Lời nói đầu

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ

trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập

trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh

tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự

tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Kinh tế quốc

doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thừa nhận sự

tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về

vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng được đổi mới.

Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta

luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh

tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế

trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn lãnh đạo đất nước xây

dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay

lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực tiễn.

ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định trong

cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước thì

khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhưng thực

trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay thì chưa thể hiện

được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một số ngành, một số lĩnh vực

của doanh nghiệp nhà nước không năng động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có

nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ

chức và vận hành doanh nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp

nhà nước có thể thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân

thì vấn đề tất yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp

lý.

CHƯƠNG I Một số vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước

I / Tính tất yếu khách quan

1. Định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước ( DNNN )

Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh tế

do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc

công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có

tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn

bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ phận

chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước – một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo

cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước

2. Các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước

- Xét theo lĩnh vực hoạt động: Hoạt động trực tiếp trong sản xuất kinh doanh

hàng hoá dịch vụ và hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã

hội

- Xét về hình thức tổ chức: Khu vực KTNN bao gồm nhiều bộ phận hoạt động

trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có

chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của

khu vực KTNN ở một mức độ nhất định. Cụ thể như sau:

Ngân sách nhà nước:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ

điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực KTNN và các thành

phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác dụng điều chỉnh,

quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ

chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội

Kho bạc nhà nước: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước

đồng thời kiểm soát quá trình thu chi ngân sách

Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo đảm

cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật

chất để nhà nước điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế

xã hội

Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như DNNN trong cung ứng

một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính công

Hệ thống DNNN: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu vực KTNN. Để

được gọi là một DNNN thì cần phải có ba điều kiện

Thứ nhất: nhà nước là cổ đông chính, có thể nhà nước sở hữu 100% vốn, sở

hữu cổ phần chi phối ( trên 51 % ) hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt ( cổ phần quy

định quyền quản lý của nhà nước )

Thứ hai: doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán

Thứ ba: Có hoạch toán lỗi lãi

Nếu thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp tư nhân và thiếu điều kiện hai và

ba thì đó không phải là doanh nghiệp mà là cơ quan nhà nước

3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN

3.1 Sự cần thiết của DNNN

Nhìn lại quá trình lịch sử, chúng ta đi lên từ cơ sở vật chất, kỹ thuật rất

nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối trầm trọng, lực lượng thù địch bao vây

cấm vận kinh tế triệt để. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã xây dựng một nền kinh

tế độc lập, tự chủ bằng biện pháp huy động nguồn lực lớn của đất nước và viện trợ

quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân dưới hình

thức DNNN làm nòng cốt, cùng với khu vực kinh tế hợp tác xã làm nền tảng đáp

ứng những nhu cầu của xã hội. Thực tiễn đã chứng minh trong kháng chiến chống

Mỹ cứu nước nếu không phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để

xây dựng hậu phương vững mạnh, giải quyết hậu cần tại chỗ thì không thể huy

động tổng lực của dân tộc, chi viện cho tiền tuyến để tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

Sau khi thống nhất đất nước nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh bao vây

cấm vận kinh tế của đế quốc Mỹ, sự duy trì quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu,

bao cấp trong điều xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống XHCN.

Đại hội VI đã đề ra chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay

kiên trì với chủ trương này nền kinh tế của nước ta đã phát triển khá cao trong

nhiều năm và thoát khỏi khủng hoảng đảm bảo được những cân đối lớn, từng bước

cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo thế và lực mới

để tiếp tục đưa sự nghiệp mới đi lên

Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của DNNN hiện

nay rõ ràng là DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước

ta, thể hiện trên những nét chủ yếu sau:

- DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật

chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, nắm

toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết mạch, hầu hết các

doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng ( về giao thông,

thuỷ lợi, công nghiệp và dân dụng ), cơ khí chế tạo máy, luyện kim, xi măng, điện

tử, hoá chất, điện dầu khí, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường

không, ô tô ... , sản xuất hàng công nghệ tiêu dùng, chế biến nông thuỷ, hải sản,

nắm giữ một tỉ lệ quan trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại

nhập khẩu chiếm thị phần áp đảo trong huy đọng vốn và cho vay

Phần của DNNN trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992 là 40.12%, năm 1996 là

39.9%, năm 1998 là 41.2%, năm 1999 là 40.2%, năm 2000 là 39.5%. Cụthể trọng

phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghệ khai thác, trên 60% công

nghệ chế biến, trên 90%công nghệ điện – gas– dầu khí – cung cấp nước, trên 82%

vận chuyển hàng hoá, 50% vận hành khách, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản

xuất phân bón hoá học 99.8%, thuốc trừ sâu 93.6%, axít sunfuric và xút 100%, lốp

ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 100%, chế tạo động cơ điezel loại nhỏ 100%, 85%

năng lực kéo sợi, 50% năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng dưới

50% năng lực may mặc, giầy dép, chiếm tỷ trọng 70% bán buôn, 20% bán lẻ. Hệ

thống các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỷ phần áp đảo trong huy động

vốn chiếm 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế Các DNNN

đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định giá cả, chống

lạm pháp, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường

DNNN chiếm một phần rất quan trọng trong xuất nhập khẩu, trong đó DNNN

giữ tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế xuất khẩu, riêng công nghiệp năm 1999 đã

xuất khẩu được 6.17 tỷ USD ( chủ yếu do các DNNN ), chiếm 54% tổng kim

ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, tổng công ty lương thực miền nam xuất

khẩu gạo chiếm 60-70% so với cả nước.

Đóng góp nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước năm 1999

thuế thu từ DNNN ( thuế VAT , thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền sử dụng vốn )

chiếm 39.25%, riêng 17 TCT năm 1999 nộp ngân sách nhà nước 23478 tỷ đồng,

tăng 20.7% so với năm 1998. Năm 2000 DNNN chiếm 39.2% tổng thu ngân sách

cả nước

Trong khi nhà nước không đủ vốn ngân sách, cấp vốn lưu động cho kinh

doanh của DNNN theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình thành

vốn tự bổ xung, năng động tìm vốn bên ngoài bao gồm vốn vay của tổ chức tín

dụng và vay của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn tự tích luỹ, tự bổ xung

chiếm 27.8% tổng vốn nhà nước của DNNN đến cuối năm 2000, vốn tự bổ xung

của 17 TCT là 18038 tỷ đồng, chiếm 2205% tổng số vốn nhà nước của TCT 91

Trong lúc các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là đối tác

chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài, đồng thời DNNN cũng thực hiện hạ

tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn trong nước và ngoaì

nước đầu tư

DNNN đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong nhân tố có tầm quan

trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, hàng hoá, chuyển

từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm chất lượng ngày

một cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông qua việc xây dựng các

công trình thuỷ lợi cung cấp điện, xây dựng các đường giao thông huyết mạch,

cung cấp giống cây trồng, con, chuyển giao kỹ thuật và bước đầu phát triển công

nghệ chế biến. Một số nông, lâm trường đã phát huy được vai trò trung tâm kinh

tế, văn hoá, chuyển giao công nghệ trên địa bàn.

