VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH LUẬN
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
VỀ MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐÌNH LUẬN
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
VỀ MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TĨNH
Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số : 9380105
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đinh Thị Mai
2. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học
của luận án chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 10
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................. 10
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................................... 17
1.3. Nhận xét, đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ..................... 24
Tiểu kết Chƣơng 1 ................................................................................................... 27
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG ........................................................................... 29
2.1. Khái niệm và đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường ....... 29
2.2. Nguyên tắc và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường ....... 36
2.3. Cơ sở pháp lý của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường .............. 42
2.4. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường .............................. 47
2.5. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường ............................ 51
2.6. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường........................... 53
2.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường ......... 55
Tiểu kết Chƣơng 2 ................................................................................................... 60
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ
MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH ............................................ 62
3.1. Tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ........................... 62
3.2. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh ................................................................................................. 77
3.3. Thực trạng biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
tại tỉnh Hà Tĩnh ................................................................................................... 88
3.4. Đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .................... 101
Tiểu kết Chƣơng 3 ................................................................................................. 112
Chƣơng 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TĨNH .................................................................................................... 115
4.1. Dự báo tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
thời gian tới ....................................................................................................... 115
4.2. Quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường ở tỉnh Hà
Tĩnh ................................................................................................................... 123
4.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tôi phạm về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ...................................................................... 127
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................................... 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 159
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 167
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT : Bảo vệ môi trường
CAND : Công an nhân dân
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
HTX : Hợp tác xã
NCS : Nghiên cứu sinh
NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
: Tình hình tội phạm THTP
: Trách nhiệm hữu hạn TNHH
: Ủy ban nhân dân UBND
UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ PHỤ LỤC
Danh mục bảng
Bảng 1. Tổng số vụ án hình sự về môi trường và tổng số bị cáo phạm tội về môi
trường so với tổng số vụ án hình sự và tổng số bị cáo phạm tội hình sự
nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2019. ........... 167
Bảng 2. Thống kê tổng số vụ, việc vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 - 2019 ................................................................. 167
Bảng 3. Kết quả khảo sát chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến phòng
ngừa THTP về môi trường ........................................................................... 168
Bảng 4. Kết quả khảo sát chất lượng phương tiện tuyên truyền phòng ngừa
THTP về môi trường .................................................................................... 168
Danh mục sơ đồ
Sơ đồ 1. Tương quan tỷ lệ số vụ án hình sự về môi trường với tổng số vụ án
hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 -
2019 .............................................................................................................. 169
Sơ đồ 2. Tương quan tỷ lệ số bị cáo phạm tội về môi trường với tổng số bị cáo
phạm tội hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm
2010 - 2019 ................................................................................................... 169
Sơ đồ 3. Diễn biến số vụ phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 -
2019 .............................................................................................................. 170
Sơ đồ 4. Diễn biến số bị cáo phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm
2010 - 2019 ................................................................................................... 170
Sơ đồ 5. Cơ cấu theo tội danh tội phạm về môi trường năm 2019 ......................... 171
Sơ đồ 6. Cơ cấu theo hình phạt các bị cáo phạm tội về môi trường giai đoạn từ
năm 2010 - 2019 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ................................................. 171
Sơ đồ 7. So sánh tương quan số vụ xử lý hành chính và số vụ xử lý hình sự về
hành vi vi phạm pháp luật về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 -
2019 .............................................................................................................. 172
Sơ đồ 8. So sánh tương quan số vụ xử lý hành chính và số người bị xử lý hành
chính về hành vi vi phạm pháp luật về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ
năm 2010 - 2019 ........................................................................................... 172
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu từ kinh tế,
chính trị đến văn hoá, xã hội. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu hút đầu tư nước
ngoài mạnh, đời sống người dân không ngừng được cải thiện và vị thế quốc gia
không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, cũng chính quá trình
phát triển đó đã tạo ra nhiều hệ lụy về môi trường. Kết quả ngày nay, Việt Nam
đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề môi trường tiêu cực như: suy thoái đa dạng
sinh học và mất cân bằng sinh thái; chất lượng rừng tiếp tục suy giảm và mất chức
năng phòng hộ; gia tăng chất thải, ô nhiễm môi trường và vấn đề an toàn thực
phẩm; gia tăng rủi ro và sự cố môi trường; gia tăng hạn hán, xâm nhập mặn và ảnh
hưởng của thiên tai; cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và vấn đề an ninh nguồn nước;
xâm lược sinh thái và an ninh môi trường xuyên biên giới; ô nhiễm không khí và
biến đổi khí hậu; suy giảm chất lượng đất và đe dọa đến nền nông nghiệp; tình trạng
hạn hán, xâm nhập mặn phổ biến… Những vấn đề môi trường đang ngày càng trở
nên trầm trọng và tất yếu đe dọa đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Ngoài những nguyên nhân tự nhiên làm biến đổi và suy thoái chất lượng môi
trường toàn cầu, các vấn đề và xu hướng môi trường tiêu cực mà Việt Nam đang
đối mặt phần lớn đều xuất phát từ những mặt trái của kinh tế thị trường, khiến con
người chạy theo lợi ích cá nhân và tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên. Nói cách
khác, nguyên nhân cơ bản của các vấn đề môi trường hiện nay là nhân tạo. Sự tăng
trưởng làm cho nền kinh tế trở nên sôi động, cũng làm cho các hành vi xâm hại môi
trường ngày càng phổ biến. THTP về môi trường theo thời gian cũng trở nên phức tạp
và luôn có xu hướng gia tăng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển kinh tế của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân
như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, lo lắng về thực phẩm kém an toàn... tại một
số địa phương đã trở thành mầm mống mất an ninh trật tự. Điều này đồng thời cũng đặt
ra đòi hỏi bức thiết về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường. Trong
đó, phòng ngừa THTP về môi trường là một công tác chính yếu và là tư tưởng chủ đạo
trong phòng chống tội phạm về môi trường.
Phòng ngừa THTP về môi trường mặc dù được triển khai thực hiện và mang
đến những kết quả đáng ghi nhận như THTP về môi trường ở một số lĩnh vực nhất
1
định có xu hướng giảm; một số nhóm THTP về môi trường cơ bản được kiểm soát;
THTP về môi trường ở một số địa phương cũng đã có những chuyển biến tích cực...
Tuy nhiên, tựu chung lại công tác phòng ngừa vẫn chưa đạt được mục tiêu vì xét
đến cùng các vấn đề về môi trường ở nước ta luôn duy trì xu hướng ngày càng tiêu
cực. Nguyên nhân của sự chưa hiệu quả của phòng ngừa THTP về môi trường đến
từ cả yếu tố khách quan và chủ quan như: sự tác động của kinh tế thị trường; các
vấn đề tiêu cực của kinh tế toàn cầu; hệ thống pháp luật về BVMT chưa hoàn thiện;
chất lượng đội ngũ thực thi còn hạn chế; các biện pháp phòng ngừa thiếu đa dạng;
nhận thức của xã hội về phòng ngừa THTP về môi trường chưa phổ biến… Thực tế
đó đặt ra đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa trong tương lai.
Tỉnh Hà Tĩnh được xem là một hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam về những vấn
đề môi trường tiêu cực đang phải đối mặt như: quy mô rừng tự nhiên giảm 1/3 sau
10 năm; nền nhiệt độ gia tăng 2 độ C sau 8 năm; hoạt động săn bắt động vật hoang
dã và khai thác thực vật hoang dã, khai thác tài nguyên tiếp tục diễn biến phức tạp
làm suy thoái tài nguyên, một số chủng loại đã cạn kiệt; tình trạng xâm nhập mặn
tính đến năm 2019 làm 17.000 ha đất nông nghiệp mất khả năng canh tác; Nồng độ
carbon dioxide trong khí quyển ở mức cảnh báo từ 180 - 300ppm; đa dạng sinh thái
bị đe dọa, ước tính 82% sinh khối động vật có vú hoang dã đã bị mất; ô nhiễm môi
trường, đặc biệt ô nhiễm môi trường nước ngày một diễn biến phức tạp, trong 03
năm 2017, 2018 và 2019 trung bình mỗi ngày có 7 tấn rác thải rắn từ đại dương dạt
vào bờ; thiên tai đang có diễn biến nặng và xuất hiện đa thiên tai; tần suất và quy
luật lũ lụt cũng thay đổi. So với giai đoạn từ năm 2000 - 2010, giai đoạn từ năm
2010 - 2020 có số lượng đợt lũ tăng gấp đôi từ 02 đợt/năm lên 04 đợt/năm… Hậu
quả này có mối liên hệ mật thiết với THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh khi trong
10 năm từ năm 2010 - 2019 tổng số vụ án về tội phạm môi trường từ 7 vụ năm 2010
đến 37 vụ năm 2019, tăng 81% trong 10 năm, tổng số bị cáo phạm tội về môi trường
có xu hướng tăng cao từ 11 người năm 2010 lên 66 người năm 2019, với tốc độ tăng
sau 10 năm là 83%. Điều này cũng cho thấy công tác phòng ngừa THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chưa đạt được hiệu quả, nhiều vấn đề vướng mắc,
khó khăn đặt ra đòi hỏi phải có sự xem xét, đánh giá để khắc phục. Việc nghiên cứu
phòng ngừa THTP về môi trường trên một địa bàn cụ thể có ý nghĩa quan trọng
2
trong việc phát hiện và phân tích sâu sắc hơn các vấn đề thực tiễn. Từ đó đáp ứng
được yêu cầu về xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP về môi
trường.
Từ những yêu cầu bức thiết đó của thực tiễn, NCS chọn đề tài tiến sĩ “Phòng
ngừa tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” làm luận án
tiến sĩ chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận án hướng đến mục đích làm rõ lý luận và thực trạng phòng ngừa
THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, từ đó đưa ra dự báo và các giải pháp
tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời
gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến
phòng ngừa THTP về môi trường từ đó rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
trong luận án.
+ Phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa THTP về môi trường, bao
gồm các vấn đề về tội phạm về môi trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường
trên tất cả các phương diện lý luận, như: khái niệm, nguyên tắc phòng ngừa, đặc
điểm, nội dung, ý nghĩa, chủ thể phòng ngừa, nội dung phòng ngừa; Các yếu tố ảnh
hưởng tới phòng ngừa và phương pháp thực hiện phòng ngừa tội phạm về môi
trường được nghiên cứu và luận giải dưới góc độ nghiên cứu của chuyên ngành tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 - 2020, bao gồm thực trạng mức độ, động thái, diễn biến,
cơ cấu, tính chất và hậu quả thiệt hại về môi trường trên địa bàn; nguyên nhân và
điều kiện của THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh; thực trạng nhận thức; khảo sát và
đánh giá thực trạng biện pháp phòng ngừa. Đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót
và phân tích những nguyên nhân của các hạn chế, thiếu sót đó.
+ Dự báo THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và các yếu tố tác
động đến hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, đề
xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh
3
Hà Tĩnh trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, thực trạng quy định của
pháp luật và thực trạng phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Tội phạm học và
Phòng ngừa tội phạm.
- Về nội dung: Nghiên cứu THTP về môi trường và phòng ngừa THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Về chủ thể: Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp; các cơ quan tư pháp; các
cơ quan, ban, ngành, đoàn thể khác có liên quan và quần chúng nhân dân.
- Về địa bàn nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 - 2020.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về công tác phòng, chống tội phạm nói chung, về phòng, chống tội phạm môi
trường nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên việc sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, bao gồm: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm:
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết; Phương pháp phân loại và hệ thống
hoá lý thuyết; Phương pháp mô hình hoá; Phương pháp mô tả; Phương pháp lịch sử;
Phương pháp so sánh luật học. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm:
Phương pháp quan sát khoa học; Phân tích, tổng hợp số liệu; Phương pháp chuyên
gia. Các phương pháp được sử dụng cụ thể tại các Chương của luận án như sau:
- Chương 1 với mục đích hệ thống hoá các công trình đã nghiên cứu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu của luận án theo thời gian, từ đó rút ra đánh giá các kết quả
và dự báo xu hướng nghiên cứu, NCS sử dụng chủ yếu hai phương pháp nghiên
4
cứu: Phương pháp lịch sử và Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết. Cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm thống kê các công trình nghiên cứu
về vấn đề tội phạm học và phòng ngừa tội phạm; tội phạm về môi trường và phòng
ngừa THTP về môi trường trong lịch sử ở phạm vi trong và ngoài nước, qua đó cho
thấy được tiến trình lịch sử nghiên cứu của vấn đề.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết được sử dụng sau khi có kết
quả thống kê từ phương pháp lịch sử. NCS sẽ phân tích các tài liệu nhằm chia nhóm
các vấn đề nghiên cứu để tìm hiểu sâu sắc hơn về phương pháp, nội dung và kết quả
nghiên cứu, qua đó cho thấy được xu hướng nghiên cứu nào trội hơn về mặt số
lượng và chất lượng. Trên cơ sở những kết quả có được từ phân tích chuyên sâu,
NCS tổng hợp lại các xu hướng nghiên cứu đã phân tích để thấy được bức tranh
tổng quan về tình hình nghiên cứu của vấn đề.
- Chương 2 nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm về môi
trường, NCS sử dụng chủ yếu các phương pháp: Phương pháp lịch sử; Phương pháp
phân loại và hệ thống hoá lý thuyết; Phương pháp mô hình hoá; Phương pháp mô
tả; Phương pháp so sánh luật học. Cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm phản ánh các giá trị lý luận đã
được làm rõ trong lịch sử về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này cho thấy hành
trình của khái niệm và các vấn đề lý luận khác về phòng ngừa THTP về môi trường.
+ Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết được sử dụng sau khi có
được kết quả từ phương pháp lịch sử. NCS sẽ phân loại vấn đề lý luận về phòng
ngừa tội phạm về môi trường thành các nhóm khác nhau dựa trên tiêu chí góc độ
tiếp cận; phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu. Qua đó NCS thực hiện thao
tác hệ thống các nhóm lý thuyết này để chỉ ra các tiếp cận phổ biến nhất trong lịch
sử về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường.
+ Phương pháp mô tả và mô hình hoá được sử dụng trong xây dựng nội dung
phân tích các yếu tố cấu thành của THTP về môi trường. Trong đó mô tả nhằm làm
rõ các nội dung, đặc điểm của từng thành tố; mô hình hoá được sử dụng để làm rõ
mối quan hệ, sự tương quan giữa các thành tố đó.
+ Phương pháp so sánh luật học được sử dụng nhằm đối chiếu các quan điểm
khoa học và các ghi nhận pháp lý của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới
nhằm tìm ra được các quan điểm đồng quy và khác biệt trong nhận diện vấn đề
5
phòng ngừa THTP về môi trường.
- Chương 3 với mục đích phản ánh, phân tích thực trạng phòng ngừa tội phạm
về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, NCS sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp quan sát khoa học; Phân tích, tổng hợp số liệu;
Phương pháp điều tra xã hội học và Phương pháp chuyên gia. Cụ thể:
+ Phương pháp quan sát khoa học được sử dụng nhằm quan sát thực tiễn THTP về
môi trường, tình hình tổ chức lực lượng phòng ngừa và các hoạt động phòng ngừa THTP
về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đây là phương pháp tự thu thập thông tin nhằm
làm cơ sở đối chiếu với kết quả thu thập được trên cơ sở của hai phương pháp: phương
pháp điều tra xã hội học và phân tích, tổng hợp số liệu dưới đây.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu được sử dụng nhằm phân tích các
số liệu có được từ các báo cáo tình hình và kết quả phòng ngừa THTP về môi
trường của Phòng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh; phần báo cáo tình hình và
thực trạng phòng ngừa THTP về môi trường trong các báo cáo hàng năm của Công
an các huyện; số liệu tổng kết hoạt động công tố của VKSND và thống kê các bản
án trong 10 năm trở lại đây của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và các toà án cấp
huyện về thụ lý và kết quả giải quyết các vụ án về môi trường. Từ đó NCS thực
hiện thao tác tổng hợp để khái quát tình hình diễn biến tội phạm, cũng như tình hình
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
+ Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng bằng cách phát phiếu bảng
hỏi và phỏng vấn sâu nhằm thu thập ý kiến của người dân về đánh giá THTP về môi
trường và kết quả phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Kết
quả của phương pháp này sẽ mang tính đối chiếu với kết quả của phương pháp quan
sát khoa học và phân tích, tổng hợp báo cáo thực tiễn nhằm đưa ra được sự phản
ánh thực trạng khách quan nhất cho nghiên cứu. Phương pháp này được thực hiện
bằng điều tra bảng hỏi và phỏng vấn sâu đối với hai nhóm đối tượng gồm: người
dân và cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, NCS đã sử dụng 1.000 bảng hỏi dành
cho người dân theo phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên để khảo sát về hai nhóm vấn
đề gồm: Nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường và đánh giá công tác phòng
ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đối với cơ quan quản lý nhà
nước, NCS sử dụng 2.000 bảng hỏi được phân bổ phạm vi chọn mẫu như sau: 500
6
bảng hỏi cho cấp tỉnh, 1.000 bảng hỏi cho huyện và 500 bảng hỏi cho cấp xã. Việc
chọn mẫu cũng được tiến hành ngẫu nhiên nhằm xác định nhận thức của cán bộ,
công chức các cấp về phòng ngừa THTP về môi trường. Phương pháp phỏng vấn
sâu được sử dụng ngẫu nhiên khi thẩm định lại một số bảng hỏi mà NCS thấy cần
thiết để xác minh tính nhất quán của nội dung trả lời.
+ Phương pháp tham vấn chuyên gia được sử dụng bằng cách tham gia các hội
nghị, hội thảo, tham vấn ý kiến các chuyên gia lý luận và thực tiễn về vấn đề môi
trường, tội phạm về môi trường và phòng ngừa THTP về môi trường để bổ sung
thêm các lý giải về tình hình thực tiễn và nguyên nhân của nó.
- Chương 4 với mục đích dự báo THTP về môi trường thời gian tới và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh, NCS sử dụng chủ yếu hai phương pháp: tham vấn chuyên gia và
phân tích. Trong đó, phương pháp tham vấn chuyên gia được sử dụng nhằm làm
phong phú thêm nhận định về THTP về môi trường dưới nhiều góc độ ý kiến khác
nhau, đồng thời tìm kiếm các gợi mở giải pháp qua ý kiến các chuyên gia. Phương
pháp phân tích được sử dụng để chỉ ra và làm rõ các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình khoa học đầu tiên, luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống và tương đối toàn diện những vấn đề lý luận về phòng ngừa
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận án đã nâng tầm và xác định cụ thể, chính xác hơn nội hàm khái niệm
môi trường làm cơ sở để xác định các vấn đề lý luận liên quan đến tội phạm về môi
trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường trên tất cả các phương diện lý luận,
và dưới góc độ nghiên cứu của chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm. Thông qua việc phân tích làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm, các thông
số và nguyên nhân, điều kiện của THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; khái
niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, cơ sở pháp lý, quan hệ phối hợp và
hợp tác quốc tế trong phòng ngừa THTP về môi trường nói chung trên địa bàn cả nước
và các đặc điểm riêng có trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, luận án góp phần hoàn thiện lý luận
về phòng ngừa phòng ngừa THTP về môi trường nói chung và tại một địa bàn cấp tỉnh
7
nói riêng.
- Thông qua việc thu tập, tập hợp, phân tích, đánh giá một cách toàn diện và
chuyên sâu thực trạng phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh,
luận án đã phân tích, đánh giá được thực trạng mức độ, động thái, diễn biến, cơ cấu,
tính chất và hậu quả thiệt hại về môi trường trên địa bàn; nguyên nhân và điều kiện
của THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh; thực trạng nhận thức; khảo sát và đánh
giá thực trạng biện pháp phòng ngừa.
- Trên cơ sở kết quả của khảo sát thực trạng, luận án cũng đã làm rõ những ưu
điểm, hạn chế, thiếu sót cũng như nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong
phòng ngừa tình hình loại tội phạm này trên địa bàn nói trên.
- Luận án đã dự báo các yếu tố tác động ảnh hưởng, xu hướng hoạt động của
loại tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đồng thời đánh giá các hạn
chế trong công tác phòng ngừa tội phạm về môi trường tại địa phương; từ đó đề
xuất xây dựng hệ thống giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Những lập luận, nhận xét, kết luận và kết quả nghiên cứu khác của luận án góp
phần bổ sung những lý luận cần thiết về phòng ngừa tội phạm về môi trường nói
chung, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của chuyên ngành tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án, đặc biệt là một số giải pháp trọng tâm mà
NCS đưa ra, trong đó có các giải pháp mang tính đặc thù chuyên ngành có thể làm
cơ sở để các cấp có thẩm quyền, nhất là các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói
chung tham khảo. Thiết thực góp phần hoạch định những chương trình, kế hoạch,
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
Luận án có thể được xem là tài liệu phục vụ cho các cán bộ trong các cơ
quan nhà nước nói chung, nhất là các cán bộ thuộc các cơ quan có thẩm quyền
8
tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội phạm nghiên cứu phục vụ nâng cao hiệu
quả công tác chuyên môn. Bên cạnh đó, luận án là tài liệu tham khảo phục vụ
biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học và nghiên cứu, giảng dạy trong các học viện,
nhà trường có liên quan ở nước ta.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
án có 04 chương, cụ thể là:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu;
Chương 2. Những vấn đề lý luận phòng ngừa THTP về môi trường;
Chương 3. Thực trạng phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh;
Chương 4. Dự báo và các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi
9
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
1.1.1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng ngừa THTP về môi trường là một
nội dung được nhiều học giả với đa dạng các công trình nghiên cứu ở phạm vi nước
ngoài đề cập tới. Đặc biệt, trong xu hướng những vấn đề BVMT đang được đặt ra bức
thiết như hiện nay, số lượng các nghiên cứu gia tăng nhanh về số lượng. Những vấn đề
lý luận về phòng ngừa THTP về môi trường là vấn đề nghiên cứu có tính lịch sử. Nghĩa
là tuỳ vào từng thời điểm lịch sử và chế độ pháp lý mà các quan điểm, góc độ tiếp cận
và phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa về THTP về môi trường khác nhau.
Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, có thể phân tích tình hình nghiên cứu của vấn đề
này thống nhất dưới những nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu về khái niệm của phòng ngừa THTP về môi trường. Khái niệm
phòng ngừa THTP về môi trường đã có rất nhiều công trình ở phạm vi nước ngoài
nghiên cứu. Hướng tiếp cận để xây dựng khái niệm của các nghiên cứu này đều có
điểm đồng quy bản chất của hoạt động phòng ngừa THTP này. Cụ thể, các nghiên
cứu đều đề cập đến khái niệm phòng ngừa THTP về môi trường có bản chất là hoạt
động tác động có chủ đích của chủ thể phòng ngừa vào khách thể phòng ngừa để đạt
được các mục tiêu phòng ngừa THTP về môi trường (thường là thấp hơn THTP ở
hiện tại) trong tương lai. Khái niệm này thể hiện rõ bản chất của phòng ngừa chính
là sử dụng hành vi hiện tại để hướng tới tương lai. Tiêu biểu cho các nghiên cứu này
có thể kể tới: nhóm tác giả Lynch, M. J., Long, M. A., Barrett, K. L., & Stretesky,
P. B. Is it a crime to produce ecological disorganization? Why green criminology
and political economy matter in the analysis of global ecological harms. British
Journal of Criminology, 53 (6), 997 – 1016 năm 2013 [88] và nhóm các tác giả Li,
F., Liu, Y., Lü, J., Liang, L., & Harmer, với nghiên cứu Pambient air pollution in
China poses a multifaceted health threat to outdoor physical activity. Journal of
Epidemiology & Community Health, 69, 201 – 204 năm (2015) [86].
Ở khía cạnh khác khi nghiên cứu về phòng ngừa THTP về môi trường xuất
10
phát từ vai trò của hoạt động này. Cụ thể, phòng ngừa THTP về môi trường là việc
tìm kiếm và sử dụng các giải pháp ngăn chặn ý định thực hiện các hành vi trái pháp
luật về môi trường để bảo vệ và duy trì chất lượng môi trường tự nhiên. Cách khái
niệm này thể hiện rõ mục tiêu hướng tới chính yếu của công tác phòng ngừa là việc
ngăn chặn ý định thực hiện hành vi. Điều này đặc biệt ở chỗ, việc phòng ngừa chủ
yếu có ý nghĩa tác động về mặt nhận thức đến các đối tượng để ràng buộc họ không
có tư tưởng xâm phạm môi trường. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này có thể kể tới tác
giả Higgins, P., Short, D., & South, N với nghiên cứu Protecting the planet: A
proposal for a law of ecocide. Crime, Law and Social Change, 59, 251–266 năm
2013 [83] và hai tác giả Gray, W., & Shadbegian, R. J. Multimedia pollution
regulation and environmental performance: EPA’s cluster rule. Resources for the
future. Downloaded on September 30, 2016 [81]…
Ngoài ra còn một số cách tiếp cận khái niệm phòng ngừa THTP về môi trường
khác, song ít tính nổi bật hơn như xem phòng ngừa THTP về môi trường là một
biện pháp đảm bảo trật tự xã hội và BVMT; là một khía cạnh của phòng ngừa tội
phạm nói chung, trong đó mục tiêu là làm giảm tội phạm trong tương lai…
- Nghiên cứu về đặc điểm và ý nghĩa của THTP về môi trường. Các nghiên
cứu như: tác giả Ditsevich Iaroslava Borisovna (2009) với nghiên cứu
KpumuhoПozuчeckaя xapakmepucmukaueъynpeжeъhue Эkoпozuчeckoй
npecmynhocmu (đặc điểm tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về môi trường),
luận án phó tiến sĩ luật học, khoa luật, Trường Đại học tổng hợp quốc gia
Baikanskiy, thành phố Iarkytsk Liên bang Nga, Chuyên ngành: Luật hình sự, Tội
phạm học, Luật thi hành án hình sự; Mã số 12.00.08; sách chuyên khảo
“Environmental Crime” (Tội phạm môi trường) của các tác giả Mary Califford và
Terry D. Edwards, Nhà xuất bản Jones & Bartlett Publishers, năm 2011, dày 426
trang và sách chuyên khảo: Environmental crime in Australia Instilute of Australia
criminilogy researching (Tội phạm môi trường ở Australia, Viện nghiên cứu tội
phạm Australia), năm 2010 của tác giả Samantha Bricknell… đã phân tích các đặc
điểm của phòng ngừa THTP về môi trường như là một hoạt động lợi ích hướng tới
tương lai do các chủ thể có thẩm quyền BVMT thực hiện chủ yếu; có phạm vi
phòng ngừa lớn và phức tạp; phương pháp phòng ngừa đa dạng, đòi hỏi sự kết hợp
của nhiều yếu tố… Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên cũng đã phân tích làm rõ các ý
nghĩa của phòng ngừa THTP về môi trường như: giúp đảm bảo trật tự xã hội;
11
BVMT tự nhiên; đảm bảo môi trường sống trong lành; duy trì điều kiện sống cho
tương lai… Các đặc điểm và ý nghĩa được đề cập đến này vẫn còn được thừa nhận
và đề cập đến trong nhiều nghiên cứu hiện nay.
- Nghiên cứu về chủ thể và phương pháp phòng ngừa THTP về môi trường.
Đây là một nội dung được nhiều nghiên cứu phân tích sâu. Theo đó, các nghiên cứu
của các tác giả như: hai tác giả Gray, W., & Shadbegian, R. J. Multimedia pollution
regulation and environmental performance: EPA’s cluster rule. Resources for the
future. Downloaded on September 30, 2016 [81]; nhóm các tác giả Li, F., Liu, Y.,
Lü, J., Liang, L., & Harmer, với nghiên cứu Pambient air pollution in China poses a
multifaceted health threat to outdoor physical activity. Journal of Epidemiology &
Community Health, 69, 201 - 204 năm (2015) [86]; Tác giả Samaantha Bricknell
với nghiên cứu Environmental crime in Australia (tạm dịch: Tội phạm về môi
trường ở Úc) do Viện nghiên cứu tội phạm Úc ấn hành năm 2010 [101]… đã phân
tích các nhóm chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường thành hai nhóm cơ bản
gồm: nhóm các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và nhóm các cơ quan được
giao chuyên môn phòng ngừa THTP về môi trường. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng
vai trò hoạch định chính sách, kế hoạch, cách thức… Nhóm thứ hai cụ thể các
đường hướng đó và tiến hành trên thực tiễn. Nhóm thứ nhất do cơ quan nhà nước
thẩm quyền chung theo sự phi tập trung hoá đảm nhiệm. Nhóm thứ hai do cơ quan
tư pháp và lực lượng vũ trang đảm nhiệm. Bên cạnh đó, phương pháp phòng ngừa
THTP về môi trường cũng được phân tích với kết quả chỉ ra rằng, các phương pháp
bao gồm hai nhóm: nhóm phương pháp trực tiếp và nhóm phương pháp gián tiếp.
Trong đó, phương pháp trực tiếp là những phương pháp trực tiếp tác động vào
những vấn đề liên quan đến THTP môi trường ở hiện tại để nhằm giảm thiểu THTP
môi trường trong tương lai. Nhóm thứ hai là sử dụng những phương pháp phòng
ngừa THTP gián tiếp tác động đến đời sống kinh tế, xã hội nhằm thay đổi nhận thức
và hành vi của những người có nguy cơ thực hiện các hành vi phạm tội về môi
trường nhằm làm giảm THTP về môi trường trong tương lai.
- Nghiên cứu về những vấn đề tác động đến phòng ngừa THTP về môi trường.
Nội dung này đã được một số nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ
“Environmental crime: Evidence gathering and Investigatvie” (Tội phạm môi
trường: Thu thập chứng cứ và kỹ thuật điều tra) của tác giả Steven C.Drielak, năm
1998, Trường Đại học tổng hợp Michigan, Hoa kỳ được đề cập trong phần tình hình
12
nghiên cứu ở nước ngoài luận án tiến sĩ của tác giả Trần Quốc Tỏ, năm 2013; tác
giả Ditsevich Iaroslava Borisovna (2009), KpumuhoПozuчeckaя
xapakmepucmukaueъynpeжeъhue Эkoпozuчeckoй npecmynhocmu (đặc điểm tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm về môi trường), luận án phó tiến sĩ luật học,
khoa luật, Trường Đại học tổng hợp quốc gia Baikanskiy, thành phố Iarkytsk Liên
bang Nga, Chuyên ngành: Luật hình sự, Tội phạm học, Luật thi hành án hình sự;
Mã số 12.00.08; tài liệu tập huấn về BVMT của cơ quan điều tra môi trường (EIA)
năm 1985. EIA là một tổ chức phi chính phủ do ba nhà hoạt động môi trường ở
Vương quốc Anh là Dave Currey, Jennifer Lonsdale và Allan Thornton thành lập
năm 1984…. đã phân tích làm rõ. Theo đó, những yếu tố cơ bản tác động đến phòng
ngừa THTP về môi trường có thể kể tới như: thể chế pháp lý về những vấn đề liên
quan đến phòng ngừa THTP về môi trường; năng lực thực thi của các chủ thể; sự
đồng thuận của xã hội; các đặc điểm tự nhiên, xã hội của địa bàn phòng ngừa và các
yếu tố mang tính quốc tế (bao gồm cả sự hỗ trợ hay các cản trở) đối với phòng ngừa
THTP về môi trường.
Tóm lại, có thể thấy rằng những vấn đề lý luận về phòng ngừa THTP về môi
trường đã được nhiều công trình ở nước ngoài nghiên cứu, phân tích. Kết quả cho
thấy nhiều khía cạnh của vấn đề đã được làm rõ ở những mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều khía cạnh, nhiều nội dung chưa được khai thác, hoặc đã
được đề cập nhưng cần tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ.
1.1.2. Những vấn đề thực tiễn về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường
Nghiên cứu những vấn đề thực tiễn phòng ngừa THTP về môi trường cũng đã
được đề cập đến bởi một số nghiên cứu điển hình sau:
Thứ nhất, nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa THTP về môi trường tại Úc của
tác giả Samaantha Bricknell với nghiên cứu Environmental crime in Australia (tạm
dịch: Tội phạm về môi trường ở Úc) do Viện nghiên cứu tội phạm Úc ấn hành năm
2010 [101]. Nghiên cứu đã phản ánh THTP về môi trường của Úc thông qua các nội
dung phạm tội chủ yếu như: Xâm phạm môi trường không khí thông qua hành vi xả
thải trong sản xuất; xâm phạm môi trường nước do hệ thống xử lý nước thải không
vận hành đúng công năng và kỹ thuật; xâm phạm môi trường biển do hoạt động
đánh bắt sai quy định của công dân Úc và của công dân các nước khác trong quá
trình khai thác hợp pháp nguồn lợi biển trong vùng lãnh hải Úc. Đặc biệt nghiên
13
cứu chỉ ra tình hình ngày càng tăng về quy mô và tính chất của các hành vi phạm tội
về môi trường, đặt ra đòi hỏi bức thiết đối với hoạt động phòng ngừa. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu đã chỉ ra các biện pháp phòng ngừa bao gồm tăng cường sự hiện diện của
lực lượng vũ trang (bao gồm cả cảnh sát và quân đội) như là lực lượng nắm giữ vai trò
quan trọng trong phòng ngừa tội phạm về môi trường nhờ vào cơ chế răn đe; ký kết các
thoả thuận với các quốc gia hợp tác liên quan đến vấn đề môi trường; tạo lập và giám
sát việc thực thi các bản cam kết của doanh nghiệp với chính quyền về BVMT và xem
việc gia tăng các chế tài đối với tội phạm về môi trường là biện pháp hữu hiệu nhất
trong cơ chế phòng ngừa tội phạm về môi trường.
Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa THTP về môi trường tại nhiều quốc
gia khác nhau của tác giả R. White, với chuỗi nghiên cứu tội phạm về môi trường
gồm: Crimes against nature: Environmental criminology and ecological justice (tạm
dịch: Tội phạm về môi trường và công lý sinh thái) ấn hành tại nhà xuất bản Willan
năm 2008; Toxic cities: Globalizing the problem of waste (tạm dịch: các thành phố
độc hại: Toàn cầu hóa vấn đề chất thải) đăng trên Social Justice, 35 (3), 107–119
(2008b); Researching transnational environmental harm: Toward an eco global
criminology (tạm dịch: Nghiên cứu tác hại môi trường xuyên quốc gia: Hướng tới
một tội phạm sinh thái toàn cầu) đăng trên International Journal of Comparative and
Applied Criminal Justice, 33, 229 - 248 năm 2009; Transnational environmental
crime: Toward an eco global criminology (tạm dịch: Tội phạm về môi trường xuyên
quốc gia: Hướng tới một tội phạm toàn cầu sinh thái) đăng trên Abingdon, U.K.:
Routledge năm 2011; Transnational Environmental Crime (tạm dịch: Tội phạm về
môi trường xuyên quốc gia) (pp. xiii–xxix). đăng trên Farnham, U.K.: Ashgate
Publishing Ltd năm 2013 và Building NESTs to combat environmental crime
networks (tạm dịch: Xây dựng NEST để chống lại mạng lưới tội phạm về môi
trường) đăng trên Trends in Organized Crime, 19, 88 - 105 năm 2016… [94; 95; 96;
97; 98; 99] Với chuỗi nghiên cứu này, tác giả đã phân tích chi tiết các vấn đề lý luận
và thực tiễn của tội phạm về môi trường và các vấn đề phòng ngừa tội phạm về môi
trường. Đặc biệt với phạm vi lãnh thổ nghiên cứu đa quốc gia, các nghiên cứu của
White đã đề cập đến THTP về môi trường trong bối cảnh toàn cầu hoá, xem đây là
một xu hướng khi thế giới ngày càng phẳng hơn và vấn đề môi trường chịu tác động
lớn bởi các công ty sản xuất đa quốc gia. Chính vì thế, giải pháp hướng tới nhằm
tăng cường tính hợp tác của các quốc gia và các liên minh nhằm tạo ra các giải pháp
14
liên kết phòng chống tội phạm môi trường.
Thứ ba, các nghiên cứu thực tiễn tiêu biểu khác như: Tác giả Moreto, W., &
Lemieux, A. M với nghiên cứu Poaching in Uganda: Perspectives of law
enforcement rangers. Deviant Behavior, 36, 853 – 873 năm 2015 [91]; nhóm tác giả
Lynch, M. J., Long, M. A., Barrett, K. L., & Stretesky, P. B. Is it a crime to produce
ecological disorganization? Why green criminology and political economy matter
in the analysis of global ecological harms. British Journal of Criminology, 53 (6),
997–1016 năm 2013 [88]; các tác giả Li, F., Liu, Y., Lü, J., Liang, L., & Harmer,
với nghiên cứu Pambient air pollution in China poses a multifaceted health threat to
outdoor physical activity. Journal of Epidemiology & Community Health, 69, 201–
204 năm (2015) [86]; tác giả Higgins, P., Short, D., & South, N với nghiên cứu
Protecting the planet: A proposal for a law of ecocide. Crime, Law and Social
Change, 59, 251 – 266 năm 2013 [83] và hai tác giả Gray, W., & Shadbegian, R. J.
Multimedia pollution regulation and environmental performance: EPA’s cluster
rule. Resources for the future. Downloaded on September 30, 2016 [81]… Các
nghiên cứu này tập trung phản ánh và phân tích thực tiễn phòng ngừa THTP về môi
trường ở những địa bàn lãnh thổ khác nhau. Kết quả cho thấy, phòng ngừa THTP về
môi trường rất được chú trọng ở các quốc gia phát triển và bắt đầu trở thành vấn đề
đáng quan tâm tại các quốc gia đang phát triển. Công tác này đã đưa đến nhiều hiệu
quả tích cực trong việc giảm thiểu THTP và BVMT tự nhiên. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề thực tiễn cần giải quyết như tệ nạn tham nhũng; sự tác động của
cơ chế thị trường; tốc độ phòng ngừa chậm hơn tốc độ gia tăng của THTP; thiếu sự
hợp tác của các cấp chính quyền; hệ thống pháp luật thiếu rõ ràng; sự khác biệt về
văn hoá giữa các tộc người và vấn đề tác động của xu hướng toàn cầu hoá. Những
hạn chế này đang là lực cản tương đối bền vững đối với mục tiêu phòng ngừa THTP
về môi trường của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
1.1.3. Những giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thực tiễn, nhiều nghiên cứu đã đề xuất
giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường gắn với từng địa bàn khác
nhau. Các giải pháp này xoay quanh một số nhóm vấn đề quan trọng như:
- Chống tham nhũng và xây dựng chính quyền mạnh mẽ thông qua các công
cụ minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đây được xem là giải pháp tạo ra những
15
tiền đề cho các giải pháp khác. Những nghiên cứu làm rõ giải pháp này có thể kể tới
loạt công trình của tác giả R. White, với chuỗi nghiên cứu tội phạm về môi trường
gồm: Crimes against nature: Environmental criminology and ecological justice (tạm
dịch: Tội phạm về môi trường và công lý sinh thái) ấn hành tại nhà xuất bản Willan
năm 2008; Toxic cities: Globalizing the problem of waste (tạm dịch: các thành phố
độc hại: Toàn cầu hóa vấn đề chất thải) đăng trên Social Justice, 35 (3), 107 – 119
(2008b); Researching transnational environmental harm: Toward an eco global
criminology (tạm dịch: Nghiên cứu tác hại môi trường xuyên quốc gia: Hướng tới
một tội phạm sinh thái toàn cầu) đăng trên International Journal of Comparative and
Applied Criminal Justice, 33, 229 – 248 năm 2009; Transnational environmental
crime: Toward an eco global criminology (tạm dịch: Tội phạm về môi trường xuyên
quốc gia: Hướng tới một tội phạm toàn cầu sinh thái) đăng trên Abingdon, U.K.:
Routledge năm 2011; Transnational Environmental Crime (tạm dịch: Tội phạm về
môi trường xuyên quốc gia) (pp. xiii–xxix). Đăng trên Farnham, U.K.: Ashgate
Publishing Ltd năm 2013 và Building NESTs to combat environmental crime
networks (tạm dịch: Xây dựng NEST để chống lại mạng lưới tội phạm về môi
trường) đăng trên Trends in Organized Crime, 19, 88 – 105 năm 2016…
[94;95;96;97;98;99]. Các nghiên cứu này đã phân tích rất sâu sắc các giải pháp
phòng chống tham nhũng trong nhà nước về hoạt động quản lý môi trường và xây
dựng được bảng tiêu chuẩn đánh giá sự minh bạch, hiệu lực, hiệu quả của các cơ
quan nhà nước trong lĩnh vực này.
- Hoàn thiện thể chế pháp lý và nâng cao năng lực thực thi. Đây là nhóm giải
pháp được phân tích sâu sắc bởi hai tác giả Gray, W., & Shadbegian, R. J.
Multimedia pollution regulation and environmental performance: EPA’s cluster
rule. Resources for the future. Downloaded on September 30, 2016 [81]; nhóm các
tác giả Li, F., Liu, Y., Lü, J., Liang, L., & Harmer, với nghiên cứu Pambient air
pollution in China poses a multifaceted health threat to outdoor physical
activity. Journal of Epidemiology & Community Health, 69, 201 – 204 năm (2015)
[86]; Tác giả Samaantha Bricknell với nghiên cứu Environmental crime in Australia
(tạm dịch: Tội phạm về môi trường ở Úc) do Viện nghiên cứu tội phạm Úc ấn hành
năm 2010 [101]. Các luận điểm của nhóm giải pháp này hướng tới sự toàn diện của
ghi nhận pháp lý và chú trọng đào tạo năng lực chuyên môn của các chủ thể phòng
ngừa. Đây được xem là giải pháp có tính bản lề để nâng cao hiệu quả phòng ngừa
16
THTP về môi trường.
- Hợp tác quốc tế trong phòng ngừa THTP về môi trường. Những tác giả như
Moreto, W., & Lemieux, A. M với nghiên cứu Poaching in Uganda: Perspectives
of law enforcement rangers. Deviant Behavior, 36, 853 – 873 năm 2015 [91]; nhóm
tác giả Lynch, M. J., Long, M. A., Barrett, K. L., & Stretesky, P. B. Is it a crime to
produce ecological disorganization? Why green criminology and political economy
matter in the analysis of global ecological harms. British Journal of
Criminology, 53 (6), 997 – 1016 năm 2013 [88]; các tác giả Li, F., Liu, Y., Lü, J.,
Liang, L., & Harmer, với nghiên cứu Pambient air pollution in China poses a
multifaceted health threat to outdoor physical activity. Journal of Epidemiology &
Community Health, 69, 201 – 204 năm (2015) [86]; tác giả Higgins, P., Short, D., &
South, N với nghiên cứu Protecting the planet: A proposal for a law of
ecocide. Crime, Law and Social Change, 59, 251 – 266 năm 2013 [83] và hai tác
giả Gray, W., & Shadbegian, R. J. Multimedia pollution regulation and
environmental performance: EPA’s cluster rule. Resources for the future.
Downloaded on September 30, 2016 [81]… đã đề xuất và phân tích giải pháp tận
dụng các ưu thế của toàn cầu hoá và hợp tác quốc tế sâu rộng để phòng ngừa THTP
về môi trường. Theo đó, các vấn đề có thể tận dụng như: sự hiện đại về khoa học,
công nghệ; trình độ nguồn nhân lực; các khoản tài trợ; mạng lưới an ninh quốc tế;
kết quả dự báo sự dịch chuyển của THTP toàn cầu… Các giải pháp này trong giai
đoạn hiện nay đang còn tiếp tục được nghiên cứu rộng rãi và gắn với sự chuyển
biến của Cách mạng 4.0 tại nhiều khu vực trên thế giới.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Khác với tình hình nghiên cứu liên quan đến phòng ngừa THTP về môi trường trên
phạm vi thế giới, trong phạm vi Việt Nam, vấn đề này chưa được nhiều nghiên cứu xem
xét, đánh giá một cách trực tiếp. Có thể khẳng định, cả về số lượng và chất lượng các
nghiên cứu trong nước về vấn đề này còn tương đối khiêm tốn khi so với thế giới.
1.2.1. Lý luận phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Phòng ngừa THTP về môi trường hiện nay chưa có bất kỳ công trình nào trực
tiếp nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu về tội phạm môi trường và phòng ngừa tội
phạm môi trường đã có một số tác giả đề cập tới.
Vấn đề lý luận tội phạm về môi trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường
được đề cập đến trong các nghiên cứu có tính chất song hành cùng những khảo sát,
17
đánh giá thực tiễn. Nghĩa là vai trò của việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý
luận làm cơ sở để đối chiếu và đánh giá thực tiễn. Cho đến nay, có rất ít công trình
nghiên cứu thuần nhất về lý luận tội phạm và phòng ngừa tội phạm về môi trường.
Theo đó, có thể kể đến một số các nghiên cứu với kết quả cụ thể như sau:
Ở cấp độ sách chuyên khảo, những vấn đề lý luận về tội phạm và phòng ngừa
tội phạm về môi trường được tác giả Phạm Văn Lợi đề cập và phân tích trong công
trình Tội phạm về môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn được xuất bản
năm 2003 do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành [21]. Nghiên cứu bằng
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp đã hệ thống hoá khái niệm
tội phạm và phòng ngừa tội phạm về môi trường, phân tích yếu tố ảnh hưởng đến
THTP về môi trường ở Việt Nam trong điều kiện phạm vi thời gian nghiên cứu.
Đặc biệt, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng THTP về môi trường gia tăng tỷ lệ thuận với
tốc độ phát triển kinh tế và sự cởi mở của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng
môi trường. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích, chỉ rõ các tác động tiêu cực
của tội phạm về môi trường đối với phát triển kinh tế, xã hội đất nước thời kỳ hội
nhập.
Ở cấp độ luận văn, luận án một số nghiên cứu cũng phân tích một số vấn đề lý
luận về tội phạm về môi trường ở dưới góc độ và mức độ khác nhau. Tiêu biểu có
tác giả Dương Thanh An với luận án tiến sĩ Trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về môi trường thông qua năm 2011 tại Học viện Khoa học xã hội [1] đã dành
Chương 2 của luận án để phân tích các khái niệm liên quan đến trách nhiệm hình sự
đối với các tội phạm về môi trường, trong đó có khái niệm tội phạm về môi trường.
Nghiên cứu cho thấy tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến môi
trường tự nhiên. Môi trường được xem xét trong luận án là môi trường tự nhiên với
các thành tố gồm: môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí và môi
trường nguyên sinh. Các hành vi tác động vào các thành tố này gây ra những hậu
quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả được pháp luật hình sự quy định được xem là tội
phạm về môi trường. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra được các đặc điểm của
tội phạm về môi trường so với các loại tội phạm khác.
Cùng cách thức tiếp cận trên, luận văn thạc sĩ Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn
18
Trí Chinh thông qua năm 2010 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội [5] cũng
đã hệ thống hóa trực tiếp các vấn đề lý luận liên quan đến tội phạm về môi trường
theo luật hình sự Việt Nam. Các nội dung đã được nghiên cứu trên làm rõ bao gồm:
khái niệm tội phạm về môi trường, nguyên nhân hình thành tội phạm về môi trường,
các loại tội phạm về môi trường và ảnh hưởng của tội phạm về môi trường trong bối
cảnh hội nhập. Các kết quả này phần nào đã làm rõ được nội hàm lý luận của tội
phạm về môi trường và những vấn đề lý luận liên quan, làm đa dạng hoá góc độ tiếp
cận về vấn đề này.
Bên cạnh hai quy mô nghiên cứu kể trên, vấn đề lý luận về tội phạm về môi
trường và THTP về môi trường cũng được đề cập dưới dạng các bài viết đăng tải
trên một số tạp chí pháp lý uy tín trong nước như: tác giả Lê Cảm với bài viết “Về
vấn đề tội phạm hoá một số hành vi xâm hại môi trường trong pháp luật hình sự
Việt Nam hiện đại” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2001 [4]; tác giả
Võ Khánh Vinh với bài viết “Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tội phạm
hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường” đăng trên Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 04/2002 [64]; tác giả Dương Thanh An với bài viết “Các
yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường theo Bộ luật Hình sự năm 1999”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 5/2008 [2]… đặc biệt hai bài viết của hai tác giả: Lê
Cảm và Võ Khánh Vinh đề cập đến vấn đề tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm hại môi trường đã đề cập đến nhu cầu phải tội phạm hoá một số hành vi
tại thời điểm nghiên cứu chưa được tội phạm hoá nhằm tạo lập cơ sở pháp lý góp
phần nâng cao khả năng phòng ngừa THTP trong lĩnh vực môi trường.
1.2.2. Thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Nghiên cứu thực tiễn tình tội phạm và phòng ngừa tội phạm về môi trường là
một trong những hướng nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trong lĩnh vực này. Với
sự đa dạng trong góc độ tiếp cận về không gian và thời gian nghiên cứu, nhiều công
trình đã phản ánh, phân tích được thực trạng THTP về môi trường và dự báo xu
hướng vận động của THTP về môi trường trong tương lai. Có thể kể đến một số
nhóm các công trình nghiên cứu theo cấp độ như sau:
- Ở cấp độ các đề tài nghiên cứu khoa học và báo cáo công tác kiểm tra thực
tiễn có hai công trình gồm: báo cáo của Tổng cục Môi trường năm 2009 về Kiểm
tra, thanh tra về BVMT đối với các cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và làng
nghề trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn năm 2008 [44]. Đây là báo cáo chuyên
19
ngành của công tác thanh tra, kiểm tra công tác BVMT tại các tổ chức, khu dân cư
và hộ gia đình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Đồng Nai - Sài Gòn. Báo cáo cho
thấy, tình hình xâm phạm môi trường diễn ra khá phổ biến tại các làng nghề, khu
chế xuất ở cả các thành tố môi trường đất, nước và không khí, đặc biệt là ô nhiễm
môi trường nước. Nguyên nhân là do hệ thống xử lý nước thải hay các tạp chất phế
phẩm không được xây dựng đảm bảo, hoặc đã được xây dựng nhưng không được
vận hành theo đúng công năng nhằm tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, vấn đề xem xét
và xử lý trách nhiệm hình sự gặp khó khăn vì vấn đề tội phạm là một tổ chức chưa
được hình sự hoá. Chính vì thế, mặc dù về bản chất hành vi của các tổ chức đã tác
động xấu đến môi trường và là tiền đề để THTP về môi trường gia tăng tại khu vực
này, song việc giải quyết triệt để khó khăn do thiếu chế tài, trong khi đó phương
pháp tuyên truyền, phổ biến nhằm phòng ngừa cũng không đạt được hiệu quả do lợi
ích kinh tế trước mắt của các doanh nghiệp, hộ sản xuất. Tuy nhiên, báo cáo là kết
quả của việc thanh tra, kiểm tra thực tiễn, mang yếu tố kết luận của các chủ thể thực
hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đó do vậy các yếu tố về khoa học không cao, đặc
biệt tính logic và liên kết của các vấn đề theo hướng nguyên nhân - kết quả hay các
dự báo đều không được đề cập trong báo cáo.
Ở mức độ nghiên cứu khoa học quy mô hơn, Báo cáo Đề tài khoa học KX.07-
06, Những vi phạm pháp luật về môi trường và giải pháp phòng chống của Bộ Công
an năm 2014 [3] đã tiến hành một nghiên cứu quy mô cả về lý luận lẫn thực tiễn đối
với những vi phạm pháp luật về môi trường và giải pháp phòng chống. Trong đó,
vấn đề nghiên cứu của công trình bao hàm cả những vi phạm pháp luật nói chung về
môi trường, trong đó có tội phạm về môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy được
tình hình các nhóm vi phạm pháp luật về môi trường trên thực tế, xu hướng của
từng nhóm và xác định được các nguyên nhân, yếu tố tác động đến sự vận động của
từng xu hướng. Có thể nói, nghiên cứu có tính chất tổng hợp cao đối với những vi
phạm pháp luật ở Việt Nam nói chung từ năm 2000 đến thời điểm nghiên cứu và
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra bức tranh tình hình của vi phạm pháp luật
về môi trường, trong đó có tội phạm về môi trường.
- Ở cấp độ luận án và luận văn, trong những năm gần đây, vấn đề tội phạm và
phòng ngừa tội phạm về môi trường cũng được lựa chọn nghiên cứu. Có thể kể tới
20
một số luận án, luận văn sau:
Nghiên cứu về thực tiễn THTP về môi trường trên sự đối chiếu giữa kết quả
thực tiễn với quy định của pháp luật hình sự cũng có một số nghiên cứu đã thực
hiện. Trong đó với hai công trình tiêu biểu gồm: tác giả Nguyễn Trí Chinh với luận
án Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm về môi trường theo luật
hình sự Việt Nam được thông qua năm 2010 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội [5] và tác giả Nguyễn Hữu Hoà với luận án Các tội phạm về môi trường ở Việt
Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, được thông qua năm 2018
tại Học viện Khoa học xã hội [12]. Hai luận án được thực hiện ở hai mốc thời gian
khác nhau, mỗi luận án được thực hiện gắn liền với một Bộ luật Hình sự khác nhau.
Cụ thể: luận án của tác giả Nguyễn Trí Chinh được thực hiện trong sự đối sánh thực
tiễn với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), trong khi đó tác
giả Nguyễn Hữu Hoà thực hiện luận án trong thời gian có hiệu lực của Bộ luật Hình
sự năm 2015. Hai nghiên cứu phản ánh thực tiễn pháp luật và thực tiễn THTP về
môi trường của từng thời kỳ khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy THTP về môi
trường có biến đổi theo hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về hành vi. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu của cả hai luận án kể trên đề cập một số hành vi xâm
phạm môi trường nhưng chưa được hình sự hoá, dẫn đến những khó khăn nhất định
trong công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm về môi trường ở Việt Nam.
Tác giả Dương Thanh An với luận án tiến sĩ Trách nhiệm hình sự đối với các
tội phạm về môi trường, thông qua năm 2011 tại Học viện Khoa học xã hội [1].
Nghiên cứu sử dụng phương pháp đối chiếu khoa học giữa các quy định của luật
thực định với thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế nhằm chỉ ra những điểm
vướng mắc, khó khăn trong áp dụng pháp luật đối với tội phạm về môi trường. Nội
dung trọng tâm này được trình bày tại Chương 3 của luận án với cấu trúc 3 mục bao
gồm thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng và đánh giá thực tiễn áp dụng. Kết quả
nghiên cứu của công trình mặc dù không trực tiếp đề cập đến phòng ngừa tội phạm
về môi trường nhưng đã cung cấp những cơ sở thực tiễn thông qua việc đối chiếu
việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm về môi trường, qua đó góp phần
làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến phòng ngừa loại tội phạm này trên thực tiễn.
Với góc độ tiếp cận gần gũi hơn với đề tài luận án, các nghiên cứu sau đây đã
xem xét, làm rõ các nội dung thực tiễn về hoạt động phòng ngừa tội phạm về môi
21
trường ở các địa bàn và của các lực lượng khác nhau. Tiêu biểu có:
Tác giả Đinh Tiến Quân với luận án tiến sĩ Hoạt động phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật về môi trường theo chức năng của lực lượng Cảnh sát phòng,
chống tội phạm về môi trường thông qua năm 2013 tại Học viện Cảnh sát nhân dân
[28]. Nội dung nghiên cứu của luận án là hoạt động phòng ngừa bao gồm cả chủ thể
(lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường), phương thức tổ chức
thực hiện và kết quả thực hiện. Đối tượng của hoạt động phòng ngừa này cũng bao
gồm cả tội phạm và các vi phạm pháp luật về môi trường. Như vậy nếu đối chiếu
với nội hàm nghiên cứu của NCS, luận án của tác giả Đinh Tiến Quân có góc độ
tiếp cận chủ thể thực hiện hẹp hơn (chỉ theo chức năng của lực lượng Cảnh sát
phòng, chống tội phạm về môi trường), nhưng lại có phạm vi nội dung rộng hơn
(gồm cả tội phạm và các hành vi phạm pháp luật khác). Cùng phạm vi tiếp cận song
khác về phạm vi không gian với luận án của tác giả Đinh Tiến Quân còn có luận án
Phòng ngừa, phát hiện tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường khu vực Đồng
bằng sông Hồng theo chức năng của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về
môi trường được thông qua năm 2014 tại Học viện Cảnh sát Nhân dân của tác giả
Nguyễn Văn Minh [24]. Luận án cũng nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực
phương thức và kết quả phòng ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường trên địa
bàn Đồng bằng sông Hồng. Vì phạm vi không gian nghiên cứu thu hẹp, do đó so
với nghiên cứu của tác giả Đinh Tiến Quân, luận án đã phân tích được thực trạng
sâu sắc hơn THTP và vi phạm pháp luật về môi trường tại các tỉnh thuộc Đồng bằng
sông Hồng. Cùng cách thức tiếp cận này nhưng ở mức độ phạm vi không gian hẹp
hơn, tác giả Đặng Thu Hiền với luận án tiến sĩ Hoạt động phòng ngừa tội phạm về
môi trường tại các khu công nghiệp theo chức năng của lực lượng Cảnh sát phòng,
chống tội phạm về môi trường được thông qua năm 2013 tại Học viện Cảnh sát
Nhân dân [15] cũng đã nghiên cứu thực tiễn hoạt động phòng ngừa tội phạm về môi
trường của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường nhưng ở phạm
vi không gian là các khu công nghiệp.
Bốn nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu, làm rõ các vấn đề liên quan đến xâm
phạm môi trường nước, khoáng sản (cát) và đất là những nội dung chính của THTP
và vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn nghiên cứu. Cả bốn nghiên cứu
cũng đồng thời chỉ ra rằng, hoạt động phòng ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm
22
pháp luật về môi trường của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi
trường tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, song còn nhiều hạn chế dẫn đến THTP
không có dấu hiệu thuyên giảm. Cụ thể, các nguyên nhân được chỉ ra bao gồm: sự
phức tạp về địa lý; tính lợi nhuận cao nên động cơ thực hiện hành vi lớn; lực lượng
cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường còn mỏng, trong khi đó chưa có sự
phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng; ý thức tố giác tội phạm của người dân còn
chưa cao, đi đôi với nhận thức pháp luật nói chung và pháp luật về BVMT của
người dân còn hạn chế.
Nghiên cứu phòng ngừa tội phạm ở một địa phương cụ thể có tác giả Trần
Quốc Tỏ với luận án tiến sĩ Phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật về BVMT
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được thông qua năm 2013 tại Học viện Cảnh sát
Nhân dân [42]. Đây là luận án gần gũi trực tiếp nhất với đề tài nghiên cứu của NCS,
tuy nhiên thời gian hoàn thành của luận án trước thời điểm luật hình sự hiện hành
có hiệu lực, do đó những vấn đề liên quan đến thực tiễn đề cập trong luận án đã ít
nhiều thay đổi theo hướng hoàn thiện hoặc được khắc phục.
Nghiên cứu đã chỉ ra được THTP và hiệu quả tổ chức phòng ngừa tội phạm về
môi trường, các hành vi vi phạm phạm pháp luật về BVMT tại thành phố Đà Nẵng.
Trong đó cho thấy vấn đề xâm phạm môi trường biển do hoạt động khai thác nguồn
lợi từ biển trái phép, do hoạt động xả thải của các nhà máy, khu chế xuất chưa qua
xử lý trực tiếp ra biển là những vấn đề trọng tâm của Đà Nẵng. Đồng thời, trong
phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án, sự thống kê cho thấy xu hướng tội phạm
về môi trường trên địa bàn Đà Năng tăng cao. Do đó, công tác phòng ngừa chủ yếu
sử dụng phương pháp kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động khai thác nguồn lợi từ
biển và hoạt động xử lý nước thải của các nhà máy, khu chế xuất, kết hợp cùng
phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các đối tượng kể trên.
1.2.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng THTP và hiệu quả hoạt
động phòng ngừa tội phạm về môi trường, các nghiên cứu cũng đã xây dựng và đề
xuất các phải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tội phạm về môi trường gắn với
các địa bàn và các thời kỳ khác nhau. Cơ bản có thể kể tới ba công trình nghiên cứu
tiêu biểu sau: Báo cáo Đề tài khoa học KX.07-06 Những vi phạm pháp luật về môi
trường và giải pháp phòng chống của Bộ Công An năm 2014 [3]; tác giả Nguyễn Duy
23
Hùng với đề tài khoa học cấp Nhà nước Những vi phạm pháp luật về môi trường - Giải
pháp phòng, chống xuất bản năm 2006 [17] và nhóm tác giả Nguyễn Xuân Lý và Trần
Minh Hưởng với nghiên cứu Cẩm nang phòng, chống tội phạm về môi trường, tập 2,
do nhà xuất bản CAND ấn hành năm 2013 [22].
Ba nghiên cứu kể trên đã đề xuất các giải pháp theo nhiều nhóm vấn đề khác
nhau bao gồm: nhóm giải pháp về tổ chức, hoạt động và phối hợp giữa các chủ thể
thực hiện; nhóm giải pháp liên quan đến nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát phòng,
chống tội phạm về môi trường; nhóm giải pháp liên quan đến quản lý hành chính
nhà nước về môi trường và nhóm giải pháp liên quan đến công tác tuyên truyền, vận
động ở cấp cơ sở.
1.3. Nhận xét, đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
1.3.1. Những vấn đề nghiên cứu đã được làm rõ, có kết luận thống nhất
Qua xem xét các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề nghiên
cứu của luận án, NCS tổng kết được các vấn đề đã được các công trình đề cập, phân
tích làm rõ và có kết luận thống nhất bao gồm:
Thứ nhất, vấn đề lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm đã được các
công trình trong và ngoài nước xem xét, phản ánh, phân tích dưới nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau. Qua đó đã đi đến thống nhất về nội hàm khái niệm, đặc điểm và vai
trò ý nghĩa của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Sản phẩm của sự thống nhất
này là hệ thống giáo trình hiện hành ở Việt Nam hiện nay. NCS xác định những giá
trị học thuật này đóng vai trò là nền tảng và là cơ sở lý thuyết cho luận án.
Thứ hai, vấn đề THTP và tình hình phòng ngừa tội phạm đã được nhiều công
trình tiếp cận nghiên cứu và làm rõ theo từng lĩnh vực và từng địa bàn nghiên cứu
nhất định. Có thể nói, những năm gần đây, tình hình nghiên cứu về THTP và thực
tiễn phòng ngừa tội phạm được nhiều học giả quan tâm. Không những vậy, nội
dung nghiên cứu được trải dài ở nhiều lĩnh vực khác nhau, phản ánh sự phức tạp
của THTP trong nền kinh tế thị trường. Các lĩnh vực về tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm đã được tiếp cận và làm rõ gồm: tội phạm về an ninh, trật tự; tội
phạm về giao thông đường bộ; tội phạm khai thác và bảo vệ rừng; tội phạm ma tuý;
tội phạm chưa thành niên và tiếp cận dưới góc độ vai trò, chức năng của các lực
lượng cảnh sát. NCS xác định, đây là những nội dung có giá trị tham khảo quan
trọng trong việc xem xét, đánh giá thực tiễn THTP về môi trường của luận án.
Thứ ba, dựa trên các kết quả tiếp cận thực tiễn THTP và phòng ngừa tội phạm
24
của những nội dung kể trên, các nghiên cứu cũng đã đề xuất được nhiều giải pháp
khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
nghiên cứu. Qua đó có thể thấy, rất nhiều giải pháp đã thống nhất làm rõ như: hoàn
thiện hệ thống thể chế tương ứng với lĩnh vực phòng ngừa tội phạm; nâng cao năng lực
thực hiện phòng ngừa tội phạm của các cơ quan chức năng và các cá nhân trực tiếp
thực hiện; tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan; đổi mới phương pháp phòng
ngừa tương ứng với nội dung thực hiện và xây dựng được thế an ninh nhân dân, vận
động xã hội tham gia tích cực vào công tác phòng ngừa tội phạm. NCS cũng xác định
đây là những giải pháp mang tính tham khảo rất lớn đối với đề tài luận án.
Thứ tư, một số vấn đề trực tiếp liên quan đến đề tài phòng ngừa tội phạm về
môi trường đã được một số công trình đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Những
vấn đề đã được làm rõ gồm: một số vấn đề lý luận về tội phạm về môi trường và
phòng ngừa tội phạm về môi trường như chủ thể, cách thức, vai trò ý nghĩa…; phản
ánh được thực trạng THTP và tổ chức triển khai phòng ngừa tội phạm về môi
trường ở một số địa phương như Đồng Bằng Sông Hồng, thành phố Đà Nẵng, Đồng
Nai… Thực trạng này phản ánh mối liên hệ mật thiết giữa THTP và phòng ngừa tội
phạm về môi trường với đặc trưng tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa phương;
một số các giải pháp về phòng ngừa và đấu tranh tội phạm về môi trường gắn với
địa bàn nghiên cứu cũng đã được đề cập, trong đó chủ yếu đến từ các giải pháp tổ
chức thực hiện và nâng cao trình độ, chuyên môn của người thực thi. Những kết quả
nghiên cứu trực tiếp liên quan đến đề tài luận án này được NCS xác định là các giá
trị tham khảo quan trọng và đóng vai trò cung cấp bài học kinh nghiệm cho nghiên
cứu thực tiễn tình hình phòng ngừa tội phạm về môi trường cũng như đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
1.3.2. Những vấn đề đã được tiếp cận nhưng chưa có sự thống nhất, cần
được tiếp tục kế thừa nghiên cứu
Mặc dù các công trình nghiên cứu trong lịch sử đã có những thống nhất kể
trên, song còn nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến phòng ngừa tội phạm về môi
trường đã được đề cập tới nhưng chưa có sự thống nhất. Cụ thể:
Thứ nhất, một số vấn đề lý luận về môi trường và tội phạm về môi trường còn
chưa được thống nhất về nội hàm:
- Khái niệm môi trường có nhiều cách tiếp cận rộng và hẹp khác nhau. Qua đó
có hai cách thức cơ bản gồm: môi trường nói chung (cả môi trường tự nhiên và môi
25
trường xã hội) và môi trường xét từng khía cạnh (môi trường tự nhiên; môi trường
xã hội; môi trường giáo dục; môi trường sinh vật…). Trong mỗi cách tiếp cận khác
nhau cũng không có sự đồng nhất về nội hàm. Chính vì thế, khái niệm môi trường
trong các nghiên cứu cũng không có sự đồng nhất. Thậm chí trong khái niệm môi
trường tự nhiên, các thành tố của nó cũng được làm rõ và đầy đủ. Điều này dẫn tới
khái niệm tội phạm về môi trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường cũng
chưa được thống nhất về mặt nội hàm.
- Chính sự thiếu thống nhất trong nội hàm khái niệm môi trường (tự nhiên),
dẫn tới việc xác định nội dung phạm tội về môi trường; thẩm quyền của các chủ thể
và các biện pháp phòng ngừa cũng chưa được thống nhất.
Thứ hai, một số vấn đề thực tiễn về tội phạm về môi trường và phòng ngừa tội
phạm về môi trường tuy đã được đề cập ở nhiều nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau, tuy nhiên chủ yếu cách thức tiếp cận không trực tiếp dưới góc độ tội phạm
học và phòng ngừa tội phạm, do đó có nhiều vấn đề còn chưa được nghiên cứu chi
tiết, bao gồm:
- THTP về môi trường tại một địa phương nhất định trong mối liên hệ với tình
hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương đó chưa được các công trình đề cập,
qua đó cho thấy được mối quan hệ có tính quy luật theo tỷ lệ thuận giữa tốc độ phát
triển kinh tế và THTP về môi trường.
- Tình hình phòng ngừa tội phạm về môi trường ở các nghiên cứu tuy có đặt ra
và phân tích ứng với những địa bàn khác nhau, tuy nhiên chưa làm rõ được vấn đề
nội dung và phương pháp phòng ngừa dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm. Đồng thời, các vấn đề về tình hình phòng ngừa tội phạm về môi trường được
thể hiện trong các nghiên cứu do không tiếp cận cùng chuyên ngành với luận án, do
đó còn thiếu sự liên kết giữa vấn đề THTP về môi trường và tình hình phòng ngừa
tội phạm về môi trường.
Thứ ba, các dự báo THTP về môi trường trong các nghiên cứu được thực hiện
trong khoảng thời gian nhất định trước đó do vậy tính thời sự và vấn đề cập nhật đã
không được đảm bảo. Từ đó nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội
phạm về môi trường đã được giải quyết trong thực tiễn, đồng thời nhiều vấn đề mới
đặt ra cần có giải pháp giải quyết những chưa được nghiên cứu, đề xuất.
1.3.3. Những vấn đề chưa được đề cập trong các nghiên cứu trước đó, trở
thành vấn đề nghiên cứu chính của luận án
Từ những kết quả nhận định kể trên, NCS rút ra được “khoảng trống” nghiên
26
cứu mà luận án cần thực hiện. Cụ thể:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về THTP về môi trường và phòng ngừa
THTP về môi trường mà các nghiên cứu trước đó đã đề cập nhưng chưa đầy đủ
hoặc chưa thống nhất và những vấn đề chưa được đề cập tới như phòng ngừa THTP
về môi trường.
Thứ hai, phản ánh THTP và phòng ngừa tội phạm về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh trở thành trọng tâm của luận án vì địa bàn nghiên cứu chưa được lựa
chọn bởi một nghiên cứu nào trong lịch sử. Đồng thời xuất phát từ tính cấp thiết về
THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, luận án cần phải tiến hành mô tả,
phân tích và so sánh mối tương quan giữa tình hình phòng ngừa và THTP về môi
trường qua các năm trên địa bàn, từ đó đi đến các kết luận đánh giá về tính hiệu quả
của công tác phòng ngừa.
Thứ ba, trên cơ sở dự báo chuyển biến THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh thời gian tới và các hạn chế trong công tác phòng ngừa tội phạm về môi
trường hiện nay, luận án nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Các giải pháp phải
đảm bảo hợp pháp, hợp lý song đảm bảo được tính đặc thù, sáng tạo phù hợp với
thực tiễn khách quan của tỉnh Hà Tĩnh.
Tiểu kết Chƣơng 1
Qua xem xét, đánh giá tình hình nghiên cứu của đề tài luận án có thể thấy, vấn
đề phòng ngừa THTP về môi trường đã được một số công trình nghiên cứu đánh giá
ở cả trong phạm vi trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu
nghiên cứu phòng ngừa tội phạm về môi trường và các vấn đề liên quan, ít nghiên
cứu vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường. Đặc biệt nghiên cứu về thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh cho đến nay chưa được nghiên cứu. Từ những nhận định có được đó, NCS đã
xác định được đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu,
phương pháp luận nghiên cứu… và các điểm mới của đề tài luận án.
Những vấn đề nghiên cứu chính của luận án được xác định bao gồm:
Thứ nhất, cần nâng tầm và xác định cụ thể, chính xác hơn nội hàm khái niệm
môi trường là cơ sở để xác định các vấn đề lý luận liên quan đến tội phạm về môi
trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường trên tất cả các phương diện lý luận,
27
như: khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, chủ thể và phương pháp thực hiện cần
được làm rõ dưới góc độ nghiên cứu của chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa
tội phạm.
Thứ hai, phản ánh THTP và phòng ngừa tội phạm về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh trở thành trọng tâm của luận án vì địa bàn nghiên cứu chưa được lựa
chọn bởi một nghiên cứu nào trong lịch sử. Luận án cần phải tiến hành mô tả, phân
tích và so sánh mối tương quan giữa tình hình phòng ngừa và THTP về môi trường
qua các năm trên địa bàn, từ đó đi đến các kết luận đánh giá về tính hiệu quả của
công tác phòng ngừa.
Thứ ba, cần dự báo và đánh giá các hạn chế trong công tác phòng ngừa tội
phạm về môi trường tại địa phương, từ đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp mang
tính toàn diện, đảm bảo hợp pháp, hợp lý song đảm bảo được tính đặc thù, sáng tạo
28
phù hợp với thực tiễn khách quan của tỉnh Hà Tĩnh.
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
VỀ MÔI TRƢỜNG
2.1. Khái niệm và đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
2.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
- Khái niệm tình hình tội phạm và tình hình tội phạm về môi trường:
Tội phạm là một khái niệm pháp lý được đề cập và định nghĩa cụ thể trong Bộ
luật Hình sự của nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam. Đây là một khái niệm cơ bản
được đề cập đến trong tất cả các Bộ luật Hình sự đã được ban hành của nước ta.
Khái niệm tội phạm được định nghĩa cụ thể tại Điều 8, Bộ luật Hình sự 2015: "Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự”.
Theo Điều 1, Luật BVMT của Việt Nam năm 2014, "Môi trường bao gồm các
yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh
con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người
và thiên nhiên”. Tuy nhiên, trên thực tế có hai cách quan điểm về môi trường. Ở
cách thứ nhất, Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao
quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của
con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Đây là cách hiểu chung, có tính bao quát cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường
nhân tạo. Do đó, khi xem xét dưới gốc độ tội phạm về môi trường, những hành vi
tác động vào môi trường nhân tạo như: làm ô nhiễm môi trường âm thanh; ô nhiễm
môi trường ánh sáng; ô nhiễm môi trường thẩm mỹ (môi trường nhìn)… cũng có
thể được xác định là hành vi tội phạm về môi trường. Tuy nhiên, với cách hiểu thứ
hai – cũng là cách hiểu được sử dụng thống nhất trong luận án, Môi trường các vật
29
chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện tự nhiên nào đó mà
chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong
chúng. Như vậy, với cách hiểu này, môi trường được hiểu hẹp hơn với nghĩa là môi
trường tự nhiên, không bao gồm môi trường nhân tạo. Theo đó, tội phạm về môi
trường là tội phạm xâm phạm đến các quan hệ xã hội liên quan đến việc BVMT tự
nhiên thuận lợi, có chất lượng, đến việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên và việc bảo đảm an ninh sinh thái đối với dân cư.
Các tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm
các quy định của Nhà nước về BVMT, qua đó gây thiệt hại cho môi trường. Tội
phạm về môi trường bao gồm 04 nhóm hành vi. Cụ thể:
Nhóm 1: Các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Nhóm 2: Các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người và động vật.
Nhóm 3: Các hành vi hủy hoại tài nguyên môi trường.
Nhóm 4: Các hành vi xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối
tượng môi trường.
THTP là một khái niệm của Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm. Theo đó,
cụm từ này được cấu thành bởi từ “tình hình” và “tội phạm”. Tình hình được định
nghĩa theo “Đại từ điển tiếng Việt” thì “tình hình” được hiểu là “Trạng thái, xu thế
phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi ở trong
đó”. Kết hợp hai định nghĩa này sẽ có cách hiểu về mặt chiết tự của THTP là trạng
thái và xu thế vận động của hiện tượng tội phạm. Cho đến nay trong khoa học hình
sự và tội phạm học tại Việt Nam, vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về khái
niệm THTP.
Xuất phát từ những góc độ và mục đích tiếp cận khác nhau sẽ có nhiều cách
quan niệm khác nhau về vấn đề này. Cơ bản có hai nhóm quan điểm về THTP:
Nhóm thứ nhất cho rằng THTP là tổng hợp của các loại tội phạm nói chung hoặc
của một loại/nhóm tội phạm nói riêng. Với quan điểm này, về bản chất tội phạm và
THTP có sự tương đồng, thậm chí là một, chỉ khác biệt ở tính chung và riêng. Theo
đó, một tội phạm cụ thể là cái riêng. Nhiều tội phạm cụ thể (cái riêng) đó sẽ hợp
thành THTP (cái chung). Cách nhận diện này làm cho THTP trở nên là một khái
niệm dễ xét đoán, vì bản chất THTP là sự tổng hợp một cách cơ học của tội phạm;
Nhóm thứ hai cho rằng THTP là biểu hiện (trạng thái) của tổng hợp các tội phạm
nói chung hoặc của một loại/nhóm tội phạm nói riêng. Theo đó, bản chất của THTP
30
phức tạp hợp. Nó không chỉ là tổng hợp một cách cơ hữu các loại tội phạm mà còn
biểu hiện mối quan hệ giữa các vấn đề thuộc về tội phạm học. Nói cách khác, quan
điểm này cho rằng THTP là biểu hiện của tình trạng tội phạm ở một không gian và
thời gian nhất định. Cho đến nay, mỗi nhóm quan điểm trên đều đã xác lập được
những vị trí, vai trò khác nhau trong nghiên cứu tội phạm học nói chung và THTP
nói riêng.
Dưới góc độ nghiên cứu của luận án, NCS xây dựng khái niệm THTP như sau:
THTP là bức tranh tổng thể, phản ánh lịch sử, thực trạng và xu hướng biến đổi
của tội phạm nói chung hay tội phạm trong những nhóm/loại khác nói riêng
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định.
Như vậy tội phạm về môi trường là các hành vi xâm hại đến môi trường được
Bộ luật Hình sự ghi nhận. Tội phạm về môi trường là một cấu thành của tội phạm
nói chung, do đó từ khái niệm THTP nói chung ở trên có thể thấy, THTP về môi
trường chính là biểu hiện, trạng thái và xu hướng về tội phạm trong lĩnh vực môi
trường. Do đó, có thể định nghĩa: THTP về môi trường là bức tranh tổng thể,
phản ánh lịch sử, thực trạng và xu hướng biến đổi của tội phạm về lĩnh vực môi
trường trong một khoảng thời gian và không gian nhất định.
- Khái niệm phòng ngừa THTP và phòng ngừa THTP về môi trường:
Phòng ngừa THTP là sử dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp,
phương tiện nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm khắc phục
mọi nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát sinh, phát triển. Việc phòng
ngừa THTP là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã
hội và Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm hoặc làm vô hiệu hoá (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và
dần dần loại bỏ THTP. Trên cơ sở của định nghĩa của THTP đã được xây dựng ở
trên và theo nghĩa tiếp cận đó, phòng ngừa THTP có những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, phòng ngừa THTP dựa trên cơ sở thực tiễn THTP và dự báo xu
hướng THTP trong tương lai. Thực tiễn THTP phản ánh lịch sử vận động của THTP
trong một khoảng thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Từ đó cung cấp cho các chủ thể
phòng ngừa những cơ sở vững chắc cho các nguyên nhân và kết quả của THTP đã
từng xảy ra, kết quả của sự phòng ngừa trước đó và những bài học có được. Trong khi
đó dự báo xu hướng THTP cung cấp cho các chủ thể viễn cảnh về khả năng vận động,
31
bao gồm hướng, quy mô, mức độ, các nguyên nhân dự kiến tác động… nhằm xây dựng
được các lộ trình, lựa chọn được các phương pháp phòng ngừa THTP hiệu quả nhất
trong tương lai. Thiếu hai cơ sở này, phòng ngừa THTP không thể diễn ra hiệu quả.
Thứ hai, phòng ngừa THTP hướng tới những kết quả trong tương lai. Hoạt
động phòng ngừa THTP được thực hiện ở hiện tại, nhưng kết quả của nó thu được
lại diễn ra trong tương lai vì cơ chế tác động của phòng ngừa THTP là dựa trên
những dự báo THTP để tiến hành can thiệp, phòng không để kịch bản của tương lai
được dự báo đó xảy ra. Chính vì thế, phòng ngừa THTP có được đánh giá tức thời,
đồng thời cũng là một hoạt động có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì sự tồn tại xã
hội trong tương lai.
Thứ ba, đối tượng của phòng ngừa THTP là những yếu tố phát sinh, phát triển
của THTP. Nghĩa là hoạt động phòng ngừa THTP phải tác động đến những sự việc,
hiện tượng quá trình xã hội với tư cách là nguyên nhân, là yếu tố tác động trực tiếp
đến THTP. Nói cách khác, phòng ngừa THTP hướng tới tác động vào nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm. Đây cũng là vấn đề cho thấy tại sao phòng ngừa THTP
phải dựa vào kết quả phân tích và dự báo THTP.
Như vậy, có thể định nghĩa phòng ngừa THTP là: Phòng ngừa THTP là việc các
cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm
khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của THTP nhằm ngăn chặn, hạn chế và
làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa
THTP là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo có tính xuyên suốt trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trên cơ sở các khái niệm liên quan đã xây dựng, có thể khái niệm Phòng ngừa
THTP về môi trường là: Phòng ngừa THTP về môi trường là việc các cơ quan
của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm tác
động vào các nguyên nhân, điều kiện của THTP về môi trường nhằm làm giảm
khả năng phát sinh tội phạm, qua đó điều chỉnh THTP về môi trường trong
tương lai theo một mục tiêu đã định trước tiến tới loại trừ tội phạm môi trường ra
khỏi đời sống xã hội.
2.1.2. Đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Phòng ngừa THTP môi trường là một nội dung của phòng ngừa THTP nói
chung, do đó ngoài những đặc điểm của phòng ngừa THTP, phòng ngừa THTP về
môi trường còn có những đặc điểm riêng của nó. Các đặc điểm này xuất phát từ
32
những vấn đề thuộc về cơ chế phòng ngừa THTP về môi trường. Cụ thể:
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường. Khác với
chủ thể phòng ngừa THTP khác, chủ thể trong phòng ngừa THTP về môi trường là
toàn bộ hệ thống chính trị, các thành phần xã hội và người dân. Đặc điểm này của
chủ thể xuất phát từ mục tiêu của công tác phòng ngừa. Khác với mục tiêu của các
công tác phòng ngừa khác chỉ tác động một phần đến đời sống xã hội, mục tiêu của
phòng ngừa THTP về môi trường tác động đến toàn bộ đời sống xã hội của hiện tại
và cả tương lai. Môi trường tự nhiên đóng vai trò là nền tảng tồn tại của nhân loại,
hiện diện ở mọi mặt đời sống, mọi không gian và thời gian của con người. Chính vì
thế, nếu không phòng ngừa THTP về môi trường hiệu quả, THTP về môi trường sẽ
gia tăng, kéo theo đó môi trường tự nhiên sẽ bị huỷ hoại. Hậu quả là toàn xã hội sẽ
bị ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí dẫn đến nguy cơ diệt vong. Do đó, phòng ngừa
THTP về môi trường không phải là nhiệm vụ của riêng tổ chức, cá nhân nào, mà là
của toàn thể cá nhân và tổ chức con người. Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa THTP
về môi trường sẽ được phân công cho lực lượng chuyên môn làm chủ đạo. Các lực
lượng này là những cá nhân, cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền quản lý nhà
nước về môi trường. Bao gồm lực lượng bảo vệ pháp luật và lực lượng quản lý hành
chính nhà nước về môi trường. Cụ thể về các chủ thể phòng ngừa này được trình
bày tại mục 2.4 của luận án.
Bên cạnh đặc trưng về chủ thể phòng ngừa, chủ thể của các tội phạm về môi
trường cũng có những đặc thù riêng. Các chủ thể thực hiện các hành vi phạm tội về
môi trường hầu hết đều vì mục đích kinh tế. Nghĩa là hầu hết động cơ của tội phạm
về môi trường là tính vụ lợi cá nhân. Ví dụ, doanh nghiệp xả thải chưa qua xử lý ra
môi trường gây ra ô nhiễm nhằm mục đích tiết kiệm chi phí xây dựng và vận hành
hệ thống xử lý chất thải, người dân huỷ hoại rừng và săn bắt động vật hoang dã
nhằm lợi ích kinh tế nhờ việc tiêu thụ lâm sản… Chính vì thế, phòng ngừa THTP về
môi trường phải chú trọng vấn đề kiềm chế việc thoả mãn lợi ích bằng các hành vi
phạm tội về môi trường của cá nhân và tổ chức bằng việc sử dụng đa dạng các biện
pháp phòng ngừa đặc thù.
Thứ hai, đặc điểm về cơ sở pháp lý phòng ngừa THTP về môi trường. Cơ sở
pháp lý của phòng ngừa THTP về môi trường có cơ sở cao nhất là Hiến pháp với
tinh thần về xây dựng một môi trường sống tự nhiên chất lượng, trong lành và xây
dựng một môi trường sống xã hội an toàn, có trật tự. Hệ thống cơ sở pháp lý của
33
phòng ngừa THTP về môi trường không chỉ có hệ thống các cơ sở pháp lý về hình
sự mà còn có cả hệ thống văn bản pháp lý hành chính chuyên ngành. Đặc điểm này
xuất phát từ việc, môi trường tự nhiên là đối tượng quản lý nhà nước của nhiều chủ
thể khác nhau. Do cấu thành của môi trường tự nhiên phức tạp, đa dạng do đó luôn
cần đến sự tham gia quản lý của nhiều chủ thể ở những góc độ khác nhau. Hệ thống
thể chế pháp lý về vấn đề này cũng vì thế được xây dựng đa dạng để hướng dẫn
thẩm quyền của từng chủ thể đó. Do vậy, có thể nói cơ sở pháp lý của phòng ngừa
THTP về môi trường có đặc điểm rất lớn về quy mô và phức tạp về nội dung.
Không những thế, vì vấn đề môi trường còn là vấn đề mang tính toàn cầu, ý
nghĩa của công tác phòng ngừa THTP về môi trường mang tầm quốc tế. Do đó,
ngoài hệ thống cơ sở pháp lý trong nước, công tác phòng ngừa THTP về môi trường
còn phải tuân thủ các cơ sở pháp lý toàn cầu là những Công ước quốc tế, Luật pháp
quốc tế, Thoả thuận quốc tế… về vấn đề BVMT mà Việt Nam là thành viên hoặc
tham gia ký kết.
Thứ ba, đặc điểm về nội dung phòng ngừa THTP về môi trường. Nội dung
phòng ngừa THTP về môi trường cũng đa dạng hơn các nội dung phòng ngừa
THTP khác. Theo Bộ Luật Hình sự hiện hành, tội phạm về môi trường gồm có 12
tội danh. Điều này cho thấy, số lượng hình thức các hành vi tội phạm về môi trường
là rất lớn. Không những thế, việc định 12 tội danh cũng hết sức phức tạp, nhiều tội
danh khó xác định ranh giới với các tội danh khác. Điều này là một minh chứng cho
thấy, bản chất của hành vi phạm tội về môi trường rất lớn, đa dạng và phức tạp.
Bên cạnh đó, đời sống xã hội con người càng phát triển, nhu cầu về nguồn tài
nguyên càng lớn và các hoạt động xâm hại hay đe doạ xâm hại đến môi trường càng
cao. Chính vì thế, theo một xu hướng tất yếu, THTP về môi trường luôn vận động
theo hướng gia tăng cả về quy mô lẫn tính chất. Điều này cũng đặt ra cho công tác
phòng ngừa THTP về môi trường yêu cầu phải duy trì xu hướng gia tăng tương ứng
các biện pháp phòng ngừa.
Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng, khi nền kinh tế đạt đến một trình độ phát
triển nhất định, sẽ giảm bớt sự lệ thuộc vào các nguồn lực thiên nhiên, từ đó THTP
về môi trường cũng sẽ có xu hướng giảm đáng kể hơn so với thời kỳ đang phát
triển. Tuy nhiên, thực tế ở nhiều quốc gia phát triển hiện nay lại chứng minh rằng,
nếu THTP về môi trường đã có một quá trình tịnh tiến tăng thì vấn đề của loại tội
phạm này trong tương lai chỉ là việc tiếp nối xu hướng gia tăng ấy của quá khứ.
34
Thêm vào đó, như đã trình bày ở trên, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong
thực hiện hành vi phạm tội khiến cho hậu quả của hành vi càng lớn hơn, trong khi
đó việc phát hiện hành vi phạm tội gặp nhiều khó khăn hơn. Nhiều tội danh trở
thành tội phạm ẩn nên có thể việc thống kê dễ dàng bị đánh lừa. Đối với một số
quốc gia phát triển khác có xu hướng đẩy tội phạm về môi trường qua các nước
đang phát triển hoặc các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này khiến cho THTP môi
trường ở quốc gia họ giảm xuống, song với bình diện toàn cầu, tình hình này theo
một xu hướng không đổi. Vấn đề môi trường sống không đơn giản nằm ở việc phân
cách cơ học của biên giới mỗi quốc gia. Hậu quả của sự tàn phá môi trường sẽ ảnh
hưởng xấu ở phạm vi toàn cầu với nhiều mức độ khác nhau. Chính vì thế, nội dung
phòng ngừa THTP về môi trường rất lớn, phức tạp và luôn có xu hướng gia tăng
quy mô theo thời gian.
Thứ tư, đặc điểm về phương pháp phòng ngừa THTP về môi trường. Phòng
ngừa THTP đòi hỏi sử dụng đa dạng các biện pháp và đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
của các chủ thể phòng ngừa. Trong đó, không chỉ phải tiến hành phòng ngừa THTP
về môi trường bằng các phương pháp cụ thể trực tiếp tác động đến vấn đề môi
trường mà biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường còn sử dụng những biện
pháp chung, bằng các cơ chế tác động gián tiếp đến phòng ngừa THTP về môi
trường. Cả hai nhóm biện pháp phòng ngừa này được kết hợp thực hiện nhằm
phòng ngừa tận gốc rễ của THTP về môi trường.
Bên cạnh đó, vì môi trường được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau, ứng
với mỗi yếu tố có một giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá khác nhau với đời sống
con người, do đó hành vi phạm tội liên quan đến môi trường cũng có tính đa dạng,
đi từ những hành vi đơn giản đến phức tạp và tinh vi trên một quy mô phạm tội rộng
lớn. Chính điều đó đã khiến cho công tác phòng ngừa tội phạm về môi trường phải
có những biện pháp phòng ngừa đặc thù, đồng thời đòi hỏi các chủ thể phải thực
hiện công tác phòng ngừa đồng bộ, phối hợp chặt chẽ.
Trong xu hướng phát triển của công nghệ hiện nay, ứng dụng khoa học, công
nghệ, kỹ thuật vào hoạt động phạm tội trở nên dễ dàng và rộng rãi. THTP về môi
trường cũng ghi nhận những ứng dụng như vậy. Ví dụ, với công nghệ vệ tinh GPS,
các đối tượng phạm tội đã dễ dàng định vị được không gian thích hợp cho hành vi
phạm tội; với công nghệ đo lường lượng tử, các đối tượng có thể thăm dò và ước
lượng được sản lượng của các khoáng vật… hay với sự phát triển của công nghệ
35
truyền thông di động, các đối tượng có thể dễ dàng liên lạc để phối hợp phạm tội
quy mô lớn, vô hiệu hoá tính bí mật và bất ngờ của các hoạt động phòng ngừa và
thiết lập được một thị trường bất hợp pháp giao dịch các sản phẩm của môi trường
tự nhiên ở quy mô lớn. Các ứng dụng này đã làm cho THTP về môi trường trở nên
phức tạp, các hành vi thực hiện tinh vi, khó phát hiện dẫn đến khó phòng ngừa, khó
đấu tranh. Vì vậy, hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường phải đòi hỏi sự đầu
tư cao độ về thiết bị và kỹ thuật vận hành để đảm bảo vượt trội hơn các ứng dụng kỹ
thuật của các đối tượng phạm tội, từ đó đảm bảo được các yêu cầu về tính bí mật,
bất ngờ và hiệu quả của các hoạt động phòng ngừa cụ thể.
2.2. Nguyên tắc và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
2.2.1. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Phòng ngừa THTP nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng
đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo các yêu cầu về tính
hiệu quả, tính tuân thủ pháp luật và tính đồng bộ. Cụ thể các nguyên tắc của phòng
ngừa THTP về môi trường gồm:
Thứ nhất, Nguyên tắc đề cao vai trò của công tác phòng ngừa THTP về môi
trường. Các chủ thể có thẩm quyền và xã hội cần xem công tác phòng ngừa THTP
về môi trường là cơ sở quan trọng nhất đạt đến mục tiêu loại trừ tội phạm về môi
trường ra khỏi đời sống thực tiễn. Để ngăn chặn, trấn áp và loại bỏ THTP ra khỏi
đời sống xã hội phải có một quy trình chặt chẽ và hiệu quả. Trong đó, phòng ngừa
THTP là khâu đầu tiên và đóng vai trò hạn chế tối đa THTP về môi trường diễn
biến phức tạp trên thực tiễn. Nếu thực hiện tốt công tác phòng ngừa THTP, các hoạt
động khác sẽ đảm bảo được giảm tải các áp lực cho việc đấu tranh tội phạm. Chính
vì thế, nguyên tắc đầu tiên trong thực hiện công tác phòng ngừa THTP về môi
trường phải xác định đây là khâu quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với mục
tiêu loại bỏ THTP về môi trường ra khỏi đời sống xã hội. Nắm rõ được nguyên tắc
cốt yếu này, sẽ đảm bảo cho các chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa THTP về
môi trường quyết tâm cao, lựa chọn được các công cụ và phương tiện hợp lý để đạt
được mục tiêu của công tác.
Thứ hai, Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các chủ thể phòng ngừa
cần tuân thủ pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động phòng ngừa
THTP về môi trường nói riêng và phòng ngừa THTP nói chung là hoạt động áp
dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền, do đó bản chất của hoạt động được
36
dựa trên pháp luật. Ở một khía cạnh khác, các hoạt động áp dụng pháp luật luôn tồn
tại cơ chế bất bình đẳng (chủ thể áp dụng pháp luật có quyền đơn phương áp đặt các
hệ quả pháp lý lên đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật) do đó, tất yếu xảy ra
xu hướng lạm quyền thông qua lợi dụng quyền lực được pháp luật ghi nhận. Chính
nguy cơ này mà trên thực tiễn, nhiều chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường lại
có những mối quan hệ hợp tác với các đối tượng phạm tội về môi trường nhằm chia
sẻ lợi ích hoặc áp đặt các điều kiện có lợi cho mình. Tình trạng này khiến cho công
tác phòng ngừa THTP về môi trường không những không đạt được mục tiêu mà còn
khiến cho THTP môi trường diễn biến theo chiều hướng tiêu cực.
Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật trong phòng ngừa THTP về môi
trường sẽ đảm bảo cho các chủ thể thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa của mình
theo quy định pháp luật, tránh được các hành động lợi dụng quyền lực để áp đặt các
hoạt động phòng ngừa hành vi vi phạm những quyền tự do và dân chủ, móc nối với
các đối tượng phạm tội để tạo ra mối quan hệ tương hỗ tiêu cực về lợi ích, làm cho
THTP về môi trường trở nên phức tạp. Bên cạnh đó, nguyên tắc bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong phòng ngừa THTP về môi trường sẽ duy trì được một hệ
thống các chủ thể thực hiện chức năng phòng ngừa có sự phân quyền theo thứ bậc
chặt chẽ. Sự phân quyền này đảm bảo sự thống nhất từ trên xuống dưới của các chủ
thể. Các mệnh lệnh đều được truyền tải từ trên xuống dưới và được thực hiện một
cách đồng bộ. Điều này tạo nên sức mạnh của các chủ thể thực hiện công tác phòng
ngừa THTP về môi trường.
Thứ ba, Nguyên tắc hài hoà lợi ích. Các chủ thể phòng ngừa cần đảm bảo hài
hoà giữa vấn đề BVMT và phát triển kinh tế quốc gia. Môi trường và kinh tế có mối
quan hệ chặt chẽ và qua lại lẫn nhau. Ban đầu, môi trường là nguồn lực cho sự phát
triển của kinh tế. Sau đó sự thịnh vượng của kinh tế sẽ đảm bảo các nguồn lực cần
thiết để thực hiện BVMT. Chính vì thế, trong giai đoạn phát triển, khai thác và sử
dụng môi trường luôn là nhu cầu tất yếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc khai
thác này phải trong một giới hạn cho phép của pháp luật để đảm bảo sự phát triển
bền vững và giữ gìn môi trường sống cho con người. Công tác phòng ngừa THTP
về môi trường nhằm đảm bảo cho quá trình khai thác, sử dụng môi trường được duy
trì trong giới hạn đó. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, nhiều biện pháp phòng
ngừa sẽ ít nhiều tác động đến hoạt động khai thác, sử dụng môi trường hợp pháp,
bằng cách gia tăng thêm nhiều thủ tục, nhiều điều kiện về vật chất, nhiều điều kiện
37
về con người… khiến cho hoạt động khai thác, sử dụng môi trường hợp pháp bị cản
trở, không đảm bảo được các điều kiện cho phát triển sản xuất, kinh doanh. Chính
vì thế, công tác phòng ngừa THTP về môi trường phải được thực hiện dựa trên sự
cân đối của lợi ích phát triển kinh tế và đảm bảo đẩy lùi được THTP về môi trường.
Sự cân đối được pháp luật quy định, song ở nhiều trường hợp cụ thể cần đến sự tính
toán, cân nhắc và quyết định của chính các chủ thể phòng ngừa THTP về môi
trường.
Thứ tư, Nguyên tắc phòng ngừa từ dưới lên. Thực hiện phòng ngừa hiệu quả
từ cấp cơ sở, huy động sức mạnh nhân dân vào công tác phòng ngừa. Phòng ngừa
THTP về môi trường là hoạt động của toàn thể hệ thống chính trị và toàn dân. Tuy
nhiên, nguyên tắc trong phòng ngừa THTP về môi trường phải chú trọng phòng
ngừa hiệu quả từ cấp cơ sở, huy động và tận dụng tối đa sức mạnh nhân dân vào
công tác phòng ngừa. Cụ thể:
- Đối với phòng ngừa hiệu quả từ cấp cơ sở: THTP về môi trường là tập hợp
các hành vi phạm tội về môi trường từ những đơn vị lãnh thổ nhỏ nhất trong một
khoảng thời gian nhất định. Do đó, đến lượt công tác phòng ngừa cũng cần được
tiến hành ở những đơn vị nhỏ nhất đó một cách hiệu quả để đảm bảo đạt được kết
quả của công tác phòng ngừa một cách vững chắc. Phòng ngừa hiệu quả THTP về
môi trường từ cơ sở là công tác triển khai thực tiễn phải được ưu tiên thực hiện
mạnh mẽ và hiệu quả từ những đơn vị cơ sở nhỏ nhất, sau đó tiến dần đến mở rộng
phòng ngừa là cấp cao hơn và tiến tới phòng ngừa tổng thể có hiệu quả. Đây chính
là quy trình phòng ngừa từ gốc rễ của tình hình, đảm bảo quá trình phòng ngừa
nhắm đúng vào bản chất của tình hình, được thực hiện từ phần gốc rễ của vấn đề
thay vì phần ngọn. Khác với phòng ngừa THTP từ các chiều hướng khác, phòng
ngừa THTP về môi trường ở cấp cơ sở sẽ chậm hơn trong việc cho thấy hiệu quả
của công tác, tuy nhiên đây được xem là việc đặt nền tảng quan trọng cho hoạt động
phòng ngừa THTP bền vững, thực chất, không sa vào tính phong trào, hình thức và
nặng tính báo cáo.
- Đối với huy động và tận dụng tối đa sức mạnh nhân dân vào hoạt động
phòng ngừa THTP về môi trường. Nhân dân đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động phòng ngừa THTP về môi trường. Bởi vì nhân dân vừa là đối tượng, vừa là
khách thể và vừa là chủ thể của hoạt động này. Nhân dân với vai trò là cá nhân đơn
lẻ hay các tổ chức pháp nhân, trong quá trình sống và hoạt động sản xuất kinh
38
doanh của mình, là các đối tượng chủ yếu gây ra THTP về môi trường. Đồng thời,
với vai trò là khách thể hưởng lợi trực tiếp từ công tác phòng chống THTP về môi
trường, nhân dân cũng là một chủ thể có nghĩa vụ đối với công tác này. Cụ thể,
nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp các thông tin quần chúng tự
phát giác, nắm bắt các biểu hiện phạm tội của các đối tượng thông qua hoạt động
sống, sản xuất, kinh doanh hàng ngày. Không những thế, khả năng tuyên truyền
nhanh, rộng và hiệu quả của nhân dân cũng góp phần lan toả các nội dung của
phòng ngừa THTP về môi trường ở phạm vi khu vực cư trú nói riêng và xã hội nói
chung. Việc nắm rõ vai trò này để tận dụng và khai thác tối đa sức mạnh nhân dân
vào phòng ngừa THTP về môi trường sẽ đảm bảo công tác phòng ngừa đạt được
tính đồng bộ. Cả hệ thống chính trị và nhân dân đều thực hiện tích cực công tác
phòng ngừa sẽ đảm bảo sử dụng hiệu quả các công cụ, phương tiện và đồng bộ các
phương pháp, từ đó đạt được hiệu quả phòng ngừa toàn diện.
Thứ năm, Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời và thường xuyên. Phòng ngừa
THTP về môi trường phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhanh chóng và
có hiệu quả. Hiệu quả phòng ngừa THTP nói chung và THTP môi trường nói riêng
muốn đạt được mục tiêu cần thiết phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và kịp
thời. Tính thường xuyên, liên tục đảm bảo cho các tác động của quá trình phòng
ngừa THTP được duy trì, từ đó từng bước phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi THTP về
môi trường ra khỏi đời sống xã hội. Tính ngắt quãng sẽ làm cho sức mạnh của các
phương pháp áp dụng bị yếu đi. Không những thế, công tác phòng ngừa THTP về
môi trường cũng đòi hỏi tính nhanh chóng. Quá trình phòng ngừa có hiệu quả hay
không được đánh giá bởi khả năng làm giảm nguy cơ của THTP. Sự kịp thời trong
phòng ngừa sẽ ngăn chặn THTP về môi trường diễn ra trên thực tiễn.
2.2.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Phòng ngừa THTP về môi trường đóng vai trò phương hướng chính, là tư
tưởng chủ đạo trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm môi trường. Theo đó,
phòng ngừa THTP về môi trường có những ý nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, phòng ngừa THTP về môi trường góp phần phát triển bền vững đất
nước. Phát triển bền vững là mục tiêu phát triển của hầu hết các quốc gia đương đại.
Phát triển bền vững cần đến sự trụ cột của ba yếu tố gồm: phát triển bền vững kinh
39
tế, phát triển bền vững xã hội và phát triển bền vững môi trường.
Phòng ngừa THTP về môi trường trước hết có ý nghĩa trong việc duy trì trạng
thái phát triển bền vững môi trường. Phát triển bền vững môi trường là việc duy trì
hiện trạng môi trường trong lành bằng cách ngăn ngừa các hành vi làm tổn hại môi
trường; khắc phục các điểm ô nhiễm và suy thoái của môi trường; phát triển các giá
trị của môi trường bằng những cơ chế nhân tạo. Phòng ngừa THTP về môi trường
với bản chất là việc ngăn ngừa các hành vi phạm tội gây ra những tổn hại cho môi
trường. Đồng thời hoạt động phòng ngừa cũng mang tới ý nghĩa về việc nâng cao
nhận thức xã hội để chung tay khắc phục ô nhiễm suy thoái. Và cuối cùng, việc
phòng ngừa tốt sẽ tạo ra được những điều kiện nền tảng cho các hoạt động phát
triển môi trường tự nhiên bằng các cơ chế nhân tạo.
Phòng ngừa THTP về môi trường cũng có ý nghĩa rất lớn đối với trụ cột phát
triển bền vững kinh tế. Phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh, an toàn,
chất lượng và thực chất. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ
thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều
kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt
động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Bên cạnh đó, phát triển bền vững
kinh tế cũng đòi hỏi kiến tạo các giá trị kinh tế vững chắc cho tương lai, bằng một
chuỗi giá trị kinh tế thực chất, phát triển dựa trên cơ sở nội tại. Trong phát triển kinh
tế, môi trường đóng vai trò là nền tảng tồn tại, vừa cung ứng đầu vào nhưng đồng
thời cũng là nơi lưu chứa phế phẩm đầu ra của hoạt động kinh tế. Do đó, có thể nói
môi trường là điều kiện tồn tại và phát triển của kinh tế. Chính vì thế, phòng ngừa
THTP về môi trường với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo môi trường được trong
lành, toàn vẹn cũng chính là đảm bảo cho kinh tế một cơ sở phát triển bền vững.
Cuối cùng, phòng ngừa THTP về môi trường có ý nghĩa quan trọng trong phát
triển bền vững xã hội. Phát triển bền vững về xã hội là việc xây dựng một xã hội hài
hoà, nhân văn, phúc lợi và có tính đồng thuận cao. Nội dung này được đánh giá
bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế,
phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời
sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới;
mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch
đời sống giữa các vùng miền không lớn. Các giá trị của mục tiêu xã hội bền vững
này muốn có được ý nghĩa của nó cần phải có một nền tảng môi trường tự nhiên bền
40
vững. Một nền y tế phát triển cũng không thể chống lại một môi trường xuống cấp
và nhiều mầm mống dịch bệnh; một xã hội nhân văn, phúc lợi cao cũng không có ý
nghĩa nếu liên tiếp hứng chịu thiên tai, hiểm hoạ tự nhiên. Phòng ngừa THTP vừa
góp phần giảm thiểu tội phạm, đảm bảo trật tự xã hội nói chung, vừa có ý nghĩa trực
tiếp kiến tạo những điều kiện nền tảng cho tồn tại xã hội.
Thứ hai, phòng ngừa THTP về môi trường có ý nghĩa khắc phục những sơ hở,
thiếu sót, hạn chế trong hệ thống các quy định của pháp luật về BVMT. Phòng ngừa
THTP về môi trường với các cơ chế phòng ngừa như: chủ thể phòng ngừa, cơ sở
pháp lý của phòng ngừa; nội dung phòng ngừa; phương pháp phòng ngừa… bao
quát toàn bộ các nội dung pháp lý về tội phạm môi trường và phòng ngừa THTP về
môi trường ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc thực hiện các cơ chế phòng ngừa
THTP này, các quy định pháp luật sẽ được thực thi trên thực tiễn. Kết quả thực thi
trên thực tiễn không chỉ giúp pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường đi vào
đời sống xã hội và phát huy tác dụng ngăn ngừa THTP về môi trường mà còn giúp
kiểm nghiệm tính hợp lý và khả thi của các quy định của pháp luật đó. Bằng cách
tổng hợp các vướng mắc, khó khăn từ công tác phòng ngừa thực tiễn, những hạn
chế hay thiếu hụt của luật pháp sẽ được phát hiện và kịp thời chỉnh sửa, hoàn thiện
với đòi hỏi khách quan.
Bên cạnh đó, phòng ngừa THTP về môi trường còn có ý nghĩa giảm thiểu hoạt
động áp dụng pháp luật khi đấu tranh chống tội phạm môi trường. Hoạt động phòng
ngừa THTP về môi trường mang đến nhiều hiệu quả, đồng nghĩa với việc THTP về
môi trường được đẩy lùi, các nguy cơ tội phạm về môi trường được ngăn chặn kịp
thời trong tư tưởng nền sẽ hạn chế hành vi thực hiện trên thực tiễn. Từ đó làm giảm
áp lực cho công tác đấu tranh chống tội phạm về môi trường, đồng thời cũng làm
giảm việc áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng đối với người phạm tội về
môi trường.
Thứ ba, phòng ngừa THTP về môi trường có ý nghĩa giữ vững trật tự xã hội.
Tội phạm về môi trường cũng giống như các tội phạm khác ở chỗ tác động tiêu cực
lên trật tự xã hội, làm đảo lộn hành vi, mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với pháp
luật. Chính vì thế, xã hội tồn tại THTP nói chung hay THTP về môi trường nói
riêng tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng mất trật tự. THTP càng phức tạp, tình hình trật tự
xã hội càng xấu đi. Do đó, phòng ngừa THTP về môi trường với mục đích làm giảm
tiến tới xoá bỏ tội phạm môi trường trong đời sống xã hội sẽ có ý nghĩa quan trọng
41
đến duy trì trật tự xã hội.
Không những thế, phòng ngừa THTP về môi trường còn có ý nghĩa trách
nhiệm xã hội rất lớn. Cụ thể, nhiều hậu quả của tội phạm về môi trường không có
tác hại tức thì đến đời sống xã hội hiện tại. Một hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường cũng đôi khi không trực tiếp gây ra những hậu quả môi trường tức thì, mà
chỉ đóng vai trò là một trong những chuỗi hành vi tác động lâu dài và liên tục. Điều
này xuất phát từ vấn đề nhân quả của tội phạm về môi trường đa số là không tức thì
và không chính yếu. Chính vì thế, hậu quả của hành vi phạm tội môi trường hôm
nay sẽ được biểu hiện ở tương lai. Chính vì thế, phòng ngừa THTP về môi trường ở
hiện tại chính là giữ gìn và kiến tạo những điều kiện môi trường tốt nhất cho xã hội
trong tương lai.
2.3. Cơ sở pháp lý của phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng
Cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường là tập hợp các
quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề liên quan đến công tác BVMT; tội phạm
về môi trường; phòng ngừa tội phạm về môi trường và phòng ngừa THTP về môi
trường. Cụ thể:
- Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp hiện hành được ban hành năm 2013 với
một số các hiến định trở thành tư tưởng chủ đạo về công tác BVMT và phòng ngừa
THTP về môi trường như: Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện được những vấn đề mới
của thời đại như vấn đề phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh
năng lượng,…Lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận quyền con người đối với môi
trường: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ
BVMT” (Điều 43). Nguyên tắc người gây thiệt hại môi trường phải khắc phục hậu
quả, bồi thường thiệt hại lần đầu tiên được ghi nhận (Khoản 3, Điều 63). Đây là
nguyên tắc thể hiện rõ nét nhất việc áp dụng biện pháp kinh tế trong BVMT, dùng
lợi ích kinh tế tác động vào chính hành vi của các chủ thể theo hướng có lợi cho
môi trường. Bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác
BVMT (Khoản 1 và 2 Điều 63 được sửa đổi trên cơ sở Điều 29 và Điều 112 của
Hiến pháp năm 1992). BVMT đã được chú trọng, đặt ngang hàng với các lĩnh vực
khác và BVMT đã được ghi nhận là nhiệm vụ ưu tiên, trước cả công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước (Điều 50 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 15 và Điều 43
của Hiến pháp năm 1992). Và cuối cùng, bổ sung quy định Chính phủ thống nhất
quản lý về môi trường (Điều 96 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở các Điều 24, 26,
42
30, 36, 39, 41, 109 và 112 của Hiến pháp năm 1992).
- Luật BVMT năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật BVMT năm
2014 xây dựng sau khi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 (Hiến pháp năm 2013) được thông qua và có hiệu lực thi hành, trong tổng số
120 điều của Hiến pháp năm 2013, có 04 điều quy định các nội dung liên quan đến
lĩnh vực môi trường, điều này khẳng định sự coi trọng vai trò của công tác BVMT
bên cạnh sự phát triển kinh tế, xã hội. Đặc biệt, Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ quyền và nghĩa vụ của người dân với môi trường: “Mọi người có quyền
được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”. Trên tinh thần của
Hiến pháp năm 2013, Luật BVMT năm 2014 đã kế thừa các nội dung của Luật
BVMT năm 2005, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật BVMT
năm 2005, luật hóa chủ trương của Đảng, bổ sung một số nội dung mới về BVMT
nhằm đáp ứng yêu cầu BVMT trong giai đoạn mới, đồng thời sắp xếp lại trật tự các
chương, điều, câu chữ đảm bảo tính logic và khoa học, quy định cụ thể quyền, trách
nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Luật BVMT
năm 2014 gồm 20 chương và 170 điều.
Luật được xây dựng trên cơ sở các quan điểm như: thể chế hóa quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6
năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; khắc phục những hạn chế,
bất cập của Luật BVMT 2005; bổ sung một số nội dung mới như tăng trưởng xanh,
biến đổi khí hậu, an ninh môi trường...; hài hòa các quy định của Luật và các cam
kết quốc tế về môi trường thể hiện tại các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt
Nam đã ký kết, tham gia và coi phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường là
nhiệm vụ chính, phù hợp với đặc điểm của khoa học môi trường như các yếu tố môi
trường có mối liên kết hữu cơ với nhau, không chia cắt theo địa giới hành chính;
bảo đảm tính hệ thống, toàn diện, khoa học và thực thi của các quy định pháp luật
về BVMT.
- Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018, với những quy định về các tội phạm liên quan đến môi
trường tại Chương XIX với 12 điều (từ Điều 235 đến Điều 246) gồm:
+ Điều 235. Tội gây ô nhiễm môi trường;
43
+ Điều 236. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại;
+ Điều 237. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường;
+ Điều 238. Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê
điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông;
+ Điều 239. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam;
+ Điều 240. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người;
+ Điều 241. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật;
+ Điều 242. Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản;
+ Điều 243. Tội huỷ hoại rừng;
+ Điều 244. Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp,
quý, hiếm;
+ Điều 245. Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên;
+ Điều 246. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại.
- Nghị định 72/2010/NĐ-CP, Quy định về phòng ngừa THTP về môi trường
và vi phạm pháp luật khác về môi trường, ban hành ngày 08 tháng 7 năm 2010 của
Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và
vi phạm pháp luật khác về môi trường; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng ngừa, đấu tranh tội phạm và vi phạm pháp luật
khác về môi trường. Nghị định này áp dụng đối với cán bộ, chiến sĩ làm công tác
phòng ngừa THTP về môi trường và vi phạm pháp luật khác về môi trường; các cơ
quan, tổ chức, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức, cá
nhân người nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
- Nghị định 40/2019/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 13 tháng 5 năm
2019. Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT. Với 7 điều, 81 trang nội dung,
121 trang phụ lục và biểu mẫu kèm theo, Nghị định số 40/2019/NĐ-CP đã giải
quyết những vấn đề còn chồng chéo, lấp khoảng trống trong các văn bản luật trước
đó. Nghị định này sửa đổi, bổ sung một số điều của 4 Nghị định gồm: Nghị định
18/2015/NĐ-CP về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác
động môi trường và kế hoạch BVMT; Nghị định 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật BVMT; Nghị định 38/2015/NĐ-CP quy định về quản
lý chất thải và phế liệu; Nghị định 127/2014/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức
44
hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành ngày 27 tháng 11
năm 2015. Bộ luật quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm
vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác
quốc tế trong tố tụng hình sự. Căn cứ theo các quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự,
các chủ thể thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường sẽ có những hiểu biết về thủ
tục tiếp nhận thông tin và tiến hành các hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường
khác theo quy định của pháp luật, tránh được sự tuỳ nghi.
Ngoài các cơ sở pháp lý kể trên, đối với các chủ thể và hoạt động khác nhau
trong phòng ngừa THTP về môi trường sẽ có những căn cứ khác nhau về tổ chức,
thẩm quyền và trình tự hoạt động như: Luật Tổ chức TAND năm 2014; Luật Tổ
chức VKSND năm 2014; Luật Tổ chức điều tra hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự
năm 2015; Luật CAND năm 2018; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012… và
một số văn bản pháp lý khác liên quan đến chức năng phòng ngừa THTP về môi
trường ở một số lĩnh vực cụ thể như: Luật Đất đai sửa đổi năm 2013; Luật Phòng
chống thiên tai năm 2013; Luật BVMT sửa đổi năm 2014; Luật Tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo năm 2015 ; Luật Khí tượng thủy văn năm 2015; Luật Thủy
lợi năm 2017; Luật Lâm nghiệp năm 2017; Luật Thủy sản sửa đổi năm 2017; Luật
Quy hoạch năm 2017 và các Nghị định liên quan như: Nghị định số 03/2015/NĐ-
CP ngày 06/01/2015 quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường; Nghị định
số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT; Nghị định số
19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
BVMT; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 quy định về quản lý chất thải
và phế liệu; Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 quy định lập, quản lý
hành lang bảo vệ nguồn nước; Nghị định số 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của
Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản; Nghị định số 12/2016/NĐ-CP
ngày 19/02/2016 về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản; Nghị định số
24/2016/NĐ-CP ngày 05/4/2016 về quản lý vật liệu xây dựng; Nghị định số
45
40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo; Nghị định số 60/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016
quy định một số điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực tài nguyên nước và môi
trường…
Ngoài nhóm các văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động phòng ngừa THTP về
môi trường còn được căn cứ trên các chương trình, quy hoạch, kế hoạch liên quan
khác như: Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 phê duyệt Kế hoạch xử lý
triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020; Quyết định số
166/QĐ-TTg ngày 21/01/2014 ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược BVMT
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 182/QĐ-TTg ngày
23/01/2014 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia nâng cao hiệu quả quản lý, bảo
vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2014 – 2020; Quyết định số
218/QĐ-TTg ngày 07/02/2014 phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc
dụng, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn năm 2030; Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 phê duyệt Kế
hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020; Quyết định
số 1469/QĐ-TTg ngày 22/8/2014 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu
xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số
1893/QĐ-TTg ngày 20/10/2014 phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến
và sử dụng quặng Apatit đến năm 2020, có xét đến năm 2030; Quyết định số
2185/QĐ-TTg ngày 05/12/2014 phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến
và sử dụng quặng sắt đến năm 2020, có xét đến năm 2030; Quyết định số 2295/QĐ-
TTg ngày 17/12/2014 phê duyệt Chiến lược quản lý tổng hợp đối với bờ biển Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày
16/01/2018 phê duyệt Kế hoạch hành động Quốc gia nhằm ngăn chặn, giảm thiểu và
loại bỏ khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định đến năm
2025; Quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 19/01/2018 phê duyệt Kế hoạch phát triển đô thị
tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
07/5/2018 phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn
đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 910/QĐ-TTg ngày 25/7/2018
phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng vàng, đồng, niken,
molipden đến năm 2025, có xét đến năm 2035 và Quyết định số 956/QĐ-TTg ngày
02/8/2018 phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng thiếc,
46
wolfram, antimon đến năm 2025, có xét đến năm 2035.
2.4. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng
Phòng ngừa THTP về môi trường là vấn đề của toàn hệ thống chính trị và
nhân dân. Muốn đạt được hiệu quả cao trong công tác này cần thiết phải huy động
được sự tham gia của tất cả các chủ thể và duy trì thường xuyên mối quan hệ mật
thiết giữa các chủ thể trong phòng ngừa THTP về môi trường. Trên cơ sở những ghi
nhận pháp lý hiện hành và chức năng quản lý hành chính nhà nước về lĩnh vực môi
trường, có thể xác định các chủ thể của công tác phòng ngừa THTP về môi trường
bao gồm:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức
chính trị duy nhất trong hệ thống chính trị nước ta và đóng vai trò lãnh đạo tuyệt đối
đất nước. Điều này được ghi nhận tại Khoản 1, Điều 4 - Hiến pháp năm 2013 như
sau: “Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Với sự ghi nhận này, Đảng có vai trò định hướng
các chính sách pháp luật về nhiều vấn đề quan trọng để nhà nước thể chế thành luật,
bao gồm cả vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường.
Bên cạnh đó, Đảng còn có vai trò trong việc giới thiệu nhân sự, chỉ đạo, kiểm
tra, đôn đốc hệ thống chính trị thực hiện công tác phòng ngừa THTP về môi trường
trên toàn quốc. Các cấp Đảng chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc chính quyền địa phương
thực hiện chức năng phòng ngừa THTP về môi trường hiệu quả.
Thứ hai, Quốc hội, UBTVQH, các Uỷ ban của Quốc hội và Đại biểu quốc hội.
Quốc hội cơ quan quyền lực của quốc gia có chức năng lập pháp; quyết định
các vấn đề trọng đại của đất nước và thực hiện giám sát tối cao thông qua các cơ
quan của Quốc hội, Đại biểu quốc hội đóng vai trò quan trọng trong ban hành các
thể chế pháp lý về phòng ngừa THTP về môi trường và giám sát hoạt động đó.
Ở vai trò thứ nhất, Quốc hội ban hành Hiến pháp, Luật và Nghị quyết làm cơ
sở pháp lý cho hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường. UBTVQH ban hành
Nghị quyết và Pháp lệnh làm cơ sở pháp lý dưới luật cho hoạt động phòng ngừa
THTP về môi trường. Từ những cơ sở pháp lý này, các cơ quan hành pháp được ban
hành các văn bản pháp quy phù hợp nhằm triển khai thực hiện phòng ngừa THTP
47
về môi trường trên thực tiễn.
Ở vai trò thứ hai, Quốc hội thông qua hoạt động của các Uỷ ban và Đại biểu
quốc hội tiến hành giám sát hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường của các
chủ thể khác bằng hoạt động giám sát thường xuyên và thông qua các phiên chất
vấn tại nghị trường trong các kỳ họp Quốc hội.
Thứ ba, hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật: VKSND và TAND. Hệ thống hai
cơ quan thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật cũng thực hiện phòng ngừa THTP về
môi trường thông qua thẩm quyền của mình và phối hợp cùng lực lượng Công an
các cấp đảm bảo phòng ngừa THTP về môi trường được tuân thủ theo đúng quy
định của pháp luật, đảm bảo các quyền dân chủ, các nguyên tắc trong hoạt động
phòng ngừa. Bên cạnh đó, hệ thống Viện kiểm sát và Toà án cũng có vai trò trong
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường. Kết hợp với
các hoạt động tư pháp khác nhằm làm rõ và hạn chế mối quan hệ qua lại giữa THTP
môi trường với các THTP khác, qua đó góp phần giúp phòng ngừa THTP về môi
trường đạt được hiệu quả.
Thứ tư, Chính phủ: Chính phủ với tư cách là cơ chấp hành của Quốc hội, là cơ
quan hành pháp cao nhất và thực hiện thẩm quyền quản lý hành chính trong phạm
vi cả nước, có vai trò bao quát trong chỉ đạo thực hiện phòng ngừa THTP về môi
trường trên phạm vi toàn quốc. Ở phương diện thứ nhất, Chính phủ nắm quyền lập
quy với Nghị định của tập thể Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng và Thông tư
của các Bộ trưởng căn cứ theo Hiến pháp và pháp luật của Quốc hội, nhằm cụ thể
hoá các chủ trương của Đảng, quy định của Quốc hội về phòng ngừa THTP về môi
trường, hướng dẫn các cấp, các ngành thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường.
Ở phương diện thứ hai, Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất, nắm
quyền chỉ huy nền hành chính quốc gia, Chính phủ phân công, phân cấp, chỉ đạo,
đôn đốc, kiểm tra, giám sát các cấp, các ngành thực hiện công tác phòng ngừa
THTP về môi trường. Các cấp, các ngành chịu trách nhiệm trước Chính phủ về
công tác phòng ngừa phòng ngừa THTP về môi trường được giao.
Thứ năm, Bộ và các cơ quan ngang bộ. Các bộ, cơ quan ngang bộ cũng trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào công tác phòng ngừa THTP về môi trường. Có thể
kể tới một số bộ trực tiếp tham gia vào hoạt động này như: Bộ Công an; Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Bộ Tài chính; Bộ NN&PTNT và các bộ, cơ quan ngang bộ
48
khác. Cụ thể:
- Trách nhiệm của Bộ Công an:
+ Tổ chức lực lượng phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi
phạm pháp luật khác về môi trường theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự,
Luật CAND, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự.
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan hữu quan
khác xây dựng và thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch công tác
phòng ngừa THTP về môi trường và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
+ Tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm và vi phạm pháp luật khác
về môi trường; chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tài liệu, hồ sơ vụ
việc có thể liên quan tới các vi phạm pháp luật về môi trường để thanh tra, kiểm tra,
xử lý theo quy định của pháp luật.
+ Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông
tin vào công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường;
trao đổi thông tin, tài liệu cần thiết trong quá trình điều tra, phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường với Bộ Tài nguyên và Môi trường.
+ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng ngừa THTP về môi trường
và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
+ Tham mưu và xây dựng chiến lược, chủ trương, chính sách pháp luật về
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
+ Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính lập kế hoạch, dự toán ngắn hạn, dài hạn về kinh phí sự nghiệp môi trường
phục vụ công tác phòng ngừa THTP về môi trường và vi phạm pháp luật khác về
môi trường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ Công an còn tổ chức, triển khai lực lượng và chỉ đạo thực hiện
phòng ngừa THTP về môi trường ở cơ quan công an các cấp, đảm bảo thống nhất thực
hiện phòng ngừa THTP về môi trường trong toàn lực lượng CAND.
- Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường:
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật về BVMT, kết quả
49
điều tra, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
+ Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT;
phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan rà soát, điều chỉnh, chuyển đổi các tiêu
chuẩn Việt Nam về môi trường hiện hành, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật môi trường mới; xây dựng cơ chế xã hội hóa, giám sát, kiểm tra về môi
trường.
+ Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành
vi vi phạm pháp luật về BVMT trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình; đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ không có
hệ thống, phương tiện, biện pháp xử lý chất thải và biện pháp khắc phục sự cố môi
trường. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong việc trao đổi thông tin, thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT.
+ Phối hợp với Bộ Công an thực hiện việc tăng cường năng lực cơ quan
chuyên trách phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
- Trách nhiệm của Bộ Tài chính:
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên
và Môi trường và các Bộ, ngành có liên quan xây dựng, trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ kế hoạch, dự toán ngân sách ngắn hạn, dài hạn kinh phí sự
nghiệp môi trường phục vụ công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật khác về môi trường.
- Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan khác thuộc Chính phủ:
+ Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các
quy định tại Nghị định này.
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về BVMT theo chức năng,
nhiệm vụ và quy định của pháp luật; phối hợp và hỗ trợ cơ quan chuyên trách
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường, các cơ quan khác
thuộc Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao trong việc điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm về môi trường.
Thứ sáu, UBND các cấp. Trong sự phân cấp quản lý của mình, Uỷ ban nhân
dân các cấp thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường ở những khía cạnh như:
- Hướng dẫn các đơn vị, bộ phận trực thuộc nghiên cứu, thực hiện các quy
định của pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường trong phạm vi chức năng,
50
nhiệm vụ của mình.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn
đốc thực hiện các chính sách, đường lối, chiến lược, kế hoạch phòng ngừa THTP về
môi trường và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
- Phân bổ kinh phí cho công tác phòng ngừa THTP về môi trường và vi phạm
pháp luật khác về môi trường từ nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường Nhà nước
cấp cho tỉnh.
Thứ bảy, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị truyền thông,
thông tin và người dân. Các tổ chức chính trị xã hội với vai trò vừa là cánh tay nối
dài của Đảng, vừa đại diện cho lợi ích xã hội của các thành viên, do đó đóng vai trò
vừa là kênh chuyển tải tư tưởng của Đảng về phòng ngừa THTP về môi trường đến
xã hội, vừa góp phần tuyên truyền, vận động các thành viên, nhân dân thực hiện
phòng ngừa THTP về môi trường. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội bao gồm các tổ
chức nghề nghiệp, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các hộ và các cá thể đều là chủ
thể của phòng ngừa THTP về môi trường. Các nhóm chủ thể này thực hiện các hoạt
động cơ bản gồm: thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tuân thủ pháp luật
về BVMT, qua đó giảm thiểu nguy cơ về tội phạm môi trường, góp phần làm giảm
xu hướng biến động tiêu cực của THTP về môi trường; thứ hai, phát giác và kịp
thời tố cáo các hành vi xâm phạm môi trường, các nguyên nhân của THTP về môi
trường đến các cơ quan hữu quan để kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa; thứ ba, chủ
thể có vai trò rất lớn trong phòng ngừa THTP về môi trường là các cơ quan truyền
thông, báo chí. Với sức mạnh của truyền thông, các cơ quan tổ chức này thực hiện
chức năng truyền tải thông tin, phản ánh THTP về môi trường, tuyên truyền xã hội
tham gia BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường. Theo xu hướng phát triển
hiện nay, chủ thể này ngày càng chiếm ưu thế trong thực hiện nhiệm vụ của mình
do nền tảng truyền tin của Việt Nam hiện nay ngày càng phổ biến, tốc độ cao và dễ
tiếp cận. Trong khi đó các phương tiện phát tin có giá thành rẻ, phong phú trong lựa
chọn.
2.5. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng
Trên cơ sở các quy định của pháp lý hiện hành và đòi hỏi của thực tiễn công
tác phòng ngừa THTP về môi trường, có thể thấy nội dung phòng ngừa THTP về
môi trường bao gồm:
Thứ nhất, phòng ngừa tình hình các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Nội
51
dung này bao gồm các hoạt động phòng ngừa nhóm các tội phạm do những người
hoặc pháp nhân thương mại có những hành vi cố ý thải vào không khí, nguồn nước,
đất, các chất thải nguy hại theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm
hữu cơ khó phân hủy và vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải theo các
Điều 235, 237 và 239 – Bộ luật Hình sự năm 2015. Những người, pháp nhân
thương mại có hành vi nêu trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi chất thải
nguy hại thải ra môi trường đạt mức Bộ luật Hình sự quy định.
Nội dung phòng ngừa này có ý nghĩa rất quan trọng khi đóng vai trò tiên quyết
trong việc BVMT, đảm bảo môi trường sống tự nhiên trong lành, bền vững.
Thứ hai, phòng ngừa tình hình các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho người và động vật. Nội dung này bao gồm các hoạt động phòng ngừa tình hình
các nhóm tội phạm do người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện các hành vi:
Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm
động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm
cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Đưa vào hoặc cho phép đưa
vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị
nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
Thứ ba, phòng ngừa tình hình các hành vi hủy hoại tài nguyên môi trường.
Nội dung phòng ngừa này bao gồm các hoạt động phòng ngừa tình hình các nhóm
tội phạm do những người (có năng lực trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên),
pháp nhân thương mại (các Điều 238, 242, 243, 244, 245, 246 – Bộ luật Hình sự
năm 2015) có những hành vi cố ý huỷ hoại tài nguyên môi trường, làm lây lan dịch
bệnh nguy hiểm cho con người, động thực vật, xâm phạm đến chế độ bảo vệ đặc
biệt đối với một số đối tượng môi trường và huỷ hoại các công trình bảo vệ tài
nguyên môi trường. Những cá nhân, pháp nhân thương mại có hành vi nêu trên chỉ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về một trong các hành vi này hoặc đã bị kết án tù về một trong những tội
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm
Thứ tư, phòng ngừa tình hình các hành vi xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt
đối với một số đối tượng môi trường. Nội dung này bao gồm các hoạt động phòng
ngừa tình hình nhóm những tội phạm là các cá nhân thực hiện các hành vi sau: Tội
vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
52
thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông. Tội vi phạm quy định về quản
lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; Tội vi phạm các quy định về quản lý khu
bảo tồn thiên nhiên và Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Các điều
238; 244; 245; 246 – Bộ luật Hình sự năm 2015).
2.6. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng
Biện pháp phòng ngừa THTP là cách thức mà chủ thể phòng ngừa tác động lên
khách thể phòng ngừa nhằm đạt được mục tiêu của công tác phòng ngừa THTP.
Phòng ngừa THTP về môi trường có nhiều biện pháp khác nhau, cơ bản có thể
nhóm thành hai nhóm biện pháp gồm: Nhóm biện pháp phòng ngừa chung THTP về
môi trường và Nhóm biện pháp phòng ngừa riêng THTP về môi trường. Cụ thể:
2.6.1. Nhóm biện pháp phòng ngừa chung tình hình tội phạm về môi trường
Nhóm biện pháp phòng ngừa chung THTP về môi trường là tập hợp các biện
pháp tác động vĩ mô đến vấn đề phòng ngừa THTP tội phạm về môi trường. Trong
đó có hai biện pháp chủ yếu gồm: biện pháp kinh tế - xã hội và biện pháp văn hoá,
tư tưởng.
- Biện pháp kinh tế - xã hội là biện pháp dùng các chính sách thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội theo hướng bền vững để ngăn ngừa hành vi phạm tội về môi
trường. Cụ thể, phần lớn các hành vi phạm tội về môi trường hiện nay xuất phát từ
sự cùng cực về kinh tế và thói quen trong đời sống xã hội. Sự cùng cực về kinh tế
thể hiện ở chỗ, một bộ phận người dân không có việc làm ổn định, đời sống kinh tế
khó khăn, do đó sống lệ thuộc vào hoạt động khai thác môi trường. Đời sống càng
khó khăn, xu hướng khai thác càng lớn dẫn đến gia tăng các hành vi phạm tội về
môi trường. Thói quen trong đời sống xã hội được thể hiện bởi lối sống của một bộ
phận người dân có thói quen canh tác, sản xuất và sinh hoạt ảnh hưởng tiêu cực đến
môi trường. Ví dụ, việc đốt rừng làm nương rẫy; tục lệ bắt đất ở một số đồng bào
dân tộc ở phía Tây các tỉnh Bắc Trung Bộ… Chính vì thế, nhóm biện pháp kinh tế -
xã hội được triển khai nhằm thay đổi thực tiễn đời sống kinh tế và thói quen xã hội
theo hướng tạo công ăn việc làm ổn định, cải thiện thu nhập, thay đổi các thói quen
xấu của cộng đồng, xoá bỏ các hủ tục, phong tục có nguy cơ huỷ hoại môi trường,
nâng cao đời sống phúc lợi xã hội… từ đó xoá bỏ được gốc rễ sâu xa của một trong
những nguyên nhân của tội phạm về môi trường.
- Biện pháp văn hoá, tư tưởng. Biện pháp này được sử dụng xuất phát từ thực
tiễn, nhiều hành vi phạm tội về môi trường có nguyên nhân do nhận thức về vai trò
53
của môi trường và công tác phòng ngừa THTP về môi trường còn hại chế. Chính vì
thế, biện pháp này bằng những hành vi cụ thể như: tuyên truyền, phổ biến; giáo dục
đào tạo;… từng bước nâng cao nhận thức, hiểu biết của chủ thể và các bên liên quan
đến vai trò của môi trường, của phòng ngừa THTP về môi trường để phòng ngừa từ
trong nhận thức, suy nghĩ.
2.6.2. Nhóm biện pháp phòng ngừa riêng tình hình tội phạm về môi trường
Các biện pháp thuộc nhóm này bao gồm: biện pháp tổ chức quản lý, BVMT;
các biện pháp phân tích, dự báo THTP về môi trường và các biện pháp điều tra, trấn
áp, xét xử và thi hành án tội phạm về môi trường.
- Biện pháp tổ chức quản lý, BVMT. Đây là biện pháp phòng ngừa riêng chủ
đạo và có sức mạnh rất lớn trong phòng ngừa THTP về môi trường. Bằng việc các
cơ quan, cá nhân nhà nước thực thi các thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường
và BVMT sẽ tạo ra được một cơ chế đặt các vấn đề môi trường dưới sự bảo vệ của
pháp luật và cơ quan thực thi. Từ đó, sẽ tác động đến tâm lý của xã hội để kiềm chế
các hành vi phạm tội về môi trường. Điều này có thể được miêu tả bằng hình tượng
đơn giản là: cây mọc hoang dại sẽ có nguy cơ bị hái quả nhiều hơn cây mọc trong
một vườn có chủ sở hữu. Càng gia tăng công tác quản lý và BVMT càng hạn chế
được các hành vi phạm tội về môi trường, qua đó trực tiếp phòng ngừa hiệu quả
THTP về môi trường.
- Biện pháp phân tích, dự báo THTP về môi trường. Phân tích, dự báo THTP
về môi trường sẽ cung cấp cho các chủ thể phòng ngừa một cái nhìn vừa tổng thể,
vừa chi tiết về THTP về môi trường trong quá khứ, hiện tại và diễn biến xu hướng
của tương lai. Từ đó sẽ có được những sự chuẩn bị tốt nhất cho công tác phòng ngừa
trong thời gian tới. Như vậy, có thể thấy đây là biện pháp không tác động đến khách
thể phòng ngừa, mà là một biện pháp thu thập thông tin cho các chủ thể phòng ngừa.
Có được thông tin phân tích, dự báo THTP môi trường chính xác, kịp thời thì các
chủ thể mới có được những phương án phòng ngừa hiệu quả và ngược lại.
- Biện pháp điều tra, trấn áp, xét xử và thi hành án tội phạm về môi trường.
Đây là biện pháp nghiệp vụ của các chủ thể là cơ quan bảo vệ pháp luật được giao
chức năng phòng ngừa THTP về môi trường. Các cơ quan chức năng này sử dụng
các biện pháp nghiệp vụ nhằm điều tra để trấn áp tội phạm về môi trường. Đồng
thời tiến hành xét xử và thi hành án các tội phạm về môi trường. Biện pháp này mặc
dù thiên về chống tội phạm môi trường, tuy nhiên lại có ý nghĩa rất lớn trong phòng
54
ngừa THTP về môi trường nhờ vào khả năng răn đe. Ví dụ với vườn cây được nêu ở
trên. Vườn cây hoang dại sẽ có nhiều người hái quả - đây là tình trạng môi trường
không có sự quản lý; vườn cây có chủ vẫn có người hái quả trộm nhưng ít hơn vườn
cây hoang dại – đây là tình trạng môi trường được quản lý, bảo vệ; vườn cây có chủ
và những người hái trộm bị trừng trị sẽ ít hoặc thậm chí nếu kết hợp tốt với các biện
pháp khác không còn nguy cơ ăn trộm – đây là tình trạng môi trường được quản lý,
bảo vệ và các hành vi phạm tội bị điều tra, trấn áp, xét xử và thi hành án.
2.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
2.7.1. Thể chế pháp lý về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Thể chế pháp lý về phòng ngừa THTP về môi trường bao gồm: các chính sách
của Đảng, Nhà nước về BVMT (các quan điểm trong các Nghị quyết của Đảng, các
Chương trình hành động quốc gia về BVMT) và các quy định của pháp luật Nhà
nước trong nước về các vi phạm về BVMT (thể hiện tập trung ở Hiến pháp và luật
BVMT), được cụ thể hóa thành các chính sách hình sự về phòng ngừa THTP về môi
trường (trong BLHS và BLTTHS liên quan chương các tội phạm về môi trường) và
các văn bản pháp luật khác như đã nêu ở trong luận án (Phần Cơ sở pháp lý về
phòng ngừa THTP môi trường).
Ngoài thể chế pháp lý là các quan điểm, chính sách, pháp luật trong nước, thể
chế pháp lý về phòng ngừa THTP về môi trường ở Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi
các quy định của pháp luật quốc tế về BVMT, các quy định về các hành vi xâm
phạm môi trường bị pháp luật quốc tế nghiêm cấm hoặc các ràng buộc khác về môi
trường trong các Hiệp định thương mại, Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam
ký kết hoặc tham gia.
Hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường lấy các dự báo làm cơ sở cho
việc xác định mục tiêu phòng ngừa, song lại dựa vào quy định pháp luật để lựa chọn
nội dung, phương pháp và các vấn đề liên quan khác của hoạt động phòng ngừa.
Điều này có nghĩa, quy định của pháp luật là yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đến
phòng ngừa THTP về môi trường. Sự ảnh hưởng này được thể hiện với hai chiều
hướng. Ở chiều thứ nhất, hành lang pháp lý về vấn đề BVMT và tội phạm về môi
trường được xây dựng đảm bảo tính đầy đủ và ổn định. Điều này sẽ giúp cho việc
nhận diện tội phạm môi trường được cụ thể, không có sự khác biệt theo thời gian,
do đó THTP về môi trường được bộc lộ một cách khách quan, thay vì đến từ sự chủ
55
quan do thay đổi cách xác định tội phạm về môi trường của pháp luật. Với sự tác
động này, phòng ngừa THTP về môi trường sẽ không chỉ có được cơ sở vững chắc
do dự báo chính xác xu hướng THTP mà còn có đủ khả năng xác định và lựa chọn
nội dung, phương pháp và các vấn đề liên quan khác của hoạt động phòng ngừa
THTP về môi trường ở một định hướng lâu dài hơn. Ngược lại, các quy định pháp
luật thiếu tính toàn diện và thường xuyên biến động cũng sẽ gây ra những tác động
tiêu cực đối với hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường. Cụ thể, với việc xác
định không đầy đủ hoặc thường xuyên biến động việc nhận diện tội phạm về môi
trường sẽ khiến cho THTP về môi trường có những biến động chủ quan. Điều này
gây ra tình trạng khó khăn trong dự báo biến động của vấn đề này trong tương lai vì
còn phù thuộc vào sự biến động tiếp theo của quy định pháp lý. Không những thế,
với sự ghi nhận thiếu đồng bộ và không cụ thể sẽ khiến cho các địa phương khó
khăn trong xác định nội dung, phương pháp và các vấn đề liên quan khác trong hoạt
động phòng ngừa THTP về môi trường.
2.7.2. Năng lực của các chủ thể
Năng lực thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường của các chủ thể. Chủ thể
thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường là những cá nhân, tổ chức được giao
thực hiện công tác phòng ngừa. Đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và sự phối hợp của
các chủ thể có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của công tác phòng ngừa.
Ở khía cạnh đạo đức của các chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường, đây
được xác định là vấn đề quan trọng hàng đầu của các chủ thể thực hiện phòng ngừa.
Các hành vi phạm tội về môi trường đa phần hướng đến lợi ích kinh tế. Các nguồn
lợi mang lại từ hành vi phạm tội về môi trường có giá trị cao hơn rất nhiều các lĩnh
vực khác, do bản thân giá trị của các sản phẩm tự nhiên hoặc do chi phí đầu tư thấp
hoặc giảm thiểu được các khoản kinh phí đầu tư tốn kém để thực hiện các quy trình
BVMT. Chính vì thế, xu hướng chung của tội phạm về môi trường là luôn có các
hành vi đàm phán, ăn chia, móc nối… nhằm hợp tác với chính các chủ thể có chức
năng phòng ngừa THTP về môi trường để có được sự bảo kê cho các hành vi phạm
tội về môi trường. Chính xu hướng này cùng với sự cám dỗ từ lợi ích vật chất có
được từ các đối tượng trở thành một thử thách rất lớn đối với các chủ thể thực hiện
hoạt động phòng ngừa. Vấn đề giữ được đạo đức trong sạch để phân định rạch ròi
ranh giới của chủ thể thực hiện phòng ngừa và các đối tượng là vấn đề cốt lõi ảnh
hưởng đến hiệu quả của công tác phòng ngừa. Bởi lẽ, nếu các giá trị đạo đức bị tha
56
hoá, thì vấn đề chuyên môn nghiệp vụ hay sự phối hợp giữa các chủ thể cũng sẽ
không còn tác dụng, thậm chí là phản tác dụng khi các chủ thể lợi dụng trình độ
chuyên môn và sự phối hợp đó để gia tăng hoạt động bảo kê cho THTP về môi
trường trở nên tinh vi và có hệ thống hơn.
Khía cạnh tiếp theo là vấn đề chuyên môn nghiệp vụ. Phòng ngừa THTP về
môi trường cũng như phòng ngừa THTP ở các lĩnh vực khác là một tập hợp các
hoạt động mang tính chuyên môn sâu. Do đó, chủ thể thực hiện càng nắm giữ
chuyên môn tốt, càng tổ chức hoạt động phòng ngừa chặt chẽ, logic, hiệu quả công
tác phòng ngừa từ đó sẽ đảm bảo được tính hiệu quả. Đặc biệt, với xu hướng hiện
nay, các đối tượng ứng dụng nhiều thành quả của khoa học, công nghệ và thông tin
vào hoạt động phạm tội, khiến cho tính chất của THTP ngày càng trở nên tinh vi,
phức tạp và liên kết rộng rãi, đã đặt ra cho các chủ thể phòng ngừa yêu cầu cao về
chuyên môn nghiệp vụ. Vấn đề mang tính nguyên tắc ở đây là, muốn hoạt động
phòng ngừa THTP về môi trường có hiệu quả thì trình độ chuyên môn của chủ thể
phòng ngừa phải cao hơn trình độ của đối tượng phạm tội. Ngược lại, với khả năng
chuyên môn yếu hơn, cộng với trang bị vật chất lạc hậu hơn sẽ khiến cho công tác
phòng ngừa trở nên bế tắc. Các chủ thể vì thế không thể đạt được mục tiêu của công
tác phòng ngừa THTP về môi trường.
Cuối cùng của vấn đề chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường ảnh hưởng
đến công tác này chính là tính liên kết. Phòng ngừa THTP về môi trường đòi hỏi
phải được thực hiện đồng bộ trên phạm vi lãnh thổ và liên tục theo thời gian. Hai
yêu cầu này nhằm đảm bảo: thứ nhất, tránh trường hợp khu vực này tích cực phòng
ngừa, song khu vực khác lại biến động tăng mạnh dẫn đến hiệu quả phòng ngừa
chung chỉ mang tính cục bộ; thứ hai, kiểu thực hiện phòng ngừa phong trào sẽ khiến
cho hiệu quả phòng ngừa THTP về môi trường chỉ mang tính nhất thời, THTP về
môi trường vì thế không được loại bỏ một cách triệt để. Để khắc phục hai vấn đề kể
trên đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường phải có sự phối hợp chặt
chẽ cả ở vấn đề phạm vi không gian và tính liên tục của thời gian. Sự hành động
đồng thời sẽ tạo ra được sức mạnh lớn, từ đó giúp phát hiện, trấn áp và loại bỏ
THTP về môi trường ra khỏi đời sống xã hội một cách quyết liệt, hiệu quả và không
tái diễn.
2.7.3. Nhận thức của cơ quan, cá nhân nhà nước, người dân và xã hội
Nhận thức của các cơ quan, cá nhân nhà nước về phòng ngừa THTP về môi
57
trường ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hoạch định và thực thi chính sách phòng
ngừa THTP về môi trường. Điều này thể hiện qua việc, nếu một nhà nước theo xu
hướng khai thác, sẽ không bận tâm đến sự phát triển bền vững, và vì vậy vấn đề
BVMT bằng phòng ngừa THTP về môi trường sẽ không được đưa vào chương trình
hành động của chính phủ đó. Ngược lại, một nhà nước có bản chất xây dựng, kiến
tạo sẽ xem trọng những giá trị nền tảng vững chắc, do đó vấn đề môi trường là vấn
đề sống còn của quốc gia. Khi đó, nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường
của nhà nước đó sẽ được thiết lập và thúc đẩy hành động phòng ngừa. Lịch sử
chứng minh rằng, ở đất nước nào hệ thống chính trị có nhận thức sâu sắc về BVMT
thì công tác phòng ngừa THTP về môi trường được đảm bảo và ngược lại.
Người dân và xã hội là đối tượng thụ hưởng chính của vấn đề BVMT, họ là chủ
thể thực hiện công tác phòng ngừa THTP về môi trường, song đồng thời cũng có thể
trở thành đối tượng huỷ hoại môi trường. Do đó, nhận thức và thái độ của người dân
đối với vai trò của môi trường và công tác phòng ngừa THTP về môi trường có ảnh
hưởng tất yếu đến hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường.
Sự hiểu biết về vai trò của môi trường cũng như hậu quả của các hành vi phạm
tội về môi trường của người dân cao sẽ góp phần quyết định các giá trị tuân thủ
pháp luật của người dân, từ đó giúp cho THTP về môi trường tất yếu sẽ có chiều
hướng giảm. Tuy nhiên, ngược lại, người dân với cả tư cách là pháp nhân hay cá
nhân đơn lẻ nếu không có được những nhận thức đúng đắn kể trên, bất chấp các quy
định của pháp luật và lợi ích cộng đồng để đạt được các lợi ích của riêng mình trên
cơ sở thực hiện các hành vi phạm tội về môi trường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công
tác phòng ngừa THTP về môi trường. Điều này đến từ thực tế, nhận thức thấp sẽ gia
tăng các hành vi phạm tội về môi trường, đẩy THTP về môi trường biến động tăng,
gia tăng áp lực lên công tác phòng ngừa.
Bên cạnh đó, với tư cách là chủ thể của công tác phòng ngừa THTP về môi
trường, nhận thức của người dân về vai trò của môi trường và phòng ngừa THTP về
môi trường trở thành vấn đề quyết định đến khả năng tham gia của người dân vào
hoạt động phòng ngừa. Vai trò của người dân trong hoạt động phòng ngừa THTP về
môi trường chủ yếu đến từ việc phát giác và tố giác các hành vi phạm tội về môi
trường và hoạt động tuyên truyền, duy trì ý thức tự giác BVMT trong cộng đồng.
Mặc dù mang tính chất hỗ trợ công tác phòng ngừa THTP về môi trường song lại có
58
giá trị rất lớn đối với hoạt động này.
2.7.4. Tình hình kinh tế, xã hội
Tình hình kinh tế xã hội quyết định vấn đề THTP về môi trường cũng như tác
động trực tiếp đến công tác phòng ngừa THTP về môi trường. Cụ thể, sự phát triển
nhanh chóng của kinh tế thị trường gia tăng áp lực về khai thác các sản phẩm từ tự
nhiên cũng như các tác động tiêu cực đến môi trường từ quá trình vận hành sản
xuất, kinh doanh. Chính điều này đã thúc đẩy các hành vi phạm tội về môi trường.
Nhu cầu thị trường càng cao, hoạt động sản xuất càng đẩy mạnh và THTP về môi
trường càng diễn biến phức tạp cả về tính chất lẫn quy mô. Điều này khiến cho công
tác phòng ngừa trở nên khó khăn và đòi hỏi những khoản đầu tư lớn hơn.
Mặt khác, công tác phòng ngừa THTP nói chung và tội phạm về môi trường
nói riêng cần đến nguồn lực tài chính lớn để có thể thực hiện đồng bộ, lâu dài và
hiệu quả. Do đó, tình hình kinh tế của quốc gia hay địa phương đó phát triển, tất yếu
vấn đề đầu tư cho hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường sẽ đảm bảo hơn các
quốc gia hay địa phương có nền kinh tế yếu kém hơn.
Vấn đề xã hội cũng ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa THTP về môi trường
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cụ thể, văn hoá cộng đồng có tính hài hoà, không tồn
tại các hủ tục, thói quen xấu dẫn tới các hành vi xâm hại đến môi trường sẽ đảm bảo
cho THTP về môi trường không phổ biến và có xu hướng gia tăng. Ví dụ vấn đề
chọn đất canh tác của người đồng bào thiểu số dựa vào các tục lệ như: ném trứng,
bắt đất, xem thầy… được diễn ra mỗi năm. Do đó, hoạt động đốt rừng làm nương
rẫy diễn ra hàng năm và không cố định không gian. Với tình trạng dân số tăng
nhanh, hoạt động này cũng có tỷ lệ thuận. THTP về môi trường càng phổ biến.
Không những thế, những hoạt động tập quán lạc hậu, những thủ tục còn gây cản trở
cho các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT nhằm phòng ngừa
THTP về môi trường trong cộng đồng dân cư. Thực tế đã chứng minh rằng, đất
nước có sự đa dạng về văn hoá luôn có quá trình phòng ngừa THTP nói chung và
phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng phức tạp hơn các quốc gia có sự thuần
59
nhất về văn hoá.
Tiểu kết Chƣơng 2
Phòng ngừa THTP nói chung và phòng ngừa THTP về một loại tội phạm cụ
thể là vấn đề không mới trong khoa học Tội phạm học ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, đối tượng để phòng ngừa là THTP về môi trường lại là một loại tội phạm
mới, có nhiều diễn biến phức tạp và khó nhận diện. Các mức độ ảnh hưởng của loại
tội phạm về môi trường lại không để lại hậu quả ngay lập tức nên các chủ thể và
biện pháp phòng ngừa thường dễ rơi vào chủ quan và khó xác định hậu quả để xử lý
bằng chế tài nghiêm khắc nhất là hình sự.
Các kết luận quan trọng trong Chương 2:
- Phòng ngừa THTP về môi trường là hoạt động của các chủ thể, sử dụng các
công cụ, biện pháp và thẩm quyền được quy định bởi pháp luật, dựa trên THTP môi
trường trong lịch sử, hiện tại và dự báo xu hướng trong tương lai, tác động vào các
đối tượng phòng ngừa nhằm làm giảm thiểu, tiến đến loại bỏ THTP về môi trường
ra khỏi đời sống xã hội.
- Khẳng định các nguyên tắc, đặc điểm và ý nghĩa của phòng ngừa THTP về
môi trường (tại mục 2.2.)
- Cơ sở pháp lý của phòng ngừa THTP về môi trường là là tập hợp các quy
định của pháp luật hiện hành về vấn đề liên quan đến công tác BVMT; tội phạm về
môi trường; phòng ngừa tội phạm về môi trường và phòng ngừa THTP về môi
trường (bao gồm: Hiến pháp, Luật BVMT, Luật hình sự và tố tụng hình sự, Các
Nghị định liên quan đến BVMT, và rất nhiều các văn bản pháp luật liên quan đến
phòng ngừa THTP về môi trường ở một số lĩnh vực cụ thể như: Luật Đất đai; Luật
Phòng chống thiên tai; Luật Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Khí
tượng thủy văn; Luật Thủy lợi; Luật Lâm nghiệp; Luật Thủy sản.v.v...)
- Các chủ thể chuyên trách tham gia trực tiếp vào phòng ngừa THTP về môi
trường gồm Bộ Công an; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Tài chính; Bộ
NN&PTNT và lực lượng các cơ quan tư pháp có chuyên trách phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường, như Cục Cảnh sát điều tra tội phạm
về môi trường. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội bao gồm các tổ chức nghề nghiệp,
các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các hộ và các cá thể đều là chủ thể trực tiếp tuyên
truyền và thực hiện các công tác của phòng ngừa THTP về môi trường.
- Ngoài ra luận án cũng xác định có 8 nội dung chính trong phòng ngừa THTP
60
về môi trường, tương ứng với 2 nhóm biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường
gồm Nhóm biện pháp phòng ngừa chung (kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng) và
Nhóm biện pháp phòng ngừa riêng (tổ chức quản lý, phân tích dự báo và Biện pháp
điều tra, trấn áp, xét xử và thi hành án tội phạm về môi trường)
- Các yếu tố ảnh hưởng tới phòng ngừa THTP về môi trường bao gồm: Thể
chế pháp lý về phòng ngừa THTP về môi trường; Năng lực của các chủ thể được
giao nhiệm vụ phòng ngừa THTP về môi trường, Nhận thức của cơ quan, cá nhân
nhà nước, người dân và xã hội, tình hình kinh tế, xã hội.
- Nhận thức của người dân về vai trò của môi trường và phòng ngừa THTP về
môi trường trở thành vấn đề quyết định đến khả năng tham gia của người dân vào
hoạt động phòng ngừa. Vai trò của người dân trong hoạt động phòng ngừa THTP về
môi trường chủ yếu đến từ việc phát giác và tố giác các hành vi phạm tội về môi
trường và hoạt động tuyên truyền, duy trì ý thức tự giác BVMT trong cộng đồng.
Mặc dù mang tính chất hỗ trợ công tác phòng ngừa THTP về môi trường song lại có
61
giá trị rất lớn đối với hoạt động này.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MÔI
TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
3.1. Tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
3.1.1. Mức độ của tình hình tội phạm về môi trường ở tỉnh Hà Tĩnh giai
đoạn 2010 - 2020
Trong giai đoạn nghiên cứu cho thấy, tổng số vụ án hình sự nói chung và vụ
án hình sự về môi trường nói riêng có xu hướng tăng đều. Trong đó cụ thể tỷ lệ giữa
tổng số vụ án hình sự về môi trường trên tổng số vụ án hình sự nói chung qua các
năm được thể hiện như sau: Năm 2010: 7/89, tỷ lệ 7,8%; Năm 2011: 8/112, tỷ lệ
7,14%; Năm 2012: 12/132, tỷ lệ 9%; Năm 2013: 18/168, tỷ lệ 10,7%; Năm 2014:
22/188, tỷ lệ 11,7%; Năm 2015: 25/207, tỷ lệ 12%; Năm 2016: 32/212, tỷ lệ 15%;
Năm 2017: 33/218, tỷ lệ: 15,1%; Năm 2018: 35/278, tỷ lệ: 12,6% và Năm 2019:
37/301, tỷ lệ: 12,3% [34; tr.14]. Số liệu này cho thấy, số vụ án hình sự về môi
trường chỉ chiếm tỷ lệ tương đối thấp trong tổng số vụ án hình sự nói chung (không
quá 15%). Tuy nhiên có xu hướng tăng qua các năm.
Cụ thể, tỷ lệ tăng này được thể hiện như sau: Năm 2011 tăng 01 vụ so với năm
2010; Năm 2012 tăng 04 vụ so với năm 2011; Năm 2013 tăng 06 vụ so với năm
2012; Năm 2014 tăng 04 vụ so với năm 2013; Năm 2015 tăng 03 vụ so với năm
2014; Năm 2016 tăng 07 vụ so với năm 2015; Năm 2017 tăng 01 vụ so với năm
2016; Năm 2018 tăng 02 vụ so với năm 2017 và Năm 2019 tăng 02 vụ so với năm
2018. Nếu lấy năm đầu tiên của đợt điều tra số liệu – 2010 với 07 vụ và 100% thì
10 năm sau – mốc cuối của đợt điều tra số liệu – 2019 với 37 vụ thì số lượng vụ
tăng trong khoảng thời gian này là 30 vụ và tỷ lệ tăng là 528% [34. tr.13].
3.1.2. Diễn biến tình hình tội phạm về môi trường ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn
2010 - 2020
Tỷ lệ số bị cáo phạm tội về môi trường trên tổng số bị cáo phạm tội hình sự
nói chung có xu hướng tăng qua các năm. Cụ thể: Năm 2010: 11/132, tỷ lệ: 8,3%;
Năm 2011: 17/169, tỷ lệ: 10%; Năm 2012: 22/177, tỷ lệ: 12,4%; Năm 2013: 25/187,
tỷ lệ: 13,3%; Năm 2014: 32/207, tỷ lệ: 15,4%; Năm 2015: 44/281, tỷ lệ: 15,6%;
Năm 2016: 55/280, tỷ lệ 19,6%; Năm 2017: 63/301, tỷ lệ 21%; Năm 2018: 66/312,
62
tỷ lệ 21,1%; Năm 2019: 66/389, tỷ lệ 17% [34; tr13]. Số liệu này cho thấy tỷ lệ bị
cáo phạm tội về môi trường so với tổng số bị cáo hình sự nói chung qua các năm
tương đối thấp, tuy nhiên tỷ lệ này cũng có xu hướng gia tăng trong những năm gần
đây. Điều này phù hợp với sự gia tăng của số vụ án hình sự về môi trường trên tổng số
vụ án hình sự tại tỉnh Hà Tĩnh. Diễn biến này được thể hiện tại Bảng số 1 - Phụ lục 01.
Xét tình hình tổng thể của cả giai đoạn 2010 - 2019, số vụ án hình sự về môi
trường có 229 vụ, trong khi đó tổng số vụ án hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh là 1905 vụ. Tỷ lệ tương quan này được thể hiện tại Sơ đồ 1 - Phụ lục 02. Cụ
thể, tổng số vụ án hình sự về môi trường trong 10 năm chỉ chiếm 12% trong tổng số
vụ án hình sự, 88% còn lại là tổng số các vụ án hình sự khác. So với các địa phương
khác trên cả nước, tỷ lệ này tại tỉnh Hà Tĩnh nằm ở mức cao. [34; tr.18]
Tỷ lệ tương quan giữa tổng số bị cáo phạm tội về môi trường và tổng số bị cáo
phạm tội hình sự nói chung trong 10 năm từ năm 2010 - 2019 cũng được sơ đồ hoá
tại Sơ đồ 2 - Phụ lục 02. Cụ thể, tổng số bị cáo phạm tội về môi trường chiếm 16%
tổng số bị cáo hình sự trong 10 năm từ 2010 - 2019. Điều này đồng nghĩa với tổng
số bị cáo phạm tội hình sự khác chiếm 84% [34; tr.15]. Tỷ lệ này cũng có sự tương
đồng với tỷ lệ tổng số vụ án hình sự về môi trường so với tổng số vụ án hình sự
khác trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019. Tỷ lệ bị cáo phạm tội về môi trường so
với tổng số bị cáo phạm tội hình sự khác không cao. Tuy nhiên, so với các địa
phương khác trên toàn quốc, tỷ lệ này nằm ở nhóm cao và luôn có xu hướng gia
tăng theo thời gian.
Sơ đồ 3 - Phụ lục 02 sẽ cũng cấp chi tiết hơn về THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2019 bằng việc thống kê diễn biến số vụ
phạm tội về môi trường. Qua sơ đồ có thể thấy, từ năm 2010 - 2019, THTP về môi
trường thể hiện bằng tổng số vụ án qua các năm có xu hướng tăng rõ rệt. Từ 7 vụ
năm 2010 đến 37 vụ năm 2019, tăng 81% trong 10 năm. Giai đoạn năm từ năm
2015 - 2016 có tỷ lệ tăng lớn nhất với số vụ năm 2015 là 25 vụ, năm 2016 đã tăng
lên 32 vụ [34; tr.14]. Chủ yếu các vụ tăng thuộc về tội huỷ hoại rừng do giai đoạn
này người dân có phong trào phát rừng, đốt rẫy trồng cây Keo và Tràm hoa vàng.
Tất cả các giai đoạn còn lại đều có xu hướng tăng đều với mức bình quân tăng 02
vụ trên một năm. Xu hướng này cho thấy THTP về môi trường được biểu hiện dưới
thống kê tổng số vụ án có xu hướng gia tăng đều. Đây là điều đáng lo ngại. Đặc biệt
từ khi Bộ Luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực quy
63
định về tội phạm và pháp nhân thương mại, việc thống kê tội phạm hiện về tổng số
vụ án về môi trường cũng có xu hướng tăng rõ rệt do có sự hiện diện của số vụ án
thuộc nhóm này.
THTP về môi trường còn được biểu hiện thông qua thống kê số lượng bị cáo
phạm tội về môi trường được thống kê và mô hình hoá sự diễn biến trong 10 năm từ
năm 2010 đến 2019. Diễn biến này được thể hiện bởi Sơ đồ 4 – Phụ lục 02 như sau:
tổng số bị cáo phạm tội về môi trường có xu hướng tăng cao từ 11 người năm 2010
lên 66 người năm 2019, với tốc độ tăng sau 10 năm là 83%. Tốc độ tăng qua các
năm cũng có sự tương đồng so với tình hình số vụ phạm tội về môi trường đã được
liệt kê tại Sơ đồ 3 – Phụ lục 02. Giai đoạn tăng mạnh nhất cũng là từ năm 2015 -
2017 với số lượng tăng trung bình 09 bị cáo một năm. Các giai đoạn khác đều có
tốc độ tăng trung bình 06 bị cáo một năm. Từ Sơ đồ 4 – Phụ lục 02 có thể thấy,
THTP về môi trường được biểu hiện dưới số lượng bị cáo có xu hướng tăng rõ rệt
qua các năm. Điều này là một cảnh báo rõ rệt đối với công tác phòng ngừa THTP về
môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh [34; tr.14].
3.1.3. Cơ cấu, tính chất tình hình tội phạm về môi trường ở tỉnh Hà Tĩnh
giai đoạn từ năm 2010 - 2020
Phân tích sâu hơn về cơ cấu tội danh trong các vụ án về môi trường được Sơ
đồ 5 - Phụ lục 02 thể hiện thông qua số liệu năm 2019. Cụ thể, theo quy định của
pháp luật hiện hành, các tội phạm về môi trường gồm có 12 tội danh gồm: (1) Tội
gây ô nhiễm môi trường; (2) Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại; (3)
Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; (4) Tội
vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông; (5) Tội đưa chất thải vào lãnh
thổ Việt Nam; (6) Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người; (7)
Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật; (8) Tội hủy hoại nguồn
lợi thủy sản; (9) Tội hủy hoại rừng; (10) Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ
động vật nguy cấp, quý, hiếm; (11) Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo
tồn thiên nhiên; (12) Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại. Trong đó,
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2019 không ghi nhận bị cáo phạm vào hai tội danh:
(6) và (12). Còn lại 10 tội danh được thống kê với số lượng như sau: (1): 6; (2): 2;
(3): 1; (4): 2; (5): 1; (7): 2; (8): 4; (9): 14; (10): 27; (11): 27. Tỷ lệ này được sơ đồ
hoá cụ thể tại Sơ đồ 5 – Phụ lục 02 như sau: 05 tội danh chiếm số lượng lớn nhất
theo thứ tự gồm: Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý,
64
hiếm chiếm 41%; Tội huỷ hoại rừng chiếm 21%; Tội vi phạm các quy định về quản
lý khu bảo tồn thiên nhiên chiếm 11%; Tội gây ô nhiễm môi trường chiếm 9%; và
Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản chiếm 6%. [35; tr.5]
Năm tội danh này chiếm tỷ lệ lớn đã phản ánh rõ về đặc tính tự nhiên và kinh
tế của tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thể, với hai tội danh chiếm tỷ lệ lớn nhất là Tội vi phạm quy
định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và Tội huỷ hoại rừng đều là
những tội danh liên quan đến đặc điểm tự nhiên với 276.003 ha rừng, trong đó gần
200.000 ha rừng tự nhiên và đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của
người dân [33; tr.17]. Đặc điểm canh tác và khai thác của người dân phụ thuộc vào
rừng với các hình thức như: đốt rừng làm nương rẫy; săn bắn động vật hoang dã;
khai thác gỗ; lan rừng; thực vật rừng… Các hoạt động này có lịch sử lâu đời tại tỉnh
Hà Tĩnh, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính xác, tuy nhiên có thể khẳng định
một bộ phận rất lớn người dân hiện nay vẫn sinh sống dựa vào rừng. Ở tội danh
chiếm tỷ lệ thứ ba: Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên chủ
yếu gây ra do hoạt động khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng như quặng nhôm,
cát, quặng sắt, đất hiếm, đá Granit… gây ra tại các vườn quốc gia hoặc các khu bảo
tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh. Đối với tội danh gây ô nhiễm môi trường đang có
xu hướng gia tăng nhanh trong những năm gần đây. Với sự phát triển của kinh tế
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tội phạm gây ô nhiễm môi trường
ngày càng được thể hiện với sư đa dạng về ngành nghề và có sự tham gia của các
pháp nhân thương mại. Trong số các bị cáo bị khởi tố vì tội danh kể trên, tỷ lệ lớn ở
các làng nghề và khu công nghiệp. Đây cũng là vấn đề lớn trong phòng ngừa THTP về
môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh phải đối mặt thời gian tới. Đối với tội danh xếp
thứ 5, Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản cũng xuất phát từ hoạt động khai thác thuỷ sản
có lịch sử lâu đời và phát triển liên tục cho đến ngày nay. Các hành vi phạm tội của tội
danh này chủ yếu như: khai thác trái phép; sử dụng các phương tiện khai thác có tính
huỷ diệt như kích điện, mìn, chất có độc tố; khai thác tận diệt…
Sáu tội danh khác có tỷ lệ thấp nhất dưới 3% bao gồm Tội làm lây lan dịch
bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật; Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam;
Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại; Tội vi phạm quy định về phòng
ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; Tội vi phạm quy định về bảo vệ an
toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo
65
vệ bờ, bãi sông. Các tội danh này cũng nằm trong nhóm chiếm tỷ lệ thấp trong các
tội phạm về môi trường trên toàn quốc. Đây là điểm tương đồng trong THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh với THTP về môi trường ở Việt Nam nói chung.
Dựa trên dữ liệu được thể hiện tại Sơ đồ 6 – Phụ lục 02, có thể thấy cơ bản hai
hình phạt phổ biến cho các tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai
đoạn từ năm 2010 - 2019 là án treo và Phạt tù từ 3 năm trở xuống. Trong đó án treo
chiếm 46% tổng số các hình phạt được tuyên trong 10 năm kể trên và Phạt tù từ 3
năm trở xuống chiếm 32%. Phạt tù từ 7 đến 15 năm và Phạt tiền và cải tạo không
giam giữ chiếm tỷ lệ thấp nhất với tỷ lệ lần lượt là 2% và 4%. Các án treo và phạt
tiền, cải tạo không giam giữ chủ yếu được tuyên cho các tội danh Tội vi phạm các
quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên; Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản và
Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Các tội
danh phạt tù khác chủ yếu được áp dụng cho Tội huỷ hoại rừng và Tội gây ô nhiễm
môi trường [34; tr.18].
Bên cạnh các tội phạm về môi trường đã được phát hiện và xử lý được thống
kê trên phần THTP hiện, còn tồn tại rất nhiều hành vi phạm tội khác về môi trường
chưa được phát hiện do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Bao
gồm các tội phạm ẩn tự nhiên và ẩn nhân tạo:
- Đối với nhóm các tội phạm ẩn tự nhiên.
Tội phạm ẩn tự nhiên trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu ở ba nhóm tội danh:
Tội huỷ hoại rừng; Tội gây ô nhiễm môi trường và Tội vi phạm quy định về quản
lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Đối với Tội huỷ hoại rừng, các hành vi của
tội danh này được người dân thực hiện ở khu vực rừng sâu, khả năng tiếp cận của
cơ quan chức năng khó khăn. Thêm vào đó, các đối tượng thực hiện hành vi theo
nhóm và luôn có những phương pháp đe doạ sự tố giác của cộng đồng, do vậy cơ
quan chức năng không có được các nguồn tin tố giác thường xuyên và tin cậy.
Chính vì thế, theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh, năm 2019 toàn
tỉnh có khoảng 213 ha rừng bị xâm lấn và phá huỷ, song số lượng các vụ việc được
phát hiện và xử lý chưa đến 10 vụ [7]. Đối với Tội gây ô nhiễm môi trường, các cá
nhân, tổ chức gây ra hành vi thường có sự che đậy kỹ càng, phương thức tiến hành
tinh vi, có tổ chức, việc phát hiện hành vi cần phải có sự tham gia của nhiều cơ quan
liên ngành và trang thiết bị kỹ thuật quan trắc hiện đại. Do đó, mặc dù tình hình ô
nhiễm môi trường diễn ra ở nhiều nơi, nhưng số lượng vụ việc bị phát hiện và xử lý
66
hình sự năm 2019 chỉ 3 vụ [35; tr.6]. Tội phạm ẩn của tội danh này thường tồn tại ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất, các làng nghề và các tổ chức, hộ gia đình sản
xuất, kinh doanh… và có xu hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Đối với
Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, THTP ẩn
của tội danh này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh diễn ra rất phức tạp, đặc biệt tại các
huyện Hương Sơn, Kỳ Anh, Vũ Quang. Đây là những địa bàn có hệ sinh thái rừng
phong phú, nhiều động vật hoang dã cư ngụ. Hoạt động săn bắn đã được thực hiện
từ lâu đời và trở thành một phương thức kiếm sống của nhiều bộ phận dân cư.
Những địa phương này cũng có địa hình chủ yếu là đồi núi phức tạp, nhiều hình
thức di chuyển như đường sông, đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên xã, lối mở,
đường mòn… do đó rất thuận lợi cho hoạt động vận chuyển động vật hoang dã, quý
hiếm của các đối tượng, song lại là một cản trở rất lớn đối với lực lượng chức năng
trong công tác đấu tranh, phòng ngừa.
- Đối với tội phạm ẩn nhân tạo.
Khác với THTP ẩn tự nhiên vốn do điều kiện tự nhiên và sự che dấu hành vi
của người phạm tội, tội phạm ẩn nhân tạo vốn là những hành vi dễ phát hiện song
không được cơ quan chức năng phát hiện, hoặc đã phát hiện nhưng không xử lý
hình sự. Như vậy, đây chính là nhóm tội phạm ẩn được tồn tại do ý chí chủ quan
của các cơ quan chức năng.
Tội phạm ẩn là tội phạm không được thống kê, do đó để xem xét được THTP
ẩn cần thông qua việc xem xét nhiều hiện tượng khác nhau. Trong đó đối với tội
phạm ẩn nhân tạo, cần thiết phải xem xét tỷ lệ các vụ xử lý hình sự so với số vụ xử
lý hành chính trong tổng số vụ, việc trong một khoảng thời gian nhất định và đối
chiếu số vụ bị đình chỉ, không xét xử với số vụ án được chuyển xét xử hình sự.
Theo đó, đối với tỉnh Hà Tĩnh, chủ yếu trong 10 năm từ năm 2010 - 2019 khảo sát,
không có vụ án nào được chuyển khởi tố hình sự nhưng bị đình chỉ hoặc không xét
xử liên quan đến lĩnh vực tội phạm môi trường. Chính vì thế, vấn đề chủ yếu khi
xem xét THTP môi trường ẩn nhân tạo chủ yếu đối chiếu số vụ xử lý hành chính và
số vụ xử lý hình sự trong tổng số vụ, việc từ năm 2010 - 2019.
Sự đối chiếu này được thể hiện bằng Bảng 2 – Phụ lục 01. Trong đó thể hiện
rõ tỷ lệ giữa số vụ xử lý hình sự và số vụ xử lý hành chính liên quan đến môi
trường. Cụ thể, từ năm 2010 - 2019 trên toàn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có 15.602 vụ,
việc vi phạm pháp luật về môi trường. Trong đó, có 15.373 vụ bị xử lý hành chính
67
và chỉ có 229 vụ được chuyển xử lý hình sự. Tỷ lệ vụ bị xử lý hành chính trên tổng
số vụ việc là 98.5%. Như vậy số vụ được chuyển xử lý hình sự chỉ chiếm 1.5% tổng
số vụ việc [25]. Thực tiễn này cho thấy, tỷ lệ vụ được chuyển xử lý hình sự hiện nay
so với số vụ xử lý hành chính quá thấp.
Chi tiết mối tương quan giữa số vụ và số người bị xử lý hành chính với số vụ
và số người bị xử lý hình sự được thể hiện tại: Sơ đồ 7 và Sơ đồ 8 – Phụ lục 2.
3.1.4. Hậu quả thiệt hại về môi trường ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm
2010 - 2020
Các hậu quả xã hội hiện nay đương nhiên là sản phẩm của nhiều sự tác động
khác nhau. Do đó, xem xét các hậu quả thiệt hại THTP về môi trường ở tỉnh Hà
Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2020 sẽ chỉ ra những hậu quả hay thiệt hại mà THTP
này có tác động ở những mức độ khác nhau, hay nói cách khác THTP về môi trường
đóng vai trò là một trong những nguyên nhân gây ra thiệt hại đó. Xét trên tổng thế,
các tội phạm về môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị và
trật tự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Loại tội phạm này không chỉ cổ xuý cho một xu
hướng khai thác tự nhiên trái pháp luật để thụ hưởng những nguồn lợi lớn, mà còn
khiến cho tình hình trật tự, an ninh xã hội ngày càng diễn biến tiêu cực và phức tạp
do sự hình thành của nhiều tầng lớp bảo kê, đầu nậu… với những sở thích và thú vui
tiêu khiển đi ngược với lợi ích của xã hội.
Xét dưới góc độ môi trường, THTP về môi trường diễn biến tăng và phức tạp
đã tác động xấu đến tính bền vững của môi trường, làm cho các hoạt động BVMT
không đạt được các hiệu quả và mục tiêu đã đặt ra và ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn
đề an toàn sống của xã hội. Những hậu quả thiệt hại THTP về môi trường ở tỉnh Hà
Tĩnh dưới góc độ này được biểu hiện dưới những nội dung như sau:
Thứ nhất, tình trạng biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh ngày càng phức tạp.
Biến đổi khí hậu tại Việt Nam nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng đang diễn ra theo
chiều hướng phức tạp tăng dần qua các năm. Nguyên nhân của các biến đổi khí hậu
đến từ nhiều phía, trong đó hậu quả của THTP về môi trường góp một phần không
nhỏ. Các hiện tượng biến đổi khí hậu hiện nay diễn ra ở tỉnh Hà Tĩnh bao gồm:
- Nền nhiệt độ gia tăng và diễn biến thất thường giữa các mùa. Giai đoạn từ
năm 2000 trở về trước, khi môi trường tự nhiên được bảo vệ, đặc biệt các rừng
nguyên sinh có tỉ lệ nguyên vẹn cao, nền nhiệt độ tại tỉnh Hà Tĩnh giao động từ 16
đến 35 độ C. Tuy nhiên, nền nhiệt này liên tục biến đổi theo xu hướng gia tăng về
68
hai chiều qua các giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn từ năm 2000 - 2010 nền nhiệt giao
động từ 14 đến 37 độ C, giai đoạn từ năm 2010 - 2020 nền nhiệt được ghi nhận là
11 đến 42 độ C [31]. Sự gia tăng về hai chiều này khiến cho khí hậu về mùa đông
trở nên lạnh hơn và mùa hè nắng nóng khắc nghiệt hơn. Bên cạnh đó, sự chuyển
biến về mùa cũng không còn tuân theo quy luật dễ đoán định như trước đây. Ví dụ
giai đoạn trước năm 2000, mùa nắng bắt đầu từ tháng 2 âm lịch đến tháng 8 âm lịch
và mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 2 âm lịch năm sau. Quy luật này được duy
trì trong một khoảng thời gian dài và luôn ổn định giúp cho hoạt động canh tác và
các hoạt động sống khác được chủ động. Tuy nhiên, trong 5 năm trở lại đây, quy
luật này đã bị phá vỡ. Mùa mưa và mùa nắng có sự chuyển dịch ngẫu nhiên giữa các
năm. Người dân không còn tìm ra được quy luật chuyển mùa nên bị động trong sản
xuất và sinh hoạt. Hậu quả này đến từ hành vi phá rừng làm nương rẫy, thuỷ điện,
khai thác gỗ… khiến cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trầm trọng, vai trò điều
hoà khí hậu của rừng bị hạn chế.
- Xuất hiện hạn hán kéo dài và có diện rộng. Tình trạng nắng nóng tại Hà Tĩnh
trong vòng 20 năm trở lại đây đang có chiều hướng gia tăng. Nắng nóng gay gắt kéo
dài, nhiệt độ tối cao tuyệt đối phổ biến từ 36 - 40 độ C, có thời điểm vượt ngưỡng
40 độ C [31]. Trong khi đó, lượng mưa lại có xu hướng giảm rõ rệt, mưa có sự biến
động lớn cả không gian và thời gian xuất hiện cũng như cường độ, hiện tượng mưa
dầm trong vài thập kỷ gần đây ít khi xuất hiện hơn, mùa mưa thường xuất hiện
muộn và kết thúc sớm. Giai đoạn trước năm 2000, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ít xuất
hiện hạn hán. Các điểm hạn chủ yếu chỉ xuất hiện nhỏ lẻ, mang tính cục bộ và chỉ ở
mức độ hạn chế sản xuất, canh tác. Tuy nhiên, trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt giai
đoạn 2015 - 2020, tỉnh Hà Tĩnh xuất hiện nhiều điểm hạn quy mô lớn, thời gian kéo
dài và gây thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Cụ thể,
các điểm hạn thường xuyên như xã Kỳ Lạc, Kỳ Tây (huyện Kỳ Anh); xã Hương
Trà, Điền Mỹ (huyện Hương Khê); xã Cẩm Thịnh (huyện Cẩm Xuyên); huyện Vũ
Quang và huyện Hương Sơn. Các điểm này diễn ra thường xuyên với mật độ ngày
càng dày trong khoảng 5 năm trở lại đây với diện tích bị ảnh hưởng ngày càng rộng
ra và mức độ thiệt hại ngày càng lớn. Hiện toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có 10.394 ha bị khô
hạn, trong đó 3.760 ha bị hạn nặng. Cụ thể: Thạch Hà có 1.700 ha bị khô hạn, 1.000
ha bị hạn nặng (tập trung vùng Bắc Thạch Hà); Can Lộc 2.095 ha bị khô hạn (tập
trung vùng Xuân Lộc, Thanh Lộc, Trung Lộc, Thượng Lộc, Nhân Lộc, Kim Lộc);
69
Cẩm Xuyên 2.500 ha khô hạn, 350 ha hạn nặng (tập trung vùng Cẩm Sơn, Cẩm
Thịnh, Cẩm Hưng, Cẩm Huy); Hương Sơn 764 ha; Hương Khê 380 ha (tập trung
vùng Phương Mỹ, Phương Điền, Hà Linh); Lộc Hà 350 ha... và khiến hơn 7.600 hộ
rơi vào tình trạng thiếu trầm trọng nước sinh hoạt [31]. Nguyên nhân của yếu của
tình trạng hạn hán cũng do diện tích rừng tự nhiên bị xâm hại, tỷ lệ che phủ giảm
khiến cho lượng nước bốc hơi nhanh, sông, suối, hồ… vì thế cạn kiệt nhanh sau
những đợt nắng nóng có biên độ nhiệt từ 38 đến 44 độ C kéo dài. Đồng thời một số
hồ chứa tự nhiên cũng đang bị xâm hại bằng việc san lấp và phân lô bán nền hoặc
quy hoạch thành các công trình công cộng. Việc hồ chứa suy giảm mạnh khiến khả
năng tích trữ nước tưới và nước sinh hoạt cũng trở nên trầm trọng hơn vào mùa khô
hạn.
- Tình trạng xâm nhập mặn ngày càng diễn biến nặng và gây hậu quả nghiêm
trọng cho các huyện ven biển. Hiện tượng xâm nhập mặn bắt đầu xuất hiện và phổ
biến từ năm 2015 đến nay. Đến nay, nước biển đã lấn sâu vào các con sông hơn 10
km và hiện tượng nước biển dâng cũng cao hơn 10 năm trước từ 10 - 20cm. Tình
trạng đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là sự xâm nhập mặn ngày càng mở rộng.
100% giếng mới đào 2 năm trở lại nay ở Hộ Độ (Lộc Hà) đã bị nhiễm mặn không sử
dụng được. Các điểm xâm nhập mặn chủ yếu hiện nay bao gồm: Cống Trung Lương
(TX Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh) Nồng độ mặn tăng dần và đạt ngưỡng cao nhất từ đầu vụ
với 1,6%o, vượt 0,32% so với nồng độ cho phép (1,28%o); cửa sông tại Trạm bơm
1 Nghi Xuân với nồng độ thấp nhất là 2,08%o, cao nhất là 3,8%o, trung bình dao
động trong khoảng từ 2,5 - 2,7%o (cao gấp 2 lần so với khuyến cáo của Bộ
NN&PTNT: chỉ bơm tưới khi nồng độ mặn ở mức dưới 1,28%o)… [31] Cùng với
hạn hán, xâm nhập mặn gây thiệt hại lớn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của
các huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh, đồng thời cũng uy hiếp hoạt động nuôi trồng thuỷ
sản trên địa bàn.
Nguyên nhân của hiện tượng xâm nhập mặn ngày càng cao do việc khai thác
cát xây dựng trái phép quá mức đã khiến cho các con đê chắn nước biển tự nhiên bị
phá vỡ. Thêm vào đó, hoạt động xả thải của các nhà máy không được kiểm soát đã
khiến cho một lượng lớn diện tích rừng chống xâm nhập mặn bị chết. Tính đến
22/5/2020 tại xã Thạch Môn: Lô trồng mới 7 ha có tỷ lệ cây chết 30%, lô 13ha tỷ lệ
cây chết từ 60 - 90% theo từng vùng; tại xã Thạch Hạ: Lô 5 ha có tỷ lệ cây chết
30%. Theo tính toán sơ bộ, tỷ lệ cây chết tại các xã Thạch Môn, Thạch Hạ là 11,2
70
ha. [31] Cuối cùng, việc khai thác cát và đá ở các dòng sông khiến cho dòng chảy bị
thay đổi, lượng mưa thấp khiến cho lưu lượng nước ít, áp lực cân bằng của nước
ngọt tại các cửa sông yếu ,do đó khả năng xâm nhập của nước biển cao.
- Nồng độ carbon dioxide trong khí quyển đang tăng lên. Theo phân tích các
bong bóng khí trong nước biển và nước ao hồ các nhà khoa học đã đưa ra kết luận
rằng, 10 năm qua, nồng độ khí carbon dioxide (CO2) dao động từ 180 - 300ppm
(đơn vị đo lường để diễn đạt nồng độ theo khối lượng, tính theo phần triệu). Nồng
độ này khiến cho môi trường không khí không còn tính cân bằng, lượng O2 giảm
mạnh, nồng độ CO2 tăng lên ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của người và vật
nuôi. Tình trạng này chủ yếu do diện tích rừng bị giảm mạnh, chức năng điều tiết
các thành phần trong không khí của rừng vì thế cũng giảm, trong khi nguồn CO2 từ
hoạt động công nghiệp liên tục được xả thải. [32]
Tình trạng biến đổi khí hậu đã có tác động lớn tới nhiều lĩnh vực. Đối với nông
nghiệp, có tác động lớn đến năng suất, thời vụ gieo trồng, tăng nguy cơ lây lan sâu
bệnh trên cây trồng, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm. Trong thời gian qua, hiện tượng mất
trắng mùa màng xảy ra ở nhiều địa phương gây thiệt hại nặng nề đến nền kinh tế.
Đối với sức khỏe cộng đồng, biến đổi khí hậu cũng đe dọa nhiều hơn đến tính
mạng người dân và nguy cơ bùng phát bệnh dịch cũng như nhiễm nhiều bệnh tật do
ô nhiễm môi trường sống là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra sự biến đổi khí hậu
còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đa dạng sinh học, làm biến mất hoàn toàn
một số loài thực vật và động vật bởi hiện tượng nước biển dâng. Theo tính toán của
các chuyên gia, trong thời gian tới mực nước biển dâng cao, mưa bão lớn với triều
cường mạnh có thể sẽ gây ngập tới 114 km2 diện tích đất toàn tỉnh. Điều này sẽ gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tuyến đường giao thông nông thôn và các công
trình giao thông, đê ngăn mặn được xây dựng trước đây sẽ không còn phù hợp nữa,
vì vậy nguy cơ tổn thất là rất lớn.
Thứ hai, sự suy thoái đa dạng sinh học hiện nay đang trở thành vấn đề cấp
thiết. Trong khoảng thời gian từ năm 2010 - 2020, vấn đề đa dạng sinh học trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh diễn ra ngày càng báo động. Theo báo cáo mới nhất, tính đến
tháng 6 năm 2020, trong số các loài đang trong tình trạng bị đe dọa trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh có tới 25% loài động vật có vú và 39% động vật có vú sống ở biển; 41%
động vật lưỡng cư; 19% loài bò sát; 13% loài chim; 7% loài cá; 31% cá đuối và cá
71
mập; 33% rạn san hô; 27% động vật giáp xác; từ 16% đến 63% thuộc về các loài
thực vật. Ước tính 82% sinh khối động vật có vú hoang dã đã bị mất [33]. Sự đa
dạng sinh học bị đe doạ bởi nhiều lý do như:
- Độ che phủ rừng ngày càng giảm khiến cho môi trường lưu trú của động,
thực vật bị thu hẹp. Đặc biệt tại các huyện như Vũ Quang, Hương Khê, Hương
Sơn… mật độ che phủ rừng tự nhiên suy giảm theo từng năm giao động từ 2 đến
6%. [32] Việc thu hẹp độ che phủ rừng đến từ các nguyên nhân như: diện tích rừng
tự nhiên bị huỷ hoại để khai thác lâm sản liên tục tăng qua các năm. Bên cạnh đó,
thói quen đốt rừng làm nương rẫy và việc xây dựng thêm các công trình thuỷ điện
cũng khiến cho rừng tự nhiên bị huỷ hoại nghiêm trọng. Số lượng rừng trồng chiếm
tỷ lệ thấp và không đạt được các công năng như rừng tự nhiên. Cuối cùng, trong
những năm gần đây, cùng với hạn hán gia tăng, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cũng xuất
hiện nạn cháy rừng với mật độ nhiều và thiệt hại lớn. Trung bình mỗi năm trên toàn
tỉnh có từ 12 đến 16 vụ cháy rừng, trong đó 70% là rừng tự nhiên với nguyên nhân
chủ yếu do con người.
- Hoạt động săn bắt động vật hoang dã và khai thác thực vật hoang dã tiếp tục
diễn biến phức tạp. Hoạt động săn bắn động vật, bao gồm cả động vật quý, hiếm
nằm trong danh mục các loài nguy cấp cần được bảo vệ bị săn bắn không có xu
hướng giảm trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, với nhiều loại hình bẫy, bã… mới được áp
dụng có hiệu quả săn bắt cao được đưa vào sử dụng, khiến cho số lượng động vật
hoang dã giảm mạnh trong những năm gần đây. Hoạt động này phục vụ cho nguồn
cung của thị trường về chế biến món ăn hoặc nuôi nhốt cảnh. Bên cạnh đó, trong
những năm gần đây, thú chơi cây cảnh rừng như đào rừng, mai rừng, bằng lăng
rừng, na rừng… được ưa chuộng. Việc khai thác các loại cây kể trên đem đến nguồn
lợi lớn cho người dân, do đó tình trạng đào phá cây rừng diễn ra phổ biến. Kiểu khai
thác tận diệt đang dần làm cho nhiều chủng loại cây rơi vào tình trạng nguy cấp.
- Ô nhiễm môi trường biển khiến cho đa dạng sinh học biển bị uy hiếp. Tỉnh
Hà Tĩnh trong 03 năm 2017, 2018 và 2019 trung bình mỗi ngày có 7 tấn rác thải rắn
từ đại dương dạt vào bờ [32]. Đây cũng là con số trung bình của các tỉnh vùng
Duyên hải Nam Trung bộ. Rác thải đại dương có tác hại rất lớn đến đời sống sinh
vật biển, đến đời sống con người và đến môi trường kinh tế biển. Đặc biệt với 70%
rác thải đại dương là nhựa, các ảnh hưởng này còn ở mức độ lớn hơn [47]. Nhựa là
một dạng chất thải có tốc độ phân hủy rất chậm. Những mảnh rác thải nhựa lớn sẽ
72
bị phân nhỏ dưới các tác động cơ học thành các hạt nhựa nhỏ có kích thước dưới
5mm và phải mất hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm để một mảnh rác thải
nhựa có thể phân hủy trong điều kiện tự nhiên. Do các dòng hải lưu, các hạt nhựa
vụn di chuyển trên khắp đại dương, trở thành mồi cho các loài chim biển, cá, giun
và động vật biển. Khi các động vật nuốt phải, các hạt nhựa vụn bị mắc trong khí
quản, gây ngạt thở, hoặc làm tắc hệ tiêu hóa, gây nguy hại cho các loài động vật,
thậm chí dẫn đến tử vong. Đáng lo ngại hơn là những hạt nhựa siêu vi (rất nhỏ) đến
từ 2 nguồn do rác thải nhựa phân hủy; từ những hạt nhựa siêu nhỏ có trong mỹ
phẩm như sữa rửa mặt, kem đánh răng..., có thể xâm nhập và phá hủy tế bào trong
cơ thể của các loài sinh vật biển. Sau đó, con người ăn vào các sinh vật biển này dẫn
đến tích tụ chất vi nhựa trong cơ thể. Rác thải nhựa, trong đó có hạt vi nhựa, gây
ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch, cảnh quan môi trường và những tác động
trong hệ sinh thái biển.
Bên cạnh rác thải nhựa, hậu quả xả thải chưa qua xử lý của Fomosa Hà Tĩnh
và các khu/cụm công nghiệp trên địa bàn cũng đã tác động rất lớn, góp phần huỷ
hoại hệ sinh vật biển, đặc biệt các chủng loại tảo, sinh vật biển nhóm phù du và các
loại cá sinh sống ở tầng nước mặt bị chết hàng loại, khả năng phục hồi thấp do các
chất thải độc hại lắng đóng xuống đáy và di chuyển theo hoàn lưu, không bị bão hoà
hay phân huỷ. Đây là hoạt động xâm hại môi trường tiêu biểu của các pháp nhân
thương mại.
Thứ ba, thiên tai đang có diễn biến nặng và xuất hiện đa thiên tai. Từ năm
2010 đến 2020, diễn biến thiên tai trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trở nên phức tạp, gây
thiệt hại lớn về người và của và xuất hiện hiện tượng đa thiên tai. Đa thiên tai là việc
cùng lúc diễn ra nhiều loại hình thiên tai gây hậu quả rất lớn. Đặc biệt trong giai
đoạn 2017 - 2019, các dạng đa thiên tai cùng diễn biến trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
như lũ lụt, lũ quét và lũ ống, sạt lở đất, bão và động đất. Trong đó các thiên tai diễn
ra liên tiếp và là tiền đề của nhau nên thiệt hại kép về người và tài sản. Các loại hình
thiên tai cũng có xu hướng tăng theo thời gian.
- Về lũ lụt, tần suất và quy luật lũ lụt cũng thay đổi. So với giai đoạn từ năm
2000 - 2010, giai đoạn từ năm 2010 - 2020 có số lượng đợt lũ tăng gấp đôi từ 02
đợt/năm lên 04 đợt/năm. Trong đó có những đợt lũ lập đỉnh mới như lũ tháng 10
năm 2020 vượt đỉnh lũ năm 1993 đến 1,63m. Diễn biến lũ cũng hết sức phức tạp
như tháng 10 năm 2020, Hà Tĩnh liên tiếp đón 03 cơn lũ cách nhau 6 đến 8 ngày
73
[32]. Hiện tượng lũ chồng lũ dự báo sẽ xuất hiện nhiều hơn trong tương lai. Bên
cạnh đó, diễn biến lũ cũng không theo quy luật mà diễn ra thất thường giữa các
năm. Các hiện tượng tiêu cực của lũ có nguyên nhân rất lớn từ việc phá rừng đầu
nguồn. Với diện tích rừng giảm thiểu 36% sau 10 năm do hành vi của con người đã
khiến khả năng giữ nước của cây giảm sút, nước mưa trực tiếp đổ xuống vùng hạ
lưu gây ngập nhanh và ngập sâu. Trong khi đó, các hồ chứa bị san lấp, cửa sông bị
cản trở dòng thoát do các hoạt động khai thác cát, đá trái phép khiến cho nước lũ
chậm rút.
- Về sạt lở, trung bình mỗi năm Hà Tĩnh có 03 trận sạt lở và đang có xu hướng
tăng qua các năm. Địa bàn sạt lở thường nằm ở các huyện Vũ Quang, Hương Sơn,
Hương Khê… Diện tích sạt lở cũng tăng theo các năm. Hiện tượng sạt lở gia tăng
khiến cho thiệt hại về người và tài sản rất lớn có nguyên nhân chủ yếu từ việc rừng
bị tàn phá và việc tự ý đào xới chân núi, đồi… Bên cạnh đó, việc ngăn dòng làm
thuỷ điện cũng làm cho cơ địa đất xung quanh bị yếu, lực nén càng lớn, cộng hưởng
với mưa lớn, lượng tích tụ càng cao khiến cho tình trạng sạt lũ càng ngày có xu
hướng càng cao và thiệt hại càng nặng.
- Về động đất, mặc dù động đất tại Hà Tĩnh ở cường độ nhẹ, không thường
xuyên và chưa gây thiệt hại về người. Song đây là những cảnh báo cho một hiện
tượng thiên tai mới có thể sẽ gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong tương lai. Hiện tượng
động đất chủ yếu đến từ hoạt động khai thác khoáng sản, nhiên liệu thô trong lòng
đất tạo ra các khoảng trống trong lòng đất, gây nên các dư chấn khi sụt lún lòng đất
hay đứt gãy các cấu tạo đất.
3.1.5. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về môi trường tại
tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010 - 2020
a. Nguyên nhân và điều kiện về tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hà Tĩnh bao gồm cả biên giới biển và biên giới
trên đất liền. Trong đó biên giới biển là một vùng bờ biển dài với nhiều khu/cụm
công nghiệp được xây dựng. Trong khi đó đường biên giới trên bộ chủ yếu là rừng,
điều kiện địa hình khó tiếp cận. Chính đặc điểm tự nhiên này khiến cho THTP về
môi trường rất khó để kiểm soát. Các hành vi phạm tội về môi trường diễn ra ở
những khoảng thời gian và không gian rất khó để phát hiện. Ví dụ các khu, cụm
công nghiệp xả nước thải, khí thải trực tiếp ra môi trường không khí và môi trường
biển. Việc phát hiện ngay lập tức sẽ khó khả thi vì môi trường hứng xả lớn, sẽ
74
nhanh chóng bảo hoà nồng độ nước thải và khí thải nên việc đo đạc, quan trắc gặp
nhiều khó khăn. Việc khai thác lâm sản trái phép diễn ra tại các vùng rừng sâu, là
biên giới Việt – Lào. Lực lượng chức năng khó để kiểm soát được khu vực rộng lớn
với địa hình phức tạp như vậy. Thêm vào đó, những người phạm tội thường có xu
hướng trốn qua biên giới khi cơ quan chức năng kiểm tra, truy bắt nên càng khó
khăn hơn. THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh phụ thuộc rất nhiều vào
các yếu tố tự nhiên dẫn đến có nhiều diễn biến phức tạp.
b. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về hoạt động quản lý nhà nước và cơ
quan bảo vệ pháp luật
Bên cạnh các nguyên nhân và điều kiện kể trên, năng lực thực thi công tác quản
lý nhà nước cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng gặp nhiều hạn chế như:
- Lực lượng công tác mỏng, kiêm nhiệm khiến cho hiệu quả công việc không
cao. Nhiều địa bàn bị bỏ ngõ, các nội dung quản lý nhà nước về môi trường cũng
không được thực hiện đầy đủ và duy trì thường xuyên.
- Đội ngũ quản lý nhà nước tại địa phương có mối quan hệ xã hội hay huyết
thống với những người phạm tội do đó còn hiện tượng buông lỏng quản lý, bảo kê
và làm lơ cho các hoạt động xâm hại môi trường diễn ra.
- Tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi
trường vẫn còn bất cập. Cấp huyện là cấp tố tụng hình sự cơ sở, song vẫn chưa có
đội Cảnh sát phòng, chống tội phạm môi trường nên công tác chỉ đạo, hướng dẫn và
tổ chức thực hiện vẫn còn khó khăn.
- Công tác phối hợp giữa các lực lượng trong phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật khác về môi trường có nơi, có lúc chưa đồng bộ, còn lúng túng, bị
động do chưa có kinh nghiệm và chưa rõ về cơ chế; công tác phối hợp trong phát
hiện, điều tra, xử lý chưa thống nhất.
- Ý thức pháp luật của một số cấp, ngành về BVMT còn hạn chế; công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BVMT chưa tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu công tác.
Những vấn đề kể trên làm cho sức mạnh trấn áp của nhà nước đối với THTP
về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chưa đáp ứng yêu cầu. THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh vì thế có điều kiện diễn biến phức tạp.
75
c. Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã hội
THTP về môi trường trước hết có nguyên nhân từ điều kiện kinh tế - xã hội.
Thói quen lâu đời dựa vào thiên nhiên đã khiến cho hình thành nền kinh tế khai
thác. Nội dung của nền kinh tế này chỉ chú trọng khai thác các nguyên vật liệu và
động thực vật có sẵn trong tự nhiên để đem đến các nguồn lợi trước mắt. Nền kinh
tế này mặc dù cho đến nay đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn tồn tại trong thói
quen sống của một số cộng đồng nhất định, đặc biệt các cộng đồng người sống tại
các huyện miền núi. Nguyên nhân và điều kiện này chủ yếu khiến cho các hành vi
tội phạm về môi trường với các tội danh như: Tội huỷ hoại rừng; Tội hủy hoại
nguồn lợi thủy sản; Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp,
quý, hiếm…
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường phát triển, công nghiệp và dịch vụ cũng vì
thế có sự tăng trưởng nhanh chóng. Mặt trái của nền kinh tế thị trường này là các
doanh nghiệp chạy đua để có được lợi nhuận, bất chấp đánh đổi các vấn đề về môi
trường. Nền kinh tế thị trường càng đạt ở trình độ cao, sự cạnh tranh càng lớn, gặp
phải sự lỏng lẻo trong quản lý hoặc sự móc nối giữa chính quyền và doanh nghiệp
khiến cho các vấn đề ràng buộc về BVMT bị xem thường. Hậu quả là THTP về môi
trường theo chiều hướng ngày càng tiêu cực. Các tội danh như: Tội vi phạm quy
định về quản lý chất thải nguy hại; Tội gây ô nhiễm môi trường; Tội hủy hoại nguồn
lợi thủy sản… của các pháp nhân thương mại ngày càng phổ biến và gây ra những
hậu quả nặng nề, khó khắc phục trong tương lai.
Nguyên nhân, điều kiện xã hội cũng là tác nhân lớn của THTP về môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có sự hiện diện của 5
dân tộc gồm: Kinh, Thái, Mường, Chứt, Lào. Trong đó khoảng 27% dân số người
kinh và đa số tuyệt đối người Thái, Chứt, Mường và Lào sinh sống ở các huyện
thuộc vùng rừng núi phía Tây. Đặc điểm chung của xã hội ở đây là tính lệ thuộc vào
tự nhiên cao, các tập quán sản xuất, canh tác vẫn còn gắn bó chặt chẽ với khai
hoang, du canh, du cư và khai thác trực tiếp từ tự nhiên. Bên cạnh đó, địa hình cư
trú xa, phức tạp đã khiến cho việc tiếp cận gặp nhiều khó khăn, các tư liệu sản xuất,
canh tác mới, hiện đại… vì thế cũng không dễ dàng để vận chuyển và sử dụng.
Nhận thức xã hội về vấn đề BVMT, tội phạm về môi trường, THTP về môi trường
và phòng ngừa THTP về môi trường cũng hạn chế. Do đó, trong cuộc sống xã hội
76
cộng đồng không có sự phản kháng, phê phán hay đấu tranh trước các hành vi xâm
phạm môi trường. Ngược lại, không ít các hoạt động xã hội có xu hướng cổ xuý cho
việc khai thác trực tiếp, khai thác tận diệt và đốt rừng làm nương rẫy.
d. Nguyên nhân và điều kiện văn hoá - giáo dục
Nguyên nhân và điều kiện văn hoá – giáo dục là những vấn đề thuộc về nhận
thức của cộng đồng và các tập quán, tín ngưỡng của cộng đồng tác động đến THTP
về môi trường. Cụ thể, đối với vấn đề giáo dục. Gốc rễ của nhận thức con người đến
từ môi trường sống và các giá trị giáo dục được trao truyền. Trong đó, giáo dục góp
phần xây dựng nhận thức của từng thế hệ, qua đó cấu thành nên nhận thức của cộng
đồng. Với nền giáo dục hiện nay, vấn đề về BVMT vẫn chưa được chú trọng.
Chương trình giáo dục và đào tạo vẫn nặng tính hàn lâm. Các thế hệ không được
thực nghiệm vai trò của môi trường tự nhiên cũng như hậu quả của việc xâm hại
môi trường tự nhiên, do đó không hình thành được tư duy thường trực về BVMT.
Trong khi đó, với lối canh tác của nền văn hoá lúa nước, hoạt động sống hằng ngày
của cộng đồng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp và ở các mức độ khác nhau đang liên
tục gây ra những tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên. THTP về môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh vẫn còn duy trì những diễn biến phức tạp trong tương lai
một phần lớn vì trong tương lai gần rất khó để có những thay đổi về tư duy xã hội
và giáo dục.
3.2. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh
3.2.1. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan quản lý nhà
nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường và những vấn đề về THTP về
môi trường, các cán bộ, lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung các
cấp đã có những nhận thức đầy đủ về nhận diện THTP về môi trường và các biện
pháp phòng ngừa. Các cơ quan, tổ chức có quản lý nhà nước thẩm quyền chung
cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chính sách thể hiện sự nhận
thức đó như: Nghị quyết số 79/2017/NQ-HĐND ngày 13/12/2017 của HĐND tỉnh
Hà Tĩnh về một số chính sách BVMT của tỉnh giai đoạn 2018 - 2020; Quyết định số
11/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hà Tĩnh, ban hành ngày 11 tháng 4 năm 2018
nhằm Ban hành quy định BVMT trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; Kế hoạch số 265/KH-
77
UBND của UBND tỉnh Hà Tĩnh, ban hành ngày 10 tháng 8 năm 2018 nhằm thực
hiện chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn
đến năm 2050 trên địa bàn tỉnh…
Bằng phương pháp khảo sát thông qua 200 bảng hỏi, với các đối tượng tham
gia là những cán bộ lãnh đạo cơ quan quản lý hành chính thẩm quyền chung ba cấp
tỉnh, huyện, xã về những vấn đề liên quan đến nhận thức về phòng ngừa THTP về
môi trường. Kết quả thu được như sau:
- Nhận thức chung về THTP về môi trường và phòng ngừa THTP về môi
trường: có 127/200 người được hỏi khẳng định có nhận thức đầy đủ về hai nội dung
kể trên chiếm 63,5%, số lượng người chọn chưa nhận thức đầy đủ về nội hàm
THTP về môi trường và phòng ngừa THTP về môi trường là 73/200 người, chiếm
36,5%. Kết quả khảo sát nội dung này cũng cho thấy tỷ lệ cán bộ lãnh đạo quản lý
cơ quan thẩm quyền chung cấp tỉnh và cấp huyện có tỷ lệ nhận thức đầy đủ về hai
khái niệm pháp lý kể trên cao hơn (chiếm 98%) so với những cán bộ lãnh đạo quản
lý cơ quan thẩm quyền chung tại cấp xã (58%).
- Nhận thức về sự cần thiết về phòng ngừa THTP về môi trường và vai trò của
cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung trong phòng ngừa THTP về môi
trường: có 188/200 người được hỏi khẳng định phòng ngừa THTP về môi trường là
một tất yếu, chiếm 94%. Trong số những người lựa chọn khẳng định này có cả
những người chưa nhận thức đầy đủ về THTP về môi trường và phòng ngừa THTP
về môi trường. 12/200 người còn lại tương ứng với 6% cho rằng cơ bản nhận thức
được là sự tất yếu nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ về phòng ngừa THTP về môi
trường nên chưa có được những nhận định cụ thể nào về sự tất yếu đó. Đối với nội
dung câu hỏi về thẩm quyền của cơ quan quản lý thẩm quyền chung về phòng ngừa
THTP về môi trường, kết quả thu được 200/200 người được hỏi thừa nhận vai trò quản
lý tổng quát của cơ quan thẩm quyền chung trong phòng ngừa THTP về môi trường. Tuy
nhiên, khi được phỏng vấn sâu về vấn đề này, có 122/200 người chiếm 61% cho rằng
thẩm quyền của các cơ quan này chủ yếu là thẩm quyền chỉ đạo, điều hành. Cụ thể để
thực hiện phòng ngừa thuộc về cơ quan chuyên môn và ý thức của cộng đồng.
- Nhận thức về các biện pháp phòng ngừa: khi được hỏi về mức độ nhận thức
đầy đủ về các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường, chỉ 70/200 người khẳng
định rằng có được sự nhận thức đầy đủ các biện pháp phòng ngừa THTP về môi
trường, chiếm 35%. Trong khi đó 130/200 người chiếm 65% cho rằng nhận thức
78
được các biện pháp phòng ngừa song không đầy đủ. Cụ thể, khi phỏng vấn sâu,
100% số người được hỏi khẳng định biện pháp phổ biến nhất là tuyên truyền pháp
luật và nâng cao nhận thức của cộng đồng về BVMT và phòng ngừa THTP về môi
trường. Tuy nhiên, khi đề nghị đề xuất thêm giải pháp, đa số những người được hỏi
đều đề xuất những giải pháp mang tính chất chung chung.
Như vậy có thể thấy, BVMT nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường
nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã được các lãnh đạo quản lý cơ quan nhà nước
thẩm quyền chung nhận thức được ở mức độ nhất định. Đối với những vấn đề nhận
thức mang tính chất chung, từ kết quả khảo sát cho thấy đạt được tỷ lệ cao, đặc biệt
ở cấp tỉnh và cấp huyện. Tuy nhiên, đối với những nhận thức chuyên sâu về vấn đề
này, chỉ một tỷ lệ thiểu số. Điều này được lý giải bởi một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, cơ quan thẩm quyền chung là những cơ quan quản lý mọi mặt trong
nội dung quản lý nhà nước. Nghĩa là phải quản lý nhiều vấn đề chuyên môn khác
nhau. Do đó, nhận thức chủ yếu của cán bộ lãnh đạo những cơ quan này là nhận
thức bao quát. Tính bao quát giúp quá trình quản lý được thông suốt và tạo điều
kiện cho sự phối hợp của các lĩnh vực khác nhau. Do đó, không chỉ đối với phòng
ngừa THTP về môi trường, mà còn nhiều vấn đề chuyên môn chuyên sâu khác cũng
không được các lãnh đạo quản lý cơ quan thẩm quyền chung nhận thức một cách
đầy đủ. Như vậy đây là nguyên nhân khách quan, xuất phát từ đặc điểm hoạt động
quản lý nhà nước của nhóm các đối tượng được khảo sát.
Thứ hai, đối với những cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, trình độ chuyên môn còn
hạn chế, do đó sự nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường cũng chưa được
đầy đủ. Ngược lại, ở những cấp chính quyền cao hơn nhận thức này cũng đầy đủ
hơn và chiếm tỷ lệ lớn hơn. Điều này phản ánh sự phân cấp về trình độ chuyên môn
giữa các cấp chính quyền. Hơn nữa, khả năng tiếp cận thông tin về THTP về môi
trường và công tác phòng ngừa THTP về môi trường của lãnh đạo cấp cơ sở hạn
chế hơn so với các cấp cao hơn, do đó cũng ảnh hưởng đến sự đầy đủ về nhận thức
của họ đối với vấn đề này.
Thứ ba, vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường là một vấn đề chuyên môn
chuyên sâu của công tác phòng ngừa tội phạm. Chủ thể chủ yếu thực hiện công tác
phòng ngừa là các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và thực hiện
công tác chuyên trách về BVMT như Tài nguyên và môi trường, Cảnh sát, Kiểm sát,
Toà án… Để thực hiện được công tác này đòi hỏi tính chuyên nghiệp và được đào tạo
79
bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, các cán bộ lãnh đạo quản lý cơ quan
quản lý nhà nước thẩm quyền chung vì tính chất công việc lại chủ yếu là những người
được đào tạo ở những lĩnh vực quản lý mang tính vĩ mô như quản lý kinh tế, quản lý
nhà nước, chính sách công… Do đó vấn đề nhận thức dựa trên khoa học chuyên môn
về phòng ngừa THTP về môi trường sẽ gặp khó khăn.
3.2.2. Nhận thức của cán bộ, công chức trong các cơ quan chuyên trách, cơ
quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ pháp luật như Tài nguyên và môi
trường, Cảnh sát, Thanh tra, Kiểm sát, Toà án… không phải là chủ thể duy nhất của
phòng ngừa THTP về môi trường, song là những chủ thể chính, đóng vai trò quan
trọng nhất, quyết định đến tính hiệu quả của công tác phòng ngừa. Do đó, nhận thức
của cán bộ, công chức trong các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ pháp luật
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh về phòng ngừa tội phạm về môi trường có ý nghĩa rất lớn
đến hành vi thực hiện công tác phòng ngừa nội dung này trên địa bàn.
Ứng với mỗi cơ quan chuyên trách và các cơ quan bảo vệ pháp luật đều có
những nhận thức chuyên môn khác nhau về THTP về môi trường và công tác phòng
ngừa THTP về môi trường. Từ những nhận thức đó, mỗi cơ quan cũng có những
biện pháp và cách thức tổ chức thực hiện phòng ngừa khác nhau. Trên cơ sở khảo
sát bằng bảng hỏi nhận thức của cán bộ, công chức về THTP về môi trường và
phòng ngừa THTP về môi trường với 500 phiếu tại năm cơ quan: Tài nguyên và
môi trường, Cảnh sát, Thanh tra, Kiểm sát, Toà án nhận thức về vấn đề trên được
thể hiện như sau:
- Nhận thức chung về THTP về môi trường và phòng ngừa THTP về môi
trường. Với 500 người được hỏi, có 493 người cho rằng đã nắm rõ những nhận thức
chung về THTP về môi trường như: nhận diện được nội hàm, nắm được cơ bản thực
trạng tình hình và có thể suy đoán được xu hướng biến đổi của THTP về môi
trường. Tỷ lệ này chiếm 98,6%. Đối với nhận thức chung về phòng ngừa THTP về
môi trường, có 363 người được hỏi cho rằng đã nhận thức rõ được những vấn đề cơ
bản về phòng ngừa THTP về môi trường như: biện pháp; chủ thể; nguyên tắc… Tỷ
lệ này chiếm 72,6%. Điều này đồng nghĩa với 27,4% tương ứng với 137 người được
hỏi khẳng định chưa có đầy đủ nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường.
- Nhận thức về các nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường. Nhận thức
về nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường là những hiểu biết về các yêu cầu
80
phải tuân thủ khi thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường mà các chủ thể phải
tuân thủ nhằm đảm bảo thực hiện đúng thẩm quyền, mang đến hiệu quả cho hoạt
động phòng ngừa. Do đó, nhận thức về các nguyên tắc phòng ngừa đóng vai trò rất
quan trọng trong các nội dung nhận thức về phòng ngừa tội phạm về môi trường.
Trên cơ sở kết quả thu được từ điều tra xã hội học, có thể khái quát tình hình nhận
thức về các nguyên tắc này như sau: có 220/500 người được hỏi khẳng định nắm
được các nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường, chiếm 44%. Đa số trong
những người này đều thuộc về lực lượng cảnh sát và kiểm sát. Tỷ lệ những người
khẳng định không nắm đầy đủ các nguyên tắc là 280/500 người, chiếm 56%. Như
vậy, vấn đề nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường chưa được nhận thức một
cách đầy đủ. Khi được hỏi sâu hơn về nội dung các nguyên tắc, có 211/500 người
liệt kê được từ 2 nguyên tắc trở lên, chiếm 42,2%, số còn lại 289/500 người chỉ liệt
kê được tối đa một nguyên tắc và chiếm 87,8%. Nguyên tắc chủ yếu được liệt kê là
nguyên tắc: Tuân thủ pháp luật trong phòng ngừa THTP về môi trường.
- Nhận thức về các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường. Đối với nhận
thức về các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường phụ thuộc vào góc độ tiếp
cận là chuyên môn của người được hỏi sẽ cho ra những kết quả khác nhau. Đối với
lực lượng tài nguyên và môi trường, có 57/100 người được hỏi khẳng định nắm đầy
đủ các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường, đặc biệt 100/100 người được
hỏi khẳng định nắm rõ các biện pháp phòng ngừa THTP về huỷ hoại rừng, khai thác
trái phép khoáng sản và huỷ hoại đất; Đối với lực lượng thanh tra, chỉ 23/100 người
được hỏi khẳng định nắm rõ các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường,
77/100 người cho rằng chưa nắm đầy đủ các biện pháp vì chức năng chủ yếu là thực
hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu tố dân nguyện, do đó chủ yếu chuyên sâu
vào phương pháp phòng ngừa thuộc về thẩm quyền kể trên; Đối với lực lượng kiểm
sát và toà án, có 189/200 người được hỏi khẳng định nhận thức đầy đủ về các biện
pháp phòng ngừa THTP về môi trường. Đặc biệt có 192/200 người có thể liệt kê từ
hai biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường trở lên; Đối với lực lượng cảnh sát,
97/100 người được hỏi khẳng định nắm rõ các biện pháp phòng ngừa THTP về môi
trường, trong đó 100% có thể liệt kê từ hai biện pháp trở lên.
- Nhận thức về trách nhiệm phòng ngừa THTP về môi trường. Đây là vấn đề được
nhận thức đầy đủ nhất trong các nội dung nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường
của các cán bộ, công chức trong các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ tư pháp… Kết
quả khảo sát cho thấy 500/500 người được hỏi cho rằng nhận thức rõ ràng về vai trò,
81
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức mình trong phòng ngừa THTP về môi trường.
Như vậy, về phòng ngừa THTP về môi trường của cán bộ, công chức trong
các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tương
đối đầy đủ, đặc biệt là nhận thức những vấn đề chung và về trách nhiệm phòng
ngừa. Tuy nhiên, nhận thức về nguyên tắc và phương pháp phòng ngừa còn hạn chế
khi số lượng người khẳng định có nhận thức đầy đủ những vấn đề về phòng ngừa
THTP về môi trường như nguyên tắc và biện pháp phòng ngừa còn chiếm tỷ lệ cao.
Nguyên nhân có thể kể đến của tình hình trên bao gồm:
Thứ nhất, nhân sự tại các cơ quan chuyên trách còn nhiều hạn chế về mặt
chuyên môn, do đó chưa có những nhận thức đầy đủ về công tác phòng ngừa THTP
về môi trường. Theo thời gian, việc chuẩn hoá và nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của các lực lượng kể trên sẽ được đảm bảo, do đó nhận thức về phòng
ngừa THTP về môi trường cũng vì thế có những chuyển biến tích cực hơn.
Thứ hai, có rất ít các chương trình tập huấn, đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp
vụ liên quan đến phòng ngừa THTP về môi trường, do đó cơ bản các nhận thức có
được kể trên đều do các cán bộ, công chức tự mình thu thập, tích luỹ. Chính vì thế
những nhận thức này thiếu đầy đủ, chưa thống nhất và chậm cập nhật so với diễn
biến của pháp lý và xã hội.
Thứ ba, phòng ngừa tội phạm về môi trường là một kiến thức khoa học phức
tạp và chuyên sâu. Để nhận thức về vấn đề này không chỉ đòi hỏi người cán bộ,
công chức phải có hiểu biết về chuyên ngành môi trường, mà còn đòi hỏi phải có
kiến thức chuyên ngành hình sự và tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Sự kết
hợp của ba chuyên ngành này sẽ cung cấp cái nhìn đầy đủ về phòng ngừa THTP về
môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế không có chương trình đào tạo nào là sự kết hợp
của ba ngành kể trên. Đồng thời nhân sự đáp ứng đủ ba tiêu chuẩn hiểu biết lĩnh vực
kể trên là rất ít. Do vậy, tuỳ vào từng nội dung thẩm quyền quản lý nhà nước khác
nhau, các chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường sẽ có những khía cạnh nhận
thức sâu rộng khác nhau về phòng ngừa THTP về môi trường.
3.2.3. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường của cán
bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội, nhà trường, gia đình và nhân dân trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh
a. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Nhằm thực hiện Quyết định số 1703/QĐ-MTTW-BTT ngày 25/10/2017 của
82
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về phê duyệt đề
án “Vận động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; Cảm
hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đ nh và cộng đồng dân cư” đến năm
2020, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh cùng các tổ chức chính trị - xã hội
như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… các cấp của địa phương đã
tích cực tổ chức các cuộc vận động toàn dân phòng ngừa, phát hiện và tố giác tội
phạm nói chung và tội phạm về môi trường nói riêng. Cụ thể, đối với phòng ngừa
THTP về môi trường, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã thống nhất nhận thức về vai trò của môi trường trong
đời sống xã hội tại địa phương; về những hậu quả của việc thực hiện hành vi phạm
tội về môi trường. Và trên cơ sở những thông tin về THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh được các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan chuyên trách cập
nhật thường xuyên, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh đã thống nhất xác định phòng ngừa THTP về môi trường là một nội
dung quan trọng trong hoạt động của mình. Bằng tư duy thống nhất này, trên thực
tiễn, các tổ chức chính trị xã hội đã có nhiều hoạt động tích cực góp phần rất lớn vào
công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh bằng phương
pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; vận động và cảm hoá những đối tượng
có nguy cơ phạm tội về môi trường; phối hợp cùng nhà trường và gia đình duy trì tuyên
truyền, giáo dục học sinh và người thân tuân thủ pháp luật về BVMT.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa THTP về môi trường bằng các phương pháp chủ
yếu như: tổ chức thường niên các chiến dịch truyền hình, truyền thanh các nội dung
về BVMT; tổ chức các cuộc vận động tình nguyện khắc phục ô nhiễm môi trường
nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề BVMT; thông tin các vụ án, vụ
việc điển hình về vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn tỉnh; tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu pháp luật về BVMT, các cuộc thi tìm hiểu ý tưởng, sáng kiến về
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng ngừa… Nhìn chung, các hoạt
động này mang đến nhiều hiệu quả thiết thực trong thay đổi nhận thức của chính các
thành viên tổ chức chính trị - xã hội và của cộng đồng về vấn đề BVMT, qua đó cải
thiện tích cực THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề nhận thức
về phòng ngừa THTP về môi trường của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội trên địa bản tỉnh Hà Tĩnh còn nhiều hạn chế do chịu tác động tiêu
83
cực của nhiều yếu tố. Cụ thể:
Thứ nhất, nhận thức đầy đủ về pháp luật BVMT; tội phạm môi trường; về
THTP môi trường và về phòng ngừa tội phạm về môi trường của các tổ chức chính
trị - xã hội còn chưa đầy đủ và chuyên sâu. Đây là một thực tế khách quan do tính
chất chuyên môn và thẩm quyền hoạt động của các tổ chức này không thường
xuyên tiếp xúc với pháp luật hình sự nói chung và vấn đề phòng ngừa THTP về môi
trường nói riêng. Bên cạnh đó, nhân sự của các tổ chức chính trị - xã hội chủ yếu có
chuyên môn về công tác xã hội, không được đào tạo chính quy về pháp luật cũng
như vấn đề phòng ngừa THTP. Do đó, vấn đề nhận thức về phòng ngừa THTP về
môi trường của các tổ chức này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, mang tính phổ
thông nhằm đáp ứng cơ bản yêu cầu của hoạt động tuyên truyền.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm thống nhất nhận thức
của các thành viên và xã hội về phòng ngừa THTP về môi trường tuy có những tác
động tích cực, song cơ bản hiệu quả còn chưa cao, nhiều hoạt động mang nặng tính
hình thức và thành tích, nội dung và phương pháp tuyên truyền còn đồng điệu,
không thu hút được sự quan tâm của cộng đồng. Hạn chế này xuất phát từ thực tiễn
tuyên truyền phòng ngừa THTP về môi trường chỉ là một nội dung rất nhỏ trong
nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội. Chính vì
thế, tính chuyên môn cũng như mức độ tập trung cho hoạt động này chưa cao. Các nội
dung tuyên truyền đa dạng và được tổ chức theo chu kỳ, không liên tục, do đó nhận
thực về phòng ngừa THTP môi trường cũng bị ngắt quãng và mang tính thời vụ.
Thứ ba, nhận thức của các tổ chức chính trị - xã hội về phòng ngừa THTP về
môi trường không có tính đồng đều. Trong khi các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh
có những nhận thức rõ ràng về phòng ngừa THTP môi trường thì ở cấp huyện và cấp xã
có sự giảm dần về mặt nhận thức. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chất lượng nhân sự
giảm dần của các tổ chức chính trị - xã hội qua các cấp. Đây cũng là điểm tương đồng
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Bên cạnh đó, tâm lý cho
rằng nhiệm vụ phòng ngừa THTP về môi trường thuộc về các cơ quan chuyên trách và
lực lượng bảo vệ pháp luật như cảnh sát, kiểm sát, toà án… cũng ảnh hưởng đến ý thức
tự học hỏi, trang bị thêm kiến thức để củng cố nhận thức về phòng ngừa THTP môi
trường của các thành viên tổ chức chính trị - xã hội hiện nay.
b. Nhà trường và gia đình
Nhà trường và đình có tác động rất lớn đến hình thành và duy trì nhận thức
84
phòng ngừa THTP về môi trường của công dân, đặc biệt là những công dân trẻ.
Chính vì thế, vấn đề nhận thức của nhà trường và gia đình cũng như các hoạt động
nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh, con em của nhà trường và gia đình có ý
nghĩa quyết định đến ý thức xã hội về vấn đề phòng ngừa THTP môi trường trong
tương lai. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, hệ thống nhà trường được tổ chức tương đối
đầy đủ với hệ thống giáo dục quốc dân, gồm: hệ thống các trường mẫu giáo, tiểu
học, trung học, trung cấp, cao đẳng, cao đẳng nghề, trường đại học và các trường
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành.
Thực hiện Quyết định số 2106/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015 và Quyết định
1235/QĐ-Bộ GDĐT phê duyệt Đề án “Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi
phạm pháp luật trong học sinh, sinh viên đến năm 2020”. Các trường kể trên đều
tham gia vào công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phòng ngừa THTP môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ở những mức độ khác nhau. Cụ thể, thống nhất tư
duy phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng
là một trong những nội dung cần được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục trong môi
trường trường học. Các phương pháp được lựa chọn triển khai bao gồm: phổ biến
pháp luật về BVMT trong các giờ sinh hoạt công dân; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật về BVMT; tổ chức cổ động, mít tinh và sáng tác tranh, thơ về chủ đề môi
trường… Tuy nhiên, vấn đề nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường trong
trường học và gia đình còn tồn tại những hạn chế sau:
Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong nhận thức giữa nhà trường và gia đình.
Nhà trường và gia đình đều có vai trò quan trọng trong giáo dục ý thức của học sinh
về vấn đề BVMT. Tuy nhiên, giữa hai chủ thể này không có sự thống nhất trong
nhận thức về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường cũng như trong công tác giáo
dục pháp luật cho học sinh. Cụ thể, trong khi nhà trường luôn cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền pháp luật về BVMT ở các cấp học thì gia đình
không xem đó là nghĩa vụ của gia đình. Điều này xuất phát từ đời sống kinh tế các
hộ gia đình trên địa bàn ở mức trung bình, tỉ lệ dân cư sinh sống ở nông thôn chiếm
trên 70%, do đó nhận thức về vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức phòng ngừa
THTP về môi trường còn hạn chế. Đồng thời, cuộc sống khó khăn khiến cho việc
mưu sinh được ưu tiên và chính hoạt động mưu sinh là lý do cơ bản để thực hiện
85
các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường;
Thứ hai, việc cập nhật các nhận thức mới về phòng ngừa tội phạm về môi
trường trong các nhà trường trên địa bàn còn thụ động, nặng về tính hình thức. Các
trường chủ yếu cập nhật kiến thức về tội phạm môi trường và phòng ngừa THTP về
môi trường thông qua các đợt tuyên truyền, các chiến dịch của cơ quan chức năng.
Những đợt tuyên truyền này không được thực hiện thường xuyên, lại chú trọng vào
công tác phong trào, do đó chất lượng nội dung thấp, các trường cũng vì thế không
đầu tư vào phương pháp phổ biến, giáo dục để tăng cường nhận thức mà chủ yếu
thực hiện các hoạt động phục vụ cho việc thống kê số liệu báo cáo như các cuộc thi
tìm hiểu có sẵn đáp án, người thi chỉ cần chép lại; tham gia tuyên truyền pháp luật
bằng hình thức thuyết trình, nhưng cách thức truyền đạt và nội dung không đảm bảo
phân loại để phù hợp với từng cấp học, cấp lớp.
c. Người dân
Người dân ở nghĩa chung bao gồm cộng đồng dân cư và các tổ chức doanh
nghiệp. Ở nghĩa này, nhận thức của nhân dân về phòng ngừa THTP là nhận thức
của cộng đồng xã hội liên quan đến vấn đề này. Để xây dựng nhận thức của cộng
đồng, vấn đề phòng ngừa THTP môi trường và vấn đề tác hại của ô nhiễm môi
trường đã được nhiều cấp chính quyền và đoàn thể đưa vào nội dung tuyên truyền
và sinh hoạt hằng năm. Các biện pháp nâng cao nhận thức khác nhau được áp dụng,
tuy nhiên hiệu quả của việc nâng cao ý thức của người dân về BVMT và phòng
ngừa THTP về môi trường không có nhiều chuyển biến đáng kể qua các năm. Cụ
thể, cộng đồng dân cư vẫn thờ ơ với vấn đề BVMT, tội phạm về môi trường hay
THTP về môi trường không được nhận thức đầy đủ, người dân không chủ động và
tích cực tham gia vào công tác phòng ngừa do nhận thức rằng nhiệm vụ phòng ngừa
phải thuộc về cơ quan chức năng. Kết quả điều tra với 300 phiếu dành cho người
dân được tiến hành ngẫu nhiên cho thấy, chỉ 37/300 người cho rằng có những nhận
thức đầy đủ về THTP về môi trường nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường
nói riêng. Tỷ lệ này chỉ chiếm 12,3%. Điều này đồng nghĩa với việc 87,8% người
dân được hỏi khẳng định không có những nhận thức đầy đủ đối với vấn đề kể trên.
Đặc biệt có 142/300 người được hỏi, chiếm 47,3% cho rằng đây là lần đầu tiên nghe
về phòng ngừa THTP về môi trường. Kết quả khảo sát hiểu biết của người dân về
trách nhiệm phòng ngừa THTP về môi trường cũng đem đến kết quả với tỷ lệ tương
tự khi chỉ có 56/300 người được hỏi cho rằng chính họ cũng là chủ thể có trách
86
nhiệm phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, tỷ lệ này chiếm
18,6%. Trong khi đó có 244/300 người cho rằng mình không có trách nhiệm trong
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, trách nhiệm này thuộc
về các cơ quan chức năng được trao thẩm quyền. Tỷ lệ này chiếm 81,4%. Những
hạn chế kể trên xuất phát từ một số nguyên nhân như:
Thứ nhất, đời sống của nhiều bộ phận người dân phụ thuộc chặt chẽ vào môi
trường tự nhiên, đặc biệt là môi trường rừng và khoáng sản. Người dân những
huyện miền núi của Hà Tĩnh vốn có đời sống gắn liền với môi trường rừng. Rừng
cung cấp thực phẩm, cung cấp nguyên liệu, cung cấp các thú vật, sản vật, lâm sản…
có giá trị kinh tế cho con người. Do đó, người dân coi việc khai thác rừng là một
hoạt động sống tất yếu. Từ đó ảnh hưởng đến tư duy của họ khi cho rằng hành vi
khai thác rừng của họ luôn là hoạt động hợp pháp, xuất phát từ nhu cầu của cuộc
sống và vì thế, sự tổn hại của môi trường là điều không thể tránh khỏi.
Thứ hai, vấn đề dân trí chưa cao cộng với cuộc sống lao động chân tay vất vả,
khiến người dân không có thời gian và sự quan tâm đối với những nội dung tuyên
truyền về phòng ngừa THTP về môi trường. Xét đến cùng, vấn đề phòng ngừa
THTP về môi trường là một vấn đề pháp lý phức tạp. Bản chất này cộng với thực tế
nội dung tuyên truyền sử dụng ngôn ngữ khoa học pháp lý chung, không có sự linh
hoạt, điều chỉnh để thích ứng với đặc điểm từng đối tượng được tuyên truyền đã
khiến cho việc tiếp thu của cộng đồng trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, các nội dung
tuyên truyền thường khô cứng, rập khuôn, không tạo ra được hứng thú cho người
dân khi lắng nghe, do đó tất yếu việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về nội
dung này không mang lại hiệu quả.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp, việc nhận thức về phòng ngừa tội phạm về môi
trường là một nội dung bắt buộc trong tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp.
Yêu cầu này nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về BVMT.
Trên thực tế, các doanh nghiệp đều nhận thức được tội phạm về môi trường, đặc
biệt những quy định pháp lý về tội phạm về môi trường trong lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhận thức này không được mở rộng ở
phạm vi toàn doanh nghiệp, mà ngược lại chỉ có ở ban lãnh đạo công ty. Trong khi
đó, rất nhiều doanh nghiệp đặt vấn đề lợi nhuận lên trên hết khiến cho vấn đề phổ
biến nhận thức và thực hiện các hành vi phòng ngừa THTP về môi trường trên cơ sở
87
nhận thức này bị gạt bỏ. Điều này dẫn đến một tất yếu khi hiện nay nhiều hành vi
phạm tội về môi trường hay vi phạm pháp luật về môi trường nói chung do doanh
nghiệp hoặc các tổ chức sản xuất kinh doanh gây ra.
3.3. Thực trạng biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng
tại tỉnh Hà Tĩnh
3.3.1. Xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường tại tỉnh Hà Tĩnh
Để thực hiện hiệu quả công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh, các cơ quan chính trị, cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung,
cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức
chính trị xã hội, các đơn vị sự nghiệp công lập và cộng đồng dân cư đã xây dựng
những biện pháp phòng ngừa ở những mức độ và nội dung khác nhau. Cơ bản có
thể chia thành hai nhóm các biện pháp đã được xây dựng và triển khai thực hiện
như sau:
3.3.1.1. Nhóm các biện pháp phòng ngừa chung tình hình tội phạm về môi trường
Thứ nhất, biện pháp kinh tế - xã hội. Đây là nhóm các biện pháp được xây
dựng dựa trên các tác động bằng kinh tế và tổ chức xã hội nhằm khắc phục, hạn chế
và loại trừ nguyên nhân, điều kiện của THTP về môi trường trong đời sống xã hội.
Nội dung cốt lõi của biện pháp này là tập trung phát triển đời sống kinh tế, xã hội,
qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nâng cao dân trí và
nhận thức về BVMT, xoá bỏ những tiêu cực từ thiếu thốn, nghèo đói, lệ thuộc tự
nhiên và thất nghiệp. Từ đó giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ THTP về môi trường ra khỏi
đời sống xã hội.
Trên cơ sở tính chất đó, bên cạnh việc triển khai các chương trình, chính sách
phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước, hệ thống chính trị và xã hội tỉnh Hà
Tĩnh đã xây dựng nhiều biện pháp phát triển kinh tế, xã hội như:
- Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã hội giai đoạn 2016 - 2020 của
tỉnh Hà Tĩnh. Đây là chương trình lớn về phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Theo
đó, Hà Tĩnh định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tiêu chí: khu vực nông - lâm
nghiệp - thủy sản chiếm 10% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn chiếm
tỷ lệ 45%; khu vực dịch vụ chiếm 35% thuế sản phẩm trừ đi trợ cấp sản phẩm
chiếm 10%. Đồng thời, cơ cấu xã hội cũng đạt được mục tiêu: 45% dân cư sinh
sống tại đô thị và 55% sinh sống tại khu vực nông thôn [53]. Chương trình chuyển
88
đổi cơ cấu kinh tế, xã hội này có tác động vĩ mô rất lớn đến phòng ngừa THTP về
môi trường. Cụ thể, việc gia tăng đóng góp GRDP của các ngành công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ và thuế sản phẩm đồng thời sẽ gia tăng lực lượng lao động trong các
lĩnh vực này. Từ đó giải quyết được vấn đề thất nghiệp. Đồng thời, việc giảm cơ
cấu của các ngành nghề như nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp… sẽ giảm quy
mô của các ngành nghề kể trên. Đây là nhóm ngành nghề có tỷ lệ tội phạm về môi
trường cao nhất. Bên cạnh đó, việc thay đổi cơ cấu dân cư giữa thành thị và nông
thôn cũng có ý nghĩa trong giảm thiểu THTP về môi trường do trên thực tiễn, tỷ lệ
tội phạm về môi trường ở nông thôn cao hơn so với khu vực thành thị.
- Chương trình đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn.
Đây là biện pháp phòng ngừa THTP nói chung và THTP về môi trường nói riêng vì
giải quyết được vấn đề căn cơ là tình hình thất nghiệp của bộ phận thanh niên nông
thôn. Biện pháp này được triển khai trên cơ sở sự phối hợp của Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội với Tỉnh Đoàn Hà Tĩnh. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn
vốn, chương trình đào tạo và đầu ra cho lao động, còn có sự tham gia của các tổ
chức phi chính phủ, các doanh nghiệp đang đóng trên địa bàn và đại diện các làng
nghề. Phương thức hoạt động của đào tạo nghề và giới thiệu việc làm là “cầm tay
chỉ việc” với tính chất miễn phí. Nghĩa là các thanh niên nông thôn thuộc đối tượng
tham gia của chương trình sẽ được tài trợ tiền học, các lớp sẽ được tổ chức ngay tại
địa phương hoặc ngay tại doanh nghiệp bao tiêu việc làm đầu ra. Chương trình sẽ
được các đối tác biên soạn phù hợp với yêu cầu và tính chất công việc đầu ra của
công ty, doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, tựu chung lại các chương trình đều đào tạo kỹ
năng thực hành để người được đào tạo có thể làm việc ngay sau khi tốt nghiệp khoá
đào tạo. Thực hiện biện pháp này đảm bảo vừa giúp thanh niên nông thôn có được
những kiến thức ngành nghề miễn phí mà còn đảm bảo được công việc ổn định, cải
thiện được đời sống kinh tế và từ đó cải thiện được tư duy của các thế hệ sau này.
Đồng thời cũng sẽ làm giảm đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường xuống do
trên thực tế đây là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu số người bị
khởi tố vì các hành vi phạm tội về môi trường.
- Chương trình hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ con giống, cây giống và kỹ thuật nuôi
trồng, canh tác cho phụ nữ nông thôn. Đây là biện pháp có tính chất giống với đào
tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ đối
tượng hướng tới của chương trình là phụ nữ nông thôn và mục tiêu tạo ra điều kiện
89
làm việc tại chỗ cho họ. Biện pháp này được chủ trì thực hiện bởi Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội và Hội Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh. Bên cạnh đó, nguồn lực của
chương trình bao gồm vật lực, nhân lực và trí lực được tài trợ bởi Ngân hàng Châu
Á và các tổ chức phi lợi nhuận khác. Phụ nữ nông thôn sẽ được tiếp cận vay vốn với
lãi suất 0% trong từ 10 đến 20 năm để đầu tư phát triển nông nghiệp và thủ công
nghiệp. Ngoài ra, hàng năm các gói tài trợ cũng sẽ cung ứng vật nuôi giống như: gà,
lợn, bò, dê… và cây trồng giống như: cỏ sữa, ngô cao sản, dâu tằm, vú sữa hoàng
kim, lạc cao sản… Biện pháp này giúp cho người phụ nữ nông thôn ổn định sản
xuất, kinh doanh và ổn định đời sống kinh tế, tư duy và hoạt động kinh tế khai thác
môi trường tự nhiên từ đó cũng có xu hướng giảm đáng kể.
- Chương trình sản xuất nông nghiệp khép kín. Đây là chương trình mang đến
nhiều thay đổi cho bộ mặt kinh tế nông thôn, khi đã giúp người dân giàu lên nhờ
canh tác nông nghiệp, từ đó gắn bó chặt chẽ hơn với hoạt động sản xuất thay vì phụ
thuộc vào đời sống kinh tế môi trường tự nhiên. Đặc biệt giảm thiểu rõ rệt một bộ
phận dân cư lệ thuộc vào kinh tế rừng. Chương trình này được triển khai chủ yếu ở
các huyện miền núi trên địa bàn tỉnh với nội dung: chính quyền sẽ đứng ra làm
trung gian liên kết giữa nông dân và nhà máy, theo đó nhà máy sẽ cung cấp giống,
thuốc bảo vệ thực vật và quy trình canh tác. Nông dân sẽ tiến hành canh tác theo
đúng quy trình và thu hoạch, bán lại cho nhà máy với giá đã ký kết mà không phụ
thuộc vào giá cả thị trường tại thời điểm bán. Quy trình khép kín này giúp người
nông dân không cần nguồn vốn để sản xuất, đồng thời cũng không lo đầu ra cho sản
phẩm cũng như những biến động khác của thị trường. Nhà máy cũng được lợi khi
có nguồn cung đầu vào ổn định và kiểm soát được chất lượng nhờ tự đề ra quy trình
canh tác và cung ứng thuốc bảo vệ thực vật. Chương trình này sẽ giúp đời sống kinh
tế của nông dân được đảm bảo, đồng thời việc canh tác yêu cầu tập trung, khiến cho
người dân không còn ý định về khai thác môi trường tự nhiên và cũng có ý thức
BVMT canh tác nông nghiệp.
- Bên cạnh các chương trình phát triển kinh tế, xã hội nhằm phòng ngừa về lâu
dài THTP về môi trường, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội còn xây dựng
các biện pháp ngắn hạn, chủ yếu khắc phục những thiếu thốn vật chất của người dân
trong những giai đoạn nhất định như: Chương trình “Tết vì người nghèo” được xây
dựng với kế hoạch thường niên nhằm trợ giúp người nghèo về vật chất và tinh thần
đón Tết Nguyên đán hàng năm. Biện pháp này có ý nghĩa giúp khắc phục được sự
90
túng quẫn tạm thời ở thời điểm Tết Nguyên đán, tránh việc người dân khai thác môi
trường tự nhiên để tìm kiếm sinh kế; Chương trình xây dựng nhà tình nghĩa;
Chương trình cứu trợ lương thực và đồ dùng cá nhân khi có thiên tai; Chương trình
“Áo ấm mùa đông”… Các chương trình mặc dù có nhiều nội dung và cách thức
triển khai khác nhau, nhưng tựu chung lại hướng tới cải thiện đời sống vật chất của
người dân để giảm bớt sự lệ thuộc vào môi trường tự nhiên, đồng thời cũng giúp
củng cố niềm tin của người dân vào chính quyền, từ đó tạo ra những tiền đề tích cực
cho triển khai các biện pháp nghiệp vụ phòng ngừa THTP về môi trường.
Thứ hai, biện pháp văn hoá - tư tưởng. Đây là các biện pháp được xây dựng
nhằm nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị và người dân trong phòng ngừa
THTP về môi trường. Cụ thể, đối với hệ thống chính trị là các cơ quan quản lý nhà
nước nói chung và các cơ quan, tổ chức chuyên trách và các cơ quan bảo vệ pháp
luật duy trì được nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường với các nội dung
như: tính cần thiết, trách nhiệm phòng ngừa, nguyên tắc phòng ngừa và các biện
pháp phòng ngừa. Chính những nhận thức này là cơ sở để các cơ quan, tổ chức và
cá nhân có thẩm quyền thực hiện phòng ngừa hiệu quả theo quy định của pháp luật.
Đối với người dân là cá nhân, cộng đồng xã hội hay các tổ chức doanh nghiệp,
HTX, tổ chức, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh… có được những nhận thức đầy đủ
về BVMT, về hậu quả của việc xâm phạm môi trường và ý nghĩa của công tác
phòng ngừa THTP về môi trường để kiềm chế các hành vi tiêu cực, tích cực chấp
hành pháp luật, từ đó hạn chế, đi đến loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật nói
chung và hành vi phạm tội về môi trường nói riêng. Các biện pháp này được xây
dựng thành hai nhóm biện pháp nhỏ gồm: Biện pháp thông qua các hoạt động văn
hoá, giáo dục và Biện pháp thông qua hoạt động tuyên truyền:
- Biện pháp thông qua các hoạt động văn hoá, giáo dục: các biện pháp thuộc
nhóm này được xây dựng nhằm mục đích sử dụng phương tiện là các hoạt động văn
hoá và giáo dục để chuyển tải các thông tin, tri thức về BVMT và phòng ngừa
THTP về môi trường ở nghĩa ngắn hạn. Đồng thời dài hơn, các biện pháp này
hướng tới tích cực tổ chức các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm nâng cao dân trí
nói chung, từ đó cải biến tư duy của các thế hệ công dân sau này. Sự nâng cao về
dân trí sẽ đảm bảo phòng ngừa THTP nói chung và tội phạm về môi trường nói
riêng trở nên tự thân và hiệu quả hơn. Các biện pháp này bao gồm:
+ Tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hoá, văn nghệ cộng đồng có nội dung
91
về BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường như: các hội diễn văn nghệ tại
trường học, khu dân phố, xí nghiệp, cộng đồng dân cư… Các hoạt động này không
chỉ thu hút các thành viên tham gia mà còn có ý nghĩa rất lớn khi tạo ra được hiệu
ứng nhận thức rất lớn đối với người xem.
+ Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi sáng kiến, thi chế tạo phương tiện kỹ
thuật, công nghệ mới an toàn với môi trường, xử lý tình trạng ô nhiễm môi
trường… các cuộc thi này được tổ chức trong trường học các cấp, đặc biệt là các
trường đào tạo nghề như: Cuộc thi tìm hiểu về pháp luật về BVMT trong các trường
Trung học trên địa bàn tỉnh, Cuộc thi Ý tưởng xe xanh được tổ chức trong khối các
trường đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh; Cuộc thi viết thư về chủ đề biến đổi khí hậu
trong các tổ chức Đoàn Thanh niên trên địa bàn tỉnh… Các cuộc thi này có đặc
điểm thu hút được nhiều người tham gia do có cơ cấu giải thưởng hấp dẫn, đồng
thời cũng được thu phát sóng, đưa tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng
của tỉnh một cách khoa học, bài bản.
+ Tổ chức các lớp cập nhật kiến thức pháp lý, kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà
nước về môi trường phù hợp với từng nhóm đối tượng: cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành, lực lượng cảnh sát, lực lượng kiểm lâm và các cơ quan tư pháp…
Các lớp bồi dưỡng được tiến hành thông qua Sở Nội vụ và thông qua hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ của hệ thống ngành dọc. Các lớp này được triển khai với hai nội
dung cơ bản: thứ nhất, cập nhật quan điểm, tư tưởng, nhận thức chính trị về công
tác phòng ngừa THTP về môi trường và cập nhật các quy định của pháp lý về các
nội dung liên quan đến phòng ngừa THTP về môi trường; thứ hai, các lớp tập huấn
chuyên sâu kỹ năng nghiệp vụ về phòng ngừa THTP về môi trường cho từng nhóm
đối tượng riêng biệt như: cảnh sát, kiểm lâm, kiểm sát viên… Cả hai dạng lớp kể
trên được xây dựng kế hoạch thường niên và đột xuất. Trong đó các lớp đột xuất
được bố trí chủ yếu là những lớp cập nhật pháp lý.
+ Tổ chức lồng ghép các kiến thức giáo dục về môi trường, BVMT và phòng
ngừa THTP về môi trường trong các trường học, các cấp học. Đây là phương pháp
nhằm xây dựng nhận thức và ý thức của thế hệ trẻ về phòng ngừa THTP về môi
trường. Việc lồng ghép được thực hiện bằng các giờ sinh hoạt công dân, ngoại khoá
hoặc các hoạt động giáo dục bằng thăm quan thực tiễn. Tuỳ vào từng cấp học sẽ có
những nội dung lồng ghép khác nhau, nhưng chú trọng vào các đối tượng là học
92
sinh trung học phổ thông và sinh viên các trường đào tạo nghề.
+ Tổ chức các phiên toà lưu động tại những nơi là điểm nóng của THTP về
môi trường. Đây là biện pháp giáo dục mang tính răn đe thiết thực nhất đối với nhận
thức của cộng đồng. Các vụ án được lựa chọn là những vụ án mang tính “điểm” với
hành vi phạm tội là hành vi phổ biến hoặc các hành vi đặc biệt nguy hiểm đối với
vấn đề BVMT. Phiên toà lưu động sẽ được xét xử tại sân UBND xã, hoặc sân bãi
của các nhà văn hoá thôn, bản. Tuỳ vào tính chất vụ án, thành phần dự thính phù
hợp sẽ được huy động tham gia, ví dụ vụ án do người chưa thành niên thực hiện sẽ
phù hợp cho việc giáo dục nhận thức của bộ phận học sinh, sinh viên và gia đình;
vụ án có tội danh Huỷ hoại rừng sẽ huy động những người hoạt động kinh tế nương
rẫy, có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến rừng, đặc biệt là rừng tự
nhiên…
- Biện pháp thông qua hoạt động tuyên truyền. Đây là nhóm các biện pháp
phòng ngừa THTP về môi trường thông qua hoạt động tuyên truyền để nâng cao
nhận thức, quan điểm và ý thức của người dân, của xã hội đối với vấn đề phòng
ngừa THTP về môi trường. Các biện pháp cụ thể được xây dựng bao gồm:
+ Phát thanh và truyền hình thường xuyên theo kế hoạch hằng năm các bản
tin, phim tài liệu về BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường. Đây là biện pháp
được giao cho đài truyền hình và phát thanh của tỉnh và các huyện. Nội dung các
bản tin, phim tài liệu bao gồm: các điển hình trong vi phạm pháp luật về BVMT;
các tấm gương điển hình trong phòng ngừa THTP về môi trường; phim tài liệu về
quá trình tố tụng một vụ án điển hình về môi trường… Trong đó, biện pháp truyền
hình dựa trên kênh truyền hình địa phương HTTV (Hà Tĩnh Tivi) và biện pháp phát
thanh dựa vào hệ thống phát thanh xã, phường được triển khai rộng rãi và triệt để.
Các khung giờ phát thanh cũng được lựa chọn hợp lý và được lặp lại để đảm bảo
bao phủ được tối đa các đối tượng hướng tới.
+ Tổ chức hội thảo khoa học, mít tinh, cổ động về vấn đề BVMT và phòng
ngừa THTP về môi trường. Các biện pháp này được giao cho khối các tổ chức chính
trị - xã hội và khối các trường học. Cụ thể, hàng năm các tổ chức chính trị - xã hội
phối hợp cùng các cơ quan chuyên môn tổ chức hội thảo về BVMT nhằm tuyên
truyền giá trị của việc BVMT đến các thành viên của tổ chức và cộng đồng. Đối với
các trường học, tuỳ vào cấp học sẽ tổ chức mít tinh hoặc cổ động về nội dung
BVMT. Cổ động thường được sử dụng nhiều với phương thức tuần hành trong khu
93
dân cư. Các hoạt động này có giá trị tuyên truyền rộng, góp phần chuyển tải các nội
dung nhận thức liên quan đến BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh cho nhiều đối tượng khác nhau trong cộng đồng.
+ Treo băng rôn, khẩu hiệu, xây dựng các phù điêu tuyên truyền về BVMT và
phòng ngừa THTP về môi trường. Đây là biện pháp đã được xây dựng và áp dụng
từ rất lâu trong phòng ngừa THTP về môi trường bằng nhóm các biện pháp tuyên
truyền. Chính quyền sẽ lựa chọn các hình ảnh, câu chữ có nội dung tuyên truyền
ngắn gọn, khoa học, dễ nhớ và dễ hiểu để trình bày lên các bảng tin, băng rôn,
maket, hoặc khắc phù điêu, vẽ tranh cổ động lên tường bê tông… nhằm tuyên
truyền nội dung BVMT cũng như phòng ngừa THTP về môi trường. Ví dụ, hầu hết
bìa rừng giáp ranh với khu dân cư hiện nay đã được xây dựng tường có hình vẽ
hoặc phù điêu tuyên truyền về bảo vệ rừng, hậu quả của hành vi huỷ hoại rừng hay
các biện pháp bảo vệ rừng. Biện pháp này mặc dù không có tác dụng tức thì, song là
sự tác động lâu dài đến ý thức và tâm lý của người dân về phòng ngừa THTP về
môi trường.
3.3.1.2. Nhóm các biện pháp phòng ngừa riêng tình hình tội phạm về môi trường
Khác với nhóm các biện pháp phòng ngừa chung THTP về môi trường thường
được triển khai hướng đến nâng cao đời sống kinh tế, xã hội, nâng cao nhận thức, ý
thức của người dân về vấn đề bảo vệ rừng từ đó tác động lâu dài và tổng thể lên
nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường của người dân, xã hội và cơ quan
quản lý nhà nước, các biện pháp phòng ngừa riêng THTP về môi trường được các
cấp chính quyền tỉnh Hà Tĩnh xây dựng lại hướng tới giải quyết các vấn đề nguyên
nhân của THTP về môi trường bằng công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Cụ thể:
Thứ nhất, các biện pháp tổ chức quản lý, BVMT tự nhiên. Đây là biện pháp
nghiệp vụ được thực hiện thường xuyên gắn liền với thẩm quyền của cơ quan quản
lý hành chính nhà nước các cấp liên quan đến môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Các biện pháp này được thực hiện bởi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh,
13 Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện và công chức Địa chính - Xây dựng
và Môi trường của 126 xã trên toàn tỉnh. Ngoài ra, ứng với những nội dung khác
nhau trong công tác quản lý, BVMT tự nhiên sẽ do một số cơ quan chuyên trách
thực hiện như: Chi cục kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh thực hiện quản lý và bảo vệ rừng;
Chi cục BVMT thực hiện chức năng BVMT trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền…
Thứ hai, các biện pháp phân tích, dự báo THTP về môi trường để có được
94
những định hướng phòng ngừa chính xác và hiệu quả. Biện pháp này được thực
hiện dựa trên sự phối hợp giữa cơ quan công an và cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường.
Thứ ba, các biện pháp điều tra, trấn áp, xét xử và thi hành án tội phạm về môi
trường của cơ quan công an, kiểm sát và toà án. Đây là hoạt động trấn áp tội phạm
về môi trường nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với phòng ngừa THTP về môi
trường khi tạo ra được tính răn đe đối với xã hội.
3.3.2. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
tại tỉnh Hà Tĩnh
3.3.2.1. Thực trạng tổ chức lực lượng
Thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường trước hết phải bắt đầu bằng tổ
chức lực lượng. Theo đó, trên thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh, việc tổ chức lực lượng
này được chia làm 03 nhóm gồm: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung;
Cơ quan chuyên trách quản lý về môi trường và bảo vệ pháp luật; Tổ chức chính trị
- xã hội, người dân và các Tổ chức phi chính phủ.
a. Cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung
Cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là chủ
thể thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường gồm Uỷ ban nhân dân 03 cấp:
- UBND tỉnh Hà Tĩnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về môi trường
tại địa phương. UBND tỉnh có chức năng quản lý chung các vấn đề liên quan đến
thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh. Hiện nay trong cơ
cấu tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Hà Tĩnh đã phân công 01 Phó Chủ tịch
UBND trực tiếp phụ trách vấn đề môi trường nói chung và phòng ngừa THTP về
môi trường nói riêng trên địa bàn tỉnh.
- Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về môi
trường theo sự phân cấp của UBND tỉnh. UBND các huyện có chức năng quản lý
chung các vấn đề liên quan đến phòng ngừa THTP về môi trường trên phạm vi địa
giới huyện, phối hợp cùng các cơ quan chức năng cấp tỉnh tiến hành triển khai thực
hiện các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn huyện. Hiện nay
tỉnh Hà Tĩnh có 13 UBND cấp huyện. Mỗi UBND cấp huyện cũng phân công một
Phó Chủ tịch UBND trực tiếp phụ trách vấn đề môi trường nói chung và phòng
95
ngừa THTP về môi trường nói riêng trên địa bàn huyện.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về môi
trường theo sự phân cấp của UBND huyện. UBND các xã có chức năng quản lý
các vấn đề liên quan đến ngừa THTP về môi trường trên phạm vi địa giới của xã,
phối hợp cùng cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức triển khai thực
hiện các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn xã. Hiện nay tỉnh
Hà Tĩnh có 126 UBND cấp xã, mỗi UBND xã phân công một Phó Chủ tịch UBND
trực tiếp phụ trách vấn đề môi trường nói chung và phòng ngừa THTP về môi
trường nói riêng trên địa bàn xã.
b. Cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về môi trường và cơ quan bảo vệ
pháp luật
Cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về môi trường bao gồm các cơ quan
được giao thực hiện chức năng chuyên môn quản lý nhà nước về môi trường tại ba
cấp chính quyền địa phương tỉnh Hà Tĩnh bao gồm:
Thứ nhất, Sở Tài nguyên và Môi trường. Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ
quan chuyên môn của UBND tỉnh Hà Tĩnh, thực hiện quản lý nhà nước về môi
trường nói chung và vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng. Đây là cơ
quan tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện công tác quản lý nhà nước về môi
trường nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng. Nhiệm vụ tổ chức
thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường được giao cho Chi cục BVMT của tỉnh
với 12 nhân sự. Một Phó Giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường được phân công
phụ trách công tác phòng ngừa THTP về môi trường. [31]
Thứ hai, Phòng Tài nguyên và Môi trường của 13 cấp huyện là cơ quan
chuyên môn của UBND 13 cấp huyện tại tỉnh Hà Tĩnh. Đây là cơ quan quản lý nhà
nước thẩm quyền riêng, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND cấp huyện về
công tác quản lý nhà nước về môi trường nói chung và phòng ngừa THTP về môi
trường nói riêng. Công tác phòng ngừa THTP về môi trường được giao cho Tổ
Môi trường thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường phụ trách. Tổ này được cơ cấu
trung bình 03 nhân sự và phân công 01 Phó Trưởng phòng trực tiếp phụ trách công
tác phòng ngừa THTP về môi trường. [31]
Thứ ba, công chức Địa chính - Xây dựng và Môi trường. Đây là chức danh
chuyên môn tại UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề
môi trường. Công chức Địa chính - Xây dựng và Môi trường thực hiện tham mưu
96
cho Chủ tịch UBND cấp xã trong quản lý nhà nước về môi trường và phối hợp
thực hiện các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường cùng các cơ quan quản
lý nhà nước và cơ quan chuyên trách cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn xã. Hiện
nay với 126 đơn vị hành chính cấp xã, có 208 công chức Địa chính - Xây dựng và
Môi trường. [31]
Bên cạnh các cơ quan kể trên, UBND cấp tỉnh và cấp huyện còn tổ chức một
số các cơ quan chuyên môn khác cũng là chủ thể thực hiện phòng ngừa THTP về
môi trường như Chi cục và các Hạt kiểm lâm; các Ban Quản lý rừng; Ban Quản lý
di sản…
Cơ quan bảo vệ pháp luật là những cơ quan có chức năng trọng tâm trong phòng
ngừa THTP về môi trường với các cơ quan như: Cảnh sát, Kiểm sát và Toà án.
Thứ nhất, lực lượng cảnh sát môi trường. Đây là lực lượng chủ yếu thực hiện
phòng ngừa THTP về môi trường, trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động phòng
ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung)
và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội
phạm. Lực lượng cảnh sát môi trường tỉnh Hà Tĩnh gồm Phòng Cảnh sát môi
trường thuộc Công an tỉnh và 13 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế và chức vụ. Trong đó Phòng Cảnh sát môi trường tỉnh có 12 nhân sự với cơ
cấu: 01 trưởng phòng, 01 phó phòng và 10 cán bộ, chiến sĩ. Trong đó về trình độ
có 05 Đại học Công an; 02 Đại học ngành ngoài và 05 Trung cấp. Theo quy định
của Bộ Công an về tổ chức đơn vị phải có 03 đội công tác, song trên thực tế phòng
chỉ có 02 đội và mới bổ sung thêm được 01 đội trưởng. [26]
Đối với lực lượng tại 13 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh
tế và chức vụ, quân số mỗi đội từ 6 đến 8 nhân sự. Trong đó mỗi đội phân công từ
01 đến 03 cán bộ, chiến sĩ phụ trách công tác môi trường nói chung và phòng ngừa
THTP về môi trường nói riêng.
Ngoài ra với sự chính quy hoá lực lượng công an cấp xã, lực lượng này cũng
đang đóng vai trò là chủ thể quan trọng trong phòng ngừa THTP về môi trường tại
các xã.
Thứ hai, lực lượng kiểm sát. Lực lượng này thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục,
cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố. Lực lượng kiểm sát bao gồm 01 VKSND
cấp tỉnh và 13 VKSND cấp huyện. Tại VKSND cấp tỉnh, Phòng THQCT, KSĐT
97
và KSXXST án hình sự về kinh tế và chức vụ được giao thực hiện các chức năng
nghiệp vụ trong phòng ngừa THTP về môi trường. Nhân sự của Phòng hiện có 17
người, trong đó có 02 người được giao trực tiếp phụ trách lĩnh vực môi trường.
[59]
Đối với VKSND cấp huyện, không có bộ phận chuyên trách về công tác phòng
ngừa THTP về môi trường. Nhiệm vụ này sẽ được giao cho từ 01 đến 02 kiểm sát
viên phụ trách. Trong 13 VKSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh có 19 kiểm sát viên phụ
trách công tác phòng ngừa THTP về môi trường.
Thứ ba, lực lượng toà án. Toà án tham gia vào phòng ngừa THTP về môi
trường một cách không trực tiếp. Nghĩa là, bằng chính hoạt động xét xử của mình,
Toà án sẽ tạo ra được những giá trị răn đe đối với những đối tượng có ý định phạm
tội về môi trường, qua đó góp phần gián tiếp vào công tác phòng ngừa tội phạm
này trên địa bàn tỉnh. Do đó, trong cơ cấu của ngành toà án không có cơ quan
chuyên trách hay các cá nhân phụ trách tham gia phòng ngừa THTP về môi trường.
c. Các Tổ chức chính trị - xã hội, trường học, người dân và Tổ chức phi
chính phủ
Bên cạnh các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường kể trên, các
bên liên quan trong thực hiện chính sách BVMT còn bao gồm: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các Tổ chức chính trị - xã hội và các cá nhân, tổ chức xã hội liên quan
trực tiếp đến hoạt động BVMT. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Tổ
chức chính trị - xã hội là những tổ chức có chức năng chủ yếu tuyên truyền phòng
ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh.
Hệ thống trường học với 208 trường tiểu học, 197 trường trung học cơ sở và
22 trường trung học phổ thông, 2 trường trung cấp, 2 trường cao đẳng và 2 trường
đại học cũng tham gia vào công tác phòng ngừa THTP về môi trường với phương
thức chủ yếu là giáo dục, tuyên truyền ý thức tuân thủ pháp luật về BVMT cho học
sinh, sinh viên. [33]
Người dân và đại diện cộng đồng dân cư cũng đóng vai trò quan trọng trong
phòng ngừa THTP về môi trường. Cụ thể, đại diện cộng đồng dân cư trên địa bàn
chịu tác động môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quyền yêu cầu
chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cung cấp thông tin về BVMT thông qua
đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản; tổ chức tìm hiểu thực tế về công tác BVMT
của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thu thập, cung cấp thông tin cho cơ quan
98
có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin cung cấp; có quyền yêu cầu cơ
quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý đối
với cơ sở; có quyền tham gia đánh giá kết quả BVMT của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ; thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng
dân cư theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động
trong lĩnh vực BVMT cũng có vai trò trong phòng ngừa THTP về môi trường.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có các tổ chức NGo tham gia vào hoạt động này gồm:
WildAct; AnimalsAsia; WWF Vietnam; WildAid và Tổ chức Hành động vì môi
trường (AFEO).
3.3.2.2. Thực trạng thực hiện các biện pháp phòng ngừa
Việc tổ chức các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường đã được triển
khai trên thực tiễn ở nhiều nội dung và phạm vi khác nhau. Thực trạng được phản
ánh cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội. Sau 10 năm triển
khai nhiều dự án, chương trình, kết quả đạt được gồm:
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế: tính đến năm 2019, cơ cấu kinh tế trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh được duy trì theo tỷ lệ: Khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn chiếm
tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế Hà Tĩnh 2019 với tỷ lệ 43,22%. Tiếp đó là khu vực
dịch vụ chiếm 34,24%, khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 13,63% và thuế
sản phẩm trừ đi trợ cấp sản phẩm chiếm 8,91%. [53]
- Chuyển đổi cơ cấu dân cư: tính đến năm 2019, cơ cấu dân cư trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh được duy trì theo tỷ lệ: 22% dân số làm việc trong lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng; 8% làm việc trong lĩnh vực dịch vụ; và 60% làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản và 10% làm việc trong các lĩnh vực
khác. Tỷ lệ dân cư sinh sống tại nông thôn và thành thị lần lượt là 76% và 24%.[53]
- Các chương trình đào tạo nghề và giới thiệu việc làm: trong 10 năm từ 2010 đến
2019, toàn tỉnh Hà Tĩnh tổ chức được 1.023 lớp đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn
và phụ nữ nông thôn. Giới thiệu việc làm cho 22.018 thanh niên nông thôn. Hỗ trợ giải
ngân 108 tỷ đồng nguồn vốn không lợi nhuận cho 18.777 phụ nữ nông thôn. [53]
- Các chương trình giáo dục, đào tạo: tỷ lệ trẻ em dưới 18 tuổi đến trường
chiếm 89%, trong đó tỷ lệ người biết chữ đạt 93%. Tỷ lệ thanh niên sau 18 tham gia
học nghề bao gồm từ trình độ trung cấp đến đại học đạt 17%. [54]
Thứ hai, các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Từ năm 2010 đến
99
2019, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội và trường học đã
tổ chức được 1.038 đợt tuyên truyền bằng nhiều hình thức về chủ đề môi trường. Trong
đó cụ thể các tổ chức, cơ quan tổ chức được các hoạt động tuyên truyền như sau:
- Các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường cấp tỉnh đã tổ chức được 13 hội
thảo về vấn đề môi trường. 6 hoạt động lấy ý kiến đóng góp về hoàn thiện thể chế
pháp lý về BVMT. Thường niên tổ chức lễ ra quân hưởng ứng tháng hành động vì
môi trường. [53]
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật: lực lượng công an tỉnh Hà Tĩnh và các huyện
đã tổ chức trên 200 buổi phổ biến và giáo dục pháp luật về BVMT cho các trường
học, trường giáo dưỡng và cộng đồng dân cư; 23 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và cập
nhật kiến thức về phòng ngừa THTP cho nội bộ ngành. Hằng năm lực lượng công
an tổ chức các tháng ra quân phòng ngừa THTP về môi trường, các cán bộ, chiến sĩ
được phân công thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường thực hiện công tác tuần
tra, điều tra, trinh sát… thường xuyên về vấn đề môi trường; lực lượng kiểm sát đã
tổ chức được 11 đợt phổ biến pháp luật và tập huấn nghiệp vụ, đồng thời những cán
bộ phụ trách phòng ngừa THTP về môi trường phối hợp cùng lực lượng chức năng
triển khai thường niên tháng ra quân BVMT; lực lượng toà án 2 cấp tỉnh và huyện
đã tổ chức 6 phiên toà lưu động về môi trường tại các địa phương là điểm nóng về
THTP về môi trường. [33]
- Các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và Hội Nông dân các cấp thuộc tỉnh Hà Tĩnh cũng
tích cực tham gia phòng ngừa tội phạm về môi trường với tổng cộng 318 hoạt động
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT và 12 lớp bồi dưỡng kỹ năng thuyết
phục, tuyên truyền cho các thành viên. [53]
- Các trường học tổ chức được 138 cuộc thi sáng tạo, nghệ thuật về môi
trường, 111 các hoạt động mít tinh, cổ động… tuyên truyền về phòng ngừa THTP
về môi trường. [53]
Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy mức độ hài lòng về chất lượng và phương
tiện tuyên truyền, phổ biến phòng ngừa THTP về môi trường được thể hiện tại Bảng
3 và Bảng 4 – Phụ lục 01. [53]
Thứ ba, các biện pháp nghiệp vụ khác của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Lực lượng cảnh sát môi trường tỉnh Hà Tĩnh trong 10 năm đã phát hiện và xử
lý 13.086 vụ, việc vi phạm pháp luật về BVMT, trong đó chuyển xử lý hình sự 229
vụ và xử lý hành chính gần 13.000 vụ. Đây là hoạt động có ý nghĩa tích cực trong
100
răn đe THTP về môi trường. [25]
- Lực lượng kiểm sát đã khởi tố 229 vụ án hình sự về môi trường và thực hành
quyền công tố về các tội danh khác nhau. [58]
- Toà án nhân dân cấp tỉnh và huyện cũng đã xét xử 229 vụ án hình sự về môi
trường, tuyên phạt các mức từ tù treo đến trên 17 năm tù. [34]
3.4. Đánh giá kết quả đạt đƣợc, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
3.4.1. Kết quả đạt được
Bằng các biện pháp khác nhau và sự thống nhất thực hiện của các chủ thể,
công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010
- 2019 đã đạt được một số kết quả nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với công tác xây dựng và triển khai các biện pháp phòng ngừa.
Có thể nói, các phương pháp phòng ngừa THTP về môi trường được triển khai trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010 - 2019 có tính đa dạng, đầy đủ và có tính khoa
học cao. Các phương pháp đa dạng ở nhiều lĩnh vực, nhiều góc độ đối tượng tiếp
cận từ phương pháp giáo dục, thuyết phục đến thực hiện quản lý vào BVMT của cơ
quan chức năng. Các phương pháp cũng đầy đủ và khoa học nhờ sự đan xen giữa
các giải pháp có tính dài hạn, phòng ngừa từ gốc rễ của nguyên nhân THTP về môi
trường như giải pháp phát triển kinh tế, xã hội… đến các giải pháp ngắn hạn như
răn đe, cưỡng chế… Các phương pháp này được triển khai theo tuần tự có hệ thống,
bổ trợ cho nhau nhằm hướng đến mục tiêu phòng ngừa THTP về môi trường một
cách bền vững và hiệu quả.
Thứ hai, đối với công tác tổ chức các lực lượng phòng ngừa. Các lực lượng
tham gia phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có tính đa
dạng, trong đó đã chú trọng đến lực lượng xã hội với tư cách vừa là đối tượng thụ
hưởng chính từ các lợi ích của môi trường, vừa là chủ thể chiếm đa số thực hiện các
hành vi xâm phạm môi trường và vừa là chủ thể tích cực của công tác phòng ngừa
THTP về môi trường. Sự tham gia của cả hệ thống chính trị và xã hội vào công tác
phòng ngừa THTP về môi trường đã tạo ra được những hiệu ứng tích cực về quyết
tâm đẩy lùi và loại bỏ THTP này trong thực tiễn xã hội.
Thứ ba, đối với các công tác phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người dân. Trong 10 năm qua, chính quyền các cấp của tỉnh
Hà Tĩnh đã có những nỗ lực trong việc xây dựng và triển khai các dự án, chương
101
trình phát triển đời sống vật chất và tinh thần cho người dân trên địa bàn tỉnh. Kết
quả cho thấy diện mạo đời sống kinh tế đã thay đổi, nhiều chỉ tiêu trong chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, dân cư đã đạt được mục tiêu sớm và có những chuyển biến tích cực,
đời sống tinh thần của người dân cũng dần cải thiện theo hướng xoá bỏ các hủ tục,
phong tục, tập quán lạc hậu, triển khai nhiều hoạt động văn hoá, giáo dục cộng đồng
góp phần nâng cao dân trí. Về cơ bản, một bộ phận lớn người dân đã thực sự thụ
hưởng được các giá trị của những chính sách, chương trình nâng cao đời sống kinh
tế, xã hội. Từ đó ổn định cuộc sống, thay đổi nhận thức, thay đổi phương thức canh
tác, phương thức sản xuất, kinh doanh theo hướng tôn trọng và BVMT tự nhiên.
Trong dài hạn, giá trị này sẽ ngày càng được xây dựng và hoàn thiện, góp phần rất
lớn, đòng vai trò quyết định vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh.
Thứ tư, đối với công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao nhận
thức và bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa.
Việc thống nhất nhận thức và kỹ năng phòng ngừa THTP về môi trường trong hệ
thống chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tuy chưa đạt được những kết quả
tốt nhất, song trong giai đoạn 2010 - 2019 cũng đã có những chuyển biến theo
hướng tích cực. Theo đó, nhận thức của chính quyền và xã hội về BVMT và phòng
ngừa THTP về môi trường đã ngày càng rõ nét và đầy đủ. Đặc biệt nhận thức của
thế hệ sau về phòng ngừa THTP về môi trường có nhiều tiến bộ hơn so với thế hệ
trước. Bên cạnh đó, công tác nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường,
cơ quan bảo vệ pháp luật… về phòng ngừa THTP về môi trường cũng không ngừng
được cải thiện, nhiều trang thiết bị kỹ thuật được áp dụng trong phòng ngừa THTP về
môi trường được làm chủ và bước đầu đã mang đến những hiệu quả tích cực.
3.4.2. Tồn tại, hạn chế
Tuy đạt được những kết quả như trên, song xét đến cùng, hiệu quả của công
tác phòng ngừa THTP về môi trường phải được xét trên cơ sở biến động giảm của
THTP về môi trường. Tuy nhiên thực tế THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh như đã phân tích tại ở mục 2.1 lại có xu hướng gia tăng đều qua các năm trong
giai đoạn 2010 - 2019. Đây là kết quả của những hạn chế trong phòng ngừa THTP
về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 10 năm qua. Cụ thể:
Thứ nhất, một số nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường đã không được
tuân thủ triệt để. Trên thực tế thực hiện công tác phòng ngừa THTP về môi trường
102
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, một số nguyên tắc đã không được tuân thủ triệt để. Cụ
thể, nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, nhanh chóng và có hiệu quả đã không được tuân thủ khi công tác
phòng ngừa còn gián đoạn, theo phong trào và còn chậm triển khai ở một số địa
bàn. Chính vì thế, hệ quả là tính hiệu quả của công tác phòng ngừa không cao, gây
lãng phí, bệnh thành tích và hình thức trong công tác phòng ngừa THTP về môi
trường; nguyên tắc đảm bảo hài hoà giữa lợi ích kinh tế và bảo đảm môi trường
cũng chưa được tuân thủ khi còn nhiều trường hợp ưu tiên tính kinh tế mà xem nhẹ
vấn đề BVMT. Đặc biệt, tại các khu công nghiệp, nhà máy, các tổ chức sản xuất,
kinh doanh vấn đề tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về BVMT
và phòng ngừa THTP về môi trường chưa được chú trọng, những lợi ích kinh tế,
tiêu cực của thị trường chi phối nhận thức khiến cho hành vi phạm tội về môi
trường không những không thuyên giảm mà còn có xu hướng gia tăng; nguyên tắc
thực hiện phòng ngừa hiệu quả từ cấp cơ sở, huy động sức mạnh nhân dân vào công
tác phòng ngừa cũng chưa được vận dụng và tuân thủ tuyệt đối khi hiệu quả của
công tác phòng ngừa ở cấp cơ sở chưa mang đến nhiều kết quả tích cực, người dân
còn thờ ơ với công tác phòng ngừa THTP về môi trường và cho rằng đây là nhiệm
vụ của riêng cơ quan quản lý nhà nước. Ba nguyên tắc kể trên vốn là ba giá trị cốt
lõi trong thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường, song trên thực tế đã chưa
được vận dụng và tuân thủ tuyệt đối. Chính vì thế, đây có thể xem là hạn chế mang
tính tiền đề, ảnh hưởng đến các hạn chế khác của công tác phòng ngừa THTP về
môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Thứ hai, các biện pháp phòng ngừa đã không được triển khai hiệu quả. Mặc dù
số lượng các biện pháp phòng ngừa đa dạng, nhưng trên thực tế đã không mang lại
những hiệu quả như mong đợi.
- Nhóm các biện pháp phát triển kinh tế, xã hội mặc dù đã đem đến nhiều
chuyển biến trong diện mạo đời sống kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tĩnh, song chỉ ở giới
hạn nhất định. Có những cộng đồng dân cư không chịu sự tác động tích cực hoặc
chịu sự tác động rất nhỏ của các chương trình, dự án. Do vậy, về cơ bản đời sống
dân cư vẫn còn nhiều khó khăn cả ở vật chất lẫn tinh thần. Nguyên nhân chủ yếu
đến từ các hoạt động phòng ngừa trong hoạch định và thực hiện các chính sách kinh
tế - xã hôi, trong xây dựng và thực hiện các dự án còn hạn chế. Ví dụ: Trong
Chương trình xoá đói giảm nghèo, vì nặng vấn đề thành tích nên rất nhiều trường
103
hợp thoát nghèo theo kiểu “chín ép”, khiến cho tình trạng tái nghèo diễn ra phổ
biến. Khi bị bần cùng hoá trở lại, sinh kế duy nhất của nhóm người này lại là hoạt
động khai thác tự nhiên. Chính sách nông thôn mới cũng gặp những vấn đề tương tự
về bệnh thành tích và việc phát triển không cần bằng các nội dung của chương trình
này. Đặc biệt, vấn đề môi trường trong xây dựng nông thôn mới hiện nay không
đảm bảo thực chất hoặc không bền vững, do được trụ đỡ bởi các vấn đề về kinh tế
và văn hoá. Điều này rất dễ dẫn tới hình thành tâm lý ưu tiên kinh tế hơn môi
trường trong sản xuất của nông thôn mới. Chính sách đào tạo việc làm và tạo ngành
nghề mới cũng chưa đạt được tính bền vững do còn mang nặng tính phong trào.
Việc đào tạo chưa thực sự chuyên sâu do đó gây ra những khó khăn khi thực hiện,
đào tạo đại trà nên nhiều lao động bắt đầu xuất hiện tâm lý chán nản, việc hỗ trợ khi
khởi nghiệp bao gồm cả câu theo dõi kỹ thuật và bao tiêu hoặc giới thiệu đầu ra sản
phẩm của nhiều dự án bị bỏ ngõ, khiến cho người lao động rơi vào tình trạng tiến
thoái lưỡng nan, rất nhiều người đã tái bần cùng hoá do đầu tư vào xây dựng cơ sở
vật chất, thuê nhân công…
- Nhóm các dự án giáo dục cũng đã được triển khai rộng khắp, song do tính
hình thức và phong trào mà giá trị nâng cao nhận thức cho các đối tượng của các
giải pháp này cũng chưa thực sự tạo ra những giá trị đột biến. Về cơ bản, nhận thức
của người dân nói chung về tội phạm môi trường và phòng ngừa tội phạm về môi
trường vẫn còn hạn chế, nhận thức của bộ phận học sinh, sinh viên về vấn đề trên
cũng chưa đầy đủ và thiếu sự cập nhật. Vấn đề giáo dục về phòng ngừa THTP về môi
trường chủ yếu hiện nay chỉ mới đặt ra trong phạm vi nhà trường, rất thiếu các cơ chế
giáo dục ngoài nhà trường, bao gồm cả giáo dục cộng đồng và giáo dục tại gia đình. Do
đó, mặc dù có được những kết quả nhất định, song giáo dục phòng ngừa THTP về môi
trường không tác động được nhiều lên hành vi của học sinh, sinh viên do trên thực tế,
tác động từ các giá trị giáo dục ngoài nhà trường mạnh hơn và thường trực hơn.
- Nhóm các biện pháp tuyên truyền vì thiếu đột phá trong cách thức thực hiện, do
đó cũng không đem đến những hiệu quả lớn, không thực sự thu hút được sư quan tâm
của xã hội. Nhiều hoạt động tuyên truyền mang nặng tính hình thức. Ví dụ các cuộc thi
tìm hiểu được phát động trong các nhà trường và các đoàn hội thực chất là các cuộc thi
theo phong trào, để giúp đơn vị chủ quản lấy thành tích. Các đối tượng tham gia không
có thêm nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường do công việc của họ chủ yếu là
đọc chép đáp án có sẵn. Hoạt động tuyên truyền ở nhiều địa phương, đặc biệt là cấp cơ
104
sở cũng mang tính chiếu lệ khi chương trình tuyên truyền cứng nhắc do đọc lại các cơ
sở pháp lý; còn mang tính trùng lặp do sử dụng các bài tuyên truyền có sẵn, cóp nhặt
của nhau. Các khung giờ tuyên truyền cũng không hợp lý khiến cho người dân không
quan tâm. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền cũng xuống cấp,
không còn thực hiện được đúng công năng song chưa được đầu tư sửa chửa, nâng cấp
kịp thời.
- Nhóm các giải pháp nghiệp vụ cũng được triển khai theo thẩm quyền của từng
cơ quan chức năng khác nhau, song trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế lại
thiếu tính liên kết nên hiệu quả tổng thể không cao. Tình trạng bao che, bảo kê, làm
ngơ của cơ quan chức năng đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường đã
làm giảm hiệu quả của công tác phòng ngừa THTP. Các cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường từ cấp tỉnh xuống cấp xã có trình độ chuyên môn chưa vững. Đặc biệt cán
bộ cấp cơ sở quản lý về môi trường đa phần kiêm nhiệm các lĩnh vực khác do đó
không ưu tiên nghiệp vụ về quản lý môi trường. Hiện nay 100% công chức địa chính,
xây dựng và môi trường trên địa bàn tỉnh không có bằng cấp chuyên môn về quản lý
môi trường. Chủ yếu là bằng cấp về đất đai và xây dựng. Các cơ quan bảo vệ pháp luật
cũng chưa có những hoạt động tích cực trong công tác phòng ngừa THTP về môi
trường. Lực lượng cảnh sát môi trường các cấp còn bị động trong phòng ngừa, chủ yếu
tập trung vào công tác đấu tranh. Nhiều nội dung phòng ngừa không được các cơ quan
bảo vệ pháp luật chú trọng. Việc công khai, minh bạch thông tin về phòng ngừa THTP
về môi trường trên địa bàn tỉnh cũng chưa cao.
Thứ ba, các chủ thể phòng ngừa THTP về môi trường còn thiếu tính phối hợp
trong hoạt động. Mặc dù có sự phân công về nhiệm vụ dựa trên thẩm quyền của
từng cơ quan, tổ chức khác nhau, song tính liên kết, phối hợp giữa các chủ thể thực
hiện phòng ngừa THTP về môi trường mới quyết định đến thành công tổng thể của
công tác này. Tuy nhiên, đây lại là điểm hạn chế rất lớn của tỉnh Hà Tĩnh. Tình
trạng hoạt động đơn lẻ, hoặc có phối hợp, liên kết nhưng ở diện hẹp, chủ yếu được
thực hiện bởi các tổ chức chính trị - xã hội và trường học đã không tạo ra được một
hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường ở quy mô lớn, từ đó không tạo ra được
sự lan toả vấn đề cấp bách của công tác phòng ngừa THTP về môi trường trong đời
sống xã hội. Hoạt động đơn lẻ cũng khiến cho các thẩm quyền vừa bị chồng chéo,
vừa bị bỏ sót các nội dung cần triển khai phòng ngừa.
Thứ tư, việc sử dụng kinh phí phòng ngừa THTP về môi trường còn chưa hợp
105
lý. Mặc dù nguồn kinh phí cho công tác phòng ngừa THTP về môi trường ít, nhưng
cũng chưa được sử dụng hiệu quả. Cụ thể, nhiều công trình, trang thiết bị phục vụ
công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi
trường được đầu tư, xây dựng, song không khai thác hết công năng, không bảo
dưỡng, tu sửa kịp thời nên đã nhanh chóng xuống cấp, nhiều phù điêu, biểu ngữ
được bê tông hoá đã hư hỏng, sập đổ hoặc đã bị sử dụng vào mục đích khác; nhiều
loa phát thanh đã hư hỏng, không có khả năng sửa chữa; nhiều sách báo, tài liệu…
được đầu tư mua sắm bổ sung vào tủ sách của xã, phường, thôn, bản, tổ dân phố,
không được sử dụng, cũng không được bảo quản tốt nên đã xảy ra hiện tượng thất
lạc, mối mọt…; nhiều cây giống, con giống… được mua sắm và cấp phát trong các
chương trình phát triển kinh tế, xã hội… không đạt tiêu chuẩn, do đó đã không thể
sống, hoặc sống nhưng không có phẩm chất giống tốt.
Thứ năm, nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước và xã hội về phòng ngừa
THTP về môi trường chưa cao. Mặc dù là nhóm chủ thể chủ yếu thực hiện công tác
phòng ngừa THTP về môi trường, song trên thực tế nhận thức của các cơ quan quản
lý nhà nước, kể cả cơ quan thẩm quyền chung và các cơ quan chuyên trách, cơ quan
bảo vệ pháp luật về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường còn hạn chế. Cụ thể,
vẫn còn tỷ lệ lớn các cán bộ, công chức chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề BVMT và
phòng ngừa THTP về môi trường; các cơ quan thẩm quyền chung còn chưa ý thức
được hết thẩm quyền của mình trong vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường; các
cơ quan chuyên trách và cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa xác định cụ thể giới hạn
thẩm quyền của mình trong phòng ngừa THTP về môi trường nên vẫn còn tình
trạng đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm hoặc thực hiện chiếu lệ, đối phó, hình thức.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trong công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau với những phạm vi tác động lên hệ
quả khác nhau. Có thể phân tích các nguyên nhân này thành hai nhóm sau:
a. Nhóm các nguyên nhân khách quan
Nhóm các nguyên nhân khách quan là các tác động tiêu cực ngoài ý chí chủ
quan của các cấp, các ngành và xã hội về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường.
Theo đó, các nguyên nhân khách quan này bao gồm:
Thứ nhất, địa hình tự nhiên của tỉnh Hà Tĩnh đa phần là đồi núi, địa hình phức
tạp và dân cư phân bổ không đồng đều khiến cho công tác phòng ngừa THTP về
106
môi trường gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, ở các huyện miền núi địa hình phức tạp,
một bộ phận người dân vào tận rừng sâu để canh tác và khai thác rừng, làm nương
rẫy… do đó lực lượng chức năng khó có thể tiếp cận để tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cũng như áp dụng các biện pháp kinh tế, xã hội khác. Đây cũng chính là đối
tượng có nhiều hành vi vi phạm môi trường, đặc biệt là môi trường rừng và khai
thác trộm khoáng sản.
Địa hình phức tạp cũng khiến cho công tác triển khai các dự án, chính sách
phát triển kinh tế, xã hội cũng gặp khó khăn. Cụ thể, để thực hiện các chương trình,
dự án kinh tế, xã hội… cần thiết phải có nguyên vật liệu xây dựng, nguyên vật liệu
đầu vào và các máy móc, trang thiết bị… việc khu dân cư sinh sống ở những khu
vực vùng sâu, vùng xa khiến quá trình vận chuyển khó khăn, giá vốn triển khai dự
án vì thế bị tăng lên đáng kể, nhiều máy móc không phù hợp hoặc không thực hiện
được hết công năng với địa hình như vậy, do đó hiệu quả của các chương trình
không cao. Nhiều dự án không đạt được mục tiêu đề ra, người dân vì thế quay trở
lại với thói quen canh tác và khai thác lệ thuộc vào tự nhiên, tất yếu THTP về môi
trường vẫn không được thuyên giảm. Sự tách biệt của nhiều địa phương cũng khiến
công tác quản lý, BVMT của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn do lực lượng
chức năng mỏng, các trang thiết bị đã lạc hậu hoặc không phát huy được hiệu quả ở
những khu vực vùng sâu, vùng xa…
Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên của tỉnh Hà Tĩnh có đường biên giới chung
với Lào thông qua cửa khẩu Cầu Treo và nhiều đường mòn, lối mở khác. Việc di
chuyển từ khu vực phía Tây tỉnh Hà Tĩnh qua các địa phương của Lào dễ dàng hơn
di chuyển về phía Đông trong nội bộ tỉnh. Do đó, đây là xu hướng vận chuyển sản
phẩm tự nhiên quan trọng và thuận lợi của các đối tượng phạm tội về môi trường.
Đặc biệt, đây là con đường được sử dụng phổ biến bởi tội phạm thực hiện các hành
vi huỷ hoại rừng, khai thác khoáng sản trái phép hay săn bắt, buôn bán động vật
hoang dã. Chính vì thế, THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ngày một
gia tăng. Công tác phòng ngừa THTP về môi trường vì thế cũng gặp rất nhiều khó
khăn.
Thứ hai, đời sống kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh còn nhiều hạn chế.
Hà Tĩnh nói chung vẫn còn là một địa phương nghèo, dù cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế thời gian trở lại đây ở mức cao. Đời sống kinh tế và xã hội còn khó khăn có
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu do xuất phát điểm thấp, đời sống phụ
107
thuộc vào nông nghiệp của đại bộ phận người dân sinh sống tại nông thôn không mang
đến sự giàu có, đủ đầy do phương thức canh tác còn lạc hậu, sản xuất manh mún, chủ
yếu tự cung, tự cấp và lệ thuộc hoàn toàn vào môi trường tự nhiên. Chính vì thế, đời
sống kinh tế của người dân, đặc biệt ở các huyện miền núi còn bấp bênh. Chính sự bấp
bênh đó của đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng đến ý thức xây dựng đời sống xã hội của
họ. Đó là một tất yếu khi đang còn chật vật với mưu sinh, người dân sẽ thờ ơ với những
giá trị tinh thần. Do đó, công tác triển khai các biện pháp phòng ngừa THTP về môi
trường, đặc biệt là biện pháp tuyên truyền, phổ biến và giáo dục thuyết phục sẽ không
mang đến hiệu quả. Bên cạnh đó, một số bộ phận dân cư mặc dù có quan tâm và hưởng
ứng các hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường, song trên thực tiễn, vì những thời
điểm khó khăn khác nhau, họ vẫn tham gia thực hiện các hành vi phạm tội về môi
trường, nghĩa là trong trường hợp này, hiệu quả của việc tuyên truyền phòng ngừa
không vượt qua được những cám giỗ của đời sống thực tiễn.
Thứ ba, môi trường tự nhiên có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh
tế và xã hội của người dân. Việc khai thác tự nhiên trở thành một hoạt động sống tất
yếu. Chính vì thế gây khó khăn cho việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thay
đổi tư duy của người dân. Đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại các
huyện miền núi. Thực tiễn này gây ra những khó khăn rất lớn đối với công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về phòng ngừa THTP về môi
trường. Người dân vì không có được những điều kiện để chuyển đổi thành công
ngành nghề, cũng khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để sản xuất,
kinh doanh nên vẫn còn gắn chặt tư duy vào khai thác tự nhiên. Do đó, trong cả
tương lai xa, đây là nguyên nhân cốt yếu dẫn đến tình trạng phòng ngừa THTP về
môi trường chưa đem đến hiệu quả.
Thứ tư, hậu quả của các hành vi phạm tội về môi trường thường không thấy rõ
được trong thời gian ngắn và tính nhân quả của hành vi đơn lẻ đối với hậu quả đó.
Do đó, rất khó thuyết phục người dân bằng về những nguy cơ, hậu quả, những tác
động tiêu cực của hành vi phạm tội về môi trường gây ra. Trên thực tế, để minh
chứng một hành vi chặt cây của một cá nhân đơn lẻ là nguyên nhân của hệ quả lũ
lụt, sạt lở… do tính nhân quả này không mang đến những kết quả nhãn tiền. Đồng
thời, hậu quả thiên tai là tổng hợp của các hành vi tiêu cực xâm phạm đến thiên
nhiên. Điều này khiến cho người dân tin rằng hành vi của mình không có tác động
108
đáng kể đến hậu quả thiên tai. Thực tế này khiến cho việc thuyết phục người dân về
phòng ngừa THTP về môi trường thông qua các hậu quả thiên tai không đem đến
kết quả như mong đợi.
Thứ năm, nguồn lực phân bổ cho phòng ngừa THTP về môi trường còn hạn
chế. Cùng với tình hình ngân sách nhà nước và ngân sách tỉnh Hà Tĩnh luôn trong
tình trạng khó khăn, phải chia sẻ nhiều khoản đầu tư và chi tiêu khác nhau, ngân
sách dành cho phòng ngừa THTP về môi trường cũng ở trong tình cảnh eo hẹp. Sự
thiếu hụt về tài chính sẽ là nguyên nhân để dẫn đến hai vấn đề cốt yếu: thứ nhất, sẽ
không có đủ kinh phí để mua sắm phương tiện kỹ thuật, chi trả thuê khoán và chi trả
nhân công. Điều này sẽ khiến cho hoạt động triển khai nhiều biện pháp phòng ngừa
THTP về môi trường chỉ mang tính cầm chừng; thứ hai, ngân sách dành cho phòng
ngừa THTP môi trường thấp cũng khiến cho việc chi trả tiền lương, tiền công cho
các chủ thể thực hiện phòng ngừa thấp. Việc chi trả thấp này tác động không tốt lên
tâm lý và hiệu quả công việc của các chủ thể vì xét đến cùng, thu nhập là một động
lực quan trọng của nhiệt huyết công việc. Giữa thu nhập và nhiệt huyết luôn có một
tỷ lệ thuận nhất định. Trong trường hợp phòng ngừa THTP về môi trường cũng
không phải là một trường hợp ngoại lệ.
b. Nhóm các nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức của cơ quan chức năng về phòng ngừa THTP về môi
trường còn chưa đầy đủ, thiếu tính cập nhật. Nhận thức của các cơ quan quản lý nhà
nước kể cả cơ quan quản lý thẩm quyền chung, lẫn các cơ quan thẩm quyền riêng
được giao hoạt động chuyên trách về vấn đề BVMT và các cơ quan thực hiện chức
năng bảo vệ pháp luật đều chưa có được những nhận thức đầy đủ về phòng ngừa
THTP về môi trường. Nguyên nhân nhận thức thiếu đầy đủ về vấn đề này xuất phát
từ hai nguyên nhân: thứ nhất, vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường là một phần
việc kiêm nhiệm hoặc một phần nhiệm vụ trong thẩm quyền quản lý chung của các
cơ quan, tổ chức… do đó, không được chú trọng về mặt nhận thức nội dung này.
Bên cạnh đó vấn đề chuyên môn của nhân sự các cơ quan này cũng không chuyên
sâu về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường, khiến cho quá trình nhận thức gặp
nhiều khó khăn; thứ hai, đối với các cơ quan chức năng được giao thẩm quyền quản
lý chuyên trách về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường mặc dù được tổ chức
các lớp đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật quy định pháp lý… Tuy nhiên,
khách quan đánh giá chung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng này chưa được
109
thiết kế khoa học, vẫn còn nặng về lý thuyết và không đảm bảo được yêu cầu “cầm
tay chỉ việc”. Giảng viên tham gia các lớp cũng thiếu kinh nghiệm thực tiễn, do đó
giá trị thay đổi nhận thức và kỹ năng sau khoá học đạt được ở mức thấp. Nhiều
chương trình được tổ chức hàng năm nhưng còn trùng lặp về nội dung, tổ chức theo
chỉ tiêu giao khoán hàng năm nên không chú trọng đến chất lượng… người học vì
thế cũng không thực hiện yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nghiêm túc, có hiệu quả mà
chủ yếu đối phó, chiếu lệ.
Thứ hai, trình độ dân trí còn hạn chế, tập quán canh tác vẫn lệ thuộc vào các
giá trị của môi trường tự nhiên. Đây là nguyên nhân chủ quan từ phía người dân.
Một bộ phận dân cư không nhỏ ở khu vực nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng
xa còn hạn chế nhiều mặt về nhận thức, bao gồm cả nhận thức xã hội lẫn nhận thức
pháp lý. Do đó, việc áp dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng
ngừa THTP về môi trường gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, quy định của pháp luật về tội phạm về môi trường và phòng ngừa
THTP về môi trường còn hạn chế. Việc định tội danh các tội phạm về môi trường
hiện nay khá khó khăn do thiếu sự chi tiết của pháp luật; thực tiễn thực hiện hoạt
động của các cơ quan bảo vệ pháp luật luôn có tâm lý hành chính hoá các vụ, việc
để đơn giản hoá quy trình xử lý cũng như tránh được những hậu quả pháp lý nặng
nề cho các đối tượng vi phạm phạm luật.
Các quy định pháp lý hiện hành chưa đầy đủ tính răn đe đối với những tội
phạm môi trường tiềm ẩn. Mặc dù có nhiều mức chế tài cho hành vi phạm tội về
môi trường, tuy nhiên tự chung lại các mức án đều chưa thể hiện sự nghiêm khắc và
do đó chưa đem đến tính răn đe cho những tội phạm môi trường tiềm năng cũng
như cho xã hội. Trên thực tế, như đã phân tích ở phần THTP về môi trường, chủ
yếu mức án bị tuyên cho các tội danh về môi trường là tù treo và phạt tiền. Hậu quả
pháp lý hình sự này khi đem lên bàn cân với những lợi ích có được từ hành vi phạm
tội về môi trường trong nhiều trường hợp còn thấp hơn. Chính vì thế, người dân sẵn
sàng tâm lý đánh đổi để thực hiện hành vi phạm tội tới cùng. Đây chính là nguyên
nhân cơ bản quyết định đến mức biến động tăng của THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian qua.
Các giải pháp, chính sách hình sự về phòng ngừa THTP về môi trường còn
một số điểm thiếu, chưa khoa học và thống nhất, đã dẫn đến thiếu hành lang pháp lý
110
hoàn thiện cho công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên thực tiễn.
Thứ tư, các biện pháp phòng ngừa còn nặng tính hình thức, chưa đảm bảo
được đặc thù của từng đối tượng khác nhau. Các biện pháp phòng ngừa mặc dù
được triển khai đa dạng, tuy nhiên tính hiệu quả còn chưa cao do tồn tại các thực tế
sau: thứ nhất, các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường được thực hiện
không thường xuyên. Việc phòng ngừa THTP về môi trường đòi hỏi phải kịp thời
và thường xuyên, điều này giúp cho tinh thần phòng ngừa của cả hệ thống chính trị
và xã hội luôn được duy trì. Song trên thực tế các hoạt động này được thực hiện
theo chuyên đề với những ngắt quãng thời gian lớn. Điều này khiến cho hoạt động
phòng ngừa THTP về môi trường được triển khai theo hướng phong trào, với những
đợt cao trào và thoái trào đan xen nhau; thứ hai, các biện pháp phòng ngừa THTP
về môi trường như các biện pháp phát triển kinh tế, xã hội, các biện pháp giáo dục,
thuyết phục… được triển khai thực hiện nhưng không chú trọng hiệu quả, do đó
nặng về tính hình thức, phong trào, thành tích. Nhiều chương trình tuyên truyền,
phổ biến giáo dục đã lạc hậu, nhưng không được cập nhật. Các biện pháp tuyên
truyền cũng mang tính một chiều với những phương pháp truyền thống, không đem
đến hứng thú cho người nghe. Phương pháp truyền đạt còn cứng nhắc, nặng về lý
thuyết nên gây khó hiểu, hoặc khó nhớ cho đông đảo quần chúng người dân. Các
biện pháp nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước về phòng ngừa THTP về môi
trường cũng chưa được thực hiện triệt để, tồn tại tư duy nhiệm kỳ, đùn đẩy trách
nhiệm, gây lãng phí nguồn lực của công tác phòng ngừa.
Thứ năm, do lực lượng phòng ngừa THTP môi trường còn hạn chế về mặt số
lượng và hạn chế trong việc phối hợp giữa các lực lượng trong phòng ngừa THTP
về môi trường. Lực lượng phòng ngừa THTP là các cơ quan quản lý nhà nước có
nhân sự mỏng, trong khi điều kiện tự nhiên lãnh thổ rộng, địa hình phức tạp, người
dân tản cư ở nhiều khu vực không dễ tiếp cận để triển khai các biện pháp phòng
ngừa. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa không đảm bảo
được tính khoa học và kịp thời. Bằng chứng là cho đến nay vẫn chưa xây dựng được
hệ thống phối hợp điện tử về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa THTP
về môi trường nói riêng. Các chủ thể thiếu tính phối hợp, do đó thực hiện các biện
pháp phòng ngừa một cách đơn lẻ, khiến cho vừa chồng chéo ở một số nội dung
nhưng lại vừa thiếu sót ở một số nội dung, gây hiệu ứng phòng ngừa kém và lãng
111
phí các nguồn lực.
Thứ sáu, do chạy theo lợi nhuận, các chủ doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh
doanh đã phớt lờ những yêu cầu về BVMT. Đây là nguyên nhân chủ quan từ nhận
thức và hành vi của các tổ chức đối với phòng ngừa THTP về môi trường. Mặc dù
đã được tuyên truyền, giáo dục và có cả tổ chức ký cam kết cho các tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh nhưng do trên thực tiễn để xử lý các phế phẩm, nước
thải, chất thải… trong quá trình sản xuất nhằm đảm bảo an toàn cho môi trường
phải tiêu tốn nhiều chi phí vốn, do đó các chủ doanh nghiệp, tổ chức mặc dù đã nắm
được những vấn đề thuộc về phòng ngừa THTP về môi trường nhưng vẫn thực hiện
hành vi phạm tội về môi trường. Bên cạnh đó, để che đậy các hành vi này, nhiều
doanh nghiệp, tổ chức đã móc nối, hối lộ… các cơ quan chức năng để không bị phát
hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình. Đây chính là nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng mặc dù THTP về môi trường chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong
tổng số tội phạm hình sự nói chung, song tình hình ô nhiễm môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh có chuyển biến gia tăng nhanh.
Tiểu kết Chƣơng 3
Chương 3 của luận án đã khảo sát và đánh giá thực trạng phòng ngừa THTP
về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh dựa trên 4 phương diện chính:
Thứ nhất, đánh giá thực trạng THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
giai đoạn 2010 - 2020 (mục 3.1) trên các phương diện:
- Mức độ, động thái, diễn biến, cơ cấu, tính chất và hậu quả thiệt hại về môi
trường trên địa bàn tỉnh giai đoạn nghiên cứu.
- Đã phân tích làm rõ 4 nguyên nhân và điều kiện của THTP về môi trường tại
tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010 - 2020, gồm: Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã
hội; nguyên nhân và điều kiện văn hoá - giáo dục; nguyên nhân và điều kiện tự
nhiên và Nguyên nhân và điều kiện thuộc về các hoạt động quản lý nhà nước và cơ
quan bản vệ pháp luật.
Thứ hai, tại Mục 3.2, luận án đã làm rõ thực trạng nhận thức về phòng ngừa
THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Luận án đã dựa trên các kết quả nghiên cứu đánh giá thông qua các số liệu thứ
cấp cũng như dựa trên cơ sở khảo sát trực tiếp của NCS bằng bảng hỏi với 500
112
phiếu tại năm cơ quan của Sở Tài nguyên và môi trường, Cảnh sát, Thanh tra, Kiểm
sát, Toà án trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, đề tài đã đưa ra các nhận định đánh giá về
thực trạng nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
(thể hiện thông qua nhận thức của các chủ thể của phòng ngừa). Gồm:
- Thực trạng nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường của cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
- Thực trạng nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường của cán bộ, công
chức trong các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh
- Thực trạng nhận thức về phòng ngừa THTP về môi trường của cán bộ trong
các tổ chức chính trị - xã hội, nhà trường, gia đình và nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh (gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; nhà trường
và gia đình; người dân)
Thứ ba, tại mục 3.3, luận án đã khảo sát và đánh giá thực trạng biện pháp
phòng ngừa THTP về môi trường ở tỉnh Hà Tĩnh, gồm:
- Thực trạng xây dựng các biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường tại tỉnh
Hà Tĩnh.
- Thực trạng nhóm các biện pháp phòng ngừa riêng THTP về môi trường: Các
biện pháp tổ chức quản lý, BVMT tự nhiên, các biện pháp phân tích, dự báo THTP
về môi trường, các biện pháp điều tra, trấn áp, xét xử và thi hành án tội phạm về
môi trường
- Luận án cũng đã khảo sát, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp phòng
ngừa THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh dựa theo 03 nhóm chủ thể chính gồm:
Cơ quan quản lý nhà nước có chức năng quản lý nhà nước thẩm quyền chung; Cơ
quan chuyên trách quản lý về môi trường và bảo vệ pháp luật; Tổ chức chính trị - xã
hội, người dân và các Tổ chức phi chính phủ
Thứ tư, Mục 3.4. đã đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân. Chỉ ra:
- Đã đánh giá, tổng kết 4 kết quả/ thành tựu chủ yếu, và có 05 tồn tại, hạn chế,
gồm: (1) Chưa tuân thủ triệt để nguyên tắc phòng ngừa THTP về môi trường; (2) Các
113
biện pháp phòng ngừa đã không được triển khai hiệu quả, đồng bộ; (3) các chủ thể
phòng ngừa THTP về môi trường còn thiếu tính phối hợp trong hoạt động; (4) Việc sử
dụng kinh phí phòng ngừa THTP về môi trường còn chưa hợp lý; (5) Nhận thức của cơ
quan quản lý nhà nước và xã hội về phòng ngừa THTP về môi trường chưa cao.
- Khái quát, kết luận có 2 nhóm nguyên nhân chủ yếu, gồm:
+ Nhóm các nguyên nhân khách quan thuộc về: (1) Địa hình tự nhiên và môi
trường khắc nghiệt; (2) Đời sống kinh tế nghèo, xuất phát điểm thấp; (3) Thói quen
khai thác tự nhiên thành hoạt động sống chính; (4) Các hành vi phạm tội về môi
trường thường không thấy rõ được trong thời gian ngắn và tính nhân quả của hành
vi đơn lẻ đối với hậu quả đó; (5) Nguồn lực phân bổ cho phòng ngừa THTP về môi
trường còn hạn chế.
+ Nhóm các nguyên nhân chủ quan, gồm: (1) Nhận thức của cơ quan chức
năng về phòng ngừa THTP về môi trường còn chưa đầy đủ, thiếu tính cập nhật; (2)
Trình độ dân trí còn hạn chế, tập quán canh tác vẫn lệ thuộc vào các giá trị của môi
trường tự nhiên; (3) Các quy định pháp lý hiện hành chưa đầy đủ tính răn đe đối với
những tội phạm môi trường tiềm ẩn; (4) Các biện pháp phòng ngừa còn nặng tính
hình thức, chưa đảm bảo được đặc thù của từng đối tượng khác nhau; (5) Lực lượng
phòng ngừa THTP môi trường còn hạn chế về mặt số lượng và hạn chế trong việc
phối hợp giữa các lực lượng trong phòng ngừa THTP về môi trường; (6) Do chạy
theo lợi nhuận, các chủ doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh đã phớt lờ
những yêu cầu về BVMT.
114
`
Chƣơng 4
DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
4.1. Dự báo tình hình tội phạm về môi trƣờng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
thời gian tới
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
về phát triển kinh tế, xã hội. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên
2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh
từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ
phận người nghèo ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2020, mặc dù nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái và khủng hoảng trầm
trọng do Covid 19 nhưng nền kinh tế Việt Nam là một điểm sáng của thế giới, vẫn tiếp
tục tăng trưởng mạnh mẽ và khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và
sản xuất định hướng trong điều kiện thích ứng dịch bệnh phù hợp. Số liệu sơ bộ cho
thấy GDP năm 2020 trong khi thế giới tăng trưởng âm thì Việt Nam vẫn giữ mức
tăng GDP 2,19. Việt Nam là một trong ba quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng
tích cực trong năm nay; đồng thời quy mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD
[1], vượt Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở
thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 [2] trong khu vực Đông Nam Á (sau
Indonesia 1.088,8 tỷ USD; Thái Lan 509,2 tỷ USD và Philippines 367,4 tỷ USD).
Trong khi đó, GDP năng 2019 thực tăng khoảng 7%, gần với tỉ lệ tăng trưởng năm
2018 và Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
khu vực.
Nhờ có nền tảng cơ bản tốt và nếu tình hình dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát
ở Việt Nam cũng như trên thế giới, kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục vào năm 2021.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số
Việt Nam đã lên đến khoảng 97 triệu vào năm 2018 (từ khoảng 60 triệu năm 1986)
và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi
dưới 35, với tuổi thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương
đương trong khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang
hình thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm 2026.
Chỉ số Vốn con người (HCI) của Việt Nam xếp thứ 48 trên 157 quốc gia và
115
vùng lãnh thổ và đứng thứ hai ở ASEAN, chỉ sau Singapore. Một em bé Việt Nam
được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất bằng 67% so với
cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Việt Nam là quốc gia có
Chỉ số Vốn con người cao nhất trong số các quốc gia có thu nhập trung bình, tuy
nhiên vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa các địa phương, đặc biệt là ở nhóm dân tộc
thiểu số. Đồng thời Việt Nam cũng cần nâng cao trình độ lực lượng lao động để tạo
ra việc làm có năng suất cao hơn ở quy mô lớn trong tương lai. Giáo dục phổ thông
ở Việt Nam tương đối tốt. Việt Nam đạt kết quả ấn tượng trong Chương trình Đánh
giá học sinh Quốc tế (PISA) năm 2012 và 2015, theo đó thành tích của học sinh Việt
Nam vượt xa nhiều quốc gia OECD.
Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm
1993 đến 2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000
trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm 1990
đến 2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn mức trung
bình của khu vực và thế giới, 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên tỷ lệ giới tính
khi sinh vẫn ở mức cao và ngày một tăng (115 trong năm 2018) cho thấy tình trạng
phân biệt giới tính vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc
gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ
tăng gấp 2,5 lần.
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay đổi
tích cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến
năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỷ lệ 14% năm 1993. Tỷ lệ
tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm
2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều tác động
tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Nền kinh tế Việt Nam về cơ
bản vẫn dựa vào xuất khẩu, gia công và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Do đó, mặc
dù đạt được các thành tựu vượt bậc về kinh tế, nhưng phải đánh đổi các giá trị về
môi trường. Tổng mức tiêu thụ điện tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua, nhanh
hơn mức tăng sản lượng điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa
thạch, ngành năng lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả
nước. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong khi năng suất nước vẫn còn ở
mức thấp, chỉ đạt 12% so với chuẩn thế giới. Tình trạng khai thác thiếu bền vững tài
116
nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng
tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó, đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều
dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu.
Với những diễn biến đó của thực tiễn, có thể dự báo, trong thời gian tới, THTP
về môi trường tại Việt Nam tiếp tục có diễn biến phức tạp và gia tăng cả về số lượng
và mức độ vi phạm. Đặc biệt, THTP về môi trường ở một số nhóm tội danh sẽ có xu
hướng liên tục gia tăng như: Tội gây ô nhiễm môi trường; Tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại; Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; Tội hủy hoại
rừng; Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng,
chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông; Tội vi phạm quy định về
quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và Tội vi phạm các quy định về quản
lý khu bảo tồn thiên nhiên. Các nhóm tội danh trên có tính chất gắn bó chặt chẽ
với các nội dung phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong thời gian tới. Đồng
thời, việc sử dụng các trang thiết bị, mức độ tinh vi, có tổ chức… của các tội phạm
cũng ngày càng gia tăng, gây ra những khó khăn cho công tác phòng ngừa và đấu
tranh, trấn áp THTP về môi trường.
Trên cơ sở dự báo THTP về môi trường của Việt Nam và thực tiễn lịch sử diễn
biến THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã được phân tích trong phần
thực trạng của luận án, NCS xác lập dự báo xu hướng THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới gồm những nội dung sau:
4.1.1. Tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục
gia tăng về quy mô
Quy mô của tình hình phạm tội được xác định thông qua tính nhân quả của
hành vi phạm tội. Do đó, nói sự gia tăng quy mô các tội phạm về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh bao gồm sự gia tăng về số lượng các hành vi phạm tội và gia
tăng về hậu quả của các hành vi phạm tội.
- Đối với gia tăng hành vi phạm tội về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Dựa trên số liệu lịch sử THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cho thấy
tính tịnh tiến tăng như đã phân tích ở phần thực trạng, việc khẳng định số lượng các
hành vi phạm tội về môi trường trên địa bàn này gia tăng trong tương lai là có cơ sở.
Nguyên nhân của sự gia tăng về số lượng này có nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng cơ bản xuất phát từ các lý do như: công tác phòng ngừa THTP về môi trường
còn nhiều điểm hạn chế; các cơ chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường; tốc
117
độ công nghiệp hoá tăng nhanh; tư liệu sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp,
một bộ phận dân cư phải sống lệ thuộc vào tài nguyên rừng; các chính sách phúc lợi,
xoá đói, giảm nghèo, đào tạo ngành nghề… còn nặng hình thức, chưa mang đến hiệu
quả thực chất nhằm cải thiện đời sống và ý thức của người dân; tính răn đe của các
chế tài pháp lý chưa đủ tác động đến các hành vi thực hiện pháp luật của người
dân… Cũng trên cơ sở các dữ liệu thực tiễn của lịch sử THTP về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, NCS xác định hành vi phạm tội về môi trường thuộc 04 nhóm
sau có xu hướng gia tăng về số lượng trong thời gian tới:
+ Tội hủy hoại rừng. Tội huỷ hoại rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh luôn chiếm
tỷ lệ cao trong cơ cấu các tội danh tội phạm về môi trường và luôn có xu hướng biến
động tăng. Do đó, trong tương lai nhóm tội danh này được NCS dự báo tăng là có
cơ sở thực tiễn. Việc gia tăng nhóm tội danh huỷ hoại rừng xuất phát từ các nguyên
nhân như: (1) đối với một bộ phận không nhỏ người dân, đặc biệt ở các huyện miền
núi như Vũ Quang, Đức Thọ, Hương Sơn… rừng là nguồn sống cơ bản. Hoạt động
sản xuất, sinh sống của những nhóm người này gắn liền với rừng. Tuy nhiên, họ khai
thác rừng hoàn toàn theo tập quán truyền thống – những phương pháp có nguy cơ
huỷ hoại rừng rất cao; (2) tập quán đốt rừng làm nương rẫy vẫn còn tồn tại, thậm chí
hiện nay việc đốt rừng làm nương rẫy ở những vùng rừng sâu diễn ra nhiều hơn; (3)
người dân chưa có ý thức và kiến thức về bảo vệ rừng. Đặc biệt, đối với ý thức và
kiến thức về phòng chống cháy rừng rất yếu. Trong khoảng 03 năm trở lại đây, cháy
rừng tại Hà Tĩnh diễn ra thường niên và có quy mô lớn nhất cả nước; (4) lực lượng
chức năng, cơ quan quản lý nhà nước có chức năng quản lý và bảo vệ rừng hoạt động
chưa thực sự hiệu quả và (5) nguồn lợi từ rừng rất phong phú và rất lớn.
+ Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Đây
là nhóm tội danh phổ biến thứ hai trong các tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh. Các hành vi phạm tội thuộc nhóm tội danh này phổ biến ở các huyện có
đường Hồ Chí Minh chạy qua vì có diện tích rừng tự nhiên lớn, dễ dàng cho săn bắt
động vật quý hiếm và có hệ thống đường mòn vắng vẻ, thuận tiện cho vận chuyển
động vật quý hiếm như Hương Sơn, Hương Khê và đặc biệt là Vũ Quang. THTP của
nhóm tội danh này có xu hướng gia tăng liên tục qua các năm, do đó việc dự báo sẽ
tiếp tục gia tăng trong tương lai là việc khẳng định một mạch xu hướng tăng của nhóm
tội danh này. Sự gia tăng của nhóm tội danh này trong dự báo THTP về môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xuất phát từ các nguyên nhân như: (1) lợi nhuận từ việc
118
săn bắt và kinh doanh động vật hoang dã rất lớn do đó thu hút được nhiều bộ phận
người dân tham gia, đặc biệt là nhóm những người không có công việc, ngành nghề
ổn định; (2) các chế tài cho hành vi này chủ yếu là chế tài hành chính, chưa đủ sức
răn đe đối với các đối tượng; (3) nhu cầu tiêu thụ các động vật hoang dã không có
xu hướng giảm, đồng thời giá trị của mặt hàng này ngày càng gia tăng, do đó kích
thích nguồn cung. Chủ yếu nhu cầu này đến từ các nhà hàng ở những thành phố lớn
như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh…, nhu cầu chế biến cao, thuốc chữa
trị và nhu cầu nuôi nhốt, làm cảnh; (4) lực lượng chức năng cho đến nay vẫn chưa có
những giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa, đấu tranh và trấn áp các tội phạm thuộc
nhóm tội danh này.
+ Tội gây ô nhiễm môi trường. Các hành vi thuộc nhóm tội danh gây ô nhiễm
môi trường chiếm tỷ lệ thứ ba trong lịch sử THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh. Nhóm tội danh này cũng có xu hướng tăng tịnh tiến trong lịch sử THTP về
môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh. Đặc biệt, nhóm tội danh này có sự tỷ lệ thuận với sự
gia tăng quy mô phát triển công nghiệp của tỉnh. Hà Tĩnh hiện nay là một trong 05
địa phương có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công và có tốc độ phát triển công nghiệp,
dịch vụ nhanh nhất cả nước. Chính vì thế, dự báo về THTP về môi trường của nhóm
tội danh gây ô nhiễm môi trường là có cơ sở khoa học và thực tiễn. Nguyên nhân xu
hướng tăng này xuất phát từ: (1) các làng nghề, khu công nghiệp, khu chế xuất…
được hình thành nhiều. Trong quá trình sản xuất, các chủ thể này tiến hành xả thải
không khí, nước thải và rác thải rắn gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều
vùng. Các chủ thể không trang bị hệ thống xử lý chất thải trước khi xả thải ra môi
trường như các làng nghề, hoặc được xây dựng, trang bị nhưng không vận hành theo
đúng quy trình xử lý như yêu cầu để tiết kiệm chi phí như các khu, cụm công nghiệp,
chế xuất…; (2) vấn đề kiểm soát đầu ra của chất thải không thực hiện hiệu quả, yếu tố
đột xuất, bất ngờ không nhiều (chủ yếu kiểm tra có báo trước) do đó các chủ thể vi
phạm dễ dàng đối phó; (3) xuất hiện tâm lý đánh đổi trong quản lý nhà nước, sự đánh
đổi giữa kinh tế và môi trường. Trong trường hợp này kinh tế được ưu tiên.
+ Tội vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông. Các hành vi thuộc nhóm tội
danh này chủ yếu gồm: hành vi khai thác cát trái phép và hành vi khai thác sỏi trái
phép. Hai hành vi trong nhóm tội danh này trong lịch sử THTP về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có tỷ lệ thuận với xu hướng xây dựng dân dụng ngày càng gia
tăng. Cát và sỏi là hai vật liệu xây dựng quan trọng. Đời sống kinh tế xã hội càng
119
phát triển, nhu cầu xây dựng càng lớn, việc khai thác các vật liệu quan trọng đó
càng cao. Do đó, THTP về nhóm tội danh này tăng lên trong thời gian tới là một dự
báo có độ tin cậy cao. Xu hướng gia tăng của nhóm tội danh này xuất phát từ các
nguyên nhân: (1) cát và sỏi là các sản phẩm tự nhiên, quy trình khai thác đơn giản
trong khi giá thành ngày càng tăng nên mang đến nguồn lợi rất lớn cho các đối
tượng phạm tội; (2) nhu cầu thị trường lớn và gia tăng không ngừng, nên nguồn cung
cũng theo đó lớn lên; (3) xuất hiện sự bao che, móc nối và bảo kê của chính quyền
cơ sở và các cơ quan chức năng với các đối tượng nhằm hưởng lợi về kinh tế.
- Bên cạnh việc gia tăng số lượng THTP về môi trường ở một số nhóm tội
danh như đã trình bày ở trên, THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian tới còn được dự báo là gia tăng về quy mô hậu quả của hành vi phạm tội.
Quy mô phạm tội cũng được dự báo gia tăng ở một số nhóm tội danh nhất định,
trong đó lớn nhất là Tội huỷ hoại rừng và Tội gây ô nhiễm môi trường.
+ Tội huỷ hoại rừng. Hành vi được dự báo sẽ gia tăng về quy mô hậu quả trong
nhóm tội danh huỷ hoại rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh là đốt rừng. Trong 03 năm
2017 - 2019 tình trạng đốt rừng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gia tăng cả về số lượng và
quy mô. Trong đó, xét về quy mô, mỗi năm có tổng diện tích rừng bị cháy cao hơn
khoảng 17% so với năm trước. Do đó, tiếp nối xu hướng này, hành vi đốt rừng trong
thời gian tới sẽ tiếp tục xác lập những quy mô hậu quả mới. Nguyên nhân của sự gia
tăng này bao gồm: (1) người dân có nhu cầu mở rộng sản xuất, đặc biệt tại các
huyện miền núi. Việc mở rộng sản xuất vẫn dựa vào phương thức đốt rừng làm
nương rẫy truyền thống, do đó quy mô rừng bị tàn phá sẽ ngày càng lớn hơn; (2) chịu
sự tác động của biến đổi khí hậu, nền nhiệt độ và biên độ mùa khô ở Hà Tĩnh ngày
càng lớn hơn, điều này đã đẩy nguy cơ cháy rừng trên địa bàn tỉnh ở mức cao nhất
và sẽ duy trì trong tương lai.
+ Tội gây ô nhiễm môi trường. Nhóm tội danh này ngoài việc tăng số lượng
đối tượng còn tăng cả quy mô phạm tội. Cơ sở của việc dự đoán tăng quy mô các tội
gây ô nhiễm môi trường xuất phát từ việc xu hướng phát triển công nghiệp, đặc biệt
là công nghiệp nặng tại Hà Tĩnh hiện nay. Các chủ thể thuộc nhóm sản xuất này sẽ
xả thải một lượng chất thải lớn ra môi trường trong quá trình hoạt động của mình.
Quy mô sản xuất càng lớn, quy mô hậu quả của hành vi cũng càng lớn. Ví dụ năm
2016, sự cố môi trường do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa (Khu công nghiệp
Vũng Áng) xả thải. Thảm họa này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của
120
ngư dân, đến những hộ nuôi thủy sản ven bờ, ảnh hưởng đến du lịch biển và cuộc
sống của cư dân miền Trung. Chỉ riêng tỉnh Quảng Bình có 18 xã chuyên làm nghề
biển với hơn 14.000 hộ và 24.000 lao động nghề biển. Trong tương lai, với cơ chế
quản lý như hiện tại, sẽ còn nhiều vụ việc tương tự xảy ra và với quy mô lớn hơn.
4.1.2. Tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có xu
hướng ngày càng tinh vi và phức tạp hơn
Bên cạnh sự gia tăng về số lượng và quy mô của các tội phạm về môi trường,
THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới cũng được dự báo
là diễn ra phức tạp, tinh vi với các hành vi phạm tội có tổ chức, ứng dụng công nghệ
thông tin và sử dụng nhiều phương tiện, công cụ phạm tội hiện đại, có hiệu suất cao.
Cụ thể:
- Dự báo xu hướng phạm tội có tổ chức trong THTP về môi trường trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới. Tính có tổ chức ngày càng được thể hiện nhiều trong các
hành vi phạm tội về môi trường.
- Dự báo xu hướng sử dụng công nghệ thông tin trong THTP về môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới. Trong những năm gần đây, phương tiện
thông tin liên lạc tại Việt Nam xét trên cả hạ tầng cơ sở thu và phát sóng đều phát
triển nhanh chóng và phổ thông hoá. Chi phí mua sắm thiết bị và chi phí dịch vụ
thấp, đa số người dân đều có thể tiếp cận dễ dàng. Đặc biệt khi nền tảng kết nối
được nâng cấp với tốc độ cao hơn, diện phủ sóng được bao phủ nhờ chuyển từ công
nghệ phát sóng mặt đất sang công nghệ phát sóng vệ tinh và sự miễn phí của các
ứng dụng định vị GPS đã giúp cải thiện đời sống con người và nâng cao phương
thức giao tiếp xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là tác nhân để công nghệ hoá các hành vi
phạm tội, trong đó có phạm tội về môi trường, từ đó phức tạp hoá, tinh vi hoá THTP
ở Việt Nam nói chung và tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói
riêng. Dự báo trong tương lai, các đối tượng sẽ tiếp tục khai thác phương tiện thông
tin liên lạc hiện đại để gửi hình ảnh, âm thanh cho nhau trong quá trình phạm tội để
phối hợp với nhau, báo tin cho nhau về sự có mặt của cơ quan chức năng, sử dụng
công nghệ để giám sát cả hoạt động của cơ quan chức năng, sử dụng định vị GPS để
tạo ra các lối đi tắt,… tất cả các ứng kể trên sẽ gây ra những khó khăn rất lớn đối với
hoạt động phòng ngừa và đấu tranh THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
thời gian tới.
- Dự báo xu hướng sử dụng công cụ phạm tội hiện đại, có hiệu suất cao trong
THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới. Các hành vi phạm tội
121
về môi trường đặc biệt như: Tội huỷ hoại rừng; Tội gây ô nhiễm môi trường và Tội
vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông sẽ được sử dụng nhiều công cụ hỗ trợ hành
vi phạm tội hiện đại, có hiệu suất cao. Cụ thể như: các hành vi khai thác gỗ trái phép
được sử dụng bởi phương tiện cưa xẻ công suất cao và được chuyên chở bởi các
phương tiện cơ giới lớn; các hành vi khai thác cát và sỏi trái phép được ứng dụng hệ
thống máy hút công nghệ cao và công suất lớn giúp giảm thiểu tiếng ồn động cơ và
rút ngắn thời gian phạm tội, trong khi quy mô lớn hơn; hành vi xả thải ra môi trường
được sử dụng các đường ống ngầm với các máy bơm xả công suất lớn… Việc ứng
dụng các công cụ hiện đại và hiệu suất cao làm cho THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh gia tăng về quy mô và phức tạp về tính chất.
4.1.3. Tình hình tội phạm về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có xu
hướng gia tăng chủ thể phạm tội là các pháp nhân thương mại
Xu hướng này đã bắt đầu được ghi nhận khi Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) đã ghi nhận trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương
mại phạm tội. Điều này không có nghĩa là chỉ khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu
lực, các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường của các pháp nhân thương mại mới
xuất hiện. Bởi trên thực tế, trước khoảng thời gian đó, các hành vi này vẫn diễn ra và
có xu hướng gia tăng qua các thời kỳ nhưng chỉ bị xử lý hành chính. Đến thời điểm
Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, pháp nhân thương mại được ghi nhận là chủ
thể của tội phạm thì các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường ở mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự của các pháp nhân thương mại mới được thống kê. Trong
thời gian tới, dự báo xu hướng gia tăng của nhóm tội phạm này có cơ sở từ sự phát
triển công nghiệp và thủ công nghiệp tại Hà Tĩnh hiện nay.
Theo thống kê, chỉ tính năm 2019, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của tỉnh Hà
Tĩnh luôn ở mức cao. Năm 2019, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp vẫn duy trì
mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước với mức tăng 25,3%, trong đó quý I/2019
tăng 44,0%, quý II/2019 tăng 32,5%, quý III/2019 tăng 20,4% và quý IV/2019 tăng
10,7% so với cùng kỳ năm 2018. Tính trong vòng 5 năm trở lại đây thì năm 2019
vẫn duy trì được mức tăng cao và ổn định. Chỉ số sản xuất công nghiệp có sự ảnh
hưởng rất lớn từ ngành sản xuất kim loại (dự án Formosa). Nếu loại trừ yếu tố ảnh
hưởng từ dự án Formosa, chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2019 tăng 17,8% so với
năm 2018, trong đó: Ngành khai khoáng tăng 19,5%; công nghiệp chế biến chế tạo
tăng 2,7%; sản xuất và phân phối điện tăng 19,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước
122
thải tăng 5,5 lần. Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp những tháng cuối năm có phần
chững lại do khó khăn khi giá nguyên liệu tăng trong khi giá bán giảm nên dự án Formosa
đã điều chỉnh giảm sản lượng sản xuất và ước tính đạt 94% kế hoạch.
Bên cạnh đó, các chỉ số báo cáo về tình hình hoạt động của các pháp nhân
thương mại là các doanh nghiệp cũng cho thấy tốc độ gia tăng tương tự. Lũy kế từ
đầu năm đến ngày 17/12/2019, toàn tỉnh có 774 doanh nghiệp thành lập mới, tăng
7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó loại hình công ty cổ phần thành lập mới 158
doanh nghiệp, chiếm 20%; công ty TNHH 611 doanh nghiệp, chiếm 78% và doanh
nghiệp tư nhân 5 doanh nghiệp, chiếm 2% trong tổng số.
Tổng số vốn đăng ký đạt 11.104 tỷ đồng, tăng 78% so với cùng kỳ năm trước
với số vốn đăng ký bình quân đạt 14,3 tỷ đồng/doanh nghiệp (tăng 5,7 tỷ đồng/doanh
nghiệp so với năm 2018), thể hiện quy mô vốn các doanh nghiệp ngày càng tăng. Những
năm gần đây số lượng doanh nghiệp đăng ký mới hàng năm trên địa bàn tỉnh tăng khá
cao, các doanh nghiệp cũng góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động. Năm 2019 đã giải quyết việc làm mới cho 10.142 lao động. Trong đó loại hình
công ty TNHH giải quyết việc làm cho nhiều lao động mới nhất (7.653 lao động), tiếp
đến là loại hình công ty cổ phần (2.440 lao động) và thấp nhất là loại hình doanh nghiệp
tư nhân. Xu hướng gia tăng này được dự báo sẽ tiếp tục duy trì với các chỉ số cao hơn
trong tương lai. Với sự gia tăng về số lượng, tất yếu tỷ lệ chủ thể là các pháp nhân
thương mại trong tội phạm về môi trường sẽ gia tăng tại tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
4.2. Quan điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trƣờng ở tỉnh
Hà Tĩnh
Xây dựng các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường tại
tỉnh Hà Tĩnh là một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn. Tuy nhiên, việc xây dựng các giải
pháp này phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc về tính hợp pháp, hợp lý và khả thi.
Do đó, NCS đề xuất các quan điểm xây dựng giải pháp tăng cường phòng ngừa
THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh như sau:
4.2.1. Tính hợp pháp, hợp lý và khả thi của tổng thể các giải pháp
Các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh
hướng tới mục tiêu giải quyết các nguyên nhân của những hạn chế nhằm giảm thiểu
và đi đến xoá bỏ các hạn chế trong công tác phòng ngừa THTP về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. Để đạt được hiệu quả, các giải pháp đòi hỏi
phải có tính mới, sáng tạo và quyết liệt. Tuy nhiên, không vì thế mà các giải pháp
123
vượt qua đòi hỏi về tính hợp pháp và hợp lý.
- Đối với yêu cầu đảm bảo tính hợp pháp. Các giải pháp được xây dựng và đề
xuất phải phù hợp với những quy định pháp lý hiện hành của Việt Nam. Một số giải
pháp hướng tới hoàn thiện pháp luật cũng cần phải đảm bảo không trái với tinh thần
Hiến pháp năm 2013 và các văn bản có tính chủ đạo khác. Yêu cầu này nhằm đảm
bảo cho tính ổn định của hệ thống pháp lý, không vì vấn đề phòng ngừa THTP về môi
trường mà xáo trộn hệ thống pháp luật quốc gia. Tóm lại, nguyên tắc này đòi hỏi nội
dung các giải pháp phải trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành, mọi tư tưởng về cải
cách pháp lý cũng phải có nền tảng xuất phát từ tư duy pháp lý hiện hành.
- Đối với yêu cầu hợp lý. Ngoài tuân thủ tính hợp pháp, các giải pháp còn phải
đảm bảo tuân thủ tính hợp lý. Luật pháp vốn có giới hạn của nó. Đó cũng là khả năng
có giới hạn của người làm luật. Luật pháp không thể ghi nhận toàn bộ các quan hệ
xã hội vì những người làm luật không đủ hiểu biết để làm điều đó. Và nếu có khả
năng hiểu biết như vậy, người ta cũng không đưa vào luật những quan hệ chi tiết như
vậy. Nguyên do là vì luật pháp sẽ có khối lượng rất lớn và nhanh chóng bị lạc hậu
trong khi các quan hệ xã hội xoay chuyển không ngừng. Chính vì thế, luật pháp mang
tính định khung và luôn mang tính định khung. Lúc này, những giá trị chi tiết hơn
hoặc những quan hệ xã hội không được pháp luật ghi nhận sẽ được điều chỉnh bởi
luật lệ, bởi tập quán, phong tục… hay nói gọn lại là bởi luật tự nhiên. Các giải pháp
tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường không chỉ đảm bảo tuân thủ các quy
định pháp luật và còn đảm bảo phải phù hợp với các giá trị của luật tự nhiên. Luật
tự nhiên có những yếu tố gắn liền với đời sống cộng đồng, tộc người, nên mỗi địa
phương một khác. Thậm chí, trong cùng một địa phương mỗi tộc người với những
đặc trưng văn hoá riêng sản sinh ra những giá trị luật tự nhiên riêng. Do đó, các giải
pháp vừa phải phù hợp với pháp luật – phù hợp với cái chung, vừa phải phù hợp với
luật tự nhiên – phù hợp với cái riêng. Trong đó, cái chung tạo ra tư duy vĩ mô, cái
riêng tạo ra những cách làm vi mô, cụ thể. Kết hợp cả hai giá trị trên, các giải pháp
mới đạt được mục đích của nó.
Tính khả thi là khả năng thực thi được trên thực tiễn. Các giải pháp phải đảm
bảo tính đột phá, tính mới… nhưng nhất thiết phải thực thi được trên thực tiễn bằng
việc phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với nguồn lực của thực tiễn. Các
giải pháp không đảm bảo tính khả thi thì không thể có giá trị thực tiễn.
Theo đó, để đảm bảo tính thực tiễn, các giải pháp tăng cường phòng ngừa
124
THTP về môi trường phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Hiện
nay, vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường đang vướng mắc nhiều ở việc nâng cao
đời sống cho người dân và thay đổi tư duy canh tác, sản xuất và lối sống lệ thuộc
vào tự nhiên của một bộ phận người dân ở các huyện miền núi. Do đó, giải pháp
chủ yếu phải xoay quanh thực tiễn này để đem đến hiệu quả trực tiếp. Xuất phát từ
yêu cầu này, các giải pháp được xây dựng phải lấy cơ sở là thực tiễn vận động của
đời sống xã hội tại tỉnh Hà Tĩnh và các huyện miền núi. Các giải pháp phải được
xây dựng dựa trên hiểu biết về văn hoá, tập quán của cộng đồng dân cư và đặc trưng
tự nhiên của khu vực áp dụng giải pháp.
Bên cạnh đó, các giải pháp cũng phải đảm bảo phù hợp với tiềm lực của địa
phương. Cụ thể, các giải pháp pháp đảm bảo phù hợp với nguồn nhân lực hiện có
của địa phương. Trên cơ sở biên chế hiện có, các giải pháp phải đảm bảo triển khai
được bằng trình độ của hệ thống nhân lực và số lượng của hệ thống nhân lực hiện
tại. Không những thế, các giải pháp cũng cần phù hợp điều kiện vật lực của địa
phương. Điều kiện vật lực gồm trang thiết bị, cơ sở vật chất và khoản ngân sách của
địa phương dành cho công tác phòng ngừa THTP về môi trường. Các giải pháp đòi
hỏi trang bị hệ thống phương tiện, công cụ tối tân cùng với trình độ nhân sự và số
lượng nhân sự cao, tiêu tốn nhiều ngân sách và thời gian sẽ được xem là không có
tính khả thi.
4.2.2. Tính hệ thống, tính bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau của tổng thể các giải
pháp
Các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh cần
được bao quát đầy đủ các vấn đề như giải quyết các vướng mắc về đời sống kinh tế,
về tư duy nhận thức, về thói quen, tập quán, về tính hiệu quả của các cơ quan, đoàn
thể trong phòng ngừa THTP về môi trường… đồng thời cũng vừa phải có các giải
pháp giải quyết các vướng mắc ngắn hạn, vừa giải quyết được các vướng mắc mang
tính dài hạn để tăng cường phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh đồng bộ và bền vững.
Bên cạnh đó, các giải pháp cũng đáp ứng các điều kiện để được triển khai một
cách đồng bộ, có sự phối hợp giữa các chủ thể thực hiện nhằm đảm bảo tính toàn
diện của kết quả. Để đạt được tiêu chuẩn đó, các giải pháp phải có tính bao quát các
nhu cầu cần cải thiện của thực tiễn, bên cạnh tập trung giải quyết những vướng mắc
125
cốt lõi như đã trình bày tại phần đánh giá thực trạng.
4.2.3. Các giải pháp phải đảm bảo không cản trở hoạt động sống và hoạt
động kinh tế, xã hội của địa phương
Mặc dù mục tiêu của các giải pháp được xây dựng nhằm hướng tới khắc phục
các vướng mắc và qua đó đẩy mạnh việc sử dụng các phương pháp, công cụ tăng
cường phòng ngừa THTP về môi trường tại Hà Tĩnh, tuy nhiên, tư duy phải thống
nhất là phải thực hiện mục tiêu này bằng cả tiềm lực hiện có, nhưng không phải
bằng mọi giá. Theo đó, việc phòng ngừa THTP về môi trường phải đảm bảo không
cản trở các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của người dân bằng các phương pháp
“ngăn sông, cấm chợ” hay thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền… thường xuyên, mật độ
dày… làm ảnh hưởng đến các hoạt động đi lại, ăn ở, ngủ nghỉ của người dân. Đồng
thời, các giải pháp cũng hướng tới thay đổi các thói quen, tập quán văn hoá… tác
động tiêu cực đến môi trường và trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành các
hành vi phạm tội về môi trường, tuyệt đối không phản ánh tư duy về việc áp đặt xoá
bỏ các phong tục, tập quán đó. Nghĩa là những vấn đề thuộc về sinh hoạt xã hội cần
được tôn trọng và duy trì. Cuối cùng, các giải pháp cần phải cân đối hài hoà giữa
phòng ngừa THTP về môi trường vừa phải đảm bảo các điều kiện phát triển kinh tế.
Các hoạt động như khai khoáng, khai thác nguồn lợi từ tự nhiên, kinh doanh, buôn
bán… các vật phẩm tự nhiên hợp pháp cần được bảo vệ và duy trì phát triển nhằm
đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế và gia tăng sức mạnh của nền thị trường địa
phương. Đảm bảo được những nguyên tắc kể trên mới duy trì được trạng thái mục
tiêu phát triển bền vững của tỉnh Hà Tĩnh trong tương lai.
4.2.4. Xây dựng các giải pháp phải đảm bảo tính học hỏi có chọn lọc kinh
nghiệm của các địa phương khác
Trong giới hạn ứng dụng giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP về môi
trường tại tỉnh Hà Tĩnh - một đơn vị cấp tỉnh, các giải pháp cần được xây dựng dựa
trên những học hỏi, chắt lọc… các kinh nghiệm của những đơn vị hành chính tương
đồng để đa dạng hoá giải pháp, đồng thời có thể tranh thủ, tận dụng được các kinh
nghiệm đã được đúc kết trên thực tiễn ở các địa phương này.
Việc học hỏi có chọn lọc được bắt đầu bằng hoạt động chọn lọc các địa phương
có những đặc tính tương đồng với tỉnh Hà Tĩnh về điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh
tế… và nội dung phòng ngừa. Ví dụ, tỉnh Quảng Bình có những điều kiện tự nhiên
tương đồng với tỉnh Quảng Trị. Hiện nay tỉnh Quảng Bình có những kinh nghiệm
126
quý giá về công tác phòng ngừa THTP về môi trường, đặc biệt phòng ngừa THTP
vi phạm quy định về Quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong khu vực
Vườn quốc gia, có thể áp dụng cho địa bàn Vườn Quốc gia Vũ Quang của Hà Tĩnh.
Trong khi đó, các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lăk và Gia Lai có điều kiện tương đồng
về rừng với những bài học kinh nghiệm về phòng ngừa THTP vi phạm hành vi Huỷ
hoại rừng có thể trở thành bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hà Tĩnh và thành phố Đã
Nẵng với những kinh nghiệm về phòng ngừa THTP làm Ô nhiễm môi trường, đặc
biệt là môi trường biển… cũng trở thành bài học trong công tác phòng ngừa THTP về
môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh.
4.3. Các giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tôi phạm về môi
trƣờng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
4.3.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với tình hình tội phạm
về môi trường
Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi
trường đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh và xoá bỏ
THTP về môi trường. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm môi trường
đồng thời cũng là hoàn thiện phạm vi hình sự hoá các hành vi phạm tội về môi
trường, hoàn thiện cơ chế xác định THTP về môi trường và do đó tác động trực tiếp
đến hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường. Theo đó, NCS kiến nghị hoàn thiện
bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, bổ sung thêm điều luật khái niệm tội phạm về môi trường. Hiện nay
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa có khái niệm tội
phạm về môi trường, do đó, để thuận lợi trong việc nhận diện nhóm tội phạm này,
NCS đề xuất ghi nhận khái niệm tội phạm về môi trường như sau: Tội phạm về môi
trường là các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do các cá nhân hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện, xâm phạm đến các quan hệ xã hội có nội dung về BVMT tự
nhiên được Bộ luật Hình sự quy định. Bên cạnh đó, cũng cần khẩn trương ban hành
và hoàn thiện các hướng dẫn thi hành Bộ luật này để triển khai áp dụng hiệu quả
trên thực tiễn.
Thứ hai, hình sự hoá bổ sung các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hiện nay tội phạm về
môi trường có 12 tội danh. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều hành vi vi phạm về
môi trường khác cũng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cần được hình sự hoá
127
để được thống kê và phòng ngừa.
Bên cạnh đó, NCS cũng cho rằng không nên bố trí Điều 234 của BLHS năm
2015 tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã trong chương các
tội phạm về kinh tế và nên bố trí ở chương các tội phạm về môi trường bởi các hành
vi này tác động đến các quan hệ về môi trường (bảo vệ môi trường) nhiều hơn tác
động đến quan hệ về kinh tế (bảo vệ trật tự quản lý kinh tế).
Thứ ba, xác định một số tội danh thuộc nhóm phân loại tội phạm đặc biệt
nghiêm qua đó gia tăng các chế tài đối với các tội danh phạm tội về môi trường.
Trong 11 nhóm tội danh được ghi nhận tại Bộ luật Hình sự năm 2015, không có nhóm
tội danh nào thuộc phân loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, các chế tài dành
cho các tội danh cơ bản không ở khung nặng (tù chung thân, tử hình hoặc phạt tiền trên
20 tỷ đồng), mặc dù hậu quả của các hành vi phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đến phạm vi
rất rộng lớn của đời sống xã hội, gây ra nhiều hệ luỵ cho nhiều thế hệ tương lai. Trong
khi đó, nguồn lợi đem lại cho những đối tượng phạm tội lớn khiến cho các chế tài thiếu
tính răn đe. Vấn đề phòng ngừa THTP vì thế cũng kém hiệu quả.
Do đó, NCS đề xuất nghiên cứu đưa một số nhóm tội danh vào phân loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng như: Tội gây ô nhiễm môi trường; Tôi huỷ hoại rừng;
Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại; Tội đưa chất thải vào lãnh thổ
Việt Nam. Đồng thời, cũng tăng khung hình phạt đối với các nhóm tội danh cả đối
với cá nhân lẫn pháp nhân thương mại.
Thứ tư, sửa đổi các quy định về chủ thể phạm tội là pháp nhân thương mại. Dự
báo THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có xu hướng gia tăng của chủ
thể là pháp nhân thương mại. Do đó, một trong những giải pháp quan trọng trong
hoàn thiện pháp luật là nội dung quy định về pháp nhân thương mại nhằm vừa tạo
hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động truy tố pháp nhân thương mại về tội
phạm môi trường, vừa đảm bảo tính răn đe đối với các đối tượng thuộc nhóm này:
- Kiến nghị thay đổi quy định về việc xác định hành vi phạm tội của pháp nhân
thương mại. Khái niệm tội phạm như sau: Khoản 1, Điều 8, BLHS 2015 quy định
về “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, …”. Theo khái niệm này, thì có 02 tội phạm do 02 chủ thể
thực hiện: một là, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý;
128
Hai là, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Việc hiểu như thế
là hoàn toàn phù hợp với quy định về nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 Bộ luật
Hình sự 2015 (quy định rõ nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội (cá nhân) và
nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội).
Tuy nhiên, tại các điều luật cụ thể hóa tiếp theo như: Điều 9 quy định về phân
loại tội phạm; Về yếu tố lỗi được quy định tại các Điều 10, 11; Về trường hợp không
có lỗi quy định Điều 20 và các điều luật khác (đồng phạm, che giấu tội phạm, phạm
tội chưa đạt…) đều chỉ quy định một chủ thể của tội phạm đó là cá nhân, vô hình
dung đã bỏ sót chủ thể pháp nhân thương mại. Thực tiễn đặt ra vấn đề là khi pháp
nhân thương mại phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh
trong trường hợp nào là tội phạm với lỗi cố ý, trường hợp nào sẽ là phạm tội với lỗi
vô ý, bởi lẽ, Bộ luật Hình sự không quy định.
Mặt khác, theo Điều 75 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại: “1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Hành vi phạm tội được thực
hiện nhân danh pháp nhân thương mại; b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích
của pháp nhân thương mại; c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”. Theo quy
định này, trong 04 điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được
quy định tại Khoản 1, thì tội phạm mà pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự
chỉ có thể là do cá nhân thực hiện “nhân danh pháp nhân thương mại” và “có sự chỉ
đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại”. Do đó, tại Khoản 2 Điều
75 quy định: “Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ
trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Điều này một lần nữa khẳng định, chỉ có cá nhân
thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn Khoản 1 Điều 75 thì pháp nhân thương mại phạm
tội mới chịu trách nhiệm hình sự và sẽ không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.
Từ phân tích trên cho thấy, chỉ có một tội phạm do cá nhân thực hiện, nhưng
có thể có đến 02 chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự là cá nhân và pháp nhân
thương mại. Do đó, cần sửa đổi Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 theo hướng bỏ cụm từ
“hoặc pháp nhân thương mại” và cần bổ sung một khoản có nội dung quy định “Đối
với hành vi của pháp nhân thương mại thực hiện bị coi là tội phạm và phải chịu trách
129
nhiệm hình sự khi đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này”. Theo hướng sửa đổi
này, khái niệm về pháp nhân thương mại phạm tội sẽ hoàn toàn phù hợp với các điều
luật cụ thể hóa của BLHS.
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề Đình chỉ hoạt động có thời hạn của
pháp nhân thương mại. Tại Khoản 1 Điều 78 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Đình
chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong
một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu
quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế”. Theo quy định này, chúng tôi thấy
có sự mâu thuẫn ngay trong nội tại của điều luật, cụ thể khi gây thiệt hại đến tính
mạng con người, thì trên thực tế, sẽ không thể khắc phục được, ví dụ một người đã
chết thì không khắc phục được, trong khi điều luật lại quy định là có khả năng khắc
phục trên thực tế là không khả thi.
Mặt khác, điều luật quy định chỉ buộc pháp nhân thương mại phạm tội khắc
phục hậu quả, thực tế đặt ra là, nếu sau khi khắc phục hậu quả và chịu hình phạt là
đình chỉ hoạt động một thời gian theo Khoản 2 Điều 78 Bộ luật Hình sự 2015, pháp
nhân thương mại tiếp tục được hoạt động lại và tiếp tục tái phạm gây ra hậu quả như
trước đây, thì rõ ràng tác dụng của hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn của pháp
nhân thương mại phạm tội không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vấn đề đặt ra
là, khắc phục nguyên nhân gây ra hậu quả hay là khắc phục hậu quả, theo NCS,
phải quy định khắc phục nguyên nhân gây ra hậu quả mới đảm bảo tính triệt để. Bởi
lẽ, khi bị đình chỉ hoạt động có thời hạn, pháp nhân thương mại có thời gian rà soát
lại nguyên nhân gây ra hậu quả và hướng khắc phục những nguyên nhân đó, chứ
không phải chỉ có việc khắc phục hậu quả do mình gây ra là xong.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, cần hoàn thiện Khoản 1 Điều 78
BLHS 2015 theo hướng bỏ cụm từ gây thiệt hại đến “tính mạng” và thay cụm từ “hậu
quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế” bằng cụm từ “nguyên nhân gây ra
hậu quả đó có khả năng khắc phục trên thực tế”. Cụ thể Khoản 1 Điều 78 Bộ luật
Hình sự 2015 được sửa đổi như sau:
“Điều 78. Đình chỉ hoạt động có thời hạn: Đình chỉ hoạt động có thời hạn là
tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà
pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến sức khỏe con người, môi trường
hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và nguyên nhân gây ra hậu quả đó có khả năng
130
khắc phục trên thực tế”.
- Cuối cùng, Theo quy định tại Điều 80 Bộ luật Hình sự 2015 thì việc cấm
kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định được áp dụng khi xét
thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong
lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho
xã hội và thời hạn cấm này được quy định từ 01 năm đến 03 năm. Xét về bản chất,
thì quy định này giống về tính chất cưỡng chế so với hình phạt đình chỉ hoạt động có
thời hạn đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều 78 Bộ luật Hình
sự 2015, điều khác biệt ở chổ, đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình phạt chính, còn
cấm kinh doanh trong một số hoạt động nhất định là hình phạt bổ sung.
Tuy nhiên, xét về tính nghiêm khắc, thì hình phạt bổ sung cấm kinh doanh
trong một số hoạt động nhất định nghiêm khắc hơn hình phạt chính là đình chỉ hoạt
động có thời hạn. Bởi cấm kinh doanh trong một số hoạt động nhất định có thời hạn
từ 01 năm đến 03 năm, còn đình chỉ hoạt động có thời hạn chỉ trong thời hạn từ 06
tháng đến 03 năm. Quy định như trên thì tính cưỡng chế của hình phạt chính không
bằng hình phạt bổ sung là không phù hợp. Do đó, theo NCS, cần quy định thời hạn
của hình phạt bổ sung cấm kinh doanh trong một số hoạt động nhất định phải thấp
hơn thời hạn của hình phạt chính là đình chỉ hoạt động có thời hạn mới bảo đảm được
tính cưỡng chế của hình phạt chính.
4.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP
về môi trường là giải pháp đầu tiên vì đóng vai trò là tiền đề để thực hiện hiệu quả
các giải pháp khác. Xuất phát từ các hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh như đã phân
tích tại phần thực trạng, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về phòng ngừa THTP về môi trường phải được thực hiện phù hợp với các nhóm đối
tượng khác nhau và bằng việc ứng dụng nhiều phương tiện, cách thức tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật mới, ứng dụng công nghệ thông tin và phù hợp với tình
hình kinh tế, xã hội.
a. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng ngừa
THTP về môi trường cho các cơ quan chức năng, đoàn thể, trường học.
Mặc dù đây là nhóm chủ thể thực hiện phòng ngừa THTP về môi trường,
nhưng không vì thế mà công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công
131
tác phòng ngừa THTP về môi trường cho nhóm đối tượng này bị xem nhẹ. Thực tế
cho thấy, với lực lượng nhân sự được đào tạo về chuyên môn bảo vệ pháp luật trong
lĩnh vực môi trường chiếm tỷ lệ thấp, cộng với các quy định pháp lý và các diễn
biến THTP về môi trường diễn biến phức tạp, thay đổi liên tục và nội dung lớn, khó
nắm bắt đã khiến cho nhu cầu tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về phòng ngừa THTP về môi trường cho nhóm đối tượng này là cấp thiết và liên tục.
Việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP
về môi trường với các nhóm đối tượng này được thực hiện tuỳ thuộc vào từng đối
tượng cụ thể như:
- Đối với Uỷ ban nhân dân các cấp. Với tư cách là cơ quan quản lý hành chính
nhà nước thẩm quyền chung, vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường là một nội
dung trong rất nhiều nội dung quản lý nhà nước của nhóm chủ thể này. Biện pháp
tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi
trường cho các thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp và người đứng đầu các cơ quan
này là triển khai các lớp cập nhật kiến thức pháp lý và thực tiễn và tập huấn các kỹ
năng liên quan đến việc ra quyết định và triển khai một số nội dung thuộc thẩm
quyền của Uỷ ban nhân dân các cấp liên quan đến phòng ngừa THTP về môi
trường. Các lớp này do Sở Nội vụ và Công an tỉnh liên kết tổ chức thường niên và
năm trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hằng năm của ngân
sách tỉnh. Các báo cáo viên được lựa chọn bao gồm các chuyên gia pháp lý thực
hiện cập nhật kiến thức pháp lý; những người làm công tác bảo vệ pháp luật ở địa
phương như: Công an tỉnh, VKSND tỉnh và Toà án nhân dân tỉnh thực hiện cập nhật
tình hình thực tiễn và những chuyên gia công tác trong các cơ quan quản lý nhà
nước cấp trung ương và cấp tỉnh có nội dung liên quan đến phòng ngừa THTP về
phòng ngừa THTP về môi trường thực hiện hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ.
- Đối với các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý nhà nước trực tiếp
liên quan đến công tác phòng ngừa THTP về môi trường. Các cơ quan quản lý nhà
nước thẩm quyền riêng như Sở Tài nguyên và Môi trường và Phòng Tài nguyên và
Môi trường cấp huyện phải được cập nhật nội dung pháp lý chuyên ngành và các kỹ
năng thực hiện cụ thể các hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường. Các lớp cập
nhật kiến thức và tập huấn kỹ năng được thực hiện trong chương trình bồi dưỡng cán
bộ, công chức ngành môi trường hàng năm từ ngân sách nhà nước. Giảng viên và
báo cáo viên bao gồm: chuyên gia pháp lý từ các trường đại học, viện nghiên cứu…
132
và chuyên gia thực tiễn từ Bộ Tài nguyên và Môi trường đối với bồi dưỡng cấp tỉnh
và từ Sở Tài nguyên và Môi trường đối với bồi dưỡng cấp huyện. Tuy nhiên, cần
thống nhất phương pháp giảng dạy phải là phương pháp thực tiễn bằng cách “cầm
tay chỉ việc” qua các tình huống thay vì chỉ đơn thuần lý thuyết như nhiều lớp tập
huấn đang được tổ chức trên địa bàn tỉnh hiện nay.
- Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật có chức năng phòng ngừa THTP về môi
trường. Đây là nhóm các chủ thể có chuyên môn pháp lý về phòng ngừa THTP về
môi trường, tuy nhiên, không vì thế mà đối tượng này không cần được tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục pháp luật về lĩnh vực này. Đối với lực lượng công an mà trọng
tâm là công an môi trường các cấp ở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cần phải luôn được
tuyên truyền về vai trò chủ lực của mình trong phòng ngừa THTP về môi trường.
Đồng thời, việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng cần được thực hiện thường
niên bởi các chuyên gia về tội phạm môi trường. Đối với lực lượng Viện Kiểm sát
và Toà án, đây là hai cơ quan xét xử, hoạt động phòng ngừa THTP của hai cơ quan
này chủ yếu đến từ việc phối hợp với các cơ quan khác và đến từ hiệu ứng của hoạt
động tố tụng nói chung và xét xử nói riêng các vụ án về môi trường. Do đó, việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với hai cơ quan kể trên chủ yếu để họ nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động phòng ngừa THTP về môi trường và
tích cực, thường xuyên lồng ghép, tạo ra các hiệu ứng nhằm nâng cao hiệu quả
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh thông qua hoạt động tố
tụng. Việc thường xuyên tuyên truyền cho nhóm chủ thể này có thể giao cho Sở Tư
pháp và Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật của tỉnh Hà Tĩnh.
- Đối với các tổ chức chính trị - xã hội và trường học. Các tổ chức chính trị -
xã hội và trường học đóng vai trò là cơ quan tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật cho người dân và xã hội về phòng ngừa THTP về môi trường. Tuy nhiên, bản
thân hai nhóm chủ thể kể trên cũng cần được củng cố nội dung chuyên môn về pháp
lý, cũng như cần có những tác nhân thúc đẩy và duy trì việc thực hiện các vai trò
của này hai chủ thể.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội. Việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường được thực hiện bởi Hội đồng phổ
biến, giáo dục pháp luật ở địa phương và cơ sở. Nội dung của tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cho các chủ thể này là hoạt động cập nhật và cung cấp các vấn đề chuyên
sâu về phòng ngừa THTP về môi trường để đảm bảo kiến thức pháp lý cũng như
133
thái độ tích cực của các chủ thể này. Đồng thời, cũng cần được tập huấn về chuyên
môn bằng các lớp bồi dưỡng kỹ năng nằm trong chương trình bồi dưỡng của từng tổ
chức chính trị - xã hội khác nhau. Trong đó, kỹ năng cần được bồi dưỡng trọng tâm
là kỹ năng tuyên truyền và phổ biến pháp luật của các tổ chức đoàn thể, hội… cho
các thành viên và cho cộng đồng. Phương pháp bồi dưỡng này cũng theo yêu cầu
“cầm tay chỉ việc”.
Đối với các trường học. Trường học cần được tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật với cả giáo viên và học sinh. Đối với giáo viên, công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường cho giáo viên và học sinh
cấp cơ sở, trong đó chủ yếu là cấp trung học phổ thông. Theo đó, các giáo viên có
vai trò chủ yếu trong hoạt động này gồm: lãnh đạo nhà trường – người quyết định
đến quy mô và tính hiệu quả trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật
về môi trường trong đơn vị đào tạo; giáo viên chủ nhiệm – người trực tiếp quản lý
học sinh và giáo viên môn học Giáo dục công dân – người trực tiếp giảng dạy vấn đề
phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng và các vấn đề pháp lý nói chung. Nội
dung tuyên truyền và phổ biến pháp luật đối với giáo viên là tình hình và vai trò của
phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và các kiến thức pháp lý
về THTP về môi trường và các giải pháp phòng ngừa tình hình đó trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh.
Đối với học sinh, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về phòng ngừa THTP về môi trường phải vừa gia tăng lưu lượng, vừa áp dụng các
phương pháp và công cụ mới. Trước hết, để khắc phục tình trạng tuyên truyền, phổ
biến theo kiểu phong trào như hiện nay, các trường học cần có một chương trình về
lộ trình các hoạt động phục vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa
THTP về môi trường trong năm học. Đồng thời, cũng cần triển khai ứng dụng các
trang mạng xã hội như: Facebook, Zalo và Youtube vào công tác tuyên truyền của
trường học. Việc ứng dụng các mạng xã hội này xuất phát từ thực tế hiện nay tỷ lệ
rất lớn học sinh sử dụng các mạng xã hội nói trên với tần xuất rất lớn trong ngày. Do
đó, tập trung tuyên truyền vào thói quen này sẽ đảm bảo thích ứng thị hiếu của học
sinh. Cụ thể, theo khảo sát hiện nay mỗi trường đều có một trang thông tin Facebook
và Zalo riêng, thậm chí mỗi khối và mỗi lớp đều có những trang tương tự. Các nội
dung tuyên truyền cần được đăng tải trên các trang này với tần suất mỗi tháng 01 lần
134
để đủ tạo ra các hiệu ứng về truyền tin và gây sự chú ý.
Ngoài ra, cần sáng tạo và đưa vào ứng dụng các giải pháp là những hoạt động
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường
mới, thay thế các hoạt động nói chuyện chuyên đề hay các cuộc thi viết toàn trường
(có sẵn đáp án) vốn không mang đến nhiều hiệu quả như hiện nay. Các hoạt động
mới có thể bao gồm: tổ chức cho học sinh tham gia trồng cây gây rừng cùng các lực
lượng lâm nghiệp; tổ chức các đoàn tham quan thực tế, tìm hiểu về hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật về lĩnh vực môi trường như: Kiểm lâm, Cảnh sát môi
trường, Viện Kiểm sát, Toà án… Thậm chí có thể tổ chức cho sinh viên dự thính
các phiên toà mà nội dung xét xử về tội phạm môi trường hay tham quan các trại
tạm giam, tạm giữ và trại giam…
- Đối với người dân. Đây là đối tượng cần phải tăng cường tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường chủ đạo. Xuất phát từ
việc nhân dân chính là chủ thể cơ bản gây ra thực tiễn THTP về môi trường ở Hà
Tĩnh. Đồng thời, muốn công tác phòng ngừa có hiệu quả, nhất thiết phải cần đến sự
tham gia của nhân dân.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa
THTP về môi trường cho nhân dân hiện nay phải chú ý hai vấn đề:
- Thực chất và hiệu quả hoá công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật bằng cách áp dụng các phương thức mới. Trước hết, cần thay đổi cách làm phong
trào như hiện nay bằng một kế hoạch với lộ trình cụ thể trong hoạt động của các chủ
thể làm công tác tuyên truyền. Trong đó, Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật của
các địa phương và cơ sở là hạt nhân của hoạt động này bên cạnh các đoàn, hội và
trường học. Tiếp theo, nội dung tuyên truyền cần được đổi mới theo hướng hài hước,
gắn liền với các tình huống của cuộc sống hằng ngày đối với các bài tuyên truyền;
có tính sinh động, mới mẻ đối với tranh, ảnh, phim tuyên truyền, cổ động; có tính
đối kháng, thiết thực đối với các hội thi… Đáp ứng được những yêu cầu trên mới
đảm bảo được thu hút sự chú ý của người dân và xã hội về nội dung tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục pháp luật. Cuối cùng, cần xem xét cải tiến các biện pháp tuyên
truyền hiện nay như: loa phát thanh xã, truyền hình địa phương và các bảng tin tại
nơi công cộng. Đối với loa phát thanh xã và đài truyền hình địa phương phải thay
đổi nội dung phát sóng và phong phú hoá các nội dung này. Đồng thời cũng cần thay
đổi khung giờ phát sóng. Ví dụ, có thể cân nhắc khung giờ từ 8h đến 10h sáng và
135
14h đến 17h chiều tại các vùng nông thôn vì đây là khoảng thời gian nông dân làm
đồng. Từ 5h đến 7h sáng và 16h đến 18h giờ chiều ở đô thị, vì đây là khoảng thời
gian người sống ở đô thị đi tập thể dục và giải trí ngoài trời. Đối với các bảng tin tại
nơi công cộng cần xây dựng bảng độc lập tuyên truyền các nội dung về phòng ngừa
THTP về môi trường tại các địa phương có THTP này phức tạp, có xu hướng diễn
biến tăng.
Bên cạnh đó, phương pháp tuyên truyền bằng xử án lưu động cũng cần được
triển khai thường xuyên với mật độ lớn hơn để vừa nâng cao tính tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật, vừa gia tăng tính răn đe. Hiện đại hoá công tác tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật bằng các ứng dụng các công cụ tuyên truyền
mới. Người dân hiện nay có một tỷ lệ lớn sử dụng smartphone và đây là tiền đề quan
trọng để chính quyền và các tổ chức đoàn thể thay đổi công tác tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật theo hướng ứng dụng các công cụ mới. Thay vì lệ thuộc
hoàn toàn vào hệ thống loa phát thanh xã, phường và các bảng tin, biểu ngữ truyền
thống, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thời hiện đại phải sử dụng kết
hợp cả Facebook, Zalo và Youtube. Đối với Facebook, hiện nay theo thống kê có
trên 57% người dân sử dụng ở Việt Nam [25]. Nghĩa là tương đương khoảng gần 60
triệu người. Hiện nay ở Hà Tĩnh chưa có số liệu thống cụ thể, nhưng nếu lấy tỷ lệ
tương đương với toàn quốc, số người sử dụng Facebook trên địa bàn tỉnh khoảng
950.000 người trên tổng dân số 1.500.000 người. Đây là cơ sở quan trọng để triển khai
ứng dụng Facebook vào việc tuyên truyền phòng ngừa THTP về môi trường. Phương
pháp chủ yếu khi sử dụng công cụ này là lập chuyên trang Facebook về tuyên truyền
phòng ngừa THTP về môi trường và mua quảng cáo bằng tiền ngân sách. Chi phí mua
quảng cáo dựa vào số lượng người tiếp cận được tin tức và số ngày duy trì trạng thái
quảng cáo. Ví dụ: Chi phí 2.000.000 đồng sẽ có 25 ngày duy trì trạng thái quảng cáo
với số người được tiếp cận cam kết trên 25.000 người. Với dân số hiện tại trung
bình mỗi xã có 11.000 người, mỗi đợt quảng cáo sẽ ứng dụng được cho 02 xã. Giả
sử mỗi quý 01 đợt quảng cáo, như vậy mỗi xã một năm phục vụ tuyên truyền phòng
ngừa THTP về môi trường chỉ tiêu tốn của ngân sách 4.000.000 đồng, ít hơn nhiều
so với các hoạt động tuyên truyền theo kiểu phong trào khác, trong khi đảm bảo tiếp
cận rộng rãi đối tượng cần tuyên truyền. Đối với Zalo, đây là phần mềm thuần Việt
với sức mạnh chủ yếu là kết nói hội nhóm, do đó rất phù hợp để ứng dụng trong
tuyên truyền của các tổ chức đoàn, hội khi thực hiện công tác này với các hội viên.
136
Hiện nay theo thống kê, có khoảng 47.000.000 người dùng Zalo tại Việt Nam [18].
tương đương với 47% dân số toàn quốc. Con số này ước tính ở Hà Tĩnh khoảng hơn
600.000 người. Việc sử dụng các hội nhóm tuyên truyền qua Zalo có yêu cầu kết nối
và phê duyệt đơn giản, nội dung tuyên truyền dễ được chia sẻ và kiểm soát bởi
người quản lý và quan trọng là hoàn toàn miễn phí. Cuối cùng, với việc ứng dụng
kênh Youtube. Phương tiện này có đối tượng sử dụng chủ yếu là những người trẻ và
có nhiều thời gian. Việc xây dựng nội dung tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật qua kênh này cũng phức tạp và đòi hỏi tính chuyên nghiệp hơn. Do đó, không
nhất thiết phải thành lập một kênh riêng tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về phòng
ngừa THTP về môi trường mà chỉ cần một kênh tuyên truyền, phổ biến pháp luật
chung, trong đó vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường chỉ là một nội dung cấu
thành. Để hoạt động tuyên truyền trên phương tiện này có hiệu quả, cần phải xây
dựng các video vừa tuyên truyền vừa mang tính giải trí và các video thực tế. Do đó,
việc xây dựng và quản lý phương tiện này nên giao cho Đoàn Thanh niên và trường
học.
Ngoài ra, địa phương cũng cần triển khai tuyên truyền trên các trang báo điện
tử có lượng người truy cập lớn của cả trung ương và địa phương để gia tăng phạm vi
và đối tượng tiếp cận.
4.3.3. Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về môi trường
Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về môi trường là đòi hỏi phải tăng hoạt
động và hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện thẩm quyền liên
quan đến BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường ở cả các phương diện: hoàn thiện
bộ máy và nâng cao năng lực nhân sự; nâng cao sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách; nâng
cao hiệu quả triển khai các chính sách BVMT và nâng cao hiệu lực, hiệu quả các công
cụ, biện pháp quản lý nhà nước về BVMT.
Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy và nâng cao năng lực nhân sự quản lý nhà nước về
môi trường. Con người luôn là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Muốn tăng
cường phòng ngừa THTP về môi trường, thiết yếu phải hoàn thiện bộ máy và nâng cao
năng lực nhân sự quản lý nhà nước về môi trường các cấp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
a. Đối với hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về môi trường.
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về môi trường là các nội dung liên quan
đến kiện toàn lại tổ chức bộ máy theo hướng phân công cụ thể thẩm quyền để tránh
chồng chéo, đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ qua lại, tương hỗ lẫn nhau giữa
các cơ quan trong việc thực hiện thẩm quyền về quản lý môi trường. Theo đó, các
137
nội dung cụ thể bao gồm:
- Phân định thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường nói chung và phòng
ngừa THTP về môi trường nói riêng. Trước hết để quá trình hoạt động của cơ quan
nhà nước về vấn đề môi trường và phòng ngừa THTP về môi trường được thông
suốt và tập trung, thống nhất cần phải có sự phân công của một cơ quan chủ quản
vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh. Cơ quan này sẽ thực hiện
tập trung quản lý vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường vừa phải gánh chịu mọi hệ
quả bất lợi nếu không đảm bảo được yêu cầu về kết quả quản lý. Bên cạnh đó, xác
định hệ thống các cơ quan phối hợp. Mỗi cơ quan phối hợp cần được quy định cụ thể
về nội dung quản lý và nghĩa vụ phải phối hợp với cơ quan chủ quản về vấn đề phòng
ngừa THTP về môi trường theo quy định của thẩm quyền. Không những thế, vấn đề
mối quan hệ trong ngành dọc của hệ thống cơ quan chủ quản, hệ thống cơ quan phối
hợp và quan hệ ngành dọc chéo giữa cơ quan chủ quản cấp trên với cấp dưới của đơn
vị phối hợp cùng cấp cũng được xác lập rõ ràng, chi tiết. Vừa đảm bảo được tính khoa
học, thứ bậc hành chính nhà nước, song cũng đảm bảo được tính linh hoạt, mềm dẻo và
phối hợp nhịp nhàng trong công tác phòng ngừa THTP về môi trường.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công
tác phòng ngừa THTP về môi trường.
* Đối với Cơ quan điều tra
Để nâng cao chất lượng hoạt động của Cơ quan điều tra trong công tác phòng
ngừa tình hình các tội phạm về môi trường, Cơ quan điều tra cần làm tốt một số việc
sau đây:
+ Đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác phòng ngừa THTP
về môi trường. Vì quần chúng nhân dân là tai mắt của lực lượng cảnh sát môi trường
trong việc phát hiện các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật
về BVMT.
+ Phòng, chống tội phạm về môi trường là lĩnh vực nghiệp vụ mới của lực
lượng CAND. Chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật về BVMT thường
khó phát hiện, thu thập, bảo quản. Hành vi xâm hại đến môi trường lại diễn ra trong
một thời gian dài, đến khi bị phát hiện thì nó đã gây ra hậu quả lớn và trên diện rộng
cho xã hội. Vì vậy, để đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm về môi trường cần phải
nâng cao năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ điều tra.
Trước hết mỗi cán bộ điều tra phải tuân thủ pháp luật và nắm vững quy định của Bộ
Công an về nhiệm vụ công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng cảnh sát môi trường.
138
Trong đó, cần nắm vững đối tượng điều tra nghiên cứu, đấu tranh, phòng ngừa đặc
biệt là các vi phạm pháp luật về môi trường trong sản xuất, kinh doanh, xuất, nhập
khẩu, thăm dò khai thác tài nguyên, môi trường sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên,
khu dân cư… Bên cạnh đó, cán bộ điều tra phải thực hiện nhiệm vụ với tinh thần
tích cực, khẩn trương, kiên quyết và thận trọng trong công tác điều tra các tội phạm
về môi trường.
+ Cần tổ chức nghiên cứu các đề tài khoa học, các chuyên đề về BVMT,
phòng ngừa THTP về môi trường; đồng thời tăng cường mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức phòng ngừa THTP môi trường cho đội ngũ cán bộ điều tra. Xây
dựng hệ thống tài liệu tham khảo phục vụ công tác điều tra. Thường xuyên mở những
lớp tập huấn, hội nghị chuyên đề, tổng kết, rút kinh nghiệm về việc Cơ quan điều tra
áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường trong
thực tiễn phòng ngừa tình hình loại tội phạm này.
+ Cần trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại trong công tác phòng
ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT của lực lượng Cảnh sát nhân
dân. Đó là các thiết bị đo kiểm; thu, bảo quản và vận chuyển mẫu; phân tích môi
trường về đất, nước, khí, chất rắn, phóng xạ… Việc quản lý, sử dụng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật này phải đảm bảo yêu cầu về kiểm định, đo lường chất lượng của
Nhà nước và theo đúng quy định, hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. Các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình hoạt động, sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ khi có yêu cầu của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành việc giám sát, phát hiện, xử lý đối với các hành vi vi phạm được phát hiện
bằng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật về môi trường và có quyền khiếu nại theo quy
định của pháp luật. Nghiêm cấm các hành vi cản trở, hạn chế hoặc vô hiệu hóa tính
năng kỹ thuật của các phương tiện, thiết bị kỹ thuật về môi trường.
+ Trong công tác phối kết hợp với các lực lượng, cần phối hợp với cơ quan tài
nguyên môi trường và các cơ quan chức năng khác có liên quan để trao đổi thông tin
nắm bắt tình hình vi phạm pháp luật về BVMT cũng như việc phát hiện tội phạm về
môi trường; xây dựng quy chế phối hợp liên ngành trên cơ sở đó Cơ quan điều tra
cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án, Viện Kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án về các tội phạm về môi trường để đảm bảo xử lý đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
139
* Đối với Viện Kiểm sát nhân dân:
VKSND với chức năng là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố. Nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình các tội phạm về môi
trường, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKSND các cấp
phải tăng cường thực hiện tốt vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, để đẩy mạnh việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các tội phạm về
môi trường, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh về các tội phạm về môi trường
không những có tác dụng đảm bảo trừng trị và giáo dục người phạm tội, mà còn có
tác dụng răn đe, phòng ngừa chung đối với những người có nguy cơ thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật về BVMT, đồng thời làm cho những người đã phạm tội này
không còn điều kiện dễ dàng tiếp tục thực hiện tội phạm.
* Đối với Tòa án nhân dân
TAND có vị trí trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm trong các hoạt động
cải cách tư pháp, nhiệm vụ chủ yếu của Tòa án là phải nâng cao chất lượng xét xử,
chống oan sai và bỏ lọt tội phạm, việc áp dụng pháp luật đúng đắn trong công tác xét
xử các vụ án về tội phạm về môi trường là một vấn đề quan trọng. Từ việc xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ phát huy tính giáo dục, răn đe và phòng
ngừa người phạm tội. Thông qua tổng kết thực tiễn xét xử từ đó chỉ ra nguyên nhân,
điều kiện phát sinh loại tội phạm này để kiến nghị các cơ quan chức năng áp dụng
các biện pháp khắc phục những thiếu sót trong công tác xây dựng và áp dụng pháp
luật. Nghiên cứu thành lập Toà án Môi trường. Việc thành lập Tòa Môi trường là
đáp ứng sự đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn: Thành lập Tòa Môi trường là động lực
quan trọng cơ bản giải quyết thiếu sót về hiệu lực quản lý hành chính, có thể giải
quyết các hạn chế trong cơ chế BVMT hiện nay.
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy thực trạng vi phạm pháp luật
nghiêm trọng của các pháp nhân trong các lĩnh vực liên quan đến môi trường. Các
cơ quan có thẩm quyền đã có nhiều cố gắng xử lý nghiêm khắc trong khuôn khổ
phạm vi mà pháp luật hiện hành quy định, góp phần vào phòng ngừa và đấu tranh
với các vi phạm pháp luật liên quan đến môi trường. Tuy nhiên, việc xử lý vi phạm
của pháp nhân còn nhiều bất cập và hạn chế do nhiều hành vi vi phạm nguy hiểm,
phổ biến trong lĩnh vực môi trường chưa được quy định là tội phạm, trong khi mức
xử phạt hành chính đối với tổ chức vi phạm còn quá thấp... Điều này khiến tác dụng
phòng ngừa của việc xử lý rất hạn chế, thiếu triệt để. Thông thường, việc xử lý hình
140
sự một số cá nhân lãnh đạo, đại diện pháp nhân là loại trừ xử phạt hành chính pháp
nhân; và ngược lại, việc xử phạt hành chính pháp nhân lại thường loại trừ trách nhiệm
của cá nhân. Trong khi đó, biện pháp xử phạt hành chính không bao giờ tương xứng
với hành vi vi phạm và những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Mặt khác, do thiếu
thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, khách quan, độc lập; thiếu cơ quan chuyên trách và
do thời hạn giải quyết ngắn, các cơ quan có thẩm quyền rất khó khăn trong việc xác
định, chứng minh vi phạm; pháp nhân vi phạm cũng khó khăn trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình như không nhận được sự trợ giúp của người bào chữa,
quyền tố tụng rất hạn chế... Ngoài ra, trong các vụ việc liên quan đến môi trường,
việc thi hành án cũng có nhiều bất cập, khó khăn. Quyết định xử phạt hành chính,
buộc khắc phục hậu quả... rất khó được thi hành trên thực tế với tính cưỡng chế thấp
so với việc thi hành bản án, quyết định tư pháp của Tòa án.
Việc thành lập Tòa Môi trường là biểu hiện của sự chuyên nghiệp hóa trong
xét xử các vụ án có liên quan đến môi trường: Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy,
các thẩm phán còn thiếu chuyên môn, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành về xét xử vụ
án liên quan đến môi trường nên chất lượng, hiệu quả giải quyết các vụ án có liên
quan đến môi trường chưa cao. Vì vậy, trong phiên tòa xét xử các vụ án về môi
trường, ngoài thẩm phán vẫn cần có các chuyên gia kỹ thuật trong các lĩnh vực như
quy hoạch đô thị, khoa học môi trường, BVMT hoặc đánh giá môi trường, đánh giá
đất đai, kiến trúc, xây dựng, khảo sát đo lường, quản lý nguồn tài nguyên… để có thể
xử lý và giải quyết các vụ việc môi trường một cách khoa học, hiệu quả.
Thông qua chuyên môn hóa việc xét xử, việc thực hiện vận dụng pháp luật
một cách thống nhất là xu hướng của cải cách Tòa án ở Việt Nam hiện nay. Từ ngày
thành lập (13/9/1945) đến sau ngày 24/01/1946, hệ thống tòa án ở Việt Nam chỉ có
ba loại: Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt, Toà án thường. Nhưng đến nay, hệ thống
Tòa án của Việt Nam đa có thêm nhiều Tòa chuyên trách khác như: Tòa Hành chính,
Tòa Kinh tế, Tòa Lao động. Theo Luật tổ chức TAND (sửa đổi) được Quốc hội
thông qua ngày 24/11/2014, hệ thống Tòa án ở Việt Nam sẽ có thêm hai tòa chuyên
trách là Tòa gia đinh và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Tất cả những
điều này cho thấy, cùng với sự tiến triển của xã hội, việc thành lập tòa chuyên trách
xét xử các vụ án liên quan đến môi trường là một xu hướng tất yếu. Mục đích chính
là thực hiện tập trung thẩm quyền của vụ án thông qua phương thức “vụ án loại nào
thì xét xử loại đó”, đồng thời đảm bảo tối đa hóa việc vận dụng pháp luật một cách
141
thống nhất. Đồng thời, ở một mức độ nhất định, việc có riêng Tòa Môi trường còn
giúp tiết kiệm nguồn lực tư pháp, nâng cao hiệu quả xét xử, thực hiện chuyên môn
hóa và chuyên nghiệp hóa thẩm phán.
Việc thành lập Tòa Môi trường phù hợp với mô hình tổ chức Tòa án của nhiều
nước trên thế giới: Theo thống kê chưa đầy đủ, các quốc gia trên thế giới như Úc,
Nam Phi, Mỹ (một số tiểu bang), Bangladesh, Kuwait, Thụy Điển, New Zealand,
Trung Quốc… đều đa thành lập Tòa Môi trường. Cụ thể, sau khi cho ra đời bộ luật
môi trường đầu tiên, ngay lập tức Thủy Điển đã thành lập Tòa Môi trường để xử phạt
các hành vi phá hoại môi trường một cách hiệu quả. Những năm gần đây Nam Phi,
Pakistan cũng bắt đầu thành lập Tòa Môi trường. Ở Trung Quốc, TAND và cơ quan
BVMT đa phối hợp bằng nhiều phương thức khác nhau, hình thành các hình thức
Tòa Môi trường khác nhau nhằm tối đa hóa hiệu quả xử lý các vụ việc môi trường.
Chẳng hạn, năm 2004, khu Sa Hà Khẩu thành phố Đại Liên đã thành lập Tòa án lưu
động BVMT, chủ yếu nhắm vào vấn đề thực hiện luật hành chính môi trường và đa
cung cấp cho Trung Quốc những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc thành lập
Tòa Môi trường. Năm 2007, TAND trung cấp thành phố Quý Dương thành lập Tòa án
xét xử BVMT, đồng thời thành lập phòng BVMT, TAND thành phố Thanh Trấn,
chuyên xét xử vụ án vi phạm luật môi trường. Tháng 5/2014 Trung Quốc thành lập tòa
án chuyên trách xử lý các vụ án môi trường đầu tiên thuộc TAND cấp tỉnh xét xử tại
tỉnh Phúc Kiến. Đây là tỉnh được lựa chọn để thí điểm chính sách dân sự hóa việc
BVMT của Trung Quốc. Như vậy, có thể thấy, việc thông qua các biện pháp tư pháp để
BVMT là một xu hướng quốc tế.
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, Việt Nam nên lựa chọn mô hình Tòa Môi
trường theo hướng Tòa chuyên trách nằm trong hệ thống TAND. Theo đó, Tòa Môi
trường nên được thành lập ở TAND cấp tỉnh và TAND cấp cao, nhưng cũng không
phải tràn lan ở tất cả các tỉnh, mà căn cứ vào số lượng các vụ việc, đội ngũ thẩm
phán, công chức để có quyết định thành lập cho phù hợp. Tòa Môi trường ở TAND
cấp cao có thẩm quyền phúc thẩm các vụ việc có liên quan đến môi trường* .Việt
Nam không nên thành lập Tòa Môi trường ở TAND cấp huyện và ở một số TAND
cấp tỉnh bởi những lý do sau:
+ Ở Việt Nam sự phát triển kinh tế giữa các khu vực có sự chênh lệch khá lớn,
việc phát sinh vấn đề môi trường cũng được “khu vực hóa” rõ ràng. Có những tỉnh
mỗi năm có thể phát sinh một lượng lớn các tranh chấp môi trường, song cũng có
142
những nơi trong một thời gian dài chỉ phát sinh rất ít các khiếu kiện tranh chấp liên
quan đến môi trường. Như vậy, xem xét từ góc độ tiết kiệm chi phí, chỉ nên thành
lập Tòa Môi trường ở TAND cấp tỉnh và Tòa án cấp cao.
+ Các vụ việc liên quan đến môi trường là những loại việc khó, phức tạp, đòi
hỏi phải được giải quyết bởi những thẩm phán có năng lực, chuyên môn cao, dày dặn
kinh nghiệm; trong khi đó, đội ngũ thẩm phán TAND cấp huyện chủ yếu là những
người mới được bổ nhiệm thẩm phán lần đầu, trình độ còn hạn chế, chưa có nhiều
kỹ năng, kinh nghiệm xét xử. Mặt khác, thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, một số
TAND còn có biểu hiện không độc lập trong xét xử, đặc biệt là tại các TAND cấp
huyện. Trong quá trình xét xử, các thẩm phán phải chịu nhiều áp lực và sự can thiệp
của cấp ủy và chính quyền địa phương. Điều này đa làm ảnh hưởng đến sự độc lập
tư pháp của Tòa án và công bằng trong xét xử. Trong nhiều trường hợp, chính quyền
địa phương dễ dàng lấy cớ “cần phát triển kinh tế địa phương” để gây áp lực đối với
Tòa án, dẫn đến khó khăn trong quá trình điều tra, xét xử và thi hành án. Đối với
TAND cấp tỉnh, chất lượng thẩm phán cao hơn, đồng thời chịu sức ép từ cấp Ủy và
chính quyền địa phương ít hơn nên có thể thực hiện xét xử công bằng, độc lập.
Như vậy, việc thành lập Tòa Môi trường để khắc phục những trở ngại trước
mắt của công tác BVMT, giải quyết tranh chấp môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý
môi trường, tăng cường truy cứu trách nhiệm sự cố môi trường, thúc đẩy cải cách vấn
đề môi trường là rất cần thiết và cấp bách. Đây cũng là biện pháp phổ biến mà nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tích cực đổi mới,
phát huy vai trò quan trọng của Tòa án trong công tác BVMT.
- Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở cấp cơ sở. Khác với cấp
khác, cấp cơ sở không có bộ máy cơ quan chuyên môn làm công tác quản lý môi
trường nói chung và phòng ngừa THTP về môi trường nói riêng. Thay vào đó, công
chức địa chính, xây dựng hoặc nông nghiệp và môi trường là chức danh đảm nhiệm
công tác quản lý nhà nước về môi trường tại cơ sở. Chức danh này hiện nay đảm
nhiệm ba phần công việc bao gồm: địa chính (đất đai); xây dựng (ở chính quyền đô
thị) hoặc nông nghiệp (ở chính quyền nông thôn) và môi trường. Đây là một khối
lượng công việc rất lớn và phức tạp. Trong khi lượng nhân sự ít. Hiện nay toàn tỉnh
Hà Tĩnh có 270 công chức điạ chính – xây dựng (nông thôn) – môi trường trên tổng
số 216 xã. Như vậy, đa phần mỗi xã chỉ có 01 công chức đảm nhiệm chức năng này.
Chính số lượng nhân sự ít, khối lượng công việc lớn mà công tác quản lý nhà nước
143
về môi trường cấp cơ sở bị ảnh hưởng. Do đó, để kiện toàn đội ngũ này, thiết yếu
phải tăng số lượng nhân sự lên với biên chế ít nhất là 02 công chức, trường hợp đơn
vị cơ sở đặc biệt, có THTP về môi trường diễn biến phức tạp cần có một công chức
phụ trách riêng mảng này.
b. Đối với nâng cao năng lực nhân sự quản lý nhà nước về môi trường.
Nâng cao năng lực cho nhân sự quản lý nhà nước về môi trường là một vấn đề
tương đối phức tạp. Để đạt được mục tiêu này cần phân loại thành hai nhóm: Nhóm
thứ nhất, nâng cao năng lực cho những nhân sự chính thức trong bộ máy quản lý nhà
nước về môi trường; Nhóm thứ hai, nâng cao chú trọng sàng lọc và lựa chọn những
nhân sự có năng lực cao và đào tạo trước sử dụng cho các ứng viên tuyển mới.
- Nhóm thứ nhất, nâng cao năng lực cho những nhân sự chính thức trong bộ
máy quản lý nhà nước về môi trường. Khác với nhóm thứ hai, nhóm thứ nhất là hoạt
động nâng cao được thực hiện trong quá trình sử dụng nhân sự. Hay nói cách khác,
theo thuật ngữ khoa học nhân sự, là quá trình bồi dưỡng nghiệp vụ. Tuỳ vào từng cơ
quan mà phương án bồi dưỡng nghiệp vụ sẽ khác nhau về nội dung, tần suất và khối
lượng. Tuy nhiên, yêu cầu chung trong bồi dưỡng các đối tượng này chính là cập
nhật những quy định mới về pháp lý và kỹ năng. Đồng thời, nội dung thứ hai cũng
rất quan trọng là kịp thời phát hiện và sửa sai những quy trình, kỹ năng đang được
áp dụng theo kinh nghiệm, nhưng lại trái với quy định pháp lý. Việc lựa chọn và mời
chuyên gia cho các lớp bồi dưỡng này là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng
và hiệu quả của nó. Nguyên tắc thống nhất chung là báo cáo viên hoặc giảng viên
phải là những người có kinh nghiệm thực tiễn của ngành, lĩnh vực và là chuyên gia
trong lĩnh vực pháp luật về môi trường.
- Nhóm thứ hai, đào tạo lại hoặc đào tạo tiền công vụ được áp dụng cho các
đối tượng là nhân sự mới được tuyển dụng. Việc đào tạo lại và đào tạo tiền công vụ
xuất phát từ hai vấn đề của sử dụng nhân sự mới trong quản lý nhà nước về môi
trường hiện nay xuất phát từ hai thực tế: thứ nhất, chất lượng đào tạo nhân lực trình
độ cao đẳng và đại học của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu công việc
thực tiễn. Điều này đến từ chương trình đào tạo nặng về lý thuyết hàn lâm mà ít có
điều kiện thực hành. Do đó, cử nhân tốt nghiệp ra trường cần phải được đào tạo lại,
trong đó chú trọng đào tạo lại vấn đề kỹ năng thực hành nghề nghiệp; thứ hai, hiện
nay trong chương trình đào tạo nghề nghiệp, chưa có cử nhân chuyên ngành sâu về
vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường. Do đó, nguồn nhân lực chủ yếu để tuyển
144
dụng bao gồm: cảnh sát môi trường, quản lý nhà nước về môi trường và cử nhân địa
lý. Mỗi đối tượng trên được đào tạo chuyên môn về một lĩnh vực khác nhau về môi
trường, nhưng lại không toàn diện về vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường. Do
đó, cần thiết phải đào tạo tiền công vụ và đào tạo lại để bổ sung những thiếu hụt về
kiến thức đó trước khi tham gia hoạt động công vụ.
Thứ hai, nâng cao sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách về phòng ngừa THTP về
môi trường. Trong bối cảnh nền kinh tế quốc gia và địa phương còn khó khăn.
Nguồn ngân sách nhà nước và ngân sách tỉnh Hà Tĩnh phải chia sẽ vào các nội dung
xây dựng hạ tầng và phát triển kinh tế, ngân sách đầu tư cho phòng ngừa THTP về
môi trường cũng như nhiều nội dung chi khác sẽ không thể đòi hỏi gia tăng về quy
mô. Do đó, vấn đề quan trọng nhất hiện nay chính là với quy mô nguồn ngân sách
như hiện nay, hoạt động sử dụng phải đảm bảo hiệu quả. Để sử dụng hiệu quả
nguồn ngân sách nhà nước trong phòng ngừa THTP về môi trường, cần thực hiện
các nội dung như:
- Giảm thiểu các hoạt động phong trào, hội họp, hội thảo… mang tính hình
thức để tiết kiệm nguồn ngân sách. Cần giảm thiểu và đi đến xoá bỏ các hoạt động
khai mạc, bế mạc… mang tính hình thức và tốn kém khi triển khai các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường.
Đồng thời cũng tiến hành rà soát chất lượng các hội nghị, hội thảo thường niên ở các
cấp về vấn đề BVMT và phòng ngừa tội phạm về môi trường. Những hội thảo, hội
nghị không đạt được các giá trị về đề xuất phải pháp ứng dụng cần hạn chế tổ chức để
đầu tư ngân sách vào những hoạt động phòng ngừa khác thiết thực hơn. Đồng thời,
cũng cần nghiên cứu lại hiệu quả của các phong trào, cuộc thi mang tính hình thức và
thành tích đang được áp dụng trong hệ thống trường học về chủ đề môi trường.
- Thay thế các pano, áp phích và các công cụ tuyên truyền, biểu đạt thông tin
bằng phông bạt truyền thống thành ứng dụng các công nghệ điện tử trình chiếu hình
ảnh hoặc âm thanh để tiết kiệm tiền in ấn và chi phí lắp đặt.
- Thực hành tiết kiệm, tăng cường giám sát và công khai, minh bạch, đề cao trách
nhiệm giải trình về việc sử dụng ngân sách vào hoạt động phòng ngừa THTP về môi
trường ở các cấp, các ngành. Đảm bảo kiểm soát và tiết kiệm ngân sách.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả triển khai các chính sách BVMT và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả các công cụ, biện pháp quản lý nhà nước về BVMT.
Triển khai và giám sát thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ
145
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ về bảo vệ tài nguyên và
môi trường, nhất là Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và BVMT”, Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chỉ thị số
25/CT-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về một số vấn đề
cấp bách trong lĩnh vực BVMT; Chỉ thị số 03/CT- TTg ngày 30 tháng 3 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về
- Rà soát, đề xuất các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ
khoáng sản, gắn với trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, ngành.
thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm phù hợp với thực tế và đồng bộ với hệ
thống pháp luật khác có liên quan; trọng tâm là Luật BVMT, Bộ luật Tố tụng Hình
sự, Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính; xây dựng, hoàn thiện, đồng bộ
các Nghị định, Thông tư, Thông tư liên tịch có liên quan đến công tác phòng, chống
tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm.
- Thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và các
nhiệm vụ, mục tiêu, yêu cầu trong định hướng phát triển bền vững Việt Nam; lực
lượng CAND (nòng cốt là lực lượng Cảnh sát môi trường) nắm chắc tình hình các
tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm tổ chức phòng ngừa THTP về môi trường có
hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường, tài nguyên, an toàn thực
phẩm; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp Trung ương và địa phương tăng
cường công tác điều tra, truy tố, xét xử nghiêm theo quy định của pháp luật các tội
phạm về môi trường; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ
NN&PTNT... tổng rà soát các dự án, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
các trọng điểm về khai thác trái phép tài nguyên rừng, khoáng sản; các cơ sở vi
phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm để có phương án, kế hoạch xử lý cụ
thể, phù hợp đối với từng cơ sở, dự án.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát đảm bảo việc tuân thủ
quy định về BVMT đối với những dự án đã đi vào hoạt động, tập trung vào các dự
án có nguồn thải ra sông, ra biển; tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc
thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải; buôn bán, vận chuyển trái phép động
vật hoang dã quý, hiếm; vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm; hướng đến
xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các tụ điểm khai
146
thác khoáng sản trái phép; xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ
quan chuyên môn về BVMT với lực lượng Cảnh sát môi trường các cấp đảm bảo
công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về môi trường, tài
nguyên, an toàn thực phẩm có hiệu quả.
Để thực hiện chính sách BVMT hiệu quả, trước hết, các cơ quan tổ chức phải
hiểu và nắm rõ được quy trình 07 bước thực hiện chính sách công nói chung và
chính sách BVMT nói riêng, và thực hiện đầy đủ, có trình tự các bước đó để đem
đến hiệu quả. Bảy bước này bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách BVMT; (2) Phổ biến, tuyên truyền chính sách BVMT; (3) Phân công,
phối hợp thực hiện chính sách BVMT; (4) Duy trì chính sách BVMT; (5) Điều chỉnh
chính sách BVMT; (6) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
BVMT; (7) Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách BVMT.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện chính sách BVMT, các tổ chức, cá nhân cần
sáng tạo, ứng dụng hiệu quả các phương pháp thực thi chính sách công phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên của địa phương. Ví dụ, ứng dụng công cụ hình
ảnh vệ tinh trong phòng ngừa THTP về môi trường. Hiện nay dịch vụ vệ tinh của
Google cung cấp miễn phí các hình ảnh vệ tinh 3D với tần suất cập nhật hình ảnh một
tuần một lần. Điều này tạo điều kiện cho cơ quan chức năng có thể quan sát hình
ảnh các khu vực có xảy ra tình trạng phạm tội về môi trường ở vùng sâu, vùng
xa… những khu vực khó khăn trong việc tiếp cận. Đặc biệt, công cụ này hỗ trợ rất tốt
để phát hiện các hành vi huỷ hoại rừng và khai thác khoáng sản trái phép. Công cụ
này có thể được sử dụng bởi nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân khác nhau với
phương tiện phổ biến như máy tính, máy chiếu, điện thoại thông minh hay các
phương tiện hiển thị có kết nối internet khác và hoàn toàn miễn phí.
4.3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh
Các chính sách phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trực tiếp tác
động đến đời sống kinh tế, xã hội của người dân, qua đó thay đổi thói quen canh tác
và thay đổi lối sống lệ thuộc vào thiên nhiên. Chính vì thế, nâng cao hiệu quả thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh sẽ góp phần
tạo lập nền tảng quan trọng trong phòng ngừa THTP về môi trường. Việc nâng cao
hiệu quả thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh cần
147
thực hiện các nội dung như:
Thứ nhất, thống nhất quan điểm và thực hiện triệt để chính sách xoá đói, giảm
nghèo và các chính sách xã hội khác theo tư duy: “hỗ trợ cần câu, không hỗ trợ con
cá”. Việc thống nhất tư duy này nhằm khắc phục các hạn chế trong thực hiện các
chính sách hỗ trợ phát triển đời sống của người dân hiện nay. Theo cách truyền thống
cung ứng nhu yếu phẩm và vật dụng cá nhân cho những đối tượng thụ hưởng chính
sách khiến cho hình thành tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự cấp phát của nhà nước, do
đó không mang đến hiệu quả cho chính sách, thậm chí gây ra hiện tượng nghèo bền
vững. Với sự thay đổi tư duy này, nội dung thực hiện chính sách chỉ hướng tới hỗ trợ
vật tư, công giống và máy móc để tạo lập ngành nghề cho người dân. Tuy nhiên, khi
thực hiện cần lưu ý hai điểm: thứ nhất, việc cung ứng và hỗ trợ vật tư, con giống cần
xuất phát từ hoạt động nghiên cứu và thực nghiệm ngành nghề trước khi thực hiện
đại trà. Yêu cầu này để đảm bảo các ngành nghề dự kiến triển khai phải phù hợp với
điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ nhận thức, canh tác và vận hành vật tư của
người dân, tránh trường hợp hỗ trợ máy móc không phù hợp, do đó không sử dụng
được gây ra lãng phí ngân sách của chính sách; thứ hai, cần kiểm soát chặt chẽ việc
sử dụng vật tư và con giống được cấp phát, hỗ trợ tránh trường hợp người được thụ
hưởng bán hoặc sử dụng các vật tư, con giống vào các mục đích khác. Kiểm soát
bằng cách để người dân ký cam kết và thường xuyên kiểm tra việc sử dụng con giống
và vật tư của người dân.
Thứ hai, tìm kiếm các cây giống, vật nuôi phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu
của từng khu vực nhất định và tiến hành liên kết bao tiêu sản phẩm. Đây là giải pháp
quan trọng giúp thay đổi thói quen canh tác nông nghiệp cho người dân, đặc biệt là
đồng bào tại các huyện phía Tây. Dựa trên hiểu biết về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng
và các đặc tính của cây trồng, NCS đề xuất giải pháp triển khai trồng giống ớt Chỉ
Thiên cho 03 huyện miền núi của tỉnh Hà Tĩnh gồm: Vũ Quang, Hương Khê và Hương
Sơn. Đây cũng là ba huyện có THTP về môi trường phức tạp nhất của tỉnh Hà Tĩnh.
Việc trồng ớt Chỉ Thiên tại ba khu vực trên theo phương thức liên kết sản xuất. Cụ
thể, hiện nay công ty tương ớt Thành Trung đang tìm kiếm đối tác triển khai các dự
án liên kết bao tiêu sản phẩm ớt Chỉ Thiên. Theo đó, công ty Thành Trung sẽ cung
cấp hạt giống, phân bón và tư vấn trồng, chăm sóc và thu hoạch cho người dân. Đổi
lại, người dân sẽ ký kết hợp đồng đầu ra với công ty với giá thoả thuận cố định
(thông thường 15.000 đồng/kg tươi). Điều kiện ràng buộc là trong trường hợp giá thị
trường thấp hơn giá ký kết, công ty vẫn phải thu mua với giá đã ký. Ngược lại, giá
148
cao hơn giá đã ký kết, người dân vẫn phải bán cho công ty Thành Trung với giá như
hợp đồng. Ràng buộc này để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Chính quyền địa
phương sẽ trở thành bên trung gian và đóng vai trò đảm bảo cho việc thực hiện hợp
đồng của công ty Thành Trung và các hộ tham gia trồng ớt. Đây là một hướng đi
hiệu quả, đảm bảo công việc ổn định và thu nhập tốt cho người dân, góp phần giảm
thiểu tư duy kinh tế gắn liền với thiên nhiên như hiện nay.
Thứ ba, rà soát lại việc xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo và xét đạt chuẩn nông
thôn mới, đảm bảo không thành tích, hình thức, phong trào. Giải pháp này để khắc
phục hiện tượng thoát nghèo ảo và đạt chuẩn nông thôn mới ảo đang diễn ra ở nhiều
tỉnh, trong đó có cả Hà Tĩnh. Khi các tiêu chí được xác định một cách minh bạch và
thực chất, những hộ nghèo và các hộ đang thiếu phương thức sản xuất sẽ trở thành
các chủ thể đúng của chính sách, từ đó giúp tác động chính xác đến đối tượng do đó
hiệu quả và triệt để hơn.
Thứ tư, đầu tư phát triển mô hình thanh niên khởi nghiệp tại địa phương. Đây
là mô hình đang được phát triển rất tốt và trở thành xu hướng tại tỉnh Quảng Bình và
Nghệ An. Cụ thể, bằng việc hỗ trợ vay vốn và tạo điều kiện về chính sách khác, chính
quyền địa phương khuyến khích những người trẻ phát triển những mô hình kinh tế
mới ngay tại địa phương. Việc phát triển các mô hình này không chỉ giúp những giải
quyết công ăn việc làm cho người tạo lập, mà còn góp phần cùng địa phương tạo ra
nhiều việc làm cho người dân, đặc biệt là phụ nữ tại khu vực nông thôn. Đồng thời
cũng tạo ra được những hiệu ứng cộng đồng rất hiệu quả, xuất hiện các phong trào
thanh niên làm kinh tế, xoá bỏ tư tưởng lệ thuộc vào tự nhiên.
Trong phạm vi nghiên cứu sự tương đồng về các điều kiện tự nhiên, xã hội và
kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Quảng Bình và Nghệ An, NCS đề xuất hai kinh
nghiệm mô hình thanh niên khởi nghiệp có thể áp dụng cho nhiều địa phương của
tỉnh Hà Tĩnh như sau:
- Mô hình HTX nuôi cá Leo tại tỉnh Nghệ An. Tại bản Tục, xã Đồng Văn,
huyện Quế Phong (Nghệ An), có 12 thanh niên từ 19 đến 28 tuổi đã gắn kết với nhau
thành lập HTX Nông nghiệp dịch vụ Hủa Na để cùng nhau tận dụng “đặc sản” của
địa phương phát triển mô hình nuôi cá lồng trên lòng hồ Thủy điện Hủa Na.Thành
lập từ tháng 9/2019, nhờ sự đoàn kết của các thành viên và quyết tâm, nỗ lực tận
dụng triệt để các lợi thế, HTX ngày càng vững mạnh, đem lại lợi ích thiết thực cho
các thành viên. Đến nay, sản phẩm cá Leo của HTX đã liên kết tiêu thụ tại các siêu
thị thực phẩm sạch trên địa bàn TP Vinh và các huyện trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
149
Cùng với đó, thông qua khách tham quan du lịch lòng hồ, các gia đình đã tiêu thụ
sản phẩm qua nấu ăn cho khách. Tính đến cuối năm 2019, HTX đã cung ứng ra thị
trường từ 1 đến 1,5 tấn sản phẩm từ cá. Không chỉ làm tốt về khâu nuôi trồng, Dự
án "Nuôi cá lồng gắn với bao tiêu sản phẩm đầu ra cho các hộ nuôi cá lòng hồ Thủy
điện Hủa Na" do nhóm tác giả Lang Văn Sáng - Sầm Thị Ngân - Lang Văn Liên là
thành viên của HTX đã đạt các giải thưởng cao tại cuộc thi: Ý tưởng tiềm năng trong
cuộc thi "Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo"; đạt giải Ba cuộc thi Ý tưởng khởi nghiệp
thanh niên nông thôn lần thứ 3 năm 2019 do Tỉnh đoàn Nghệ An phát động và là 1
trong 8 dự án của thanh niên Nghệ An tham dự Vòng bán kết cuộc thi Dự án khởi
nghiệp sáng tạo thanh niên nông thôn 2019 khu vực miền Bắc.
- Mô hình thanh niên làm du lịch tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Dựa
trên ưu thế của vùng đệm vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, các xã vùng phụ cận
thuộc huyện Bố Trạch có cảnh sắc và điều kiện giao thông thuận tiện, có lượng khách
bản địa, khách trong nước và khách quốc tế thường xuyên đã thúc đẩy thanh niên ở
đây khởi nghiệp bằng mô hình du lịch cộng đồng.
Sau 3 năm triển khai thực hiện, đến nay, trên địa bàn xã đã có 8 điểm du lịch
theo hình thức homestay, farmstay do đoàn viên, thanh niên quản lý, thu hút đông du
khách trong và ngoài nước đến tham quan, vui chơi, giải trí. Các mô hình này đã
mang lại thu nhập ổn định và tạo việc làm cho nhiều đoàn viên, thanh niên nông thôn
với mức lương từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng/người/tháng. Theo thống kê, số
lượng khách du lịch địa phương chiếm 60%; khách ngoài tỉnh chiếm 37% và khách quốc
tế chiếm 13%.
Các mô hình chủ yếu được xây dựng và vận hành với nội dung như: du lịch
nông nghiệp (khách du lịch tham gia trải nghiệm làm nông nghiệp); du lịch gắn liền
với động vật (khu du lịch chăn nuôi cừu, ngựa bạch, vịt và thỏ); du lịch trải nghiệm
farmstay (khách du lịch trải nghiệm cuộc sống trong các ngôi nhà theo phong cách
truyền thống của vùng); du lịch mạo hiểm (leo núi và trượt thác) và du lịch khám phá
rừng. Các địa điểm kinh doanh dịch vụ du lịch này tạo nên một mạng lưới có tính
liên kết với nhau để tạo thành cộng đồng du lịch. Mô hình này hoàn toàn có thể áp
dụng trên địa bàn một số huyện của tỉnh Hà Tĩnh và hứa hẹn sẽ mang lại thành công.
4.3.5. Tăng cường công tác đối ngoại về lĩnh vực bảo vệ môi trường và
phòng ngừa tình hình tội phạm về môi trường
Vấn đề phòng ngừa THTP về môi trường cần có sự liên kết và phối hợp với
nhiều địa phương để đạt được hiệu quả. Việc liên kết này hướng đến giải quyết hai
150
vấn đề: thứ nhất, giúp phối hợp phòng ngừa để công tác phòng ngừa được mở rộng
và triệt để; thứ hai, giúp trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác
phòng ngừa. Theo đó, tỉnh Hà Tĩnh phải thúc đẩy hoạt động đối ngoại về lĩnh vực
BVMT và phòng ngừa THTP về môi trường với ba nhóm địa phương: nhóm thứ nhất,
với các địa phương giáp ranh; nhóm thứ hai, với các địa phương là thị trường tiêu thụ
sản phẩm của hoạt động phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh; nhóm thứ ba, với các
địa phương có nhiều kinh nghiệm phòng ngừa THTP về môi trường.
Nhóm thứ nhất, phối hợp với các dự án quốc tế để tranh thủ nguồn lực, kinh
nghiệm quốc tế và nước ngoài trong phòng ngừa, xử lý tội phạm về môi trường, xử
lý những trường hợp tội phạm có yếu tố nước ngoài, xuyên quốc gia… Đây là nhóm
giải pháp mang tính quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác phòng ngừa
THTP về môi trường của các địa phương, trong đó có Hà Tĩnh.
Nhóm thứ hai, tăng cường công tác đối ngoại với các tỉnh giáp ranh. Giáp ranh
với tỉnh Hà Tĩnh bao gồm: tỉnh Quảng Bình, tỉnh Nghệ An và hai tỉnh của Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào: tỉnh Borikhamxay và tỉnh Khammuane. Đối với các tỉnh giáp
ranh, Hã Tĩnh cần có những chính sách phối hợp phòng ngừa THTP về môi trường
như: tổ chức các hội thảo chung về thống nhất phương án phối hợp phòng ngừa
giữa các tỉnh; thực hiện thường xuyên việc tuần tra, kiểm soát chung giữa các tỉnh
về vấn đề môi trường; phối hợp giao lưu, học hỏi giữa các lực lượng phòng ngừa
THTP về môi trường với các tỉnh; hợp tác quốc tế với hai tỉnh Borikhamxay và
Khammuane của Lào về vấn đề phối hợp phòng ngừa THTP về môi trường như tuần
tra chung đường biên giới, phối hợp tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân
khu vực biên giới;…
Nhóm thứ ba, với các địa phương là thị trường tiêu thụ sản phẩm của hoạt
động phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh. Đây chính là nguồn cầu của hoạt động
phạm tội về môi trường. Muốn phòng ngừa THTP về môi trường ở một số nhóm tội
danh, nhất thiết phải có giải pháp giảm thiểu nguồn cầu về các sản phẩm từ hành vi
phạm tội về môi trường mà có. Để thực hiện điều này, nhất thiết phải có sự phối hợp
với các địa phương có thị trường lớn về nguồn cầu đó. Các sản phẩm do phạm tội về
môi trường có được mang tính phổ biến gồm: gỗ, động vật hoang dã, cát và đá. Thị
trường chủ yếu của các vật phẩm này gồm: Hà Nội, Vinh (Nghệ An), Đà Nẵng, Nha
Trang và thành phố Hồ Chí Minh. Hã Tình cần phối hợp với các địa phương này để
nắm bắt được đường dây tiêu thụ các vật phẩm từ phạm tội môi trường mà có, từ đó
151
tiến hành trấn áp, xoá bỏ các tụ điểm tiêu thụ này, giảm thiểu lượng cầu. Đương
nhiên đây chỉ là giải pháp phụ, nhằm giúp giảm thiểu tạm thời THTP về môi trường
bằng cách tác động vào “phần ngọn” của vấn đề. Giải pháp phòng ngừa chính vẫn là
hoạt động phòng ngừa từ “phần gốc” của chính quyền tỉnh Hà Tĩnh.
Nhóm thứ tư, với các địa phương có nhiều kinh nghiệm phòng ngừa THTP về
môi trường. Đây là nhóm mà tỉnh Hà Tĩnh có thể tham gia học hỏi kinh nghiệm về
phòng ngừa THTP về môi trường. Thực tế hiện nay cho thấy, không có tỉnh nào có
thực trạng THTP về môi trường xét một cách tổng thể thấp. Thay vào đó, mỗi tỉnh
sẽ có một kinh nghiệm về phòng ngừa THTP về môi trường ở những nhóm tội danh
khác nhau. Tỉnh Hà Tĩnh tuỳ vào các đặc tính tương đồng và cân nhắc tính khả
quan, phù hợp của các kinh nghiệm phòng ngừa từ các tỉnh để nghiên cứu và chọn
lọc áp dụng một cách hiệu quả và tiết kiệm.
Tiểu kết Chƣơng 4 THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh dự báo sẽ diễn biến phức tạp
về tính chất và ngày càng lớn về quy mô. Mặc dù hiện nay, Việt Nam là một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Nhờ có nền tảng cơ
bản và kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh Covid-19, kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục
vào năm 2021 và sẽ tăng trưởng tốt trong thời gian tiếp theo.
Tuy nhiên, tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều
tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tình trạng khai thác
thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ tại tỉnh Hà Tĩnh có thể
ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó, đại đa số
người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương trước tác động của biến
đổi khí hậu.
Dựa trên những dự báo cụ thể về THTP về môi trường ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian tới (mục 4.1.1), Chương 4 của luận án đã khẳng định tăng cường
phòng ngừa THTP về môi trường trở thành một đòi hỏi tất yếu; THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có xu hướng ngày càng tinh vi và phức tạp hơn và
dự báo xu hướng gia tăng tất yếu về chủ thể phạm tội là các pháp nhân thương mại
trên địa bàn.
Luận án đã khẳng định bốn quan điểm về phòng ngừa của các giải pháp tổng
thể gồm: (1) Quan điểm về tính hợp pháp và hợp lý, khả thi; (2) Quan điểm về tính
hệ thống, có tính bổ khuyết, hỗ trợ; (3) Quan điểm về việc phải đảm bảo không cản
152
trở hoạt động sống và hoạt động kinh tế, xã hội của địa phương; và (4) Việc xây
dựng giải pháp phải đảm bảo tính học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm của các địa
phương khác.
Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tôi phạm về môi trường trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh được nhấn mạnh đề xuất gồm:
Thứ nhất, Các giải pháp về hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với
THTP về môi trường (mục 4.3.1.) nhấn mạnh đến các đề xuất:
- Hình sự hoá bổ sung các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gồm: đề
xuất bổ sung một số tội danh sanh: (1) Tội phạm về vũ khí sinh học. Đây là tội danh
sản xuất, tàng trữ và sử dụng vũ khí sinh học. Vũ khí sinh học là một loại vũ khí
hủy diệt hàng loạt dựa vào đặc tính gây bệnh hay truyền bệnh của các vi sinh vật
như vi trùng, vi khuẩn; hoặc các độc tố do một số vi trùng tiết ra để gây mầm bệnh
hay cái chết cho con người, cho động vật hoặc cây trồng, phá hoại mùa màng, gây ô
nhiễm môi trường sinh thái; (2) Tội gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh; (3) Tội vi phạm các quy định về an toàn khi tiếp xúc với các độc
tố sinh học; (4) Tội tàng trữ, sử dụng và vận chuyển chất phóng xạ trái phép….
- Xác định một số tội danh thuộc nhóm phân loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng qua đó gia tăng các chế tài đối với các tội danh phạm tội về môi trường
- Sửa đổi các quy định về chủ thể phạm tội là pháp nhân thương mại đối với
các tội phạm về môi trường cho phù hợp với thực tế. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về vấn đề Đình chỉ hoạt động có thời hạn của pháp nhân thương mại trong các hành
vi vi phạm về môi trường.
Thứ hai, các giải pháp về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật nâng cao ý thức BVMT (Mục 4.3.2)
Thứ ba, các giải pháp về tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về môi
trường (Mục 4.3.3)
Thứ tư, các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh ((Mục 4.3.4)
Thứ năm, các giải pháp tăng cường công tác đối ngoại về lĩnh vực BVMT và
phòng ngừa THTP về môi trường (Mục 4.3.5).
Đồng thời trong các đề xuất trên của luận án, NCS cũng lưu ý phòng ngừa
phải mang tính toàn diện, từ gián tiếp nâng cao đời sống vật chất của người dân
bằng thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh, xã hội, qua đó góp phần thay đổi lối
153
sống, tập quán canh tác và nhận thức của người dân, đặc biệt là đồng bào ở các
huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa về phòng ngừa THTP về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh; chú trọng các giải pháp mang tính trực tiếp như nâng cao kỹ
năng, nghiệp vụ, hoàn thiện pháp luật và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật về phòng ngừa THTP về môi trường…
Các giải pháp cần có sự kết hợp với nhau để tạo nên hiệu quả tổng thể và quan
trọng hơn hết cần phải có sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị cùng sự đồng lòng
của quần chúng nhân dân mới tạo ra được nền tảng vững chắc và duy trì được các kết
154
quả tích cực từ việc triển khai các giải pháp mang lại.
KẾT LUẬN
Phòng ngừa THTP về môi trường là một vấn đề mới trong nghiên cứu khoa
học pháp lý nói chung và chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm nói
riêng. Qua nghiên cứu lý luận, thực tiễn đề tài Phòng ngừa THTP về môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có thể thấy:
Thứ nhất: vấn đề phòng ngừa tội phạm về môi trường về mặt lý luận đã được
nhiều công trình nghiên cứu ở cả phạm vi trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nghiên
cứu về phòng ngừa THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh tính đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp. Thực tiễn này đã xác định
cho luận án tính mới là cần nâng tầm và xác định cụ thể, chính xác hơn nội hàm
khái niệm môi trường là cơ sở để xác định các vấn đề lý luận liên quan đến tội
phạm về môi trường và phòng ngừa tội phạm về môi trường tại một địa bàn cụ thể
là tỉnh Hà Tĩnh. Đồng thời phải làm rõ được những tính mới đó trong điều kiện của
công tác phòng ngừa này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. (tính địa tội phạm được đề cao
trong nghiên cứu). Luận án cần phải tiến hành mô tả, phân tích và so sánh mối
tương quan giữa tình hình phòng ngừa và THTP về môi trường qua các năm trên địa
bàn, từ đó đi đến các kết luận đánh giá về tính hiệu quả của công tác phòng ngừa.
Thứ hai: xét dưới góc độ lý luận, phòng ngừa THTP về môi trường là hoạt
động của các chủ thể, sử dụng các công cụ, biện pháp và thẩm quyền được quy định
bởi pháp luật, dựa trên THTP về môi trường trong lịch sử, hiện tại và dự báo xu hướng
trong tương lai, tác động vào các đối tượng phòng ngừa nhằm làm giảm thiểu, tiến đến
loại bỏ THTP về môi trường ra khỏi đời sống xã hội. Do đó luận án cần khẳng định các
nguyên tắc, đặc điểm và ý nghĩa của phòng ngừa THTP về môi trường.
Đồng thời xác định được:
- Cơ sở pháp lý của phòng ngừa THTP về môi trường là tập hợp các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề liên quan đến công tác BVMT; tội phạm về môi
trường; phòng ngừa tội phạm về môi trường và phòng ngừa THTP về môi trường
(bao gồm các loại văn bản pháp luật đã được nêu cụ thể trong Chương 2 của luận
án).
- Các chủ thể chuyên trách tham gia trực tiếp vào phòng ngừa THTP về môi
trường gồm Bộ Công an; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Tài chính; Bộ
NN&PTNT và lực lượng các cơ quan tư pháp có chuyên trách phòng, chống tội
155
phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường như Cục cảnh sát điều tra tội phạm
về môi trường và cả các tổ chức nghề nghiệp, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các
hộ và các cá thể trực tiếp tuyên truyền và thực hiện các công tác của phòng ngừa
THTP về môi trường.
- Luận án cũng xác định có 8 nội dung chính trong phòng ngừa THTP về môi
trường, tương ứng với 2 nhóm biện pháp phòng ngừa THTP về môi trường.
- Các yếu tố ảnh hưởng tới phòng ngừa THTP về môi trường bao gồm: Thể chế
pháp lý về phòng ngừa THTP về môi trường; Năng lực của các chủ thể được giao
nhiệm vụ phòng ngừa THTP về môi trường, nhận thức của cơ quan, cá nhân nhà
nước, người dân và xã hội, tình hình kinh tế, xã hội.
- Nhận thức của người dân về vai trò của môi trường và phòng ngừa THTP về
môi trường trở thành vấn đề quyết định đến khả năng tham gia của người dân vào
hoạt động phòng ngừa.
Thứ ba: Trên cơ sở những phân tích về lý luận kể trên, khi nghiên cứu thực
trạng phòng ngừa THTP trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, kết quả cho thấy:
- THTP về môi trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh diễn ra phức tạp, có xu hướng
gia tăng cả quy mô lẫn mức độ;
- Chính quyền địa phương đã thực hiện xây dựng phương án phòng ngừa và
tiến hành công tác phòng ngừa trên nhiều phương diện. Công tác này đã đem đến
nhiều hiệu quả tích cực, song về tổng thể vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, bộc lộ
nhiều điểm hạn chế trong công tác phòng ngừa THTP về môi trường
- Có 2 nhóm nguyên nhân chủ yếu, gồm: Nhóm các nguyên nhân khách quan
thuộc về: (1) Địa hình tự nhiên và môi trường khắc nghiệt; (2) Đời sống kinh tế
nghèo, xuất phát điểm thấp, (3)Thói quen khai thác tự nhiên thành hoạt động sống
chính; (4) Các hành vi phạm tội về môi trường thường không thấy rõ được trong
thời gian ngắn và tính nhân quả của hành vi đơn lẻ đối với hậu quả đó; (5) Nguồn
lực phân bổ cho phòng ngừa THTP về môi trường còn hạn chế. Nhóm các nguyên
nhân chủ quan, gồm: (1) Nhận thức của cơ quan chức năng về phòng ngừa THTP
về môi trường còn chưa đầy đủ, thiếu tính cập nhật; (2) Trình độ dân trí còn hạn
chế, tập quán canh tác vẫn lệ thuộc vào các giá trị của môi trường tự nhiên; (3) Các
quy định pháp lý hiện hành chưa đầy đủ tính răn đe đối với những tội phạm môi
trường tiềm ẩn; (4) Các biện pháp phòng ngừa còn nặng tính hình thức, chưa đảm
bảo được đặc thù của từng đối tượng khác nhau; (5) Lực lượng phòng ngừa THTP
156
môi trường còn hạn chế về mặt số lượng và hạn chế trong việc phối hợp giữa các
lực lượng trong phòng ngừa THTP về môi trường; (6) Do chạy theo lợi nhuận, các
chủ doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh đã phớt lờ những yêu cầu về
BVMT.
Thứ tư: trên cơ sở các nghiên cứu thực tiễn đó, luận án dự báo THTP về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa như sau:
- Nhờ có nền tảng cơ bản và kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh Covid-19, kinh
tế Việt Nam sẽ hồi phục vào năm 2021 và sẽ tăng trưởng tốt trong thời gian tiếp
theo. Tuy nhiên, tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại
nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tình trạng
khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ tại tỉnh Hà
Tĩnh có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó,
đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương trước tác động
của biến đổi khí hậu.
- Luận án đã khẳng định bốn quan điểm về phòng ngừa của các giải pháp tổng thể
gồm: (1) Quan điểm về tính hợp pháp và hợp lý, khả thi; (2) Quan điểm về tính hệ thống,
có tính bổ khuyết, hỗ trợ; (3) Quan điểm về việc phải đảm bảo không cản trở hoạt động
sống và hoạt động kinh tế, xã hội của địa phương; và (4) Việc xây dựng giải pháp phải
đảm bảo tính học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm của các địa phương khác.
- Các giải pháp cần thiết để gia tăng hiệu quả phòng ngừa bao gồm tổng thể
các vấn đề từ hoàn thiện pháp luật; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật nâng cao ý thức BVMT; tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về
môi trường; các giải pháp tăng cường công tác đối ngoại và đặc biệt nhấn mạnh các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội trên
địa bàn tỉnh.
Luận án mặc dù đã được đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, song với những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau sẽ không tránh khỏi những sai sót
và những vấn đề gây ra nhiều tranh cái. NCS thừa nhận những hạn chế đó và mong
muốn nhận được nhiều những phê bình từ quý học giới để rút ra được nhiều kinh
157
nghiệm hơn cho công tác nghiên cứu của bản thân sau này./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. 2020. “Criminal law policy on environmental crimes in context of
sustainable development in Vietnam”, E3S Web of Conferences 175, 14004 (2020)
(bài báo quốc tế thuộc danh mục Scopus 2020)
2. 2020. “Một số giải pháp bảo đảm phòng ngừa tình hình tội phạm về môi
trường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”. Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 3/2020;
3. 2018. “Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội phạm môi
trường”. Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 4/2018;
4. 2018. “Vấn đề bảo đảm an toàn môi trường trong phát triển công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”. Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2018;
5. 2015. Luận văn Thạc sĩ: “Hỏi cung bị can phạm tội tổ chức cho người
khác trốn đi nước ngoài do cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Nghệ An tiến
hành”, Học viện An ninh nhân dân, tháng 12/2015;
6. 2015. “Phòng ngừa đấu tranh với hoạt động lợi dụng xuất khẩu lao động
để tổ chức người khác trốn đi nước ngoài, ở lại nước ngoài trái phép”, Tạp chí Khoa
158
học và Chiến lược, Bộ Công an, số 5/2015;
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nƣớc
1. Dương Thanh An. 2008. “Các yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường
theo Bộ luật Hình sự năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2008.
2. Dương Thanh An. 2011. Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
môi trường, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
3. Bộ Công An. 2014. Những vi phạm pháp luật về môi trường và giải pháp
phòng chống”, Báo cáo Đề tài khoa học KX.07 - 06, Hà Nội.
4. Lê Cảm. 2001. “Về vấn đề tội phạm hoá một số hành vi xâm hại môi
trường trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 6/2001.
5. Nguyễn Trí Chinh. 2010. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội
xâm phạm về môi trường theo Luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Công. 2018. Phòng ngừa tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
7. Cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh. 2019. Báo cáo công tác năm 2019.
8. Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2013. Giáo trình Tội phạm học,
Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội.
9. Đại học Luật Hà Nội. 2012. Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
10. Huỳnh Tấn Đạt. 2017. Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu do người
chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, luận án tiến sĩ, Học
viện Khoa học xã hội, Việt Nam.
11. Nguyễn Thị Hà. 2010. Hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ, Công an tỉnh Quảng Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học
Cảnh sát nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Hữu Hoà. 2018. Các tội phạm về môi trường ở Việt Nam: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
13. Nguyễn Ngọc Hoà. 2006. Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an
159
nhân dân.
14. Vũ Thị Huyền. 2011. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Khoa luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
15. Đặng Thu Hiền. 2013. Hoạt động phòng ngừa tội phạm về môi trường
tại các khu công nghiệp theo chức năng của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội
phạm về môi trường, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát Nhân dân, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hoà. 2006. Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Duy Hùng. 2006. Những vi phạm pháp luật về môi trường - Giải
pháp phòng, chống, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
18. Trần Thế Hùng. 2008. “Các biện pháp phòng ngừa tội phạm tại cộng
đồng dân cư”, Tạp chí Công an nhân dân, số 02/2010, tr. 14 - 17.
19. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh. 2016. Phòng ngừa một số tội phạm về ma tuý
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Khoa Luật, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội. 1999. Giáo trình tội phạm học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Phạm Văn Lợi. 2003. Tội phạm về môi trường - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Xuân Lý, Trần Minh Hưởng. 2013. Cẩm nang phòng, chống tội
phạm về môi trường, tập 2, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
23. Dương Tuyết Miên (chủ biên). 2010. Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Minh. 2014. Phòng ngừa, phát hiện tội phạm và vi phạm
pháp luật về môi trường khu vực Đồng bằng sông Hồng theo chức năng của lực
lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, luận án tiến sĩ, Học viện
Cảnh sát Nhân dân, Hà Nội.
25. Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường. 2020. Báo cáo
tổng kết giai đoạn 2010 - 2020.
26. Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường. 2019. Báo cáo
tổng kết năm 2019.
27. Đỗ Ngọc Quang. 1993. Giáo trình tội phạm học đại cương, Khoa Luật -
160
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
28. Đinh Tiến Quân. 2013. Hoạt động phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật về môi trường theo chức năng của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội
phạm về môi trường, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
29. Trần Hữu Quân. 2012. “Một số vấn đề về phòng ngừa tội phạm của
ngành Toà án nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Toà án nhân dân, số
12/2012, tr. 5 - 8.
30. Đinh Văn Quế. 2006. Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần các tội
phạm, tập VII, các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông, Nxb Công an
nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo tình hình biến
đổi khí hậu và thiên tai trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015 - 2020.
32. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh. 2019. Báo cáo Dự báo xu hướng
các vấn đề môi trường chính trong trường hợp thực hiện quy hoạch. Hà Tĩnh.
33. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo tổng kết ngành
giáo dục tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015 - 2020.
34. Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo tổng kết công tác xét xử
giai đoạn 2011-2020.
35. Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 2019. Báo cáo tổng kết công tác năm
2019.
36. Nguyễn Xuân Thuỷ. 1997. Phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm của
người chưa thành niên trong điều kiện ngày nay ở Việt Nam, luận án Phó Tiến sĩ,
Khoa Luật, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
37. Trần Quang Tiệp. 2007. “Tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng
về an ninh quốc gia, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Công an nhân dân,
số 06/2007.
38. Phạm Văn Tỉnh. 2007. “Khái niệm tội phạm và THTP dưới góc độ của
tội phạm học”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2007, tr. 73 - 79.
39. Phạm Văn Tỉnh. 2007. Một số vấn đề lý luận về THTP ở Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
40. Phạm Văn Tỉnh. 2008. “Nguyên nhân và điều kiện của THTP ở nước ta
hiện nay - Mô hình lý luận”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 06/2008.
41. Nguyễn Văn Tỉnh. 2011. Tổng quan về mức độ của THTP ở Việt Nam
161
qua số liệu thống kê (1986 - 2008), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2011.
42. Trần Quốc Tỏ. 2013. Phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát
nhân dân.
43. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO). (2018).
Báo cáo Thống kê ô nhiễm môi trường Việt Nam. Hà Nội.
44. Tổng cục Môi trường. 2009. Kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường
đối với các cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và làng nghề trên lưu vực sông
Đồng Nai - Sài Gòn năm 2008, Hà Nội.
45. Tổng cục Thuỷ lợi. (2020). Báo cáo tình hình hạn hán và xâm nhập mặn
năm 2019 khu vực Miền Trung - Tây Nguyên. Hà Nội.
46. Trần Hữu Tráng. 2012. “Bàn về dự báo tội phạm”, Tạp chí Toà án nhân
dân, số 17/2012, tr. 35 - 45.
47. Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Xanh (GreenHub). 2018. Báo cáo Ô nhiễm
môi trường biển Việt Nam. Hà Nội.
48. Trần Xuân Trường. 2010. “Tăng cường các biện pháp phòng ngừa tội
phạm tại địa bàn cơ sở”, Tạp chí Công an nhân dân, số 02/2010, tr. 73 - 75.
49. Đinh Anh Tuấn và Nguyễn Kim Phong. 2006. Phòng ngừa tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực đưa người Việt Nam đi lao động ở nước
ngoài, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Phạm Minh Tuyên. 2006. Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma
tuý trong Luật hình sự Việt Nam, luận án tiến sĩ, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Tuyên. 2012. Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên
địa bàn thành phố Hà Nội, luận án tiến sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
52. Nguyễn Đình Tự. 2015. Phòng ngừa tội phá huỷ công trình, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
53. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế
xã hội giai đoạn 2015 - 2020.
54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo tổng kết các chương tr nh,
chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015 - 2020.
55. Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh. 2002. Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội ở nước ta, Nxb Công an nhân
162
dân, Hà Nội.
56. Đào Trí Úc. 2000. Cơ sở khoa học của việc tổ chức phòng ngừa tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Đào Trí Úc. 2000. Tình hình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam hiện
nay, in trong cuốn Tội phạm học Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
58. Viện Nhà nước và Pháp luật. 2000. Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
59. Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 2020. Báo cáo công tác ngành
Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2010 - 2020.
60. Trịnh Tiến Việt. 2008. Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ Tội
phạm học, Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, số
08/2008, tr. 185 - 199.
61. Cao Xuân Việt. 2015. Phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường thuỷ ở các tỉnh Nam Bộ, thực trạng và giải pháp,
luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Võ Khánh Vinh. 1999. Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Võ Khánh Vinh. 2000. Dự báo tình hình tội phạm, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
64. Võ Khánh Vinh. 2002. “Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tội
phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 04/2002.
65. Võ Khánh Vinh. 2008. Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
66. Võ Khánh Vinh. 2013. Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
67. Viện Nhà nước và Pháp luật. 2000. Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
68. Nguyễn Xuân Yêm. 2001. Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
69. Nguyễn Xuân Yêm. 2003. Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
70. Nguyễn Xuân Yêm. 2005. Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam
163
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
71. Nguyên Xuân Yêm. 2010. Tội phạm học Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Yêm và Nguyễn Minh Đức. 2011. Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn phòng ngừa tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
Tài liệu nƣớc ngoài
73. Adam Sutton và cộng sự. 2014. Crime prevention: principle,
perspectives and practices, Cambrifge University.
74. Bob Ashford. 2007. Crime prevention strategy in teenagers, Stanford
University
75. Can Ueda. 1989. Crime and criminology in JaPan, Nxb Tiến Bộ, Việt
Nam (được dịch bởi Nguyễn Xuân Yêm và Hồ Trọng Ngũ).
76. E. Buchjholz, J. Lekschas and D. Hartmann. 1975. (социалистическим)
Giáo trình Tội phạm học xã hội chủ nghĩa, Советский Союз.
77. Edwin Sutherland và Donald Cressey. 2007. Principles of Criminology
(6th ed), Philadelphia: J.B. Lippinc.
78. Frank Schmalleger. 2002. Criminology today, Nxb Prentice Hall.
79. Freda Adler and Gerhard O.W. Mueller. 1995. Criminology: The Shorter
Version, Stanford University.
80. G.I. Xe-Tra-Rop. 1977. Nghiên cứu phòng ngừa các tội phạm thân thể,
Viện Khoa học công an, Hà Nội.
81. Gray, W., & Shadbegian, R. J. 2016. Multimedia pollution regulation
and environmental performance: EPA’s cluster rule. Resources for the future.
Downloaded on September 30, 2016.
82. Hans Dieter Schwwind. 2007. Kriminologie - Eine Praxisorentierte
einfuehrung mit beispielen, Kriminalistik, Heidelberg.
83. Higgins, P., Short, D., & South, N. 2013. Protecting the planet: A
proposal for a law of ecocide. Crime, Law and Social Change, 59, 251 - 266.
84. John Lehschas và cộng sự. 1983. Verbrechen des Lernens - Die
Begründung und Analyse (Tội phạm học - Những cơ sở lý luận và phân tích), Nxb
CHDC Đức.
85. Larry J. Siegel. 2011. Criminology: Theories, patterns and typologies,
164
American.
86. Li, F., Liu, Y., Lü, J., Liang, L., & Harmer. 2015. Pambient air pollution
in China poses a multifaceted health threat to outdoor physical activity. Journal of
Epidemiology & Community Health, 69, 201 - 204.
87. Lunev.V.V. 1991. “Криминальная ситуация в Советском Союзе -
основные тенденции и правила” (THTP ở Liên Xô - Những khuynh hướng cơ bản
và tính quy luật), Советский государственный и юридический журнал, số
08/1991, tr. 90.
88. Lynch, M. J., Long, M. A., Barrett, K. L., & Stretesky, P. B. 2013. Is it a
crime to produce ecological disorganization? Why green criminology and political
economy matter in the analysis of global ecological harms. British Journal of
Criminology, 53(6), 997 - 1016.
89. Malkovo. 2006. Crime of learning - Textbooks for universities, Legal
information, Rusia.
90. Melinikova E.B. 1974. Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh thiếu niên
phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa, được dịch bởi Viện Thông tin Khoa học xã
hội năm 1983, Hà Nội.
91. Moreto, W., & Lemieux, A. M. 2015. Poaching in Uganda: Perspectives
of law enforcement rangers. Deviant Behavior, 36, 853 - 873.
92. Paul Lafague.1968. Crime situation in France from 1840 - 1886 -
Studies on dynamics and causes, Forum der Krimenalistih - Sonderheft.
93. Richard F. Wetzell trong nghiên cứu Inventing the Criminal: A History
of German Criminology, Michigan University.
94. R. White and Fiona Haines. 2000. Crime and Criminology: An
introduction (Second Edition), Offord University.
95. R. White. 2008. Crimes against nature: Environmental criminology and
ecological justice, Willan.
96. R. White. 2008. Toxic cities: Globalizing the problem of waste, Social
Justice, 35(3), 107 - 119 (2008b).
97. R. White. 2009. Researching transnational environmental harm: Toward
an eco global criminology, International Journal of Comparative and Applied
Criminal Justice, 33, 229 - 248.
98. R. White. 2011. Transnational environmental crime: Toward an eco
165
global criminology, Abingdon, U.K.: Routledge.
99. R.White. 2013. Transnational Environmental Crime, Farnham, U.K.:
Ashgate Publishing Ltd.
100. R.White. 2016. Building NESTs to combat environmental crime
networks, Trends in Organized Crime, 19, 88 – 105.
101. Samaantha Bricknell. 2010. Environmental crime in Australia, Instilute
of Australia criminilogy researching.
102. Stenven C. Drielak. 1998. Environ crime: Evidence gathering and
Invesstigatvie, Michigan University.
103. Thio Eisenhardt. 2012. Kriminalgeographie: theoretische kozepte und
empirische efgebnisse, Internationaler Verlag Der Wissenchaften.
104. V.Kudriavsev. 1980, Nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
105. Vi Khăm Khun Sam Nan. 2016. Điều tra tội phạm cướp giật tài sản của
công dân ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh
166
sát nhân dân, Việt Nam.
PHỤ LỤC
I. Phụ lục 01
Bảng 1. Tổng số vụ án hình sự về môi trường và tổng số bị cáo phạm tội về
môi trường so với tổng số vụ án hình sự và tổng số bị cáo phạm tội hình sự nói
chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2019.
Năm Tổng số vụ án hình sự Tổng số bị cáo phạm tội hình sự
Tổng số vụ án hình sự về môi trƣờng 7 Tổng số bị cáo phạm tội về môi trƣờng 11 89 132 2010
112 169 8 17 2011
132 177 12 22 2012
168 187 18 25 2013
188 207 22 32 2014
207 281 25 44 2015
212 280 32 55 2016
218 301 33 63 2017
278 312 35 66 2018
301 389 37 66 2019
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Bảng 2. Thống kê tổng số vụ, việc vi phạm pháp luật về môi trường trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 - 2019
Năm Tổng số vụ, việc Số vụ xử lý hành chính Số vụ xử lý hình sự
100%
100% 100% (=0%)
100.2% (+0.2%) 116% (+16%)
779 780 900 1.516 100% 100.2% (+0.2%) 115.7% (+15.7%) 194.4% (+94.4%)
7 786 8 788 12 200% (+200%) 912 1.534 195.1% (+95.1%) 18 600% (+600%) 1.668 212.2% (+112.2%) 1.646 211.4% (+111.4%) 22 600% (+600%) 1.752 225.1% (+125.1%) 25 700% (+700%) 1.777 226% (+126%) 1.811 233.4% (+133.4%) 32 800% (+800%) 1.843 234.4% (+134.4 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 %)
1.830 235.1% (+135.1%) 33 1500% (+1500%) 258.6% (+158.6%) 1.998 256.4% (+156.4%) 35 1700% (+1700%) 2.361 302.9% (+202.9%) 37 1700% (+1700%) 305 % (+205%) 2017 2018 2019
167
1.863 237% (+137%) 2.033 2.398 (Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Bảng 3. Kết quả khảo sát chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến phòng
ngừa THTP về môi trường
Đối tƣợng khảo sát Mức độ biết Mức độ hiểu Mức độ hài lòng
(%) (%) (%)
Học sinh 90 76 87
Công chức 100 100 99
Nông dân 65 43 60
Doanh nghiệp 77 65 65
Khác 56 38 40
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của NCS năm 2019)
Bảng 4. Kết quả khảo sát chất lượng phương tiện tuyên truyền phòng ngừa
THTP về môi trường
Các kênh thông tin Mức độ phổ biến Mức độ Mức độ hiệu
thƣờng xuyên quả
50% 60% 22% Đài phát thanh xã
14% 14% 40% Trường học
11% 9% 18% Tổ chức xã hội
14% 9% 11% Cổ động, mít tinh
6% 4% 2% Văn bản
4% 4% 7% Khác
168
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của NCS năm 2019)
II. Phụ lục 02
Sơ đồ 1. Tương quan tỷ lệ số vụ án hình sự về môi trường với tổng số vụ án
hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2019
So sánh mối tương quan
12%
Tổng số vụ án hình sự khác
Tổng số vụ án hình sự về môi trường
88%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
Sơ đồ 2. Tương quan tỷ lệ số bị cáo phạm tội về môi trường với tổng số bị cáo
phạm tội hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2010 - 2019
So sánh mối tương quan
16%
Tổng số bị cáo phạm tội hình sự khác
Số bị cáo phạm tội về môi trường
84%
169
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Sơ đồ 3. Diễn biến số vụ phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010
- 2019
37
35
33
32
25
22
18
12
8
7
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Sơ đồ 4. Diễn biến số bị cáo phạm tội về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
70
60
50
40
30
20
10
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2010 - 2019
170
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm chiếm
Sơ đồ 5. Cơ cấu theo tội danh tội phạm về môi trường năm 2019
4%
Tội huỷ hoại rừng
3%
5%
6%
Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
41%
9%
Tội gây ô nhiễm môi trường chiếm
11%
Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản chiếm
21%
Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
Sơ đồ 6. Cơ cấu theo hình phạt các bị cáo phạm tội về môi trường giai đoạn từ
năm 2010 - 2019 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
2%
4%
16%
Án treo
46%
Tù 3 năm trở xuống
Tù từ 3 năm đến 7 năm
Tù từ 7 năm đến 15 năm
32%
Phạt tiền, cải tạo không giam giữ
171
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Sơ đồ 7. So sánh tương quan số vụ xử lý hành chính và số vụ xử lý hình sự về hành
37
2019
2381
35
2018
2016
33
2017
1848
32
2016
1835
25
2015
1770
22
2014
1662
18
2013
1528
12
2012
910
8
2011
788
7
2010
786
500
1000
1500
2000
2500
3000
0
Số vụ xử lý hình sự
Số vụ xử lý hành chính
vi vi phạm pháp luật về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 - 2019
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)
Sơ đồ 8. So sánh tương quan số vụ xử lý hành chính và số người bị xử lý hành
chính về hành vi vi phạm pháp luật về môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 -
Số người bị xử lý hình sự
Số người xử bị xử lý hành chính
1 1 0 4
4 5 0 3
8 7 7 2
3 4 7 2
8 9 0 2
2 2 0 2
9 9 9 1
7 8 9 1
6 3 3 1
2 4 0 1
6 6
6 6
3 6
5 5
4 4
2 3
5 2
2 2
7 1
1 1
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2019
172
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh)