Quan điểm hiện nay về hội chứng buồng

trứng đa nang

Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) là rối loạn nội tiết thường gặp nhất ở phụ

nữ trong tuổi sinh sản và tỉ lệ mắc có xu hướng tăng dần. Các phát kiến trong

những năm gần đây về PCOS làm thay đổi các quan điểm hiện nay về hội chứng

này. Trong bài này, tác giả trình bày các quan điểm hiện nay về bệnh căn, triệu

chứng, chẩn đoán, điều trị, biến chứng lâu dài và theo dõi PCOS dựa các y văn thế

giới gần đây.

Tổng quan

Hội chứng buồng trứng đa nang - Polycystic Ovary Syndrome, thường được viết

tắt là “PCOS”. Nhiều nhà khoa học cho rằng PCOS là một tình trạng bệnh lý của

thời đại ngày nay. PCOS là rối loạn nội tiết thường gặp nhất ở phụ nữ trong tuổi

sinh sản và có tần suất ngày càng tăng. Tần suất PCOS được ghi nhận có thể lên

đến 15-20% phụ nữ trong tuổi sinh sản.

PCOS bao gồm các triệu chứng cơ năng và thực thể rất đa dạng ở phụ nữ. Hội

chứng từng được mô tả là hội chứng Stein-Leventhal từ năm 1935 và được xem

như đồng nghĩa với PCOS trong gần 30 năm, hiện nay được xem là một dạng thể

hiện đặc thù của PCOS. Hội chứng Stein-Leventhal cổ điển bao gồm cường

androgen (rậm lông, mụn trứng cá, hói đầu và tăng testosterone máu), rối loạn

kinh nguyệt (kinh thưa hoặc vô kinh), và béo phì cùng với buồng trứng dạng đa

nang điển hình. Ngày nay, chúng ta biết rằng triệu chứng buồng trứng dạng đa

nang có thể tồn tại độc lập mà không có các triệu chứng lâm sàng khác. Theo tiêu

chuẩn NICHD được đưa ra ở Mỹ, PCOS có thể được chẩn đoán không cần có hình

ảnh buồng trứng đa nang. PCOS cũng được chứng minh có liên quan với di

truyền, trong đó một số dạng triệu chứng có thể di truyển từ thế hệ này sang thế hệ

khác.

Trong đời sống hiện đại, lối sống có nhiều thay đổi, thực phẩm dư thừa và con

người ngày càng ít vận động. Điều này dẫn đến dịch béo phì và tăng insulin máu

trong các cộng đồng người ở nhiều vùng trên thế giới. Các rối loạn này có thể là

yếu tố nguy cơ làm biểu hiện các triệu chứng PCOS ở phụ nữ, trong khi ở nam

giới về lâu dài sẽ dẫn đến bệnh tim mạch và tiểu đường type 2. Tăng cân sẽ làm

các triệu chứng của PCOS nặng thêm, trong khi giảm cân làm giảm các rối loạn về

nội tiết và chuyển hóa cũng như giảm các biểu hiện lâm sàng của PCOS.

Tình trạng kháng insulin và tăng insulin máu hiện nay được xem bệnh căn cơ bản

của PCOS [1]. Insulin kích thích mô buồng trứng tiết testosterone, làm ảnh hưởng

đến sự phát triển của bình thường của các nang noãn theo 2 cơ chế: ngăn cản sự

phát triển của các nang noãn, đồng thời ức chế quá trình thoái hóa các nang noãn,

dẫn đến nhiều nang noãn không bị thoái hóa nhưng cũng không phát triển tiếp tục

mà cùng tồn tại ở buồng trứng. Chúng ta đều biết trong chức năng bình thường của

buồng trứng, một nang noãn sẽ được chọn lọc, phát triển, vượt trội và hiện tượng

rụng trứng sẽ diễn ra. Ở PCOS, quá trình này diễn ra bất thường dẫn đến buồng

trứng có nhiều nang, mỗi nang đều chứa noãn, nhưng sự phát triển của các nang

này đều bị rối loạn.

