đó 48% là sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn hơn, hiệu quả hơn, 52% giải thể.
Mặc dù vậy tỷ trọng DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội vẫn tăng từ 36.5% năm
1991 lên 40.7% năm 1998, và tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước , lợi nhuận trên vốn
nhà nước đều tăng lên đáng kể.
Như vậy khu vực DNNN nói chung sau khi xác lập cơ chế quản lý mới và tổ
chức sắp xếp lại vẫn phát triển khá. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11.7%, gần gấp rưỡi tốc độ tăng
trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh
Việc sắp xếp các DNNN đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động
của doanh nghiệp, có tác động nhất định đến quá trình tích luỹ và tập trung. Và
bằng những chính sách hỗ trợ phù hợp chúng ta đã giải quyết được cơ bản vấn đề
trợ cấp và bảo đảm chính sách cho 600000 công nhân giảm biên chế trong hai đợt
sắp xếp; đồng thời lại tuyển dụng mới một số lượng gần tương đương.
Để đẩy mạnh sắp xếp lại DNNN, theo tinh thần nghị quyết hội nghị ban chấp
hành trung ương lần thứ tư khoá VIII, thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số
20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 thì vấn đề trọng tâm là tổ chức phân
loại DNNN dựa trên sự nắm vững và phân tích tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp trong ba năm gần đây nhất để tổ chức lại sản xuất kinh doanh cho phù hợp
với từng loại, DNNN được phân thành ba nhóm: nhóm một gồm những doanh
nghiệp quan trọng, cần duy trì hoạt động theo luật DNNN để phát huy vai trò nòng
cốt và dẫn dắt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những doanh nghiệp
thuộc loại này duy trì 100% vốn nhà nước. Nhóm hai gồm những doanh nghiệp
cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu, là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn
nhà nước. Nhóm ba gồm những doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài cần được sử lý
thích hợp
Theo các chủ trương, quyết định, hướng dẫn của nhà nước phương hướng xử lý
các doanh nghiệp sau khi phân loại quy mô lớn và trunh bình như sau:
- Đối vớidoanh nghiệp hoạt động công ích: những doanh nghiệp nào có đủ điều
kiện hạch toántheo quy mô doanh nghiệp thì tiếp tục duy trì 100% sở hữu nhà
nước và thực hiện các cính sách hỗ trợ đối với những nhiệm vụ mà nhà nước giao.
Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn vốn và được quyền huy động thêm các
nguồn vốn khác theo quy định của nhà nước, được trích lập 3 quỹ trên cơ sở hoàn
thành định mức chi phí do nhà nước quy định và thực hiện cơ chế quản lý như
doanh nghiệp. Còn những DNNN công ích quá nhỏ có thể thực hiện phương thức
giao khoán cho tập thể lao động hoặc cho các thành phần kinh tế khác đấu thầu
quản lý thực hiện hợp đồng của nhà nước.
- Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: trừ lĩnh vực nhà nước độc quyền
kinh doanh cần giữ sở hữu nhà nước, còn lại các doanh nghiệp có quy mô vừa và
lớn đang hoạt động có hiệu quả sẽ mạnh dạn cổ phần hoá và cho phép doanh
nghiệp tự quyết định cơ cấu sở hữu trong quá trình cổ phần hoá, không cần duy trì
tỷ lệ cổ phần khống chế của nhà nước hoặc duy trì một phần giai đoạn đầu rồi có
thể bán tiếp trong quá trình hoạt động sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
- Những DNNN không thuộc diện độc quyền nhà nước, đang bị thua lỗ và những
DNNN quá nhỏ không thể cổ phần hoá được thì áp dụng phương thức giao, bán,
khoán, cho thuê, đấu thầu doanh nghiệp theo những điều kiện quy định của nhà
nước. Đối với những DNNN đang lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn 2-3 năm liên tục, sau khi đã áp dụng các biện pháp khắc phục vẫn không
có chuyển biến tích cực thì kiên quyết cho giai thể hoặc phá sản.
