1
=
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC
NGUYỄN VĂN THẢO
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
PHẪU THUẬT CONG DƢƠNG VẬT BẨM SINH
BẰNG PHƢƠNG PHÁP YACHIA TẠI BỆNH VIỆN
HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ BỆNH VIỆN
THÁI NGUYÊN - NĂM 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC
NGUYỄN VĂN THẢO
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
PHẪU THUẬT CONG DƢƠNG VẬT BẨM SINH
BẰNG PHƢƠNG PHÁP YACHIA TẠI BỆNH VIỆN
HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Chuyên ngành: Ngoại khoa
Mã số: NT 62.72.07.50
LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ BỆNH VIỆN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN QUANG
THÁI NGUYÊN - NĂM 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cong dương vật bẩm sinh (CDVBS) là do sự phát triển không cân xứng
của bao trắng thể hang ở một hay cả hai bên thể hang, gây ra dương vật cong
khi ở trạng thái cương cứng [12], [71]. Theo một số nghiên cứu trên thế giới,
cong dương vật bẩm sinh chiếm tỷ lệ khoảng 0,04% - 0,6% [13], [27], [73],
còn ở Việt Nam tỷ lệ CDVBS chưa được nghiên cứu.
Đối với nam giới trưởng thành, dương vật cong không những gây ảnh
hưởng về mặt chức năng như giao hợp khó, giao hợp đau, không thể giao hợp
mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân như lo lắng, mặc cảm, không tự
tin khi giao hợp, lẩn tránh quan hệ tình dục hoặc sợ bạn tình bỏ do không đáp
ứng sự thỏa mãn về tình dục [39], [61].
Cong dương vật bẩm sinh được điều trị bằng phẫu thuật với nhiều kỹ
thuật khác nhau. Năm 1965, Nesbit [55] là người đầu tiên báo cáo kết quả
điều trị thành công cho 3 trường hợp bằng phẫu thuật cắt bỏ một hay nhiều
mảnh bao trắng hình elip thể hang bên dài, sau đó khâu lại bằng chỉ tiêu. Đến
năm 1985, Essed - Chröeder [28] đã mô tả kỹ thuật khâu gấp bao trắng thể
hang kèm theo bóc tách bó mạch thần kinh lưng dương vật và nhiều tác giả
sau đó đã cải tiến kỹ thuật khâu gấp bao trắng có nhiều thuận lợi hơn [18],
[30], [40], [47]. Năm 1990, Yachia [72] mô tả phẫu thuật rạch dọc trên bao
trắng thể hang và khâu lại thành đường ngang. Một số tác giả khác điều trị
cong dương vật nặng với mảnh ghép tự thân hoặc nhân tạo [5], [38], [68].
Năm 2000, với sự nhất trí của Tổ chức Y tế Thế giới, Ủy ban về bệnh
Peyronie và cong dương vật bẩm sinh đã thống nhất rằng các trường hợp
cong dương vật bẩm sinh ở thanh niên, phương pháp điều trị tốt nhất là khâu
gấp bao trắng hoặc tạo hình thể hang (rạch dọc hay cắt bao trắng thể hang,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trong đó có phẫu thuật Yachia), không dùng mảnh ghép để điều trị [42]. Mỗi
4
kỹ thuật đều có những ưu, nhược điểm riêng do đó sự lựa chọn phương pháp
điều trị còn phụ thuộc vào từng cơ sở điều trị, kinh nghiệm phẫu thuật viên.
Dù phẫu thuật theo phương pháp nào thì các phẫu thuật đều nhằm mục đích
làm thẳng dương vật giúp đảm bảo chức năng, thẩm mỹ và cải thiện tâm lý
cho bệnh nhân [75].
Tại Việt Nam, mặc dù Nam học là chuyên ngành còn mới nhưng đã thu
được nhiều kết quả khả quan trong điều trị bệnh lý cong dương vật bẩm sinh,
một số báo cáo trong nước cho thấy kết quả thành công của phẫu thuật từ
84,6% - 91,7%, khác nhau từng cơ sở và kỹ thuật áp dụng [3], [4], [12]. Tại
khoa Nam học bệnh viện Bình Dân, CDVBS phần lớn được điều trị bằng
phẫu thuật khâu gấp bao trắng thể hang theo Baskin - Lue [4], [12]. Còn ở
trung tâm Nam học bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức thì bệnh lý CDVBS được
phẫu thuật chủ yếu theo kỹ thuật của Yachia [3]. Tuy nhiên, do tỷ lệ bệnh ít
gặp và số lượng bệnh nhân đến khám còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
trình độ dân trí. Do đó, các đề tài trong nước nghiên cứu về đặc điểm lâm
sàng và kết quả phẫu thuật điều trị bệnh lý này còn rất ít. Chính vì vậy, chúng
tôi tiến hành đề tài “Đánh giá kết quả phẫu thuật cong dƣơng vật bẩm
sinh bằng phƣơng pháp Yachia tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” với hai
mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dương vật
bẩm sinh được phẫu thuật tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phương pháp Yachia.
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Phôi thai học và giải phẫu dƣơng vật
1.1.1. Phôi thai học bộ phận sinh dục ngoài của nam giới
Bộ phận sinh dục ngoài của nam giới bao gồm bìu và dương vật. Ban
đầu bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ giống nhau, điểm khác biệt về
hình thái bộ phận sinh dục ngoài bắt đầu từ tuần lễ thứ 9 và có thể phân biệt
bộ phận sinh dục ngoài của nam hay nữ vào tuần thứ 12 của thai kỳ [2].
Hình 1.1. Sự hình thành bộ phận sinh dục ngoài nam giới
“Nguồn: Park J. M. (2012), Campbell - Walsh Urology” [59].
Củ sinh dục và nếp niệu dục tạo nên thân dương vật: củ sinh dục to
thêm, kéo các nếp niệu dục khép về hướng mặt bụng và dính lại tạo nên vách
của rãnh niệu đạo phía bụng dương vật. Rãnh này có biểu mô nội bì kéo dài từ
củ sinh dục đến xoang niệu - dục.
Rãnh niệu đạo tạo đoạn niệu đạo xốp, tấm niệu đạo quy đầu tạo niệu
đạo quy đầu, ngoại bì dính lại theo đường giữa tạo nên đường giữa dương vật
ôm lấy niệu đạo xốp vào bên trong. Cùng lúc đó miệng niệu đạo ngoài di
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chuyển về phía quy đầu.
6
Ở chóp quy đầu, ngoại bì tăng sinh về phía trong tạo nên một dãy tế bào
gọi là tấm niệu đạo quy đầu tiến về phía niệu đạo xốp, sau đó tạo lòng nối với
đoạn niệu đạo xốp và tạo nên toàn bộ niệu đạo có lỗ ngoài ở chóp quy đầu.
Ngoại bì tạo nên quy đầu trong tuần thứ 12, ngoại bì xung quanh quy
đầu khuyết lại tạo nên vành quy đầu.
Trung mô của củ sinh dục và nếp sinh dục tạo nên mô cương dương
vật. Thể hang và thể xốp của dương vật có nguồn gốc trung mô củ sinh dục và
các nếp sinh dục.
Gờ môi - bìu tạo nên bìu, các gờ môi bìu tiến sát vào nhau rồi sáp nhập
tạo nên bìu, chỗ dính nhau ở giữa gọi là đường giữa bìu [2].
1.1.2. Giải phẫu dương vật
Dương vật thuộc bộ phận sinh dục ngoài của nam giới, đảm nhiệm hai
chức năng là tiểu tiện và sinh dục. Khi mềm, dương vật dài khoảng 10 cm
nằm trước bìu, phần trước di động và phần sau cố định. Dương vật gồm một
rễ, một thân và quy đầu [1], [10].
- Rễ dương vật gắn hai thể hang vào bờ dưới xương mu bởi dây chằng
treo dương vật.
- Thân dương vật được cấu tạo bởi hai thể hình trụ ở hai bên lưng dương
vật gọi là thể hang và một thể xốp nằm ở bụng dương vật bao quanh niệu đạo.
Một bao xơ hai lớp gọi là bao trắng bao bọc thể hang, bao này kết hợp lại để
tạo ra một vách liên thể hang có các lỗ thông giúp cho hai thể hang hoạt động
như một đơn vị duy nhất. Một lớp màng trắng mỏng hơn bao quanh thể xốp.
Cả ba thành phần này của dương vật được bao quanh bởi hai lớp mạc gồm các
tổ chức sợi. Mạc sâu dương vật còn gọi là mạc Buck, mạc nông dương vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
còn gọi là mạc Dartos [1], [10].
7
Hình 1.2. Bộ phận sinh dục ngoài nam
“Nguồn: Nguyễn Quang Quyền (2010), Atlas giải phẫu người” [11].
- Quy đầu được bao bọc nhiều hay ít trong một nếp nửa niêm mạc, nửa
da gọi là bao quy đầu mà ở mặt dưới dày lên thành một nếp gọi là hãm bao
quy đầu. Quy đầu màu hồng nhạt, ở đỉnh quy đầu có miệng niệu đạo và ở đáy
giới hạn bởi vành quy đầu. Vành quy đầu là một bờ lồi chạy chếch xuống
dưới và ra trước nên quy đầu ở trên dài gấp đôi ở dưới. Cổ quy đầu nằm giữa
thân và vành quy đầu.
1.1.2.1. Thể hang và thể xốp
Các tạng cương của dương vật gồm hai thể hang và một thể xốp, trong
đó hai thể hang là tạng cương chính.
Thể hang dương vật gồm hai thể hình trụ dẹt dài khoảng 15 cm thu hẹp ở
hai đầu. Phần sau gọi là trụ của vật hang, dính vào ngành dưới xương mu và
có cơ ngồi hang ôm quanh ba mặt của thể hang. Phần trước của thể hang tựa
vào nhau như hai nòng súng, thu hẹp lại ở hai đầu và được ôm gọn trong đáy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
của quy đầu [1], [10].
8
Thể xốp dương vật hình trụ dẹt nằm trong rãnh ở phía dưới của thể
hang, phía trước úp vào hai mặt trước của thể hang tạo thành quy đầu, ở
giữa thể xốp có niệu đạo. Thể xốp và quy đầu liên tiếp với nhau tạo thành
một thể thống nhất. Phần sau của thể xốp phình to thành hành xốp dương
vật, hai cơ hành xốp dương vật dính vào nhau ở đường giữa như một võng
để thể xốp nằm lên trên, cơ hành xốp còn tách ra một bó vòng lên phía lưng
dương vật để nối với bó đối diện. Khi các cơ ngồi hang và cơ hành xốp co
thì máu trong các tạng cương sẽ dồn về phía trước làm cho dương vật trở
nên cương cứng hơn [1], [10].
Da
1.1.2.2. Các lớp bao bọc dương vật
“ Nguồn: Chung B. I. (2012), Campbell - Walsh Urology” [22].
Hình 1.3. Thiết đồ cắt ngang qua dương vật
Dương vật được bao bọc từ nông vào sâu gồm các lớp sau [22]:
- Da ở ngoài cùng, mềm mại và liên tiếp với da của bao quy đầu.
- Lớp tổ chức tế bào nhão dưới da.
- Mạc nông dương vật nằm trong lớp tổ chức tế bào nhão.
- Mạc sâu dương vật bọc quanh thể hang và thể xốp. Các mạch máu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thần kinh nằm trong mạc này.
9
- Bao trắng bao bọc xung quanh hai thể hang, bao trắng của hai thể hang
gặp nhau ở giữa tạo thành vách dương vật.
Trong phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh, cần bóc tách được
da và lớp mạc nông dương vật về gốc dương vật để tạo hình dương vật bằng
cách can thiệp trực tiếp trên bao trắng của thể hang. Do các lớp bao bọc
dương vật tương đối mỏng nên nếu khâu trên bao trắng thể hang bằng chỉ
không tiêu thì cộm nốt chỉ dưới da là khó tránh khỏi. Khi đóng vết mổ cần
khâu 2 lớp theo giải phẫu và băng ép dương vật hạn chế biến chứng phù nề
dương vật.
1.1.2.3. Giải phẫu, mô học bao trắng thể hang
Với giải phẫu dương vật liên quan đến cong dương vật bẩm sinh, bao
trắng thể hang là thành phần quan trọng nhất. Sự phát trển không cân xứng
của bao trắng từ trong thời kỳ bào thai gây nên cong dương vật bẩm sinh.
Các phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh đều can thiệp trực tiếp
trên bao trắng thể hang. Trong phẫu thuật Yachia, bao trắng thể hang bên
dài được xẻ theo đường dọc sau đó khâu lại thành đường ngang để chỉnh
thẳng dương vật [70].
Bao trắng thể hang cấu tạo gồm hai lớp, lớp dọc phía ngoài và lớp vòng
ở phía trong. Lớp phía ngoài mỏng hơn ở phía bụng dương vật, bao trắng ở vị
trí 05 giờ và 07 giờ gần thể xốp chỉ có một lớp trong (lớp vòng), không có lớp
ngoài (lớp dọc) [50], [65].
Độ dày của bao trắng khác nhau tùy vào vị trí theo chu vi của bao trắng
thể hang, trên diện cắt ngang qua dương vật thì độ dày thay đổi khoảng 0,8 mm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ở vị trí 05 giờ và 07 giờ, dày khoảng 2,2 mm ở vị trí 01 giờ và 11 giờ [50].
10
Lớp dọc (bao trắng) Xoang hang
Lớp vòng (bao trắng) Niệu đạo
Hình 1.4. Cắt ngang qua dương vật
“Nguồn: Lue T. F. (2007), Campbell - Walsh Urology” [50].
Bao trắng thể hang được cấu tạo chủ yếu là những bó collagen dày và
một số sợi đàn hồi. Sợi collagen và sợi đàn hồi nằm xen kẽ nhau làm cho bao
trắng có độ chun giãn và đàn hồi cao. Lúc dương vật mềm bao trắng có độ
dày 2 - 3 mm, nhưng khi dương vật cương cứng bao trắng có độ dày chỉ còn
khoảng 0,5 mm. Trong thể hang có vách không hoàn toàn chia thể hang thành
những xoang hang, vách này là những tổ chức sợi [15], [50].
Tất cả những động mạch hình sin và các nhánh xoắn trong xoang hang
được bao quanh bởi lớp sợi collagen, các thần kinh trong xoang hang cũng
được định vị trong đường hầm sợi collagen.
Những màng sợi trong mô thể hang gắn chắc tất cả các thành phần trong
bao trắng như màng sợi ở động mạch, màng sợi ở thần kinh. Phần lớn nhu mô
thể hang được cấu tạo bằng cơ trơn, chúng xếp thành các bó và các bó cơ trơn
này cùng với màng sợi collagen có một đầu chui vào cột sợi của bao trắng tạo
thành các vách xoang của thể hang.
Ở những bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh, tại vị trí cong của dương
vật có sự thay đổi trong cấu trúc của bao trắng, các sợi collagen lớn hơn và có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sự tích lũy elastin, tăng sinh của tổ chức sợi [24], [35].
11
(A).Cắt dọc sợi collagen (B).Cắt ngang sợi collagen
“Nguồn: Darewicz B. (2001), Ultrastructure of the tunica albuginea in congenital
penile curvature” [24].
Hình 1.5. Mô học bao trắng cong dương vật bẩm sinh
Do giải phẫu của bao trắng thể hang, bên dưới bao trắng là tổ chức mô
cương và các xoang hang, do đó khi can thiệp rạch trên bao trắng thể hang có
nguy cơ tổn thương mô cương. Khi khâu bao trắng nếu không khâu kín sẽ có
nguy cơ chảy máu gây tụ máu dưới da dương vật.
1.1.2.4. Mạch máu, thần kinh dương vật
“Nguồn: Chung B. I. (2012), Campbell - Walsh Urology” [22].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hình 1.6. Mạch máu và thần kinh dương vật
12
- Động mạch:
Động mạch dương vật bắt nguồn từ động mạch thẹn trong chia thành các
nhánh nhỏ là động mạch thể hang, động mạch lưng dương vật, động mạch
niệu đạo và động mạch hành. Động mạch thể hang hay động mạch sâu dương
vật chạy giữa trục thể hang, ở đó nó chia thành nhiều nhánh xoắn gọi là động
mạch xoắn và đổ máu vào các xoang hang. Động mạch lưng dương vật chạy ở
lưng và ở dưới lớp mạc sâu dương vật.
Động mạch nông dương vật là những nhánh nhỏ nằm trong các lớp tổ
chức tế bào nhão dưới da có nguồn gốc từ động mạch thẹn ngoài và động
mạch đáy chậu nông [10], [65].
- Tĩnh mạch:
Dẫn lưu tĩnh mạch gồm dẫn lưu nội hang và ngoại hang [10], [22], [43]:
+ Dẫn lưu nội hang nằm giữa mô cương ngoại vi và bao trắng, gồm một
nhóm các tiểu tĩnh mạch xuất, các tĩnh mạch này chui qua bao trắng đổ vào
các tĩnh mạch ngoài bao trắng. Khi dương vật mềm, máu trong các xoang tĩnh
mạch có thể dễ dàng ra ngoài qua tĩnh mạch xuất nhưng khi dương vật cương
các tĩnh mạch xuất bị đè ép lại giữa bao trắng và xoang hang không cho máu
tĩnh mạch ra ngoài xoang để duy trì trạng thái cương.
+ Dẫn lưu ngoại hang hay dẫn lưu ngoài bao trắng thể hang có 3 đường:
Tĩnh mạch lưng sâu nhận máu chủ yếu từ đoạn xa của thể hang rồi đổ vào
đám rối Santorini. Tĩnh mạch lưng nông nhận máu từ da và quy đầu, thông
với tĩnh mạch lưng sâu. Tĩnh mạch thể hang và tĩnh mạch đùi nhận máu phần
gốc thể hang rồi đổ vào đám rối Santorini và tĩnh mạch thẹn trong.
- Thần kinh:
Thần kinh chi phối cho dương vật gồm thần kinh thẹn và thần kinh tự
chủ. Thần kinh lưng dương vật tách ra từ thần kinh thẹn, thần kinh thể hang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dương vật thuộc hệ thần kinh tự chủ.