Phụ nữ bị PCOS có thể biểu hiện nhiều triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng khác

nhau của PCOS. Các triệu chứng này có thể bao gồm rối loạn kinh nguyệt, béo

phì, rậm lông, mụn trứng cá; các bất thường về chỉ số nội tiết máu như tăng LH,

testosterone, androstenedione insulin và hình ảnh siêu âm của buồng trứng đa

nang. Sự thể hiện triệu chứng của PCOS rất đa dạng với sự phối hợp của một số ít

hay tất cả các triệu chứng trên. Các triệu chứng của PCOS như béo phì, rậm lông,

mụn trứng cá, rối loạn kinh nguyệt và vô sinh có thể đơn lẻ hoặc phối hợp gây ảnh

hưởng nặng đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của phụ nữ.

Béo phì và rối loạn chuyển hóa, những yếu tố nguy cơ làm phát triển bệnh thiếu

máu cơ tim, cũng là những yếu tố thường xuất hiện trong hội chứng buồng trứng

đa nang. Phụ nữ bị PCOS có tình trạng béo phì kiểu bụng, tỉ lệ eo:hông tăng. Phụ

nữ PCOS còn có thể đi kèm các rối loạn về chuyển hóa như tăng kháng insulin, rối

loạn lipid máu, giảm HDL, tăng androgen… Bệnh nhân PCOS sẽ tiếp xúc với

nồng độ estrogen tương đối cao, kéo dài mà không có tác dụng đối kháng của

progesterone. Do đó, bệnh nhân PCOS có thể có nguy cơ tăng sinh nội mạc tử

cung kéo dài, ung thư nội mạc tử cung và có thể có mối liên quan đến ung thư vú.

Bệnh nhân PCOS khi có thai, tỉ lệ sẩy thai thường cao hơn so với bình thường.

Nguyên nhân sẩy thai ở PCOS có thể do tình trạng béo phì, tăng LH. Tuy nhiên,

cho đến nay, mối liên quan giữa PCOS và sẩy thai chưa được chứng minh rõ ràng.

Ngoài ra, phụ nữ PCOS có thai thường gia tăng nguy cơ tiểu đường trong thai kỳ.

Gần đây một số báo cáo cho thấy sử dụng metformin có thể làm giảm tỉ lệ sẩy thai

và tiểu đường thai kỳ ở thai phụ có PCOS.

Tiêu chuẩn chẩn đoán Hội chứng buồng trứng đa nang (theo 2003

ESHRE/ASRM Consensus)

Mặc dù PCOS đã được nêu ra từ năm 1935, nhưng cho đến năm 2003, các nhà

khoa học trên thế giới vẫn chưa thống nhất về tiêu chuẩn chẩn đoán PCOS. Tiêu

chuẩn chẩn đoán chính thức được đưa ra đầu tiên, dựa vào tình trạng rối loạn

phóng noãn và cường androgen bởi các nhà khoa học Mỹ (NICHD) vào năm 1990.

Tuy nhiên, tiêu chuẩn này không được chấp nhận phổ biến ở Châu Âu. Trong khi

đó, các nhà khoa học châu Âu chủ yếu chẩn đoán PCOS dựa trên một báo cáo mô

tả các triệu chứng điển hình PCOS của tác giả Adams mô tả năm 1985.

Năm 2003, các chuyên gia hàng đầu về PCOS của Hội Y học sinh sản Mỹ

(ASRM) và Hội sinh sản người và phôi học châu Âu (ESHRE) nhóm họp tại

Rotterdam (Hà lan) để thống nhất một tiêu chuẩn chung để chẩn đoán PCOS. Từ

đó, 2003 ESHRE/ASRM Consensus về tiêu chuẩn chẩn đoán PCOS ra đời. Mặc

dù còn một số tranh cãi, đây là tiêu chuẩn được chấp nhận nhiều nhất trên thế giới

hiện nay.

