểm định… nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Theo Khoản 2 Điều 1, Thông tư số 16/2014/TT-BKHCN của Bộ KHCN,
các loại hình tổ chức trung gian bao gồm: (i) Sàn giao dịch công nghệ; (ii) Trung
tâm giao dịch công nghệ; (ii) Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động CGCN;
(iv) Trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ; (v) Trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng
tạo; (vi) Cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN.
Các tổ chức trung gian, môi giới được thành lập và hoạt động dưới
nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức này bao gồm các cơ quan chức
năng của Nhà nước, các hiệp hội, các công ty tư vấn độc lập, các tổ chức
phi chính phủ. Các tổ chức này tiến hành các hoạt động tư vấn kỹ thuật, tư
vấn pháp lý, tư vấn quản lý, thông tin và môi giới công nghệ dưới các tên
gọi: trung tâm, viện nghiên cứu, công ty của địa phương, quốc gia, khu
vực và quốc tế.
Sự gia tăng về số lượng và chất lượng của các tổ chức trung gian được
đánh giá là sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của các thành phần, các
bộ phận của các tổ chức trung gian theo thời gian hàng năm.
55
2.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường công nghệ cao ở
Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và tác động mạnh mẽ
của cách mạng 4.0, phát triển TTCNC ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố chủ quan, có yếu tố khách quan. Đó là:
2.2.3.1. Yếu tố khách quan
Thứ nhất, xu thế toàn cầu hóa và mức độ hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu hiện nay. Một nền
kinh tế muốn phát triển, tất yếu phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập
quốc tế và khắc phục những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Đối với lĩnh
vực KHCN nói chung, TTCN nói riêng, trong đó có TTCNC, hội nhập quốc
tế là con đường ngắn nhất, kinh tế nhất, hiệu quả nhất để các nền kinh tế học
hỏi, thu hút nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực KHCN. Khi tham gia hội nhập
quốc tế, nhất là HNKTQT, các tổ chức kinh tế đều bình đẳng tiếp cận để tìm
kiếm bạn hàng, đối tác trong việc mua, bán, trao đổi sản phẩm, dịch vụ CNC
với các đối tác nước ngoài - tăng nguồn cung ngoài nước; Đồng thời, với xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các tổ chức kinh tế muốn tồn tại và phát
triển bền vững, phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm,
dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, giá cạnh tranh. Muốn vậy
các tổ chức kinh tế phải chú trọng đầu tư, ưu tiên đổi mới công nghệ - tăng
nguồn cầu trong nước. Có thể nói, việc tăng nguồn cung và cầu sản phẩm,
dịch vụ CNC là kết quả của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đây là
yếu tố góp phần thúc đẩy TTCNC phát triển. Như vậy, mức độ hội nhập quốc
tế có tác động lớn tới việc thúc đẩy phát triển TTCNC của mỗi nền kinh tế.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng thị trường công nghệ cao
Cơ sở hạ tầng TTCNC gồm hệ thống trang thiết bị, phòng thí nghiệm
phục vụ cho việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ CNC; hệ thống thông tin liên
lạc như internet, điện thoại,…; hệ thống các cơ sở dịch vụ phục vụ giao dịch;
các trung tâm giao dịch Techmart; sàn giao dịch công nghệ, các sàn giao dịch
56
điện tử về công nghệ (Techmart online). Cơ sở hạ tầng tác động đến sự phát
triển TTCNC thông qua ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, cả tích cực và tiêu
cực. Theo đó, cơ sở hạ tầng TTCNC đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy sự phát
triển của TTCNC; Ngược lại, cơ sở hạ tầng TTCNC không đồng bộ, thiếu
hiện đại sẽ kìm hãm hoặc hạn chế sự phát triển của TTCNC.
Thứ ba, hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Cho đến nay, hệ thống thị trường ở Việt Nam đã được hình thành và
phát triển như thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường bất động sản, thị
trường vốn, thị trường sức lao động.... Hệ thống thị trường bước đầu phát
triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của TTCNC, bởi vì các loại
thị trường này có quan hệ tương tác, hỗ trợ và thúc đẩy TTCNC phát triển.
Tuy nhiên, hệ thống thị trường thiếu đồng bộ; theo đó, chỉ có thị trường hàng
hóa và dịch vụ phát triển mạnh còn các thị trường khác hiện còn tồn tại không ít
hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập trong việc phát triển hệ thống thị
trường đã và đang là lực cản, kìm hãm sự phát triển của TTCNC. Do vậy Nhà
nước cần có chính sách phát triển hệ thống thị trường theo hướng đồng bộ, hiện
đại, liên thông để thúc đẩy sự phát triển của TTCNC. Thực tế cho thấy, hệ thống
thị trường là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển của TTCNC.
Thứ tư, mức độ cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường công nghệ cao
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế quan trọng trong nền
KTTT. Quy luật cạnh tranh chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế, nhất là đối
với doanh nghiệp. Yếu tố cạnh tranh chỉ thực sự phát huy tác động tích cực khi
các chủ thể tham gia TTCNC cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch đúng
quy định của pháp luật. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là HNKTQT quốc
tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay, cạnh tranh không chỉ diễn ra trên phạm vị
lãnh thổ quốc gia mà còn diễn ra trên phạm vị khu vực và quốc tế, do đó các chủ
thể tham gia TTCNC, trong đó có doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền
vững phải nâng cao sức cạnh tranh nhằm củng cố, mở rộng thị phần, nâng cao khả
năng ứng phó với các biến động bất lợi, trên cơ sở đó xác lập vị thế trên thị trường
57
và nâng cao hiệu quả kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó làm gia tăng
nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC. Muốn như vậy, đòi hỏi các chủ thể kinh tế, nhất
là doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm,
dịch vụ thông qua đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đặc biệt là các dây
chuyền công nghệ phù hợp với điều kiện thực tiễn TTCNC.
Thứ năm, các quy luật kinh tế thị trường
Với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT, song sự phát triển của
TTCNC ở Việt Nam, vẫn chịu sự tác động bởi quy luật KTTT như quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,... Các quy luật KTTT là nhân tố quan
trọng, có tác động thuận và nghịch đối với sự phát triển của TTCNC. Theo đó, các
quy luật này chi phối hoạt động của các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là doanh
nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển bền vững đòi hỏi phải
thường xuyên cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tích cực đổi mới
dây chuyền công nghệ theo hướng hiện đại. Điều đó có nghĩa, đã làm gia tăng
nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, trên cơ sở đó gián tiếp thúc đẩy TTCNC phát
triển. Đó là tác động thuận chiều của các quy luật KTTT. Ngược lại, khi các tổ
chức kinh tế, kể cả doanh nghiệp không tự đổi mới sáng tạo, không cải tiến công
nghệ sản xuất, kinh doanh hay công nghệ quản lý, chẳng những tự làm mất đi sức
cạnh tranh của mình, mà còn cản trở TTCNC phát triển.
Thứ sáu, tác động của cách mạng 4.0
Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp, hiện nay đang
bước vào cách mạng 4.0. Trong đó, cách mạng 4.0 với việc sử dụng các thiết
bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng
công nghiệp này là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người
(cả lao động chân tay và trí óc) bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn
toàn trong quá trình sản xuất nhất định giúp cho các nước trên thế giới phát
triển các ngành công nghệ thông tin, công nghệ nano, công nghệ vật liệu,
công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ... có tính
thân thiện với môi trường. Cuộc cách mạng này sẽ làm thay đổi lực lượng sản
58
xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn đường trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
2.2.3.2. Yếu tố chủ quan
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng
của nền kinh tế quốc dân
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng của nền
kinh tế quốc gia là yếu tố tác động hai chiều, cả tích cực và tiêu cực đối với
phát triển TTCNC.
Trình độ phát triển KT-XH là nhân tố góp phần gia tăng nguồn cung và
nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC cho TTCNC thông qua tăng đầu tư phát
triển KHCN quốc gia như đầu tư NSNN cho phát triển KHCN, thu hút nguồn
vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư nghiên cứu,
triển khai thành tựu KHCN vào sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, trình độ phát
triển của KT-XH còn gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC do nhu cầu
đổi mới công nghệ của các tổ chức, cá nhân tăng, theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC
phát triển; ngược lại, khi trình độ KT-XH thấp thì cả nguồn cung và nguồn
cầu sản phẩm, dịch vụ CNC giảm, kết quả là TTCNC không thể phát triển.
Mô hình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia sẽ quyết định trình độ đổi
mới công nghệ của quốc gia đó, theo đó sẽ tác động tới sự phát triển của TTCNC.
Nếu quốc gia theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào nguồn lực
tài nguyên thiên nhiên và sử dụng lao động phổ thông sẽ không tạo được nhu cầu
cao về sản phẩm, dịch vụ CNC và đổi mới sáng tạo. Ngược lại những quốc gia
theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào KHCN và đổi mới sáng tạo
sẽ đầu tư lớn, có hiệu quả để thúc đẩy quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC,
theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC phát triển mạnh mẽ và ngược lại.
Thứ hai, năng lực khoa học công nghệ quốc gia, trình độ năng lực của
các tổ chức khoa học công nghệ
Năng lực KHCN quốc gia là nhân tố quyết định nguồn cung và cầu sản
phẩm, dịch vụ CNC. Các quốc gia có TTCNC phát triển là các quốc gia có
59
năng lực KHCN phát triển. Các công nghệ mới, CNC, công nghệ tiên tiến đều
được sản xuất ở các quốc gia có năng lực KHCN phát triển, vì các quốc gia
này có đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, nguồn vốn và các thông tin
cần thiết để nghiên cứu và triển khai công nghệ. Trong đó, trình độ và năng
lực của các tổ chức KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản
phẩm, dịch vụ CNC cũng như thực hiện việc thương mại hóa sản phẩm, dịch
vụ CNC. Ngược lại, ở các quốc gia có năng lực KHCN kém sẽ khó khăn
trong quá trình triển khai hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ; theo
đó nguồn cung và cầu sản phẩm, dịch vụ CNC sẽ không nhiều, và do đó
TTCNC cũng khó phát triển.
Thứ ba, hệ thống cơ chế chính sách, pháp lý về quản lý khoa học công nghệ
Để TTCNC vận hành hiệu quả, hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ
CNC đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia TTCNC đòi hỏi Nhà nước
phải có hệ thống cơ chế chính sách, pháp về KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp
thời nhằm điều tiết hoạt động cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể tham gia TTCN nói chung,
TTCNC nói riêng. Trong đó, quyền SHTT là một trong những thể chế hỗ trợ
quan trọng nhất cho sự vận hành của thị trường, bởi quyền SHTT đảm bảo để
các sản phẩm KHCN có thể trở thành hàng hóa. Vì vậy, nếu hệ thống cơ chế
chính sách, pháp quản lý KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp thời sẽ là nhân tố góp
phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của TTCNC; Ngược lại, khi hệ thống cơ
chế chính sách, pháp quản lý KHCN không đồng bộ, hay không phù hợp,
thiếu tính kịp thời sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển của TTCNC.
Như vậy, để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay cần thiết phải
quan tâm và chú trọng đến các yếu tố tác động đến sự phát triển của thị
trường này. Các yếu tố cho dù là khách quan hay chủ quan, tác động trực tiếp
hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, đều ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của TTCNC. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò riêng nhưng có mối liên hệ tác động
qua lại chặt chẽ với nhau, góp phần thúc đẩy TTCNC phát triển.
60
2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ cao của một số
quốc gia và bài học với Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ và phát triển thị
trường công nghệ cao của một số quốc gia
Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, bắt kịp cách mạng 4.0, vấn đề phát
triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCNC nói riêng có vai trò đặc
biệt quan trọng và cần thiết không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với nhiều
nền kinh tế trên thế giới. Nắm bắt xu thế này, nhiều quốc gia đã triển khai
thành công việc phát triển thị trường KHCN, nhất là TTCNC. Tuy nhiên, tùy
theo trình độ phát triển mà mỗi nền kinh tế triển khai phát triển TTCNC theo
những cách thức và phương pháp khác nhau. Sau đây là kinh nghiệm phát
triển TTCN và TTCNC của Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Israen.
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Phát triển TTCNC trong bối cảnh cách mạng 4.0 là một nội dung rất
quan trọng mà chính phủ Trung Quốc đã quan tâm từ rất sớm và coi đây là
yếu tố cần thiết để tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Phát triển TTCNC được đánh giá là một sáng tạo mang tính đột phá của chính
phủ Trung Quốc trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quá trình
phát triển TTCN nói chung, TTCNC nói riêng của Trung Quốc đã được triển
khai từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20 và được chia thành 3 giai đoạn. Giai
đoạn 1 (còn gọi là giai đoạn thai nghén); Giai đoạn 2 (Giai đoạn khởi động);
Giai đoạn 3 (Giai đoạn phát triển) [80]. Thực tiễn quá trình phát triển TTCN
nói chung, TTCNC nói riêng, ở Trung Quốc được đánh giá có nhiều nội dung
sáng tạo, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Từ thực tế phát triển
TTCNC của Trung Quốc, nhất là giai đoạn 3 (giai đoạn phát triển) có thể rút
ra mấy kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D, theo hướng
ưu tiên đầu tư R&D CNC. Trong giai đoạn 3, nhất là từ năm 1996, là giai
đoạn Trung Quốc tập trung đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D,
61
trong đó đã tiến hành chuyển đổi các cơ quan nghiên cứu ứng dụng thành
doanh nghiệp KHCN. Các tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc đơn vị cung cấp
dịch vụ công cộng phi lợi nhuận được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt
động và là đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị nghiên cứu phi lợi nhuận.
Quá trình chuyển cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung
Quốc đã tác động tích cực trong việc gắn kết quá trình nghiên cứu với quá
trình sản xuất, qua đó huy động được nhiều nguồn lực từ sản xuất để phát
triển KHCN, trên cơ sở đó phát triển thị trường KHCN. Điều đó cho thấy,
việc phát triển thị trường KHCN là kết quả trực tiếp của quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung Quốc, nhờ đó góp phần
tạo nguồn cung sản phẩm hàng hoá, dịch vụ CNC cho TTCNC. Thực hiện cơ
chế mới, hầu hết các cơ quan R&D đã xây dựng bộ phận nghiên cứu thị
trường KHCN nói chung, TTCNC nói riêng, các nhà khoa học đã phối hợp
với các doanh nghiệp để tìm hiểu nhu cầu đổi mới công nghệ, nhất là CNC và
xúc tiến hợp đồng. Các cơ quan R&D đã có các đơn vị phát triển công nghệ
nhằm đáp ứng nhu cầu công nghệ, trong đó chủ yếu là CNC.
Thứ hai, phát triển các tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ,
nhất là CNC. Để phát triển TTCN, trong đó có TTCNC, Trung Quốc đặc biệt
chú trọng phát triển hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ,
nhất là CNC nhằm tạo quan hệ, kết nối cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC.
Hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ bao gồm: Đơn vị sự
nghiệp; các đơn vị thuộc các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ
chức tư nhân. Trong đó, các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ chức
tư nhân hoạt động theo phương thức tự hạch toán, được Nhà nước tạo điều
kiện hoạt động, ưu đãi về thuế; Các đơn vị sự nghiệp bao gồm các trung tâm
thông tin, tư vấn, đào tạo, môi giới CGCN, các sàn giao dịch công nghệ, trung
tâm phát triển sản xuất,... hoạt động theo phương thức sự nghiệp có thu, hạch
toán một phần, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên và hoạt
động Nhà nước yêu cầu hoặc đặt hàng theo kế hoạch hàng năm. Phần thu từ
62
các dịch vụ được chi cho đầu tư phát triển, chi trả lương,... Có thể nói, các
đơn vị sự nghiệp được Nhà nước đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng. Cho đến nay, ở
Trung Quốc có khoảng 60.000 trung tâm thông tin, tư vấn, môi giới CGCN
với khoảng trên 1,2 triệu cán bộ KHCN, thực hiện nhiệm vụ gắn kết giữa các
tổ chức KHCN với các tổ chức có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC, nhất là
các doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ ở các tổ chức trung gian kết nối cung cầu
công nghệ được nhà nước đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn.
Thứ ba, ban hành chính sách hỗ trợ phát triển KHCN, trên cơ sở đó
phát triển TTCNC. Để hiện thực hóa chính sách hỗ trợ phát triển KHCN và
phát triển TTCNC, Trung Quốc đã tiến hành thành lập một số Quỹ như: Quỹ
phát triển công nghệ, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ phát triển sáng chế. Trong
đó: Quỹ phát triển công nghệ có 2 nguồn vốn gồm nguồn vốn từ Bộ Tài chính
và nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong giai đoạn sản xuất thử nghiệm; Quỹ đầu tư mạo hiểm (chủ yếu ở
các nhà đầu tư nước ngoài) đầu tư cho các dự án công nghệ có triển vọng;
Quỹ phát triển sáng chế để đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế về công
nghệ, trong đó ưu tiên đối với CNC. Ngoài ra, Trung Quốc có những chính
sách khuyến khích doanh nghiệp R&D và đổi mới công nghệ; nếu doanh
nghiệp dành một phần lợi nhuận để mua công nghệ sẽ được miễn thuế thu
nhập cho phần kinh phí đó.
Thứ tư, sử dụng công cụ tài chính làm động lực thúc đẩy sự phát triển
của các cơ quan R&D, thông qua đó phát triển TTCNC. Trung Quốc đặt mục
tiêu đến năm 2020 đầu tư 2.5% GDP cho phát triển KHCN. Trong đó, chi đầu
tư R&D tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ
thông tin, truyền thông, công nghệ môi trường, công nghệ nano, vật liệu mới,
hàng không, quốc phòng, an ninh… Hằng năm Trung quốc tăng tỷ trọng vốn
đầu tư R&D. Giai đoạn 2012-2016, tỷ lệ chi đầu tư R&D tăng từ 1,91% lên
2,11%; Năm 2016 Trung quốc đầu tư R&D là 1.567,67 tỷ NDT, tăng 52,2%
so với năm 2012; Năm 2017 chi đầu tư R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so
63
với năm 2016 [102]. Nhờ sử dụng hiệu quả công cụ tài chính mà số lượng
đơn xin phép cấp bằng sáng chế năm 2016 tăng 69%, trong đó số bằng sáng
chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012 [101]. Mặt khác, để nâng
cao năng lực công nghệ quốc gia, Trung Quốc thực hiện chủ trương chuyển từ
nhập khẩu máy móc, thiết bị là chủ yếu sang nhập quy trình, bí quyết công
nghệ. Thực chất của chủ trương này là tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ
CNC trong nước để phát triển TTCNC. Kết quả thực hiện chủ trương này là
TTCNC ở Trung Quốc luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm.
Cụ thể: Năm 2011 đạt 476,4 tỷ NDT, năm 2012 đạt 643,7 tỷ NDT, năm 2013
đạt 746,9 tỷ NDT [43].
Thứ năm, đẩy mạnh phát triển sàn giao dịch công nghệ là vấn đề cốt lõi
để phát triển TTCNC. Sàn giao dịch công nghệ ở Trung Quốc giữ vai trò cốt
lõi trong tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ,
đánh giá khoa học và định giá công nghệ. Đây là các yếu tố có vai trò quan
trọng trong việc phát triển TTCNC. Đối với các sàn giao dịch công nghệ, mặc
dù Bộ KHCN Trung Quốc là đơn vị ra quyết định thành lập và xây dựng mô
hình hoạt động, nhưng các sàn giao dịch công nghệ này không được nhà nước
cấp kinh phí hoạt động mà phải tự hạch toán thu chi trên cơ sở nhiệm vụ được
giao theo chức năng, nhiệm vụ của sàn giao dịch công nghệ.
Đến năm 2018, Trung Quốc đã có 1 sàn giao dịch nhà nước và 29 sàn
giao dịch cấp tỉnh hoạt động độc lập, cạnh tranh với nhau. Mỗi sàn giao dịch
công nghệ được hình thành, phát triển theo nhu cầu của TTCN của mỗi địa
phương đó. Mỗi sàn hoạt động trong một lĩnh vực riêng, phù hợp với nhu cầu
của thị trường từng khu vực. Ngoài ra, các sàn giao dịch công nghệ nhỏ ở cấp
huyện, thị trấn cũng được xây dựng phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp như cung cấp nước sạch, cải tạo đất, điện thông minh, thiết bị xe máy.
Đối tượng khách hàng của các sàn giao dịch công nghệ gồm doanh
nghiệp, cơ quan nghiên cứu, cá nhân có năng lực đến từ các cơ sở giáo dục
đại học, khu công nghiệp, Sở KHCN các tỉnh, các tổ chức khác có nhu cầu mua,
64
bán công nghệ hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu… Kinh phí hoạt động của
các sàn giao dịch công nghệ từ các đối tượng khách hàng này. Nhờ đẩy mạnh
phát triển sàn giao dịch công nghệ mà số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ nói
chung, sản phẩm, dịch vụ CNC nói riêng được giao dịch ngày càng gia tăng,
không chỉ đáp ứng nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của xã hội, mà còn thúc đẩy
TTCNC ở Trung Quốc không ngừng phát triển. Đó là cách thức để Trung Quốc
đạt được mục tiêu đến năm 2025 trở thành một nước có nền CNC.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức
Từ thực tiễn phát triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCN
nói riêng, trong đó có TTCNC ở Cộng hòa liên bang Đức (sau đây gọi tắt là
Đức) thời gian qua có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, phát triển thị trường KHCN theo hướng ưu tiên đầu tư cho
R&D làm nền tảng phát triển TTCN, trên cơ sở đó phát triển TTCNC. Để
phát triển thị trường KHCN, Chính phủ Đức coi trọng kiến tạo khung pháp lý,
ban hành các chính sách khuyến khích, trong đó trọng tậm là chính sách hỗ
trợ tăng cường năng lực R&D. Phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị
trường KHCN đến một trình độ nhất định là cách thức phát triển TTCN, trong
đó có TTCNC không chỉ được tiến hành ở Đức, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh
thổ khác cũng tiến hành. Tuy nhiên, là quốc gia có nền kinh tế phát triển đứng
hàng thứ tư thế giới và có vai trò dẫn dắt nền kinh tế của khối Liên minh Châu
Âu, đặc biệt trong lĩnh vực KHCN, Đức là một trong những nước hàng đầu về
R&D, nên việc phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị trường KHCN theo
hướng ưu tiên đầu tư cho R&D ở Đức có những đặc thù và đạt được kết quả
mà không phải quốc gia nào cũng làm được. Theo đó, các hoạt động R&D rất
được coi trọng và Chính phủ Đức hỗ trợ các hoạt động R&D bằng cách đầu tư
hàng tỷ đô la nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động này. Đặc
biệt, đến năm 2019, Chính phủ Đức đã dành 2,98% GDP cho R&D và đặt
mục tiêu đạt 3% GDP năm 2020 cho hoạt động này [15]. Nhờ coi trọng ưu
tiên đầu tư cho hoạt động R&D mà TTCN nói chung, TTCNC ở Đức được
đánh giá là phát triển rất mạnh mẽ, mang lại hiệu quả thiết thực.
65
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển các tổ chức trung gian kết nối cung cầu
sản phẩm, dịch vụ công nghệ nói chung, sản phẩm, dịch vụ CNC nói riêng.
Ở Đức, các tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản phẩm, dịch vụ công
nghệ được gọi chung là Trung tâm công nghệ. Các hình thức tổ chức của
Trung tâm công nghệ gồm có: Trung tâm tư vấn; Trung tâm thông tin
patent; Trung tâm chuyển giao và trình diễn công nghệ; Trung tâm hỗ trợ
khởi lập doanh nghiệp. Các Trung tâm công nghệ được thành lập ở tất cả
các bang, do chính quyền bang chủ trì phối hợp với cơ quan quản lý KHCN
và một số cơ quan liên quan của Liên bang thành lập. Các Trung tâm công
nghệ có chức năng hỗ trợ các hoạt động CGCN được tiến hành dễ dàng,
nhanh và hiệu quả hơn. Chức năng cụ thể của các Trung tâm công nghệ
được quy định như sau:
Trung tâm tư vấn có chức năng thực hiện dịch vụ tư vấn, giúp đỡ trọn
gói việc tư vấn CGCN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ; Giúp đỡ tìm kiếm
thông tin và xử lý theo yêu cầu; Môi giới giữa đối tác hợp tác và đối tác
chuyển giao; Tổ chức mạng liên kết, quan hệ hợp tác liên kết với đối tác.
Trung tâm thông tin patent có chức năng chỉ dẫn về bảo vệ và hỗ trợ
patent; Giúp tìm kiếm patent; Tổ chức, môi giới làm việc với các nhà sáng
chế; Tổ chức các hội thảo, lớp học...
Trung tâm chuyển giao và trình diễn công nghệ có chức năng tư vấn và
trình diễn công nghệ đặc thù; Tiến hành các công việc liên quan đến các dự án
CGCN do Nhà nước tài trợ; Tra cứu, cung cấp các kết quả nghiên cứu cơ bản;
Giúp chuẩn bị khi đưa các công nghệ mới vào sử dụng,...
Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp có chức năng tư vấn hỗ trợ
doanh nghiệp trẻ giai đoạn mới thành lập; Duy trì các hỗ trợ cho các doanh
nghiệp tiếp tục phát triển ở các giai đoạn tiếp theo; Cung ứng cơ sở hạ tầng,
diện tích cho thuê (phòng họp, phòng thí nghiệm,…); Tiến hành các dịch vụ
chung (điện thoại, văn thư); Môi giới các dịch vụ và tiến hành các tư vấn
(ngân hàng, kế toán,...).
66
Việc quy định chức năng như trên chỉ mang tính tương đối, thể hiện
chức năng chủ yếu của các Trung tâm công nghệ khi thành lập, còn thực tế
các Trung tâm công nghệ hoạt động theo phương thức kết hợp các chức năng
kể trên. Tuy nhiên, để các Trung tâm công nghệ hoạt động, Chính phủ Đức hỗ
trợ cơ sở hạ tầng, chi phí bộ máy và hoạt động. Đối với cơ sở hạ tầng, Chính
phủ Đức hỗ trợ dưới dạng một Chương trình, trong đó các Trung tâm công
nghệ được tài trợ tối đa 80% theo tỷ lệ liên bang 50%, bang 50% [14]; Đối
với chi phí bộ máy và hoạt động, Chính phủ hỗ trợ dưới dạng một Chương
trình, trong đó các Trung tâm công nghệ được tài trợ tối đa 60% nhưng không
quá 200 ngàn euro/năm cho một Trung tâm công nghệ, theo tỷ lệ Liên bang
75%, Bang 25% [14].
Thứ ba, ưu tiên đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh
nghiệp. Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp là một trong các hình thức tổ
chức của Trung tâm công nghệ. Ngoài chức năng của một Trung tâm công
nghệ, Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp còn có nhiệm vụ tổ chức liên
kết giữa các đối tác cần thiết cho việc khởi lập doanh nghiệp như: Ngân hàng,
cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ các nhà khoa học,... Mục tiêu ưu tiên đầu
tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện
pháp lý cho việc hình thành quan điểm, ý tưởng công nghệ; Hỗ trợ, giúp đỡ
thành lập doanh nghiệp trẻ, nhất là doanh nghiệp công nghệ mới thành lập và
đồng hành cùng các doanh nghiệp này trong 3 đến 5 năm sau khi thành lập.
Qua đó hỗ trợ chuyển giao tri thức và công nghệ nhằm tăng cường tiềm lực
đổi mới của vùng và hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng; đồng thời tạo
mạng liên kết quốc gia và quốc tế.
Nguồn vốn tham gia đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập
doanh nghiệp từ nhiều chủ thể khác nhau như chính quyền các cấp, doanh
nghiệp, cơ quan quản lý và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Các nguồn
vốn đó bao gồm: Chính quyền Liên bang 23%; Chính quyền Bang 13%;
Doanh nghiệp 12%; Ngân hàng thương mại 11%; Phòng thương mại và Công
67
nghiệp 9%; Còn lại là đóng góp của các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội,...
Tùy theo vai trò của các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp ở mỗi vùng
kinh tế khác nhau mà tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm từ 40-60% [14]. Đặc
biệt, giai đoạn hình thành thì tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm tỷ trọng cao
hơn, ở giai đoạn phát triển thì tỷ lệ nguồn vốn nhà nước chiếm tỷ trọng thấp
hơn vì ở giai đoạn này các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp đã có thể
trang trải được chi phí hoạt động của mình.
Nhờ chủ trương ưu tiên đầu tư phát triển các Trung tâm hỗ trợ khởi lập
doanh nghiệp của Chính phủ Đức, mà từ 1983 đến nay thành lập 360 Trung
tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp. Theo đó, các Trung tâm hỗ trợ khởi lập
doanh nghiệp đã ươm tạo thành công 16.000 doanh nghiệp, tạo ra 150.000
chỗ làm việc; tỷ lệ duy trì và phát triển là 90%; đã có 8.000 doanh nghiệp phát
triển độc lập mà không cần đến sự hỗ trợ của Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh
nghiệp; thời gian lập nghiệp của các Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp
bình quân là 4 năm [14].
2.3.1.3. Kinh nghiệm của Israel
Là quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt, đất đai
khô hạn do luôn bị thiếu nước, nhưng nhờ áp dụng thành công thành tựu KHCN,
mà Israel đã vươn lên rất mạnh mẽ với nhiều điều kỳ diệu trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt Israel có thị trường KHCN phát triển hàng đầu khu vực
và trên thế giới. Và đó là lý do vì sao Israel có TTCNC phát triển. Từ thực tiễn
phát triển TTCNC của Israel có thể rút ra được một số kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, thương mại hoá sản phẩm KHCN dựa trên nguyên tắc thị
trường. Để thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN, đẩy nhanh quá trình ứng
dụng sản phẩm KHCN vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ ở Israel, năm 1969 Chính phủ Israel thành lập Văn phòng Nhà khoa học
trưởng trực thuộc Bộ Công thương (hiện nay là Bộ Kinh tế và Công nghiệp). Từ
năm 2016 đến nay, Văn phòng Nhà khoa học trưởng đổi tên thành Cơ quan đổi
mới sáng tạo quốc gia trực thuộc Bộ Kinh tế và Công nghiệp [64]. Cơ quan đổi
mới sáng tạo quốc gia có nhiệm vụ điều phối các Chương trình quốc gia đầu tư
68
cho R&D ở khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm KHCN, trong
đó có sản phẩm, dịch vụ CNC. Đây được coi là thành tố cơ bản trong hệ thống
hỗ trợ quốc gia cho KHCN và đổi mới sáng tạo. Mỗi năm Cơ quan đổi mới sáng
tạo quốc gia đã hỗ trợ cho hơn 500 công ty với trên 1.000 dự án, giá trị tài trợ
chiếm 20-50% ngân sách dành cho nghiên cứu [64].
Đặc biệt, ở Israel tuy quá trình hoạch định và thực thi chính sách đổi
mới sáng tạo quốc gia đều có sự tham gia của các Bộ, song chức năng chủ trì,
điều phối và xây dựng chính sách phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo quốc
gia do Bộ Kinh tế và Công nghiệp thực hiện. Mặc dù ở các Bộ đều có Cơ
quan đổi mới sáng tạo quốc gia với vai trò là cơ quan hoạch định chính sách
đổi mới sáng tạo, thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN và quản lý kinh
phí tài trợ cho các dự án do Bộ mình quản lý thì Cơ quan đổi mới sáng tạo
quốc gia thuộc Bộ Kinh tế và Công nghiệp giữ vai trò là cơ quan chủ trì và
điều phối Diễn đàn KHCN ở tất cả các Bộ.
Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò trọng yếu trong việc thúc đẩy R&D. Để
phát triển TTCN, đặc biệt là phát triển TTCNC, vấn đề cốt lõi là thúc đẩy
R&D phát triển. Để thúc đẩy R&D phát triển, Chính phủ Israel luôn giữ vai
trò trọng yếu trong việc hỗ trợ thúc đẩy R&D. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này của
Chính phủ Israel tuân theo nguyên tắc không can thiệp trực tiếp, chỉ hỗ trợ mà
không bao cấp và chỉ thực hiện hỗ trợ những lĩnh vực KHCN mà khu vực tư
nhân không muốn đầu tư, không có khả năng đầu tư, hoặc không được phép
đầu tư. Nói cách khác, Chính phủ Israel chỉ hỗ trợ những lĩnh vực KHCN cần
có sự can thiệp của Nhà nước. Cụ thể là Israel ưu tiên hỗ trợ cho nghiên cứu
cơ bản và hỗ trợ chuyển giao kết quả nghiên cứu cho khu vực sản xuất dưới
dạng các chương trình tài trợ. Theo đó, Chính phủ Israel thực hiện chính sách
hỗ trợ 50% cho R&D ở các công ty nội địa có sẵn cơ sở sản xuất, sản phẩm
được sản xuất ra trên lãnh thổ Israel và phục vụ xuất khẩu, các bí quyết công
nghệ không được chuyển giao ra nước ngoài. Từ năm 2005 đến nay, Chính
phủ Israel cho phép chuyển giao các kết quả nghiên cứu, bí quyết công nghệ
69
do Nhà nước hỗ trợ, hoặc tài trợ ra nước ngoài. Nhờ những chính sách như
vậy mà cho đến nay, ngành công nghiệp CNC ở Israel là ngành công nghệ mở
và hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường thế giới [64].
Thứ ba, tiếp cận kết nối cầu - cung thay vì cung - cầu công nghệ [64]
tăng cường vai trò của nhà khoa học và doanh nghiệp trong việc lựa chọn các
dự án công nghệ triển vọng và có tiềm năng để triển khai. Ở Israel, việc lựa
chọn dự án KHCN để Nhà nước hỗ trợ, hay tài trợ từ quá trình nghiên cứu
đến thương mại hoá sản phẩm KHCN được thực hiện theo nguyên tắc xuất
phát từ nhu cầu thị trường, cầu quyết định cung thay vì việc nhà khoa học cứ
tiến hành triển khai nghiên cứu và cho ra công nghệ, kể cả CNC sau đó mới
tìm kiếm thị trường, tìm đến nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ KHCN. Để kết nối
cầu - cung theo nguyên tắc xuất phát từ nhu cầu thị trường, Chính phủ Israel
đặc biệt đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ KHCN cũng như các doanh nghiệp
- nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ, trong đó có sản
phẩm, dịch vụ CNC, trong việc tìm kiếm, lựa chọn dự án công nghệ, đặc biệt
là dự án CNC để đưa vào triển khai nghiên cứu và thử nghiệm.
Như vậy có thể thấy, thị trường và nhu cầu thị trường do khu vực sản
xuất đề xuất là yếu tố tiên quyết để nghiên cứu, xem xét lựa chọn dự án công
nghệ nào, nhất là CNC được hỗ trợ, tài trợ để triển khai và thương mại hoá
trong thực tiễn.
Thứ tư, phát huy vai trò các tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản
phẩm, dịch vụ CNC trong việc thúc đẩy thương mại hoá và CGCN, nhất là
CNC tại các cơ sở giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học là một thành
tố quan trọng cấu thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Israel, vì thế Chính
phủ luôn coi trọng kết nối giữa tổ chức trung gian kết nối cung cầu với cơ sở
giáo dục đại học nhằm hỗ trợ thúc đẩy thương mại hoá sản phẩm KHCN và
CGCN. Thực tế ở Israel cho thấy, có đến 75% sáng chế được tạo ra bởi các cơ
sở giáo dục đại học có tiềm năng thương mại hoá và CGCN [64]. Đóng vai
trò quan trọng trong việc chuyển giao kết quả nghiên cứu từ các cơ sở giáo
70
dục đại học cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC là
Các Công ty CGCN - một hình thức tổ chức trung gian kết nối cung cầu sản
phẩm, dịch vụ công nghệ, nhất là sản phẩm, dịch vụ CNC. Ở Israel, sở hữu
Công ty CGCN có thể là tư nhân, nhà nước hay cơ sở giáo dục đại học. Việc
hỗ trợ thương mại hoá sản phẩm, dịch vụ CNC được tiến hành như sau: Khi
nhà khoa học có sáng chế sẽ thông báo cho các Công ty CGCN. Các Công ty
CGCN sẽ tiến hành các công việc như: Đánh giá mức độ thương mại hoá tiềm
năng đối với sản phẩm, dịch vụ KHCN; Xây dựng kế hoạch kinh doanh,
quảng bá, thu hút khách hàng; Soạn thảo hợp đồng CGCN; Xác định tỷ lệ lợi
nhuận giữa các bên; Hỗ trợ giao dịch với các nhà đầu tư. Như vậy, các nhà khoa
học chỉ chuyên tâm nghiên cứu, sáng tạo. Khi hợp đồng CGCN được thực hiện
thành công, các nhà khoa học có sản phẩm, dịch vụ được chuyển giao sẽ nhận
40% giá trị hợp đồng, 60% còn lại được chia thành 3 phần bằng nhau: Một phần
nộp ngân sách các cơ sở giáo dục đại học; Một phần nộp vào quỹ phát triển
phòng thí nghiệm nghiên cứu; Phần còn lại thuộc các Công ty CGCN [64].
Thứ năm, thông qua các quy định về sở hữu trí tuệ để khuyến khích các
nhà khoa học nghiên cứu, sáng tạo và tích cực thương mại hoá công nghệ nói
chung, CNC nói riêng. Để đảm bảo quyền lợi cho cơ sở giáo dục đại học và
doanh nghiệp khi tham gia hoạt động CGCN; đồng thời khuyến khích các nhà
khoa học cũng như các cơ sở giáo dục đại học nghiên cứu và đẩy mạnh
thương mại hoá công nghệ, đặc biệt là CNC, Chính phủ Israel quy định
nghiêm ngặt về quyền sở hữu trí tuệ trong hợp đồng CGCN. Theo đó, doanh
nghiệp nhận CGCN phải cam kết đưa công nghệ ra thị trường, không có
quyền công bố kết quả nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học. Quyền sở
hữu trí tuệ thuộc về cơ sở giáo dục đại học và được quy định rõ trong hợp
đồng CGCN. Mặt khác, các cơ sở giáo dục đại học không có quyền kinh
doanh bằng chính công nghệ do mình nghiên cứu, sáng chế nếu không có sự
hợp tác với doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ Israel không cho bán mà chỉ
cho phép các cơ sở giáo dục đại học chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho
doanh nghiệp theo hợp đồng CGCN.
71
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trên cơ sở đó đẩy mạnh xuất khẩu
sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC.
Israel là quốc gia tiên tiến nhất ở Tây Á và Trung Đông về phát triển
kinh tế, khoa học, nhất là công nghiệp. Nền giáo dục đại học chất lượng và việc hình thành cộng đồng dân cư có trình độ học vấn cao là nguyên nhân chủ
yếu thúc đẩy sự bùng nổ CNC và phát triển kinh tế nhanh chóng của Israel. Tuy nhiên, do nằm trong khu vực luôn tiềm ẩn nhiều bất ổn về chính trị, kinh
tế, quân sự nên Chính phủ Israel đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác R&D với các quốc gia có nền công nghiệp phát triển. Và, Israel là quốc gia đầu tiên
được Intel, Micrisoft và các tập đoàn đa quốc gia CNC như IBM, Google, Apple, Hewlett-Packard, Systems, Facebook, Cisco, Motorola lựa chọn để
xây dựng cơ sở R&D của họ ở nước ngoài.
Một trong những chương trình hợp tác quốc tế thành công giữa Israel
và Mỹ là Quỹ BIRD (Binational Industrial Research and Development) nhằm tài trợ cho các dự án phát triển sản xuất công nghiệp phi quốc phòng phục vụ
lợi ích giữa hai quốc gia. Có thể khẳng định, sự thành công của Israel trong phát triển CNC cũng như phát triển TTCNC là kết quả kết hợp hài hòa giữa
chính sách hỗ trợ, thu hút nhân tài của Chính phủ với việc xã hội hóa R&D như các “Vườn ươm công nghệ”, cùng với việc tiếp thu, hợp tác tốt trong
R&D về công nghiệp với các nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Đặc biệt,
các ngành công nghiệp có hàm lượng CNC có tốc độ tăng trưởng cao hơn những ngành có hàm lượng công nghệ thấp và trung bình. Nhờ đó, xuất khẩu
sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC luôn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm, dịch vụ công nghệ xuất khẩu của Israel. Theo đó, tốc độ phát triển
bình quân của ngành công nghiệp đạt 3,8%, trong đó các ngành CNC có tốc độ tăng trưởng 6,7%, các ngành công nghệ trung bình cao và trung bình tăng
trưởng 2,2% và 3%, ngành công nghiệp công nghệ thấp tăng trưởng 0,3% [64]. Trong đó, ngành chế tạo của Israel phát triển vượt bậc, được đánh giá là
trung tâm phát triển CNC của thế giới như Thung lũng Silicon thứ hai sau Mỹ. Cũng nhờ thành tựu đó mà hệ thống vũ khí CNC do Israel thiết kế, chế tạo và
nhập khẩu đang chiếm ưu thế trong lĩnh vực quân sự ở quốc gia này.
72
Đối với Israel, tỉ trọng sản phẩm, dịch vụ có độ tập trung CNC và trung
bình cao chiếm tỉ trọng lớn và tăng trưởng ổn định (Hình 2.1). Với khả năng
xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng CNC, nên nền kinh tế Israel có
năng lực cạnh tranh cao và ít đối thủ. Do đó, Israel được các tổ chức quốc tế
đánh giá cao trong bảng xếp hạng hàng năm. Những năm gần đây, tuy kinh tế
thế giới gặp nhiều khó khăn, Israel vẫn là quốc gia ít chịu ảnh hưởng nhất.
Hình 2.1: Tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ có độ
tập trung công nghệ cao và trung bình cao
Nguồn: [14]
2.3.2. Một số bài học rút ra về phát triển thị trường công nghệ cao
cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm phát triển TTCN, nhất là kinh nghiệm phát triển
TTCNC của Trung Quốc, Đức và Israel có thể rút ra một số bài học về phát
triển TTCNC cho Việt Nam như sau:
2.3.2.1. Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Nhận thức được TTCNC là một thị trường đặc biệt, nếu không có sự
can thiệp của Nhà nước thì thị trường này rất khó phát triển. Chính vì vậy, các
quốc gia đều quan tâm đến vấn đề này như Nhà nước Đức tạo ra các điều kiện
73
khung, các biện pháp khuyến khích, cụ thể là Nhà nước hỗ trợ tăng cường
năng lực làm R&D, khuyến khích chuyển đổi cơ cấu, giúp đỡ các dự án
CGCN cho doanh nghiệp hoặc như Trung Quốc xác định giai đoạn đầu của sự
phát triển cần phải được có sự quản lý theo hệ thống và thống nhất. Chính phủ
sẽ can thiệp trực tiếp vào một số nhân tố cơ bản của thị trường như xác lập và
bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy hệ thống trung gian môi giới,… Về
vai trò của Nhà nước Trung Quốc và CHLB Đức trong việc hỗ trợ, đầu tư
phát triển (hạ tầng cơ sở), các tổ chức trung gian kết nối cung cầu cần được
nghiên cứu, vận dụng cho việc phát triển hệ thống các tổ chức trung gian kết
nối cung cầu của địa phương, đặc biệt là tại các thành phố lớn,… là những bài
học kinh nghiệm rất quan trọng để Việt Nam tiếp thu và vận dụng.
2.3.2.2. Đẩy mạnh phát triển các yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao
Một là, nhằm gia tăng số lượng các chủ thể tham gia vào TTCNC, cần có
cơ chế chính sách khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích việc hình thành
các tổ chức KHCN thuộc khu vực tư nhân, khu vực doanh nghiệp như thành lập
các viện nghiên cứu, trường đại học, phòng thí nghiệm, các trung tâm ứng dụng
nghiên cứu triển khai… trong các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp. Ngoài ra tạo
các cơ chế mở, các điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học có thể tham gia các
hoạt động đồng thời cả ở khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân.
Hai là, để tạo điều kiện thuận lợi cho TTCNC phát triển, cần xác định phát
triển doanh nghiệp KHCN là một giải pháp cần thiết và rất quan trọng. Việc phát
triển các doanh nghiệp KHCN góp phần ứng dụng nhanh và thương mại hóa các
công nghệ đã được nghiên cứu tạo ra lực thúc đẩy cho TTCNC phát triển. Các
doanh nghiệp KHCN được hình thành trên cơ sở các vườn ươm công nghệ, đây là
mô hình nhằm đáp ứng các điều kiện về vốn, cơ sở hạ tầng, nhân lực.
Ba là, phát triển các hoạt đông tư vấn, môi giới là nội dung rất quan
trọng để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Từ việc học tập thành lập
các sàn giao dịch công nghệ Thượng Hải, Trung tâm sức sản xuất Quảng
Đông của Trung Quốc và 4 loại hình Trung tâm dịch vụ CGCN của Cộng hòa
74
liên bang Đức với các chức năng, nhiệm vụ phong phú, thích hợp với từng
tình hình của các vùng, miền, trình độ phát triển là các mô hình khác nhau về
hỗ trợ phát triển TTCNC. Chúng ta học tập vận dụng cho việc hình thành các
sàn giao dịch công nghệ quốc gia và vùng, địa phương giai đoạn từ nay đến
2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã hình
thành được 20 sàn giao dịch công nghệ (tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Bình, Nghệ An,…). Ngoài ra
hệ thống các tổ chức trung gian bước đầu đã được hình thành, đang phát triển
nhanh và đa dạng, cả về hình thức và nội dung hoạt động. Mạng lưới các tổ
chức trung gian tư vấn, đánh giá, môi giới CGCN được tăng cường. Hoạt
động của thị trường KHCN ngày càng sôi động với các Chợ công nghệ và
thiết bị quốc gia và quốc tế (Techmart), sàn giao dịch công nghệ (SGDCN),
các sàn giao dịch điện tử về công nghệ (Techmart online), hoạt động kết nối
cung - cầu công nghệ ở các địa phương và vai trò gia tăng của các Trung tâm
ứng dụng tiến bộ KHCN ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày
càng phát triển mạnh. Đây là những tiền đề hết sức thuận lợi để chúng ta có
thể phát triển TTCNC trong thời gian tới.
2.3.2.3. Nâng cao năng lực của các chủ thể tham gia thị trường công
nghệ cao ở Việt Nam
Một là, từ kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thực hiện đẩy mạnh
thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC của các tổ chức KHCN công lập
thông qua các biện pháp như giảm trợ cấp đối với các tổ chức KHCN nhằm
gây áp lực và buộc các tổ chức này phải hoạt động theo nhu cầu của thị
trường; Nâng cao quyền tự chủ của các tổ chức KHCN trong việc cung cấp
hàng hóa, dịch vụ; sát nhập các tổ chức KHCN vào các doanh nghiệp nhằm
gắn kết các hoạt động KHCN với thực tiễn sản xuất kinh doanh. Đối với nước
ta đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế và thực hiện chính sách “Đi tắt đón
đầu” thì cần phải cải cách các tổ chức KHCN công lập theo hướng gắn kết với
nhu cầu của thực tiễn sản xuất, kinh doanh, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu
75
trách nhiệm trong hoạt động nghiên cứu, đặc biệt là đẩy mạnh việc chuyển
đổi các tổ chức này sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Đó là bài học
chúng ta cần phải vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, hình thành các quỹ và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đổi
mới công nghệ nhằm định hướng cho các doanh nghiệp vào việc tiếp nhận các
CNC, công nghệ hiện đại. Việc thành lập Quỹ phát triển công nghệ cho các
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quỹ phát triển sáng chế;
doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần kinh phí mua
công nghệ; doanh nghiệp được trích 5% doanh thu (không tính thuế) để
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là các cơ chế, chính sách cần
học tập cho việc kích cầu công nghệ của các doanh nghiệp… là những nội
dung cần thiết nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong quá trình
tham gia phát triển TTCNC hiện nay. Về cơ bản các cơ chế chính sách này
cũng đang được bắt đầu triển khai và thực hiện có hiệu quả tạo ra những hiệu
ứng tốt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, Thủ tướng chính phủ đã
ban hành quyết định số 04/2021/QĐ-TTg, ngày 29/01/2021 về Điều lệ tổ
chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và quyết định này có
hiệu lực từ ngày 15/3/2021 với các mục đích cụ thể như sau: 1) Hỗ trợ doanh
nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ được khuyến khích
chuyển giao quy định tại Luật CGCN; 2) Thúc đẩy việc CGCN phục vụ phát
triển nông nghiệp ở vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; 3) Hỗ trợ ươm tạo công nghệ, ươm tạo
doanh nghiệp KHCN, giải mã công nghệ; 4) Hỗ trợ đào tạo nhân lực KHCN
phục vụ việc chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ. Có thể nói đây là
những thuận lợi rất quan trọng giúp cho hoạt động KHCN của nước ta có điều
kiện phát triển vững chắc hơn trong thời gian tới.
Có thể khẳng định những kinh nghiệm thành công trong phát triển thị
trường CNC thời gian qua của một số quốc gia mà luận án đã tiến hành khảo sát
76
là những bài học có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trong quá trình phát triển
thị trường CNC trong thời gian tới. Tuy nhiên, với đặc điểm thị trường CNC của
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển thì việc nghiên cứu
những kinh nghiệm không thành công của các quốc gia trên thế giới về phát triển
thị trường này cũng là nội dung vô cùng cần thiết và quan trọng, giúp cho chúng
ta có điều kiện nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện trong quá trình phát
triển thị trường CNC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những thời gian
tiếp theo. Trong phạm vi của luận án tập trung nghiên cứu và đánh giá một số
kinh nghiệm không thành công của Trung Quốc trong quá trình phát triển thị
trường khoa học công nghệ nói chung và thị trường công nghệ cao nói riêng.
Trước hết là việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Trung Quốc với các quốc gia
trên thế giới là rất nghiêm trọng đặc biệt là các quốc gia có nền khoa học công
nghệ phát triển như Hoa Kỳ, Nga và các nước Châu Âu cụ thể là vi phạm tại
Điều 3, Điều 28 của Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ về các hoạt động vi phạm sở hữu trí tuệ, buộc chuyển giao công nghệ của
Trung Quốc, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ đã chính thức gửi yêu cầu
tham vấn với Trung Quốc lên Tổ chức Thương mại Thế giới. Trong yêu cầu
tham vấn ghi rõ: Trung Quốc đã từ chối để các đối tác nước ngoài được có khả
năng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình khi liên doanh với đối tác Trung
Quốc sau khi hợp đồng chuyển giao công nghệ kết thúc. Trung Quốc cũng áp đặt
các điều khoản hợp đồng có tính bắt buộc, gây bất lợi, nhằm tạo ra sự phân biệt
đối xử, chống lại và không tạo thuận lợi cho công nghệ nước ngoài nhập khẩu.
Thông qua một loạt công cụ cụ thể để thực hiện chính sách buộc
chuyển giao công nghệ không công bằng, phân biệt và hạn chế đầu tư của
Trung Quốc như Luật Ngoại thương của Trung Quốc; Quy định của Trung
Quốc về nhập khẩu và xuất khẩu công nghệ; Luật về Doanh nghiệp liên doanh
cổ phần Trung Quốc - Nước ngoài; các quy định triển khai Luật này... với các
quy định như: Các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải có thời gian thực
hiện ít nhất 10 năm và cho phép bên liên doanh của Trung Quốc được sử dụng
77
công nghệ này vĩnh viễn sau khi hợp đồng đã hết hạn, hay quy định chủ sở
hữu nước ngoài không được phép ngăn cản các nhà cấp giấy phép của Trung
Quốc cải tiến công nghệ và sở hữu những cải tiến đó...
Trước đó, Nhật Bản (năm 2009) và Liên minh châu Âu (năm 2011) từng
gửi yêu cầu tham vấn về việc Trung Quốc buộc chuyển giao công nghệ vi phạm
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ lên Tổ chức
thương mại thế giới.
Thứ hai là việc không nhất quán của Trung Quốc trong quá trình
chuyển giao công nghệ với Nga nhất là trong lĩnh vực công nghệ quân sự.
Năm 1995, Nga-Trung đã ký thỏa thuận đồng ý lắp ráp 200 chiếc Su-27SK
(J-11 phiên bản Trung Quốc), nhưng sau khi lắp ráp 100 chiếc ở Thẩm
Dương, phía Trung Quốc từ chối sản xuất dư thừa máy bay, bởi vì Trung
Quốc đã nghiên cứu chế tạo các linh kiện cho máy bay của mình, trong 10
năm đã học được cách lắp ráp J-11 trên nền tảng Su-27. Hơn nữa, các kỹ sư
Trung Quốc không chỉ phỏng chế thiết bị radar và điện tử hàng không của
Su-27, mà còn giải quyết được một số vấn đề khó về kỹ thuật, trên máy bay
đã lắp ráp động cơ phản lực nội địa. Ngoài ra, máy bay trang bị cho tàu sân
bay J-15 cũng rất giống Su-33 của Nga.
78
Kết luận chương 2
Phát triển TTCNC hiện nay là một tất yếu khách quan phù hợp với xu
thế của thực tiễn. Đây là xu hướng phát triển của tất cả các quốc gia trên thế
giới nói chung và các nước có nền kinh tế đang phát triển nói riêng, là cơ hội
thuận lợi để các quốc gia đi sau có cơ hội tiếp cận với trình độ công nghệ tiên
tiến của thế giới góp phần vào quá trình phát triển KT-XH của quốc gia mình.
Đối với nước ta phát triển TTCNC là một đòi hỏi khách quan nhằm
nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia, gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản
xuất kinh doanh, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Trong thực tế phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề
cả lý luận và thực tiễn cần phải giải quyết. Tiếp cận nghiên cứu vấn đề dưới
góc độ khoa học kinh tế chính trị cho thấy phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện
nay được được thể hiện qua ba nội dung cơ bản: Gia tăng về số lượng và nâng
cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC; Gia tăng
cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC; Gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức
trung gian môi giới trên TTCNC. Đây là những nội dung cơ bản và cần thiết
cần tập trung phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ CNC có chất lượng
tốt, hiệu quả kinh tế cao và thân thiện với môi trường.
Để thúc đẩy TTCNC phát triển cần nắm chắc các yếu tố tác động và
đặc biệt cần phải vận dụng linh hoạt sáng tạo bài học kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới có TTCNC phát triển, là cơ sở để xác định quan điểm
và giải pháp phát triển TTCNC trong thời gian tới.
79
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
3.1. Một số thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường công
nghệ cao ở Việt Nam
3.1.1. Những thuận lợi trong phát triển thị trường công nghệ cao ở
Việt Nam
Đến nay, Việt Nam đã hội nhập và tham gia khá đầy đủ các hiệp định,
điều ước quốc tế có liên quan đến thị trường KH&CN như: Tham gia Hiệp
định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu tài sản
trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO tháng 1/2007; Công ước Berne về bảo hộ
các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; Công ước Ro-ma bảo hộ người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép… Vấn đề
hội nhập kinh tế quốc tế đã phần nào tác động tích cực đến việc gìn giữ
thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp, hạn chế tình trạng bắt chước, làm giả
nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp; Nâng cao năng lực và khả
năng đổi mới của các tổ chức KH&CN Việt Nam.
Để có thể tận dụng hiệu quả các cơ hội cũng như ứng phó với những
thách thức mà việc hội nhập đem lại, trong 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà
nước đã đặc biệt chú trọng sửa đổi, bổ sung và kiện toàn cơ sở pháp lý hỗ trợ
thị trường KH&CN nói chung và thị trường CNC nói riêng phát triển.
Điển hình như ngày 13/11/ 2008 Quốc hội khóa X đã ban hành luật
Công nghệ cao, Ngày 31/12/2010 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết
định số 2457/ QĐ_ TTg về việc phê duyệt chương trình quốc gia phát
triển công nghệ cao đến năm 2020; Ngày 1/6/2013, Quốc hội đã thông qua
Luật KH&CN số 29/2013/QH13 thay thế cho Luật KH&CN số
21/2000/QH10. Tiếp theo đó, ngày ngày 9/11/2013, Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ban hành Quyết định 2075/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát
triển thị trường KH&CN đến năm 2020; ngày 19/6/2017 Quốc hội khóa
80
14 ban hành luật chuyển giao công nghệ… là những văn bản tạo cơ sở
hành lang pháp lý cho thị trường CNC ngày càng phát triển, có vai trò
then chốt trong việc tạo môi trường thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới
công nghệ; nâng cao năng lực KH&CN quốc gia phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước… Nhờ đó, thị trường CNC Việt Nam đến nay đã
gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ phát triển. Loại hình hàng hóa trên thị
trường CNC ngày càng đa dạng và phong phú.
Các hình thức giao dịch trên thị trường này theo đó cũng đa dạng hơn,
gồm có các hình thức như: Giao dịch mua, bản quyền sở hữu, quyền sử dụng
đối tượng sở hữu công nghiệp, giao dịch chuyển giao công nghệ là các thiết
bị, máy móc, công nghệ thuần tuý giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Nhìn chung, thị trường CNC ở Việt Nam trong thời gian qua đã có những
bước phát triển vượt bậc, bởi đã tận dụng khá nhiều các cơ hội của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế mang lại. Điều này được thể hiện cụ thể trong quy mô và
tốc độ phát triển của thị trường này ở nước ta trong vài năm trở lại đây:
Thứ nhất, số lượng sản phẩm CNC (bao gồm: Số lượng văn bằng bảo
hộ được cấp; Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp; Nguồn gốc các văn bằng
bảo hộ được cấp; Các loại hình giao dịch văn bằng bảo hộ) có chiều hướng
gia tăng; Nhận thức về sản phẩm CNC của các thành phần kinh tế cũng đã
phát triển theo hướng thị trường.
Thứ hai, loại hình giao dịch văn bằng bảo hộ được xem xét trên hai nội
dung cơ bản, đó là giao dịch quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và
giao dịch quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp.
Thứ ba, thị trường trong nước đã hình thành nhiều loại dịch vụ
KH&CN (điển hình như: kiểm định mẫu nguyên liệu và sản phẩm, giám định
các sản phẩm KH&CN, pháp lý về sở hữu công nghệ và chuyển giao công
nghệ, dịch vụ tài chính), bước đầu đáp ứng nhu cầu mua bán các sản phẩm
KH&CN trên thị truờng KH&CN, số lượng các DN KH&CN cũng đã có
những chuyển biến về cả chất lẫn lượng.
81
3.1.2. Một số khó khăn trong phát triển thị trường công nghệ cao ở
Việt Nam
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, quá trình phát triển thị trường
KH&CN của nước ta còn tồn tại một số khó khăn nhất định sau:
Một là, so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, giá trị và lượng hàng hóa CNC được giao dịch ở nước ta
hiện nay chưa nhiều.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự tạo ra những động lực
lớn, để hình thành nên các tổ chức KH&CN ở khu vực DN và khu vực tư
nhân, trong khi sức ép cạnh tranh quốc tế ngày lại càng tăng.
Ba là, mặc dù chất lượng phát triển thị trường CNC đã tăng lên nhưng
so với yêu cầu đặt ra thì vẫn còn nhiều bất cập.
Bốn là, thị trường CNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu
thành thị trường chưa phát triển đồng bộ; Năng lực của nhiều chủ thể trên thị
trường còn thấp, số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển ở nước ta đã
tăng lên đáng kể, tuy nhiên tốc độ tăng không đồng đều, chưa đáp ứng được
các yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nước ta trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.2. Thành tựu, hạn chế trong phát triển thị trường công nghệ cao
ở Việt Nam
3.2.1. Thành tựu
3.2.1.1. Số lượng, chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ
cao trên thị trường công nghệ cao ngày càng gia tăng
Một là, gia tăng về số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị
trường công nghệ cao
Thứ nhất, gia tăng số lượng sản phẩm công nghệ cao
Sự gia tăng số lượng các sản phẩm CNC được đánh giá là sự gia tăng
các sản phẩm CNC là đối tượng SHCN và trên các tiêu chí: (1) Số lượng văn
bằng bảo hộ được cấp; (2) Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp; (3) Nguồn
gốc các văn bằng bảo hộ được cấp.
82
Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp
Số văn bằng bảo hộ người Việt Nam được cấp
Loại đơn
TT
đăng ký
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
1
Sáng chế
40
76
109
205
169
45
59
36
63
2 Giải pháp
59
74
66
86
45
114
118
290
230
hữu ích
3 Kiểu dáng
công
807
631
852
984
841
877
1339
1277
1234
nghiệp
4 Nhãn hiệu 15502 14976
14503
15378 14207 13672 15172 14492 22265
Tổng số
16394 15711
15488
16464 15197 14739 16738 16264 23898
Bảng 3.1. Số lượng văn bằng bảo hộ được cấp giai đoạn 2011 - 2019
Nguồn:[27]
TT
Số văn bằng bảo hộ người nước ngoài được cấp 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 1203 1332 1325 1347 1636 2014 945 65 33 23
980 28
20
31
24
28
2019 2451 72
1 2 3
338
440
510
650
545
577
928
1083
938
5938 5066 5156 5201 4133 4368 4229 4070
6555
4 T. số
Loại đơn đăng ký Sáng chế Giải pháp hữu ích Kiểu dáng công nghiệp Nhãn hiệu
7244 6514 6902 7203 6034 6316 6821 7232 10016
Bảng 3.2. Số lượng văn bằng bảo hộ của người nước ngoài được cấp giai đoạn 2011 - 2019
Nguồn:[27]
Theo số liệu thống kê tại Bảng 3.1 tổng số văn bằng bảo hộ được Cục
SHTT Việt Nam cấp cho người Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2019 gia
tăng hàng năm. Trong sự gia tăng này, số lượng các văn bằng bảo hộ cho
người Việt Nam sự gia tăng lớn về quy mô, tốc độ và chiếm tỷ trọng lớn. Số
lượng văn bằng bảo hộ được cấp đã tăng từ 23.638 văn bằng năm 2011 lên
33.914 văn bằng năm 2019, tăng gần 1,5 lần. Bảng 3.1 cũng cho thấy trước
năm 2018 số lượng văn bằng bảo hộ có tốc độ tăng đều hàng năm, nhưng từ
sau năm 2019 sổ lượng văn bằng bảo hộ có sự gia tăng đột biến (từ 16.738
văn bằng năm 2017 lên 23.898 văn bằng năm 2019); tốc độ tăng năm 2019 so
83
với năm 2017 là 70,03% [Phụ lục 2]. Theo số liệu thống kê bảng 3.2 số lượng
các văn bằng bảo hộ cấp cho người nước ngoài có sự gia tăng giữa các năm,
nhưng sự gia tăng này là không liên tục và ổn định (số lượng năm 2012, 2013,
2015, 2016, 2017 thấp hơn so với năm 2011. Tỷ lệ tăng giữa các năm tăng
không cao. Điều này phản ánh, lượng văn bằng bảo hộ cấp cho các chủ thể
nước ngoài trong giai đoạn 2011-2019 có sự gia tăng nhưng không liên tục,
không ổn định và có đóng góp không nhiều vào sự gia tăng của sản phẩm,
dịch vụ CNC là các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp [11].
Cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp
Về cơ cấu các văn bằng bảo hộ được cấp, đối với cả người Việt Nam và
người nước ngoài, theo thống kê tại Bảng 3.1 và 3.2 cho thấy sản phẩm công
nghệ là nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và
gia tăng đột biến trong các năm 2017, 2018, 2019 còn sản phẩm công nghệ là
các văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích chiếm số lượng và tỷ lệ rất
thấp trong tổng sổ loại sản phẩm, dịch vụ CNC.
Nguồn gốc các văn bằng bảo hộ được cấp
Nguồn gốc các văn bằng bảo hộ được cấp cho thấy, các sáng chế do
các tổ chức CNC của Việt Nam làm ra ít hơn nhiều so với các sáng chế do các
tổ chức CNC nước ngoài đăng ký bảo hộ tại Việt Nam (tổng số năm 2018 là
205/2.014, năm 2019 có tỷ lệ là 169/2.451 sáng chế), nhưng người Việt Nam
có ưu thế hơn hẳn ở giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và bằng độc quyền
kiểu dáng công nghiệp [Phụ lục 3].
Hiện nay ở nước ta có nhiều loại hình dịch vụ trên TTCNC, trong đó có
những dịch vụ chủ yếu như sau: Dịch vụ kiểm định mẫu nguyên liệu và sản
phẩm: ở nước ta đây là loại hình dịch vụ phát triển như kiểm định về chất
lượng sản phẩm, sức bền vật liệu; Dịch vụ giám định các sản phẩm CNC:
Hiện nay, ở nước ta dịch vụ giám định các sản phẩm CNC của yếu là do các
cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xét duyệt, thẩm định các dự án đầu tư, chưa
có tổ chức giám định chuyên nghiệp phục vụ cho các chủ thể trên TTCNC;
84
Dịch vụ pháp lý về sở hữu công nghệ và CGCN: Hiện nay dịch vụ này đã
phát triển, tuy nhiên chỉ tập trung ở dịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, ít có
dịch vụ đăng ký bảo hộ sáng chế; Dịch vụ tài chính: Thực hiện chính sách ưu
đãi đối với hoạt động KHCN. Các ngân hàng đã cho vay để hỗ trợ các hoạt
động KHCN. Tuy nhiên, do tính rủi ro cao nên các ngân hàng chủ yếu cho các
doanh nghiệp nhà nước vay, còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ doanh nghiệp KHCN khó tiếp cận được nguồn vốn
vay. Ở nước ta đã có quỹ đầu mạo hiểm của nước ngoài, nhưng quỹ này mới
đi vào hoạt động nên chưa có nhiều đóng góp thiết thực.
Đối với công tác thẩm định cơ sở khoa học các quy hoạch, đề án và thẩm
định công nghệ các dự án đầu tư, Bộ KHCN đã chủ trì thẩm định, góp ý kiến đối
với 5 quy hoạch phát triển KT-XH, 4 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, 33 dự
án đầu tư và 1 đề án phát triển ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, Bộ KHCN đã thành lập
6 hội đồng thẩm định công nghệ do các nhà đầu tư đề xuất trong các lĩnh vực về
môi trường, hóa chất, dầu khí, xử lý rác thải. Đối với công tác thẩm định và cấp
giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng CGCN, năm 2017 Bộ Khoa học và Công
nghệ đã cấp giấy chứng nhận cho 16 hợp đồng CGCN (trong đó có 11 hợp đồng
CGCN cấp mới và 5 hợp đồng CGCN sửa đổi, bổ sung) [10].
Theo Bộ KHCN, giai đoạn 2015 - 2018, số lượng hợp đồng tư vấn,
CGCN đạt trung bình 3.000 hợp đồng/năm, tăng trưởng 12%/năm; giá trị hợp
11 đồng tư vấn, CGCN trung bình 54,5 tỷ đồng/năm, có mức tăng trưởng
10%/năm. Bên cạnh đó, các trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN đã làm chủ
gần 300 công nghệ, 50% trung tâm đã tạo ra doanh thu trung bình trên 60 tỷ
đồng/năm, lợi nhuận khoảng 10 tỷ đồng/năm [36].
Hoạt động CGCN được thực hiện phong phú, đa dạng đạt nhiều kết quả
tốt theo 2 loại hình quyền sử dụng đối tượng SHCN và quyền sở hữu đối
tượng SHCN ([Phụ lục 13] và [Phụ lục 14]).
Qua bảng số liệu cho thấy đối với loại hình chuyển giao giữa Việt Nam
với Việt Nam cả về quyền sử dụng và quyền sở hữu đối tượng công nghiệp có
85
sự phát triển theo các năm, đặc biệt là các nằm từ 2015 đến 2019, điều này thể
hiện sự kết nối cung cầu của các hội chợ công nghệ hàng năm đã có những
thành công nhất định.
Đối với loại hình thứ hai là quá trình chuyển giao giữa Việt Nam với
nước ngoài về quyền sử dụng và quyền sở hữu đối tượng công nghiệp cũng đã
có sự phát triển, tuy nhiên hình thức chuyển giao về quyền sử dụng đối tượng
công nghiệp vẫn chiếm ưu thế hơn về hình thức chuyển giao quyền sở hữu đối
tượng công nghiệp, điều này cho ta thấy các chủ thể nước ngoài vẫn nắm giữ
và hạn chế quyền sở hữu mà chủ yếu chuyển giao quyền sử dụng đối tượng
SHCN. Đây là một nội dung đặt ra đối với các tổ chức trong hoạt động dịch
vụ công nghệ trong thời gian tới.
Thứ hai, gia tăng số lượng giá trị giao dịch sản phẩm, dịch vụ công
nghệ cao trên thị trường công nghệ cao
Dựa trên các số liệu của Tổng Cục thống kê, giao dịch công nghệ tính
trung bình trên mỗi doanh nghiệp của cả giai đoạn 2012-2018 là gần 1,345
trđ/DN /năm, trong đó tỷ lệ chi phí giao dịch công nghệ nước ngoài so với
giao dịch công nghệ trong nước có xu hướng tăng mạnh, từ 0,66 lần năm
2012 đã tăng lên 1,59 lần năm 2018. Trong đó, nhóm ngành điện, điện tử,
máy tính là nhóm ngành có giao dịch công nghệ lớn nhất, đạt gần 1,917
trđ/DN /năm (chiếm 22,15% giao dịch công nghệ trên thị trường ngành chế
biến, chế tạo), tiếp đến là nhóm ngành kim loại và chế tạo máy (đạt gần 1,896
trđ/DN /năm, chiếm 21,92%), thấp nhất là ngành gỗ, giấy chỉ đạt 0,707 triệu
đồng/doanh nghiệp/năm (chiếm 8,17%). Trong đó, chi phí giao dịch công
nghệ có nguồn gốc nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể so với
chi phí giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước, đặc biệt là ngành kim
loại và chế tạo máy, năm 2012 tỷ trọng giá trị giao dịch công nghệ có nguồn
gốc nước ngoài chỉ bằng 1,67 lần thì năm 2018 đã tăng lên 12,76 lần.
Tốc độ tăng trưởng trung bình giá trị giao dịch công nghệ không đều
trong giai đoạn nghiên cứu, mức biến động này chủ yếu xảy ra ở giá trị giao
86
dịch công nghệ nước ngoài. Tính trung bình tốc độ tăng trưởng trung bình của
cả giai đoạn 2012-2018 là 19% trong đó tốc độ tăng giá trị giao dịch công
nghệ trong nước và nước ngoài tương ứng là 10% và 28%. Trong giá trị giao
dịch công nghệ thì giá trị mua công nghệ chiếm 84,1% trong khi giá trị nâng
cấp công nghệ chiếm 15,9%. Xét về giá trị mua nâng cấp công nghệ từ nhà
cung cấp hay từ khách hàng, số liệu thống kê cho thấy, doanh nghiệp chủ yếu
mua và nâng cấp công nghệ có chuyển giao từ doanh nghiệp khách hàng
(752,27 trđ/DN/năm) gấp 1,61 lần giá trị mua và nâng cấp công nghệ từ nhà
cung cấp (466,54 trđ/DN/năm) [Phụ lục 12].
Giá trị giao dịch xét theo nhóm ngành. Đánh giá giá trị giao dịch công
nghệ theo nhóm ngành con của ngành công nghiệp chế biến chế tạoViệt Nam
giai đoạn 2012-2018 có thể thấy, nhóm ngành điện điện tử máy tính là nhóm
ngành có giá trị giao dịch công nghệ lớn nhất 1916,75 trđ/DN/năm, tiếp đến là
nhóm ngành kim loại và chế tạo máy (1895,29 trđ/DN/năm). Trong đó, giá trị
giao dịch công nghệ nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể
so với giá trị giao dịch công nghệ trong nước đặc biệt là ngành kim loại và
chế tạo máy, năm 2012 tỷ trọng giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài chỉ
bằng 1,67 lần thì năm 2018 con số này đã tăng lên 12,76 lần. Đây cũng là
ngành thuộc nhóm CNC do vậy, nhu cầu mua công nghệ là khá lớn, đặc biệt
là những CNC mà hiện Việt Nam chưa đủ khả năng tự sản xuất [15].
Điểm đáng lưu ý là nhóm ngành chế biến thực phẩm có tổng giá trị
giao dịch công nghệ khá cao (1549,16 trđ/DN/năm) trong giai đoạn 2012-
2018. Theo nhận định của các chuyên gia, công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản của Việt Nam đang có đà phát triển tốt với nhu cầu lớn về thu hút
vốn và công nghệ hiện đại. Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã hình thành hệ
thống công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản công suất thiết kế đảm bảo chế
biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm, với trên 7.500 doanh nghiệp
quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản
nhỏ, lẻ, hộ gia đình. Trong đó, một số ngành hàng hoặc sản phẩm có thiết bị
87
chế biến hiện đại, mang tầm của khu vực và thế giới. Trong đó tốc độ tăng
trưởng mạnh nhất là giá trị mua công nghệ nước ngoài với tỷ lệ 34%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành liên tục tăng mạnh, sản phẩm đã dần có chỗ
đứng trên thị trường thế giới là minh chứng cho kết quả đầu tư công nghệ hợp
lý của ngành. Trong các nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo thì ngành
chế biến gỗ giấy là ngành có giá trị giao dịch công nghệ thấp nhất (706,90
vnđ/DN/năm). Ngành công nghiệp chế biến gỗ đã trở thành một trong năm
ngành mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù thời gian qua ngành đã có
một số nỗ lực trong cải tiến công nghệ sử dụng trong chế biến gỗ giấy. Nhiều
công nghệ mới, hiện đại như công nghệ xử lý biến tính gỗ, tạo các vật liệu
composite gỗ cũng đã được đầu tư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, những công nghệ này cần mức đầu tư tương đối lớn đặc biệt
là công nghệ nước ngoài, với trên 76% doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngành
thì việc đầu tư những công nghệ này thường vượt quá khả năng của doanh
nghiệp. Do vậy, giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài của ngành chế biến gỗ
là thấp nhất trong tất cả các nhóm ngành (338,16 trđ/DN/năm).