13
+ Thần kinh thẹn khi đến niệu đạo màng, phân chia những nhánh nông đi
vào phía bên mặt ngoài của cơ thắt niệu đạo vị trí 03 giờ và 09 giờ, những
nhánh sâu đâm xuyên vào cơ này và chia những nhánh nhỏ ở đoạn niệu đạo
màng. Chúng kết hợp thành từ 01 đến 03 bó riêng biệt khi đến dương vật và
liên quan với niệu đạo màng ở vị trí 11 giờ và 01 giờ, đi phía trên của tĩnh
mạch thể hang và từ giữa lưng đến động mạch thể hang [50]. Thần kinh lưng
dương vật phân bố các dây thần kinh cho quy đầu và dương vật, ngoại trừ
hãm quy đầu được cả thần kinh lưng dương vật và một nhánh của thần kinh
đáy chậu chi phối. Thần kinh lưng dương vật tiếp nhận những nguồn hướng
tâm đầu tiên từ phía ngoài vào, chi phối tình trạng cương và xuất tinh [74].
+ Thần kinh giao cảm và phó giao cảm cùng với thần kinh lưng dương
vật và thần kinh vùng đáy chậu cho những nhánh cảm giác và vận động [10],
[50], [74]. Ngoài nhiệm vụ chi phối cảm giác và chức năng của dương vật, hệ
thống cảm giác bản thể còn cung cấp những cấu trúc đặc biệt để truyền thông
tin từ môi trường ngoài vào. Có 4 loại cảm giác bản thể gồm: cảm giác đau,
nhiệt độ, vị trí và cảm giác chạm - sức ép [64].
1.2. Sinh lý cƣơng dƣơng vật
Sinh lý sinh dục nam được điều hòa bởi cơ chế thần kinh - thể dịch. Quá
trình cương trải qua các giai đoạn hưng phấn, cương, thăng bằng, thoái lui.
- Cơ chế thần kinh [6], [9]:
+ Cảm giác được thần kinh thẹn truyền từ cơ quan sinh dục tới S2 - S4
tủy sống rồi truyền lên vùng gian bán cầu và đồi thị. Thần kinh phó giao cảm
truyền tín hiệu xuống tủy sống ở S2 - S4 và truyền đến dương vật.
+ Thần kinh phó giao cảm gây giãn mạch và giãn cơ trơn thể hang, thể
xốp để máu dồn vào dương vật làm cho dương vật chuyển từ trạng thái mềm
sang trạng thái cương. Trạng thái cương được duy trì qua cung phản xạ bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
kích thích xúc giác tại dương vật qua thần kinh thẹn tới tủy sống.
14
+ Thần kinh giao cảm truyền tín hiệu tới tủy sống ở T11- L2, qua đám
rối chậu, hạ vị, mạc treo tới dương vật. Thần kinh giao cảm gây ra xuất tinh
qua cơ chế kết hợp co bóp của cổ bàng quang, tiền liệt tuyến, túi tinh. Thần
kinh chủ động gây co các cơ vùng sàn chậu góp phần làm cho dương vật cương
cứng tối đa và tiết tinh dịch.
+ Khi khoái cảm giảm xuống, thần kinh giao cảm gây co mạch máu và
cơ trơn mạch máu dương vật làm lượng máu đến giảm, máu thoát ra ngoài
nhiều hơn và dương vật xẹp xuống trở về trạng thái mềm.
+ Quá trình hoạt động này thông qua các chất trung gian hóa học, chủ
yếu là acetylcholine và các chất thần kinh không adrenegic - không
cholinergic, nitric oxide, yếu tố dẫn truyền thần kinh và cơ quan thụ cảm.
+ Nitric oxide (NO) là một chất dẫn truyền chính của sự giãn cơ trơn
dương vật, được phóng thích từ các sợi thần kinh không adrenergic - không
cholinergic và tế bào nội mạc. NO kích hoạt men guanylate cyclase để làm
tăng guanosine monophosphate vòng (cGMP) nội bào, rồi một loạt các phản
ứng sinh hóa diễn ra đưa tới sự thay đổi tính thấm của các kênh trao đổi ion
kali và calci, để sau cùng nồng độ ion calci nội bào giảm, gây ra giãn cơ trơn
và làm tăng dòng máu đến dương vật gây dương vật cương cứng. Men
phosphodiesterase type 5 (PDE 5) trong thể hang điều hòa chu trình này bằng
cách biến đổi cGMP thành 5‟ GMP, đưa đến sự gia tăng nồng độ ion calci nội
bào và làm co cơ
+ Các yếu tố khác như chuỗi hoạt mạch ruột (vasoactive intestinal
peptide - VIP), prostaglandins và các chuỗi khác cũng có thể liên quan tới quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trình cương dương vật.
15
Hình 1.7. Cơ chế cương tại tế bào qua chu trình NO - cGMP
“Nguồn: Lue T. F. (2007), Campbell - Walsh Urology” [50].
- Cơ chế thể dịch: Dưới tác động của cảm giác đặc biệt và kích thích tâm
lý, tín hiệu được chuyển đến vỏ não, đồi thị rồi tác động đến thùy trước tuyến
yên để tiết ra Luteinizing hormone (LH) và Follicle Stimulating hormone
(FSH). LH tác động đến tế bào Leydig ở tinh hoàn sản xuất ra testosterone,
lượng testosterone tăng trong máu làm tăng ham muốn tình dục.
- Quá trình cương tại dương vật diễn ra theo thứ tự như sau:
+ Giãn động mạch và mao mạch thể hang làm tăng lưu lượng máu vào
dương vật.
+ Các xoang hang chứa đầy máu và căng phồng.
+ Đám rối tĩnh mạch nhỏ bị ép giữa lớp bao trắng và các xoang hang
căng phồng làm giảm lưu lượng máu tĩnh mạch ra.
+ Lớp bao trắng căng phồng, ép vào đám rối tĩnh mạch ngoài bao trắng
làm giảm lưu lượng máu ra dẫn đến tăng áp lực trong thể hang, cơ ngồi hang
và cơ hành xốp co làm cho dương vật cứng hoàn toàn, lúc này áp suất trong
thể hang có thể đạt tới hàng trăm mmHg, khi đó dòng máu ra vào dương vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sẽ tạm ngừng.
16
Hình 1.8. Cơ chế cương dương vật
“Nguồn: Lue T. F. (2007), Campbell - Walsh Urology” [50].
+ Sau khi xuất tinh hay ngưng kích thích tình dục, các cơ trơn bao quanh
động mạch và xoang hang co thắt lại, dòng máu đến giảm và dẫn lưu máu tĩnh
mạch của các xoang hang được mở ra, đưa dương vật về trạng thái mềm.
Trong phẫu thuật dương vật, gây cương nhân tạo dựa trên nguyên tắc
ngăn cản dòng máu về bằng cách dùng sonde nelaton hoặc dải băng cao su
đàn hồi để garo ở gốc dương vật và bơm nước muối sinh lý vào thể hang để
gây cương. Qua đó, việc xác định vị trí, hướng cong và độ cong dương vật sẽ
chính xác hơn.
1.3. Phân loại cong dƣơng vật
Có nhiều cách phân loại cong dương vật [19], [26], [48], [52]. Năm
1973, Devine và Horton [52] đề xuất phân loại cong dương vật theo nguyên
nhân bệnh học và bệnh lý cong dương vật bẩm sinh được xếp vào phân loại
này, sau đó nhiều tác giả khác cũng áp dụng theo phân loại cách phân loại của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Devine và Horton [53], [63], [76].
17
(I: Loại I) (II: Loại II) (III: Loại III) (IV: Loại IV) (V: Loại V) (Normal: Bình thường)
Devine và Horton [52] chia cong dương vật thành 5 loại như sau:
Hình 1.9. Phân loại cong dương vật theo Devine và Horton
“Nguồn: McCammon K. A. (2004), Glenn’s Urologic Surgery” [52].
- Loại I: Miệng niệu đạo nằm ở đỉnh quy đầu. Biểu mô niệu đạo bắc cầu
với thể xốp và các mô nông xung quanh bị sai lệch. Có da bao phủ ống biểu
mô niệu đạo.
- Loại II: Một dãy mô xơ loạn sản, xuất phát từ chủ mô hình thành mạc
nông và mạc sâu của dương vật, nằm phía bên và phía dưới niệu đạo. Niệu
đạo được bao bọc xung quanh bởi thể xốp bình thường.
- Loại III: Niệu đạo, thể xốp và mạc sâu dương vật phát triển và kết hợp
về phía bụng bình thường. Có một vùng mô không đàn hồi trong mạc nông
gây cong dương vật tương đối.
- Loại IV: Niệu đạo, thể xốp và các lớp cân phát triển bình thường. Một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bên bao trắng thể hang tương đối ngắn hoặc không đàn hồi.
18
- Loại V: Niệu đạo ngắn bẩm sinh. Các thành phần của dương vật kết nối
với nhau đúng (bao trắng, biểu mô niệu đạo, thể xốp, mạc nông, mạc sâu và
da mặt bụng dương vật).
Theo phân loại trên, cong dương vật không kèm lỗ tiểu đóng thấp thuộc
loại I, II và loại III. Cong dương vật bẩm sinh thuộc loại IV [53], [63], [76].
Còn loại V: rất hiếm gặp.
1.4. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân cong dƣơng vật bẩm sinh
- Tuổi:
Cong dương vật bẩm sinh xuất hiện từ lúc mới sinh, nhưng đa số bệnh
nhân đến khám ở tuổi dậy thì trở đi bởi vì lứa tuổi này bệnh nhân dễ nhận biết
về những bất thường về bộ phận sinh dục và những rối loạn về mặt chức năng
dẫn đến bệnh nhân phải vào viện khám và điều trị [71]. Tuổi trung bình của
bệnh nhân trong nghiên cứu của Ghanem [30] là 27 tuổi, nghiên cứu của
Popken [61] là 23 tuổi. Võ Hoàng Tâm [12] báo cáo 36 trường hợp tại bệnh
viện Bình Dân, tuổi trung bình là 26,6 ± 6,4 tuổi (từ 19 - 40 tuổi). Tại bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức, Trịnh Hoàng Giang [3] báo cáo 26 trường hợp, tuổi
trung bình là 25,3 ± 6,8 tuổi (từ 17 - 38 tuổi).
- Lý do vào viện:
Phần lớn bệnh nhân đã giao hợp trước mổ, bệnh nhân vào viện khám và
điều trị có thể với nhiều lý do khác nhau, lý do chính vẫn là các rối loạn về
chức năng tình dục như giao hợp khó, giao hợp đau và không giao hợp được,
kế đến là lý do ảnh hưởng đến tâm lý và thẩm mỹ [12]. Kết quả nghiên cứu
trên 36 trường hợp của Võ Hoàng Tâm và cộng sự cho thấy có 27 trường hợp
đã giao hợp trước mổ, 63% giao hợp khó, 14,8% không giao hợp được, 40,7%
bạn tình đau khi giao hợp, 9 trường hợp chưa giao hợp thì 5 trường hợp ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hưởng đến tâm lý và 4 trường hợp ảnh hưởng đến thẩm mỹ [12].
19
- Hướng cong, vị trí và độ cong dương vật
Thăm khám khi dương vật mềm không phát hiện được mà phải khám
khi dương vật cương cứng. Để đánh giá độ cong, bệnh nhân tự chụp ảnh
dương vật khi cương là cơ sở đánh giá tốt nhất [71]. Theo tác giả Yachia, cần
có các ảnh sau để đánh giá độ cong, hướng cong dương vật khi cương: chụp
từ trên xuống dưới (máy ảnh để sát thân mình, trục lấy ảnh song song mặt
phẳng trước - hình 1.10 A), từ trái sang phải và từ phải sang trái (trục lấy ảnh
vuông góc với mặt phẳng cắt dọc giữa, máy ảnh để trước hai bên hông - hình
1.10 B), từ trước ra sau (trục lấy ảnh vuông góc với mặt phẳng trước - hình 1.10
C) [71].
C
(A). Chụp từ trên xuống (B). Chụp ngang hai bên hông (C). Chụp từ trước ra sau
B A
Hình 1.10. Chụp ảnh dương vật khi cương
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [71].
+ Hướng cong dương vật khi cương:
Cong dương vật bẩm sinh là do sự phát triển không cân xứng của bao
trắng thể hang, có thể ở một hay cả hai bên thể hang gây nên dương vật cong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khi cương cứng, có thể cong sang bên, cong lên hoặc cong xuống [71].
20
Năm 2007, Hsieh [40] và cộng sự nghiên cứu trên 114 trường hợp
được phẫu thuật từ 1/1999 - 7/2005, dương vật cong xuống dưới 60,5%, cong
sang trái 23,7%, cong sang phải 3,5%, cong lên 2,6%. Võ Hoàng Tâm [12]
nghiên cứu 36 trường hợp, dương vật cong xuống 27,8%, cong sang trái
41,7%, cong sang phải 5,5 %, không có trường hợp nào cong lên. Nghiên cứu
của Lee [47] và cộng sự trên 68 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh từ
1/1992 - 1/2002, dương vật cong xuống dưới 49%, cong sang trái 34%, cong
sang phải 4%, cong lên 0%.
+ Vị trí cong dương vật khi cương:
Trong các nghiên cứu về cong dương vật, rất ít tác giả đề cập đến vị trí
cong dương vật. Năm 1987, Kelâmi [45] báo cáo 125 trường hợp từ 1976 -
1986 với tỷ lệ cong cho 3 vị trí là: 32% đoạn 1/3 trong, 60% đoạn 1/3 giữa,
8% đoạn 1/3 ngoài. Theo nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm [12], cong vị trí 1/3
trong, 1/3 giữa,1/3 ngoài lần lượt là 13,9%; 83,3%; 2,8%.
+ Độ cong dương vật khi cương:
Độ cong dương vật khi cương được đo bằng thước đo độ, đo trực tiếp
lúc dương vật cương hoặc bệnh nhân tự chụp ảnh dương vật tại nhà theo
hướng dẫn, từ ảnh này xác định được độ cong dương vật. Có thể gây cương
nhân tạo để đánh giá độ cong trực tiếp trong mổ [71].
Đo độ cong dương vật bằng cách gây cương dương vật nhân tạo như
sau: Sau khi phẫu tích da dương vật ra khỏi thân tới bờ xương mu, dùng dải
băng cao su đàn hồi hoặc sonde nelaton thắt lại ở gốc dương vật, bơm nước
muối sinh lý vào thể hang qua kim nhỏ làm cho thể hang căng phồng. Lúc đó
đánh giá độ cong dương vật sẽ rõ ràng hơn [42]. Tuy nhiên, ngày nay có thể
dùng nhiều loại thuốc pha lẫn nước muối sinh lý để gây cương nhân tạo như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
papaverin, edex hoặc caverject,…
21
a. Đường thẳng theo trục bình thường
b. Đường thẳng theo trục lệch hướng
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [71].
Hình 1.11. Đo độ cong của dương vật khi cương qua ảnh chụp
Đo độ cong của dương vật qua ảnh chụp dương vật khi cương: kẻ một
đường thẳng dọc theo trục của dương vật bình thường từ gốc dương vật, một
đường thẳng khác dọc theo trục lệch hướng lúc dương vật cương từ miệng
niệu đạo, hai đường thẳng này gặp nhau ở điểm cong nhất. Sau khi kẻ xong,
đo góc giữa hai đường thẳng này để xác định độ cong hoặc có thể đo trực tiếp
khi dương vật cương cứng bằng thước đo độ [71].
Tác giả Popken [61] phẫu thuật 50 trường hợp, độ cong dương vật
trung bình là 40 độ, lớn nhất là 95 độ, nhỏ nhất là 30 độ. Nghiên cứu của
Perdzynski [60] trên 111 bệnh nhân, độ cong trung bình là 60 độ (từ 30 - 90
độ). Theo Trịnh Hoàng Giang [3], có 26 trường hợp được nghiên cứu, độ
cong dương vật trung bình khi cương trước mổ là 56,3 độ. Võ Hoàng Tâm
[12] nghiên cứu trên 36 trường hợp, độ cong dương vật trung bình khi cương
trước mổ là 37,5 ±10,6 độ, cong lớn nhất là 90 độ, nhỏ nhất là 30 độ.
- Chiều dài dương vật khi cương:
Đo chiều dài dương vật được tác giả Awwad [16] mô tả như sau:
Chiều dài dương vật được xác định bằng cách đo ở mặt lưng của dương vật,
điểm bắt đầu tại gốc nơi nối giữa da dương vật và vùng mu, đẩy qua lớp mỡ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đệm vùng trước xương mu áp vào xương mu, đo đến điểm cong nhất và từ
22
điểm cong nhất tới miệng niệu đạo. Theo nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm
[12], chiều dài dương vật trung bình của bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh
là 12,69 ± 0,69 cm. Theo Andrews [14], ở những bệnh nhân cong dương vật
bẩm sinh chiều dài dương vật khi cương dài hơn chiều dài trung bình dương
vật khi cương của nam giới trưởng thành.
Chẩn đoán CDVBS chủ yếu dựa vào bệnh sử và thăm khám lâm sàng,
các xét nghiệm và cận lâm sàng không có giá trị trong chẩn đoán và thường
chỉ chuẩn bị cho phẫu thuật khi bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật.
1.5. Phẫu thuật điều trị cong dƣơng vật bẩm sinh
1.5.1. Chỉ định phẫu thuật
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đã báo cáo về điều trị phẫu thuật
cong dương vật bẩm sinh, nhưng chưa có chỉ định phẫu thuật thống nhất
chung cho các trường hợp bởi vì còn phụ thuộc vào các rối loạn do dương vật
cong gây ra với từng bệnh nhân. Dưới đây là các chỉ định phẫu thuật đã được
ghi nhận [12], [29], [30], [41], [47], [61], [71]:
- Dương vật cong ≥ 30 độ.
- Dương vật cong có rối loạn chức năng tình dục: giao hợp khó, không
giao hợp được hoặc làm bạn tình đau khi giao hợp.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng tâm lý.
- Cong dương vật gây ảnh hưởng thẩm mỹ.
1.5.2. Các phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh
Cong dương vật bẩm sinh được điều trị phẫu thuật bằng nhiều kỹ thuật
khác nhau, có thể chia thành các nhóm phẫu thuật: Làm ngắn bên dài, làm dài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bên ngắn, tách rời thể hang và thể xốp [7].
23
1.5.2.1. Phẫu thuật làm ngắn bên dài
Phẫu thuật làm ngắn bên dài điều trị cong dương vật gồm ba nhóm
phẫu thuật cơ bản: Phẫu thuật Nesbit (cắt bỏ bao trắng thể hang hình elip sau
đó khâu lại), phẫu thuật Nesbit cải biên (phẫu thuật Yachia: rạch dọc trên bao
trắng thể hang, sau đó khâu lại thành đường ngang), phẫu thuật khâu gấp bao
trắng (chỉ có những mũi khâu đơn thuần ngoài bao trắng) [18].
- Phẫu thuật Nesbit:
Năm 1965, phẫu thuật cắt và khâu bao trắng được tác Nesbit [55] lần
đầu tiên áp dụng để điều trị cong dương vật bẩm sinh. Phẫu thuật này cắt bỏ
một hay nhiều mảnh bao trắng hình elip của thể hang bên dài ở một hay
1. Cắt bao trắng hình elip
2. Khâu kín bao trắng mũi rời
nhiều vị trí sau đó khâu lại bao trắng với các mũi rời, khâu bằng chỉ tiêu.
Hình 1.12. Phẫu thuật Nesbit
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Phẫu thuật Nesbit đạt được những thành công về khả năng chỉnh thẳng
dương vật cũng như sự hài lòng của bệnh nhân và có ưu điểm là dùng chỉ tiêu
nên không để lại nốt chỉ sau mổ. Tuy nhiên, có nhược điểm là dễ chảy máu
gây tụ máu dương vật sau mổ, tổn thương mô cương và ngắn dương vật do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phải cắt bỏ một phần bao trắng thể hang hình elip ở một hay nhiều vị trí.
24
Nhằm hạn chế những biến chứng do phẫu thuật Nesbit, những phẫu thuật
cải tiến kỹ thuật trên đã được báo cáo. Những phẫu thuật này chỉ rạch trên bao
trắng thay vì cắt bỏ hình elip, sau đó khâu lại bao trắng bằng chỉ tiêu hoặc
không tiêu.
- Phẫu thuật Yachia (rạch dọc trên bao trắng thể hang bên dài sau đó
khâu lại thành đường ngang):
Năm 1990, Yachia [72] mô tả phẫu thuật này để điều trị bệnh Peyronie
và cũng được áp dụng để điều trị cong dương vật bẩm sinh. Sau đó, nhiều tác
giả khác như Popken (1999) [61], Paez (2007) [58], Ghanem (2008) [30],…
đã áp dụng điều trị hai bệnh lý trên.
1. Allis kẹp bao trắng 2. Rạch dọc bao trắng 3. Giới hạn vết rạch 4. Dùng móc nhỏ kéo thành đường ngang
5. Khâu kín vết rạch 6. Khâu vùi mép 7. Khâu xong
Kỹ thuật này được tác giả Yachia mô tả như sau:
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Hình 1.13. Phẫu thuật Yachia
+ Rạch da quanh chu vi dương vật cách rãnh quy đầu 0,5 – 1 cm. Bóc
tách đẩy da và mạc nông dương vật xuống sát gốc tới bờ xương mu, garo gốc
dương vật và gây cương nhân tạo bằng nước muối sinh lý để kiểm tra vị trí, độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cong dương vật.
25
+ Dùng allis kẹp để làm thẳng dương vật và đánh dấu vị trí kẹp trên bao
trắng thể hang bên dài với chiều dài vết kẹp là < 1cm. Có thể kẹp ở nhiều vị
trí đến khi dương vật thẳng hoàn toàn.
+ Thả allis và xác định dấu răng allis để lại. Dùng lưỡi dao 11 rạch bao
trắng thể hang giữa hai ngấn của allis theo chiều dọc, không rạch sâu quá để
tránh làm tổn thương mô cương.
+ Dùng móc nhỏ để kéo đường rạch dọc thành đường ngang.
+ Khâu lại vết xẻ bao trắng từ đường rạch dọc thành đường ngang bằng
chỉ tiêu chậm hoặc không tiêu.
+ Khâu kín và vùi hai mép các đường khâu sau đó gây cương nhân tạo
lại để kiểm tra độ cong của dương vật.
+ Cầm máu và đóng vết mổ.
Mặc dù phẫu thuật này ít xâm lấn hơn phẫu thuật Nesbit, chỉ rạch dọc
trên bao trắng thể hang thay vì cắt bỏ một hay nhiều mảnh bao trắng nhưng
nếu lưỡi dao rạch sâu quá sẽ gây tổn thương mô cương phía dưới, phẫu thuật
cũng đòi hỏi phải có thời gian và phẫu thuật viên có kinh nghiệm.
- Phẫu thuật khâu gấp bao trắng:
Hai tác giả Essed và Schröeder [28] đã phổ biến phẫu thuật khâu gấp bao
trắng lần đầu tiên áp dụng điều trị cong dương vật do bệnh Peyronie, sau đó
các tác giả khác như Nooter (1994) [56], Van Der Horst (2004) [69] áp dụng
phẫu thuật này để điều trị hai bệnh lý cong dương vật bẩm sinh và mắc phải.
Mặc dù phẫu thuật Essed và Schröeder khâu gấp bao trắng của thể hang bên
dài, không cắt hay rạch trên bao trắng thể hang bên dài nhưng đối với những
trường hợp dương vật cong xuống phẫu thuật đòi hỏi phải bóc tách bó mạch
thần kinh vùng lưng dương vật.
Trong nhóm khâu gấp, cũng có nhiều cải tiến dựa vào mũi chỉ khâu như
tác giả Hsieh [40] khâu gấp cải biên mũi chỉ kiểu chữ “U”, có bóc tách bó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mạch thần kinh vùng lưng điều trị cong dương vật bẩm sinh, tác giả dùng chỉ
26
tiêu chậm vicryl 2.0, gặp biến chứng sớm như tuột nút chỉ khâu và cảm giác
tê bì ở quy đầu.
Năm 1998, hai tác giả Baskin và Lue đã đưa ra phương pháp phẫu thuật
có nhiều thuận lợi hơn các phương pháp khâu gấp khác. Phương pháp được
tác giả mô tả có ưu điểm là dễ thực hiện, chỉ thực hiện các mũi khâu gấp bao
trắng thể hang, không bóc tách bó mạch thần kinh vùng lưng dương vật và
không bóc tách niệu đạo, nhưng phẫu thuật này khâu bằng chỉ prolene 2.0
A. Dương vật cong xuống, khâu gấp bao trắng phía lưng DV
B. Dương vật cong lên, khâu
gấp bao trắng phía bụng DV
nên có nhược điểm là cộm nốt chỉ [18].
“Nguồn: Baskin - Lue (1998), The correction of congenital penile curvature in young men” [18].
Hình 1.14. Phẫu thuật Baskin - Lue
Các phẫu thuật làm ngắn bên dài đều đem lại thành công như làm thẳng
dương vật, duy trì được chức năng cương dương vật, đem lại sự hài lòng về
mặt thẩm mỹ và cải thiện về mặt tâm lý cho bệnh nhân [75]. Ngắn dương vật
sau mổ là khó tránh khỏi trong nhóm phẫu thuật này. Mặc dù dương vật ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hơn nhưng không gây trở ngại lớn trong sinh hoạt tình dục [12]. Tuy nhiên,
27
cũng có một số bệnh nhân không hài lòng sau phẫu thuật về chiều dài của
dương vật ngắn hơn trước mổ. Những trường hợp khâu bằng chỉ prolene thì
có tình trạng cộm nốt chỉ dưới da dương vật và có thể gây đau do cộm nốt chỉ
khi giao hợp, nốt phình mép vết khâu bao trắng hay gặp trong phẫu thuật xẻ
dọc khâu ngang bao trắng [31], [37], [62], [69]. Một số biến chứng có thể gặp
trong nhóm phẫu thuật làm ngắn bên dài như: Phù nề da quy đầu, tụ máu
dưới da dương vật, nhiễm trùng vết mổ. Biến chứng rối loạn cương chủ yếu
gặp ở phẫu thuật Nesbit và phẫu thuật khâu gấp bao trắng có bóc tách mạch
máu thần kinh vùng lưng dương vật [14], [29], [62], [69], [57].
1.5.2.2. Phẫu thuật làm dài bên ngắn
Phẫu thuật dùng mảnh ghép (mảnh ghép bì, tĩnh mạch hiển, mạch nhân
tạo) điều trị các trường hợp cong dương vật nặng có kèm lỗ tiểu thấp, cong
dương vật bẩm sinh kèm với ngắn dương vật hoặc bệnh nhân không đồng ý
phẫu thuật nhóm phẫu thuật làm ngắn bên dài do tình trạng ngắn dương vật
sau mổ. Chỉ định phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh với mảnh ghép
rất hạn chế, đây là phẫu thuật khó, đòi hỏi phải có thời gian và phẫu thuật
viên có kinh nghiệm trong phẫu thuật tạo hình dương vật [17], [67].
Năm 1994, Moriel [54] dùng mảnh ghép tĩnh mạch hiển để điều trị cong
dương vật bẩm sinh. Tuy nhiên, mảnh ghép không làm thẳng dương vật hoàn
toàn, nên sau khi ghép thường phải dùng thêm phẫu thuật khâu gấp bao trắng
để chỉnh thẳng dương vật.
Có một số báo cáo theo dõi kết quả xa của phẫu thuật dùng mảnh ghép,
cho thấy phẫu thuật hạn chế được tình trạng ngắn dương vật nhưng cũng có
một số biến chứng biến chứng như: tụ máu, hoại tử mảnh ghép, teo mảnh
ghép, phình tại nơi mảnh ghép thành nang, nang tuyến bã nhờn do nang lông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
của mảnh ghép bì, rối loạn cương,…[33], [34].
28
1.5.2.3. Phẫu thuật tách rời các thể hang thể xốp
Tách rời thể hang mặt bụng dương vật và xoay thể hang ra ngoài. Tác giả
Dessanti dùng phẫu thuật này để điều trị cong dương vật bẩm sinh có hoặc không
kèm với miệng niệu đạo đóng thấp nhưng hiện nay rất ít được áp dụng [25].
1.6. Kết quả điều trị phẫu thuật cong dƣơng vật bẩm sinh bằng phƣơng
pháp Yachia trên Thế giới và Việt Nam
Do bệnh lý cong dương vật bẩm sinh có tỷ lệ gặp ít và cũng có nhiều
kỹ thuật để điều trị bệnh lý này nên các nghiên cứu về kết quả phẫu thuật theo
phương pháp Yachia trong và ngoài nước cũng hạn chế, kết quả cũng khác
nhau tùy nghiên cứu và số lượng bệnh nhân trong các nghiên cứu không
nhiều. Tuy nhiên, có một số báo cáo cho thấy thành công của phẫu thuật
Yachia trong điều trị bệnh lý cong dương vật bẩm sinh là từ 80% đến 100%
[3], [4], [23], [30], [31], [51], [57], [61]. Dưới đây là một số kết quả đã được
ghi nhận:
- Trên thế giới:
Năm 1999, Popken [61] nghiên cứu trên 50 bệnh nhân được phẫu
thuật, tỷ lệ thành công của phẫu thuật là 96% (48/50 bệnh nhân), 4% độ cong
còn lại > 15 độ. Gặp biến chứng như tụ máu dương vật là 4%, với mỗi độ
cong 10 độ thì ngắn dương vật so với trước mổ là từ 1 - 2 mm, không có
trường hợp nào rối loạn cương dương vật.
Daitch (1999) [23] báo cáo 5 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh
được phẫu thuật bằng phương pháp này từ 6/1994 đến 6/1997. Sau mổ dương
vật được chỉnh thẳng là 80%. Trong đó 60% bệnh nhân rất hài lòng, 20%
bệnh nhân hài lòng. Ngắn dương vật gặp 60%.
Nghiên cứu của Giammusso [31] trong thời gian từ 2/2000 đến
3/2002, có 12 bệnh nhân được phẫu thuật, thành công của phẫu thuật là 100%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(dương vật thẳng), 1 bệnh nhân rối loạn cương, 3 bệnh nhân phàn nàn về nốt
29
phình ở dương vật (phình tại mép của đường khâu bao trắng hay còn gọi là
“tai chó”), ngắn dương vật từ 1 đến 2,5 cm, gặp ở 67% nhưng dương vật ngắn
hơn so với trước mổ không ảnh hưởng đến giao hợp.
Năm 2008, Ghanem [30] nghiên cứu hồi cứu từ năm 1990 đến năm
2005, có 45 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh phẫu thuật theo phương
pháp Yachia. Kết quả cho thấy thành công của phẫu thuật là 98%, có 1
trường hợp không hài lòng vì dương vật ngắn, 1 trường hợp rối loạn cảm giác
dương vật.
Báo cáo của Nyirády (2008) [57], nghiên cứu hồi cứu trong 20 năm, có
62 bệnh nhân được phẫu thuật theo kỹ thuật Yachia. Tỷ lệ thành công của
phẫu thuật là 96%, không gặp biến chứng rối loạn cương, nhưng có 16,1%
không hài lòng do ngắn dương vật.
- Tại Việt Nam, chúng tôi mới chỉ tìm được 2 báo cáo về kết quả điều
trị cong dương vật bẩm sinh theo phương pháp Yachia.
Năm 2012, Trịnh Hoàng Giang [3] báo cáo kết quả 26 trường hợp được
phẫu thuật từ 2/2009 đến 2/2012 tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Thành
công của phẫu thuật là 84,6%, các biến chứng như phù nề, tụ dịch máu dương
vật gặp 3 trường hợp trong đó có 1 trường hợp phải trích rạch thoát dịch, 1
trường hợp không hài lòng do độ cong sau mổ không như mong muốn. Ngắn
dương vật gặp trong 15 trường hợp, dương vật ngắn trung bình là 1,6 cm và
không ảnh hưởng đến giao hợp. Không có trường hợp nào rối loạn cương
dương.
Nghiên cứu của Phạm Văn Hảo (2013) [4] tại khoa Nam học bệnh viện
Bình Dân, có 12 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh được phẫu thuật theo
phương pháp Yachia từ 01/01/2012 đến 31/12/2012. Thành công của phẫu
thuật là 91,7% và tất cả bệnh nhân đều hài lòng. Ghi nhận tình trạng cộm nốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chỉ dưới da dương vật là 16,6%.
30
- Đánh giá kết quả của phẫu thuật: Theo các y văn đã được báo cáo về
kết quả phẫu thuật điều trị cong dương vật bẩm sinh, độ cong dương vật khi
cương sau mổ được các tác giả áp dụng để đánh giá thành công của phẫu
thuật [12], [21], [40], [47], [61]:
+ Phẫu thuật thành công nếu dương vật được chỉnh thẳng hoặc độ cong
khi cương ≤ 15 độ.
+ Phẫu thuật thất bại nếu độ cong dương vật khi cương > 15 độ.
- Theo nghiên cứu của một số tác giả, sau mổ có trường hợp dương vật
thẳng nhưng bệnh nhân không hài lòng khi giao hợp do cộm nốt chỉ, dương
vật ngắn hoặc phàn nàn về nốt phình mép vết khâu bao trắng và biến chứng
sau mổ [30], [31], [57]. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi đưa ra thang
điểm để đánh giá kết quả phẫu thuật theo mức độ tốt, trung bình, xấu dựa vào
3 tiêu chuẩn (sự hài lòng bệnh nhân khi giao hợp lại, thẩm mỹ dương vật,
biến chứng sau mổ), chúng tôi cho rằng đánh giá sẽ đầy đủ và chính xác hơn
(thang điểm được trình bày trong chương 2, bảng 2.1). Cũng theo các tài liệu
có được từ y văn, chưa tìm được tài liệu nào nói về các tiêu chuẩn đánh giá sự
hài lòng của bệnh nhân và bạn tình khi giao hợp lại, hài lòng về thẩm mỹ
dương vật, sự cải thiện tâm lý, mức độ biến chứng sau mổ. Để thuận lợi cho
việc đánh giá kết quả theo các mức độ như trên, chúng tôi cũng đưa ra các
tiêu chuẩn đánh giá cho các chỉ tiêu này (trình bày trong chương 2, “*” = theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chúng tôi).
31
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Những bệnh nhân được chẩn đoán cong dương vật bẩm sinh và được
phẫu thuật bằng phương pháp Yachia.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Tất cả bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh có độ cong dương vật khi
cương ≥ 30 độ kèm theo ít nhất một trong các rối loạn như:
+ Giao hợp khó, không giao hợp được, bạn tình đau khi giao hợp.
+ Cong dương vật gây ảnh hưởng đến tâm lý.
+ Cong dương vật gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Cong dương vật kèm theo:
+ Lỗ tiểu lệch thấp hay lệch cao.
+ Bệnh lý toàn thân phối hợp: suy tim, suy thận mạn, suy gan, rối loạn tâm
thần.
- Cong dương vật mắc phải do:
+ Bệnh Peyronie (xơ cứng vật hang).
+ Tiền sử chấn thương dương vật.
+ Tiền sử phẫu thuật ở dương vật.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ 01/01/2010 đến 30/04/2015.
- Địa điểm nghiên cứu: tại khoa Phẫu thuật Tiết Niệu - Bệnh viện Hữu
Nghị Việt Đức.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1.Thiết kế nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
32
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
- Chọn mẫu thuận tiện, tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đều được đưa vào
nghiên cứu.
- Cỡ mẫu: áp dụng công thức
Trong đó:
(1-α/2): hệ số tin cậy, với α = 0,05 ta có Z(1-α/2)= 1,96.
+ n: Cỡ mẫu + Z2
+ p: tỷ lệ thành công của phẫu thuật ước tính. Theo nghiên cứu của
Phạm Văn Hảo, p = 0,917 [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi ước tính thành
công của phẫu thuật là 90%, nên p = 0,9; q = 0,1.
+ d: ngưỡng chính xác mong muốn, chọn d = 10%.
Thay vào công thức trên tính được n = 34 bệnh nhân. Chúng tôi chọn
được 38 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu này.
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.4.1. Các chỉ tiêu về một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dương
vật bẩm sinh được phẫu thuật tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
- Tuổi: chia thành 3 nhóm (< 20 tuổi, 20 – 30 tuổi, > 30 tuổi).
- Nghề nghiệp, theo 4 nhóm: nông dân, công nhân, sinh viên và nhóm
khác (tự do, bán hàng,…)
- Địa dư, theo 2 nhóm: Hà Nội, các tỉnh khác.