Theo 2003 Rotterdam Consensus [2], PCOS được chẩn đoán khi bệnh nhân có 2

trong 3 triệu chứng sau: (i)Vô kinh hoặc thiểu kinh, (ii)Cường androgen (triệu

chứng lâm sàng và/hoặc cận lâm sàng), và (iii)Hình ảnh buồng trứng đa nang.

Một số điều lưu ý về tiêu chuẩn chẩn đoán:

Các triệu chứng của hội chứng buồng trứng đa nang

Có thể chia các triệu chứng của PCOS thành 3 nhóm chính [3]

(1) Triệu chứng lâm sàng và siêu âm

· Cường androgen (mụn trứng cá, rậm lông, hói đầu)

· Rối loạn kinh nguyệt

· Vô sinh

· Béo phì

· Hình ảnh buồng trứng đa nang trên siêu âm

(2) Triệu chứng về nội tiết trong máu

· Kháng insulin hoặc rối loạn dung nạp glucose

· Tăng androgen

· Tăng LH

· Giảm SHBG

· Tăng estradiol, estrone

· Tăng prolactin

(3) Các biến chứng/di chứng

· Tiểu đường

· Rối loạn lipid máu

· Cao huyết áp, bệnh tim mạch

· Ung thư nội mạc tử cung

· Ung thư vú (?)

Vì các triệu chứng đa dạng trên, một bệnh nhân PCOS có thể đến gặp các bác

sĩ thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau để khám, tư vấn và điều trị: như gặp

bác sĩ phụ khoa vì rối loạn kinh nguyệt, vô sinh, buồng trứng đa nang; gặp

bác sĩ nội tiết nội khoa vì bệnh lý tiểu đường hoặc các rối loạn nội tiết khác;

gặp bác sĩ tim mạch vì rối loạn lipid máu, biến chứng tim mạch; gặp bác sĩ da

liễu vì mụn trứng cá, rậm lông; gặp chuyên viên về dinh dưỡng vì chứng béo

phì… Do đó việc phát hiện theo dõi và điều trị triệu chứng và điều trị dự

phòng các biến chứng lâu dài của PCOS là rất quan trọng [2] không chỉ với

các bác sĩ phụ khoa mà còn với các bác sĩ thuộc một số chuyên ngành khác có

liên quan.

Kháng insulin và Hội chứng buồng trứng đa nang

Tình trạng kháng insulin và tăng tiết insulin ở tuyến tụy sẽ dẫn đến cường

androgen và rối loạn phóng noãn ở buồng trứng thông qua 3 cơ chế [4]:

· Kích thích buồng trứng và thượng thận tiết androgen

· Giảm SHBG (sex-hormone binding globulin) gián tiếp làm tăng androgen tự

do trong máu

· Có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên trục hạ đồi tuyến yên, làm mất

cân đối trong chế tiết gonadotropins theo hướng tăng tiết LH nhiều hơn

Dựa trên cơ sở đó, quan điểm sử dụng các biện pháp làm giảm đề kháng

insulin để điều trị PCOS đã được nghiên cứu và phát triển rất nhanh trong

những năm gần đây. Các biện pháp giảm đề kháng insulin không thuốc

(kiêng ăn, tập thể dục) hay sử dụng thuốc (metformin, trioglitazone) được

nghiên cứu áp dụng điều trị PCOS với tỉ lệ cải thiện triệu chứng cao. Báo cáo

bước đầu tại Khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Từ Dũ cho thấy hiệu quả rất khả

quan của việc sử dụng metformin cho bệnh nhân PCOS, vô sinh kháng

clomiphene citrate [6]. Hiện nay, metformin đã được áp dụng là điều trị đầu

tay cho các trường hợp PCOS tại Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ.

Điều trị Hội chứng buồng trứng đa nang

Điều trị hội chứng buồng trứng đa nang cho đến nay chủ yếu là điều trị triệu

chứng. Do béo phì sẽ làm nặng thêm các rối loạn trong PCOS, biện pháp ăn

kiêng, vận động để kiểm soát cân nặng và chống béo phì đóng vai trò rất

quan trọng trong điều trị. Các biện pháp giảm cân thường được sử dụng là

ăn kiêng, tập thể dục, metformin và các thuốc giảm cân. Đây cũng được xem

là những biện pháp cơ bản để làm giảm các rối loạn về chuyển hóa, kiểm soát

sự phát triển của hội chứng buồng trứng đa nang và các nguy cơ lâu dài có

thể có.

Hội chứng buồng trứng đa nang là nguyên nhân chủ yếu gây vô sinh do rối

loạn phóng noãn. Để điều trị vô sinh do không phóng noãn ở PCOS, có thể sử

dụng các thuốc kháng estrogen như clomiphene citrate hay tamoxiphene.

Gần đây, các thuốc ức chế men thơm hóa (aromatase inhibitor) cũng đã được

nghiên cứu và chứng minh hiệu quả trong kích thích phóng noãn ở bệnh

nhân PCOS. Giảm cân và sử dụng metformin cũng có hiệu quả trong gây

phóng noãn tự nhiên ở bệnh nhân PCOS. Theo một nghiên cứu meta-analysis

qui mô nhất cho đến nay về hiệu quả của metformin trên PCOS, metformin

hiện nay được xem là điều trị đầu tay trong những trường hợp vô sinh do

PCOS [7]. Sử dụng gonadotropins để kích thích phóng noãn cũng mang lại

hiệu quả cao. Tuy nhiên, nên sử dụng phác đồ FSH liều thấp, tăng dần đề

giảm nguy cơ quá kích buồng trứng và đa thai. Đốt điểm buồng trứng làm

giảm nguy cơ đa thai và quá kích buồng trứng, tuy nhiên, đốt điểm buồng

trứng lại đi kèm với các nguy cơ của phẫu thuật, dính quanh buồng trứng và

giảm dự trữ buồng trứng sau phẫu thuật.

Các biện pháp điều trị rậm lông hiện nay nói chung bao gồm biện pháp cơ

học và sử dụng thuốc. Điều trị nội khoa thường mất từ 6-9 tháng để cải thiện

tình trạng rậm lông. Các biện pháp cơ học như đốt điện, laser, sáp… có thể

được sử dụng thay thế hoặc tạm thời trong khi chờ đáp ứng của điều trị nội

khoa. Sử dụng thuốc ngừa thai phối hợp có thể giúp tạo chu kỳ kinh, giảm

nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và giảm triệu chứng cường androgen, mụn

trứng cá…. Tuy nhiên, thuốc ngừa thai thường không cải thiện tình trạng

kháng insulin và rối loạn lipid máu.

Mục tiêu chung của việc điều trị PCOS hiện nay bao gồm [1]:

· Thay đổi lối sống để có thể duy trì cân nặng ở mức bình thường

· Bảo vệ nội mạc tử cung khỏi tác dụng liên tục của estrogen mà không có

progestin đối kháng

· Gây phóng noãn để điều trị vô sinh

· Giảm triệu chứng cường androgen, giảm sản xuất androgen và giảm nồng

độ androgen trong máu

· Tránh các tác động của tình trạng tăng insulin máu lên nguy cơ bệnh tim

mạch và tiểu đường về lâu dài

Kết luận

Trong khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, có rất nhiều thay đổi trong bệnh

căn học, triệu chứng học, chẩn đoán và điều trị PCOS. Các quan điểm mới đã

làm thay đổi hẳn bộ mặt của PCOS cùng với phương pháp tiếp cận hội chứng

này.

Vai trò của kháng insulin trong bệnh căn PCOS ngày càng được nhấn mạnh.

Trong đó mối liên quan giữa bệnh căn PCOS và lối sống cũng được nghiên

cứu và dùng để lý giải cho khuynh hướng gia tăng tần suất PCOS trong cộng

đồng. Tiêu chuẩn chẩn đoán PCOS cũng được thống nhất và mở rộng. Các

biện pháp làm giảm đề kháng insulin ngày càng đóng vai trò quan trọng

trong điều trị PCOS.

Tài liệu tham khảo

1. Speroff L, Fritz M. Anovulation and the polycystic ovary. In : Speroff L,

Fritz M. Clinical gynecologic endocrinology and infertility. 7th edition,

Lippincott Williams & Wilkins, USA 2005. p. 465-498.

2. ESHRE/ASRM. Revised consensus on diagnostic criteria and long term

health risks related to polycystic ovary syndrome. Fertility and Sterility 2004;

81:19-25.

3. Balen AH, Conway GS, Homburg R, Legro RS. Defining the polycystic

ovary syndrome. In: Balen AH, Conway GS, Homburg R, Legro RS.

Polycystic ovary syndrome – A guide to clinical management. Taylor &

Francis, Great Britain: 2005. p. 7-22.

4. Legro RS, Castracane VD, Kauffman RP. Detecting insulin resistance in

polycystic ovary syndrome: purposes and pitfalls. Obstetrical and

Gynecological Survey 2004; 59: 141-154.

5. Ovalle Fernando và R Azziz. Insulin resistance, polycystic ovary syndrome,

and type 2 diabetes mellitus. Fertility and Sterility 2002; 77: 1095-1105.

6. ĐN Khánh, BT Giang, HM Tường. Sử dụng Metformin ở bệnh nhân rối

loạn phóng noãn do hội chứng buồng trứng đa nang. Tạp chí Phụ Sản Việt

nam 2005; 5(1-2): 26-31.

7. Lord JM, Flight IHK, Norman RJ. Metformin in polycystic ovary

syndrome: systematic review and meta-analysis. British Medical Journal

2003; 327: 951-956.

Trong vòng khoảng 10 năm qua, đã có những thay đổi lớn trong hiểu biết về

PCOS. Điều này dẫn đến cách tiếp cận mới về phương pháp điều trị PCOS.

Sự thay đổi này chủ yếu là do các nhà khoa học phát hiện ra tình trạng kháng

insulin và những giai đoạn tăng insulin trong máu ở phụ nữ PCOS. Theo

nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy từ 50%-70% phụ nữ PCOS có tình

trạng kháng insulin. Phụ nữ PCOS càng béo phì thì tỉ lệ kháng insulin càng

cao [4]. Ovalle và Azziz [5] sau khi khảo sát các báo cáo về mối liên quan giữa

kháng insulin, PCOS và tiểu đường type II đã đưa ra giả thuyết là PCOS và

tiểu đường type II thật sự là 2 biểu hiện lâm sàng khác nhau của tình trạng

đề kháng insulin. Một số tác giả cho rằng hầu hết các trường hợp PCOS đều

có tình trạng kháng insulin, tuy nhiên chỉ có một tỉ lệ bệnh nhân có thể phát

hiện được bằng các xét nghiệm khảo sát tình trạng kháng insulin hiện tại.

· Thiểu kinh: chu kỳ kinh kéo dài trên 35 ngày. Vô kinh: không có kinh từ 6 tháng

trở lên

· Hình ảnh buồng trứng đa nang: 1 buồng trứng có từ 12 nang trở lên, có kích

thước từ 2-9mm và/hoặc thể tích trên 10cm3.

· Các triệu chứng của PCOS rất đa dạng và có thể thay đổi.

· Tiêu chuẩn chẩn đoán cường androgen hiện nay tương đối chủ quan và ít chính

xác.

· Trước khi chẩn đoán PCOS, cần loại trừ các bệnh lý có thể có triệu chứng tương

tự: tăng sản thượng thận bẩm sinh, hội chứng Cushing, u tiết androgen.