Thực hiện củ trương sắp xếp trên, đến giữa năm 2000, các bộ, địa phương và
tổng công ty đã có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN. Theo tổng hợp sơ bộ của ban
đổi mới doanh nghiệp, phương án đề ra của các bộ, địa phương như sau:
Số doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn nhà nước chiếm 49.68% tổng số -
doanh nghiệp
Số doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu chiếm 42.10% tổng số -
doanh nghiệp
- Số doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, liên tục từ hai năm trở lên
chiếm8.22% tổng số doanh nghiệp
Tuy nhiên trên thực tế việc sắp xếp lại DNNN gặp rất ngiều khó khăn và
không thực hiện đúng như đề án của chính các bộ, địa phương và tổng công ty lập
nên. Cho đến cuối năm 2000 mới chỉ sắp xếp được trên 500 doanh nghiệp, chủ
yếu là cổ phần hoá, đạt chưa tới 50% kế hoạch, còn các hình thức sắp xếp khác
như giao, bán, khoán, đấu thầu, giải thể, phá sản hầu như chưa được thực hiện.
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua
1. Những thành tựu chủ yếu
Về tổng thể, mặc dù số lượng DNNN giảm đáng kể, số lượng công nhân
điều chỉnh mạnh khoảng 600000 người ra khỏi DNNN, đồng thời cũng bổ xung
một lực lượng mới. Quá trình đổi mới vừa thay đổi cơ chế quản lý, vừa tổ chức
sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển đổi kinh tế, nhưng khu vực DNNN
vẫn có tốc độ tăng trưởng cao và giữ vị trí đáng kể trong đóng góp ngân sách và
xuất khẩu. Thành tựu tăng trưởng của khu vực DNNN càng có ý nghĩa khi đặt
trong tổng thể tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thời kỳ 10 năm qua ở
mức khá cao ( GDP năm 2000 đã gấp 2 lần GDP năm 1990). Như vậy tăng trưởng
của khu vực DNNN cao hơn khu vực dân doanh , cao hơn tốc độ chung của nền
kinh tế quốc dân
Đã thay đổi cơ bản cơ chế tài chính đối với DNNN có tác dụng xoá bỏ bao
cấp cho khu vực này từ ngân sách nhà nước. Tính chung cho cả yhời kỳ 1988-
1998 tỷ lệ tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước dưới tất cả các hình thức: đầu tư,
cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá đã giảm từ mức 8.5% GDP xuống còn 0.5%GDP.
như vậy về cơ bản các DNNN đã được “ thương mại hoá” - một quá trình không
dễ thực hiện ở các nước chuyển đổi. Do vậy chi ngân sách nhà nước có điều kiện
tập tring cho các mục tiêu khác trong khi vẫn duy trì được hiệu quả, vai trò của các
DNNN như những tổ chức kinh tế hoạch toán độc lập
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN về tổng thể đã được nâng lên so
với trước xét trên át cả các mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn , lãi tuyệt đối, số nộp
ngân sách, tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước trên vốn mặc dù thấp hơn nhiều so với
các khu vực khác nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có sự cải thiện đáng kể
Về mặt quản lý bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của các
cơ quan nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các DNNN. Cụ thể là
làm rõ các quan hệ: ai là chủ sở hữu vốn; mức độ tự chủ của doanh nghiệp đến
đâu, quan hệ với cơ quan chủ quản. Nhờ xác định rõ quyền tự chủ của DNNN nên
trong việc thực hiện chủ trưởng liên doanh, liên kết với nước ngoài qua hoạt động
đầu tư quốc tế, các DNNN ( chiếm 96% số dự án ) đã chủ động, tích cực và thực
hiện khá thành công, góp phần thu hút, đẩy mạnh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
nam hơn 10 năm qua.
Trong đổi mới tổ chức quản lý, mô hình tổng công ty ( chủ yếu là các tổng
công ty 91 ) đã bước đầu phát huy tác dụng là những DNNN nòng cốt của kinh tế
nhà nước ( hiện nay 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90, cộng chung là 93
tổng công ty với 1534 doanh nghiệp thành viên nắm giữ 66% vốn, 55% lao động,
trên 90% kim ngạch xuất khẩu, 80% nộp ngân sách của khu vực DNNN; các tổng
công ty sản xuất 94% sản lượng điện, 97% than, 64% thép, 59% xi măng, 50%
giấy …) Mặc dù còn nhiều vấn đề trong tổ chức mô hình tổng công ty như đã xác
lập được trên thực tế nhiều tổng công ty mạnh, có khả năng thực hiện các dự án
đầu tư lớn, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
Trong thực hiện đa dạng hoá sở hưũ: cổ phần hoá, tư nhân hoá, giao khoán,
giải thể, phá sản; mặc dù tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm , tìm tòi, tranh
luận đến năm 1998-1999 chúng ta đã tương đối thống nhất về quan điểm và triển
khai mạnh các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là cổ phần hoá đều chứng tỏ
tính hiệu quả của giải pháp. Rõ ràng kết quả cổ phần hoá và đa dạng hoá hình thức
sở hữu thời kỳ vừa qua vừa có tác dụng, ý nghĩa khẳng định hướng tổ chức sắp
xếp lại DNNN, vừa có tác dụng tập dượt mô hình và cách làm để tiến hành ở quy
mô rộng hơn đối với các doanh nghiệp khó khăn hơn ở giai đoạn sau năm 2000
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay
2.1 Về hiệu quả kinh doanh
Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phiá nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp
tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu
quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của đảng
và nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do nhà nước dành cho
Một DNNN kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do bộ tài
chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải
trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình
quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến
hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi, nộp đủ tiền sử dụng vốn và lập
đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư
phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu năm 1997 của bộ tài chính,
trong tổng số 5429 DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40.44%. Số
liệu này thống nhất với số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-
2000: số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp bị thua lỗ
chiếm 20% ( nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ còn lớn hơn ), số doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn định,
khi lỗ, khi lãi và lãi cũng không lớn. Về tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN:
sau một thời gian dài đạt liên tục tăng 13%/năm, đến năm 1998 và đầu năm 1999
tốc độ tăng còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm; năm 1995, một đồng vốn tạo ra
được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận; đến năm 1998 các con số tương
ứng chỉ còn 2.9 và 0.14; năm1998 trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ làm
ra được 0.024 đồng lợi nhuận; số doanh nghiệp bị lỗ trong ngành thương mại, dịch
vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ trong DNNN hiện quá lớn: nợ phải
thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng 124% vốn nhà nước trong doanh
nghiệp, trong đó tỷ lệ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷlệ lớn. Số này đặc biệt nhiều
trong các DNNN do địa phương quản lý. Do tình hình tài chính như vậy, nhà
nướcvẫn phải thường xuyên dành tiền hỗ trợ cho DNNN: trong 3 năm 1997-1999
ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng trong
đó có 6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn
giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng , giãn nợ
540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc
hỗ trợ này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách nhà nước ít
hơn phần nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tình trạng không hiệu quả của
DNNN trong điều kiện nước ta hiện nay có nguy cơ đe doạ tính an toàn của toàn
bộ hệ thống tài chính bởi vì các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân
hàng thương mại quốc doanh ( chiếm 57-60% vay vốn nội tệ, trên 90% vay ngoại
tệ tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh )
2.2 Về khả năng cạnh tranh
Các DNNN rất yếu kém về khả năng cạnh tranh. Có nhiều ngành, sản phẩm của
DNNN đang được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (
qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế …) nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ
khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận
chứng để nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm
và thị phần. Theo một số số liệu nghiêm cứu gần đây của bộ kế hoạch và đầu tư,
năm 2000 cho thấy các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng,
kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ …đều được bảo hộ bằng cả công
cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá cả thị trường Việt nam cao hơn giá
quốc tế 10-50% tuỳ mặt hàng. Khả năngcạnh tranh kém của các DNNN thể hiện
ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của
cáccó xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực
dân doanh … Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN trong điều kiện Việt nam
đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình
đất nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các DNNN
2.3 Về cơ cấu DNNN
Khu vực DNNN có cơ cấu còn bất hợp lý. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô còn bất
hợp lý đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại. Trước hết tỷ trọng
DNNN ( xét về số lượng ở khu nông nghiệp ( 25%) và thương mại, dịch vụ (40%)
là quá lớn trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN, đặc biệt là công nghiệp chế
biến, chế tạo. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng doanh nghiệp
thuộc địa phương quản lý qua cao ( trên 60% về số lượng ). Về quy mô, tính đến
1-9-1999 số doanh nghiệp có quy mô dưới 5 tỷ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4
là doanh nghiệp địa phương, còn có đến 1314 doanh nghiệp (23%) có vốn dưới 1
tỷ đồng. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 21%. Với cơ cấu bất
hợp lý nêu trên DNNN khó có thể thực hiện đầy đủ các chức năng và kỳ vọng về
vai trò mà đảng và nhà nước mong đợi.
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN
3.1 Đầu tư sai
Trong xây dựng mới và cải tạo các DNNN không tính đến sự biến động của
thị trường. Đầu tư sai bắt nguồn từ những quyết định từ thời bao cấp, ví dụ công ty
gang thép Thái Nguyên, công ty dâu tơ tăm, một số mỏ và nhà máy hoá chất …
Tuy nhiên sau nhiều năm đổi mới theo cơ chế thị trường việc đầu tư sai vẫn tiếp
diễn. Sự quản lý của nhà nước không đủ hiệu lực để ngăn chặn tình trạng đầu tư
không tính đến thị trường, không cân đối với nguyên liệu, cũng không tính đến giá
thành. Có những ngành hoặc địa phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn nhà
nước càng tốt để xây dựng cho được những doanh nghiệp không thật cần thiết của
ngành mình, địa phương mình, có khi vì mục đích ngoài kinh tế. Tình trạng đầu tư
sai, không tính đến thị trường một phần bắt nguồn từ công tác quy hoạch. Trong
khá nhiều trường hợp, quy hoạch thường xuất phát từ ý muốn chủ quan, nói là tập
trung mũi nhọn, nhưng rồi ngành nào cũng đầu tư, địa phương nào cũng muốn tự
túc, tự cấp, có đủ “ cơ cấu kinh tế ” theo hướng “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”,
bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của công tác này. Chủ trương đầu tư đã sai ngay
từ đầu, công việc xây dựng lại giao cho một ban quản lý dự án kém năng lực và
không có trách nhiệm , gây ra chất lượng xây dựng thấp, vốn đầu tư thất thoát
không nhỏ. Tất cả dồn giá thành công trình làm cho không có giám đốc nào có thể
tài giỏi đến mức khắc phục được hậu quả kém hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến
Doanh nghiệp do nhà nước quyết định thành lập, nhưng không cấp đủ vốn cho
sản xuất kinh doanh buộc phải đi vay với lãi suất ngân hàng. Nhìn chung vốn nhà
nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp,
trong đó tại tổng công ty 91 là 75%, tại các doanh nghiệp do bộ, ngành quản lý là
45% và do các địa phương quản lý là 50%. Xét về số tuyệt đối năm 1998 vốn Nhà
nước bình quân của một tổng công ty 91 là 3661 tỷ đồng ( tương đương 240 triệu
USD ), nhưng lại có đến 14/17 tổng công ty 91 có vốn dưới mức bình quân đó.
Vốn của tổng công ty 90 còn thấp hơn nhiều: bình quân một tổng công ty 90 chỉ
có 280 tỷ đồng, trong đó 80% số tổng công ty 90 có mức vốn thấp hơn mức bình
quân, 35% số tổng công ty 90 có vốn Nhà nước dưới 100 tỷ đồng. Khả năng trích
lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất rất thấp; số vốn lưu động hiện có cũng chỉ
huy động cho kinh doanh được khoảng 50%, số còn lại nằm ở vật tư mất mát, kém
phẩm chất, công nợ không thu hồi được… 70-90% vốn lưu động của DNNN phải
đi vay ngân hàng.
3.3 Trình độ kỹ thuật , công nghệ lạc hậu
Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác
nhau, có những thiết bị lạc hậu, già cỗi, sản xuất từ những năm 50,60. Theo điều
tra của viện bảo hộ lao động giữa năm 1999 thì trên 70% đã hết khấu hao, gần
50% đã được tân trang; theo báo cáo của bộ khoa học, công nghệ và môi trường
thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm; mức độ hao mòn hữu
hình từ 30-50%, thậm chí 38% trong số này ở dạng thanh lý.
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn
Theo báo cáo của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-2000 đưa ra con
số là 4% tổng số lao động dư thừa. Có một số địa phương, ngành số lao động dôi
dư khá lớn như: Hải Dương 33%, Nam Định 27%, Nghệ An 16%, Hải Phòng
15%, Thanh Hoá 10%, tổng công ty thép 12%, bộ thuỷ sản 14% lao động dôi dư
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính
Có thể coi đây là trở ngại rất quan trọng khiến doanh nghiệp không thể tự chủ
kinh doanh. Đại diện chủ sở hữu của tài sản nhà nước tại doanh nghiệp là ai cho
đến nay vẫn không rõ, gây ra nhiều lúng túng, khó khăn trong việc sử dụng tài sản
đó. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN về cơ bản vẫn đang thực hiện
quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính và hạch toán của DNNN bị những
ràng buộc vô lý trói chặt từ nhiều năm mà vẫn không được sửa đổi. Nhiều doanh
nghiệp cho rằng từ nghị định 59/CP đến nghị định 27/1999 về quản lý tài chính
DNNN, sự đổi mới khôg nhiều, vẫn những ràng buộc về các khoản chi phí, những
bất hợp lý đã rõ như khoản thu về sử dụng vốn trong đó kể cả những tài sản do
doanh nghiệp tự đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng, nay
đều bị coi là tài sản của nhà nước và buộc doanh nghiệp chịu thuế vốn. Doanh
nghiệp muốn khấu hao nhanh cũng không được, phải theo khung thời gian khấu
hao
3.6 Không được chủ động về nhân sự và tiền lương
Cho đến nay DNNN vẫn không chủ động trong việc sắp xếp lại số lao động,
giảm bớt người không phù hợp, tuyển người mới, vì nhà nước chưa có đủ các
chính sách phù hợp để giải quyết công ăm việc làm và đời sống của số lao động dư
thừa. Chế độ tiền lương, các thang lương, bậc lương trong DNNN còn nhiều bất
hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp, giữa doanh
nghiệp các ngành nghề khác nhau và ngay trong nội bọ doanh nghiệp.
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp
Mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ chủ quan nhưng hiện đang có quả nhiều cấp,
nhiều ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp.
Tình trạng phân cáp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh
nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cngf ra sức “ tăng cường quản lý”, công tác
thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiềm hà cho DNNN hoạt động, Đặc biệt là cơ
chế “bộ chủ quản”, cấp chủ quản” đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc phân chia “ quốc doanh trung ương”, “quốc doanh địa phương” đã tạo ra
nhiều bất hợp lý, phân biệt đối sử, ảnh hưởng đến kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp.
Mấy năm gần đây, nhiều DNNN đã được sắp xếp lại trong cơ cấu tổng công ty
90, 9. Thế nhưng có những tổng công ty được tổ chức theo lối hành chính, bằng
số cộng đơn thuần không dựa trên tính tất yếu về kinh tế, đã không mang lại kết
quả mong muốn; không những thế một số tổng công ty trở thành vật cản đối với
công ty thành viên trong kinh doanh.
3.8 Môi trương kinh doanh chưa hoàn chỉnh
Môi trường kinh doanh ở nước ta đang còn nhiều bất cập. Điểm hình là hệ thống
tài chính, ngân hàng, giá cả chưa thật sự được xây dựng theo kinh tế thị trường.
Vẫn còn những tình trạng buộc ngân hàng cho vay theo lệnh, ngân hàng thụ động
không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay và thu hồi nợ; khi gặp nợ khó đòi
thì buộc ngân hàng phải khoanh nợ, giãn nợ hoặc cho vay mới để trả nợ cũ. Cũng
chưa có hệ thống văn bản pháp quy để khuyến khích cạnh tranh hợp pháp và kiểm
soát độc quyền. Các thị trường yếu tố sản xuất chưa hoàn chỉnh. Đó là không kể
những thủ tục hành chính, cơ chế xin- cho và những hành vi nhũng nhiễu của
không ít công chức đang gây khó khăn cho doanh nghiệp. DNNN còn phải tham
gia các nhiệm vụ xã hội mà đáng lẽ không thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp,
phải đóng góp nhiều khoản cho phường, xã, cho các tổ chức, đoàn thể đia phươn,
tuy mang danh nghĩa tự nguyện nhưng thức chất là áp đặt nhiều khi quá sức chịu
đựng của doanh nghiệp.
CHƯƠNG III: Phương hướng và các giải pháp đổi mới DNNN trong thời gian tới
I/ phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua
KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa , ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN phải
không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết
vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện
vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong
hội nhập kinh tế quốc tế
Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập ytung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với
các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất
cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN phải có quy
mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần có quy mô nhỏ để kinh doanh
những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cầ thiết, có điều kiện đối với những ngành,
lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần
thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xoá
bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những
ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển.
Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm
vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lượ, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp.
mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phait khẩn trương, kiên
quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa
làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích
hợp tích cực nhưng vững chắc.
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò
của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp.
II / Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN
1.Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động
công ích
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Nhà nước giữ 100% vốn đối với cơ chế thị trường doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ,
hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản
xuất thuốc lá điếu.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động
kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực:bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu,
sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng ... Những doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở mìn
núi, vùng sâu, vùng xa.
Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ
đông là các DNNN. Từ đó Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể
các DNNN hiện có để triển khai thực hiệnvà từng thời kỳ xem xét đièu chỉnh định
hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội
Việt thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới
hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành
phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các
lĩnh vực:in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành bay;bảo đảm hàng hải; kiểm soát và
phân phối tần số vô tuyến điện; sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên
dùng cho quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp
kinh tế với quốc phòng theo quyết định của chính phủ.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công
ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông
cơ giới lớn; xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, phim thời sự và tài liệu;
quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, sân bay; quản lý thuỷ nông đầu
nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; thoát nước ở đô thị lớn; ánh sáng đường
phố; quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thuỷ quan trọng; sản xuất
sane phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào định
hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực
hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ
được sắp xếp lại. Việc thành lập mới DNNN hoạt động công ích phải được xem
xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu các điều kiện cần thiết . khuyến khích
nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm,
dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm.
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị
trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điêù lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối
với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản
phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành
phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn
khổ pháp luật chung. Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có
quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng
cạnh tranh bình đẳng.Và đổi mới chế độ kế toán , kiểm toán, chế độ báo cáo, thông
tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp
- - Về vốn:Doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị
trường để phát triển kinh doanh ; được chủ động sử lý các tài sản dư thừa, vật tư,
hàng hoá ứ đọng. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các
quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. nhà nước có chính sách đối với
những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn
khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính taì sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài
hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩmh vực cụ thể,
khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển .
- Về đầu tư: Tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết định
đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
- Về đổi mới, hiện đaị hoá công nghệ: Doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu
đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực
cho doanh nghiệp: chi phí này được hạch toán vào giá thành phẩm. nhà nước có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
- Về lao động, tiền lương: Doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao
độngvà chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao đddoanh nghiệp mình
tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự
chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trêmn cơ sở năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: Doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí
cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan nhà nước và tổ chức có
thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. nhà nước
có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
cán bộ quản lý doanh nghiệp.
- Về thanh tra, kiểm tra: Hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết
quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ
quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với
doanh nghiệp và thông báo cho doanh nghiệp.
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu
thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các
sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần
kinh tế. nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho DNNN hoạt động công ích. Thực hiện cơ
chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc đặt hàng. doanh nghiệp công ích cũng phải
thực hiện hạch toán.
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được
Bổ sung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại
DNNN. doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lao
động cần thiết. Lao đông dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc
nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc
thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ luật lao động.
Xử lý nợ không thanh toán được: Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt
điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toáncủa doanh nghiệp đối với ngân
sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải phảp để ngăn ngừa sự tái phát.
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước; hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
3.1 Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ
nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành,
có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài
chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, năng suất lao động
cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế .
Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn
nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế;
làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ
mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu,
đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
3.2 Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước
,có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có
ngành kinh doanh chính chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền
kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có
trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa
khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh.
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN
Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản
của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh;
tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN; phát
huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự
giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước,
doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá DNNN không được biến thành tư
nhân hoá DNNN.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho
người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để
người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ
sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó
người lao động với doanh nghiệp; dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài
doanh nghiệp.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường;
nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí điểm đấu
thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian. nhà nước
ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với DNNN đã chuyển sang công ty cổ
phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng
ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn.
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản
DNNN
Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước
không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức:
giao, bán, khoán kinh doanh , cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán được
chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản
những DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình
thức nói trên.
Sửa đổi, bổ sung luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành
lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản. Đẩy mạnh tuyên truyền,
nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối với chủ
trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá
sản DNNN .
kết luận
Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướn, chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội trong thời kỳ mới, đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “ kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo; KTTN cùng với kinh tế tập thểngày
càng trở thành nền tảng vững chắc”, “KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã
hội và chấp hành pháp luật”. Hội nghị trung ương lần này bàn và ra nghị quyết để
thực hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm DNNN có vị trí then chốt góp phần
chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Qua ba chương vừa nêu trên, chúng ta có thể khẳng định được rằng: Vai trò
của DNNN là then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. DNNN vừa hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển vừa góp phần
giữ vững ổn định chính trị – xã hội. DNNN là cánh cửa mở ra cho chúng ta nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, mở ra một triển vọng xã hội xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó tiếp tục quá
trình đổi mới DNNN ở nước ta là một tất yếu khách quan trong thời kỳ hiện nay.
Dù đã rất cố gắng, song trong khuôn khổ tài liệu cũng như thời gian và khả
năng có hạn, đề án của em vẫn chưa thể giải quyết vấn đề một cách triệt để và toàn
diện. Tuy vậy, em vẫn mong thầy cô giáo xem xét và châm chước cho bản đề án
của em.Và em xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy cô rất nhiều.
Sinh viên: Vũ Thị Hương Lan
tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội đảng lần thứ VII, VIII, IX 1-
2- Đảng cộng sản : “Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khoá
IX về đổi mới và phát triển DNNN”
3- Nông Đức Mạnh : “ việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải hướng tới hiệu
quả cao để KTNN giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế nhiều thành phần”- Tạp chí
cộng sản số 13 tháng 9/2001
4- PGS.TS. Ngô Quang Minh : “KTNN và quá trình đổi mới DNNN”-NXB
chính trị quốc gia năm 2001
5- Kinh tế và dự báo số 6/2003