
vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
110
lên 2,0 và 95%CI từ 1,36 đến 3,0 và p<0,05. Kết
quả phù hợp với El Taguri A [6]. Học vấn mẹ
thấp, mẹ trẻ và gia đình đông con có liên quan có
ý nghĩa thông kê với SDD thấp còi.
V. KẾT LUẬN
Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê
với SDD thấp còi gồm: nhóm tuổi, cân nặng khi
sinh dưới 2500g, trẻ không được bổ sung vi chất
dinh dưỡng theo lịch, mẹ tăng cân dưới 12 kg
trong khi có thai, chiều cao của mẹ dưới hoặc
bằng 150 cm, trẻ nguồn gốc gia đình nghèo, học
vấn mẹ trung học cơ sở và dưới, mẹ là nông dân.
Yếu tố liên quan không có ý nghĩa thống kê
với suy dinh dưỡng thấp còi bao gồm: mẹ buôn
bán/tự do, nội trợ, công nhân, tuổi mẹ dưới hoặc
bằng 25 tuổi, bú mẹ muộn sau 2 giờ sau khi sinh
và giới tính của trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Huy Khôi (1998). Góp phần xây dựng đường
lối dinh dưỡng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Y học
1998; 9-10.
2. Lê Nam Trà (2000). Suy dinh dưỡng Protein –
năng lượng. Bài giảng Nhi khoa tập 1, NXBYH Hà
Nội 2000; 199-207.
3. Lê Nam Trà (2000). Các thời kỳ của trẻ em đặc
điểm sinh học và bệnh lý từng thời kỳ. Bài giảng
Nhi khoa tập 1, NXBYH Hà Nội 2000; 7-11.
4. Bove I, Miranda T, Campoy C, et al. (2012).
Stunting, overweight and child development
impairment go hand in hand as key problem of
early infancy: Uruguayan case”, Early Hum Dev,
88(9):747-51.
5. Bhutta ZA (2008). Micronutrient needs of
malnourished children; Curr Opin Clin Nutr Metab
Care. 2008 May; 11(3): 309-14.
6. El Taguri A et al (2009). Risk factors for stunting
among under-fives in Libya”, Public Health Nutr,
12(8): 1142-9.
7. Grantham-McGregor S, Cheung YB, Cueto S,
et al. (2007). Developmental potential in the first
5 years for children in developing countries.
Lancet. 2007 Jan 6; 369(9555): 60-70.
8. Kamath SM, Venkatappa KG, Sparshadeep EM
(2017). Impact of Nutritional Status on Cognition
in Institutionalized Orphans: A Pilot Study. J Clin
Diagn Res. 2017 Mar; 11(3): CC01-CC04
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CHỈNH VẸO CỘT SỐNG NGỰC-THẮT LƯNG
VÔ CĂN TUỔI THIẾU NIÊN SỬ DỤNG ROBOT ĐỊNH VỊ
Nguyễn Đình Hòa*, Vũ Văn Cường*
TÓM TẮT29
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chỉnh vẹo
cột sống ngực-thắt lưng vô căn tuổi thiếu niên sử
dụng robot định vị. Đối tượng nghiên cứu: 32 bệnh
nhân tuổi từ 10 đến 18 được chẩn đoán là vẹo cột
sống lưng, thắt lưng vô căn tại khoa Phẫu thuật Cột
sống - Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2017 đến tháng
07/2018. Kết quả: Chiều cao BN tăng sau mổ trung
bình: 4,63± 1,24cm; Tỷ lệ % nắn chỉnh của phẫu
thuật này đối với đường cong chính là 69,82%; Có sự
cải thiện sau mổ so với trước mổ về giá trị tuyệt đối
của dung tích sống thở mạnh (p>0,05) và thể tích thở
ra gắng sức trong một giây đầu tiên (p<0,05). Kết
luận: Phẫu thuật chỉnh vẹo cột sống lưng-thắt lưng
vô căn sử dụng robot định vị ở bệnh nhân tuổi thiếu
niên là phương pháp mới đem lại sự cải thiện đáng kể.
Từ khóa:
vẹo cột sống vô căn, thiếu niên, robot
định vị
SUMMARY
RESULTS OF ROBOT-ASSISTED SURGERY IN
ADOLESCENTS WITH IDIOPATHIC SCOLIOSIS
*Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Đình Hòa
Email: ndhoavietducspine@gmail.com
Ngày nhận bài: 4.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 24.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
Purpose: To evaluate the results of idiopathic
chest-lumbar scoliosis correction of adolescents using
a positioning robot. Study subjects: 32 patients
aged 10 to 18 were diagnosed with idiopathic lumbar-
low back scoliosis at Spine Surgery Department - Viet
Duc Hospital from January 2017 to July 2018. Results:
Average height of patients increased after surgery:
4.63 ± 1.24 cm; The percentage rectification of this
surgery for the main curve is 69.82%; There was an
improvement after surgery compared to the
preoperative in absolute value of forced vital capacity
(p> 0.05) and the Forced Expiratory Volume in the
first second (p <0.05). Conclusion: Using location
robots in adolescent scoliosis scoliosis correction is a
new method bringing significant improvements in
adolescents with idiopathic scoliosis.
Keywords:
idiopathic scoliosis, adolescence,
positioning robot
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vẹo cột sống vô căn từ lâu đã được điều trị
bằng các phương pháp khác nhau như điều trị
bảo tồn bằng kéo nắn và bó bột, áo chỉnh hình
và phẫu thuật. Một vài nghiên cứu đã cho thấy
rằng dưới 10% BN với đường cong trên 10o đòi
hỏi cần được điều trị bảo tồn [2] và tỷ lệ VCS
phải mổ còn nhỏ hơn nữa, tỷ lệ này là dưới 0,1%
[8]. Các tác giả trên thế giới và ở Việt Nam
thường chỉ định phẫu thuật VCS khi góc vẹo này