Điển hình như trường Sông Hậu trả lương cho 130 giáo viên và xây dựng cơ sở

trường lớp cho 3000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học, công ty chè Mộc Châu

hàng năm đầu tư 100 triệu để sửa chữa và xây mới trường học, nhà trẻ, mẫu giáo,

cải tạo 705 km đường giao thông liên bản, tổng công ty cà phê từ năm 1996 đén

nay dã đàu tư hàng 100 tỷ để xây dựng 100 km đường giao thông ( có 25 km

đường nhựa ), 150 km đường điện trung hạ thế, 50000 m2 trường học, 20000 m2

nhà trẻ mẫu giáo, làm mới và nâng cấp 58 hồ, đập

Hỗ trợ cho sự phát triển các vùng miền núi và các vùng xa, vùng sâu. ở đó hiệu

quả đầu tư kinh doanh thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều rủi ro kinh doanh

nhưng lại là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của quốc gia và thực hiện

các chính sách dân tộc của đảng

Khu vực DNNN nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ phận

quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ lãnh đạo ưu

tú, trung kiên cho đảng nhà nước và quân đội

DNNN cũng thức sự đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương: uống nước nhớ

nguồn, xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả cảu những vùng bị thiên tai, cứu

trợ xã hội, tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện, nhường cơm xẻ áo

3.2 Sự cần phải phát triển DNNN

Tại hội nghị thứ ba ban chấp hành trung ương đảng khoá IX đồng chí bí thư

Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu bế nạc hội nghị, trong đó đồng chí tổng bí thư

đã nêu lên tâm quan trọng của DNNN và sự đổi mới DNNN trong tình hình nước

ta hiện nay.

Tại hội nghị trung ưong đã dành phàn lớn thời gian để thảo luận và thông qua

nghị quyết: “ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của

DNNN”. Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của đảng. Tổng

kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội

trong thời mới. Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng định “ kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,

trong đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.

KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng

và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ

vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu

gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.

Hội nghị trung ương lần này bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết đại hội

đảng, bảo đảm DNNN có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai

trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng

cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đề án và tờ trình của Bộ chính

trị, trung ương đã tập trung thảo luận về đánh giá hoạt động của DNNN trong

những năm đổi mới, xác định quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp

sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Bộ chính trị đã trình bầy

ý kiến tiếp thu những vấn đề mà đại đa số các đại biểu đã nêu. Trong quá trình đổi

mới đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy

sức mạnh của toàn dân tộc phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh cong nghiệp hoá,

hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất

quán, lâu dài trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính

sách đó trung ương có trách nhiệm xây dựng phương hướng, nội dung, giải pháp

cụ thể của từng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội đảng.

Trung ương bàn việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN là để góp phần bảo đảm cho KTNN giữ vững vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển kinh tế

nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế

khác. Chúng ta đã có nhiều chủ trương tạo thuận lợi cho các loại hình doanh

nghiệp ra đời và phát triển trong khuôn khổ luật pháp giúp các doanh nghiệp có

thêm điều kiện tiếp cận thị trường trong nước và thế giới chuẩn bị cho việc thực

hiện các cam kết trong quá trình chủ động hội nhập có hiệu quả kinh tế quốc tế.

Sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng các chính sách nhằm phát huy sức mạnh của

các thành phần kt theo đường lối của đảng

Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là việc mà ban

chấp hành trung ương nhiều khoá đã quan tâm, được tiến hành ngay từ thời kỳ đổi

mới và nhất là trong 10 năm qua. Đánh giá những việc làm được cũng như chưa

làm được còn có những ý kiến khác nhau nhưng chủ yếu là khác nhau về múc độ

vì trong thực tế còn có những yếu tố chưa được xem xét đầy đủ, tuy nhiên khi

đánh giá cần dựa trên quan điểm lịch sử, xét tới bối cảnh thế giới, trong nước hơn

10 năm qua và hiệu quả kinh tế chính trị, xã hội, để nhìn nhận đúng mức vai trò và

sự đóng góp của DNNN trong thời kỳ đổi mới. Trong thời gian qua chúng ta đã

hoàn thành khung pháp lý tương đối cơ bản để chuyển DNNN sang kinh doanh

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xác lập dần quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh xoá dần bao cấp, bảo đảm các chính

sách xã hội trong quá trình sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN. Nhiều DNNN đã đứng vững trước những thử thách to lớn, từng bước