Nhìn chung, giai đoạn năm 2016-2018, giá trị giao dịch công nghệ đạt
mức tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước đó. Ba nhóm ngành có giá trị
giao dịch CNC trong giai đoạn này là hóa chất cao su, chế biến thực phẩm,
điện điện tử máy tính. Đánh giá tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2012-2018 có
thể thấy tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ nước ngoài tăng mạnh hơn
tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ trong nước ở tất cả hầu hết ngành.
Tốc độ tăng trưởng giá trị giao dịch công nghệ trong nước cao nhất là ở nhóm
dệt may (20%) và giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài cao nhất ở nhóm
ngành chế biến gỗ giấy (48%) [15].
Giá trị giao dịch xét theo loại hình sở hữu. Trong hai đối tượng doanh
nghiệp là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân thì giá trị giao dịch
công nghệ của doanh nghiệp FDI đạt ở mức cao (1839,75 trđ/DN/năm), gấp
1,65 lần nhóm doanh nghiệp tư nhân [15].
88
Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2012-2018 của doanh nghiệp FDI đạt
23% trong khi doanh nghiệp tư nhân lên tới 26%. Đáng chu ý là giá trị giao
dịch công nghệ trong nước của doanh nghiệp FDI có mức tăng trưởng thấp
7%. Điều này cho thấy sản phẩm công nghệ Việt Nam sản xuất và chế tạo còn
hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu cao của doanh nghiệp FDI.
Xét về giao dịch công nghệ theo nhóm ngành công nghệ cao
Với nhóm ngành CNC, tốc độ tăng giá trị giao dịch công nghệ nước
ngoài khá cao so với tốc độ tăng giá trị giao dịch công nghệ trong nước (cao
hơn 2,2 lần). Với các doanh nghiệp này, các công nghệ trong nước gần như
không có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ hiện đại và ngày càng tăng
của thị trường. Nhìn chung, xu hướng tăng trưởng thường thấp ở các năm đầu
của giai đoạn nghiên cứu 2012-2015 và tăng cao ở giai đoạn 2017-2018. Đây
là tín hiệu đáng mừng, phần nào phản ánh doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến
đầu tư nâng cấp công nghệ để đổi mới mở rộng sản xuất.
Giá trị giao dịch xét theo quy mô doanh nghiệp. Đánh giá giá trị
giao dịch công nghệ phân theo quy mô doanh nghiệp có thể thấy các
doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì giá trị giao dịch công nghệ nhìn
chung càng cao và ngược lại. Đầu tư công nghệ là rất tốn kém đặc biệt là
các công nghệ hiện đại, không nhiều doanh nghiệp Việt Nam có đủ tiềm
lực đầu tư công nghệ quy mô lớn. Do vậy, các doanh nghiệp nhỏ và siêu
nhỏ khả năng đầu tư công nghệ là rất khó khăn. Điều này dẫn đến giá trị
giao dịch công nghệ của nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ chỉ
khoảng 593,67 tr.đ/DN/năm với giá trị giao dịch trong nước và nước
ngoài gần như không có sự khác biệt [15].
Tốc độ tăng trưởng giao dịch công nghệ của doanh nghiệp quy mô lớn
khá thấp, chỉ đạt 8% trong khi hai nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa
đạt trung bình 28-30%. Điều này có thể lý giải do các doanh nghiệp quy mô
lớn thường là các doanh nghiệp có thời gian hoạt động khá dài, tuổi doanh
nghiệp lớn nên các doanh nghiệp này phần nhiều đã đầu tư công nghệ trong
89
các giai đoạn trước, từ năm 2012-2018 các doanh nghiệp này chủ yếu đầu tư
nâng cấp, giá trị đầu tư công nghệ luôn ở mức cao nên tốc độ tăng trưởng có
xu hướng tăng nhanh [15].
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ
cao trên thị trường công nghệ cao
Nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trong nước
Thứ nhất, các tổ chức khoa học công nghệ
Sự phát triển của các tổ chức KHCN là một yếu tố rất quan trọng trong
nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường trên
cơ sở đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN và năng lực sáng tạo
của các tổ chức này.
Một là, năng lực nghiên cứu và phát triển của các tổ chức khoa học
công nghệ
Tiêu chí đánh giá năng lực R&D của các tổ chức KHCN: 1) Gia tăng
số lượng các tổ chức KHCN hàng năm; 2) Sự phát triển tổ chức R&D theo
quy mô nguồn nhân lực; 3) Sự phát triển tổ chức R&D theo lĩnh vực ngành.
Cơ quan cấp giấy chứng nhận
Loại tổ chức
Tổng số
Công lập Ngoài công lập Tổng cộng
1900 2.184 4.084
Bộ KHCN 992 971 1.963
Các sở KHCN 908 1213 2.121
Bảng 3.3. Tổ chức đăng ký hoạt động khoa học công nghệ (đến năm 2018)
Nguồn:[11]
Qua bảng số liệu 3.3 cho thấy năm 2018 đã có hơn 250 tổ chức mới đăng ký hoạt động KHCN. Theo đó, đến hết năm 2018, cả nước có 4.084 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, trong đó có 1.900 tổ chức công lập 2.184 tổ chức ngoài công lập. Như vậy trong 5 năm tính từ năm 2014 (có 2.490 tổ chức) trung bình mỗi năm có khoảng 300 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN. Theo kết quả điều tra R&D năm 2018 trong số 1.280 tổ chức KHCN có hoạt động R&D có 687 tổ chức R&D (bằng 53,87%), 404 trường đại học (31,46%) và 189 tổ chức dịch vụ CNC (14,77%). Các tổ chức này tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh [Phụ lục 16].
90
Các tổ chức R&D được tổ chức dưới hình thức Viện hàn lâm, viện,
trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử
nghiệm… với chức năng chính là tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát
triển. Trong cơ cấu các tổ chức R&D được cơ cấu theo quy mô nhân lực; theo
lĩnh vực CNC và theo vùng địa lý.
Xét theo quy mô nhân lực các tổ chức có dưới 30 người chiếm hơn một
nửa (371/687) tổng số các tổ chức R&D; số tổ chức có từ trên 30 đến dưới
100 người chiếm khoảng 1/3(215/687) và số tổ chức trên 100 người chiếm
gần 15%. (Bảng 3.4).
Quy mô
Dưới 30 người Từ 30 đến dưới 50 người Từ 50 đến dưới 100 người Trên 100 người Tổng cộng
Số lượng 371 118 97 101 687
Tỷ lệ % 54,00 17,18 14,12 14,7 100
Bảng 3.4. Tổ chức nghiên cứu và phát triển chia theo quy mô nhân lực
Nguồn: [11] Thứ hai: Phân chia tổ chức nghiên cứu và phát triển theo lĩnh vực công
nghệ cao
Lĩnh vực 1. Khoa học tự nhiên 2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ 3. Khoa học y, dược 4. Khoa học nông nghiệp 5. Khoa học xã hội 6. Khoa học nhân văn Tổng cộng
Số lượng 96 195 45 154 165 32 687
Tỷ lệ % 13,97 28,38 6,55 22,42 24,02 4,66 100
Bảng 3.5. Tổ chức nghiên cứu và phát triển theo lĩnh vực công nghệ cao
Nguồn:[11]
Từ bảng 3.5 cho thấy các tổ chức R&D về khoa học kỹ thuật và công
nghệ chiếm tỷ lệ lớn nhất với 195 tổ chức (chiếm 28,38%), đây là lĩnh vực
bao gồm rất nhiều ngành khác nhau. Tiếp theo là lĩnh vực khoa học xã hội với
165 tổ chức (chiếm 24,02%), khoa học nông nghiệp đứng thứ 3 với 154 tổ
chức (chiếm 22,42%), còn lại là các tổ chức khác
91
Theo phân vùng địa lý từ bảng [Phụ lục 15] cho thấy hầu hết các tổ
chức R&D tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn của cả nước là Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh chiếm khoảng 66,96% bằng 2/3 số lượng các tổ chức R&D của
cả nước. Còn lại các tổ chức được chia đều cho các vùng trong đó vùng Tây
Bắc có số lượng ít nhất chiếm khoảng 1,31%. Điều này thể hiện sự phát triển
vượt trội về trình độ KHCN của các trung tâm và thành phố lớn, những nơi có
điều kiện thuận lợi và nền tảng tốt cho quá trình nghiên cứu sáng tạo về các
lĩnh vực khoa học nói chung trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước.
Hai là, năng lực sáng tạo của các tổ chức khoa học công nghệ
Năng lực này được đánh giá bằng các chỉ số: (1) Số lượng các bài báo
được đăng trên các tạp chí khoa học trong nước và quốc tế uy tín; (2) Số
lượng và chất lượng đội ngũ các nhà khoa học với trình độ chuyên môn, năng
lực sáng tạo khoa học.
(1) Số lượng các bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học trong
nước và quốc tế uy tín
Cơ sở dữ liệu công bố Việt Nam tập hợp các công bố từ 236 tạp chí
KHCN (chiếm 70% tổng số tạp chí KHCN trong nước) tổng cộng đến hết
năm 2017 đạt trên 240 nghìn bài báo khoa học. Trong những năm vừa qua,
mỗi năm có khoảng trên 19.000 bài, năm 2017 đạt 19.575 bài. Số lượng bài
báo khoa học công bố hằng năm đều tăng tuy không nhiều (Bảng 3.6).
Số bài báo gia tăng hàng năm 18.077 18.710 18.975 19.234 19.535 19.575 20.125 21.085
Tỷ lệ tăng % 1,8 3,5 1,4 1,3 1,6 0,2 1,3 1,1
Năm 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Bảng 3.6. Số bài báo công bố trong nước
Nguồn: [12]
92
Phân theo lĩnh vực KHCN, các bài báo khoa học của Việt Nam tập
trung nhiều nhất trong khoa học tự nhiên, chiếm hơn ¼ tổng số các bài báo
khoa học được công bố, tiếp theo là khoa học xã hội và nhân văn và khoa học
y dược có số lượng công bố tương đương nhau khoảng 18% đến 19%. Khoa
học kỹ thuật và công nghệ chiếm khoảng 12,1% và thấp nhất là khoa học
nông nghiệp chiếm khoảng 5,2%.
Bảng 3.7. Số bài báo công bố quốc tế giai đoạn 2014 - 2019
Năm Số bài báo khoa học Tốc độ tăng (%) 2019 2018 8.821 12.431 40,93 33,61 2017 6.602 12,25 2016 5.866 29,52 2014 4.071 7,87
2015 4.529 11,25 Nguồn: [12]
Hình 3.1. Công bố quốc tế của Việt Nam
Nguồn: [12]
Số bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí quốc tế giai đoạn
2014 - 2018 đã tăng gấp đôi, từ 4.071 lên 8.821 bài. Đặc biệt số lượng các bài
báo đã có sự tăng mạnh trong 3 năm gần đây (Bảng 3.7), điều này thể hiện
chất lượng và kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam đã có sự phát triển
mạnh và có sự tiệm cận với trình độ khoa học của thế giới trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng hiệu quả [Phụ lục 7].
93
(2) Số lượng và chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực khoa học công
nghệ. Đánh giá về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực khoa học công
nghệ trên cơ sở đánh giá thông qua nguồn nhân lực R&D và đánh giá về trình
độ cán bộ nghiên cứu.
Nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển
Kết quả tổng hợp Điều tra R&D 2020 và Điều tra doanh nghiệp 2020
cho thấy năm 2019, cả nước có 178.673 người tham gia các hoạt động R&D,
tăng khoảng 43.892 người so với năm 2011 (Bảng 3.8).
Bảng 3.8. Nhân lực nghiên cứu và phát triển giai đoạn 2011-2019
2015 2013 2011 2019 2017
131.045 11.522 24.179 167.746 105.230 9.781 19.770 134.781
Nhân lực theo chức năng 136.070 140.086 128.997 Cán bộ nghiên cứu 12.430 11.066 12.799 Cán bộ kỹ thuật 25.547 26.157 22.984 Cán bộ hỗ trợ 172.683 178.673 164.744 Tổng cộng Nguồn: [12][13] [15]
Hình 3.2. Nhân lực nghiên cứu và phát triển giai đoạn 2011-2019
Nguồn: [12][13] [15]
94
Lực lượng R&D tập trung nhiều ở khu vực trường đại học, chiếm 51,25%,
tiếp theo là các tổ chức R&D với 19,8%. Nhân lực làm R&D trong khu vực doanh
nghiệp chỉ chiếm 15,2%. Điểm cần lưu ý là lực lượng cán bộ nghiên cứu chiếm tỉ
lệ quá lớn trong lực lượng R&D (78,12%), trong khi cán bộ kỹ thuật lại chỉ có
chưa đến 7%, phản ánh nghiên cứu thực hành còn ít. Chi tiết phân bố theo chức
năng làm việc và khu vực hoạt động được trình bày ở [Phụ lục 17].
Cán bộ nghiên cứu
Lực lượng cán bộ nghiên cứu, đặc biệt là cán bộ nghiên cứu có trình độ
cao là các nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa
học. Trên thực tế lực lượng cán bộ này đang tham gia công tác và hoạt động đa
dạng trong các khu vực như các tổ chức R&D; tổ chức giáo dục đại học; Doanh
nghiệp; đơn vị hành chính, sự nghiệp tổ chức dịch vụ khoa học [Phụ lục 9].
Cán bộ nghiên cứu chỉ những người có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Trong những năm qua số lượng và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu đã
được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại
học (Tiến sĩ, thạc sĩ) trong tổng số cán bộ nghiên cứu đã tăng từ 43,8% năm
2011 lên 55,4% năm 2019 (Bảng 3.9).
Bảng 3.9. Cán bộ nghiên cứu và phát triển theo trình độ
2011 %
2013 %
2015
%
2017 %
2019 %
Trình độ
Tiến sĩ
9,5
14.376
10,97 15.874 11,67
16.180
12,1
Thạc sĩ
35,06
51.128
39,02 55.890 41,07
57.630
43,3
Đại học
51,69
60.719
46,33 57.022 41,91
59.768
42,1
11.50 1 34.61 8 55.11 6
10,9 3 32,9 0 52,3 8
12.26 1 45.22 4 66.68 4
3.995
3,8
4.828
3,74
4.822
3,68
7.284
5,35
7.527
2,5
100
100
131.045
100
100
141,105 100
Cao đẳng Tổng cộng
105.23 0
128.99 7
136.07 0
Nguồn: [12][13][15]
Thứ hai, các doanh nghiệp khoa học công nghệ
Theo báo cáo của Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN,
tính đến hết năm 2019, cả nước có 3 khu CNC (Hòa Lạc; Đà Nẵng, Thành
95
phố Hồ Chí Minh) thường xuyên được đầu tư xây dựng, nâng cấp mới các cơ sở vật
chất, trong đó chính phủ đã thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, trung
tâm đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật. Ngoài ra, có khoảng 2.800 doanh nghiệp
KHCN, trong đó, 480 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận Doanh nghiệp
KHCN, có 39 tổ chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận DN CNC và 24 tổ
chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động CNC, có 400 DN đang
hoạt động tại các khu CNC. Cả nước hiện có 20 Sàn giao dịch công nghệ, 63 trung
tâm ứng dụng và phát triển công nghệ, 43 vườn ươm công nghệ [12].
Đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp KHCN theo số liệu
[8][9][10][11][12], số lượng các doanh nghiệp KHCN có sự gia tăng hàng năm về
số lượng. Từ 204 doanh nghiệp năm 2015 lên đến 480 doanh nghiệp năm 2019. Ở
một số địa phương có sự phát triển nhanh về số lượng các doanh nghiệp KHCN
như Hà Nội năm 2017 tăng từ 38 lên 44 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh
tăng từ 29 lên 58 doanh nghiệp, Thanh Hóa tăng từ 18 lên 23 doanh nghiệp.
Nguồn cung ngoài nước
Thực tế trong giai đoạn vừa qua, nhu cầu nhập khẩu công nghệ của
nước ta là khá đa dạng và phong phú. Xét về loại công nghệ quan trọng của
doanh nghiệp thì công nghệ nhập khẩu từ doanh nghiệp, tổ chức tại các nước
phát triển luôn cao hơn việc nhập công nghệ từ các doanh nghiệp còn lại ở các
quốc gia khác. Ngành hóa chất, cao su và ngành kim loại chế tạo máy cho
thực trạng mua công nghệ trung bình từ thị trường Mỹ lớn nhất; còn Hàn
Quốc và Singapore là thị trường có giá trị nhập khẩu công nghệ lớn nhất đối
với hầu hết các nhóm ngành.
Trung Quốc cũng là nguồn cung công nghệ lớn của Việt Nam với đặc
điểm chung là giá bán máy móc, thiết bị công nghệ thường rẻ hơn đang kể so
với các thị trường nhập khẩu khác tính chung cho hầu hết các nhóm ngành.
Xét theo loại công nghệ quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp thì Trung
Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) là nguồn cung công nghệ lớn nhất của Việt
Nam, đến 41% tổng số doanh nghiệp lựa chọn. Doanh nghiệp sử dụng công
96
nghệ quan trọng nhất từ thị trường Việt Nam cũng chiếm khoảng 25%, còn
các nước phát triển khác (ngoại trừ Mỹ, Hàn Quốc và Singapore) có 24%
doanh nghiệp lựa chọn để nhập máy móc, thiết bị công nghệ để phục vụ sản
xuất [Phụ lục 18]. Một điểm đáng lưu ý là khi so sánh giai đoạn 2016-2018
với giai đoạn 2012-2015 thì các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường nhập
khẩu máy móc, thiết bị công nghệ của các quốc gia phát triển và giảm nhập
khẩu máy móc công nghệ của các quốc gia đang phát triển [15].
3.2.1.2. Nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của các chủ thể
ngày càng gia tăng
Một là, nguồn cầu từ Chính phủ
Chính phủ vừa là chủ thể cung cấp để tạo cung công nghệ cho TTCN vừa
là chủ thể mua công nghệ mới hoặc đổi mới công nghệ nhằm để đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH của đất nước, đảm bảo anh ninh quốc phòng và nâng cao chất
lượng dịch vụ công,... Vì thế, nguồn cầu của Chính phủ có thể được đáp ứng
thông qua đầu thầu, mua trực tiếp từ nguồn trong nước hoặc nhập khẩu,...
Ở nước ta, Chính phủ là một chủ thể có nhu cầu cao về sản phẩm CNC
để phục vụ cho các hoạt động của mình. Trong những năm qua, mặc dù còn
nhiều khó khăn về kinh phí, Chính phủ vẫn chủ trọng gia tăng đầu tư cho
CNC. Cụ thể, Chính phủ đã đầu tư 1,4% đến 1,8% chi phí hành năm xấp xỉ
bằng 0,4% GDP [12].
Từ năm 2011 đến 2019, tổng chi sự nghiệp khoa học là 85.522 tỷ đồng
tương ứng với 0,81% chi NSNN, trong đó chi cho sự nghiệp KHCN trung
ương là 65.315 tỷ chiếm 76,78% và sự nghiệp KHCN địa phương là 20.207 tỷ
đồng chiếm 23,22 % [Phụ lục 19].
Trong tổng số kinh phí chi cho sự nghiệp KHCN thì lượng kinh phí chủ
yếu được đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đây là tiêu
chí chính để đánh giá cường độ R&D của một quốc gia (Tỷ lệ chi quốc gia
cho R&D trên GDP) và so sánh quốc tế. Trong những năm vừa qua tổng chi
cho R&D của quốc gia đã được gia tăng tương đối và đạt nhiều hiệu quả tốt.
97
Bảng 3.10. Tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển
2013 2017
2019 2015 2011 5.294 13.390 18.496 26.368 28.152 0,44 0,19 0,37 0,52
Năm Tổng chi R&D (Tỷ đồng) Tỷ lệ trên GDP (%) 0,54 Nguồn:[11][12][13][14]
Từ bảng 3.11 cho thấy năm 2019 tổng chi quốc gia cho R&D của Việt
Nam là 28,152 bằng 0,54% GDP. Theo đó, tỷ trọng cho quốc gia cho
R&D/GDP đã liên tục tăng từ 0,19% năm 2011 đến 0,54% năm 2019. Điều
đó thể hiện sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư của doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế đặc biệt là các tập đoàn doanh nghiệp công nghệ lớn cả trong và ngoài
nước như tập đoàn Viettel, Vingroup, công ty Bkav… Đây là kết quả quan
trọng công tác đẩy mạnh xã hội hóa trong R&D công nghệ.
Hai là, nguồn cầu từ doanh nghiệp (gồm doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
Hiện nay, tính trên phạm vi cả nước có gần 800.000 doanh nghiệp
đang hoạt động. Trên thực tế mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận, nếu công nghệ hiện tại đang sử dụng vẫn còn có khả năng sinh lợi thì
doanh nghiệp sẽ ít có khả năng đổi mới công nghệ hiện đại hơn.
Trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn cần đến những giải
pháp công nghệ để tăng năng suất và hoạt động hiệu quả ở tất cả các khâu.
Trong môi trường cạnh tranh và toàn cầu hóa như hiện nay, những doanh nghiệp
không kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo mà vẫn chọn phương
thức kinh doanh truyền thống sẽ có nguy cơ rời khỏi thị trường. Đặc biệt, trước
những thay đổi nhanh chóng từ cách mạng 4.0, nếu doanh nghiệp không thích
ứng nhanh và tận dụng tốt lợi thế từ nền tảng công nghệ hiện đại để đổi mới, tối
ưu hóa sản xuất sẽ phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu và khó tồn tại.
Thực tiễn cho thấy, đổi mới công nghệ là rất quan trọng đối với mỗi
doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng
cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng
sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu.
98
Nhờ đó, sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng
nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp không
kịp thời nắm bắt công nghệ để đổi mới sáng tạo, kinh doanh theo phương thức
truyền thống sẽ có nguy cơ bị loại khỏi thị trường rất lớn.
Những năm gần đây, cùng với phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt
trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, đã xuất hiện nhiều phương thức
kinh doanh mới dựa trên nền tảng phát triển trực tuyến như: Kết nối vạn vật,
dữ liệu lớn, điện toán đám mây, công nghệ tự động hóa trong sản xuất và
kiểm soát chất lượng… Những phương thức kinh doanh này không chỉ giúp
doanh nghiệp vận dụng để gia tăng năng suất và kiểm soát chất lượng mà còn
có thể kết hợp với nhau để đổi mới các hoạt động của doanh nghiệp từ phân
tích hành vi của khách hàng, sáng tạo sản phẩm mới, quảng bá sản phẩm, tư
vấn trực tuyến, kiểm soát sản xuất và chất lượng tự động, quản lý tài chính,
làm việc từ xa,... Thông qua đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý,
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả
hơn thông qua tối ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải
thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng khâu tiêu thụ sản phẩm và
chính sách hậu mãi. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như: Loại hình
doanh nghiệp; Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp; Tuổi, giới tính của nhân
lực trong doanh nghiệp... Các đặc điểm của doanh nghiệp như quy mô vốn,
quy mô lao động, thời gian hoạt động, mối quan hệ với doanh nghiệp cùng
ngành/doanh nghiệp nhà nước đều có tác động tới quyết định đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, có một số doanh nghiệp tập đoàn kinh tế lớn
không ngừng quan tâm đổi mới công nghệ do tiềm lực của những doanh
nghiệp này lớn, doanh thu hàng năm cao và một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới
công nghệ khá nhanh là: công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng
không, tài chính - ngân hàng như Tập đoàn viễn thông Quân đội, Ngân hàng
99
Quân đội, Tập đoàn Vingroup… Đặc biệt, để phù hợp với điều kiện trong
hoạt động thực tiễn hiện nay, nhất là sự tác động của dịch bệnh Covid 19,
đang ảnh hưởng đến hầu khắp các mặt hoạt động trong đời sống xã hội của
nước ta như kinh tế, y tế, giáo dục.... các ban ngành đã đưa ra những giải pháp
phù hợp mang tính tích hợp CNC như dạy và học online, thanh toán điện tử ,
giao dịch trực tuyến, khai báo, kê khai thông tin cá nhân bằng các phần mềm
CNC và thông minh…Đây là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao
nguồn cầu công nghệ của các tổ chức trong xã hội.
Ba là, nguồn cầu từ các doanh nghiệp khoa học công nghệ
Khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp được thể hiện ở lượng
vốn đầu tư và năng lực tiếp thu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trên cơ
sở chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, phù hợp với
yêu cầu phát triển và sức ép cạnh tranh của thị trường, trình độ quản lý cơ sở
hạ tầng của doanh nghiệp, trình độ và năng lực công nghệ của đội ngũ nhân
lực, nguồn tài chính bảo đảm cho đổi mới công nghệ,…
Năm 2015 chỉ có 204 doanh nghiệp đăng ký là doanh nghiệp KHCN,
nhưng tính đến tháng 7/2017, cả nước có 303 doanh nghiệp được cấp giấy
chứng nhận doanh nghiệp KHCN, tăng 69 doanh nghiệp so với thời điểm
tháng 6/2016. Tổng doanh thu năm 2016 của các doanh nghiệp KHCN đạt
14.400 tỷ đồng, tăng 16,3% so với năm 2015. Tổng lợi nhuận sau thuế đạt gần
1.300 tỷ đồng, tăng 2,35% so với năm 2015. Các doanh ngiệp này đã giải
quyết được hơn 16.612 việc làm cho xã hội [14]. Hiện nay cả nước có khoảng
480 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN, 39 tổ
chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp CNC, 24 tổ chức
và doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng CNC.
Theo đó, căn cứ báo cáo của 165 doanh nghiệp cung cấp thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2018 doanh nghiệp KHCN đã
tạo ra việc làm cho 23.989 người lao động, tổng doanh thu của 165 doanh
nghiệp năm 2018 đạt hơn 160.000 tỷ đồng, trong đó có 151 doanh nghiệp có
100
doanh thu từ sản phẩm KHCN với tổng giá trị đạt 8.672,8 tỷ đồng; 147 doanh
nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2018 đạt 5.215,2 tỷ đồng.
Đặc biệt trong 165 doanh nghiệp KHCN có 110 doanh nghiệp thực hiện đầu
tư cho phát triển KHCN với tổng kinh phí đầu tư đạt 853,5 tỷ đồng, 36 doanh
nghiệp trích lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp với tổng kinh phí
trích lập năm 2018 là 55,6 tỷ đồng. [12]
Các doanh nghiệp KHCN chú trọng tới việc đầu tư hoạt động cho
R&D, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Trong số các doanh nghiệp KHCN khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy
chứng nhận từ kết quả của các nhiệm vụ nghiên cứu KHCN được tài trợ từ
NSNN, số còn lại hơn 90% doanh nghiệp tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận
chuyển giao kết quả KHCN bằng nguồn vốn chính của doanh nghiệp.
Bốn là, nguồn cầu từ các Viện nghiên cứu, trường đại học, cá nhân
trong xã hội.
Với mục đích nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, giảng dạy và
áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở
tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ. Nhu cầu mua công nghệ chủ yếu để đáp ứng
yêu cầu nghiên cứu khoa học, R&D ngày càng cao; từ đó góp phần quan
trọng tạo nguồn cung công nghệ chất lượng cao.
3.2.1.3. Số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới trên
TTCNC có sự phát triển và ngày càng gia tăng
Tổ chức trung gian, môi giới là các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ đổi mới, chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm CNC.
Tùy theo từng loại hình, chức năng, quy mô và chuyên môn hóa khác nhau,
các tổ chức này thực hiện cung cấp các loại hình dịch vụ thông tin và môi
giới, dịch vụ sở hữu trí tuệ, dịch vụ thương thảo, đàm phán hợp đồng CGCN,
dịch vụ đánh giá, định giá công nghệ, dịch vụ pháp lý, dịch vụ quản lý dự án,
dịch vụ hỗ trợ tài chính, dịch vụ tiếp thị và thị trường sản phẩm. Thực tế, cũng
có nhiều tổ chức vừa cung cấp một số dịch vụ chuyên sâu, đồng thời thực
101
hiện chức năng tích hợp hệ thống các loại hình dịch vụ khác với mục tiêu đáp
ứng nhu cầu về dịch vụ trọn gói cho khách hàng.
Hiện nay cả nước có 20 sàn giao dịch công nghệ tại các địa phương;
63 trung tâm ứng dụng tiến bộ KHCN, trung tâm thông tin KHCN; 04 khu
CNC; 08 công viên phần mềm; 186 tổ chức cung cấp dịch vụ đại diện sở
hữu công nghiệp; 01 tổ chức giám định sở hữu công nghiệp; khoảng 240 tổ
chức thẩm định giá, 47 cơ sở ươm tạo công nghệ; 23 tổ chức thúc đẩy kinh
doanh; 170 không gian làm việc chung, 50 trung tâm CGCN thuộc các viện
nghiên cứu, trường đại học và các loại hình tổ chức khác (hiệp hội, doanh
nghiệp có đăng ký ngành nghề liên quan đến tư vấn, môi giới CGCN, ...), 01
sàn giao dịch công nghệ Vùng Duyên hải Bắc Bộ kết nối 05 sàn giao dịch
trong khu vực gồm Quảng Ninh, Hải phòng Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình, 01 sàn giao dịch Vùng Đồng Bắc Sông Cửu Long dự kiến kết nối các
sàn giao dịch công nghệ trong khu vực như Cần Thơ, Tiền Giang, An Giang
đang trong giai đoạn thành lập [15].
Bên cạnh đó các hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ, chợ công
nghệ và thiết bị, chợ công nghệ và thiết bị trực tuyến, công tác hỗ trợ các địa
phương, cơ quan, DN xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu công nghệ tiếp tục
được triển khai hiệu quả. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu về công nghệ liên tục được
cập nhật bao gồm 2.000 nguồn cung, với 1.600 nguồn cung công nghệ từ
viện, trường và 400 nguồn cung từ các đơn vị, tổ chức nước ngoài; 412 nguồn
cầu công nghệ; đã trình diễn, giới thiệu khoảng 800 nguồn cung công nghệ.
Qua đó, hỗ trợ và ký kết thành công gần 150 hợp đồng CGCN, thỏa thuận hợp
tác với trị giá gần 800 tỷ đồng [36].
Các sự kiện chợ công nghệ, thiết bị (Techmart), kết nối cung cầu công
nghệ (Techdemo), ngày hội khởi nghiệp công nghệ cũng đã tạo được hiệu ứng
tích cực đối với TTCNC trong nước. Thực tế cho thấy, tổ chức trung gian
đang là “điểm nghẽn” hiện nay của TTCNC với kết quả điều tra 264 tổ chức
trung gian (được chia thành 03 khu vực: miền Bắc, miền Trung và miền Nam)
102
cho thấy: có hai loại hình chủ yếu là doanh nghiệp (64.0%) và trung tâm/viện
nghiên cứu (36.0%) với số vốn khoảng dưới 10 tỷ - 50 tỷ đồng, hoạt động chủ
yếu thông qua các hình thức: dịch vụ tư vấn (83.3%), hỗ trợ kỹ thuật (54.9%),
giới thiệu tư vấn chuyển giao (22.0%), đổi mới sáng tạo (14.0%), bảo hộ sở
hữu trí tuệ (11.4%), thẩm định/kiểm định/hợp chuẩn, hợp quy (9.5%) và sự
kiện công nghệ (5.2%) [36].
Để gia tăng giá trị giao dịch công nghệ hàng năm, Bộ KHCN tổ chức
các hoạt động xúc tiến và kết nối cung cầu công nghệ: Giai đoạn 2016-2018
đã tổ chức gần 1.000 phiên kết nối cung cầu, kết nối đầu tư cho hơn 5.000 tổ
chức, doanh nghiệp về các công nghệ mới theo nhu cầu của doanh nghiệp và
các địa phương; đã lựa chọn và giới thiệu được hơn 1.500 quy trình, công
nghệ, thiết bị, sản phẩm và kết quả nghiên cứu của gần 1.000 doanh nghiệp
trong nước và quốc tế, tổ chức KHCN, các Sở KHCN và các doanh nghiệp
của tỉnh thành, đồng thời đã xây dựng bộ dữ liệu của 3.500 nhà khoa học, nhà
quản lý và 480 đề tài. Các sự kiện kết nối cung cầu công nghệ (Techdemo),
Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) và các Sàn giao dịch công nghệ, Trung
tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN đã mở ra nhiều cơ hội thương mại
hóa các sản phẩm KHCN của doanh nghiệp, viện, trường, tổ chức KHCN. Đã
có hơn 2000 hợp đồng và biên bản được ký kết trong giai đoạn 2012-2017 với
tổng giá trị giao dịch đạt gần 4.200 tỷ đồng, trong giai đoạn 2015-2018 đã có
hơn 1200 hợp đồng và biên bản được ký kết với tổng giá trị giao dịch đạt gần
1.000 tỷ đồng [36].
Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu các kết quả nghiên cứu, được mô
tả tóm tắt và số hóa toàn văn, được công bố trên mạng Vista, hiện có 265.515
cơ sở dữ liệu công bố, có 35.101 cơ sở dữ liệu về nhiệm vụ KHCN, có 22.412
thông tin công nghệ, có 365.619 thông tin sáng chế,… [15]. Trong giai đoạn
2016-2019, các nhiệm vụ cấp quốc gia chiếm khoảng 30%, cấp Bộ 34%, cấp
tỉnh 31%, cấp cơ sở 5% (hiện phần lớn, các kết quả nghiên cứu tập trung ở
các viện/trường, các tổ chức KHCN. Ước tính trung bình hàng năm (2016-
103
2019) có khoảng 1.400 kết quả nghiên cứu được đăng ký tại Cục Thông tin
KHCN Quốc gia, trong đó có nhiều nhiệm vụ triển khai 2-3 năm. Ví dụ năm
2018, Cục đã cấp khoảng 1.250 giấy đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ
KHCN cấp quốc gia và cấp Bộ. Ngoài ra, các địa phương trong cả nước trong
2017-2019 đã triển khai khoảng 1.100 nhiệm vụ (khoa học nông nghiệp
chiếm khoảng 31%; khoa học kỹ thuật và công nghệ chiếm 25%; khoa học xã
hội chiếm 19%; khoa học nhân văn chiếm 8%; khoa học tự nhiên chiếm 6%;
khoa học y, dược chiếm 11%) [15]. Các kết quả nghiên cứu này là sản phẩm
của các nhiệm vụ KHCN, gồm: báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện nhiệm vụ,
báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ; phụ lục tổng hợp các số liệu điều
tra, khảo sát, bản đồ, bản vẽ, ảnh, tài liệu đa phương tiện; phần mềm được
đăng ký và giao nộp tại Cục Thông tin KHCN quốc gia. Theo quy định, các
nhiệm vụ sau khi nghiệm thu phải được đăng ký tại Cục Thông tin KHCN
Quốc gia. Các kết quả nghiên cứu này có thể được coi là nguồn hàng hóa
KHCN có tiềm năng ứng dụng vào cuộc sống, đặc biệt là các kết quả của các
đề tài, dự án về nông nghiệp, y dược, kỹ thuật và công nghệ.
Bảng 3.11. Cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin khoa học công nghệ
Cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu công bố Cơ sở dữ liệu nhiệm vụ Cơ sở dữ liệu công nghệ Cơ sở dữ liệu sáng chế Cơ sở dữ liệu tiêu chuẩn Dữ liệu mở Số lượng 265.515 35.101 22.412 365.619 15.872 24 Ghi chú
Nguồn: Cục Thông tin KHCN Quốc gia
Ngoài ra, năm 2019 Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức rất nhiều
các hoạt động như sự kiện trình diễn, kết nối cung cầu, chuỗi sự kiện chợ
công nghệ, triển lãm quốc tế góp phần nâng cao các hoạt động xúc tiến thị
trường. Các sự kiện này đã tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường
KHCN trong nước kết nối với thị trường quốc tế [Phụ lục 10].