- Lý do vào viện (các lý do chính):
+ Giao hợp khó.
+ Không giao hợp được.
+ Bạn tình đau khi giao hợp.
+ Ảnh hưởng đến tâm lý.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
+ Ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
33
- Đã giao hợp trước mổ (có hoặc không).
- Hướng cong dương vật khi cương: cong lên trên, cong xuống dưới,
cong sang phải, cong sang trái.
- Vị trí cong dương vật khi cương: chia dương vật làm 3 đoạn (1/3 trong,
1/3 giữa, 1/3 ngoài).
- Độ cong dương vật khi cương (30 - 44 độ, 45 - 59 độ, 60 - 90 độ).
- Mối liên quan giữa vị trí, độ cong dương vật ảnh hưởng đến giao hợp.
- Chiều dài dương vật khi cương (tính theo cm): đo theo cách đo của
Awwad.
2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh
bằng phương pháp Yachia
- Kỹ thuật tiến hành:
+ Vết xẻ bao trắng trên 1 thể hang (1 vết, 2 vết, 3 vết).
+ Mối liên quan giữa độ cong dương vật và vết xẻ bao trắng.
+ Kết hợp phẫu thuật khác trong cùng một cuộc mổ (nếu có).
+ Loại chỉ khâu bao trắng thể hang (vicryl 4.0, prolene 4.0).
- Thời gian phẫu thuật (tính theo phút): từ lúc rạch da đến mũi chỉ đóng
da cuối cùng.
- Thời gian lưu sonde tiểu (tính theo ngày): từ ngày phẫu thuật đến ngày
rút sonde.
- Thời gian hậu phẫu (tính theo ngày): từ ngày phẫu thuật đến ngày ra viện.
- Thời gian theo dõi (tính theo tháng): từ ngày phẫu thuật đến ngày khám lại.
- Biến chứng sớm (trong thời gian hậu phẫu):
+ Phù nề da quy đầu.
+ Tụ máu dưới da dương vật.
+ Nhiễm trùng vết mổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Biến chứng muộn (sau khi ra viện):
34
+ Rối loạn cương dương: dương vật không cương cứng được hoặc
không duy trì được khả năng cương cứng như trước mổ.
+ Cong tái phát: trong mổ dương vật được chỉnh thẳng, ra viện sau vài
tuần dương vật cong lại như ban đầu.
- Các mức độ của biến chứng “*”.
+ Biến chứng nhẹ: điều trị nội khoa khỏi (bằng các thuốc kháng sinh,
giảm đau, chống phù nề).
+ Biến chứng nặng: kết hợp cả điều trị nội khoa và can thiệp ngoại khoa
(chích rạch thoát dịch, lấy máu tụ, tách vết mổ, cắt lọc vết mổ, mổ lại,…), rối
loạn cương dương, cong tái phát.
- Tình trạng dương vật khi khám lại:
+ Độ cong sau mổ (thẳng và ≤ 15 độ, > 15 độ).
+ Ngắn dương vật so với trước mổ (cm).
+ Sờ cộm nốt chỉ dưới da dương vật.
+ Đau dương vật khi giao hợp do cộm nốt chỉ.
+ Nốt phình mép vết khâu bao trắng.
- So sánh độ cong, chiều dài dương vật trước và sau mổ.
- Giao hợp lại sau mổ (đã giao hợp, chưa giao hợp).
- Tình trạng giao hợp của bệnh nhân, bạn tình trước và sau mổ.
- Mức độ đau dương vật khi giao hợp sau mổ: đau ít DV và chịu được
(vẫn thực hiện giao hợp được), đau nhiều DV không chịu được (không tiếp
tục thực hiện giao hợp được) “*”.
- Cải thiện tâm lý của BN sau mổ (có cải thiện, không cải thiện) “*”.
+ Có cải thiện: bệnh nhân đỡ lo lắng hoặc không còn lo lắng về bệnh, tự
tin khi giao hợp.
+ Không cải thiện: bệnh nhân vẫn còn lo lắng về bệnh như trước mổ, vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không tự tin khi giao hợp.
35
- Sự hài lòng của bệnh nhân khi giao hợp lại sau mổ (rất hài lòng, hài
lòng, không hài lòng) “*”.
+ Rất hài lòng: dương vật cương bình thường, giao hợp dễ, không đau
dương vật khi giao hợp.
+ Hài lòng: dương vật cương bình thường, giao hợp dễ, đau ít ở dương
vật khi giao hợp và bệnh nhân chịu được.
+ Không hài lòng: rối loạn cương dương, giao hợp khó hoặc không giao
hợp được, đau nhiều ở dương vật khi giao hợp và không chịu được.
- Sự hài lòng của bạn tình khi giao hợp (hài lòng, không hài lòng) “*”.
+ Hài lòng: không đau âm đạo khi giao hợp.
+ Không hài lòng: đau âm đạo khi giao hợp.
- Thẩm mỹ dương vật sau mổ (rất hài lòng, hài lòng, không hài lòng) “*”.
+ Rất hài lòng: dương vật thẳng hoặc ≤ 15 độ, không phàn nàn về tình
trạng dương vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, đau khi
GH do cộm nốt chỉ, nốt phình mép vết khâu bao trắng).
+ Hài lòng: dương vật thẳng hoặc ≤ 15 độ, phàn nàn về tình trạng dương
vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, đau khi GH do cộm
nốt chỉ, nốt phình mép vết khâu bao trắng).
+ Không hài lòng: độ cong dương vật > 15 độ, phàn nàn về tình trạng
dương vật hiện tại (ngắn dương vật, cộm nốt chỉ dưới da DV, đau khi GH do
cộm nốt chỉ, nốt phình mép vết khâu bao trắng).
- Đánh giá thành kết quả của phẫu thuật:
Đánh giá kết quả của phẫu thuật theo cách đánh giá kết quả đã được các
tác giả áp dụng cho phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh dựa vào độ cong
dương vật khi cương sau mổ [12], [21], [40], [47], [61]:
+ Phẫu thuật thành công nếu sau mổ dương vật thẳng hoặc độ cong khi
cương ≤ 15 độ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
+ Phẫu thuật thất bại nếu độ cong dương vật khi cương sau mổ > 15 độ.
36
Chúng tôi đưa ra thang điểm đánh giá kết quả phẫu thuật theo mức độ:
tốt, trung bình, xấu dựa trên sự hài lòng của bệnh nhân khi giao hợp lại, thẩm
mỹ dương vật và biến chứng sau mổ (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Thang điểm đánh giá mức độ thành công của phẫu thuật “*”.
3 điểm Rất hài lòng
2 điểm Giao hợp sau mổ Hài lòng
1 điểm Không hài lòng
3 điểm Rất hài lòng
2 điểm Hài lòng Thẩm mỹ dương vật
1 điểm Không hài lòng
3 điểm Không biến chứng
2 điểm Biến chứng Biến chứng nhẹ
1 điểm Biến chứng nặng
Tính tổng điểm của 3 tiêu chuẩn trên và chia ra các mức độ:
+ Tốt: 7 - 9 điểm
+ Trung bình: 6 điểm
+ Xấu: 3 - 5 điểm
2.5. Các bƣớc tiến hành phẫu thuật
- Chuẩn bị bệnh nhân:
+ Bệnh nhân được giải thích về quy trình kỹ thuật và các biến chứng có
thể xảy ra trong và sau phẫu thuật, bệnh nhân đồng ý và ký giấy chấp nhận
phẫu thuật.
+ Vệ sinh, cạo lông bộ phận sinh dục trước mổ.
+ Bệnh nhân được dùng kháng sinh đường tĩnh mạch dự phòng trước mổ.
- Vô cảm: tê tủy sống.
- Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Dụng cụ phẫu thuật:
37
+ Chuẩn bị bộ dụng cụ phẫu thuật thông thường, bộ dụng cụ vi phẫu.
+ Kim bướm, nước muối sinh lý, sonde nelaton, bơm tiêm 20 ml để gây
cương nhân tạo.
+ Chỉ khâu: prolene 4.0, vicryl 4.0.
+ Sonde foley 14 F hoặc 16 F để thông tiểu.
- Các thì phẫu thuật theo kỹ thuật của Yachia:
+ Rạch da vòng quanh quy đầu cách rãnh quy đầu 0,5 – 1 cm.
+ Bóc tách da dương vật, mạc nông khỏi thân dương vật tới sát gốc
dương vật.
+ Dùng sonde nelaton garo ở gốc dương vật, gây cương nhân tạo bằng
cách bơm dung dịch nước muối sinh lý vào một bên của thể hang.
+ Xác định hướng cong, vị trí và độ cong dương vật.
+ Dùng allis kẹp lên bao trắng của thể hang bên dài tại vị trí cong, kẹp
một hay nhiều allis cho tới khi dương vật thẳng. Rạch bao trắng thể hang bằng
lưỡi dao 11 theo chiều dọc dựa vào dấu răng allis để lại.
+ Nếu góc cong ở phía bụng dương vật thì đường rạch hai bên ở phía
lưng, bên ngoài bó mạch máu thần kinh lưng dương vật. Góc cong ở phía
lưng dương vật thì đường rạch ở hai bên, ngoài thể xốp. Cong sang trái thì
rạch bao trắng thể hang bên phải và ngược lại.
+ Khâu lại đường rạch dọc bao trắng thành đường ngang: khâu vắt với
chỉ prolene 4.0, khâu mũi rời với chỉ vicryl 4.0.
+ Gây cương nhân tạo lần 2 để kiểm tra độ cong.
+ Khâu cân nông và da bằng chỉ vicryl 4.0.
+ Đặt sonde tiểu và băng ép dương vật, dùng gạc lớn phủ bên ngoài cố
định dựng ngược dương vật về phía rốn.
- Điều trị sau phẫu thuật:
+ Hậu phẫu tiếp tục dùng kháng sinh đường tĩnh mạch, uống thuốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
giảm đau, chống phù nề và an thần (seduxen để giảm cương sau mổ).
38
+ Thay băng hàng ngày, sonde tiểu thường rút ngày thứ 2 sau mổ, chỉ
vết mổ tự tiêu nên không phải cắt.
+ Bệnh nhân ra viện được kê đơn thuốc và khuyến cáo không giao hợp
(A). Gây cương nhân tạo kiểm tra độ cong (B),(C). Kẹp allis trên bao trắng
trong 6 tuần đầu sau phẫu thuật.
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.1. Các thì chính trong phẫu thuật Yachia
39
(F). Kiểm tra vết rạch (G). Kéo đường rạch dọc thành đường ngang
(D). Thả allis và xác định dấu răng allis (E). Rạch dọc bao trắng
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
H nh 2.1. Các thì chính trong phẫu thuật Yachia
40
(K). Cầm máu dương vật
(H), (I). Khâu kín vết rạch bao trắng (J). Khâu vùi mép
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.1. Các thì chính trong phẫu thuật Yachia
41
(L). Đóng vết mổ (M). Băng ép dương vật
“Nguồn: Yachia D. (2007), Text atlas of penile surgery” [70].
Hình 2.1. Các thì chính trong phẫu thuật Yachia
2.6. Thu thập và xử lý số liệu
2.6.1. Thu thập số liệu
- Thu thập số liệu gồm 2 giai đoạn hồi cứu và tiến cứu theo mẫu bệnh
án thống nhất.
+ Hồi cứu: từ 01/01/2010 đến 31/12/2014.
+ Tiến cứu: từ 01/01/2015 đến 30/04/2015.
Các bước tiến hành:
- Bước 1: lập danh sách bệnh nhân theo sổ lưu trữ hồ sơ và sổ phẫu thuật
tại phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, đảm bảo
theo đúng tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ.
- Bước 2: ghi nhận tất cả các thông tin theo mẫu bệnh án thống nhất,
bệnh án nào không đủ thông tin sẽ loại bỏ khỏi nghiên cứu. Danh
sách bệnh nhân được xác nhận của phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
viện Hữu Nghị Việt Đức và Giáo viên hướng dẫn.
42
- Bước 3: nhập và xử lý số liệu nghiên cứu bằng phần mềm SPSS 20.0.
Trong thời gian nghiên cứu tiến cứu, trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán,
phẫu thuật và điều trị sau mổ các bệnh nhân tiến cứu.
2.6.2. Xử lý số liệu
- Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm
SPSS 20.0. Các chỉ tiêu định tính được tính toán theo tỉ lệ phần trăm (%). Các
chỉ tiêu định lượng được tính theo giá trị trung bình hoặc phân nhóm giá trị.
- So sánh các chỉ tiêu theo kiểm định y học, chấp nhận mức tin cậy 95%
hay các phép so sánh được kết luận là khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
- Thông tin bệnh nhân được bảo mật, đảm bảo tính riêng tư và chỉ sử
dụng cho mục đích nghiên cứu.
- Các bệnh nhân đều được giải thích kỹ về tình trạng bệnh, những nguy
cơ và biến chứng có thể xảy ra trong và sau phẫu thuật, bệnh nhân đồng ý và
ký giấy chấp nhận phẫu thuật.
- Đảm bảo đạo đức nghề nghiệp, chăm sóc chu đáo sức khoẻ người bệnh.
- Kết quả nghiên cứu nhằm phục vụ nâng cao chất lượng khám chữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bệnh và phẫu thuật tạo hình dương vật.
43
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ 01/01/2010 đến 30/04/2015, nghiên cứu 38 bệnh
nhân cong dương vật bẩm sinh phẫu thuật bằng phương pháp Yachia tại khoa
Phẫu thuật Tiết Niệu bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, chúng tôi thu được kết
quả sau:
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh nhân cong dƣơng vật bẩm sinh đƣợc
phẫu thuật tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Tuổi Tỷ lệ (%)
Số lƣợng BN (n= 38) 7 29 2 18,4 76,3 5,3
< 20 20 – 30 > 30 Trung bình ± SD Lớn nhất Nhỏ nhất 22,6 ± 3,6 35 18
Nhận xét:
Tuổi bệnh nhân trung bình là 22,6 ± 3,6 tuổi, thấp nhất là 18 tuổi, lớn
nhất là 35 tuổi, từ 20 - 30 tuổi chiếm nhiều nhất.
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân theo địa dư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân ở Hà Nội là 44,7%. Các tỉnh khác là 55,3%.
44
n â h n h n ệ b
ố S
Nghề nghiệp
Biểu đồ 3.2. Phân bố bệnh nhân theo nghề nghiệp
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân là sinh viên nhiều nhất, chiếm 24/38 BN.
* Có bệnh nhân đến khám với nhiều lý do khác nhau, kết quả ở biểu đồ
n â h n
h n ệ b
ố S
Lý do
dưới đây là những lý do chính mà bệnh nhân đến khám:
Biểu đồ 3.3. Lý do chính bệnh nhân vào viện
Nhận xét:
Trong các lý do chính thì giao hợp khó và ảnh hưởng đến tâm lý chiếm
nhiều nhất, đều có tỷ lệ là 12/38 BN (31,6%), lý do ảnh hưởng đến thẩm mỹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ít nhất chiếm 2/38 BN (5,2%).
45
Bảng 3.2. Dương vật cong ảnh hưởng đến giao hợp
Giao hợp trƣớc mổ Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
GH khó 17 44,7
Không GH được 6 15,8
Có Bạn tình đau khi GH 12 31,6
Tổng 35 92,1
3 7,9 Không
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Trong 35 bệnh nhân đã giao hợp, dương vật cong gây giao hợp khó
nhiều nhất, chiếm 44,7%, kế đến là bạn tình đau khi giao hợp, chiếm 31,6%.
Bảng 3.3. Hướng cong dương vật khi cương
Hƣớng cong Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
20 52,6 Cong xuống dưới
3 7,9 Cong sang phải
15 39,5 Cong sang trái
0 0,0 Cong lên trên
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Tỷ lệ dương vật cong xuống dưới nhiều nhất, chiếm 52,6%, không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trường hợp nào dương vật cong lên.
46
Bảng 3.4. Vị trí cong dương vật khi cương
Vị trí cong Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
2 5,2 1/3 ngoài
28 73,7 1/3 giữa
8 21,1 1/3 trong
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Dương vật cong đoạn 1/3 giữa nhiều nhất, chiếm 73,7%. Cong đoạn 1/3
ngoài ít nhất, chiếm 5,2%.
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa vị trí cong DV và ảnh hưởng đến giao hợp
Giao hợp Không giao Bạn tình Ảnh hƣởng GH Tổng khó hợp đƣợc đau Vị trí cong (n = 35) (n = 17) (n = 6) (n = 12)
Số BN 1 0 0 1 1/3 ngoài Tỷ lệ (%) 100,0 0,0 0,0 100,0
Số BN 12 5 9 26 1/3 giữa Tỷ lệ (%) 46,2 19,2 34,6 100,0
Số BN 4 1 3 8 1/3 trong Tỷ lệ (%) 50,0 12,5 37,5 100,0
p > 0,05
Nhận xét:
Có 35 bệnh nhân đã GH trước mổ, DV cong ở vị trí 1/3 giữa ảnh hưởng
đến GH nhiều nhất, ảnh hưởng ít nhất là 1/3 ngoài. Mối liên quan giữa vị trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cong ảnh hưởng đến giao hợp là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
47
n â h n h n ệ b
ố S
Độ cong
Biểu đồ 3.4. Độ cong dương vật khi cương
Nhận xét:
Độ cong dương vật khi cương từ 45 - 59 độ nhiều nhất (42,1%), độ cong
từ 60 - 90 độ ít nhất (21,1%).
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa độ cong DV và ảnh hưởng đến giao hợp
Ảnh hƣởng GH Giao hợp Không Bạn tình Tổng khó GH đƣợc đau (n = 35) Độ cong (n = 17) (n = 6) (n = 12)
30-44 độ Số BN 10 1 1 12
Tỷ lệ (%) 83,4 8,3 8,3 100,0
45-59 độ Số BN 6 2 8 16
Tỷ lệ (%) 37,5 12,5 50 100,0
60-90 độ Số BN 1 3 3 7
Tỷ lệ (%) 14,3 42,9 42,9 100,0
p < 0,05
Nhận xét:
Có 35 bệnh nhân đã GH trước mổ, độ cong từ 45-59 độ ảnh hưởng đến
giao hợp nhiều nhất, độ cong dương vật ảnh hưởng đến giao hợp là có ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nghĩa thống kê (p < 0,05).
48
Bảng 3.7. Chiều dài dương vật khi cương
cm Chiều dài DV khi cƣơng
13,6 ± 1,2 Trung bình ± SD
16 Lớn nhất
10,5 Nhỏ nhất
Nhận xét:
Chiều dài dương vật trung bình khi cương là 13,6 ± 1,2 cm, dài nhất là
16 cm, ngắn nhất là 10,5 cm.
3.2. Kết quả phẫu thuật phẫu thuật cong dƣơng vật bẩm sinh bằng
phƣơng pháp Yachia
Bảng 3.8. Số lượng vết xẻ một bên bao trắng thể hang
Số lƣợng vết xẻ 1 bên bao trắng Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
1 vết 9 23,7
2 vết 24 63,1
3 vết 5 13,2
Tổng 38 100,0
Nhận xét:
Xẻ bao trắng thể hang 2 vết nhiều nhất (63,1%), xẻ 3 vết ít nhất (13,2%).
Bảng 3.9. Phẫu thuật kết hợp trong cùng cuộc mổ
Phẫu thuật kết hợp Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
Thắt tĩnh mạch tinh trái vi phẫu 1 2,6
Không 37 97,4
Tổng 38 100,0
Nhận xét:
Trong 38 bệnh nhân được phẫu thuật, có 1 trường hợp phẫu thuật kết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hợp thắt tĩnh mạch tinh trái vi phẫu (2,6%).
49
Bảng 3.10. Loại chỉ khâu bao trắng thể hang
Loại chỉ khâu Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
13 34,2 Prolene 4.0
25 65,8 Vicryl 4.0
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Có 65,8% trường hợp khâu bao trắng bằng chỉ Vicryl 4.0, khâu bằng
chỉ prolene 4.0 là 34,2%.
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa độ cong dương vật trước mổ và số lượng vết
xẻ một bên bao trắng thể hang
Vết xẻ bao trắng 1 vết 2 vết 3 vết Tổng
(n = 9) (n = 24) (n = 5) (n = 38)
Độ cong DV
30 - 44 độ Số BN 9 5 0 14
Tỷ lệ (%) 64,3 0,0 100,0 35,7
45 – 59 độ Số BN 0 16 0 16
Tỷ lệ (%) 0,0 100,0 0,0 100,0
60 – 90 độ Số BN 0 3 5 8
37,5 Tỷ lệ (%) 0,0 62,5 100,0
p < 0,05
Nhận xét:
Độ cong dương vật trước mổ càng lớn thì vết xẻ bao trắng càng nhiều,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
50
Bảng 3.12. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
(phút)
6 15,8 < 60
31 81,6 60 – 90
1 2,6 > 90
Trung bình ± SD 77,8 ± 9,1
110 Lớn nhất
60 Nhỏ nhất
Nhận xét:
Thời gian phẫu thuật trung bình là 77,8 ± 9,1 phút, ngắn nhất là 60 phút,
dài nhất là 110 phút. Thời gian phẫu thuật từ 60 - 90 phút chiếm nhiều nhất.
Bảng 3.13. Thời gian lưu sonde tiểu, hậu phẫu và theo dõi
Thời gian Trung bình ± SD Lớn nhất Nhỏ nhất
Lưu sonde tiểu (ngày) 3,2 ± 0,6 4 2
Hậu phẫu (ngày) 4,7 ± 0,7 6 3
Theo dõi (tháng) 30,1 ± 17,7 65 5
Nhận xét:
Thời gian lưu sonde tiểu trung bình là 3,2 ± 0,6 ngày, hậu phẫu trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bình là 4,7 ± 0,7 ngày, thời gian theo dõi trung bình là 30,1 ± 17,7 tháng.
51
Bảng 3.14. Biến chứng sau mổ
Biến chứng Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
(n = 38)
21,5 Phù nề da quy đầu 8
Sớm 0,0 Tụ máu dưới da DV 0
0,0 Nhiễm trùng vết mổ 0
0,0 Muộn Rối loạn cương dương 0
0,0 Cong tái phát 0
Nhận xét:
Sau mổ chỉ gặp biến chứng phù nề da quy đầu 8/38 BN (21,5%). Không
gặp các biến chứng như tụ máu, nhiễm trùng vết mổ, rối loạn cương dương
và cong tái phát.
Bảng 3.15. Mức độ biến chứng
Mức độ Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
18,4 Biến chứng nhẹ 7
2,6 Biến chứng nặng 1
79 Không biến chứng 30
100,0 Tổng 38
Nhận xét:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Biến chứng nhẹ là 7/38 BN (18,4%), biến chứng nặng 1/38 BN (2,6%).
52
Bảng 3.16. Độ cong dương vật khi cương sau mổ
Độ cong DV khi cƣơng Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
sau mổ
36 Thẳng và ≤ 15 độ 94,7
2 >15 độ 5,3
38 Tổng 100,0
Nhận xét:
Sau mổ tỷ lệ dương vật thẳng hoàn toàn và độ cong ≤ 15 độ chiếm
94,7%, độ cong > 15 độ chiếm 5,3%.
Bảng 3.17. Ngắn dương vật so với trước mổ
Ngắn dƣơng vật cm
Trung bình ± SD 1,2 ± 0,3
Lớn nhất 1,8
Nhỏ nhất 0,5
Nhận xét
Dương vật ngắn hơn so với trước mổ trung bình là 1,2 ± 0,3 cm, lớn
nhất là 1,8 cm và thấp nhất 0,5 cm.
Bảng 3.18. So sánh độ cong, chiều dài trung bình DV trước và sau mổ
So sánh (Trung bình ± SD) Trƣớc mổ Sau mổ p n
Độ cong DV khi cương (độ) 47,1 ± 12,7 5 ± 5,7 p < 0,05 38
Chiều dài DV khi cương (cm) 13,6 ± 1,2 12,5 ± 1,1 p < 0,05 38
Nhận xét:
Độ cong dương vật khi cương trung bình sau mổ cải thiện rõ rệt so với
trước mổ. Sự khác biệt về chiều dài và độ cong dương vật trung bình trước và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sau mổ có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
53
Bảng 3.19. Tình trạng dương vật khi khám lại
Tình trạng dƣơng vật Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
Sờ cộm nốt chỉ dưới da DV 13/38 34,2
Đau DV khi GH do cộm nốt chỉ 3/13 23,1
Nốt phình mép vết khâu bao trắng 1/38 2,6
Nhận xét:
Đau DV khi giao hợp do cộm nốt chỉ là 23,1% trong 13 trường hợp cộm
nốt chỉ, nốt phình mép vết khâu bao trắng là 2,6% trong 38 trường hợp.
Bảng 3.20. Cải thiện tâm lý và hài lòng thẩm mỹ sau mổ
Đánh giá Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
(n = 38)
Có 38 100,0 Cải thiện tâm lý Không 0 0,0
Rất hài lòng 34 89,5
Thẩm mỹ dương vật Hài lòng 3 7,8
Không hài lòng 1 2,7
Nhận xét:
Tất cả các trường hợp bệnh nhân đều có cải thiện tâm lý, rất hài lòng thẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mỹ dương vật 89,5%, có 1 trường hợp không hài lòng về thẩm mỹ (2,7%).
54
Bảng 3.21. Tình trạng giao hợp của bệnh nhân trước và sau mổ
Trƣớc mổ Sau mổ
Tình trạng giao hợp BN Số lƣợng Tỷ lệ Số lƣợng Tỷ lệ
BN (%) BN (%)
17 GH khó 44,7 0 0,0
Đã giao 6 Không GH được 15,8 0 0,0
hợp 12 GH dễ 31,6 38 100,0
3 Chưa GH 7,9 0 0,0
38 Tổng 100,0 38 100,0
Nhận xét:
Trước mổ có 7,9% chưa giao hợp, sau mổ có 100% giao hợp. Các rối loạn
chức năng tình dục của bệnh nhân sau mổ được cải thiện rõ rệt (100% trường
hợp giao hợp dễ).
Bảng 3.22. Tình trạng giao hợp của bạn tình trước và sau mổ
Trƣớc mổ Sau mổ
Tình trạng GH bạn tình Số BN Tỷ lệ (%) Số BN Tỷ lệ (%)
Đã Bạn tình đau khi giao hợp 12 31,6 0 0,0
giao Bạn tình không đau khi 23 60,5 38 100,0
hợp giao hợp
Chưa giao hợp 3 7,9 0 0,0
Tổng 38 100,0 38 100,0
Nhận xét:
Trước mổ có 31,6% bạn tình đau khi giao hợp, sau mổ 100% bạn tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không đau khi giao hợp.
55
Bảng 3.23. Mức độ đau dương vật khi giao hợp sau mổ
Mức độ Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
Không đau DV 29 76,3
Đau ít DV, chịu được 9 23,7
Đau nhiều DV, không chịu được 0 0,0
Tổng 38 100,0
Nhận xét:
Tất cả 38 bệnh nhân giao hợp sau phẫu thuât, đau ít dương vật và chịu
được là 23,7%.
Bảng 3.24. Hài lòng của bệnh nhân khi giao hợp lại
Hài lòng BN khi GH lại Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng Tổng Số lƣợng BN 29 9 0 38 Tỷ lệ (%) 76,3 23,7 0,0 100,0
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân rất hài lòng là 29/38 BN (76,3%), hài lòng là 9/38 BN
(23,7%). Không có trường hợp nào bệnh nhân không hài lòng.
Bảng 3.25. Hài lòng của bạn tình khi giao hợp lại
Hài lòng bạn tình khi GH Số lƣợng BN Tỷ lệ (%)
Hài lòng 38 100,0
Không hài lòng 0 0,0
Tổng 38 100,0
Nhận xét:
Bạn tình hài lòng khi giao hợp lại là 100%, không có trường hợp nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không hài lòng.
56
Bảng 3.26. Đánh giá kết quả dựa vào độ cong dương vật khi cương sau mổ
Số lƣợng BN Tỷ lệ (%) Kết quả
36 94,7 Thành công
2 5,3 Thất bại
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Phẫu thuật cho tỷ lệ thành công cao với 36/38 BN (94,7%).
Bảng 3.27. Đánh giá kết quả theo mức độ tốt, trung bình, xấu
Số lƣợng BN Tỷ lệ (%) Mức độ
35 92,1 Tốt
3 7,9 Trung bình
0 0,0 Xấu
38 100,0 Tổng
Nhận xét:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Phẫu thuật đạt kết quả tốt là 92,1%, trung bình là 7,9%.
57
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dƣơng vật bẩm sinh
đƣợc phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
- Tuổi bệnh nhân:
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu này là 22,6 ± 3,6 tuổi
(từ 18 - 35 tuổi), độ tuổi từ 20 đến 30 tuổi chiếm nhiều nhất (bảng 3.1). Võ
Hoàng Tâm [12] nghiên cứu 36 trường hợp tại bệnh viện Bình Dân, tuổi
trung bình là 26,6 ± 6,4 tuổi (từ 19 - 40 tuổi), Trịnh Hoàng Giang [3] báo cáo
26 trường hợp tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, tuổi trung bình là 25,3 ± 6,8
tuổi (từ 17 - 38 tuổi). Nghiên cứu của một số tác giả trên thế giới cũng cho
kết quả gần tương tự: Tuổi trung bình trong nghiên cứu của Ghanem [30] là
27 tuổi, nghiên cứu của Popken [61] là 23 tuổi,… Các tác giả đều thấy rằng
với độ tuổi này là tuổi trưởng thành, sự phát triển về sinh lý và chức năng bộ
phận sinh dục hoàn thiện và cũng là độ tuổi hoạt động tình dục mạnh nhất
nên dễ nhận biết được những sai lệch về hình thể ngoài của dương vật cũng
như ảnh hưởng về mặt chức năng, đặc biệt là ảnh hưởng đến chức năng tình
dục. Do đó, lý do chính mà bệnh nhân vào viện là các rối loạn về chức năng
tình dục.
- Nghề nghiệp và địa dư:
Trong các nghiên cứu và báo cáo đã được công bố, chưa ghi nhận tác
giả nào đề cập đến nghề nghiệp và địa dư của bệnh nhân cong dương vật bẩm
sinh được phẫu thuật. Có lẽ sự phân bố về nghề nghiệp và địa dư trong nghiên
cứu của các tác giả là không có sự khác biệt. Nhưng trong nghiên cứu này, có sự
phân hóa rõ theo vùng kinh tế và trình độ học vấn. Trong 38 bệnh nhân được
phẫu thuật, bệnh nhân ở Hà Nội là 44,7%, trong khi đó bệnh nhân của các tỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khác chủ yếu các tỉnh giáp với Hà Nội chiếm 55,3% (biểu đồ 3.1). Bệnh nhân là
58
sinh viên chiếm 24/38 BN (biểu đồ 3.2). Khi xã hội phát triển, điều kiện kinh
tế và trình độ dân trí được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe của con
người cũng tăng lên, những người có điều kiện kinh tế và khả năng tiếp cận
với các dịch vụ y tế tốt hơn sẽ quan tâm đến sức khỏe hơn. Chính vì vậy,
trong nhóm nghiên cứu này chủ yếu là bệnh nhân ở Hà Nội và là sinh viên
đang theo học tại các trường Đại học và Cao đẳng tại Hà Nội, những bệnh
nhân này đều cho biết đã tìm hiểu thông tin về bệnh lý cong dương vật qua
mạng internet và đến địa chỉ tin cậy là Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức để
khám và điều trị.
- Lý do chính bệnh nhân vào viện và ảnh hưởng của DV cong đến
giao hợp:
Các bệnh nhân vào viện khám và điều trị với nhiều lý do khác nhau
(biểu đồ 3.3), các lý do chính mà bệnh nhân đề cập đến là các rối loạn về tình
dục (giao hợp khó 12/38 BN (31,6%), không giao hợp được 5/38 BN (13,2%),
bạn tình đau khi giao hợp 7/38 BN (18,4%)), ảnh hưởng đến thẩm mỹ 2/38
BN (5,3%) và ảnh hưởng đến tâm lý 12/38 BN (31,6%). Có thể bệnh nhân
vào viện có sự kết hợp của nhiều lý do trên, nhưng ảnh hưởng đến tâm lý gặp
trong hầu hết các trường hợp với các biểu hiện như: lo lắng về tình trạng
bệnh, không tự tin khi giao hợp, lo sợ không giao hợp được, ngại tiếp xúc với
bạn gái hoặc sợ người khác biết bộ phận sinh dục của mình bất thường, lo sợ
không đáp ứng nhu cầu quan hệ tình dục của bạn tình, làm bạn tình đau khi
quan hệ.
Có 35 bệnh nhân giao hợp trước mổ (bảng 3.2), ảnh hưởng của dương
vật cong đến giao hợp như: giao hợp khó 17/38 BN (44,7%), không giao hợp
được 6/38 BN (15,8%), bạn tình đau khi giao hợp 12/38 BN (31,6%). Trong 3
trường hợp chưa giao hợp thì có 2 trường hợp yêu cầu phẫu thuật vì lý do
thẩm mỹ, 1 trường hợp vì ảnh hưởng đến tâm lý. Nghiên cứu trên 36 trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hợp của tác giả Võ Hoàng Tâm và cộng sự cho thấy có 27 trường hợp đã giao
59
hợp trước mổ, 63% giao hợp khó, 14,8% không giao hợp được, 40,7% bạn
tình đau khi giao hợp, trong 9 BN chưa giao hợp thì 5 trường hợp ảnh hưởng
đến tâm lý và 4 trường hợp ảnh hưởng đến thẩm mỹ [12]. Theo nghiên cứu
của một số tác giả trên thế giới như Andrews [14], Nooter [56], Klevmark
[46] thì giao hợp khó 48 - 60,4%, không thể giao hợp 11,3 - 33%, bạn tình
đau 40%.
Từ kết quả của các nghiên cứu trên so với nghiên cứu của chúng tôi, có
thể thấy rằng lý do vào viện chủ yếu là các rối loạn về chức năng tình dục,
trong đó dương vật cong gây giao hợp khó chiếm nhiều nhất.
- Hướng cong dương vật khi cương:
Cong dương vật bẩm sinh là do sự phát triển không cân xứng của bao
trắng thể hang, có thể ở một hay cả hai bên thể hang gây nên dương vật cong
khi cương cứng, có thể cong sang bên, cong lên hoặc cong xuống [70]. Kết
quả trong nghiên cứu này (bảng 3.3), tỷ lệ bệnh nhân có dương vật cong
xuống dưới nhiều nhất 20/38 BN (52,6%), kế đến là cong sang trái 15/38 BN
(39,5%), cong sang phải 3/38 BN (7,9%) và không có trường hợp nào cong
lên. Nghiên cứu của Lee [47] và cộng sự trên 68 bệnh nhân cong dương vật
bẩm sinh từ 1/1992 - 1/2002, dương vật cong xuống dưới 49%, cong sang trái
34%, cong sang phải 4%, cong lên 0%. Năm 2007, Hsieh [40] và cộng sự
nghiên cứu trên 114 trường hợp được phẫu thuật từ 1/1999 - 7/2005, dương
vật cong xuống dưới 60,5%, cong sang trái 23,7%, cong sang phải 3,5%, cong
lên 2,6%. Võ Hoàng Tâm [12] báo cáo 36 trường hợp, dương vật cong xuống
27,8%, cong sang trái 41,7%, cong sang phải 5,5 %, không có trường hợp nào
cong lên. Theo kết quả nghiên cứu về hướng cong dương vật được các tác giả
báo cáo và kết quả của chúng tôi cho thấy tỷ lệ dương vật cong lên là rất ít
hoặc không có. Điều này có thể giải thích rằng dương vật cong lên gần như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không ảnh hưởng đến giao hợp, đặc biệt là tư thế giao hợp truyền thống của
60
người Việt Nam (nam trên nữ dưới). Do đó, trong nghiên cứu của chúng tôi
và Võ Hoàng Tâm không có trường hợp nào cong lên, thậm chí khi chúng tôi
phẫu thuật còn có bệnh nhân yêu cầu phẫu thuật cho dương vật cong lên.
- Vị trí cong dương vật khi cương:
Trong các nghiên cứu về cong dương vật, rất ít tác giả đề cập đến vị trí
cong dương vật. Tác giả Kelâmi (1987) [45] báo cáo 125 trường hợp từ 1976
- 1986 với tỷ lệ cong cho 3 vị trí lần lượt là: 32% đoạn 1/3 trong, 60% đoạn
1/3 giữa, 8% đoạn 1/3 ngoài. Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.4) và Võ
Hoàng Tâm [12] cho kết quả gần tương tự với các vị trí cong (bảng 4.1).
Bảng 4.1. So sánh vị trí cong dương vật trước mổ
Vị trí cong Tác giả 1/3 ngoài 1/3 giữa 1/3 trong
Võ Hoàng Tâm [12] 1/36(2,8%) 30/36(83,3%) 5/36(13,9%)
Nghiên cứu này 2/38(5,3%) 28/38(73,7%) 8/38(21,1%)
So sánh kết quả nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm và kết quả của nghiên
cứu này về vị trí cong, có thể thấy dương vật cong ở đoạn 1/3 giữa chiếm
Trong số 38 bệnh nhân, có 35 bệnh nhân giao hợp trước mổ dương vật
nhiều nhất, dương vật cong đoạn 1/3 ngoài ít nhất.
cong vị trí 1/3 giữa ảnh hưởng đến giao hợp nhiều nhất, ảnh hưởng ít nhất là
1/3 ngoài. Mối liên quan giữa vị trí cong dương vật và ảnh hưởng của vị trí
cong dương vật đến giao hợp không có sự khác biệt với p > 0,05 (bảng 3.5).
- Độ cong dương vật khi cương:
Đánh giá chính xác độ cong dương vật khi cương trước mổ có vai trò hết
sức quan trọng, đa số các tác giả đều đánh giá kết quả dựa vào độ cong cải
thiện sau mổ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ cong dương vật trước mổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trung bình là 47,1 ± 12,7 độ, độ cong lớn nhất là 80 độ và nhỏ nhất là 30 độ.
61
Độ cong dương vật từ 45 – 59 độ chiếm nhiều nhất (biểu đồ 3.4; bảng 3.18).
Phẫu thuật được chỉ định cho các trường hợp dương vật cong ≥ 30 độ theo các
tác giả đã báo cáo [12], [29], [30], [41], [47], [61], [71]. Do đó, trong nghiên
cứu này không có trường hợp nào độ cong dương vật khi cương < 30 độ. Tuy
nhiên, có một số tác giả chỉ định phẫu thuật với độ cong dương vật nhỏ hơn
như: Kato [44] chỉ định phẫu thuật cho dương vật có độ cong nhỏ nhất là 15
độ, Cavallini [20] chỉ định phẫu thuật cho dương vật ≥ 25 độ. Nghiên cứu của
Trịnh Hoàng Giang [3] độ cong dương vật trung bình khi cương trước mổ là
56,3 độ. Theo Võ Hoàng Tâm [12] độ cong dương vật trung bình khi cương
trước mổ là 37,5 ±10,6 độ, cong lớn nhất là 90 độ, nhỏ nhất là 30 độ. Tác giả
Popken [61] phẫu thuật 50 trường hợp, độ cong trung bình là 40 độ, lớn nhất
là 95 độ, nhỏ nhất là 30 độ. Nghiên cứu của Perdzynski [60] trên 111 bệnh
nhân, độ cong trung bình là 60 độ (từ 30 - 90 độ). Kết quả trong nghiên cứu
của các tác giả trên, độ cong lớn nhất là 95 độ nhưng kết quả trong nghiên cứu
của chúng tôi độ cong dương vật lớn nhất là 80 độ, có thể do số lượng bệnh
nhân trong nghiên cứu này còn ít nên chưa gặp trường hợp nào có độ cong
đến 90 độ. Về mối liên quan giữa độ cong và ảnh hưởng đến giao hợp, độ
cong dương vật càng lớn thì ảnh hưởng đến giao hợp càng nhiều, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (bảng 3.6).
- Chiều dài của dương vật khi cương:
Tác giả Awwad [16] đo chiều dài dương vật khi cương của nam giới
trưởng thành ở nhóm không rối loạn cương và rối loạn cương để so sánh,
loại trừ các trường hợp cong dương vật bẩm sinh và bệnh Peyronie. Chiều
dài dương vật ở nam giới trưởng thành không có rối loạn cương trung bình
là 13,5 cm.
Nguyễn Thành Như [8] và cộng sự đo chiều dài dương vật khi cương ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
người Việt Nam trưởng thành và đã báo cáo kết quả cho 100 trường hợp được
62
nghiên cứu, chiều dài dương vật khi cương trung bình là 11,2 ± 1,7 cm.
Trong nghiên cứu này, chiều dài dương vật khi cương trung bình là 13,6 ± 1,2
cm, ngắn ngất là 10,5 cm, dài nhất là 16 cm (bảng 3.7). Tác giả Andrews [14]
đã nhận xét rằng, ở những bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh chiều dài
dương vật khi cương dài hơn chiều dài dương vật trung bình khi cương của
nam giới trưởng thành nên việc ngắn dương vật sau phẫu thuật sẽ không là
vấn đề lớn. Tuy nhiên, cũng có một số bệnh nhân không hài lòng sau mổ do
dương vật ngắn hơn so với trước mổ, do đó việc giải thích kỹ cho bệnh nhân
trước mổ là hết sức quan trọng. Theo nghiên cứu của Võ Hoàng Tâm [12],
chiều dài dương vật trung bình là của 36 trường hợp CDVBS là 12,69 ± 0,69
cm. Dựa vào kết quả nghiên cứu về chiều dài dương vật ở bệnh nhân CDVBS
của tác giả Võ Hoàng Tâm và kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có thể kết
luận rằng những bệnh nhân CDVBS có chiều dài dương vật khi cương lớn
hơn chiều dài dương vật của nam giới bình thường.
4.2. Kết quả phẫu thuật cong dƣơng vật bẩm sinh bằng phƣơng
pháp Yachia
- Kỹ thuật tiến hành:
Theo tác giả Yachia [70], đường rạch trên bao trắng thể hang bên dài
được giới hạn bởi hai dấu răng của allis để lại và < 1 cm, do đó tùy vào độ
cong, hướng cong của dương vật mà có thể rạch một hay nhiều vết trên
bao trắng thể hang ở một bên hay cả hai bên. Những trường hợp dương
vật cong lên hoặc cong xuống thì rạch song song ở cả hai bên thể hang,
dương vật cong sang trái hoặc cong sang phải thì rạch bao trắng thể hang
bên dài. Trong nghiên cứu này (bảng 3.8) ghi nhận vết rạch trên bao trắng
của một thể hang là từ 1 - 3 vết, với độ cong dương vật từ 30 - 80 độ, bao
trắng thể hang được rạch 2 vết chiếm nhiều nhất (63,1%), kế đến là 1 vết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(23,7%) và 3 vết là (13,2%). Độ cong dương vật trước mổ càng lớn thì vết
63
rạch bao trắng thể hang càng nhiều, mối liên quan này có ý nghĩa thống
kê với p < 0,05 (bảng 3.11).
Phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh kết hợp phẫu thuật thắt tĩnh mạch
tinh vi phẫu là hiếm gặp. Trong 38 nệnh nhân, chúng tôi gặp một trường
dương vật cong xuống dưới 50 độ, giao hợp khó kèm theo đau tức vùng bìu
trái và ảnh hưởng đến tâm lý. Khám và siêu âm giãn tĩnh mạch tinh trái độ
3, xét nghiệm giảm cả số lượng và chất lượng tinh trùng. Bệnh nhân được
chỉ định phẫu thuật thắt tĩnh mạch tinh trái vi phẫu kết hợp trong cùng một
cuộc mổ (bảng 3.9).
Trong 38 bệnh nhân nghiên cứu tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức,
những bệnh nhân này được phẫu thuật bởi nhiều phẫu thuật viên nên cũng có
sự khác nhau trong lựa chọn chỉ khâu bao trắng thể hang, có 65,8% được
khâu bằng chỉ vicryl 4.0 và 34,2% được khâu bằng chỉ prolene 4.0 (bảng
3.10). Theo tác giả Yachia [70] có thể dùng chỉ không tiêu hoặc tiêu chậm để
khâu bao trắng nhưng tác giả khuyên là nên lựa chọn chỉ tiêu chậm để hạn chế
cộm nốt chỉ dưới da dương vật. Ưu điểm và nhược điểm của mỗi loại chỉ
khâu sử dụng trong phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh cũng đã được báo
cáo. Chỉ không tiêu dễ gây tuột nút chỉ và gây cộm nốt chỉ dưới da dương vật,
chỉ tiêu hạn chế được nhược điểm đó nhưng có thể gây cong tái phát do đứt
chỉ nếu dương vật cương cứng trong suốt thời gian hậu phẫu hoặc bệnh nhân
giao hợp lại quá sớm [66].
- Thời gian phẫu thuật:
Trịnh Hoàng Giang [3] nghiên cứu 26 trường hợp được phẫu thuật, thời
gian phẫu thuật trung bình là 83,6 ± 13,8 phút. Phạm Văn Hảo [4] nghiên cứu
trên 12 bệnh nhân, thời gian phẫu thuật trung bình là 47,9 phút. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, thời gian phẫu thuật trung bình là 77,8 ± 9,1 phút, ngắn nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
là 60 phút, dài nhất là 110 phút (bảng 3.12).
64
Có duy nhất một trường hợp thời gian phẫu thuật 110 phút do kết hợp
với phẫu thuật thắt tĩnh mạch tinh trái vi phẫu. Phẫu thuật trên dương vật là
một phẫu thuật cần có thời gian và phẫu thuật viên có kinh nghiệm để phẫu
tích một cách tỉ mỉ, bảo tồn mạch máu, thần kinh và mô cương của dương vật
để tránh các biến chứng về sau như phù nề da quy đầu, tụ máu dưới da dương
vật và rối loạn cương dương sau mổ. Hơn nữa, thời gian phẫu thuật còn phụ
thuộc vào phẫu thuật kết hợp, độ cong và hướng cong dương vật. Độ cong
càng lớn thì phải rạch nhiều vết trên bao trắng và cong lên trên hay cong
xuống dưới phải rạch hai bên thể hang nên khâu sẽ lâu hơn.
- Thời gian lưu sonde tiểu:
Phẫu thuật tạo hình vật hang theo phương pháp Yachia chỉ can thiệp
trên bao trắng của thể hang không can thiệp vào thể xốp và niệu đạo do đó
sau mổ ngày thứ 2 có thể rút sonde tiểu. Nhưng do phẫu thuật bóc tách
toàn bộ da, mạc nông xuống gốc dương vật nên sau mổ dễ có nguy co phù
nề và tụ dịch, tụ máu tại dương vật. Trong thời gian hậu phẫu, bệnh nhân
được lưu sonde tiểu lâu hơn vì sau mổ dương vật được băng ép khá chặt
vòng quanh chu vi và dựng ngược về phía rốn, cố định sonde tiểu vào
thành bụng trước để hạn chế biến chứng. Do đó, trong nghiên cứu này thời
gian lưu sonde tiểu trung bình là 3,2 ± 0,6 ngày, ngắn nhất là 2 ngày, lâu
nhất là 4 ngày (bảng 3.13).
- Thời gian hậu phẫu:
Thời gian hậu phẫu phản ánh một cách khách quan kết quả điều trị của
một phương pháp phẫu thuật, nó phụ thuộc vào diễn biến sau mổ tiến triển
tốt hay xấu và được các phẫu thuật viên quan tâm hơn nhằm hạn chế chi phí
tới mức thấp nhất cho việc điều trị. Thời gian hậu phẫu được tính từ ngày
phẫu thuật đến ngày ra viện, trong thời gian theo dõi hậu phẫu không gặp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
biến chứng nặng như tụ máu dưới da dương vật, nhiễm trùng vết mổ, hoại tử
65
da dương vật…, không có trường hợp nào phải phẫu thuật lại nên thời gian
hậu phẫu trung bình là 4,7 ± 0,7 ngày (bảng 3.13). Nghiên cứu của Trịnh
Hoàng Giang [3], thời gian hậu phẫu trung bình là 6,07 ± 0,5 ngày, có một
trường hợp tụ máu dưới da dương vật phải chích rạch dẫn lưu máu tụ.
- Thời gian theo dõi sau mổ:
Thời gian theo dõi sau mổ được tính theo tháng (từ ngày mổ đến ngày
khám lại). Với thời gian nghiên cứu từ 1/2010 - 4/2015, thời gian theo dõi
trung bình là 30,1 ± 17,7 tháng, ngắn nhất 5 tháng, dài nhất là 65 tháng
(bảng 3.13). Trịnh Hoàng Giang [3] nghiên cứu trên 26 trường hợp, từ
2/2009 - 2/2012, thời gian theo dõi trung bình là 13,6 tháng. Trong nghiên
cứu này, trước mổ có 35 bệnh nhân đã giao hợp, 3 bệnh nhân chưa giao hợp.
Với thời gian theo dõi trung bình 31,1 ± 17,7 tháng, sau mổ 100% bệnh nhân
giao hợp lại.
- Biến chứng của phẫu thuật Yachia:
Chúng tôi chia biến chứng của phẫu thuật Yachia thành các mức độ để
thuận lợi cho việc đánh giá kết quả. Biến chứng nhẹ: điều trị nội khoa khỏi
(bằng các thuốc kháng sinh, giảm đau, chống phù nề). Biến chứng nặng: kết
hợp cả điều trị nội khoa và can thiệp ngoại khoa (chích rạch thoát dịch, lấy
máu tụ, tách vết mổ, cắt lọc vết mổ, mổ lại), rối loạn cương dương và cong tái
phát. Trong đó biến chứng sớm là biến chứng trong thời gian hậu phẫu, biến
chứng muộn là biến chứng gặp sau khi bệnh nhân ra viện.
Tác giả Trịnh Hoàng Giang [3] nghiên cứu 26 trường hợp cong dương
vật bẩm sinh được phẫu thuật bằng phương pháp Yachia, biến chứng sớm của
phẫu thuật là: tụ máu dưới da dương vật 1/26 BN (3,85%) cần phải trích rạch
để lấy máu tụ, phù nề da dương vật và quy đầu 2/26 BN (7,7%). Phạm Văn
Hảo [4] nghiên cứu 12 trường hợp, không ghi nhận các biến chứng như tụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
máu, phù nề, hoại tử da dương vật, nhiễm trùng vết mổ và rối loạn cảm giác
66
dương vật. Nghiên cứu của Lopes [49], điều trị 117 trường hợp bệnh Peyronie
bằng kỹ thuật Yachia, ghi nhận biến chứng phù nề và tụ máu dương vật là 4,5%.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 8/38 BN (21,5%) có biến chứng và
chỉ gặp biến chứng phù nề da quy đầu, trong 21,5% phù nề da quy đầu có 1
trường hợp phải chích rạch thoát dịch, các trường hợp còn lại phù nề ở mức
độ nhẹ, điều trị bằng thuốc và không cần can thiệp gì thêm. Trường hợp bệnh
nhân chích rạch thoát dịch được kê thêm thuốc chống viêm giảm phù nề, theo
dõi và hết ở tuần thứ hai. Đây là biến chứng hay gặp trong phẫu thuật ở
dương vật, chúng tôi cho rằng khi phẫu thuật bóc tách da và mạc nông dương
vật nên bóc tách cẩn thận, hạn chế đốt cầm máu, tránh làm tổn thương mạch
máu và thần kinh dương vật, sau khi kết thúc phẫu thuật nên băng ép dựng
ngược dương vật lên thành bụng có thể hạn chế được biến chứng này.
Phẫu thuật Yachia là một cải tiến của phẫu thuật Nesbit, về cơ bản hai
phẫu thuật này giống nhau do đều can thiệp cắt hay rạch mở trên bao trắng
thể hang bên dài sau đó khâu lại. Do bên dưới bao trắng thể hang là các
xoang hang chứa máu và nếu các mũi chỉ khâu bao trắng chưa kín hoặc do
cầm máu không kỹ thì tụ máu dưới da dương vật là dễ gặp trong các biến
chứng. Tác giả Poulsen [62] báo cáo 118 trường hợp cong dương vật bẩm
sinh được phẫu thuật, trong đó 95 bệnh nhân với phẫu thuật Nesbit và 23
bệnh nhân với phẫu thuật khâu gấp bao trắng, nhóm phẫu thuật Nesbit có 3
bệnh nhân phải phẫu thuật lấy máu tụ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
chúng tôi không gặp trường hợp nào tụ máu dưới da dương vật (bảng
3.14). Kết quả này tương tự nghiên cứu của Trịnh Hoàng Giang [3], Phạm
Văn Hảo [4].
Năm 2008, Ghanem [30] và cộng sự nghiên cứu trên 45 bệnh nhân, ghi
nhận 1/45 BN (2,2%) rối loạn cương dương vật. Như đã nói trong phần tổng
quan, nhóm phẫu thuật làm ngắn bên dài ít gây tổn thương bao trắng và mô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cương hơn so với nhóm phẫu thuật làm dài bên ngắn (dùng mảnh ghép).
67
Hơn nữa, phẫu thuật Yachia đã cải tiến từ kỹ thuật Nesbit, chỉ rạch dọc và
khâu ngang thay vì cắt bỏ một hay nhiều mảnh trên bao trắng thể hang bên
dài để hạn chế tổn thương bao trắng và mô cương, điều này cũng giải thích tại
sao tỷ lệ rối loạn cương dương của phẫu thuật Yachia ít hơn phẫu thuật
Nesbit và các phẫu thuật làm dài bên ngắn. Trong nghiên cứu này, không gặp
trường hợp nào rối rối loạn cương.
Năm 1999, biến chứng nhiễm trùng vết mổ đã được tác giả Andrews
[14] báo cáo trong 106 trường hợp được phẫu thuật bằng kỹ thuật Nesbit, tỷ
lệ nhiễm trùng vết mổ là 5/106 BN (4,7%). Tuy nhiên, trong nhiên cứu của
chúng tôi và Trịnh Hoàng Giang [3], Phạm Văn Hảo [4] thì nhiễm trùng vết
mổ là không gặp trường hợp nào.
Cong dương vật tái phát là những trường hợp trong mổ dương vật được
chỉnh thẳng, sau khi ra viện dương vật cong lại như ban đầu hoặc độ cong
không cải thiện so với trước mổ. Tác giả Salem (2009) [66] cho rằng nguyên
nhân thường do bệnh nhân giao hợp lại sớm hơn 6 tuần hay dương vật cương
cứng suốt thời gian hậu phẫu dẫn đến tuột nút chỉ khâu. Trong nghiên cứu
của chúng tôi không có trường hợp nào cong dương vật tái phát sau mổ vì
trong thời gian hậu phẫu tất cả các trường hợp đều được dùng thuốc an thần
để hạn chế cương dương vật sau mổ, khi bệnh nhân ra viện đều được khuyến
cáo không giao hợp lại ít nhất là 6 tuần đầu sau mổ.
- Độ cong dương vật khi cương sau mổ:
Đo độ cong dương vật khi cương sau mổ là rất quan trọng để đánh giá
kết quả của phẫu thuật. Theo tiêu chuẩn đánh giá kết quả của các tác giả đã
được báo cáo, thành công của phẫu thuật khi dương vật được chỉnh thẳng
hoặc ≤ 15 độ, thất bại khi > 15 độ [12], [21], [40], [47], [61]. Kết quả đo độ
cong dương vật khi cương sau mổ trong nghiên cứu này (bảng 3.16), dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vật thẳng và ≤ 15 độ là 36/38 BN (94,7%), dương vật > 15 độ là 2/38 BN
68
(5,3%). Ghi nhận hai trường hợp này có độ cong trước mổ là 60 độ và 75 độ,
dương vật đều cong xuống, vị trí cong 1/3 trong sát gốc dương vật, sau mổ độ
cong dương vật lần lượt là 20 độ và 25 độ. Tuy nhiên, cả 2 trường hợp này
đều hài lòng về độ cong dương vật cải thiện so với trước mổ. Chúng tôi cho
rằng nguyên nhân độ cong dương vật sau mổ còn > 15 độ là do vị trí cong sát
gốc dương vật sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm tra lại độ cong bằng cách gây
cương nhân tạo, vì khi đó vị trí garo gần trùng với vị trí cong dương vật. Do
đó, kết quả của phẫu thuật phụ thuộc vào vị trí cong của dương vật khi cương
trước mổ. So sánh độ cong dương vật trung bình khi cương trước và sau mổ
thấy sự cải thiện rõ rệt, trước mổ là 47,1 ± 12,7 độ, sau mổ là 5 ± 5,7 độ. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (bảng 3.18).
- Ngắn dương vật so với trước mổ:
Ngắn dương vật so với trước mổ là khó tránh khỏi trong nhóm phẫu
thuật làm ngắn bên dài, đây là một nhược điểm của các phẫu thuật làm ngắn
bên dài. Nghiên cứu của một số tác giả như Trịnh Hoàng Giang [3] thì dương
vật ngắn so với trước mổ trung bình là 1,6 cm, gặp trong 15 trường hợp. Theo
Võ Hoàng Tâm [12], tỷ lệ ngắn dương vật là 51,2%, ngắn trung bình là 0,5 -
1,5 cm. Dương vật ngắn trung bình trong nghiên cứu của Hauck (2002) [36]
là 1,8 cm và Lopes (2013) [49] là 1,8 cm.
Tác giả Popken (1999) [61] báo cáo 105 bệnh nhân được phẫu thuật
bằng các phẫu thuật làm ngắn bên dài và đã thấy rằng với mỗi độ cong 10 độ
thì khi chỉnh thẳng dương vật sẽ ngắn lại 1 - 2 mm. Do đó, trong nghiên cứu
của chúng tôi với độ cong dương vật từ 30 đến 80 độ, ngắn dương vật sau mổ
là từ 0,5 - 1,8 cm, trung bình là 1,2 ± 0,3 cm (bảng 3.17), chiều dài dương vật
khi cương trung bình trước mổ là 13,6 ± 1,2 cm, sau mổ là 12,5 ± 1,1 cm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(bảng 3.18) và dương vật ngắn sau mổ gặp 100% trường hợp. Kết quả này
69
khác so với kết quả của Trịnh Hoàng Giang [3], ngắn dương vật chỉ gặp
15/26 BN (57,7%), Võ Hoàng Tâm [12] chỉ gặp 51,2 %.
Theo Greenfield [32], tình trạng ngắn dương vật sau mổ tỷ lệ thuận với
độ cong của dương vật, nếu độ cong càng lớn đòi hỏi nhiều đường rạch trên
thể hang thì sau mổ chắc chắn dương vật sẽ ngắn nhiều hơn so với dương vật
có độ cong nhẹ. Dương vật ngắn so với trước mổ trong trong nghiên cứu này
trung bình là 1,2 ± 0,3 cm, thấp hơn so với các tác giả trên vì mức độ ngắn
còn phụ thuộc vào mức độ cong dương vật trong nhóm bệnh nhân được
nghiên cứu.
Chính vì sự ngắn đi của dương vật sau mổ là tất yếu trong nhóm phẫu
thuật làm ngắn bên dài nói chung và phẫu thuật Yachia nói riêng. Nên việc giải
thích trước mổ cho bệnh nhân về tình trạng ngắn dương vật là rất cần thiết.
- Tình trạng dương vật khi khám lại:
Do đặc điểm giải phẫu của dương vật, các lớp bao bọc dương vật
mỏng nên khi khâu bao trắng thể hang bằng chỉ không tiêu thì cộm nốt
chỉ dưới da dương vật sau mổ là khó tránh khỏi. Trong phẫu thuật khâu
gấp bao trắng 100% trường hợp được khâu bằng chỉ không tiêu, nhưng
phẫu thuật Yachia có thể khâu bằng chỉ tiêu chậm hoặc không tiêu. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, có 13 bệnh nhân được khâu bao trắng bằng chỉ
prolene, sau mổ 13/13 BN (100%) cộm nốt chỉ dưới da dương vật. Trong
đó, có 3/13 BN (23,1%) đau dương vật khi giao hợp do cộm nốt chỉ. Đau
ở những bệnh nhân cộm nốt chỉ là do nốt chỉ cọ sát vào da dương vật, tuy
nhiên các trường hợp này đau ít, bệnh nhân chịu được và không ảnh
hưởng đến giao hợp mặc dù lần đầu giao hợp lại bệnh nhân cảm giác bị
chi phối do đau nhưng sau đó diễn ra bình thường. Không có bệnh nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nào yêu cầu phẫu thuật lại để lấy nốt chỉ cộm.
70
Trong 9 bệnh nhân đau dương vật khi giao hợp lại (bảng 3.23), có 3
trường hợp đau do cộm nốt chỉ, còn 6 trường hợp đau do sẹo vết mổ da
dương vật. Đây là triệu chứng thường gặp ở những bệnh nhân phẫu thuật
dương vật khi có giao hợp lại, tuy nhiên đau do sẹo vết mổ chỉ gặp trong
những lần giao hợp đầu tiên sau mổ, mức độ đau bệnh nhân chịu được và
giao hợp vẫn diễn ra.
Tác giả Klevmark (1994) [46] điều trị 48 trường hợp cong dương vật
bẩm sinh bằng kỹ thuật khâu gấp bao trắng, dùng chỉ prolene 2.0, báo cáo
19% đau do cộm nốt chỉ nhưng mức độ đau bệnh nhân chịu được và không
ảnh hưởng đến giao hợp. Tác giả khuyên rằng trong các trường hợp dùng chỉ
prolene nên cắt chỉ càng ngắn càng tốt và chiều dài chỉ còn lại khi cắt là 3 mm.
Một trường hợp có nốt phình mép vết khâu bao trắng, đây cũng là lý do
bệnh nhân không hài lòng về thẩm mỹ dương vật sau mổ nhưng bệnh nhân
hài lòng về giao hợp.
- Cải thiện tâm lý bệnh nhân sau mổ:
Trong các lý do chính vào viện, có 12/38 BN (31,6%) ảnh hưởng đến
tâm lý, các trường hợp còn lại đều có ảnh hưởng đến tâm lý ở các mức độ
khác nhau như lo lắng về tình trạng bệnh, không tự tin khi giao hợp, lo sợ
không giao hợp được, ngại tiếp xúc với bạn gái hoặc sợ người khác biết bộ
phận sinh dục của mình bất thường, lo sợ không đáp ứng nhu cầu quan hệ tình
dục của bạn tình, làm bạn tình đau khi quan hệ. Nên sau mổ chúng tôi đánh
giá sự cải thiện tâm lý cho tất cả các trường hợp và kết quả thu được là 38/38
BN (100%) có cải thiện tâm lý. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của
Võ Hoàng Tâm [12], trước mổ có 22 bệnh nhân ảnh hưởng đến tâm lý, sau
mổ tất cả 22/22 bệnh nhân đều cải thiện về tâm lý. Chúng tôi thấy rằng, hầu hết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bệnh nhân ảnh hưởng đến tâm lý đều thứ phát sau các rối loạn về chức năng tình
71
dục như giao hợp khó, bạn tình đau khi giao hợp hay không thể giao hợp, khi
chức năng giao hợp được cải thiện thì các vấn đề về tâm lý cũng được cải thiện.
- Thẩm mỹ dương vật sau mổ:
Chúng tôi đánh giá sự hài lòng thẩm mỹ dương vật sau mổ dựa vào độ
cong và phàn nàn về tình trạng dương vật sau mổ (cộm nốt chỉ dưới da dương
vật, đau do cộm nốt chỉ, nốt phình mép vết khâu bao trắng). Ghi nhận 34/38
BN (89,5%) rất hài lòng, hài lòng 3/38 BN (7,8%), có 1/38 BN (2,7%) không
hài lòng do nốt phình mép vết khâu bao trắng. Trường hợp không hài lòng
này dương vật trước mổ cong xuống 55 độ, khi phẫu thuật rạch rạch mặt lưng
hai bên thể hang đối xứng nhau và khâu bằng chỉ vicryl 4.0. Sau mổ tại 2 mép
vết khâu bao trắng thể hang phình ra và đẩy lồi da dương vật lên khi dương
vật cương, nốt phình này không đau, không ảnh hưởng gì đến giao hợp nên
bệnh nhân hài lòng về giao hợp. Tác giả Ghanem (2008) [30] gọi những chỗ
phình này là “tai chó”, để hạn chế được tình trạng này thì tất cả các mũi khâu
vùi hai mép của vết khâu bao trắng nên khâu bằng chỉ prolen, nếu không
khâu vùi thì giới hạn của đường rạch dọc trên bao trắng là 3 mm. Salem
(2009) [66] phẫu thuật 20 trường hợp, tỷ lệ hài lòng về thẩm mỹ là 19/20 BN
(95%), 01 trường hợp không hài lòng do nốt chỉ cộm sau đó bệnh nhân được
phẫu thuật để lấy nốt chỉ cộm. Chúng tôi cho rằng trường hợp bệnh nhân
không hài lòng trong nghiên cứu này có thể là do vết rạch bao trắng > 3 mm,
khâu bằng chỉ vicryl 4.0 để vùi mép, khi chỉ tiêu đi mép vết rạch đẩy lồi lên
như cũ.
- Tình trạng giao hợp sau mổ, hài lòng bệnh nhân và bạn tình khi giao
hợp lại:
Trước mổ có 35 BN (92,1%) đã giao hợp, với thời gian theo dõi 30,1 ±
17,7 tháng thì tất cả 38/38 BN (100%) đều giao hợp sau mổ. Các rối loạn về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chức năng tình dục được cải thiện rõ rệt sau mổ (bảng 2.21; bảng 2.22), sau
72
mổ 100% bệnh nhân giao hợp dễ và bạn tình không đau khi giao hợp. Tỷ lệ
bệnh nhân rất hài lòng, hài lòng khi giao hợp lần lượt là 29/38 BN (76,3%),
9/38 BN (23,7%), không có trường hợp nào bệnh nhân không hài lòng khi
giao hợp.
Có 9/38 BN (23,7%) đau do cộm nốt chỉ và sẹo vết mổ da dương vật
nhưng mức độ đau ít, bệnh nhân chịu được chỉ bị ảnh hưởng trong lần giao
hợp lại đầu tiên nên bệnh nhân hài lòng khi giao hợp lại. Tác giả Lee (2004)
[47] phẫu thuật 68 trường hợp cong dương vật bẩm sinh, tỷ lệ hài lòng của
bệnh nhân là 67/68 BN (98,5%), có 1 trường hợp không hài lòng do ngắn
dương vật.
Chúng tôi đánh giá sự hài lòng của bạn tình thông qua bệnh nhân dựa
vào mức độ đau âm đạo khi giao hợp. Trước mổ có 12 trường hợp bạn tình
đau khi giao hợp, sau mổ có 100% trường hợp bạn tình hài lòng khi giao hợp.
Có thể thấy rằng, bạn tình đau khi giao hợp là lý do ảnh hưởng đến tâm lý của
bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh. Phẫu thuật tạo hình vật hang theo
phương pháp Yachia không chỉ đem lại sự hài lòng cho bệnh nhân mà còn
đem đến sự hài lòng cho bạn tình khi giao hợp.
Trong các báo cáo về kết quả điều trị cong dương vật bẩm sinh, báo cáo
đánh giá sự hài lòng của bạn tình sau phẫu thuật rất ít được đề cập đến. Tuy
nhiên, tác giả Van Der Horst (2004) [69] dùng phẫu thuật khâu gấp bao trắng
theo kỹ thuật của Essed - Schröeder thì tỷ lệ hài lòng của bạn tình sau mổ là
78%. Theo Klevmark (1994) [46], trước mổ có 40% bạn tình phàn nàn khi
giao hợp, sau phẫu thuật tỷ lệ này chỉ còn 2%.
- Đánh giá kết quả của phẫu thuật Yachia:
Cong dương vật bẩm sinh là do sự phát triển bất cân xứng của bao trắng
thể hang [12], [71]. Theo phân loại của Devine - Horton [52] thì cong dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vật bẩm sinh thuộc loại IV.
73
Năm 2000, với sự nhất trí của Tổ chức Y tế Thế giới, Ủy ban về bệnh
Peyronie và cong dương vật bẩm sinh đã thống nhất rằng các trường hợp
cong dương vật bẩm sinh ở thanh niên, phương pháp điều trị tốt nhất là khâu
gấp bao trắng hoặc tạo hình thể hang (nhóm phẫu thuật Nesbit và Yachia),
không dùng mảnh ghép [42]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá kết
quả phẫu thuật theo kỹ thuật Yachia.
Theo cách đánh giá kết quả dựa vào độ cong dương vật khi cương cải thiện
sau mổ mà các tác giả áp dụng cho điều trị cong dương vật bẩm sinh thì thành
công của phẫu thuật khi dương vật được chỉnh thẳng hoặc độ cong khi cương ≤
15 độ, thất bại khi độ cong dương vật > 15 độ [12], [21], [40], [47], [61].
Theo đó, tỷ lệ thành công của phẫu thuật Yachia trong nghiên cứu này là
94,7%. Nghiên cứu của Trịnh Hoàng Giang [3] trên 26 bệnh nhân và Phạm
Văn Hảo [4] trên 12 bệnh nhân, thành công của phẫu thuật lần lượt là 84,6%
và 91,7%. Tác giả Daitch [23] nghiên cứu 5 trường hợp, cho kết quả thành
công là 80%. Ghanem [30] báo cáo 45 trường hợp được phẫu thuật, thành
công của phẫu thuật là 98%. Do số lượng bệnh nhân ít và khác nhau trong
từng nghiên cứu nên kết quả thành công của phẫu thuật Yachia trong nghiên
cứu của chúng tôi và các tác giả khác cũng có sự khác nhau.
Trên Thế giới và Việt Nam chưa có tác giả nào đánh giá kết quả của
phẫu thuật Yachia theo các mức độ tốt, trung bình và xấu. Chúng tôi cho
rằng, đánh giá kết quả sau mổ dựa vào sự hài lòng của bệnh nhân khi giao
hợp lại, thẩm mỹ dương vật và biến chứng sau mổ là đầy đủ hơn. Vì vậy,
chúng tôi đưa ra thang điểm và đánh giá theo các mức độ tốt, trung bình và
xấu dựa vào 3 tiêu chuẩn trên. Theo đó, kết quả thu được là: tốt 35/38 BN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(92,1%), trung bình 3/38 BN (7,9%), xấu không có trường hợp nào.
74
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 38 bệnh nhân cong dương vật bẩm sinh được điều trị
phẫu thuật bằng phương pháp Yachia tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức trong
thời gian từ tháng 01/01/2010 đến tháng 30/04/2015, chúng tôi có kết luận sau:
1. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân cong dƣơng vật bẩm sinh
đƣợc phẫu thuật tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
- Tuổi bệnh nhân trung bình là 22,6 ± 3,6 tuổi.
- Nghề nghiệp bệnh nhân chủ yếu là sinh viên và phân bố chủ yếu ở Hà Nội.
- Lý do chính vào viện chủ yếu là các rối loạn về chức năng tình dục,
chiếm 63,2%.
- Dương vật cong xuống dưới chiếm 52,6%, không có trường hợp nào
cong lên.
- Vị trí cong 1/3 giữa nhiều nhất, chiếm 73,7%.
- Chiều dài dương vật khi cương trung bình là 13,6 ± 1,2 cm.
- Độ cong dương vật khi cương trước mổ trung bình là 47,1 ± 12,7 độ.
2. Kết quả phẫu thuật cong dƣơng vật bẩm sinh bằng phƣơng pháp
Yachia
- Thời gian phẫu thuật trung bình là 77,8 ± 9,1 phút.
- Hậu phẫu trung bình là 4,7 ± 0,7 ngày.
- Biến chứng: chỉ gặp phù nề da quy đầu (21,5%), không gặp các biến
chứng như nhiễm trùng vết mổ, tụ máu dưới da dương vật, cong tái phát, rối
loạn cương dương.
- Sau mổ dương vật thẳng và độ cong khi cương ≤ 15 là 94,7%, độ
cong > 15 độ là 5,3%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Ngắn dương vật so với trước mổ trung bình 1,2 ± 0,3 cm.
75
- Tình trạng dương vật khi khám lại: cộm nốt chỉ dưới da dương vật
(34,2%), đau do cộm nốt chỉ khi giao hợp (7,9%), nốt phình mép vết khâu bao
trắng (2,6%).
- Rất hài lòng về thẩm mỹ dương vật (89,5%), hài lòng (7,8%), không
hài lòng (2,7%).
- 100% bệnh nhân cải thiện tâm lý sau mổ.
- Hài lòng bệnh nhân khi giao hợp lại: rất hài lòng (76,3%), hài lòng (23,7%).
- 100% bạn tình hài lòng khi giao hợp lại.
- Kết quả phẫu thuật dựa vào độ cong sau mổ: thành công là 94,7%.
- Kết quả phẫu thuật theo mức độ: tốt 92,1%, trung bình 7,9%.
Phẫu thuật Yachia dễ thực hiện, ít biến chứng và cho tỷ lệ thành công
cao. Phẫu thuật không chỉ đem lại sự hài lòng cho bệnh nhân mà còn đem đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sự hài lòng cho bạn tình.
76
KHUYẾN NGHỊ
- Nên phổ biến và áp dụng kỹ thuật Yachia đến các cơ sở tuyến tỉnh để
điều trị bệnh lý cong dương vật bẩm sinh nhằm đảm bảo chức năng, thẩm mỹ
và cải thiện tâm lý cho bệnh nhân.
- Trước mổ cần giải thích kỹ các nguy cơ, biến chứng của phẫu thuật với
bệnh nhân đặc biệt là tình trạng ngắn dương vật sau mổ.
- Đánh giá kết quả của phẫu thuật nên dựa vào 3 tiêu chuẩn: hài lòng
bệnh nhân khi giao hợp lại, thẩm mỹ dương vật và biến chứng sau mổ theo
thang điểm chúng tôi đưa ra (bảng 2.1).
- Tiếp tục theo dõi và đánh giá kết quả xa của phẫu thuật nhằm phát hiện,
điều trị kịp thời biến chứng có thể thể xảy ra để nâng cao chất lượng điều trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phẫu thuật cong dương vật bẩm sinh bằng phương pháp Yachia.
77
Một số h nh ảnh về kết quả của phẫu thuật Yachia tại bệnh viện
Dương vật cong trước mổ 30 độ
Dương vật được chỉnh thẳng trong mổ
Hữu Nghị Việt Đức
Dương vật cong trước mổ 60 độ
Sau mổ dương vật thẳng
(BN Ngô Quang Tr 26 tuổi, mổ ngày 14/4/2015)
(BN Nguyễn Anh T 20 tuổi, mổ ngày 26/11/2012)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
78
(BN Đỗ Công M, DV cong sang trái 40 độ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
(BN Nguyễn Đình L, DV cong xuống 60 độ)
79
1.
aaa Cường Lê Văn Cường (2011), Giải phẫu học sau đại học, Cơ quan sinh
dục nam, Nxb Y học TP Hồ Chí Minh.
2.
aaa Dũng Nguyễn Trí Dũng (2001), Phôi thai học người, Hệ sinh dục, Nxb
Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.
3.
aaa Giang Trịnh Hoàng Giang, Đỗ Trường Thành (2012), “Kết quả phẫu
thuật 26 trường hợp cong dương vật bẩm sinh theo phương pháp tạo hình vật
hang của Yachia tại bệnh viện Việt Đức”, Y học thực hành, 824, pp. 24 - 26.
4.
aaa Hảo Phạm Văn Hảo, Đặng Quang Tuấn, Mai Bá Tiến Dũng (2013),
“Điều trị cong dương vật bẩm sinh với kỹ thuật Yachia”, Báo cáo tại hội
nghị khoa học thường niên lần thứ VII, Hội Tiết Niệu - Thận học Việt Nam,
pp.
5.
aaa Hùng Lê Thanh Hùng, Lê Công Thắng, Lê Tấn Sơn (2003), “Điều trị
cong dương vật không kèm lỗ tiểu lệch thấp”, Y học TP Hồ Chí Minh, 7 (1),
pp. 289- 292.
6.
aaa Kiểm Phạm Cao Kiểm (2012), Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị ung
thư biểu mô tế bào vảy dương vật, Luận án Thạc sỹ y học, 3- 4.
7.
aaa Như Nguyễn Thành Như (2012), Nam khoa lâm sàng, Cong dương vật,
Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
8.
aaa Như Nguyễn Thành Như (2012), Nam khoa lâm sàng, Kích thước dương
vật, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80
9.
aaa Như Nguyễn Thành Như (2012), Nam khoa lâm sàng, Rối loạn cương
dương, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
10.
aaa Quyền Nguyễn Quang Quyền (2004), Bài gảng giải phẫu học, Cơ quan
sinh dục nam, Nxb Y học TP Hồ Chí Minh.
11.
aaa Quyền Nguyễn Quang Quyền (2010), Atlas giải phẫu người, Giải phẫu
dương vật, Nxb Y học TP Hồ Chí Minh.
12.
aaa Tâm Võ Hoàng Tâm, Nguyễn Thành Như, Mai Bá Tiến Dũng, Đặng
Quang Tuấn (2011), “Kết quả điều trị cong dương vật bẩm sinh bằng phẫu
thuật khâu gấp bao trắng tại khoa nam học bệnh viện Bình Dân”, Y học TP
Hồ Chí Minh, 15 (1), pp. 200 - 206.
13. Akbulut F., Akman T., Salabas E., Dinçer M., Ortac M., Kadiogl A. (2014),
“Neurovascular bundle dissection for Nesbit procedure in congenital penile
curvature patients: medial or lateral?”, Asian journal of andrology, 16 (3),
pp. 442.
14. Andrews H. O., Al-Akraa M., Pryor J. P., Ralph D. J. (1999), “The Nesbit
operation for congenital curvature of the penis”, International journal of
impotence research, 11 (3), pp. 119-122.
15. Angerweier K. W. (2006), Operative Urology at the Cleveland Clinic,
Surgical Anatomy of the Penis, Humana Press Inc, pp.378-383.
16. Awwad Z., Abu-Hijleh M., Basri S., Shegam N., Murshid M., Ajlouni K.
(2005), “Penile measurements in normal adult Jordanians and in patients
with erectile dysfunction”, International journal of impotence research, 17
(2), pp. 191-195.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
81
17.
Badawy H., Morsi H. (2008), “Long-term followup of dermal grafts for
repair of severe penile curvature”, The Journal of urology, 180 (4), pp. 1842-
1845.
18.
Baskin L. S., Lue T. F. (1998), “The correction of congenital penile
curvature in young men”, British journal of urology, 81, pp. 895-899.
19.
Bologna R. A., Noah T. A., Nasrallah P. F., McMahon D. R. (1999),
“Chordee: varied opinions and treatments as documented in a survey of the
American Academy of Pediatrics, Section of Urology”, Urology, 53 (3), pp.
608-612.
20.
Cavallini G., Caracciolo S. (2008), “Pilot study to determine improvements
in subjective penile morphology and personal relationships following a
Nesbit plication procedure for men with congenital penile curvature”, Asian
journal of andrology, 10 (3), pp. 512.
21.
Chien G. W., Aboseif S. R. (2003), “Corporeal plication for the treatment of
congenital penile curvature”, The Journal of urology, 169 (2), pp. 599-602.
22.
Chung B. I., Sommer G., Brooks J. D. (2012), Campbell- Walsh Urology,
10th Ed, Anatomy of the Lower Urinary Tract and Male Genitalia, Saunders
Elsevier, pp.31-70.
23. Daitch J. A., Angermeier K., Montague D. (1999), “Modified corporoplasty
for penile curvature: long-term results and patient satisfaction”, The Journal
of urology, 162 (6), pp. 2006-2009.
24. Darewicz B., Kudelski J., Szynaka B., Nowak H. F., Darewicz J. (2001),
“Ultrastructure of the tunica albuginea in congenital penile curvature”, The
Journal of urology, 166 (5), pp. 1766-1768.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
82
25. Dessanti A., Iannuccelli M., Falchetti D., Sotgiu S., Scanu M. (2002),
“Correction of congenital chordee penis by „ventral separation and outward
rotation of corpora‟”, Journal of pediatric surgery, 37 (9), pp. 1347-1350.
26. Donnahoo K. K., Cain M. P., Pope J. C., Casale A. J., Keating M. A., Adams
M. C., Rink R. C. (1998), “Etiology, management and surgical complications
of congenital chordee without hypospadias”, The Journal of urology, 160 (3),
pp. 1120-1122.
27.
Ebbehoj J., Metz P. (1987), “Congenital penile angulation”, British journal
of urology, 60 (3), pp. 264-266.
28.
Essed E., Schroeder F. H. (1985), “New surgical treatment for Peyronie
disease”, Urology, 25 (6), pp. 582-587.
29.
Friedrich M. G., Evans D., Noldus J., Huland H. (2000), “The correction of
penile curvature with the Essed–Schröder technique: a long‐term follow‐up
assessing functional aspects and quality of life”, BJU international, 86 (9),
pp. 1034-1038.
30. Ghanem H., Shamloul R. M. (2008), “Incisional corporoplasty for the
correction of congenital penile curvature: a review of two suturing
techniques”, International journal of impotence research, 20 (2), pp. 222-
225.
31. Giammusso B., Burrello M., Branchina A., Nicolosi F., Motta M. (2004),
“Modified corporoplasty for ventral penile curvature: description of the
technique and initial results”, The Journal of urology, 171 (3), pp. 1209-
1211.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
83
32. Greenfield J. M., Lucas S., Levine L. A. (2006), “Factors affecting the loss
of length associated with tunica albuginea plication for correction of penile
curvature”, The Journal of urology, 175 (1), pp. 238-241.
33. Hafez A. T., Smith C. R., Mclorie A., El-Ghoneimi A., Herz D. B. (2001),
“Tunica vaginalis for correcting penile chordee in a rabbit model: is there a
difference in flap versus graft?”, The Journal of urology, 166 (4), pp. 1429-
1432.
34. Hatzichristou D. G., Hatzimouratidis K., Apostolidis A., Tzortzis V., Bekos
A., Ioannidis E. (2002), “Corporoplasty using tunica albuginea free grafts for
penile curvature: surgical technique and long-term results”, The Journal of
urology, 167 (3), pp. 1367-1370.
35. Hatzimouratidis K., Eardley I., Giuliano F., Hatzichristou D., Moncada I.,
Salonia A., Vardi Y., Wespes E. (2012), “EAU guidelines on penile
curvature”, European urology, 62 (3), pp. 543-552.
36. Hauck E. W., Bschleipfer T., Diemer T., Manning M., Schroeder I., Weidner
W. (2002), “Long-term results of Essed-Schroeder plication by the use of
non-absorbable Goretex sutures for correcting congenital penile curvature”,
International journal of impotence research, 14 (3), pp. 146-150.
37. Ho K. L., Yip A. W., Leung L. S., Law I. C. (2006), “Surgical treatment of
penile curvature”, Hong Kong Med J, 12, pp. 410-414.
38. Horton J. C., Gearhart J. P., Jeffs R. D. (1993), “Dermal grafts for correction
of severe chordee associated with hypospadias”, The Journal of urology, 150
(2), pp. 452-455.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
84
39. Hsieh J. T., Huang H. E., Chen J., Chang H. C., Liu S. P. (2001), “Modified
plication of the tunica albuginea in treating congenital penile curvature”,
BJU international, 88 (3), pp. 236-240.
40. Hsieh J. T., Liu S. P., Chien Y., Chang H. C., Yu H. J. (2007), “Correction of
congenital penile curvature using modified tunical plication with absorbable
sutures: the long-term outcome and patient satisfaction”, European urology,
52 (1), pp. 261-267.
41. Hsu G. L., Chien S. H., Weng S. S. (1997), “Out‐patient surgery for the
correction of penile curvature”, British journal of urology, 79 (1), pp. 36-39.
42.
Jordan G. H., MacCammon K. A. (2012), Campbell-Walsh Urology, 10 th
Ed, Curvatures of the Penis, Saunders Elsevier, pp.994-996.
43.
Jordan G. H., Schlossberg S. M. (2007), Curvature of penis, Campbell-
Walsh Urology, 10 th Ed, Saunders Elsevier, pp.1087-1091.
44. Kato T., Nagao K., Ishii N., Miura K. (2005), “New plication technique for
the treatment of congenital penile curvature”, Reproductive Medicine and
Biology, 4 (4), pp. 255-258.
45. Kelâmi A. (1987), “Congenital Penile Deviation and its Treatment with the
Nesbit‐Kelâmi Technique”, British journal of urology, 60 (3), pp. 261-263.
46. Klevmark B., Andersen M., Schultz A., Talseth T. (1994), “Congenital and
acquired curvature of the penis treated surgically by plication of the tunica
albuginea”, British journal of urology, 74 (4), pp. 501-506.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
85
47.
Lee S. S., Meng E., Chuang F. P., Yen C. Y., Chang S. Y., Yu D. S. (2004),
“Congenital penile curvature: long-term results of operative treatment using
the plication procedure”, Asian journal of andrology, 6 (3), pp. 273-276.
48.
Lindgren B. W., Reda E. F., Levitt S. B., Brock W. A., Franco I. (1998),
“Single and multiple dermal grafts for the management of severe penile
curvature”, The Journal of urology, 160 (3), pp. 1128-1130.
49.
Lopes I., Tomada N., Vendeira P. (2013), “Penile corporoplasty with
Yachia's technique for Peyronie's disease: Single center experience with 117
patients”, Urology annals, 5 (3), pp. 167.
50.
Lue T. F. (2007), Campbell-Walsh Urology, 9th Ed, Physiology of Penile
Erection and Pathophysiology of Erectile Dysfunction, Saunders Elsevier,
pp.718- 736.
51. Makovey I., Higuchi T., Montague D. K., Angermeier K. W., Wood H. M.
(2012), “Congenital penile curvature: update and management”, Current
urology reports, 13 (4), pp. 290-297.
52. McCammon K. A. (2004), Glenn's Urologic Surgery, 6th Ed, Congenital
Curvature, Lippincott Williams & Wilkins, pp.603-607.
53. Montag S., Palmer L. (2011), “Abnormalities of penile curvature: chordee
and penile torsion”, The Scientific World Journal, 11, pp. 1470-1478.
54. Moriel E. Z., Grinwald A., Rajfer J. (1994), “Vein grafting of tunical
incisions combined with contralateral plication in the treatment of penile
curvature”, Urology, 43 (5), pp. 697-701.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
86
55. Nesbit R. M. (1965), “Congenital curvature of the phallus: report of three
cases with description of corrective operation”, J Urol, 93, pp. 230-232.
56. Nooter R. I., Bosch J., Schroder F. H. (1994), “Peyronie's disease and
congenital penile curvature: long‐term results of operative treatment with the
plication procedure”, British journal of urology, 74 (4), pp. 497-500.
57. Nyirády. P., Kelemen Z., Bánfi G., Rusz A., Majoros A., Romics I. (2008),
“Management of congenital penile curvature”, The Journal of urology, 179
(4), pp. 1495-1498.
58.
Paez A., Mejias J., Vallejo J., Romero I., Castro M., Gimeno F. (2007),
“Long-term patient satisfaction after surgical correction of penile curvature
via tunical plication”, International braz j urol, 33 (4), pp. 502-509.
59.
Park J. M. (2012), Genanital and reproductive tract development, Campbell-
Walsh Urology, 10th Ed, Saunders Elsevier.
60.
Perdzynski W., Adamek M. (2015), “A new corporoplasty based on
stratified structure of tunica albuginea for the treatment of congenital penile
curvature–long–term results”, Central European journal of urology, 68 (1),
pp. 102.
61.
Popken G., Wetterauer U., Schultze‐Seemann W., Deckart A. B.,
Sommerkamp H. (1999), “A modified corporoplasty for treating congenital
penile curvature and reducing the incidence of palpable indurations”, BJU
international, 83 (1), pp. 71-75.
62.
Poulsen J., Kirkeby H. J. (1995), “Treatment of penile curvature - a
retrospective study of 175 patients operated with plication of the tunica
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
87
albuginea or with the Nesbit procedure”, British journal of urology, 75 (3),
pp. 370-374.
63.
Punekar S., Buch D., Soni A., Swami G., Rao S. R., Karhadkar S. S., Kinne
J. S. (2000), “Our experience with nesbit's procedure for chordee correction”,
Indian Journal of Urology, 16 (2), pp. 134.
64.
Rajmil O., Arrus J., Fernandez M., Sarquella J. (2009), “Sensory changes
after surgical correction of penile curvature”, International journal of
impotence research, 21 (6), pp. 366-371.
65.
Rourke K. F., Jordan G. H. (2004), Glenn's Urologic Surgery, 6th Ed,
Surgical Treatment of Peyronie's Disease, Lippincott Williams & Wilkins,
pp.31-70.
66.
Salem T. A., Adel E. (2009), “Simplified Approach for Correction of
congenital penile curvature ”, Urotoday Int J, 2 (5), pp.
67.
Simonato A., Gregori A., Ambruosi C., Ruggiero G., Traverso P.,
Carmignani G. (2007), “Congenital penile curvature: dermal grafting
procedure to prevent penile shortening in adults”, European urology, 51 (5),
pp. 1420-1428.
68.
Soergel T., Cain M., Kaefer M., Gitlin J., Casale A., Davis M. (2003),
“Complications of small intestinal submucosa for corporal body grafting for
proximal hypospadias”, The Journal of urology, 170 (4), pp. 1577-1579.
69. Van Der Horst C., Martinez P. F., Seif C., Alken P., Juenemann K. P. (2004),
“Treatment of penile curvature with Essed‐Schröder tunical plication:
aspects of quality of life from the patients‟ perspective”, BJU international,
93 (1), pp. 105-108.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
88
70. Yachia D. (2007), Text Atlas of Penile Surgery, Congenital penile
curvatures, Informa Healthcare, London.
71. Yachia D. (2007), Text Atlas of Penile Surgery, Diagnosing congenital and
acquired penile curvature, Infoma Healthcare, London.
72. Yachia D. (1990), “Modified corporoplasty for the treatment of penile
curvature”, The Journal of urology, 143 (1), pp. 80-82.
73. Yachia D., Beyar M., Aridogan I. A., Dascalu S. (1993), “The incidence of
congenital penile curvature”, The Journal of urology, 150 ( 1), pp. 1478-
1479.
74. Yang C., Bradley W. (1999), “Innervation of the human glans penis”, The
Journal of urology, 161 (1), pp. 97-102.
75.
Zachalski W., Krajka K., Matuszewsk M. (2015), “Evaluation of the
Treatment of Congenital Penile Curvature Including Psychosexual
Assessment”, The journal of sexual medicine, 12 (8), pp. 1828-1835.
76.
Zachalski W., Matuszewski M., Krajka K., Rębała K. (2013), “Familial
appearance of congenital penile curvature–case history of two brothers”,
Central European journal of urology, 66 (2), pp. 217.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn