intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt: Kết quả 60 trường hợp phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

76
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị co giật nửa mặt bằng phẫu thuật giải ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Nghiên cứu tiến hành tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi mạch từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 năm 2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt: Kết quả 60 trường hợp phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> <br /> PHẪU THUẬT GIẢI ÉP VI MẠCH TRONG ĐIỀU TRỊ  <br /> CO GIẬT NỬA MẶT: KẾT QUẢ 60 TRƯỜNG HỢP PHẪU THUẬT  <br /> TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH <br /> Trần Hoàng Ngọc Anh* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị co giật nửa mặt bằng phẫu thuật giải <br /> ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. <br /> Phương  pháp:  Mô tả tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi <br /> mạch từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 năm 2014. Bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khảo sát mối <br /> tương quan mạch máu và thần kinh vùng góc cầu tiểu não bằng hình ảnh MRI, đánh giá kết quả cải thiện triệu <br /> chứng theo thang điểm E.K.TAN, các biến chứng, và theo dõi bằng tái khám hoặc qua điện thoại.  <br /> Kết quả: ‐ 60 trường hợp co giật nửa mặt được phẫu thuật trong vòng 51 tháng. Ti lệ nam /nữ là 1:4 (12/48 <br /> ca), tuổi trung bình là 47,7 ± 8,4 tuổi,thời gian co giật trung bình trước phẫu thuật là 6 ± 3,7 năm,co giật bên trái <br /> 32 trường hợp (53%), bên phải 28 trường hợp (47%). Phân loại độ nặng theo E.K.Tan trước mổ mức độ 3 trong <br /> 46 trường hợp (76,7%), 49 trường hợp (81,7%) có hình ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII bên co <br /> giật trên hình ảnh MRI. Có 23 (38.3%) trường hợp đã được điều trị bằng tiêm botulinum toxin. ‐ Thời gian theo <br /> dõi trung bình sau mổ là 16,9 tháng. Có 42 (70 %) bệnh nhân hết co giật lúc xuất viện, sau thời gian theo dõi số <br /> trường hợp hết co giật tăng lên 56 (93%), 2 trường hợp tái phát sau 3 năm(3,3%), không có trường hợp nào tử <br /> vong. Sau mổ các bệnh nhân thường hay bị chóng mặt, 8 trường hợp liệt nhẹ mặt bên phẫu thuật và hầu hết đều <br /> hồi phục. <br /> Kết luận:‐ Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định cho thấy co giật nửa mặt là một rối loạn <br /> về chức năng với triệu chứng lâm sàng điển hình là yếu tố quyết định chẩn đoán. Phẫu thuật giải ép vi mạch là <br /> phương pháp điều trị hiệu quả cao và tỉ lệ biến chứng thấp.  <br /> Key words: Co giật nửa mặt, phẫu thuật giải ép vi mạch, phức hợp dây VII, VIII, Hình ảnh học MRI <br /> <br /> ABSTRACT <br /> MICRO‐VASCULAR DECOMPRESSION IN TREATMENT HEMI‐FACIAL SPASM: RESULTS OF 60 <br /> CASES OPERATED AT NHAN DAN GIA DINHHOSPITAL <br /> Tran Hoang Ngoc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 328 – 334 <br /> Objective:  Described  the  clinical  features,  imaging  and  evaluated  the  results  of  microvascular <br /> decompression surgery for treating hemifacialspasm (HFS) at Nhan Dan Gia Dinh hospital. <br /> Method: We performed a prospective descriptive study ofhemifacial spasm(HFS) patients were operated for <br /> microvascular decompression from April 2010 to September 2014. The patients were recorded clinical symtoms, <br /> MRI images which focus on the neurovascular relationship in the affected cerebellopontine angle, evaluated the <br /> improvement by E. K TAN scale, the complications and observed by follow‐up examination or by phone. <br /> Results:  60 hemifacial  spasm  patients were  operated  on  consecutively  over 51 months.  The male  /  female <br /> ratio is 1 / 4 (12/48 cases), the mean age was 47.7 ± 8.4, the mean times of history was 6 ± 3.7 years, on the left <br /> side in 31 cases (53%), on the right side in 28 caes (47%). E. K. TAN scale III in 46 cases (76.7%) On MRI <br /> images  of  affected  CPA,  49  (81.7%)  cases  had  a  blood  vessel  compressing  the  VII,  VIII  complex.  23  (38.3%) <br /> * BM Ngoại Thần Kinh ĐHYD <br /> Tác giả liên lạc: Ths Trần Hoàng Ngọc Anh, <br /> <br /> 328<br /> <br /> ĐT: 0908152315,<br /> <br /> Email: drngocanh2002@gmail.com <br /> <br /> Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> patients had been treated by botulinum toxin injection, most of them had been failed. ‐ The mean follow‐up period <br /> was 16.9 months. There are 42 caese (70%) HFS cases were completely relief of symtoms at the time of discharge, <br /> up to now, this number increase in 56 patients (93%) and 2 cases (43.3%) reflapse after 3 years, there’s no case of <br /> death. Many of patients sufer from postoperated dizziness and 8 cases suffered from the minor facial palsy, most of <br /> them were recover. <br /> Conclusion: The results of this study at Nhan Dan Gia Dinh hospital confirm that HFS is a disturbance of <br /> neuronal function, which is diagnosed by typical symtoms. Microvascular decompression is an effective method of <br /> treatment.  <br /> Key  words:  hemifacial  pasme,  micovascular  decompression,  facial  –vestibulocochlear  complex,Magnectic <br /> Resonance Imaging <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Co  giật  nửa  mặt  được  phân  vào  nhóm  rối <br /> loạn chức năng kiểu tăng động của các dây thần <br /> kinh  sọ  có  nguyên  nhân  là  do  sự  chèn  ép  của <br /> mạch máu ở vị trí đi vào hoặc đi ra của dây thần <br /> kinh  tại  thân  não(3).  Phẫu  thuật  giải  ép  vi  mạch <br /> thông  qua  đường  dưới  chẩm  sau  xoang  sigma <br /> ngày  nay  được  sử  dụng  rộng  rãi  trong  điều  trị <br /> bệnh lý này. <br /> Biểu hiện lâm sàng cơn co giật nửa mặt điển <br /> hình  là  những  cơn  co  giật  một  bên  mặt,  ngắt <br /> quãng,  không  tự  ý  và  không  gây  đau.  Bệnh <br /> không  gây  đau  hay  đe  dọa  tính  mạng,  nhưng <br /> một khi chẩn đoán được xác lập, bệnh cần được <br /> điều trị vì những ảnh hưởng không nhỏ của nó <br /> về  mặt  thẩm  mỹ  và  tâm  lí  xã  hội.  Khi  đã  được <br /> chẩn đoán co giật nửa mặt, hiện nay bệnh nhân <br /> có thể lựa chọn giữa hai cách điều trị là tiêm độc <br /> tố  Botulinum  (Botox)  và  phẫu  thuật  giải  ép  vi <br /> mạch  dây  thần  kinh  mặt.  Độc  tố  Botulinum  có <br /> lợi trong việc làm giảm triệu chứng nhưng hiệu <br /> quả  chỉ  tạm  thời  và  thoáng  qua,  phương  pháp <br /> điều  trị  triệt  để  là  phẫu  thuật  giải  ép  vi  mạch, <br /> đây là phương pháp điều trị hết bệnh trong 85%‐<br /> 90% trường hợp và nếu được thực hiện bởi các <br /> chuyên  gia  thì  tỉ  lệ  tai  biến  và  biến  chứng  rất <br /> thấp dưới 1%. <br /> Cho đến nay, nguyên nhân gây ra cơn co giật <br /> mặt được cho là do dây thần kinh VII bị chèn ép <br /> bởi  một  hay  nhiều  mạch  máu  tại  vùng  REZ <br /> (vùng gốc đi ra của dây VII) là nơi chuyển tiếp <br /> giữa  các  tế  bào  chứa  myelin  trung  ương <br /> <br /> Mạch Máu Não và Xạ Phẫu <br /> <br /> (oligodendroglial  cell)  thành  các  tế  bào  chứa <br /> myelin  ngoại  biên  (Schwann  cell).  Năm  1976, <br /> Jannetta  là  người  đầu  tiên  mô  tả  chi  tiết  về  giả <br /> thuyết  tương  tác  mạch  máu  thần  kinh  này,  và <br /> ông  cũng  là  người  hoàn  thiện  kỹ  thuật  mổ  vi <br /> phẫu  giải  ép  vi  mạch  để  điều  trị  chứng  co  giật <br /> nửa mặt. <br /> Đã  có  rất  nhiều  công  trình  nghiên  cứu <br /> trên  thế  giới  về  phẫu  thuật  giải  ép  vi  mạch <br /> trong  điều  trị  co  giật  nửa  mặt.  Năm  2002, <br /> MadjidSamii(7)  báo  cáo  143  trường  hợp  vi <br /> phẫu  giải  ép  dây  VII  với  tỉ  lê  thành  công  lên <br /> đến 90%. Năm 2009, Võ Văn Nho(2) báo cáo 30 <br /> trường  hợp  co  giật  nửa  mặt  và  trên  80% <br /> trường hợp phẫu thuật có hiệu quả. Rất nhiều <br /> nghiên  cứu  khác  cũng  cho  kết  quả  khả  quan <br /> tương tự. Do vậy, mặc dù y học hiện đại chưa <br /> cho  ra  câu  giải  thích  rõ  ràng  về  cơ  chế  bệnh <br /> sinh của chứng co giật nửa mặt, nhưng phẫu <br /> thuật  giải  ép  vi mạch  vẫn  được  chấp  nhận  là <br /> phương  pháp  điều  trị  tốt  nhất  cho  loại  bệnh <br /> lý này. <br /> Từ tháng 4 năm 2010, Bệnh Viện Nhân Dân <br /> Gia  Định  bắt  đầu  triển  khai  kỹ  thuật  này,  cho <br /> đến  nay  đã  điều  trị  cho  nhiều  bệnh  nhân  bị  co <br /> giật nửa mặt với kết quả khá khả quan. Mục tiêu <br /> của chúng tôi trong nghiên cứu này là mô tả đặc <br /> điểm  triệu  chứng  lâm  sàng,  hình  ảnh  MRI,  kỹ <br /> thuật  vi  phẫu  giải  ép  vi  mạch  và  hiệu  quả  mà <br /> chúng tôi đạt được trong điều trị chứng co giật <br /> nửa mặt. <br /> <br /> 329<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo thiết kế <br /> tiền cứu mô tả hàng loạt ca. Địa điểm thực hiện <br /> là Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định. Thời gian thu <br /> thập số liệu là từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 <br /> năm 2014.  <br /> Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh nhân <br /> co  giật  nửa  mặt  đã  được  chúng  tôi  thực  hiện <br /> phẫu thật giải ép vi mạch. Mỗi bệnh nhân được <br /> khám  lâm  sàng,  đánh  giá  mức  độ  co  giật  bằng <br /> thang  điểm  của  E.  K.  TAN,  sau  đó  được  chụp <br /> MRI  não  không  thuốc  tương  phản  tập  trung <br /> khảo  sát  mối  tương  quan  thần  kinh  và  mạch <br /> máu  vùng  góc  cầu  tiểu  não.  Các  bệnh  nhân  sẽ <br /> được đánh giá lại lâm sàng lúc xuất viện và lúc <br /> tái khám tại phòng khám. <br /> Thang điểm E. K. TAN(9): <br /> + 0 điểm: Bình thường <br /> + 1 điểm: Co giật nửa mặt mức độ nhẹ.  <br /> + 2 điểm: Co giật nửa mặt trung bình, không <br /> ảnh hưởng đến chức năng. <br />  + 3 điểm: Co giật nửa mặt trung bình, có ảnh <br /> hưởng đến chức năng. <br /> + 4 điểm: Co giật nửa mặt mức độ nặng, ảnh <br /> hưởng đến chức năng nghiêm trọng. <br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br /> Dịch tễ học <br /> Tổng  cộng  60  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật <br /> trong vòng 51 tháng. Trong đó có 12 bệnh nhân <br /> nam và 48 bệnh nhân nữ, tỉ lệ nam/nữ = 1/4. Tuổi <br /> trung bình là 47.9, thấp nhất là 23 và cao nhất là <br /> 70  tuổi, 50%  số  bệnh  nhân  tập trung  từ 42  –  56 <br /> tuổi. Bệnh sử kéo dài trung bình là 6 năm, ngắn <br /> nhất là 8 tháng và lâu nhất là 20 năm. Bệnh nhân <br /> bị  bênh  trái  (32  trường  hợp,  chiếm  53%),  bên <br /> phải 28 trường hợp (47%). <br /> Bảng 1: Dịch tễ học <br /> Số ca<br /> Nam<br /> Nữ<br /> Tuổi (TB)<br /> Giới hạn tuổi<br /> <br /> 330<br /> <br /> 60<br /> 12(20%)<br /> 48(80%)<br /> 47,9 ± 8,4<br /> 23 – 70<br /> <br /> Số ca<br /> Bệnh sử (TB) (năm)<br /> Bên (P)<br /> Bên (T)<br /> <br /> 60<br /> 6 ± 3,7<br /> 28 (47%)<br /> 32 (53%)<br /> <br /> Lâm sàng  <br /> Trong  60  bệnh  nhân  của  nghiên  cứu,  tất  cả <br /> đều có cơn co giật mặt điển hình, co giật một bên <br /> mặt,  ngắt  quãng,  không  tự  ý  và  không  đau. <br /> Đánh giá theo thang điểm thì có 12 trường hợp <br /> (20%) mức độ co giật mức độ 4, 46 trường hợp <br /> mức  độ  3  (776,7%)  và  2  trường  hợp  mức  độ  2 <br /> (3,3%). 54 trường hợp (90%) cơn co giật có xảy ra <br /> lúc ngủ. <br /> Trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi không <br /> có trường hợp nào có chấn thương sọ não hay có <br /> liệt  bell’s  trước  đó.  Các  triệu  chứng  đi  kèm <br /> thường  gặp  là  chảy  nước  mắt  19  trường  hợp <br /> (30%),  ngoài  ra  còn  có  3  bệnh  nhânkèm  chóng <br /> mặt, 1 bệnh nhân bị u tai bên co giật. <br /> Có  23  trường  hợp  (38.3%)  đã  có  chích <br /> botulinum toxin trước đó, ít nhất là một lần, và <br /> nhiều  nhất  thì  bệnh  nhân  không  nhớ  hết.  Hầu <br /> hết các trường hợp này thì chích botulinum toxin <br /> hoặc không hiệu quả, hoặc đã hết hiệu quả.  <br /> Tất  cả  các  bệnh  nhân  đều  được  chụp  MRI <br /> não không có thuốc tương phản. Trong đó bênh <br /> nhân được khảo sát thêm vùng góc cầu tiểu não <br /> bằng  một  chuỗi  xung  T2  B‐FFE  3D  và  TOF  3D <br /> với lớp cắt mỏng khảo sát mối tương quan giữa <br /> mạch máu và phức hợp thần kinh VII bênh bệnh <br /> nhằm tìm sự hiện diện tương tác giữa mạch máu <br /> và phức hợp VII, VIII. Trong lô nghiên cứu này <br /> chúng tôi thấy có 49 trường hợp (81,7%) có hình <br /> ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII <br /> bên bị co giật. <br /> <br /> Kỹ thuật phẫu thuật <br /> Tất  cả  các  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của <br /> chúng  tôi  đều  được  ứng  dụng  phác  đồ  cạo  tóc <br /> tối thiểu vùng mổ. Theo phác đồ này bệnh nhân <br /> được chuẩn bị tóc trước mổ, sau khi vào phòng <br /> mổ và kê tư thế xong, phẫu thật viên sẽ cạo một <br /> phần nhỏ tóc sau tai khoảng 3x4 cm, sau sau đó <br /> sẽ được sát trùng rộng bằng betadine. <br /> <br /> Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> Bệnh  nhân  được  đặt  ở  tư  thế  nằm  nghiêng <br /> ôm gối. Đầu bệnh nhân song song với mặt đất, <br /> hơi  xoay  về  phía  đối  bên  khoảng  100,  cằm  gập <br /> nhẹ, cố định đầu bằng khung Surgita. <br /> Rạch  da  theo  đường  retrosigmoid,  khoan  sọ <br /> lỗ  đầu  tiên  gần  góc  hợp  bởi  xoang  ngang  và <br /> xoang  sigma.  Những  trường  hợp  đầu  chúng  tôi <br /> thường khoan sọ nhiều lỗ và gặm sọ rộng để bộc <br /> lộ  mang  cứng  hố  sau.  Sau  này,  chúng  tôi  chỉ <br /> khoan sọ 2 lổ sát bờ sau và ở vị trí khoảng 1/3 trên <br /> xoang sigma, sau đó dùng cưa để cắt bản sọ hố <br /> sau.  Mở  màng  cứng  hình  chữ  Y  ngược.  Phá  bể <br /> dịch não tủy và hút bớt dịch để tiểu não xẹp bớt.  <br /> Vén nhẹ tiểu não, bộc lộ phức hợp IX, X, XI. <br /> Tách màng nhên quanh phức hợp thần kinh này <br /> tìm đám rối mạch mạc não thất IV. Tiếp tục tách <br /> rộng  màng  nhện  xung  quanh,  vén  sâu  xuống <br /> đám  rối  mạch  mạc,  chúng  ta  sẽ  nhìn  thấy  gốc <br /> xuất phát của dây VII tại vị trí nó đi ra khỏi rãnh <br /> hành  não  –  cầu  não,  nằm  bên  dưới  so  với  dây <br /> VIII. Tìm mạch máu nào tiếp xúc với vị trí này, <br /> tách  mạch  máu  ra  khỏi  đó  và  chèn  vào  giữa <br /> mạch  máu  và  gốc  dây  VII  một  mẩu  Teflon. <br /> Trong nghiên cứu này chúng tôi tìm thấy mạch <br /> mạch  máu  chèn  vào  dây  VII  trong  tất  cả  các <br /> trường hợp. Trong 60 trường hợp thì 58 trường <br /> hợp  nguyên  nhân  chèn  ép  là  động  mạch,  có  2 <br /> trường  hợp  nguyên  nhân  phối  hợp  vừa  động <br /> mạch và tĩnh mạch. <br /> Tưới rửa phẫu trường liên tục và kiểm tra kỹ <br /> có chảy máu hay không. Đóng màng cứng thật <br /> chặt,  đặt  lại  nắp  sọ  và  bột  xương.  Khâu  cân  cơ <br /> từng lớp. Khâu da. <br /> <br /> Kết quả phẫu thuật <br /> Để đánh giá kết quả phẫu thuật, chúng tôi sẽ <br /> kiểm tra lại cơn co giật của bệnh nhân lúc xuất <br /> viện cũng như trong những lần tái khám sau đó <br /> bằng  thang  điểm  E.K.TAN  như  trước  mổ. <br /> Chúng tôi chia làm 4 nhóm kết quả như sau: <br /> + Hết triêu chứng: thang điểm = 0 <br /> +  Giảm  triệu  chứng:  mức  độ  co  giật  giảm <br /> điểm so với trước mổ. <br /> <br /> Mạch Máu Não và Xạ Phẫu <br /> <br /> + Không đổi: Thang điểm bằng với trước mổ. <br /> +  Tái  phát:  Nếu  thang  điểm  lúc  xuất  viện <br /> giảm so với trước mổ, nhưng sau đó tăng trở lại. <br /> Trong  nghiên  cứu  này,  lúc  xuất  viện  có  42 <br /> bệnh nhân (70%) hết hoàn toàn co giật (E.K.TAN <br /> = 0), 17 trường hợp còn lại chỉ giảm triệu chứng <br /> và 1 trường hợp mức độ co giật mặt không thay <br /> đổi so với trước mổ mặc dù trong khi mổ đã tìm <br /> thấy  và  tách  mạch  máu  ra  khỏi  thần  kinh  VII. <br /> Tuy  nhiên  sau  thời  gian  theo  dõi  thì  chúng  tôi <br /> nhận thấy có thêm 16 trường hợp nữa hết hoàn <br /> toàn  co  giật,  trường  hợp  sau  mổ  triệu  chứng <br /> không  đổi  thì  sau  2  tháng  triệu  chứng  co  giật <br /> giảm  gần  50%  so  với  trước  mổ,tuy  nhiên  lại  có <br /> hai trường hợp tái phát (mức độ nặng 2) sau khi <br /> đã hết 3 năm, trong 2 trường hợp tái phát này có <br /> 1 trường hợp diễn tiến nặng hơn nên chúng tôi <br /> quyết  định  mổ  lại,  trong  khi  mổ  miếng  Teflon <br /> cùng các mạch máu dính vào nhau di chuyển ra <br /> phần xa thần kinh VII và ngay gốc xuất phát của <br /> dây  thần  kinh  có  một  nhánh  mạch  xuyên  mới <br /> chèn vào, chúng tôi tiến hành giải ép mạch máu <br /> này và sau mổ triệu chứng bệnh nhân giảm dần.. <br /> Như vậy cho tới hiện nay trong 60 bệnh nhân thì <br /> có 56 bệnh nhân hết hoàn toàn co giật nửamặt,tỉ <br /> lệ thành công là 93%, và 2 trường hợp còn co giật <br /> nửa mặt nhẹ (mức độ 2). Tuy nhiên trường hợp <br /> này đều có giàm so với trước mổ. <br /> Bảng 2: Kết quả phẫu thuật <br /> Triệu chứng<br /> Hết<br /> Giảm<br /> Không đổi<br /> Tái phát<br /> <br /> Xuất viện<br /> n<br /> Tỉ lệ %<br /> 42<br /> 70,0<br /> 17<br /> 28,2<br /> 1<br /> 1,8<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> Hiện tại<br /> n<br /> Tỉ lệ %<br /> 56<br /> 93<br /> 2<br /> 3.6<br /> 0<br /> 0<br /> 2<br /> 3.6<br /> <br /> Dấu hiệu quan sát trong khi mổ <br /> ‐  Trong  mổ  chúng  tôi  phát  hiện  và  định <br /> danh được 42 trường hợp (70%) là động mạch <br /> tiểu não trước dưới bao gồm cả trường hợp do <br /> 1  động  mạch  và  2  động  mạch  tiểu  não  trước <br /> dưới  chèn ép, 9 trường hợp (15%) động mạch <br /> tiểu  não  sau  dưới,  2  trường  hợp  là  do  động <br /> mạch  đốt  sống  và  đặc  biệt  có  7  trường  hợp <br /> <br /> 331<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> (11,7%)  có  sự  kết  hợp  giữa  động  mạch  đốt <br /> sống và động mạch tiểu não sau dưới. <br /> Bảng 3: Mạch máu chèn ép trên thần kinh VII <br /> Tên mạch máu chèn<br /> AICA<br /> PICA<br /> VA<br /> PICA+VA<br /> <br /> n<br /> 42<br /> 9<br /> 2<br /> 7<br /> <br /> Tỉ lệ %<br /> 70,0<br /> 15,0<br /> 3,3<br /> 11,7<br /> <br /> ‐  Về  số  lượng  mạch  máu  chèn  ép  trong <br /> nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  40  trường  hợp <br /> (67,8%)  do  1  mạch  máu  chèn  ép  và  19  trường <br /> hợp do hai mạch máu chèn ép chiếm (32,2%). <br /> ‐ Khi quan sát vị trí chèn ép mạch máu vào <br /> thần  kinh  VII,  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  53 <br /> trường hợp mạch máu chèn vào ngay gốc đi ra <br /> của thần kinh VII tại rãnh hành cầu chiếm 88,4%, <br /> và  7  trường  hợp  (11,6%)  ngoài  mạch  máu  chèn <br /> ngay  gốc  đi  ra  của  thần  kinh  VII  thì  có  thêm <br /> mạch  máu  đi  giữa  thần  kinh  VII  và  VIII  đồng <br /> thời chèn ép vào phần gần hay phần xa của thần <br /> kinh VII.  <br /> <br /> Biến chứng phẫu thuật <br /> Trong lô nghiên cứu của chúng tôi không có <br /> trường  hợp  nào  tử  vong.  Tất  cả  các  bệnh  nhân <br /> xuất viện với GOS = 5. Không có trường hợp nào <br /> bị viêm màng não. <br /> Có  8  trường  hợp  lúc  xuất  viện  có  dấu  hiệu <br /> liệt  mặt  (13,3%),  nặng  nhất  là  liệt  mặt  độ  4  (2 <br /> bệnh nhân, 3,2%). Tuy nhiên tất cả những bệnh <br /> nhân này đều hồi phục hoàn toàn hay một phần <br /> sau  đó.  Hiện  tại  còn  3  (5%)  bệnh  nhân  còn  liệt <br /> mặt nặng nhất là độ 3 (1 bệnh nhân 1,6%).  <br /> Sau mổ không có trường hợp nào bị dò dịch <br /> não  tủy.  Tuy  nhiên  có  một  bệnh  nhân  sau  xuất <br /> viện 1 tuần quay lại vì dò dịch nạo tủy qua vết <br /> mổ. Bệnh nhân này được dẫn lưu thắt lưng, vết <br /> mổ lành tốt. <br /> Một bệnh nhân khác sau mổ có liệt nhẹ dây <br /> IX,  X.  Nhưng  bệnh  nhân  này  cũng  hồi  phục <br /> hoàn toàn khi xuất viện. <br /> Một bệnh nhân hậu phẫu ngày thứ hai giảm <br /> tri giác, tiến hành chụp CTscan phát hiện có xuất <br /> huyết não vùng mổ và dãn nạo thất, Chúng tôi <br /> <br /> 332<br /> <br /> quyết định mở lại vết mổ lấy máu tụ và dẫn lưu <br /> não  thất  ra  ngoài.  Sau  hai  tuần  điều  trị  bệnh <br /> nhân ổn định tỉnh táo xuất viện không di chứng. <br /> Ngoài  ra,  sau  mổ  bệnh  nhân  thường  có <br /> những  khó  chịu  khác  như  chóng  mặt,  đau  vết <br /> mổ.  Các  triệu  chứng  này  cũng  hết  hoàn  toàn <br /> trước khi xuất viện. <br /> Bảng 4: Biến chứng sau mổ <br /> Biến chứng<br /> Liệt mặt<br /> Dò DNT<br /> Liệt IX, X<br /> Chóng mặt<br /> Phù não+ dãn não<br /> thất<br /> <br /> Xuất viện<br /> n<br /> Tỷ lệ %<br /> 8<br /> 13,3<br /> 1<br /> 1,6<br /> 2<br /> 3,2<br /> 9<br /> 15,0<br /> 1<br /> 1,6<br /> <br /> n<br /> 3<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> Hiện tại<br /> Tỷ lệ %<br /> 5<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Chẩn đoán co giật nửa mặt dựa chủ yếu vào <br /> biểu  hiện  lâm  sàng,  gần  như  toàn  bộ  dân  số <br /> nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đều  có  triệu  chứng <br /> lâm sàng điển hình, nó cho thấy lâm sàng chính <br /> là yếu tố quyết định trong chẩn đoán co giật nửa <br /> mặt. Và vì đây là một rối loạn về mặt chức năng, <br /> không  phải  là  một  bệnh  lý  ác  tính  nên  thông <br /> thường bệnh nhân có thời gian bênh sử khá lâu <br /> (trung  bình  6  năm).  Đây  là  một  chứng  bệnh <br /> thường gặp hơn ở nữ giới và bên trái nhiều hơn <br /> bên  phải.  Bệnh  thường  ảnh  hưởng  đến  tuổi <br /> trung niên. <br /> Về hình ảnh học, MRI não, trong loại bệnh lý <br /> này, chủ yếu để loại trừ các thương tổn thực thể <br /> nếu có ở  vùng hố sau có thể gây ra triệu  chứng <br /> tương  tự  như  u  não,  AVM,  xơ  cứng  rải  rác….(2) <br /> Tuy  nhiên  với  kỹ  thuật  hiện  đại,  sự  cải  thiện  về <br /> dộ  phân  gải  của  hình  ảnh,  chúng  ta  có  thể  tìm <br /> thấy  những  hình  ảnh  gợi  ý  sự  tương  tác  mạch <br /> máu  thần  kinh  trước  phẫu  thuật,  trong  nghiên <br /> cứu của chúng tôi trên 80% trường hợp hình ảnh <br /> học  cộng  hưởng  từ  trước  mổ  cho  thấy  có  mối <br /> tương quan giữa mạch máu và thần kinh VII. <br /> Trong  giai  đoạn  đầu  triển  khai  phẫu  thuật, <br /> chúng  tôi  thường  cố  gắng  tách  tất  cả  những <br /> mạch  máu  nàocó  tiếp  xúc  với  dây  VII  dù  điểm <br /> tiếp  đó  ở  bất  kỳ  vị  trí  nào  trên  dây  thần  kinh. <br /> <br /> Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1