104
3.2.2. Hạn chế
Một là, gia tăng về số lượng và chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch
vụ công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao chưa nhiều
Nguồn cung công nghệ nội sinh của Việt Nam còn nghèo nàn, chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Việc thương mại hóa kết quả R&D
của Việt Nam còn nhiều bất cập việc triển khai thương mại hóa còn lúng túng
và chưa có chiều sâu. Năng lực đổi mới công nghệ không cao và hầu hết các DN
tiếp nhận công nghệ chủ yếu ở dạng thiết bị, máy móc và dây chuyền công
nghệ đồng bộ, việc tiếp nhận công nghệ ở dạng bí quyết công nghệ rất hạn
chế,... cụ thể như ngành kim loại và chế tạo máy Việt Nam chủ yếu dừng
lại ở hoạt động gia công chế biến thô, các sản phẩm tinh hàm lượng chất
xám cao còn rất hạn chế. Điều này phán ảnh ở giá trị giao dịch công nghệ
của ngành chủ yếu là mua máy móc công nghệ trong nước. Tuy nhiên, xu
hướng chuyển dịch sang mua máy móc công nghệ là khá rõ khi tốc độ tăng
trưởng giao dịch công nghệ trong nước là âm trong cả giai đoạn nghiên cứu
trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị giao dịch công nghệ nước ngoài có sự
tăng trưởng nhẹ lên 13% [15].
Các tổ chức R&D phát triển chưa đồng bộ, việc kết nối giữa nhà nghiên
cứu, doanh nghiệp, các học viện, nhà trường và các trung tâm nghiên cứu còn
rời rạc. Theo thống kê các tổ chức R&D khu vực nhà nước thuộc bộ ngành
chiếm tỷ lệ lớn (gần 70%), trong khi đó, tỷ lệ các tổ chức thuộc trường đại
học, học viện và DN nhà nước lại chiếm tỷ lệ nhỏ (hơn 30%). Điều này phản
ánh hệ thống các tổ chức R&D ở nước ta vẫn mang tính độc lập, sự liên kết,
đan xen với khối đại học và khối DN chưa nhiều…
Nguồn cung công nghệ ngoài nước cũng còn nhiều hạn chế, các công
nghệ chủ yếu được nhập từ Trung quốc với tỷ lệ cao 25%, công nghệ nhập từ
Mỹ và các nước công nghiệp phát triển còn ở mức khiêm tốn (Khoảng 25%),
còn lại là nhập từ các nước khác chiếm khoảng 25% (Hình 3.3). Tuy nhiên,
một vấn đề đặt ra hiện nay đó là hầu hết nguồn công nghệ nhập khẩu chủ yếu
105
từ Trung Quốc nên chất lượng công nghệ đang là vấn đề thách thức của Việt
Nam, nếu chính sách nhập khẩu không chặt chẽ, không tính toán kỹ lưỡng sẽ
dẫn tới hậu quả khôn lường mà các thế hệ sau phải mất rất nhiều năm để khắc
phục, đồng thời để lại hậu quả nặng nề cho sự phát triển của quốc gia.
Hình 3.3. Nguồn cung công nghệ quan trọng theo lãnh thổ
Hình 3.4: Số lượng sáng chế của Việt Nam giai đoạn 2015-2019
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ
Theo “Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu 2019”, Việt Nam đứng thứ
76 về năng lực đổi mới sáng tạo, tuy nhiên chỉ số sáng chế trên một triệu dân
lại đứng thứ 91 (với 0,21 sáng chế trên một triệu dân). Con số này thấp hơn
rất nhiều so với nhiều nước như Thái Lan (0,97), Malaysia (36.5), Trung
Quốc (50), Hàn Quốc (100) [15]. Kết quả này cho thấy, nguồn cung nội địa
của Việt Nam trong ngắn hạn là rất hạn chế.
106
Thực trạng về số lượng sáng chế được cấp bằng sáng chế hàng năm giai
đoạn 2015-2019 ở Việt Nam được thể hiện ở Hình 3.4 cho thấy, số lượng
sáng chế được cấp hàng năm ở Việt Nam mặc dù có xu hướng tăng lên, tuy
nhiên là khá thấp với mức trung bình khoảng 120 sáng chế/năm. Điều này cho
thầy nguồn cung công nghệ ở Việt Nam là tương đối hạn chế. Nếu lấy số liệu
năm 2018, là năm có số lượng sáng chế lớn nhất để tính thì cứ trung bình có
72 nhà khoa học có trình độ tiến sỹ thì có một sáng chế được công nhận.
Hai là, nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao còn nhiều hạn chế
Nhu cầu công nghệ tại các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ của 63 tỉnh/thành để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giải mã và CGCN
không có sự biến động nhiều trong ba năm gần đây [15]. Thậm chí năm 2019
còn có xu hướng giảm so với năm 2018. Thống kê tổng số nhu cầu công nghệ
năm 2016 là 95 công nghệ ở các lĩnh vực như công nghệ sinh học; công nghệ
thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ
vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp. Năm 2017, số nhu cầu
công nghệ của các Trung tâm là 93 công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ
sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi
trường. Năm 2018, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 115 công nghệ
ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp,
sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2019, số nhu cầu công nghệ của các
Trung tâm là 105 công nghệ ở một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ sinh học;
công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp;
công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp.
Doanh nghiệp KHCN ở nước ta có quy mô nhỏ bé và năng lực cạnh
tranh thấp so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Quy mô này được thể
hiện ở số doanh thu, số lao động, số vốn bình quân của loại hình doanh
nghiệp còn thấp. Với quy mô nhỏ bé và không thay đổi nhiều trong tiến trình
HNKTQT, các doanh nghiệp KHCN chưa đảm nhận đầy đủ vai trò là bà đỡ
trong việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu CNC vào thị trường, chưa tận
107
dụng được những cơ hội mở rộng thị trường do tác động của HNKTQT mang
lại. Đặc biệt khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn
nhiều bất cập trong bối cảnh HNKTQT. Điều này được thế hiện ở hai nội
dung: (1) Đầu tư, chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp Việt
Nam thấp so với các nước trong khu vực; (2) Năng lực tiếp thu công nghệ
của doanh nghiệp thấp, hoạt động đổi mới sáng tạo và đổi mới quy trình
còn thấp. Năm 2018 trong tổng số doanh nghiệp phản hồi có 72,3% không
có đổi mới sáng tạo; 5,2% chỉ thực hiện đổi mới sản phẩm; 10,7% chỉ thực
hiện đổi mới quy trình sản xuất; 11,8% đã thực hiện đổi mới sáng tạo về
sản phẩm và quy trình sản xuất kinh doanh [12]. Mặt khác, hầu hết các
doanh nghiệp của Việt Nam là nhỏ và vừa nên nguồn vốn hạn hẹp, đa phần
công nghệ mà các doanh nghiệp đang sử dụng lạc hậu so với mức trung
bình của thế giới 2-3 thế hệ. Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp (chiếm khoảng 1/3 tổng số doanh nghiệp) thì nhóm doanh
nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến chỉ đạt khoảng dưới 20% (chủ yếu là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) [12].
Với mức đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam
thấp, chiếm khoảng 0,1 - 0,3% doanh thu của doanh nghiệp (trong khi đó con
số này ở Ấn Độ khoảng 5%, Hàn Quốc là 10% [6]) nên năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam không cao. Ngoài ra, tốc độ đổi mới công nghệ
và thiết bị mới đạt bình quân khoảng 10,68%/năm trong giai đoạn 2011 - 2014
(mục tiêu đề ra là đạt 10 - 15%/năm giai đoạn 2011 - 2015) Riêng trong giai
đoạn 2010 - 2013 chỉ đạt 9,1% và có xu hướng giảm (trong đó, năm 2010 đạt
11 3%, năm 2011 đạt 10,33%, năm 2012 đạt 6,8% và năm 2013 đạt 8%) [12].
Kết quả khảo sát 7.621 doanh nghiệp tại 63 tỉnh thành của Việt Nam
cho thấy: chỉ có 11,9% doanh nghiệp thực hiện các hoạt động nghiên cứu và
triển khai (R&D), 16,4% doanh nghiệp đổi mới máy móc, thiết bị hiện có mà
không thực hiện các hoạt động R&D, còn lại 71,7% doanh nghiệp không
tham gia bất kỳ hoạt động nào liên quan tới đổi mới công nghệ [15].
108
Ba là, số lượng và chất lượng các tổ chức dịch vụ trung gian trên
TTCNC còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
Sự gắn kết cung, cầu công nghệ trên thị trường còn yếu (trong khi đó ở
các nước phát triển, sự gắn kết này rất cao, còn các nước đang phát triển và
kém phát triển sự gắn kết yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu của nhau).
Số lượng các tổ chức trung gian, môi giới ở nước ta còn ít, chủ yếu là
các tổ chức công lập, có rất ít các tổ chức thuộc khu vực tư nhân. Đồng thời,
thiếu vắng nhiều tổ chức chuyên nghiệp cung các các dịch vụ quan trọng trên
TTCNC như dịch vụ giám định công nghệ, dịch vụ xác định giá trị công
nghệ... Năng lực hệ thống trung gian, môi giới cho việc đổi mới công nghệ ở
nước ta chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu do thực tiễn đặt ra. Các tổ chức
trung gian, môi giới vẫn hoạt động độc lập, rời rạc, chưa có sự liên kết, hợp
tác với nhau thành mạng lưới.
DN chưa mạnh dạn đầu tư hoặc tham gia vào sàn giao dịch công nghệ
nên số lượng các giao dịch còn ít. Số lượng tổ chức hỗ trợ trung gian vừa
thiếu vừa yếu;
Chợ công nghệ hoạt động với quy mô nhỏ, hoạt động mờ nhạt và phân
tán; năng lực về thông tin công nghệ của các tổ chức tư vấn còn rất yếu; các
tổ chức dịch vụ hầu hết tập trung ở một số thành phố lớn; năng lực tiếp thị
chưa khuyến khích được nhu cầu đổi mới công nghệ của DN (đặc biệt DN
nhỏ và vừa); mạng lưới dịch vụ chưa cao nên đã hạn chế khả năng cung cấp
dịch vụ trọn gói; các chuyên gia về KHCN số lượng ít và phân tán; đặc biệt
vai trò của Nhà nước vẫn còn thiếu sự gắn kết, thúc đẩy dịch vụ trung gian
công nghệ phát triển, trong đó có cơ chế hiện chưa tạo điều kiện tốt cho các tổ
chức dịch vụ tư nhân phát triển. Ngoài ra, các DN Việt Nam chưa có thói
quen thuê tư vấn trong các khâu của quy trình CGCN, chủ yếu là giao dịch để
mua được máy móc, thiết bị; hoạt động của các tổ chức tư vấn trải rộng trên
nhiều lĩnh vực và tỷ lệ tư vấn trong các hợp đồng CGCN không đáng kể ví dụ
như lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
109
nghiệp tăng không đều, không ổn định qua các năm, đặc biệt là lượng giao
dịch quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp giữa Việt Nam - Nước
ngoài [Phụ lục 13]. Lượng chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng SHCN
cho nước sở tại từ các chủ thể nước ngoài không nhiều so với các loại hình
chuyển giao khác. Loại hình giao dịch quyền sở hữu đối tượng SHCN giữa
Việt Nam - Nước ngoài chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ [Phụ lục 14].
Các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và
Đà Nẵng chưa được đầu tư và phát triển tương xứng với sứ mệnh là trung tâm
kết nối cung cầu về công nghệ và tài sản trí tuệ tại 3 khu vực.
Các tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao về đánh giá, định giá
công nghệ và cung cấp các dịch vụ thông tin, môi giới công nghệ còn yếu về
chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tạo được niềm tin cần thiết đối với cả bên
cung và cầu công nghệ. Hơn nữa, hoạt động của các tổ chức này còn mang
tính riêng rẽ, thiếu kết nối nên đã hạn chế sức lan tỏa trong khai thác thông tin
công nghệ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, định giá so với việc hoạt
động trong một mạng lưới được kết nối giữa các tổ chức trung gian.
Các hiệp hội, ngành hàng, các đại diện thương mại, đại diện ngoại
giao,… chưa chú ý huy động tham gia hoạt động xúc tiến TTCNC nên chưa
phát huy được vai trò của các tổ chức này trong hoạt động thúc đẩy giao dịch
công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp.
Các nguồn công nghệ sẵn có từ nước ngoài chưa được chú ý đúng mức
trong tổ chức thực hiện Chương trình phát triển thị trường KHCN. Mạng lưới
các chuyên gia giỏi ngoài nước (các hiệp hội quốc tế, chuyên gia người nước
ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài) chưa được thu hút để hỗ
trợ các tổ chức trung gian, môi giới và các doanh nghiệp trong nước giúp tìm
kiếm, lựa chọn, tiếp thu và làm chủ công nghệ (cả mới và không còn mới
nhưng đang có giá trị sinh lời cao) cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ở Việt nam.
Ngoài ra, còn một số hạn chế khác như: Vai trò và nhận thức quản lý
của Nhà nước về TTCN còn mờ nhạt, thiếu sâu sát và quyết liệt; tầm nhìn
110
ngắn hạn; Thiếu sự quyết liệt trong việc đẩy nhanh chuyển đổi các tổ chức
KHCN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ; Chưa thoát khỏi mô
hình tăng trưởng truyền thống là dựa vào khai thác tài nguyên và sử dụng
nguồn nhân lực giá rẻ; Đội ngũ nguồn nhân lực TTCN còn yếu thiếu tính
chuyên nghiệp; Năng lực của các tổ chức trung gian chưa thật sự đóng vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh sự phát triển của TTCNC.
3.3. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
từ thực trạng phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
3.3.1. Nguyên nhân thành tựu
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được
nhiều thành tựu quan trọng
Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, tiềm lực và quy mô nền kinh
tế tăng lên. Điều này được thể hiện:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây nước ta
tương đối ổn định và đạt ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5
năm 2011-2015 tăng 5,9%/năm. GDP/người năm 2015 đạt 2.228 USD. Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm từ năm 2016 đến 2019 tăng 6,5
- 7%/năm. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 3.200- 3.500
USD. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và sự gia tăng của vốn đầu tư nước
ngoài có tác động lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và
đẩy mạnh CGCN từ nước ngoài, từ đó tác động tích cực đến tăng trưởng của
cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường.
Hai là, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế được tăng cường. Điều này giúp cho việc
xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của TTCNC.
Ba là, Việt Nam đầu tư phát triển mạnh một số ngành công nghiệp mới,
CNC. Sản phẩm công nghiệp của nền kinh tế phát triển ngày càng đa dạng và
111
phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện. Các nội dung này đã thúc
đẩy nhu cầu công nghệ mới, CNC và tạo ta sự đa dạng phong phú về loại hình
sản phẩm CNC trên thị trường.
Thứ hai, tiềm lực khoa học công nghệ của nước ta ngày càng được tăng
cường và phát triển
Trong 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm trở lại đây nhận thức được
vai trò rất cần thiết và quan trọng của KHCN đối với quá trình CNH, HĐH ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa
học và phát triển công nghệ của đất nước, từ đó tiềm lực KH &CN ngày càng
được tăng cường cụ thể:
Với đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo, trong đó nhiều cán bộ có trình độ
đại học trở lên. Đây là lực lượng tiềm tàng cho phát triển KHCN ở nước ta. Tổng
dự toán chi NSNN cho sự nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn 2016 - 2019 là
46.729 tỷ đồng. Trong đó, năm 2016 là 10.471 tỷ đồng; năm 2017 là 11.243 tỷ
đồng; năm 2018 là 12.190 tỷ đồng; năm 2019 là 12.825 tỷ đồng [12]. Việc đầu
tư nâng cấp cơ sở vật chất và tăng cường trang thiết bị cho các tổ chức nghiên
cứu phát triển nhất là đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm đã đáp ứng được
phần nào nhu cầu trước mắt của một số tổ chức nghiên cứu phát triển.
Hệ thống các tổ chức nghiên cứu phát triển theo hướng tăng cường liên
kết giữa nghiên cứu và sản xuất kinh doanh thông qua việc định hướng hoạt
động nghiên cứu và ứng dụng kết quả CNC theo nhu cầu thực tế phát triển
KT - XH và đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Thứ ba, hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý KHCN ngày
càng được hoàn thiện
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách và biện pháp để gắn KHCN với sản xuất, với đời sống, với nền
kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường và phục vụ cho nền kinh tế hội
nhập với kinh tế quốc tế. Bằng các cơ chế chính sách phù hợp với lợi ích của
người sáng tạo và nhà đầu tư, hoạt động ký kết hợp đồng KHCN đã đạt được
112
những hiệu quả rất quan trọng. Nhiều tổ chức KHCN công lập, tỷ lệ kinh phí
thu được từ hợp đồng công nghệ chiếm phần đáng kể trong tổng kinh phí hoạt
động của đơn vị. Bằng những kết quả thực tiễn cho thấy hoạt động CGCN
thông qua ký kết hợp đồng kinh tế là bước đi cần thiết để thương mại hoá sản
phẩm CNC và hình thành TTCNC. Cụ thể như sau:
Trong những năm gần đây, việc ban hành hệ thống các luật và văn bản
dưới luật khác đã tạo ra một khung khổ pháp lý tương đối đầy đủ cho phát
triển TTCN và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Các
văn bản liên quan đến phát triển TTCN được ban hành nhanh và nhiều hơn
sau Quyết định 214/2005/QĐ-TTg ngày 30/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt đề án phát triển TTCN. Điều đó một phần là do sự nhìn nhận của
Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng của phát triển TTCN ngày càng cao.
Ngoài ra, nhiều văn bản pháp lý liên quan đến phát triển thị trường
KHCN cũng được ban hành kịp thời: Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày
08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển thị
trường KHCN đến năm 2020; Thông tư số 32/2014/TT-BKHCN của Bộ
KHCN ngày 16/11/2014 về quản lý Chương trình phát triển TTCNC đến năm
2020; Thông tư liên tịch số 59/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/4/2015
hướng dẫn quản lý tài chính thực hiện chương trình phát triển thị trường
KHCN đến năm 2020; Nghị định 76/2018/NĐ-CP quy định hỗ trợ doanh
nghiệp có dự án thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư nhận
CGCN từ các tổ chức KHCN. Hình thức hỗ trợ là cho vay vốn với lãi suất ưu
đãi, hỗ trợ lãi suất vay để thực hiện CGCN; Nghị định 154/2018/ NĐ-CP sửa
đổi bổ sung, bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong
quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ và một số quy định về kiểm
tra chuyên ngành. Mặt khác để hỗ trợ và thức đẩy cho thị trường KHCN nói
chung và TTCNC nói riêng nhà nước còn ban hành, bổ sung, sửa đổi rất nhiều
các văn bản về Luật, Nghị định, Quy định, quyết định, thông tư [Phụ lục1] tạo
cơ sở pháp lý cho thị trường này ngày càng phát triển, trong đó có:
113
Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013; Luật Chuyển giao công nghệ
năm 2017; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017; Nghị định số
76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật CGCN; Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy
định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo;
Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 quy định về đầu tư cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày
15/5/2018 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua
việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước; Nghị định
số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KHCN.
Ngoài ra còn có: Thông tư số 63/2018/TT-BTC ngày 30/7/2018 hướng
dẫn một số điều của Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định việc
quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước; Thông tư số 10/2019/TT-BTC ngày
20/2/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản
là kết quả của nhiệm vụ KHCN sử dụng vốn nhà nước.
Thứ tư, tích cực đổi mới chính sách ngoại giao, đẩy mạnh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới.
Trong điều kiện mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, đặc biệt là những tác động tích cực của toàn cầu hoá mang lại nhiều
cơ hội cho các quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng cụ
thể như sau: trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hoá tăng mạnh đã
thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác mang lại lợi ích cho các bên
tham gia hợp tác. Mặt khác toàn cầu hoá làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau, nâng
cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà
bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.
Có thể nói đây là cơ hội rất phù hợp để Việt Nam có thể tham gia hội
nhập sâu rộng vào thị trường thế giới nhằm phá thế bao vây, cấm vận của các
114
thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc…,Chính vì vậy ngay sau khi giải phóng thống nhất
đất nước, đặc biệt là sau khi thực hiện đường lối đổi mới Việt Nam đã tham
gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn
đề Campuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và
cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(ngày 10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại
viên trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-
7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam ra nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của
nước ta với khu vực Đông Nam Á.
Cho đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193
quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu
dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt
Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình,
hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đây là những tiền đề rất quan
trọng phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm tạo ra môi
trường thuận lợi thu hút các dòng vốn đầu tư của nước ngoài thông qua hợp
tác, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ…, với các đối tác
bên ngoài, nhất là các quốc gia có trình độ khoa học công nghệ phát triển như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…, Trên cơ sở đó giúp cho thị
trường khoa học công nghệ nói chung và thị trường công nghệ cao nói riêng
của nước ta có điều kiện phát triển mạnh mẽ thông qua quá trình chuyển giao
công nghệ, học tập, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
* Nguyên nhân khách quan
Một là, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng và có những biểu hiện mới.
Ngày nay toàn cầu hóa đang trở thành xu hướng tất yếu khách quan của
sự phát triển kinh tế thế giới. Nó cho phép các nước đang phát triển có cơ hội
115
và điều kiện để tiếp nhận các dòng vốn, công nghệ; mở rộng thị trường; tiếp
nhận kỹ năng và kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao nhất.
Các nền kinh tế đang phát triển và kinh tế chuyển đổi sẽ có cơ hội để thực
hiện mô hình phát triển rút ngắn, nghĩa là thông qua HNKTQT để đi tắt và
tiến tới những bước phát triển cao hơn trên cơ sở hưởng thụ và vận dụng có
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài đã được khai thông và kết nối với các
nguồn lực bên trong, TTCN của các quốc gia được kết nối với TTCN thế giới.
Toàn cầu hóa và HNKTQT được đẩy mạnh và là xu hướng chủ đạo
trong sự vận động của kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển và
xã hội hóa lực lượng sản xuất, nó làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và
phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp quốc
gia mà còn trên quy mô toàn thế giới, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng
gay gắt dẫn đến việc các doanh nghiệp, các chủ thể phải đổi mới công nghệ,
tăng năng suất lao động, mặt khác làm cho tự do hóa thương mại, đầu tư, tài
chính, CGCN được đẩy mạnh ở cả cấp độ song phương và đa phương, khu
vực và toàn cầu. Các định chế, thể chế kinh tế quốc tế, trong đó có các định
chế liên quan đến TTCN ngày càng hoàn thiện, phát triển, tạo điều kiện cho
việc thâm nhập, phụ thuộc lẫn nhau giữa TTCN ở các quốc gia. Sự hợp tác
quốc tế về CNC ngày càng phát triển và trở nên cần thiết đối với các nước.
Do hoạt động CNC hiện nay đòi hỏi sự đầu tư lớn về vốn, công nghệ, nhân
lực và để phát huy lợi thế so sánh trong nghiên cứu CNC, các quốc gia ngày
càng tăng cường hợp tác với nhau trong nghiên cứu triển khai TTCNC.
Hai là, nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KHCN hiện đại
và xu hướng TCH, HNKTQT, nền KTTT thế giới có bước phát triển và biến
đổi mạnh mẽ. Trong nền KTTT phát triển, trước áp lực ngày càng lớn của
cạnh tranh các nhà sản xuất, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải
không ngừng gia tăng đầu tư và đổi mới công nghệ trong sản xuất nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh.
116
Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt của nền KTTT toàn cầu hóa,
các doanh nghiệp mới thường ra đời từ một sáng chế, một công nghệ mới. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu ráo riết hiện nay không còn chỗ đứng cho các
doanh nghiệp làm ăn theo đường mòn không chịu đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới đang trải qua những bước thăng
trầm, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu như chiến tranh lạnh, chủ nghĩa bảo hộ của các nước lớn… đã gây ra tổn thất nặng nề
cho nền kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế này diễn ra cùng với khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu và môi trường. Do vậy, sau
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ có sự tái cấu trúc nền kinh tế và có sự biến đổi nhanh chóng, kinh tế tri thức được phát triển mạnh mẽ, KHCN ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển, các nước phát triển sẽ tập trung phát triển CNC và chuyển dịch công nghệ thấp cho các nước đang phát triển.
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế * Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, những yếu tố thích ứng với KTTT sẽ phát triển, trong khi các yếu tố đòi hỏi quá trình chuyển đối về tổ
chức và cơ chế như việc đổi mới các tổ chức KHCN công lập lại phát triển
chậm hơn. Như vậy, các yếu tố của TTCNC ở nước ta đã không cùng có một điểm xuất phát trong quá trình hình thành và phát triển, do đó sự chênh lệch,
phát triển không đồng bộ giữa chúng là một kết quả tất yếu.
Thứ hai, cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN
còn hạn chế.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN vẫn dàn trải, thiếu
tập trung và hiệu quả sử dụng không cao. Các chủ thể chưa được bình đẳng thật sự trong việc tiếp cận với các nguồn đầu tư cho hoạt động CNC của nhà
nước. Đơn vị, tổ chức sử dụng nguồn vốn cho KHCN chủ yếu vẫn là các tổ chức KHCN nhà nước. Việc cấp phát kinh phí vẫn mang tính bình quân, bao cấp và nặng tư tưởng hành chính hoá.
117
Thứ ba, hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn gặp
nhiều khó khăn, bất cập.
Môi trường kinh doanh chưa thực sự lành mạnh, bình đẳng làm cho
nhiều doanh nghiệp có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm và chưa chịu nhiều sức
ép cạnh tranh để ứng dụng kết quả nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Hiện
tượng đặc quyền, đặc lợi vẫn tồn tại khiến cho các doanh nghiệp phải dành
nguồn lực vào các chi phí khác thay vì đầu tư đổi mới công nghệ.
Nhiều doanh nghiệp thiếu quy hoạch và chiến lược phát triển, thiếu quy
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ trình độ cao, thiếu sự gắn bó và phối hợp giữa
chiến lược đổi mới, CGCN với chiến lược phát triển và kinh doanh. Nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự có nhu cầu tự thân
đối với đổi mới công nghệ do năng lực quản lý yếu kém của người lãnh đạo
hoặc do thiếu động lực để phát triển doanh nghiệp trong dài hạn.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thấp, gây khó khăn cho
việc huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ. Cơ chế hỗ trợ từ nguồn ngân sách
nhà nước cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn nhiều điểm chưa hợp lý,
chưa đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn hỗ trợ. Cơ chế xin - cho, sự
phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại trong hỗ trợ của nhà nước cho doanh nghiệp đổi
mới công nghệ. Một số quỹ hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp đã
được hình thành song trên thực tế vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng.
* Nguyên nhân khách quan
Một là, mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ là mô hình mới, đòi
hỏi nhiều cơ chế hoạt động đặc thù.
Trên thực tế cho thấy các nhà nghiên cứu thường gặp khó khăn trong
việc thành lập hoặc là hợp tác với các doanh nghiệp KHCN, bởi vì phần đông
các nhà nghiên cứu là viên chức nhà nước nên không có tư cách pháp nhân để
tự sản xuất kinh doanh. Lợi ích của nhà nghiên cứu không được đảm bảo và
không rõ ràng trong việc thành lập và hợp tác với các doanh nghiệp KHCN.
Các doanh nghiệp KHCN khó tiếp cận với các nguồn vốn từ ngân hàng
để thực hiện việc sản xuất, kinh doanh. Điều này là do các nguyên nhân sau:
(1) Các doanh nghiệp KHCN khó có tài sản bảo đảm vay, bởi vì tài sản chủ
118
yếu của doanh nghiệp là tài sản trí tuệ nên rất khó thực hiện việc cầm cố, thế
chấp, bảo đảm vay; (2) Các ngân hàng khó đánh giá thực trạng tình hình tài
chính, khả năng sinh lời và thanh toán các khoản nợ vay của doanh nghiệp
KHCN, do đó cản trở việc ra quyết định cho vay.
Hai là, cơ chế quản lý của các tổ chức KHCN công lập còn nhiều bất cập
Tư duy ngại đổi mới, ngại chịu trách nhiệm, nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại
vào nguồn trợ cấp từ ngân sách nhà nước vẫn tồn tại trong các tổ chức KHCN
công lập từ đó dẫn đến chậm đổi mới cơ chế quản lý cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực KHCN, không khuyến khích tính chủ động và sáng tạo của đội ngũ này.
Cơ chế cấp kinh phí của nhà nước cho các tổ chức KHCN công lập còn
bất cập, mang tính cào bằng trong việc trả lương cho các nhà khoa học nên
không khuyến khích nghiên cứu và làm phân tán lực lượng nghiên cứu.
Quyền sở hữu đối với các loại tài sản trong đơn vị sự nghiệp KHCN
công lập chưa rõ ràng khi chuyển sang mô hình mới. Thủ tục hành chính
cho việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp KHCN công lập thành doanh nghiệp
KHCN còn rườm rà.
Công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều bất cập, Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019) được xây dựng trên
những nguyên tắc cơ bản là: kế thừa có chọn lọc, bổ sung các quy định còn
thiếu, các quy định mới về sở hữu trí tuệ (SHTT) đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ giữa các quy định pháp luật SHTT và giữa các quy định liên quan
đến SHTT của các ngành luật khác; đảm bảo sự tương thích giữa các quy
định SHTTcủa Việt nam và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, đảm bảo các quy định về quyền SHTT phù hợp với điều kiện của Việt
nam. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật hiện hành về SHTT, vẫn
còn tồn tại một số hạn chế, bất cập điển hình sau:
Thứ nhất, Khoản 4 Điều 19 Luật SHTT quy định tác giả có quyền bảo vệ
sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên
tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín
của tác giả. Quy định này dễ gây hiểu nhầm, mà theo đó, tác giả chỉ có quyền
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
119
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào khi hành vi đó gây phương hại đến
danh dự và uy tín tác giả, còn nếu không gây phương hại đến danh dự và uy tín
của tác giả thì không sao, vì vậy, nên tình trạng cắt xén nội dung tác phẩm của
tác giả này, tác giả kia để biến thành sản phẩm “trí tuệ” của chính mình đang
diễn ra tương đối nhiều.
Thứ hai, Điều 72 Luật SHTT quy định về điều kiện chung đối với nhãn
hiệu hàng hóa được bảo hộ: Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ
ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được
thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch
vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Như vậy,
phạm vi dấu hiệu được công nhận là nhãn hiệu hàng hóa vẫn rất hẹp và không
tương thích với quy định của Hiệp định TRIPs. Trong khi đó, theo các văn bản
pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia, các dấu hiệu có thể
được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa được quy định rất rộng.
Chính vì vậy, trong thời gian qua rất nhiều các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
của Việt Nam bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bởi các doanh nghiệp, tổ
chức nước ngoài điển hình là các vụ Gạo ST25, Cà phê Trung Nguyên, thuốc
lá Vinataba, Petro Vietnam, bánh phồng tôm Sa Giang, kẹo dừa Bến Tre,
võng xếp Duy Lợi, cà phê Buôn Ma Thuật, Đắk Lắk...
Ngoài ra, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong
phát triển thị trường CNC ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đó là hiện
tượng “Chảy máu chất xám” nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Nhiều năm
qua, "chảy máu chất xám" được coi là một hiện tượng phức tạp, buộc nhiều
quốc gia cần xem xét và điều chỉnh, từ đó có chính sách, biện pháp khắc
phục. Bởi, dù thế nào thì trong thế giới hiện đại, sự phát triển của mỗi quốc
gia luôn cần tới vai trò của tri thức, trí tuệ. Ở đây, vấn đề đặt ra cho mỗi người
lao động trí óc là tâm nguyện cống hiến cho Tổ quốc, là sự đồng cảm và chia
sẻ với những khó khăn của đất nước; bên cạnh đó là vai trò của Nhà nước
trong việc tạo điều kiện tốt nhất để các chủ nhân của "chất xám" sống và cống
hiến cho đất nước một cách tốt nhất. Trên thực tế cho thấy, trong những năm
vừa qua, Đảng, Nhà nước ta đã có rất nhiều các chủ trương, biện pháp nhằm
120
khuyến khích cho các cán bộ của Việt Nam được tham gia học tập, nghiên
cứu ở các nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức…
bằng các đề án khác nhau như các đề án 322, 599, 911 của Bộ giáo dục và đào
đạo. Tuy nhiên, sau quá trình học tập, nghiên cứu ở nước ngoài thì nhiều cán
bộ nghiên cứu đã lựa chọn làm việc công tác ở nước ngoài với các lý do khác
nhau như có môi trường nghiên cứu tốt, trang thiết bị, máy móc, phòng thí
nghiệm đạt chuẩn, mức lương cao… những điều mà Việt Nam không thể đáp
ứng được. Theo báo cáo của Cục Đào tạo với nước ngoài thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo theo đề án 322, có 2.268 du học sinh được đưa đi đào tạo tiến sĩ
nhưng chỉ khoảng một nửa số đó (1.074 tiến sĩ) là quay về nước, mà về rồi thì
cũng không hẳn sẽ làm việc trong trường đại học, viện nghiên cứu... Do vậy,
trong thời gian tới để hạn chế thấp nhất hiện tượng “chảy máu chất xám”
chúng ta cần phải có một hệ thống chính sách cân bằng được giữa nhiều mặt:
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học; cải thiện hệ thống đãi ngộ (cả
vật chất lẫn tinh thần). Mặt khác chúng ta cũng cần phải có một hệ thống
kiểm soát hiệu quả công tác thật sự hữu hiệu, chính xác, khoa học, phù hợp
với điều kiện thực tiễn.
3.3.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển thị trường công
nghệ cao ở Việt Nam
Từ thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế
trong phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian qua, đã và đang đặt ra một số
mâu thuẫn cần tập trung giải quyết:
Thứ nhất, mâu thuẫn quy mô cung, quy mô cầu hàng hóa CNC với phát
triển của thị trường CNC với còn nhiều bất cập
Hiện nay, xét về quy mô cung hàng hóa CNC trên phạm vi cả nước
nhìn chung số lượng các tổ chức KHCN còn chưa nhiều (tính đến hết năm 2019
cả nước mới có 480 doanh nghiệp KHCN), đây là lực lượng chính bảo đảm
trong cung cấp CNC trên thị trường. Trong thời gian quan mặc dù hoạt động
của các tổ chức này đã đạt được một số kết quả quan trọng trong nghiên cứu và
triển khai nhưng việc chuyển giao, thương mại hóa các sản phẩm công nghệ
còn hạn chế, tình trạng bao cấp đối với các tổ chức KHCN nhất là các tổ chức
121
KHCN của nhà nước vẫn còn lớn, việc chuyển đổi hoạt động của các tổ chức
KHCN sang hoạt động mô hình doanh nghiệp KHCN còn chậm chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.
Mặt khác, chất lượng đầu tư cho R&D của nước ta còn thấp, năng lực
khoa học chưa cao, năng lực đổi mới sáng tạo còn nhiều hạn chế. Đây là
những yếu tố làm cho quy mô nguồn cung hàng hóa công nghệ chưa cao
Theo số liệu Điều tra của Bộ KHCN, tổng đầu tư cho R&D năm 2018
của cả nước khoảng 26.386 tỷ đồng (xấp xỉ 1,137 tỷ USD, xấp xỉ 0,47% GDP
cùng thời kỳ). Trong đó 49% vốn đầu tư cho R&D đến từ ngân sách nhà
nước; 38% đến từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, và khoảng 13% đến từ khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về phân bổ ngân sách cho R&D, các dự án
R&D được thực hiện ở doanh nghiệp có tổng ngân sách lên đến 19.260 tỷ
(chiếm 73% tổng chi cho R&D của cả nước). Tuy nhiên, nguồn vốn R&D nhà
nước đầu tư để thực hiện tại các doanh nghiệp chiếm đến 31% con số này. Về
chi phí R&D được thực hiện ở các tổ chức KHCN, nguồn vốn của nhà nước chiếm
đến 98% kinh phí R&D thực hiện ở đây. Kết quả này gợi ý rằng đầu tư cho R&D
của Việt Nam là khá thấp cả về mặt tuyệt đối và tương đối so với Thái Lan (đầu tư
5,1 tỷ USD cho R&D, chiếm 0,5% GDP), Malaysia (9,7 tỷ USD và 1,3% GDP),
Singapore (10,1 tỷ USD và 2,1% GDP) và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản
(169,5 tỷ USD và 3,4% GDP) hay Hàn Quốc (73,1 tỷ USD và 4,3% GDP). Vì vậy,
nguồn cung công nghệ trong nước sẽ hết sức hạn chế trong trung và ngắn hạn [15].
Bên cạnh đó năng lực KHCN của Việt Nam so với thế giới là tương đối
thấp. Ngoại trừ hai yếu tố là chi tiêu của các công ty cho R&D và mua sắm
chính phủ về sản phẩm công nghệ của chính phủ đạt ở mức trung bình (cả
điểm số và thứ hạng), các chỉ tiêu khác phản ánh năng lực đổi mới sáng tạo
của Việt Nam như chất lượng của các trường đại học, hợp tác đại học và
doanh nghiệp về R&D, sự sẵn có của các nhà khoa học và các kỹ sư, số lượng
sáng chế được đăng ký trên một triệu dân là khá thấp.
Để mở rộng và phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay ngoài mở rộng
quy mô về nguồn cung thì quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là rất
122
cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu công nghệ tại các
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN của 63 tỉnh/thành để phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, giải mã và CGCN không có sự biến động nhiều trong ba năm gần
đây (Bảng 3.14), thậm chí năm 2019 còn có xu hướng giảm so với năm 2018.
Thống kê tổng số nhu cầu công nghệ năm 2016 là 95 công nghệ ở các lĩnh
vực như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết
kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động
hóa; công nghiệp. Năm 2017, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 93
công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm,
nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2018, số nhu cầu
công nghệ của các Trung tâm là 115 công nghệ ở một số lĩnh vực như công
nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý
môi trường. Năm 2019, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 105 công
nghệ ở một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm;
xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y
dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp [15].
Mặt khác, xét nhu cầu công nghệ theo thống kê từ các Sàn giao dịch
công nghệ và thiết bị đang hoạt động tại các tỉnh/thành của Việt Nam (cập
nhật đến 6/2020), nhu cầu về công nghệ, công nghệ tại các sàn giao dịch công
nghệ và thiêt bị cho thấy như sau nhu cầu về công nghệ thông qua sàn giao
dịch công nghệ và thiết bị chủ yếu thông qua sàn giao dịch quốc gia, nhu cầu
công nghệ của các địa phương là không đồng đều, có sự chênh lệch về nhu
cầu khá lớn giữa các trung tâm thành phố lớn trên phạm vi cả nước, cá biệt có
những sàn giao dịch công nghệ và thiết bị không có cầu về hàng hóa công
nghệ, như sàn giao dịch An Giang, Hải Dương, Cần Thơ,…[Phụ lục 20].
Như vậy, việc mở rộng và phát triển thị trường CNC ở Việt Nam trong
thời gian tới cần tập trung giải quyết hài hòa việc phát triển nguồn cung và
cầu hàng hóa CNC. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và tuân theo đúng quy
luật kinh tế, giải quyết được mâu thuẫn này sẽ là động lực rất quan trọng góp
phần phát triển thị trường CNC ở nước ta hiện nay theo hướng bền vững.
123
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng TTCNC với phát
triển của các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC còn nhiều bất cập.
Mạng lưới tổ chức trung gian TTCNC đang trong giai đoạn hình thành,
còn manh mún và hạn chế về năng lực
Các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và
Đà Nẵng chưa được đầu tư và phát triển tương xứng với sứ mệnh là trung tâm
kết nối cung cầu về công nghệ và tài sản trí tuệ tại 3 khu vực.
Các tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao về đánh giá, định giá
công nghệ và cung cấp các dịch vụ thông tin, môi giới công nghệ còn yếu về
chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tạo được niềm tin cần thiết đối với cả bên
cung và cầu công nghệ. Hơn nữa, hoạt động của các tổ chức này còn mang
tính riêng rẽ, thiếu kết nối nên đã hạn chế sức lan tỏa trong khai thác thông tin
công nghệ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, định giá so với việc hoạt
động trong một mạng lưới được kết nối giữa các tổ chức trung gian.
Các hiệp hội, ngành hàng, các đại diện thương mại, đại diện ngoại
giao… chưa được chú ý huy động tham gia hoạt động xúc tiến TTCNC nên
chưa phát huy được vai trò của các tổ chức này trong hoạt động thúc đẩy giao
dịch công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp.
Các nguồn công nghệ sẵn có từ nước ngoài chưa được chú ý đúng mức
trong tổ chức thực hiện chương trình phát triển TTCNC. Mạng lưới các
chuyên gia giỏi ngoài nước (các hiệp hội quốc tế, chuyên gia người nước
ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài) chưa được thu hút để hỗ
trợ các tổ chức trung gian, môi giới và các doanh nghiệp trong nước giúp tìm
kiếm, lựa chọn, tiếp thu và làm chủ công nghệ.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển TTCNC với hệ thống
thiết chế hiện nay còn chưa đồng bộ, đầy đủ.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách thúc đẩy phát
triển thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng, song các chính sách này
hoặc là đang còn quá mới hoặc là chưa thực sự hấp dẫn các doanh nghiệp, tổ
chức và các nhà khoa học như quy định về việc trích thu nhập tính thuế hàng
124
năm để lập quỹ phát triển KHCN doanh nghiệp trong Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp chưa tạo được động lực cho các doanh nghiệp đầu tư cho KHCN.
Từ thực tế những vấn đề bất cập còn tồn tại trong chính sách và cơ chế
quản lý nhà nước về hành lang pháp lý chưa minh bạch, các thủ tục hành
chính nhằm công nhận các phát minh sáng chế hoặc kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học là cá nhân có nhiều phức tạp. Đây chính là những tác động
tiêu cực, thủ tiêu tính sáng tạo của các nhà khoa học và là nhân tố làm giảm
cung của TTCNC.
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm sản phẩm, dịch vụ CNC đến từ tất cả
các thành phần trong xã hội. Đối với các thành phần có liên quan đến nhà nước,
trong hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có tác động trực tiếp đến việc thay đổi
và đổi mới sử dụng các sản phẩm CNC ví dụ như các chính sách mua sắm các sản
phẩm công nghệ của Chính phủ nhằm trang bị cho các cơ quan tổ chức trong bộ
máy chính phủ làm việc góp một phần không nhỏ vào việc kích cầu các loại hình
sản phẩm đặc thù này. Các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong
đầu tư vào mua sắm và đổi mới công nghệ trong sản xuất và cung cấp dịch vụ
cũng đóng góp phần quan trọng vào thúc đẩy cầu đối với các sản phẩm công nghệ.
Ngoài ra, những quy định chi tiết về sự lạc hậu của một số các tiêu chuẩn khoa
học, công nghệ trong quá trình áp dụng vào sản xuất và cung ứng dịch vụ nhằm
đáp ứng với những quy định mới của chính phủ. Ví dụ như những quy định về
lượng khí thải, chất thải ra môi trường sẽ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới
công nghệ để nhằm giảm khí thải theo quy định. Đây là những tác động tích cực
trực tiếp lên cầu của sản phẩm CNC trên thị trường.
Ngược lại, sự “dễ dãi” trong cơ chế chính sách đối với các tiêu chuẩn
về công nghệ, máy móc áp dụng cho quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ có
tác động tiêu cực đến nhu cầu về sản phẩm công nghệ trên thị trường. Hiệu lực
của pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp còn nhiều hạn chế, quyền sở
hữu công nghiệp đặc biệt là năng lực để thực thi quyền sở hữu chưa tốt. Khung
pháp luật về sở hữu công nghiệp chưa đầy đủ và chưa có tính hiệu lực cao, đây
là tình trạng khá phổ biến khiến cho cầu công nghệ còn thấp dù chính phủ đã
rất nỗ lực đưa ra nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của TTCNC.
125
Kết luận chương 3
Trong thời gian vừa qua, TTCNC ở Việt Nam đã có bước phát triển do tận dụng được các cơ hội của quá trình HNKTQT mang lại. Sự phát triển này thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau về số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường như: số lượng, chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC ngày càng gia tăng; Nhu cầu về hàng háo CNC của các chủ thể ngày càng gia tăng; Số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC có sự phát triển và ngày càng gia tăng
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đến nay TTCNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu thành thị trường chưa phát triển đồng bộ, năng lực của nhiều chủ thể trên TTCNC còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nước ta hiện nay cụ thể là gia tăng về số lượng và chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC còn chưa nhiều; nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC còn nhiều hạn chế; số lượng và chất lượng các tổ chức dịch vụ trung gian trên TTCNC còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Những thành tựu trong quá trình phát triển TTCNC thời gian qua có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng; tiềm lực KHCN của nước ta ngày càng được tăng cường và phát triển; hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý KHCN ngày càng được hoàn thiện; xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có những biểu hiện mới; nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng
Bên cạnh đó những hạn chế trong phát triển TTCNC hiện nay bắt nguồn từ những nguyên nhân cụ thể như sau: Chính sách thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ còn bất hợp lý, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển; cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN còn hạn chế; hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, bất cập; mô hình doanh nghiệp KHCN là mô hình mới, đòi hỏi nhiều cơ chế hoạt động đặc thù; cơ chế quản lý các tổ chức KHCN công lập còn nhiều bất cập
Vì vậy, trên cơ sở những thành tựu và hạn chế cần có những quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm hạn chế những tồn tại và phát huy các thế mạnh đã đạt được nhằm phát triển TTCNC trong thời gian tới đạt kết quả tốt góp phần nâng cao tiềm lực KHCN đất nước.
126
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
4.1. Quan điểm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
đến năm 2030
4.1.1. Phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước đối
với sự phát triển thị trường công nghệ cao
Có thể thấy rằng nhà nước là một chủ thể quan trọng tham gia TTCNC.
Bên cạnh vai trò có thể là người cung hay cầu đối với sản phẩm CNC, Nhà nước
còn có tư cách là người quản lý, điều hành, định hướng đối với các hoạt động
của thị trường. Vai trò này thể hiện chủ yếu là tạo cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý
cho các hoạt động thị trường. Đối với TTCNC với những đặc thù như đã trình
bày, thì vai trò quản lý của Nhà nước lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng do
vậy để thực hiện tốt vai trò của Nhà nước trong việc định hướng quản lý và phát
triển TTCNC trong thời gian tới cần thực hiện một số yêu cầu như sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích cho các
doanh nghiệp đổi mới phát triển, đặc biệt là ưu đãi sự liên kết giữa các tổ
chức CNC với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh…Các
chính sách này được thực hiện thông qua việc tạo điều kiện cho các cơ
chế kiêm nhiệm và di chuyển nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sang
các tổ chức CNC và ngược lại, thực hiện ưu tiên về nguồn vốn đầu tư của
Nhà nước đối với các hình thức liên kết này. Ngoài ra, thực hiện tốt chính
sách miễn giảm thuế với các hoạt động đổi mới công nghệ, chính sách hỗ
trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các hoạt động phát triển, nhập khẩu
CNC, công nghệ tiên tiến của các tổ chức CNC và các doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, Nhà nước trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư cho KHCN
từ nguồn ngân sách để thực hiện một số hoạt động KHCN có tầm quan trọng
đối với việc phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, sự
127
phát triển và ổn định quốc gia. Trên cơ sở gia tăng đầu tư NSNN của nhà
nước hướng tới mục tiêu thúc đẩy các yếu tố cơ bản của TTCNC, xây dựng
kết cấu hạ tầng, hoàn thiện môi trường và tài trợ cho các hoạt động mà khu
vực kinh tế tư nhân không muốn làm như nghiên cứu cơ bản.
Ngoài ra, bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ NSNN cần phải chú trọng việc
đa dạng hóa, thu hút vốn đầu tư từ xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp…
thông qua việc thúc đẩy gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các tổ chức
KHCN, các trường đại học, viện nghiên cứu trên phạm vi cả nước. Mặt khác
nhằm huy động vốn cho TTCNC phát triển chúng ta cần quan tâm đến việc
hình thành các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm và để nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
phát triển và hoạt động hiệu quả Việt Nam cần xây dựng hệ thống khuôn khổ
pháp luật, chính sách và có những cơ chế ưu đãi cho các hoạt động này.
Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò xúc tác, tạo điều kiện cho TTCNC hoạt
động thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật và tạo môi trường thuận
lợi để những người mua và người bán các sản phẩm CNC đến với nhau, trên
cơ sở đó có thể trao đổi sản phẩm và bảo đảm lợi ích của họ đối với các sản
phẩm CNC được giao dịch; Các quy tắc, luật lệ do Nhà nước ban hành trong
lĩnh vực này thường bao gồm những quy định liên quan tới việc đăng ký để
được công nhận quyền sở hữu trí tuệ; các quy định về mua bán, trao đổi,
CGCN và đặc biệt là những thủ tục xử lý tranh chấp khi các quyền lợi liên
quan tới quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm.
4.1.2. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải phù hợp
với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững
Việc phát triển TTCNC phải căn cứ vào đặc điểm của nền kinh tế nước ta
là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước đang phát triển và có nền
kinh tế chuyển đổi, nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mô
hình quản lý để từ đó xác định một phương pháp, bước đi và mô hình phù hợp
với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta, tránh tình trạng dập khuôn, bắt
chước mô hình bên ngoài, đi quá xa với hiện trạng của nền kinh tế nước ta.
128
Trong thời gian tới, lộ trình và mô hình phát triển TTCNC nước ta cần
phải đảm bảo một số yêu cầu như sau:
Thứ nhất, tăng cường vai trò điều hành định hướng của nhà nước trong
việc phát triển TTCNC.
Nội dung quản lý Nhà nước về thị trường KHCN nói chung và TTCNC
nói riêng đan xen trong các văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý
KHCN. Vì vậy trong thời gian tới, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm quản lý
Nhà nước về TTCNC của các bộ, ngành và địa phương (hiện nay mới có Bộ
KHCN có cơ quan chuyên trách quản lý thị trường KHCN là Cục Thị trường
và Doanh nghiệp KHCN). Nội dung quản lý Nhà nước về TTCNC cần được
điều chỉnh và bổ sung trong các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó phải
cụ thể hoá trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý Nhà nước về phát triển
TTCNC. Thực hiện việc báo cáo và thống kê định kỳ về thị trường KHCN nói
chung và TTCNC nói riêng.
Thứ hai, thúc đẩy cầu trên TTCNC, trong đó chủ yếu là thúc đẩy cầu
hàng hoá CNC của doanh nghiệp.
Trên cơ sở hệ thống thể chế, chính sách phát triển TTCNC, chúng ta
cần phải thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và phải xác
định doanh nghiệp là hạt nhân, là chủ thể chính trong cầu về hàng hoá
CNC. Điều này có cơ sở khách quan từ sức ép cạnh tranh quốc tế ngày
càng tăng của quá trình HNKTQT buộc các doanh nghiệp phải nâng cao
năng lực cạnh tranh, đổi mới sản xuất, từ đó thúc đẩy nhu cầu đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp. Trên cơ sở thực hiện tốt một số nội dung như: (i)
nhận dạng được nhóm các doanh nghiệp có triển vọng để phát triển cầu công
nghệ; (ii) trên cơ sở đó làm cho các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan
trọng của việc đổi mới mô hình kinh doanh của họ theo hướng dựa vào công
nghệ; (iii) nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp hoặc
giúp các doanh nghiệp hạn chế được các điểm yếu về năng lực hấp thụ công
129
nghệ; (iv) tạo ra được thế hệ doanh nghiệp mới được hình thành từ các sáng
chế của các trường đại học/viện nghiên cứu; (v) xây dựng cơ sở dữ liệu về cầu
công nghệ (cầu về sáng chế, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ nhân lực).
Thứ ba, nâng cao năng lực cung hàng hoá CNC và phát triển các tổ
chức trung gian, môi giới trên TTCNC.
Trước sức ép của cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT, nhu cầu của
doanh nghiệp đối với hàng hoá CNC không chỉ là các kết quả nghiên cứu, các
công nghệ chung chung, mà là các công nghệ có ứng dụng trong thực tiễn sản
xuất kinh doanh. Điều này đặt ra nhu cầu phải nâng cao năng lực cung hàng
hoá CNC và phát triển các tổ chức trung gian, môi giới. Căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, để thực hiện được việc này chúng ta
phải: (1) Hoàn thiện và cải tổ các tổ chức CNC công lập hiện có; (2) Khuyến
khích phát triển các tổ chức CNC ngoài khu vực công lập, đặc biệt là các tổ
chức CNC nước ngoài; (3) Thực hiện chính sách "sao chép có sáng tạo" như
kinh nghiệm của các nước Đông Á; (4) Phát triển các tổ chức trung gian, môi
giới nhằm gắn kết giữa cung và cầu trên TTCNC.
4.1.3. Phải bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia thị
trường công nghệ cao trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường
Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội và tôn trọng các
quy luật kinh tế khách quan trong quá trình phát triển kinh tế. Để thực hiện
quan điểm này cần phải làm tốt một số yêu cầu
Một là, phải tôn trọng và bảo đảm lợi ích các chủ thể tham gia trên
TTCNC trong quá trình HNKTQT
Việt Nam tham gia vào HNKTQT nhằm đảm bảo cho chúng ta tham
gia đầy đủ vào hệ thống phân công lao động quốc tế, thu được các giá trị gia
tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu để mang lại lợi ích
lớn nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập vào TTCNC khu vực và thế giới
không bao giờ mang lại lợi ích hoàn toàn hoặc là bị thiệt hại hoàn toàn, mà đó
130
là quá trình hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối
với các chủ thể tham gia TTCNC. Trong nhiều trường hợp cụ thể, chúng ta
bắt buộc phải cân nhắc giữa lợi ích đạt được và những khó khăn để có một sự
lựa chọn về bước đi, về chính sách cho phù hợp. Tham gia vào TTCNC có rất
nhiều các chủ thể tham gia trong đó có các chủ thể trong nước, nước ngoài,…
Do vậy, trong quá trình phát triển cần coi trọng và giải quyết hài hòa các lợi
ích của các chủ thể, tránh tình trạng coi trọng hoặc xem nhẹ vai trò của các
chủ thể nhằm tạo ra động lực phát triển toàn diện, hiệu quả và thiết thực.
Trong điều kiện ngày nay, phải luôn xác định lợi ích của dân tộc, quốc
gia lên hàng đầu, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các chủ thể
Việt Nam với nước ngoài và khai thác được lợi ích của nước đi sau trong
HNKTQT. Đây là quá trình đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc chung,
thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế
mà Việt Nam tham gia nhưng cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc quốc tế,
có đối sách phù hợp nhằm mang lại lợi ích tối đa cho đất nước và các chủ thể
Việt Nam. Việc phát triển TTCNC trong bối cảnh hội nhập cũng phải đảm bảo
việc thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới và đảm bảo môi trường thuận lợi cho việc
nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp
lý giữa lợi ích của nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ chức KHCN và xã hội.
Hai là, phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay phải tuân theo các quy
luật của KTTT
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế thế
giới, cùng với đó là quá trình tự do hóa thương mại đã buộc các nước khi
tham gia hội nhập kinh tế, đều phải thực hiện các cam kết, điều luật, nguyên
tắc và thông lệ quốc tế chung những “quy tắc” và những “luật chơi” của các
tổ chức quốc tế và khu vực.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình phát triển TTCNC cần phải
được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tuân thủ các quy luật kinh tế khách
quan của nền KTTT như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
131
tranh… có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và tuân theo những thông lệ,
quy định quốc tế. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước chỉ là điều kiện cần, còn
chủ yếu là sự nỗ lực quyết tâm chuyển đổi, chủ động hội nhập của các chủ thể
tham gia trên thị trường như Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động
trên lĩnh vực CNC. Do vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng để phát
triển TTCNC bền vững, hiệu quả có tính khả thi là những chính sách hỗ trợ
phải đảm bảo tính minh bạch tuân theo quy luật KTTT, không trái với các quy
định và thông lệ quốc tế và những cam kết của Chính phủ.
4.1.4. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải trên cơ sở
kết hợp giữa nội lực và ngoại lực góp phần tăng cường tiềm lực khoa học
công nghệ quốc gia
Quan điểm này là sự vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp giữa nội lực
với ngoại lực trong CNH, HĐH vào lĩnh vực KHCN. Đây là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược bởi lẽ, nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con
đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó sẽ giúp rút ngắn
khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và
trên thế giới tạo điều kiện nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia,
góp phần từng bước phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, KHCN ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong
phát triển KT-XH của các quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt
Nam nói riêng. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình phát triển nếu chỉ dựa
vào nội lực nhỏ bé trong nước thì quá trình phát triển sẽ rất chậm chạp và khó
khăn. Trong khi đó, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra thời cơ lớn cho
tất cả các nước trong việc du nhập công nghệ từ nước tiên tiến hơn mình để
phát triển nhanh. Trong bối cảnh đó, phát huy cao độ nội lực và khai thác, tận
dụng tối đa ngoại lực cho phát triển KHCN và TTCNC là vấn đề tất yếu trong
chiến lược phát triển rút ngắn, đi tắt đón đầu về công nghệ.
Ngoại lực ở đây cần được hiểu là những thành tựu tiên tiến về công
nghệ hiện đại ở các nước trên thế giới mà Việt Nam có thể huy động được cho
132
phát triển TTCNC. Nó không chỉ là những công nghệ hiện đại có được thông
qua con đường hợp tác và CGCN mà còn bao gồm cả các yếu tố khác như vốn
đầu tư, nguồn nhân lực, kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý….
Tuy nhiên, muốn sử dụng nguồn ngoại lực có hiệu quả thì phải phát huy
nội lực của đất nước. Chính nội lực mới là nhân tố quyết định đến khả năng huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực. Trong đó, chủ yếu nhất là vai
trò quan trọng của Nhà nước trong định hướng điều hành quản lý TTCNC, nguồn
nhân lực KHCN chất lượng cao và nguồn nhân lực trên các lĩnh vực khác,...
Không có hoặc thiếu nguồn nội lực mạnh thì chỉ tiếp nhận được những nguồn
ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là “rác thải công nghệ” của các nước khác.
Quán triệt quan điểm này cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Một là, giữ vững quan điểm nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng.
Đây là vấn đề trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình phát
triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Có khai thác và phát huy tốt nội lực thì
mới có cơ sở để thu hút được ngoại lực và sử dụng chúng có hiệu quả. Nội
lực càng mạnh thì càng bảo đảm được tính độc lập, tự chủ về KHCN, nâng
cao được năng lực KHCN CNC nội sinh từ đó hạn chế được nguy cơ lệ
thuộc vào công nghệ nước ngoài. Đồng thời, nhờ thu hút được nguồn ngoại
lực thì Việt Nam có thể rút ngắn được khoảng cách chênh lệch về trình độ
công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, học tập được những
kinh nghiệm quý giá trong quá trình phát triển TTCN từ các phương thức,
cách thức quản lý, điều hành, vận hành thị trường… của các nước tiên tiến
trên thế giới. Điều này sẽ giúp cho quá trình hình thành và phát triển TTCNC
của nước ta sẽ nhanh hơn, không phải mò mẫm, tìm tòi, thử nghiệm nhất là
đối với các lĩnh vực công nghệ mới.
Trong phát huy nội lực, quan trọng nhất là cần tập trung khai thác
phát huy thế mạnh và tiềm năng lớn của các tổ chức KHCN, các trường đại
học, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KHCN, cùng với
nguồn nhân lực KHCN tương đối hùng hậu của các tổ chức KHCN quốc
133
gia đứng chân trên địa bàn cả nước, nhất là ở Thành phố Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh; huy động các nguồn lực từ trong dân, các doanh nghiệp,
các nhà đầu tư cho thực hiện các nhiệm vụ KHCN và phát triển TTCNC
trong giai đoạn hiện nay.
Trong khai thác ngoại lực cần chú ý đẩy mạnh hoạt động hợp tác về KHCN
với các nước có trình độ công nghệ hiện đại và TTCN phát triển như Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Ixraen…. Thực hiện hợp tác toàn diện cả trong đào tạo nguồn nhân lực
KHCN, trong NCKH và trong chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, trong
chuyển giao quy trình quản lý, phương thức, cách thức phát triển TTCN.
Hai là, có cơ chế chính sách phù hợp, kết hợp đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động KHCN trong phát triển
TTCNC ở nước ta hiện nay.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, tạo môi trường
thông thoáng, minh bạch bình đẳng giữa đầu tư trong nước và nước ngoài,
giữa tư nhân với nhà nước. Đồng thời, mở rộng liên kết hợp tác với các địa
phương trong nước, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các đối
tác chiến lược, các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia và các tổ chức
quốc tế có năng lực, uy tín trong phát triển TTCN, để tăng cường các nguồn
lực, mở rộng thị trường chia sẻ kinh nghiệm, CGCN, phối hợp đào tạo nguồn
nhân lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, hiện nay nguồn kinh phí đầu tư cho KHCN nói chung và phát
triển TTCNC nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, để phát huy nội lực thì hoạt động
đầu tư cho CNC cần có trong tâm, trọng điểm, tập trung vào một số lĩnh vực
CNC mũi nhọn, then chốt như: công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin;
Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ tự động hóa. Đồng
thời, có cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, CGCN và đầu tư cho phát triển
KHCN làm nền tảng cho phát triển TTCNC giai đoạn tiếp theo.
134
4.2. Giải pháp phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến
năm 2030
4.2.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển thị trường công nghệ
cao ở Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển TTCNC trong thời gian qua kinh nghiệm của
nhiều quốc gia và cho thấy, để phát triển TTCNC, việc hoàn thiện hệ thống
thể chế, chính sách là vô cùng cần thiết và quan trọng, đây chính là cơ sở, là
nền tảng pháp lý cho TTCNC phát triển. Đối với Việt Nam TTCNC đang trong
quá trình phát triển, đồng thời chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố đối với quá
trình phát triển của thị trường này như áp lực của cuộc cách mạng 4.0, áp lực của
HNKTQT trong điều kiện mới và nhất là chịu sự tác động của các quy luật kinh
tế trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa,… Do vậy để TTCNC phát
triển nhanh, bền vững trong thời gian tới, cần có sự can thiệp của Nhà nước
thông qua hệ thống cơ chế, chính sách về TTCNC. Để thực hiện tốt giải pháp
này cần hoàn thiện thể chế chính sách theo các nội dung chính như sau:
4.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ, CGCN và
cạnh tranh.
Để thực hiện được việc này, chúng ta phải rà soát lại hệ thống văn bản
pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh nhằm khắc phục ngay
những quy định không thống nhất trong các văn bản, xoá bỏ những bất cập và
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách này, đặc biệt là các văn bản
quy định các nội dung chi tiết như các nghị định, thông tư về SHTT, CGCN
và cạnh tranh nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCNC và phù hợp với các
cam kết của Việt Nam trong các định chế quốc tế và khu vực.
Việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, chính sách này
phải hướng vào việc tạo ra môi trường thuận lợi cho TTCNC phát triển theo
các nguyên tắc, quy luật của thị trường, tạo điều kiện cho các quan hệ thị
trường phát triển và đảm bảo các yêu cầu sau. (1) Không làm ảnh hưởng lớn
trên TTCNC; (2) Phải phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và hoàn
135
cảnh cụ thể của đất nước; (3) Phải tính toán, vận dụng uyển chuyển các
nguyên tắc trong các hiệp định quốc tế để đảm bảo lợi ích của xã hội, nhà
nước và các chủ thể trên TTCNC.
Trên cơ sở nguyên tắc như vậy, việc hoàn thiện, điều chỉnh bổ sung hệ
thống văn bản pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, đối với luật pháp, chính sách về SHTT trước hết cần được bổ
sung, hoàn thiện theo hướng đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tăng cường các công
cụ, chế tài để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền SHTT, sau đó sẽ được
hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài
trong việc đầu tư và CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích các
doanh nghiệp trong nước đầu tư cho phát triển KHCN. Việc hoàn thiện luật
pháp, chính sách về SHTT được thực hiện thông qua các nội dung sau:
Xây dựng các quy định mới về bảo hộ và thực thi quyền SHTT đối với
các loại hàng hoá CNC mới xuất hiện trên thị trường như các hàng hoá CNC
liên quan tới môi trường kỹ thuật số, internet, tự động hóa,…
Nâng mức xử phạt và tạo ra cơ chế xử phạt bằng kinh tế sao cho lợi ích
từ việc vi phạm SHTT phải luôn thấp hơn mức phạt của các cơ quan chức
năng đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm quyền SHTT.
Bổ sung, ban hành kịp thời một số văn bản dưới luật như các thông tư,
nghị định để hướng dẫn thi hành luật SHTT như thông tư hướng dẫn xử lý vi
phạm trong lĩnh vực SHTT, thông tư hướng dẫn, quy định về quyền tác giả và
quyền liên quan và các văn bản liên quan khác.
Thứ hai, đối với luật pháp, chính sách về CGCN cần được xây dựng,
hoàn thiện theo hướng bảo đảm nội dung đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng nhằm
thúc đẩy chuyển giao hàng hoá CNC. Luật pháp và chính sách CGCN cần bổ sung
các quy định mới đối với một số nội dung còn thiếu như các nội dung về định giá
công nghệ, các tổ chức trung gian môi giới công nghệ và chợ công nghệ, thiết bị,
sàn giao dịch công nghệ. Bổ sung thêm chính sách khuyến khích ưu đãi đối với
các đối tượng tham gia dịch vụ CGCN, chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công
136
tác quản lý trong lĩnh vực KHCN. Tiếp đến, hoàn thiện các văn bản, chính sách
hướng dẫn thực hiện công tác quản lý nhà nước về CGCN trong các lĩnh vực.
Hoàn thiện và cập nhật cho phù hợp với thực tế hệ thống danh mục các công nghệ
ưu tiên chuyển giao, công nghệ được miễn, giảm thuế khi chuyển giao, công nghệ
trong nước chưa sản xuất dược miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu.
Thứ ba, hệ thống luật pháp và chính sách về cạnh tranh cần được hoàn
thiện và bổ sung theo hướng xây dựng một môi trường cạnh tranh thống nhất,
lành mạnh, bình đẳng, đồng bộ đối với các chủ thể trên TTCNC, bao gồm cả
chủ thể nước ngoài
Môi trường cạnh tranh đó phải hướng tới việc tạo điều kiện cho tự do
nghiên cứu, trao đổi, lưu thông hàng hoá trên TTCNC và đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ thể trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh
trên thị trường. Một môi trường thống nhất, thông thoáng, cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng sẽ giúp cho kiểm soát độc quyền, xóa bỏ bao cấp, đặc quyền,
đặc lợi, từ đó tạo ra sức ép đổi mới công nghệ và ứng dụng tiến bộ KHCN của
các doanh nghiệp. Để thực hiện điều này, trước mắt, cần đẩy mạnh việc thực
hiện Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các văn bản hướng
dẫn thực hiện các luật này. Bên cạnh đó, luật pháp, chính sách về cạnh tranh
có mối liên hệ với nhiều luật pháp, chính sách khác như SHTT, CGCN,... Vì
vậy, cần thiết phải hình thành một cơ chế phối hợp và thông tin thường xuyên
trong quá trình thực thi luật pháp và chính sách về cạnh tranh.
4.2.1.2. Hoàn thiện chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát
triển thị trường công nghệ cao
Trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư từ NSNN cho phát triển
TTCNC, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đầu tư vào phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển các tổ chức trung gian và thúc đẩy nhu cầu đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp. Nâng tỷ lệ chi cho KHCN ở nước ta từ
NSNN hàng năm trong những năm tới lên mức 2,5 - 3 % tổng chi ngân sách,
tương ứng với 1% GDP [12].
137
Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ NSNN, cần phải: (1) Thực
hiện việc phân bổ và cấp kinh phí ngân sách nhà nước theo cơ chế khoán, cơ
chế đấu thầu tuyển chọn và từ nhu cầu thực tiễn; (2) Thực hiện việc đánh giá
và quản lý các dự án KHCN được đầu tư từ nguồn NSNN theo kết quả sản
phẩm đầu ra trên cơ sở kinh phí, nhiệm vụ được giao; (3) Hoàn thiện lại hệ
thống các cơ quan quản lý, phân bổ NSNN về KHCN theo hướng tinh gọn,
hợp lý và hiệu quả; (4) Từng bước xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước đổi
với một số hoạt động nghiên cứu ứng dụng; (5) Giao quyền tự chủ về tài
chính cho các tổ chức KHCN và khuyến khích các tổ chức này thực hiện cơ
chế tự trang trải kinh phí, theo mô hình doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong điều kiện HNKTQT, nhà nước cần phải tạo điều kiện
cho các tổ chức, nhà khoa học nước ngoài tham gia giải quyết các nhiệm vụ
KHCN của nhà nước. Nhà nước chỉ giao cho các tổ chức KHCN CNC, các
nhà khoa học trong nước thực hiện các đề tài, dự án phục vụ trực tiếp trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách lớn
của Đảng, Nhà nước. Đối với những nhiệm vụ KHCN khác do nhà nước đặt
hàng, nên tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức, nhà khoa học
nước ngoài tham gia đấu thầu cạnh tranh để thực hiện nhiệm vụ đó. Điều này
sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KHCN của nhà
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình.
4.2.1.3. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế linh hoạt để thúc đẩy sự phát
triển của thị trường công nghệ cao
Thực hiện việc miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư vào các hoạt động đổi mới công nghệ như: sản xuất thử nghiệm, sản xuất
sản phẩm mới, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ. Miễn thuế cho
các hoạt động trung gian, môi giới trên TTCNC như: triển lãm, giới thiệu sản
phẩm mới, hội chợ công nghệ, thiết bị. Miễn giảm tiền thuê đất để làm nơi
nghiên cứu, sản xuất sản phẩm mới cho các doanh nghiệp và tổ chức KHCN.
Cho phép để lại phần lãi thu nhập trước thuế của doanh nghiệp để đầu tư vào
138
các dự án phát triển công nghệ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Miễn, giảm
thuế nhập khẩu các thiết bị phục vụ hoạt động KHCN và các thiết bị tiên tiến, CNC.
Tránh tình trạng lợi dụng chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước
nhằm duy trì độc quyền, không thay đổi tư duy mới phù hợp với điều kiện thực tiễn,
CGCN hiện đại của nhiều doanh nghiệp, chính sách thuế nhập khẩu cần phải linh
hoạt, đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tránh bảo hộ tràn lan.
Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí đối với việc thành
lập mới các doanh nghiệp KHCN hoặc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang cơ
chế doanh nghiệp. Đánh thuế môi trường và có các chế tài nghiêm khắc đối
với các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm để buộc họ phải đổi
mới và sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, không gây ô nhiễm. Đảm bảo và
tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường KHCN tiếp cận được các
nguồn vốn tín dụng vởỉ lãi suất thấp.
Ở nước ta, nguồn vốn tín dụng sẽ là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy
phát triển TTCNC. Nguồn vốn này hướng vào việc phục vụ các chủ thể đi
tiên phong trong R&D công nghệ với các tiêu chí như: lượng vốn và thời gian
vay hợp lý, lãi suất ưu đãi và thủ tục vay gọn nhẹ. Để làm được điều này, cần
chú trọng các nội dung sau:
Đơn giản hoá các điều kiện vay vốn triển khai các dự án KHCN. Để
được vay vốn, thông thường phải có tài sản thế chấp hoặc phải có sự bảo lãnh
của tổ chức có uy tín. Đối với các tổ chức KHCN ở nước ta thì hình thức bảo
lãnh là phù hợp nhất. Đối tượng đứng ra bảo lãnh có thể là cơ quan chủ quản
hoặc là tổ chức thụ hưởng kết quả nghiên cứu khoa học.
Thẩm định hồ sơ vay vốn cần xem xét tới tính đặc thù của hoạt động
KHCN, đây là hoạt động nghiên cứu sản xuất thử và thực nghiệm nên khó
tính toán lỗ lãi và có nhiều rủi ro, do vậy việc thẩm định hồ sơ vay cần có cơ
chế riêng, đặc thù cho các hoạt động KHCN.
Tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể tham gia TTCNC tiếp cận với quỹ
phát triển KHCN. Hiện nay, Chính phủ đã thành lập Quỹ phát triển KHCN quốc
139
gia. Tuy nhiên, để phát huy chức năng, vai trò của quỹ này, trong thời gian tới
cần hoàn thiện mô hình quỹ, nâng cao tiềm lực tài chính của quỹ.
Thành lập hệ thống tổ chức tín dụng riêng, đặc thù nhằm mục đích hỗ
trợ các hoạt động KHCN. Trong điều kiện hiện nay, khi các tổ chức tín dụng
hoạt dộng theo cơ chế thị trường, việc vay vốn với lãi suất ưu đãi khó có thể
thực hiện được nếu không có hệ thống tín dụng phát triển KHCN riêng. Vì
vậy cần có một hệ thống tổ chức tín dụng hỗ trợ phát triển KHCN dưới dạng
một ngân hàng đặc biệt để cho các dự án KHCN vay với lãi suất ưu đãi.
4.2.1.4. Hoàn thiện chính sách nhập khẩu công nghệ, nhất là công nghệ
cao từ nước ngoài vào Việt Nam.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện
nay, vấn đề tiếp cận các công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một nội dung rất
quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhằm
khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và hạn chế những công
nghệ cũ, lạc hậu từ nước ngoài vào Việt Nam, nhà nước cần có quy định về
thẩm định các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam nhằm tăng cường
công tác kiểm tra chất lượng công nghệ thông qua các nội dung như: xác định
rõ những tiêu chuẩn, những giới hạn nhất định đối với các công nghệ được
chuyển giao; thực hiện sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ được
chuyển giao; tổ chức nắm bắt thông tin về năng lực công nghệ, trình độ công
nghệ của các quốc gia, tập đoàn quốc tế...
Để khuyến khích việc đầu tư, chuyển giao các CNC vào Việt Nam nhà
nước phải kịp thời sửa đổi những quy định không phù hợp liên quan đến hoạt
động CGCN cao, hoàn thiện cơ chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào các ngành CNC theo hướng: (1) đưa ra các biện pháp ưu đãi lớn cho đầu
tư vào ngành CNC, các ưu đãi này phải mang tính cạnh tranh so với các nước
trong khu vực; (2) Thực hiện tổt việc bảo hộ quyền SHTT nhằm giúp các đối
tác nước ngoài yên tâm khi đầu tư vào vào ngành CNC ở Việt Nam.
140
Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư và CGCN theo hướng từ hoạt động
xúc tiến chung theo thị trường sang xúc tiến theo địa chỉ nhằm thu hút trực
tiếp các nhà đầu tư nước ngoài có trình độ CNC vào Việt Nam đầu tư. Ngoài
ra, các cơ quan nhà nước cần chủ động tìm hiểu, đặt quan hệ và tiếp cận với
các chủ thể có năng lực KHCN phát triển, trình độ cao trên thế giới và khuyến
khích họ đầu tư hoặc liên kết với các chủ thể trong nước.
4.2.2. Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ hàng hóa công nghệ
cao trên thị trường công nghệ cao
Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC là giải pháp hết sức
quan trọng trong phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay. Nguồn cung sản
phẩm, dịch vụ CNC hiện nay bao gồm các chủ thể cung trong nước và cung
ngoài nước. Cung sản phẩm, dịch vụ CNC là một trong những yếu tố cơ bản
cấu thành TTCNC. Qua quá trình đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở
Việt Nam thời gian qua cho thấy chất lượng và số lượng sản phẩm và dịch vụ
CNC còn nhiều hạn chế, tuy có sự gia tăng nhưng không ổn định … Những
hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có hình
thành và phát triển các doanh nghiệp KHCN chưa cao, các hoạt động của quỹ
đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn cho các dự án KHCN chưa nhiều và chưa hiệu
quả; số tổ chức KHCN đạt chuẩn quốc tế còn ít … Do vậy, cần phải có những
giải pháp để khắc phục hạn chế trên, góp phần phát triển TTCNC ở Việt Nam
thời gian tới. Các biện pháp cần thực hiện bao gồm:
4.2.2.1. Thúc đẩy việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa
học công nghệ
Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp KHCN được hình thành từ hai
nguồn chính là chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập thành doanh nghiệp
và hình thành các doanh nghiệp KHCN mới trên cơ sở các kết quả nghiên cứu
mới. Trong thời gian tới, giải pháp để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp
KHCN như sau:
141
Thứ nhất, khắc phục những bất cập trong việc chuyển đổi các tổ chức
KHCN công lập sang mô hình doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập
sang mô hình doanh nghiệp còn chậm và có nhiều bất cập nảy sinh, do vậy để
thúc đẩy quá trình chuyển đổi này, cần phải khắc phục các vấn đề như sau:
Xác định rõ quyền sở hữu các văn bằng bảo hộ, sáng chế trong đơn vị
sự nghiệp KHCN công lập khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp. Các văn
bằng bảo hộ, sáng chế của đơn vị sự nghiệp KHCN công lập có nhiều chủ sở
hữu khác nhau như nhà nước, tổ chức KHCN hay của cá nhân nhà khoa học. Khi
chuyển sang mô hình doanh nghiệp, giá trị các văn bằng thuộc sở hữu nhà nước
và sở hữu chung của tổ chức KHCN rất khó xác định là thuộc về ai, do vậy cản
trở cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang mô hình doanh nghiệp. Trong
bối cảnh hiện nay, nên quy định các văn bằng, sáng chế thuộc sở hữu nhà nước
và sở hữu chung của các tổ chức KHCN khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp
là sở hữu của nhà khoa học tạo ra các sáng chế đó nhưng nhà khoa học phải có
trách nhiệm nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền theo một tỷ lệ nhất định
khi thương mại hoá các văn bằng bảo hộ và sáng chế đó.
Xác định rõ quyền lợi của các nhà khoa học khi tổ chức KHCN mà họ
đang làm việc chuyển sang mô hình doanh nghiệp KHCN và sử dụng kết quả
nghiên cứu của họ. Khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp, các nhà khoa học
có thể là cổ đông hoặc là thành viên trong doanh nghiệp KHCN. Nếu các nhà
khoa học không có nhu cầu tham gia vào doanh nghiệp, doanh nghiệp KHCN
có thể trả tiền mua toàn bộ hoặc trả dần hàng năm giá trị kết quả nghiên cứu
sản phẩm KHCN. Đảm bảo những lợi ích cơ bản cho đội ngũ cán bộ của tổ
chức KHCN khi chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Khi chuyển đổi, chế
độ lương của dội ngũ cán bộ cũng sẽ được chuyển đổi sang thang bảng lương
của doanh nghiệp. Đây là vướng mắc lớn nếu như mức lương của đội ngũ cán
bộ thấp hơn mức lương cũ. Do vậy, cần phải tăng lương và có chính sách ưu
tiên về chế độ lương cho đội ngũ cán bộ của các tổ chức KHCN khi chuyển
đổi sang mô hình doanh nghiệp.
142
Thứ hai, thực hiện việc bồi dưỡng tinh thần doanh nhân nhằm khuyến
khích hoạt động kinh doanh của các nhà khoa học.
Để thúc đẩy việc hình thành các doanh nghiệp KHCN từ các nhà khoa
học, cần phải bồi dưỡng tinh thần kinh doanh nhằm giúp các nhà khoa học
khai thác và thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu KHCN của họ. Việc bồi
dưỡng tinh thần doanh nhân được thực hiện thông qua các khoá đào tạo, các
hội nghị, hội thảo trao đổi về tinh thần doanh nhân với các nội dung về quản
lý công nghệ, quản trị doanh nghiệp... để giúp họ có tinh thần và bước khởi
đầu tốt cho việc hình thành các doanh nghiệp KHCN.
Thứ ba, phát triển hình thức vườn ươm doanh nghiệp
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp KHCN
thì mô hình vườn ươm doanh nghiệp được xác định là phù hợp nhất. Vườn ươm
doanh nghiệp được xây dựng để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp thông
qua việc cung cấp các dịch vụ và các nguồn lực hỗ trợ như cơ sở vật chất, hạ tầng
kỹ thuật, tư vấn kỹ thuật, thủ tục pháp lý, hành chính... Mục tiêu chính của vườn
ươm doanh nghiệp là nhằm tạo ra các doanh nghiệp hoạt động thành công trên thị
trường sau khi rời khỏi vườn ươm. Đối với mô hình vườm ươm doanh nghiệp ở
nước ta trong thời gian tới, mô hình hợp lý nhất là mô hình có sự liên kết công - tư
theo hình thức doanh nghiệp. Mô hình này sẽ vừa nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của
nhà nước vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của khu vực tư nhân.
Để vườn ươm doanh nghiệp phát triển và có tính khả thi, trước hết các
vườn ươm này phải đảm bảo có được cơ sở vật chất hợp lý, đội ngũ nhân lực
thích hợp và có sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước như miễn giảm thuế cho doanh
nghiệp được ươm tạo, tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn tài chính, đơn
giản hoá các thủ tục hành chính,...
4.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn
cho các dự án khoa học công nghệ
Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trên TTCNC, giải pháp cơ
bản nhất là phát triển các hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm. Để phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm cần có các biện pháp như sau:
143
Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ cần có các quy định cụ thể hướng dẫn hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm như: phạm vi đầu tư mạo hiểm, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, quy chế thành lập và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Khi hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm đã phát triển, nhà nước cần tiến tới ban hành riêng một đạo luật về quỹ đầu tư mạo hiểm.
Hai là, hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước và
quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh.
Trong quá trình hoạt động ban đầu, quỹ đầu tư mạo hiểm cần có sự trợ giúp từ nhà nước, sau đó nguồn thu từ các khoản đầu tư của quỹ mạo hiểm sẽ tự bổ sung để quỹ phát triển. Quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước có thể hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như: các quỹ thuộc Trung ương quản lý, các quỹ địa phương, các quỹ trực thuộc các trường đại học. Mục đích của quỹ là hỗ trợ cho các dự án ươm tạo và đổi mới công nghệ trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và ở nhiều địa phương khác nhau. Để quỹ này hoạt động có hiệu quả, Chính phủ thuê các chuyên gia quản lý quỹ có kinh nghiệm và ràng buộc trách nhiệm như: cơ chế tiền lương, thưởng từ lợi nhuận của quỹ,... Hình thành các quỹ liên doanh trên cơ sở nhà nước góp vốn với các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín. Quỹ liên doanh này vừa có kinh nghiệm quản lý quỹ của các tổ chức tài chính quốc tế vừa có uy tín do sự bảo lãnh của Nhà nước. Vai trò của nhà nước đối với quỹ này là việc tạo dựng niềm tin và khuyến khích đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới, nhà nước không nên can thiệp sâu vào hoạt động cụ thể của quỹ liên doanh.
Khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm. Việc khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm gia tăng lượng vốn đầu tư mạo hiểm cho quỹ. Các ngân hàng sẽ cho quỹ đầu tư vốn mạo hiểm vay với các mức lãi suất ưu đãi và với cơ chế bảo đảm tiền vay.
Ba là, thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động đầu tư vốn
mạo hiểm.
Hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm thường tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy,
Chính phủ cần khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư vốn mạo hiểm
144
thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Chính sách thuế cũng cần ưu đãi đối
với phần thu nhập phát sinh của nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, nhằm thu hút
các nguồn vốn từ các cá nhân và nhà đầu tư.
4.2.2.3 Chủ động nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học công
nghệ, xây dựng một số tổ chức khoa học công nghệ đạt chuẩn quốc tế
Các tổ chức KHCN muốn phát triển thì nhiệm vụ trọng tâm là phải tự
đổi mới, nâng cao năng lực của mình để chủ động tham gia và thích ứng với
hoàn cảnh mới thông qua các giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân
lực KHCN theo chuẩn quốc tế.
Theo thống kê, nguồn nhân lực KH&CN thời gian qua phát triển cả về
số lượng và chất lượng với khoảng 67.000 cán bộ nghiên cứu (đạt 7
người/vạn dân); trong đó, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Đội ngũ nhân lực tăng nhanh là nhân tố quan trọng giúp hoạt động KH&CN
đóng góp đáng kể trong việc cải thiện chất lượng tăng trưởng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Việc đầu tư cho KH&CN những năm qua cũng có bước
tiến vượt bậc. Để cạnh tranh được trong bối cảnh các công nghệ phát triển
nhanh như hiện nay, nguồn nhân lực phải đáp ứng yêu cầu và tiêu chuẩn rất
cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhưng nguồn nhân lực của
nước ta theo các chuyên gia đánh giá vẫn còn một khoảng cách không nhỏ với
đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, việc đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực bậc cao ở những lĩnh vực then
chốt và lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh cần được quan tâm nhiều hơn.
Do đặc thù lao động của nhân lực KHCN là lao động sáng tạo, cần tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao, nên việc đổi mới cơ chế quản lý nguồn nhân
lực CNC trong các tổ chức KHCN công lập phải hướng vào việc phát huy
tính sáng tạo của đội ngũ này. Để thực hiện được việc này cần đổi mới cơ chế
quản lý nhân lực KHCN như sau:
Hàng năm tiến hành rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ hiện có
và quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ có năng lực chuyên môn, tâm huyết,
trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Chuyển đổi mô hình
145
quản lý nhân lực KHCN từ mô hình quản lý hành chính sang mô hình quản lý
theo sản phẩm đầu ra. Phương thức quản lý theo sản phẩm đầu ra dựa trên các
tiêu chí định lượng rõ ràng về sản phẩm đầu ra và trên sự tự giác, tự chịu trách
nhiệm. Lương và lợi ích của nhà khoa học được xác định trên cơ sở kết quả của
sản phẩm đầu ra, tránh được tình trạng cào bằng trong nghiên cứu khoa học.
Xây dựng môi trường làm việc thuận lợi cho nghiên cứu của các nhà
khoa học. Môi trường này phải đảm bảo nguyên tắc tự do tư tưởng, tự do sáng
tạo và phát triển.
Xây dựng văn hoá nghiên cứu, sáng tạo trong các tổ chức KHCN. Để
xây dựng được văn hoá này, bản thân các nhà lãnh đạo tổ chức KHCN là tấm
gương sáng về tinh thần nghiên cứu, sáng tạo, luôn tôn trọng và khích lệ kết
quả nghiên cứu, sáng tạo của các nhà khoa học, đồng thời lãnh đạo các tổ
chức KHCN đưa ra được tầm nhìn và tư duy chiến lược phát triển đơn vị
mình là phải dựa trên nghiên cứu, sáng tạo và làm cho mọi cán bộ trong tổ
chức hiểu và cam kết thực hiện tốt mục tiêu chiến lược của tổ chức KHCN.
Bên cạnh việc đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KHCN cũng cần phải
bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ này để tiếp cận tới trình độ quốc tế theo các nội
dung cụ thể sau đây:
Có chính sách đào tạo mới, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên
môn đáp ứng yêu cầu thực tiễn đối với đội ngũ cán bộ là chuyên gia, kỹ thuật
viên; từ đó hình thành được đội ngũ cán bộ nòng cốt có trình độ cao; các
chuyên gia, nhà khoa học giỏi và chính đội ngũ này sẽ là đầu tàu dẫn dắt,
định hướng phát triển lĩnh vực thị trường công nghệ theo kịp các nước trong
khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, đội
ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thị trường công nghệ cần có tác phong
làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo và trách nhiệm cao với nghê. Nêu các nhà
khoa học được quan tâm, đầu tư đào tạo bôi dưỡng và được trả lương tương
xứng với sự đóng góp sẽ là cơ sở quan trọng trong việc tạo nguồn cung công
nghệ cho thị trường công nghệ. Mặt khác, khi trình độ chuyên môn cao, họ sẽ
đóng góp đáng kể vào việc thâm định, đánh giá chât lượng và giá cả các sản
146
phẩm công nghệ trong quá trình CGCN vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là
các công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài.
Xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo lại cán bộ
KHCN ở nước ngoài, trong đó chú trọng việc đi đào tạo ở các nước có tiềm
lực CNC mạnh. Hình thức đào tạo là cử đi nghiên cứu, học tập hoặc là hợp
tác nghiên cứu với các viện, các trung tâm nghiên cứu quốc tế. Việc này sẽ
giúp cho đội ngũ cán bộ CNC của Việt Nam tiếp thu được những tri thức,
công nghệ của nước ngoài, làm quen với môi trường quốc tế và cải thiện
trình độ ngoại ngữ. Đối tượng đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ KHCN
đầu ngành, nhất là đội ngũ cán bộ KHCN thuộc các lĩnh vực CNC và đội
ngũ cán bộ trẻ có tiềm năng.
Thứ hai, nâng cao năng lực ứng dụng thực tiễn thông qua việc giao cho
các tổ chức KHCN quyền khai thác thương mại các sản phẩm CNC được nhà
nước tài trợ kinh phí.
Đối với những đề tài, dự án KHCN do nhà nước tài trợ kinh phí, thu
nhập được tạo ra từ việc chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu sẽ
giao cho đơn vị chủ trì và chủ nhiệm đê tài, dự án đó quản lý và tự phân
phối theo một tỷ lệ nhất định nhằm khuyến khích chuyển hoá kết quả
nghiên cứu CNC vào thực tiễn. Đối với những công nghệ do các nhà khoa
học tự thực hiện nhưng có sử dụng thiết bị, phòng thí nghiệm của tổ chức
KHCN thì toàn bộ thu nhập thu dược từ việc CGCN sẽ thuộc về nhà khoa
học và nhà khoa học sẽ trả phí sử dụng thiết bị, phòng thí nghiệm của tổ
chức KHCN.
Hiện nay, các tổ chức CNC ở Việt Nam chủ yếu là các tổ chức KHCN
công lập với bất cập lớn nhất là năng lực nghiên cứu KHCN còn có điểm hạn
chế chưa đáp ứng được yêu cầu HNKTQT, do vậy, để phát triển các tổ chức
KHCN nhà nước không nên đầu tư dàn trải mà tập trung đầu tư xây dựng mới
hoặc nâng cấp một số tổ chức KHCN hiện có thành những tổ chức nghiên cứu
trọng điểm, đạt trình độ quốc tế để làm đầu tàu trong việc HNKTQT. Tổ chức
KHCN trình độ quốc tế được xây dựng trên các nội dung như sau:
147
Một là, nguồn đầu tư và kinh phí xây dựng. Vì tổ chức KHCN đạt trình
độ quốc tế cần có yêu cầu cao về nhân lực, cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm
nên kinh phí dầu tư cho các tổ chức này là rất lớn, lâu dài và có độ rủi ro nhất
định. Do vậy, nguồn kinh phí để đầu tư cho các tổ chức này nên được đa dạng
hoá, trước mắt là từ nguồn ngân sách nhà nước và các khoản vay do nhà nước
bảo lãnh. Bên cạnh đó, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư từ khu
vực doanh nghiệp và khu vực tư nhân, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Hai là, hướng và lĩnh vực nghiên cứu các tổ chức KHCN tập trung vào
các ngành CNC, công nghệ mũi nhọn được nhà nước ưu tiên phát triển. Việc
lựa chọn hướng nghiên cứu sẽ căn cứ vào thế mạnh của tổ chức như về đội
ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị,... trong đó, quan trọng nhất là đội
ngũ các nhà khoa học đầu ngành, đạt chuẩn trình độ quốc tế.
Ba là, cơ cấu tổ chức, từng bước điều chỉnh cơ cấu tổ chức KHCN theo
hướng nhỏ gọn, trong đó nòng cốt là các nhóm nghiên cứu trình độ quốc tế.
Trưởng nhóm nghiên cứu được toàn quyền trong việc lựa chọn đề tài nghiên
cứu và thành viên của nhóm. Các nhà khoa học gắn kết với tổ chức thông qua
các hợp đồng lao động có thời hạn nhất định.
4.2.3. Tạo lập và thúc đẩy nhu cầu sản phẩm, dịch vụ hàng hóa công
nghệ cao trên thị trường công nghệ cao
Cầu về sản phẩm, dịch vụ hàng hóa CNC là toàn bộ nhu cầu về sản
phẩm, dịch vụ CNC của các chủ thể trong nền kinh tế. Trên TTCN, người có
nhu cầu sử dụng công nghệ cũng hết sức phong phú, đa dạng. Họ có thể là
Nhà nước, các cá nhân, DN hoặc các tổ chức KHCN hoặc các tổ chức tư nhân
trong nước và nước ngoài. Nhu cầu này được biểu hiện bao gồm cả số lượng
và chất lượng, cơ cấu sản phẩm, dịch vụ CNC. Để phát triển TTCNC thì một
trong những giải pháp cơ bản là thực hiện tốt việc tạo lập và thúc đẩy nhu cầu
sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường. Trong thời gian qua, nguồn cung trên
TTCNC ở nước ta đang có xu hướng tăng đều qua các năm, góp phần nâng
cao chất lượng phát triển sản phẩm và dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị
trường. Tuy nhiên, nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC của các chủ thể như
148
Nhà nước, các tổ chức KHCN và các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đáp
ứng được mức tăng nhanh chóng của nguồn cung hàng hóa này. Do vậy, thúc
đẩy nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường là một trong những giải
pháp cơ bản, quan trọng để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Để thực
hiện giải pháp này cần thực hiện tốt các nội dung cơ bản như sau:
4.2.3.1. Nâng cao khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, xây dựng mục tiêu phát triển và chiến lược kinh doanh dài
hạn dựa trên đổi mới công nghệ.
Trong xu thế cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, muốn tồn tại và
phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam phải đưa mục tiêu đổi mới công nghệ
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tham gia chuỗi giá trị của mạng
lưới sản xuất quốc tế vào chiến lược kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp.
Để chiến lược này mang tính khả thi, doanh nghiệp phải nắm bắt được
các xu hướng phát triển CNC liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình,
hiểu kỹ môi trường kinh doanh và nắm bắt được xu thế vận động của TTCNC
trong nước cũng như quốc tế, đồng thời phải nắm rõ thực trạng năng lực cạnh
tranh của mình như năng lực vốn, năng lực công nghệ, đội ngũ nhân lực...
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp theo
chuẩn quốc tế
Đối với Việt Nam, nguồn lực KH&CN nói chung và thị trường công
nghệ nói riêng vừa yếu vừa thiếu, thực sự chưa quan tâm cho nhân tố con
người: Vì thế, trong thời gian tới cần tập trung đầu tư nâng cao chất lượng
đội ngũ nguồn nhân lực cho thị trường công nghệ theo hướng đảm bảo cả vê
chât và về lượng ở các vị trí công tác đảm nhiệm, đội ngũ cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực thị trường công nghệ cần có am hiểu sâu về KH&CN.
Để phát huy lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT, trước hết
doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò của việc nâng cao chất lượng đội ngũ
nhân lực theo chuẩn quốc tế để từ đó có biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng thích
hợp. Để thực hiện việc này, doanh nghiệp cần phải:
149
Có chiến lược và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý
cho doanh nghiệp trong bối cảnh HNKTQT. Chiến lược và kế hoạch này phải
gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
Có khoản đầu tư thích đáng cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực.
Tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo để đặt hàng và chủ động xây dựng
các chương trình đào tạo về quản lý công nghệ, về HNKTQT cho phù hợp với
yêu cầu của doanh nghiệp. Tranh thủ các khoản hỗ trợ của nhà nước trong
việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực của doanh nghiệp. Thông báo sớm về nhu
cầu nhân lực cần được đào tạo, nhu cầu tuyển dụng cho các cơ sở đào tạo để
họ có kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Có chính sách giữ chân và thu hút đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên
môn kỹ thuật giỏi một cách hợp lý thông qua chính sách lương, thưởng, đãi
ngộ và chính sách phát triển. Để thu hút và giữ chân đội ngũ này, doanh
nghiệp nên chú trọng việc tạo cơ hội học tập, phát triển, tạo ra môi trường cho
đội ngũ này ứng dụng những điều đã học vào nơi làm việc và tạo con đường
phát triển nghề nghiệp cho họ lâu dài. Đồng thời doanh nghiệp cũng nên có
chính sách thoả đáng trong việc thưởng về vật chất và tinh thần để khuyến
khích và thu hút đội ngũ nhân lực giỏi về làm việc cho doanh nghiệp.
Thứ ba, thường xuyên nắm bắt thông tin về thị trường KHCN khu vực
và thế giới, chú trọng việc sử dụng công tác tư vấn CGCN từ bên ngoài
Trong bối cảnh HNKTQT, doanh nghiệp có rất nhiều cơ hội để lựa
chọn công nghệ từ bên ngoài, đặc biệt là từ các đổi tác nước ngoài. Do vậy, để
tận dụng những cơ hội tốt do quá trình HNKTQT mang lại, doanh nghiệp phải
thường xuyên nắm bắt thông tin về công nghệ có liên quan đến lĩnh vực hoạt
động của mình trong khu vực và trên thế giới. Việc nắm bắt này sẽ giúp
doanh nghiệp chủ động nắm được tình hình phát triển công nghệ để nhận biết,
đánh giá, lựa chọn công nghệ phù hợp nhằm đầu tư có hiệu quả, đáp ứng được
tốt nhất những yêu cầu của doanh nghiệp khi có nhu cầu đổi mới công nghệ.
150
Việc nắm bắt các thông tin sẽ do doanh nghiệp tự thực hiện hoặc thông
qua sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian, môi giới, các trung tâm thông tin
công nghệ, trung tâm xúc tiến thương mại của nhà nước như các hình thức
tham gia hội chợ, triển lãm công nghệ, thiết bị, cử đoàn cán bộ đi khảo sát,
nghiên cứu ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, do hạn chế
về năng lực, đặc biệt là do sự biến động khó lường của thị trường KHCN khu
vực và thế giới nên doanh nghiệp rất khó có khả năng lựa chọn được phương
án CGCN tối ưu. Do vậy, doanh nghiệp không nên tự mình lựa chọn mà nên
sử dụng các tổ chức trung gian, môi giới hoặc là chuyên gia tư vấn CGCN,
các tổ chức này sẽ giúp doanh nghiệp theo dõi xu hướng phát triển và tình
hình liên quan đến công nghệ để giúp doanh nghiệp tìm được công nghệ thích
hợp và hiệu quả nhất, tránh được các rủi ro có thể gặp phải.
Thứ tư, nâng cao khả năng tiếp cận đến các nguồn vốn đổi mới công
nghệ của các tổ chức tín dụng.
Để đổi mới công nghệ doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng tiếp
cận đến các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp cần lưu ý những vấn đề sau:
Tăng cường tính khả thi, hiệu quả của dự án đổi mới công nghệ và nâng
cao trình độ đội ngũ cán bộ xây dựng dự án. Chú trọng các hoạt động dịch vụ
tư vấn xây dựng dự án, đặc biệt là tư vấn của ngân hàng. Các dự án và
phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả là cơ sở quan trọng cho quyết định
vay vốn của ngân hàng, đồng thời, doanh nghiệp nên sử dụng tư vấn của ngân
hàng, vì điều này tạo cơ hội cho các ngân hàng tìm hiểu các nguồn thông tin
thực tế của doanh nghiệp, từ đó dễ đưa ra các quyết định cho vay vốn.
Nâng cao chất lượng thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp cần quan tâm xây dựng hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ hiệu
quả, tổ chức hệ thống thông tin trung thực, khách quan và minh bạch, từ đó
giúp cho các tổ chức tín dụng dễ dàng thẩm định năng lực của doanh nghiệp
để cho vay vốn.
151
Sử dụng vốn vay ngân hàng hiệu quả, đúng mục đích, đối tượng, phối
hợp với các tổ chức tín dụng để tuân thủ nghiêm ngặt các chế tài về tín dụng
trước, trong và sau khi vay vốn.
4.2.3.2. Thúc đẩy nhu cầu và nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm
chủ và áp dụng công nghệ cao của các doanh nghiệp
Triển khai thực hiện cơ chế đối tác công tư, liên kết tổ chức KHCN với
doanh nghiệp để thúc đẩy CGCN và thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản
xuất kinh doanh. Hỗ trợ các các doanh nghiệp có điều kiện thành lập tổ chức R&D.
Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết với
doanh nghiệp trong nước trong chuỗi cung ứng sản phẩm và các tổ chức
KHCN công lập thực hiện việc tìm kiếm, lựa chọn và khai thác công nghệ khi
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc
ngành công nghiệp hỗ trợ nhập khẩu li xăng và bí quyết công nghệ để nhanh
chóng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo.
Lồng ghép các nhu cầu của thị trường KHCN trong việc triển khai thực
hiện các chương trình KHCN quốc gia để tăng nhanh số lượng sản phẩm, sản
phẩm, dịch vụ CNC sản xuất trong nước được giao dịch trên TTCNC.
Tăng cường các dịch vụ tư vấn hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xác
định nhu cầu, tìm kiếm, lựa chọn, thương thảo, ký kết hợp đồng CGCN từ các
nguồn trong nước và nước ngoài.
Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các rào cản kỹ thuật và chính
sách bảo hộ thương mại tại các thị trường có liên quan đến hàng hoá, dịch vụ
của Việt Nam.
4.2.3.3. Tăng cường nhu cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao từ phía
Nhà nước và nhu cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao từ phía cá nhân
Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân
sách nhà nước để trực tiếp triển khai hoặc là tài trợ cho các chủ thể khác triển
khai thực hiện các hoạt động KHCN
Nhà nước cần hàng hóa công nghệ để vận hành bộ máy Nhà nước được
hiệu quả; cung cấp ưu đãi hoặc miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng chính sách,
hoặc cho toàn bộ cộng đồng; giải quyết những vấn đề công ích phát sinh từ đời
152
sống, có ý nghĩa chiến lược, xã hội quan trọng. Cũng như doanh nghiệp, để đáp
ứng nhu cầu đối với hàng hóa KHCN của mình, Nhà nước có thể chọn giải pháp
thị trường, tức là mua sản phẩm KHCN có sẵn, hoặc thuê dịch vụ KHCN để có
được kết quả mong muốn. Mặc khác, Nhà nước có thể chọn giải pháp phi thị
trường như tự tổ chức nghiên cứu để cung cấp hàng hóa KHCN mong muốn, cho
tới nay tự làm vẫn là chủ yếu, nhưng xu thế chuyển sang thị trường đã bắt đầu
xuất hiện, đây là yếu tố quan trọng để phát triển thị trường KHCN.
Việc sử dụng nguồn kinh phí này trên cơ sở các mục tiêu, định hướng
và quy hoạch chiến lược của Nhà nước. Do vậy, việc đánh giá cầu sản phẩm,
dịch vụ CNC của nhà nước được đánh giá thông qua tính hiệu quả trong đầu
tư vốn từ ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN
Nhu cầu của cá nhân đối với tri thức KHCN cũng rất lớn. Cá nhân có
thể thỏa mãn nhu cầu này thông qua việc đọc, nghe, hoặc xem các ấn phẩm
KHCN thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cá nhân cũng có thể tham
gia các lớp học bồi dưỡng kiến thức chính thức cũng như không chính thức,
hoặc tìm kiếm tư vấn từ các tổ chức, cá nhân thích hợp. Có thể nói thị trường
hàng hóa công nghệ phục vụ nhu cầu cá nhân là rất lớn và ngày càng phát
triển. Khác với doanh nghiệp và Nhà nước, việc đáp ứng nhu cầu tri thức
KHCN của cá nhân thông qua đọc, nghe, hoặc xem các ấn phẩm KHCN
thường phải thông qua các trung gian, do đó vấn đề bản quyền tác giả là quan
trọng để đáp ứng nhu cầu về hàng hóa KHCN từ phía cá nhân.
4.2.4. Đẩy mạnh phát triển các tổ chức trung gian môi giới trên thị
trường công nghệ cao
Hình thành và phát triển tổ chức trung gian của TTCNC có vai trò đầu
mối trong mạng lưới và cung cấp các dịch vụ công có tính hệ thống, hỗ trợ
hiệu quả cho các tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ môi giới có giá trị
gia tăng cao cho các doanh nghiệp. Chuyên nghiệp hóa các hoạt động của tổ
chức trung gian của TTCNC đang hoạt động, nâng cao hiệu quả của các hoạt
động dịch vụ hỗ trợ, kết nối cung - cầu công nghệ, đáp ứng yêu cầu giảm
thiểu chi phí giao dịch và minh bạch các thông tin về hàng hóa và dịch vụ
153
được giao dịch mua bán trên TTCNC. Hình thành và phát triển mạng lưới các
tổ chức trung gian TTCNC đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, phát
huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng và nhà đầu tư trong việc tìm kiếm,
lựa chọn, giao dịch và ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC.
Dịch vụ môi giới, trung gian đóng vai trò quan trọng trong việc thương
mại hóa kết quả nghiên cứu đối với hàng hóa công nghệ. Các dịch vụ trung gian
cơ bản của TTCN gồm: dịch vụ thông tin công nghệ; tư vấn về quản lý công nghệ
và CGCN; đánh giá, định giá tài sản công nghệ; dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng, quảng
cáo tiếp thị, môi giới; dịch vụ tài chính; dịch vụ SHTT,...Tuy nhiên, trong thời
gian qua, hệ thống các tổ chức trung gian, môi giới ở nước ta còn nhiều bất cập,
chưa đảm nhận đầy đủ vai trò gắn kết cung - cầu trên TTCNC, do vậy, trong thời
gian tới, để thực hiện tốt hơn kết nối cung cầu công nghệ góp phần phát triển
TTCNC, nhà nước cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây:
4.2.4.1. Hình thành các tổ chức trung gian, môi giới chuyên tư vấn về
hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế
Nhằm trợ giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tận dụng được cơ hội
trong bối cảnh HNKTQT, cần thiết phải hình thành một số tổ chức trung gian,
môi giới nhằm tư vấn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ các hoạt động hội nhập, giao
lưu quốc tế. Các tổ chức này có chức năng chính là làm cầu nối để hỗ trợ các chủ
thể Việt Nam tiếp xúc, giao lưu, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Trước mắt,
các tổ chức trung gian, môi giới này hoạt động theo cơ chế tự chịu trách nhiệm
về tài chính, có sự hỗ trợ kinh phí ban đầu từ nguồn ngân sách nhà nước.
4.2.4.2. Phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường công nghệ cao, tiếp
tục củng cố các tổ chức trung gian, môi giới hiện có và khuyến khích khu vực
tư nhân tham gia đầu tư phát triển các tổ chức trung gian, môi giới, đặc biệt
là đầu tư từ khu vực nước ngoài
Đầu tư, nâng cấp và phát triển sàn giao dịch công nghệ quốc gia, sàn
giao dịch công nghệ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số sàn
giao dịch công nghệ cấp vùng.
154
Liên kết các sàn giao dịch công nghệ quốc gia, các sàn giao dịch công
nghệ vùng và địa phương, phát triển mạng lưới các điểm kết nối cung cầu
trong cả nước về thị trường KHCN, thực hiện liên thông giữa thị trường
KHCN trong nước với thị trường quốc tế.
Xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu tích hợp, dùng chung về thị trường
KHCN, bao gồm các dữ liệu, thông tin về cung - cầu công nghệ, các kết quả
nghiên cứu, tài sản trí tuệ (sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế mạch tích
hợp), các tài liệu về đo lường, tiêu chuẩn, chất lượng, hàng rào kỹ thuật, công
cụ bảo hộ mậu dịch, các tổ chức trung gian, các chuyên gia tư vấn về thị
trường KHCN. Vận hành có hiệu quả cổng giao dịch công nghệ quốc gia liên
thông với các sàn giao dịch công nghệ trong nước và quốc tế.
Mặt khác, để hoàn thiện các tổ chức trung gian, môi giới hiện có, Nhà
nước cần cải tổ và củng cố những tổ chức đã có theo hướng chuyên môn hoá
vào một số lĩnh vực hiện nay chưa phát triển như lĩnh vực đánh giá, thẩm định
và giám định công nghệ. Đồng thời, nhà nước cần lựa chọn các tổ chức trung
gian, môi giới trọng điểm để có chính sách hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC.
Nhà nước cũng cần phải đẩy mạnh việc xã hội hoá các tổ chức trung gian,
môi giới, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đưa ra các ưu đãi về
tài chính và hỗ trợ về thủ tục nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế, kể
cả các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh vào hoạt động
cung cấp dịch vụ trung gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC.
4.2.4.3 Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về năng lực, phẩm chất
của các cá nhân, tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới.
Điều này xuất phát từ thực tế là trong bối cảnh thực tiễn, các doanh
nghiệp và các chủ thể trên TTCNC không muốn sử dụng dịch vụ tư vấn,
môi giới do không muốn chia sẻ thông tin và do hạn chế về trình độ, năng
lực của các tổ chức trung gian, môi giới. Do vậy nhà nước cần có các quy
định về trình độ chuyên môn và nguyên tắc đạo đức của đội ngũ tư vấn,
155
môi giới bằng việc cấp chứng chỉ hành nghề trung gian, tư vấn và đưa ra
ràng buộc pháp lý buộc các chuyên gia tư vấn phải tuân thủ nguyên tắc giữ
bí mật thông tin cho khách hàng.
4.2.4.4. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực
trung gian, môi giới khoa học công nghệ
Các tổ chức trung gian, môi giới cần phải chú trọng công tác phát triển đội
ngũ cán bộ, chuyên gia môi giới, bởi vì đây là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo
chất lượng tư vấn, môi giới. Các tổ chức trung gian, môi giới phải có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác trung
gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC, trong đó chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
ở nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế. Để phát triển đội ngũ này, nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung vào các vấn đề như
kỹ năng đàm phán, soạn thảo hợp đồng CGCN, những vấn đề pháp lý trong mua
bán hàng hoá CNC, phương pháp đánh giá và định giá công nghệ. Ngoài ra, các tổ
chức trung gian, môi giới cũng cần có biện pháp thu hút các nhà khoa học có trình
độ cao đã nghỉ hưu và có nhiều kinh nghiệm để tham gia vào các tổ chức này.
4.2.4.5. Hình thành những tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới riêng cho
một số đối tượng đặc thù và các hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới do
Nhà nước đỡ đầu.
Do các chủ thể khác nhau sẽ có những yêu cầu về dịch vụ CNC khác
nhau, do vậy, để đáp ứng được nhu cầu này, trong thời gian tới cần phải hình
thành các tổ chức trung gian, môi giới cho một số đối tượng đặc thù, trước hết
là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho lĩnh vực nông nghiệp.
Hiệp hội đại diện cho các tổ chức trung gian, môi giới trước cơ quan
quản lý nhà nước và công chúng, là nơi tập hợp các đề xuất, kiến nghị của tổ
chức trung gian, môi giới thành viên đối với nhà nước, đồng thời nhà nước
thông qua hiệp hội để có sự quản lý thống nhất, tập trung đối với các tổ chức
trung gian, môi giới này. Giúp cho việc bảo vệ các tổ chức thành viên trước
sức ép cạnh tranh từ các tổ chức trung gian, môi giới nước ngoài và giúp mở
rộng thị trường quốc tế cho các tồ chức trung gian, môi giới trong nước.
156
Hình thành hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới là một chiến lược
quan trọng trong bối cảnh HNKTQT. Hiệp hội sẽ kết hợp, liên kết các tổ chức
trung gian, môi giới lại với nhau để nâng cao vị thế các tổ chức trung gian,
môi giới. Hiệp hội sẽ giúp cho các tổ chức trung gian, môi giới thành viên các
nhiệm vụ sau đây như liên kết và kết nối các tổ chức trung gian, môi giới
thành một hệ thống gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi, cung cấp,
chia sẻ thông tin, hợp tác kinh doanh nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của chủ
thể trên TTCNC; Hỗ trợ cho các tổ chức trung gian môi giới nâng cao năng
lực cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
4.2.4.6. Thúc đẩy phát triển nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ
cao, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ tại
các doanh nghiệp và đẩy mạnh phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công
nghệ cao trên thị trường công nghệ cao
Hỗ trợ nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo, năng lực hấp thụ công
nghệ,lựa chọn công nghệ, hiểu biết pháp lý về chuyển giao, xuất nhập khẩu
công nghệ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu, tìm kiếm, lựa
chọn, thương thảo, ký kết hợp đồng CGCN từ các nguồn trong nước và nước
ngoài.Chú trọng vào các ngành hàng chiếm tỉ trọng cao.
Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các rào cản kỹ thuật và chính
sách bảo hộ thương mại tại các thị trường có liên quan đến hàng hoá, dịch vụ
của Việt Nam.
Hỗ trợ tiếp thu, làm chủ và ứng dụng các sáng chế và bí quyết công
nghệ, CGCN tại các doanh nghiệp; chú trọng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh đòi hỏi các công nghệ sản xuất thông minh, công nghệ I 4.0
và các công nghệ bảo quản, chế biến sâu để đáp ứng yêu cầu của các hiệp
định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.
Hỗ trợ thương mại hoá, tiếp thu, làm chủ và áp dụng kết quả nghiên
cứu, tài sản trí tuệ tại các doanh nghiệp, nhất là các kết quả nghiên cứu, tài
157
sản trí tuệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nướccó khả năng đáp ứng nhu cầu
đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
Phát triển các kênh nhập khẩu công nghệ tiên tiến có hiệu quả từ nước
ngoài, nhất là công nghệ từ các nước tiên tiến, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh và đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đối
với một số lĩnh vực công nghiệp/ngành hàng quan trọng.
Hỗ trợ nhập khẩu các công nghệ đa dụng, đa mục đích, công nghệ cốt
lõi.Thực hiện các dự án giải mã công nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo
của 3-5 ngành hàng trọng điểm quốc gia theo phương thức đối tác công tư
Thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp
và phát triển thị trường KHCN tại Việt Nam.
4.2.5. Đẩy mạnh quá trình mở rộng, liên kết hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện về lĩnh vực KHCN nói chung và
TTCNC nói riêng với những đối tác có tiềm lực KHCN lớn, từ đó hướng tới
thành lập và mở rộng các Viện/Trung tâm nghiên cứu trọng điểm về phát triển
công nghệ quốc gia mang tầm quốc tế là nội dung rất quan trọng. Thời gian
qua, Việt Nam tích cực hợp tác quốc tế sâu rộng với nhiều quốc gia về phát
triển KHCN cũng như TTCNC, một số tổ chức NCKH và phát triển công
nghệ tiên tiến quốc tế đã được Chính phủ cho phép thành lập như: Viện Toán
cao cấp, viện nghiên cứu ứng dụng đa ngành, định hướng công nghệ công
nghiệp hoạt động theo cơ chế đặt hàng). Các tổ chức này hoạt động theo cơ
chế đặc thù với tính tự chủ cao và phát triển xứng tầm quốc tế. Tuy nhiên, số
lượng các tổ chức này rất ít nên cần phải tăng cường mở rộng hợp tác quôc tế
với nhiều quốc gia phat triển khác để tạo nên tảng cho nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ ở trình độ cao đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và gia tăng xuất khẩu sản phẩm CNC ra nước ngoài trên cơ sở thực hiện một
số nội dung như sau:
158
4.2.5.1. Tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học
công nghệ
Thông qua việc tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về KHCN với
các tổ chức nước ngoài, các tổ chức KHCN Việt Nam sẽ học hỏi, tiếp thu
tri thức, kinh nghiệm, từ đó nâng cao năng lực và trình độ của mình. Để
thực hiện được việc này, các tổ chức KHCN phải chủ động thực hiện các
nội dung sau:
Tổ chức KHCN tích cực tham gia mạng lưới nghiên cứu quốc tế, tham
gia một số chương trình, đề án nghiên cứu với các tổ chức nước ngoài. Chủ
động mời các tổ chức nước ngoài và các nhà khoa học quốc tế tham gia vào
các đề tài, chương trình nghiên cứu KHCN của mình. Để từ đó học hỏi và đào
tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Khuyến khích cán bộ khoa học tham gia các hoạt động KHCN với các
đơn vị nước ngoài như tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế, trao đổi hợp tác
ngắn ngày hoặc dài ngày ở nước ngoài. Cử cán bộ đến làm việc tại cơ quan
nghiên cứu của nước ngoài với tư cách là thành viên của nhóm nghiên cứu
trong các dự án liên kết, hợp tác quốc tế do nước ngoài chủ trì và tài trợ.
4.2.5.2. Thiết lập hệ thống cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới
công nghệ ở các nước phát triển do nhà nước trực tiếp quản lý.
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực do bối cảnh
HNKTQT mang lại, chúng ta phải nắm bắt các thông tin về thực trạng, xu
hướng phát triển công nghệ của các quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới.
Để thực hiện được việc này, Nhà nước cần phải thành lập một hệ thống các cơ
quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ ở các nước do nhà nước
trực tiếp quản lý. Các cơ quan này sẽ trực tiếp tìm hiểu, chọn lọc các nhà đầu
tư và làm dịch vụ cho các dự án CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, thu thập
các thông tin về các đối tác, các bí quyết công nghệ, chính sách, chiến lược
phát triển KHCN của các quốc gia,... Thông qua các cơ quan này, chúng ta
thực hiện việc kiểm soát ngay từ đầu chất lượng công nghệ nhập khẩu vào
159
nước ta, giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tìm kiếm được những CNC,
có chất lượng và hạn chế những công nghệ lạc hậu.
4.2.5.3. Thực hiện việc đa dạng hoá và linh hoạt từ trong hoạt động
chuyển giao công nghệ từ các chủ thế nước ngoài vào Việt Nam và đồng bộ
hoá các tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế.
Trong bối cảnh HNKTQT hiện nay, mỗi quốc gia, chủ thể nước ngoài có
những thế mạnh nhất định về một loại hình hoạt động KHCN nào đó. Để tận
dụng được những ưu thế về KHCN của từng quốc gia, từng chủ thể nước ngoài
trên thị trường, các chủ thể Việt Nam cần phải đa dạng hoá kênh CGCN vào Việt
Nam. Việc này sẽ giúp cho các chủ thể Việt Nam tiếp nhận được nhiều loại hình
công nghệ từ các nước, tránh được các rủi ro gặp phải về CGCN từ nước ngoài.
CGCN từ nước ngoài cũng cần phải được linh hoạt, đa dạng trên các
nội dung như: xác định đối tượng CGCN; đối tác CGCN; kênh CGCN; nội
dung và phương thức CGCN. Mỗi một hình thức CGCN khác nhau sẽ có
những ưu điểm và hạn chế khác nhau, các chủ thể Việt Nam phải căn cứ vào
mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn và năng lực cụ thể của mình để chủ
động lựa chọn hình thức CGCN từ nước ngoài cho phù hợp.
Đồng bộ các tiêu chuẩn Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế để tạo ra
một chuẩn mực chung trong CGCN giữa các chủ thể tham gia thị trường trong
nước và ngoài nước. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tiếp
cận và áp dụng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường. Để đáp ứng và phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao các
yếu tố nội tại của doanh nghiệp như nâng cao chất lượng lao động, chất lượng
quản lý, trình độ kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật....
4.2.5.3. Nâng cao uy tín và xây dựng thương hiệu của các chủ thể trên
thị trường công nghệ cao trong điều kiện hội hhập kinh tế quốc tế.
Để chủ động HNKTQT, các chủ thể tham gia TTCNC phải xác định
được lợi thế so sánh của mình để xây dựng một chiến lược hội nhập phù hợp,
160
trong đó chú trọng việc khẳng định uy tín và xây dựng thương hiệu cho tổ
chức mình. Trong bối cảnh HNKTQT, việc khẳng định uy tín và thương
hiệu có vai trò quan trọng, trở thành một loại tài sản quý của các chủ thể
tham gia TTCNC. Nhằm nâng cao uy tín và khẳng định thương hiệu, các
chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường các hoạt động quảng bá hình
ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, triển lãm, giới thiệu các
thành tựu khoa học tại các hội chợ công nghệ để mở rộng các cơ hội giao
lưu, hợp tác, tích cực giới thiệu sản phẩm CNC của tổ chức mình trên thị
trường quốc tế.
4.2.5.4. Tăng cường sự hợp tác giữa các chủ thể trên thị trường công
nghệ cao, đặc biệt là đối với các chủ thể nước ngoài.
Thực tế hiện nay cho thấy, các chủ thể tham gia TTCNC đều cùng một
mục tiêu phát triển là nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia, gắn kết nghiên cứu
KHCN với sản xuất kinh doanh, do vậy để giảm thiểu những tác động tiêu
cực từ quá trình HNKTQT, các chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường hợp
tác với nhau, đặc biệt là các chủ thể nước ngoài. Sự hợp tác sẽ giúp cho các
chủ thể trên TTCNC phát huy được các lợi thế của mình, tương trợ lẫn nhau
cùng phát triển, cùng lớn mạnh. Sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC
được thực hiện theo các liên kết ngang với các mô hình như: hợp tác giữa tổ
chức KHCN - tổ chức trung gian, môi giới - doanh nghiệp; giữa các tổ chức
KHCN với nhau; giữa các tổ chức trung gian, môi giới với nhau.
Để sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC có hiệu quả đòi hỏi các
chủ thể phải tăng tính liên kết, hợp tác trong các hoạt động của mình, có sự
phân công, phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động KHCN. Sự hợp tác
của các chủ thể trên TTCNC được thực hiện thông qua các hình thức như:
cùng nhau thực hiện, tài trợ cho các dự án, chương trình KHCN, hỗ trợ
chuyển giao tri thức và công nghệ; trao đổi, bố trí các cán bộ KHCN đến công
tác, làm việc tại đơn vị đối tác, cùng nhau đưa sản phẩm ra thị trường.
161
4.2.5.5. Phát triển và hoàn thiện các quỹ hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc
tế cho các chủ thế trên thị trường công nghệ cao
Một là, đối với quỹ phát triển khoa học công nghệ trong doanh nghiệp
Hiện nay, nhà nước đã cho phép doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển
KHCN trong doanh nghiệp, tuy nhiên, trong quy chế tổ chức và hoạt động của
Quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành
khác chưa có nhiều các quy định liên quan đến nội dung HNKTQT của doanh
nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới quy chế này cần được bổ sung, sửa đổi
một số nội dung như sau:
Tăng nguồn vốn hình thành quỹ cho các hoạt động HNKTQT của
doanh nghiệp. Bên canh việc trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để
lập Quỹ và từ các nguồn khác như: vốn đóng góp tự nguyện không vì mục
đích lợi nhuận của các tồ chức hợp pháp, cá nhân trong và ngoài nước; nguồn
vốn hợp pháp khác.
Bổ sung các quy định về sử dụng quỹ, bên cạnh các nội dung liên
quan đến mục tiêu phát triển doanh nghiệp như: Chi hoạt động quản lý chung
của quỹ; thực hiện các đề tài/dự án KHCN; hỗ trợ phát triển hoạt động nghiên
cứu KHCN của doanh nghiệp… cần bổ sung nội dung liên quan đến việc
khảo sát tìm hiểu công nghệ ở nước ngoài, thuê chuyên gia, tư vấn quốc tế về
công nghệ, chi phí liên kết, hợp tác với các tổ chức KHCN.
Định hướng việc sử dụng quỹ phát triển KHCN trong doanh nghiệp
căn cứ theo nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh HNKTQT,
trong đó chú trọng việc sử dụng quỹ cho các hoạt động mở rộng thị phần, mở
rộng sản phẩm ra nước ngoài.
Hai là, hình thành các quỹ hỗ trợ hội nhập quốc tế cho các chủ thể trên
thị trường công nghệ cao
Để đáp ứng tốt hơn việc HNKTQT cho các chủ thể tham gia TTCNC,
nhà nước nên thành lập quỹ hỗ trợ hội nhập quốc tế cho các chủ thể này. Mục
tiêu của quỹ là trợ giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC có được thông tin
về thị trường KHCN thế giới; trợ giúp các khoá đào tạo, bồi dưỡng các kiến
162
thức về công nghệ, HNKTQT, đàm phán quốc tế, hỗ trợ phát triển nhân lực
cho các chủ thể trên thị trường KHCN...
Nguồn của quỹ sẽ do ngân sách nhà nước tài trợ và từ đóng góp của các
chủ thể tham gia TTCNC. Ngoài ra, quỹ còn huy động từ nguồn vốn vay ưu
đãi của nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
4.2.6. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với phát triển thị
trường công nghệ cao ở Việt Nam
Căn cứ vào thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam trong thời gian
vừa qua và qua kinh nghiệm phát triển TTCNC của một số quốc gia thì nhà
nước có vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển của TTCNC Ở Việt
Nam. Do vậy, trong thời gian tới, để TTCNC ở Việt Nam phát triển, nhà nước
phải thực hiện đồng bộ và hệ thống các giải pháp khác nhau nhằm nâng cao
hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với TTCNC cụ thể là:
4.2.6.1. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về TTCNC
Sửa đổi, bổ sung các chính sách liên quan để khuyến khích mạnh mẽ các
hoạt động đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nhu cầu thương
mại hoá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ, tiếp thu, làm chủ và ứng dụng công
nghệ mới, tiên tiến. Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong triển khai thực hiện
các giải pháp về kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh để
kích cầu công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp.
Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về
TTCNC. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, chỉ tiêu, chế độ báo cáo thống kê và
cập nhật thông tin về TTCNC. Điều tra thống kê hoạt động đổi mới sáng tạo
tại doanh nghiệp và giao dịch hàng hoá, dịch vụ KHCN trên thị trường.
Quy định rõ các cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển
TTCNC; về tổ chức và hoạt động của các sàn giao dịch công nghệ, định chế trung
gian; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tại TTCNC.
163
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hỗ trợ nâng cao năng lực
tiếp thu, làm chủ công nghệ mới và bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong giao
dịch, mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC; xây dựng tiêu chí đánh giá, định giá tài sản
trí tuệ; cơ chế chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ.
4.2.6.2. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển của thị
trường công nghệ cao trong điều kiện mới
Trong thời gian vừa qua, một trong những nguyên nhân dẫn đến
TTCNC chưa phát triển là do nhận thức của một số cơ quan nhà nước, một số
ngành còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với quan điểm của Đảng,
Nhà nước về phát triển thị trường này. Điều này được thể hiện ở các nội dung
chủ yếu như: Chưa xác định được mô hình, nội dung và cách thức phát triển
TTCNC phù hợp trong bối cảnh HNKTQT; vẫn còn tình trạng bảo hộ các tổ
chức KHCN công lập; Chưa có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đổi mới
công nghệ... Do vậy, việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về sự phát triển
của TTCNC trong tiến trình HNKTQT thời gian tới là cần thiết. Từ những nội
dung còn tồn tại đó để thực hiện giải pháp này, cần phải thực hiện toàn diện
các giải pháp cụ thể như sau nhằm tạo nên sự chuyển biến về mặt nhận thức:
Trước hết, thực hiện tốt việc quán triệt đầy đủ, chính xác các chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước về TTCNC. Tuyên truyền, phổ biến đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển TTCNC cho xã hội. Đẩy mạnh
công tác giáo dục, phổ biến pháp luật, chính sách phát triển TTCNC tới các chủ
thể trên thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp, các tổ chức KHCN. Hình thành
văn hoá SHTT, văn hoá tôn trọng quyền SHTT trong xã hội.
Thứ hai, đổi mới tư duy, tạo nhận thức mới về TTCNC. Đổi mới tư
duy, tạo sự thống nhất trong nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là cấp
hoạch định chính sách về nội dung quan trọng hàng đầu trong phát triển
TTCNC là phải phát triển đồng bộ, đầy đủ, hài hoà và bền vững các yếu tố
cấu thành thị trường, phát triển phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng
phát triển, tránh sự phát triển khập khiễng, mất cân đối giữa các yếu tố. Tư
164
duy, nhận thức mới này được thể hiện ở sự thay đổi về tư duy, nhận thức theo
chiều rộng, số lượng, ngắn hạn, cục bộ sang tư duy theo chiều sâu, chất
lượng, bền vững và dài hạn trong việc phát triển TTCNC. Những tư duy, nhận
thức mới này phải được quán triệt đầy đủ trong việc đề ra chủ trương, chính
sách và các hoạt động quản lý, điều hành thị trường. Nhà nước cần chú trong
việc nghiên cứu các lý luận mới về phát triển nhanh, đồng bộ TTCNC, đồng
thời đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn phát triển thị trường này ở nước ta hiện
nay và vận dụng kinh nghiệm quốc tế để làm cơ sở cho việc hoạch định chính
sách, đường lối phát triển TTCNC ở nước ta thời gian tới.
Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức về vai trò và
những tác động của HNKTQT đối với TTCNC cho các chủ thể tham gia thị
trường thông qua các hình thức khác nhau như tuyên truyền trên các phương
tiện thông tin đại chúng, diễn đàn, hội nghị, hội thảo... với các nội dung về cơ
hội, thách thức trong điều kiện mới, trong đó chú trọng nội dung nâng cao
nhận thức của doanh nghiệp về sự cần thiết phải chủ động đổi mới và phát
triển công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thực tiễn. Để việc
tuyên truyền có hiệu quả nên khuyến khích các nhà khoa học, các cán bộ quản
lý KHCN tham gia trực tiếp vào công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và
kinh nghiệm về HNKTQT. Thông qua việc tuyên truyền này, các chủ thể
tham gia TTCNC sẽ chủ động hơn trong việc nâng cao năng lực để thích ứng
với bối cảnh và điều kiện mới.
Thứ tư, thường xuyên lấy ý kiến đóng góp của các chủ thể tham gia thị
trường trong việc xây dựng pháp luật và chính sách của nhà nước liên quan đến
việc phát triển TTCNC. Việc đóng góp ý kiến của chủ thể tham gia TTCNC giúp
cho các chính sách của chính phủ phù hợp với thực tiễn hơn, hạn chế được
những tồn tại, bất cập trong các chính sách của nhà nước. Việc đóng góp ý kiến
được thực hiện thông qua góp ý trực tiếp hoặc là góp ý tại các hội nghị, hội thảo
xây dựng các dự thảo chính sách. Việc đóng góp ý kiến của các chủ thể đối với
chính sách của nhà nước phải trên cơ sở lợi ích chung, tránh những lợi ích cục
165
bộ, có như vậy các ý kiến đóng góp của các chủ thể mới có giá trị và hiệu quả
đối với chính sách của nhà nước trong việc phát triển TTCNC.
4.2.6.3. Nâng cao hiệu lực quản lý và thực thi pháp luật của nhà nước
với thị trường công nghệ cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trên quan điểm và kinh nghiệm quốc tế về vai trò hết sức quan trọng
của nhà nước trong việc phát triển TTCNC từ đó nhà nước thực hiện tốt vai
trò của mình thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
trong việc phát triển TTCNC, bản thân nhà nước cũng cần có bộ máy quản lý
nhà nước niệu quả, tinh gọn, chuyên nghiệp, đáp ứng được các yêu cầu thực
tiễn đặt ra, các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối
với TTCNC trong điều kiện mới là:
Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về thị trường công nghệ
cao theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp.
Một là, tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hoá các hoạt động nghiệp
vụ của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật ở trung ương
và địa phương có liên quan tới TTCNC nhằm thực hiện hiệu quả các mục
tiêu, cam kết quốc tế của Việt Nam. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ
quản lý, cán bộ chuyên môn, cán bộ hoạch định chính sách liên quan tới
TTCNC thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần tránh hiện tượng do năng
lực thực thi pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước kém hiệu quả mà đưa ra
những điều khoản không phù hợp với thực tiễn hoặc gây khó khăn, bất lợi cho
các hoạt động giao dịch, mua bán hàng hoá KHCN nói chung và sản phẩm,
dịch vụ CNC nói riêng.
Hai là, nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế hoạt động và hệ thống tổ chức
các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực thi pháp luật liên quan tới
TTCNC. Tiến tới thành lập tòa án chuyên trách về SHTT. Khắc phục tình
trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ chức, đơn vị có liên quan thông qua
việc phân công cụ thể quyền hạn cho từng cơ quan. Củng cổ, kiện toàn các tổ
chức quản lý về TTCNC ở các ngành và địa phương.
166
Ba là, phân cấp mạnh hơn giữa các Bộ, ngành và địa phương trong
quản lý các hoạt động liên quan tới TTCNC theo hướng giao thêm nhiều
quyền hơn cho các địa phương trong việc thực hiện các hoạt động quản lý nhà
nước. Chẳng hạn như giao cho các địa phương quyền xác nhận các đối tượng
được hưởng chính sách miễn giảm thuế liên quan đến hoạt động nghiên cứu
KHCN, CGCN hoặc là các tổ chức cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
sản phẩm, dịch vụ CNC.
Bốn là, thành lập các tổ chức bảo vệ bản quyền quyền SHTT. Các tổ
chức này kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuyên truyền,
phổ biến và thực thi hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tới TTCNC.
Thứ hai, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách liên quan
tới thị trường công nghệ cao
Để tăng cường công tác thực thi pháp luật, chính sách liên quan tới
TTCNC cần phải: (1) Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp
luật về SHTT; (2) Nâng cao hiệu quả công tác xét xử các tranh chấp về quyền
SHTT; (3) Tăng cường công tác thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực SHTT
và lĩnh vực cạnh tranh; (4) Kết hợp đồng thời các biện pháp hành chính, dân
sự và hình sự để đảm bảo thực thi quyền SHTT; (5) Tiếp tục triển khai các
chương trình hành động về phòng, chống xâm phạm quyền SHTT và các
chương trình chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
Ngoài ra, cần phải phát triển các dịch vụ hỗ trợ việc thực thi các văn
bản pháp luật như dịch vụ đăng ký hợp đồng công nghệ, dịch vụ đăng ký
quyền SHTT, dịch vụ thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật...
Thứ ba, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc phát triển đồng bộ
các chủ thể trên thị trường công nghệ cao
Nhà nước xây dựng và lập quy hoạch, kế hoạch phát triển các chủ thể
trên TTCNC trong từng giai đoạn, thực hiện lồng ghép quy hoạch phát triển
các chủ thể này với quy hoạch phát triển chung của TTCNC nhằm đảm bảo sự
phát triển đồng bộ các chủ thể trên TTCNC. Nhà nước tác động và can thiệp
167
trực tiếp vào sự hình thành và phát triển các chủ thể trên TTCNC thông qua các
công cụ điều tiết của nhà nước. Đối với những chủ thể chậm phát triển hoặc phát
triển chưa đồng bộ với các chủ thể khác (như các tổ chức trung gian, môi giới, tư
vấn... ), nhà nước sẽ đầu tư vốn, nhân lực cơ sở vật chất hoặc tạo điều kiện thuận
lợi về cơ chế, chính sách cho chủ thể đó hình thành và phát triển. Đối với những
chủ thể đã có nhưng năng lực còn nhiều bất cập như các tổ chức KHCN công lập,
nhà nước sẽ tiến hành chuyển đổi, sắp xếp lại sang mô hình doanh nghiệp, đảm
bảo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính phải đơn giản, thuận tiện, rõ ràng nhằm tạo điều
kiện cho các chủ thể trên TTCNC phát triển như tạo điều kiện về thủ tục
cho các tổ chức KHCN đổi mới theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn đổi mới công
nghệ... Ngoài ra, nhà nước tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng cho việc phát triển TTCNC đồng bộ, hiện đại như hệ thống thông tin,
hệ thống văn phòng, trung tâm giao dịch , sàn giao dịch công nghệ, các hội
chợ triển lãm công nghệ.
168
Kết luận chương 4
Trước bối cảnh mới hiện nay, TTCNC ở Việt Nam ngày càng có vai trò
quan trọng và có nhiều cơ hội để phát triển góp phần quan trọng vào quá
trình phát triển KT-XH của đất nước. Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của
Việt Nam, để phát triển TTCNC ở Việt Nam chúng ta phải có những nhận
thức đầy đủ về quan điểm phát triển thị trường này trong thực tiễn. Các
quan điểm đó là: phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước
đối với sự phát triển của TTCNC; Phát triển TTCNC ở Việt Nam phải phù
hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững; Phải bảo
đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia TTCNC trên cơ sở tôn trọng
các quy luật KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát triển TTCNC ở Việt
Nam phải trên cơ sở kết hợp giữa nội lực và ngoại lực góp phần tăng cường
tiềm lực KHCN quốc gia.
Trên cơ sở các quan điểm nêu trên, cần thực hiện nhiều giải pháp khác
nhau để phát triển TTCNC trong điều kiện HNKTQT trong đó có những giải
pháp từ phía nhà nước và những giải pháp từ phía các chủ thể trên TTCNC
như : Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển TTCNC ở Việt Nam; phát
triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường; tạo lập và thúc đẩy
nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trên thị trường; đẩy mạnh việc phát triển các
tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC; nâng cao vai trò quản lý của nhà
nước đối với phát triển TTCNC ở Việt Nam. Mỗi giải pháp đều có vị trí ý
nghĩa quan trọng góp phần thúc đẩy và nâng cao chất lượng phát triển
TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Do đó, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các
giải pháp cả từ phía Nhà nước và các chủ thể trên TTCNC và coi đây là
những nội dung quan trọng từng bước nâng cao chất lượng phát triển TTCNC
trong giai đoạn hiện nay.
169
KẾT LUẬN
Từ việc thực hiện chủ đề nghiên cứu, tác giả luận án đưa ra một số kết
luận như sau:
TTCNC đóng vai trò quyết định trong việc phát triển tiềm lực KHCN
quốc gia, gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất, kinh doanh, tạo
động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, hầu hết các
quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt nam nói riêng đều quan tâm
và đầu tư thích đáng cho việc phát triển TTCNC, coi đây là một nội dung
quan trọng góp phần vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước.
Ngày nay, trong điều kiện HNKTQT ngày càng sâu rộng, phát triển
thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng đang bị chi phối và ảnh
hưởng của rất nhiều các yếu tố, nhất là sự tác động của cuộc cách mạng 4.0.
Do vậy, phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay cần được tiến hành với
những nội dung cơ bản: (1) Gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng
nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC; (2) Gia tăng cầu về sản
phẩm, dịch vụ CNC; (3) Gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức trung
gian môi giới trên TTCNC.
Những phân tích về tác động của các yếu tố đến phát triển TTCNC cho thấy,
tiến trình này tạo ra các cơ hội và thách thức đối với quy mô và tốc độ phát triển,
chất lượng phát triển và tính đồng bộ trong việc phát triển các yếu tố cấu thành
TTCNC. Trong các tác động này, việc thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn công nghệ từ bên ngoài
và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế, chính sách theo thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế là
những tác động quan trọng đến phát triển TTCNC.
Từ việc tìm hiểu kinh nghiệm phát triển TTCNC trên thế giới cho thấy,
để phát triển TTCNC trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia đã thực hiện
nhiều biện pháp khác nhau một cách linh hoạt, đa dạng căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh và trình độ phát triển về kinh tế, KHCN của từng nước, trong đó
các quốc gia rất chú trọng việc phát huy vai trò, chức năng của nhà nước đối
với phát triển TTCNC, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
170
pháp luật và các chính sách phát triển TTCNC, tăng cường tiềm lực KHCN
của quốc gia, đẩy mạnh và mở rộng quá trình HNKTQT, thúc đẩy nhanh quá
trình CGCN cả trong và ngoài nước.
Trong thời gian vừa qua, TTCNC ở Việt Nam đã có bước phát triển do
tận dụng được các cơ hội của tiến trình HNKTQT mang lại như: Hệ thống
pháp luật, chính sách phát triển TTCNC ngày càng đầy đủ và hoàn thiện đáp
ứng yêu cầu trong các hiệp định, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;
Nhu cầu đối mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam gia tăng. Tuy
nhiên, nhìn tổng thể, đến nay, TTCNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu
tố cấu thành thị trường chưa phát triển đồng bộ, chưa đáp ứng được các yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay.
Những thành tựu và hạn chế đó có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do những bất cập
trong hệ thống pháp luật và chính sách phát triển TTCNC.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, để phát triển
TTCNC ở Việt Nam trong thời gian tới chúng ta phải quán triệt đày đủ các quan
điểm sau:Phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước đối với sự phát
triển của TTCNC; phát triển TTCNC ở Việt Nam phải phù hợp với thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững; Phải bảo đảm hài hoà lợi ích của các
chủ thể tham gia TTCNC trên cơ sở tôn trọng các quy luật KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát triển TTCNC ở Việt Nam phải trên cơ sở kết hợp giữa nội lực
và ngoại lực góp phần tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia
Trên cơ sở quan điểm nêu trên, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
khác nhau để phát triển TTCNC trong điều kiện mới. Những giải pháp này
bao gồm những giải pháp từ phía nhà nước và những giải pháp từ phía các
chủ thể trên TTCNC. Trong các giải pháp được đưa ra, nhóm giải pháp từ phía
nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển
TTCNC là nhóm giải pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với việc
phát triển TTCNC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
171
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thanh Tuấn (2016), “TTCNC ở Việt Nam thực trạng và giải pháp phát
triển”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 12, tr.93 - 95.
2. Nguyễn Thanh Tuấn (2017), “Vai trò của Nhà nước trong phát triển
TTCNC ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, số 3, tr.31 - 33
3. Nguyễn Thanh Tuấn (2019), “Kinh nghiệm phát triển thị trường KHCN
của Trung quốc và tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự
báo, số 28, tr.68 - 71.
4. Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Đức Hoàng Thọ (2020), “Developing high-
tech market and sustainable agriculture in Israen: policy implications
for Viet Nam” (Phát triển TTCNC và nông nghiệp bền vững ở Israen:
Hàm ý chính sách cho Việt Nam). Labour, social publishing house,
july, 2020, pp. 105 - 116.
5. Nguyễn Thanh Tuấn (2020), “Sàn giao dịch công nghệ yếu tố quan trọng
trong phát triển tổ chức trung gian của thị trường KHCN hiện nay”,
Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 28, tr.41 - 43.
172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vân Anh (2012), Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động
CGCN ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Bách Khoa
Hà Nội, Hà Nội.
2. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang (2012), “Bàn về thuật ngữ
thị trường khoa học, TTCN và thị trường KHCN”, Tạp chí Hoạt động
khoa học, số 10, tr. 10 -12
3. Phạm Ngọc Ánh (chủ biên) (2007), Thúc đẩy các tổ chức KHCN chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 4. Đinh Văn Ân, Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2004), Phát triển thị trường
KHCN ở Việt Nam, Nxb khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
5. Đoàn Hữu Bẩy (2009), Phát triển thị trường KHCN kinh nghiệm của Trung Quốc và vận dụng vào Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện chính trị và kinh tế thế giới.
6. Bộ KHCN (2015), Báo cáo tổng kết công tác KHCN năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 7. Bộ KHCN (2015), KHCN Việt Nam năm 2014, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
8. Bộ KHCN (2016), KHCN Việt Nam năm 2015, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
9. Bộ KHCN (2017), KHCN Việt Nam năm 2016, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
10. Bộ KHCN (2018), KHCN Việt Nam năm 2017, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
11. Bộ KHCN (2019), KHCN Việt Nam năm 2018, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
12. Bộ KHCN (2020), KHCN Việt Nam năm 2019, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
13. Bộ KHCN (2019), Báo cáo tổng kết công tác KHCN năm 2018 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2019. Hà Nội.
173
14. Bộ KHCN (2018), Tổng luận số 6/2018, Thị trường KHCN, kinh nghiệm
phát triển tại các nước và bài học cho Việt Nam, Hà Nội.
15. Bộ KHCN (2020), Đề án chương trình phát triển KHCN đến năm 2030, Hà Nội. 16. David w. Pearse: Từ điển kinh tế học hiện đại. Nxb Chính-trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999. tr.632.
17. Đinh Thị Kim Chi (2015), Phát triển thị trường sức lao động trên địa bàn tỉnh Bình Dương đến năm 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học, Liên hiệp Khoa học Kinh tế Kỹ thuật Môi trường miền Nam
18. Phạm Đình Chướng (2006), “Gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức về vấn đề sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Hoạt động khoa học (571), tr. 25-26
19. Cục Sở hữu trí tuệ (2011), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2010, Hà Nội. 20. Cục Sở hữu trí tuệ (2012), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2011, Hà Nội. 21. Cục Sở hữu trí tuệ (2013), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2012, Hà Nội. 22. Cục Sở hữu trí tuệ (2014), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2013, Hà Nội. 23. Cục Sở hữu trí tuệ (2015), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2014, Hà Nội. 24. Cục Sở hữu trí tuệ (2016), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2015, Hà Nội. 25. Cục Sở hữu trí tuệ (2017), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2016, Hà Nội. 26. Cục Sở hữu trí tuệ (2018), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2017, Hà Nội. 27. Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Hoạt động sở hữu trí tuệ 2018, Hà Nội. 28. Vũ Đình Cự (2002), KHCN hướng tới thế kỷ XXI - định hướng và chính sách,
Uỷ ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khoá IX.
29. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế
tri thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Lê Đăng Doanh (2006), “Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, tăng cung
cho TTCN”, Báo Nhân dân, số 65, tr. 12-14
31. Phạm Văn Dũng (2008), “Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 32, tr. 25-28.
32. Phạm Văn Dũng (2008), "Chính sách tạo lập và phát triển thị trường
khoa học - công nghệ ở một số quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Bắc Á, số 1, tr. 34-45.
174
33. Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Phan Xuân Dũng (2004), CGCN ở Việt Nam thực trạng và giải pháp,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Phan Xuân Dũng (2008), Công nghệ tiên tiến và CNC với tiến trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đại học kinh tế Quốc dân (2019), Vai trò của các tổ chức trung gian
trên thị trường KHCN tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Đại học kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
37. Đại học kinh tế Quốc dân (2020), Cơ hội, thách thức và điều kiện phát
triển công nghệ cao Đà Nẵng đến năm 2020 tầm nhìn 2030: Kỷ yếu hội
thảo khoa học quốc gia
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Đề án xây dựng đội ngũ trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, HNKTQT, trình
Hội nghị lần thứ VII BCH Trung ương Đảng khoá X, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Điền, Phan Thị Kim Phương (2005), “Thị trường KHCN thành
phố Hồ Chí Minh: tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển”, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, số 6, tr. 63-69
42. Nguyễn Xuân Điền (2017), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới
chính sách về KHCN nhằm phát triển thị trường KHCN đáp ứng yêu
cầu hội nhập”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 5, tr. 13-17.
43. Phạm Thị Hà (2017), “Kinh nghiệm quốc tế về sử dụng các công cụ tài
chính thúc đẩy phát triển TTCN và những bài học rút ra cho Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 5, tr. 36 - 40.
44. Thanh Hà (2004), “Phát triển thị trường KHCN tại Việt Nam: Nhiều
vướng mắc cần tháo gỡ”, Tạp chí Tia sáng số 7, tr. 14-17.
175
45. Lương Thanh Hải (2017), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 3, tr. 45-48.
46. Trần Thanh Hải (2012), “Thuật ngữ thị trường KHCN, TTCN tiếp cận từ
pháp luật về sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 15, tr. 23-27.
47. Dương Quỳnh Hoa (2009), “Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách
phát triển khoa học - công nghệ”, Tạp chí Kinh tế và Chính trị Thế giới,
số, 157, tr. 20 -28.
48. Trần Thị Mai Hoa (2008), “Đầu tư mạo hiểm - hình thức đầu tư cần
quan tâm”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 588, tr. 68-73.
49. Học viện Tài chính (2017), Cơ chế chính sách và công cụ tài chính kế
toán phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
50. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Môi trường thể chế cho việc phát triển
TTCNC, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trung tâm đào tạo bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Phát triển đồng bộ các loại thị trường
trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Thị trường KHCN Việt Nam trong tiến
trình hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Võ Hưng, Nguyễn Lan Anh, Trần Ngọc Ca (2003), Công nghệ
và phát triển TTCN ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
54. Vũ Văn Hưng (2008), “Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KHCN: chính
sách cần được phát huy”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 592, tr. 46-48.
55. Nguyễn Đình Hương (2006), Phát triển các loại thị trường trong nền KTTT
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
56. Lan Hương (2007), “Một số giải pháp phát triển KHCN trong thời kỳ
hội nhập quốc tế”, Tạp chí Công nghiệp, số 4, tr. 14-15.
176
57. Nguyễn Thị Hường (2007), Phát triển thị trường KHCN Việt Nam trong
điều kiện HNKTQT, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Hường (2006), Thị trường KHCN Việt Nam: thực trạng và
giải pháp, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
59. Nguyễn Mạnh Khang (2004), “Luật Sở hữu trí tuệ và vấn đề phát triển thị
trường KHCN tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo (6), tr 15-16.
60. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy trí tuệ Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Trần Quốc Khánh (2014), “Thị trường KHCN Việt Nam trước yêu cầu
phát triển và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 864, tr. 201-203.
62. Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Thị Ngọc Anh (2015), “Tác động của sáng
chế đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển tiềm lực
KHCN”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2, tr. 14-23.
63. Cao Minh Kiểm (2011), “Tình hình công bố khoa học của Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2009”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 621, tr. 30 - 32.
64. Đỗ Hương Lan, Lê Thái Hòa (2020), “Thương mại hóa sản phẩm
KHCN: Bài học kinh nghiệm từ Israel”, Tạp chí Khoa học Công nghệ
Việt Nam, số 4, tr. 56-59.
65. Trần Việt Lâm (2005), “Phát triển thị trường KHCN: những vấn đề từ
phía doanh nghiệp”, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 102, tr. 9-10.
66. Nguyễn Thùy Linh (2017), Chính sách tài chính với sự phát triển của
thị trường KHCN, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Tài chính, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Liên (2006), “Cạnh tranh là động lực thúc đẩy thị trường
KHCN phát triển”, Tạp chí Xây dựng, số 6, tr. 3- 6.
68. Hoàng Xuân Long (2005), “Kinh nghiệm của Trung quốc về quản lý
TTCN ở địa phương”, Tạp chí KHCN, số 2, tr. 35-38.
69. Hoàng Xuân Long (2007), “Tăng cường quản lý TTCN ở địa phương”,
Tạp chí KHCN, số 8, tr. 14-15.
177
70. Hồ Ngọc Luật (2015), “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ trường
đại học vào các doanh nghiệp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Chính sách và quản lý KHCN, số 12, tr. 26-30.
71. Đoàn Đức Lương (2009), “Vai trò của sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu
khoa học và CGCN trong các trường đại học”, Tạp chí Khoa học, Đại
học Huế số 51, tr. 17-21.
72. Hàn Ngọc Lương (2002), “Quản lý TTCN của Trung Quốc”, Tạp chí
Hoạt động khoa học, số 10, tr. 20 -25.
73. C.Mác (1894), “Sự san bằng tỷ suất lợi nhuận chung do cạnh tranh, giá cả thị
trường và giá trị thị trường, lợi nhuận siêu ngạch” C. Mác và Ph. Ăngghen
toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.263 - 303.
74. C.Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG ST, H. 2000, tập 46, Phần
II, tr.15,304,372,367
75. Trần Văn Minh (2012), Nghiên cứu phát triển TTCN trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, Luận án tiến sĩ, Đại học Mỏ địa chất, Hà Nội.
76. Mai Văn Nam (2010), “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp”, Tạp chí Phát
triển kinh tế số 231, tr. 41- 43.
77. Đoàn Năng (9/2009), “Hệ thống pháp luật KHCN Việt Nam - 50 năm
hình thành và phát triển”, Tạp chí Hoạt động Khoa học số 604, tr. 15-20.
78. Ngân hàng thế giới (2002), Báo cáo phát triển thế giới 2002 - Xây
dựng thể chế hỗ trợ thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Ngô Tuấn Nghĩa (2008), “Kinh nghiệm thế giới trong việc huy động và
sử dụng nguồn tài chính phục vụ nghiên cứu khoa học công nghệ trong
khu vực doanh nghiệp”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế
giới, số 7, tr. 31-40.
80. Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Kinh nghiệm xây dựng
TTCN của Trung Quốc" Tạp chí Hoạt động khoa học, số 11, tr. 17 - 21.
178
81. Nguyễn Nghĩa, Phạm Hồng Trường (2002), “Về TTCN tại Việt Nam”,
Tạp chí Hoạt động khoa học, số 6, tr. 32 - 36.
82. Phan Thị Bích Nguyệt (7/2009), “Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm cho đổi mới
công nghệ tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 225, tr. 23-27.
83. Nguyễn Duy Nhiên (2017), Chuyển giao công nghệ cao từ nước ngoài
vào một số ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam hiện nay Luận
án tiến sĩ kinh tế chính trị, Đại học quốc gia, Hà nội.
84. Nguyễn Minh Phong (Chủ biên - 2005), Phát triển thị trường khoa học-
công nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
85. Quốc hội (2000), Luật KHCN, số 29/2013/QH13, ngày 18/6/2013.
86. Quốc hội (2006), Luật CGCN số 80/2006/QH11
87. Quốc hội (2008), Luật CNC, số 21/2008/QH12, ngày 13/11/2008.
88. Quốc hội (2017), Luật Chuyển giao công nghiệp số 07/2017/QH14 ngày
19/6/2017.
89. Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân
lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá,
Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
90. Phạm Văn Quý (2003), “Phát triển nguồn nhân lực CNC-Kinh nghiệm
của Trung Quốc”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 5, tr. 37-39.
91. Jonh Sigurdon (2004), Kinh nghiệm các nước Châu Âu về phát triển thị
trường khoa học - công nghệ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
92. Vũ Trường Sơn, Lê Vũ Toàn (2015), “Định giá công nghệ và vai trò của
Nhà nước trên TTCN”, Tạp chí KHCN Việt Nam, số 6, tr. 23-26.
93. Dương Minh Tâm (2009), “Về đầu tư mạo hiểm trong CNC”, Tạp chí
Hoạt động khoa học, số 604, tr. 12-14.
94. Nguyễn Chiến Thắng (2012), "Phát triển thị trường KHCN nhằm thúc đẩy
tái cơ cẩu nền kinh tế giai đoạn 2011-2020", Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
179
95. Nguyễn Vũ Thao (2016), “Thúc đẩy phát triển TTCN thông qua hoạt
động kết nối cung - cầu”, Tạp chí KHCN Việt Nam, số 11, tr. 19 - 22.
96. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê
duyệt Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011-2020.
97. Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 29/03/2013
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
01/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về Phát triển KHCN
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
98. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 08/11/2013
Phê duyệt Chương trình phát triển thị trường KHCN đến năm 2020.
99. Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 76/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật CGCN.
100. Nguyễn Tiệp (2010), Giáo trình thị trường lao động, Nxb Lao động -
xã hội, Hà Nội
101. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2016). Công báo thống kê kinh tế -
xã hội Trung Quốc năm 2016.
102. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2017). Công báo thống kê kinh tế -
xã hội Trung Quốc năm 2017.
103. Tổng cục thống kê Trung Quốc (2018). Công báo thống kê kinh tế -
xã hội Trung Quốc năm 2018.
104. Nguyễn Văn Tri (2005), “Môi trường pháp lý cho việc hình thành và
phát triển TTCN”, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4, tr. 102 - 105.
105. Tạ Doãn Trịnh (2009), “Bản chất kinh tế của tri thức KHCN”, Tạp chí
Hoạt động khoa học, số 600, tr. 28-32.
106. Dương Kỳ Trường (2007), “Hiện trạng và xu thế phát triển khu khoa
học công nghệ nông nghiệp của Tung Quốc”, Tạp chí Hoạt động Khoa
học, số 3, tr. 98-104.
180
107. Vũ Anh Tuấn (2006), Phát triển thị trường khoa học-công nghệ ở Tp.
Hồ Chí Minh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
108. Lê Văn Tuyên (2018), “Giải pháp phát triển thị trường KHCN ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Công thương, số 1, tr. 93 - 97.
109. Lê Thị Khánh Vân (2005), “Chợ công nghệ và thiết bị - hoạt động xúc
tiến hiệu quả để tạo lập và phát triền TTCN”. Tạp chí Thông tin và tư
liệu, số 8, tr. 46 - 49.
110. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), TTCN và vấn đề
đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
111. Viện Chiến lược và chính sách KHCN (2003), Công nghệ và phát triển
TTCN ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
112. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển
KTTT, Nxb Tri thức bách khoa, Hà Nội.
113. Hồ Đức Việt (2010), Xây dựng, phát triển thị trường KHCN trong nền
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
114. Nguyễn Quốc Việt, Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2015), “Quản
lý công của OECD trong phát triển thị trường KHCN. Tạp chí Nghiên
cứu Châu Phi và Trung Đông, số 5, tr. 32 -35.
115. Đỗ Văn Vĩnh (2002), “Bàn về phát triển TTCN ở nước ta”, Tạp chí
Hoạt động khoa học, số 2, tr. 21 -25.
116. Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh (2014), “Nâng cao vai trò
quản lý của Nhà nước đối với phát triển TTCN”, Tạp chí Kinh tế và
phát triển, số 205, tr. 42 - 45.
Tiếng Anh
117. Bruce.Buskirk, Allanc.Reddy. (1994), “Planning market development in
high tech firms”, Technovation, pp. 493-503
118. Geoffrey.Moore; Paul Johnson; Tom Kippola (1994), “How high - tech
Market develope”, Market business new, pp. 234 - 241.
181
119. Geoffrey. Moore (2011), “High tech Market development moded”.
Industrial Marketing Management, pp. 133-142.
120. JakkiJ.Mohr, Sanjit.Sengupta, Staley.Slater. (2010), “Marketing of high
- technology product and innovation” Technological Forecasting &
Social Change, pp. 578 - 584.
121. Morone, Joseph G. (1993), “In Winning in High-Tech Markets”, Boston
Harvard Business School Press, pp. 325 - 332.
122. Phillip T. Meade, Luis Rabelo (2004), The technology adoption life
cycle attractor: Understanding the dynamics of high-tech markets
Technological Forecasting & Social Change, pp. 667-684.
123. Richard T. Gretz, SumanBasuroy (2013), “Why Quality May Not
Always Win: The Impact of Product Generation Life Cycles on Quality
and Network Effects 8in High-tech Markets”, Journal of Retailing 89,
pp. 281-300.
124. Samli A. C, Wirth G. P, Wills J. R (1994), “High-Tech Firms Must Get
More Out of Their International Sales Efforts”, Industrial Marketing
Management, pp. 333-342.
125. Sanjit Sengupta (1998), “Some Approaches to Complementary
ProductStrategy” J. prod innov manage, pp. 352- 367.
126. Rudi Bekkers, Arianna Martinelli (2012), Knowledge positions in high-
tech markets: Trajectories, standards, strategies and true innovators
Technological Forecasting & Social Change, pp. 1194-1216.
127. Russell Bratt (1986), “Industrial buying in high tech market” Industrial
Marketing Managerment, pp. 293 - 298.
128. Young Roak Kim (2005), “Technology Commercialization in Republic
of Korea”, Korea Technology Transfer Center.
182
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ ĐƯỢC BAN HÀNH ĐẾN NĂM 2019
Tên văn bản
TT I 1
2
Luật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 luật có liên quan đến quy hoạch (số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KHCN). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch
(số 35/2018/QH14 ngày 20/11/2018, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Đo lường, Luật Tiêu chuẩn, Quy
chuẩn kỹ thuật).
3
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở
hữu trí tuệ (số 42/2019/QH14).
II Nghị định
1 Nghị định số 04/2018/NĐ-CP ngày 10/01/2018 của Chính phủ quy định về
cơ chế ưu đãi đối với khu CNC Đà Năng.
2 Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản
phẩm, hàng hóa.
3 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi
tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật CGCN năm 2017.
4 Nghị định số 78/2018/NĐ-CP ngày 16/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và
Quy chuẩn kỹ thuật.
5 Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09/11/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ một số quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ KHCN và một số quy định về kiểm tra chuyên ngành.
6 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KHCN.
183
7 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP ngày 15/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết việc lập, thẩm định, phê duyệt, công bố, thực hiện đánh giá và điều chỉnh quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử.
8 Nghị định số 51/2019/NĐ-CP ngày 13/6/2019 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động KHCN và CGCN.
9 Nghị định số 60/2019/NĐ-CP ngày 05/7/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 30/7/2014 của Chính phủ về Giải thưởng Hồ Chí Mính, nhà nước và các giải thưởng khác về KHCN.
III Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ 1 Quyết định số 08/2018/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo trực thuộc Bộ KHCN.
2 Quyết định số 24/2018/QĐ-TTg ngày 18/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 78/2013/QĐ-TTg ngày 25/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục và lộ trình phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ và các tổ máy phát điện hiệu suất thấp không được xây dựng mới.
3 Quyết định số 30/2018/QĐ-TTg ngày 31/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác nhận hàng hóa sử dụng trực tiếp cho phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN, đổi mới công nghệ; phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất của dự án.
4 Quyết định số 76/2018/QĐ-TTg ngày 16/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ KHCN. 5 Quyết định số 996/2018/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
6 Quyết định số 1285/2018/QĐ-TTg ngày 01/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nguồn tin KHCN phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 7 Quyết định số 1780/2018/QĐ-TTg ngày 19/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Khu CNC công nghệ sinh học Đồng Nai. 8 Quyết định số 1851/2018/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
184
9 Quyết định số 08/2019/QĐ-TTg ngày 15/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trực thuộc Bộ KHCN.
10 Quyết định số 09/2019/QĐ-TTg ngày 15/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc trực thuộc Bộ KHCN.
11 Quyết định số 18/2019/QĐ-TTg ngày 19/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy
định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng.
12 Quyết định số 100/2019/QĐ-TTg ngày 19/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc”.
13 Quyết định số 104/2019/QĐ-TTg ngày 22/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về phòng ngừa, phát hiện và chuẩn bị ứng phó nguy cơ, sự cố hóa học, sinh học, bức xạ và hạt nhân giai đoạn 2019-2025.
14 Quyết định số 1068/2019/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia.
IV Thông tư 1
2
3
4
5
6
Thông tư số 01/2018/TT-BKHCN ngày 12/4/2018 quy định tổ chức quản lý Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Thông tư số 02/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 quy định chế độ báo cáo thực hiện hợp đồng CGCN thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, mẫu văn bản trong hoạt động cấp Giấy phép CGCN, đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung hoạt động CGCN. Thông tư số 03/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 14/2015/TT-BKHCN ngày 19/8/2015 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KHCN. Thông tư số 04/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 ban hành Danh mục các cuộc điều tra thống kê KHCN ngoài Chương trình điều tra thống kê quốc gia. Thông tư số 05/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-BKHCN ngày 16/11/2015 quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành và cộng tác viên thanh tra ngành KHCN. Thông tư số 06/2018/TT-BKHCN ngày 06/6/2018 ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dầu nhờn động cơ đốt trong”.
185
7
8
9
Thông tư số 07/2018/TT-BKHCN ngày 06/6/2018 ban hành sửa đổi 1:2018 QCVN 9:2012/BKHCN quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về tương thích điện từ đối với thiết bị điện và điện tử gia dụng vào các mục đích tương tự. Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN ngày 15/6/2018 sửa đổi, bổ sung Khoản 7 Điều 6 Thông tư số 15/8/2015T-BKHCN ngày 25/8/2015 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu. Thông tư số 09/2018/TT-BKHCN ngày 01/7/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 09/2016/TT-BKHCN ngày 09/6/2016 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển hàng nguy hiểm là các chất ô xy hóa, hợp chất hữu cơ (thuộc loại 5) và các chất ăn mòn (thuộc loại 8) bằng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa.
10 Thông tư số 10/2018/TT-BKHCN ngày 01/7/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 06/2018/TT-BKHCN ngày 15/5/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dầu nhờn động cơ đốt trong”.
11 Thông tư số 11/2018/TT-BKHCN ngày 06/8/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo cho các trạm quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục
12 Thông tư số 12/2018/TT-BKHCN ngày 31/8/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về xây dựng, ký kết và quản lý các chương trình hợp tác quốc tế của Quỹ Phát triển KHCN Quốc gia trong tài trợ thực hiện nhiệm vụ KHCN, hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực KHCN quốc gia.
13 Thông tư số 13/2018/TT-BKHCN ngày 05/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT ngày 09/6/2014 của Bộ trưởng Bộ KHCN - Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về bảo đảm an toàn bức xạ trong y tế.
14 Thông tư số 14/2018/TT-BKHCN ngày 15/11/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thiết bị X - quang di động; X - quang chụp mạch, chiếu can thiệp, X - quang chụp rang.
15 Thông tư số 15/2018/TT-BKHCN ngày 15/11/2018 của Bộ trưởng Bộ
KHCN quy định chế độ báo cáo thống kê ngành KHCN.
16 Thông tư số 16/2018/TT-BKHCN ngày 29/11/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về tổ chức hoạt động và cơ chế phối hợp hoạt động của Mạng lưới các cơ quan thông báo và hỏi đáp và Ban liên ngành về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
17 Thông tư số 17/2018/TT-BKHCN ngày 10/12/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi và xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành KHCN.
18 Thông tư số 18/2018/TT-BKHCN ngày 18/12/2018 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
186
19 Thông tư số 01/2019/TT-BKHCN ngày 30/5/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN
quy định về đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ.
20 Thông tư số 02/2019/TT-BKHCN ngày 03/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành Danh mục công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp CNC.
21 Thông tư số 03/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý của Bộ KHCN. 22 Thông tư số 04/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành quy định về việc sử dụng hóa chất để thực hiện thí nghiệm, nghiên cứu khoa học.
23 Thông tư số 05/2019/TT-BKHCN ngày 26/6/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.
24 Thông tư số 07/2019/TT-BKHCN ngày 26/7/2019 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2013/TT-BKHCN ngày 26/9/2014 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đo lường đối với phương tiện đo nhóm 2.
25 Thông tư số 08/2019/TT-BKHCN ngày 25/9/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm chiếu sáng bằng công nghệ đèn LED”.
26 Thông tư số 09/2019/TT-BKHCN ngày 30/9/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN
ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em”.
27 Thông tư số 10/2019/TT-BKHCN ngày 29/10/2019 của Bộ trưởng Bộ
KHCN quy định quản lý nhiệm vụ KHCN theo Nghị định thư.
28 Thông tư số 12/2019/TT-BKHCN ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tiêu chí xác định sản phẩm, thiết bị sử dụng nước tiết kiệm. 29 Thông tư số 13/2019/TT-BKHCN ngày 15/11/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thép làm cốt bê tông”. 30 Thông tư số 14/2019/TT-BKHCN ngày 05/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN
ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG)”.
31 Thông tư số 15/2019/TT-BKHCN ngày 05/12/2019 của Bộ trưởng Bộ
KHCN ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thép không gỉ”.
32 Thông tư số 16/2019/TT-BKHCN ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định tặng cờ thi đua, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KHCN và Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp KHCN”.
33 Thông tư số 17/2019/TT-BKHCN ngày 10/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN hướng dẫn đánh giá trình độ công nghệ, năng lực công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực sản xuất.
34 Thông tư số 18/2019/TT-BKHCN ngày 15/12/2019 của Bộ trưởng Bộ KHCN quy định về đánh giá hoạt động và chất lượng dịch vụ của tổ chức sự nghiệp công lập trong lĩnh vực KHCN.
Nguồn: [11]
187
Phụ lục 2: ĐƠN ĐĂNG KÝ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP ĐÃ NỘP VÀ BẰNG
ĐỘC QUYỀN KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP ĐÃ CẤP TỪ 2011 ĐẾN 2019
Năm
Tổng số Tổng số
2011-2015 2016 2017 2018 2019 Tổng số Số đơn đăng ký đã nộp Người Người nước Việt ngoài Nam 3.576 7.116 1.007 1.861 1.158 1.583 1.179 1.694 1.650 1.841 13.640 33.027 Số bằng độc quyền đã cấp Người Người nước Việt ngoài Nam 2.483 4.165 577 877 928 1.339 1.083 1.277 938 1.234 9.422 20.522 6.648 1.454 2.267 2.360 2.172 29.944
10.692 2.868 2.741 2.873 3.491 46.667 Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN
Phụ lục 3: ĐƠN ĐĂNG KÝ SÁNG CHẾ VÀ BẰNG ĐỘC QUYỀN SÁNG CHẾ
Số đơn đăng ký sáng chế Số bằng độc quyền sáng
đã nộp chế đã cấp
Năm Người Người Người Người Tổng Tổng Việt nước Việt nước số số Nam ngoài Nam ngoài
2011-2015 2.196 19.100 21.296 243 5.785 6.028
2016 560 4.668 5.228 76 1.347 1.423
2017 592 4.790 5.382 109 1.636 1.745
2018 646 5.425 6.071 205 2.014 2.219
2019 720 6.800 7.520 169 2.451 2.620
Tổng số 7.259 67.676 74.935 1.220 21.803 23.023
Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN
188
Phụ lục 4: HOẠT ĐỘNG SÁNG CHẾ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Năm
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Đơn đăng ký sáng chế Số lượng 301 382 443 487 583 560 592 646 720
Bằng độc quyền sáng chế Tăng (%) Số lượng 12,4 40 12,50 45 31,11 59 -38,98 36 75,00 63 20,63 76 43,42 109 88,07 205 -17,56 169
Tăng (%) 15,65 26,91 15,97 9,93 19,71 -3,95 5,71 9,12 11,46 Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN
Phụ lục 5: Công bố quốc tế của Việt Nam và các nước ASEAN giai
đoạn 2014 - 2019
2014 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nước
Malaysia 28.865 27.518 30.334 32.776 33.186 35.854 214.020
Singapo 20.064 20.631 21.645 22.343 22.481 22.778 149.325
Indonesia 6.760 8.350 12.427 20.462 32.289 43.816 129.462
Thái Lan 13.675 13.191 14.885 16.446 17.729 19.507 107.944
Việt Nam 4.071 4.529 5.866 6.602 8.821 12.431 46.094
Philipin 2.255 2.727 3.100 3.375 3.731 5.097 22.244
Brunei 391 442 527 513 472 569 3.207
Campuchia 330 359 403 431 486 518 2.800
Myanmar 154 225 313 444 565 729 2.542
Lào 226 247 271 240 297 339 1.827
Nguồn: [12]
189
Lĩnh vực
Phụ lục 6: 10 CHUYÊN NGÀNH NGHIÊN CỨU CÓ SỐ LƯỢNG CÔNG BỐ HÀNG ĐẦU 2015 1.132 967 562(7) 588(5) 567(6) 606(3) 293(10)
2017 2019 2018 2016 1.578 2.488 3.326 1.545 1.273 1.820 2.843 1.340 692(5) 937(4) 1.204 1.927 775(3) 1.057(3) 1.157 1.885 822(5) 1.181 1.778 718(4) 939 1.357 638(7) 746(7) 905 1.289 492(9) 519(10) TT 1 Kỹ thuật 2 Khoa học máy tính 3 Vật lý và thiên văn học 4 Toán học 5 Khoa học vật liệu 6 Dược phẩm/y học 7 Khoa học môi trường
8 591(4) 691(6) 752(6) 1.041 1.202
9 434(8) 479(10) 540(9) 761 917
KH nông nghiệp và sinh học Hóa sinh, di truyền và sinh học phân tử 10 Kỹ thuật hóa học 426(9) 520(8) 564(8) 842 792
Chú thích: Trong ngoặc là thứ tự công bố trong năm tương ứng của lĩnh vực
Nguồn: [12]
Phụ lục 7: 10 TỔ CHỨC CÓ CÔNG BỐ QUỐC TẾ CAO NHẤT NĂM 2019
TT Tên đơn vị Số lượng công bố
1 Trường Đại học Tôn Đức Thắng 2.710
2 Trường Đại học Duy Tân 1.165
3 Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam 1.128
4 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 1.110
5 Đại học Quốc gia Hà Nội 981
6 Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh 554
7 Trường Đại học Hà Nội 553
8 Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 553
9 Viện KHCN tính toán 499
10 Trường Đại học Cần Thơ 320
Nguồn: [12]
190
Phụ lục 8: CÔNG BỐ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM NĂM 2019 THEO CHUYÊN NGÀNH
TT Chuyên ngành Số bài Tỷ lệ (%)
1 Kỹ thuật 3.326 26,76
2 Khoa học máy tính 2.843 22,87
3 Vật lý và thiên văn 1.927 15,50
4 Toán học 1.885 15,16
5 Khoa học vật liệu 1.778 14,30
6 Y học 1.357 10,92
7 Khoa học môi trường 1.289 10,37
8 Hóa học 1.272 10,23
9 Khoa học nông nghiệp và sinh học 1.202 9,67
10 Khoa học xã hội 952 7,66
11 Hóa sinh, di truyền học và sinh học phân tử 917 7,38
12 Kỹ thuật hóa học 792 6,37
13 Năng lượng 761 6,12
14 Kinh doanh, quản trị và kế toán 634 5,10
15 Khoa học trái đất và hành tinh 527 4,24
16 Khoa học ra quyết định 497 4,00
17 Kinh tế, kinh tế lượng và tài chính 466 3,75
Nguồn: [12]
191
Phụ lục 9: PHÂN BỐ CÁN BỘ NGHIÊN CỨU THEO KHU VỰC THỰC HIỆN NĂM 2017
Cán bộ nghiên cứu 2013 2015 2017 Khuvực thực hiện
Tổchức R&D
Tổ chức giáo dục đại học
Doanh nghiệp
Đơn vị hành chính, sự nghiệp
Tổ chức dịch vụ KHCN
Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học Cao đẳng Tổng số 3.781 9.405 15.661 939 29.786 9.624 35.922 19.279 803 65.628 205 1.231 15.876 2.150 19.462 695 3.932 8.296 829 13.752 71 638 1.607 101 2.417 4.029 9.261 12.694 697 26.681 10.619 40.011 17.624 841 69.095 239 1.293 17.126 4.356 23.014 865 4.718 8.069 1.297 14.949 122 607 1.509 93 2.331 3.367 8.815 16.635 1.002 29.819 7.959 31.582 22.819 1.075 63.435 185 1.154 15.175 2.039 18.553 481 3.411 11.403 659 15.954 269 260 652 53 1.234
Nguồn: [11]
192
Phụ lục 10: CHUỖI CÁC HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NĂM 2019
Chuỗi sự kiện TT Địa điểm
1 Trình diễn, kết nối cung cầu công nghệ 2019 Gia Lai
Chợ công nghệ thiết bị và ngày hội khởi nghiệp sáng tạo
2 vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Techmart - Techfest Cần Thơ
Mekong 2019)
Chợ công nghệ và thiết bị chuyên ngành công nghệ sinh 3 Hà Nội học - Biotechmart
Triển lãm quốc tế lần thứ 6 về công nghệ thí nghiệm, phân TP. Hồ 4 tích chuẩn đoán và công nghệ sinh học (Analytica Việt Chí Minh Năm 2019)
Triển lãm quốc tế về sản phẩm, dịch vụ viễn thông, công TP. Hồ 5 nghệ thông tin và truyền thông 2019(Ictcomm 2019) Chí Minh
Triển lãm quốc tế chuyên ngành thiết bị và công nghệ chế 6 Hà Nội biến nông - lâm - thủy sản 2019(Growtech 2019)
7 Triển lãm quốc tế về điều khiển và tự động hóa Hà Nội
Nguồn: [12]
193
Phụ lục 11: CHI CHO R&D THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ NGUỒN CẤP KINH PHÍ NĂM 2017
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tổng chi NSNN NSTW NSĐP Doanh nghiệp Nước ngoài Nguồn khác Nguồn cấp kinh phí Tổ chức GDĐH
12.970,57 5.083,69 1.160,17 344,75 5.266,66 336,88
778,42
10.122,28 326,26
331,29
25,10
8.859,95 553,32
26,36
3.275,74
106,01
93,74
0
2.780,96 294,96
0,06
26.368,59 5.515,96 1.585,20
369,85
16.907,57 1.185,16
804,84
Thành phần kinh tế Nhà nước Ngoài nhà nước Có vốn đầu tư nước ngoài Tổng
Nguồn: Điều tra R&D,
Cục Thông tin KHCN Quốc gia.
Phụ lục 12: GIÁ TRỊ GIAO DỊCH CÔNG NGHỆ TOÀN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP CHẾ TÁC
Tăng
trưởng
Giá tri trung bình
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2012-
(trđ/DN)
2018
Giá
trị mua/nâng
cấp
công
nghệ
474.33 284.92 537.68
816.52
1,065.74 745.46
860.34
10%
trong nước
Giá
trị mua/nâng
cấp
công
nghệ
313.21 300.60 512.84
428.23
663.29
1,038.24 1,369.78
28%
nước ngoài
Tổng
giá
trị
mua/nâng cấp công
787.54 585.52 1,050.52 1,244.75 1,729.03 1,783.70 2,230.12
19%
nghệ
194
Số lượng hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng SHCN đã được đăng ký
Năm
Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng SHCN Các bên ký kết
Các bên ký kết
Tổng số
541 (1666)
2011
37 (153)
31 (87)
594 (1695)
2012
703 (1659)
2013
843 (2221)
2014
848 (2414)
2015
29 (141) 57 (288) 57 (169) 48 (172) 51 (110)
60 (189) 53 (303) 49 (174)
43 (88)
46 (86)
994 (2163)
2016
46 (97)
1015 (2721)
2017
950 (1906)
2018
117 (2492)
2019
VN-VN VN-NN NN-NN Tổng số VN-VN VN-NN NN-NN 179 (820) 206 (908) 220 (558) 334 (802) 307 (827) 334 (885) 339 (961) 267 (614) 376 (959)
710 (1947) 792 (2343) 864 (2073) 935 (2101) 1051 (2736) 1122 (2887) 1180 (2583) 1248 (3364) 134 (2970)
225 (848) 258 (899) 294 (690) 348 (806) 352 (903) 359 (1087) 361 (914) 398 (1231) 394 (958)
325 (693) 357 (700) 423 (912) 456 (1116) 492 (1413) 614 (1192) 630 (1663) 633 (1156) 746 (1426)
456 (958) 477 (1156) 513 (1214) 540 (1123) 648 (1723) 720 (1712) 761 (1540) 781 (1604) 901 (1908)
58 (129) 69 (529) 47 (104)
50 (136) 54 (107)
Phụ lục 13: HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI TƯỢNG SHCN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2019
Nguồn:[27]
195
Phụ lục 14: HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐỐI TƯỢNG SHCN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2019
Số lượng hợp đồng chuyển giao
Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đối tượng SHCN đã
giao quyền sử dụng đối tượng SHCN
được đăng ký
Năm
Các bên ký kết
Các bên ký kết
VN-
NN-
Tổng
VN-
VN-
NN-
VN-VN
Tổng số
NN
NN
số
VN
NN
NN
56
30
170
64
54
25
2011
84 (102)
143 (510)
(205)
(193)
(500)
(73)
(281)
(156)
8
60
16
212
89
45
2012
136 (309)
142 (575)
(320)
(148)
(777)
(198)
(169)
(208)
9
93
21
204
109
46
2013
90 (146)
164 (341)
(369)
(122)
(637)
(152)
(144)
(45)
73
24
206
90
104
22
2014
110 (257)
216 (815)
(455)
(104)
(816)
(188)
(461)
(166)
92
28
255
95
85
23
2015
135 (315)
203 (969)
(714)
(400)
(1429)
(251)
(612)
(106)
89
14
215
118
89
18
2016
112 (200)
225 (1057)
(361)
(84)
(645)
(240)
(455)
(362)
75
14
239
107
61
10
2017
150 (292)
178 (587)
(283)
(35)
(610)
(191)
(337)
(59)
53
11
221
150
75
14
2018
157 (221)
239 (530)
(162)
(30)
(413)
(287)
(226)
(17)
50
26
198
177
41
10
2019
122 (204)
228 (390)
(134)
(79)
(417)
(261)
(98)
(31)
Nguồn:[27]
196
Phụ lục 15: TỔ CHỨC R&D THEO VÙNG ĐỊA LÝ
Tổ chức R&D Vùng
1. Hà Nội 2. TP. Hồ Chí Minh 3. Đồng bằng Sông Hồng 4. Tây Bắc 5. Đông Bắc 6. Bắc Trung Bộ 7. Nam Trung Bộ 8. Tây Nguyên 9. Đông Nam Bộ 10. Đồng bằng sông Cửu Long Tổng Số lượng 329 131 24 9 29 49 29 23 28 36 687 Tỷ lệ % 47,89 19,07 3,49 1,31 4,22 7,13 4,22 3,35 4,08 5,24 100
Nguồn: [11]
Phụ lục 16: TỔ CHỨC KHCN CÓ HOẠT ĐỘNG R&D
Loại hình tổ chức CNC
Vùng
Đại học Dịch vụ
1. Hà Nội 2. TP. Hồ Chí Minh 3. Đồng bằng Sông Hồng 4. Tây Bắc 5. Đông Bắc 6. Bắc Trung Bộ 7. Nam Trung Bộ 8. Tây Nguyên 9. Đông Nam Bộ 10. Đồng bằng sông Cửu Long Tổng
62 46 57 18 57 36 34 18 27 49 404
53 24 14 7 12 20 15 7 14 23 189
Tổng số 444 201 95 34 98 105 78 48 69 108 1280
R&D 329 131 24 9 29 49 29 23 28 36 687
Nguồn: [11]
197
Phụ lục 17: NHÂN LỰC R&D THEO KHU VỰC THỰC HIỆN
VÀ CHỨC NĂNG LÀM VIỆC
Khu vực thực hiện Tổng số
Chức năng làm việc Cán bộ kỹ thuật 2.406 2.981 442 3.148 2.089 Cán bộ nghiên cứu 26.681 69.095 2.331 14.949 23.014
Cán bộ hỗ trợ 5.110 34.197 16.405 88.481 456 3.229 2.487 20.584 26.192 1.089 172.683 136.070 11.066 25.547 Tổ chức nghiên cứu CNC Trường đại học, học viện, cao đẳng Tổ chức dịch vụ nghiên cứu CNC Đơn vị sự nghiệp hành chính Doanh nghiệp Tổng cộng
Nguồn: [11]
Phụ lục 18: NGUỒN CUNG CÔNG NGHỆ QUAN TRỌNG NHẤT CỦA DOANH
NGHIỆP PHÂN THEO NHÓM NGÀNH VÀ VÙNG LÃNH THỔ
Các nước và vùng lãnh thổ phát triển
Ngành
Mỹ Đài Loan Trung Quốc Việt Nam Hàn Quốc + Singapore
Các nước phát triển khác
8.895 1.405 1.308 1.071 1.472 5.810 420 518 685 1,307 2.539 129 698 140 664 Các nước đang phát triển Các nước đang phát triển khác 9.257 9.089 849 268 2.478 980 425 47 1.127 1,425 1.428 79 2,349 240 2.692 544 168 46 37 72
1.443 649 259 1.145 81 905 68
606 270 142 341 26 176 34 Công nghiệp chế tác Chế biến thực phẩm Dệt may Chế biến gỗ giấy Hóa chất, cao su Kim loại và chế tạo máy Điện điện tử máy tính
Nguồn: [15]
198
Phụ lục 19: KINH PHÍ SỰ NGHIỆP KHCN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngân sách TW Ngân sách ĐP Năm Tỷ đồng Tỷ lệ % Tỷ đồng Tỷ lệ %
4.870 5.410 5.813 5.745 7.640 8.121 8.731 9.440 9545 65.315 76 76 75 75 78 78 78 77 78 76,78 1.560 1.750 1.920 1.935 2.150 2.350 2.512 2.750 3280 20.207 24 24 25 25 22 22 22 23 23 23,22 Tổng số (Tỷ đồng) 6.430 7.160 7.733 7.680 9.790 10.471 11.243 12.190 12.825 85.522 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng cộng
Nguồn: [12]
Phụ lục 20: NHU CẦU CÔNG NGHỆ ĐƯỢC HIỂN THỊ TỪCÁC SÀN GIAO
DỊCH CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ VIỆT NAM
TT Tên sàn giao dịch Ghi chú
1 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Việt Nam 2 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hải Phòng 3 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Bắc Giang 4 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị An Giang 5 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hải Dương 6 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Quảng Ninh 7 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Đà Nẵng 8 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hưng Yên 9 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị HCM 10 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Quảng Nam 11 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Cần Thơ 12 Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Hà Tĩnh
Tổng cộng: Cầu công nghệ/Thiết bị 5327 21 10 0 0 0 493 0 0 0 94 14 5959
Nguồn: Thống kê từ các các Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị