Đại học quốc gia hà nội

Trường đại học kinh tế

___________________________

Hoàng Thanh Vân

Phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái ở ngân hàng

phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long

chi nhánh Hà Nội

Luận văn thạc sỹ kinh tế đối ngoại

Hà Nội - năm 2010

Đại học quốc gia hà nội

Trường đại học kinh tế

____________________

Hoàng Thanh Vân

Phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái ở ngân hàng

phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long

chi nhánh Hà Nội

Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế

Mã số: 603107

Luận văn thạc sỹ kinh tế đối ngoại

Người hướng dẫn khoa học

PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn

Hà Nội - năm 2010

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và có

nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2010

Người cam đoan

Hoàng Thanh Vân

Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy

cô giáo Khoa Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế cùng

bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã ủng hộ và giúp đỡ tôi hoàn

thành luận văn.

Tôi xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo hướng dẫn khoa học PGS.

TS. Nguyễn Hồng Sơn đã hết lòng chỉ bảo và đưa ra những đóng

góp quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.

Ký tên

Hoàng Thanh Vân

Mục lục

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt i

Danh mục bảng ii

Danh mục hình iii

Danh mục đồ thị iv

Lời mở đầu 1

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái của các ngân hàng thương mại 10

10 1.1. Khái quát chung về tỷ giá hối đoái.

1.1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái. 10

1.1.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế, hệ thống ngân

hàng và các doanh nghiệp. 12

16 1.2. Khái quát chung về rủi ro tỷ giá

1.2.1. Khái niệm rủi ro tỷ giá. 16

1.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tỷ giá 17

19 1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá

19 1.3.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng.

20 1.3.2. Biện pháp phòng ngửa rủi ro ngoại bảng.

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB Hà Nội 28

28 2.1. Khái quát về ngân hàng MHB Hà Nội

2.1.1. Lịch sử hoạt động và mô hình tổ chức của MHB Hà Nội 28

2.1.2. Hoạt động kinh doanh của MHB Hà Nội 32

2.2. Chiến lược kinh doanh và biện pháp quản trị rủi ro hoạt động

44 kinh doanh của MHB.

2.2.1. Chiến lược kinh doanh của MHB trong giai đoạn hiện nay 44

2.2.2. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 48

MHB trong giai đoạn hiện nay

55 2.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB HN

2.3.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng 55

2.3.2. Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng 59

2.4. Đánh giá chung về các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối

65 đoái tại MHB Hà Nội qua từng giai đoạn.

2.4.1. kết quả đạt được. 65

67 2.4.2. Hạn chế.

68 2.4.3. Nguyên nhân

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho MHB Hà Nội 76

3.1. Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập

76 WTO

3.2. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ

81 giá hối đoái của MHB Hà Nội sau khi Việt Nam gia nhập WTO

3.2.1. Cơ hội. 82

3.2.2.Thách thức 84

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa

87 rủi ro tỷ giá hối đoái cho MHB Hà Nội

3.3.1. Đề xuất giải pháp đối với Chính phủ. 87

3.3.2. Đề xuất giải pháp đối với NHNN TW 90

3.3.3. Đề xuất giải pháp đối với MHB 91

Kết luận. 93

Danh mục tài liệu tham khảo 95

2

Phụ lục

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt

Nghĩa

STT

Ký hiệu

Tiếng Việt

Tiếng Anh

1 Adb Ngân hàng Phát triển Châu á Asia Development Bank

2 Afd Cơ quan phát triển Pháp Agent France

Development

3 Alco Hội đồng quản lý tài sản nợ, Asset liability

tài sản có. manegement Commitee

4 Atm Máy rút tiền tự động Automatic Teller

Machine

5 Aud Đồng Đô la úc Australian Dollar

6 Bidv Ngân hàng đầu tư và phát triển Bank for Investment and

Việt Nam Development of Viet

Nam

7 Bo Giao dịch viên gián tiếp Back officer

8 Cny Đồng Nhân Dân Tệ China Yuan

9 đbscl Đồng bằng sông Cửu Long Mekong Delta

10 Eur Đồng Euro Euro

11 Fo Giao dịch viên trực tiếp Front officer

12 Fdi Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct

i

Investment

13 Fed Quỹ dự trữ liên bang Mỹ Federal Reserve Fund

14 Future Tương lai

15 Forward Kỳ hạn

16 Gbp Đồng Bảng Anh Great British Pound

17 Gdp Tổng sản phẩm quốc nội General Domestic

Product

18 Ife Hiệu ứng Fisher quốc tế International Fisher

Effect

19 Irp Thuyết ngang giá lãi suet Interest Rate Parity

20 Jpy Đồng Yên Nhật Japan Yen

21 Jbic Ngân hàng hợp tác quốc tế Japan Bank for

Nhật Bản International

Cooperation

22 Kdnt Kinh doanh ngoại tệ

23 Mhb Ngân hàng Phát triển nhà đồng Mekong Housing Bank

bằng sông Cửu Long

24 Nhnn Ngân hàng Nhà Nước

25 Nhnn hn Ngân hàng Nhà Nước Hà Nội

26 Nhtw Ngân hàng Trung Ương

27 Nhtmqd Ngân hàng thương mại quốc

ii

doanh

28 Nhtmcp Ngân hàng thương mại cổ

phần

29 Nhtm Ngân hàng thương mại

30 Nostro Tài khoản thanh toán mở tại

ngân hàng nước ngoài Account

31 Npe Trạng thái hối đoái ròng

32 Nv & khth Phòng Nguồn vốn và Kế

hoạch tổng hợp

33 Option Quyền chọn

PPP Thuyết ngang giá sức mua Purchasing Power Parity 34

Rdf Dự án hỗ trợ tài chính nông Rural Development 35

thôn Fund

36 Spot Hợp đồng giao ngay

37 Swap Hợp đồng hoán đổi

38 Tsn Tài sản nợ

39 Tsc Tài sản có

40 Ttqt Thanh toán quốc tế

41 Treasury Nguồn vốn – Ngân quỹ

42 Ttntlnh Thị trường ngoại tệ liên ngân

iii

hàng

43 Usd Đồng Đô la Mỹ US Dollar

44 Vcb Ngân hàng Ngoại thương Việt Vietcombank

Nam

45 Vnd Đồng Việt Nam Viet Nam Dong

46 Xnk Xuất nhập khẩu

47 Wto Tổ chức thương mại Thế giới World Trade

Organization

Danh mục bảng

Mục lục Tên bảng và hình Trang

Bảng 2.1 II.1.1.1 Lợi nhuận của chi nhánh qua từng năm 31

Bảng 2.2 II.1.2.1 Nguồn vốn huy động của MHB HN (2003 34

– 2009)

Bảng 2.3 II.1.2.2 Dư nợ tín dụng của MHB HN (2006-2009) 37

Bảng 2.4 II.1.2.3 Tình hình thực hiện dịch vụ thanh toán 41

xuất nhập khẩu của MHB HN

Bảng 2.5 II.1.2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của 43

MHB HN

Bảng 2.6 II.1.2.5 Doanh số mua bán ngoại tệ của MHB HN 44

so với một số chi nhánh của NHTM khác

iv

trên địa bàn

Danh mục hình

Hình 1.1 I.1.1 Tác động của chính phủ đến tỷ giá hối đoái 15

Hình 2.1 II.1.1 Mô hình hoạt động của MHB HN năm 29

2003

Hình 2.2 II.1.1 Mô hình hoạt động của MHB HN năm 30

2009

Danh mục đồ thị

Đồ thị 2.1 II.4.3 Lãi suất mục tiêu đồng USD của FED 73

v

FUND (2003-2008)

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh quốc tế là một tất yếu

khách quan nhằm mục tiêu tối đa lợi nhuận. Lợi ích cơ bản từ kinh doanh quốc tế

là mang lại sự thịnh vượng kinh tế ngày càng cao nhờ phát huy lợi thế so sánh

của quốc gia, tiết kiệm chi phí nhờ mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng sản phẩm

tham gia kinh doanh quốc tế.

Bên cạnh lợi ích của của kinh doanh quốc tế xuất hiện một rủi ro dễ nhận thấy

nhất so với kinh doanh nội địa, đó chính là rủi ro tỷ giá. Những biến động không

lường trước của tỷ giá hối đoái (sau đây gọi tắt là tỷ giá) ảnh hưởng rất lớn đến

doanh số, giá cả, lợi nhuận của bên xuất khẩu cũng như bên nhập khẩu. Xét trên

góc độ vĩ mô, sự biến động tỷ giá có tác động nhiều chiều đến nền kinh tế các

quốc gia tham gia kinh doanh quốc tế như: thay đổi cán cân thanh toán quốc tế,

thay đổi khối lượng vay nợ nước ngoài, thay đổi tỷ lệ lạm phát hoặc thiểu phát,

thay đổi tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài, thay đổi dự trữ ngoại tệ

của quốc gia… Xét trên góc độ vi mô, sự biến động tỷ giá ảnh hưởng không nhỏ

đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: thay đổi kết quả lợi nhuận, thay đổi

doanh thu hàng năm, thay đổi tổng tài sản nợ tài sản có… Vì các lý do này, các

nhà quản lý thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế, các nhà kinh doanh tiền tệ luôn

quan tâm đến tính nhậy cảm của tỷ giá để đề ra chiến lược kinh doanh phù hợp

nhằm kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hối đoái.

Mức độ hội nhập kinh tế thế giới của các quốc gia càng sâu rộng, sự phụ

1

thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia càng gia tăng. Một sự kiện xảy ra dù ở bất cứ

đâu đều có ảnh hưởng đến quy mô toàn cầu mà ảnh hưởng đầu tiên chính là sự

biến động tỷ giá hối đoái.

Từ 11/01/2007 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Việc

gia nhập WTO là một trong những nỗ lực của Việt Nam nhằm tiếp cận thị trường

thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thương mại

quốc tế. Thị trường ngân hàng Việt Nam cũng chuẩn bị một thời kỳ mới: thời kỳ

cạnh tranh bình đẳng và toàn diện hơn giữa các ngân hàng trong và ngoài nước.

Việc mở cửa thị trường ngân hàng sẽ làm tăng rủi ro về thị trường giá cả, lãi

suất, tỷ giá, chu chuyển vốn... Hệ thống ngân hàng thương mại trong nước sẽ đối

mặt với rủi ro khủng hoảng, các cú sốc tài chính kinh tế khu vực và trên thế giới

lan truyền, mất dần lợi thế khách hàng và kênh phân phối, đặc biệt từ sau năm

2010 những phân biệt về huy động vốn, sản phẩm dịch vụ giữa ngân hàng nước

ngoài và trong nước sẽ bị loại bỏ. Để không bị tụt hậu về trình độ, không bị sát

nhập, bị mua lại, các ngân hàng Việt Nam bắt buộc phải trang bị cho mình các

kiến thức tiên tiến về quản trị hoạt động ngân hàng, đổi mới công nghệ thông tin,

học hỏi kinh nghiệm quản trị ngân hàng của các ngân hàng bạn...

Đứng trước bối cảnh hội nhập của nền kinh tế, Ban lãnh đạo ngân hàng

Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB), một ngân hàng non trẻ 100%

vốn của nhà nước thành lập năm 1997 nhận thấy tầm quan trong trong việc điều

hành quản trị hoạt động ngân hàng và nâng cao vị thế cạnh tranh của MHB trên

thị trường tài chính.

Định hướng của ban lãnh đạo MHB là: cần thiết phải đổi mới tư duy trong

công tác điều hành và quản trị hoạt động ngân hàng, lợi nhuận phải luôn đi kèm

2

với tính an toàn và phát triển bền vững; Đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng

lõi (core banking) để đáp ứng nhu cầu phát triển các hoạt động dịch vụ ngân

hàng

ngang tầm thế giới; Thuê chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ngoài tổ

chức lại mô hình quản lý theo kinh nghiệm các nước tiên tiến; Tiến hành cổ phần

hoá MHB trong năm 2009.

Là một cán bộ của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long –

chi nhánh Hà Nội (MHB HN), đặc biệt là đứng trước cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu 2008 với sự sụp đổ dây chuyền của hàng loạt ngân hàng lớn tại Mỹ…

tôi nhận thức được giá trị to lớn của việc quản trị rủi ro trong hoạt động ngân

hàng, trong đó có quản trị rủi ro tỷ giá. Tôi quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài

“Phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái ở Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông

Cửu Long – chi nhánh Hà Nội” với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này,

đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa rủi ro

tỷ giá tại MHB HN.

2.Tình hình nghiên cứu

Quản trị rủi ro tỷ giá không còn là khái niệm mới mẻ đối với hệ thống

ngân hàng và đối với các cơ quan ban ngành thuộc lĩnh vực tài chính tiền tệ, do

vậy đã có rất nhiều cuốn sách, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả không

chỉ làm việc trong lĩnh vực ngân hàng, hay trong các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu mà nó còn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả trong lĩnh vực khác như:

chứng khoán, bảo hiểm, công ty quản lý quỹ… Tôi xin liệt kê một số công trình

nghiên cứu đã công bố sau:

1/ Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến, Học viện ngân hàng, sách tham khảo: “Quản trị rủi

ro trong kinh doanh ngân hàng”, nhà xuất bản Thống kê 2005. Cuốn sách đã liệt

3

kê, phân tích các loại rủi ro phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng và cách quản trị

các rủi ro đó nhưng cũng mới đúc kết trên cơ sở các mô hình hoạt động ngân

hàng chung nhất, chưa phân tích được sự khác nhau trong đặc thù hoạt động của

NHTMQD, NHTMCP, NHLD, NH 100% vốn nước ngoài… để đưa ra các biện

pháp phòng ngừa hiệu quả đối với từng mô hình ngân hàng.

2/ Thạc sĩ Phạm Bảo Khánh, Công ty Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Đề tài: “ Hạn

mức giá trị chịu rủi ro trong quản lý rủi ro tỷ giá của các Ngân hàng thương

mại”, Tạp chí Ngân hàng số 2 tháng 01 năm 2006. Đề tài đã đưa ra một bức

tranh đầy đủ về các loại rủi ro tỷ giá mà ngân hàng phải đối mặt và đề xuất thêm

một biện pháp phòng ngừa, đó là: các ngân hàng nên giao hạn mức giao dịch,

hạn mức dừng lỗ/ lãi và trách nhiệm cụ thể tới từng bộ phận, cá nhân có liên

quan để phát huy tính năng động sáng tạo, khả năng tư duy phân tích biến động

tỷ giá của mỗi cá nhân, mỗi bộ phận. Tuy nhiên, đề tài chỉ mới dừng lại ở việc

nghiên cứu và đề xuất một biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, chưa mang tính

tổng hợp đầy đủ các yếu tố tạo ra biến động tỷ giá và các hình thức phòng ngừa

chúng.

3/ Thạc sĩ Tạ Ngọc Sơn, đề tài: “Bàn về quản lý rủi ro trong hoạt động kinh

doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại”, Tạp chí ngân hàng số 3 tháng 02

năm 2007. Đề tài đi sâu nghiên cứu các loại rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh

doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và đóng góp một phần nhỏ các

giải pháp phòng ngừa. Đề tài không mở rộng nghiên cứu các rủi ro tỷ giá ở các

lĩnh vực khác trong hoạt động ngân hàng.

4/ Phạm Thị Việt Hằng (2007) “Rủi ro hối đoái và các giải pháp phòng ngừa

của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, luận văn thạc sỹ, Học viện ngân hàng.

Đề tài đi sâu nghiên cứu toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt

4

Nam và các rủi ro phát sinh. Tuy nhiên, ngân hàng Ngoại thương là một ngân

hàng lớn đã có thế mạnh trong lĩnh vực ngoại hối, mặt khác ngân hàng Ngoại

thương còn được NHNN chỉ định là kênh bán ngoại các NHTM tùy từng thời kỳ.

Trong một chừng mực nhất định, hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại ngân

hàng ngoại thương không thể áp dụng đối với các NHTM khác.

5/ Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến, Học viện Ngân hàng, giáo trình “Nghiệp vụ kinh

doanh ngoại hối”, nhà xuất bản Thống kê 2008. Giáo trình này chuyên sâu vào

các kỹ thuật nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, rất hữu ích cho những cán bộ thực

hành làm trong lĩnh vực KDNT. Tuy nhiên, giáo trình cũng mới đề cập đến một

vế của phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đó là các hình thức mua bán ngoại tệ phái sinh,

chưa đi sâu nghiên cứu khi nào áp dụng các hình thức phái sinh được hiệu quả

nhất.

6/ Tiến sĩ Nguyễn Kim Anh, Học viện ngân hàng, giáo trình “Quản trị rủi ro hối

đoái của ngân hàng thương mại ”, 2008. Giáo trình này phân tích rất chi tiết về

các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, tuy nhiên số liệu trong giáo trình đã bị cũ

(từ năm 2003 trở về trước) nên việc phân tích mới dừng ở nghiên cứu lý thuyết.

7/ Ngoài ra còn có một số bài viết khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Tiến

sĩ Nguyễn Ngọc Vũ, đề tài: “Sử dụng các chiến lược quyền chọn ngoại tệ trong

phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái”, tạp chí Ngân hàng số 10 tháng 05 năm 2007.

Thạc sĩ Phạm Thị Hoàng Anh, đề tài: “ứng dụng công cụ phái sinh tiền tệ trong

phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các ngân hàng thương mại Việt nam”, tạp chí Ngân

hàng số 10 tháng 05 năm 2008. Thạc sĩ Lê Thị Huyền Diệu, đề tài: “Rủi ro tỷ

giá của các ngân hàng thương mại Việt Nam – một số giải pháp và kinh nghiệm

5

phòng ngừa”, Tạp chí Ngân hàng số 23 tháng 12 năm 2008.

Về cơ bản, các sách, giáo trình, các đề tài nghiên cứu đều đi sâu nghiên

cứu các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá đã và đang được áp dụng tại Việt

Nam và trên thế giới, phân tích thị trường hối đoái trong và ngoài nước, dự báo

diễn biến tỷ giá trong tương lai gần, tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá của

Chính phủ, NHNN và các bộ ban ngành. Nhìn chung, mỗi cuốn sách, mỗi đề tài

nghiên cứu đều có giá trị lý luận và thực tiễn giúp người đọc có thêm kiến thức

và tự đúc rút kinh nghiệm dự đoán biến động tỷ giá, kinh nghiệm lựa chọn biện

pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá…

Tuy nhiên, các cuốn sách, giáo trình và đề tài nghiên cứu trên đa phần

đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá chung nhất đang dược áp dụng

trong kinh doanh ngân hàng chứ chưa đi sâu phân tích về đặc thù chức năng hoạt

động, quy mô, phạm vị, lĩnh vực hoạt động… của mỗi ngân hàng để áp dụng

các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nào là hiệu quả nhất trong bối cảnh Việt

Nam sau khi gia nhập WTO. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về

phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại ngân hàng MHB HN.

Việt Nam đi theo mô hình tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà Nước, do vậy

diễn biến tỷ giá không phải luôn theo xu thế của thế giới. Các đề tài chưa nêu bật

được vai trò quản lý của Nhà Nước trong việc dùng công cụ là chính sách tỷ giá,

chính sách lãi suất để điều tiết nền kinh tế.

Thực tế ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại chỉ được áp dụng những

biện pháp phòng ngừa rủi ro được Ngân hàng Nhà Nước cấp giấy phép. Biện

pháp phòng ngừa rủi ro: nghiệp vụ tiền tệ tương lai (future) chưa được áp dụng.

Biện pháp: quyền chọn tiền tệ (option) chỉ được thực hiện ở bẩy ngân hàng

thương mại: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Techcombank, Eximbank, ACB,

6

MHB. Trong khi đó, các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến các biện pháp phòng

ngừa rủi ro tỷ giá nói chung nhưng chưa lý giải được liệu các biện pháp còn lại

có quản lý hiệu quả rủi ro tỷ giá hay không. Bên cạnh đó , cơ chế áp dụng các

biện pháp phái sinh của NHNN chưa phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam

nên tuy một số NHTM được sử dụng nhưng không thể áp dụng (ví dụ: cơ chế

tính tỷ giá kỳ hạn, cơ chế không cho mua bán ngoại tệ qua đồng thứ ba…) do

vậy nghiên cứu đưa ra vẫn chỉ mang tính lý thuyết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro tỷ giá

hối đoái tại ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà

Nội (MHB HN) trên cơ sở khái quát hoá một số vấn đề cơ bản về rủi ro tỷ giá

hối đoái, các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái và thực trạng phòng

ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB HN.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Khái quát hoá một số vấn đề cơ bản về rủi ro tỷ giá hối đoái và các biện pháp

phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái;

- Phân tích và đánh giá các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại

MHB HN.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro tỷ giá

hối đoái tại MHB HN

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá đang áp dụng tại MHB HN.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

7

Về nội dung:

Nghiên cứu bốn biện pháp cơ bản về phòng ngừa rủi ro đang được các

ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng bao gồm: hợp đồng mua bán ngoại tệ

giao ngay (Spot), hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn (Forward), hợp đồng mua

bán ngoại tệ hoán đổi (Swap), hợp đồng giao dịch quyền chọn tiền tệ (Option),

và ba biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ gía đang được áp dụng tại MHB HN:

Sport, Forward và Swap. Lý do: biện pháp thứ tư hợp đồng quyền chọn tiền tệ

tuy MHB đã được NHNN cho phép thực hiện nhưng trên thực tế chưa áp dụng

do bất cập về cơ chế tỷ giá.

Về thời gian:

Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2003 đến hết 2009. Lý do:

năm 2003 là năm MHB HN được thành lập, luận văn lấy thời điểm này làm

mốc để dễ so sánh số liệu với các ngân hàng khác và với các chi nhánh trong hệ

thống để đánh giá quá trình phát triển.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài, luận văn sử dụng

phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê có chọn lọc kết hợp với phương pháp

so sánh kết quả trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử. Trong quá trình phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như đánh

giá tính khả thi của các giải pháp, luận văn còn sử dụng các công thức toán học,

bảng biểu và đồ thị minh hoạ để làm tăng tính trực quan và sức thuyết phục của

đề tài.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

+ Hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về rủi ro tỷ giá hối đoái và các biện pháp

8

phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái.

+ Phân tích và đánh giá các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB

HN

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa rủi ro tỷ

giá hối đoái tại MHB HN

7. Cấu trúc của luận văn

Để đạt được các tiêu chí đã đề ra của luận văn , cấu trúc luận văn gồm 3

chương lớn như sau:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tỷ giá hối đoái và các biện pháp

phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái của các ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái ở Ngân hàng phát triển

nhà đồng bằng sông Cửu Long – chi nhánh Hà Nội.

Chương 3: Đề xuất về một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa

rủi ro tỷ giá hối đoái cho ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long –

9

chi nhánh Hà Nội.

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái và các biện pháp phòng

ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái của các ngân hàng thương mại.

1.1. Khái quát chung về tỷ giá hối đoái

1.1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái

1.1.1.1.Khái niệm tỷ giá hối đoái

Hầu hết mỗi quốc gia đều có đồng tiền thanh toán riêng, khi xuất hiện giao

dịch thương mại, đầu tư, các quan hệ tài chính quốc tế... đòi hỏi các quốc gia

phải thanh toán với nhau, dẫn đến việc mua bán các đồng tiền khác nhau, đồng

tiền này lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được mua bán với nhau theo một tỷ lệ

nhất định, tỷ lệ này gọi là tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate): là giá cả của một tiền tệ này

được biểu thị thông qua một tiền tệ khác.

Ví dụ : VND/USD = 17.825

Có nghĩa là gía cả của 1 USD được tính bằng 17.825 VND.

Trong tỷ giá có hai đồng tiên, một đồng tiền đóng vai trò đồng tiền yết giá,

còn đồng kia đóng vai trò đồng tiền định giá.

Đồng tiền yết giá (Commodity Currency – ký hiệu là “C”): là đồng tiền có

số đơn vị cố định và bằng 1 đơn vị

Đồng tiền định giá (Term Currency – ký hiệu là “T”): là đồng tiền có số

đơn vị thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường.

Trong ví dụ trên: VND/USD = 17.825 trong đó: USD là đồng tiền yết giá,

VND là đồng tiền định giá..

1.1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái

10

a) Căn cứ nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối:

+ Tỷ giá mua vào (Bid rate): là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn săng mua

vào đồng tiền yết giá.

+ Tỷ giá bán ra (Ask/ Offer rate) là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng

bán ra đồng tiền yết giá.

+ Tỷ giá giao ngay (Spot rate) Là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu

trực tiếp trên Forex, được các bên thoả thuận ngày hôm nay, và việc thanh toán

xảy ra trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo (nếu không có thoả thuận gì khác

thì thường là ngày làm việc thứ hai)

+ Tỷ giá phái sinh (Derivative rates): Bao gồm các tỷ giá áp dụng trong các hợp

đồng: Kỳ hạn (Forward, Hoán đổi (Swap), Tương lai (Future) và Quyền chọn

(Option). Tỷ giá phái sinh không được hình thành theo quan hệ cung cầu trực

tiếp trên Forex mà được hình thành từ các thông số có sẵn trên thị trường: tỷ giá

giao ngay, mức lãi suất của hai đồng tiền, phí thực hiện hợp đồng... Tỷ giá phái

sinh thuộc loại tỷ giá có thời hạn, giá được thoả thuận ngày hôm nay nhưng việc

sử dụng thanh toán xảy ra theo ngày thoả thuận trên hợp đồng.

+ Tỷ giá mở cửa (Opening Rate): tỷ giá áp dụng cho hợp đồng giao dịch đầu tiên

trong ngày.

+ Tỷ giá đóng cửa (Closing Rate): tỷ giá áp dụng cho hợp đồng giao dịch cuối

cùng trong ngày.

+ Tỷ giá chéo (Crosed Rate): là tỷ giá giữa hai đồng tiền được suy ra từ đồng

tiền thứ ba.

b) Căn cứ cơ chế điều hành chính sách tỷ giá

+ Tỷ giá chính thức (Official Rate) – ở Việt Nam hiện nay gọi là tỷ giá bình quân

11

trên thị trường liên hàng: là tỷ giá do NHTW công bố, nó phản ánh chính thức về

giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được áp dụng để tính thuế

xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. ở Việt

nam, tỷ giá chính thức còn là cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh

trong biên độ cho phép.

+ Tỷ giá chợ đen (Black Market Rate): là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ

thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định.

+ Tỷ giá cố định (Fix Rate): là tỷ giá do NHTW công bố cố định trong một biên

độ giao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định,

buộc NHTW phải thường xuyên can thiệp, do đó làm cho dự trữ ngoại hối quốc

gia thay đổi.

+ Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely Floating Rate): là tỷ giá được hình thành hoàn

toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, NHTW không hề can thiệp.

+ Tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước (Managed Floating Rate): là tỷ giá

được thả nổi, nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng

có lợi cho nền kinh tế.

1.1.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái

1.1.2.1. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế

Về cơ bản, tỷ giá hối đoái cũng như một công cụ giống như các luật lệ về

thuế, mức cung tiền, qua đó chính phủ có thể đạt được các mục tiêu kinh tế

mong muốn.

Thứ nhất: Tỷ giá hối đoái làm thay đổi làm thay đổi cán cân thanh toán

quốc tế và mức độ lạm phát. Một đồng nội tệ yếu có thể kích thích xuất khẩu,

tăng việc làm , giảm nhập khẩu nhưng có thể đưa đến lạm phát cao hơn. Ngược

lại, một đồng nội tệ mạnh lại khuyến khích người tiêu dùng và các công ty mua

12

hàng từ nước ngoài, làm tăng cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài và buộc các

nhà sản xuất nội địa không được tăng giá hàng đồng thời mức độ lạm phát sẽ

giảm xuống và đi cùng với nó là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.

Thứ hai: tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến chính sách tài khoá. Một chính

sách tài khoá mở rộng sẽ được sử dụng trong thời gian đồng nội tệ mạnh (lên

giá) vì đồng nội tệ mạnh làm giảm lạm phát, chính phủ sẽ cắt giảm thuế và nới

lỏng chi tiêu, tăng dự trữ ngoại tệ. Một chính sách tài khoá thắt chặt sẽ được sử

dụng trong thời gian đồng nội tệ yếu (mất giá) do lạm phát gia tăng, chính phủ

phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế và giảm dự trữ ngoại tệ.

Thứ ba: tỷ giá hối đoái làm thay đổi tỷ trọng giữa vay nợ nước ngoài với

tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Khi đồng nội tệ mạnh, tỷ trọng giữa vay nợ

nước ngoài với GDP sẽ giảm xuống, Chính phủ có thể nhân cơ hội này vay tiền

từ các tổ chức quốc tế để thực hiện các dự án quốc gia. Ngược lại, khi đồng nội

tệ yếu, tỷ trọng giữa vay nợ nước ngoài với GDP sẽ tăng lên, việc vay tiền từ các

tổ chức quốc tế trở nên khó khăn hơn.

Thứ tư: tỷ giá hối đoái làm thay đổi tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước

ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Khi đồng nội tệ yếu, gây áp

lực tăng lãi suất đồng nội tệ, điều này tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài

dự đoán doanh thu của các công ty tại nước họ đầu tư sẽ tăng lên, do vậy luồng

tiền từ nước ngoài sẽ dồn về nước có giá trị đồng nội tệ yếu thông qua mua trái

phiếu chính phủ hoặc cổ phiếu công ty. Khi đồng nội tệ mạnh lên, các nhà đầu tư

sẽ bán ra các trái phiếu và cổ phiếu để kiếm lời.

1.1.2.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với hệ thống ngân hàng

Thứ nhất: Tỷ giá hối đoái làm thay đổi tổng tài sản của ngân hàng. Tổng tài

sản ngân hàng tại một thời điểm là tổng số tài sản có hoặc tài sản nợ được thể

13

hiện trong bảng cân đối tài sản (nội bảng và ngoại bảng) tại thời điểm đó. Hoạt

động ngân hàng gắn liền với sự lưu thông của đa dạng các đồng tiền tệ và do đó,

nếu có sự biến động tỷ giá , tổng tài sản của ngân hàng có thể tăng hoặc giảm, lợi

nhuận của ngân hàng cũng theo đó thể hiện lãi hoặc lỗ tại thời điểm ra cân đối.

Thứ hai: Tỷ giá hối đoái làm thay đổi doanh số hoạt động kinh doanh liên

quan đến ngoại tệ bao gồm doanh số mua bán ngoại tệ, doanh số thanh toán quốc

tế, doanh số cho vay và huy động bằng ngoại tệ, doanh số chi trả kiều hối ... Lý

do: khi tỷ giá thay đổi, nó tác động trực tiếp đến doanh số xuất nhập khẩu hàng

hoá và dịch vụ của ngân hàng từ đó ảnh hưởng đến hàng loạt các hoạt động kinh

doanh khác của ngân hàng có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến tỷ giá.

Thứ ba: Tỷ giá hối đoái làm thay đổi mức thu lợi nhuận ngân hàng. Lợi

nhuận mang lại cho ngân hàng có liên quan đến ngoại tệ bao gồm: thu lãi kinh

doanh ngoại tệ, thu lãi cho vay bằng ngoại tệ, thu lãi nhờ vào chênh lệch tỷ giá

do trạng thái hối đoái ròng (NPEi) ở trạng thái mở (âm hoặc dương). Khi tỷ giá

hối đoái thay đổi, các chỉ tiêu trên sẽ thay đổi theo và ảnh hưởng đến lợi nhuận.

1.1.2.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với doanh nghiệp.

Tỷ giá hối đoái làm thay đổi doanh thu bán hàng và thay đổi mức thu lợi

nhuận doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc

tế. Nó cho phép chúng ta so sánh giá cả của hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại các

nước khác nhau. Giá cả hàng xuất khẩu của một nước được tính theo giá tại nước

nhập khẩu nếu biết tỷ giá của đồng tiền hai nước đó.

Khi đồng nội tệ mất giá, doanh nghiệp xuất khẩu có nhiều lợi thế do giá

hàng xuất khẩu của doanh nghiệp rẻ đi và có cơ hội cạnh tranh với mặt hàng

cùng loại ở nước khác còn nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá xuất khẩu thì sẽ

mang lại lợi nhuận cao hơn dự kiến. Ngược lại, doanh nghiệp nhập khẩu phải trả

14

giá cao hơn cho các mặt hàng nhập khẩu và lợi nhuận doanh nghiệp giảm sút.

Hiệu quả sẽ có tác động ngược lại đối với doanh nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu

khi đồng nội tệ lên giá.

Các doanh nghiệp không trực tiếp xuất nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng tương

tự về doanh số và lợi nhuận khi mua hàng từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Với việc phân tích chi tiết các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và tác

động trở lại của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế, ta thấy rằng có sự tác động

tương hỗ giữa tỷ giá hối đoái, các chính sách của chính phủ và các yếu tố của

nền kinh tế.

Các chính sách tài khoá và

tiền tệ của chính phủ

Tỷ lệ lãi suất Tỷ lệ lạm phát Mức độ thu nhập

Tương ứng tương ứng quốc gia tương

ứng

Dòng chảy vốn Thương mại Tỷ giá hối đoái

quốc tế quốc tế

Chính phủ mua và bán tiền tệ

15

Sức hút của các Các Thuế Sức hút của các Sự can thiệp của chứng khoán giao luật quan hàng hoá chính phủ dịch quốc tế thuế hạn Mua bán quốc tế

ngạch

Hình 1: Sơ đồ minh họa sự tác động qua lại của tỷ giá hối đoái với chính

sách của chính phủ và các yếu tố của nền kinh tế.

(Nguồn: Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2008), “ Giáo trình Tài chính quốc

tế”, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.229)

1.2. Khái quát chung về rủi ro tỷ giá .

Đặc trưng của ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, vì vậy

hoạt động cơ bản và xuyên suốt của nó là dẫn chuyển vốn (nội tệ, ngoại tệ) từ

người thừa vốn sang người thiếu vốn, tạo ra hiệu quả sử dụng đồng vốn cao hơn,

tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Ngân hàng dùng kỹ năng chuyên môn của mình để

thiết lập một danh mục các dịch vụ cung cấp cho xã hội như: huy động, cho vay,

bảo lãnh trong nước, bảo lãnh quốc tế, thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế,

tư vấn… Ngoài ra, ngân hàng còn phải tối đa hoá lợi nhuận bằng cách đa dạng

các danh mục đầu tư: đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu, ngoại tệ… Có thể nói, hoạt

động ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro nhất. Ngoài các rủi ro thông thường mà

các hoạt động khác phải đối mặt như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh

khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro uy tín, rủi ro chiến

lược… thì hoạt động ngân hàng còn phải chịu thêm một rủi ro đặc biệt, đó là rủi

ro tỷ giá. Do tỷ giá biến động thường xuyên nên rủi ro tỷ giá được xem là rủi ro

thường trực, gắn liền với hoạt động ngân hàng.

1.2.1. Khái niệm rủi ro tỷ giá

Rủi ro là những tổn thất, sai lệch so với dự tính xảy ra nằm ngoài ý muốn

16

của con người.

Rủi ro tỷ giá là khả năng thiệt hại, tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu

do sự thay đổi tỷ giá hối đoái giữa nội tệ và ngoại tệ.

(Nguồn: Nguyễn Kim Anh (2008), “giáo trình Rủi ro tỷ giá hối đoái và

quản trị rủi ro hối đoái”, Nxb Thống kê, tr. 34)

Tuy nhiên, không phải bất cứ khi nào tỷ giá hối đoái biến động thì NHTM

sẽ gặp rủi ro hối đoái. Sự biến động của tỷ giá hối đoái chỉ là một điều kiện cần

để có thể làm cho ngân hàng gặp phải rủi ro tỷ giá bởi vì nếu hoạt động kinh

doanh của ngân hàng thương mại đơn thuần chỉ liên quan đến nội tệ và diễn ra

trong nước thì rủi ro tỷ giá lúc này là bằng không. Trên thực tế, NHTM kinh

doanh trong lĩnh vực tiền tệ bao gồm nội tệ và ngoại tệ do vậy phần tiếp theo sẽ

nghiên cứu điều kiện đủ hay là những nguyên nhân chính làm cho một ngân

hàng thương mại gặp phải rủi ro về tỷ giá khi thực hiện các nghiệp vụ kinh

doanh.

1.2.2.Nguyên nhân phát sinh rủi ro tỷ giá

1.2.2.1. Rủi do từ hoạt động nội bảng

Hoạt động nội bảng của các NHTM sẽ gây ra rủi ro tỷ giá là do sự không

cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Tài sản có bằng

ngoại tệ bao gồm: các khoản cho vay bằng ngoại tệ; các chứng khoán bằng ngoại

tệ; tiền gửi bằng ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng khác; tiền mặt bằng ngoại tệ…

Tài sản nợ bằng ngoại tệ bao gồm: chứng chỉ tiền gửi ghi bằng ngoại tệ do ngân

hàng phát hành; tiền gửi bằng ngoại tệ từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức tín

dụng; các khoản vay bằng ngoại tệ; các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại

tệ…

17

Tài sản ròng bằng ngoại tệ = TSC bằng ngoại tệ – TSN bằng ngoại t

Trường hợp 1: Tài sản ròng bằng ngoại tệ > 0: TSC bằng ngoại tệ lớn hơn

TSN bằng ngoại tệ. Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ giảm giá): NHTM

có lãi. Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ tăng giá): NHTM bị

lỗ.

Trường hợp 2: Tài sản ròng bằng ngoại tệ < 0: TSC bằng ngoại tệ nhỏ hơn

TSN bằng ngoại tệ. Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ giảm giá): NHTM bị

lỗ. Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ tăng giá): NHTM có lãi.

Trường hợp 3: Tài sản ròng bằng ngoại tệ = 0: TSC bằng ngoại tệ bằng

TSN bằng ngoại tệ. NHTM sẽ không gặp rủi ro về tỷ giá cho dù tỷ giá có biến

động như thế nào đi chăng nữa.

1.2.2.2. Rủi ro từ hoạt động ngoại bảng

Sự tham gia của một NHTM vào thị trường ngoại hối được thực hiện chủ

yếu thông qua 4 hoạt động sau:

Thứ nhất, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện và thanh

toán các hợp đồng ngoại thương.

Thứ hai, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện đầu tư nước

ngoài trực tiếp và gián tiếp.

Thứ ba, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân hàng

nhằm cân bằng trạng thái ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

Thứ tư, mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá

biến động.

Trong 4 giao dịch trên, 2 giao dịch đầu tiên ngân hàng thực hiện mua hộ

18

và bán hộ cho khách hàng để thu phí (hay thu lãi KDNT) do đó rủi ro tỷ giá

không phát sinh. Giao dịch thứ 3 nhằm mục đích cân bằng trạng thái ngoại tệ là

nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá vì vậy nó sẽ làm giảm mức độ rủi ro xuống.

Như vậy, thực chất rủi ro tỷ giá của NHTM chủ yếu do những hoạt động đầu cơ

mang lại. Khi đó, NHTM sẽ duy trì một trạng thái ngoại tệ mở (dương hoặc âm)

và tỷ giá trên thị trường là biến động.

Trạng thái ngoại tệ ròng = Ngoại tệ mua vào – Ngoại tệ bán ra

Trường hợp 1: Trạng thái ngoại tệ ròng > 0: doanh số ngoại tệ mua vào

lớn hơn doanh số ngoại tệ bán ra. Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ giảm

giá): NHTM có lãi. Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ tăng

giá): NHTM bị lỗ.

Trường hợp 2: Trạng thái ngoại tệ ròng < 0: Doanh số ngoại tệ mua vào

nhỏ hơn doanh số ngoại tệ bán ra (ngân hàng đang mượn ngoại tệ từ nguồn khác

để bán trước). Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ giảm giá): NHTM bị lỗ.

Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ tăng giá): NHTM có lãi.

Trường hợp 3: Trạng thái ngoại tệ = 0: Doanh số mua ngoại tệ bằng doanh

số bán ngoại tệ. NHTM sẽ không gặp rủi ro về tỷ giá cho dù tỷ giá có biến động .

Như vậy, một NHTM sẽ gặp phải rủi ro về tỷ giá khi ngân hàng đó duy trì

sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ, khi

trạng thái ngoại tệ là mở và tỷ giá trên thị trường biến động.

Công thức tổng quát xác định trạng thái rủi ro hối đoái ròng (NPE – Net

Position Exposure) đối với ngoại tệ thứ i như sau:

NPEi= Tài sản ròng bằng ngoại tệi + Trạng thái ngoại tệ ròngi

= (TSC bằng ngoại tệi – TSN bằng ngoại tệi) + (Doanh số mua vào ngoại tệi

19

– Doanh số bán ra ngoại tệi)

Trường hợp 1: Nếu NPEi > 0: Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ

giảm giá): NHTM có lãi. Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ

tăng giá): NHTM bị lỗ.

Trường hợp 2: Nếu NPEi < 0: Khi tỷ giá tăng (ngoại tệ tăng giá, nội tệ

giảm giá): NHTM bị lỗ. Ngược lại, khi tỷ giá giảm (ngoại tệ giảm giá, nội tệ tăng

giá): NHTM có lãi.

Trường hợp 3: Nếu NPEi = 0: NHTM sẽ không gặp rủi ro về tỷ giá cho dù

tỷ giá có biến động .

(Nguồn: Nguyễn Kim Anh (2008), “giáo trình Rủi ro tỷ giá hối đoái và

quản trị rủi ro hối đoái”, Nxb Thống kê, tr. 39)

1.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá

1.3.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng

Như chúng ta đã biết, rủi ro tỷ giá do các hoạt động nội bảng gây ra với

nguyên nhân chính là sự chênh lệch tỷ giá giữa TSC và TSN bằng ngoại tệ. Để

phòng ngừa loại rủi ro này, chúng ta cần làm cân xứng TSC và TSN bằng ngoại

tệ. Cụ thể hơn, ta đi phân tích một vài nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng:

+ Nghiệp vụ huy động vốn nhằm mục đích cho vay. Nếu ngân hàng sử dụng

toàn bộ doanh số huy động bằng ngoại tệ để cho vay bằng ngoại tệ với kỳ hạn

huy động và kỳ hạn cho vay là như nhau thì sẽ không có rủi ro tỷ gía trong

nghiệp vụ này. Càng thu hẹp chênh lệch giữa doanh số huy động ngoại tệ và cho

vay ngoại tệ thì mức độ lãi hoặc lỗ về tỷ giá càng nhỏ.

+ Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Mua ngoại tệ để bán ngoại tệ ăn chênh lệch

giá. Nếu doanh số mua và bán là bằng nhau tại một thời điểm và tỷ giá mua thấp

hơn tỷ giá bán, rủi ro tỷ giá bằng không. Càng thu hẹp chênh lệch giữa doanh số

20

mua ngoại tệ và doanh số bán ngoại tệ thì mức độ lãi hoặc lỗ về tỷ giá càng nhỏ.

+ Các khoản phải thu bằng ngoại tệ và các khoản phải trả bằng ngoại tệ luôn ở

mức cân bằng sẽ giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Các khoản phải thu bao gồm thu lãi cho

vay, thu lãi tiền gửi nơi khác và các khoản phí. Các khoản phải trả bao gồm trả

lãi tiền gửi , trả lãi tiền đi vay, trả thuế…

Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân hàng cũng có thể thực hiện biện pháp

cân xứng TSN và TSC bằng ngoại tệ vì việc huy động đủ vốn ngoại tệ đáp ứng

đủ nhu cầu vay ngoại tệ là khó thực hiện chưa kể đến các khoản dữ trữ tiền mặt,

dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ… đảm bảo thanh khoản theo quy định của mỗi

quốc gia. Chính vì vậy, ngoài biện pháp phòng ngừa nội bảng các ngân hàng

thương mại còn thực hiện những biện pháp phòng ngừa ngoại bảng.

1.3.2. Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng

1.3.2.1. Phòng ngừa bằng hợp đồng giao ngay (Spot)

Hợp đồng ngoại hối giao ngay là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể đồng

ý mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ nhất định theo tỷ giá của NHTM niêm yết

tại thời điểm ký hợp đồng hoặc do hai bên thoả thuận nhưng nằm trong biên độ

cho phép của mỗi quốc gia.

Giao dịch ngoại hối giao ngay có thời hạn thanh toán chậm nhất trong

vòng hai ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng. Các bên tham gia giao dịch

được phép thoả thuận cụ thể thời điểm chuyển tiền trong phạm vi hai ngày làm

việc quy định trên.

Giao dịch giao ngay thường là mua thực bán thực và nhìn thấy ngay kết

quả kinh doanh của việc mua bán, các NHTM sử dụng giao dịch này để cân bằng

trạng thái ngoại tệ của mình. Giao dịch giao ngay là biện pháp phòng ngừa rủi ro

21

sớm nhất và là cơ sở hình thành nên các biện pháp phòng ngừa rủi ro khác.

Giao dịch giao ngay cũng được các ngân hàng áp dụng để tự kinh doanh

kiếm lời trong phạm vi hạn mức được phép. Tuy nhiên, đã có rất nhiều trường

hợp các ngân hàng do sự thiếu ý thức trong tuân thủ quy trình hoạt động của cán

bộ và lãnh đạo đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Dưới đây là hai ví dụ điển hình

trong nước và ngoài nước về đầu cơ tỷ giá:

Kinh nghiệm của Việt Nam và bài học cụ thể của Ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn Việt Nam

Trong thời gian từ tháng 03/2004 đến 31/12/2004, Sở kinh doanh vốn và ngoại

tệ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)

đã bị thua lỗ trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ 490 tỷ đồng. Đây là đơn vị

duy nhất của Agribank được phép kinh doanh ngoại tệ chuyển đổi và cung ứng

ngoại tệ cho toàn hệ thống Agribank khoảng 2000 chi nhánh. Nguyên nhân

thua lỗ là do đơn vị đã bỏ qua quy định về trạng thái ngoại tệ của NHNN và

của chính Agribank. Theo quy định, Sở quản lý phải báo cáo trạng thái ngoại tệ

theo ngày, tháng gửi Vụ Quản lý ngoại hối NHNN. Thế nhưng, Sở quản lý chỉ

báo cáo trạng thái ngoại tệ của Agribank dựa vào doanh số phát sinh mua bán

ngoại tệ tại chi nhánh và tại Sở quản lý. Đặc biệt, phần kinh doanh ngoại tệ

chuyển đổi không đưa vào báo cáo trạng thái kể cả những ngày kinh doanh

vượt trạng thái. Ví dụ: tháng 10/2004, có 3 ngày kinh doanh vượt trạng thái, số

tiền không báo cáo là hơn 246,5 triệu EUR và hơn 371,3 triệu USD. Tháng

11/2004 có 100 ngày kinh doanh vượt trạng thái , số tiền không báo cáo là

1,372 tỷ EUR và 1,892 tỷ USD. Chỉ riêng 3 tháng 10, 11, 12/2004 việc kinh

doanh ngoại tệ chuyển đổi giữa đồng EUR và đồng USD đã lỗ hơn 29,2 triệu

22

USD. Trước những sai phạm trên, tháng 5/2007, vụ án “cố ý làm trái các quy

định của nhà nước về quản lý ngoại hối gây hậu quả nghiêm trọng” đã được

khởi tố.

Kinh nghiệm của Đức và bài học cụ thể của Ngân hàng Herstatt

Năm 1974, ngân hàng thương mại Herstatt của Đức bị thua lỗ hơn 800

triệu USD, trong khi vốn chủ sở hữu của Ngân hàng chỉ có 40 triệu USD. Ngân

hàng này đã phải đóng cửa vì không còn khả năng thanh toán cho khách hàng.

Nguyên nhân của sự đổ vỡ này là do Ngân hàng đã kỳ vọng vào sự lên giá của

USD nên đã dùng DEM đầu cơ mua một khối lượng lớn USD. Sau khi đầu cơ,

giá của USD giảm mạnh so với DEM khiến cho ngân hàng này bị lỗ 800 triệu

USD.

(Nguồn: website www.vnexpress.net ngày 28/10/2008)

1.3.2.2. Phòng ngừa bằng hợp đồng kỳ hạn

Hợp đồng ngoại hối kỳ hạn (Currency Forward Contact) là sự thoả thuận

giữa hai bên chủ thể đồng ý mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ nhất định tại

một mức tỷ giá nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai.

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Currency Forward Transaction) là những giao

dịch ngoại hối trong đó hai bên tham gia giao dịch cùng cam kết sẽ trao đổi một

lượng ngoại tệ xác định theo một mức tỷ giá xác định trong tương lai theo các

điều kiện và điều khoản thoả thuận của hai bên tham gia giao dịch. Tỷ giá kỳ hạn

là tỷ giá được thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại tệ mà ngày ký hợp

đồng và ngày thanh toán ngoại tệ không đồng thời xảy ra. Thanh toán sẽ tiến

23

hành theo thời hạn ghi trên hợp đồng. Ngày thanh toán là ngày làm việc cuối

cùng của kỳ hạn giao dịch và được hai bên ghi cụ thể trong hợp đồng kỳ hạn.

Các bên chỉ được phép chuyển tiền khi đến hạn thanh toán.

Chức năng kinh tế của giao dịch kỳ hạn là hạn chế rủi ro tỷ giá trong kinh

doanh. Các NHTM rất khó dự đoán tỷ giá giao ngay sau một thời gian nữa, trong

khi vì nhu cầu đáp ứng khách hàng ngân hàng đã phải chuyển đổi ngoại tệ sang

VND hoặc ngược lại để cho vay, mua, bán... Để làm giảm rủi ro, các NHTM sử

dụng hợp đồng kỳ hạn để biết trước hiệu quả một phương án kinh doanh ngay từ

khi nó bắt đầu.

1.3.2.3.Phòng ngừa bằng hợp đồng hoán đổi (Swap)

Hợp đồng hoán đổi ngoại hối là hợp đồng bao gồm đồng thời một giao

dịch mua vào và một giao dịch bán ra một loại tiền tệ nhất định đối với các bên,

trong đó ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau. Tỷ giá giao

dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng do hai bên thoả thuận.

Cơ chế thanh toán và chuyển tiền của giao dịch này phụ thuộc vào loại

hợp đồng hoán đổi.

Loại thứ nhất: Nếu giao dịch hoán đổi bao gồm một giao dịch giao ngay

và một giao dịch kỳ hạn (Spot Forward Swap) thì việc thanh toán chuyển tiền

dựa trên nguyên tắc đã quy định đối với giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.

Loại thứ hai: Nếu giao dịch hoán đổi gồm hai giao dịch kỳ hạn thì việc

thanh toán chuyển tiền dựa trên nguyên tắc đã quy định với giao dịch kỳ hạn.

Giao dịch hoán đổi không làm thay đổi trạng thái ngoại tệ thực. Nghiệp vụ

hoán đổi được các ngân hàng vận dụng nhằm bảo toàn vốn, lợi dụng những thay

đổi hiện tại và sự chênh lệch lãi suất của các loại tiền tệ để tránh rủi ro và kiếm

24

lời. Bảo hiểm rủi ro tỷ giá là một chức năng quan trọng của Swap vì nó loại bỏ

được những bất ổn lên xuống của tỷ giá hối đoái. Ngân hàng không bị rủi ro về

tỷ giá do họ mua và bán một lượng tiền tệ với cùng số lượng.

1.3.2.4. Phòng ngừa bằng hợp đồng quyền chọn (Option)

Hợp đồng ngoại hối quyền chọn (Currency Option Contract): là một công

cụ tài chính cho phép người mua có quyền (chứ không phải nghĩa vụ) mua hoặc

bán một tiền tệ theo một tỷ giá cố định đã thoả thuận trước trong một khoảng

thời gian nhất định.

Hợp đồng quyền chọn khác với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng Swap ở chỗ

nó cho phép người mua quyền chọn có một sự lựa chọn: Hoặc là tiến hành giao

dịch (thanh toán) theo tỷ giá đã thoả thuận từ trước nếu tỷ giá đó có lợi cho

người mua; Hoặc để cho hợp đồng tự hết hạn mà không tiến hành bất cứ một

giao dịch nào nếu tỷ giá đó không có lợi cho người mua. Mặt khác, người bán

hợp đồng quyền chọn phải luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch khi người mua

muốn.

Hợp đồng ngoại hối quyền chọn được giao dịch trên thị trường phi tập

trung (OTC) và trên Sở giao dịch. Các bên tham gia quyền chọn bao gồm: Người

bán hợp đồng quyền chọn (Writer, Seller or Grantor), người mua hợp đồng

quyền chọn (Buyer, Taker), trung tâm thanh toán bù trừ của hợp đồng quyền

chọn nếu giao dịch được thực hiện trên Sở Giao Dịch.

Giao dịch kinh doanh quyền mua bán ngoại tệ lựa chọn được các ngân

hàng sử dụng rộng rãi dưới hình thức giao dịch tự do, với các thương vụ lớn.

Đây là một hình thức kinh doanh đặc biệt trên thị trường hối đoái, với 4 quyền

25

mua bán ngoại tệ lựa chọn:

Mua quyền chọn bán ngoại tệ

Mua quyền chọn mua ngoại tệ

Bán quyền chọn bán ngoại tệ

Bán quyền chọn mua ngoại tệ

Chiến lược kết hợp giữa trạng thái dương đối với tài sản tài chính bằng

ngoại tệ và hợp đồng mua quyền chọn bán ngoại tệ gọi là chiến lược phòng ngừa

rủi ro bằng hợp đồng mua quyền chọn bán

Chiến lược kết hợp giữa trạng thái dương đối với tài sản tài chính bằng

ngoại tệ và hợp đồng bán quyền chọn mua ngoại tệ được gọi là chiến lược phòng

ngừa rủi ro bằng hợp đồng bán quyền chọn mua

Phòng ngừa rủi ro bằng chiến lược kết hợp mua một quyền chọn mua và

bán một quyền chọn mua với một loại tiền tệ với giá thực hiện hợp đồng và phí

quyền chọn khác nhau. Đây là chiến lược sử dụng với mục đích làm giảm chi phí

phòng ngừa rủi ro (giảm mức phí quyền chọn)

Phòng ngừa rủi ro bằng chiến lược mua một quyền chọn mua và bán một

quyền chọn bán có cùng giá thực hiện hợp đồng, cùng phí quyền chọn, nhưng số

lượng tiền tệ ở hai hợp đồng quyền chọn là khác nhau. Đây là chiến lược sử dụng

với mục đích làm chi phí phòng ngừa rủi ro bằng 0.

Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách kết hợp mua một quyền chọn mua và

bán một quyền chọn bán có giá thực hiện hợp đồng khác nhau, cùng phí quyền

chọn và cùng số lượng tiền tệ ở hai hợp đồng quyền chọn. Đây là chiến lược sử

dụng với mục đích làm chi phí phòng ngừa rủi ro bằng 0.

Trên đây là các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá đang được áp dụng

tương đối phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. Còn một biện

26

pháp phòng ngừa rủi ro: Phòng ngừa bằng hợp đồng ngoại hối tương lai

(Currency Future). Hình thức này xuất phát từ hình thức phòng ngừa bằng hợp

đồng kỳ hạn nhưng được tiêu chuẩn hoá về số lượng tiền tệ giao dịch và các giao

dịch tương lai được thực hiện trên thị trường tập trung là Sở Giao Dịch. Tuy

nhiên, bài viết này không đi sâu phân tích biện pháp phòng ngừa này do nó chưa

được áp dụng tại Việt Nam.

Kinh nghiệm của Anh và bài học cụ thể của Ngân hàng Barings PLC.

Vào ngày 27/02/1995, Barings PLC là NHTM lâu đời và lớn nhất của Anh

(thành lập năm 1762) đã phải đặt dưới sự giám sát của ngân hàng Anh Quốc do

những khoản thua lỗ nặng nề (827 triệu bảng) còn lớn hơn vốn cổ phần của

ngân hàng này (860 triệu USD)

Nguyên nhân của những khoản thua lỗ là do hệ thống quản trị rủi ro của

Barings hoạt động kém hiệu quả đã để cho một nhân viên ngân hàng tại chi

nhánh Singapore Nick Leeson 28 tuổi lừa đảo tích luỹ và che đậy một trạng

thái tài sản là 27 tỷ USD không có bảo hiểm bằng các hợp đồng quyền chọn và

hợp đồng tương lai, chủ yếu là 225 hợp đồng tương lai về chỉ số Nikkei được

giao dịch trên Sở Giao Dịch tiền tệ Singapore (SME). Thay vì công khai sai

lầm của mình, Leeson che dấu mọi thứ bằng một serie các bản báo cáo kế toán

phức tạp với hy vọng kéo dài thời gian chờ thị trường hồi phục, nhưng mọi

việc đi theo hướng ngược lại. Đến tháng 3/1995, mọi chuyện mới được đưa ra

ánh sáng. Thông tin được công bố , đã đặt dấu chấm hết cho NHTM lâu đời và

uy tín nhất London. Barings Bank bị bán cho ING, tập đoàn tài chính có trụ sở

27

tại Hà Lan với giá 1 bảng Anh.

(Nguồn: website www.vnexpress.net ngày 28/10/2008)

Hoạt động ngân hàng vốn dĩ chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn và có khả

năng gây tổn thất rất lớn thậm chí dẫn đến hậu quả đổ vỡ, do tính hiệu quả của

hoạt động này bị chi phối bởi rất nhiều biến động nhạy cảm, trong đó đặc biệt

là biến động tỷ giá. Thực tế cho thấy đã có rất nhiều vụ phá sản của các Ngân

hàng trên thế giới do buông lỏng công tác quản lý ruỉ ro tỷ giá, để tình trạng

đầu cơ kéo dài và khi tỷ giá biến động mạnh đã kéo theo hậu quả không lường.

Với rất nhiều ví dụ thực tiễn về rủi ro tỷ giá trong và ngoài nước, có thể

thâý rằng các công cụ phòng ngừa tỷ giá có thể là con dao hai lưỡi. Nó có thể

phòng ngừa được rủi ro tỷ giá nếu người sử dụng chúng đặt lợi ích ngân hàng,

lợi ích doanh nghiệp lên hàng đầu và tuân thủ các quy định về quản trị rủi ro

của đơn vị, ngược lại nó có thể gây hậu quả nghiêm trọng làm thiệt hại tài sản

của đơn vị nếu các công cụ được sử dụng vượt mức quy định vào mục đích đầu

cơ.

Vậy các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại MHB HN có được vận

dụng hiệu quả hay không? Để trả lời được câu hỏi này tác giả sẽ đi sâu phân

tích thực trạng phòng ngừa rủi ro tỷ giá của MHB HN giai đoạn từ năm 2004

đến 2009. Đồng thời, những vấn đề lý thuyết cơ bản trên đây sẽ được vận dụng

28

để nghiên cứu thực trạng phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại MHB HN.

Chương 2: Thực trạng Phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB HN

2.1. Khái quát về ngân hàng MHB HN

2.1.1. Lịch sử hoạt động và mô hình tổ chức của MHB HN

Ngân hàng MHB là một trong bảy ngân hàng TMQD tại Việt Nam được

Thủ tướng chính phủ ký quyết định thành lập ngày 18 tháng 09 năm 1997 được

xếp hạng doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt. MHB là một trong những ngân

hàng non trẻ của hệ thống ngân hàng TMQD nhưng có tốc độ phát triển nhanh

nhất. Sau hơn 12 năm hoạt động, tính đến 31/12/2009 tổng tài sản của MHB đạt

trên 39.799 tỷ VND (tương đương 2 tỷ USD) tăng 111 lần so với ngày đầu thành

lập, trung bình mỗi năm tăng 48%. Mạng lưới chi nhánh của MHB đứng thứ bẩy

trong các ngân hàng tại Việt nam, với trên 200 chi nhánh và phòng giao dịch trên

32 tỉnh thành của cả nước, phủ kín tất cả các tỉnh ĐBSCL và các vùng kinh tế

trọng điểm từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. MHB duy trì và phát triển mối quan

hệ với hơn 300 ngân hàng nước ngoài tại 50 quốc gia trên thế giới. Trong vòng

02 năm từ 08/2008 đến hết 01/2010 MHB đã hoàn thiện nâng cấp hệ thống phần

mềm ngân hàng lõi (Core Banking) do Polarit – ấn Độ đảm nhiệm và chính thức

đi vào hoạt động từ ngày 01/02/2010, đây chính là mốc đánh dấu sự phát triển

toàn diện của một ngân hàng hiện đại, đưa MHB lên một tầm cao mới.

MHB HN thành lập ngày 16 tháng 04 năm 2003 theo quyết định thành lập

số 47/2003/QĐ-NHN-HĐQT. Khi mới thành lập, MHB HN chỉ có 28 cán bộ

nhân viên bao gồm 01 Giám đốc, 01 Phó Giám Đốc phụ trách kế toán, 01 Phó

Giám Đốc phụ trách kinh doanh và 4 phòng nghiệp vụ: Phòng Kế toán, Phòng

Kinh doanh, Phòng Kiểm soát nội bộ và Phòng Hành chính. Nhận thức tầm quan

29

trọng về vị trí chính trị và vị trí kinh tế của mình tại thủ đô Hà Nội, chi nhánh Hà

Nội đã liên tục đổi mới từ phương thức quản lý đến phong cách phục vụ khách

hàng với phương châm hoạt động: “Ngân hàng mới – Phong cách mới” đồng

thời không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động tại địa bàn Hà Nội.

Về phương thức quản lý, MHB HN đã phát triển thêm nhiều phòng nghiệp

vụ với chức năng nhiệm vụ cụ thể cho từng phòng mang tính chuyên nghiệp hoá

cao

Ban giám đốc

Phòng Phòng Phòng Phòng

Kế toán Kinh doanh KSNB Hành chính

Hình 2.1. Mô hình hoạt động của MHB – Hà Nội năm 2003

Khi mới thành lập chi nhánh, Hà Nội chỉ có bốn phòng nghiệp vụ, trong

đó các mảng kinh doanh của chi nhánh đều tập trung trong Phòng Kinh doanh

bao gồm: bộ phận Tín dụng, bộ phận Thanh toán quốc tế, bộ phận Nguồn vốn,

bộ phận Kinh doanh ngoại tệ, bộ phận Báo cáo và kế hoạch tổng hợp. Các bộ

phận đều hoạt động ở quy mô nhỏ, thương hiệu MHB rất ít ai biết đến. Không

chấp nhận với kết quả hoạt động của chi nhánh, ban giám đốc đã nỗ lực không

ngừng với nhiều biện pháp: cử cán bộ đi học tập kinh nghiệm tại các chi nhánh

trong hệ thống và học tập ở các ngân hàng bạn; mở các lớp đào tạo chuyên môn

nghiệp vụ với giảng viên là các thầy cô giáo nhiều kinh nghiệm tại trường Đại

30

học Ngân hàng đồng thời lên kế hoạch tự đào tạo, tự trau dồi kinh nghiệm lẫn

nhau; cử cán bộ đi học các khoá học về kỹ năng chăm sóc khách hàng, về

Marketing sau đó truyền đạt lại cho cán bộ nhân viên toàn chi nhánh; tổ chức

các buổi tham quan giãn ngoại với các trò chơi tập thể để tạo tinh thần đoàn kết

và thoải mái giữa lãnh đạo và nhân viên, giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp; Tổ

chức các cuộc thi tìm hiều về nghiệp vụ ngân hàng… Mọi nỗ lực của Ban giám

đốc đã thu được kết quả rất đáng khích lệ, lợi nhuận của chi nhánh tăng dần qua

từng năm, chi nhánh luôn đứng trong top 3 chi nhánh có kết quả hoạt động cao

nhất toàn hệ thống. Từ 01/01/2008, chi nhánh đã phát triển thêm nhiều phòng

nghiệp vụ để đáp ứng quy mô hoạt động ngày một mở rộng và tính chuyên

nghiệp hoá cao.

Phòng Kế toán + Tin học

Phòng Kinh doanh

Phòng Hỗ trợ kinh doanh

Phòng Quản lý rủi ro

Ban giám đốc Phòng Nguồn vốn và KDNT

Phòng Thanh toán quốc tế

Phòng Kiểm soát nội bộ

31

Phòng Hành chính Các Phòng giao dịch

Hình 2.2. Mô hình hoạt động của MHB Hà Nội năm 2008

(Đơn vị: tỷ VND)

Bảng 2.1. Lợi nhuận của chi nhánh Hà Nội qua từng năm

2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

5 12 18 24 32 45 63

(Nguồn: Báo cáo tổng hợp, MHB – Hà Nội)

Về phong cách phục vụ khách hàng, thực hiện phương trâm phục vụ “Cho

niềm vui toả khắp” được phát động từ Hội sở chính, MHB HN là một trong

những chi nhánh dẫn đầu hệ thống về phong cách phục vụ khách hàng bao gồm:

trang phục công sở lịch sự ; văn phòng làm việc gọn gàng đầy đủ trang thiết bị;

tuân thủ giờ giấc làm việc; khách hàng được tiếp đón và hướng dẫn tận tình, chu

đáo, chuyên nghiệp; sẵn sàng giải quyết thoả đáng mọi thắc mắc, khiếu kiện của

khách hàng; không để khách hàng phải đợi quá lâu, giữ chữ tín với khách

hàng… Sau một thời gian hoạt động, thương hiệu MHB nói chung và MHB HN

nói riêng đã được đông đảo cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng biết

đến thể hiện qua số lượng khách hàng đến giao dịch tăng trưởng rõ rệt qua từng

năm. Với cuộc thi “Tôi làm tại MHB”, MHB HN đã mang về 02 giải nhì và 06

giải khuyến khích trong tổng số 15 giải thưởng của Ban tổ chức.

Về phát triển mạng lưới, từ con số 28 cán bộ nhân viên và chưa có phòng

giao dịch nào trong năm 2004, đến hết 31/12/2009 MHB HN đã có 220 cán bộ

nhân viên với 1 chi nhánh và 16 Phòng giao dịch. Trong 16 Phòng giao dịch, trừ

một vài phòng mới thành lập từ giữa năm 2009 trở lại đây là hoạt động còn ở

mức quy mô nhỏ, các phòng giao dịch khác đã tự đứng vững, làm ăn có lãi tăng

32

dần qua các năm góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Liên tục các năm từ 2005 đến 2009, MHB HN đều nhận được Bằng khen của

Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, năm 2007 và 2008 còn được nhận

bằng khen của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội, đến năm 2009 MHB HN

được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về việc đã hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ được giao.

2.1.2. Các hoạt động kinh doanh tại MHB HN

2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.

Khi bắt đầu thành lập chi nhánh 2003, MHB HN được hệ thống MHB cho

phép huy động vốn từ hai thị trường: Thị trường 1 bao gồm dân cư và tổ chức

kinh tế; thị trường 2 gồm các TCTD và các định chế tài chính (công ty chứng

khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ…)

Trong hai năm trở lại đây, hệ thống MHB đă đổi mới căn bản cơ chế huy

động vốn đi liền với việc đổi mới phương pháp quản lí vốn tập trung. Từ chỗ cho

phép các chi nhánh huy động vốn từ cả thị trường I (cá nhân và tổ chức kinh tế)

và cả thị trường II (định chế tài chính), đến nay chi nhánh chỉ được huy động

vốn từ thị trường I. Hội sở là nơi mua vốn từ chi nhánh và bán vốn cho chi

nhánh. Vốn huy động được từ chi nhánh sẽ được điều hoà vào hội sở và được trả

lăi cao hơn mức lăi suất huy động. Khi chi nhánh cần vốn giải ngân sẽ nhận điều

hoà vốn của Hội sở với mức lăi suất theo quy định của Hội sở từng thời kỳ. Mục

đích của việc quản lý vốn tập trung một mặt là để tránh sự cạnh tranh về lăi suất

huy động giữa các chi nhánh trong hệ thống với các định chế tài chính khác và

làm yếu tính thanh khoản của hệ thống mặt khác khơi dậy thế mạnh của từng chi

nhánh trong công tác huy động vốn thị trường I, thị trường vốn được coi là có sự

phát triển bền vững và thanh khoản tốt đồng thời là cơ sở phát triển khách hàng

33

và bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng.

Nguồn vốn thị trường I của MHB Hà Nội trong thời gian qua tăng trưởng

liên tục. Năm 2004 tăng 70%; 2005 tăng 225%; 2006 tăng 73%, 2007 tăng 23%,

2008 tăng 53% và 2009 tăng 70%. Với kết quả này, liên tục trong các

năm qua MHB HN là một trong số 3 chi nhánh có tổng th sản lớn nhất toàn hệ

thống. Từ năm 2003 đến 2008, bình quân nguồn vốn tăng trưởng với tốc độ hơn

500 tỷ/năm đạt 3.220 tỷ quy VNĐ tính đến 31/12/2009. Kết quả này phản ánh

khả năng cạnh tranh cao của MHB Hà Nội trong hoạt động huy động vốn trên

địa bàn Hà Nội trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường.

Hoạt động huy động vốn tại MHB Hà Nội luôn được chú trọng, thường

xuyên đưa ra các sản phẩm huy động mới phù hợp với nhu cầu của mọi tầng lớp

nhân dân, lấy ư kiến nhận xét của người dân để thay đổi nhằm phục vụ tốt hơn.

Kênh huy động vốn không chỉ dừng lại ở huy động tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm

mà còn thông qua kênh phát hành thẻ rút tiền tự động (Thẻ E cash), tuy thẻ e-

cash mới ra đời cuối năm 2008 nhưng chi nhánh đă có khoảng 12.000 khách

hàng thường xuyên có giao dịch trên thẻ. Bên cạnh đó, chi nhánh luôn chú trọng

đến chính sách khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ, vì vậy ngày càng thu

hút nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng làm gia tăng nguồn vốn huy động.

Năm 2008 đánh dấu một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới.

Những bất ổn trên thị trường tài chính Mỹ và Châu Âu đă biến thành cơn băo tàn

phá kinh tế toàn cầu. Kinh tế Việt Nam trong năm 2008 đă phải đối mặt với rất

nhiều thách thức khi lạm phát cao vào đầu năm và tình trạng giảm phát, kinh tế

đình trệ vào cuối năm.

Trước bối cảnh phức tạp của nền kinh tế thế giới và trong nước, trong 06

34

tháng đầu năm, NHNN đă có những phản ứng chính sách kịp thời, sử dụng đồng

bộ và quyết liệt các giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu

quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và

kiềm chế lạm phát, từ tháng 07/2008 đến nay, NHNN đă từng bước nới lỏng

chính sách tiền tệ bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất

kinh doanh và chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế.

Đơn vị: Tỷ đồng

Bảng 2.2 : Nguồn vốn huy động của MHB Hà Nội (2003-2009)

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Chỉ tiêu

2003 Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

Giá trị

2004/ 2003 (%)

2005/ 2004 (%)

2006/ 2005 (%)

2007/ 2006 (%)

2009/ 2008 (%)

2008/ 2007 (%)

523

1771

2445

3856

5039

3127

62%

3220

Tổng nguồn vốn

+ 338%

138 %

158 %

131 %

103 %

79

134

436

756

927

1414

2400

Vốn thị trường I

+ 170%

325 %

173 %

123 %

170 %

153 %

Tỷ trọng (%)

15% 7,5%

18%

18%

45%

74%

19,6 %

3100

440

1630

2000

4100

1700

41%

800

47%

155 %

132 %

Vốn thị trường II

+ 370%

123 %

Tỷ trọng (%)

84%

92%

81%

80%

81%

54%

25%

Vốn khác

4

7

8

89%

12

9

13

20

150 %

108 %

+ 175%

128 %

154 %

Tỷ trọng (%)

1% 0,5%

1%

0,4%

1%

1%

1%

(Nguồn : Báo cáo tổng hợp, MHB Hà Nội)

Cũng trong năm 2008, Hội sở MHB đă thay đổi cơ chế điều hành sang

quản lư vốn tập trung. Một số chi nhánh tại các thành phố lớn (Hà Nội, Sài Gòn,

35

Cần Thơ) đang được huy động vốn từ thị trường hai chuyển sang không được

huy động vốn từ thị trường II và phải dần thay đổi cơ cấu số dư huy động thị

trường I chiếm tối thiểu 80%/tổng số dư huy động vốn. Trong điều kiện thị

trường vốn hết sức khó khăn trong năm 2008 và ảnh hưởng đến năm 2009, Ban

lănh đạo MHB Hà Nội đă kiên định chỉ đạo tăng cường công tác huy động vốn,

đặt công tác huy động vốn lên nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Tính đến

31/12/2009 các chỉ tiêu tổng tài sản và huy động vốn từ nền kinh tế của chi

nhánh đều đă hoàn thành vượt mức so với kế hoạch đă được điều chỉnh.

Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2009 đạt 3.220 tỷ quy đồng - cao hơn so

với chỉ tiêu điều chỉnh (3.000 tỷ đồng) và hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch được

duyệt từ đầu năm (3.200 tỷ đồng). Trong đó vốn huy động từ thị trường I đạt

2.400 tỷ đồng và vốn từ thị trường II thu hẹp dần còn 800 tỷ đồng theo đúng chỉ

đạo của Hội Sở.

2.1.2.2. Hoạt động tín dụng

Trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc vào loại

cao của khu vực trong những năm vừa qua, nhu cầu vốn cho phát triển tăng

mạnh, môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể, rào cản pháp lý trong hoạt

động ngân hàng từng bước được dỡ bỏ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động tín dụng của ngân hàng nói chung và MHB HN nói riêng phát triển.

Hoạt động sử dụng vốn của trong các năm qua đã có bước bứt phá mạnh, đáp

ứng tích cực nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại

hoá.

Qua hơn 6 năm hoạt động, MHB HN đã luôn nỗ lực phấn đấu mở rộng

36

doanh số cho vay góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Vốn tín dụng của

MHB HN đã đến với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, năm sau

cao hơn năm trước. Năm 2008, hoạt động tín dụng của MHB Hà Nội đã chịu

nhiều tác động bất lợi của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, lãi suất cơ bản

tăng cao lên tới 14%/năm, lãi suất huy động lên tới gần 19%/năm, lãi suất cho

vay 21%/năm, đến năm 2009 lãi suất cơ bản điều chỉnh xuống đi đôi với điều

chỉnh lãi suất huy động và cho vay. Tuy nhiên, số dư huy động mức lãi suất cao

của năm 2008 vẫn chưa đến hạn thanh toán trong khi lãi suất vay đã phải điều

chỉnh giảm theo chỉ đạo của NHNN, đây đó là một thách thức với ngân hàng

trong việc hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận đề ra.

Chất lượng tín dụng

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Ban lãnh đạo và sự nỗ lực của toàn chi

nhánh, công tác phân loại nợ của MHB HN được NHNN TP Hà Nội đánh giá

cao, kết quả phân loại nợ đó phản ánh trung thực, chính xác chất lượng tín dụng

của MHB HN.

Mặc dù dư nợ tín dụng tăng trưởng nhanh, nhưng chất lượng tín dụng

được cải thiện rõ rệt, nợ xấu được xử lý về căn bản, nợ quá hạn mới phát sinh

trong vòng khống chế của ngân hàng. Đến cuối năm 2009, nợ nhóm 1 của MHB

HN chiếm tỷ trọng là 97,91%, nhóm 2 chiếm tỷ trọng 1,8% và nhóm nợ xấu

(nhóm 3-5) được kiểm soát ở mức 0,29% tổng dư nợ. So với tỷ lệ 0,33% vào

cuối 2008 tỷ lệ nợ xấu năm 2009 đó giảm rõ rệt. Tính đến 31/12/2009, MHB HN

đã trích đủ 100% dự phòng rủi ro theo qui định của quyết định 493/2005/QĐ-

37

NHNN của NHNN. Việc phân loại nợ, trích lập dự phòng chung và dự phòng cụ

thể cho các khoản vay của MHB Hà Nội được thực hiện triệt để theo quy định

của NHNN. Sau khi xử lý bằng dự phòng, việc theo dõi, xây dựng và thực thi

phương án thu hồi nợ của từng khách hàng được thực hiện với kết quả tốt. Riêng

trong năm 2009, thu từ các khoản nợ đã xử lý bằng nguồn dự phòng là 1,8 tỷ

đồng.

MHB Hà Nội đó thực hiện nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tín

dụng của chi nhánh. Song song với việc tăng trưởng tín dụng, MHB Hà Nội đó

chú trọng áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng.

Theo chỉ đạo của Hội sở, từ năm 2008 chi nhánh thành lập thêm bốn phòng

nghiệp vụ: Phòng Hỗ trợ kinh doanh, Phòng Quản lý rủi ro, Phòng Nguồn vốn và

kinh doanh ngoại tệ và Phòng Thanh toán quốc tế. Công tác quản trị rủi ro tín

dụng của MHB Hà Nội được nâng lên một tầm cao mới thông qua việc triển khai

mô hình tín dụng mới theo tư vấn của Dự án Seco - Thuỵ Sĩ. Việc áp dụng mô

hình này nhằm mục đích vừa nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng (thông

qua việc hình thành Phòng quản lý rủi ro và Phòng Hỗ trợ kinh doanh) vừa chú

trọng mở rộng phát triển kinh doanh (thông qua Phòng Kinh doanh). Ngoài ra

MHB Hà Nội cũng đi đầu hệ thống trong việc sử dụng các công cụ quản trị hiện

đại như: xác định giới hạn tin dụng cho hầu hết khách hàng là doanh nghiệp;

quản trị lãi suất và quản trị thanh khoản nhằm đảm bảo tính hiệu quả và phát

triển bền vững trong hoạt động tín dụng; thực hiện chương trình quy chế hóa,

quy trình hóa nghiệp vụ cho vay, tăng cường tập huấn cho cán bộ tín dụng. Đồng

38

thời công tác kiểm tra kiểm soát tín dụng (thông qua Phòng Kiểm soát nội bộ)

được tiến hành thường xuyên tại chi nhánh và các Phòng giao dịch trực thuộc.

Dư nợ ngắn hạn tính đến 31/12/2009 đạt 468 tỷ VND, chiếm tỷ trọng 45%

trong tổng dư nợ. Nợ ngắn hạn sử dụng chủ yếu ưu tiên đáp ứng vốn cho sản

xuất, lưu thông, xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu (nhất là các loại

hàng mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được) như: lương thực, xăng dầu, xi

măng, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh, giấy... và cho mục đích tiêu

dùng.

Dư nợ cho vay trung dài hạn đến 31/12/2009 đạt 572 tỷ VND, chiếm 55%

tổng dư nợ, chủ yếu do giải ngân các dự án xây dựng nhà ở, văn phòng, khách

sạn cho thuê.

Bảng 2.3 : Dư nợ tín dụng của MHB Hà Nội (2006-2009)

Đơn vị: Tỷ đồng

2006

2007

2008

2009

Chỉ tiêu

Giá trị Giá trị

Giá trị

Giá trị

08/07 (%)

09/08 (%)

07/06 (%)

660

950

144%

1.040

109%

471

140%

Tổng dư nợ tín dụng

151

264

175%

418

158%

468

112%

Dư nợ ngắn hạn

32%

40%

44%

45%

Tỷ trọng

320

396

124%

532

134%

572

108%

Dư nợ trung và dài hạn

68%

60%

56%

55%

Tỷ trọng

5,1

4.2

82%

3,14

75%

2,98

95%

Nợ quá hạn

1,08%

0,64%

0,33%

0,29%

Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ

39

(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh MHB HN năm 2006-2009)

Có được những kết quả đó là do MHB HN đă thực hiện tốt quản lý tín

dụng và quản trị rủi ro trên cơ sở những ban hành mới và sửa đổi hàng loạt các

văn bản liên quan đến việc quản lý, kiểm soát rủi ro tín dụng từ Hội sở, ban

hành Quy định xác định giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng là doanh

nghiệp trong toàn hệ thống. Đồng thời thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ

cấu đầu tư theo hướng đối tượng khách hàng nhằm tạo thế ổn định lâu dài, 3

chương trình tín dụng bao gồm: “chương trình cho vay doanh nghiệp

vừa và nhỏ”, “chương trình cho vay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”,

“chương trình đẩy mạnh tín dụng thể nhân” đă đạt được những kết quả khả

quan.

Thông qua xây dựng giới hạn an toàn trong hoạt động tín dụng, cơ cấu tín

dụng đă có nhiều chuyển biến tích cực. Đồng thời, cùng với xu hướng phát triển

của nền kinh tế, sự phát triển của các thành phần kinh tế, MHB Hà Nội đă có sự

điều chỉnh về cơ cấu khách hàng tín dụng trong đó mở rộng khách hàng ngoài

quốc doanh, tư nhân cá thể. Ngoài ra, MHB Hà Nội đă có biện pháp thích hợp

nâng cao chất lượng tài sản bảo đảm, tăng tỷ trọng tín dụng có tài sản bảo đảm

ngày càng được coi trọng; đồng thời tích cực thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn và

nợ xấu để tạo nguồn phục vụ các lĩnh vực/khách hàng thuộc mục tiêu phát triển.

2.1.2.3. Thanh toán trong nước

Ngay từ khi thành lập MHB (1997) mục tiêu của Hội đồng quản trị và Ban

Tổng Giám đốc là đưa MHB trở thành một ngân hàng bán lẻ được khách hàng

lựa chọn hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng dành cho

khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp. MHB Hà Nội hiểu rất rõ vai

40

trò của mình trong việc thực hiện mục tiêu của Hội đồng quản trị và Ban Tổng

giám đốc.

Trong giai đoạn từ năm 2003 đến hết 2009, mặc dù dự án hiện đại hoá

ngân hàng chưa đi vào hoạt động, MHB Hà Nội vẫn sử dụng chương trình phần

mềm trên nền Foxpro do NHNN cung cấp từ khi thành lập Hội sở chính, tiện ích

chưa nhiều nếu không nói là lạc hậu so với các ngân hàng bạn, tuy nhiên với một

phong cách phục vụ nhiệt tình, chu đáo và có trách nhiệm của từng cá nhân trong

tập thể MHB Hà Nội, chi nhánh vẫn có một lượng khách hàng cá nhân và doanh

nghiệp chuyển tiền với doanh số ổn định và ngày một tăng nhanh. Mỗi giao dịch

chuyển tiền sau khi thực hiện đều được kiểm tra kết quả “Đă thành

công/Accepted” hay “Chưa thành công/Unaccepted”, nếu chưa thành công sẽ

được kiểm tra đẩy lệnh đi và liên hệ với Cục công nghệ ngân hàng Nhà Nước để

biết kết quả, nếu đă thành công, nhân viên chi nhánh sẽ gọi điện trực tiếp đến

đầu nhận tiền để thông báo trong thời gian ngắn nhất. Đây là cách làm thủ công

nhưng vẫn được khách hàng tín nhiệm và các thao tác đạt độ chính xác cao.

Cuối năm 2008, thẻ E-Cash của MHB ra đời đă gia tăng tiện ích cho

khách hàng như: trả lương với số lượng giao dịch không hạn chế và hệ thống bảo

mật xác thực, gửi tiết kiệm qua tài khoản thẻ, rút gốc và lăi tiết kiệm khi đến hạn

qua thẻ, chuyển tiền chuyển khoản qua thẻ, nộp tiền mặt vào tài khoản thẻ tại

máy ATM, quy định tiền mặt được rút tối đa 30 triệu VND/ngày và được rút tối

đa 3lần/ngày (cao nhất trong hệ thống máy ATM của Ngân hàng bạn)… Đến hết

năm 2009 đă có khoảng 55 tổ chức kinh tế sử dụng dịch vụ thanh toán lương, phí

tiền điện, điện thoại qua thẻ với số lượng giao dịch đạt trung bình 35.000 giao

41

dịch/năm, trị giá trung bình 56 tỷ đồng/năm. Số dư trên tài khoản thẻ trung bình

đạt 4 tỷ VND/ngày chính là nguồn tiền huy động lăi suất thấp của ngân hàng.

Để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, trong năm 2008, MHB đă

ban hành Bộ tiêu chuẩn chất lượng phục vụ khách hàng đối với thanh toán viên,

giao dịch viên và các điểm giao dịch; Chính sách Phí cho khách hàng thể nhân;

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động bán lẻ… Tổng số dư tài khoản tiền gửi

thanh toán của cá nhân và tổ chức năm 2009 đạt bình quân 40 tỷ đồng, tăng 1,6

lần so với cuối năm 2008.

Từ 01/02/2010, hệ thống MHB đă hoàn thành triển khai dự án hiện đại hóa

đến tất cả các chi nhánh trên toàn hệ thống và đi vào hoạt động chính thức, là

nền tảng quan trọng để hoạt động thanh toán trong nước khởi sắc, đẩy nhanh tốc

độ xử lý giao dịch, tạo khả năng phát triển các dịch vụ mới trong lĩnh vực thanh

toán.

2.1.2.4. Hoạt động thanh toán quốc tế.

MHB được thành lập năm 1997, so với các NHTM khác, tuổi đời của

MHB còn rất non trẻ, thương hiệu của MHB ra nước ngoài còn ít được biết đến.

Bên cạnh đó, MHB phải đương đầu với sức ộp cạnh tranh ngày càng gia tăng từ

cỏc ngõn hàng thương mại khỏc đồng thời chịu ảnh hưởng của những biến động

bất thường và phức tạp của kinh tế thế giới cũng như trong nước. Tuy nhiên,

MHB Hà Nội nhận thấy TTQT là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận không chỉ

đơn thuần là thu phí dịch vụ mà là cầu nối trong việc bán chéo sản phẩm, mở

rộng hệ thống khách hàng như: phát triển cho vay XNK, tăng số dư nguồn vốn

nhờ các khoản ký quỹ, các khoản tiền gửi thanh toán từ đó giảm lãi suất đầu vào,

tăng doanh số kinh doanh ngoại tệ… Chính vì những lý do này, MHB Hà Nội

42

xác định trong thời gian từ 2003 - 2006: chưa đặt yêu cầu về doanh sốTTQT mà

đặt yêu cầu về uy tín và chất lượng. Sau 3 năm, hoạt động TTQT của MHB Hà

Nội đã từng bước phát triển vững chắc tạo lòng tin và uy tín của mình bằng việc

thanh toán chính xác, đúng thời gian, đúng tiến độ và tuyệt đối an toàn. Từ năm

2007 đến nay, MHB Hà Nội đã mở rộng hoạt động về TTQT, có chính sách áp

dụng riêng đối với các Tổng công ty lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cỏc

mặt hàng xuất khẩu thanh toỏn qua MHB Hà Nội chủ yếu là hàng thủ công mỹ

nghệ, gạo, lâm sản và dệt may, trong khi cỏc mặt hàng nhập khẩu chớnh được

thanh toỏn qua MHB Hà Nội gồm: xăng dầu, sắt thộp, phõn bún, mỏy múc thiết

bị. Tỡnh hỡnh thực hiện dịch vụ thanh toỏn XNK của MHB Hà Nội được thể

hiện qua bảng sau:

Đơn vị: Triệu USD

Bảng 2.4 : Tỡnh hỡnh thực hiện dịch vụ thanh toán XNK của MHB Hà Nội

2007

2008

2009

Doanh số Thanh toán

Giỏ trị

Giỏ trị

Giỏ trị

Tỷ trọng với MHB (%)

5 45

Tỷ trọng với hệ thống MHB (%) 17 % 40 %

Tỷ trọng với MHB (%) 21 % 35 %

Xuất khẩu Nhập khẩu Tăng so với năm trước

8 56 10 65 22 % 38 %

31% 28% 17%

(Nguồn: Bỏo tổng hợp MHB HN)

Chuyển tiền kiều hối của MHB Hà Nội tăng dần qua các năm: từ doanh số

0,3 triệu USD năm 2004, đến năm 2009 đã đạt gần 10 triệu USD, tuy nhiên con

số này còn rất khiêm tốn so với các ngân hàng khác trên địa bàn HN.

Trong giao dịch thương mại quốc tế, hiệu quả của hợp đồng ngoại thương

phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế. Vì vậy, việc lựa chọn

43

Ngân hàng phục vụ tốt cho các giao dịch ngoại thương là rất quan trọng và có ý

nghĩa rất lớn. Năm 2009, MHB được bầu là “MHB Bank – Thương hiệu mạnh

Việt Nam” do tạp chí Người tiêu dùng bình chọn.

2.1.2.5. Kinh doanh ngoại tệ

Cũng như nghiệp vụ TTQT, KDNT đã được Ban lãnh đạo MHB Hà Nội

quan tâm và chú trọng phát triển. Thời gian đầu từ năm 2003 đến 2004, hoạt

động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ mua bán

ngoại tệ giao ngay để phục vụ khách hàng xuất nhập khẩu. Ngoại trừ đồng Đôla

Mỹ chi nhánh có thể mua bán trên liên hàng với số lượng hạn chế 1triệu USD/

ngày, các đồng ngoại tệ khác phải mua lại của Hội sở với số lượng vừa đủ cho

mục đích thanh toán của chi nhánh. Từ năm 2005 đến nay, MHB HN đã được

phép kinh doanh đa tệ và không bị hạn chế số lượng mua bán trên hợp đồng.

Chức năng của bộ phận kinh doanh ngoại tệ, ngoài việc quản lý trạng thái

ngoại tệ toàn chi nhánh (một chi nhánh và 16 điểm giao dịch) theo quy định của

Hội sở, chi nhánh Hà Nội là một trong năm chi nhánh của hệ thống MHB được

phép thực hiện giao dịch mua bán trên thị trường liên Ngân hàng, mua bán với

các tổ chức kinh tế, bộ phận kinh doanh ngoại tệ còn thực hiện chức năng kiểm

soát chi nhánh trong việc chấp hành văn bản chế độ quản lý ngoại hối của Ngân

hàng nhà nước Việt Nam cũng như các văn bản quy định về kinh doanh ngoại tệ

của hệ thống MHB. Bộ phận kinh doanh ngoại tệ còn đảm nhiệm việc quản lý và

đầu tư nguồn ngoại tệ nhàn rỗi một cách hiệu quả, đảm bảo thanh khoản cho toàn

chi nhánh đồng thời tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh đầu tư tiền gửi nhằm

tối đa hoá lợi nhuận cho chi nhánh.

Từ năm 2003 đến nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã đạt được một số

mục tiêu cơ bản qua các năm như sau:

44

Năm 2003 - 2004: Là năm đầu hoạt động của chi nhánh do vậy chưa đặt

mục tiêu lợi nhuận về kinh doanh ngoại tệ mà tập trung vào chuẩn hoá mô hình,

qui trình hoạt động, tập trung đào tạo nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt

động kinh doanh tiền tệ.

Năm 2005 - 2006: Chi nhánh đặt mục tiêu phát triển thị phần khách hàng,

đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển thương hiệu , tăng cường bán

chéo sản phẩm và đa dạng các hình thức mua bán ngoại tệ với khách hàng và

trên liên hàng. Trạng thái ngoại tệ của chi nhánh được tăng biên độ lên +/- 2 triệu

USD. Doanh số mua bán được tháo quy định 1tr USD/ngày, tiến tới doanh số

mua bán theo thoả thuận.

Năm 2007 - 2009: tiếp tục công tác đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đa

dạng hóa sản phẩm đi liền với mục tiêu tăng trưởng bền vững, an toàn, hiệu

quả.

Trong các năm qua, MHB HN đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ

kinh doanh ngoại tệ gồm: mua bán giao ngay (spot), mua bán ngoại tệ kỳ hạn

(forward), mua bán ngoại tệ hoán đổi (swap), thu đổi tiền mặt ngoại tệ với hầu

hết các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi trên thị trường quốc tế như

USD, EUR, JPY, GBP, CHF, AUD, SGD…

Hoạt động KDNT của MHB HN từ năm 2005 đến năm 2009 đã có những

bước tiến đáng kể. Điều này được thể hiện qua doanh số và lợi nhuận KDNT của

ngân hàng.

Bảng 2.5 : Kết quả hoạt động KDNT của MHB HN

Chỉ tiêu

2005

2006

2007

2008

2009

Doanh số mua (tr.USD)

18

21

34

47

65

45

Doanh số bán (tr.USD)

17,5

20,9

33,8

46,4

65,2

Lợi nhuận (tỷ VND)

1.8

2.5

4.5

8

16,3

(Nguồn: Báo cáo phòng NV&KHTH ngân hàng MHB)

Bảng 2.6 : Doanh số mua bán ngoại tệ của MHB Hà Nội so với một số chi

(đ.vị: triệu USD)

nhánh của NHTM khác trên địa bàn Hà Nội trong năm 2009

Vietinbank

Vietcombank

Techcombank

MHBHN

Hoàn Kiếm

Hà Nội

Hoàn Kiếm

DS mua

DS bán DS mua

DS bán DS mua

DS bán DS mua

DS bán

65

65,2

320

318

338

337,5

62

62

(Nguồn: tạp chí Trung tâm thông tín tín dụng số 4-1/2010-NHNNVN)

2.2. Chiến lược kinh doanh và các biện pháp quản trị rủi ro trong hoạt

động kinh doanh của hệ thống MHB

2.2.1. Chiến lược kinh doanh của MHB

Như đã đề cập trong nội dung trên, MHB ra đời và chính thức đi vào hoạt

động tháng 10/1997. Ngay từ khi thành lập, ban lãnh đạo MHB đã vạch ra kế

hoạch hoạt động cụ thể cho MHB trong từng giai đoạn định kỳ 5 năm với mục

tiêu xuyên suốt là “Chở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam”. Để từng

bước đạt được mục tiêu này, ban lãnh đạo MHB đã đưa ra chiến lược hoạt động

kinh doanh chung cho toàn hệ thống cụ thể như sau:

46

2.2.1.1. Chiến lược phát triển hoạt động huy động vốn

Hoạt động huy động vốn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hệ thống

ngân hàng, nó quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng. Hệ thống MHB đặt

chiến lược cho phát triển huy động vốn cụ thể như sau:

+ Huy động vốn từ thị trường dân cư. Đây là thị trường được đánh giá là

duy trì số dư bền vững và tăng trưởng ổn định đồng thời cũng là thị trường có sự

cạnh tranh khốc liệt về lãi suất giữa các ngân hàng. Phòng Nguồn vốn Hội sở

MHB chịu trách nhiệm liên tục đưa ra các sản phẩm mới đáp ứng cho các đối

tượng từ người già, phụ nữ, doanh nhân, sinh viên, lao động xuất khẩu… và mọi

loại hình tiết kiệm: lĩnh lãi trước hạn, lĩnh lãi theo quý, lĩnh lãi cuối kỳ, rút vốn

linh hoạt, lãi suất bậc thang, tiết kiệm người cao tuổi, tiết kiệm trả góp, tiết kiệm

qua thẻ ATM… với nhiều hình thức khuyến mại và quà tặng hấp dẫn. Mục tiêu:

đến cuối 2010 tỷ trọng huy động vốn từ thị trường dân cư đạt 50%/tổng nguồn

huy động.

+ Huy động vốn từ tổ chức kinh tế. Nếu huy động vốn từ thị trường dân cư

có số dư tăng trưởng bền vững nhưng lãi suất luôn rất cao để cạnh tranh với các

ngân hàng trên địa bàn thì huy động vốn từ tổ chức kinh tế luôn có lãi suất thấp

hơn do khách hàng để tiền không kỳ hạn, tiền gửi ký quỹ để thực hiện các sản

phẩm dịch vụ khác của ngân hàng: thanh toán quốc tế, chuyển tiền trong nước.

Việc huy động tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế cũng thường có lãi suất

thấp hơn so với dân cư do doanh nghiệp chọn gửi tiền vào ngân hàng nơi họ

đang có nhiều giao dịch chứ không quan tâm nhiều tới lãi suất. Nắm bắt được

tâm lý này của doanh nghiệp, MHB đặt mục tiêu số một là quan tâm đến nhu

cầu khách hàng doanh nghiệp và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Lấy

47

phương châm “Khách hàng là Thượng đế”, MHB đã tổ chức các khoá học về

chăm sóc khách hàng để phục vụ khách hàng chuyên nghiệp và tạo thương hiệu

MHB thông qua khách hàng doanh nghiệp.

+ Phòng Nguồn vốn Hội sở có trách nhiệm đưa ra chính sách vốn điều hòa

theo cơ chế thị trường để đảm bảo phát ra tín hiệu chính xác về chi phí vốn nhằm

xây dựng một cơ cấu huy động ổn định, đảm bảo thanh khoản và đảm bảo cân

đối nguồn vốn sử dụng trong toàn hệ thống đạt hiệu quả cao.

2.2.1.2. Chiến lược phát triển hoạt động tín dụng.

Để trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, ban lãnh đạo MHB đề ra

chiến lược phát triển tín dụng ưu tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc tăng trưởng

tín dụng luôn song song với tăng trưởng huy động vốn, đảm bảo chỉ sử dụng vốn

từ thị trường I để cho vay. Các chi nhánh trực thuộc MHB cần tập trung cơ cấu

lại khách hàng để đảm bảo tỷ lệ vốn tự lực theo quy định, củng cố chất lượng tín

dụng, chất lượng khách hàng, kiểm soát các khoản cho vay mới, tích cực xử lý

nợ xấu, trong đó ưu tiên phát triển các hoạt động dịch vụ để tăng nguồn thu và

nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Đối với các nguồn vốn từ các dự án tín

dụng quốc tế, việc cho vay phải tuân thủ quy định:

+ Chỉ sử dụng nguồn vốn huy động được từ thị trường I và nguồn vốn được

phân bổ từ các dự án tín dụng ADB, AFD, RDF, JBIC… để cho vay.

+ Chỉ được sử dụng 30%/ tổng nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung

hạn. Dư nợ tín dụng trung – dài hạn tối đa không vượt quá 40%/ tổng dư nợ tại

từng chi nhánh (trừ các khoản cho vay được Tổng Giám Đốc phê duyệt).

+ Mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống : bình quân tăng 30% so với

năm trước. Mỗi chi nhánh phải tự xây dựng tốc độ tăng trưởng hợp lý để đảm

48

bảo chủ động về nguồn vốn, về quản lý rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh.

Các chi nhánh phải lưu ý chỉ tiêu dư nợ bình quân/cán bộ tín dụng và số lượng

khách hàng vay/một cán bộ tín dụng

2.2.1.3. Chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế

Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế và thương mại quốc tế ngày càng

phát triển, hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM là một mắt xích không thể

thiếu trong toàn bộ dây chuyền thực hiện một hợp đồng ngoại thương. Định

hướng của MHB là đưa thương hiệu của MHB ra thị trường quốc tế. Hoạt động

thanh toán quốc tế phải là một yếu tố cơ bản trong việc mở rộng quy mô hoạt

động của ngân hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ là một hoạt động

đơn thuần mà phải là hoạt động hỗ trợ bổ sung cho các hoạt động kinh doanh

khác của ngân hàng, cụ thể: tài trợ thương mại, bảo lãnh nước ngoài, kinh doanh

ngoại tệ và các hoạt động ngân hàng quốc tế khác.

Yêu cầu cụ thể của Ban lãnh đạo MHB đối với hoạt động này như sau: mở

rộng và triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại tất cả các chi nhánh trong hệ

thống. Tổng doanh số thanh toán quốc tế phải đạt chỉ tiêu năm sau cao hơn năm

trước 40%, phí dịch vụ thanh toán quốc tế năm sau cao hơn năm trước 35%.

2.2.1.4. Chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Trên cơ sở chiến lược đă đề ra đối với hoạt động tín dụng và thanh toán

quốc tế, MHB xác định các định hướng nhằm phát triển hoạt động kinh doanh

ngoại tệ như sau:

Thứ nhất, không ngừng tăng doanh số và lợi nhuận trong hoạt động KDNT

trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu thanh toán, trả nợ vay…của khách hàng với tỷ

giá cạnh tranh đồng thời đẩy mạnh hoạt động tự doanh (đầu cơ) trong khuôn khổ

49

quy định đối với từng chi nhánh và tại phòng Kinh doanh ngoại tệ Hội sở.

Thứ hai, tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của NHNN và của

MHB, có chế tài xử phạt đối với những cá nhân/chi nhánh vi phạm.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh ngoại tệ theo

chuẩn quốc tế.

2.2.1.5. Chiến lược phát triển khách hàng.

Khách hàng được chia làm 3 nhóm chính: cá nhân, doanh nghiệp, định chế

tài chính.

Nhóm khách hàng cá nhân: MHB liên tục nghiên cứu và đưa ra các sản

phẩm huy động – cho vay – dịch vụ để thu hút đối tượng này. Nhóm khách hàng

cá nhân được đánh giá là nhóm khách hàng có yếu tố bền vững, có khả năng

quảng cáo thương hiệu MHB theo hướng lan truyền từ người này đến người kia

thông qua việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ. Chính sách chăm sóc khách hàng

theo tiêu chuẩn 10K được MHB áp dụng toàn hệ thống và áp dụng đột xuất

chương trình kiểm tra chất lượng phục vụ của nhân viên MHB như “khách hàng

bí mật”, “khách hàng là thượng đế”

Nhóm khách hàng doanh nghiệp: đây là nhóm khách hàng mang lại lợi

nhuận nhiều nhất cho MHB. Để thu hút nhóm khách hàng này, MHB đã và đang

đưa ra các gói sản phẩm với các mức độ ưu đãi từ thấp đến cao tuỳ thuộc vào

mức độ giao dịch của khách hàng. Giai đoạn 2007-2012, MHB đặc biệt chú

trọng phát triển khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm mục tiêu chia sẻ

rủi ro, tăng thu phí dịch vụ thông qua bán chéo sản phẩm và quảng bá thương

hiệu.

Nhóm khách hàng là các định chế tài chính: Nếu nhóm khách hàng cá nhân

50

và doanh nghiệp được coi là khách hàng “bán lẻ” thì khách hàng là định chế tài

chính được coi là khách hàng “bán buôn”. MHB định hướng phát triển khách

hàng này thông qua 2 hình thức: tăng số lượng các định chế tài chính để giao

dịch và tăng hạn mức giao dịch với các định chế tài chính. Trong giai đoạn này,

MHB chủ chương tăng hạn mức giao dịch lên tối đa 2000 tỷ/1 NHTMQD, tối đa

500 tỷ/1 NHTMCP và không có chủ chương phát triển khách hàng là các Công

ty Tài chính.

2.2.2. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của

MHB

Với mục tiêu “phát triển” đi đôi với “an toàn – bền vững”, MHB đồng

thời đưa ra các biện pháp để quản trị rủi ro ngân hàng.

2.2.2.1.Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất.

Rủi ro lãi suất phát sinh khi có chênh lệch về kỳ hạn tái định giá giữa tài

sản nợ và tài sản có. MHB quản lý rủi ro lãi suất theo nguyên tắc cẩn trọng. Hội

đồng ALCO sử dụng nhiều công cụ để giám sát và quản lý rủi ro lãi suất bao

gồm: biểu đồ lệch kỳ hạn tái định giá (repricing gap); kỳ hạn của tài sản nợ và tài

sản có (duration); hệ số nhạy cảm (factor sensitivity). Báo cáo về các nội dung

trên do Phòng Quản lý rủi ro Hội sở lập định kỳ hàng ngày, hàng tuần và hàng

tháng cho từng loại tiền. Các báo cáo luôn kèm các nhận định về diễn biến, xu

hướng của lãi suất trên thị trường, qua đó Ban Lãnh Đạo MHB sẽ quyết định duy

trì các mức chênh lệch thích hợp để định hướng các hoạt động của Ngân hàng.

2.2.2.2.Biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái liên tục có biến động, do vậy việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá

51

hối đoái được Ban Lãnh đạo đặc biệt quan tâm. Biện pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, biện pháp phòng ngừa trong hoạt động nội bảng. MHB quy

định Phòng Nguồn vốn Hội sở là nơi nhận vốn điều hoà từ các chi nhánh có dư

nguồn huy động ngoại tệ sau khi cho vay và điều hoà vốn cho chi nhánh thiếu

nguồn. Hàng ngày, Phòng Nguồn vốn có trách nhiệm báo cáo lên hội đồng

ALCO về hoạt động huy động và cho vay ngoại tệ, các khoản huy động và cho

vay chênh lệch kỳ hạn và dự báo xu hướng diễn biến tỷ giá ngoại tệ trong ngắn

và dài hạn. Trường hợp có sự mất cân đối giữa nguồn huy động và vốn cho vay,

Tổng Giám Đốc sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc đưa ra biện pháp nhằm

cân bằng tổng tài sản nợ bằng ngoại tệ và tổng tài sản có bằng ngoại tệ.

Thứ hai, biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng. Vào 8h30 sáng các

ngày làm việc, Phòng Quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại niêm yết tỷ giá

các loại ngoại tệ mà MHB sử dụng lên trang Web ngân hàng. Các chi nhánh

được phép thay đổi tỷ giá niêm yết tại chi nhánh mình trên nguyên tắc kinh

doanh có lãi. Trường hợp có giao dịch mua hoặc bán với số lượng vượt mức cho

phép hoặc tỷ giá ra ngoài khung quy định, các chi nhánh phải xin ý kiến chấp

thuận từ Hội sở trước khi giao dịch.

MHB sử dụng công cụ là các văn bản quy định giới hạn hoạt động về mua

bán ngoại tệ của chi nhánh. Tuỳ thuộc vào đặc thù về vị trí địa lý, trình độ cán bộ

nghiệp vụ, trình độ quản lý của từng chi nhánh, Tổng giám đốc giao hạn mức

giao dịch/1 hợp đồng mua bán, số lần mua bán /1 ngày làm việc đối với mua bán

ngoại tệ trên liên hàng. Các chi nhánh chỉ được áp dụng biện pháp phòng ngừa

rủi ro tỷ giá bằng hợp đồng ngoại hối giao ngay ngoại trừ Phòng Kinh doanh

ngoại tệ Hội sở, MHB HN và MHB Sài Gòn được áp dụng các biện pháp phòng

ngừa khác : hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng

52

ngoại hối quyền chọn. MHB HN và MHB Sài Gòn tuy không bị hạn chế về trạng

thái ngoại tệ nhưng mọi giao dịch phái sinh đều phải trình xin ý kiến và bảo vệ

thành công quan điểm trước khi thực hiện, trạng thái ngoại tệ vượt mức +/- 1

triệu USD (hoặc ngoại tệ khác tương đương) đều phải giải trình và được Tổng

Giám đốc duyệt thuận.

MHB luôn bám sát các chỉ đạo điều hành của NHNN để mua ngoại tệ của

NHNN theo tỷ giá hợp lý đối với nhóm mặt hàng then chốt được NHNN ưu tiên

hỗ trợ giá.

Hàng ngày, Phòng Kinh doanh ngoại tệ phải báo cáo lên hội đồng ALCO

và NHNN trạng thái ngoại tệ toàn hệ thống, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định

hiện hành của NHNN, không được âm hoác dương quá 30% vốn tự có của

MHB.

2.2.2.3.Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng.

Thứ nhất, biện pháp phòng ngừa rủi ro từ môi trường. Rủi ro này xuất

phát từ những thay đổi đột biến của tình hình kinh tế - chính trị – xã hội trong và

ngoài nước làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của đơn vị, nó

năm ngoài dự kiến của đơn vị cũng như ngân hàng. Biện pháp phòng ngừa đối

với loại rủi ro này cụ thể như sau: MHB tổ chức họp giao ban toàn hệ thống định

kỳ 1 quý/1 lần để đánh giá hiệu quả kinh doanh từng chi nhánh; Lấy ý kiến đóng

góp của các lãnh đạo chi nhánh về quan điểm cho vay trong giai đoạn hiện tại và

tương lai; Ban tổng giám đốc phân tích đưa ra chủ trương cho vay đối với từng

nhóm ngành hàng và cơ chế cho vay để xin ý kiến từ lãnh đạo chi nhánh. Lãnh

đạo MHB thường xuyên tham dự các buổi họp với NHNN, Bộ Tài Chính, Bộ

53

Tài nguyên môi trường... để nắm bắt xu thế phát triển kinh tế trong hiện tại và

tương lai. VD: MHB đã chủ trương không cho vay trong lĩnh vực đóng tầu trong

giai đoạn này.

Thứ hai, biện pháp phòng ngừa rủi ro khách quan. Rủi ro này xuất phát

khi khách hàng vi phạm các điều kiện của hợp đồng tín dụng, khách hàng bị mất

khả năng thanh toán hoặc khách hàng cố ý lừa đảo chiếm dụng vốn ngân hàng...

Để hạn chế rủi ro này, MHB Hội sở đã tiến hành lập một chương trình phần

mềm chấm điểm khách hàng và xếp loại khách hàng theo mức độ rủi ro từ thấp

đến cao từ đó có cơ chế cấp tín dụng phù hợp. MHB quy định tìm hiểu thông tin

khách hàng qua CIC (trung tâm thông tin tín dụng NHNN) và CIH (trung tâm

thông tin tín dụng MHB) trước khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, lưu hồ sơ

bản trả lời thông tin từ CIC và CIH. Công tác đào tạo kỹ năng thẩm định hồ sơ

vay vốn được Hội sở lên kế hoạch từ đầu năm và được tổ chức định kỳ hàng

năm, giáo viên giảng dạy đều được mời từ các trường đại học lớn hoặc các trung

tâm chuyên đào tạo nghiệp vụ ngân hàng.

Thứ ba, biện pháp phòng ngừa rủi ro chủ quan. Rủi ro này xuất phát từ

trình độ non kém về nghiệp vụ của cán bộ tín dụng; Từ việc áp dụng chính sách

tín dụng kém hiệu quả; Từ đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng... Để giảm

thiểu rủi ro này, ngay từ đầu năm 2008 Ban Lãnh Đạo MHB đã chia phòng tín

dụng tại Hội sở và các chi nhánh thành 3 phòng:

+ Phòng Kinh doanh có trách nhiệm tìm kiếm khách hàng, nhận hồ sơ vay

từ khách hàng, làm tờ trình thẩm định phương án kinh doanh và tài sản đảm bảo

của khách hàng và đề xuất cho vay trình qua phòng Quản lý rủi ro.

+ Phòng Quản lý rủi ro chịu trách nhiệm kiểm soát lại hồ sơ vay, tái thẩm

định độc lập với Phòng Kinh doanh, lập tờ trình thẩm định hồ sơ vay và tài sản

54

đảm bảo lên Giám đốc đồng thời với tờ trình của Phòng Kinh doanh. Giám đốc

nghiên cứu hồ sơ vay, nếu số tiền cho vay dưới mức phải họp Hội đồng tín dụng,

giám đốc xem xét và trả lời cho Phòng Quản lý rủi ro, nếu hồ sơ vay thuộc thẩm

quyền quyết định của Hội đồng tín dụng chi nhánh sẽ phải thông qua Hội đồng

tín dụng lấy ý kiến, tuy nhiên quyết định của Giám đốc là quyết định cuối cùng.

Trường hợp số tiền vay vượt hạn mức tại chi nhánh, phòng Quản lý rủi ro gửi hồ

sơ về phòng Quản lý rủi ro Hội sở để tiếp tục xin ý kiến của Tổng giám đốc

thông qua Hội đồng tín dụng Hội sở.

+ Phòng Hỗ trợ kinh doanh nhận lại hồ sơ vay từ Phòng Quản lý rủi ro sau

khi đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, tiến hành giải ngân cho khách

hàng và hạch toán ngoại bảng tài sản bảo đảm (nếu có). Hàng ngày, phòng có

trách nhiệm đôn đốc thu hồi vốn, lãi các khế ước vay đến hạn và thông báo lập

tức cho phòng Kinh doanh các trường hợp khách hàng chậm trả để Phòng Kinh

doanh chịu trách nhiệm nhắc khách hàng trả nợ đúng hạn.

MHB dùng công cụ là các văn bản quy định về tín dụng trong từng thời kỳ

phù hợp với sự phát triển kinh tế trong nước và nước ngoài.

2.2.2.4. Biện pháp phòng ngừa rủi ro thanh khoản

Nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro thanh khoản xuất phát từ đặc điểm mang

tính đặc thù của bảng cân đối tài sản là: ngân hàng đã dùng các nguồn vốn ngắn

hạn bên tài sản nợ để tài trợ cho các dự án dài hạn bên tài sản có hoặc người gửi

tiền đồng loạt rút tiền ngay lập tức khỏi ngân hàng đồng thời hoạt động rút tiền

này lại có tính lây lan, phản ứng dây truyền nhanh chóng và rộng khắp vì một

thông tin nào đó liên quan đến ngân hàng.

Ban lãnh đạo MHB xác định: vấn đề thanh khoản là vấn đề thường nhật,

cho nên một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Ban lãnh đạo là

55

đảm bảo khả năng thanh khoản một các thường xuyên, liên tục và đầy đủ. Kể từ

khi thành lập và đi vào hoạt động, MHB luôn đảm bảo duy trì khả năng thanh

khoản rất tốt. Hội đồng ALCO, Ban Tài chính – Kế toán, Phòng Quản lý rủi ro

tuỳ theo phân cấp có trách nhiệm đưa ra những đánh giá định tính, định lượng

thanh khoản, xây dựng khung quản lý rủi ro thanh khoản và giám sát rủi ro thanh

khoản. Quản lý rủi ro thanh khoản tại MHB phải đảm bảo tuân thủ các nguyên

tắc cụ thể sau:

+ Tuân thủ nghiêm các quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn và thanh khoản

trong hoạt động ngân hàng.

+ Duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản có thể thanh toán ngay và các

tài sản nợ sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian một tháng tiếp theo.

+ Duy trì tỷ lệ tối thiểu bằng một (1) giữa tổng tài sản có thể thanh toán ngay

trong thời gian bẩy (7) ngày làm việc và tổng tài sản nợ phải thanh toán trong

khoảng thời gian bẩy (7) ngày làm việc tiếp theo.

+ Tuân thủ các hạn mức thanh khoản quy định trong chính sách quản lý rủi ro

thanh khoản do hội đồng ALCO quy định.

+ Tổng hợp và phân tích động thái của khách hàng gửi tiền, xây dựng kế hoạch

sử dụng vốn cho hoạt động tín dụng và các hoạt động có rủi ro vốn.

MHB cũng thiết lập các định mức thanh khoản như là một công cụ dự

phòng tài chính để ứng phó với các đột biến về thanh khoản. Căn cứ khả năng

thanh toán ngay và khả năng chuyển đổi thành thanh toán ngay, định mức thanh

khoản chia làm bốn (4) cấp độ từ thấp đến cao. Trong mỗi cấp độ sẽ quy định rõ

các loại thanh khoản. Kế hoạch thanh khoản dự phòng được thể hiện bằng văn

56

bản và được Hội đồng ALCO xem xét cặp nhật hàng tháng.

Từ 01/02/2010, hệ thống MHB đã chính thức áp dụng chương trình phần

mềm ứng dụng mới hiện đại hơn giúp các nhà quản lý có được số liệu về hoạt

động ngân hàng nhanh và chính xác để có quyết định đúng đắn trong công tác an

toàn thanh khoản.

2.2.2.5. Biện pháp phòng ngừa rủi ro hoạt động ngoại bảng.

Hoạt động ngoại bảng của MHB chủ yếu bao gồm các khoản cam kết cho

vay, các khoản bảo lãnh và các cam kết giao dịch ngoại hối như mua bán kỳ hạn,

mua bán quyền chọn. Nhìn chung, tỷ trọng các cam kết giao dịch ngoại hối

chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong bảng cân đối ngoại bảng của MHB. MHB thực hiện

chính sách bảo lãnh thận trọng, phần lớn các khoản bảo lãnh đều có tài sản thế

chấp. Rủi ro hoạt động ngoại bảng xảy ra khi giá trị tài sản bảo lãnh bị giảm giá

xuống mức thấp hơn giá trị khoản cho vay, khoản bảo lãnh. Để phòng ngừa rủi

ro này, MHB áp dụng các biện pháp sau:

+ Hội đồng tín dụng quyết định các hạn mức cho vay, hạn mức bảo lãnh cho cá

nhân và doanh nghiệp trên cơ sở thẩm định chặt chẽ, tuân thủ đúng quy trình của

MHB.

+ Trước khi giải ngân/ phát hành thư bảo lãnh, khách hàng phải cam kết bổ sung

tài sản khác nếu tài sản dùng để cầm cố, thế chấp bị giảm giá trị hoặc cam kết

nộp tiền để giảm dư nợ vay, giảm số tiền bảo lãnh để tương ứng với giá trị tài

sản đảm bảo.

+ Định kỳ 1 năm một lần đối với hồ sơ vay/bảo lãnh trung dài hạn (thời gian

vay/bảo lãnh trên 12 tháng), định kỳ 6 tháng một lần đối với hồ sơ vay/bảo lãnh

ngắn hạn, Phòng Kinh doanh kết hợp với phòng Quản lý rủi ro tại từng đơn vị

MHB tiến hành định giá lại tài sản đảm bảo, lưu Biên bản định giá lại tài sản

57

đảm bảo trong hồ sơ vay/bảo lãnh.

2.2.2.6. Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro khác.

Rủi ro khác bao gồm rủi ro công nghệ, rủi ro khi tác nghiệp là những tổn

thất phát sinh do chương trình phần mềm ứng dụng bị lỗi, do con người không

tuân thủ đúng quy trình, quy định nội bộ, thao tác xử lý nhầm lẫn trên máy hoặc

do con người cố ý làm trái quy định... gây sai sót số liệu hoặc làm mất vốn ngân

hàng. Để quản lý loại rủi ro này, MHB áp dụng các biện pháp sau:

+ Thiết lập quy trình cho từng khâu, từng phòng ban nghiệp vụ yêu cầu phải tuân

thủ: quy trình huy động vốn, tín dụng, bảo lãnh, thanh toán quốc tế, kinh doanh

ngoại tệ, kế toán, ngân quỹ, tuyển dụng, bảo vệ...

+ Quy định phân công, phân quyền, hạn mức kinh doanh cho từng bộ phận.

+ Đào tạo và đào tạo lại để không ngừng nâng cao trình độ nhân viên.

+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ.

+ Hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin. Nâng cao tính bảo mật và an toàn

dữ liệu. Xây dựng hệ thống lưu trữ dự phòng số liệu liên tục.

+ Trích lập kịp thời quỹ dự phòng rủi ro.

+ Mua bảo hiểm cho tài sản và nhân viên MHB.

+ Tổng hợp, phân tích về các loại rủi ro trong vận hành để rút ra bài học phòng

ngừa. Xây dựng hệ thống các dữ liệu rủi ro trong vận hành để phục vụ công tác

quản lý rủi ro.

2.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB Hà Nội

Song song với các hoạt động ngân hàng là những rủi ro tiềm ẩn đi kèm:

rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro trong các phương thức

thanh toán quốc tế, rủi ro ngoại hối… Các ngân hàng bên cạnh việc không ngừng

đẩy mạnh các loại hình nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu ngày một cao của xã hội

58

hiện đại cũng liên tục nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm quản trị rủi ro

ngân hàng. Trong phần này, tác giả xin trình bày các giải pháp phòng ngừa rủi ro

tỷ giá đang được áp dụng tại MHB Hà Nội.

2.3.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro nội bảng

Như đã phân tích ở trên, nguồn làm phát sinh rủi ro ngoại hối nội bảng

xuất phát từ sự không cân xứng về TSN và TSC đồng ngoại tệ trong bảng cân

đối tài sản của ngân hàng tại bất kỳ thời điểm nào.

Tài sản có bằng ngoại tệ tại MHB HN bao gồm: các khoản cho vay bằng

ngoại tệ; tiền gửi bằng ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng khác; tiền mặt bằng

ngoại tệ… Tài sản nợ bằng ngoại tệ bao gồm: chứng chỉ tiền gửi ghi bằng ngoại

tệ do ngân hàng phát hành; tiền gửi bằng ngoại tệ từ các cá nhân, tổ chức kinh tế,

tổ chức tín dụng; các khoản vay từ tổ chức tín dụng khác bằng ngoại tệ; các hình

thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ… Để hạn chế và kiểm soát được sự không

cân xứng này, MHB HN đã tuân thủ những quy định, quy chế của hệ thống

MHB, cụ thể như sau:

Thứ nhất, các nguồn tiền ngoại tệ chi nhánh huy động được đều điều hoà

vốn cho Hội sở và được hưởng lãi suất điều hoà vốn do MHB quy định từng thời

kỳ phù hợp với lãi suất thị trường và đảm bảo có lãi.

Thứ hai, khi chi nhánh cho vay đồng ngoại tệ phải có sự chấp thuận của

Hội sở để nhận vốn điều hoà theo số lượng và kỳ hạn tương ứng. Lãi suất nhận

vốn điều hoà do MHB quy định trong từng thời kỳ và luôn thấp hơn lãi suất chi

nhánh cho vay.

Thứ ba, trong trường hợp chi nhánh Hà Nội tự cân đối nguồn tiền ngoại tệ

để giải ngân, chi nhánh phải huy động được nguồn vốn từ bên ngoài qua thị

trường liên ngân hàng, hoặc từ tổ chức kinh tế hay cá nhân với số lượng và kỳ

59

hạn tương ứng và phải được sự chấp thuận của Hội sở bằng văn bản.

Thứ tư, chi nhánh Hà Nội luôn tuân thủ theo mô hình tổ chức được quy

định bởi Hội sở.

Phòng Nguồn vốn (bao gồm các hoạt động về huy động vốn nội tệ, ngoại

tệ và kinh doanh ngoại tệ) chịu trách nhiệm lên kế hoạch, chương trình huy động

vốn, mở rộng các mối quan hệ tiếp thị khách hàng để tăng nguồn huy động bao

gồm cả nội tệ và ngoại tệ. Trưởng phòng Nguồn vốn chịu trách nhiệm trước

Giám đốc về việc điều vốn đi, điều vốn đến để đảm bảo khả năng thanh khoản

của chi nhánh đồng thời tận dụng tối đa các nguồn vốn huy động vào mục đích

cho vay hoặc gửi vốn điều hoà không để dư thừa trong tài khoản của chi nhánh

để tối đa lợi nhuận. Trưởng phòng Nguồn vốn phải tuân thủ chặt chẽ các quy

định của Hội sở về việc lập tờ trình xin ý kiến chỉ đạo của Tổng giám đốc khi

huy động vốn và gửi vốn cho các tổ chức tín dụng khác, hoặc khi số tiền huy

động lớn vượt quá giới hạn cho phép của chi nhánh trong từng thời kỳ.

Phòng Kinh doanh chịu trách nhiệm lên kế hoạch cho vay, đề xuất các sản

phẩm cho vay để đa dạng các đối tượng khách hàng và hoàn thành kế hoạch dư

nợ. Trưởng phòng Kinh doanh phải chịu trách nhiệm trước ban Giám đốc về tính

chính xác, tính minh bạch của các hồ sơ xin vay và tuân thủ quy trình tín dụng để

giảm thiểu các rủi ro có thể xẩy ra. Trường hợp hồ sơ vay vượt hạn mức phán

quyết của chi nhánh, phải trình lên Hội sở xin chấp thuận trước khi cho vay. Hồ

sơ sau khi đã được duyệt cho vay của Giám đốc phải được nhập đầy đủ vào máy

tính trước khi chuyển phòng Hỗ trợ kinh doanh làm thủ tục giải ngân. Sau khi

cho vay, phòng Kinh doanh phải có trách nhiệm kiểm tra khách hàng định kỳ và

60

đột xuất các hoạt động kinh doanh của khách hàng, lập Biên bản kiểm tra sau khi

vay theo định kỳ, thường xuyên đôn đốc khách hàng nộp vốn và lãi khi đến hạn,

không để xẩy ra việc chuyển hồ sơ vay sang nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép

theo quy định của NHNN.

Phối hợp cùng phòng Kinh doanh để hoàn tất hồ sơ vay còn có Phòng

Quản lý rủi ro. Phòng Quản lý rủi ro có trách nhiệm kiểm soát lại toàn bộ hồ sơ

vay, chỉ ra những kẽ hở của phương án kinh doanh, thẩm định lại hồ sơ vay,

thẩm định lại giá trị tài sản đảm bảo và trình lên Ban Giám đốc tờ trình độc lập

với tờ trình của Phòng Kinh doanh về việc có đồng ý cho vay hay không cho vay

và đưa ra các rủi ro tiềm ẩn có thể xẩy ra đối với hồ sơ cho vay.

Phòng Hỗ trợ kinh doanh có chức năng phối hợp với phòng Kinh doanh rà

soát lại toàn bộ hồ sơ vay đã đầy đủ và hợp lệ như trong tờ trình xin vay hay

chưa, kiểm tra mẫu dấu chữ ký của người đứng vay có khớp nhau giữa các hồ sơ

vay, tiến hành nhập số liệu giải ngân vào máy tính. Phòng Hỗ trợ kinh doanh

hàng ngày có nhiệm vụ thông báo với phòng Kinh doanh những khách hàng

chậm trả vốn, lãi đến hạn và làm các báo cáo về công tác tín dụng theo yêu cầu

của chi nhánh, Hội sở, NHNN và các ban ngành liên quan.

Phòng Kế toán là nơi xử lý những giao dịch phát sinh từ nghiệp vụ của

phòng Nguồn vốn và kinh doanh ngoại tệ, Phòng Kinh doanh, phòng Thanh toán

quốc tế... Có trách nhiệm kiểm tra lại hồ sơ của các phòng chuyển xuống trước

khi thực hiện chuyển tiền chuyển khoản theo yêu cầu của phòng nghiệp vụ, giải

ngân tiền mặt cho khách hàng vay vốn… Phòng Kế toán còn có trách nhiệm

kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của việc chuyển tiền (nội tệ và ngoại tệ) đảm bảo

tuân thủ các quy định quy chế của MHB và NHNN.

Phòng Kiểm tra nội bộ có chức năng kiểm soát sau toàn bộ các hoạt động

61

của chi nhánh, kiểm tra việc tính đúng, tính đủ đối với các hồ sơ vay, hồ sơ gửi

tiền và nhận tiền, chi trả tiết kiệm, thu chi các loại phí dịch vụ, nộp thuế theo

luật định … Phòng sẽ có tờ trình lên ban Giám đốc định kỳ hàng Quý tình hình

tuân thủ quy định, quy chế của các phòng, các sai phạm nếu có, cách khắc phục

tháo gỡ khó khăn các phòng đang vướng mắc và làm việc với các đoàn thanh

kiểm tra khi có chương trình.

Với mô hình tổ chức của MHB Hà Nội, các phòng của chi nhánh đều là

một mắt xích trong một vòng tròn xích, có tác dụng kiểm soát các hoạt động của

nhau và giảm thiểu các rủi ro trong đó có rủi ro tỷ giá.

Đặc điểm nổi bật của MHB HN trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá nội

bảng so với các chi nhánh ngân hàng thuộc hệ thống khác ở chỗ: MHB HN có

phòng Nguồn vốn chuyên theo dõi biến động tài sản nợ tài sản có của chi nhánh

và báo cáo số liệu hàng ngày cho ban Giám đốc. Trường hợp đặc biệt, phòng

Nguồn vốn được chỉ đạo từ Tổng Giám Đốc cho phép lấy nguồn ngoại tệ từ thị

trường II để giải ngân vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của doanh

nghiệp và đảm bảo chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra theo quy định. Các chi

nhánh ngân hàng hệ thống khác không có phòng Nguồn vốn. Bộ phận nguồn vốn

trực thuộc phòng Tài chính – kế toán, chỉ thực hiện việc lấy nguồn từ Hội sở khi

phát sinh cho vay, hạn chế tính năng động, nhậy bén đối với biến động tiền tệ

của thị trường. Ví dụ: ngân hàng á Châu, bộ phận nguồn vốn của các chi nhánh

trực thuộc bộ phận ngân quỹ trong Phòng Kế toán. Ngân hàng Sài Gòn Thương

Tín bộ phận nguồn vốn của chi nhánh thuộc phòng Kế toán. Ngân hàng Nông

nghiệp, bộ phận nguồn vốn của chi nhánh thuộc phòng Kinh doanh.

2.3.2. Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại bảng

Như đã đề cập tại chương I, rủi ro ngoại bảng xuất phát từ việc để trạng

62

thái ngoại tệ mở (trạng thái dương hoặc âm) qua việc mua bán ngoại tệ. Nắm bắt

được vấn đề này, hội sở MHB đã sử dụng nhiều công cụ chỉ đạo các chi nhánh

được phép kinh doanh ngoại tệ phải áp dụng, cụ thể:

Thứ nhất, công cụ là các văn bản pháp lý do MHB ban hành:

Quyết định số 01/2002/QD-NHN ngày 09/01/2002 do Tổng Giám Đốc

ban hành v/v: “Ban hành các quy định về giao dịch hối đoái.”

Công văn số 26/CV-NHN-QHQT ngày 28/04/2004 do Tổng Giám Đốc

ban hành v/v: “ủy quyền chi nhánh Hà Nội thực hiện một số nghiệp vụ kinh

doanh đối ngoại”

Công văn số 819A/CV-NHN-QHQT ngày 21/12/2004 do Tổng Giám Đốc

ban hành v/v: “Cho phép chi nhánh Hà Nội thực hiện mua bán ngoại tệ chuyển

khoản giao ngay với đồng Nhân dân tệ (CNY) để chuyển tiền biên mậu”

Công văn số 521/CV-NHN-QHQT ngày 14/07/2005 do Tổng Giám Đốc

ban hành v/v: “Cho phép MHB HN kinh doanh ngoại tệ thị trường trong nước

đối với tất cả các loại ngoại tệ đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép tự do

chuyển đổi”

Công văn số 270/CV-NHN-NV ngày 30/03/2006 do Tổng Giám Đốc ban

hành v/v: “Chấp thuận cho MHB HN được vượt trạng thái ngoại tệ đã quy định”

Quyết định số 22A/QĐ-NHN ngày 31/05/2006 do Tổng Giám Đốc ban

hành v/v: “Quy định về quy trình nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trong hệ thống

NHPTN ĐBSCL”

Công văn số 576/NHN-QHQT ngày 14/07/2006 do Tổng Giám Đốc ban

hành v/v: “ủy quyền cho 5 chi nhánh được mua bán ngoại tệ trên thị trường liên

ngân hàng theo quy chế tổ chức và hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân

63

hàng” (trong đó có MHB HN)

Công văn số 740A ngày 05/05/2008 do Tổng Giám Đốc ban hành v/v:

“Cho phép không giới hạn hạn mức mua bán ngoại tệ đối với các giao dịch kỳ

hạn và cho phép vượt trạng thái ngoại tệ đối với Chi nhánh Hà Nội”

Thông báo số 1900/NHN-NV ngày 05/11/2009 do Tổng Giám Đốc ban

hành v/v: “Phân cấp ủy quyền phê duyệt hồ sơ mua bán ngoại tệ trong hệ thống

ngân hàng MHB”

Thứ hai, Mua bán ngoại tệ giao ngay, tuân thủ theo quy định của Hội sở.

Bộ phận kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh trực thuộc phòng Nguồn vốn và Kinh

doanh ngoại tệ. Việc tạo trạng thái ngoại tệ mở bắt nguồn từ các giao dịch của bộ

phận Kinh doanh ngoại tệ, bao gồm:

+ Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện và thanh toán các

hợp đồng ngoại thương.

+ Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm thực hiện đầu tư nước ngoài

trực tiếp và gián tiếp.

+ Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân hàng nhằm

cân bằng trạng thái ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

+ Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá biến

động.

Hệ thống MHB thực hiện quản lý vốn tập trung. Hội sở chính làm đầu mối

quản lý điều hoà mua bán ngoại tệ trong toàn hệ thống và trong quan hệ mua bán

ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở trạng thái ngoại tệ và tình hình hoạt

động của tài khoản mua bán VND/USD toàn ngành. Tuy nhiên, chi nhánh Hà

Nội do đặc thù có trụ sở nằm tại Thủ đô là trung tâm văn hoá – kinh tế- chính trị

- xã hội của cả nước nên ngoài việc mua bán ngoại tệ với Hội sở còn được phép

64

mua trên thị trường liên hàng sau khi trình vào Hội sở và được sự chấp thuận

trước qua điện thoại, sau đó trình bằng văn bản từng lần. Việc mua bán của chi

nhánh trên liên hàng dựa trên nguyên tắc:

+ Giá bán ngoại tệ của Hội sở cao hơn giá bán của tổ chức tín dụng khác,

chi nhánh không cạnh tranh được với các Ngân hàng khác trong việc thu hút

khách hàng.

+ Số lượng cần mua của Hà Nội quá lớn Hội sở không đủ nguồn để bán.

+ Chi nhánh Hà Nội đã có đầu mua vào và đầu bán ra số lượng khớp nhau,

chi nhánh chỉ kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá.

Cán bộ kinh doanh ngoại tệ của MHB Hà Nôị (trực thuộc phòng Nguồn

vốn) có trách nhiệm theo dõi trạng thái ngoại tệ của chi nhánh và thông báo hàng

ngày cho trưởng phòng để đảm bảo trạng thái ngoại tệ nằm trong phạm vi an

toàn (trạng thái quanh mức 0+/- 1 triệu USD).

Thứ ba, sử dụng các sản phẩm mua bán ngoại tệ phái sinh.

MHB HN sử dụng hợp đồng kỳ hạn trong hai trường hợp:

+ Khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu mua kỳ hạn ngoại tệ thực hiện

TTQT. MHB HN sẽ chủ động tìm mua ngoại tệ kỳ hạn trên thị trường liên hàng

để bán cho khách hàng. Hình thức mua bán này đôi khi không có lợi nhuận do

giá mua và giá bán bằng nhau theo phương pháp tính tỷ giá kỳ hạn do NHNN

quy định. Tuy nhiên, hình thức này không có rủi ro tỷ giá đối với MHB HN.

+ MHB HN tự doanh trên thị trường liên hàng. Hàng ngày, bộ phận kinh

doanh ngoại tệ có trách nhiệm theo dõi biến động tỷ giá trên thế giới và trên thị

trường liên hàng để đặt giá mua, giá bán kỳ hạn cho các đối tác là tổ chức tín

dụng. Doanh số mua bán kỳ hạn trên thị trường liên hàng tại MHB HN còn rất

hạn chế, mục đích chính của việc đặt giá mua, giá bán kỳ hạn chủ yếu là đưa

65

thương hiệu và các sản phẩm dịch vụ MHB đến với các NHTM

Hợp đồng hoán đổi được MHB HN sử dụng trong các trường hợp sau:

+ MHB HN được Hội sở chấp thuận cho sử dụng một lượng vốn huy động

ngoại tệ (USD) để hoán đổi sang VND kinh doanh chênh lệch lãi suất trong một

kỳ hạn nhất định (tối đa 6 tháng).

+ MHB HN được Hội sở chấp thuận cho tự doanh trên cơ sở tờ trình phân

tích biến động tỷ giá USD trong ngắn hạn (1 tháng) và dài hạn (6 tháng), theo đó

chi nhánh sẽ tự doanh để trạng thái ngoại tệ âm hoặc dương như đã được duyệt

trong tờ trình từng lần.

Doanh số mua bán ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi trong năm từ 2005 – 2007

chiếm 30% tổng doanh số do chi nhánh nắm bắt được xu thế tăng giá đồng USD

trong khoảng 1%/năm, trong khi chênh lệch lãi suất VND và USD luôn trong

khoảng từ +3% đến +5%. Từ năm 2008 đến nay, dự báo giá USD sẽ biến động

nhanh do ảnh hưởng của hội nhập quốc tế, doanh số mua bán kỳ hạn và hoán đổi

chỉ chiếm chưa đến 3% trong tổng doanh số do thanh khoản trên thị trường đã

giảm đi rõ rệt so với các năm trước.

MHB HN chưa sử dụng hợp đồng quyền chọn do thanh khoản trên thị

trường rất thấp và còn nhiều quy định chưa hợp lý từ NHNN

Thứ tư, bám sát chủ trương của NHNN về các mặt hàng thiết yếu nhập

khẩu được ưu tiên bán ngoại tệ, cụ thể: xăng dầu, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ

thực vât, phân bón, thức ăn gia súc… MHB HN đã chỉ đạo các phòng nghiệp vụ

tích cực tiếp thị khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực, áp dụng nhiều biện pháp

ưu đãi với đối tượng khách hàng này như : giảm lãi suất cho vay, giảm phí

chuyển tiền… với mục đích tăng doanh số mua bán ngoại tệ và không có phát

sinh rủi ro tỷ giá.

66

MHB HN liên tục kết hợp với Phòng Nguồn vốn Hội sở lập hồ sơ mua

ngoại tệ của NHNN cho các mặt hàng trong diện được NHNN ưu tiên hỗ trợ bán

ngoại tệ.

Đặc điểm khác biệt của MHB HN trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá ngoại hối

với các chi nhánh ngân hàng hệ thống khác chính là sự cho phép MHB HN được

mua bán ngoại tệ trên cả thị trường I và thị trường II và tuân thủ chặt chẽ các văn

bản cũng như quy trình mua bán theo quy định của Hội sở như đã nêu trên, do

vậy MHB HN chưa để xẩy ra trường hợp đáng tiếc nào về rủi ro tỷ giá.

Ví dụ điển hình về sai phạm của Ngân hàng Công thương Hải Phòng

trong công tác mua bán ngoại tệ không tuân thủ quy trình vào quy định của ngân

hàng dẫn đến thất thoát tiền của ngân hàng.

Từ tháng 11/2003 đến tháng 02/2006, ngân hàng ABN-Amro Bank đã

thực hiện 613 giao dịch mua bán ngoại tệ với Chi nhánh ngân hàng Công thương

Hải Phòng. Tổng giá trị của 613 giao dịch là 3,5 tỷ USD.

Theo quy định, các giao dịch mua bán ngoại tệ giữa hai ngân hàng này

đều là những hợp đồng giao ngay, thời hạn thanh toán trong vòng 02 ngày. Thế

nhưng hai ngân hàng không thanh toán theo đúng quy định. Hầu hết các hợp

đồng chỉ thanh toán chuyển tiền chênh lệch (netoff), xen kẽ giữa các giao dịch

trên giấy này là một số hợp đồng được chuyển tiền thanh toán theo đúng giá trị

nhằm đối phó với cơ quan chức năng.

Trong hai năm 2005 và 2006, ngân hàng Công thương Hải Phòng đã

chuyển tiền thanh toán chênh lệch cho ABN-Amro Bank 36 lần với tổng số tiền

là 4,7 triệu USD. Ngân hàng ABN-Amro Bank đã chuyển tiền chênh lệch cho

67

Ngân hàng Công thương Hải Phòng 30 lần với tổng số tiền 0,93 tr USD.

Trong số các giao dịch mua bán ngoại tệ, có 26 giao dịch có tỷ giá vượt ra

ngoài biên độ quy định của NHNN, có 54 hợp đồng chưa có chữ ký của lãnh đạo

hai ngân hàng nhưng vẫn thực hiện thủ tục chuyển tiền. Một sai phạm nghiêm

trọng hơn, đó là ngân hàng Công thương chi nhánh Hải Phòng chưa được phép

của Hội sở cho phép mua bán ngoại tệ trên liên hàng nhưng vẫn thực hiện mua

bán và ngân hàng ABN-Amro Bank cũng chủ quan bỏ qua thủ tục kiểm tra giấy

phép.

Theo nhận định của cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ công an, đây là những

vụ làm ăn của cán bộ hai ngân hàng nhằm rút tiền Nhà Nước thông qua ngân

hàng nước ngoài.

Sau khi thương lượng về vấn đề tài chính nhưng không đạt được thoả

thuận, ngân hàng Công thương Việt Nam đã khởi kiện yêu cầu ABN-Amro Bank

bồi thường thiệt hại do chưa kiểm tra hồ sơ pháp lý đã tiến hành ký hợp đồng

mua bán ngoại tệ.

(nguồn: website www.vietbao.com ngày

09/05/2006)

2.4. Đánh giá chung về các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại

MHB HN

2. 4.1. Kết quả đạt được.

Sau bẩy năm đi vào hoạt động MHB HN đã đạt được kết quả đáng khích

68

lệ trong việc phòng ngừa rủi ro hối đoái.

+ Tổng kết tình hình kinh doanh ngoại tệ hàng năm (đã bao gồm phần xử

lý chênh lệch tỷ giá) MHB HN liên tục có lãi, năm sau cao hơn năm trước. MHB

HN là một trong hai chi nhánh luôn dẫn đầu hệ thống về chỉ tiêu lợi nhuận và

các chỉ tiêu khác như số dư huy động vốn, số dư cho vay, doanh số kinh doanh

ngoại tệ, doanh số thanh toán quốc tế.

+ Trong thời gian từ năm 2005 – hết 2007, MHB HN đã luôn theo dõi dự

báo biến động tỷ giá USD của NHNN. Với dự báo tăng giá trong khoảng 1%, chi

nhánh đã mạnh dạn trình Hội sở xin được sử dụng hợp đồng mua bán ngoại tệ

hoán đổi để âm trạng thái ngoại tệ và kinh doanh chênh lệch lãi suất. Kết quả lợi

nhuận về kinh doanh ngoại tệ chủ yếu từ hoạt động mua bán theo hợp đồng hoán

đổi.

+ Thời gian từ năm 2008 – hết 2009: nhận định tình hình tỷ giá có nhiều

biến động do khủng hoảng kinh tế toàn cầu và việc gia nhập WTO cũng làm ảnh

hưởng đến sự thay đổi tỷ giá, MHB HN chuyển từ hợp đồng mua bán hoán đổi

sang hợp đồng mua bán kỳ hạn với các công ty hoạt động trong lĩnh vực được ưu

tiên hỗ trợ bán ngoại tệ từ NHNN (Ví dụ: Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam,

Công ty cổ phần phân bón Hà Anh, Công ty Dược phẩm Đông á…), thời gian kỳ

hạn từ 03 ngày đến 07 ngày là thời gian chi nhánh đăng ký và được duyệt mua

ngoại tệ từ NHNN trước khi tiến hành bán cho khách hàng. Lợi nhuận thu về từ

các hợp đồng kỳ hạn chính là điểm kỳ hạn của từng hợp đồng với doanh số mua

bán trên hợp đồng.

+ MHB HN đă xây dựng được hệ thống tỷ giá hàng ngày tuân thủ theo các

quy định về quản lư ngoại hối của NHNN và tỷ giá chung của hệ thống xong vẫn

đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với cung cầu thị trường ngoại hối trên địa bàn Hà

69

Nội.

+ Bám sát các công cụ lệnh để thực hiện giảm lỗ cho ngân hàng.

+Trong nhiều năm qua, MHB HN đă tư vấn cho doanh nghệp thực hiện

biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hình thức mua bán kỳ hạn qua đó

góp phần hỗ trợ và phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.

+ Hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá của MHB HNđạt được kết quả nêu

trên một phần là do MHB HN có một đội ngũ cán bộ nguồn vốn và kinh doanh

ngoại tệ chuyên nghiệp thường xuyên theo dõi biến động tỷ giá của thị trường

trong và ngoài nước để có kế hoạch duy trì trạng thái ngoại tệ phù hợp. Mặt

khác, Ban Giám đốc MHB HN là những người có trình độ chuyên môn cao, có

kinh nghiệm trong công việc, thực sự là bộ năo điều khiển hoạt động kinh doanh.

Qua thời gian, công tác tổ chức và quản lý dần được hoàn thiện theo mô hình của

các ngân hàng hiện đại. Công tác xây dựng và niêm yết tỷ giá; công tác quản lý

trạng thái ngoại hối cũng được tổ chức thực hiện theo một số chuẩn mực nhất

định.

Trong xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang trong tiến

trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, từng bước tự do hoá thương

mại và tiến tới tự do hoá tài chính. Thị trường tài chính Việt Nam rất sơ khai như

hiện nay đang dần phát triển. Trước hết, các nghiệp vụ phái sinh như

FORWARD và SWAP đã dần được sử dụng rộng rãi như những công cụ phòng

ngừa rủi ro hối đoái và tăng thu cho cả Ngân hàng và khách hàng.

Để chuẩn bị tư thế đón nhận những thách thức mới, ngay từ bây giờ MHB

HN phải có kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh của mình đồng thời quan

tâm đến công tác phòng ngừa rủi ro tỷ giá hơn nữa để vừa mở rộng quy mô hoạt

70

động vừa đảm bảo được hệ số an toàn cho ngân hàng. Chỉ có liên tục tự hoàn

thiện và phát triển thì MHB HN mới giữ được vị thế trên thị trường liên ngân

hàng và đồng thời góp sức mình cùng Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu

quan khác thúc đẩy tiến độ xây dựng một thị trường tài chính hoàn chỉnh tại Việt

Nam.

2.4.2. Hạn chế

Mặc dù đă đạt được những kết quả đáng ghi nhận, song hoạt động phòng

ngừa rủi ro của MHB HN chưa thể coi là thực sự hiệu quả và quy mô hoạt động

tại MHB HN đang ở mức khiêm tốn, vẫn còn một số hạn chế như doanh số huy

động, cho vay, mua bán ngoại tệ cũng như lợi nhuận chưa cao so với mục tiêu

của Hội sở đặt ra, lý do:

Thứ nhất, MHB HN còn rất rụt rè trong việc sử dụng công cụ phòng ngừa

rủi ro tỷ giá là các sản phẩm phái sinh.

Như đă trình bày ở phần trên, trong các năm từ 2005 đến 2007, MHB HN

đă mạnh dạn sử dụng hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi tuy nhiên

con số tuyệt đối còn rất nhỏ (khoảng 6 triệu USD/ năm) so với các ngân hàng

bạn cùng thời kỳ này (Vietcombank Hà Nội: 47 triệu USD, Vietinbank Hoàn

Kiếm: 38 triệu USD).

Nguồn:website:wwwvietcombank.com.vn; www.incombank.com.vn

Thứ hai, MHB HN nói riêng và hệ thống MHB nói chung chưa chủ động

đủ nguồn ngoại tệ cung ứng khả năng thanh toán của khách hàng. Liên tục các

năm từ 2005 đến nay, tại MHB HN doanh số nhập khẩu cao gấp nhiều lần so với

doanh số xuất khẩu. Để giữ chân khách hàng, MHB HN đôi lúc phải bán âm

ngoại tệ để khách hàng thanh toán L/C hoặc trả nợ vay đến hạn. Trường hợp tỷ

71

giá biến động mạnh trong thời gian ngắn sẽ dẫn đển rủi ro tỷ giá ngay lập tức.

Thứ ba, MHB HN chịu sự chi phối về tỷ giá ngoại tệ do hệ thống là đầu

mối bán tới chi nhánh. Vào thời điểm khan hiếm ngoại tệ (USD), giá bán của

Hội sở thường cao hơn giá các ngân hàng bạn cùng địa bàn, MHB HN đă phải

bán cho khách hàng giá thấp hơn giá mua vào để cạnh tranh với ngân hàng bạn.

Kết quả, chi nhánh bị hụt nguồn thu phí dịch vụ do phải bù đắp vào chênh lệch

âm về tỷ giá ngoại tệ.

Thứ tư, mặc dù hệ thống MHB đã không hạn chế biên độ của trạng thái

ngoại tệ tại MHB HN nhưng mọi hoạt động mua bán ngoại tệ của chi nhánh đều

phải trình xin ý kiến chỉ đạo từ Hội sở, điều này hạn chế tính chủ động của chi

nhánh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

2.4.3. Nguyên nhân.

2.4.3.1. Từ phía hệ thống MHB

Thứ nhất, hệ thống MHB sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá thông

qua hệ thống văn bản hành chính; tổ chức các đoàn kiểm tra; tổ chức đào tạo và

đào tạo lại cho cán bộ, chưa phát huy tính năng động tự chủ và ý thức phòng

ngừa rủi ro tỷ giá từ mỗi chi nhánh.

Thứ hai, hệ thống quản trị rủi ro của MHB chưa hoàn thiện.

Mặc dù đă hoàn thành dự án Hiện đại hoá Ngân hàng nhưng hệ thống mới

chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Phần mềm quản lý mới chỉ giúp cán bộ giao dịch tại hội sở chính thực hiện nhập

giao dịch, vấn tin hạn mức đối tác và khai thác một số ít các báo cáo cần thiết

cho công tác quản lư cũng như công tác báo cáo theo yêu cầu của Ngân hàng

Nhà nước. Phần mềm này chưa cho phép triển khai tại các chi nhánh. Với việc

72

hướng tới phát triển hệ thống mạng lưới rộng khắp các tỉnh trên toàn quốc, MHB

sẽ gặp phải khó khăn trong công tác quản lý giao dịch cũng như kiểm soát rủi ro

trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Thông tin luồng tiền tại các phân hệ khác trên hệ thống hiện đại hoá không

được liên kết tới phân hệ treasury. Điều này khiến lănh đạo bộ phận kinh doanh

ngoại tệ gặp khó khăn trong công tác quản lý thanh khoản và dự báo luồng tiền.

Đồng thời, các báo cáo trong các phân hệ khác như kho dữ liệu chưa được thực

hiện đầy đủ và chính xác cho công tác quản lý thanh khoản và quản lý tài sản nợ,

có trong ngân hàng. Vấn đề trên cũng gây nên những khó khăn trong việc quản

lý tài khoản Nostro của Ngân hàng.

Tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ chưa theo chuẩn Quốc tế: do đang

trong quá trình cơ cấu lại mô hình tổ chức nên việc tổ chức hoạt động kinh

doanh ngoại tệ cũng bị hạn chế, về con người. Bộ phận KDNT chưa thành lập

được bộ phận Middle office nên được phân định rõ ràng trách nhiệm của 3 bộ

phận Front office(FO)-Middle office(MO)- Back office(BO). Trong đó, bộ phận

FO thực hiện chức năng giao dịch, MO kiểm soát tính tuân thủ quy trình quy

định trong kinh doanh của FO, BO thực hiện các công việc sau giao dịch. Tuy

nhiên, hiện nay chức năng nhiệm vụ của 3 bộ phận này chưa được phân định rõ

ràng. Cán bộ KDNT thuộc bộ phận FO nhưng vẫn phải làm một số công việc của

BO như soạn thảo và ký hợp đồng với đối tác thậm chí còn phải làm báo cáo

ngày, tháng, năm… gửi lên cấp trên và NHNN mà lẽ ra bộ phận MO phải thực

hiện. Hơn nữa bộ phận BO lại phải kiêm nhiệm vả việc kiểm soát các giao dịch

đă thực hiện. Như vậy, kết quả của hoạt động KDNT phần lớn phụ thuộc vào đạo

đức nghề nghiệp và tính trung thực của cán bộ KDNT.

73

Hệ thống báo cáo trong chương trình hiện đại hoá chưa đáp ứng được yêu

cầu công việc của bộ phận FO. Do vậy, hiện tại, bộ phận giao dịch front office

(Phòng Nguồn vốn) vẫn đang phải sử dụng một số phương pháp thủ công bên

cạnh chương trình phần mềm báo cáo của hệ thống. Điều này tạo ra nhiều công

việc sự vụ và làm mất thời gian của cán bộ kinh doanh, giảm thời gian cần thiết

dành cho việc nghiên cứu các nghiệp vụ khác.

Định kỳ Hội sở chính có thành lập các đoàn kiểm tra xuống từng chi

nhánh để có thể kịp thời phát hiện ra các vi phạm về chính sách quản lý ngoại

hối của Ngân hàng Nhà nước và quy định của MHB. Tuy nhiên, cán bộ kiểm tra

sẽ chỉ phát hiện ra sai phạm khi sai phạm đă xảy ra. Như vậy, ngoài việc nhắc

nhở hoặc có biện pháp xử phạt theo quy định đối với cá nhân hoặc tập thể vi

phạm thì phần lớn việc chấp hành đúng chế độ cũng như quy định về quản lý

ngoại hối lại phụ thuộc vào ý thức tự giác nghiên cứu và chấp hành nghiêm

chỉnh chính sách quản lý ngoại hối của NHNN và quy định của MHB của mỗi

cán bộ chi nhánh.

2.4.3.2. Từ phía Chính phủ, NHNN

Thứ nhất, hệ thống văn bản quản lý ngoại hối của Chính phủ và Ngân

hàng Nhà nước chưa hoàn chỉnh.

Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước liên tục đổi mới mạnh mẽ

công cụ điều hành tỷ giá và quản lý Ngoại hối. Tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước

công bố hàng ngày (tỷ giá chính thức) giữ ổn định tương đối, có điều chỉnh tăng

nhẹ phù hợp với diễn biến cung cầu Ngoại tệ trong nền kinh tế và trên thị trường

liên Ngân hàng (interbank market), theo hướng khuyến khích xuất khẩu.

Thời gian qua, NHNN đă nhiều lần thực hiện mở rộng biên độ tỷ giá: ngày

74

31/12/2006, biên độ được mở rộng từ ±0,25% lên ±0,5%; ngày 24/12/2007 tăng

lên ±0,75%; ngày 10/03/2008 là +1%; ngày 27/06/2008 lên +2%; ngày

07/11/2008 biên độ tỷ giá là +3%; ngày 23/03/2009 biên độ tỷ giá là +5%; ngày

25/11/2009 biên độ tỷ giá là +3%. Song song với nới lỏng biên độ, NHNN đã

nhiều lần phá giá đồng Việt Nam. Cụ thể: tháng 5/2008 tỷ giá BQTTLH là

15.970đ/USD với mức biên độ +/- 1% thì đến 31/12/2009 tỷ giá BQTTLH là

17961đ/USD với mức biên độ +/- 3% suy ra đồng VN mất giá 15%.

Mục đích của việc mở rộng biên độ nhằm tạo điều kiện để nền kinh tế Việt

Nam ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Cơ chế tỷ giá ngày càng linh hoạt hơn sẽ đòi hỏi các NHTM và thành viên tham

gia thị trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động

tỷ giá, để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Việc nới rộng biên độ tỷ giá là một bước mở rộng dần việc điều hành gián

tiếp và giảm bớt tính hành chính trong điều hành tỷ giá. Để từng bước đưa thị

trường ngoại tệ của Việt Nam phát triển và vận hành theo thông lệ quốc tế tạo

điều kiện cho các NHTM thực sự chủ động linh hoạt, MHB cần đổi mới chính

sách quản lý ngoại hối và điều hành lăi suất linh hoạt hơn.

Mở rộng biên độ tỷ giá còn góp phần tạo quyền chủ động cho các NHTM

trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thỏa thuận giá cả cho phù hợp với nhu cầu

của thị trường, tạo điều kiện để các ngân hàng này tiếp cận với cách thức hoạt

động trong nền kinh tế thị trường, chuẩn bị tốt và nâng cao khả năng cạnh tranh

của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế, đáp ứng nhu cầu của các

tổ chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các

ngân hàng, không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây.

75

Từ năm 2003 đến trước khi Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực, Ngân hàng

nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách quản lý ngoại hối qua hàng loạt các văn

bản chỉ đạo như giảm tỷ lệ kết hối xuống 0% vào năm 2003; Quyết định 648

/1994/QĐ-NHNN 28 tháng 5 năm 2004 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của

quyết định 679/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày

1/7/2002 về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của

các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ ra đời chứng tỏ NHNN đã

sử dụng công cụ quản lý ngoại hối của mình sát với thị trường hơn. Theo đây,

NHNN đã ban hành quy định xác định tỷ giá kỳ hạn, hoán đổi trên cơ sở tỷ giá

giao ngay vào ngày ký hợp đồng; chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành và

lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam (tính theo năm) do Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam công bố và lãi suất mục tiêu của Đô la Mỹ do Cục dự trữ Liên bang Mỹ

công bố (Fed Funds Target Rate); Và kỳ hạn của hợp đồng. Trong đó NHTM

được phép ký kết hợp đồng với đối tác hoặc khách hàng có kỳ hạn từ 3 đến 365

ngày.

Việc Chính phủ ban hành Pháp lệnh ngoại hối đă phần nào góp phần hoàn

thiện chính sách quản lý ngoại hối của NHNN. Tuy nhiên, Pháp lệnh ngoại hối

có hiệu lực từ ngày 01/06/2006 nhưng đến ngày 28/12/2006 Chính phủ mới có

nghị định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối số 160/NĐ-CP. Trong thời gian

từ 01/06/2006 đến 28/12/2006, ngân hàng thương mại vẫn phải thực hiện theo

quy định tại nghị định 63 và chờ đợi Nghị định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại

hối. Về cơ bản NHTM nói chung và MHB HN nói riêng hoạt động trên cơ sở

chấp hành quy định tại Nghị định 63 của Chính phủ ngày 17/08/1998 và thông tư

01 của ngân hàng Nhà nước ngày 19/01/2001 và hàng loạt các quy định khác.

76

Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, MHB thường xuyên phải cập nhật các văn

bản sửa đổi bổ sung và những văn bản đă hết hiệu lực.

Mặc dù Chính phủ và NHNN đã có nhiều đổi mới trong việc điều hành

toàn bộ nền kinh tế thông qua công cụ văn bản chế độ và chính sách Quản lý

ngoại hối song vẫn còn những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, việc xây dựng một

hệ thống văn bản quản lý thống nhất, đồng bộ với các lĩnh vực hoạt động không

phải là điều đơn giản. Vậy vấn đề đặt ra là Chính phủ và NHNN làm thế nào để

có thể ban hành một hệ thống văn bản quản ngoại hối thống nhất, đầy đủ nhất và

ít thay đổi nhất để NHTM cũng như các nhà kinh doanh có được môi trường

pháp lý tốt nhất để yên tâm kinh doanh.

Thứ hai, tỷ giá và lăi suất trên thị trường trong và ngoài nước thường

xuyên biến động. Tỷ giá ngoại tệ USD/VND từ năm 2003 đến hết năm 2009 dù

có lúc lên xuống thất thường nhưng về cơ bản vẫn có xu hướng tăng dần đặc biệt

từ năm 2008 đến nay.

Lăi suất mục tiêu của đồng USD từ năm 2003 đến năm 2008 diễn biến khá

phức tạp. Từ năm 2003 lăi suất Fed Fund liên tục giảm và duy trì ở mức

1%/năm trong gần hết năm 2004. Tuy nhiên, từ cuối năm 2004 đến năm 2006 lăi

suất này lại bắt đầu xu hướng tăng dần và đến cuối năm 2006 duy trì ở mức

5,5%/năm. Từ năm 2007, lăi suất này bắt đầu có xu hướng giảm, cho đến

12/2008 lăi suất này chạm ngưỡng 0 – 0,25%/năm (được coi là mức thấp kỷ lục

77

kể từ năm 2003).

Đồ thị 2.1 : Lãi suất mục tiêu đồng USD của FED FUND (2003-2008)

(Nguồn: Bloomberg)

Như vậy từ năm 2003 đến năm 2008 tỷ giá và lăi suất USD trên thị trường

Việt Nam biến động khá phức tạp, không theo quy luật “lăi suất tăng thì tỷ giá

tăng”. Điều này ảnh hưởng đến khả năng dự đoán chính xác xu hướng biến động

của tỷ giá USD cũng như các loại ngoại tệ khác để ra quyết định kinh doanh có

lợi nhất vì tỷ giá các loại ngoại tệ khác phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng giảm giá

trị của USD. Đồng Đô la Mỹ tăng giá thì giá trị của các loại ngoại tệ còn lại sẽ bị

sụt giảm phần nào. Phần lớn các giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường quốc

tế đều được thực hiện thông qua USD, kể cả những giao dịch mua bán tính tỷ giá

chéo giữa hai loại tiền tệ không phải USD thì cũng đều được tính toán thông qua

tỷ giá của USD với hai ngoại tệ đó. Ví dụ khi có thông tin tốt về các chỉ số kinh

tế Nhật, theo logic giá trị đồng JPY sẽ tăng. Điều này chỉ đúng khi đồng USD

78

giữ nguyên hoặc giảm giá do có tin không tốt về nền kinh tế và tình hình chính

trị của Mỹ. Tuy nhiên, nếu cùng lúc đó các hăng tin thông báo một số chỉ số

chính của nền kinh tế Mỹ có thay đổi theo chiều hướng tốt như số việc làm tăng

thêm, GDP tăng ngoài dự kiến hoặc tình hình chính trị ổn định… khi đó giá trị

đồng JPY có thể sẽ giữ nguyên hoặc giảm đi.

Từ năm 2003 đến năm 2008, mặc dù tỷ giá trên thị trường quốc tế biến

động từng giây từng phút, nhưng nhìn chung đồng USD có xu hướng mất giá so

với các loại ngoại tệ mạnh như EUR, GBP, AUD, JPY…

Tuy nhiên, trong những năm qua, tỷ giá USD/VND lại biến động theo

chiều hướng ngược lại. Đồng Việt Nam vẫn mất giá so với USD. Trong suy nghĩ

của khách hàng cũng như ngân hàng, tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng.

Điều này tạo ra tâm lý thích nắm giữ USD, mặc dù lăi suất VND thường xuyên

cao hơn lăi suất USD.

Việc ưa thích nắm giữ USD của các cá nhân trong nước góp phần tạo ra

những “cơn sốt” ảo về ngoại tệ này. Hậu quả là đẩy các doanh nghiệp nhập khẩu

vào tình trạng khốn đốn, thường xuyên lo phải đối mặt với rủi ro về tỷ giá. Thực

tế có doanh nghiệp nhập khẩu đă phải chịu lỗ hàng tỷ đồng do tỷ giá ngoại tệ

tăng ngoài dự kiến. Thậm chí trong lịch sử KDNT tại Việt Nam, có không ít

NHTM với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trang thiết bị hiện đại nhất trong lĩnh

vực KDNT đă có những bài học xương máu về quản trị rủi ro tỷ giá .

Thứ ba, khó khăn khi thực hiện các công cụ phái sinh.

Giao dịch quyền chọn là một công cụ bảo hiểm tỷ giá, đứng trên giác độ là

người bảo hiểm, các ngân hàng khi phát hành hợp đồng quyền chọn rất cần có số

đông khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hoà rủi ro giữa những

79

người ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. Trên thực tế, số lượng khách

hàng tham gia nghiệp vụ này quá ít mà chủ yếu là lách luật khi tỷ giá USD trên

thị trường thường xuyên được mua bán với tỷ giá cao hơn tỷ giá trần theo quy

định của Ngân hàng nhà nước. Để phục vụ nhu cầu mua bán của khách hàng và

đồng thời cũng là để duy trì hoạt động KDNT của mình, các NHTM phải tìm

mọi cách “lách” giá, nghĩa là mua bán ngoại tệ USD cao hơn tỷ giá trần được

phép của NHNN thông qua một số các công cụ phái sinh như kỳ hạn, option…

Tuy nhiên, ngày 18/03/2009, NHNN cũng đă có văn bản số 1819/NHNN-QLNH

cấm thực hiện nghiệp vụ quyền chọn để hạn chế việc lách tỉ giá.

Thứ tư, cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại.

Các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước tìm mọi cách lôi kéo

khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng mình. Một số khách hàng có nhu cầu

mua bán ngoại tệ lớn, thường được các ngân hàng săn đón. Thậm chí có ngân

hàng chấp nhận mua bán với khách hàng mà họ cho là tiềm năng với giá phi thị

trường để kéo khách hàng về phía mình để sau đó họ có thể chào bán cho khách

này những dịch vụ khác. MHB HN đă từng gặp trường hợp khách hàng cùng lúc

gọi điện cho ba hoặc bốn ngân hàng một lúc để hỏi giá (đấu giá) nếu ngân hàng

nào chào với tỷ giá tốt nhất họ sẽ xác nhận mua hoặc bán với ngân hàng đó.

Trong khi tỷ giá các loại ngoại tệ trên thị trường có thể biến động từng giây và

việc găm giữ ngoại tệ, gây tăng giá ảo là hoàn toàn có thể xẩy ra. Khả năng gặp

80

phải rủi ro về tỷ giá trong trường hợp này rất cao.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro tỷ

giá cho MHB HN

3.1. Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập

WTO

1) Về dịch vụ Ngân hàng, Việt Nam cam kết thực hiện các ngành:

- Dịch vụ nhận tiền gửi (nhận tiền gửi và các khoản phải trả khác từ công

chúng);

- Dịch vụ cho vay (cho vay dưới tất cả các hình thức bao gồm tín dụng tiêu

dùng, tín dụng cầm cố thế chấp, bao thanh toán và tài trợ thương mại);

- Dịch vụ thuê mua tài chính;

- Dịch vụ thanh toán (tất các các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao

gồm thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và thẻ nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng);

Bảo lãnh và cam kết; Kinh doanh trên tài khoản của mình hoặc của khách hàng,

tại Sở giao dịch, trên thị trường giao dịch thoả thuận hoặc bằng cách khác, các

loại: Công cụ thị trường tiền tệ (séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi), ngoại hối,

công cụ tỷ giá và lãi suất bao gồm các sản phẩm như hợp đồng hoán đổi, hợp

đồng kỳ hạn, vàng khối

- Môi giới tiền tệ

- Quản lý tài sản: quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình thức

quản lý đầu tư tập trung, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác.

- Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính: bao gồm chứng khoán,

các sản phẩm phái sinh và công cụ chuyển nhượng khác.

- Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, dữ liệu tài chính cũng như các

81

phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác.

2) Ngân hàng nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam chỉ được

cung cấp cho khách hàng Việt Nam các dịch vụ sau:

- Cung cấp thông tin tài chính

- Xử lý dữ liệu tài chính

- Tư vấn, môi giới, phân tích tín dụng

- Nghiên cứu và tư vấn về đầu tư, danh mục đầu tư, mua lại, tái cơ cấu và

chiến lược doanh nghiệp.

3) Cam kết về việc thành lập ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước

ngoài tại Việt Nam

- Về việc thành lập liên doanh: Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân

hàng liên doanh tại Việt Nam ngay từ thời điểm gia nhập WTO (11/1/2007) với

điều kiện: Phía nước ngoài tham gia liên doanh phải là ngân hàng thương mại có

tổng tài sản có trên 10 tỷ Đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp đơn

xin thành lập liên doanh tại Việt Nam và phần vốn góp của phía nước ngoài

trong ngân hàng liên doanh không vượt quá 50% vốn điều lệ.

- Về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài: Việt Nam cam kết

cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài kể từ ngày 01/04/2007 với

điều kiện ngân hàng nước ngoài là chủ đầu tư phải là ngân hàng thương mại có

tổng tài sản trên 10 tỷ Đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp đơn xin

thành lập ngân hàng tại Việt Nam.

4) Cam kết về việc thành lập công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính có

vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Điều kiện chung: Việt Nam cho phép thành lập các công ty tài chính, công

82

ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với điều kiện:

- Công ty mẹ phải có tổng tài sản trên 10 tỷ Đô la Mỹ vào cuối năm trước

thời điểm nộp đơn xin thành lập công ty tại Việt Nam

- Tuân thủ các điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định pháp luật tại

Việt Nam.

Điều kiện riêng:

- Đối với công ty tài chính: Việt Nam cam kết cho phép thành lập công ty tài

chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài với điều kiện phía

nước ngoài phải là các ngân hàng thương mại nước ngoài hoặc công ty tài chính

nước ngoài.

- Đối với công ty cho thuê tài chính: Việt Nam cam kết cho phép thành lập

công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước

ngoài với điều kiện phía nước ngoài phải là các ngân hàng thương mại nước

ngoài, công ty tài chính nước ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính nước ngoài.

5) Cam kết về việc Tổ chức tài chính nước ngoài được thành lập chi nhánh tại

Việt Nam

Đối với chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài:Việt Nam cam kết

cho phép các ngân hàng thương mại nước ngoài được thành lập chi nhánh tại

Việt Nam với điều kiện:

- Ngân hàng mẹ có tổng tài sản trên 20 tỷ Đô la Mỹ vào cuối năm liền

trước thời điểm nộp đơn xin lập chi nhánh ở Việt Nam.

- Chi nhánh được thành lập phải chịu các hạn chế trong hoạt động của mình

- Chi nhánh phải tuân thủ các điều kiện khác về mặt kỹ thuật theo quy định

của pháp luật Việt Nam (áp dụng chung cho cả ngân hàng trong nước và ngân

83

hàng nước ngoài)

- Đối với chi nhánh công ty tài chính, chi nhánh công ty cho thuê tài chính

tại Việt nam: Việt Nam chưa cam kết gì về việc thành lập chi nhánh công ty tài

chính, chi nhánh công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy,

việc cho phép thành lập chi nhánh các công ty này tại Việt Nam hoàn toàn phụ

thuộc vào chính sách và pháp luật liên quan của Việt Nam trong từng thời kỳ.

6) Cam kết về việc thành lập Văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại,

công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam:

Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài (ngân hàng

thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) được mở Văn phòng

đại diện tại Việt Nam. Văn phòng đại diện không được phép tiến hành các hoạt

động thương mại sinh lời trực tiếp.

7) Cam kết về thời hạn hoạt động tối đa của các tổ chức tín dụng FDI ở Việt

Nam

Trong WTO, Việt Nam không cam kết về thời hạn hoạt động của các loại

hình tổ chức tín dụng. Như vậy, Việt Nam có quyền tự do quy định về thời hạn

này. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành:

- Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài không quá 99

năm;

- Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn hoạt động

của ngân hàng mẹ và không quá 99 năm;

- Văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn

hoạt động của ngân hàng mẹ;

- Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài,

công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước

84

ngoài: 50 năm.

- Thời hạn hoạt động cụ thể được quy định trong giấy phép được cấp và có

thể được gia hạn theo yêu cầu (thời hạn gia hạn không vượt quá thời hạn hoạt

động trước đó được quy định trong giấy phép)

8) Cam kết về việc Ngân hàng nước ngoài có thể thiết lập các máy rút tiền tự

động , phát hành thẻ tín dụng tại Việt Nam.

Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài

được hưởng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đầy đủ, tức là các ngân hàng

này có quyền thiết lập và vận hành các máy rút tiền tự động (ATM) như các

ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, đối với các ngân hàng Việt Nam, không có hạn

chế số lượng các máy rút tiền tự động mà các ngân hàng này được phép lắp đặt.

Các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng được phép phát hành thẻ tín dụng

tại Việt Nam như các ngân hàng Việt Nam.

9) Việt Nam có thể áp dụng các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài trong dịch

vụ tài chính – ngân hàng ngoài các hạn chế theo cam kết.

Do tính đặc thù và tầm quan trọng của dịch vụ tài chính đối với toàn bộ nền

kinh tế quốc dân, đối với các nhà đầu tư, đối với người gửi tiền… WTO cho

phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp khác vì lý do thận trọng,

đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính. Do đó, ngoài các hạn chế về hình

thức pháp nhân, về vốn, về lĩnh vực hoạt động đối với chi nhánh… đối với nhà

đầu tư nước ngoài (đã nêu ở phần 1: cam kết về dịch vụ ngân hàng), Việt Nam

có thể xem xét và áp dụng bổ sung các biện pháp mang tính hạn chế, kiểm soát

chặt chẽ nhằm mục tiêu thận trọng. Ví dụ: yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu

cầu về vốn đối với việc thành lập chi nhánh, ngân hàng liên doanh, yêu cầu về

85

điều kiện vật chất, kỹ thuật, nhân lực… Các tiêu chí này chỉ được áp dụng trên

cơ sở không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài (các ngân hàng

thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính)

10) Cam kết của Việt Nam về việc các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua cổ

phần tại các Ngân hàng Việt Nam

Đối với các ngân hàng TMQD được cổ phần hoá (ví dụ: VCB, BID…) tỷ

lệ cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong các ngân hàng cổ phần hoá

này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần hoá của các ngân hàng Việt Nam

trong các ngân hàng cổ phần hoá này.

Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc khu vực dân doanh: tổng

số cổ phần do các cá nhân, tổ chức nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân

hàng đó, trừ khi luật Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam.

11) Cam kết của Việt Nam về ngoại hối

- Về giao dịch vãng lai: dỡ bỏ tất cả các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng

lai.

- Về giao dịch vốn: Việt nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của các

nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của tổ chức cư trú.

- Về biện pháp quản lý ngoại hối: chỉ được áp dụng trong những trường hợp

ngoại lệ, do chính phủ quyết định để duy trì an ninh tài chính và tiền tệ quốc gia

phù hợp với điều lệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế.

- Về cân đối ngoại tệ: Chính phủ Việt Nam cam kết bảo đảm cân đối nhu

cầu ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan

trọng trong các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các

86

dự án cơ sở hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các ngân

hàng được phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu

về ngoại tệ.

3.2. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá

hối đoái của MHB HN khi Việt Nam gia nhập WTO.

3.2.1. Cơ hội của MHB HN đối với hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá

hối đoái khi Việt Nam gia nhập WTO

+ MHB Hà Nội đã tiếp cận được với các nguồn vốn của các tổ chức quốc

tế như: JBIG, RDFII… để cho vay trong lĩnh vực nhà ở (mua sắm mới, sữa

chữa) với lãi suất hợp lý cải thiện cuộc sống cho các gia đình có thu nhập trung

bình. Các nguồn vốn này trước khi tới các NHTM đều tập trung tại một NHTM

đầu mối tiếp nhận (bằng ngoại tệ) và được chuyển sang VND cho các NHTM có

các hồ sơ cho vay đáp ứng đầy đủ yêu cầu của dự án. Do vậy, MHB Hà Nội

không gặp phải rủi ro tỷ giá đối với nguồn vốn này.

+ Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM Việt Nam trong đó có MHB

Hà Nội học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân

hàng nước ngoài. MHB Hà Nội đã cử một số cán bộ chủ chốt tham gia các khoá

học về phương pháp quản lý, phương pháp điều hành ngân hàng hiện đại do các

giảng viên nước ngoài có uy tín giảng dạy. Khoá học tiến hành trong 2 năm, có

kiểm tra chất lượng định kỳ. Qua đó, trình độ quản lý tại MHB Hà Nội đã được

nâng cao, chất lượng dịch vụ cũng được cải thiện tốt hơn, khách hàng đã thể hiện

sự tin cậy khi đến giao dịch.

+ Hội nhập quốc tế đã tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng

Việt Nam, thị trường tài chính phát triển nhanh hơn và tạo điều kiện cho các

NHTM phát triển các loại hình dịch vụ mới. Năm 2009, hệ thống MHB triển

87

khai hoạt động thẻ Visa debit và sử dụng được bằng một số đồng ngoại tệ mạnh

như USD, EUR, GBP. Trước đó, MHB mới thực hiện với thẻ ATM và đồng tiền

sử dụng là VND.

+ Hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam từng

bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các MHTM VN trong các

giao dịch tài chính quốc tế. Từ năm 2008 đến nay, doanh số thanh toán quốc tế

tại MHB HN không ngừng tăng trưởng, bình quân doanh số năm sau tăng hơn

năm trước 40%. Song song với việc doanh số thanh toán quốc tế tăng, doanh số

kinh doanh ngoại tệ cũng tăng theo, chi nhánh đã linh hoạt trong việc áp dụng

các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá ngoại bảng, chủ yếu là hợp đồng giao

dịch giao ngay (chiếm 90% doanh số mua bán ngoại tệ), giao dịch kỳ hạn chiếm

9%, giao dịch hoán đổi chiếm 1%.

+ Hội nhập mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong

hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa

rủi ro, nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam. MHB Hà Nội đã

nhận được sự chỉ đạo cụ thể bằng nhiều văn bản từ Hội sở quy định đối với các

hoạt động cho vay, huy động, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, cơ chế

điều hoà vốn trong từng thời kỳ. Đặc biệt, trong năm 2008 tình hình tài chính

trong nước và quốc tế có diễn biến phức tạp, khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ

và phản ứng dây chuyền kéo theo hàng loạt quốc gia trong đó có Việt Nam cũng

bị ảnh hưởng. Lãi suất VND và tỷ giá các đồng ngoại tệ mạnh tăng mạnh khiến

nhiều ngân hàng ở VN mất khả năng thanh toán. Hệ thống MHB đã có lúc đối

mặt với nguy cơ mất thanh khoản, tuy nhiên với kinh nghiệm lâu năm của ban

lãnh đạo tại Hội sở và tại MHB Hà Nội, MHB đã vượt qua cơn khủng hoảng mà

88

không gặp phải rủi ro đáng kể nào, đặc biệt MHB Hà Nội đã đạt vượt mức kế

hoạch lợi nhuận, đạt số tuyệt đối 62 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, trong đó kinh

doanh ngoại tệ lãi 1 tỷ đồng.

+ Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất

cả các dịch vụ ngân hàng tại VN buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn

hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ,

quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu

quả sử dụng nguồn vốn, khai thác các dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch

vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.

Từ 01/01/2008, MHB Hà Nội đã tách Phòng Nghiệp vụ kinh doanh thành bốn

phòng chức năng bao gồm: phòng Kinh doanh, phòng Hỗ trợ kinh doanh, phòng

Quản lý rủi ro và phòng Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp. Tháng 6/2010, phòng

Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp lại tách thành hai phòng: Phòng Nguồn vốn và

phòng Thanh toán quốc tế. Với sự chia tách này, các phòng chức năng nhận thức

được vai trò và trọng trách của mình, có trách nhiệm khai thác tối đa chức năng

của từng phòng và phối kết hợp nhịp nhàng với các phòng khác để phục vụ

khách hàng chuyên nghiệp, chu đáo hơn và giảm thiểu được rủi ro trong mọi

hoạt động ngân hàng.

3.2.2. Thách thức của MHB HN đối với hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ

giá hối đoái khi Việt Nam gia nhập WTO

+ Hệ thống NHTM Việt Nam nhìn chung có khả năng cạnh tranh thấp.

Việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng ngân hàng có tiềm lực

mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng

dần. Vốn điều lệ của hệ thống MHB mới đạt 1.000 tỷ đồng do vậy MHB Hà Nội

89

cũng không tránh khỏi cuộc cạnh tranh này.

+ áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh

với ngân hàng khác đã buộc hệ thống MHB phải thay đổi hệ thống phần mềm

(Core banking). Từ 01/02/2010, hệ thống MHB đó hoàn thành triển khai dự án

hiện đại hóa đến tất cả các chi nhánh trên toàn hệ thống và đi vào hoạt động

chính thức.

+ Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM Việt nam còn thấp so với các

ngân hàng khu vực (trong đó có MHB), do vậy hạn chế khả năng thiết lập các

quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.

+ Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu tác động

mạnh của thị trường tài chính thế giới, đặc biệt là tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ,

trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế. Kể từ khi

Việt Nam gia nhập WTO đến hết 31/03/2010, NHNN đã bốn lần điều chỉnh tăng

tỷ giá USD và sáu lần thay đổi lãi suất cơ bản, làm ảnh hưởng không nhỏ đến

chiến lược điều hành kinh doanh của hệ thống NHTM và của MHB Hà Nội.

+ Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và tăng rủi ro của

hệ thống ngân hàng trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân

hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. MHB Hà Nội đã thành

lập phòng Quản lý rủi ro từ năm 2008 nhưng trong cơ chế hoạt động của phòng

vẫn tập trung chủ yếu vào quản lý rủi ro tín dụng mà chưa chú trọng trong việc

quản trị các rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng.

+ Cơ cấu bộ máy hoạt động của MHB Hà Nội tuy đã được cải tổ nhưng

vẫn còn cồng kềnh, dàn trải làm hiệu quả và chất lượng hoạt động còn kém xa so

với khu vực.

+ Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn nhiều bất cập so với nhu

90

cầu của nhiệm vụ mới. Công tác nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng

chưa được quan tâm đúng mức làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ của hệ

thống ngân hàng còn khá xa so với khu vực. Nền văn minh tiền tệ của nước ta

chưa thoát khỏi một nền kinh tế tiền mặt. MHB tuy đã có quan tâm đến ứng

dụng công nghệ hiện đại, nâng cấp hệ thống phần mềm Core banking nhưng mới

dừng ở việc hạch toán trực tuyến thay vì hạch toán gián tiếp như trước đây. Còn

rất nhiều ứng dụng công nghệ hiện đại MHB chưa đáp ứng được như: SMS

banking, Internet banking, Ebanking…

+ Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nhiều

nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức

không nhỏ cho các NHTM Việt Nam là làm thế nào để huy động vốn hiệu quả

do công nghệ còn lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao so với ngân hàng nước

ngoài. Hệ thống MHB nói chung và MHB Hà Nội nói riêng sử dụng ngoại tệ chủ

yếu là đồng USD để cho vay, do vậy khi tiếp xúc với nguồn vốn nước ngoài là

các ngoại tệ khác sẽ phải chuyển đổi qua VND hay USD. Việc chuyển đổi các

đồng ngoại tệ khác sang VND hay USD đều có thể bị rủi ro do tỷ giá ngoại tệ

biến động nếu không biết áp dụng linh hoạt các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ

giá.

+ Một thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài và đến từ

chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Khi chính

sách tiền lương và chế độ đãi ngộ của NHTM Việt Nam chưa hợp lý sẽ dẫn đến

chẩy máu chất xám. Một khi không giữ chân được nhân viên giỏi, không có một

nguồn nhân lực đáng tin cậy và năng động chuyên nghiệp thì ngân hàng sẽ đối

mặt với không chỉ rủi ro tỷ giá do non kém về nghiệp vụ mà còn đối mặt với

91

hàng loạt rủi ro khác trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng.

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa

rủi ro tỷ giá hối đoái cho MHB HN

Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái cho MHB HN nói

riêng và hệ thống MHB cũng như các NHTM nói chung, chính sách tỷ giá cần

phải đạt được một số mục tiêu :

+ Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại: làm

giảm lạm phát, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh

toán, ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ.

+ ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu.

+ Từng bước nâng cao uy tín đồng tiền Việt Nam, tạo điều kiện cho tiền

Đồng Việt Nam có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi.

+ Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng Đô la hoá.

Để thực hiện được những mục tiêu này, tôi xin đề xuất một số giải pháp

sau:

3.3.1. Đề xuất giải pháp đối với Chính phủ.

Thứ nhất, thường xuyên phân tích diễn biến tình hình kinh tế thế giới, khu

vực và trong nước để có chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp.

Thứ hai, hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở VN bao gồm: quản lý tốt

dự trữ ngoại hối; tăng tích luỹ ngoại tệ; xây dựng chính sách phát triển xuất

khẩu, hạn chế nhập khẩu; tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập hàng hoá thiết yếu cho

sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được; ngoại tệ

dự trữ khi đưa vào can thiệp thị trường phải có hiệu quả; lựa chọn phương án

92

phù hợp cho việc cơ cấu ngoại tệ dự trữ. Trước mắt vẫn xem đồng Đô la có vị trí

quan trọng trong dự trữ ngoại tệ nhưng cũng cần đa dạng hoá ngoại tệ dự trữ đề

phòng Đô la mất giá.

Chính phủ nên nới lỏng tiến tới tự do hoá trong quản lý ngoại hối. Hoạt

động này bao gồm việc giảm dần tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của

NHNN trong việc xác định tỷ giá, xoá bỏ các quy định mang tính hành chính

trong quản lý ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử

dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động

trong kinh doanh tiền tệ của các NHTM.

Thứ ba, hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho

việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả bằng cách mở rộng thị

trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham

gia vào thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn nhất là thị trường

kỳ hạn, thị trường hoán đổi để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại

tệ có thể bảo vệ mình.

Thứ tư, thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay trên thị trường ngoại tệ,

đồng Đô la có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu quan hệ tỷ giá

với áp dụng với một loại ngoại tệ trong nước sẽ dẫn đến sự phụ thuộc quá nhiều

vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có biến động tỷ giá USD trên thế giới, lập

tức ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá VND/USD mà thông thường là những ảnh

hưởng rất bất lợi.

Chính phủ nên chọn một số loại ngoại tệ mạnh để dự trữ và thanh toán.

Theo đó, tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung – cầu trên thị trường

ngoại hối và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có thể từ 3 đến 5

93

đồng tiền có tỷ trọng thương mại lớn nhất. Các đồng tiền này sẽ tham gia vào rổ

tiền tệ với trọng số theo quan hệ thương mại và đầu tư vào VN. Các trọng số và

đồng tiền được điều chỉnh tuỳ theo sự thay đổi của thương mại và đầu tư và con

số này phải được giữ bí mật.

Thứ năm, nâng cao vị thế Đồng Việt Nam.

Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền

kinh tế: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá của

các DNNN làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,

xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất

khẩu, bài trừ tệ nạn tham nhũng…

Chính phủ tạo khả năng chuyển đổi từng phần Đồng Việt Nam. Điều này

góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, hạn chế việc lưu thông nhiều đồng tiền

trong một quốc gia, hạn chế Đô la hoá, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ năng động

hơn, giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối,

đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế

thế giới. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải có đủ lượng dự trữ ngoại tệ

và một nền kinh tế vững mạnh, khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt

Nam phải được cải thiện.

Thứ sáu, sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá.

Chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hoá lãi suất làm cho lãi suất thực sự là

một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của

chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi quyết định can thiệp

hành chính của Chính phủ.

94

3.3.2. Đề xuất giải pháp đối với NHTW

Từ năm 2008 đến nay, chính sách tỷ giá của NHTW đã có cải thiện đáng

kể. Thay cho việc quy định mức phá giá đồng USD trong biên độ + 1% trong khi

lạm phát tăng cao, NHTW đã nới lỏng biên độ tỷ giá lên +/- 5%, và 4 lần phá giá

đồng USD. Việc nới lỏng biên độ tỷ giá và việc phá giá đồng USD tạo điều kiện

cho thị trường tự điều chỉnh theo cung cầu ngoại tệ và giảm mức độ cần phải can

thiệp của NHTW lên thị trường, khuyến khích xuất khẩu… thực sự là một bước

ngoặt quan trọng trong chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam.

Tuy nhiên, để chính sách tỷ giá hối đoái thực sự là một công cụ kích thích

phát triển kinh tế, hạn chế tối đa rủi ro hối đoái cho doanh nghiệp cũng như ngân

hàng, NHTW cần phải làm tốt một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, nâng cao vai trò của NHTW trên thị trường ngoại tệ liên ngân

hàng. NHTW tham gia TTNTLNH với tư cách vừa là thành viên, vừa là người tổ

chức, quản lý điều hành sự hoạt động của thị trường này. Tuy nhiên trên thực tế,

do dự trữ ngoại tệ của NHTW mỏng, không ổn định, lại qua nhiều tầng nấc quản

lý, do đó NHTW chưa thể làm tốt vai trò là người mua bán can thiệp trên

TTNTLNH, tình trạng căng thẳng ngoại tệ thường xuyên xảy ra. Một thực tế là,

các NHTMCP thường trông chờ vào NHTMQD, đến lượt mình các NHTMQD

lại trông chờ vào NHTW tung ngoại tệ để can thiệp thị trường, nhưng không

phải mọi sự trông đợi đều trở thành hiện thực. Chính vì lý do này đã tạo tâm lý

găm giữ ngoại tệ tại các NHTM và các doanh nghiệp xuất khẩu gây sự khan

hiếm ngoại tệ giả.

Thứ hai, cho phép NHTM (được phép kinh doanh ngoại tệ) mua bán ngoại

tệ hai chiều một cách bình thường với tất cả các nhu cầu giao dịch. Cùng với sự

nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái, NHTW cần tạo một thị trường hối đoái thông

95

suốt, liên tục bao gồm cả thị trường giao ngay, hoán đổi và kỳ hạn. Một thị

trường hối đoái với sự đa dạng của loại hình và công cụ giao dịch sẽ làm tăng

khả năng cân bằng cung cầu, hạn chế đầu cơ găm giữ ngoại tệ, tạo niềm tin đối

với công chúng và nhà đầu tư về khả năng tiếp cận thị trường. Trước mắt,

NHTW sớm mở rộng phạm vi giao dịch hợp đồng quyền chọn (Option) (ngày

18/03/2009, NHNN ra công văn số 1819/NHNN-QLNH với nội dung: các tổ

chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối không được sử dụng kết hợp công

cụ phái sinh nhằm mục đích mua bán Đô la Mỹ giao ngay với tỷ giá cao hơn trần

biên độ do NHNN quy định)

Thứ ba, phân tích sâu hơn về tỷ giá hối đoái thực hiệu quả gắn với một rổ

tiền tệ xác định nhằm mục đích xác lập được tỷ giá cân bằng trung tâm. Mức cân

bằng trung tâm là mức mà tỷ giá hối đoái danh nghĩa cần đạt được để tỷ giá hối

đoái thực cân bằng tính theo cùng một năm gốc.

Thứ tư, cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của NHNN trên thị

trường ngoại hối và trên thị trường mở. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3

công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở.

Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là quan trọng nhất vì nó quyết định

trực tiếp đến lượng tiền cung ứng. NHNN phải sử dụng hệ thống lãi suất của

mình như là một công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái ngoài việc mua vào và bán ra

qua dự trữ ngoại tệ của NHNN. Để làm được điều này, lãi suất của NHNN phải

phản ánh đầy đủ mức độ tăng giảm của cung tiền nội tệ, mức độ tăng giảm cung

tiền lại phụ thuộc vào dự báo lạm phát. NHNN chỉ nên mua vào và bán ra ngoại

tệ trong trường hợp cung cầu ngoại tệ không cân bằng tại mức tỷ giá cân bằng

trung tâm.

Thứ năm, NHNN phải giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với

96

các khoản vay ngắn hạn từ nước ngoài của các ngân hàng, các khoản trái phiếu

bằng ngoại tệ (kể cả của Chính phủ). Các khoản vay ngắn hạn thường tăng lên

rất nhanh gắn với tài trợ L/C nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung – cầu ngoại

tệ biến động mạnh và bất thường gây khó khăn lớn trong việc điều hành tỷ giá

hối đoái và lãi suất ngoại tệ cũng như nội tệ

3.3.3. Giải pháp cụ thể từ phía MHB

Giải pháp từ hệ thống MHB

Thứ nhất, thường xuyên rà soát lại toàn bộ cơ chế quản lý, các quy trình

thực hiện nghiệp vụ cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ,

điều hoà vốn ngoại tệ... từ đó xây dựng và hoàn thiện thêm các văn bản pháp lý

về phòng ngừa rủi ro tỷ giá, quy chế về quản lý vốn ngoại tệ và cẩm nang phòng

ngừa rủi ro tỷ giá.

Thứ hai, khai thác tối đa các dữ liệu về nguồn vốn ngoại tệ đi và đến,

doanh số ngoại tệ mua và bán trong hệ thống phần mềm ứng dụng Intellect được

MHB đưa vào áp dụng từ tháng 2/2010 để thấy được hiệu quả kinh doanh, từ đó

có biện pháp xử lý kịp thời đối với những chi nhánh làm lỗ về rủi ro tỷ giá.

Thứ ba, thường xuyên cặp nhật các thông tin kinh tế – chính trị trong và

ngoài nước, các dự đoán, dự báo biến động trên thị trường quốc tế và nhận định

của MHB về tình hình kinh tế trong giai đoạn hiện tại và tương lai lên trang web

của MHB để mọi người tham khảo và có biện pháp ứng phó kịp thời.

Thứ tư, có kế hoạch đào tạo định kỳ cho cán bộ làm công tác nguồn vốn

và kinh doanh ngoại tệ vì đây là lĩnh vực có nhiều nghiệp vụ phái sinh đòi hỏi

cán bộ phải là người có óc nhạy bén, biết tiếp thu kỹ thuật mới, mạnh dạn áp

97

dụng nghiệp vụ mới đồng thời phải là người biết tuân thủ quy trình, có tinh thần

học hỏi nghiệp vụ từ đồng nghiệp và cấp trên để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy

ra.

Thứ năm, quan tâm hơn nữa đến chính sách lương, thưởng và các chế độ

đãi ngộ khác đối với cán bộ làm công tác nguồn vốn và kinh doanh ngoại tệ để

khuyến khích các cá nhân có tư duy sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách

nhiệm được phát huy hết năng lực của mình.

Giải pháp từ MHB HN

Thứ nhất, yêu cầu tất cả các phòng nghiệp vụ có trách nhiệm tuân thủ quy

trình hoạt động của mình, có chế tài xử phát nghiêm cho các trường hợp vi phạm

kể cả trong trường hợp vi phạm nhưng chưa gây rủi ro cho ngân hàng.

Thứ hai, đề xuất ý kiến với Hội sở về các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ

giá hữu hiệu khác mà Hội sở chưa áp dụng đồng thời đóng góp ý kiến để Phòng

Nguồn vốn Hội sở vừa là nơi quản lý giám sát các hoạt động về nguồn và trạng

thái ngoại tệ toàn hệ thống nhưng cũng là nơi hỗ trợ đắc lực về nguồn ngoại tệ

cho các chi nhánh hoạt động thông suốt không bị ách tắc do cách xử lý cứng

nhắc cản trở chi nhánh trong phục vụ nhu cầu khách hàng.

Thứ ba, phòng Nguồn vốn MHB HN có trách nhiệm hàng tuần báo cáo

nhanh cho Ban Giám đốc tình hình huy động và sử dụng nguồn ngoại tệ, tình

hình mua bán ngoại tệ và trạng thái ngoại tệ trong tuần và tổng hợp từ đầu năm

đến thời điểm báo cáo đồng thời thường xuyên đưa ra một số thông tin về diễn

biến ngoại tệ trong hiện tại để Ban Giám đốc có định hướng trong việc lựa chọn

98

đối tượng khách hàng.

Kết luận

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh

cả về quy mô và chất lượng. NHNN có nhiều nỗ lực trong việc điều hành chính

sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, lãi suất và kiềm chế lạm phát, góp phần làm ổn

định kinh tế và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Bên cạnh

đó, nền kinh tế Việt Nam cũng chứng kiến những thăng trầm của một nền kinh tế

thị trường sau hội nhập, chứng kiến cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008 với sự

sụp đổ hàng loạt các ngân hàng danh tiếng của Mỹ, các ngân hàng lớn ở Châu

Âu và trên thế giới. Điều này cho thấy, khủng hoảng tài chính có thể xảy ra với

bất kỳ ngân hàng hay tổ chức tài chính nào nếu hệ thống đó không phản ứng kịp

thời với những cảnh báo rủi ro trước đó hoặc không có sự chuẩn bị kỹ càng cho

những rủi ro sẽ xảy ra trong tương lai.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của hệ thống MHB trong hơn

mười năm qua, tôi thấy MHB đã đạt được một số thành tựu đáng kể: không

ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đẩy mạnh các hoạt động liên quan đến thị

trường, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm để cung cấp cho xã hội, thực hiện

đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, hỗ trợ tích cực trong việc xoá đói giảm

nghèo cho vay chương trình phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long… Tuy

nhiên, kết quả trên mới dừng ở mức độ khiêm tốn. Trong hiện tại và tương lai

MHB HN nói riêng và hệ thống MHB nói chung sẽ đối mặt với nhiều cạnh tranh,

thách thức và rủi ro vốn là những xu thế tất yếu khi nền kinh tế Việt Nam ngày

càng hội nhập vào thế giới.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, kiến nghị một số giải pháp khả thi

99

để phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại MHB HN, tôi hy vọng bài viết này sẽ

đóng góp ít nhiều cho MHB HN trong việc tìm ra những phương pháp phòng

ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái hiệu quả nhất vừa khuyến khích cán bộ làm việc trong

lĩnh vực nguồn vốn và kinh doanh ngoại tệ năng động, sáng tạo đẩy mạnh tỷ

trọng sinh lời trong huy động – cho vay ngoại tệ, trong mua – bán ngoại tệ đồng

thời có một hành lang pháp lý hữu hiệu để hạn chế tối đa những rủi ro về tỷ giá

cho ngân hàng.

Mặc dù đã rất nỗ lực để hoàn thành luận văn này, nhưng do hạn chế về

thời gian và năng lực, luận văn không tránh khỏi thiếu sót và khiếm khuyết. Tôi

rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà khoa học,

nhà quản lý, các đồng nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng và những ai quan tâm

đến đề tài mà luận văn đề cập để luận văn tiếp tục được hoàn thiện và mang lại

hiệu quả cao hơn cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Cuối cùng, một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trường

Đại học Kinh Tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội khoa Sau đại học và đặc biệt là

PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn người đă hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận

văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu

Long chi nhánh Hà Nội, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đă tạo điều kiện về mọi

mặt để tôi hoàn thành luận văn này.

100

Xin trân trọng cảm ơn!

Tài liệu tham khảo

Tiếng việt

1. Nguyễn Kim Anh (2008), Giáo trình Rủi ro tỷ giá hối đoái và quản trị rủi

ro hối đoái, Nxb Thống kê.

2. Phạm Thị Hoàng Anh (2007), “ứng dụng công cụ phái sinh tiền tệ trong

phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí

ngân hàng, (số 3+4), tr.132.

3. Phạm Như Hà (2008), “Rủi ro và quản lý rủi ro ngoại hối quốc tế”, Tạp

chí Ngân hàng, (số 12), tr.68.

4. Nguyễn Thu Huyền (2008), “Sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng

ngừa rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và

đào tạo ngân hàng, (số 74), tr. 127.

5. Nguyễn Văn Lộc (2008), “Phá giá hay không phá giá”, Tạp chí thị trường

Tài chính tiền tệ, (số 3), tr. 10-11,24

6. Phan Hoài Nam (2008), “Về điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và tỷ

giá”, Tạp chí Ngân hàng, (số 16), tr. 82.

7. Ngân hàng Nhà nước (2008), “Kết quả điều hành chính sách tiền tề, tín

dụng, tỷ giá tháng 7 và các giải pháp cho những tháng cuối năm”, Tạp chí

thị trường tài chính tiền tệ, (số 6), tr. 91.

8. Trương Văn Phước (2005), “Điều hành tỷ giá : thận trọng, linh hoạt và

phù hợp với điều kiện thực tế”, Tạp chí ngân hàng, (số 01), tr.49.

9. Nguyễn Văn Tiến (2006), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh

101

doanh ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn

Tiến (2002), Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

11. Nguyễn Văn

Tiến (2005), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, Nxb Thống

kê, Hà Nội

12. Nguyễn Văn

Tiến (2006), Cẩm nang Thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh

ngoại hối, Nxb Thống kê, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn

Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

14. Nguyễn Thị

Ngọc Trang (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nxb Thống kê.

15. Nguyễn Văn

(2008), “Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, tỷ giá góp phần ổn định

kinh tế vĩ mô”, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, (số 15), tr. 23.

16. Nguyễn Ngọc

Vũ (2007), “Quyền chọn, một công cụ tài chính quan trọng trong nền kinh

tế thị trường”, Tạp chí Ngân hàng, (số 5), tr. 34.

Tiếng Anh

17. Anthony S.

and Helen L. (2000), “Financial Institutions Management – A Modern

102

Perspective”. IRWIN publisher.

18. Central

Institute For Economic Management (2004), VietNam’ s Economy in

2003, National Political Publishing.

19. Claudio E.V.

(2004), “The implementation monetary policy in industrial countries: A

survey”, Bis Economic, (No.47), pp. 24-30.

20. Fredic S. M.

(2000,2004), The Economic of Money, Banking, and Financial Markets,

Harper Collins Colleger Publishing.

21. Federal

Reserve Bank of NewYork’ s (2006), “Special Issue on Inflation

Targeting”, Economic Policy Review, (No.23)

22. George H.H.,

Alan B. C., Donald G. S (1999), Bank Management, John Wiley and Son

Pulishing.

23. John H.I

(1999), The Financial Risk Manual – A Systemantic Guide to Identifying

and Management financial Risk, Pitman Publishing.

24. Joel B. M.

(2002), Risk Management in Banking, John Wiley and Son Publishing

25. Heather D.G.

(2003), Exchange Rate and Finance flows in the International Finance

103

system, Longman London and New York Publisher.

26. International

Moneytary Fund (2003), “Vietnam: Selected Issues and Statistical

Appendix”, IMF Country Report, (No.02)

27. International

Moneytary Fund (2005), Annual Report on Exchange Arrangements and

Exchange Restriction, IMF Country Report, (No.08)

28. International

Moneytary Fund (2006), Annual Report on Exchange Arrangements and

Exchange Restriction, IMF Country Report, (No.12), pp: 37.

29. Peter S. R.

104

(1999), Commercial Bank Management. IRWIN.

Phụ lục 1

Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái trên thực tế cùng một lúc bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố tác

động đan xen rất khó dự đoán. Bài viết này khi đưa ra phân tích tác động của

một nhân tố nào sẽ đặt chúng trong môi trường các điều kiện khác không thay

đổi.

Nhân tố tác động tới tỷ giá hối đoái trong dài hạn

1. Các nhân tố là các nền tảng kinh tế cơ bản.

a/ Chính sách ngoại thương: Thuế quan và quota

Thuế xuất nhập khẩu hay còn gọi là thuế quan là tên gọi chung cho hai loại

thuế trong thương mại quốc tế: thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Quota là hạn

ngạch hay số lượng được giới hạn nhập khẩu do Nhà nước quy định trong từng

thời kỳ.

Mục tiêu của thuế quan và quota là: đem lại nguồn thu cho ngân sách; phục

vụ mục tiêu kinh tế (bảo hộ sản xuất trong nước); phục vụ các mục tiêu phi kinh

tế (giảm bớt nhập khẩu các hàng hoá mà Nhà nước không khuyến khích có ảnh

hưởng tới đời sống, môi trường, đạo đức xã hội…) làm cơ sở cho đàm phán

thương mại.

Thuế quan và quota đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.

Những hàng rào ngăn cản tự do buôn bán như thuế quan và quota có thể tác động

đến tỷ giá. Khi một nước áp dụng một loại thuế hoặc quota với hàng nhập khẩu

sẽ làm tăng nhu cầu về hàng nội địa, giảm nhu cầu về ngoại tệ. Do vậy, áp dụng

thuế quan và quota lâu dài sẽ làm cho tỷ giá giảm hay nội tệ lên giá.

b/ Chính sách quản lý ngoại hối và Chính sách điều hành lãi suất của

105

Nhà Nước.

Chính sách quản lý ngoại hối là những quy định pháp lý, những thể lệ của

nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng, bạc, đá quý và các chứng

từ có giá trị ngoại tệ cũng như đối với việc trao đổi, sử dụng, mua bán trên thị

trường nội địa và quan hệ thanh toán, tín dụng với nước ngoài.

Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các

luồng vận động của ngoại hối từ nước ngoài vào và từ trong nước ra có liên

quan tới quan hệ ngoại thương cũng như các quan hệ kinh tế đối ngoại khác bằng

ngoại tệ. Đồng thời, chính sách quản lý ngoại hối cũng quản lý và kiểm soát sự

lưu thông của ngoại hối (chủ yếu là vàng, bạc, đá quý và đặc biệt là ngoại tệ)

trong phạm vi mỗi quốc gia. Với việc thực hiện các nội dung này, chính sách

quản lý ngoại hối không những góp phần phát triển ngoại thương, tạo sự cân

bằng cán cân thanh toán quốc tế mà còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định

giá trị tiền tệ quốc gia nói riêng và ổn định nền kinh tế quốc dân nói chung.

Các chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách tỷ giá hối đoái,

chính sách quản lý thị trường ngoại hối và hoạt động ngoại hối, chính sách quản

lý giao dịch vãng lai, chính sách quản lý giao dịch vốn, chính sách quản lý dự trữ

ngoại hối Nhà nước. Bất cứ sự thay đổi nào về chính sách quản lý ngoại hối đều

ảnh hưởng đến tỷ giá. Các nhà lãnh đạo ngoại việc cần phải nắm vững chính

sách quản lý ngoại hối để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình không vi

phạm chế độ quản lý ngoại hối còn phải hiếu thấu đáo chính sách này để chấp

hành chính sách một cách linh hoạt, tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh và

giảm thiểu mọi rủi ro.

Tuỳ thuộc vào tình hình ổn định về kinh tế – chính trị – xã hội, mỗi quốc

gia sẽ áp dụng chính sách ngoại hối theo cách riêng trên cơ sở áp đặt các rào cản

106

về ngoại hối, can thiệp vào thị trường ngoại hối, quyết định chính sách tỷ giá…

để đảm bảo cân bằng đối nội và đối ngoại của nền kinh tế, tránh được các cú sốc

từ bên ngoài đồng thời tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế.

Tỷ giá ổn định hỗ trợ cho việc chống lạm phát trong tương lai, tăng lòng tin

của công chúng vào đồng nội tệ, tạo ra một trật tự trong quản lý vĩ mô. Tuy

nhiên, nếu theo đuổi mục tiêu này một cách thuần tuý sẽ dẫn đến đồng bản tệ bị

dìm giá. Ví dụ : Trung quốc liên tục 10 năm từ 1997 đến 2005 liên tục neo tỷ giá

1 USD = 8,28 CNY đã khiến cho đồng tiền nước này bị định giá thấp hơn giá trị

thực của nó khoảng 40% mang lại lợi thế bất bình đẳng to lớn về giá cho hàng

xuất khẩu Trung Quốc, giá hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên đắt đỏ và mất đi tính

cạnh tranh trên thị trường, giá hàng xuất khẩu từ Trung Quốc rẻ đi rất nhiều và

Trung Quốc đã thu về một lượng lớn ngoại tệ nhờ xuất khẩu. Trung Quốc đối

mặt với mức thuế 27,5% đối với tất cả các mặt hàng chế tạo của nước này nhập

khẩu vào Mỹ. Do sức ép từ Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác, đến

21/07/2005 Trung Quốc đã nâng giá đồng CNY lên 2,1% ở mức 1 USD = 8,11

CNY. Từ đó đến nay Trung Quốc đã nhiều lần nâng giá đồng CNY, cụ thể: năm

2006 1 USD = 7,97 CNY; năm 2007 1 USD = 7,61 USD, năm 2009 1 USD = 6,5

CNY, năm 2010 1USD = 6,798 CNY.

Tỷ giá thả nổi làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mọi năng động sáng

tạo của các thành viên trong xã hội đều có cơ hội bộc lộ. Tuy nhiên, nếu chỉ theo

đuổi mục tiêu này sẽ dẫn đến khả năng xảy ra lạm phát. Do vậy, những nước

thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái là nước có nền kinh tế phát triển, thường là

nước đứng đầu thế giới về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ, nước

có dự trữ ngoại tệ lớn và đồng tiền nước đó là ngoại tệ tự do chuyển đổi. Ví dụ:

Mỹ, Anh, Pháp

107

c/ Năng suất lao động và thu nhập giữa các quốc gia

Khi năng suất lao động ở một quốc gia này cao hơn quốc gia khác, các nhà

kinh doanh ở nước có năng suất lao động cao có thể hạ giá hàng nội tương đối so

với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi. Kết quả, cầu về hàng nội tăng và đồng nội tệ

có xu hướng tăng. Ngược lại, nếu năng suất lao động của một quốc gia thấp hơn

quốc gia khác thì hàng hoá nước đó trở nên tương đối đắt hơn và đồng tiền nước

đó có xu hướng giảm giá. Về lâu dài, năng suất lao động của một nước cao hơn

tương đối so với nước khác dẫn đến đồng tiền nước đó tăng giá (Hình H1)

Tương quan so sánh mức thu nhập của hai quốc gia cũng quyết định sự

thay đổi tương quan giá trị giữa hai đồng tiền về mặt dài hạn do nó ảnh hưởng

đến nhu cầu xuất nhập khẩu và nhu cầu đầu tư của hai nước. Nếu GDP tính theo

đầu người của một nước tăng nhanh hơn nước khác sẽ làm cho nhu cầu nhập

khẩu của nước đó tăng lên, cầu về ngoại tệ tăng, dẫn đến ngoại tệ tăng giá. Tuy

nhiên, khi thu nhập theo đầu người tăng lên có nghĩa tỷ suất sinh lời của các

khoản đầu tư vào nước này sẽ tăng nhanh hơn, luồng vốn đầu tư đi vào nhiều

hơn lại làm cho nội tệ tăng giá. Hai ảnh hưởng này xảy ra đồng thời và tác động

vào tỷ giá. Sự thay đổi của tỷ giá phụ thuộc vào ảnh hưởng ròng của hai tác động

trên.

Sơ đồ minh hoạ

Giá trị đồng USD

S1

E2

E1

D2

D1

108

Số lượng đồng USD

Hình H1

D1: Đường cầu của Nhật Bản đối với đồng USD

S1: Đường cung về đồng USD

E1:Tỷ giá cân bằng

Khi thu nhập tại Nhật Bản tăng đường cầu đồng USD dịch chuyển thành

D2 trong khi đường cung đồng USD không đổi Tỷ giá cân bằng mới E2 ,

E2 > E1

Các nhân tố chủ quan

a/ Tâm lý tiêu dùng của công chúng và kỳ vọng của nhà đầu tư

Khi tâm lý người tiêu dùng thay đổi từ ưa thích hàng nội sang ưa thích hàng

ngoại hay ngược lại sẽ làm thay đổi cầu về hàng ngoại. Nếu cầu về hàng ngoại

tăng sẽ làm ngoại tệ tăng giá, nội tệ giảm giá và ngược lại. Nếu cầu về hàng xuất

khẩu của một nước tăng lên, về lâu dài sẽ làm đồng tiền nước đó tăng giá.

Kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ tác động đến tỷ giá trong tương lai. Giống như

các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng lại với các thông tin

trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Ví dụ: Thông tin về xu hướng nhập siêu

của một quốc gia sẽ khiến các nhà đầu cơ tại quốc gia đó găm giữ đôla do dự

kiến về sự khan hiếm đồng Đôla. Điều này sẽ gây áp lực tăng giá đồng Đôla .

b/ Nhân tố mức độ hội nhập kinh tế quốc tế

Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia được thể hiện qua việc di

chuyển luồng tiền giữa các quốc gia này với các quốc gia khác ngày một gia tăng

nhằm mục đích thanh toán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.

109

Thêm vào đó, xu hướng tìm kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau

nhằm cho chi phí đi vay giảm xuống, do đó, các luồng vốn di chuyển từ đồng

tiền này qua đồng tiền khác cũng ảnh hưởng đáng kể đến biến động tỷ giá.

c/ Nhân tố: mức độ ổn định chính trị

Mức độ ổn định chính trị của quốc gia có thể thay đổi mức cung và cầu của

bất kỳ một đồng tiền nào, gây ra sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái tương đối so

với đồng tiền khác.

Các nhân tố khách quan

a/ Uy tín của đồng tiền:

Trên thị trường ngoại hối, uy tín của đồng tiền cũng có ảnh hưởng đến biến

động tỷ giá. Đồng tiền có uy tín là đồng tiền có sức mua ổn định, được sử dụng

rộng rãi trong các hoạt động thương mại, thanh toán quốc tế và dự trữ quốc gia.

Trong khi đó, đồng tiền không có uy tín ít được hoặc không được lưu thông trên

thị trường quốc tế, do vậy hoạt động kinh tế đối ngoại của nước đó phải thông

qua một số đồng tiền uy tín dẫn tới sự phụ thuộc vào khả năng dự trữ ngoại tệ

mạnh của quốc gia đó. Khi nhu cầu nhập khẩu tại quốc gia đó gia tăng thì cầu về

ngoại tệ để phục vụ nhập khẩu tăng, kéo theo sự tăng lên của tỷ giá hối đoái.

b/ Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền (mức giá cả tương đối giữa hai

nước)

ảnh hưởng của mức lạm phát của hai nước đến tỷ giá xuất phát từ thuyết

ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity – PPP). Thuyết ngang giá sức mua

là sự sử dụng quy luật một giá. Nội dung cơ bản của quy luật này là: Nếu bỏ qua

chi phí vận chuyển, hàng rào thương mại, các rủi ro và thị trường là cạnh tranh

hoàn hảo, thì các hàng hoá giống hệt nhau sẽ có giá là như nhau ở mọi nơi khi

110

quy về một đồng tiền chung .

Ví dụ 1: Nếu một tấn thép do Mỹ sản xuất giá 100 USD, một tấn thép do

Nhật sản xuất giá 10.000 JPY (với giả thiết thép giống hệt nhau) thì có nghĩa là

tỷ giá E(JPY/USD) = 100

Ví dụ 2: một công ty Nhật Bản và một công ty Mỹ đều bán hàng hoá có thể

thay thế lẫn nhau. Nếu lạm phát ở Mỹ tăng vọt lên đáng kể trong khi lạm phát ở

Nhật Bản vẫn duy trì như cũ sẽ gây ra một sự gia tăng nhu cầu của Mỹ đối với

hàng hoá Nhật Bản. Thêm vào đó, sự tăng vọt trong lạm phát Mỹ sẽ làm giảm

nhu cầu của người Nhật đối với hàng hoá Mỹ, vì thế làm giảm cung đồng JPY để

mua hàng (Hình H2)

Giá trị đồng JPY S2

S1

E2

E1

D2

D1

Số lượng đồng JPY

Hình H1

Khi chưa có lạm phát tăng đột ngột tại Mỹ:

D1: Đường cầu của Mỹ đối với đồng JPY

S1: Đường cung về đồng JPY

E1: Tỷ giá cân bằng của đồng JPY/USD

Khi mức lạm phát tại Mỹ tăng đột biến đường cầu đồng JPY dịch chuyển

thành D2 và đường cung đồng JPY dịch chuyển thành S2. Tỷ giá cân bằng

111

mới E2, E2> E1

Mặc dù thuyết PPP cung cấp cho ta một số hướng dẫn về sự vận động lâu

dài của tỷ giá nhưng nó không được hoàn hảo trong ngắn hạn. Thuyết PPP cũng

không giải thích được đầy đủ biến động của tỷ giá vì

+ Thuyết PPP giả thiết rằng mọi hàng hoá đều giống y như nhau ở cả hai

nước, nhưng giả thiết này không phải bao giờ cũng đúng với các chủng loại hàng

hoá khác nhau.

+ Nhiều hàng hoá và dịch vụ không được mua bán qua biên giới như nhà

cửa, đất đai và dịch vụ như nhà hàng, cắt tóc… Do vậy, mặc dù ngay cả khi giá

cả của những mặt hàng đó có thể tăng lên và dẫn đến mức giá cả tăng lên nhưng

rất ít có tác động đến tỷ giá.

+ Các quan hệ thương mại quốc tế phải chịu chi phí giao dịch như vận

chuyển, bảo hiểm …

Mặc dù vậy, PPP luôn là chỉ dẫn hữu ích để dự đoán chiều hướng biến động

của tỷ giá và giải thích nguyên nhân biến động tỷ giá trong dài hạn.

Nhân tố tác động tới tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn

Khi quan sát sự biến động của tỷ giá, ta thấy rằng tỷ giá trong ngắn hạn

biến động nhanh và mạnh hơn nhiều so với trong dài hạn. Câu hỏi được đặt ra là:

những nhân tố nào xác định xu hướng biến động của tỷ giá trong ngắn hạn?

a) Nhân tố tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền

Theo thuyết ngang giá lãi suất (IRP), tỷ giá giữa hai đồng tiền phải biến

động để phản ánh tương quan mức lãi suất giữa chúng theo công thức:

R – R* ÄE= x 100% 1 + R*

Trong đó: ÄE : tỷ lệ % thay đổi tỷ giá sau một năm

112

R : lãi suất/năm của nội tệ

R* : lãi suất/năm của ngoại tệ

Ví dụ: Nếu mức lãi suất của VND là 8,5%/năm, của USD là 3,5%/năm. Để

VND và USD ngang giá lãi suất, tỷ giá VND/USD phải tăng một tỷ lệ %/năm là:

0,085 – 0,035 ÄE = X 100% = 4,83% 1 + 0,035

Trong ví dụ nêu trên, nếu tỷ giá đầu năm 1 USD = 16.970 VND, theo thuyết

ngang giá lãi suất, tỷ giá cuối năm phải là :

E1 = 16.970 + 16.790 x 4.83% = 17.790

Vì R và R* là mức lãi suất, nên tần số thay đổi phụ thuộc vào chính sách

tiền tệ của NHTW. Trong nền kinh tế tiền tệ, NHTW thường xuyên thay đổi lãi

suất để tác động tích cực lên nền kinh tế, tần số thay đổi càng nhiều làm cho tỷ

giá biến động càng nhanh. Chính vì vậy, tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền

quyết định xu hướng vận động của tỷ giá trong ngắn hạn.

(Nguồn : Nguyễn Văn Tiến (2006), “Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh

doanh ngân hàng”, Nxb Thống kê, tr.171)

Công thức về tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền theo thuyết ngang giá

lãi suất chỉ đúng khi các nhân tố khác không đổi (nhân tố thu nhập, lạm phát…).

Trong khi đó, nền kinh tế luôn bị tác động bởi rất nhiều nhân tố, do vậy tỷ giá

biến động còn phụ thuộc vào lãi suất tương đối và lãi suất thực.

Lãi suất tương đối : Thay đổi trong lãi suất tương đối tác động đến đầu tư

chứng khoán nước ngoài, đến lượt nó đầu tư chứng khoán lại ảnh hưởng đến

113

cung và cầu tiền, dẫn đến thay đổi tỷ giá hối đoái.

Giá trị đồng JPY S1

S2

E1

E2

D1

D2

Số lượng đồng JPY

Hình H3: Tác động của sự gia tăng lãi suất ở Mỹ đến giá trị cân bằng của đồng

JPY

Khi chưa có thay đổi lãi suất tại Mỹ:

D1: Đường cầu của Mỹ đối với đồng JPY

S1: Đường cung về đồng JPY

E1: Tỷ giá cân bằng của đồng JPY/USD

Khi lãi suất tại Mỹ tăng, trong khi lãi suất tại Nhật giữ nguyên không thay

đổi. Trường hợp này, các công ty Mỹ có khả năng giảm nhu cầu của họ đối với

đồng JPY vì lãi suất tại Mỹ hấp dẫn hơn một cách tương đối so với lãi suất tại

Nhật và vì thế có ít đầu tư vào các khoản ký gửi tại ngân hàng Nhật,

cung đồng JPY tăng khi các công ty Nhật thiết lập nhiều hơn các khoản ký gửi

vào ngân hàng Mỹ, đường cung đồng JPY S1 dịch chuyển ra phí ngoài thành

đường S2, đường cầu đồng JPY giảm đi dịch chuyển vào bên trong thành đường

D2 tạo ra tỷ giá cân bằng mới E2, E2< E1. Nếu lãi suất tại Mỹ giảm xuống tương

đối so với lãi suất tại Nhật, dự kiến đường cung và cầu đồng JPY sẽ dịch chuyển

114

ngược lại.

Lãi suất thực: Lãi suất cao tương đối có thể thu hút dòng vốn nước ngoài

(để đầu tư vào các chứng khoán có lãi suất cao) thì đồng thời lãi suất cao phản

ánh dự kiến lạm phát cao. Lạm phát cao có thể đặt áp lực giảm giá lên đồng tiền

nước đó nên không khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài trong việc đằu tư vào

các chứng khoán định danh bằng đồng tiền này. Do đó, cần xem xét lãi suất thực,

là lãi suất danh nghĩa đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát. Theo hiệu ứng Frisher:

Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát

So sánh lãi suất thực giữa các quốc gia để đánh giá biến động của tỷ giá hối

đoái là cách đánh giá hiện nay của các nhà đầu tư bởi lẽ nó kết hợp giữa lãi suất

danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát là hai nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Khi

các nhân tố khác không đổi, sẽ có một tương quan cao giữa chênh lệch lãi suất

thực của hai quốc gia với tỷ giá đồng tiền của hai nước đó.

Những giao dịch trên thị trường ngoại hối làm cho hoặc là dòng thương

mại, hoặc là dòng tài chính lưu chuyển dễ dàng hơn. Giao dịch ngoại hối có liên

quan đến thương mại nhìn chung ít nhạy cảm với các tin tức hơn là giao dịch

ngoại hối liên quan đến dòng tài chính. Bất kỳ những tin tức nào ảnh hưởng đến

biến động dự kiến của tiền tệ thì lập tức ảnh hưởng đến cung và cầu tiền. Những

giao dịch mang tính đầu cơ như vậy khiến cho tỷ giá hối đoái rất bất ổn. Không

có gì là bất thường khi đồng Đô la mạnh ở hôm nay lại yếu đi đáng kể vào ngày

hôm sau. Chính sự phản ứng quá mức đối với tin tức trong ngày của các nhà đầu

cơ đã khiến tỷ giá đồng Đô la biến động trong ngắn hạn

b/ Hiệu ứng Fisher quốc tế (International Fisher Effect-IFE)

Nếu lý thuyết PPP giải thích mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước làm

115

ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thì lý thuyết Hiệu ứng Fisher quốc tế lại giải thích

mức chênh lệch lãi suất giữa hai nước có ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Thuyết

PPP có quan hệ mật thiết với thuyết IFE do chênh lệch lãi suất giữa các quốc

gia có thể là kết quả chênh lệch trong lạm phát.

Mối liên hệ chính xác giữa chênh lệch lãi suất của hai nước và thay đổi tỷ

giá hối đoái dự kiến theo hiệu ứng Fisher quốc tế có thể được diễn đạt như sau:

+ Tỷ suất sinh lợi thực sự khi đầu tư trong nước (Ví dụ: mua chứng khoán, hoặc

gửi ngân hàng ngắn hạn) chính là lãi suất của chứng khoán đó hay lãi suất ngân

hàng.

+ Tỷ suất sinh lợi thực sự khi đầu tư ngoài nước (Ví dụ: mua chứng khoán nước

ngoài hoặc gửi ngoại tệ tại ngân hàng nước ngoài ngắn hạn) không chỉ là lãi suất

của chứng khoán nước ngoài hay lãi suất ngân hàng mà còn phụ thuộc vào phần

trăm thay đổi trong giá trị ngoại tệ (ef) của chứng khoán hay ngoại tệ gửi ngân

hàng.

Tuy nhiên, hiệu ứng Fisher quốc tế không luôn luôn đúng do hiệu ứng

Fisher quốc tế căn cứ trên ngang giá sức mua mà ngang giá sức mua không luôn

đúng ở một số thời kỳ nào đó (như đã trình bày ở trên). Hơn nữa, ngoài lạm phát

còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái do vậy, tỷ giá hối đoái

không chỉ điều chỉnh theo chênh lệch lạm phát.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư đều nhận thấy ba lý thuyết: ngang giá lãi suất

(IRP) – ngang giá sức mua (PPP) - hiệu ứng Fisher quốc tế có liên quan đến

việc xác định tỷ giá hối đoái và họ dựa vào ba lý thuyết này để quyết định đầu tư

trong nước hay ngoài nước để có hiệu quả nhất trên cơ sở kết hợp với một số yếu

tố kinh tế – chính trị khác.

116

c) Điều tiết của Chính phủ trong từng thời kỳ.

Bên cạnh các quy định chung về quản lý ngoại hối, thuế quan và quota, lãi

suất các đồng tiền… Chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối tại một

thời điểm cần thiết để khống chế giá trị của một đồng tiền. Lý do chính để các

NHTW quản lý các tỷ giá hối đoái là: làm dịu bớt các biến động tỷ giá hối đoái;

thiết lập các biên độ tỷ giá hối đoái ẩn; ứng phó với các xáo trộn tạm thời.

Khi NHTW nhận thấy nền kinh tế của mình sẽ bị ảnh hưởng bởi các biến

động đột ngột trong giá trị đồng nội tệ, ngân hàng sẽ cố gắng làm dịu bớt các

biến động tiền tệ bằng nhiều cách: trực tiếp và gián tiếp.

Can thiệp trực tiếp: một vài NHTW nỗ lực duy trì tỷ giá đồng nội tệ trong

vòng các biên độ không chính thức hay ẩn bằng cách đưa một lượng lớn ngoại tệ

mạnh bán ra thị trường. Trường hợp khác, NHTW can thiệp để cô lập giá trị của

một đồng tiền khỏi xáo trộn tạm thời bằng cách bù lỗ cho các mặt hàng nhập

khẩu bị tăng giá. Ví dụ: tại Việt Nam năm 2008, do giá xăng dầu thế giới tăng

liên tục có thời điểm trên 100 USD/thùng, Chính phủ Việt Nam đã phải bù lỗ giá

xăng dầu cho các công ty đầu mối nhập khẩu xăng dầu để ổn định và tăng dần

giá xăng dầu bán trong nước tránh sự xáo trộn đột ngột về tỷ giá.

Can thiệp gián tiếp: Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá một ngoại tệ bằng

cách tác động đến các yếu tố có ảnh hưởng tới ngoại tệ đó như: thay đổi lãi suất

cho vay, lãi suất huy động của đồng ngoại tệ; giải thể hoặc sáp nhập các Tổng

Công Ty lớn nhằm khuyến khích cạnh tranh đối với các mặt hàng chiến lược của

quốc gia; áp dụng các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế; thay đổi

nhân sự cấp cao trong các lĩnh vực kinh tế/chính trị then chốt nhằm thay đổi

117

chính sách điều hành kinh tế vĩ mô. Ví dụ: ngày 02/06/1987 tin Paul Volcker sẽ

từ chức Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang được công bố đã làm giảm giá

đáng kể đối với đồng Đô la, lý do: Volcker rất nổi tiếng do các nỗ lực chống lạm

phát. Những người tham gia thị trường dự đoán lạm phát ở Mỹ sẽ cao hơn và

như vậy đồng Đôla có thể sẽ giảm giávì sự từ chức này. Những dự đoán này đã

đưa đến việc bán ra một lượng Đô la lớn trong thị trường hối đoái và giá Đô la sẽ

giảm ngay tức khắc.

d) Các nhân tố khác

Ngoài các nhân tố cơ bản nêu trên làm tác động tới tỷ giá hối đoái trong ngắn

hạn còn phải kể tới rất nhiều các nhân tố khác như: quan hệ cung – cầu về ngoại

tệ; thâm hụt ngân sách nhà nước; thay đổi trong dự trữ ngoại tệ quốc gia; không

có hàng thay thế cho hàng nhập khẩu; những cú sốc về chính trị, kinh tế, xã hội,

thiên tai… đòi hỏi các nhà đầu tư phải có đầu óc phán đoán nhanh nhạy để ra

được quyết định đúng đắn.

Phụ lục 2

Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nội bảng và ngoại bảng là các biện

pháp chủ yếu để các NHTM cân nhắc áp dụng trong suốt quá trình kinh doanh.

Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể áp dụng các biện pháp này nếu vì lý

do nào đó, tình hình kinh tế biến động, chênh lệch lãi suất của đồng nội tệ và

đồng ngoại tệ diễn biến thất thường, các biện pháp phòng ngừa ngoại bảng

không thể áp dụng được vì không hiệu quả. Do vậy, ngoài các biện pháp phòng

ngừa cụ thể nêu trên, các nhà kinh doanh phải tự phân tích sự biến động liên tục

các chỉ số của nền kinh tế để tự rút ra một quy luật về tỷ giá hay còn gọi là

118

phương pháp dự báo tỷ giá.

Các NHTM hay các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh có

liên quan đến ngoại hối phải luôn đối đầu với quyết định nên phòng ngừa rủi ro

tỷ giá bằng biện pháp nào cho hiệu quả nhất. Việc đầu tiên phải tính đến đó là dự

báo tỷ giá tại thời điểm cần thanh toán bằng đồng ngoại tệ. Ví dụ: Nếu một

NHTM dự báo tỷ giá giao ngay của NHNN công bố sau 3 tháng nữa thấp hơn tỷ

giá kỳ hạn 90 ngày đang thực hiện tại thời điểm dự báo thì NHTM đó không

nhất thiết phải phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng kỳ hạn.

Như đã phân tích ở trên, tỷ giá hối đoái cùng một lúc bị ảnh hưởng bởi rất

nhiều nhân tố, có nhân tố làm tăng và có nhân tố làm giảm tỷ giá. Các nhà phân

tích đã đưa ra bốn phương pháp để dự báo tỷ giá:

Phân tích kỹ thuật

Phân tích cơ bản

Phân tích dựa vào thị trường

Phân tích tổng hợp

Dự báo bằng phân tích kỹ thuật: là việc sử dụng số liệu lịch sử để dự báo

tỷ giá tương lai. Trên cơ sở phân tích chuỗi thời gian, đánh giá sự chuyển động

trung bình của tỷ giá để nhận định tỷ giá trong tương lai gần.

Dự báo bằng phân tích cơ bản: là dự báo dựa trên các mối quan hệ giữa

các biến số kinh tế và tỷ giá hối đoái. Dựa trên giá trị hiện tại của các biến số

này cùng với tác động lịch sử của chúng đối với tỷ giá để có thể triển khai các

dự kiến về tỷ giá. Ví dụ: lạm phát cao ở một quốc gia có thể làm giảm giá đồng

tiền quốc gia đó.

Dự báo dựa trên cơ sở thị trường: là quá trình triển khai dự báo từ các chỉ

số thị trường

119

Dự báo hỗn hợp: vì không có một kỹ thuật dự báo nào liên tục ưu thế hơn

các dự báo khác nên cần phải sử dụng kết hợp nhiều dự báo. Nhiều phương pháp

dự báo tỷ giá có thể được triển khai bằng cách sử dụng nhiều kỹ thuật dự báo.

Mỗi kỹ thuật dự báo sẽ có một quyền số khác nhau, phương pháp nào được cho

là có độ tin cậy cao hơn thì sẽ có quyền số cao hơn. Dự báo tỷ giá thực sự sẽ là

120

bình quân gia quyền của các phương pháp.