được sắp xếp, đổi mới, phát triển ngày càng thích ứng hơn trong quá trình chuyển

sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, số doanh nghiệp làm ăn có

lãi, có tích luỹ tăng lên, nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực cả về vai trò

cơ cấu năng lực và hiệu quả. Đồng thời trung ương cũng đã chỉ ra những mặt tồn

tại như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, các yếu tố cuỉa thị trường hình thành

chưa đồng bộ, cơ chế quản lý vĩ mô còn những điểm chưa phù hợp, DNNN chưa

thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ, thực hiện hoạch toán kinh doanh, chưa

sử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của doanh nghiệp, chưa tạo được động lực mạnh

mẽ và xác định động lực rõ ràng để DNNN hoạt động năng động, có hiệu quả

ngày càng cao, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có

và sự đàu tư của nhà nước, cồn nhiều DNNN thua lỗ, công nợ nặng nề, phần lớn

công nghệ lạc hậu, lao động dôi dư còn nhiều, vai trò lãnh đạo của đảng chưa

ngang tầm và còn yếu kém, sự yếu kém của không ít DNNN do nhiều nguyên

nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhận rõ những yếu kém là để

quyết tâm sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Chúng ta không thể

chấp nhận quan điểm coi trọng DNNN thì “tất yếu dẫn tới kém hiệu quả” như một

số ý kiến nêu lên ở nơi này nơi khác. Những ý kiến như thế xuất phát từ định kiến,

thiếu khách quan sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của DNNN, không quan tâm tiếp tục

sắp xếp đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả của DNNN

Như đã trình bày ở trên việc tiếp tục, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả

DNNN là vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết có nhiều

nội dung đề cập các vấn đề sắp xếp, hoàn thiện hơn nữa tổ chức và quản lý, xác

định những việc cần phải làm để tạo động lực mới cho DNNN, đẩy mạnh thực

hiện cổ phần hoá, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục đổi mới và nâng cao

hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN. Mỗi nội dung đều cụ thể hoá các mục tiêu,

phương hướng, nhiệm vụ đã ghi trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX của đảng; nhưng vì là vấn đề lớn về chính trị cho nên nghị quyết đã nêu

những quan điểm chỉ đạo. Các quan điểm chỉ đạo đó phải được quán triệt trong

việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Trung ương khẳng định

tư tưởng của nghị quyết đại hội IX, xác định vai trò chủ đạo của KTNN, xác định

DNNN là lực lượng nòng cốt của KTNN, giữ vị trí thên chốt trong nền kinh tế, là

công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh

tế. KTNN, DNNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy

DNNN phải không ngừng được sắp xếp, đổimới, phát triển, có trình độ công nghệ

và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả. Trên cơ sở các quan điểm đó

mà thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu DNNN, chuyển các DNNN sang thực sự kinh

doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế

khác

Đã là doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi mới,

phát triển các DNNN đều hướng tới nâng cao hiệu quả, vì có hiệu quả mới có thể

nêu gương, hướng dẫn và góp phần tăng tiềm lực KTNN để giữ vững vai trò chủ

đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, và một nền kinh tế định hướng xã hội chủ

nghĩa phải được xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội tổng thể hướng tới mục tiêu

của CNXH

Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề rất hệ trọng

trong đường lối phát triển kinh tế, đồng thời rất nhạy cảm về chính trị, liên quan

tới sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quá trình nhà nước thực

hiện có nhiều vấn đề mới đặt ra. Do đó vừa phải tiến hành đồng bộ, khẩn trương

nhưng vẫn phải vững chắc, có chương trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm, trọng

điểm, bước đi phù hợp, vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, boả đảm ổn định và

phát triển. Việc gì đã rõ, đã có nghị quyết thì phải triển khai thực hiện kiên quyết

khẩn trương. Vấn đề gì chưa đủ rõ thì phải tiếp tục nghiên cứu; tổ chức làm thí

điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để có bước đi thích hợp, vừa tích cực vừa

vững chắc, phù hợp với luật pháp. Đó là tinh thân của các giải pháp trong nghị

quyết. Vì là việc rất hệ trọng cho nên các cấp uỷ đảng phải tăng cường kiểm tra

việc tổ chức thực hiện, kịp thời phát huy ưư điểm, uốn nắn các lệnh lạc. Cùng với

các quá trình trên phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình tổ

chức đảng, tổ chức công đoàn và các đoàn thể chính trị trong các loại hình DNNN.

Đặc coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh

nghiệp giỏi, có phẩm chất và năng lực, nghiệp vụ vững vàng; đội ngũ cán bộ kỹ

thuật, công nhân có tay nghề cao; chú trong chăm sóc đời sống công nhân và phát

huy quyền làm chủ của công nhân trong các doanh nghiệp. Trong quá trình sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp, các cấp uỷ đảng phải hết sức quan tâm giải quyết tốt

các vấn đề xã hội đặt ra, không để khó khăn cho người lao động và doanh nghiệp

Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu ký tưỏng của đảng ta. Mục tiêu đó

không chỉ thể hiện trong phương hướng cơ bản mà còn thể hiện trong những chủ

trương, việc làm cụ thể. Đại hội IX của đảng đã thông qua kế hoạch 5 năm, chiến

lược phát triển kinh tế xã hội 10 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và

trong 20 năm về cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong những năm đầu của thế

kỷ XXI đã được đại hội xác định. Ban chấp hành trung ương được đại hội tín

nhiệm bầu ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt nhất nghị quyết đại hội; trên cơ

sở thống nhất nhận thức để đi đến hành động thống nhất, lời nói đi đôi với việc

làm, kết hợp thực hiện những nhiệm vụ cơ bản lâu dài với những việc cụ thể, trước

mắt giành thắng lợi cho từng năm theo mục tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra. Từ nay

đến cuối năm phải tập trung hết sức thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm

2001, năm mở đầu thực hiện nghị quyết đại hội đảng, vì bên cạnh những thuận lợi

đang có không ít khó khăn và nhiều vấn đề mới phải giải quyết, đồng thời cần theo

dõi chặt chẽ, quan tâm việc phòng chống thiên tai. Triển khai ngay việc thực hiện

chỉ thị của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây, chỉnh đốn đảng

gắn liền với cải cách hành chính nhà nước, triển khai và thực hiện đồng bộ các giải

pháp chống tham nhũng đang nổi lên với tinh thân thẳng thắn, công minh, để

người có khuyết điểm phải được phê bình, chịu kỷ luật, người có tội phải bị sử tội,

bất kể họ là ai; giải quyết những bức xúc về các tệ nạn xã hội, các sản phẩm văn

hoá đồi truỵ đang lan tràn ngoài xã hội ... Đó là những việc trước mắt cần thực

hiện tốt, kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, nạn

tham nhũng và các tệ nạn xã hội được đẩy lùi một bước ... sẽ tạo đà phấn khởi

trong xã hội, thể hiện trách nhiệm của ban chấp hành trung ương đối với toàn đảng

và toàn xã hội .

II. Vai trò then chốt của DNNN

Lực lượng DNNN hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP của

nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế. DNNN

đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt động kinh doanh

xuất nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín dụng. Nhìn chung lực

lượng DNNN đang là lực lượng then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của

đất nước, cá biệt có một số ngành có vị trí độc quyền kinh doanh. Từ năm 1995

hàng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế trong nước, nếu tính cả

các khoản thu thuế và phí được thu thôngqua DNNN thì đóng góp khỏng 60% các

nguồn thu thuế và phí được thu thông qua DNNN. DNNN đang sử dụng khoảng

15% lực lượng lao động trong các ngành phi nông nghiệp. Mức tăng trưởng hàng

năm của DNNN xấp xỉ mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài

quốc doanh trong nước. Tóm lại: nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào

GDP và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách nhà nước

thì DNNN vẫn có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.

CHƯƠNG II: Thực trạng DNNN ở nước ta hiện nay

I / Quá trình đổi mới DNNN

ở nước ta, quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế nói chung và

đổi mới DNNN luôn là khâu trung tâm của đổi mới kinh tế. Đổi mới DNNN bao

gồm hai mặt: mặt thứ nhất chủ gồm đổi mới cơ chế quản lý đối với DNNN ( quan

hệ quản lý nhà nước – doanh nghiệp, mức độ, hình thức phân quyền, giao quyền tự

chủ cho doanh nghiệp trên các mặt như kế hoạch, tài chính, thị trường, đầu tư, sử

dụng lao động ...). Mặt thứ hai liên quan đến sắp xếp tổ chức lại các DNNN ( sáp

nhập, chia, tách, cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu, thành lập tổng công ty ... ).

Trong các đợt, giai đoạn, thời kỳ khác nhau của quá trình đổi mới, do các yếu tố

khách quan và chủ quan quy định, việc đổi mới DNNN được tiến hành đồng thời

kết hợp hai mặt nêu trên hoặc chỉ thiên về một mặt nào đó .

Từ năm 1979, DNNN ở Việt nam mới thực sự được coi như một đối tượng đổi

mới. Những bước tổ chức sắo xếp, phát triển DNNN trước năm 1979 về cơ bản chỉ

là những biện pháp có tính chất hành chính trong bố trí, sắp xếp, phân bổ các

DNNN giữa các bộ, các địa phương và các liên hiệp xí nghiệp, do đó chúng chỉ

được coi là những biện pháp cải tiến quản lý trong mô hình kế hoạch hoá tập trung

mang tính chất bao cấp, thu đủ, chi đủ, phù hợp với cơ chế quản lý và mô hình

kinh tế cũ. Do vậy quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta có thể chia thành ba giai

đoạn

1. Giai đoạn 1980 – 1986

Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và nhà nước

về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý cũ đã tỏ ra kìm

hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là nền kinh tế trì trệ, tụt

dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các DNNN ngày càng xa sút. Hội

nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu khoá IV tháng 9 – 1979 đã ra nghị

quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những yêu

cầu bức thiết của xã hội, trong đó nhấn mạnh phải “ cải tiến chính sách phân phối,

lưu thông ( giá, lương, tài chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban hành các

quyết định có liên quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các DNNN nói

riêng như quyết định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần, quyết định số

26 /CP tháng 2-1981 về phân phối lưu thông ... Nghị quyết trung ương 6 khoá IV

và quyết định 25/CP là bước tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản lý các DNNN từ

cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là các quyết định

quan trọng như quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị quyết 306 ( dự thảo )

của Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-1986 đều đưa ra những quan

điểm và biện pháp đổi mới quản lý DNNN trong điều kiện cải tiến , cơ chế quản lý

nói chung.

Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ những

vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi trói, giải phóng

năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp khoán trong nông

nghiệp, cải cách phân phối lưu thông đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nói chung,

đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối với các DNNN, việc cho phép

các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch ba phần đã có ý

nghĩa rất quan trọng trong phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa các yếu tố

thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp giai đoạn

này vẫn mang tính nửa vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ chế song

trùng ) dẫn đến hệ quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi dụng sự rối

rắm của cơ chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức sáng tạo vẫn

chưa thực sự được giải phóng.

2. Giai đoạn 1986 – 1990

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu bước

ngoặt cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nước ta, trong đó có đổi

mới DNNN. Đại hội chỉ rõ: “ phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị

kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã

hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản

xuất, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và

hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của

công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước”. Đại hội VI

vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của DNNN nhưng đã đưa ra quan điểm coi

chủ đạo không có nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa

phương mà thể hiện ở “ năng suất, chất lượng, hiệu quả”

Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung trung

tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hướng nhất quán chuyển

sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã

hội. Tháng 11 – 1987 Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) ban hành quyết

định 217/HĐBT đánh dấu bước đổi mới cơ bản DNNN theo hướng áp dụng cơ chế

mới. Tiếp theo là các nghị định 50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị

định 27/HĐBT ( 3-1989 ) ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã

thúc đẩy tiếp quá trình đổi mới DNNN.

Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bước ngoặt đưa các DNNN chuyển

hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường hay gọi là quá trình

thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng vào thị

trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các quyết định kinh

doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn này hệ thống quan hệ kế

hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp, do đó các

DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với 9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi

bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ

chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định

217/HĐBT trao quyền tự chủ rất rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu như không có

biện pháp kiểm soát tương ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ

phận, chi nhánh của mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh

doanh với các khách hàng dẫn đến tình trạng “trăm hoa đua nở” rất sôi động

nhưng cũng rất phức tạp, khó quản lý về mặt nhà nước .

Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trương phân cấp, nhà

nước, trung ương giao quyền cho chính quyền các địa phương ra quyết định thành

lập các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lượng DNNN tăng lên gần gấp 2

lần, đưa số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến 60% là các doanh nghiệp

do địa phương quản lý. Rất nhiều DNNN do chính quyền địa phương quyết định

thành lập hầu như không được cấp vốn, chủ yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.

Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bước đổi mới. Một bộ phận

doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại một bộ phận khác không thích

nghi được với thị trường, thua lỗ triền miên, trở thành gánh nặng cho ngân sách

nhà nước. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn được giữ vai trò chủ đạo của mình,

chiếm trên dưới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà nước .

3. Giai đoạn 1990 đến nay

Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm 1991

đã chủ trương: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh,

bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và

ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng

củng cố và phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và

có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc

giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. sắp xếp lại các

liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong

cơ chế thị trường” và “khu vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công

nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần

kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ

mô của nhà nước.

Đại hội VIII của đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “ tiếp tục đổi mới và phát

triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng

trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ

các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện

chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.

Thực hiện đường lối đổi mới của đảng, Chính phủ đã ra hàng loạt quyết định

về đổi mới DNNN và trên thực tế đã tổ chức thực hiện hàng loạt biện pháp rất

mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý DNNN. Đó

là quyết định 315/HĐBT(9-1990), nghị định 388/HĐBT (11-1991), các quyết định

90 và 91/TTg (3-1994), luật doanh nghiệp nhà nước (4-1995), chỉ thị 500/TTg (8-

1995), nghị định 28/CP (5-1996), nghị định 56/CP ( 10-1996), nghị định 59/CP (

10-1996), nghị định 50/CP (8-1996), chỉ thị 20/TTg (4-1998) và nghị định 44/CP

(6-1998); đồng thời từng bước làm rõ thêm quan hệ quản lý giữa nhà nước và

doanh nghiệp.

3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN

Theo quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt

động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: thị trường, công

nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét lại tình hình tài

chính doanh nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán, thống kê. Những xí

nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm, không thực hiện được nhiệm vụ kinh

doanh, liên tiếp bị lỗ trong thời gian dài, không có khả năng thanh toán và không

thể khắc phục bằng các biện pháp như chuyển hướng sản xuất, thay đổi mặt hàng,

đầu tư trang bị lại, cũng như các biện pháp về chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất

kinh doanh với sự hỗ trợ của cấp trên ... có thể bị tuyên bố giải thể.

Theo nghị định 388/HĐBT, các DNNN phải được thành lập lại, đăng ký lại để

loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy, nghị định 388 như

một giải pháp hợp pháp hoá, chính thức hoá để công nhận các DNNN tồn tại được

trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ những doanh nghiệp đã bị thị trường

loại bỏ trên thực tế nhưng vẫn tồn tại trên danh nghĩa. Các ngành, các địa phương

đã khẩn trương triển khai và coi đây là một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy tổ

chức và sắp xếp lại một bước để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Điểm

mới trong chủ trương này là lần đầu quy định các điều kiện tối thiểu về vốn pháp

định, ngành nghề kinh doanh, luận chứng về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong

việc thành lập DNNN. Thực hiện nghị định 388/HĐBT các bộ, địa phương và

từng doanh nghiệp tiến hành rà soát lại tổ chức của từng đơn vị để tổ chức theo

đúng chức năng, nhiệm vụ được quy định vừa đảm bảo quyền tự chư sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo sự kiểm tra giám sát của nhà nước

Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản hướng

dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa

DNNN và nhà nước.

Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và lao

động. Nghị định 59/CP ( 1996), sau đó là nghị định 27/CP (1999) bổ sung, sửa đổi

nghị định 59 nhằm xác lập cơ chế tài chính đối với DNNN. Theo các nghị định

này, một loạt biện pháp được áp dụng: chuyển chế độ cấp vốn sang chế độ giao

nhận vốn, chuyển từ định mức vốn sang chế độ xác định vốn điều lệ cho doanh

nghiệp, tăng quyền tự chủ tài chính đồng thời gắn với trách nhiệm bảo toàn vốn,

áp dụng một loạt hình thức tài chính mới như bán trái phiếu, lập các quỹ dự trữ tài

chính, quỹ dự phòng mất việc làm ... Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần

bộ luật lao động (12-1994) đã có một loạt quyết định cho phép DNNN tăng quyền

tự chủ trong sử dụng lao động và trả lương: chuyển chế độ biên chế sang hợp

đồng, áp dụng cơ chế quản lý theo lương tối thiểu, cơ chế tuyển dụng, thôi việc

thoả ước tập thể ...

3.2 Sắp xếp lại DNNN

Trong giai đoạn 1991-1993 theo quyết định 315/HĐBT tháng 9 năm 1990 về

giải thể và tổ chức lại những DNNN yếu kém, nghị định 388/HĐBT tháng 11 năm

1991 về nguyên tắc và điều kiện là thành lập lại DNNN, quyết định số 202/CP

ngày 8 tháng 6 năm 1992 thí điểm cổ phần hoá một số DNNN.

Trong giai đoạn 1994-1997, theo quyết định số 90/TTg và 91/TTg và chỉ thị

500/TTg về sắp xếp các DNNN giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty

trước đây, hình thành những tổng công ty có quy mô lớn( tổng công ty 91) va quy

mô vừa(tổng công ty 90), nghị định 28/CP( 5-1996) về chuyển đổi một số DNNN

thành công ty cổ phần.

Từ giữ những năm 1998 đến nay, theo chỉ thị 20/CT-TTg ( 4-1998), chỉ thị

15/CT-TTg ( 5-1999) và nghị định 44/CP về cổ phần hoá kết hợp phương án tổng

thể sắp xếp DNNN. Có ba nội dung cơ bản về sắp xếp tổ chức lại DNNN được

nhấn mạnh là: sắp xếp DNNN theo phương án tổng thể từng vùng, ngành,tổ chức

lại tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế : cổ phần hoá

DNNN. Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao , bán, khoán, cho thuê DNNN có

vốn dưới 1tỷ đồng kinh doanh thua lỗ kéo dài thuộc ngành nhà nước không cần

nắm giữ cổ phần đã được ban hành ngày 10-9-1999 để có cơ sắp xếp các DNNN

nhỏ, yếu kém.

Giữa năm 2000 theo số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương, đã

giảm được trên một nửa số đầu mối DNNN, tổng số từ trên 12000 doanh nghiệp

giảm xuống còn 5280 doanh nghiệp, trong đó có 732 doanh nghiệp công ích và

4548 doanh nghiệp kinh doanh. Như vậy số DNNN đã giảm trên một nửa, trong