BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NÔNG THỊ THU TRANG QU¶N Lý HO¹T §éNG BåI D¦ìNG N¡NG LùC S¦ PH¹M CHO GI¸O VI£N MÇM NON ë C¸C TØNH MIÒN NóI PHÝA B¾C THEO CHUÈN NGHÒ NGHIÖP LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2021
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NÔNG THỊ THU TRANG QU¶N Lý HO¹T §éNG BåI D¦ìNG N¡NG LùC S¦ PH¹M CHO GI¸O VI£N MÇM NON ë C¸C TØNH MIÒN NóI PHÝA B¾C THEO CHUÈN NGHÒ NGHIÖP Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số : 914 01 14 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Trƣơng Thành Trung 2. TS Trần Xuân Phú
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tác giả. Các tài liệu số liệu trích dẫn
trong luận án đều trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án
Nông Thị Thu Trang
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang 5
MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
13
1.1.
13
1.2.
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam có liên quan đến đề tài luận án Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
29
33
2.1.
33
2.2.
46
2.3.
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP Những vấn đề lý luận về hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp 62
68
3.1.
68 77
3.2. 3.3.
Chƣơng 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP Khái quát tình hình giáo dục mầm non và đặc điểm hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc Tổ chức điều tra, khảo sát thực trạng Thực trạng bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc 79
3.4.
84
3.5.
3.6. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp Thực trạng ảnh hưởng của các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp Đánh giá khái quát ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân 100 105
110
4.1.
110
4.2.
Chƣơng 4: BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM, THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp Thử nghiệm biện pháp đã đề xuất 4.3.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
139 146 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
159 160 171
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
T Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt T
1 Cán bộ quản lý CBQL
2 Dân tộc thiểu số DTTS
3 Đảm bảo chất lượng ĐBCL
5 Giáo dục mầm non GDMN
4 Giáo dục và Đào tạo GD&ĐT
6 Giáo viên mầm non GVMN
7 Hoạt động bồi dưỡng HĐBD
8 Năng lực sư phạm NLSP
9 Quản lý giáo dục QLGD
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
TT Tên bảng 1 Bảng 3.1.
Nội dung Số liệu tổng hợp về tỷ lệ huy động trẻ đến cơ sở GDMN, kết quả phổ cập giáo dục và xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia tại các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Yên Bái 69
2 Bảng 3.2. Kết quả điều tra về thực hiện nội dung bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc 79
3 Bảng 3.3. Kết quả điều tra về áp dụng các phương pháp bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc 81
4 Bảng 3.4. Kết quả điều tra về các hình thức tổ chức bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc 83
5 Bảng 3.5. Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp 85
6 Bảng 3.6. Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp 88
7 Bảng 3.7 Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức các nhân lực chính tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN 90
92
8 Bảng 3.8. Kết quả điều tra thực trạng chỉ đạo thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN 9 Bảng 3.9. Kết quả điều tra về thực trạng chỉ đạo mở rộng hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN dựa vào nhà trường 95
10 Bảng 3.10. Kết quả điều tra về thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp 98
11 Bảng 3.11. Kết quả điều tra những ảnh hưởng tích cực, thuận chiều của các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN 101
103
12 Bảng 3.12. Kết quả điều tra những ảnh hưởng tiêu cực, cản trở của các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN 13 Bảng 4.1. Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi
của các biện pháp 141
150
15 Bảng 4.3.
14 Bảng 4.2. Kết quả đánh giá NLSP của cán bộ tổ chuyên môn và giáo viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng trước và sau thử nghiệm So sánh giá trị trung bình kết quả đánh giá NLSP của cán bộ, giáo viên tham gia thử nghiệm ở Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, trước và sau thử nghiệm 152
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên Nội dung TT biểu đồ Trang
1 Biểu đồ 4.1. So sánh giữa tính cần thiết, tính khả thi của các
biện pháp 146
2 Biểu đồ 4.2. So sánh kết quả đánh giá NLSP của cán bộ,
giáo viên tham gia thử nghiệm ở Trường mầm
non thị trấn Pác Miầu, trước và sau thử nghiệm 151
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong giáo dục hiện đại,vai trò của người giáo viên đang có những thay
đổi lớn, đó là: có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung, phương
pháp dạy học và giáo dục, chuyển mạnh từ chỗ truyền thụ kiến thức sang tổ
chức việc học của học sinh, sử dụng đến mức tối đa những nguồn tri thức
trong xã hội, sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy học hiện đại ... Vì
vậy, UNESCO đã khuyến nghị đối với các quốc gia về chính sách xây dựng
đội ngũ giáo viên đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục [115].
Trong xu thế chung đó, để tổ chức tốt hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ mầm non, GVMN phải được đào tạo, bồi dưỡng về năng lực NLSP,
phù hợp với chuẩn nghề nghiệp của họ.
Theo quan điểm “giáo dục suốt đời”, để GVMN phát triển liên tục từ kết
quả đào tạo ban đầu, họ phải được thường xuyên bổ sung, cập nhật những
kiến thức, kỹ năng, phương pháp giáo dục mới. Chỉ có như vậy GVMN mới
có NLSP đủ đáp ứng nhu cầu đổi mới và phát triển GDMN. Trong những
năm gần đây, ở các tỉnh miền núi phía Bắc, để đáp ứng yêu cầu mở rộng quy
mô mạng lưới GDMN, tăng tỷ lệ huy động trẻ tới trường, các địa phương phải
đẩy mạnh tuyển dụng giáo viên mới. Trong bối cảnh đó, để GVMN đạt chuẩn,
tất yếu, ngành giáo dục các địa phương phải đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN. Điều đó nói lên vai trò hết sức quan trọng của hoạt động
bồi dưỡng GVMN đối với sự phát triển đội ngũ GVMN và chất lượng GDMN
ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Hàng năm sở GD&ĐT của các tỉnh miền núi phía Bắc đều bố trí thời
gian dành cho hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN, nhưng chất lượng và
hiệu quả bồi dưỡng chưa cao. Thực tế, khá nhiều GVMN cần được nâng cao
trình độ NLSP nhưng khi được cử tham gia các lớp bồi dưỡng do sở, phòng
GD&ĐT tổ chức thường có biểu hiện miễn cưỡng, thiếu tích cực, nhiệt tình
học tập. Sau mỗi đợt tập huấn, bồi dưỡng, nhìn chung GVMN ít có những
6
chuyển biến rõ nét về trình độ kiến thức, kỹ năng sư phạm, cũng như khả
năng vận dụng những kiến thức, kỹ năng đó vào thực tế công tác nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Vì vậy, cần phải nghiên cứu để tìm ra biện
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc.
Mô hình quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc chưa được định hình rõ nét. Hoạt động bồi dưỡng NLSP có thể
được lồng ghép với bồi dưỡng về các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật, quy
định của ngành. Việc xác định mục tiêu, chương trình, nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng NLSP cho GVMN thường thiên về dựa
vào khả năng của sở, phòng GD&ĐT trong việc huy động các nguồn lực về
con người, tài liệu, tài chính…, chưa tính đến đầy đủ nhu cầu của người được
bồi dưỡng theo chuẩn nghề nghiệp, chưa phát huy được vai trò của bồi dưỡng
tại trường và tự bồi dưỡng của giáo viên. Điều đó nói lên những hạn chế, bất
cập trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Vì vậy, cần phải nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn về
quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp để
góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
Hiện nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề bồi
dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên. Phần lớn những
công trình đó đã chỉ ra rằng, xác lập mô hình bồi dưỡng NLSP cho giáo viên
là một nhiệm vụ khó khăn; quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên
phải phù hợp với đặc thù đội ngũ giáo viên từng cấp, từng vùng miền. Trong
khi đó, những công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp thì còn
thiếu vắng.
Xuất phát từ các lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Quản lý
hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp” để nghiên cứu.
7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn để đề xuất biện pháp quản lý hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề
nghiệp, góp phần nâng cao kết quả bồi dưỡng NLSP, đáp ứng yêu cầu chuẩn
hóa đội ngũ GVMN trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Điều tra, khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các
tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Tổ chức khảo nghiệm và thử nghiệm để khẳng định tính đúng đắn, khả
thi, hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.
3. Khách thể, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp tại các lớp bồi dưỡng tập trung ở cấp
huyện và bồi dưỡng, tự bồi dưỡng ở trường mầm non trên địa bàn của các tỉnh
miền núi phía Bắc.
Phạm vi về không gian: Địa bàn nghiên cứu bao gồm các tỉnh Cao Bằng,
Điện Biên, Lạng Sơn và Yên Bái (tức là 4/10 tỉnh thuộc vùng miền núi phía
Bắc, theo quy hoạch phát triển kinh tế đã được Chính phủ thông qua).
Phạm vi về thời gian: Các tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu luận án
trong thời gian từ 2016 đến nay.
8
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc đã vượt qua không ít khó khăn, trở ngại để đạt được những thành
công, nhưng chất lượng, hiệu quả còn có những hạn chế nhất định. Nếu bộ
máy QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc căn cứ vào nhu cầu nâng cao trình
độ nắm vững và vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ chuyên môn của
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp để xác định mục tiêu, kế hoạch, chương
trình, nội dung, phương pháp bồi dưỡng, thực hiện kết hợp các hình thức tổ
chức bồi dưỡng theo hướng coi trọng bồi dưỡng dựa vào trường mầm non thì
sẽ quản lý một cách có hiệu quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục và QLGD. Từ đó, đề tài lựa chọn các quan điểm tiếp
cận chủ yếu sau đây.
Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Tiếp cận hệ thống - cấu trúc được hiểu là
căn cứ vào sự tồn tại, vận động và tương tác của các yếu tố cấu thành sự vật,
hiện tượng để tìm hiểu và tìm cách tác động nhằm biến đổi nó theo những
mục đích xác định. Theo đó, trong luận án này, NLSP của GVMN được xem
là tổng hòa các thành tố kiến thức, kỹ năng và thái độ của họ trong hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ em. Do đó, bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp phải hướng vào làm cho hệ thống kiến thức, kỹ năng,
thái độ nghề nghiệp của họ trở nên hoàn thiện hơn, đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn GDMN. Bên cạnh đó, quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp phải huy động, phối hợp được toàn bộ các
nguồn lực để phục vụ mục tiêu phát triển chuyên môn, nghiệp vụ của giáo
viên, đồng thời phải tính đến sự phối hợp, hiệp đồng và phân cấp giữa các
chủ thể QLGD.
9
Tiếp cận hoạt động: Tiếp cận hoạt động trong nghiên cứu đề tài luận án
này thực chất là dựa trên các yếu tố cấu thành hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp để xác định những tác động quản lý nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động đó. Theo đó, luận án này sẽ tập
trung làm rõ các vấn đề về xây dựng động cơ thúc đẩy hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên; sử dụng mục tiêu, kế hoạch tổ chức hoạt động này để
định hướng cho những nỗ lực của các chủ thể tham gia bồi dưỡng; tổ chức
triển khai nội dung, phương thức tiến hành hoạt động; đảm bảo các công cụ,
phương tiện (tài liệu, cơ sở vật chất- kỹ thuật); kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Tiếp cận năng lực: Chuẩn nghề nghiệp GVMN quy định rằng, giáo viên
phải thường xuyên cập nhật, nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư
phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.Vì vậy, quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp phải dựa trên đánh giá đúng
những mặt yếu, thiếu trong NLSP của giáo viên, từ đó xác định nội dung,
phương thức bổ sung, cập nhật, nâng cao năng lực này thông qua các hình
thức bồi dưỡng. Theo đó, luận án phải đề cập tới khung năng lực, nhu cầu bồi
dưỡng năng lực và xác định biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP,
qua đó giúp cho GVMN đạt mức đánh giá cao theo chuẩn nghề nghiệp.
Tiếp cận đảm bảo chất lượng giáo dục: Tiếp cận đảm bảo chất lượng
giáo dục trong nghiên cứu đề tài luận án này là bám sát quy trình duy trì và
nâng cao chất lượng của các yếu tố cấu thành hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN để xác định nội dung, biện pháp quản lý hoạt động này. Theo đó, luận
án sẽ tính đến áp dụng linh hoạt các mô hình ĐBCL giáo dục, trước hết tập
trung vào đảm bảo chất lượng “đầu vào”, “quá trình” và “đầu ra” của các lớp,
các hình thức bồi dưỡng NLSP cho GVMN, phù hợp với bối cảnh của GDMN
ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Bên cạnh đó, luận án hướng vào xác định rõ
trách nhiệm của các cấp quản lý, các chủ thể hoạt động trong ĐBCL bồi
dưỡng, tự bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
10
Tiếp cận thực tiễn: Đây là cách tiếp cận dựa trên việc tính đến thực tế
NLSP của đội ngũ GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng như những
điều kiện để triển khai hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên trên địa bàn
có đông giáo viên người DTTS, đi lại khó khăn, cơ sở vật chất - kỹ thuật của
các trường mầm non còn thiếu thốn. Theo đó, luận án giải quyết vấn đề quản
lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo
chuẩn nghề nghiệp trong mối quan hệ thống nhất với phát triển GDMN về
mọi mặt ở địa bàn này.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các văn bản QLGD và các công trình
khoa học về bồi dưỡng, quản lý bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp. Đồng thời, tác giả luận án tập trung nghiên cứu các văn kiện, chỉ
thị, nghị quyết,... của Đảng, Nhà nước, của Bộ GD&ĐT về các nội dung có
liên quan đến quản lý bồi dưỡng GVMN nói chung, quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp nói riêng.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng các mẫu phiếu điều tra về
tình hình đội ngũ giáo viên mầm non, NLSP của họ, thực trạng hoạt động bồi
dưỡng, thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng và ảnh hưởng của các yếu tố
tác động đến quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Tọa đàm, trao đổi với cán bộ các cơ
quan QLGD thuộc sở, phòng GD&ĐT tại các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên,
Lạng Sơn và Yên Bái, CBQL và giáo viên các trường mầm non tại địa
phương vừa nêu.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn,
các kế hoạch tổ chức bồi dưỡng GVMN; các báo cáo tổng kết của các sở,
11
phòng GD&ĐT về công tác bồi dưỡng GVMN tại các tỉnh Cao Bằng, Điện
Biên, Lạng Sơn và Yên Bái.
Phương pháp quan sát sư phạm: Tiến hành quan sát hoạt động chỉ đạo,
điều hành, kiểm tra, đánh giá tại các lớp tập huấn, bồi dưỡng GVMN tập
trung do sở, phòng GD&ĐT chủ trì tổ chức và các đợt học tập, thảo luận
chuyên đề về chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN tại các trường, điểm trường.
Phương pháp phân tích nhận định độc lập: Phân tích, tổng hợp các nhận
định từ nhiều nguồn tài liệu có liên quan đến bồi dưỡng, quản lý hoạt động
bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc.
Phương pháp chuyên gia: Tiến hành thu thập ý kiến chuyên gia của các
nhà quản lý, nhà giáo về các vấn đề lý luận và thực tiễn trong quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn
nghề nghiệp.
Phương pháp khảo nghiệm: Khảo nghiệm thông qua điều tra bằng phiếu
hỏi về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất, dựa trên
đánh giá theo 4 mức độ: (1) rất cần thiết, rất khả thi; (2) cần thiết, khả thi; (3)
ít cần thiết, ít khả thi , (4) không cần thiết, không khả thi.
Phương pháp thử nghiệm: Tổ chức thử nghiệm về một biện pháp mà
luận án đề xuất tại Trường mầm non thị trấn Pác Mầu, huyện Bảo Lâm, tỉnh
Cao Bằng.
Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng các phương pháp
thống kê toán học để xử lý số liệu làm minh chứng cho những nhận định,
đánh giá của đề tài và khảo nghiệm, thử nghiệm các biện pháp được đề xuất.
6. Những đóng góp mới của luận án
Một là, xây dựng được khung lý luận cho việc nghiên cứu về quản lý
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, trong đó
chỉ rõ khái niệm, nội dung quản lý và các yếu tố tác động đến quản lý hoạt
động này.
12
Hai là, phát hiện được đặc điểm, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Ba là, đề xuất được 7 biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, có tính cần thiết, tính khả thi cao, phù hợp
với bối cảnh GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận
Luận án góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận về hoạt động bồi dưỡng và
quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, từ
đó cung cấp những luận cứ khoa học để thực hiện chuẩn hóa đội ngũ GVMN.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp những cơ sở lý luận cho
lãnh đạo sở, phòng GD&ĐT ở các tỉnh miền núi phía Bắc và hiệu trưởng các
trường mầm non tại địa bàn này tiến hành quản lý có kết quả hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Về mặt thực tiễn
Luận án này có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong đào tạo, bồi
dưỡng GVMN và vận dụng vào đào tạo lại và bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp ở các địa phương thuộc vùng dân tộc và miền núi
trong cả nước.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Phần mở đầu, 4 chương (14 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục công trình đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
13
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài và Việt
Nam có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Hướng nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên
Ở nước ngoài, có khá nhiều nhà quản lý, nhà khoa học đề cập tới sự cần
thiết phải bồi dưỡng NLSP cho giáo viên và chỉ ra mục tiêu, nội dung, hình thức
tiến hành hoạt động này, trong đó có thể kể đến một số công trình sau đây.
Raja Roy Sing (1991) trong công trình nghiên cứu với tựa đề Education
for the Twenty-first Century Asia- Pacific Perspectives (Nền giáo dục cho thế
kỷ XXI - Những triển vọng của châu Á - Thái Bình Dương) [113] đã khẳng
định: Không một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những giáo
viên làm việc cho nó. Do vậy, để phát triển giáo dục, các quốc gia phải làm
tốt việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, qua đó hình thành ở họ phẩm chất,
NLSP, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác làm việc, óc phê phán,
suy luận và có sáng kiến.
Các tác giả Michael Fullan, Andy Hargreaves (1992) trong công trình
Teacher development and educational change (Sự phát triển của giáo viên và
thay đổi trong giáo dục) [112] đã chỉ ra các cấp độ phát triển chuyên môn,
nghiệp vụ của giáo viên, đó là: Phát triển các kỹ năng tồn tại; thành thạo các
kỹ năng dạy học cơ bản; mở rộng sự linh hoạt chuyên môn; trở thành chuyên
gia; có khả năng giúp đồng nghiệp phát triển chuyên môn; tham gia đóng góp
vào quyết sách giáo dục. Để đạt đến các cấp độ này giáo viên phải được đào
tạo, bồi dưỡng trong suốt quá trình hoạt động sư phạm.
Trong báo cáo năm 1995 Học tập kho báu tiềm ẩn, UNESCO (1995)
[99] đã chỉ rõ: Vai trò của người giáo viên đang chuyển mạnh từ chỗ truyền
thụ kiến thức sang tổ chức việc học tập cho học sinh. Cùng với sự thay đổi về
vai trò, người giáo viên phải biết sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy
14
học hiện đại. Vì vậy, giáo viên cần được trang bị thêm các kiến thức và kỹ
năng cần thiết. Sau đó, UNESCO và OECD, dựa trên kết quả phân tích các
chỉ số giáo dục của các nước đang phát triển đã đưa ra các khuyến nghị đối
với các quốc gia về chính sách đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo
viên đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
E.A. Pankô (1995) trong công trình Психология деятельности
воспителья детского сада (Tâm lý học hoạt động GDMN) [119] đã dựa vào
nhiệm vụ chủ yếu mà con người phải giải quyết trong hoạt động nghề nghiệp
để xác định các kỹ năng cơ bản, từ đó tác giả chỉ ra rằng: kỹ năng nghề
nghiệp của GVMN gồm 5 loại, bao gồm: (1) Các kỹ năng nhận thức; (2) Các
kỹ năng thiết kế; (3) Các kỹ năng tổ chức và giao tiếp; (4) Các kỹ năng
chuyên biệt: vẽ, xây dựng, hát, múa…; (5) Các kỹ năng tổ chức cho mỗi loại
hoạt động. Những kỹ năng này là thành tố quan trọng trong NLSP của
GVMN, cần được hình thành, phát triển thông qua đào tạo, bồi dưỡng.
Trong cuốn Quản lý nguồn nhân lực, các tác giả Paul Hersey và Ken
Blanc Hard (1995) [36], khi đề cập đến chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh
vực giáo dục đã cho rằng: phải có nhiều hình thức, phương pháp bồi dưỡng
giáo viên nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và đưa tới sự thích ứng nhanh
của giáo viên với thực tiễn giáo dục. Trong những hình thức, phương pháp
bồi dưỡng giáo viên, theo các tác giả, việc bổ sung, cập nhật những kiến thức,
kỹ năng, phương pháp dạy học mới phải kết hợp với đúc rút kinh nghiệm sư
phạm trong thực tiễn dạy học và tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên.
Trong sách Đào tạo bồi dưỡng thường xuyên, các tác giả Pierre Besnard
và Bernard Lietard (1998) [6] đã chỉ ra sự cần thiết đào tạo, bồi dưỡng thường
xuyên cho người lớn trên các lĩnh vực hoạt động để họ thích ứng với sự phát
triển của xã hội và khoa học, công nghệ … Trong lĩnh vực giáo dục, HĐBD
thường xuyên cho giáo viên sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Năm 2007, trong báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người,
với tiêu đề Nền tảng vững chắc chăm sóc và GDMN, UNESCO (2007) [100]
đã đề cập tới vấn đề “giáo viên trước tuổi học” (GVMN) đã được các quốc gia
15
đào tạo chính quy theo các chương trình đào tạo khác nhau, nhưng dù đào tạo
theo chương trình nào thì “giáo viên trước tuổi học” cũng phải có NLSP phù
hợp với việc chăm sóc, giáo dục trẻ trước tuổi học phổ thông.
Tác giả Belyaeva E.N. (2014) trong nghiên cứu Формирование
профессионнальных компетенций учителя в процессе повышения
квалификации (Sự hình thành năng lực nghề nghiệp của giáo viên trong quá
trình bồi dưỡng nâng cao trình độ) [116], đã chỉ rõ HĐBD giáo viên cần
hướng vào hình thành, phát triển ở họ năng lực nghề nghiệp, năng lực xã
hội... nhằm tạo những điều kiện thuận lợi để mỗi giáo viên hoàn thành tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình trong nhà trường.
Ở Việt Nam, tác giả Bùi Văn Quân (2005), trong bài viết Động lực học
tập và tạo động lực học tập [71], cho rằng: cần tạo ra động lực cho người
được bồi dưỡng bằng cách gắn lý luận với hoạt động thực tiễn, bởi vì “Muốn
thực hành được những tri thức ... cần phải cụ thể hoá chúng trong từng lĩnh
vực và hoạt động thực tiễn cụ thể” [71, tr. 23].
Trong công trình Quản lý giáo dục, các tác giả Bùi Minh Hiền (chủ
biên), Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006) [37] đã cho rằng: Để phát triển
đội ngũ giáo viên, các chủ thể QLGD cần làm tốt khâu kế hoạch, quy hoạch
đội ngũ giáo viên, tiến hành có hiệu quả việc tuyển chọn, sắp xếp, bồi dưỡng
phẩm chất, năng lực, kỹ năng sư phạm, kiểm tra, đánh giá thực lực đội ngũ và
sự phấn đấu, rèn luyện của từng giáo viên. Như vậy có thể nói, bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên được các tác giả nêu trên xem như một trong những
nhiệm vụ quan trọng của phát triển đội ngũ giáo viên.
Tác giả Đặng Huỳnh Mai (2006) trong cuốn Một số vấn đề về đổi mới
QLGD tiểu học vì sự phát triển bền vững [59] đã chỉ rõ rằng: Chuẩn nghề
nghiệp là hệ thống các yêu cầu, tiêu chí về năng lực nghề nghiệp của một
nghề nào đó được phân loại từ thấp đến cao. Khi xác định chuẩn nghề nghiệp
của một ngành nghề, người ta nói đến trình độ đào tạo ban đầu, trình độ tiếp
theo phù hợp với các bước phát triển của toàn bộ năng lực. Vì vậy, để đáp
16
ứng được yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp, sau khi được đào tạo ở một trình độ
nào đó, người lao động phải tiếp tục được bồi dưỡng về năng lực.
Trong luận án tiến sĩ Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trung
học cơ sở trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Lê
Khánh Tuấn (2006) [94] cho rằng: Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phải
đảm bảo tính xã hội hóa, tính dân chủ; thực hiện tốt sự kết hợp giữa đào tạo,
bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Tuy luận án này không bàn sâu về HĐBD giáo
viên, nhưng những ý tưởng vừa nêu cũng có thể vận dụng vào xem xét vấn đề
bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Tác giả Nguyễn Trí (2007) trong bài viết “Quan niệm và quá trình xây
dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học” [91], cho rằng, trong điều kiện hệ
thống đào tạo giáo viên có tính mềm dẻo, linh hoạt và đa dạng như hiện nay
thì cần phải chuẩn hóa đội ngũ giáo viên theo hướng chuyển từ chuẩn hóa về
trình độ đào tạo sang chuẩn hóa theo chuẩn nghề nghiệp. Trên cơ sở quy định
về chuẩn nghề nghiệp của giáo viên theo từng cấp giáo dục, hệ thống giáo dục
phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.
Tác giả Mông Kí Slay (Chủ nhiệm đề tài, 2007), Nghiên cứu những điều
kiện cần thiết để đưa tiếng dân tộc vào dạy trong trường tiểu học vùng dân
tộc đạt hiệu quả [74] đã cho rằng, các cấp QLGD, cũng như đội ngũ giáo viên
phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng giáo viên, đồng
thời tạo điều kiện, đầu tư trí tuệ, công sức, kinh phí cho HĐBD giáo viên,
trong đó có bồi dưỡng về tiếng dân tộc. Công tác này sẽ thiết thực góp phần
nâng cao chất lượng dạy học ở các trường tiểu học vùng DTTS. Đề tài nghiên
cứu này có thể vận dụng vào việc xác định nội dung bồi dưỡng GVMN vùng
dân tộc, miền núi.
Trong cuốn Nâng cao chất lượng GD&ĐT ở vùng dân tộc và miền núi,
tác giả Bùi Thị Ngọc Diệp (2008) [21] đã chỉ ra rằng: Hầu hết giáo viên vùng
dân tộc và miền núi đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, nhưng còn
bộc lộ những những hạn chế về khả năng vận dụng phương pháp dạy học
mới, kỹ thuật dạy học lớp ghép, nhận thức về giáo dục hòa nhập, giáo dục kỹ
17
năng sống, năng lực hiểu học sinh… Để khắc phục những hạn chế đó, theo
Bùi Thị Ngọc Diệp cần phải tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên
về trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy… Đó là một trong những
con đường nâng cao chất lượng GD&ĐT ở vùng dân tộc và miền núi.
Trong luận án tiến sĩ Phát triển đội ngũ giáo viên tin học trường trung
học phổ thông theo quan điểm chuẩn hóa và xã hội hóa, tác giả Vũ Đình
Chuẩn (2008) [17] cho rằng, để giáo viên thực hiện tốt các vai trò người thiết
kế, tổ chức, cổ vũ, canh tân trong dạy học, họ phải được đào tạo, bồi dưỡng
theo chuẩn nghề nghiệp. Chỉ có như vậy, nhà giáo mới đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi của thực tiễn giáo dục.
Tác giả Vũ Minh Hùng (2008) trong bài viết Bồi dưỡng NLSP cho đội
ngũ giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong giáo dục nghề
nghiệp [42] đã chỉ ra rằng: NLSP là đặc trưng của người giáo viên, để nâng
cao chất lượng dạy học, hệ thống QLGD cần tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ
giáo viên các năng lực chủ yếu như: Năng lực dạy học, năng lực tổ chức, năng
lực thực hiện, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng thiết bị, phương
tiện dạy học, năng lực giao tiếp, năng lực kiểm tra, đánh giá, năng lực giáo
dục. Nội dung bài viết này cho phép rút ra rằng, cần bám sát đòi hỏi của hoạt
động nghề nghiệp để xác định nội dung bồi dưỡng giáo viên.
Trong Báo cáo tổng kết đề tài khoa học Xây dựng chương trình bồi
dưỡng kỹ năng đặc thù cho giáo viên dạy các nhóm trẻ khuyết tật khác nhau
tác giả Phạm Minh Mục (2009) [64] đã chỉ rõ: bồi dưỡng là quá trình tác
động của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục, làm cho đối tượng được
bồi dưỡng tăng thêm năng lực, phẩm chất và phát triển theo chiều hướng tốt
hơn. Từ đó tác giả khẳng định: Bồi dưỡng giáo viên (In-service Teacher
Training) - Thuật ngữ này chỉ việc nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ cho các giáo viên đang dạy học…Bồi dưỡng giáo
viên được xem là việc đào tạo bổ trợ, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp (Refresher Training).
18
Tác giả Trần Bá Hoành (2010), trong sách Vấn đề giáo viên - Những
nghiên cứu lý luận và thực tiễn [40] chỉ rõ rằng, giáo viên phải luôn được
nâng cao, cập nhật hóa tri thức, kỹ năng sư phạm, bồi dưỡng chương trình,
nội dung, phương pháp giảng dạy mới. Việc bồi dưỡng cho giáo viên phải
được phân hóa theo các nhóm đối tượng khác nhau và thể hiện được tinh thần
học tập liên tục, suốt đời dưới nhiều hình thức (học ngoài giờ làm việc, học
tập trung từng đợt, học từ xa, tự học…). Theo tác giả, có 3 yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng giáo viên, đó là: (1) quá trình đào tạo - sử dụng - bồi dưỡng
giáo viên; (2) hoàn cảnh, điều kiện lao động sư phạm của giáo viên; (3) ý chí
thói quen và năng lực tự học của giáo viên. Vì vậy, cần phải tính đến tất cả
các yếu tố đó khi nghiên cứu về phát triển NLSP của giáo viên.
Trong luận án tiến sĩ QLGD Quản lý đội ngũ giáo viên tiểu học tỉnh
Bến Tre đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, tác giả Lê Văn Chín (2012) [14]
cho rằng, chuẩn nghề nghiệp của giáo viên tiểu học là căn cứ để đánh giá, bố
trí, sàng lọc giáo viên. Muốn đội ngũ giáo viên tiểu học đạt và vượt chuẩn
nghề nghiệp thì các chủ thể QLGD phải triển khai đồng bộ các giải pháp đào
tạo, đào tạo lại, tuyển dụng và thúc đẩy bồi dưỡng và tự bồi dưỡng giáo viên.
Đây là gợi ý tốt cho nghiên cứu về bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp.
Tác giả Nguyễn Hoài Thu (2014) trong Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên
cứu Thực trạng công tác bồi dưỡng cho giáo viên dạy ở các trung tâm giáo
dục thường xuyên [80] đã chỉ ra HĐBD giáo viên đang diễn ra theo xu hướng
chuyển từ bồi dưỡng tập trung sang bồi dưỡng dựa vào nhà trường, với nội
dung, phương pháp, cách thức bồi dưỡng thiết thực, sát thực tế dạy học . Trên
cơ sở đó tác giả đã đưa ra các biện pháp đổi mới căn bản về phương thức bồi
dưỡng giáo viên. Theo đó, hệ thống giáo dục phải tạo nên mối quan hệ thống
nhất giữa đào tạo tại trường sư phạm với bồi dưỡng giáo viên trong thực tế
công tác và tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của mỗi giáo viên; phải chuyển từ quan
niệm tĩnh (đào tạo ban đầu đủ để giáo viên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
của mình trong dạy học) sang quan niệm động (đào tạo, bồi dưỡng là một hệ
19
thống mở, phát triển liên tục từ đào tạo ban đầu, tập sự, đến đào tạo tại chức
và bồi dưỡng thường xuyên).
Trong luận án tiến sĩ Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học người DTTS
vùng Tây Bắc đáp ứng yêu cầu đổi mới GD&ĐT, tác giả Trần Thị Yên (2016)
[105] cho rằng: Nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên tiểu
học người DTTS phải được thực hiện bằng đào tạo, bồi dưỡng cho họ về các
mặt: Phẩm chất nhân cách nhà giáo, kiến thức và kỹ năng sư phạm đã được
quy định trong chuẩn nghề nghiệp. Những nội dung bồi dưỡng năng lực nghề
nghiệp mà tác giả Trần Thị Yên nêu ra có thể vận dụng được vào bồi dưỡng
NLSP của GVMN.
Tác giả Mai Thị Yến Lan (2017) trong luận án tiến sĩ Phát triển đội ngũ
giáo viên trung học cơ sở người dân tộc Khmer khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay [52] đã cho rằng: ĐBCL các đợt tập huấn chuyên đề, thúc đẩy
tự học, tự bồi dưỡng lẫn nhau trong tập thể sư phạm là một trong những biện
pháp quan trọng và cấp thiết của phát triển đội ngũ giáo viên THCS người dân
tộc Khmer khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tác giả Trần Đăng Khởi (2019), trong luận án tiến sĩ QLGD Quản lý
HĐBD giáo viên trung học cơ sở theo tiếp cận năng lực [44] cho rằng, sự
phát triển năng lực của giáo viên là kết quả của quá trình học tập suốt đời, bồi
dưỡng và tự bồi dưỡng theo các mục tiêu đặt ra nhằm nâng cao năng lực của
người giáo viên từ năng lực được đào tạo thành năng lực nghề nghiệp.
1.1.2. Hướng nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực
sư phạm cho giáo viên
Ở nước ngoài, có nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề quản
lý bồi dưỡng năng lực chuyên môn trong quá trình quản lý nhân sự, trong đó
có thể kể đến một số công trình sau đây.
Trong cuốn Handbook for Developing Competency - Based Training
Program (Cẩm nang phát triển chương trình đào tạo dựa trên năng lực), tác
giả William E. Blank (1982) [108] đã chỉ ra rằng, nhiệm vụ trọng yếu của
quản lý đào tạo là xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình đào tạo theo
20
hướng phát triển năng lực thực hiện của người học dựa trên phân tích hoạt
động nghề nghiệp và nhu cầu của người học, xây dựng hồ sơ năng lực người
học, xác định những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần tiếp tục hình thành, phát
triển ở họ. Quan niệm về quản lý đào tạo như vừa nêu có thể vận dụng vào
quản lý HĐBD năng lực cho giáo viên.
Các tác giả James Donnoelly, James Gibson và John Ivancevich (1987)
trong công trình Fondements of Magament (Quản lý bồi dưỡng) [109] cho
rằng, quản lý bồi dưỡng nhân sự đòi hỏi phải đảm bảo cho hoạt động bồi
dưỡng phù hợp với nhu cầu của cá nhân; mục tiêu bồi dưỡng phải hướng
đúng vào những kiến thức, kỹ năng con người cần để hoàn thành tốt hơn công
việc chuyên môn; kết quả bồi dưỡng phải được xác nhận bằng sự tiến triển
trong hoạt động thực tiễn nghề nghiệp.
Các tác giả Derek Torrington, Laura Hall (1995), trong công trình
Personnel management (Quản lý nhân sự) [114] cho rằng: mục tiêu của quản
lý đào tạo, bồi dưỡng là đảm bảo đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng
nhân lực của tổ chức, cũng như nhu cầu về kiến thức, kỹ năng cần thiết đối
với cá nhân để hoàn thành công việc chuyên môn. Vì vậy, quản lý đào tạo,
bồi dưỡng cần tập trung vào các khâu kỹ thuật đánh giá nhu cầu về nhân sự
của tổ chức, từ đó xác định nội dung, phương thức tối ưu trong đào tạo, bồi
dưỡng nhân sự.
Michael Armstrong (1997) trong công trình Personnel management
Practice (Thực hành quản lý nhân sự) [107] cho rằng, quản lý đào tạo, bồi
dưỡng là nhiệm vụ trọng yếu của quản lý nhân sự. Nhiệm vụ này đòi hỏi chủ
thể quản lý phải thực hiện có kế hoạch các bước: Xác định nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng; đề ra yêu cầu đối với việc học tập; xây dựng mục tiêu, kế hoạch,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng; tổ chức lực lượng triển khai kế hoạch, đánh
giá kết quả thực hiện.
Tác giả Vladimir Gasskov (2000), trong cuốn sách Managing
vocational training systems (Quản lý hệ thống đào tạo nghề nghiệp) [110] đã
nêu ra những nội dung quản lý hệ thống đào tạo nghề nghiệp bao gồm: quản
21
lý cơ cấu tổ chức và nguồn lực con người trong đào tạo, thiết lập mục tiêu, kế
hoạch đào tạo, quản lý nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo,
quản lý tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật… Những nội dung này có thể vận
dụng vào quản lý bồi dưỡng NLSP cho giáo viên với tư cách là đào tạo kế tiếp
trong quá trình thực hành nghề nghiệp.
Jean - Marc Denommé và Madeleine Roy (2000), trong tác phẩm Tiến
tới một phương pháp sư phạm tương tác [20] đã chỉ ra cấu trúc dạy học gồm
ba thành tố chính: người dạy, người học và môi trường. Theo tác giả, quản lý
đào tạo, bồi dưỡng thực chất là nắm và điều khiển mối quan hệ tương tác giữa
các thành tố vừa được nêu ở trên để đạt tới những mục đích nhất định.
Trong công trình nghiên cứu Khung mẫu mới về phát triển nguồn nhân
lực, các sáng kiến của chính phủ để phát triển kinh tế xã hội tại Hàn Quốc
(bản dịch), Kim Jang Ho (2005) [45] cho rằng: Một trong những thành công
trong lĩnh vực giáo dục ở Hàn Quốc thời gian qua là do Chính phủ Hàn Quốc
đã coi trọng việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở tất cả các bậc
học, với những tiêu chí rất rõ ràng, khắt khe, trong đó NLSP của giáo viên là
những tiêu chí cốt lõi để đánh giá chất lượng nhân lực giáo dục.
Trong bài viết “Повышение квалификации учителей: проблемы и
пути решения в россиском образования” (Nâng cao trình độ của giáo viên:
Những vấn đề và con đường giải quyết trong giáo dục), Ponomarev O.N.
(2012) [120] cho rằng: giáo dục liên tục hay giáo dục suốt đời đang làm thay
đổi căn bản nhiệm vụ của HĐBD giáo viên. Nền giáo dục Nga cần tập trung
giải quyết nhiệm vụ khó khăn, đó là lựa chọn mô hình đào tạo năng lực và mô
hình bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Theo tác giả, có hai mô
hình tiêu biểu về quản lý bồi dưỡng giáo viên, đó là: (1) Mô hình bồi dưỡng
theo khả năng cung cấp của cơ quan bồi dưỡng, với đặc trưng là chủ thể tổ
chức và tiến hành bồi dưỡng xác lập mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội
dung, phương pháp… dựa trên khả năng cung cấp của cơ quan bồi dưỡng. (2)
Mô hình bồi dưỡng định hướng nhu cầu của người được bồi dưỡng, với đặc
trưng là chủ thể tổ chức và tiến hành bồi dưỡng dựa vào đối tượng tác động,
22
trước hết là nhu cầu bồi dưỡng của họ để xác lập mục tiêu, kế hoạch, chương
trình, nội dung, phương pháp bồi dưỡng. Mô hình quản lý thứ hai này có hiệu
quả hơn trong bồi dưỡng NLSP cho giáo viên.
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình đề cập tới quản lý bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên, trong đó có GVMN. Ở đây có thể kể đến một số tác giả và
công trình như sau:
Trong đề tài cấp bộ Nhận diện những trụ cột của hoạt động quản lý và
vận dụng chúng vào đổi mới quản lý nhà trường tác giả Nguyễn Phúc Châu
(2005) [12] đã chỉ ra những trụ cột của hoạt động quản lý, bao gồm: thể chế
xã hội về lĩnh vực hoạt động của tổ chức, bộ máy tổ chức và nhân lực của tổ
chức, tài lực và vật lực của tổ chức, môi trường hoạt động của tổ chức, thông
tin về lĩnh vực hoạt động của tổ chức, … Tác giả cho rằng, với tư cách là
nhân lực của tổ chức sư phạm, đội ngũ nhà giáo phải được xây dựng và phát
triển tương xứng với yêu cầu phát triển giáo dục, đào tạo.
Tác giả Nguyễn Sĩ Thư (2006), trong luận án tiến sĩ Những biện pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở các tỉnh Tây nguyên
đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục Trung học cơ sở [85] đã nêu lên sự cần
thiết phải đổi mới quản lý bồi dưỡng giáo viên và khuyến nghị với cấp sở
GD&ĐT: phải có kế hoạch điều tra, rà soát và sắp xếp cho đội ngũ giáo viên
được chuẩn hóa, tổ chức cho giáo viên tham dự các lớp đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao trình độ, cập nhật thông tin và phương pháp dạy học mới.
Trong luận án tiến sĩ Quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
của giáo viên trường trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay, tác giả Lục
Thị Nga (2007) [65] đã chỉ ra tầm quan trọng của tự học, tự bồi dưỡng và các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự bồi dưỡng, từ đó đưa ra những biện pháp
thúc đẩy, tổ chức, điều hành một cách chủ động hoạt động tự bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm của giáo viên.
Tác giả Trần Thanh Phúc (Chủ nhiệm đề tài, 2008), Nghiên cứu khả
năng đáp ứng của giáo viên trong triển khai chương trình và sách giáo khoa
tiểu học mới ở vùng dân tộc [69] đã đưa ra nhóm giải pháp về đào tạo, bồi
23
dưỡng giáo viên tiểu học bao gồm các giải pháp cơ bản như: Nâng cao nhận
thức; ĐBCL đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên tiểu học
người DTTS. Những ý tưởng nêu trên có thể kế thừa được trong quá trình tìm
biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Trong luận án tiến sĩ Bồi dưỡng NLSP cho giáo viên tiểu học dân tộc
Khmer tỉnh Bạc Liêu, tác giả Nguyễn Văn Tân (2011) [78] cho rằng: Chuẩn
nghề nghiệp của giáo viên là hệ thống các yêu cầu cơ bản về năng lực nghề
nghiệp mà người giáo viên phải đạt tới, chuẩn nghề nghiệp được điều chỉnh
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và mục tiêu giáo dục từng giai đoạn.
Việc bồi dưỡng năng lực cho giáo viên phải hướng tới đáp ứng các yêu cầu
của chuẩn nghề nghiệp. Biện pháp bồi dưỡng NLSP cho giáo viên tiểu học
dân tộc Khmer gồm: Xây dựng quy trình, phương pháp đánh giá thực trạng
năng lực của giáo viên; xác định mục tiêu bồi dưỡng; xây dựng nội dung bồi
dưỡng; xác định hình thức, phương pháp bồi dưỡng; tổ chức đội ngũ cốt cán
bồi dưỡng; bồi dưỡng kỹ năng dạy học hợp tác và một số năng lực cụ thể
cho giáo viên tiểu học dân tộc Khmer. Có thể nói các biện pháp này được đề
xuất dựa trên cách tiếp cận của giáo dục học, nhưng ít nhiều đã vạch ra các
hướng cần xem xét khi bàn về quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Trong đề tài cấp bộ Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dạy học
lớp ghép vùng DTTS, tác giả Tôn Thị Tâm (2012) [77] cho rằng: Để nâng cao
năng lực của đội ngũ giáo viên vùng DTTS, bộ máy QLGD cần thực hiện tốt
các giải pháp sau: (1) Tăng cường bồi dưỡng giáo viên theo hướng kết hợp
bồi dưỡng những nội dung chung với nội dung mang tính đặc thù vùng miền,
dân tộc, kết hợp giữa bồi dưỡng và tự bồi dưỡng; (2) Tuyển dụng và đào tạo
giáo viên bản địa; (3) Đào tạo nguồn giáo viên dạy ở vùng dân tộc trong các
trường sư phạm. Những đề xuất vừa nêu trên có thể vận dụng được vào biện
pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Tác giả Trương Thị Thu Yến (2012) với luận án tiến sĩ Rèn luyện kỹ
năng dạy học nhóm cho giáo viên tiểu học [106] đã đề xuất hai nhóm biện
24
pháp rèn luyện kỹ năng dạy học nhóm cho giáo viên tiểu học là: (1) Nâng cao
chất lượng và hiệu quả lớp bồi dưỡng do sở, phòng GD&ĐT và trường tiểu học
tổ chức; (2) Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác rèn luyện của cá nhân
giáo viên. Kế thừa kết quả nghiên cứu vừa nêu, trong quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN cần chú trọng kết hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng tập
trung với thúc đẩy bồi dưỡng thường xuyên tại chỗ và tự bồi dưỡng.
Trong đề tài cấp nhà nước Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách
công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông, tác giả Nguyễn Thị Bình
(2013) [7] đã nêu ra 6 nhóm giải pháp về cải cách đào tạo, bồi dưỡng: (1) Xây
dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo hướng đảm bảo cân bằng
giữa cung và cầu nguồn nhân lực giáo dục; (2) Tái cơ cấu hệ thống cơ sở đào
tạo, mỗi cơ sở đào tạo phải đồng thời thực hiện các chức năng đào tạo, bồi
dưỡng và nghiên cứu; (3) Chuyển đổi mô hình đào tạo, bồi dưỡng từ đào tạo
một lần sang đào tạo cơ bản - ban đầu kết hợp với đào tạo bổ sung và bồi
dưỡng; (4) Thay đổi chính sách về tiền lương, phụ cấp và chế độ làm việc của
giáo viên; (5) Thành lập hiệp hội giáo chức; (6) Đề nghị Quốc hội ban hành
các đạo luật về nhà giáo và nghề dạy học. Đến nay những đề xuất nêu trên đã
từng bước được thực hiện, tuy nhiên việc kết hợp giữa đào tạo và bồi dưỡng
vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy (2013), trong bài viết “Một số vấn đề về
dạy học trong bồi dưỡng thường xuyên giáo viên dưới góc nhìn của lý thuyết
dạy học người lớn” [84] trên cơ sở tổng hợp về báo cáo tổng kết thực hiện
chương trình bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ II, III cho GVMN và phổ thông
của Bộ GD&ĐT, đã đề xuất tổ chức các hình thức bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên như sau: (1) bồi dưỡng thường xuyên bằng tự học của giáo viên
kết hợp với sinh hoạt tập thể về chuyên môn nghiệp vụ tại tổ bộ môn của nhà
trường, liên trường hoặc cụm trường; (2) bồi dưỡng thường xuyên tập trung;
(3) bồi dưỡng thường xuyên theo hình thức học tập từ xa (qua mạng Internet).
Nhà trường và các cơ quan QLGD có trách nhiệm tạo điều kiện, giúp đỡ và
giám sát HĐBD thường xuyên.
25
Trong Luận án tiến sĩ Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung học
phổ thông theo chuẩn nghề nghiệp ở vùng Tây Bắc, tác giả Nguyễn Tiến Phúc
(2015) [70] đã chỉ rõ: Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác quản lý hiện nay
còn nhiều hạn chế, bất cập, chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc thù đội ngũ
giáo viên trung học phổ thông ở vùng Tây Bắc. Để khắc phục tình trạng đó,
cần phải nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bồi
dưỡng giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp cho CBQL và giáo viên; đổi mới chỉ
đạo của sở GD&ĐT đối với công tác bồi dưỡng giáo viên; đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp bồi dưỡng; tăng cường quản lý các nguồn lực phục
vụ cho công tác bồi dưỡng; xây dựng cơ chế phối hợp quản lý hoạt động bồi
dưỡng giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giữa sở GD&ĐT với hiệu trưởng các
trường và đội ngũ giáo viên cốt cán.
Trong luận án tiến sĩ QLGD Quản lý đội ngũ giáo viên Tiếng Anh tiểu
học trong bối cảnh đổi mới giáo dục, tác giả Lê Thị Thanh Thủy (2016) [83]
đã chỉ ra những giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên như:
Xác định khung năng lực nghề nghiệp của giáo viên; quy hoạch phát triển đội
ngũ giáo viên; thực hiện tuyển dụng, sử dụng và sàng lọc giáo viên theo
khung năng lực nghề nghiệp; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; xây dựng
môi trường và tạo động lực phát triển cho đội ngũ giáo viên. Những giải pháp
này có thể vận dụng vào quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết (2017), trong luận án tiến sĩ Quản lý bồi
dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở thành phố Hà Nội theo
Chuẩn (mới) nghề nghiệp [98] cho rằng, quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học
cho giáo viên là quá trình tác động có hướng đích, có tổ chức từ chủ thể đến
khách thể quản lý bằng hệ thống nguyên tắc, luật lệ, chính sách, phương pháp,
giải pháp nhằm hoàn thiện kết quả đào tạo cơ bản, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm, qua đó hướng giáo viên vào việc duy trì, hoàn thiện
kết quả thực hiện công việc chuyên môn hiện có, đồng thời hình thành một
trình độ tri thức, kỹ năng cao hơn nhằm nâng cao năng lực dạy học. Đây là
26
một quan niệm có thể vận dụng được vào nghiên cứu vấn đề quản lý bồi
dưỡng NLSP cho GVMN.
Bên cạnh những công trình đề cập đến quản lý bồi dưỡng giáo viên phổ
thông, có khá nhiều công trình nói về quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN. Ở đây có thể kể đến một số tác giả sau:
Trong công trình khoa học Tổ chức quản lý nhóm - lớp trẻ trường mầm
non, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Thị Tuất (1996) [55] cho rằng:
GVMN là nhà tổ chức, nhà quản lý nhóm, lớp trẻ, vì vậy họ phải có những
năng lực như: Năng lực quan sát; năng lực giao tiếp; NLSP; năng lực quản lý;
năng lực cảm hóa và thuyết phục … Bên cạnh đó, GVMN cần phải có lòng
nhân ái, sự đôn hậu. Để GVMN phát triển những phẩm chất, năng lực đó,
từng cơ sở GDMN phải thực sự chăm lo bồi dưỡng giáo viên và thúc đẩy họ
tự học tập, tự bồi dưỡng trong hoạt động thực tiễn.
Tác giả Trần Thị Ngọc Chúc (2006), trong luận án tiến sĩ Biện pháp tổ
chức việc rèn luyện kỹ năng nghề cho giáo sinh hệ trung học sư phạm mầm
non 12+2 [18] cho rằng, nội dung rèn luyện kỹ năng nghề trong đào tạo
GVMN bao gồm: Cung cấp những tri thức cơ bản của khoa học GDMN; tri
thức về phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ (những lý luận về phương
pháp và các thao tác, kỹ năng, kỹ xảo, hành động cụ thể) và rèn luyện kỹ năng
nghề qua các hình thức thực hành, thực tập. Quy trình rèn luyện kỹ năng nghề
cho giáo sinh mầm non gồm 3 bước: Xây dựng biểu tượng chung về toàn bộ
các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ qua hình thức thăm quan, kiến tập. Tập
làm quen với một số hoạt động cơ bản trong chăm sóc, giáo dục trẻ bằng hình
thức thực hành. Rèn luyện thao tác, hành động chăm sóc, giáo dục trẻ trong
quá trình thực tập tốt nghiệp. Những nội dung và bước tiến hành rèn luyện kỹ
năng nêu trên có thể vận dụng vào tổ chức HĐBD năng lực cho GVMN.
Trong bài viết “Một số biện pháp quản lý, phát triển năng lực giáo viên
mẫu giáo theo tiếp cận kỹ năng nghề trong các trường mầm non hiện nay” tác
giả Phạm Thị Loan (2009) [54] đã đề xuất rằng: Trường mầm non phải quản
lý mục tiêu, nội dung phát triển kỹ năng nghề; quản lý phương pháp phát triển
27
năng lực giáo viên mẫu giáo theo tiếp cận kỹ năng nghề; quản lý việc đánh
giá mức độ đạt được các kỹ năng nghề của GVMN. Tuy bài viết này chưa làm
rõ quan niệm quản lý, phát triển năng lực giáo viên mẫu giáo theo tiếp cận kỹ
năng nghề, nhưng đã định hướng được quản lý về nội dung, phương pháp,
đánh giá kết quả phát triển kỹ năng nghề - một thành phần quan trọng của
NLSP của GVMN.
Trong công trình khoa học Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phổ cập
giáo dục mẫu giáo 5 tuổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tác giả Trần Thị
Ngọc Trâm (2011) [90] đã nêu ra 10 giải pháp khác nhau, trong đó có giải
pháp về hỗ trợ ngân sách để bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay
nghề cho đội ngũ giáo viên hiện có và đào tạo mới để đảm bảo đủ số lượng và
nâng cao chất lượng đội ngũ GVMN. Giải pháp này đã được sự đồng thuận
của 100% số người được trưng cầu ý kiến. Tuy đây là giải pháp cho việc phổ
cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi ở một địa bàn cụ thể nhưng có thể vận dụng vào
quản lý HĐBD GVMN trong phạm vi cả nước.
Trong bài viết “Nhận thức về sự cần thiết của sáng tạo trong nhân cách
và thực trạng sáng tạo trong chăm sóc - giáo dục trẻ em của GVMN”, tác giả
Nguyễn Thị Như Mai (2012) [62] cho rằng: Để tạo ra lớp trẻ có khả năng
sáng tạo thì bản thân GVMN phải có năng lực sáng tạo, điều đó được thể hiện
ngay trong hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em. Vì vậy, quản lý hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN không được xem nhẹ mục tiêu, nội dung bồi
dưỡng năng lực sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Thị Xuân Sơn (2012), trong bài viết “Một số biện pháp
nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện quy trình đánh giá GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp ở huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa” [75] đã đề xuất các biện
pháp: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền xây dựng đội ngũ
cán bộ GVMN; (2) Nâng cao nhận thức của đội ngũ giáo viên đối với quy
trình đánh giá GVMN theo chuẩn nghề nghiệp; (3) Xác định các minh chứng
khi đánh giá các tiêu chí chuẩn nghề nghiệp cho GVMN; (4) Xây dựng bảng
phương pháp thu thập minh chứng đánh giá GVMN theo chuẩn nghề nghiệp;
28
(5) Xây dựng quy trình đánh giá GVMN theo chuẩn nghề nghiệp; (6) Tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Mặc dù
những biện pháp được đề xuất ở bài viết này không đề cập trực tiếp đến quản
lý bồi dưỡng GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, nhưng những cách làm để thu
thập thông tin minh chứng về trình độ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp có
thể dùng vào khảo sát, đánh giá nhu cầu bồi dưỡng trong quản lý hoạt động
bồi dưỡng GVMN.
Trong bài viết “Quản lý hiệu quả công tác bồi dưỡng GVMN ở các tỉnh
Tây Nguyên”, các tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai và Ngô Quang Sơn (2014)
[60] đã đề xuất các biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng GVMN ở các tỉnh
Tây nguyên: (1) Nâng cao nhận thức của CBQL và GVMN về công tác bồi
dưỡng giáo viên; (2) Cải tiến việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GVMN phù
hợp với thực tế; (3) Thiết kế nội dung bồi dưỡng GVMN phù hợp và thiết
thực; (4) Chuẩn bị đội ngũ giảng viên ĐBCL; (5) Kết hợp linh hoạt, hiệu quả
các phương pháp và hình thức bồi dưỡng GVMN; (6) Tổ chức phối hợp các
lực lượng bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; (7) Quản lý sử dụng
các nguồn lực phục vụ HĐBD và tự bồi dưỡng của giáo viên; (8) Tăng cường
kiểm tra đánh giá hoạt động bồi dưỡng GVMN. Tuy các biện pháp nói trên
còn dàn trải, nhưng những đề xuất của các tác giả bài viết này có ý nghĩa định
hướng cho việc tìm biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai (2015) với luận án tiến sĩ Phát triển đội
ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi các tỉnh Tây
Nguyên [61] đã cho rằng: Nếu áp dụng đồng bộ các giải pháp: quy hoạch đội
ngũ GVMN, thực hiện tốt việc tuyển chọn, tổ chức bồi dưỡng kỹ năng sư
phạm và kỹ năng giao tiếp, sử dụng tiếng dân tộc, tăng cường kiểm tra, đánh
giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp thì đội ngũ GVMN sẽ đảm bảo đủ số
lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng được yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ
em 5 tuổi. Để thực hiện các giải pháp này, các chủ thể quản lý phải coi trọng
quản lý đào tạo, bồi dưỡng theo hướng: Nâng chuẩn trình độ đào tạo; thực
29
hiện bồi dưỡng theo các yêu cầu của Chuẩn nghề nghiệp GVMN; đẩy mạnh
bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng theo các chuyên đề và bồi dưỡng kỹ năng
sử dụng tiếng dân tộc. Những nội dung và phương thức tổ chức bồi dưỡng
vừa nêu trên, tuy chưa đầy đủ nhưng là những vấn đề cấp bách của bồi dưỡng
GVMN, cần được tiếp tục nghiên cứu.
Các tác giả Trần Công Phong, Trịnh Thị Hoa, Trương Xuân Cảnh, Võ
Thùy Linh (2019), trong bài viết “Thực trạng quản lý nhà nước về giáo viên
mầm non trong bối cảnh đổi mới giáo dục: Áp lực nghề nghiệp, tính chuyên
nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng” [68] đã cho rằng: tác động của bối cảnh đổi mới
giáo dục đến khung năng lực giáo viên mầm non, yêu cầu “tính chuyên
nghiệp” của giáo viên, thực trạng đào tạo và bồi dưỡng…đưa tới đòi hỏi phải
nâng chuẩn trình độ đào tạo và kỹ năng nghề nghiệp của giáo viên mầm non.
Vì vậy, tăng cường quản lý nhà nước về giáo viên và nghề dạy học bậc mầm
non, thực hiện đổi mới quản lý đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non theo
chuẩn nghề nghiệp đang trở thành một nhu cầu cấp thiết.
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về bồi
dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên theo chuẩn nghề
nghiệp, ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Một là, các nhà quản lý, nhà khoa học luôn đánh giá cao vai trò của giáo
viên trong ĐBCL giáo dục. Để làm tròn trách nhiệm xã hội của mình và thích
ứng với sự phát triển giáo dục, giáo viên phải học tập suốt đời và không
ngừng được bồi dưỡng về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp.
Hai là , nhiều tác giả ở trong và ngoài nước thống nhất quan niệm:
NLSP của giáo viên là tiêu chí cốt lõi để đánh giá chất lượng nhân lực giáo
dục, là nội dung quan trọng trong chuẩn hóa đội ngũ giáo viên theo chuẩn
nghề nghiệp. Bồi dưỡng NLSP cho giáo viên cần chú trọng đến: năng lực dạy
30
học, năng lực giáo dục, năng lực chuẩn đoán, năng lực đánh giá, năng lực tư
vấn, năng lực tiếp tục phát triển nghề nghiệp…
Ba là, ở Việt Nam đã xuất hiện xu hướng chuyển từ bồi dưỡng tập trung
sang bồi dưỡng dựa vào nhà trường, với nội dung, phương pháp, cách thức
bồi dưỡng thiết thực, sát thực tế dạy học nhằm nâng cao trình độ NLSP của
giáo viên, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay.
Bốn là, các nhà quản lý, nhà khoa học đã chỉ rõ, để quản lý có kết quả
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên, bộ máy quản lý phải dựa trên phân
tích hoạt động nghề nghiệp sư phạm, từ đó xác định chuẩn nghề nghiệp và
khung năng lực của giáo viên. Căn cứ vào đó, các chủ thể quản lý tìm hiểu
nhu cầu bồi dưỡng, xây dựng hồ sơ năng lực của giáo viên, xác định nội dung,
phương pháp, hình thức bồi dưỡng cho phù hợp.
Năm là, một số công trình khoa học đã đề cập đến mô hình bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên, trong đó nổi lên hai mô hình là: bồi dưỡng theo khả
năng cung cấp của cơ quan bồi dưỡng và bồi dưỡng định hướng nhu cầu của
người được bồi dưỡng. Ở đây, mô hình bồi dưỡng định hướng nhu cầu đã
dành được sự quan tâm cao của các nhà khoa học, nhà quản lý.
Sáu là, những công trình nghiên cứu về bồi dưỡng và quản lý bồi
dưỡng NLSP cho GVMN đã chỉ rõ: Để bồi dưỡng NLSP cho GVMN một
cách có kết quả, biện pháp quản lý cần hướng vào: Nâng cao nhận thức của
CBQL và GVMN về công tác bồi dưỡng giáo viên; xác định kế hoạch, nội
dung bồi dưỡng phù hợp với thực tế; chuẩn bị đội ngũ giảng viên, kết hợp
linh hoạt, hiệu quả các phương pháp và hình thức bồi dưỡng; thúc đẩy tự
bồi dưỡng của giáo viên, tăng cường kiểm tra đánh giá hoạt động bồi
dưỡng GVMN.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Để kế thừa và phát triển các kết quả đã đạt được của những công trình
khoa học đã công bố, đồng thời bám sát nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, tác giả
luận án này cho rằng cần phải tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
31
Một là, làm rõ khái niệm, nội dung, yếu tố tác động đến quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Đây chính là nhiệm vụ trọng yếu trong xây dựng khung lý luận của
quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp trên
cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu về bồi dưỡng, quản lý
hoạt động bồi dưỡng giáo viên đã được công bố.
Hai là, làm rõ thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Bởi vì, thực tiễn đã chỉ ra rằng việc bồi dưỡng giáo viên đòi hỏi phải
phù hợp với từng loại đối tượng, từng vùng miền, từng giai đoạn, nhưng
những nghiên cứu về bồi dưỡng giáo viên, quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên đã công bố còn ít bàn đến đối tượng GVMN ở địa bàn
miền núi phía Bắc, Việt Nam.
Ba là, luận án đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Trong các công trình nghiên cứu đã công bố có khá nhiều đề xuất về mô
hình, biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực cho giáo viên. Tuy
nhiên, mỗi công trình nghiên cứu thường nhấn mạnh một vài biện pháp phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phạm vi nghiên cứu của mình, nhưng chưa có
nghiên cứu nào đi sâu vào biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp. Luận án này sẽ
góp phần khắc phục sự thiếu hụt đó.
32
Kết luận chƣơng 1
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan vấn đề quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp đưa tới bức tranh
chung về các hướng nghiên cứu: hoạt động bồi dưỡng giáo viên và quản lý
hoạt động bồi dưỡng giáo viên. Đây là những vấn đề đã thu hút sự quan tâm
lớn của các nhà khoa học, nhà quản lý. Tùy theo quan điểm tiếp cận, mục tiêu
giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, từng công trình nghiên cứu đã đi sâu vào
những khía cạnh khác nhau của bồi dưỡng giáo viên và quản lý hoạt động bồi
dưỡng giáo viên. Nhưng xét về tổng thể, các công trình khoa học đã công bố
đều thừa nhận vai trò to lớn của bồi dưỡng NLSP cho giáo viên, đồng thời
đưa ra những quan niệm khác nhau về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình
thức bồi dưỡng NLSP, cũng như mô hình, biện pháp quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho giáo viên.
Kế thừa những thành công, đồng thời tính đến những nội dung chưa
được giải quyết thấu đáo trong các công trình khoa học đã công bố, luận án
này cần tiếp tục luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Đó là căn cứ khoa học để
luận án đề xuất biện pháp quản lý hoạt động này, qua đó góp phần nâng cao
nâng cao kết quả bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
theo chuẩn nghề nghiệp.
33
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG
NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON
THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
2.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm
cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
2.1.1. Năng lực sư phạm của giáo viên mầm non
Dựa trên những cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học, nhà quản lý
đã nêu ra những quan niệm khác nhau về năng lực của con người, chẳng hạn:
Trong cuốn Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước, tác giả
Christian Battal (2002) [16] đã cho rằng: Năng lực chuyên môn trong hoạt
động nghề nghiệp của con người bao gồm các yếu tố: kiến thức, kỹ năng và
thái độ cần thiết để họ đảm nhiệm một vị trí hoặc thực hiện một hoạt động
trong guồng máy của tổ chức. Năng lực chuyên môn của con người có được
thông qua đào tạo, bồi dưỡng và tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp.
Trong Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên và người dạy
nghề, Tổng cục dạy nghề (2011) [88] đã dẫn ra quan niệm của Tổ chức lao
động quốc tế ILO về năng lực như sau: Năng lực là sự vận dụng các kỹ năng,
kiến thức và thái độ để thực hiện các nhiệm vụ theo tiêu chuẩn công nghiệp
và thương mại dưới các điều kiện hiện hành.
Trong xã hội, mỗi lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp đều có những yêu cầu
riêng về năng lực của những người làm việc trong lĩnh vực đó. Năng lực này
được gọi là năng lực nghề nghiệp.
Tác giả Mạc Văn Trang (2016) [89] cho rằng, năng lực nghề nghiệp tạo
nên khả năng hoàn thành có kết quả những nhiệm vụ chủ yếu trong từng lĩnh
vực nghề nghiệp của con người, nó được cấu thành bởi các thành tố: thái độ
với nghề, tri thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề.
Tác giả Nguyễn Văn Tân (2011) [78] quan niệm rằng, năng lực nghề
nghiệp là những thuộc tính tâm lý, sinh lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
34
tạo nên khả năng hoàn thành một loại hoạt động nghề nghiệp xác định với
chất lượng cao.
Tác giả Lê Văn Chín (2012) [14] cho rằng, năng lực nghề nghiệp được
tạo nên bởi những thành phần chủ yếu: phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống;
kiến thức chung và kiến thức chuyên môn; kỹ năng hành nghề.
Khi bàn về NLSP của giáo viên, tác giả Trần Bá Hoành (2010) [40] cho
rằng, có thể phân chia NLSP của giáo viên thành các nhóm năng lực sau:
Năng lực chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục, dạy học;
năng lực thiết kế kế hoạch giáo dục, dạy học; năng lực tổ chức thực hiện kế
hoạch giáo dục, dạy học; năng lực giám sát, đánh giá kết quả giáo dục, dạy
học; năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giáo dục, dạy học.
Khi đề cập đến lĩnh vực GDMN, các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc,
Nguyễn Thị Tuất (1996) [55] cho rằng: GVMN phải có: năng lực quan sát,
năng lực giao tiếp, năng lực giáo dục và dạy học, năng lực quản lý, năng lực
cảm hóa, thuyết phục, lòng nhân ái, sự đôn hậu… Tất cả những yếu tố đó hòa
quyện vào nhau tạo nên NLSP của GVMN.
Theo Quy định chuẩn nghề nghiệp GVMN, ban hành kèm theo Thông tư số
26/2018/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
[10], năng lực được hiểu là khả năng thực hiện công việc, nhiệm vụ của giáo
viên, dựa trên sự nắm vững, cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, tổ chức hoạt động nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục phát triển toàn diện trẻ em theo chương trình GDMN.
Từ những quan niệm vừa được dẫn ra ở trên, ta có thể hiểu rằng: Khái
niệm “năng lực nghề nghiệp của giáo viên” rộng hơn khái niệm “năng lực sư
phạm của giáo viên”. Theo đó, năng lực nghề nghiệp của giáo viên là khả
năng huy động và vận dụng thái độ với nghề, tri thức chuyên môn, kỹ năng
hành nghề vào thực hiện có kết quả những nhiệm vụ chủ yếu trong lĩnh vực
nghề nghiệp sư phạm của mình. Vì thế giáo viên cần có những năng lực
35
chung của nghề giáo như năng lực quan sát, năng lực giao tiếp, năng lực quản
lý, năng lực cảm hóa, thuyết phục…, đồng thời có năng lực chuyên biệt về
hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Năng lực chuyên biệt vừa nêu
chính là NLSP của giáo viên. Từ đó cho phép trình bày khái niệm NLSP của
GVMN như sau:
Năng lực sư phạm của GVMN là khả năng huy động và vận dụng tổ hợp
các kiến thức, kỹ năng và thái độ của cá nhân vào hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đảm bảo cho hoạt động đó đạt tới thành công, đồng thời
thúc đẩy sự phát triển chuyên môn của bản thân giáo viên.
Như vậy, yếu tố điều kiện để GVMN có NLSP là họ phải nắm vững một
cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng chuyên môn và có thái độ chuyên
nghiệp trong nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Những yếu tố điều kiện
đó không tồn tại một cách tách rời mà hòa quyện vào nhau, thâm nhập, bổ
sung cho nhau tạo thành tổng hòa kiến thức, kỹ năng, thái độ chuyên môn của
người GVMN. Tổng hòa các yếu tố đó phải được giáo viên huy động và vận
dụng vào thực hiện có kết quả các công việc, các nhiệm vụ chuyên môn thì
mới trở thành NLSP của họ.
Năng lực sư phạm của GVMN biểu hiện trong hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ. Vì vậy có thể nói, NLSP của GVMN phải gắn với hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ và đóng góp vào sự thành công của người giáo viên trong thực
hành nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Năng lực đó được biểu hiện trên
các mặt: (1) giảng dạy, thực hành sư phạm và đánh giá trẻ; (2) xây dựng môi
trường giáo dưỡng và học tập của trẻ 3) thiết lập mối quan hệ hợp tác với gia
đình của trẻ và cộng đồng; 4) phát triển chuyên môn của bản thân.
Để đánh giá NLSP của GVMN cần dựa vào khung năng lực - đó là hệ
thống tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ được cụ thể hóa vào các hành vi cần
thiết của cá nhân ở vị trí việc làm do GVMN đảm nhiệm. Theo Văn phòng
khu vực Châu Á Thái Bình Dương (UNESCO Bangkok) và Ban Thư ký của
36
Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước trong Khu vực Đông Nam Á
(SEAMEO) [102], khung năng lực của GVMN bao gồm 7 nhóm năng lực sau:
(1) năng lực tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ; (2) năng
lực thúc đẩy/khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động theo chương trình
GDMN; (3) năng lực xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ; (4) năng lực
chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ; (5) năng lực xây dựng quan hệ
hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ trong lĩnh vực GDMN; (6) năng lực kết nối và
hợp tác với cộng đồng nhằm phát triển GDMN; (7) năng lực tự nâng cao trình
độ chuyên môn của bản thân.
Con đường hình thành và phát triển NLSP của GVMN bao gồm: quá
trình đào tạo tại trường sư phạm, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và hoạt động nghề
nghiệp tại cơ sở GDMN. Theo quan điểm “học tập suốt đời”, đào tạo tại
trường sư phạm là khâu chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, thái độ cơ bản để khi ra
trường GVMN đáp ứng được những đòi hỏi thiết yếu nhất của hoạt động nghề
nghiệp. Nhưng để không ngừng nâng cao NLSP, GVMN cần được liên tục
bồi dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn.
2.1.2. Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên mầm non
GDMN là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục ở nhiều quốc gia, có
nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi
nhằm giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học tiểu học. Vì
vậy, UNESCO đã gọi GVMN là “giáo viên trước tuổi học”, họ là những
người làm công việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhà trường,
nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. Điều đó có nghĩa là GVMN không
đơn thuần làm nhiệm vụ dạy học mà phải đồng thời tiến hành việc chăm sóc
dinh dưỡng; chăm sóc giấc ngủ; chăm sóc vệ sinh; chăm sóc sức khỏe, đảm
bảo an toàn cho trẻ và tổ chức, hướng dẫn trẻ trong các hoạt động chơi; hoạt
động học; hoạt động lao động; hoạt động ngày hội, ngày lễ. Để làm tốt các
nhiệm vụ đó, GVMN phải được đào tạo cơ bản.
37
Theo Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người của tổ chức
UNESCO năm 2007 [100], nhiều nước trên thế giới đòi hỏi trình độ đào tạo
nghề nghiệp của “giáo viên trước tuổi học” từ cao đẳng, đại học trở lên. Các
nước Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan,
Thụy Điển thường tuyển chọn những người đã tốt nghiệp trung học để đào
tạo “giáo viên trước tuổi học” trong vòng 3 năm đến 3,5 năm. Hệ thống giáo
dục Hoa kỳ yêu cầu giáo viên các trường mầm non công lập phải tốt nghiệp
đại học và có chứng chỉ đào tạo chuyên khoa về mầm non. Tây Ban Nha đòi
hỏi GVMN phải có trình độ master (thạc sĩ). Dù được đào tạo nghề nghiệp
theo chương trình nào, GVMN cũng phải đáp ứng được những yêu cầu về
phẩm chất, năng lực nghề nghiệp của người nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ em tại các cơ sở GDMN. Từ đó dẫn đến hình thành quan niệm về “chuẩn
nghề nghiệp GVMN”.
Theo Đặng Huỳnh Mai (2006), chuẩn nghề nghiệp là hệ thống các yêu
cầu, tiêu chí về năng lực nghề nghiệp của một nghề nào đó được phân loại từ
thấp đến cao [59]. Tác giả chỉ rõ rằng, dựa trên cơ sở phân tích tính chất, đặc
điểm hoạt động nghề nghiệp, chủ thể quản lý nguồn nhân lực xác định những
kiến thức, kỹ năng và thái độ người lao động phải có để giải quyết nhiệm vụ
trong lĩnh vực nghề nghiệp, từ đó xác lập chuẩn nghề nghiệp. Chuẩn nghề
nghiệp của một ngành nghề thường được phân chia theo các mức độ khác
nhau phù hợp với quá trình phát triển năng lực nghề nghiệp của người lao
động, bao gồm: (1) Những yêu cầu, tiêu chí về năng lực nghề nghiệp ban đầu,
thể hiện trong mục tiêu, yêu cầu đào tạo theo một trình độ chuyên môn nhất
định và thường được hiểu là chuẩn về trình độ đào tạo; (2) Những yêu cầu,
tiêu chí về năng lực nghề nghiệp cơ bản và nâng cao, bắt buộc người lao động
phải đạt được để hoàn thành nhiệm vụ trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình.
Theo Nguyễn Trí (2007) [91], chuẩn hóa đội ngũ giáo viên phải chuyển
từ chuẩn hóa trình độ đào tạo sang chuẩn hóa theo chuẩn nghề nghiệp cơ bản
38
và nâng cao. Như vậy có nghĩa là, chuẩn nghề nghiệp giáo viên không dừng
lại ở điều kiện cần về trình độ đào tạo của giáo viên, mà đòi hỏi giáo viên phải
đạt được điều kiện đủ về phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để thực
hiện nhiệm vụ giáo dục, dạy học tại cơ sở giáo dục.
Điều 3 của Chuẩn nghề nghiệp GVMN, ban hành kèm theo Thông tư số
26/2018/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
[10] đã chỉ rõ: Chuẩn nghề nghiệp GVMN là hệ thống phẩm chất, năng lực
mà giáo viên cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ em trong các cơ sở GDMN.
Tiếp thu những kinh nghiệm của các nước, các công trình nghiên cứu
liên quan đã được công bố và những quy định của ngành giáo dục, có thể xác
định khái niệm về chuẩn nghề nghiệp của GVMN như sau:
Chuẩn nghề nghiệp GVMN là hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí, do cơ quan
quản lý có thẩm quyền ban hành, quy định về phẩm chất, năng lực mà giáo
viên cần đạt được để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em trong các cơ sở GDMN.
Ở Việt Nam, thẩm quyền ban hành “Chuẩn nghề nghiệp GVMN” thuộc
về Bộ GD&ĐT. Mục tiêu của “Chuẩn nghề nghiệp GVMN” là làm căn cứ để
GVMN tự đánh giá và cơ sở GDMN đánh giá phẩm chất, năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ của GVMN, từ đó xây dựng và thực hiện kế hoạch tự bồi
dưỡng và bồi dưỡng giáo viên đáp ứng mục tiêu giáo dục của cơ sở GDMN,
địa phương và của ngành giáo dục.
Bên cạnh “Chuẩn nghề nghiệp GVMN” còn có “Tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp GVMN”. Đây là văn bản quy định nhiệm vụ, tiêu chuẩn về đạo
đức nghề nghiệp, về trình độ đào tạo, bồi dưỡng, về năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ gắn với chức danh nghề nghiệp GVMN theo các hạng I, II, III. Hai
văn bản này có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng được sử dụng với những
mục đích khác nhau, trong đó “Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp GVMN”
39
được sử dụng làm căn cứ để tuyển dụng, phân hạng, bổ nhiệm, xếp lương
GVMN. Vì vậy, luận án này sẽ không đi sâu phân tích về “Tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp GVMN”.
Nội dung của “Chuẩn nghề nghiệp GVMN” bao gồm 5 tiêu chuẩn, đó là:
(1) phẩm chất nhà giáo; (2)phát triển chuyên môn, nghiệp vụ; (3) xây dựng môi
trường giáo dục; (4) phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và cộng
đồng; (5)sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc), ứng dụng công nghệ thông
tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Trong mỗi tiêu chuẩn đều có những tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu
chí đều xác định cấp độ đạt được theo mức tăng dần: mức đạt, mức khá và mức
tốt. Những mức tiêu chí này được sử dụng vào đánh giá và xếp loại giáo viên,
trên cơ sở đó tổ chức lựa chọn GVMN cốt cán của cơ sở GDMN.
Chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực của GVMN tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất. Theo đó, các tiêu chuẩn, tiêu chí về phẩm chất, trình độ
kiến thức, kỹ năng, thái độ của giáo viên được quy định trong chuẩn nghề
nghiệp GVMN cần được cụ thể hóa thành khung năng lực của họ. Khung
năng lực GVMN thường đề cập tới những năng lực chủ yếu như: tổ chức quá
trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ; thúc đẩy, khuyến khích trẻ tham
gia các hoạt động theo chương trình GDMN; xây dựng môi trường giáo
dưỡng; chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ; xây dựng quan hệ hợp
tác với bố mẹ, gia đình trẻ; kết nối và hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng;
tự nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân giáo viên. Từng năng lực đó
được phân ra các mức: tốt, khá, đạt, yếu với các yêu cầu cụ thể về hiểu, vận
dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của giáo
viên. Dựa trên khung năng lực GVMN có thể xác định được bộ tiêu chí đánh
giá NLSP của họ [xem phụ lục 14]. Bộ tiêu chí này được dùng trong đánh giá
NLSP, đồng thời làm căn cứ để định hướng và tổ chức hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
40
2.1.3. Khái niệm, đặc điểm hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
2.1.3.1. Khái niệm
Đào tạo, bồi dưỡng là những khâu quan trọng nhất trong phát triển
nguồn nhân lực giáo dục. Đào tạo được hiểu là quá trình dạy học các kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp và giáo dục phẩm chất nghề nghiệp một cách có hệ
thống nhằm chuẩn bị cho người được đào tạo khả năng thích ứng với cuộc
sống và hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Có nhiều dạng
đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo
nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo... Dù kinh qua loại hình đào tạo
nào, người học cũng chỉ mới được trang bị những kiến thức và kỹ năng cốt
lõi, phù hợp với yêu cầu thiết yếu nhất về năng lực nghề nghiệp của họ trong
từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Để phát triển trong hoạt động nghề nghiệp,
người lao động cần được bồi dưỡng về phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, thái độ
nghề nghiệp, thông qua đó thực hiện yêu cầu “học suốt đời” nhằm đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của nghề nghiệp và của xã hội.
Trong nghề dạy học, giáo viên luôn phải thích ứng với sự phát triển
nhanh chóng của tri thức nhân loại, của công nghệ, cũng như với những đổi
mới về nội dung, phương pháp dạy học và những thay đổi của học sinh. Vì
vậy, bồi dưỡng giáo viên cần được thực hiện thường xuyên với nhiều hình
thức khác nhau. Theo các tác giả Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2006)
[31], đứng trên quan điểm “học suốt đời” bồi dưỡng là hình thức đào tạo tiếp
tục để bổ sung những kiến thức, kỹ năng còn thiếu, những vấn đề mới nảy
sinh của nghề nghiệp, chuyên môn nhằm làm cho con người phát triển toàn
diện và tiếp cận được với xu thế chung của xã hội hiện đại.
Thực tế đã xác nhận rằng, tùy từng cấp học, từng trình độ đào tạo, từng
giai đoạn phát triển giáo dục, yêu cầu bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức,
kỹ năng, thái độ sư phạm của giáo viên có những nội dung cụ thể khác nhau,
41
nhưng hình thức bồi dưỡng giáo viên phổ biến nhất vẫn là: bồi dưỡng tập
trung, bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ, tự bồi dưỡng. Các hình thức bồi
dưỡng này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình nâng cao phẩm chất, năng
lực sư phạm của giáo viên.
Theo tác giả Đặng Huỳnh Mai (2006) [59], để thiết thực đáp ứng đòi hỏi
của thực tiễn, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên phải nhằm làm cho
họ đạt tới tiêu chuẩn, tiêu chí đề ra trong chuẩn nghề nghiệp. Theo đó, hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho giáo viên luôn hàm ý việc bổ sung, cập nhật, nâng
cao các kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm cho họ để đáp ứng những yêu cầu
đề ra trong chuẩn nghề nghiệp.
Dựa trên những khái niệm về năng lực sư phạm của GVMN, về chuẩn
nghề nghiệp của GVMN, cũng như những quan niệm chung về bồi dưỡng
NLSP cho giáo viên vừa được nêu ra ở trên, có thể trình bày khái niệm “hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp” như sau:
Hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp là tiến
hành bổ sung, cập nhật, nâng cao tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm
để phát triển trình độ chuyên môn theo khung năng lực và nâng cao được kết
quả hoạt động nghề nghiệp của GVMN.
Như vậy, mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp là phát triển trình độ chuyên môn theo khung năng lực và
nâng cao được kết quả hoạt động nghề nghiệp của GVMN. Đây là mục tiêu
kép: vừa hướng tới làm cho trình độ chuyên môn của GVMN đáp ứng yêu cầu
của khung năng lực, vừa góp phần đảm bảo cho họ đạt được thành công hơn
trong nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Để xác định chính xác mục tiêu,
chủ thể tổ chức và tiến hành bồi dưỡng phải xuất phát từ nhu cầu khắc phục
những điểm yếu trong trình độ chuyên môn của giáo viên so với khung năng
lực, đồng thời tính đến nhu cầu phát triển GDMN ở địa phương.
42
Chủ thể tổ chức và tiến hành hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp bao gồm: các giảng viên, các chuyên gia tham gia
giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng tập trung; các CBQL, giáo viên cốt cán thực
hiện nhiệm vụ bồi dưỡng thường xuyên tại trường. Đối tượng của hoạt động
này là giáo viên tham gia các hình thức bồi dưỡng. Trong trường hợp bồi
dưỡng lẫn nhau và tự bồi dưỡng, mỗi giáo viên vừa là đối tượng, vừa là chủ
thể hoạt động bồi dưỡng NLSP.
Nội dung hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp bị chế định bởi mục tiêu khắc phục những điểm yếu trong trình độ
chuyên môn của giáo viên so với khung năng lực. Nội dung hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN bao gồm những nhóm vấn đề chính sau: (1) nhóm
nhận thức, thái độ chung của GVMN về quan điểm, chương trình giáo dục,
chức trách, nhiệm vụ của giáo viên và tổ chuyên môn; (2) nhóm kiến thức, kỹ
năng, phương pháp tiến hành chăm sóc, giáo dục trẻ và quản lý lớp học: lập
kế hoạch giáo dục, tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ, đảm bảo an toàn cho
trẻ, tổ chức các hoạt động phát triển toàn diện cho trẻ, đánh giá sự phát triển
của trẻ và quản lí nhóm, lớp học ở cơ sở GDMN; (3) nhóm kiến thức, kỹ năng
ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc (đối với GVMN ở các địa phương thuộc vùng
đồng bào DTTS); (4) nhóm các kỹ năng mềm: ứng dụng công nghệ thông tin,
khả năng tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật.
Phương pháp bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp tuân
thủ phương pháp đào tạo nghề sư phạm, nhưng được vận dụng phù hợp với
điều kiện thực tế của công tác bồi dưỡng giáo viên trong từng thời kỳ, từng
vùng miền. Trong các kỳ bồi dưỡng tập trung, phương pháp bổ sung, cập nhật
kiến thức cho GVMN thường là vận dụng các phương pháp dạy học, trong đó
chú ý đến các phương pháp dạy học tích cực như tăng cường đối thoại, nêu
vấn đề, học tập nhóm… Các phương pháp rèn luyện kỹ năng sư phạm tuân
theo quy luật hình thành kỹ năng. Theo đó, phải làm tốt các khâu: (1) Thống
43
nhất quy trình, phương thức chủ yếu thực hiện các hành động chăm sóc, giáo
dục trẻ; (2) Tổ chức cho giáo viên luyện tập thực hiện quy trình, phương thức
đó; (3) Tạo điều kiện cho giáo viên vận dụng sáng tạo các quy trình, phương
thức đã thống nhất và luyện tập vào xử lý các tình huống sư phạm; (4) Đòi hỏi
giáo viên tích lũy kinh nghiệm hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non
bằng cách ghi nhật ký công tác và đúc rút kinh nghiệm. Đối với hoạt động tự
bồi dưỡng, từng giáo viên phải vận dụng các phương pháp tự học.
Hình thức bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp bị chế
định bởi điều kiện tổ chức và sự phối hợp hoạt động giữa chủ thể bồi dưỡng
và đối tượng bồi dưỡng. Vì vậy, có thể phân chia bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho GVMN theo các hình thức chủ yếu sau: (1) Bồi dưỡng tập trung theo sự
phân cấp quản lý giáo viên, cụ thể: Bộ GD&ĐT tổ chức bồi dưỡng theo
chuyên đề cho đội ngũ GVMN cốt cán của các địa phương; sở GD&ĐT tỉnh
tổ chức bồi dưỡng theo chuyên đề cho đội ngũ GVMN cốt cán của các
trường; phòng GD&ĐT huyện tổ chức bồi dưỡng theo chuyên đề cho giáo
viên ở các cụm trường. (2) Bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ được thực hiện
tại từng cơ sở GDMN bằng các hình thức cụ thể như: học tập các chuyên đề
theo hướng dẫn của trên, thảo luận và luyện tập các bài tập tình huống sư
phạm, dự giờ, rút kinh nghiệm và thăm quan thực tế. (3) Tự bồi dưỡng bằng
nghiên cứu tài liệu, băng hình, học từ xa qua mạng internet, ghi chép nhật ký
hoạt động chuyên môn và đúc rút kinh nghiệm…
2.1.3.2. Đặc điểm
Một là, trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp, đối tượng bồi dưỡng thường có sự phân hóa.
Cơ cấu xã hội của đội ngũ GVMN khá đa dạng. Xét theo trình độ đào
tạo, GVMN thường có từ 2 đến 3 nhóm như sau: nhóm vượt chuẩn (có trình
độ đại học, sau đại học), nhóm đạt chuẩn (có trình độ cao đẳng), nhóm chưa
đạt chuẩn. Xét theo kinh nghiệm hoạt động giáo dục mầm non, GVMN
44
thường bao gồm các nhóm: giáo viên cốt cán, giáo viên đã thích nghi nghề
nghiệp, giáo viên mới. Xét theo kết quả đánh giá, phân loại giáo viên, GVMN
bao gồm những người đạt chuẩn nghề nghiệp GVMN ở các mức: tốt, khá, đạt
và chưa đạt. Để đảm bảo tính sát đối tượng, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp phải tính đến sự phân hóa về đối tượng bồi
dưỡng như vừa nêu trên.
Hai là, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
tồn tại trong mối quan hệ thống nhất giữa đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo quan điểm “học suốt đời”, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi
dưỡng GVMN là một hệ thống mở, thống nhất, trong đó đào tạo là chuẩn bị
phẩm chất, năng lực ban đầu để giáo viên có thể đảm nhiệm được công việc
chuyên môn, nghiệp vụ của mình tại cơ sở GDMN. Để đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội và nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp, GVMN phải
được tiếp tục được bồi dưỡng, tự bồi dưỡng về NLSP. Vì vậy, hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp được xem là khâu kế tiếp
của đào tạo ban đầu, việc lựa chọn chương trình, nội dung bồi dưỡng phải đáp
ứng yêu cầu bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm
cho giáo viên, hạn chế trùng lặp với chương trình, nội dung giáo viên đã được
đào tạo. Bên cạnh đó, tự bồi dưỡng diễn ra đồng thời với bồi dưỡng, hai hoạt
động này bổ sung cho nhau, phát huy kết quả của nhau trong quá trình phát
triển chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN. Do đó, các chủ thể quản lý phải
quan tâm kết hợp giữa bồi dưỡng và tự bồi dưỡng về NLSP cho GVMN.
Ba là, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
được tổ chức theo chu kỳ.
Sở dĩ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
được tổ chức theo chu kỳ là do hoạt động này có quan hệ mật thiết với việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên, cũng như với kế
45
hoạch phát triển giáo dục từng giai đoạn. Bên cạnh đó, chương trình bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp thường có nhiều mô-đun
kiến thức, kỹ năng khác nhau, đòi hỏi phải được triển khai thực hiện trong
một khoảng thời gian tương đối dài.
Ở Việt Nam, từ năm 1992 đến nay, hàng năm Bộ GD&ĐT đã tổ chức
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho GVMN và giáo viên phổ thông theo
chu kỳ 5 năm [44]. Qua mỗi chu kỳ bồi dưỡng, chương trình, nội dung,
phương thức bồi dưỡng giáo viên đều có sự phát triển phù hợp với đòi hỏi của
hoạt động thực tiễn và những tiến bộ của khoa học giáo dục, do đó đã tác
động tích cực tới kết quả bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
Bốn là, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
thường được thực hiện theo các mô hình: bồi dưỡng theo khả năng cung cấp
của cơ quan bồi dưỡng; bồi dưỡng định hướng nhu cầu của GVMN.
Theo Ponomarev O.N. (2012), lựa chọn mô hình bồi dưỡng năng lực
nghề nghiệp cho giáo viên là một trong những nhiệm vụ khó khăn [120]. Nếu
dựa vào chủ thể tổ chức và tiến hành các tác động bổ sung, cập nhật, nâng cao
kiến thức cho giáo viên để xác lập mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội
dung, phương pháp… bồi dưỡng thì sẽ có mô hình bồi dưỡng theo khả năng
cung cấp của cơ quan bồi dưỡng. Mô hình này có ưu điểm là phát huy được
tính chủ động của cơ quan quản lý, đảm bảo huy động có hiệu quả các nguồn
lực để tổ chức hoạt động bồi dưỡng giáo viên, nhưng có nhược điểm là không
thể hiện được nguyên tắc lấy người được bồi dưỡng làm trung tâm, dẫn đến
làm giảm tính thiết thực, hiệu quả của bồi dưỡng. Nếu dựa vào đối tượng tác
động của hoạt động bồi dưỡng để xác lập mục tiêu, kế hoạch, chương trình,
nội dung, phương pháp… bồi dưỡng thì sẽ có mô hình bồi dưỡng định hướng
nhu cầu của người được bồi dưỡng. Ưu điểm của mô hình này là đảm bảo tính
cần thiết, sát đối tượng của hoạt động bồi dưỡng, nhưng có thể hạn chế tính
khả thi của các biện pháp bồi dưỡng do chưa tính đến đầy đủ khả năng của cơ
46
quan bồi dưỡng. Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam việc lựa chọn mô hình
bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên thường thiên về bồi dưỡng
định hướng nhu cầu của người được bồi dưỡng.
Năm là, bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp đang diễn
ra xu hướng chuyển từ bồi dưỡng tập trung là chủ yếu sang bồi dưỡng dựa
vào nhà trường là chủ yếu.
Tác giả Nguyễn Thị Bình (2013) trong đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu
đề xuất các biện pháp cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên phổ
thông” [7] và tác giả Nguyễn Hoài Thu (2014), trong các nghiên cứu theo đề
tài cấp Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam “Thực trạng công tác bồi dưỡng
cho giáo viên dạy ở các trung tâm giáo dục thường xuyên” [80] đều có chung
nhận xét hoạt động bồi dưỡng giáo viên đang diễn ra xu hướng chuyển từ bồi
dưỡng tập trung là chủ yếu sang bồi dưỡng dựa vào nhà trường là chủ yếu.
Hiện nay, chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN đã được định
hình; trình độ đào tạo của giáo viên, CBQL ở cơ sở GDMN được nâng cao,
đội ngũ giáo viên cốt cán đông đảo hơn, đủ sức thực hiện giáo viên bồi dưỡng
lẫn nhau; hình thức học tập từ xa (qua mạng Internet) được tăng cường...
Những yếu tố đó đã tạo điều kiện cho chuyển từ bồi dưỡng tập trung sang bồi
dưỡng dựa vào nhà trường.
Những đặc điểm của hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp như vừa nêu cần được tính đến trong quản lý hoạt động này.
2.2. Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động bồi dƣỡng năng lực
sƣ phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
2.2.1. Khái niệm quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
2.2.1.1. Quản lý bồi dưỡng giáo viên
Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003) ghi rõ: “Quản lý là chức năng và
hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ
47
thuật, xã hội,...), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự
hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ
thống đó” [92, tr. 580].
Giáo dục là một lĩnh vực hoạt động có sự tham gia rất rộng lớn của các
thành viên xã hội, vì vậy cần được quản lý một cách chặt chẽ, khoa học.
QLGD là một hoạt động có chủ đích, có định hướng được tiến hành bởi cơ
quan quản lý, CBQL giáo dục, tác động đến các đơn vị và các cá nhân thuộc
quyền để thực hiện các mục tiêu QLGD.
Theo tác giả Trần Kiểm (2016) [48]:
“QLGD trước hết và thực chất là quản lý con người… Do đặc thù
của ngành giáo dục, quản lý con người còn có nghĩa là đào tạo,
bồi dưỡng, chăm sóc con người, tạo điều kiện cho họ thực hiện
vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình,
phát triển nghề nghiệp của họ để họ làm tròn trách nhiệm xã hội
vì sự phát triển xã hội và phát triển bản thân” [48, tr. 15].
Từ đó có thể nói rằng, quản lý bồi dưỡng giáo viên là sự tác động có
mục đích, có tổ chức của các chủ thể quản lý đến hoạt động bồi dưỡng, đảm
bảo từng bước nâng cao được trình độ kiến thức, kỹ năng, thái độ của giáo
viên, đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đội ngũ giáo viên trong quá trình
phát triển giáo dục.
Để quản lý bồi dưỡng giáo viên, các chủ thể quản lý phải: (1) xác định
mục tiêu, kế hoạch bồi dưỡng, trên cơ sở dự kiến được kết quả phải đạt được
sau quá trình bồi dưỡng, đồng thời định ra hệ thống các công việc và trình tự
triển khai chúng; (2) tổ chức lực lượng tiến hành bồi dưỡng, trước hết là:đội
ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia giảng dạy và đối tượng giáo viên được
triệu tập dự các lớp bồi dưỡng; (3) chỉ đạo, điều hành thực hiện nội dung,
phương pháp và các điều kiện đảm bảo bồi dưỡng; (4) kiểm tra, đánh giá kết
quả bồi dưỡng. Bốn khâu vừa nêu thực chất là sự cụ thể hóa các chức năng
QLGD vào trong quá trình quản lý bồi dưỡng giáo viên.
48
2.2.1.2. Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Trong cuốn Những vấn đề cốt yếu của quản lý , H.Koontz, C.Odonnell
và H.Weihrich (1994) [49] đã nêu ra định nghĩa: Quản lý là thiết kế một môi
trường mà trong đó con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm có thể
hoàn thành mục tiêu, nó còn là hoạt động thiết yếu của nhà quản lý đảm bảo
sự phối hợp, sự nỗ lực của mỗi cá nhân trong tổ chức nhằm đạt đến một mục
tiêu nhất định trong những điều kiện thời gian, công sức và kinh phí bỏ ra ít
nhất nhưng hiệu quả cao nhất.
Tác giả Phạm Viết Vượng (2010) trong cuốn Quản lý hành chính nhà
nước và quản lí ngành giáo dục đào tạo [104] cho rằng: Quản lý là sự tác
động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều
hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
Theo Nguyễn Thị Tuyết (2017) [98], quản lý bồi dưỡng năng lực dạy
học cho giáo viên là quá trình tác động có hướng đích, có tổ chức từ chủ thể
đến khách thể quản lý bằng hệ thống nguyên tắc, luật lệ, chính sách, phương
pháp, giải pháp nhằm hoàn thiện kết quả đào tạo cơ bản, nâng cao trình độ tri
thức, kỹ năng sư phạm và kết quả công việc chuyên môn, đáp ứng yêu cầu
của chuẩn nghề nghiệp của giáo viên và sự phát triển giáo dục.
Tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai (2015) trong luận án tiến sĩ Phát triển đội
ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi các tỉnh Tây
Nguyên [61] cho rằng: Để phát triển đội ngũ GVMN, quản lý đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ này phải hướng vào giải quyết những vấn đề trọng yếu như:
Nâng chuẩn trình độ đào tạo; thực hiện bồi dưỡng theo các yêu cầu của chuẩn
nghề nghiệp GVMN; đẩy mạnh bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng theo các
chuyên đề và bồi dưỡng kỹ năng sử dụng tiếng dân tộc.
49
Những quan niệm của các tác giả vừa được dẫn ra ở trên có thể vận dụng
vào xây dựng khái niệm về quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp. Điểm cốt lõi để phân biệt quản lý bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp với các quá trình QLGD khác là ở chỗ nó
được hướng đích bởi yêu cầu nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, thái độ
của giáo viên, đáp ứng yêu cầu của khung năng lực GVMN.
Với cách tiếp cận vấn đề như vừa nêu, có thể quan niệm rằng: Quản lý
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp là những tác
động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể QLGD đến hoạt động bổ sung,
cập nhật, nâng cao tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm để phát triển
trình độ chuyên môn theo khung năng lực và nâng cao được kết quả hoạt
động nghề nghiệp của GVMN.
Như vậy, mục tiêu của quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp là phát huy nỗ lực và phối hợp hành động của các tổ
chức và cá nhân trong hệ thống giáo dục để thực hiện bổ sung, cập nhật, nâng
cao tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm nhằm phát triển trình độ
chuyên môn theo khung năng lực và nâng cao được kết quả hoạt động nghề
nghiệp của GVMN.
Chủ thể quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp bao gồm cơ quan quản lý và CBQL các cấp. Theo quy định của
pháp luật, bộ trưởng Bộ GD&ĐT; giám đốc sở GD&ĐT tỉnh, thành phố;
trưởng phòng GD&ĐT quận, huyện, hiệu trưởng các trường là người chịu
trách nhiệm xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo theo phạm vi quyền hạn
của mình. Đây là những chủ thể chính quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Đối tượng chịu sự tác động từ các chủ thể quản lý, trước hết là nhân lực
tham gia hoạt động bồi dưỡng, bao gồm: (1) Các tổ chức và cá nhân tham gia
biên soạn chương trình, tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và
50
đội ngũ chuyên gia, giảng viên giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng tập trung; (2)
Cán bộ và giáo viên cốt cán của trường mầm non - những người có trách
nhiệm bồi dưỡng đồng nghiệp tại cơ sở giáo dục; (3) Đội ngũ GVMN - những
người vừa là đối tượng bồi dưỡng, vừa là chủ thể hoạt động tự bồi dưỡng.
Cùng với đó, các chủ thể quản lý đồng thời tác động đến các yếu tố cấu thành
khác của hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
như: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng, các nguồn lực
cần huy động trong hoạt động này…
Những nhiệm vụ chủ yếu của quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp: (1) xác định được nhu cầu bồi dưỡng trên cơ sở
đánh giá NLSP hiện có của giáo viên theo khung năng lực; (2) xây dựng mục
tiêu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng sát với nhu cầu bồi dưỡng; (3) tổ chức
lực lượng tiến hành bồi dưỡng; (4) chỉ đạo nội dung, phương pháp, hình thức bồi
dưỡng; (5) đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho HĐBD; (6) kiểm tra, đánh giá
kết quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Kết quả của quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp thể hiện ở chỗ: đảm bảo bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức,
kỹ năng, thái độ sư phạm của giáo viên đáp ứng yêu cầu của khung năng lực
GVMN. Nói cách khác, chất lượng, hiệu quả của quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp được minh chứng bằng sự tiến bộ
về trình độ chuyên môn theo khung năng lực.
2.2.2. Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Việc xác định nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp dựa trên quan điểm tiếp cận hoạt động. Theo đó,
những nội dung quản lý vừa phải bám sát những yếu tố cấu thành hoạt động,
vừa tính đến những hình thức tổ chức hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp. Vì vậy, quản lý hoạt động này cần tập trung vào
những nội dung sau:
51
2.2.2.1. Tổ chức xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp, việc xác định đúng đắn mục tiêu, yêu cầu của hoạt động có ý nghĩa rất
quan trọng. Bởi vì nó đảm bảo tính hướng đích rõ ràng của mọi nỗ lực bổ
sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng và hoàn thiện thái độ lao động sư
phạm của giáo viên trong tất cả các hoạt động bồi dưỡng. Để tổ chức xác lập
mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp, các chủ thể quản lý phải tiến hành như sau:
Một là, tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa
trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành.
Đây là công việc có ý nghĩa tạo công cụ để tổ chức tự đánh giá và đánh
giá năng lực hiện có của GVMN. Để xây dựng bộ tiêu chí này, chủ thể quản
lý cần nắm vững những tiêu chuẩn, tiêu chí, mức đánh giá đã được quy định
trong chuẩn nghề nghiệp, đối chiếu với khung năng lực đã được cấp quản lý
có thẩm quyền ban hành và những khuyến nghị của Văn phòng khu vực Châu
Á Thái Bình Dương (UNESCO Bangkok) và Ban Thư ký của Tổ chức Bộ
trưởng Giáo dục các nước trong Khu vực Đông Nam Á (SEAMEO) về khung
năng lực của GVMN. Theo đó, bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN phải
bao hàm các tiêu chí đánh giá ở các mức độ tốt, khá, đạt về các năng lực cốt
lõi sau: (1) năng lực tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ;
(2) năng lực thúc đẩy/khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động theo chương
trình GDMN; (3) năng lực xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ; (4) năng
lực chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ; (5) năng lực xây dựng quan
hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ trong lĩnh vực GDMN; (6) năng lực kết nối
và hợp tác với cộng đồng nhằm phát triển GDMN; (7) năng lực tự nâng cao
trình độ chuyên môn của bản thân.
52
Hai là, tổ chức thu thập, tổng hợp thông tin về nhu cầu bồi dưỡng NLSP
cho GVMN.
Theo đó, các cơ quan quản lý, CBQL theo chức năng, nhiệm vụ được giao
tiến hành tổng hợp các báo cáo về: chất lượng đội ngũ GVMN, kết quả thanh tra
giáo dục, đánh giá, phân loại năng lực của giáo viên theo bộ tiêu chí đánh giá
NLSP, từ đó rút ra nhận định chung về những yếu kém, thiếu hụt trong NLSP
của từng loại đối tượng GVMN cần được bồi dưỡng. Bên cạnh đó, sở, phòng
GD&ĐT theo phân cấp quản lý tổ chức khảo sát một số cơ sở GDMN về nhu
cầu nguyện vọng của CBQL, của giáo viên có kinh nghiệm, của giáo viên đang
trong giai đoạn thích nghi nghề nghiệp về bồi dưỡng NLSP cho giáo viên. Từ
đó, các bộ phận chuyên trách quản lý về công tác bồi dưỡng giáo viên phân tích
những thông tin thu được từ các “kênh” vừa nêu để làm rõ nhu cầu bồi dưỡng
NLSP của từng loại GVMN thuộc phạm vi quản lý của mình.
Ba là, xác lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo từng loại đối tượng bồi dưỡng.
Trong khi thực hiện nội dung này, các chủ thể quản lý căn cứ vào nhu
cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN đã được tổng hợp và điều kiện thực tế của
GDMN tại địa phương đề ra mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng cho các nhóm đối
tượng bồi dưỡng như sau: giáo viên cốt cán; giáo viên đã thích nghi nghề
nghiệp và giáo viên mới vào nghề. Việc đề ra mục tiêu, yêu cầu cụ thể cho
từng loại đối tượng bồi dưỡng sẽ góp phần đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả
của hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
2.2.2.2. Tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Quản lý hoạt động của một hệ thống tổ chức tất yếu phải bằng kế hoạch,
vì vậy nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp phải bao hàm việc xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng
giáo viên ở tất cả các cấp quản lý. Theo đó, giám đốc sở GD&ĐT tỉnh, thành
53
phố; trưởng phòng GD&ĐT quận, huyện, hiệu trưởng các trường có trách
nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho
GVMN trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình. Để làm tốt nhiệm vụ
này, các chủ thể quản lý phải tập trung giải quyết một số khâu chủ yếu sau:
Một là, cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng thường xuyên của Bộ
GD&ĐT vào chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các địa phương.
Tùy từng giai đoạn phát triển GDMN, Bộ GD&ĐT ban hành chương
trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN với những nội dung nhất định. Đây là
căn cứ để quản lý, chỉ đạo, tổ chức và biên soạn tài liệu phục vụ công tác bồi
dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của
GVMN, đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, nâng cao mức độ đáp ứng của
GVMN với yêu cầu phát triển GDMN và yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp
GVMN. Thông thường, chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN do Bộ
GD&ĐT ban hành là một chương trình mở, mềm dẻo, đòi hỏi từng địa
phương phải cụ thể hóa và vận dụng linh hoạt. Làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề
thuận lợi cho việc lập kế hoạch bồi dưỡng GVMN.
Hai là, thực hiện phân cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Theo đó, kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
của cấp tỉnh phải đi trước một bước để định hướng cho kế hoạch của cấp
huyện và cơ sở GDMN. Trên cơ sở kế hoạch của cấp tỉnh, phòng GD&ĐT
huyện xây dựng kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho giáo viên của mình và chỉ đạo
các cơ sở GDMN quán triệt và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Yêu cầu chung của kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở tất cả các
cấp quản lý là phải đảm bảo kế hoạch đó có sự nhất quán với quy hoạch và kế
hoạch phát triển đội ngũ giáo viên cả dài hạn, trung hạn, hàng năm, đồng thời
đảm bảo tính kế thừa liên tục theo hướng nâng cao dần từng bước NLSP của
giáo viên. Vì vậy, việc phân cấp xây dựng kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho
54
GVMN phải gắn với phân định trách nhiệm bồi dưỡng từng loại đối tượng
cán bộ, giáo viên: CBQL cơ sở GDMN; giáo viên cốt cán; giáo viên đã thích
nghi nghề nghiệp và giáo viên mới vào nghề…
Kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN chỉ thực sự có tác dụng khi nó
thấm sâu vào nhận thức và trách nhiệm của CBQL giáo dục các cấp và đông đảo
giáo viên. Vì vậy, chủ thể QLGD theo thẩm quyền của từng cấp phải thực hiện
nghiêm nhiệm vụ quán triệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đã được thông qua.
Ba là, chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu,
kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP.
Bên cạnh bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ, hoạt
động tự bồi dưỡng có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển NLSP của GVMN.
Thông qua tự học, tự bồi dưỡng, giáo viên hệ thống hóa được các kiến thức,
kỹ năng đã lĩnh hội qua đào tạo và bồi dưỡng tập trung và hình thành khả
năng vận dụng chúng vào thực tế công tác. Vì vậy, trong nội dung quản lý kế
hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN không được xem nhẹ việc tổ chức cho
giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng.
2.2.2.3. Tổ chức nhân lực tham gia hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên mầm non
Đây là khâu quản lý nhân lực trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, nó thể hiện chức năng tổ chức trong QLGD.
Có nhiều nguồn nhân lực mà các chủ thể quản lý phải huy động và tổ chức
hoạt động trong quá trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN, nhưng trước hết cần
hướng tới 3 nhóm nhân lực chính sau đây.
Một là, tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp.
Lực lượng này là những chuyên gia, giảng viên về lĩnh vực sư phạm
mầm non, tâm lý học, giáo dục học hiện đang công tác tại các trường sư
phạm, trường cao đẳng cộng đồng thuộc phạm vi quản lý của sở GD&ĐT
55
tỉnh, thành phố. Căn cứ theo các mô-đun bồi dưỡng NLSP cho GVMN và
thực lực đội ngũ chuyên gia, giảng viên, giám đốc sở GD&ĐT quyết định các
ban biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo các khối kiến thức, kỹ năng, trong đó có
cả các tài liệu sư phạm thực hành. Quy trình hợp đồng biên soạn, tổ chức
thẩm định, phản biện, nghiệm thu… các tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN
được thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Hai là, tổ chức, điều hành lực lượng giảng viên, báo cáo viên tiến hành
các HĐBD tập trung cho GVMN.
Ở nội dung quản lý này, giám đốc sở GD&ĐT có trách nhiệm chỉ đạo
các phòng chức năng phối hợp với Trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm và
Trường Cao đẳng Cộng đồng có Khoa Sư phạm mầm non lựa chọn những cán
bộ, giảng viên tham gia giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng tập trung. Lực lượng
cán bộ, giảng viên này không chỉ giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng do sở
GD&ĐT quản lý, mà còn được điều động tới giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
do các phòng GD&ĐT quản lý. Làm được như vậy sẽ đảm bảo bồi dưỡng
giáo viên tập trung thực sự là đào tạo tiếp tục cho giáo viên theo các mô-đun
kiến thức, kỹ năng có tính bổ sung, cập nhật, nâng cao, qua đó góp phần nâng
cao chất lượng bồi dưỡng.
Ba là, tổ chức các tổ, lớp bồi dưỡng phù hợp với mục tiêu, yêu cầu,
chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định.
Trong đào tạo, bồi dưỡng, yêu cầu đảm bảo tính sát đối tượng hết sức
quan trọng, vì vậy phải không nên và không thể tổ chức bồi dưỡng mang tính
chất “đại trà” cho mọi giáo viên về các kiến thức, kỹ năng sư phạm. Vì lẽ đó,
giám đốc sở GD&ĐT có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng, các
phòng GD&ĐT tiến hành phân loại đối tượng bồi dưỡng theo các loại sau:
CBQL cơ sở GDMN, giáo viên cốt cán, giáo viên bồi dưỡng nâng cao, giáo
viên mới. Dựa trên kết quả phân loại đó, sở GD&ĐT trực tiếp quản lý các lớp
bồi dưỡng tập trung CBQL cơ sở GDMN, giáo viên cốt cán, đồng thời giao
nhiệm vụ cho các phòng GD&ĐT quản lý các lớp bồi dưỡng còn lại. Theo đó,
56
từng phòng GD&ĐT căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch
bồi dưỡng để đề ra tiêu chí lựa chọn đối tượng bồi dưỡng và phân bổ chỉ tiêu
cử người dự bồi dưỡng cho các cơ sở GDMN. Trên cơ sở đó, phòng GD&ĐT
tiến hành biên chế đối tượng bồi dưỡng thành các tổ, lớp cho phù hợp với
mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định.
2.2.2.4. Chỉ đạo thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức và phương
tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
Nội dung quản lý này hướng vào chỉ đạo thực hiện những khâu trọng
yếu của quá trình dạy học tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại địa
phương. Để hoạt động dạy học tại các lớp bồi dưỡng thiết thực đáp ứng yêu
cầu bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ của GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp, các chủ thể quản lý cần chỉ đạo cụ thể như sau:
Một là, chỉ đạo đổi mới nội dung bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu
phát triển năng lực người được bồi dưỡng.
Bồi dưỡng NLSP cho GVMN, trước hết phải hướng vào bổ sung, cập
nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm mà giáo viên còn thiếu hụt so
với khung năng lực. Vì vậy, yêu cầu chung của chỉ đạo đổi mới nội dung bồi
dưỡng GVMN là: (1) đảm bảo nội dung bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức,
kỹ năng, thái độ đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GVMN; (2) tăng tính
mới mẻ, sáng tạo trong nội dung bồi dưỡng, tránh sự trùng lặp với kiến thức,
kinh nghiệm đã có của người được bồi dưỡng; (3) sát thực tiễn GDMN của địa
phương, thực hiện tốt gắn lý luận với thực tiễn; (4) thiết thực hướng dẫn hành
động theo khung năng lực của GVMN. Để đạt được yêu cầu đó, các chủ thể
quản lý phải đòi hỏi và tạo điều kiện cho giảng viên, báo cáo viên chuẩn bị và
thông qua nội dung giảng dạy theo một quy trình chặt chẽ, nghiêm túc.
Hai là, chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, tăng cường
các hình thức thảo luận, thực hành… trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Các lớp, các đợt bồi dưỡng tập trung về NLSP cho GVMN thường diễn
ra trong một khoảng thời gian không dài, nhưng luôn đòi hỏi tạo được sự tiến
57
bộ rõ nét trong năng lực của người được bồi dưỡng. Vì vậy, dạy học trong bồi
dưỡng giáo viên tất yếu phải theo hướng phát triển năng lực người được bồi
dưỡng. Theo đó, HĐBD không thể dừng lại ở trang bị kiến thức, kỹ năng cho
giáo viên, mà đòi hỏi nâng trình độ vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết
một cách sáng tạo các nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ em. Từ đó dẫn đến yêu
cầu là: các chủ thể quản lý phải chỉ đạo các lực lượng tham gia bồi dưỡng vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực, tăng cường các hình thức thảo luận,
thực hành… Nói như vậy có nghĩa là, cả người bồi dưỡng và người được bồi
dưỡng cùng hợp tác để thực hiện các phương pháp nêu vấn đề, đối thoại, học
tập nhóm trong các buổi học và tích cực tham gia thảo luận, thực hành.
Ba là, đảm bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật trong hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
Đây là một nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp không thể bị xem nhẹ. Bởi vì muốn tăng cường vận
dụng phương pháp dạy học tích cực thì người bồi dưỡng và người được bồi
dưỡng đều cần tới sự hỗ trợ của phương tiện dạy học tiên tiến, trước hết là
phương tiện nghe, nhìn, hệ thống mạng và một số phần mềm dạy học… Điều
đó đòi hỏi các chủ thể QLGD phải tính đến các nguồn lực tài chính, vật chất -
kỹ thuật phục vụ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
2.2.2.5. Tổ chức mở rộng hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non dựa vào nhà trường
Các tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai và Ngô Quang Sơn (2014) [60] cho
rằng: bồi dưỡng tại trường và tự bồi dưỡng của giáo viên là những hình thức
bồi dưỡng chưa được thực hiện có nền nếp và kém hiệu quả. Theo tác giả
Nguyễn Hoài Thu (2014) [80], để hoạt động bồi dưỡng giáo viên trở nên thiết
thực, sát thực tế hơn, tất yếu phải chuyển từ bồi dưỡng tập trung là chủ yếu
sang bồi dưỡng dựa vào nhà trường là chủ yếu. Vì vậy mở rộng hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN dựa vào nhà trường là một nội dung quản lý cần
58
được tính đến. Để làm việc đó, các chủ thể quản lý, trước hết, cần tập trung
vào một số khâu sau:
Một là, chỉ đạo các cơ sở GDMN tích cực, chủ động, thống nhất trong tổ
chức cho giáo viên nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên đề chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm.
Công việc này, trước hết, thuộc trách nhiệm của các phòng GD&ĐT.
Theo đó, cán bộ chuyên trách theo dõi công tác bồi dưỡng GVMN phải căn
cứ vào các mô-đun bồi dưỡng nhằm phát triển NLSP được nêu trong Chương
trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN của Bộ GD&ĐT và nhu cầu bồi dưỡng
giáo viên tại địa phương để đề xuất danh mục các chuyên đề nghiên cứu, học
tập, thảo luận dành cho giáo viên tại cơ sở GDMN. Danh mục đó phải bao
hàm những chuyên đề bắt buộc và tự chọn. Sau khi xem xét những đề xuất
của cán bộ chuyên trách, trưởng phòng GD&ĐT huyện quyết định ban hành
danh mục chuyên đề nghiên cứu, học tập, thảo luận của giáo viên tại trường
mầm non theo từng năm. Đến lượt mình, hiệu trưởng trường mầm non phải
xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên đó. Việc tổ
chức thực hiện kế hoạch này có thể thực hiện theo từng đợt sinh hoạt chuyên
môn ngắn với những chủ điểm nhất định. Việc bố trí lịch học tập, thảo luận;
mời báo viên hoặc phân công giáo viên cốt cán hướng dẫn học tập; tổ chức
các tổ học tập, thảo luận; đảm bảo tài liệu học tập, nghiên cứu... do hiệu
trưởng quyết định.
Hai là, chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ,
nhóm giáo viên ở trường mầm non.
Ở đây, các sinh hoạt chuyên môn được diễn ra hàng ngày như: tổ chức
kiến tập, dự giờ, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức hội giảng, hội thi, tổ chức sinh
hoạt chuyên môn hàng tuần. Để nâng chất lượng các sinh hoạt này, hiệu
trưởng phải chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn và giáo viên cốt cán chuẩn bị chu
đáo kế hoạch, nội dung, phương pháp tiến hành từng buổi sinh hoạt chuyên
59
môn đó, đồng thời biết phát huy dân chủ ở cơ sở để giáo viên đóng góp những
ý kiến giúp đỡ lẫn nhau phát triển trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Kết thúc
từng buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn phải kết luận được
những vấn đề về kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm mà giáo viên cần vận
dụng trong thực tiễn chăm sóc, giáo dục trẻ em. Làm được như vậy, các sinh
hoạt chuyên môn tại trường mầm non sẽ thực sự trở thành một hình thức bồi
dưỡng NLSP cho giáo viên có hiệu quả.
Ba là, tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau về ứng dụng công nghệ
thông tin, tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc.
Đây là những khối kiến thức, kỹ năng mà hầu hết GVMN đã được đào
tạo tại trường sư phạm, nhưng trình độ của họ không đồng đều do nhiều lý do
khác nhau. Để khắc phục tình trạng đó, trường mầm non phải tổ chức cho
giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau trong hoạt động thực tiễn tại trường, tại từng tổ,
nhóm chuyên môn. Trách nhiệm của ban giám hiệu trường mầm non là chỉ
đạo các tổ, nhóm chuyên môn tiến hành tổ chức cho giáo viên kèm cặp, giúp
đỡ nhau phát triển các kỹ năng mềm như: ứng dụng công nghệ thông tin, tạo
hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, cũng như dạy học ngoại ngữ và tiếng
dân tộc. Đến lượt mình, các tổ trưởng chuyên môn phân công những giáo viên
có trình độ, có năng khiếu về từng kỹ năng mềm nêu trên hướng dẫn, giúp đỡ
các giáo viên khác rèn luyện kỹ năng. Đối với các trường mầm non ở vùng
đồng bào dân tộc, nhà trường có thể tổ chức lớp học tiếng dân tộc hoặc phân
công những giáo viên người dân tộc hướng dẫn đồng nghiệp nâng trình độ
tiếng dân tộc. Như vậy có thể nói trọng tâm của quản lý bồi dưỡng kỹ năng
mềm, tiếng dân tộc là tổ chức bồi dưỡng lẫn nhau giữa các giáo viên.
Bốn là, đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn luyện,
tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm.
Vấn đề đặt ra ở đây là, quản lý hoạt động tự bồi dưỡng năng lực của
GVMN không được “thả nổi” để mỗi người tự làm, không đôn đốc, không
60
kiểm soát mà phải sử dụng sức mạnh của tổ chức để thúc đẩy động cơ tự học
tập, tự rèn luyện, đồng thời tạo những điều kiện về tài liệu học tập, về tổ chức
trao đổi kinh nghiệm học tập giữa các giáo viên; thường xuyên theo dõi, đôn
đốc việc thực hiện các nội dung, phương pháp tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc
rút kinh nghiệm của giáo viên. Các chủ thể quản lý, trước hết là hiệu trưởng,
tổ trưởng chuyên môn làm tốt nội dung quản lý tự học tập, tự rèn luyện của
giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ sẽ góp phần rất quan trọng vào bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
2.2.2.6. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Kiểm tra, đánh giá là một trong những chức năng QLGD, vì vậy quản lý
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp không thể
thiếu nội dung kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động này. Để thực hiện nội
dung quản lý “Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp” các chủ thể QLGD phải tập trung giải quyết
các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Theo phân cấp quản lý HĐBD giáo viên, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo
các cơ quan chức năng kiểm tra, đánh giá toàn bộ các bước chuẩn bị và tiến
hành các đợt, các lớp bồi dưỡng tập trung do cấp sở tổ chức, đồng thời tổ
chức thanh tra, kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các huyện
và tương đương. Đến lượt mình, các phòng GD&ĐT huyện và tương đương
kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại các đợt, các lớp
bồi dưỡng tập trung do cấp phòng tổ chức và bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ
của các trường.
Việc kiểm tra, đánh giá HĐBD tập trung ở cả cấp sở và cấp phòng
GD&ĐT cần hướng vào chất lượng “đầu vào”, “quá trình” và “đầu ra” của
61
từng đợt, từng lớp bồi dưỡng. Theo đó cần làm rõ các vấn đề: (1) đối tượng
bồi dưỡng được triệu tập; (2) khả năng và sự chuẩn bị của giảng viên, báo cáo
viên; (3) chương trình, kế hoạch bồi dưỡng; (4) nội dung, phương pháp, hình
thức bồi dưỡng;(5) đảm bảo tài liệu bồi dưỡng; (6) trang thiết bị, phương tiện
dùng trong bồi dưỡng; (7) kỷ luật, nền nếp hoạt động của lớp bồi dưỡng; (8)
hệ thống đánh giá kết quả bồi dưỡng; (9) sự hài lòng của người được bồi
dưỡng; (10) tác động của bồi dưỡng đến sự tiến bộ của giáo viên và chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường. Làm được điều đó, các cơ
quan QLGD sẽ tác động tích cực đến ĐBCL bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Hai là, thực hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với
đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Khác với các đợt, các lớp bồi dưỡng tập trung, HĐBD thường xuyên cho
GVMN được tiến hành xen kẽ với các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ tại
từng trường, từng tổ bộ môn và trải dài trong suốt năm học. Vì vậy, kiểm tra,
đánh giá HĐBD thường xuyên cho giáo viên phải lồng ghép trong kiểm tra,
đánh giá hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của nhà trường, của các tổ, nhóm
chuyên môn. Việc kiểm tra, đánh giá như vậy thường tuân theo quy trình
kiểm định chất lượng hoặc thanh tra sư phạm định kỳ, hoặc đột xuất, trong đó
có xem xét việc đề ra và thực hiện kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên tại
trường; nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức nghiên cứu, học tập các
chuyên đề về chuyên môn, nghiệp vụ và hiệu quả của bồi dưỡng đối với nâng
cao chất lượng hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ của các giáo viên.
Ba là, chỉ đạo việc thực hiện nền nếp đánh giá, phân loại GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Đây là một trong những nội dung quản lý có tác dụng nhiều mặt, đó là:
cung cấp những thông tin về chất lượng đội ngũ GVMN, thúc đẩy quá trình
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, xác định căn cứ thực
tiễn để điều chỉnh chương trình, kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng giáo
62
viên… Nhưng để đạt được điều đó, các chủ thể quản lý phải có những biện
pháp nhằm phát huy dân chủ, thực hiện yêu cầu cao trong tự đánh giá của mỗi
giáo viên; phát huy sức mạnh tập thể giáo viên trong góp ý, đánh giá, phân
loại giáo viên, bầu chọn giáo viên cốt cán theo các tiêu chuẩn, tiêu chí trong
chuẩn nghề nghiệp.
2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động bồi dƣỡng năng
lực sƣ phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Bản chất của quá trình quản lý là mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Mối quan hệ đó luôn bị bị chi phối bởi rất
nhiều yếu tố như: những chuẩn mực chung mà cả chủ thể quản lý và đối tượng
quản lý cùng phải tuân thủ; sự đòi hỏi và tạo điều kiện của môi trường tự nhiên,
xã hội đối với hoạt động của chủ thể và đối tượng quản lý; phẩm chất, trình độ
mọi mặt của chủ thể quản lý; đặc điểm của đối tượng quản lý… Sự thúc đẩy
hoặc cản trở của các yếu tố nêu trên đối với quá trình quản lý tùy thuộc vào
chúng phù hợp hay không phù hợp với quy luật phát triển khách quan của quan
hệ qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Vì vậy, làm rõ những yếu
tố đó sẽ giúp cho người nghiên cứu lý giải được nguyên nhân của những ưu
điểm, hạn chế của quá trình quản lý nói chung, quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP theo chuẩn nghề nghiệp cho GVMN nói riêng. Bàn về những yếu tố tác
động đến quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc đi tìm nguyên nhân của ưu
điểm, hạn chế trong thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
2.3.1. Tác động từ việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển giáo dục mầm non và xây dựng đội ngũ giáo viên
mầm non
Quản lý bất kỳ một lĩnh vực hoạt động xã hội nào đều phải có căn cứ
pháp lý, chỉ có như vậy chủ thể quản lý mới nhận được sự đồng tình rộng rãi
63
của xã hội, đồng thời sử dụng được sức mạnh của thể chế, của tổ chức để giải
quyết các vấn đề nảy sinh trong quản lý, tạo điều kiện cho các quyết định
quản lý dễ dàng thấu suốt trong nhận thức và hành động của đối tượng quản
lý. Vì vậy, việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát
triển GDMN và xây dựng đội ngũ GVMN phải được coi là một trong những
yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Có thể nói yếu tố này ảnh hưởng rất toàn
diện đến các mặt của nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn
nghề nghiệp cho GVMN, trong đó nổi rõ vai trò định hướng của nó trong xác
lập mục tiêu, kế hoạch; đổi mới nội dung, phương pháp và huy động các
nguồn lực trong hoạt động bồi dưỡng GVMN ở các địa phương.
2.3.2. Tác động từ điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương
và đặc điểm về đời sống sinh hoạt, phong tục, tập quán nhân dân
Con người vừa chủ thể, vừa là khách thể của mọi hoạt động xã hội, sự
hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của con người chịu sự chi phối của
hoàn cảnh xã hội mà họ sống, hoạt động. Vì vậy, quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp không thể không tính đến điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và đặc điểm về đời sống sinh
hoạt, phong tục, tập quán nhân dân từng vùng miền nhất định.
Khi đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương phát triển tốt, cuộc
sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân được nâng cao thì xã hội sẽ đòi hỏi
cao hơn, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bồi dưỡng và tự bồi
dưỡng NLSP cho GVMN. Ngược lại, ở những địa phương còn nhiều khó
khăn về mọi mặt đời sống, nhân dân thường ít quan tâm đến chất lượng giáo
dục, trong đó có GDMN, do đó dễ xuất hiện biểu hiện hạ thấp yêu cầu đối với
GVMN. Trong bối cảnh như vậy, quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp sẽ gặp không ít những trở ngại, nhất là những
trở ngại phát sinh từ việc thiếu động cơ phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp
của chính bản thân GVMN.
64
Bên cạnh đó, đặc điểm về đời sống sinh hoạt, phong tục, tập quán nhân
dân từng vùng miền cũng có những ảnh hưởng nhất định đến quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Thực tế cho thấy,
ở những địa phương có mật độ dân cư cao, sản xuất và dịch vụ phát triển, giao
lưu xã hội mở rộng… các cơ sở GDMN có điều kiện phát triển tốt hơn, do đó
việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng năng lực cho giáo viên sẽ ít trở ngại hơn.
Nhưng ở những địa phương vùng núi, vùng DTTS do những trở ngại về địa
lý, do chi phối của phong tục, tập quán… việc huy động trẻ mầm non đến
trường thường gặp khó khăn, các điểm trường mầm non thường phân tán, kéo
theo số lượng giáo viên tại từng điểm trường không nhiều, giáo viên phải sử
dụng song ngữ (tiếng phổ thông và tiếng dân tộc) trong giáo dục trẻ… Do đó,
bồi dưỡng giáo viên ở đây có những yêu cầu riêng và gặp không ít khó khăn.
Điều đó tất yếu ảnh hưởng tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
2.3.3. Tác động từ tình hình nguồn nhân lực tham gia bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các địa phương
Bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp là đào tạo tiếp
trong thực tế công tác của họ. Vì vậy, lực lượng giảng viên, báo cáo viên phải
có phẩm chất, năng lực tương ứng với yêu cầu đào tạo tiếp với trình độ cao
hơn sơ với đào tạo cơ bản, ban đầu cho GVMN. Điều đó dẫn tới đòi hỏi phải
đảm bảo số lượng đủ, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý đội ngũ giảng viên, báo
cáo viên để triển khai có hiệu quả chương trình bồi dưỡng giáo viên và hướng
dẫn giáo viên tự bồi dưỡng.
Ở các tỉnh, đội ngũ chuyên gia, giảng viên, báo cáo viên có thể huy động
vào bồi dưỡng GVMN tùy thuộc vào lực lượng cán bộ, giảng viên các Trường
Cao đẳng sư phạm và Trường Cao đẳng Cộng đồng có khoa sư phạm mầm
non. Quy mô, chất lượng đào tạo sư phạm mầm non và kết quả phát triển đội
ngũ giảng viên các bộ môn thuộc lĩnh vực sư phạm mầm non ở từng tỉnh ảnh
65
hưởng rất trực tiếp tới lực lượng tham gia biên soạn tài liệu, giảng bài, hướng
dẫn thực hành sư phạm, kiểm tra, đánh giá trong các kỳ bồi dưỡng GVMN. Vì
vậy, giám đốc sở GD&ĐT trong khi ra các quyết định quản lý về bồi dưỡng
NLSP theo chuẩn nghề nghiệp cho GVMN luôn phải tính đến chất lượng đào
tạo sư phạm mầm non và tình hình đội ngũ chuyên gia, giảng viên sư phạm
mầm non ở các Trường Cao đẳng sư phạm và Trường Cao đẳng Cộng đồng
có khoa sư phạm mầm non.
2.3.4. Tác động từ nhận thức, trách nhiệm và sự đồng thuận của cán
bộ, giáo viên đối với nhiệm vụ chuẩn hóa giáo viên mầm non theo chuẩn
nghề nghiệp
Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" Hồ Chí Minh (1927) đã nêu rõ:
"Muốn đồng tâm, hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì
sao phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải
gánh một vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người
khác. Có thế mục đích mới đồng, mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có
đồng, tâm mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm thì làm mới chóng"
[63, tr. 261]. Ở đây Hồ Chí Minh đã vạch ra một cơ chế tâm lý của điều
khiển, điều chỉnh hoạt động của con người trong cộng đồng, đó là thống nhất
động cơ, mục đích, phương thức hoạt động trên cơ sở nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, tạo sự đồng thuận của các thành viên trong cộng đồng đó. Ý
tưởng khoa học này hoàn toàn có thể vận dụng vào quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Nếu cán bộ, GVMN hiểu rõ sự cần thiết chuẩn hóa đội ngũ giáo viên
theo chuẩn nghề nghiệp, đồng thời từng giáo viên ý thức được sự thiếu hụt về
kiến thức, kỹ năng của mình so với tiêu chuẩn, tiêu chí đã nêu ra trong chuẩn
nghề nghiệp, từ đó cùng nhau quyết tâm phấn đấu vươn lên thì đó là điều kiện
rất thuận lợi để tổ chức, triển khai HĐBD và thúc đẩy tự bồi dưỡng của
GVMN. Ngược lại, nếu giáo viên thờ ơ với chuẩn nghề nghiệp, dễ dàng bằng
66
lòng với NLSP hiện có của mình; tập thể sư phạm hạ thấp yêu cầu bổ sung,
cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm hoặc thiếu sự đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ nhau nâng cao phẩm chất, năng lực thì đó là một trong những yếu
tố cản trở rất mạnh mẽ đối với quản lý HĐBD năng lực sư phạm cho GVMN.
Vì vậy, để các nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề
nghiệp cho GVMN được thực hiện tốt thì việc giáo dục nhận thức, trách
nhiệm cho cán bộ, giáo viên đối với công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng phải
đi trước một bước.
2.3.5. Tác động từ điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật, tài liệu có thể
huy động để tiến hành bồi dưỡng giáo viên mầm non
Hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp thường
được thực hiện bằng sự kết hợp giữa dạy học lý thuyết với giải quyết các bài
tập thực hành, trong đó có nhiều chuyên đề sư phạm thực hành cần tới sự hỗ
trợ của các phương tiện kỹ thuật. Do đó, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện
dạy học có vai trò rất quan trọng trong bồi dưỡng GVMN tập trung và tự học,
tự bồi dưỡng. Thực tế cho thấy, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện dạy học
ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nội dung quản lý về đổi mới nội dung,
phương pháp, hình thức bồi dưỡng giáo viên. Bởi vì, nếu thiếu các yếu tố đó
thì người giảng phải “dạy chay”, người học phải “học chay”, điều đó cản trở
rất lớn đến rèn luyện thao tác, hình thành kỹ năng và sự thành thạo nghề
nghiệp của giáo viên trong các kỳ bồi dưỡng. Từ đó có thể nói rằng: Phát triển
cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện dạy học vừa là nội dung quản lý, vừa là
điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp.
67
Kết luận chƣơng 2
Năng lực sư phạm của GVMN là một thuộc tính nhân cách, được hình
thành trên cơ sở tổ hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ lao động sư phạm và
thể hiện ra ở khả năng thực hiện có kết quả hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ
em. Để nâng cao chất lượng GDMN, các chủ thể QLGD phải hết sức quan
tâm đến quá trình hình thành và phát triển NLSP của GVMN. Điều đó dẫn tới
yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ GVMN.
Chuẩn nghề nghiệp GVMN là hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí về phẩm
chất, năng lực nghề nghiệp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại các cơ sở
GDMN. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện chuẩn hóa đội ngũ GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp, bộ máy QLGD từ trung ương đến địa phương phải
tăng cường HĐBD giáo viên với nhiều nội dung, hình thức, phương pháp khác
nhau, trong đó trọng tâm là bồi dưỡng NLSP. Đây là quá trình bổ sung, cập
nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non, hoàn thiện
thái độ lao động sư phạm để người giáo viên đạt tới các tiêu chuẩn, tiêu chí về
chuyên môn, nghiệp vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ tại các cơ sở GDMN.
Để hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp cho GVMN đáp
ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, các cấp
QLGD phải triển khai nhiều nội dung quản lý, đó là: Tổ chức xác lập mục
tiêu, yêu cầu bồi dưỡng; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch hoạt động; quản lý nguồn nhân lực tham gia; chỉ đạo nội dung, phương
pháp, hình thức, phương tiện bồi dưỡng; thúc đẩy bồi dưỡng thường xuyên tại
trường và tự bồi dưỡng của GVMN; kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Làm tốt những nội dung
đó, các chủ thể QLGD sẽ đóng góp tích cực vào nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực GDMN ở từng địa phương cũng như trên cả nước trong thời kỳ mới.
68
Chƣơng 3
CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON Ở CÁC TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
3.1. Khái quát tình hình giáo dục mầm non và đặc điểm hoạt động
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi
phía Bắc
3.1.1. Tình hình giáo dục mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Theo các quy hoạch phát triển kinh tế đã được Chính phủ thông qua,
miền Bắc gồm có 3 vùng kinh tế, trong đó vùng miền núi phía Bắc bao gồm
10 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La. Các trung tâm của khu vực miền núi
phía bắc là các thành phố Lạng Sơn, Điện Biên Phủ, Sơn La, Lào Cai. Đây là
những địa phương giàu truyền thống cách mạng, điều kiện tự nhiên rất phong
phú, đa dạng, có đông người DTTS sinh sống, nhưng có những khó khăn của
địa bàn miền núi, biên giới, điều kiện kinh tế phát triển chậm, tỷ lệ hộ nghèo
cao, địa hình phức tạp và phân bố dân cư không tập trung nên việc huy động
nguồn lực và đầu tư xây dựng mạng lưới giáo dục còn hạn chế.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng “Tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn
kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông
đồng bào DTTS, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây
duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu
biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc” [26; tr. 164], công tác GD&ĐT ở
các tỉnh miền núi phía Bắc có nhiều chuyển biến tích cực.
3.1.1.1. Quy mô mạng lưới trường lớp mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Theo báo cáo của Bộ GD&ÐT, trong những năm qua, mạng lưới trường,
lớp mầm non của các tỉnh miền núi phía Bắc tăng nhanh, tỷ lệ trường mầm
69
non đạt chuẩn quốc gia cao hơn tỷ lệ bình quân chung của cả nước, chiếm gần
22% tổng số trường (bình quân cả nước là 20%). Điều đó nói lên sự nỗ lực
cao của các địa phương trong phát triển, hoàn thiện quy mô mạng lưới trường
lớp mầm non. Kết quả khảo sát tại các nhóm mẫu gồm các tỉnh Cao Bằng,
Điện Biên, Lạng Sơn, Yên Bái cho thấy như sau:
Bảng 3.1. Số liệu tổng hợp về tỷ lệ huy động trẻ đến cơ sở GDMN, kết
quả phổ cập giáo dục và xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia tại
các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Yên Bái
ĐỊA BÀN KHẢO SÁT
Cao Bằng
Điện Biên
Lạng Sơn
Yên Bái
Nội dung khảo sát
190 25%
177 39,8%
184 31,95%
233 16%
tuổi
95% 98,9%
99% 99,9%
98,85% 99,82%
83% 97,9%
3 Tỷ lệ huy động trẻ 3-5 tuổi 4 Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi 5 Hoàn
thành phổ
cập
Hoàn thành Hoàn thành Hoàn thành Hoàn thành
6
36
98
40
73
GDMN cho trẻ em 5 tuổi Số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia
S T T Số trường mầm non 1 2 Tỷ lệ huy động trẻ dưới 3
(Số liệu do các sở GD&ĐT tỉnh cung cấp năm học 2018 - 2019)
Kết quả hồi cứu số liệu tại các tỉnh được chọn làm nhóm mẫu đã cho thấy,
hầu hết các xã, thị trấn thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc đã có trường mầm non,
với nhiều điểm trường tại các thôn, bản. Hiện nay, các tỉnh đều đang tích cực sắp
xếp quy mô, mạng lưới trường lớp mầm non theo hướng đồng bộ, hiện đại; đảm
bảo quỹ đất và quy hoạch mặt bằng tổng thể đáp ứng yêu cầu phát triển về quy
mô, chất lượng giáo dục. Theo đó, đối với những xã chưa có trường mầm non,
từng địa phương thực hiện sáp nhập các lớp mẫu giáo độc lập, các nhóm trẻ để
thành lập mới trường mầm non. Đối với những xã đã có trường mầm non nhưng
tồn tại nhiều điểm trường, địa phương tiến hành dồn dịch để giảm điểm trường
nhưng vẫn đảm bảo tiện lợi cho trẻ đến lớp.
Trong những năm gần đây, để chuẩn bị tốt nhất cho trẻ bước vào lớp 1,
tất cả các tỉnh miền núi phía bắc đã đẩy mạnh phổ cập GDMN cho trẻ em 5
70
tuổi. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt trên 98,9% và đã được chăm sóc,
giáo dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học.
3.1.1.2. Tình hình đội ngũ giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Để đáp ứng đòi hỏi phát triển quy mô GDMN, nhất là khi triển khai thực
hiện đề án “Phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010-2015”, các
tỉnh miền núi phía Bắc đã rà soát, sắp xếp, bố trí, sử dụng đội ngũ, tuyển dụng
GVMN theo hướng chuẩn hóa, tinh gọn, hiệu quả. Tập trung bồi dưỡng, tập
huấn đội ngũ giáo viên và CBQL giáo dục phục vụ cho việc triển khai chương
trình GDMN; bồi dưỡng theo chuẩn nghề nghiệp GVMN, chú trọng công tác
tự bồi dưỡng, bồi dưỡng trực tuyến. Theo đó, thời gian làm việc của GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc thường là 42 tuần, trong đó: 35 tuần làm công tác
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ; 04 tuần dành cho học tập, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ; 02 tuần dành cho chuẩn bị năm học mới; 01 tuần
dành cho tổng kết năm học. Với phân bổ thời gian như trên, hàng năm
GVMN đều được tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt. Theo
thống kê của các sở GD&ĐT, tỷ lệ GVMN đạt và vượt chuẩn về trình độ đào
tạo khá cao (Cao Bằng có 100% GVMN đạt chuẩn trở lên, trong đó có 52,5%
đạt trình độ trên chuẩn, riêng giáo viên dạy lớp 5 tuổi đạt 67,6%; Lạng Sơn có
98,95% GVMN đạt chuẩn trở lên;Yên Bái có 98,1% giáo viên mầm đạt chuẩn
trở lên, trong đó 28,1% giáo viên có trình độ trên chuẩn; Tuyên Quang có
100% GVMN đạt chuẩn trở lên, trong đó trên chuẩn là 48,9%... )
Tuy nhiên số lượng GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn thiếu so
với nhu cầu và đạt tỷ lệ giáo viên/lớp thấp hơn quy định của Bộ GD&ĐT. Tại
các nhóm mẫu điều tra, khảo sát, tỷ lệ giáo viên/ lớp đạt như sau: 1,7 giáo
viên/nhóm trẻ, 1,8 giáo viên/lớp mẫu giáo. Do đặc thù về nguồn nhân lực và
phân bổ thu nhập ở các tỉnh miền núi phía Bắc nên việc bổ sung lực lượng
GVMN, nhất là ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
sẽ còn khó khăn.
71
3.1.1.3. Nội dung, phương pháp giáo dục mầm non ở các tỉnh miền núi
phía Bắc
Hiện nay, các tỉnh miền núi phía Bắc đang triển khai nội dung, phương
pháp GDMN theo Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm
2017 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về Ban hành Chương trình GDMN [9]. Theo
đó, mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm
sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần
thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm
ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt
đời. Đối với các cơ sở GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, ngoài những nội
dung đã xác định cụ thể trong chương trình, các địa phương đều chú trọng chỉ
đạo việc tổ chức dạy tiếng phổ thông nhằm đảm bảo 100% trẻ em 5 tuổi là
người DTTS được chuẩn bị tốt tiếng phổ thông trước khi vào lớp 1.
Để nâng cao chất lượng GDMN, sở GD&ĐT ở các tỉnh miền núi phía
Bắc đã thường xuyên chỉ đạo áp dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến, với
các yêu cầu cơ bản là: Giáo viên cần chú trọng giao tiếp thường xuyên, thể
hiện sự yêu thương, gắn bó với trẻ; tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích
cực hoạt động giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi; tạo môi
trường giáo dục gần gũi với khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà
trẻ. Đồng thời, với lứa tuổi mẫu giáo phải tạo điều kiện cho trẻ được trải
nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa
dạng, theo phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Kết hợp hài hòa giữa
giáo dục trẻ trong nhóm bạn với giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của
trẻ vùng đồng bào dân tộc, miền núi để có phương pháp giáo dục phù hợp.
3.1.1.4. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học của các cơ sở giáo dục mầm
non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Thực hiện đề án “Phát triển GDMN giai đoạn 2018 - 2025” đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1677/QĐ-TTg ngày 03 tháng
72
12 năm 2018 [82], các tỉnh miền núi phía Bắc đều có chương trình hành động
hoặc kế hoạch triển khai đề án. Do đó, việc đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị
dạy học của các cơ sở GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã có chuyển biến
tích cực. Thực tế, các tỉnh đã triển khai quy hoạch và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các cơ sở GDMN; đầu tư xây dựng kiên cố, bán kiên cố phòng
học, bếp ăn, nhà công vụ cho giáo viên và mua sắm trang thiết bị cho các cơ sở
GDMN; đảm bảo hầu hết các trường mầm non có đủ trang thiết bị dạy học tối
thiểu theo quy định của Bộ GD&ĐT. Các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn,
Yên Bái… đều đã có chính sách hỗ trợ ăn trưa và miễn, giảm học phí cho trẻ nhà
trẻ thuộc các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS, hộ nghèo và cận
nghèo; ưu tiên hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi cho cơ sở
GDMN tại các địa phương miền núi chưa tự chủ được ngân sách.
Trong giai đoạn 2015-2020, toàn tỉnh Cao Bằng đã xây mới 1.318 phòng
học, 324 bếp ăn, 125 phòng giáo dục thể chất, 91 văn phòng trường, 204
phòng hành chính quản trị, 144 phòng y tế nhằm tạo những bước đột phá
trong nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc trẻ. Đến nay, toàn bộ 190
trường của tỉnh đã tổ chức ăn bán trú cho trẻ; 100% số trẻ năm tuổi được
khám sức khỏe định kỳ và triển khai đánh giá trẻ 5 đến 6 tuổi theo tiêu chuẩn
của Bộ GD&ĐT ban hành. Lạng Sơn trang bị 159 bộ thiết bị đồ dùng, đồ
chơi, thiết bị dạy học (gồm 42 danh mục); đồ chơi ngoài trời 42 đơn vị (gồm
05 danh mục) cho các trường mầm non. Yên Bái đảm bảo 100% các trường
mầm non có công trình nước sạch. Các trường đều tuân thủ kiểm soát chặt
chẽ nguồn thực phẩm và thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn vệ sinh
thực phẩm. Qua đó, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngày càng được cải
thiện, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ mẫu giáo là 2,7%, tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ mẫu giáo là 3,1%.
Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, hiện nay GDMN ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS vẫn chưa thực sự được đặt đúng vị
trí trong tổng thể chính sách phát triển giáo dục, việc giải quyết vấn đề thiếu
trường, lớp vẫn là bài toán khó của ngành giáo dục. Hiện các tỉnh trung du và
73
miền núi phía Bắc còn thiếu 7.200 phòng học, còn hơn 5.500 phòng học tạm
và 5.852 phòng học nhờ, nhiều phòng học mầm non quá nhỏ hẹp, phên nứa,
nền đất, không có điện… Điều đó đòi hỏi các địa phương phải nỗ lực cao hơn
nữa trong đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho các trường mầm non
trong thời gian tới.
3.1.2. Đặc điểm hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Có nhiều cách khái quát đặc điểm hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN, trong đó những đặc điểm được tính đến để ĐBCL bồi dưỡng thường
bao gồm: (1) môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương; (2) đối
tượng giáo viên được bồi dưỡng; (3) bối cảnh, quy mô tổ chức HĐBD; (4) sự
phát triển năng lực của người được bồi dưỡng. Kết quả tọa đàm, trao đổi,
phân tích nhận định độc lập, hồi cứu tư liệu và điều tra bằng phiếu cho thấy
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo
chuẩn nghề nghiệp nổi lên những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp được tổ chức ở những địa phương có môi
trường xã hội đa ngôn ngữ, đa văn hóa của đồng bào các dân tộc, nhưng còn
khó khăn về đời sống kinh tế.
Các tỉnh miền núi phía Bắc đều là những địa phương có môi trường xã
hội đa ngôn ngữ, đa văn hóa, các dân tộc sống hòa thuận, tôn trọng phong tục
tập quán của nhau và thường xuyên giao lưu học tập lẫn nhau. Môi trường xã
hội như vậy đã tạo điều kiện cho GVMN hiểu biết được phong tục tập quán,
thói quen và những đặc điểm văn hóa của các dân tộc khác cùng chung sống
trên địa bàn. Qua điều tra, 70,9% số GVMN được hỏi thừa nhận: hiểu rõ văn
hóa, phong tục, tập quán của đồng bào nơi mình đang công tác (xem Phụ lục
2). Kết quả điều tra đã xác nhận rằng, nhiều GVMN ở các tỉnh miền núi phía
bắc thường biết từ 2 ngôn ngữ trở lên của các dân tộc trên địa bàn công tác.
Cụ thể, có 86,0 % số GVMN được hỏi cho biết nói được tiếng phổ thông và
tiếng dân tộc, trong đó có 36,1% nói được từ 2 thứ tiếng dân tộc trở lên. Thực
74
tế đó dẫn đến chỗ, bồi dưỡng về tiếng dân tộc và văn hóa vùng miền cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc chủ yếu tiến hành bằng tự bồi dưỡng lẫn
nhau tại từng trường. Vì vậy, nhiệm vụ bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các
tỉnh miền núi phía Bắc sẽ có thể tập trung vào bổ sung, cập nhật, nâng cao
kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm theo các mô-đun trong chương trình bồi
dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ.
Đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nhìn chung còn có nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, có 63,9 % số GVMN
công tác ở địa phương khác xã, huyện của mình, do điều kiện giao thông miền
núi nên phần lớn số giáo viên này phải ở lại nhà dành cho giáo viên của
trường mầm non với tiện nghi rất hạn chế. Phần lớn GVMN là nữ giới đang ở
độ tuổi nuôi con nhỏ. Mặt khác mức lương GVMN không cao nên mức sống
của nhiều gia đình giáo viên không cao. Qua điều tra, 43,1% số GVMN được
hỏi xác nhận: điều kiện kinh tế gia đình đạt mức trung bình ở địa phương;
29,1% còn khó khăn, thiếu thốn. Do tình hình đời sống như vậy, nên ngoài
thời gian làm việc tại trường, phần lớn GVMN phải làm việc nhà để đảm bảo
sinh hoạt, chăm sóc con cái… nên khó thực hiện tự học, tự bồi dưỡng năng
lực. Vì vậy, rất cần nâng cao hiệu quả của bồi dưỡng tập trung và bồi dưỡng
thường xuyên qua thực tế công tác.
Thứ hai, giáo viên người DTTS thường chiếm tỷ lệ cao trong đối tượng bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Đây là một đặc điểm cần được tính đến trong bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp. Qua điều tra
ngẫu nhiên 1428 CBQL và GVMN thì đã có 87,7% là người dân tộc. Qua tọa
đàm, trao đổi, cán bộ quản lý và GVMN đều khẳng định: nhìn chung, giáo
viên người dân tộc chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội;
làm tròn nghĩa vụ công dân; yêu nghề, gắn bó với nghề dạy học; chấp hành
nghiêm Luật Giáo dục, điều lệ, quy chế, quy định của ngành; có ý thức tổ
chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của
75
nhà giáo; sống trung thực, lành mạnh, đoàn kết với đồng nghiệp; có ý thức noi
theo những người có uy tín trong cộng đồng, trong tập thể sư phạm. Những
đặc tính đó tác động tích cực tới việc phấn đấu vươn lên của giáo viên, đó
cũng chính là điều kiện để họ tiếp nhận có hiệu quả những tác động từ hoạt
động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
Tuy nhiên, giáo viên người dân tộc cũng có những hạn chế nhất định cần
được xem xét trong hoạt động bồi dưỡng NLSP. Qua điều tra, khảo sát, 64,7%
số người được hỏi thừa nhận còn thiếu tự nhiên trong diễn đạt và giao tiếp nơi
đông người; 70,9% chưa thật tự tin khi phải độc lập giải quyết các công việc
trong hoạt động xã hội. Điều đó ít nhiều làm giảm tính sáng tạo, nhạy bén của
GVMN trong xử lý các tình huống sư phạm. Vì vậy, trong bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc không thể xem nhẹ bồi dưỡng kỹ năng giao
tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng.
Thứ ba, hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp diễn ra
trong điều kiện hầu hết GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã đạt trình độ
đào tạo từ trung cấp trở lên.
Kết quả hồi cứu tư liệu tại các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Yên
Bái đã xác nhận, có từ 98,1% đến 100% GVMN đạt trình độ đào tạo từ trung
cấp trở lên, trong đó có khoảng 9,5% đến 12 % số GVMN có trình độ trung
cấp sư phạm mầm non. Như vậy, xét theo quy định của Luật Giáo dục năm
2019, ngoại trừ số giáo viên có trình độ trung cấp cần được đào tạo kế tiếp để
đạt trình độ cao đẳng, còn lại phần lớn GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
đã đáp ứng được đòi hỏi về trình độ đào tạo. Điều đó tạo cơ sở thuận lợi cho
hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh các địa phương cơ bản hoàn thành chuẩn hóa
trình độ đào tạo, một bộ phận CBQL và GVMN nhận thức chưa đầy đủ về bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Điều đó dễ đưa tới nảy
sinh những biểu hiện thỏa mãn dừng lại, thiếu tích cực bổ sung, cập nhật,
nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm theo tinh thần “học suốt đời”.
76
Thứ tư, loại hình bồi dưỡng tập trung về NLSP cho GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp thường được tổ chức ở cấp huyện.
Đây là đặc điểm nảy sinh từ điều kiện thực tế của các địa phương miền
núi phía Bắc. Bởi vì, trong điều kiện địa hình rừng núi, giao thông chưa phát
triển; thời gian dành cho các đợt bồi dưỡng, tập huấn GVMN không dài, nên
tư tưởng chỉ đạo chung của các sở GD&ĐT thường là: hoạt động bồi dưỡng
GVMN phải hướng về cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên dự các lớp
bồi dưỡng tập trung. Nhưng nhìn chung, các cơ sở GDMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc thường không có đủ điều kiện tổ chức các lớp bồi dưỡng tập
trung với số lượng lớn giáo viên tham gia, do đó bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp dưới loại hình bồi dưỡng tập trung thường
được tổ chức tại các huyện lỵ, với sự quản lý trực tiếp của phòng GD&ĐT, có
sự phối hợp, hiệp đồng với sở GD&ĐT, cũng như Trường Sư phạm tỉnh…
Việc đảm bảo về cơ sở lưu trú cho giáo viên dự lớp bồi dưỡng giáo viên
tập trung do phòng GD&ĐT tổ chức ở các tỉnh miền núi phía Bắc thường có
hạn, vì vậy không thể và không nên tiến hành bồi dưỡng “đại trà” cho tất cả
giáo viên trong huyện, mà thường luân phiên triệu tập giáo viên tham gia bồi
dưỡng phù hợp với điều kiện của địa phương. Điều đó đặt ra yêu cầu phối hợp
chặt chẽ giữa các trường mầm non với phòng GD&ĐT trong tổ chức hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Thứ năm, trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp, các dạng năng lực và trình độ năng lực
của từng giáo viên thường phát triển không đều.
Năng lực là khả năng hoạt động có kết quả những nhiệm vụ, công việc
trong một nghề nhất định của con người. Thông thường, năng lực nghề nghiệp
được phân thành hai dạng chính: Năng lực tâm vận động (Psymotogical
Competency) và năng lực trí tuệ (Intelligence Competency). Tùy theo tính chất
của lao động của mỗi nghề, mà con người có một dạng năng lực nổi trội hơn.
Đối với nghề sư phạm của GVMN, dạng năng lực nổi trội là năng lực tâm vận
77
động. Do đó nhu cầu bồi dưỡng các kỹ năng sư phạm, phương pháp chăm sóc,
giáo dục trẻ em để phát triển năng lực tâm vận động thường nổi rõ hơn. Cùng
với đó, việc bồi dưỡng các chuyên đề sư phạm thực hành cho GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc thường đạt hiệu quả cao hơn các chuyên đề lý luận.
Ở một khía cạnh khác, sự phát triển không đều về NLSP của GVMN còn
được biểu hiện ở mức độ tiến bộ trong kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm
giữa các giáo viên trong cùng một trường, cùng một đợt tập huấn có thể
không ngang bằng nhau. Vì vậy, bên cạnh việc làm tốt bồi dưỡng tập trung
cho giáo viên, các chủ thể quản lý không được coi nhẹ bồi dưỡng lẫn nhau
của các giáo viên trong thực tế chăm sóc, giáo dục trẻ em.
3.2. Tổ chức điều tra, khảo sát thực trạng
3.2.1. Mục đích điều tra, khảo sát
Làm rõ thực trạng bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
3.2.2. Nội dung điều tra, khảo sát
Thu thập thông tin và phân tích thực trạng bồi dưỡng NLSP cho GVMN
ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Thu thập thông tin và phân tích thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Thu thập thông tin và phân tích thực trạng ảnh hưởng của các yếu tố tác
động đến quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp, từ đó rút ra nguyên nhân ưu điểm, hạn chế
trong lĩnh vực quản lý này.
3.2.3. Đối tượng, địa bàn, thời gian điều tra, khảo sát
Số lượng khách thể điều tra: 1428 người, trong đó có 154 CBQL (chiếm
10,,8%); 1274 GVMN (chiếm 89,2%). Cơ cấu xã hội của khách thể điều tra
bao gồm: Người dân tộc là 1252 người (87,7%); người kinh là 176 người
(12,3%), phân bố tại 4 tỉnh: Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn và Yên Bái.
78
Thời gian điều tra, khảo sát: từ tháng 10 - 2018 đến tháng 3 - 2019.
3.2.4. Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Tọa đàm, trao đổi với cán bộ các cơ
quan QLGD thuộc sở, phòng GD&ĐT, CBQL và giáo viên các trường mầm
non về nhu cầu, thực trạng bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các địa phương; những thuận lợi và khó khăn trong nâng cao
chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu các báo cáo tổng kết
của sở, phòng GD&ĐT về công tác GDMN; các kế hoạch tổ chức bồi dưỡng
GVMN; các tài liệu dùng trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng GVMN.
Phương pháp quan sát sư phạm: Tiến hành quan sát hoạt động chỉ đạo,
điều hành, kiểm tra, đánh giá trong các kỳ tập huấn, bồi dưỡng tập trung
GVMN tại các tỉnh, huyện, các sinh hoạt chuyên đề về chuyên môn, nghiệp
vụ của các trường, các tổ chuyên môn thuộc cơ sở GDMN.
Phương pháp phân tích nhận định độc lập và hồi cứu tư liệu: Phân tích,
tổng hợp các nhận định của sở, phòng GD&ĐT về việc triển khai thực hiện đề
án “Phát triển GDMN giai đoạn 2018 - 2025” và các số liệu thống kê về đánh
giá, phân loại giáo viên, kết quả bồi dưỡng giáo viên của hệ thống GDMN tại
các nhóm mẫu.
Phương pháp điều tra bằng phiếu: Sử dụng 6 mẫu phiếu điều tra để xin
ý kiến của 1428 người ( 1274 GVMN và 154 CBQL) về các vấn đề liên quan
thực trạng bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
3.2.5. Cách thức xử lý số liệu
Cách thức xử lý số liệu điều tra, khảo sát dựa trên các công thức chủ yếu
sau: Công thức tính điểm trung bình (CT3.1); công thức tính khoảng cách
giữa các bậc theo thang đo Likert (CT 3.2) [Phụ lục 13]
Trên cơ sở xử lý các kết quả điều tra theo các công thức vừa nêu, mức
đánh giá thực trạng bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp được xác định
79
như sau: Mức độ tốt: 3,25 ≤ ≤ 4.0 điểm;mức độ khá: 2,50 ≤ < 3,25 điểm;
mức độ trung bình: 1,75 ≤ <2,50 điểm; mức độ yếu:1,00 ≤ <1,75 điểm.
3.3. Thực trạng bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
ở các tỉnh miền núi phía Bắc
3.3.1. Về thực hiện nội dung bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nội dung bồi dưỡng là yếu tố cấu thành rất quan trọng của quá trình bồi
dưỡng NLSP cho GVMN. Vì vậy khi xem xét thực trạng bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, chúng ta không thể bỏ qua yếu tố
này. Điều tra 1428 CBQL, GVMN ở các tỉnh miền núi phía bắc về các nội
dung bồi dưỡng đã được các sở, phòng GD&ĐT và các trường mầm non tiến
hành, kết quả thu được như sau:
Bảng 3.2. Kết quả điều tra về thực hiện nội dung bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Khá
Tốt
Yếu
TT Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
3,47
859 60,2
425 29,8
99 6,9
45 3,1
1 Bồi dưỡng kiến thức chung về các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật và quy định, hướng dẫn của các cấp quản lý về GDMN
2,79
252 17,6
729 51,1
351 24,6
96 6,7
2 Bồi dưỡng về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán ở vùng miền giáo viên đang công tác
3,08
389 27,2
807 56,5
191 13,4
41 2,9
3 Bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và hướng vận dụng vào giáo dục trẻ mầm non 4 Bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng
3,44
chuyên ngành GDMN
5 Bồi dưỡng kỹ năng ứng xử và thái độ
3,37
859 60,2 756 52,9
385 26,9 491 34,4
139 9,7 129 9,0
45 3,1 52 3,6
nghề nghiệp của GVMN Bảng 3.2 cho thấy, nội dung bồi dưỡng được các sở, phòng triển khai
thực hiện tốt nhất là kiến thức chung về các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật
và quy định, hướng dẫn của các cấp quản lý về GDMN. Qua điều tra đã có
80
60,2% số CBQL, giáo viên đánh giá tốt, với điểm trung bình là 3,47 điểm về
nội dung bồi dưỡng này. Thực tế, hàng năm các sở, phòng GD&ĐT đều tổ
chức các kỳ bồi dưỡng CBQL và giáo viên cốt cán của các trường mầm non,
với nội dung trọng tâm là văn bản chỉ đạo của ngành về “Quy tắc ứng xử văn
hóa trong các cơ sở GDMN”, “Phòng, chống bạo lực học đường trong các cơ
sở GDMN”, "Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm", “Chuẩn nghề
nghiệp GVMN”, “Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non”,
“Chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học”... Những nội dung bồi
dưỡng như vừa nêu tuy rất cần thiết, nhưng chiếm nhiều thời gian tiến hành
trong mỗi kỳ tập huấn, bồi dưỡng GVMN.
Các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành GDMN cũng là một trong những
nội dung được quan tâm trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc. Theo kết quả điều tra, nội dung này đã thu hút 60,2% số người
được hỏi ý kiến đánh giá tốt; điểm trung bình đạt 3,44 điểm. Hồi cứu các kế
hoạch bồi dưỡng GVMN của các sở, phòng GD&ĐT tại nhiều địa phương
thuộc vùng núi phía Bắc cho thấy, hàng loạt vấn đề như: “Tổ chức hoạt động
giáo dục theo hướng trải nghiệm cho trẻ ở trường mầm non”, “Xây dựng kế
hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp với bối cảnh địa phương”, “Chế độ
dinh dưỡng cho trẻ em thuộc các đối tượng chăm sóc khác nhau”, “Kỹ năng
phòng, tránh thiên tai và tai nạn thương tích cho trẻ trong các cơ sở GDMN”,
“Xử lý các tình huống sư phạm trong GDMN”… Qua đây có thể khẳng định
rằng, các sở, phòng GD&ĐT trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc đã quan
tâm đến nội dung bồi dưỡng NLSP cho GVMN, nhưng chương trình tổng thể
của nó chưa được thiết kế theo những mô-đun kiến thức, kỹ năng một cách có
hệ thống, thống nhất.
Hai nội dung bồi dưỡng chưa được CBQL, GVMN đánh giá cao là: “Bồi
dưỡng các kiến thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và hướng vận dụng
vào giáo dục trẻ mầm non” với 27,2% số người được điều tra đánh giá tốt;
“Bồi dưỡng về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán vùng miền cho
GVMN” với 17,6% - đánh giá tốt. Điều này nói lên rằng, những nội dung có
81
liên quan rất trực tiếp đến kỹ năng giao tiếp, ứng xử của giáo viên với trẻ
mầm non, phụ huynh và cộng đồng xã hội chưa được chú ý đúng mức trong
bồi dưỡng năng lực cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Vì vậy, những
hạn chế về diễn đạt và giao tiếp của GVMN chậm được khắc phục.
3.3.2. Về áp dụng các phương pháp bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Phương pháp bồi dưỡng chi phối rất lớn đến kết quả bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong các tọa đàm, trao đổi với
GVMN, nhiều người cho rằng: phương pháp bồi dưỡng trực quan, nêu vấn đề
thảo luận, thực hành xử lý các tình huống sư phạm… thường tạo được sự
hứng thú cao, thiết thực góp phần phát triển năng lực của học viên dự lớp bồi
dưỡng, tập huấn. Vì vậy, để có những đánh giá sát thực tế về thực trạng bồi
dưỡng NLSP cho GVMN, ta cần tìm hiểu việc vận dụng các phương pháp bồi
dưỡng đã được các sở, phòng GD&ĐT và các trường mầm non tiến hành.
Điều tra 1428 CBQL, GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc về phương pháp
bồi dưỡng NLSP cho GVMN đã cho kết quả như sau:
Bảng 3.3. Kết quả điều tra về áp dụng các phương pháp bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
TT
Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
3,34
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình 129 9.0
416 29,1
795 55,7
88 6,2
2
3,02
349 24,4
796 55,7
249 17,4
34 2,4
3,06
4
3,37
389 27,2 756 52,9
819 57,4 491 34,5
136 9,5 129 9,0
84 5,9 52 3,6
5
3,28
756 52,9
417 29,2
157 11,0
98 6,9
1 Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình bồi dưỡng Tổ chức thực hành các quy trình, phương thức hành động quản lý, tổ chức và giáo dục trẻ mầm non Thảo luận chuyên đề về các kiến thức, kỹ năng GDMN Tham quan, rút kinh nghiệm tại các trường, lớp điển hình Sử dụng giáo viên cốt cán trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn hành động cho giáo viên ít kinh nghiệm, giáo viên mới
82
Bảng 3.3 cho thấy rằng, thăm quan, rút kinh nghiệm tại các trường, lớp
điển hình là phương pháp bồi dưỡng NLSP cho GVMN được đánh giá cao,
với điểm trung bình đạt 3,37 điểm; 52,9% số người được điều tra đánh giá tốt.
Lý giải về thực trạng này, nhiều CBQL của các sở, phòng GD&ĐT cho rằng,
GVMN người dân tộc thường dễ tin và làm theo những người có uy tín trong
cộng đồng, tư duy cụ thể của họ thường có ưu thế hơn tư duy trừu tượng. Vì
vậy, khi được tổ chức học tập tại các trường điển hình, hoặc nghe các giáo
viên có uy tín phổ biến kinh nghiệm và làm mẫu về chăm sóc, giáo dục trẻ,
những người thăm quan sẽ học hỏi được nhiều. Chính vì lẽ đó, các trường
mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc rất quan tâm tới phương pháp bồi
dưỡng bằng tham quan, rút kinh nghiệm tại các trường, lớp điển hình.
Trong những năm vừa qua, lực lượng giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
tập trung cho GVMN ở cấp tỉnh và cấp huyện thường được các sở GD&ĐT
huy động từ giảng viên của các trường Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng Cộng
đồng. Những giảng viên này đã có sự đổi mới khá rõ nét về phương pháp dạy
học, điều đó thể hiện ở việc vận dụng các phương pháp nêu vấn đề, tăng
cường đối thoại, thảo luận nhóm, giao nhiệm vụ cho học viên xử lý các tình
huống sư phạm… Qua điều tra, 55,7% số CBQL, GVMN được hỏi đã đánh
giá tốt về vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình bồi
dưỡng năng lực cho GVMN tại các tỉnh miền núi phía Bắc.
Do địa hình miền núi nên các thôn, bản trong một xã thường khá cách xa
nhau, điều đó dẫn tới trường mầm non ở đây thường có những điểm trường
khác nhau. Tại từng điểm trường này, các trường thường bố trí cả giáo viên
cốt cán, giáo viên có kinh nghiệm và giáo viên mới và giao nhiệm vụ bồi
dưỡng lẫn nhau trong thực tế công tác. Chính cách làm này đã đem lại tác
dụng tốt trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Thực tế, 52,9% số người được điều tra đã đánh giá tốt về phương pháp sử
dụng giáo viên cốt cán trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn hành động cho giáo viên
ít kinh nghiệm, giáo viên mới.
83
Nhưng một số phương pháp như: “Thảo luận chuyên đề về các kiến thức,
kỹ năng GDMN” chỉ có 27,2% số người được điều tra đánh giá tốt; “Tổ chức
thực hành các quy trình, phương thức hành động quản lý, tổ chức và giáo dục
trẻ mầm non” được 24,4% - đánh giá tốt. Những số liệu này nói lên rằng,
phương pháp bồi dưỡng năng lực thông qua tổ chức hoạt động cho giáo viên
chưa được đánh giá cao.
3.3.3. Về các hình thức tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Kết quả nghiên cứu các kế hoạch và quan sát hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy nhiều hình thức bồi dưỡng
đã được triển khai như: bồi dưỡng tập trung; bồi dưỡng thường xuyên, tại
chỗ; bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến; tự bồi dưỡng. Sự đánh giá của
CBQL, GVMN đối với từng hình thức này có sự phân hóa khá rõ nét (xem
bảng 3.4).
Bảng 3.4. Kết quả điều tra về các hình thức tổ chức bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
TT
Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
3,53
939 65,8
348 24,4
105 7,3
36 2,5
1 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành cho giáo viên cốt cán
3,42
792 55,5
493 34,5
91 6,4
52 3,6
2 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành cho giáo viên tại từng huyện, từng cụm trường
3 Hình thức bồi dưỡng thường xuyên
2,99
tại trường cho giáo viên
349 24,4
759 53,2
284 19,9
36 2,5
2,92
245 17,1
899 63,0
215 15,1
69 4,8
4 Hình thức bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến (online) trên mạng internet
5 Hình thức tự học tập, tự bồi dưỡng
2,97
350 24,5
767 53,7
232 16,2
79 5,5
của GVMN Như vậy, hình thức bồi dưỡng tập trung được đánh giá cao nhất. Cụ thể,
bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành cho giáo viên cốt cán được 65,8 %
84
số người được điều tra đánh giá tốt và đạt điểm trung bình 3,53 điểm; bồi
dưỡng tập trung theo chuyên đề dành cho giáo viên tại từng huyện, từng cụm
trường được 55,5 % số người được điều tra đánh giá tốt và đạt điểm trung
bình 3,42 điểm. Điều này nói lên rằng các sở, phòng GD&ĐT ở các tỉnh miền
núi phía Bắc đã có những đầu tư công sức cho việc chuẩn bị và tiến hành các
hình thức bồi dưỡng tập trung.
Qua điều tra cũng cho thấy: hình thức bồi dưỡng thường xuyên tại
trường cho giáo viên chỉ có 24,4% số người được hỏi đánh giá tốt; bên cạnh
đó, hình thức tự học tập, tự bồi dưỡng của GVMN được 24,5% - đánh giá
tốt; bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến (online) trên mạng internet
được 17,1% đánh giá tốt. Điều đó phản ánh một mâu thuẫn là: trong điều
kiện của địa phương miền núi, đi lại không thuận lợi, thời gian dành cho bồi
dưỡng, tập huấn hàng năm không nhiều và thường rơi vào khoảng thời gian
ở các tỉnh miền núi phía Bắc hay có mưa lũ nên việc tổ chức bồi dưỡng
GVMN tập trung ở cấp tỉnh, cấp huyện khá phức tạp, đòi hỏi phải đẩy mạnh
bồi dưỡng thường xuyên tại chỗ, nhưng những hình thức bồi dưỡng thường
xuyên tại trường, tự bồi dưỡng, bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến
(online) lại chưa được đánh giá cao. Đây là một vấn đề cần được các chủ thể
QLGD quan tâm giải quyết.
3.4. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm cho
giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
3.4.1. Thực trạng tổ chức xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
có tác dụng thúc đẩy, định hướng cho các tổ chức và cá nhân tham gia HĐBD
giáo viên. Qua trao đổi, tọa đàm và phỏng vấn các CBQL giáo dục tại các sở,
phòng GD&ĐT ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, nhiều người khẳng định
rằng: mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng không thể đề ra một cách chủ quan, mà
phải có căn cứ pháp lý và đáp ứng đúng nhu cầu của người được bồi dưỡng
thì mới có hiệu quả thúc đẩy, định hướng HĐBD. Chính vì vậy, việc điều tra
85
về thực trạng xác định mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề
nghiệp cho giáo viên đã tập trung vào các vấn đề trọng yếu như: tạo sự thống
nhất nhận thức về đánh giá NLSP của GVMN theo chuẩn nghề nghiệp; khảo
sát nhu cầu bồi dưỡng NLSP; đề ra mục tiêu, yêu cầu cụ thể cho từng loại
hình, từng đối tượng bồi dưỡng. Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.5. Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức xác lập mục tiêu, yêu
cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
Nội dung đánh giá
T T
Khá
Tốt
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
1
2,44
84 8,9
686 48,0
437 30,6
221 15,5
2
2,99
341 23,9
763 53,4
298 20,9
26 1,8
3
3,26
591 41,4
657 46,0
146 10,2
34 2,4
Tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành Tổ chức thu thập, tổng hợp thông tin về nhu cầu bồi dưỡng NLSP của GVMN Xác lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo từng loại đối tượng bồi dưỡng
Tác giả Nguyễn Trí (2007) [91] cho rằng, để nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên cần phải chuyển từ chuẩn hóa về trình độ đào tạo sang chuẩn
hóa theo chuẩn nghề nghiệp. Lâu nay trong đánh giá về GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc ta thường thấy các số liệu thống kê từ 90% đến 100% đạt
chuẩn, đó là những thông tin chuẩn hóa về trình độ đào tạo. Để đáp ứng yêu
cầu chuẩn hóa, GVMN không thể bằng lòng với bằng cấp, chứng chỉ về trình
độ đào tạo đã có, mà họ phải được tiếp tục bồi dưỡng theo khung năng lực,
phù hợp với chuẩn nghề nghiệp. Chính vì vậy, để quản lý tốt hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN, các chủ thể QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc
phải: xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề
nghiệp và khung năng lực hiện hành; thu thập, tổng hợp thông tin về nhu cầu
bồi dưỡng NLSP của GVMN; xác lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo từng loại đối tượng bồi dưỡng.
86
Kết quả điều tra thể hiện trong bảng 3.5 đã cho thấy, ưu điểm nổi bật
trong việc định hướng hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp ở các tỉnh miền núi phía Bắc là xây dựng mục tiêu, yêu cầu bồi
dưỡng theo từng loại đối tượng bồi dưỡng. Qua điều tra, 41,4 % số người
được hỏi đã đánh giá ở mức độ tốt; 46,0 % - đánh giá ở mức độ khá về xác
lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo từng loại
đối tượng bồi dưỡng. Nội dung quản lý này đạt điểm trung bình là 3,26 điểm
(mức tốt - theo thang Likert).
Trao đổi với cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục các cấp, nhiều người cho
rằng, những điểm yếu, thiếu về kiến thức, kỹ năng và thái độ chuyên môn của
giáo viên cốt cán, giáo viên có kinh nghiệm, giáo viên mới ở các trường mầm
non thuộc địa bàn miền núi phía Bắc thường rất khác nhau. Vì vậy, cần có sự
phân biệt về mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP giữa các đối tượng này. Thực
tế, ở đâu đảm bảo tính sát đối tượng, ở đó hiệu quả bồi dưỡng NLSP cho
GVMN hiệu quả hơn.
Đi liền với đề ra mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng theo từng loại đối tượng
bồi dưỡng, các tỉnh miền núi phía Bắc đã chú ý thực hiện thu thập, tổng hợp
thông tin về nhu cầu bồi dưỡng NLSP của GVMN. Kết quả quan sát và hồi
cứu tư liệu tại các sở, phòng GD&ĐT đều cho thấy các địa phương đã chú
trọng tổng hợp các báo cáo từ các trường về đánh giá, phân loại giáo viên và
nhu cầu bổ sung, nâng cao, cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn cho từng
loại đối tượng giáo viên (giáo viên cốt cán, giáo viên có kinh nghiệm, giáo
viên mới). Bên cạnh đó, một số tỉnh, huyện còn tổ chức khảo sát nhu cầu,
nguyện vọng của GVMN đối với công tác bồi dưỡng hàng năm. Qua điều tra,
23,9 % số người được hỏi đã đánh giá ở mức độ tốt; 53,4% - đánh giá ở mức
độ khá về tổ chức thu thập, tổng hợp thông tin liên quan đến nhu cầu bồi
dưỡng NLSP của GVMN. Nội dung quản lý này đạt điểm trung bình là 2,99
điểm (mức khá- theo thang Likert).
Tuy nhiên, nội dung chưa được đánh giá cao trong tổ chức xác lập mục
tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN là xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
87
NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành.
Qua trao đổi, nhiều CBQL cho biết rằng, hiện nay các đánh giá, phân loại
GVMN chủ yếu dựa vào các tiêu chuẩn, tiêu chí đã nêu trong Quy định chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mầm non, ban hành kèm theo Thông tư số 26/2018/TT-
BGDĐT, ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Một số tỉnh có ban hành “Danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc,
khung năng lực trường mầm non”, nhưng khung năng lực mới chỉ nêu tên các
năng lực, chưa có tiêu chí đánh giá, do đó khó sử dụng.
Qua điều tra, có tới 30,6 % số người được hỏi đánh giá ở mức trung
bình, 15,5 % - đánh giá ở mức yếu về tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành.
Điểm trung bình của nội dung quản lý này đạt 2,44 điểm (mức trung bình -
theo thang Likert). Đây có thể coi là một hạn chế cần được khắc phục trong tổ
chức xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp. Bởi vì thiếu bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa trên chuẩn
nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành sẽ ảnh hưởng không tốt đến xác
định nhu cầu bồi dưỡng, cũng như vận hành mô hình bồi dưỡng dựa vào nhu
cầu của đối tượng bồi dưỡng.
3.4.2. Thực trạng tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp là thực hiện một chức năng quan trọng của các cơ quan QLGD và
ban giám hiệu trường mầm non. Có thể đánh giá việc thực hiện chức năng
này trên nhiều khía cạnh, nhưng trước hết cần tập trung làm rõ những vấn đề
chính là: Việc cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng GVMN của Bộ GD&ĐT
vào chương trình bồi dưỡng GVMN ở các địa phương; thực hiện phân cấp
giữa các cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN; chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ
tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP. Kết quả điều tra về những vấn đề đó
cho thấy như sau:
88
Bảng 3.6. Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức xây dựng chương trình,
kế hoạch hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo
chuẩn nghề nghiệp
TT
Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
2,45
92 6,4
682 47,8
435 30,5
219 15,3
2
3,30
611 42,8
663 46,4
125 8,8
29 2,0
1 Cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng thường xuyên của Bộ GD&ĐT vào chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các địa phương Thực hiện phân cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
3,00
747 52,3
361 25,3
284 19,9
36 2,5
3 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP Bảng 3.6 cho thấy, ưu điểm rõ nét nhất ở đây là bộ máy QLGD tại các
tỉnh miền núi phía Bắc đã thực hiện tốt việc phân cấp giữa các cấp quản lý
trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Thực tế,
hàng năm các sở, phòng GD&ĐT ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều chủ động
xây dựng và phổ biến kế hoạch bồi dưỡng GVMN, với các lớp bồi dưỡng
chính là: bồi dưỡng CBQL và giáo viên cốt cán do sở GD&ĐT tổ chức; bồi
dưỡng chuyên đề sư phạm mầm non tại các huyện; bồi dưỡng giáo viên
mới… Bên cạnh đó từng trường đều phải xây dựng và báo cáo về phòng
GD&ĐT kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ cho GVMN. Thực ra các
kế hoạch này thường lồng ghép các nội dung bồi dưỡng khác nhau cho giáo
viên, nhưng trọng tâm của nó là bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
Qua điều tra, 42,8 % số người được hỏi đánh giá tốt, 46,4 % - đánh giá khá về
thực hiện phân cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Nội dung quản lý này đạt điểm
trung bình là 3,3 điểm (mức tốt- theo thang Likert).
Bên cạnh xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chung, các cơ sở GDMN đã có
những cách thức tác động đến kế hoạch tự bồi dưỡng của của GVMN. Qua
89
trao đổi với CBQL các trường mầm non, nhiều hiệu trưởng, hiệu phó cho biết
rằng, GVMN ở các địa phương miền núi phía Bắc khá vất vả trong công tác
và trong đời sống, vì vậy không có biện pháp đốc thúc tự học tập, tự rèn luyện
thì sự phát triển NLSP của đội ngũ giáo viên sẽ rất hạn chế. Trong thời gian
qua, cách quản lý tự học tập của giáo viên ở nhiều trường mầm non tại các
tỉnh miền núi phía Bắc thường là tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế
hoạch tự bồi dưỡng về NLSP và đánh giá, phân loại giáo viên có tính đến kết
quả thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch đó. Qua điều tra, có 25,3% số người được hỏi
đánh giá tốt, 52,3 % - đánh giá khá về chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho
giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP. Điểm trung bình
của nội dung quản lý này là 3,0 điểm (mức khá- theo thang Likert).
Trong các tọa đàm, trao đổi và phỏng vấn nhiều GVMN đã đề đạt
nguyện vọng rằng: việc bồi dưỡng năng lực cho giáo viên theo chuẩn nghề
nghiệp cần được thực hiện theo một số chương trình ổn định và có tính liên
thông giữa các đợt bồi dưỡng, các đối tượng bồi dưỡng (giáo viên cốt cán, giáo
viên có kinh nghiệm, giáo viên mới). Vì vậy, từng sở, phòng GD&ĐT phải làm
tốt hơn việc cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng GVMN của Bộ GD&ĐT vào
chương trình bồi dưỡng GVMN ở địa phương, trên cơ sở đó kế hoạch bồi dưỡng
năng lực cho giáo viên mới thiết thực, sát đối tượng. Qua điều tra, có tới 30,5 %
số người được hỏi đánh giá ở mức trung bình, 15,3% - đánh giá ở mức yếu về cụ
thể hóa chương trình bồi dưỡng thường xuyên của Bộ GD&ĐT vào chương trình
bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các địa phương. Điểm trung bình của nội dung
quản lý này đạt 2,45 điểm (mức trung bình - theo thang Likert), tức là thấp nhất
trong các đánh giá về quản lý chương trình, kế hoạch bồi dưỡng. Đây có thể coi
là một hạn chế cần được khắc phục trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
3.4.3. Thực trạng tổ chức nhân lực tham gia hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
Nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động, vì
vậy đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các
90
tỉnh miền núi phía Bắc nhất thiết phải đề cập tới việc tổ chức nhân lực tham
gia hoạt động này. Kết quả điều tra về nội dung quản lý đó cho thấy như sau:
Bảng 3.7. Kết quả điều tra về thực trạng tổ chức các nhân lực chính
tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
TT
Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
1
2,54
93 6,5
789 55,3
336 23,5
210 14,7
2
3,28
601 42,1
667 46,7
119 8,3
41 2,9
Tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp Tổ chức, điều hành lực lượng giảng viên, báo cáo viên tiến hành các HĐBD tập trung cho GVMN
2,97
763 53,4
336 23,5
277 19,4
52 3,6
3 Tổ chức các tổ, lớp bồi dưỡng phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định Hồi cứu các tài liệu liên quan vấn đề tổ chức lực lượng thực hiện kế
hoạch bồi dưỡng GVMN của các sở, phòng GD&ĐT tại các tỉnh Cao Bằng,
Điện Biên, Lạng Sơn và Yên Bái trong những năm gần đây cho thấy, giảng
viên, báo cáo viên trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng tập trung chủ yếu là
giảng viên của Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh và một số CBQL, chuyên viên
thuộc sở, phòng GD&ĐT. Qua tọa đàm, trao đổi, nhiều GVMN đã nhận xét
rằng, nhìn chung giảng viên, báo cáo viên có trình độ chuyên môn tốt, hiểu rõ
thực tế công tác của GVMN tại các cơ sở giáo dục, vì vậy đã truyền đạt tốt
các nội dung tập huấn, bồi dưỡng. Kết quả điều tra bằng phiếu cũng khá trùng
hợp với nhận xét đó. Cụ thể đã có 42,1% số người được điều tra đánh giá tốt,
46,7 - đánh giá khá về tổ chức, điều hành lực lượng giảng viên, báo cáo viên
trong quá trình bồi dưỡng tập trung cho GVMN. Nội dung đánh giá này đạt
điểm trung bình là 3,28 điểm (mức tốt- theo thang Likert).
Về tổ chức lực lượng GVMN với tư cách người học trong các đợt bồi
dưỡng, tập huấn, các sở, phòng GD&ĐT thường phân chia thành 3 loại chính
91
là: giáo viên cốt cán; giáo viên đã thích nghi nghề nghiệp (nói gọn là: giáo
viên có kinh nghiệm), giáo viên mới. Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng đạt
chuẩn trình độ đào tạo trong những năm trước đây, việc phân loại giáo viên để
bồi dưỡng còn theo trình độ: đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp. Dựa trên
kết quả phân loại GVMN, các địa phương đã phân cấp tổ chức bồi dưỡng các
đối tượng, theo đó sở GD&ĐT chủ yếu tổ chức bồi dưỡng CBQL và một bộ
phận giáo viên cốt cán; phòng GD&ĐT được sự phối hợp của sở có trách
nhiệm tổ chức bồi dưỡng các đối tượng còn lại tại huyện hoặc các cụm
trường. Qua điều tra có 23,5 % số cán bộ, giáo viên được hỏi đánh giá tốt;
53,4 % - đánh giá khá về tổ chức các tổ, lớp bồi dưỡng phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định. Nội dung đánh giá
này đạt điểm trung bình là 2,97 điểm (mức khá- theo thang Likert).
Trong các buổi tọa đàm, trao đổi tại các trường mầm non, nhiều giáo
viên cho biết: tài liệu học tập trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng thường ít,
không hệ thống, chưa tạo điều kiện cho giáo viên tiếp tục học tập, nghiên cứu
về sau. Lý giải về tình trạng này, CBQL cấp sở, phòng GD&ĐT được phỏng
vấn cho rằng: do chương trình bồi dưỡng chưa ổn định, kinh phí hạn hẹp nên
khó huy động lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp. Thực tế, hàng năm sở GD&ĐT đều có chỉ đạo Trường
Cao đẳng Sư phạm tỉnh biên soạn các chuyên đề bồi dưỡng GVMN, nhưng
chưa đặt việc biên soạn đó trong kế hoạch tổng thể về đảm bảo tài liệu bồi
dưỡng theo hệ thống mô-đun kiến thức, kỹ năng sư phạm phù hợp chuẩn nghề
nghiệp và khung năng lực của GVMN. Qua điều tra, có tới 23,5 % số người
được hỏi đánh giá ở mức trung bình, 14,7 % - đánh giá ở mức yếu về tổ chức
lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp. Điểm trung bình của nội dung quản lý này đạt 2,54 điểm (mức khá -
theo thang Likert), nhưng thấp nhất trong các đánh giá về tổ chức nhân lực
tham gia hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non.
92
3.4.4. Thực trạng chỉ đạo thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức
và phương tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non
Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức và tăng cường trang bị,
phương tiện là những yếu tố rất trọng yếu của ĐBCL hoạt động bồi dưỡng
GVMN. Vì vậy, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN đòi hỏi phải tính đến việc chỉ đạo của bộ máy quản lý về nội dung,
phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng NLSP
cho GVMN. Kết quả điều tra về vấn đề này cho thấy như sau:
Bảng 3.8. Kết quả điều tra thực trạng chỉ đạo thực hiện nội dung,
phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng NLSP
cho GVMN
TT
Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
1
3,29
32 2,2
112 7,8
597 41,8
687 48,1
2
2,93
753 52,7
293 20,5
321 22,5
61 4,3
3
2,45
678 47,5
436 30,5
219 15,3
95 6,7
Chỉ đạo đổi mới nội dung bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu PTNL người được bồi dưỡng Chỉ đạo việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, tăng cường các hình thức thảo luận, thực hành… trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN Đảm bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN Bảng 3.8 cho thấy, việc chỉ đạo thực hiện nội dung, phương pháp, hình
thức, phương tiện hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc đã được chú trọng. Trong đó, mặt nổi bật nhất là chỉ đạo đổi mới nội
dung bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu PTNL người được bồi dưỡng. Trong
các buổi tọa đàm, trao đổi với CBQL cấp sở, phòng GD&ĐT tại một số địa
phương, nhiều người đã chỉ rõ rằng: những đòi hỏi khách quan của việc
chuyển từ chuẩn hóa trình độ đào tạo của giáo viên sang chuẩn hóa theo
chuẩn nghề nghiệp, cũng như của việc thực hiện phổ cập GDMN trẻ 5 tuổi, áp
93
dụng chương trình GDMN mới, triển khai đề án “Phát triển GDMN giai đoạn
2018 - 2025”… đã buộc phải có sự thay đổi sâu sắc trong nội dung bồi dưỡng
NLSP cho GVMN. Vì vậy, trong những năm gần đây, các sở, phòng GD&ĐT
đã quyết liệt chỉ đạo giảm thiểu nội dung phổ biến các quy định của ngành, để
dành ưu tiên cho bổ sung, nâng cao, cập nhật những kiến thức, kỹ năng
chuyên môn cho giáo viên trong mỗi đợt tập huấn, bồi dưỡng. Điều đó đã
được nhiều cán bộ, giáo viên ghi nhận, cụ thể đã có 41,8 % số người được hỏi
đánh giá tốt, 48,1 % - đánh giá khá về đổi mới nội dung bồi dưỡng GVMN
đáp ứng yêu cầu PTNL người được bồi dưỡng. Nội dung đánh giá này đạt
điểm trung bình là 3,29 điểm (mức tốt- theo thang Likert).
Bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới nội dung bồi dưỡng, các sở, phòng
GD&ĐT ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng đã chú trọng đến chỉ đạo vận
dụng các phương pháp dạy học tiên tiến vào hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN. Theo các CBQL được phỏng vấn, giảng viên, báo cáo viên trong các
lớp bồi dưỡng tập trung tại cấp sở, phòng GD&ĐT thường là giảng viên của
Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh, cho nên họ ý thức được sự cần thiết, đồng
thời có khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động
bồi dưỡng GVMN. Nhưng nhìn chung việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy
học trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN chưa quyết liệt,
thậm chí có nơi còn buông lỏng. Vì thế, chỉ có 22,5 % số người được hỏi
đánh giá tốt, 52,7 % - đánh giá khá về chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực, tăng cường các hình thức thảo luận, thực hành… trong bồi
dưỡng NLSP cho GVMN. Nội dung đánh giá này đạt điểm trung bình là 2,93
điểm (mức khá- theo thang Likert).
Khâu được đánh giá thấp nhất trong chỉ đạo dạy học tại các lớp bồi dưỡng
tập trung về NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc là đảm bảo trang
bị, phương tiện kỹ thuật dạy học. Thực tế cho thấy, những lớp bồi dưỡng
GVMN được tổ chức tại Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh hoặc tại các địa điểm
94
do sở GD&ĐT bố trí thường có trang thiết bị dạy học khá, nhưng những lớp
bồi dưỡng mở ở các huyện, các cụm trường thì trang thiết bị dạy học thiếu
thốn, không đồng bộ như: thiếu màn hình thông minh, máy tính không nối
mạng, phương tiện nghe, nhìn chất lượng kém. Nhiều trường mầm non, nhất là
trường tại các xã vùng núi cao càng thiếu trang thiết bị phục vụ bồi dưỡng trực
tuyến cho giáo viên. Qua điều tra, có tới 30,5 % số người được hỏi đánh giá ở
mức trung bình, 15,3 % - đánh giá ở mức yếu về đảm bảo trang bị, phương tiện
kỹ thuật trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Điểm trung bình của
nội dung quản lý này đạt 2,45 điểm (mức trung bình - theo thang Likert), thấp
nhất trong các đánh giá về chỉ đạo thực hiện nội dung, phương pháp, hình thức
và phương tiện dạy học tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Điều này đặt
ra vấn đề cần phải quan tâm hơn nữa đến đảm bảo phương tiện cho hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
3.4.5. Thực trạng chỉ đạo mở rộng hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên mầm non dựa vào nhà trường
Loại hình bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ cho giáo viên, nhất là ở địa
bàn miền núi phía Bắc có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành, phát
triển NLSP của GVMN. Thúc đẩy hoạt động bồi dưỡng thường xuyên tại
trường và tự bồi dưỡng của GVMN là những tác động quản lý phù hợp với
xu hướng chuyển từ bồi dưỡng tập trung sang đào tạo bồi dưỡng dựa vào
nhà trường.
Trong các buổi tọa đàm, trao đổi, hầu hết CBQL khẳng định rằng, các
chủ thể quản lý cần tập trung tổ chức, chỉ đạo các khâu như: nâng cao tính
tích cực. chủ động của từng cơ sở GDMN trong tổ chức nghiên cứu, học tập,
thảo luận các chuyên đề chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; nâng cao chất
lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non;
tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau; đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo
viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm. Qua
95
điều tra, thực trạng chỉ đạo mở rộng hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
dựa vào nhà trường tại các tỉnh miền núi phía Bắc được đánh giá như sau:
Bảng 3.9. Kết quả điều tra về thực trạng chỉ đạo mở rộng hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN dựa vào nhà trường
TT
Nội dung đánh giá
Khá
Yếu
Tốt
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
2,47
101 7,1
681 47,7
430 30,1
216 15,1
1 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tích cực, chủ động, thống nhất trong tổ chức cho giáo viên nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên đề chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
3,26
597 41,8
631 44,2
178 12,5
22 1,5
3
3,01
353 24,7
772 54,1
29 2,0
274 19,2
2 Chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non Tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau về ứng dụng công nghệ thông tin, tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc
2,99
764 53,5
338 23,7
299 20,9
27 1,9
4 Đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm Bảng 3.9 cho thấy, khâu được đánh giá cao ở đây là: các cơ quan quản lý
và ban giám hiệu trường mầm non chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt
chuyên môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non nhằm góp phần
bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Đã có 41,8 % số người được điều tra đánh giá
tốt, 44,2 % - đánh giá khá về Chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên
môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non. Nội dung đánh giá này
đạt điểm trung bình là 3,26 điểm (mức tốt- theo thang Likert). Kết quả phỏng
vấn nhiều hiệu trưởng, hiệu phó trường mầm non đã xác nhận, các trường đều
chú trọng bố trí các giáo viên cốt cán, có uy tín về chuyên môn đảm nhiệm
cương vị tổ trưởng, nhóm trưởng tại các khối lớp, các điểm trường. Đồng
thời, các sinh hoạt chuyên môn của tổ nhóm giáo viên thường được nhà
trường bố trí kế hoạch hợp lý, chỉ đạo cụ thể về nội dung, phương thức tiến
96
hành. Do đó, hoạt động của tổ nhóm chuyên môn đã tác động tích cực đến
phát triển NLSP của giáo viên.
Bên cạnh nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn để bồi dưỡng
NLSP, nhiều trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã chú trọng tổ
chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau về ứng dụng công nghệ thông tin, tạo
hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc. Qua trao
đổi, nhiều CBQL chỉ rõ rằng, mặc dù các kỹ năng về công nghệ thông tin, tạo
hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc không
thuộc các mô đun bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nhưng lại có vai trò quan
trọng trong NLSP của GVMN, nên các trường mầm non ở các tỉnh miền núi
phía Bắc thường chủ động tổ chức bồi dưỡng các kỹ năng đó. Tận dụng một
số đặc tính tốt đẹp của con người sinh trưởng trong môi trường xã hội đa văn
hóa, đa ngôn ngữ như: sẵn sàng tham gia các sinh hoạt động cộng đồng, ham
học hỏi và rộng lòng giúp đỡ nhau…, các trường mầm non đã phân công
người có năng khiếu hơn giúp đỡ những người khác nâng cao trình độ ứng
dụng công nghệ thông tin, tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại
ngữ, đồng thời phân công giáo viên người dân tộc giúp đỡ giáo viên người
kinh học tiếng dân tộc. Cách làm đó đã được nhiều CBQL và GVMN đánh
giá cao. Thực tế, có 24,7 % số người được hỏi đánh giá tốt, 54,1 - đánh giá
khá về tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau. Nội dung quản lý này đạt
điểm trung bình là 3,01 điểm(mức khá - theo thang Likert).
Qua trao đổi, tọa đàm nhiều CBQL giáo dục đã nhận định rằng, GVMN
ở các địa phương vùng núi phía Bắc gặp không ít những cản trở cho hoạt
động tự học tập, tự bồi dưỡng NLSP. Bởi vậy, ban giám hiệu nhà trường
phải chủ động đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn
luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm. Kết quả quan sát thực tế
tại một số trường đã cho thấy, mỗi giáo viên đều có sổ nhật ký công tác
chuyên môn, trong đó ghi lại những thành công, chưa thành công trong xử lý
các tình huống sư phạm về chăm sóc, giáo dục trẻ hàng ngày, hàng tuần.
97
Những ghi chép này sẽ giúp cho giáo viên tự rút kinh nghiệm và định hướng
cho họ tìm hiểu, học tập thêm về mặt chuyên môn. Thực tế, đã có 23,7 % số
người được hỏi đánh giá tốt, 53,5 % - đánh giá khá về đôn đốc và tạo điều
kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động
sư phạm. Nội dung đánh giá này đạt điểm trung bình là 2,99 điểm (mức khá-
theo thang Likert).
Mở rộng bồi dưỡng NLSP cho GVMN dựa vào nhà trường đòi hỏi phải
tổ chức học tập, thảo luận nhiều chuyên đề bổ sung, nâng cao về kiến thức, kỹ
năng sư phạm. Nhưng theo kết quả quan sát tại không ít trường mầm non ở
các tỉnh miền núi phía Bắc, danh mục các chuyên đề học tập, thảo luận của
các trường không giống nhau, tài liệu nghiên cứu, học tập khá ít và chậm bổ
sung, cập nhật. Điều đó chứng tỏ rằng, các trường mầm non thường tự tổ chức
học tập, thảo luận, thiếu sự chỉ đạo cụ thể của các cơ quan quản lý cấp trên.
Qua điều tra, có tới 30,1 % số người được hỏi đánh giá ở mức trung bình,
15,1 % - đánh giá ở mức yếu về chỉ đạo các cơ sở GDMN tích cực, chủ động,
thống nhất trong tổ chức cho giáo viên nghiên cứu, học tập, thảo luận các
chuyên đề chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Điểm trung bình của nội dung
quản lý này đạt 2,47 điểm (mức trung bình - theo thang Likert), thấp nhất
trong các đánh giá về chỉ đạo mở rộng hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN dựa vào nhà trường. Đây có thể coi là yếu điểm cần được khắc phục.
3.4.6. Thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp
Kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các lực lượng tham gia
hoạt động đó, cung cấp những thông tin cần thiết về kết quả bồi dưỡng và
những vấn đề đặt ra đối với các chủ thể quản lý. Kết quả điều tra về bộ máy
QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá
đối với hoạt động bồi dưỡng GVMN cho thấy như sau:
98
Bảng 3.10. Kết quả điều tra về thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
TT Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
1
343 24,0
37 2,6 2,98
753 52,7
295 20,7
2
3
679 47,5 617 43,2
432 30,2 187 13,1
109 7,6 601 42,1
Thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp Thực hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và 208 kết quả thực hiện nhiệm vụ 14,7 2,49 Thực hiện nền nếp đánh giá, phân loại 23 GVMN theo chuẩn nghề nghiệp 1,6 3,26 Theo nhiều CBQL tại các sở, phòng GD&ĐT và hiệu trưởng, hiệu phó
các trường mầm non, “Quy định về chuẩn nghề nghiệp GVMN” đã chỉ rõ tiêu
chuẩn, quy trình đánh giá, xếp loại, điều đó đã tạo thuận lợi cho việc đảm bảo
nền nếp, chất lượng đánh giá, phân loại GVMN tại từng tổ chuyên môn, cũng
như trong toàn trường. Khi làm tốt việc này, bộ máy quản lý sẽ có căn cứ để
phân loại đối tượng bồi dưỡng, đồng thời từng giáo viên sẽ tích cực hơn trong
tham gia HĐBD, tự bồi dưỡng. Do đó, trong thời gian qua, bộ máy QLGD ở
các tỉnh miền núi phía Bắc đã chú trọng tổ chức tốt đánh giá, phân loại
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Qua điều tra đã có 42,1 % số người được hỏi
đánh giá tốt, 43,2 % - đánh giá khá về thực hiện nền nếp đánh giá, phân loại
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Nội dung đánh giá này đạt điểm trung bình
là 3,26 điểm (mức tốt- theo thang Likert).
Bên cạnh tổ chức tốt đánh giá, phân loại GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp, trong thời gian qua bộ máy QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã
chú trọng phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Theo đó, sở GD&ĐT tập trung
kiểm tra, đánh giá kết quả các đợt/ kỳ tập huấn, bồi dưỡng tập trung cho các
đối tượng GVMN. Kết quả hồi cứu các tài liệu lưu trữ về các đợt/ kỳ tập
99
huấn, bồi dưỡng tập trung GVMN tại Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Yên
Bái cho thấy rằng, các lớp bồi dưỡng chuyên đề có cấp chứng chỉ hoàn thành
khóa học do Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh đảm nhiệm thường kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của người học rất nghiêm túc. Nhưng những đợt/ kỳ
tập huấn, bồi dưỡng tổng hợp nhiều nội dung thì việc kiểm tra, đánh giá
thường chủ yếu được thực hiện bởi các tổ học tập, được phân chia theo từng
huyện và thông qua các bản thu hoạch cá nhân hoặc thảo luận tổ. Đối với các
lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN tập trung ở cấp huyện, phòng GD&ĐT đã
phối hợp chặt chẽ với Trường Sư phạm tỉnh, trực tiếp là giảng viên phụ trách
lớp học thường xuyên kiểm tra kỷ luật học tập và thực hiện các hình thức
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo đúng chương trình, kế hoạch bồi
dưỡng và có thông báo kết quả của từng người dự bồi dưỡng đến các trường
mầm non. Qua điều tra, đã có 24,0 % số người được hỏi đánh giá tốt, 52,7 % -
đánh giá khá về thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Nội dung đánh giá này
đạt điểm trung bình là 2,98 điểm (mức khá- theo thang Likert).
Khâu được coi là hạn chế nhất trong kiểm tra, đánh giá ở đây là thực
hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên
theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Theo các CBQL cấp
sở, phòng GD&ĐT, hiện nay kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP chủ yếu
thực hiện tại các lớp bồi dưỡng tập trung, chưa gắn được kết quả bồi dưỡng
với kết quả đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện
nhiệm vụ. Mặt khác, trong kiểm tra, thanh tra giáo dục tại trường mầm non,
các trường thường gặp khó khăn trong việc cung cấp các minh chứng về
HĐBD thường xuyên, tại chỗ của trường, dẫn đến kết luận kiểm tra thường dễ
bỏ qua những đánh giá về bồi dưỡng tại trường. Qua điều tra, có tới 30,2 % số
người được hỏi đánh giá ở mức trung bình, 14,7 % - đánh giá ở mức yếu về
thực hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo
viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Điểm trung bình
của nội dung quản lý này đạt 2,49 điểm (mức trung bình - theo thang Likert),
100
thấp nhất trong các đánh giá về kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
3.5. Thực trạng ảnh hƣởng của các yếu tố tác động tới quản lý hoạt
động bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm cho giáo viên mầm non ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
Ảnh hưởng của các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
thường thể hiện trên hai mặt: tích cực, thuận chiều và tiêu cực, cản trở. Xuất
phát từ quan niệm đó, việc nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố tác động
nói trên được tiến hành theo quy trình sau: (1) Tổ chức tọa đàm, trao đổi với
CBQL và GVMN về những biểu hiện cụ thể của các yếu tố tác động tới quản
lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo
chuẩn nghề nghiệp; (2) Khái quát những biểu hiện được nhiều người tham gia
tọa đàm, trao đổi nêu ra; (3) Xin ý kiến chuyên gia về phiếu điều tra, được
xây dựng trên cơ sở sử dụng các nội dung đã khái quát qua tọa đàm, trao đổi;
(4) Tổ chức điều tra bằng phiếu và xử lý kết quả điều tra [xem Phụ lục 6]; (5)
Phỏng vấn một số CBQL về đánh giá và những lý giải xung quanh kết quả
điều tra. Bằng cách làm như vậy, thực trạng ảnh hưởng của các yếu tố tác
động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp được khái quát theo hai hướng như sau:
3.5.1. Thực trạng ảnh hưởng tích cực, thuận chiều của các yếu tố tác
động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền
núi phía Bắc
Căn cứ kết quả tọa đàm, trao đổi với CBQL các cấp và GVMN, phiếu
điều tra về ảnh hưởng tích cực, thuận chiều của các tác động tới quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã đưa ra 15
nội dung ảnh hưởng cụ thể. Tổng hợp kết quả điều tra 1428 CBQL và GVMN
thu được 7 nội dung đạt 2,33 (với mức mạnh = 3 điểm, trung bình = 2
điểm, yếu = 1 điểm). Điều đó cho phép xác định được 7 nội dung ảnh hưởng
101
mạnh tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc như sau:
Bảng 3.11. Kết quả điều tra những ảnh hưởng tích cực, thuận chiều của
các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
Nội dung ảnh hƣởng Số TT
Mạnh
Yếu
Mức độ ảnh hƣởng Tần suất/ % Trung bình
1
1019 71,4 205 14,4 204 14,3 2,5 7
2
921 64,5 507 35,5 2,6 4 0 0
3
812 56,9 616 43,1 2,5 7 0 0
4
732 51,3 514 36,0 2,3 9 182 12,7
5
Việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi. Sự quan tâm của hệ thống chính trị và ngành giáo dục đến phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ năm tuổi. Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương vùng núi phía bắc trong những năm đổi mới vừa qua Những mặt tích cực trong phong tục, tập quán, thói quen của nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc Chất lượng của đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở từng tỉnh không ngừng được nâng cao. Phần lớn GVMN có tính kỷ luật tốt. 6
7 509 35,6 685 48,0 621 43,5 919 64,4 697 48,8 807 56,5 0 0 46 3,2 0 0 Sự đồng thuận, đoàn kết trong tập thể sư phạm ở các trường mầm non.
2,3 6 2,4 4 2,4 3 Bảng 3.11 cho thấy, việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển giáo dục mầm non và xây dựng đội ngũ giáo viên
mầm non tác động mạnh, theo chiều hướng tích cực đến quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo hai nội dung chính
là: (1) Việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về hỗ trợ phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi. (2) Sự
quan tâm của hệ thống chính trị và ngành giáo dục đến phát triển đội ngũ
102
GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ năm tuổi.. Đây là những ảnh
hưởng được đánh giá thuộc loại mạnh, với điểm trung bình lần lượt là 2,57 và
2,64 điểm. Qua trao đổi, nhiều CBQL cho rằng, các nội dung trên có ý nghĩa rất
quan trọng về tạo cơ sở chính trị - xã hội và căn cứ pháp lý cho việc ra các quyết
định quản lý trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Cùng với đó, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và đặc
điểm về đời sống sinh hoạt, phong tục, tập quán nhân dân ở các tỉnh miền núi
phía Bắc cũng có nhiều ảnh hưởng tích cực đến quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN. Trong đó nổi lên hai nội dung sau: (1) Sự phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của địa phương vùng núi phía bắc trong những năm đổi
mới vừa qua (2,57 điểm - ảnh hưởng mạnh). (2) Những mặt tích cực trong
phong tục, tập quán, thói quen của nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc
(2,39 điểm - ảnh hưởng mạnh). Điều đó nói lên rằng, đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội tiến bộ ở các địa phương miền núi phía Bắc đã làm cho việc tổ
chức bồi dưỡng NLSP cho GVMN trở nên thuận lợi hơn trước đây.
Ngoài những ảnh hưởng thuộc môi trường chính trị, kinh tế, xã hội vừa
nêu, kết quả điều tra đã cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố con người
tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Đó là: (1) Chất lượng của
đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non tại các cơ sở đào tạo đại học, cao
đẳng ở từng tỉnh không ngừng được nâng cao(2,36 điểm - ảnh hưởng mạnh).
Qua trao đổi, nhiều GVMN cho biết rằng, trong những năm gần đây giảng
viên từ Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh về giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
tập trung ở các huyện đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp, được
nhiều người dự học tin tưởng, quý trọng và khâm phục. (2) Phần lớn GVMN
có tính kỷ luật tốt (2,36 điểm - ảnh hưởng mạnh). Đây là một thuận lợi đã
được nhấn mạnh trong tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo viên tại các địa
phương, bởi vì nhờ tính kỷ luật tốt nên giáo viên đã chấp hành nghiêm các
quy định của ban tổ chức các lớp bồi dưỡng, qua đó góp phần vào thành
công của hoạt động bồi dưỡng NLSP. (3) Sự đồng thuận, đoàn kết trong tập
thể sư phạm ở các trường mầm non cũng được coi là một ảnh hưởng tích cực
103
đến quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía
Bắc (2,43 điểm - ảnh hưởng mạnh). Bởi vì, nhờ sự đồng thuận, đoàn kết
trong tập thể sư phạm mà bộ máy quản lý giáo dục vững tâm hơn trong việc
đẩy mạnh bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tăng tính tự quản trong hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
3.5.2. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực, cản trở của các yếu tố tác động
tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc
Kết quả điều tra về 15 nội dung ảnh hưởng tiêu cực, cản trở đến quản lý
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã cho
phép rút ra 7 nội dung ảnh hưởng mạnh sau đây.
Bảng 3.12. Kết quả điều tra những ảnh hưởng tiêu cực, cản trở của các
yếu tố tác động tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
Nội dung ảnh hƣởng Số TT
Yếu
Mạnh
1
2 2,5 7 2,3 6
3
Mức độ ảnh hƣởng Tần suất/ % Trung bình 616 43,1 912 63,9 919 64,4 812 56,9 516 36,1 509 35,6 0 0 0 0 0 0 2,3 6
4
677 47,4 698 48,9 53 3,7 2,4 4
5
2,4 5
6
687 48,1 701 49,1 693 48,5 695 48,7 48 3,4 32 2,2 2,4 7
7
Khung năng lực GVMN còn thiếu thống nhất, chưa cụ thể. Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non thiếu ổn định. Thiếu cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên cứu, biên soạn tài liệu dùng trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Một bộ phận cán bộ, GVMN chưa tích cực, tự giác tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Một bộ phận GVMN chưa có thói quen và thiếu cố gắng trong tự học tập, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm. Một bộ phận GVMN còn tự ti, thiếu chủ động giúp đỡ lẫn nhau theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp. Chưa tận dụng được hệ thống mạng Internet vào phục vụ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN 722 50,6 514 36,0 192 13,4 2,3 7
104
Bảng 3.12 cho thấy, khung năng lực GVMN còn thiếu thống nhất, chưa
cụ thể đang được coi là một yếu tố cản trở đối với quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc (2,57 điểm - ảnh
hưởng mạnh). Thực tế, hồi cứu tư liệu tại các sở, phòng GD&ĐT cho thấy,
một số tỉnh đã ban hành văn bản “Danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công
việc, khung năng lực trường mầm non công lập”, nhưng nội dung chưa có sự
thống nhất giữa các tỉnh và thiếu tiêu chí đánh giá năng lực. Qua trao đổi,
nhiều CBQL cho rằng, mặc dù công văn số 5569/BGDĐT-NGCBQLGD của
Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn thực hiện Thông tư số 26/2018/TT-BGDĐT
ngày 08 tháng 10 năm 2018 đã chỉ dẫn rõ nội dung, cách thức đánh giá, phân
loại GVMN, nhưng để quản lý bồi dưỡng NLSP cho GVMN thì cần dựa vào
bộ tiêu chí đánh giá NLSP theo khung năng lực GVMN. Đây là vấn đề cần
được tính đến trong tìm biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Thực tế cho thấy, kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN có quan hệ mật
thiết với quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ này ở từng địa phương. Nhưng
qua điều tra, vấn đề “Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non thiếu ổn định” nổi lên như là một sự cản trở đối với quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc (2,36 điểm - ảnh hưởng
mạnh). Điều đó đặt ra yêu cầu phải làm tốt hơn chức năng kế hoạch hóa trong
quản lý giáo dục nói chung, quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp nói riêng.
Để ĐBCL hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp, từng địa phương phải tổ chức nghiên cứu về GDMN và biên soạn
sách, tài liệu bồi dưỡng sát với nhu cầu phát triển chuyên môn, nghiệp vụ của
GVMN trong địa bàn. Nhưng kết quả điều tra cho thấy, “ Thiếu cán bộ, giảng
viên có khả năng nghiên cứu, biên soạn tài liệu dùng trong bồi dưỡng NLSP
cho GVMN” là những nội dung ảnh hưởng mang tính cản trở đến quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn
nghề nghiệp (2,36 điểm - ảnh hưởng mạnh). Thực tế đó đặt ra yêu cầu là: các
105
tỉnh miền núi phía Bắc phải quan tâm hơn nữa đến phát triển lực lượng
chuyên gia bậc cao (giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ) thuộc chuyên ngành GDMN
để đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Kết quả điều tra còn cho thấy, có tới 3 yếu điểm thuộc về GVMN ở các
tỉnh miền núi phía Bắc đang là những cản trở đối với quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, đó là: (1) Một bộ phận cán
bộ, GVMN chưa tích cực, tự giác tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP theo
chuẩn nghề nghiệp (2,44 điểm - ảnh hưởng mạnh); (2) Một bộ phận GVMN
chưa có thói quen và thiếu cố gắng trong tự học tập, tự bồi dưỡng năng lực
sư phạm (2,45 điểm - ảnh hưởng mạnh); (3) Một bộ phận GVMN còn tự ti,
thiếu chủ động giúp đỡ lẫn nhau theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp (2,47
điểm - ảnh hưởng mạnh). Đây chính là những nguyên nhân hạn chế trong
quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
cần phải tìm biện pháp tháo gỡ.
Trong điều kiện giao thông ở địa bàn rừng núi còn khó khăn, cường độ
làm việc của GVMN khá cao, ít có điều kiện thoát ly khỏi công việc chuyên
môn để đi học thêm, do đó hoạt động bồi dưỡng NLSP cho đối tượng này rất
cần đến sự trợ giúp của công nghệ thông tin để tự học hoặc bồi dưỡng trực
tuyến (online). Nhưng qua điều tra, việc “Chưa tận dụng được hệ thống mạng
Internet vào phục vụ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN” được xác định
là một trong những ảnh hưởng cản trở tới quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp ở các tỉnh miền núi phía Bắc (2,37 điểm
- ảnh hưởng mạnh). Vì thế, cần phải tìm biện pháp khắc phục.
3.6. Đánh giá khái quát ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.6.1. Ưu điểm và nguyên nhân ưu điểm
Ưu điểm:
Một là, cơ quan quản lý, CBQL tiến hành tốt việc xác lập mục tiêu, yêu
cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo từng loại đối tượng bồi
dưỡng, dựa trên kết quả thu thập, tổng hợp thông tin về đánh giá, phân loại
giáo viên và nguyện vọng của họ đối với bồi dưỡng theo chuẩn nghề nghiệp.
106
Hai là, các sở, phòng GD&ĐT đã thực hiện được phân cấp quản lý trong
xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng giáo viên và quan tâm chỉ đạo các
trường tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về
NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
Ba là, đã tổ chức, điều hành tốt lực lượng giảng viên, báo cáo viên tham
gia giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng tập trung, trên cơ sở huy động hợp lý
nguồn nhân lực giáo dục của Trường Cao đẳng Sư phạm, Trường Đại học
cộng đồng tại từng tỉnh.
Bốn là, bộ máy QLGD các cấp đã chú trọng chỉ đạo đổi mới nội dung
bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu thực hiện có kết quả chương trình bồi
dưỡng thường xuyên GVMN do Bộ GD&ĐT ban hành.
Năm là, các cơ sở GDMN đã coi trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh
hoạt chuyên môn ở các tổ, nhóm chuyên môn; đôn đốc và tạo điều kiện cho
giáo viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm.
Sáu là, đã thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động
bồi dưỡng giáo viên và quan tâm chỉ đạo đánh giá, phân loại GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Nguyên nhân của những ưu điểm
Thứ nhất, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ phát
triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi đã được thực hiện nghiêm túc và có
hiệu quả, hệ thống chính trị và ngành giáo dục quan tâm đến phát triển đội
ngũ GVMN, đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ năm tuổi ở các tỉnh
miền núi phía Bắc.
Thứ hai, trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của địa phương miền núi phía Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
GDMN và hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Thứ ba, những mặt tích cực trong phong tục, tập quán, thói quen của
nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc tạo chỗ dựa tinh thần vững chắc sự
phấn đấu vươn lên của GVMN trong nghề nghiệp.
107
Thứ tư, chất lượng của đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non tại
các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở từng tỉnh không ngừng được nâng cao,
tạo điều kiện thuận lợi việc huy động lực lượng tham gia giảng dạy tại các lớp
bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Thứ năm, đa số cán bộ, GVMN có tính kỷ luật tốt, tập thể sư phạm ở các
trường mầm non có sự đồng thuận, đoàn kết tốt do đó dễ tạo được sự thống
nhất nhận thức và hành động trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở địa bàn
miền núi phía Bắc.
3.6.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
Hạn chế
Một là, bộ máy QLGD còn chậm tổ chức xây dựng và sử dụng bộ tiêu
chí đánh giá NLSP vào quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Hai là, chưa cụ thể hóa rõ ràng, sát thực tiễn chương trình bồi dưỡng
thường xuyên GVMN của Bộ GD&ĐT vào chương trình bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các địa phương.
Ba là, chưa quan tâm đầy đủ đến tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Bốn là, cơ quan quản lý, CBQL chưa có nhiều biện pháp đảm bảo trang
bị, phương tiện kỹ thuật trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Năm là, còn có biểu hiện buông lỏng chỉ đạo trường mầm non tổ chức
nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên đề bồi dưỡng NLSP cho giáo viên.
Sáu là, chưa thực hiện tốt kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng
NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện
nhiệm vụ.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, khung năng lực GVMN còn thiếu thống nhất, chưa cụ thể, dẫn
đến các chủ thể quản lý thiếu công cụ đánh giá nhu cầu và kết quả bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
108
Thứ hai, quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
thiếu ổn định gây trở ngại cho việc xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Thứ ba, thiếu cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên cứu, biên soạn tài
liệu dùng trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN phù hợp với thực tiễn phát triển
GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Thứ tư, một bộ phận cán bộ, GVMN chưa tích cực, tự giác tham gia hoạt
động bồi dưỡng NLSP; chưa có thói quen và thiếu cố gắng trong tự học tập,
tự bồi dưỡng; tự ti, thiếu chủ động giúp đỡ lẫn nhau phát triển chuyên môn
theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
Thứ năm, sự nghèo nàn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, kỹ thuật của các
trường mầm non và tình trạng chưa tận dụng được hệ thống mạng Internet
vào phục vụ hoạt động bồi dưỡng gây trở ngại cho việc thực hiện bồi dưỡng
NLSP của GVMN dựa vào nhà trường ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
109
Kết luận chƣơng 3
Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, triển khai thực
hiện đề án “Phát triển GDMN giai đoạn 2018 - 2025”, trong thời gian qua, các
sở, phòng GD&ĐT, các trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã
không ngừng nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Đóng
góp vào những tiến bộ đó có phần hết sức quan trọng của phát triển của đội
ngũ GVMN và hoạt động bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ này.
Để đạt được những thành công trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN, bộ máy
QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã triển khai toàn diện và đạt được nhiều
thành công trên các mặt: xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng; xây dựng và thực
hiện chương trình, kế hoạch hoạt động; quản lý nguồn nhân lực tham gia; chỉ
đạo nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện bồi dưỡng; thúc đẩy bồi
dưỡng thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng của GVMN; kiểm tra, đánh giá
kết quả hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn còn những hạn chế, bất
cập về mục tiêu, yêu cầu, chương trình bồi dưỡng, huy động nhân lực, đảm
bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động bồi dưỡng. Những
hạn chế đó có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân
chủ quan là chính. Vì vậy, bộ máy QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc cần
phải nhìn thẳng vào những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của nó để tìm ra
biện pháp quản lý có hiệu quả hơn hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp. Làm được như vậy nhất định đội ngũ GVMN ở các
tỉnh miền núi phía Bắc sẽ không ngừng phát triển.
110
Chƣơng 4
BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM, THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM
CHO GIÁO VIÊN MẦM NON Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
4.1. Biện pháp quản lý hoạt động bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm cho
giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
4.1.1. Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của giáo viên mầm non
đối với hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp
4.1.1.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Mục tiêu của biện pháp này là thúc đẩy GVMN tích cực tham gia vào
các hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Qua đó, góp phần
khắc phục nguyên nhân hạn chế đã nêu ở chương 3, đó là: “một bộ phận cán
bộ, GVMN chưa tích cực, tự giác tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP theo
chuẩn nghề nghiệp”.
Thực hiện biện pháp này có ý nghĩa đặt người GVMN vào vị trí trung
tâm của hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Bởi vì, mọi tác
động bồi dưỡng chỉ thực sự đưa tới sự tiến bộ của đối tượng bồi dưỡng khi họ
nỗ lực thực hiện mục tiêu, yêu cầu mà các chủ thể quản lý đề ra.
4.1.1.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Trong quá trình phát triển đội ngũ GVMN, việc chuyển từ chuẩn hóa
theo trình độ đào tạo sang chuẩn hóa theo chuẩn nghề nghiệp là bước thay đổi
rất sâu sắc về cả tiêu chuẩn, tiêu chí và con đường đạt đến các tiêu chuẩn, tiêu
chí đó. Vì vậy, xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với hoạt
động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp phải được tiến hành một cách
khoa học bằng các tác động chủ yếu sau:
Một là, sở, phòng GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo
viên học tập, thảo luận các quy định trong chuẩn nghề nghiệp GVMN.
Trong quá trình phát triển giáo dục nói chung, GDMN nói riêng, chuẩn
nghề nghiệp GVMN non cũng có những thay đổi, phát triển nhất định. Để
111
GVMN kịp thời đáp ứng các quy định mới trong chuẩn nghề nghiệp, bộ máy
QLGD, trực tiếp là ban giám hiệu trường mầm non cần tổ chức tốt việc học tập,
thảo luận về các quy định đó. Công việc này sẽ giúp cho giáo viên hiểu rõ tiêu
chuẩn, tiêu chí, cách đánh giá, phân loại theo từng tiêu chuẩn, tiêu chí được nêu
trong chuẩn nghề nghiệp. Đây là một trong những cách thức định hướng cho
giáo viên hoàn thiện phẩm chất, năng lực của mình, do đó có ảnh hưởng tích
cực đến thái độ của giáo viên đối với bồi dưỡng và tự bồi dưỡng NLSP.
Hai là, hiệu trưởng trường mầm non chỉ đạo các tổ chuyên môn tổ chức
cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu phấn đấu đạt các tiêu chuẩn, tiêu chí quy định
trong chuẩn nghề nghiệp.
Sự hiểu biết về chuẩn nghề nghiệp GVMN chỉ thực sự trở thành động
lực thúc đẩy mỗi giáo viên phấn đấu vươn lên trong hoạt động nghề nghiệp
khi người giáo viên ý thức được trách nhiệm của mình đối với đáp ứng đòi
hỏi của các tiêu chuẩn, tiêu chí mà chuẩn nghề nghiệp quy định. Vì vậy, sau
khi quán triệt cho GVMN các quy định trong chuẩn nghề nghiệp, hiệu trưởng
trường mầm non cần chỉ đạo các tổ chuyên môn tổ chức cho giáo viên tự đánh
giá bản thân theo các tiêu chuẩn, tiêu chí về phẩm chất, năng lực. Nhờ đó,
mỗi GVMN sẽ tự ý thức được khả năng đáp ứng của mình đối với các yêu cầu
của chuẩn năng lực hiện hành. Đây là tiền đề để GVMN xác định mục tiêu
phấn đấu để không bị đánh giá thấp hoặc bị đào thải khỏi hoạt động nghề
nghiệp mà họ đang theo đuổi.
Để tạo điều kiện cho giáo viên có được quyết tâm cao trong phát triển
chuyên môn, nghiệp vụ, hiệu trưởng trường mầm non cần chỉ đạo các tổ chuyên
môn tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu phấn đấu đạt các tiêu chuẩn, tiêu chí
quy định trong chuẩn nghề nghiệp. Việc đăng ký như vậy sẽ tạo nên sự ràng
buộc trách nhiệm của từng giáo viên với tập thể sư phạm, do đó họ sẽ nỗ lực hơn
trong tham gia bồi dưỡng, tự bồi dưỡng theo chuẩn nghề nghiệp.
Ba là, hiệu trưởng trường mầm non, tổ trưởng chuyên môn khảo sát,
tổng hợp nhu cầu, nguyện vọng bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
112
năng, thái độ sư phạm của GVMN để phân công, bố trí lực lượng dự học tại
các lớp bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
Thực chất đây là một trong những cách thức tác động đến động cơ học
tập của GVMN tại các lớp bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Bởi vì,
động cơ hoạt động của con người chỉ nảy sinh khi nhu cầu của họ tìm thấy đối
tượng thỏa mãn. Nếu hiệu trưởng trường mầm non, tổ trưởng chuyên môn sâu
sát tìm hiểu nhu cầu bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ
sư phạm của từng giáo viên thuộc quyền, trên cơ sở đó cử họ đi dự các lớp
bồi dưỡng thích hợp thì sẽ làm cho giáo viên hào hứng, tích cực hơn trong
học tập về chuyên môn, nghiệp vụ.
Tuy nhiên, nhu cầu, nguyện vọng được bồi dưỡng của GVMN rất đa
dạng, nhưng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN không thể
thỏa mãn đầy đủ nhu cầu, nguyện vọng của tất cả mọi đối tượng giáo viên. Do
đó, bên cạnh việc tính đến nhu cầu bồi dưỡng của giáo viên, hiệu trưởng trường
mầm non, tổ trưởng chuyên môn phải giao nhiệm vụ, động viên tư tưởng, xây
dựng ý thức trách nhiệm cho giáo viên trước khi cử họ dự các lớp bồi dưỡng do
sở, phòng GD&ĐT tổ chức. Việc đó chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi ban
giám hiệu trường mầm non luôn theo dõi hoạt động học tập của người được cử
đi bồi dưỡng và coi kết quả học tập tại lớp bồi dưỡng, tập huấn là một trong
những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của GVMN.
Bốn là, ban giám hiệu phối hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội trong
nhà trường giáo dục cho giáo viên lòng yêu nghề, yêu trẻ và tinh thần trách
nhiệm đối với nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Sự quan tâm của GVMN đối với việc nâng cao phẩm chất, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của mình luôn có quan hệ mật thiết với xu hướng
nghề nghiệp của họ. Do đó, để giáo viên có thái độ tích cực trong bồi dưỡng,
tự bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp, ban giám hiệu và các đoàn thể,
tổ chức xã hội trong nhà trường phải có những tác động giáo dục nhằm làm
cho giáo viên thêm tận tâm với nghề; an tâm, hứng thú với việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em; có sự cố kết, gắn bó với tập thể sư phạm… Nói cách khác,
113
các chủ thể quản lý trong trường mầm non thông qua giáo dục cho giáo viên
lòng yêu nghề, yêu trẻ và tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ chăm sóc,
giáo dục trẻ em để tác động tới động cơ, thái độ tích cực của giáo viên trong
HĐBD, tự bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp.
4.1.1.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Việc giáo dục nhận thức, xây dựng thái độ tích cực của GVMN đối với
hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp chỉ đạt hiệu quả khi các
chủ thể quản lý trong nhà trường, trực tiếp là hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên
môn có khả năng thuyết phục, cảm hóa đồng nghiệp. Vì vậy, uy tín và sự nêu
gương của các CBQL trong trường mầm non về lòng tận tâm với nghề, về thái
độ nghiêm túc học tập để nâng cao trình độ mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ phải được coi là một trong những điều kiện thực hiện biện pháp này.
Bên cạnh đó, động cơ, thái độ trách nhiệm của mỗi cá nhân GVMN đối
với hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp thường bị chi phối
bởi môi trường văn hóa sư phạm trong trường mầm non.Vì vậy, giáo dục
nhận thức, xây dựng thái độ tích cực của GVMN đối với hoạt động bồi dưỡng
NLSP theo chuẩn nghề nghiệp phải bằng tập thể và thông qua tập thể. Điều đó
dẫn đến chỗ, sự đoàn kết, đồng thuận của tập thể giáo viên trong mỗi trường
mầm non trở thành điều kiện hết sức cần thiết cho việc xây dựng ý thức trách
nhiệm cao của giáo viên trong bồi dưỡng, tự bồi dưỡng về NLSP để đạt tới
các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đã được quy định trong chuẩn nghề
nghiệp GVMN.
4.1.2. Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp
4.1.2.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Biện pháp này nhằm thực hiện chức năng kế hoạch hóa của QLGD, qua đó
phát huy vai trò tổ chức, chỉ đạo, điều hành của sở, phòng GD&ĐT trong nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN, đáp ứng yêu cầu của chuẩn
nghề nghiệp. Biện pháp này góp phần khắc phục nguyên nhân hạn chế đã nêu ở
chương 3, đó là: “quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
114
thiếu ổn định gây trở ngại cho việc xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp”.
Thực hiện tốt kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại
các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp sẽ đảm bảo tính định hướng rõ ràng,
phân định trách nhiệm cụ thể của các cấp quản lý đối với hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp trong khoảng thời gian tương đối
dài, đồng thời khắc phục tình trạng chắp vá, trùng lặp về nội dung bồi dưỡng
giữa các năm, các đợt tập huấn.
4.1.2.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Một là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức đánh
giá, phân loại và báo cáo nhu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN lên các cơ
quan QLGD.
Đây là bước chuẩn bị những căn cứ thực tế cho việc xác lập kế hoạch bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Vì vậy, giám đốc sở
GD&ĐT cần định hướng cho việc đánh giá, phân loại GVMN theo các mặt
chủ yếu sau: (1) Trình độ đào tạo; (2) Thâm niên, kinh nghiệm công tác; (3)
Kết quả đánh giá, phân loại GVMN về các lĩnh vực: phẩm chất nhà giáo; trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc),
ứng dụng công nghệ thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Căn cứ kết quả đánh giá, phân loại theo các mặt nêu trên, từng cơ sở
GDMN phải xác định rõ và báo cáo đầy đủ nhu cầu bồi dưỡng giáo viên về
các mặt cụ thể như sau: (1) Bồi dưỡng đạt chuẩn trình độ đào tạo; (2) Bồi
dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho giáo viên mới; (3) Bồi dưỡng cập nhật và
nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn; (4) Bồi dưỡng tiếng dân tộc và văn
hóa địa phương.
Sở GD&ĐT có trách nhiệm quy định mẫu biểu báo cáo kết quả đánh giá,
phân loại và nhu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN, trên cơ sở đó phòng
GD&ĐT huyện tổng hợp số liệu. Căn cứ vào nhu cầu chung của từng tỉnh,
giám đốc sở GD&ĐT quyết định việc phân luồng (bồi dưỡng đạt chuẩn trình
115
độ đào tạo; bồi dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho giáo viên mới; bồi dưỡng
cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn; bồi dưỡng tiếng dân tộc
và văn hóa địa phương) và phân cấp (cấp tỉnh, huyện và trường mầm non)
trong HĐBD NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Hai là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo xây dựng kế hoạch của từng giai
đoạn và hàng năm về bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Giám đốc sở GD&ĐT cần chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc sở và
các phòng GD&ĐT huyện hoàn thiện quy hoạch phát triển đội ngũ GVMN
trên quy mô toàn tỉnh và từng huyện. Tư tưởng chỉ đạo chung của quy hoạch
này là: đảm bảo đủ số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng, nhất là NLSP
của đội ngũ giáo viên, tạo tính kế thừa liên tục giữa giáo viên mới, giáo viên
có kinh nghiệm, giáo viên cốt cán. Bám sát nhu cầu bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp và quy hoạch phát triển đội ngũ GVMN,
giám đốc sở GD&ĐT giao nhiệm vụ cho cơ quan chức năng thuộc sở tổ chức
xây dựng, thẩm định, hoàn thiện và thông qua kế hoạch từng giai đoạn và
hàng năm về công tác bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Các kế hoạch này phải
quán triệt được các quy định, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về bồi dưỡng
GVMN; đồng thời đáp ứng đòi hỏi của việc thực thi quy hoạch phát triển đội
ngũ theo từng giai đoạn, đảm bảo tính nhất quán giữa kế hoạch từng giai đoạn
và kế hoạch hàng năm.
Ba là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo phân cấp tổ chức thực hiện kế hoạch
bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Căn cứ nhu cầu đã tổng hợp và kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp đã được thông qua, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo
phân cấp tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng như sau: Cấp sở GD&ĐT tỉnh
chịu trách nhiệm chính về tổ chức bồi dưỡng cập nhật và nâng cao kiến thức,
kỹ năng chuyên môn cho CBQL, giáo viên cốt cán và đào tạo lại cho giáo
viên chưa đạt chuẩn tại Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh. Cấp phòng GD&ĐT
huyện chịu trách nhiệm tổ chức các lớp bồi dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho
giáo viên mới; các đợt tập huấn chuyên đề để cập nhật và nâng cao kiến thức,
116
kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; các lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc và
văn hóa địa phương.
Bốn là, trưởng phòng GD&ĐT huyện chỉ đạo xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp phù hợp với phân cấp trách
nhiệm đã được giao.
Căn cứ để phòng GD&ĐT huyện xây dựng kế hoạch bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp bao gồm: Kế hoạch của sở GD&ĐT về
bồi dưỡng GVMN; phạm vi trách nhiệm tổ chức các lớp bồi dưỡng đã được
phân cấp; quy hoạch phát triển đội ngũ GVMN của phòng GD&ĐT huyện;
nhu cầu bồi dưỡng NLSP cho GVMN trên địa bàn; nguồn lực có thể huy động
để thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng giáo viên.
Nội dung trọng tâm của kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp do cấp phòng GD&ĐT xây dựng cần hướng vào việc bồi
dưỡng giáo viên mới; bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức, kỹ năng sư
phạm mầm non trong các đợt tập huấn chuyên đề phù hợp với chương trình
bồi dưỡng thường xuyên GVMN do Bộ GD&ĐT ban hành, cũng như kế
hoạch của sở GD&ĐT về đảm bảo lực lượng giảng viên và tài liệu bồi dưỡng.
Kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp ở cấp huyện
là sự cụ thể hóa kế hoạch bồi dưỡng GVMN của sở GD&ĐT vào điều kiện cụ
thể của địa phương.
Năm là, hiệu trưởng trường mầm non xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
thường xuyên của nhà trường theo năm học.
Để kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của nhà trường theo năm học có
tính khoa học, sát thực tiễn và khả thi, hiệu trưởng trường mầm non phải xuất
phát từ nhu cầu bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ sư
phạm của giáo viên để đề ra mục tiêu bồi dưỡng. Trọng tâm của kế hoạch bồi
dưỡng thường xuyên của nhà trường theo năm học là xác định các sinh hoạt
chuyên đề, tọa đàm, hội thảo, hoạt động giáo dục mẫu, báo cáo sáng kiến,
kinh nghiệm về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc,
giáo dục trẻ em sẽ thực hiện trong năm học. Trên cơ sở đó, hiệu trưởng phân
117
công các tổ, nhóm chuyên môn và giáo viên làm công tác chuẩn bị và tiến
hành. Đồng thời, kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của nhà trường phải xác
định rõ những mốc thời gian thực hiện. Kế hoạch này, sau khi được Hội đồng
trường thông qua, ban giám hiệu cần tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Bên cạnh đó, hiệu trưởng căn cứ vào kết quả đánh giá, phân loại giáo
viên theo chuẩn nghề nghiệp và kết quả kiểm tra, đánh giá hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ tiến hành phân loại đối tượng bồi dưỡng NLSP của nhà trường.
Từ đó, hiệu trưởng xác định danh sách giáo viên của nhà trường dự từng lớp
bồi dưỡng, phù hợp với kế hoạch của sở, phòng GD&ĐT về bồi dưỡng NLSP
cho GVMN. Chỉ có như vậy, giáo viên được cử dự các lớp bồi dưỡng mới đáp
ứng được tiêu chuẩn, điều kiện và chỉ tiêu triệu tập của sở, phòng GD&ĐT,
đồng thời đảm bảo tính thống nhất của kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN giữa các cấp sở, phòng GD&ĐT và trường mầm non.
4.1.2.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Để thực hiện được biện pháp này cần có sự đồng thuận của đội ngũ
GVMN và toàn bộ máy QLGD các cấp về quyết tâm phấn đấu đạt và vượt
chuẩn nghề nghiệp. Theo đó, mỗi giáo viên không được bằng lòng với việc
đạt chuẩn trình độ đào tạo theo quy định mà phải thường xuyên cập nhật,
nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục và đạt mức khá, tốt trong các tiêu chí của chuẩn nghề nghiệp.
Nói cách khác, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của CBQL và GVMN đối
với việc thực hiện các tiêu chuẩn, tiêu chí về phát triển chuyên môn, nghiệp
vụ trong chuẩn nghề nghiệp là một trong những điều kiện cần thiết để thực
hiện biện pháp kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, cơ quan và cán bộ chuyên trách về quản lý GDMN của
sở, phòng GD&ĐT phải được kiện toàn, đủ khả năng nhận định chính xác về
nhu cầu bồi dưỡng NLSP cho đội ngũ GVMN trên địa bàn, từ đó hoạch định
được kế hoạch tổ chức HĐBD sát đối tượng, sát thực tế GDMN ở tỉnh miền
núi phía Bắc.
118
Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh có vai trò hết sức quan trọng đối với
việc đảm bảo tính khả thi của kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo
chuẩn nghề nghiệp, vì vậy cần tập trung phát triển ngành sư phạm mầm non
và luôn hợp tác chặt chẽ với sở, các phòng GD&ĐT trên địa bàn trong xây
dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên
môn, nghiệp vụ cho các đối tượng GVMN.
4.1.3. Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi
dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non
4.1.3.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Biện pháp này nhằm hướng tới mục tiêu huy động nguồn nhân lực chất
lượng cao, có chuyên môn sâu về lĩnh vực GDMN trong địa bàn từng tỉnh để
biên soạn chương trình, tài liệu và thực hành giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
GVMN của từng tỉnh, huyện. Đây là cách thức khắc phục nguyên nhân hạn
chế trong quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN, đã được nêu trong
chương 3, đó là “thiếu cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên cứu, biên soạn
tài liệu dùng trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN phù hợp với thực tiễn phát
triển GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc”.
Ý nghĩa của biện pháp này là ở chỗ, phát huy vai trò của các Trường Cao
đẳng Sư phạm trong địa bàn từng tỉnh đối với hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN, từ đó thực hiện một cách có hiệu quả gắn đào tạo với bồi dưỡng.
Chính sự tham gia ngày càng sâu, rộng của đội ngũ giảng viên của Trường Cao
đẳng Sư phạm vào bồi dưỡng NLSP cho GVMN sẽ làm cho nhà trường bám
sát hơn những thay đổi, phát triển ở sản phẩm đào tạo của mình tại địa phương.
Mặt khác, đó cũng là bước đi thích hợp của việc tổ chức, sắp xếp lại hệ thống
các Trường Cao đẳng Sư phạm ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay.
4.1.3.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Một là, giám đốc sở GD&ĐT phối hợp với hiệu trưởng Trường Cao
đẳng Sư phạm hoặc Phân hiệu Đại học Sư phạm đặt tại tỉnh (sau đây gọi
chung là Trường Sư phạm tỉnh) tổ chức xây dựng mục tiêu, chương trình bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
119
Để mục tiêu, chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp đáp ứng đúng nhu cầu của đội ngũ giáo viên tại các địa phương
hiện nay, giám đốc sở GD&ĐT cần chỉ đạo Trường Sư phạm tỉnh tổ chức
biên soạn mục tiêu, chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo 3 loại đối
tượng bồi dưỡng cụ thể như sau: bồi dưỡng đạt chuẩn trình độ đào tạo; bồi
dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho giáo viên mới; bồi dưỡng cập nhật và nâng
cao. Các mục tiêu, chương trình bồi dưỡng vừa nêu có tính độc lập tương đối
và liên thông với nhau. Tùy khối lượng kiến thức, kỹ năng sư phạm cần trang
bị cho người được bồi dưỡng, mỗi chương trình có thể bao gồm một số học
phần khác nhau để tiện cho việc tổ chức vài ba đợt tập huấn chuyên đề. Trong
mỗi học phần cần xác định rõ những chuyên đề bắt buộc và một số chuyên đề
tự chọn để từng thời gian, từng địa phương triển khai bồi dưỡng cho sát đối
tượng, sát thực tế GDMN.
Trường Sư phạm tỉnh được sở GD&ĐT giao kế hoạch, cấp kinh phí và
ủy quyền tổ chức các ban biên soạn và thẩm định mục tiêu, chương trình bồi
dưỡng NLSP cho GVMN. Trên cơ sở đó, giám đốc sở GD&ĐT quyết định
thành lập hội đồng đánh giá, nghiệm thu mục tiêu, chương trình bồi dưỡng
NLSP cho GVMN do Trường Sư phạm tỉnh biên soạn. Sau khi những mục
tiêu, chương trình đó được hoàn thiện theo kết luận của hội đồng đánh giá,
nghiệm thu, giám đốc sở GD&ĐT quyết định áp dụng vào hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN hàng năm hoặc từng giai đoạn trên địa bàn tỉnh.
Hai là, giám đốc sở GD&ĐT giao nhiệm vụ cho Trường Sư phạm tỉnh tổ
chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Trên cơ sở chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề
nghiệp đã được thông qua, giám đốc sở GD&ĐT cần giao nhiệm vụ cho
Trường Sư phạm tỉnh tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng. Yêu cầu chung của
việc xác định danh mục các tài liệu cần biên soạn là: Không biên soạn những
chuyên đề có trong tài liệu bồi dưỡng đã được Bộ GD&ĐT ấn hành, không
trùng lặp với giáo trình đào tạo ngành GDMN của Trường Sư phạm tỉnh; tập
trung biên soạn các chuyên đề phù hợp với các mô-đun bồi dưỡng nhằm phát
120
triển NLSP đã được quy định trong Chương trình bồi dưỡng thường xuyên
GVMN do Bộ GD&ĐT ban hành. Theo đó, Trường Sư phạm tỉnh cần tập trung
biên soạn tài liệu về: (1) Những chuyên đề có tính chất bổ sung, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng về chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non; (2) Các chuyên đề
sư phạm thực hành, các bài tập tình huống sư phạm trong GDMN.
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Trường Sư phạm tỉnh cần quyết định
thành lập các ban biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp. Thành viên của các ban biên soạn này là những chuyên gia,
giảng viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng ngành GDMN.
Hiệu trưởng Trường Sư phạm tỉnh có trách nhiệm duy trì nghiêm quy trình
xét duyệt đề cương, tổ chức biên soạn, thẩm định, nghiệm thu tài liệu bồi
dưỡng theo đúng quy chế quản lý khoa học của nhà trường. Căn cứ kết quả
biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp do
Trường Sư phạm tỉnh thực hiện, giám đốc sở GD&ĐT quyết định đưa vào sử
dụng các tài liệu đó.
Ba là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo tổ chức tập huấn giảng viên, báo
cáo viên tham gia giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Để tổ chức tốt hoạt động học tập của GVMN tại các lớp bồi dưỡng
NLSP tập trung ở cấp tỉnh và huyện, giám đốc sở GD&ĐT cần phải chuẩn bị
lực lượng giảng viên, báo cáo viên đủ sức thực hiện chương trình bồi dưỡng
cơ bản, hệ thống, cập nhật, sát thực tế giáo dục của địa phương. Vì vậy, căn
cứ vào nguồn nhân lực giáo dục và kế hoạch, chương trình bồi dưỡng NLSP
cho GVMN hàng năm, giám đốc sở GD&ĐT quyết định điều kiện, tiêu chuẩn
lựa chọn giảng viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
NLSP cho GVMN. Trên cơ đó, các cơ quan chức năng thuộc sở và Trường Sư
phạm tỉnh phối hợp tổ chức lực lượng giảng viên cho các lớp bồi dưỡng tập
trung của tỉnh và các huyện.
Lực lượng nòng cốt giảng dạy theo chương trình bồi dưỡng NLSP cho
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp là giảng viên của Trường Sư phạm tỉnh. Vì
vậy, giám đốc sở GD&ĐT cần ủy quyền cho Trường Sư phạm tỉnh chủ trì tập
121
huấn cho lực lượng giảng viên, báo cáo viên về chương trình, nội dung,
phương pháp, tài liệu bồi dưỡng và phân công nhiệm vụ chuẩn bị giảng dạy
cho từng giảng viên.
Bốn là, hiệu trưởng Trường Sư phạm tỉnh chỉ đạo các khoa thực hiện
đúng quy trình chuẩn bị, thông qua bài giảng cho những giảng viên tham gia
giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Những chuyên đề giảng
dạy tại các lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN thường có tính chất bổ sung, cập
nhật, nâng cao những kiến thức, kỹ năng chuyên ngành, vì vậy việc thông qua
bài giảng phải được tiến hành nghiêm túc, chú trọng góp ý cho giảng viên đổi
mới nội dung, phương pháp giảng dạy.
4.1.3.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, để có lực lượng chuyên gia đủ năng
lực biên soạn chương trình, tài liệu và thực hành giảng dạy tại các lớp bồi
dưỡng NLSP cho GVMN, các Trường Sư phạm tỉnh phải được quy hoạch lại
theo hướng trở thành Phân hiệu của Đại học trung tâm tại mỗi khu vực Đông
Bắc và Tây Bắc. Theo đó, nhiệm vụ trọng tâm của Trường Sư phạm tỉnh là
đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cho toàn hệ thống giáo dục trong
từng tỉnh. Làm được như vậy, lực lượng giảng viên của Trường Sư phạm tỉnh
sẽ nâng cao được trình độ, đồng thời xác định đúng trách nhiệm của mình
trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn năng lực.
Hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn năng lực sẽ đạt hiệu
quả thiết thực khi chương trình, nội dung, phương pháp bồi dưỡng góp phần
giải quyết kịp thời những vướng mắc trong thực tiễn GDMN ở cơ sở. Vì vậy,
giảng viên tại các lớp bồi dưỡng phải hiểu rõ thực tiễn sư phạm, chú trọng gắn
HĐBD với hoạt động nghiên cứu khoa học về GDMN ở địa bàn các tỉnh miền
núi phía Bắc. Để đáp ứng yêu cầu đó, Trường Sư phạm tỉnh phải đẩy mạnh
các hoạt động nghiên cứu khoa học về lĩnh vực GDMN. Đây có thể coi là một
trong những điều kiện thiết yếu để thực hiện có kết quả biện pháp tổ chức lực
lượng biên soạn chương trình, tài liệu và tham gia bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
122
4.1.4. Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên mầm non tại các lớp bồi dưỡng tập trung
4.1.4.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Mục tiêu của biện pháp này là làm cho hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc tạo được sự chuyển biến rõ nét về NLSP
của đội ngũ GVMN, khắc phục “bệnh thành tích” trong tổ chức bồi dưỡng giáo
viên. Để đạt được mục tiêu đó, bộ máy QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc
phải thực hiện tốt quy trình ĐBCL giáo dục, với các khâu “:đầu vào” (Input),
“quá trình” (Process) và “kết quả/đầu ra” (Output) của từng lớp bồi dưỡng.
Thực hiện quy trình ĐBCL giáo dục tại các lớp bồi dưỡng tập trung NLSP
cho GVMN có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của cả người dạy, người học, người
quản lý đối với bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm
cho GVMN. Biện pháp này góp phần khắc phục tình trạng: khung năng lực
GVMN còn thiếu thống nhất, chưa cụ thể, dẫn đến các chủ thể quản lý thiếu
công cụ đánh giá chính xác nhu cầu và kết quả bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
4.1.4.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Một là, giám đốc sở GD&ĐT tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
NLSP của GVMN để làm công cụ khảo sát nhu cầu và đánh giá kết quả bồi
dưỡng giáo viên.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã ban hành “Chuẩn nghề nghiệp GVMN”, ủy
ban nhân dân các tỉnh đã phê duyệt “Danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công
việc, khung năng lực trường mầm non”. Bên cạnh đó, Ban Thư ký của Tổ
chức Bộ trưởng Giáo dục các nước trong Khu vực Đông Nam Á (SEAMEO)
đã đưa ra khuyến nghị đối với các quốc gia trong khu vực về Khung năng lực
GVMN. Đó là những tài liệu có giá trị định hướng cho việc xây dựng bộ tiêu
chí đánh giá NLSP của GVMN. Vì vậy, giám đốc sở GD&ĐT cần tổ chức
nghiên cứu các tài liệu nêu trên, đồng thời tính đến thực trạng NLSP và bồi
dưỡng NLSP cho GVMN trên địa bàn tỉnh trong những năm qua để xây dựng
bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN.
Yêu cầu chung đối với bộ tiêu chí này là phải thể hiện được những tiêu
chuẩn, tiêu chí được quy định trong “Chuẩn nghề nghiệp GVMN”, đồng thời
123
hàm chứa được các năng lực cốt lõi tạo nên khung năng lực của GVMN. Theo
đó, bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN phải bao gồm tiêu chí đánh giá các
năng lực sau: (1) Năng lực tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện
của trẻ. (2) Năng lực thúc đẩy, khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động theo
chương trình GDMN. (3) Năng lực xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ.
(4) Năng lực chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ; (5) Năng lực xây
dựng quan hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ trong lĩnh vực GDMN. (6) Năng
lực kết nối và hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng nhằm phát triển GDMN.
(7) Năng lực tự nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
Trong từng năng lực cốt lõi đó, bộ tiêu chí đánh giá phải chỉ rõ cấp độ
đánh giá theo các mức: tốt, khá, đạt và yếu (chưa đạt). Trong từng cấp độ này
phải mô tả khái quát được về các mặt: (1) nắm và vận dụng kiến thức; (2)
trình độ thành thạo kỹ năng; (3) biểu hiện thái độ chuyên nghiệp (chuyên
môn); (4) kết quả hành động thực tế. Với quan niệm như vậy, luận án này đề
xuất “Bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN” trong phụ lục 14 để các địa
phương tham khảo.
Hai là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo các phòng GD&ĐT huyện và các
cơ sở GDMN căn cứ mục tiêu, chương trình, kế hoạch của từng lớp bồi
dưỡng tiến hành lựa chọn người đủ điều kiện, tiêu chuẩn dự lớp.
Đây là khâu ĐBCL “đầu vào” của đối tượng bồi dưỡng. Nhiệm vụ của
ban giám hiệu trường mầm non và phòng GD&ĐT huyện là phải nắm vững
mục tiêu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng của các lớp cụ thể như: Bồi
dưỡng đạt chuẩn trình độ đào tạo; bồi dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho giáo
viên mới; bồi dưỡng cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn;
bồi dưỡng tiếng dân tộc và văn hóa địa phương… để phân công người dự học
từng lớp cho phù hợp. Như vậy, ĐBCL hoạt động bồi dưỡng tập trung NLSP
cho GVMN đòi hỏi phải phải tuyển chọn đúng đối tượng bồi dưỡng theo từng
chương trình, từng lớp cụ thể, hạn chế bồi dưỡng “đại trà” chung cho mọi đối
tượng GVMN. Cơ sở cho việc tuyển chọn “đầu vào” của từng lớp bồi dưỡng
là nhu cầu bồi dưỡng NLSP, được xác định thông qua phân loại giáo viên và
124
sử dụng “Bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN” để xác định những mặt yếu,
điểm yếu về năng lực của họ.
Ba là, giám đốc sở GD&ĐT uỷ quyền cho hiệu trưởng Trường Sư phạm
tỉnh chỉ đạo giảng viên đổi mới nội dung và phương pháp bồi dưỡng NLSP
cho GVMN theo hướng phù hợp với thực tiễn giáo dục ở từng địa phương.
Đặc trưng của nội dung bồi dưỡng NLSP cho GVMN là bổ sung, cập nhật,
nâng cao kiến thức, kỹ năng của chuyên ngành sư phạm mầm non và hướng vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn trong giáo dục ở từng địa phương. Vì vậy, giám
đốc sở GD&ĐT thông qua hiệu trưởng Trường Sư phạm tỉnh cần chỉ đạo giảng
viên không ngừng đổi mới nội dung giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng theo hướng
bám sát yêu cầu, tiêu chí của chuẩn nghề nghiệp để lựa chọn nội dung, kịp thời
phổ biến những kết quả nghiên cứu khoa học, tăng cường bồi dưỡng các chuyên
đề sư phạm thực hành, các bài tập tình huống sư phạm... cho GVMN.
Để bồi dưỡng NLSP cho GVMN một cách có kết quả tốt, người được
bồi dưỡng không thể tiếp thu kiến thức, kỹ năng một cách thụ động, mà phải
phát huy tính tích cực, sáng tạo của họ, thực hiện tốt phương châm “học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn”. Vì vậy, bộ máy QLGD, trực tiếp là hiệu
trưởng Trường Sư phạm tỉnh cần chỉ đạo giảng viên và học viên dự các lớp
bồi dưỡng NLSP cho GVMN tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực như: nêu vấn đề, đối thoại, học tập nhóm, đồng thời đa dạng hóa các
hình thức tổ chức dạy học theo hướng giảm bài giảng lý thuyết, tăng thảo
luận, thực hành và tự học.
Những nỗ lực trong chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức
dạy học như vừa nêu trên sẽ góp phần ĐBCL của quá trình (Process) bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Bốn là, giám đốc sở GD&ĐT giao nhiệm vụ cho các cơ quan chức năng
thuộc sở và phòng GD&ĐT huyện thành lập ban tổ chức của lớp bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
Ban tổ chức lớp bồi dưỡng NLSP cho GVMN cần có cơ cấu thành viên
tinh gọn, bao gồm đại diện của Trường Sư phạm tỉnh và các cán bộ chuyên
125
trách thuộc cơ quan chức năng thuộc sở, phòng GD&ĐT. Nhiệm vụ chủ yếu
của ban tổ chức lớp bồi dưỡng là làm công tác chuẩn bị về chương trình, tài
liệu, cơ sở vật chất, tài chính, lực lượng phục vụ cho HĐBD; tổ chức chiêu
sinh và biên chế các tổ học tập; điều hành kế hoạch, lịch hoạt động của lớp
bồi dưỡng; kiểm tra hoạt động của giảng viên và học viên; xử lý các vấn đề
phát sinh trong quá trình bồi dưỡng. Năng lực, trách nhiệm quản lý, điều hành
của ban tổ chức lớp bồi dưỡng luôn là một trong những yếu tố quan trọng của
ĐBCL bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Vì vậy, sở, phòng GD&ĐT với tư cách
là cơ quan chủ quản các lớp bồi dưỡng giáo viên tập trung không được coi
nhẹ việc thành lập, nâng cao chất lượng ban tổ chức lớp bồi dưỡng.
Năm là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức đánh
giá sự phát triển NLSP của giáo viên sau khóa bồi dưỡng.
Theo mô hình đảm bảo chất lượng CIPO (UNESCO, 2000), việc thỏa
mãn nhu cầu phát triển của cá nhân và đáp ứng nhu cầu của xã hội ở “đầu ra”
của quá trình đào tạo, bồi dưỡng là một trong những minh chứng cho chất
lượng giáo dục. Vì vậy, ĐBCL bồi dưỡng tập trung về NLSP cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc đòi hỏi phải tạo nên sự phát triển năng lực của
người được bồi dưỡng trong thực tế công tác của họ. Với quan niệm như vậy,
việc đánh giá kết quả “đầu ra” của bồi dưỡng NLSP cho GVMN không thể
dừng lại ở bài kiểm tra hay thu hoạch cuối đợt bồi dưỡng, mà phải dựa trên sự
tiến bộ của từng giáo viên trong hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường
mầm non. Điều đó dẫn tới chỗ, sở và các phòng GD&ĐT cần chỉ đạo hiệu
trưởng Trường mầm non tổ chức các hình thức đánh giá sự phát triển NLSP
của giáo viên sau khóa bồi dưỡng. Theo đó, hiệu trưởng Trường mầm non
phải tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động chuyên môn của giáo viên, kết hợp
với các hình thức hoạt động khác như tổ chức cho giáo viên báo cáo sáng
kiến, tham gia hội thi giáo viên giỏi, các buổi tọa đàm, hội thảo về chăm sóc,
giáo dục trẻ…để rút ra kết luận về sự năng lực của từng giáo viên sau các lớp
bồi dưỡng tập trung. Làm được như vậy, các chủ thể QLGD sẽ kiểm soát
126
được chất lượng bồi dưỡng NLSP cho GVMN xuyên suốt từ “đầu vào”, “quá
trình” và “đầu ra” của những lớp bồi dưỡng tập trung.
4.1.4.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Để ĐBCL bồi dưỡng tập trung cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
khâu chuẩn bị những yếu tố “đầu vào” như trang thiết bị, phương tiện và đồ
dùng dạy học; kinh phí đảm bảo cho các hoạt động theo chương trình, kế
hoạch đã xác định có tác động trực tiếp đến kết quả bồi dưỡng. Vì vậy, sở
GD&ĐT tỉnh và các phòng GD&ĐT huyện theo phạm vi thẩm quyền và trách
nhiệm được giao về tổ chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng NLSP cho GVMN
hàng năm phải chủ động bố trí và sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí
một cách thiết thực, hiệu quả.
Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên của Trường Sư phạm tỉnh là lực lượng
nòng cốt tỏa về các huyện để giảng dạy các chuyên đề trong chương trình bồi
dưỡng NLSP cho GVMN. Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp và quy hoạch các
Trường Sư phạm tỉnh theo hướng tập trung vào nhiệm vụ đào tạo lại và bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên cho toàn hệ thống cần phải được tính toán sao cho
giảng viên ngành sư phạm mầm non phải đủ về số lượng, không ngừng nâng
cao chất lượng. Chỉ có như vậy, các địa phương thuộc vùng miền núi phía
Bắc mới đảm bảo được chất lượng bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo hình
thức tập trung.
4.1.5. Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi
dưỡng của giáo viên mầm non về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp
4.1.5.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Trong điều kiện của các địa phương thuộc vùng miền núi phía Bắc, việc
huy động GVMN từ các trường, các điểm trường về huyện, về tỉnh để bồi
dưỡng tập trung có những trở ngại nhất định nên thường chỉ được tiến hành
vào các kỳ nghỉ hè của học sinh. Bởi vậy, tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa
vào nhà trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp
có ý nghĩa quan trọng đối với việc bổ sung, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng, thái độ sư phạm của GVMN. Nhưng thời gian qua, hai hoạt động này
chưa được chú trọng đúng mức. Chương 3 của luận án đã chỉ rõ: một bộ phận
127
cán bộ, GVMN chưa có thói quen và thiếu cố gắng trong tự học tập, tự bồi
dưỡng; tự ti, thiếu chủ động giúp đỡ lẫn nhau phát triển chuyên môn theo yêu
cầu của chuẩn nghề nghiệp. Do đó, biện pháp này nhằm hướng tới mục tiêu
đẩy mạnh hình thức bồi dưỡng thường xuyên tại trường và sử dụng nó như là
một “đòn bẩy” để nâng chất lượng, hiệu quả của tự bồi dưỡng, tự rèn luyện
NLSP của mỗi giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp.
Biện pháp này có ý nghĩa thực hóa việc “học tập suốt đời” trong tập thể sư
phạm tại từng cơ sở GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.Theo đó, CBQL, giáo
viên cốt cán - người có uy tín trong tập thể sư phạm đóng vai trò là người thiết
kế, triển khai các hoạt động giáo dục mẫu, tổ chức các tọa đàm, hội thảo, sinh
hoạt chuyên đề về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc,
giáo dục trẻ mầm non cho đồng nghiệp trong trường, qua đó bồi dưỡng NLSP
cho GVMN. Đến lượt mình, từng giáo viên muốn tham gia một cách chủ động,
tích cực, có hiệu quả vào các tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt chuyên đề như vừa
nêu ở trên phải tự sưu tầm tài liệu, tự đúc rút kinh nghiệm, tự tìm hiểu những
phát triển mới trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm… do đó tự bồi
dưỡng của giáo viên được tăng cường. Như vậy, tổ chức kết hợp giữa bồi
dưỡng thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng NLSP của GVMN theo chuẩn
nghề nghiệp trở thành con đường có hiệu quả để GVMN bồi dưỡng lẫn nhau và
tự bồi dưỡng chính mình về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
4.1.5.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Trách nhiệm duy trì nền nếp bồi dưỡng thường xuyên tại trường và thúc
đẩy tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của GVMN, trước hết thuộc về hiệu trưởng
trường mầm non. Để triển khai thực hiện biện pháp “Tổ chức kết hợp giữa
HĐBD thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo
chuẩn nghề nghiệp”, hiệu trưởng trường mầm non cần quan tâm giải quyết
những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, hiệu trưởng trường mầm non chỉ đạo xác lập và tổ chức thực
hiện kế hoạch học tập chuyên đề, tọa đàm, hội thảo về đổi mới nội dung,
phương pháp, hình thức chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
128
Điều kiện hoạt động tại các trường mầm non nói chung, các trường mầm
non tại các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng thường khá eo hẹp về thời gian
dành cho các hoạt động tập thể của giáo viên, bởi vì giáo viên phải liên tục
chăm sóc, giáo dục trẻ, quản lý lớp học. Do đó, để duy trì nền nếp bồi dưỡng
thường xuyên, tại chỗ cho giáo viên, trường mầm non phải chủ động xây
dựng kế hoạch và khéo tổ chức các buổi học tập, tọa đàm, hội thảo về chuyên
môn. Tư tưởng chỉ đạo chung cho các hoạt động này là thiết thực, nhanh gọn,
hiệu quả, vì vậy hiệu trưởng cần chỉ đạo hiệu phó chuyên môn chủ động xây
dựng kế hoạch học tập, tọa đàm, hội thảo theo năm học. Theo đó, nội dung
của những hoạt động này trong từng tháng chỉ tập trung vào một vài vấn đề
trọng tâm của đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc,
giáo dục trẻ mầm non.
Để thực hiện tốt kế hoạch học tập chuyên đề, tọa đàm, hội thảo đã đề ra,
hiệu trưởng phải cùng tập thể ban giám hiệu nhà trường chú ý làm tốt các
công việc như: Cung cấp tài liệu học tập, phân công giáo viên làm công tác
chuẩn bị; tổ chức cho giáo viên luân phiên tham gia các buổi học tập, tọa
đàm, hội thảo sao cho vẫn duy trì tốt hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, quản
lý lớp học; hiệu trưởng, hiệu phó chuẩn bị nội dung, phương pháp và trực tiếp
chủ trì các buổi học tập, tọa đàm, hội thảo; từng tổ chuyên môn, giáo viên của
từng lớp bàn vận dụng những điều đã học và những kết luận tại các buổi tọa
đàm, hội thảo vào thực tế công tác chuyên môn. Làm được như vậy việc học
tập chuyên đề, tọa đàm, hội thảo về đổi mới nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non sẽ góp phần thiết thực vào sự
phát triển năng lực của giáo viên.
Hai là, các tổ chuyên môn phân công giáo viên sưu tầm tài liệu, đúc rút
kinh nghiệm, chuẩn bị báo cáo để tham gia sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội
thảo về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục
trẻ mầm non.
Để tham gia một cách tích cực vào các sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội
thảo từng giáo viên đăng ký sưu tầm tài liệu, đúc rút kinh nghiệm, chuẩn bị
129
chuẩn bị nội dung báo cáo hoặc ý kiến tham gia tranh luận... Trên cơ sở đó, tổ
trưởng chuyên môn căn cứ vào chương trình, kế hoạch sinh hoạt chuyên đề,
tọa đàm, hội thảo và khả năng của giáo viên để phân công từng người chuẩn
bị. Để tránh tình trạng “đánh trống, bỏ dùi” trong quá trình chuẩn bị cho hình
thức bồi dưỡng thường xuyên chung của tập thể sư phạm, ban giám hiệu, tổ
trưởng chuyên môn đôn đốc giáo viên tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới về
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, tự đúc rút những bài học thực tế từ những
thành công, không thành công trong chăm sóc, giáo dục trẻ để chuẩn bị báo
cáo chuyên đề hoặc ý kiến thảo luận. Tác động như vậy từ các chủ thể quản lý
trường, tổ chuyên môn có tác dụng kép, đó là: vừa ĐBCL bồi dưỡng thường
xuyên của tập thể sư phạm, vừa thúc đẩy giáo viên tự học tập, tự rèn luyện.
Như vậy có thể nói, tổ chức kết hợp giữa HĐBD thường xuyên tại trường và
tự bồi dưỡng của giáo viên vừa phát huy được sức mạnh của cả tập thể sư
phạm, vừa cá biệt hóa được hoạt động tự học tập của giáo viên. Hai hoạt động
này sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau trong quá trình phát triển
chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Ba là, hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn duy trì nền nếp, chất lượng
triển khai các hoạt động giáo dục mẫu, hội thi giáo viên giỏi và báo cáo sáng
kiến, kinh nghiệm và sơ kết, tổng kết công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Đây thực chất là bồi dưỡng thường xuyên NLSP cho GVMN ở địa bàn
các tỉnh miền núi phía Bắc bằng hoạt động thực tiễn chăm sóc, giáo dục trẻ
em. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, dạng năng lực nổi trội của GVMN là năng
lực tâm vận động (Psymotogical Competency), do đó bồi dưỡng NLSP cho họ
thông qua hoạt động thực tế thường đạt hiệu quả cao. Vì vậy, hiệu trưởng
trường mầm non cần và có thể tận dụng đặc điểm này trong bồi dưỡng thường
xuyên tại trường cho GVMN. Điều đó thể hiện ở việc: chỉ đạo tốt các giáo
viên cốt cán thiết kế, triển khai các hoạt động giáo dục mẫu, đồng thời nhà
trường tổ chức tốt hội thi giáo viên giỏi và các hoạt động báo cáo sáng kiến,
kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ trong từng trường mầm non. Làm được
như vậy, hiệu trưởng trường mầm non đã tạo điều kiện cho các giáo viên cốt
130
cán củng cố phát triển uy tín chuyên môn của mình, đồng thời thông qua hoạt
động thực tế và kinh nghiệm sư phạm của lực lượng này bồi dưỡng kiến thức,
kỹ năng sư phạm cho đội ngũ giáo viên, nhất là những giáo viên mới.
Bên cạnh đó, hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn cần thống nhất rằng,
hoạt động rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết công tác chăm sóc, giáo dục trẻ
không đơn thuần là những thủ tục hành chính trong quản lý chuyên môn mà
còn là kênh bồi dưỡng có hiệu quả NLSP cho GVMN. Bởi vì, thông qua
những công việc này tập thể giáo viên, cũng như từng giáo viên có điều kiện
nhìn lại quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình, đánh giá những
thành công, hạn chế và nguyên nhân của nó, nhờ đó có những điều chỉnh về
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ và hoàn
thiện NLSP của chính mình.
Để hoạt động rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ thiết thực góp phần bồi dưỡng NLSP cho giáo viên, hiệu trưởng, tổ
trưởng chuyên môn cần chỉ đạo giáo viên hàng ngày ghi nhật ký công tác
chuyên môn và hàng tuần tự đánh giá để rút ra một vài tình huống sư phạm đã
xử lý thành công, hoặc chưa thành công trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ
em. Đây là những tư liệu cần thiết để từng giáo viên rút ra bài học kinh
nghiệm cho mình, từ đó hoàn thiện trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo
chuẩn nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, ban giám hiệu trường mầm non cần coi trọng chỉ đạo tiến
hành kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác chuyên môn từ dưới lên một cách
dân chủ theo định kỳ nửa học kỳ, học kỳ, năm học và theo các đợt tổ chức
hoạt động hội, lễ trọng điểm của nhà trường. Trong kiểm điểm, rút kinh
nghiệm từng tổ chuyên môn cần hết sức chú ý đến những tình huống sư phạm
tiêu biểu đã diễn ra và những thành công, không thành công trong xử lý tình
huống sư phạm đó. Đến lượt mình, ban giám hiệu nhà trường phải đánh giá
khách quan, toàn diện hoạt động chuyên môn, từ đó rút ra những vấn đề cần
phát huy và chú ý khắc phục trong nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và quản lý
trẻ em. Làm được như vậy, những điều thu được từ rút kinh nghiệm, sơ kết,
131
tổng kết công tác chuyên môn sẽ góp phần bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ
năng sư phạm của giáo viên.
Bốn là, hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn phân công giáo viên bồi
dưỡng, giúp đỡ lẫn nhau về chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng ngoại ngữ,
tiếng dân tộc, công nghệ thông tin, khả năng nghệ thuật trong chăm sóc, giáo
dục trẻ mầm non.
Trước hết, hiệu trưởng trường mầm non cần phải giao nhiệm vụ cụ thể
cho các tổ trưởng chuyên môn và giáo viên cốt cán hướng dẫn, giúp đỡ các
giáo viên khác, nhất là giáo viên mới xây dựng kế hoạch; xác định nội dung,
phương thức thực hiện chương trình giáo dục; xử lý các tình huống sư phạm
trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em và quản lý lớp học.
Những chỉ dẫn của tổ trưởng chuyên môn và giáo viên cốt cán cho đồng
nghiệp về quy trình, cách thức tiến hành các công việc diễn ra hàng ngày sẽ
góp phần dần dần hình thành ở giáo viên mới, giáo viên ít kinh nghiệm những
kỹ năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em, do đó ảnh hưởng tích cực tới
sự phát triển NLSP của họ.
Bên cạnh đó, hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn cần tổ chức cho giáo
viên bồi dưỡng, giúp đỡ nhau nâng cao trình độ ngoại ngữ, tiếng dân tộc,
ứng dụng công nghệ thông tin, khả năng tạo hình, âm nhạc, múa, văn học
nghệ thuật… Nguyên tắc của việc phân công kèm cặp lẫn nhau ở đây là:
người có khả năng, có năng khiếu hơn, bất luận đó là giáo viên có kinh
nghiệm hay giáo viên mới đều có trách nhiệm giúp đỡ những người khác
học tập, rèn luyện về các nội dung vừa nêu. Việc giúp đỡ lẫn nhau như vậy
không chỉ góp phần phát triển NLSP của giáo viên mà còn tạo sự cố kết của
tập thể sư phạm, qua đó tác động tích cực tới hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ em trong trường mầm non.
4.1.5.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Bồi dưỡng thường xuyên NLSP cho GVMN thông qua hoạt động thực
tiễn chăm sóc, giáo dục trẻ có phần đóng góp rất quan trọng của các tổ chuyên
môn và lực lượng giáo viên cốt cán trong mỗi trường mầm non. Vì vậy, củng
132
cố về mặt tổ chức và hướng dẫn tốt hoạt động của tổ chuyên môn là điều kiện
quan trọng để thực hiện biện pháp này.
Bên cạnh đó, bồi dưỡng thường xuyên tại trường thực chất là lấy giáo
viên bồi dưỡng giáo viên trong hoạt động thực tế hàng ngày. Vì vậy, tập thể
giáo viên trong trường mầm non đoàn kết, tôn trọng, yêu quý, tin tưởng lẫn
nhau sẽ tạo điều kiện tốt cho việc duy trì nền nếp, chất lượng bồi dưỡng NLSP
cho giáo viên. Điều đó chỉ có thể có được khi ban giam hiệu, trước hết là hiệu
trưởng nhà trường tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Theo đó,
CBQL và từng giáo viên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
lợi của mình, được thảo luận dân chủ về kế hoạch hoạt động chuyên môn, được
đánh giá công bằng, khách quan về kết quả công tác, thường xuyên hỗ trợ và
được nhận sự hỗ trợ của đồng nghiệp trong công việc và đời sống.
Trong điều kiện của địa phương miền núi phía Bắc, nhiều nơi GVMN
còn khó khăn về đời sống, do lương thấp, đang độ tuổi nuôi con nhỏ, nơi ở
chưa kiên cố, thiếu phương tiện sinh hoạt… Những khó khăn này gây trở ngại
cho việc dành thời gian, công sức của GVMN cho hoạt động tự học trong
ngày nghỉ, giờ nghỉ. Vì vậy, chăm lo đãi ngộ và đảm bảo đời sống, điều kiện
làm việc của giáo viên là những nhân tố chi phối mức độ, chiều hướng phát
triển của họ trong công tác và học tập. Đây có thể coi là điều kiện thúc đẩy tự
học tập, tự bồi dưỡng về năng lực chuyên môn của GVMN ở các địa phương
vùng miền núi phía Bắc.
Bên cạnh đó, từng trường mầm non phải tổ chức hoạt động của giáo viên
một cách hợp lý, khoa học nhằm hạn chế những rối bận của việc hội họp,
dành thời gian cho công tác chuyên môn và tạo điều kiện cho giáo viên có thể
hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. Đồng thời trường mầm non phải bảo đảm đủ tài
liệu, sách tham khảo, phương tiện cần thiết phục vụ cho việc học tập, nghiên
cứu về lĩnh vực chuyên ngành sư phạm mầm non và khuyến khích giáo viên
ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet vào việc tự học tập. Làm được
như vậy, HĐBD thường xuyên tại trường mới có thể kết hợp chặt chẽ với hoạt
động tự bồi dưỡng của GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
133
4.1.6. Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho giáo viên mầm non
4.1.6.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Đây là giải pháp nhằm tận dụng ưu thế của thời đại công nghệ 4.0 vào hỗ
trợ GVMN bổ sung, cập nhật những kiến thức, kỹ năng sư phạm bằng hình
thức dạy học trực tuyến (online) hoặc sưu tầm các tài liệu liên quan. Theo đó,
từng giáo viên có thể sử dụng mạng internet, smartphone, máy tính để tự học,
tự bồi dưỡng NLSP của mình.
Triển khai áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN góp phần khắc phục trở ngại về đi lại của giáo viên ở địa bàn miền
núi phía Bắc để có thể thường xuyên sưu tầm, cập nhật các kiến thức, kỹ năng
sư phạm. Thông qua mạng internet, GVMN có thể tiếp xúc được với nguồn
cơ sở dữ liệu phong phú, nhất là những bài giảng điện tử (E-learning) của
những chuyên gia về lĩnh vực sư phạm mầm non… Vì vậy, trách nhiệm của
bộ máy QLGD là phải tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa bồi dưỡng tập trung,
bồi dưỡng thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng bằng kênh bồi dưỡng
NLSP cho GVMN qua cổng thông tin điện tử của từng sở GD&ĐT tỉnh và
Trường Sư phạm tỉnh. Điều đó thể hiện ở những nội dung và cách thức thực
hiện sau đây.
4.1.6.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Một là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo thiết kế chuyên mục “Bồi dưỡng
giáo viên” trên trang website của sở và tạo đường dẫn của chuyên mục này tới
những bài giảng điện tử (E - learning), những tài liệu “Sư phạm thực hành”,
những bài tập tình huống sư phạm về chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non dùng
trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Hiện nay, cổng thông tin điện tử của các sở GD&ĐT được thiết kế khá
phong phú về nội dung, hình thức, trong đó có những chuyên mục đề cập về
giáo viên, về lĩnh vực GDMN nhưng việc tìm những cơ sở dữ liệu về bồi
dưỡng GVMN theo chuẩn nghề nghiệp còn gặp không ít khó khăn do nguồn
cung cấp cơ sở dữ liệu cho bồi dưỡng giáo viên trực tuyến chưa được tổ chức
134
chặt chẽ… Nhưng khi chương trình, tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN đã
được biên soạn; trách nhiệm của Trường Sư phạm tỉnh trong đào tạo lại, bồi
dưỡng giáo viên đã được định rõ thì chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN” trên
trang website của sở GD&ĐT có điều kiện để triển khai. Yêu cầu đặt ra cho
chuyên mục này là thông tin kịp thời tới giáo viên những văn bản chỉ đạo về
hoạt động bồi dưỡng GVMN, đồng thời tạo được đường dẫn tới những bài
giảng điện tử (E-learning), những tài liệu “Sư phạm thực hành” và các bài tập
tình huống sư phạm về chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non dùng trong bồi dưỡng
NLSP theo chuẩn nghề nghiệp cho GVMN.
Hai là, giám đốc sở GD&ĐT chỉ đạo Trường Sư phạm tỉnh cung cấp
“tài nguyên” - cơ sở dữ liệu cho chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN” trên
website của sở.
Thực ra để có được các cơ sở dữ liệu, Trường Sư phạm tỉnh phải tiến
hành xây dựng kế hoạch thiết kế bài giảng điện tử (E-learning), số hóa tài liệu
bồi dưỡng để từng bước làm phong phú nội dung chuyên mục “Bồi dưỡng
GVMN”. Bên cạnh đó, giám đốc sở GD&ĐT cần giao nhiệm vụ cho bộ phận
chuyên trách quản trị cổng thông tin điện tử của sở tiến hành các biện pháp kỹ
thuật để thực hiện bảo mật thông tin, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các
nội dung trong chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN”. Làm tốt việc này sẽ tạo
được niềm tin và sự an tâm của cả người cung cấp thông tin và sử dụng thông
tin trên cổng thông tin điện tử của sở GD&ĐT trong quá trình bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
Ba là, bộ phận chuyên trách quản trị cổng thông tin điện tử của sở
GD&ĐT phối hợp với các phòng GD&ĐT huyện tổ chức hướng dẫn GVMN
khai thác, sử dụng chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN” trên trang website của sở
trong quá trình tự học tập, tự bồi dưỡng.
Trình độ khai thác, sử dụng mạng internet, smartphone, máy tính của
GVMN ở các tỉnh vùng núi phía Bắc không đồng đều. Để đông đảo GVMN
tiếp cận được những cơ sở dữ liệu trong chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN”, bộ
phận chuyên trách quản trị cổng thông tin điện tử của sở GD&ĐT cần phối
135
hợp với các phòng GD&ĐT huyện tổ chức hướng dẫn cụ thể cho giáo viên.
Việc hướng dẫn này có thể thực hiện trong các đợt tập huấn tập trung hoặc
phân phát tài liệu đến các trường mầm non.
4.1.6.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Ứng dụng công nghệ thông tin vào bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sư phạm
cho GVMN thường đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao về phần mềm, quản
trị mạng… Vì vậy, sở GD&ĐT cần chú ý củng cố bộ phận chuyên trách về
công nghệ thông tin và giao nhiệm vụ cho họ về đảm bảo kỹ thuật cho việc
thiết kế, vận hành chuyên mục “Bồi dưỡng GVMN” trên website của sở.
Bên cạnh đó, nhân lực sản xuất nội dung cho chuyên mục “Bồi dưỡng
GVMN” cũng phải được tăng cường, vì vậy Trường Sư phạm tỉnh phải phát
triển đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non phù hợp yêu cầu nhiệm vụ
bồi dưỡng GVMN tại các lớp bồi dưỡng tập trung và bồi dưỡng theo hình
thức online. Ngoài ra, thư viện của Trường Sư phạm tỉnh phải xúc tiến xây
dựng thư viện điện tử để góp phần cung cấp những cơ sở dữ liệu cần thiết cho
bồi dưỡng GVMN thông qua mạng internet.
Đối với các trường mầm non, để hỗ trợ giáo viên khai thác, sử dụng công
nghệ thông tin vào bồi dưỡng thường xuyên và tự bồi dưỡng cần đầu tư trang
bị hệ thống máy tính kết nối mạng internet. Đây là một đòi hỏi không dễ dàng
đáp ứng đối với không ít trường mầm non ở vùng miền núi phía Bắc, nhất là
các trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Vì vậy, ngân sách các địa
phương chi cho GDMN cần phải tính đến nhu cầu phát triển công nghệ thông
tin tại các trường mầm non.
4.1.7. Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm với
đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ
4.1.7.1. Mục tiêu và ý nghĩa của biện pháp
Mục tiêu của biện pháp này là gắn kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN với đánh giá, phân loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp. Qua đó
giúp cho các chủ thể quản lý có thể nhận rõ được chất lượng, hiệu quả của
136
hoạt động bồi dưỡng, đồng thời nâng cao được trách nhiệm của giáo viên khi
tham gia bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.
Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm với đánh
giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ cho phép
lấy sự phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên làm minh chứng cho kết
quả hoạt động bồi dưỡng NLSP. Chính vì vậy biện pháp này có ý nghĩa góp
phần chống “bệnh thành tích” trong bồi dưỡng giáo viên.
4.1.7.2. Chủ thể, nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Một là, cơ quan quản lý chỉ đạo ban tổ chức lớp bồi dưỡng giáo viên tập
trung phối hợp với giảng viên tiến hành kiểm tra, đánh giá NLSP của người
được bồi dưỡng theo bộ tiêu chí đánh giá năng lực.
Để làm tốt việc này, trước hết sở GD&ĐT cần chỉ đạo Trường Sư phạm
tỉnh căn cứ vào bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN và chương trình bồi
dưỡng của từng đợt, từng lớp để chuẩn bị nội dung, phương pháp kiểm tra,
đánh giá NLSP của người được bồi dưỡng vào các thời điểm mở đầu và kết
thúc đợt/kỳ bồi dưỡng. Trên cơ sở chuẩn bị đó, ban tổ chức lớp bồi dưỡng và
giảng viên tiến hành kiểm tra, đánh giá NLSP của người được bồi dưỡng.
Việc so sánh kết quả đánh giá NLSP của GVMN ở các thời điểm mở đầu và
kết thúc đợt / kỳ bồi dưỡng sẽ cho phép rút ra những kết luận về chất lượng,
hiệu quả của lớp bồi dưỡng.
Hai là, cán bộ quản lý cấp trường và tổ chuyên môn có trách nhiệm kiểm
tra, đánh giá giáo viên vận dụng những nội dung đã được bồi dưỡng vào hoạt
động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Như vậy, kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng giáo viên không dừng
lại ở việc xem xét quá trình thực hiện chương trình, kế hoạch nghiên cứu, học
tập các chuyên đề mà cần đánh giá sự chuyển biến của giáo viên trong thực
hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Theo đó, ban giám
hiệu nhà trường, tổ trưởng chuyên môn cần khuyến khích giáo viên vận dụng
những điều đã được bồi dưỡng vào thực tế công tác, đồng thời thông qua
137
những đổi mới, cải tiến trong công tác chuyên môn của giáo viên để đánh giá
tính thiết thực của hoạt động bồi dưỡng NLSP đã tiến hành.
Ba là, tổ chức đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực
hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ .
Để thúc đẩy hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN, việc đánh giá,
phân loại giáo viên phải trên cơ sở làm rõ phẩm chất, năng lực của họ. Căn cứ
vào chuẩn nghề nghiệp và tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN, hiệu trưởng,
tổ trưởng chuyên môn chỉ đạo giáo viên bám sát những nhiệm vụ, công việc
được giao, diễn biến thực hiện nhiệm vụ và các minh chứng cho kết quả đạt
được để tự đánh giá phẩm chất, năng lực trên các mặt: tổ chức quá trình học
tập và phát triển toàn diện của trẻ; thúc đẩy, khuyến khích trẻ tham gia các
hoạt động; xây dựng môi trường giáo dưỡng; chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an
toàn cho trẻ; xây dựng quan hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ; hợp tác với
đồng nghiệp và cộng đồng nhằm; tự nâng cao trình độ chuyên môn của bản
thân. Từ đó từng giáo viên rút ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân trong
thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ .
Sau khi từng giáo viên tự đánh giá về phẩm chất, năng lực làm việc và
kết quả thực hiện nhiệm vụ, đồng nghiệp trong tổ chuyên môn cần cho ý kiến,
bình xét theo chuẩn nghề nghiệp GVMN. Trên cơ sở đó, hiệu trưởng thực
hiện đánh giá, thông báo kết quả đánh giá và những yêu cầu nâng cao phẩm
chất, năng lực của từng giáo viên. Những đánh giá này sẽ tác động đến động
cơ, thái độ và mục tiêu phấn đấu của giáo viên trong bồi dưỡng phẩm chất,
năng lực theo chuẩn nghề nghiệp.
Bốn là, hiệu trưởng trường mầm non chỉ đạo chặt chẽ hoạt động lựa
chọn GVMN cốt cán.
Tiêu chuẩn lựa chọn GVMN cốt cán đã được nêu rõ trong “Quy định
chuẩn nghề nghiệp GVMN”. Trách nhiệm của hiệu trưởng là phát hiện những
người đủ tiêu chuẩn và có nguyện vọng trở thành GVMN cốt cán để đưa ra
138
tập thể sư phạm lựa chọn, trên cơ sở đó báo cáo phòng, sở GD&ĐT thẩm định
và phê duyệt danh sách GVMN cốt cán theo thẩm quyền.
Ở trường mầm non thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, nhất là ở những
địa phương có đông đồng bào DTTS, giáo viên cốt cán thường hỗ trợ rất có
hiệu quả cho đồng nghiệp đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục; hướng
dẫn cho phụ huynh kiến thức, kỹ năng về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục trẻ em; có thể tham gia biên soạn tài liệu chuyên đề sư phạm và trực
tiếp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo
viên trong trường hoặc các trường trên địa bàn… Như vậy có thể nói, tổ
chức chặt chẽ việc xét chọn giáo viên cốt cán theo “Quy định chuẩn nghề
nghiệp GVMN” sẽ tác động mạnh mẽ đến bồi dưỡng năng lực cho GVMN ở
các tỉnh miền núi phía Bắc.
4.1.7.3. Điều kiện thực hiện biện pháp
Để thực hiện biện pháp vừa nêu, cán bộ quản lý các cấp và mọi GVMN
phải có nhận thức đúng, trách nhiệm cao đối với kiểm tra, đánh giá kết quả
hoạt động bồi dưỡng NLSP dựa trên sự phát triển năng lực chuyên môn của
giáo viên. Đồng thời, từng GVMN biết lắng nghe những góp ý từ phía những
CBQL các cấp về những hạn chế, thiếu sót, từ đó tích cực tham gia các
HĐBD, tự bồi dưỡng NLSP của mình.
Bên cạnh đó, các sở, phòng GD&ĐT cần thường xuyên kiện toàn các bộ
phận chuyên trách về thanh tra giáo dục và nêu cao trách nhiệm của các lực
lượng này trong xây dựng, hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN
và sử dụng nó vào đánh giá chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng giáo viên.
Mối quan hệ giữa các biện pháp
Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp thể hiện cách thức, phương pháp
tác động một cách có mục đích, có tổ chức của bộ máy QLGD đến các yếu tố
cấu thành hoạt động này, trong đó đối tượng tác động chính là những người
làm nhiệm vụ bồi dưỡng và đội ngũ GVMN. Các biện pháp quản lý này có tác
dụng thúc đẩy, định hướng hoạt động, huy động các nguồn lực, hiệp đồng
139
phối hợp thực hiện các hình thức bồi dưỡng NLSP cho GVMN trong điều
kiện thực tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong đó, những biện pháp “Tổ
chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với hoạt động bồi
dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp (BP1)”; “Kế hoạch hóa hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp (BP2)”
đóng vai trò thúc đẩy, định hướng cho hoạt động này. Trên cơ sở đó, những biện
pháp “Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng NLSP
cho GVMN (BP3)”; “Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN (BP6)” đóng vai trò huy động các nguồn lực để thực hiện có
kết quả hoạt động nêu trên. Những biện pháp “Thực hiện quy trình đảm bảo chất
lượng bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các lớp bồi dưỡng
tập trung (BP4)”; “Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi
dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp (BP5)” tác động đến
những khâu trọng yếu của quá trình phát triển năng lực ở đội ngũ GVMN. Biện
pháp “Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên
theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ” chính là cách thức
thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá của quản lý để kiểm soát chất lượng,
hiệu quả của hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
Như vậy có thể nói, mỗi biện pháp hướng tới một mục tiêu xác định và
được triển khai theo những nội dung, cách thức riêng biệt, nhưng lại quan hệ mật
thiết với các biện pháp khác, chi phối và tạo điều kiện cho những biện pháp khác
tiến hành được thuận lợi. Do đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, bộ máy QLGD ở các tỉnh
miền núi phía Bắc cần thực hiện đồng bộ các biện pháp nêu trên.
4.2. Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
4.2.1. Tổ chức khảo nghiệm
4.2.1.1. Mục đích khảo nghiệm
Kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt
động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề
nghiệp thông qua ý kiến đánh giá của CBQL và GVMN tại nhiều địa phương.
140
4.2.1.2. Quy trình khảo nghiệm
Quy trình khảo nghiệm gồm 3 bước sau:
Bước 1: Tổ chức điều tra bằng phiếu đối với 643 người, gồm 94 CBQL
(chiếm 14,6%), 549 GVMN (chiếm 85,4%). Đây là những CBQL và GVMN
đã tham dự các lớp bồi dưỡng tập trung do các sở, phòng GD&ĐT tổ chức
trong năm 2019 tại 4 tỉnh: Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Yên Bái.
Bước 2: Phân tích định lượng kết quả điều tra
Để định lượng, kết quả điều tra được xử lý bằng tính điểm trung bình
theo công thức CT 3.1 và phân bậc cho các biện pháp đã đề xuất theo công
thức CT 3.2 [Phụ lục 13].
Để xem xét sự khác biệt về đánh giá của CBQL với đánh giá của GVMN
về các biện pháp đã đề xuất, kết quả điều tra được xử lý bằng công thức tính đại
lượng kiểm định t (CT 4.2) [Phụ lục 13], sau đó đối chiếu với bảng phân phối
Student [Phụ lục 11] nhằm xác định sự thống nhất ý kiến giữa CBQL và GVMN.
Bước 3: Trao đổi, phỏng vấn, xin ý kiến chuyên gia đối với cán bộ QLGD
các sở, phòng GD&ĐT để lý giải kết quả điều tra bằng phiếu và rút ra kết luận
về tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
4.2.2. Phân tích kết quả khảo nghiệm
Kết quả khảo nghiệm được tổng hợp theo những nhận định định tính rút
ra từ các trao đổi, phỏng vấn, xin ý kiến chuyên gia và những phân tích định
lượng các kết quả điều tra bằng phiếu. Việc xem xét kết quả điều tra bằng
phiếu có tính đến kết quả kiểm định sự khác nhau giữa giá trị trung bình trong
đánh giá của hai nhóm đối tượng: CBQL và GVMN ở tất cả các nội dung
khảo nghiệm về tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đã đề xuất (xem
Phụ lục 8). Kết quả kiểm định cho thấy, đại lượng kiểm định t nằm trong
khoảng từ 0,035 đến 1,545 [Phụ lục 8]. Đối chiếu với bảng phân phối t
(Student) [Phụ lục 11] cho phép khẳng định: đại lượng kiểm định sự khác
nhau giữa giá trị trung bình của mẫu CBQL và GVMN < t05, tức là sự khác
biệt giữa 2 giá trị trung bình nói trên không có ý nghĩa thống kê. Điều đó cho
141
phép suy ra rằng, ý kiến đánh giá của CBQL và GVMN về tính cần thiết, tính
khả thi của các biện pháp đã đề xuất là hoàn toàn thống nhất. Vì vậy, có thể
gộp chung đánh giá của hai nhóm mẫu trên vào bảng sau.
Bảng 4.1. Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
Mức độ đánh giá Tần suất / %
Biện pháp quản lý (tên và ký hiệu)
S TT
Thứ bậc
khả
Nội dung khảo nghiệm
Cần thiết/ Khả thi
Ít cần thiết/ Ít khả thi
1
Không cần/ Không khả thi 0
360
36
Rất cần/Rấ t thi 247
Tính cần thiết
3,33
7
56,0 416
5,6 12
0 0
38,4 215
Tính khả thi
3,32
6
64,7 175
1,9 45
0 0
33,4 423
Tính cần thiết
3,59
1
27,2 327
7,0 13
0 0
65,8 303
Tính khả thi
47,0
50,9
2,0
3,45
2
0
3
370
245
28
0
3,53
3
Tính cần thiết
57,5
38,1
4,4
0
328
16
0
299
Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của giáo viên mầm non đối với hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP1) 2 Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp (BP2) Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP3)
Tính khả thi
3,44
3
4
51,0 325
2,5 15
0 0
46.5 303
Tính cần thiết
3,45
4
50,5 369
2,3 19
0 0
47,1 255
Tính khả thi
3,37
5
5
57,4 128
2,9 79
0 0
39,7 436
Tính cần thiết
3,56
2
19,9 264
12,3 20
0 0
67,8 359
Tính khả thi
3,53
1
6
41,1 359
3,1 25
0 0
55.8 259
Tính cần thiết
3,36
6
55,8 413
3,9 19
0 0
40,3 211
Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các lớp bồi dưỡng tập trung (BP4) Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP5) Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP6)
Tính khả thi
3,30
7
64,2 324
3,0 21
0 0
32,8 298
Tính cần thiết
3,43
5
50,4 330
3,3 24
0 0
46,3 289
Tính khả thi
7 Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ (BP7)
3,41
4
0
44,9
51,3
3,7
142
Nhận xét:
Qua bảng trên ta có thể thấy, tất cả 7 biện pháp quản lý hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề
nghiệp được đề xuất đều rất cần thiết và rất khả thi. Bởi vì mức điểm trung
bình thấp nhất là 3,30 điểm, mà theo thang đo Likert với max = 4, min =1, khi
3,25 ≤ ≤ 4.0 điểm thì mức độ đánh giá đạt cấp độ cao nhất (rất cần thiết,
rất khả thi). Cụ thể kết quả khảo nghiệm từng biện pháp thu được như sau:
BP1 - “Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với
hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp” được đánh giá về tính
cần thiết với 3,33 điểm (thứ bậc 7), trong đó 38,4% số người tham gia khảo
nghiệm cho là “rất cần thiết” và tính khả thi với 3,32 điểm (thứ bậc 6), trong
đó 33,4% số người tham gia khảo nghiệm cho là “rất khả thi”. Theo ý kiến
của nhiều người tham gia trao đổi, tọa đàm, sở dĩ biện pháp này chưa được
CBQL, GVMN đánh giá ở thứ bậc cao là do: Đa số GVMN đã nắm được
những thông tin cơ bản về “Chuẩn nghề nghiệp GVMN”, được ban hành kèm
theo Thông tư số 26/2018/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 10 năm 2018 và
“Chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN”, ban hành kèm theo Thông
tư số 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 08 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT, nhưng họ chưa tự thúc đẩy, tự định hướng được hoạt động của mình
để đáp ứng những quy định trong các văn bản quản lý vừa nêu. Thực tế đó
dẫn đến chỗ, phần lớn CBQL, GVMN được khảo nghiệm mong muốn biện
pháp “Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với hoạt
động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp” được triển khai.
BP2 - “Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại các địa
phương theo chuẩn nghề nghiệp” có mức điểm đánh giá về tính cần thiết là
3,59 điểm (thứ bậc 1), với 65,8% số người được hỏi cho là “rất cần thiết” và
mức điểm đánh giá về tính khả thi là 3,45 điểm (thứ bậc 2), với 47% số người
được hỏi cho là “rất khả thi”. Đây là sự đánh giá cao cả về tính cần thiết và
143
tính khả thi của biện pháp “Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp”. Qua tọa đàm, trao đổi,
xin ý kiến chuyên gia, nhiều CBQL khẳng định rằng: Để hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN có tính hệ thống và đạt hiệu quả thiết thực, bộ máy quản lý
phải có những định hướng rõ ràng và ổn định về bổ sung, nâng cao kiến thức,
kỹ năng sư phạm cho giáo viên trong khoảng thời gian tương đối dài. Vì vậy,
nhất thiết sở, phòng GD&ĐT phải thực hiện tốt kế hoạch hóa hoạt động bồi
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
BP3 - “Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng
NLSP cho GVMN” là biện pháp được đánh giá với 3,53 điểm về tính cần
thiết (thứ bậc 3), với 57,5% số người tham gia khảo nghiệm cho rằng “rất cần
thiết” và 3,44 điểm về tính khả thi (thứ bậc 3), với 46,5% - cho rằng “rất khả
thi”. Qua phỏng vấn chuyên gia, nhiều CBQL cho rằng đây là biện pháp hay
và hợp lý, bởi vì có không ít tài liệu bồi dưỡng do Bộ GD&ĐT cung cấp chưa
phù hợp với nhu cầu bồi dưỡng GVMN ở tỉnh miền núi phía Bắc, trong khi
đó Trường Sư phạm tỉnh đang chuyển đổi chức năng từ đào tạo là chủ yếu
sang bồi dưỡng giáo viên là chủ yếu. Trong điều kiện thực tế đó, từng tỉnh
miền núi phía Bắc cần và có thể tổ chức lực lượng biên soạn chương trình, tài
liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN sát với nhu cầu thực tế của địa phương
mình, đồng thời huy động giảng viên của Trường Sư phạm tỉnh giảng dạy tại
các lớp bồi dưỡng giáo viên tập trung ở tỉnh và các huyện.
BP4 - “Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng NLSP cho
GVMN tại các lớp bồi dưỡng tập trung” được đánh giá với 3,45 điểm về tính
cần thiết (thứ bậc 4), trong đó 47,1% số người tham gia khảo nghiệm cho rằng
“rất cần thiết” và 3,37 điểm về tính khả thi (thứ bậc 5), trong đó 39,7% - cho
rằng “rất khả thi”. Nhiều CBQL tham gia trao đổi, tọa đàm đã lý giải: sở dĩ
biện pháp này chỉ có thứ bậc khá khiêm tốn là do điều kiện của các địa
phương miền núi phía Bắc tổ chức bồi dưỡng tập trung cho GVMN còn khá
144
khó khăn và nhiều GVMN chưa hiểu được đầy đủ về ĐBCL giáo dục trong tổ
chức bồi dưỡng tập trung, nhưng để nâng cao hiệu quả các lớp bồi dưỡng, tập
huấn nhất thiết phải áp dụng mô hình ĐBCL phù hợp vào quản lý hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
BP5 - “Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi
dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp” thu hút sự quan tâm
cao của CBQL và GVMN. Biện pháp này được đánh giá về tính cần thiết với
3,56 điểm (thứ bậc 2), trong đó 67,8% số người tham gia khảo nghiệm cho là
“rất cần thiết” và tính khả thi với 3,53 điểm (thứ bậc 1), trong đó 55,8% số
người tham gia khảo nghiệm cho là “rất khả thi”. Qua tọa đảm, trao đổi, xin ý
kiến chuyên gia, nhiều CBQL khẳng định rằng: Hiện nay, bồi dưỡng thường
xuyên tại trường cho GVMN thường mang lại những kết quả thiết thực đối
với việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên, nhưng nội dung và phương thức tiến hành ở một số không nhỏ các
trường còn khá tùy tiện. Trong khi đó, hoạt động tự bồi dưỡng của GVMN
chưa được quản lý chặt chẽ và chưa gắn kết với hoạt động bồi dưỡng thường
xuyên tại trường. Vì vậy có thể nói, biện pháp “Tổ chức kết hợp giữa bồi
dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn
nghề nghiệp” đã hướng đúng vào việc khắc phục những bất cập của cả bồi
dưỡng thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo
chuẩn nghề nghiệp.
BP6 - “Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN” có mức điểm đánh giá về tính cần thiết là 3,36 điểm (thứ bậc 6),
với 40,3% số người được hỏi cho là “rất cần thiết” và mức điểm đánh giá về
tính khả thi là 3,30 điểm (thứ bậc 7), với 32,8% số người được hỏi cho là “rất
khả thi”. Đây là biện pháp có thứ bậc đánh giá về tính cần thiết và tính khả thi
ở mức khá khiêm tốn, nhưng vẫn nằm trong khoảng điểm “rất cần thiết”, “rất
khả thi”. Lý giải về kết quả điều tra này, nhiều CBQL và GVMN cho rằng:
145
Hiện nay, nhìn chung GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn khá bỡ ngỡ,
lúng túng với phương thức học tập trực tuyến (online), nhiều trường, nhiều gia
đình GVMN còn thiếu máy tính kết nối mạng. Nhưng khá đông GVMN hiểu
rằng nếu ứng dụng công nghệ số vào bồi dưỡng giáo viên sẽ có nhiều tiện lợi
cho họ bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng sư phạm ở địa bàn miền núi.
BP7 - “Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá
giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ” được đánh
giá về tính cần thiết với 3,43 điểm (thứ bậc 5), trong đó 46,3% số người tham
gia khảo nghiệm cho là “rất cần thiết”và tính khả thi với 3,41 điểm (thứ bậc
4), trong đó 44,9% số người tham gia khảo nghiệm cho là “rất khả thi”. Biện
pháp này hướng vào thực hiện tốt chức năng kiểm tra, đánh giá của các chủ
thể quản lý đối với hoạt động bồi dưỡng NLSP và phẩm chất, năng lực của
GVMN, qua đó tác động tới thúc đẩy hoạt động vừa nêu. Do đó, biện pháp
này thực sự cần thiết và khả thi để quản lý tốt hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp.
Để khẳng định mối quan hệ tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi
của các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp, cần phải áp dụng công thức tính
hệ số tương quan thứ bậc Spearman (CT 4.3) [Phụ lục 13]
Sử dụng số liệu của bảng 4.1 vào công thức CT 4.3 cho kết quả là:
R = 0,892
Như vậy, tương quan thứ bậc giữa tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc đã được đề xuất là tương quan thuận và chặt (khi 0,7 R < 1). Qua
đây có thể hiểu rằng: Tuy không đều nhau về thứ bậc của tính cần thiết và
tính khả thi ở từng biện pháp nhưng các biện pháp có chiều hướng chung là:
tính cần thiết cao thì tính khả thi cũng cao. Điều đó có thể nhận rõ qua biểu đồ
4.1 dưới đây.
146
Biểu đồ 4.1. So sánh giữa tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
Biểu đồ 4.1 cho thấy, đối với từng biện pháp, mức điểm về tính khả thi
thường thấp hơn mức điểm về tính cần thiết. Từ đó có thể suy ra rằng: mặc dù
đánh giá cao tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất, nhưng
một bộ phận CBQL và GVMN tham gia khảo nghiệm còn ít nhiều nghi ngại
về kết quả thực hiện các biện pháp đó. Vì vậy, khi triển khai thực hiện các
biện pháp nêu trên, bộ máy QLGD cần phải có quyết tâm cao, tích cực tháo
gỡ những khó khăn, trở ngại cho GVMN trong hoạt động bồi dưỡng NLSP.
4.3. Thử nghiệm biện pháp đã đề xuất
4.3.1. Tổ chức thử nghiệm
4.3.1.1. Mục đích thử nghiệm
Đánh giá tác dụng của biện pháp được chọn làm thử nghiệm đối với việc
nâng cao NLSP của GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
4.3.1.2. Nhiệm vụ thử nghiệm
Chọn biện pháp để thử nghiệm: Biện pháp được chọn thử nghiệm là “Tổ
chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của GVMN
về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp”. Lý do chọn biện pháp để thử nghiệm là:
qua khảo nghiệm, biện pháp vừa nêu được đánh giá cao về tính cần thiết (thứ
bậc 2) và về tính khả thi (thứ bậc 1). Mặt khác, đây là biện pháp hướng vào
hiện thực hóa việc chuyển từ bồi dưỡng tập trung là chủ yếu sang bồi dưỡng
dựa vào nhà trường là chủ yếu, đồng thời góp phần khắc phục hạn chế về tự
bồi dưỡng của GVMN ở địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc.
147
Tiến hành các tác động quản lý bằng: (1) Xác lập kế hoạch sinh hoạt
chuyên đề, tọa đàm, hội thảo, các hoạt động giáo dục mẫu, báo cáo sáng kiến,
kinh nghiệm về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc,
giáo dục trẻ em; (2) Phân công giáo viên sưu tầm tài liệu, đúc rút kinh
nghiệm, chuẩn bị báo cáo để tham gia các hoạt động theo kế hoạch đã đề ra;
(3)Tổ chức các nhóm giáo viên bồi dưỡng, giúp đỡ lẫn nhau học tập ngoại
ngữ, tiếng dân tộc, công nghệ thông tin, hoạt động nghệ thuật.
Tổ chức đánh giá NLSP của giáo viên ở đơn vị thử nghiệm, trước và sau
thử nghiệm theo bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN được đề xuất tại phụ
lục 14 của luận án này.
Phân tích kết quả thử nghiệm.
4.3.1.3. Giả thuyết thử nghiệm
Nếu hoạt động bồi dưỡng thường xuyên tại trường cho GVMN về
chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc, giáo dục trẻ em được tổ chức theo
nguyên tắc lấy giáo viên để bồi dưỡng giáo viên thì sẽ trở thành “đòn bẩy”
thúc đẩy tự học tập, tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên, tạo nên sự kết hợp
chặt chẽ giữa các hoạt động này và đưa tới sự phát triển NLSP của GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp.
4.3.1.4. Thời gian và lực lượng tham gia thử nghiệm
Thời gian thử nghiệm:
Tháng 8 năm 2019: Làm công tác chuẩn bị;
Từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019: Tiến hành các tác động thử nghiệm.
Tháng 1 năm 2020: Đánh giá, phân loại giáo viên sau thử nghiệm; phân
tích kết quả thử nghiệm.
Lực lượng tham gia thử nghiệm gồm:
Cán bộ, giáo viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm
tỉnh Cao Bằng, với 10 CBQL, 32 giáo viên, trong đó có 35 cán bộ tổ chuyên
môn và giáo viên tham gia đầy đủ các hoạt động theo kế hoạch thử nghiệm.
Thông tin chi tiết về đơn vị thử nghiệm được trình bày trong phụ lục 10.
148
4.3.1.5. Cách thức tiến hành thử nghiệm
Chuẩn bị thử nghiệm:
(1) Thống nhất với ban giám hiệu Trường mầm non thị trấn Pác Miầu về
bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN theo Phụ lục 14.
(2) Đề nghị Ban giám hiệu (hiệu trưởng và 2 hiệu phó) của Trường mầm
non thị trấn Pác Miầu đánh giá NLSP của 35 cán bộ tổ chuyên môn và giáo
viên trước thử nghiệm và sau thử nghiệm theo bộ tiêu chí đã thống nhất. Kết
quả đánh giá của 3 người nêu trên được xử lý theo cách tính điểm trung bình
chung của cả trường, với tổng lượt đánh giá là 105 lượt, theo 4 cấp độ (tốt - 4
điểm, khá - 3 điểm, đạt - 2 điểm, yếu - 1 điểm).
(3 Thống nhất với ban giám hiệu Trường mầm non thị trấn Pác Miầu về
“Kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên tại trường năm học 2019 - 2020”.
(4) Xây dựng kế hoạch các sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội thảo, hoạt
động giáo dục mẫu, báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm về đổi mới nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ em sẽ thực hiện từ
tháng 9 đến tháng 12 năm 2019.
(5) Làm việc với hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn về dự kiến
phân công giáo viên chuẩn bị nội dung báo cáo trung tâm và ý kiến tham luận,
tranh luận trong các sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội thảo, hoạt động giáo
dục mẫu, báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm.
(6) Sưu tầm và bổ sung các giáo trình, tài liệu dùng trong bồi dưỡng
GVMN liên quan nội dung sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội thảo tại Trường
mầm non thị trấn Pác Miầu.
(7) Đề nghị với ban giám hiệu Trường mầm non thị trấn Pác Miầu:
Trong thời gian thử nghiệm, nhà trường bố trí các hoạt động sinh hoạt chuyên
đề, tọa đàm, hội thảo, báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm thực hiện vào sáng thứ
7 để đông đủ cán bộ, giáo viên có thể tham gia, việc nghỉ bù cho giáo viên sẽ
bố trí luân phiên vào các ngày làm việc tiếp theo.
149
Tiến hành thử nghiệm:
Tác động 1: Hiệu trưởng phổ biến kế hoạch sinh hoạt chuyên đề, tọa
đàm, hội thảo, hoạt động giáo dục mẫu, báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm về
đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ em
sẽ thực hiện trong năm học 2019 - 2020, trọng tâm là các hoạt động chủ yếu
từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019.
Tác động 2: Hiệu trưởng quy định và thống nhất mẫu biểu để giáo viên
ghi nhật ký hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ hàng ngày và báo cáo cho tổ
trưởng chuyên môn những tình huống sư phạm tiêu biểu đã xử lý thành công
trong tuần.
Tác động 3: Phân công giáo viên chuẩn bị báo cáo trung tâm, báo cáo bổ
trợ và chuẩn bị thảo luận về chuyên đề “GDMN theo quan điểm giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm” và tổ chức sinh hoạt chuyên đề này vào tuần cuối tháng 9
năm 2019.
Tác động 4: Phân công giáo viên chuẩn bị tham luận, ý kiến tranh luận về
vấn đề “Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm
giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong điều kiện thực tiễn của nhà trường hiện
nay” và tổ chức hội thảo vấn đề này vào tuần cuối tháng 10 năm 2019.
Tác động 5: Tổ chức đợt sinh hoạt chuyên môn “Kỷ niệm ngày nhà giáo
Việt Nam (20 tháng 11)” với các hoạt động tại tổ chuyên môn bao gồm: Hoạt
động giáo dục mẫu do các giáo viên cốt cán đảm nhiệm, theo hai chủ đề chính
là “Nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe trẻ em” và “ Quản lý nhóm, lớp”; hội
nghị giáo viên trong từng tổ chuyên môn báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm về
đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Tác động 6: Tổ chức bồi dưỡng về chuyên đề “Ứng dụng công nghệ
thông tin để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trong cơ sở
GDMN” và phân công giáo viên hỗ trợ đồng nghiệp nâng cao năng lực ứng
dụng công nghệ thông tin.
150
Kết thúc thử nghiệm
(1) Ban giám hiệu tiến hành đánh giá NLSP của 35 cán bộ tổ chuyên môn
và giáo viên sau thử nghiệm theo bộ tiêu chí đánh giá NLSP [Phụ lục 14];
(2) Rút kinh nghiệm về việc tổ chức kết hợp giữa HĐBD thường xuyên tại
trường và tự bồi dưỡng của GVMN về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp
4.3.2. Kết quả thử nghiệm
4.3.2.1. Phân tích kết quả thử nghiệm về mặt định lượng
Đối chiếu kết quả đánh giá, xếp loại giáo viên và thực tế công tác của
từng người với bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN [Phụ lục 14], hiệu
trưởng và 2 hiệu phó Trường mầm non thị trấn Pác Miầu đã tiến hành đánh
giá NLSP của 35 cán bộ tổ chuyên môn và giáo viên tham gia đầy đủ các hoạt
động theo kế hoạch thử nghiệm. Số liệu đánh giá trước và sau thử nghiệm
được tổng hợp trong bảng 4.2 dưới đây.
Bảng 4.2. Kết quả đánh giá NLSP của cán bộ tổ chuyên môn và giáo
viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng
trước và sau thử nghiệm (người đánh giá: 3; người được đánh giá: 35; tổng
lượt đánh giá: 105)
S TT
thử nghiệm
Tiêu chí đánh giá NLSP (tên và ký hiệu) Thời điểm đánh giá Trước 1 Năng lực tổ chức quá trình Cấp độ đánh giá (Tần suất - lượt đánh giá) Tốt Khá Đạt Yếu 0 26 55 24 3,02
Sau
thử nghiệm
Trước
học tập và phát triển toàn 43 46 16 0 3,26 diện của trẻ (NL1)
thử nghiệm
2 Năng lực thúc đẩy, khuyến 31 45 28 0 3,02
Sau
thử nghiệm
khích trẻ tham gia các hoạt 37 50 18 0 3,18 động theo chương trình
Trước
GDMN (NL2)
thử nghiệm
3 Năng lực xây dựng môi 35 48 22 0 3,12
Sau thử nghiệm
trường giáo dưỡng cho trẻ 41 52 12 0 3,28 (NL3)
Trước
151
thử nghiệm
4 Năng lực chăm sóc sức khỏe 33 52 20 0 3,12
Sau thử nghiệm
và bảo vệ an toàn cho trẻ 43 49 13 0 3,29 (NL4)
Trước thử nghiệm
5 Năng lực xây dựng quan hệ 25 59 21 0 3,04
Sau thử nghiệm
hợp tác với bố mẹ, gia đình 34 55 16 0 3,17 trẻ trong lĩnh vực GDMN
(NL5)
Trước thử nghiệm
6 Năng lực kết nối và hợp tác 30 56 19 0 3,10
Sau thử nghiệm
với đồng nghiệp và cộng 39 54 12 0 3,25 đồng nhằm phát triển GDMN
Trước
(NL6)
thử nghiệm
7 Năng lực tự nâng cao trình 29 54 22 0 3,07
Sau thử nghiệm
độ chuyên môn của bản thân 38 56 11 0 3,26 (NL7)
Từ kết quả ở bảng tổng hợp 4.2, ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ 4.2. So sánh kết quả đánh giá NLSP của cán bộ, giáo viên
tham gia thử nghiệm ở Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, trước và sau
thử nghiệm
Biểu đồ 4.2 cho thấy, tất cả các NLSP của cán bộ, giáo viên tham gia thử
nghiệm ở Trường mầm non thị trấn Pác Miầu được đánh giá sau thử nghiệm
đều cao hơn trước thử nghiệm. Áp dụng công thức tính đại lượng kiểm định t
(CT 4.2) [phụ lục 13] cho phép khẳng định sự khác biệt về NLSP của cán bộ,
giáo viên tham gia thử nghiệm giữa hai thời điểm: trước và sau thử nghiệm.
152
Thực tế, sử dụng các số liệu trong bảng 4.2 để tính toán theo công thức vừa
nêu đã cho kết quả như sau:
Bảng 4.3. So sánh giá trị trung bình kết quả đánh giá NLSP của cán bộ,
giáo viên tham gia thử nghiệm ở Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, trước
và sau thử nghiệm
STT Năng lực đƣợc đánh giá
Thời điểm
(ký hiệu)
Đại lƣợng kiểm định t
1 NL1
4,519 3,04533
3,05445
2 NL2
3,19228
3 NL3
2,66253
4 NL4
3,11681
5 NL5
3,95676
6 NL6
Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm Trước thử nghiệm Sau thử nghiệm
3,02 3,26 3,02 3,18 3,12 3,28 3,12 3,29 3,04 3,17 3,10 3,25 3,07 3,26
NL7 7
Đối chiếu đại lượng kiểm định t trong bảng 4.3 với bảng phân phối đại
lượng kiểm định t (Student) [Phụ lục 11] ta thấy, tất cả 7 NLSP của cán bộ,
giáo viên tham gia thử nghiệm được so sánh giá trị trung bình trước và sau
thử nghiệm đều có t > t05 (2,04 với n = 35). Từ đó có thể khẳng định rằng:
NLSP của cán bộ, giáo viên ở Trường mầm non thị trấn Pác Miầu trước và
sau thử nghiệm đã có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với điểm trung bình
( ) sau thử nghiệm cao hơn trước thử nghiệm. Điều đó nói lên rằng, nhờ
những tác động thử nghiệm biện pháp “Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa
vào nhà trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề
nghiệp” trình độ NLSP của giáo viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu đã
có tiến bộ rõ nét. Trong đó, những năng lực có sự chuyển biến mạnh mẽ nhất
là: “NL1 - Năng lực tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ”
với t = 4,519 ; “NL7- Năng lực tự nâng cao trình độ chuyên môn của bản
thân” với t =3,95676; “NL4 - Năng lực chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn
153
cho trẻ” với t = 3,19228; “NL6 - Năng lực kết nối và hợp tác với đồng nghiệp
và cộng đồng nhằm phát triển GDMN” với t = 3,11681. Điều này nói lên sự
tiến bộ toàn diện và rõ nét về NLSP của GVMN ở đơn vị thử nghiệm.
4.3.2.2. Phân tích kết quả thử nghiệm về mặt định tính
Để phân tích kết quả thử nghiệm về mặt định tính, tác giả luận án đã phỏng
vấn, tọa đàm, trao đổi với ban giám hiệu, các tổ trường chuyên môn và giáo viên
cốt cán của Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, kết quả thu được như sau:
Thứ nhất, phần lớn cán bộ, giáo viên tham gia phỏng vấn, tọa đàm, trao
đổi thừa nhận rằng: Việc phân công giáo viên chuẩn bị báo cáo trung tâm, báo
cáo bổ trợ và ý kiến thảo luận, tranh luận trước khi tiến hành các hoạt động
sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm, hội thảo… đã thúc đẩy tính tích cực của từng
giáo viên trong việc tìm tòi tài liệu, tự đúc rút kinh nghiệm cá nhân, phát hiện
những vấn đề mới trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ, do đó hoạt động tự
bồi dưỡng được đẩy mạnh, trên cơ sở đó chất lượng của bồi dưỡng thường
xuyên tại trường được nâng cao.
Thứ hai, đa số cán bộ, giáo viên cho rằng: Việc hiệu trưởng nhà trường
quy định thống nhất mẫu biểu để giáo viên ghi nhật ký hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ hàng ngày và báo cáo cho tổ trưởng chuyên môn những tình huống
sư phạm tiêu biểu đã xử lý thành công trong tuần có tác dụng giúp giáo viên tự
tích lũy kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đến khi giáo viên chuẩn bị
báo cáo sáng kiến, kinh nghiệm của cá nhân, những nhật ký hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ hàng ngày, hàng tuần lại trở thành những nguồn tư liệu phong
phú, do đó ảnh hưởng tích cực đến hội nghị giáo viên báo cáo sáng kiến, kinh
nghiệm về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Điều đó làm cho kinh nghiệm cá nhân của giáo viên được tích lũy,
góp phần thiết thực vào phát triển NLSP của cả tập thể sư phạm.
Thứ ba, ban giám hiệu, các tổ trưởng chuyên môn và giáo viên cốt cán của Trường mầm non thị trấn Pác Miầu tán thành với tư tưởng chỉ đạo “lấy giáo viên để bồi dưỡng giáo viên” trong tổ chức bồi dưỡng thường xuyên tại
trường về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo này, vai
trò của giáo viên cốt cán trong hướng dẫn, hỗ trợ và phối hợp với đồng nghiệp
154
chăm sóc, giáo dục trẻ em được phát huy, do đó các hoạt động sinh hoạt
chuyên đề, tọa đàm, hội thảo… nâng cao được chất lượng. Nhưng để xứng
đáng với sự tin cậy của đồng nghiệp, giáo viên cốt cán phải tích cực tự học
tập, tự bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm. Điều đó làm cho
HĐBD thường xuyên tại trường về NLSP cho GVMN và hoạt động tự học
tập, tự bồi dưỡng của từng giáo viên hòa quyện vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau.
Thứ tư, trình độ sử dụng ngoại ngữ, tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ
thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em của giáo viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu không
đều nhau, trong đó giáo viên mới, giáo viên ít kinh nghiệm thường khá hơn
những đồng nghiệp khác về ứng dụng công nghệ thông tin, thể hiện khả năng
nghệ thuật. Vì vậy, nhiều CBQL và GVMN cho rằng, để giáo viên hỗ trợ lẫn
nhau trong học tập ngoại ngữ, tiếng dân tộc, công nghệ thông tin, nghệ thuật
tạo hình, âm nhạc, múa… ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn phải thành
lập các nhóm giáo viên giúp nhau học tập về các môn này. Làm được như
vậy, giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đánh giá chung về kết quả thử nghiệm
Các tác động thử nghiệm được thực hiện theo ý tưởng lấy giáo viên để bồi
dưỡng giáo viên vừa góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng thường xuyên tại
trường, vừa tạo “đòn bẩy” thúc đẩy tự học tập, tự bồi dưỡng của mỗi giáo viên.
Đó là cách hiện thực hóa biện pháp “Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào
nhà trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp”.
Những tác động thử nghiệm đó được thực hiện tại Trường mầm non thị trấn Pác
Miầu trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019 đã góp phần vào
sự phát triển NLSP của GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Phân tích kết quả thử nghiệm về mặt định lượng và định tính cho thấy:
Nhờ kết hợp giữa HĐBD thường xuyên tại trường và tự bồi dưỡng của GVMN về NLSP theo chuẩn nghề nghiệp, kết quả đánh giá NLSP của giáo viên Trường mầm non thị trấn Pác Miầu, theo Bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN mà luận án đề xuất, sau thử nghiệm đã cao hơn trước thử nghiệm. Kết
quả thử nghiệm này cho phép khẳng định rằng, biện pháp mà luận án đề xuất
là có tác dụng thực tế về phát triển NLSP của GVMN.
155
Kết luận chƣơng 4
Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp có ý nghĩa phát huy thành công,
ưu điểm đã đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót được chỉ
ra trong thực trạng của lĩnh vực quản lý này. Các biện pháp này hòa quyện
với nhau thành một hệ thống phương pháp, cách thức tác động của các chủ
thể quản lý tới hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN, để từng giáo viên đạt
tới sự phát triển năng lực, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục của
trường mầm non.
Để phát triển chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN ở các tỉnh miền núi
phía Bắc, các sở, phòng GD&ĐT và trường mầm non cần triển khai thực hiện
các biện pháp sau: xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với
HĐBD; kế hoạch hóa HĐBD; huy động nhân lực tham gia HĐBD; thực hiện
quy trình ĐBCL các lớp bồi dưỡng tập trung; kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào
nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên, áp dụng công nghệ số vào hoạt
động bồi dưỡng; kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh
giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Các biện
pháp này luôn chi phối và tạo điều kiện cho nhau, để cùng tác động tới sự
phát triển NLSP của GVMN, vì vậy không thể xem nhẹ biện pháp nào.
Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp quản
lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo
chuẩn nghề nghiệp cho phép khẳng định: Các biện pháp được đề xuất trong
luận án đều có tính cần thiết và tính khả thi, phù hợp với thực tiễn của hệ
thống GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cùng với khảo nghiệm, những
tác động thử nghiệm biện pháp “Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà
trường và tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non về NLSP theo chuẩn nghề
nghiệp”cho thấy sự tiến bộ về kết quả đánh giá NLSP của GVMN ở đơn vị
thử nghiệm. Qua đó ta có thể khẳng định các biện pháp được đề xuất trong
luận án có tác dụng nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
156
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao
chất lượng GDMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc là một đòi hỏi cấp thiết hiện
nay. Để phát triển đội ngũ này, bộ máy QLGD phải giải quyết hàng loạt vấn
đề, trong đó có bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp. Điều
này đòi hỏi phải CBQL và GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc phải ý thức
đầy đủ về việc chuyển từ bồi dưỡng giáo viên để đạt chuẩn trình độ đào tạo
sang bồi dưỡng NLSP để đáp ứng những tiêu chuẩn, tiêu chí về phát triển
chuyên môn, nghiệp vụ được quy định trong Chuẩn nghề nghiệp GVMN. Đây
thực sự là thay đổi rất sâu sắc trong hoạt động bồi dưỡng GVMN ở các tỉnh
miền núi phía Bắc.
Hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp là tiến
hành bổ sung, cập nhật, nâng cao tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm
để phát triển trình độ chuyên môn theo khung năng lực và nâng cao được kết
quả hoạt động nghề nghiệp của GVMN. Quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp là những
tác động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể QLGD đến hoạt động bổ
sung, cập nhật, nâng cao tổ hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ sư phạm để phát
triển trình độ chuyên môn theo khung năng lực và nâng cao được kết quả hoạt
động nghề nghiệp của GVMN ở địa phương. Quản lý hoạt động này bao hàm
những nội dung rất quan trọng, đó là quản lý: xác lập mục tiêu, yêu cầu bồi
dưỡng; xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng; tổ chức nhân lực tham
gia HĐBD; đổi mới dạy học tại các lớp bồi dưỡng tập trung; mở rộng bồi
dưỡng dựa vào nhà trường và kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Trong thời gian qua, các sở, phòng GD&ĐT và các trường mầm non ở các
tỉnh miền núi phía Bắc đã đạt được nhiều thành công trong quản lý hoạt động bồi
157
dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, tuy nhiên cũng còn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập như: chậm tổ chức xây dựng và sử dụng bộ tiêu chí đánh
giá NLSP vào quản lý, chưa cụ thể hóa rõ ràng, sát thực tiễn chương trình bồi
dưỡng, chưa quan tâm đầy đủ đến tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi
dưỡng, chưa có nhiều biện pháp đảm bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật, buông
lỏng chỉ đạo trường mầm non tổ chức nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên
đề bồi dưỡng... Điều đó, ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả hoạt động
bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp.
Để phát huy những ưu điểm, khắc phục được những hạn chế trong quản
lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp, bộ máy
QLGD ở các tỉnh miền núi phía Bắc cần phải làm tốt những biện pháp sau:
xây dựng động cơ, thái độ tích cực của GVMN đối với hoạt động bồi dưỡng
NLSP; kế hoạch hóa hoạt động này; huy động nguồn nhân lực chất lượng cao
tham gia bồi dưỡng; ĐBCL các lớp bồi dưỡng tập trung; kết hợp giữa bồi
dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên; áp dụng công nghệ
số vào hoạt động bồi dưỡng; kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng
NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện
nhiệm vụ. Làm tốt những biện pháp này hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp sẽ đóng góp có
hiệu quả vào chuẩn hóa đội ngũ giáo viên tại địa bàn này.
2. Kiến nghị
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cần sớm quy hoạch, tổ chức lại các Trường Sư phạm tỉnh theo hướng trở
thành Phân hiệu của Đại học trung tâm tại mỗi khu vực Đông Bắc và Tây Bắc
để tập trung vào nhiệm vụ đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trước
hết là GVMN tại từng tỉnh.
Tổ chức nghiên cứu, biên soạn hệ thống tài liệu bồi dưỡng phù hợp với
chương trình bồi dưỡng thường xuyên GVMN, được ban hành kèm theo
Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT, ngày 26 tháng 08 năm 2019.
158
Đối với các sở GD&ĐT ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non tại
Trường Sư phạm tỉnh nhằm tạo nguồn lực con người đủ mạnh để tổ chức lực
lượng biên soạn chương trình, tài liệu và giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng
NLSP cho GVMN trên địa bàn của từng tỉnh.
Đầu tư nguồn lực tài chính để Trường Sư phạm tỉnh xây dựng thư viện
điện tử, trên cơ sở đó cung cấp cơ sở dữ liệu cho chuyên mục “Bồi dưỡng
GVMN” trên website của sở GD&ĐT.
Đối với các phòng GD&ĐT huyện ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Áp dụng mô hình ĐBCL đầu vào (Input), quá trình (Process) và kết
quả/đầu ra (Output) của từng lớp bồi dưỡng tập trung về NLSP cho GVMN
trên địa bàn huyện.
Đối với các trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán để họ đủ khả năng hướng
dẫn, hỗ trợ và phối hợp với đồng nghiệp chăm sóc, giáo dục trẻ em, qua đó
trở thành hạt nhân trong HĐBD thường xuyên tại trường cho GVMN.
Củng cố tổ chức các tổ chuyên môn trong trường mầm non và đề cao uy
tín của các tổ trưởng chuyên môn để họ tổ chức có hiệu quả “giáo viên bồi
dưỡng giáo viên” trong hoạt động thực tiễn chăm sóc, giáo dục trẻ em.
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nông Thị Thu Trang (2015), “Bồi dưỡng kỹ năng sư phạm cho giáo viên mầm
non ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi”, Tạp chí Giáo dục, số 355, tr.4-5,12.
2. Nông Thị Thu Trang (2019), “Quan niệm về năng lực sư phạm và bồi
dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non”, Tạp chí Thiết bị
Giáo dục, số 189, tháng 3, tr. 54-56.
3. Nông Thị Thu Trang (2020), “Nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng
năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp cho giáo viên mầm non”,
Tạp chí thiết bị Giáo dục, số 213, tháng 3, tr.102-104.
4. Nông Thị Thu Trang (2021), “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề
nghiệp”, Tạp chí Thiết bị giáo dục, số 236, kì 1,tháng 3, tr.166-168.
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Như Ất (2005), “Tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước về
giáo dục của Liên bang Nga và bài học cho Giáo dục Việt Nam”,
Quản lý nhà nước về giáo dục - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr. 359-372.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2004), Về việc xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Chỉ thị 40-
CT/TW, ngày 15/6/2004.
3. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam
hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Đặng Quốc Bảo (chủ biên) (2007), Cẩm nang nâng cao năng lực và
phẩm chất đội ngũ giáo viên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thành Vinh (2011), Quản lý nhà trường,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Pierre Besnard, Bernard Lietard (1998), Đào tạo bồi dưỡng thường
xuyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bình (2013), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách
công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông, Đề tài cấp Nhà
nước, Mã số 01-2010.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Về xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, Hướng dẫn
số 5516/BGDĐT-NGCBQLGD, ngày 19/8/2011.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Chương trình Giáo dục mầm non,
Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT ngày 24 - 01 - 2017 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT, Hà Nội.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo
viên mầm non, Thông tư số 26/2018/TT-BGDĐT, ngày 08 tháng
10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
161
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Chương trình bồi dưỡng thường
xuyên giáo viên mầm non, Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT
ngày 26 tháng 08 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Hà Nội.
12. Nguyễn Phúc Châu (2005), Nhận diện những trụ cột của hoạt động
quản lý và vận dụng chúng vào đổi mới quản lý nhà trường, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
13. Phạm Thị Châu (chủ biên) (2011), Giáo dục học mầm non, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Lê Văn Chín (2012), Quản lý đội ngũ giáo viên tiểu học tỉnh Bến Tre
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo
dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
15. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Chiến
lược Phát triển giáo dục 2011 - 2020, Ban hành kèm theo Quyết
định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ.
16. B. Christian (2002), Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước,
tập 1, Phạm Quỳnh Hoa (dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Vũ Đình Chuẩn (2008), Phát triển đội ngũ giáo viên tin học trường
trung học phổ thông theo quan điểm chuẩn hóa và xã hội hóa,
Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Trần Thị Ngọc Chúc (2006), Biện pháp tổ chức việc rèn luyện kỹ năng
nghề cho giáo sinh hệ trung học sư phạm mầm non 12+2, Luận
án tiến sĩ, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Cường , B. Meier(2014), Lý luận dạy học hiện đại, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
20.
21.
Jean - Marc Denommé và Madeleine Roy (2000), Tiến tới một phương pháp sư phạm tương tác, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Bùi Thị Ngọc Diệp (2008), Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc và miền núi, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
22. Phạm Tất Dong (1984), Tâm lý học lao động, Cục Đào tạo bồi dưỡng,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
162
23.
Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Giải pháp đổi mới đào tạo nghiệp vụ sư phạm đáp ứng giáo dục phổ thông trong thời kỳ mới, Đề tài cấp bộ, mã số B2011 - 17- CT04.
24.
25.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
27.
28.
Nguyễn Văn Đệ (2014), “Hoạt động đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới”, Tạp chí Giáo dục, Số (327), kỳ 1 tháng 2/2014, tr.1- 3. Trần Khánh Đức, Vũ Ngọc Hải (2003), Hệ Thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI (Việt Nam và thế giới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo
nhân lực theo ISO & TQM, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong
thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
31.
32. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2006), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. W. Franz Emanuel (1998), Sự phát triển nhận thức học tập và giảng
dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. F.N. Gônôbôlin (1977), Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Phạm Minh Hạc (2010), Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35.
Đào Hải (2010), “ Vấn đề quản lý đào tạo giáo viên mầm non - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Giáo dục, Số( 252), kì 2, tháng 12/2010, tr. 1-3, 6.
36. Paul Hersey, Ken Blanc Hard (1995), Quản lý nguồn nhân lực, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
37. Bùi Minh Hiền (chủ biên) - Vũ Ngọc Hải - Đặng Quốc Bảo (2006),
Quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
38. Vũ Văn Hòa (2013), "Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao và hàm ý chính sách cho Việt
Nam", Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội, Viện Chiến lược phát
triển, số (95), tr.34-39.
39. Ngô Công Hoàn (1996), Quy trình rèn luyện tay nghề cho sinh viên
khoa giáo dục mầm non, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, mã số B94-24-1a-63, Hà Nội.
40. Trần Bá Hoành (2010), Vấn đề giáo viên - Những nghiên cứu lý luận
và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
41. Hồ Lam Hồng (2005), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, Đề tài cấp Bộ,
mã số B2005-75-129, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
42. Vũ Minh Hùng (2008), “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo
viên, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong giáo dục nghề
nghiệp”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số (35), tháng 8/2008, tr. 8 - 10.
43. Nguyễn Thanh Huyền (1994), Xây dựng quy trình thực hành nghiệp
vụ sư phạm cho sinh viên cao đẳng sư phạm nhà trẻ - mẫu giáo,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
44. Trần Đăng Khởi (2019), Quản lý HĐBD giáo viên trung học cơ sở
theo tiếp cận năng lực, Luận án tiến sĩ QLGD, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
45. Kim Jang Ho (2005), Khung mẫu mới về phát triển nguồn nhân lực,
các sáng kiến của chính phủ để phát triển kinh tế xã hội tại Hàn
Quốc, Nxb KRIVET, Seoul, 135949, Hàn Quốc (bản dịch).
46. Trần Kiểm (2010), Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
47. Trần Kiểm, Nguyễn Xuân Thức (2012), Đại cương về khoa học quản
lý và quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
164
48. Trần Kiểm (2016), Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo
dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
49.
Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich (Vũ Thiếu, Nguyễn Mạnh Quân, Nguyễn Đăng Dậu dịch) (1994), Những vấn đề cốt
yếu của quản lý, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội
50. V.A. Kruchexki (1981), Những cơ sở của tâm lý học sư phạm, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51.
Mai Thị Yến Lan (2016), “Về đội ngũ giáo viên trung học cơ sở người dân tộc khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình đổi mới giáo
dục”, Tạp chí Giáo dục, số (394), kỳ 2, tháng 11/2016, tr.14 -16.
52. Mai Thị Yến Lan (2017), Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
người dân tộc Khmer khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay, Luận án tiến sĩ QLGD, Học viện Chính trị - Bộ Quốc
phòng, Hà Nội.
53. A.D. Levitov (1971), Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
54. Phạm Thị Loan (2009), “Một số biện pháp quản lý, phát triển năng lực
giáo viên mẫu giáo theo tiếp cận kỹ năng nghề trong các trường
mầm non hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số (220), kì 2, tháng
8/2009, tr. 9 - 11.
55. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Thị Tuất (1996), Tổ chức quản lý nhóm
- lớp trẻ trường mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2009), “Giáo viên chất lượng cao trong thời đại hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số (226), tháng 11/2009, tr. 1-4.
57. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2009), Quản lý, lãnh đạo nhà trường thế kỷ
XXI, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
58. Trần Hùng Lượng (2003), Một số giải pháp bồi dưỡng năng lực sư phạm
kỹ thuật cho giáo viên dạy nghề Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
59.
Đặng Huỳnh Mai (2006), Một số vấn đề về đổi mới quản lý giáo dục tiểu học vì sự phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
165
60.
61.
Nguyễn Thị Bạch Mai, Ngô Quang Sơn (2014), “Quản lý hiệu quả công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non ở các tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí Giáo dục, số (326), kì 2, tháng 1/2014, tr. 18 - 20, 33. Nguyễn Thị Bạch Mai (2015), Phát triển đội ngũ giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi các tỉnh Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
62.
Nguyễn Thị Như Mai (2012), “Nhận thức về sự cần thiết của sáng tạo trong nhân cách và thực trạng sáng tạo trong chăm sóc - giáo dục trẻ em của giáo viên mầm non”, Kỷ yếu Hội thảo Mô hình nhân cách giáo viên mầm non trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1927), "Đường cách mệnh", Hồ Chí Minh Toàn tập, tập
2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
64.
Phạm Minh Mục (2009), Báo cáo tổng kết đề tài “Xây dựng chương trình bồi dưỡng kỹ năng đặc thù cho giáo viên dạy các nhóm trẻ khuyết tật khác nhau”, Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
65.
Lục Thị Nga (2007), Quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên trường trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ QLGD, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, Hà Nội.
66.
Phạm Thành Nghị (2006), Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67.
Nguyễn Thị Oanh (2002), Cải tiến công tác thực hành bộ môn giáo dục mầm non cho sinh viên ở các trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
68.
Trần Công Phong, Trịnh Thị Hoa, Trương Xuân Cảnh, Võ Thùy Linh (2019), “Thực trạng quản lý nhà nước về giáo viên mầm non trong bối cảnh đổi mới giáo dục: Áp lực nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng”, Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam - Giáo dục mầm non, số (24), MN02, tháng 12/2019, tr 1- 4.
166
69. Trần Thanh Phúc (2008), Nghiên cứu khả năng đáp ứng của giáo viên
trong triển khai chương trình và sách giáo khoa tiểu học mới ở
vùng dân tộc, Đề tài cấp bộ, mã số B2005-81-04.
70. Nguyễn Tiến Phúc (2015), Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
trung học phổ thông theo chuẩn nghề nghiệp ở vùng Tây Bắc,
Luận án tiến sĩ QLGD, Trường ĐHSP Hà Nội.
71. Bùi Văn Quân (2005), “Động lực học tập và tạo động lực học tập”,
Tạp chí Giáo dục, số (127), tháng 12/2005, tr.23-25.
72. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật
Giáo dục, số 43/2019/QH14, Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Quy (2008), Các biện pháp bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên tiểu học đồng bằng sông Cửu Long, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ trọng điểm (mã số
B2006.19.15TĐ), Viện Nghiên cứu giáo dục, Trường Đại học sư
phạm TP.HCM.
74. Mông Kí Slay (2007), Nghiên cứu những điều kiện cần thiết để đưa
tiếng dân tộc vào dạy trong trường tiểu học vùng dân tộc đạt
hiệu quả, Đề tài cấp bộ, mã số B 2004 - 81 - 03.
75. Nguyễn Thị Xuân Sơn (2012), “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
tổ chức thực hiện quy trình đánh giá giáo viên mầm non theo
chuẩn nghề nghiệp ở huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa”, Tạp
chí Giáo dục, số (278), kì 2, tháng 1/2012, tr. 54 - 55, 58.
76. Vũ Minh Tâm (2008), “Giáo dục năng lực đào tạo của người học”,
Tạp chí Giáo dục, số (183), kỳ 1, tháng 02/2008, tr.14 - 16.
77. Tôn Thị Tâm (2012), Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dạy học
lớp ghép vùng dân tộc thiểu số, Đề tài cấp bộ, mã số B 2007- 40-02.
78.
Nguyễn Văn Tân (2011), Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên tiểu học dân tộc Khmer tỉnh Bạc Liêu, Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
79. Đặng Duy Thái (2017), Năng lực hiểu học viên trong dạy học của
giảng viên đại học quân sự, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
167
80. Nguyễn Hoài Thu (2014), Thực trạng công tác bồi dưỡng cho giáo
viên dạy ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, Báo cáo tổng
kết đề tài cấp Viện, Viện KHGD Việt Nam, Hà Nội.
81. Thủ tướng Chính phủ (2002), Về một số chính sách phát triển giáo
dục mầm non, Quyết định số 161/2002/ QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
82. Thủ tướng Chính phủ (2018), Đề án “Phát triển Giáo dục mầm non
giai đoạn 2018-2025”, Quyết định Phê duyệt 1677/QĐ-TTg
ngày 03-12-2018.
83.
Lê Thị Thanh Thủy (2016), Quản lý đội ngũ giáo viên Tiếng Anh tiểu học trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Luận án tiến sĩ QLGD,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
84.
Nguyễn Thị Thu Thủy (2013), “Một số vấn đề về dạy học trong bồi dưỡng thường xuyên giáo viên dưới góc nhìn của lý thuyết dạy học người
lớn”, Tạp chí Giáo dục, số (317), kỳ 1, tháng 9/2013, tr. 26-28.
85. Nguyễn Sỹ Thư (2006), Những biện pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên Trung học cơ sở ở các tỉnh Tây Nguyên đáp ứng
yêu cầu phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, Luận án tiến sĩ Khoa
học giáo dục, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
86. Nguyễn Thị Tỉnh (1995), Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động thực
hành nghề cho sinh viên cao đẳng sư phạm nhà trẻ - mẫu giáo,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
87. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường
(2002), Quá trình dạy tự học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
88. Tổng cục dạy nghề (2011), Kỹ năng dạy học - Tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên và người dạy nghề, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
89. Mạc Văn Trang (2016), “Năng lực của giáo viên chủ nhiệm cấp trung
học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”, Tạp chí Khoa học Giáo
dục, Số (126), tháng 3/2016, tr. 4- 6.
168
90. Trần Thị Ngọc Trâm (2011), Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phổ
cập giáo dục mẫu giáo 5 tuổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long,
Đề tài khoa học cấp bộ, mã số B2009-37-TDD72, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
91. Nguyễn Trí (2007), “Quan niệm và quá trình xây dựng chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học”, Tạp chí Khoa học giáo dục, Số (22),
tháng 7/2007, tr. 22 - 25.
92. Trung tâm Từ điển Bách khoa (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
tập N - S, Nxb Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
93. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
94. Lê Khánh Tuấn (2006), Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
trung học cơ sở trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước (Phân tích thực tiễn tại Thừa Thiên Huế), Luận án tiến
sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
95. Nguyễn Khắc Tuệ (2018), Quản lý đào tạo ở các trường cao đẳng
cộng đồng khu vực Đồng bằng Bắc bộ theo tiếp cận đảm bảo
chất lượng, Luận án tiến sĩ QLGD, Học viện Chính trị - Bộ Quốc
phòng, Hà Nội.
96. Thái Duy Tuyên (2007), Triết lý giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
97. Nguyễn Ánh Tuyết (2007), Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
98. Nguyễn Thị Tuyết (2017), Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo
viên trung học cơ sở thành phố Hà Nội theo Chuẩn (mới) nghề
nghiệp, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục, trường ĐHSP Hà Nội
99. UNESCO, Học tập kho báu tiềm ẩn, Báo cáo năm 1995, Hà Nội.
100. UNESCO (2007), Nền tảng vững chắc chăm sóc và giáo dục mầm non,
Báo cáo Giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người, Hà Nội.
101. Đinh Văn Vang (2008), Giáo dục học mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
169
102. Văn phòng khu vực Châu Á Thái Bình Dương (UNESCO Bangkok),
Ban Thư ký của Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước trong
Khu vực Đông Nam Á (SEAMEO) (2017), Khung năng lực giáo
viên khu vực Đông Nam Á, Phấn đấu vì mục tiêu chất lượng
trong giai đoạn giáo dục dầu đời của trẻ, Quyển số 1
103. Đào Vân Vi (2005), “Phát triển giáo dục Trung Quốc trong cải cách và mở cửa đầu thế kỷ XXI”, Quản lý nhà nước về giáo dục - Lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Phạm Viết Vượng (2010), Quản lý hành chính nhà nước và quản lí ngành giáo dục đào tạo, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội 105. Trần Thị Yên (2016), Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học người dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
đào tạo, Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
106. Trương Thị Thu Yến (2012), Rèn luyện kỹ năng dạy học nhóm cho giáo viên tiểu học, Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Tiếng Anh Michael Armstrong (1997), Personnel management Practice, Kogan 107
. Page Limited, London
108 William E. Blank (1982), Handbook for Developing Competency -
. Based Training Program, Prentice-Hall, Inc. Englewood Cliffs,
New Jersey 07632.
109 James H.Donnoelly, James L.Gibson, John M.Ivancevich (1987),
. Fondements of Magament, Business Publication, Texas
110 Vladimir Gasskov (2000), Managing vocational training systems,
. International Labour Office, Geneva, Switzeland.
111 Eleonara, Villegas-Reimers (2003), Teachers Professional
. Development: An International Review of the literature,
http://unesco.org/iiep, International institute for educational
planning, ISBN: 92-803-1228-6, UNESCO.
170
112 Michael Fullan, Andy Hargreaves (1992), Teacher development and
educational change, Routledge . .
113 Raja Roy Singh (1991), Education for the Twenty-first Century Asia-
Pacific Perspectives, Unesco Principal egional office for Asiaand .
the Pacific Bangkok.
114 Derek Torrington, Laura Hall (1995), Personnel management, 3rd ed:
PrenticeHall .
115 UNESCO (1998), Teachers and teaching in a changing world, World
education report, Educational, Scientific and Cultural .
Organization, 7 Place de Fontenoy, 75352 Paris 07 SP, ISBN 92-
3-103180-5.
Tiếng Nga
116 Беляева Е.Н. (2014), Формирование профессионнальных компетенций
учителя в процессе повышения квалификации, Балтийский .
гуманитарный журнал. 2014. № 1, УДК 317.
117 Волобуева Л.М., Ядеско В.И. (1999), Педагогическая практика
(студентов факультетов дошкольного образования), Асадеми, .
Москва.
118 Максимова Е. А. (2012), Повышение квалификации в системе
непрерывного профессионального образования, Вектор науки .
Тольяттинского государственного университета, Серия:
Педагогика, психология. 2012. № 1.
119 Панко Е.А. (1995), Психология деятельности воспителья детского
сада, Минск, c. 59-60. .
120 Пономарев О. Н. (2012), Повышение квалификации учителей :
проблемы и пути решения в россиском образования, Пензенский .
институт развития образования, Пензень 2012. (121).
171
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
MẪU HỒI CỨU TƯ LIỆU TẠI CÁC SỞ, PHÒNG GD&ĐT
Tên tỉnh (hoặc huyện) được khảo sát:
Thời gian khảo sát:
NỘI DUNG KHẢO SÁT ST T
Số trường mầm non 1
Công lập Dân lập, tư thục
Số trường MN đạt chuẩn quốc gia Số trường mầm non 2 3
4
Tỷ lệ trẻ đến trường mầm non
5 Lực lượng GVMN
6
Trình độ đào tạo của GVMN
7
Thâm niên giảng dạy của GVMN
8
Cơ cấu đội ngũ GVMN
Số lƣợng % % % Có từ 3 điểm trường trở xuống Có từ 4 điểm trường trở lên Mẫu giáo bé Mẫu giáo nhỡ Mẫu giáo lớn Làm CBQL trường Giáo viên trong biên chế Giáo viên hợp đồng Đại học Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo chính quy Trên 20 năm Từ 11 năm đến 20 năm Tử 4 năm đến 10 năm Dưới 4 năm Nữ Nam Người dân tộc Người kinh
172
9
Thành tích giảng dạy của GVMN
10
Phân loại GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
11
Số lượng GVMN đã được bồi dưỡng trong năm vừa qua
Đã từng đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện trở lên Đã từng đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp trường Chưa đạt giáo viên giỏi Tốt Trung bình Yếu Bồi dưỡng giáo viên cốt cán Bồi dưỡng cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng Bồi dưỡng thích ứng nghề nghiệp cho giáo viên mới Bồi dưỡng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc Bồi dưỡng theo yêu cầu chuẩn hóa trình độ đào tạo
173
CÁC MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA
Mẫu phiếu số 1 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL, GVMN)
Để giúp chúng tôi tìm hiểu tình hình đội ngũ GVMN hiện nay, xin quý
thầy, cô cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng
trong các nội dung được nêu ra dưới đây
STT Nội dung tìm hiểu
1
2
Trả lời Đúng Không
Thày (cô) vượt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) đạt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) chỉ nói được tiếng Việt Thày (cô) nói được tiếng Việt và một thứ tiếng dân tộc Thày (cô) nói được tiếng Việt và hai thứ tiếng dân tộc trở lên
3 Điều kiện kinh tế gia đình thầy (cô) đầy đủ, đạt mức khá
4
5
ở địa phương. Điều kiện kinh tế gia đình thầy (cô) đạt mức trung bình ở địa phương Điều kiện kinh tế của gia đình thầy (cô) còn khó khăn, thiếu thốn Thày (cô) dạy trường mầm non ở quê quán của mình Thày (cô) dạy trường mầm non xa quê quán của mình Thày (cô) hiểu rõ văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào nơi mình đang công tác Thày (cô) chưa hiểu nhiều về văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào nơi mình đang công tác
7
6 Kiến thức thầy (cô) lĩnh hội ở trường sư phạm chưa đủ đáp ứng yêu cầu của thực tế giáo dục ở trường mầm non Thày (cô) muốn được tăng cường bồi dưỡng kỹ năng sư phạm
8 Kiến tập, thực tập trong quá trình đào tạo ở trường sư
9
phạm hiệu quả chưa cao Thày (cô) có nhu cầu bồi dưỡng thêm về kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành sư phạm mầm non
174
10 Thày (cô) có nhu cầu bồi dưỡng thêm về kỹ năng và
phương pháp sư phạm
11 Thày (cô) còn thiếu tự nhiên trong diễn đạt và giao tiếp
nơi đông người
12 Thày (cô) chưa thật tự tin khi phải độc lập giải quyết
các công việc trong hoạt động xã hội
13 Thày (cô) chưa thật sự say mê với nghề nghiệp GVMN
Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
175
Mẫu phiếu số 2 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL và GVMN)
Để giúp chúng tôi tìm hiểu về năng lực sư phạm của GVMN, xin quý thầy, cô đánh giá chung về kiến thức, kỹ năng sư phạm của đội ngũ GVMN ở nơi mình công tác bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng trong các nội dung được nêu ra dưới đây
Tốt Khá
Yếu
Nội dung đánh giá
Trung bình
T T 1 Hiểu biết về các vấn đề chính trị, pháp luật, chính
sách của Nhà nước
2 Hiểu biết về các quy định của ngành giáo dục, quy
định của trường và kỷ luật lao động
3 Hiểu biết về các yêu cầu đối với phẩm chất đạo đức,
lối sống của GVMN
4 Hiểu biết về đặc điểm tâm lý, sinh lý trẻ lứa tuổi
mầm non
5 Hiểu biết mục tiêu, nội dung chương trình GDMN 6 Kiến thức về chăm sóc sức khỏe trẻ lứa tuổi mầm non 7 Kiến thức về đánh giá sự phát triển toàn diện của trẻ 8 Kiến thức về nội dung, phương pháp tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động và lễ hội cho trẻ
9 Kỹ năng lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ 10 Kỹ năng tổ chức quản lý lớp học và đảm bảo an toàn
cho trẻ
11 Kỹ năng hướng dẫn, rèn luyện trẻ tự phục vụ 12 Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ theo hướng
tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ
13 Kỹ năng sử dụng linh hoạt ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng dân tộc trong giáo dục trẻ ở vùng dân tộc, miền núi 14 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách gần gũi,
tình cảm
15 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách
chân tình, cởi mở, thẳng thắn
16 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với với cha mẹ của trẻ
gần gũi, tôn trọng và hợp tác Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
176
Mẫu phiếu số 3 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL và GVMN)
Để giúp chúng tôi tìm hiểu về thực trạng bồi dưỡng NLSP cho GVMN, xin quý thầy, cô cho ý kiến đánh giá chung về nội dung được nêu ra dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng với mức độ thực tế.
Tốt Khá
Yếu
Nội dung đánh giá
Trung bình
T T 1 Bồi dưỡng kiến thức chung về các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật và quy định, hướng dẫn của các cấp quản lý về GDMN
2 Bồi dưỡng về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán
ở vùng miền giáo viên đang công tác
3 Bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và hướng vận dụng vào giáo dục trẻ mầm non 4 Bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành
GDMN
5 Bồi dưỡng kỹ năng ứng xử và thái độ nghề nghiệp của
GVMN
6 Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá
7
trình bồi dưỡng Tổ chức thực hành các quy trình, phương thức hành động quản lý, tổ chức và giáo dục trẻ mầm non Thảo luận chuyên đề về các kiến thức, kỹ năng GDMN 8 Tham quan, rút kinh nghiệm tại các trường, lớp điển hình 9 10 Sử dụng giáo viên cốt cán trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn hành động cho giáo viên ít kinh nghiệm, giáo viên mới 11 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành
cho giáo viên cốt cán
12 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành
cho giáo viên tại các cụm trường.
13 Hình thức bồi dưỡng thường xuyên, tại chỗ cho giáo
viên tại từng trường, từng điểm trường
14 Hình thức bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến
(online) trên mạng internet
15 Hình thức tự học tập, tự bồi dưỡng của GVMN
Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
177
Mẫu phiếu số 4 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL và GVMN)
Để giúp chúng tôi tìm hiểu vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, xin quý thầy, cô cho biết ý kiến đánh giá của mình bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng trong các nội dung được nêu ra dưới đây.
Yếu
Nội dung đánh giá Tố t Kh á T T
Trun g bình 1
2
Tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành Tổ chức thu thập, tổng hợp thông tin về nhu cầu bồi dưỡng NLSP của GVMN
5
3 Xác lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo từng loại đối tượng bồi dưỡng 4 Cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng thường xuyên của Bộ GD&ĐT vào chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các địa phương Thực hiện phân cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
7
8
9
6 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP Tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp Tổ chức, điều hành lực lượng giảng viên, báo cáo viên tiến hành các HĐBD tập trung cho GVMN Tổ chức các tổ, lớp bồi dưỡng phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định
10 Chỉ đạo đổi mới nội dung bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu PTNL người được bồi dưỡng 11 Chỉ đạo việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, tăng cường các hình thức thảo luận, thực hành… trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN 12 Đảm bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật trong
hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
13 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tích cực, chủ động, thống nhất trong tổ chức cho giáo viên nghiên
178
cứu, học tập, thảo luận các chuyên đề chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
14 Chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non
15 Tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau về ứng dụng công nghệ thông tin, tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc
16 Đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm
17 Thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
18 Thực hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ 19 Thực hiện nền nếp đánh giá, phân loại GVMN
theo chuẩn nghề nghiệp
Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
179
Mẫu phiếu số 5 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL, GVMN)
1. Những tác động tích cực, thuận chiều đối với hoạt động bồi
Để giúp chúng tôi tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, xin quý thầy, cô cho biết ý kiến bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng trong các nội dung được nêu ra dưới đây. dƣỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ tác động
TT Các yếu tố tác động Trung Yế Mạnh bình u
Việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chủ
1 trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ
phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi
Sự quan tâm của hệ thống chính trị và ngành giáo
2 dục đến phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng yêu
cầu phổ cập GDMN cho trẻ năm tuổi
Tác dụng khuyến khích, động viên của chế độ
3 ưu đãi đối với GVMN công tác ở vùng dân tộc,
miền núi
Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
4 phương vùng núi phía bắc trong những năm
đổi mới vừa qua
Những mặt tích cực trong phong tục, tập quán,
5 thói quen của nhân dân các dân tộc miền núi
phía bắc
Sự cải thiện về điều kiện ăn ở, sinh hoạt và làm 6 việc của GVMN ở các tỉnh miền núi phía bắc
Số lượng giảng viên ngành sư phạm mầm non tại 7
180
các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở từng tỉnh
đủ đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng GVMN
Chất lượng của đội ngũ giảng viên ngành sư
8 phạm mầm non tại các cơ sở đào tạo đại học, cao
đẳng ở từng tỉnh không ngừng được nâng cao
Cơ chế tổ chức, chế độ trách nhiệm trong huy
9 động nguồn nhân lực cho hoạt động bồi dưỡng
NLSP cho GVMN khá rõ ràng
Nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, GVMN đối 10 với hoạt động bồi dưỡng NLSP.
11 Phần lớn GVMN có tính kỷ luật tốt.
Sự đồng thuận, đoàn kết trong tập thể sư phạm ở 12 các trường mầm non.
Các trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc 13 được đầu tư, phát triển về cơ sở vật chất, kỹ thuật .
Tích cực đảm bảo tài liệu, phương tiện dùng
14 trong các hoạt động giáo dục, rèn luyện trẻ em ở
các lớp, các điểm trường
Các trường, các địa phương quan tâm đảm bảo
15 tài liệu, phương tiện dùng trong tự học, tự bồi
dưỡng của GVMN.
181
2. Những tác động tiêu cực, cản trở đối với hoạt động bồi dƣỡng
NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ tác động
Trung
Yếu
bình
TT Các yếu tố tác động Mạnh
Khung năng lực GVMN còn thiếu thống nhất, 1 chưa cụ thể..
Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên 2 mầm non thiếu ổn định.
Tình trạng thiếu GVMN ở một số địa phương
3 còn chậm được giải quyết, làm tăng áp lực công
việc của GVMN .
Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân 4 vùng núi phía Bắc nhìn chung còn thấp
Điều kiện ăn ở, sinh hoạt và làm việc của GVMN 5 ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn khó khăn
Một bộ phận GVMN còn có tâm lý sản xuất nhỏ, 6 thiếu khát vọng vươn lên trong nghề nghiệp
Thiếu cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên
7 cứu, biên soạn tài liệu dùng trong bồi dưỡng
NLSP cho GVMN.
Các Trường Sư phạm tỉnh chậm được quy hoạch,
tổ chức lại để tập trung vào nhiệm vụ đào tạo lại 8 và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trước hết là
GVMN.
Chưa phát huy được vai trò CBQL, giáo viên cốt 9 cán vào bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
10 Một bộ phận cán bộ, GVMN chưa tích cực, tự
182
giác tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP theo
chuẩn nghề nghiệp.
Một bộ phận GVMN chưa có thói quen và thiếu
11 cố gắng trong tự học tập, tự bồi dưỡng năng lực
sư phạm.
Một bộ phận GVMN còn tự ti, thiếu chủ động giúp 12 đỡ lẫn nhau theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
Chậm khắc phục tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn về 13 cơ sở vật chất, kỹ thuật của các trường mầm non.
Chưa tận dụng được hệ thống mạng Internet vào 14 phục vụ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
GVMN còn hạn chế về khả năng khai thác, sử
15 dụng công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật
trong bồi dưỡng, tự bồi dưỡng NLSP
Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
183
Mẫu phiếu số 6 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL, GVMN)
Để giúp chúng tôi xác định hợp lý mục tiêu, biện pháp bồi dưỡng
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, xin quý thầy, cô vui lòng cho biết ý
kiến về những vấn đề nêu ra dưới đây bằng cách đánh dấu X vào phương án
phù hợp đặt sau mỗi câu hỏi.
`1. Kiến thức nào cần đƣợc quan tâm bồi dƣỡng nhất cho giáo viên
các trƣờng mầm non ở các tỉnh miền núi phía bắc? (Chọn 2 loại kiến
thức cần bồi dƣỡng nhất) - Kiến thức cơ bản về G - - - - Kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội 2. Kỹ năng sƣ phạm nào cần đƣợc quan tâm bồi dƣỡng nhất cho
giáo viên các trƣờng mầm non ở các tỉnh miền núi phía bắc? (Chọn 2 loại
kỹ năng cần bồi dƣỡng nhất) - - Kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ. - - - 3. Khâu cần tập trung tháo gỡ để phát triển nhanh và bền vững đội
ngũ GVMN ở các tỉnh miền núi phía bắc? (Chọn 4 khâu cấp thiết nhất) - - - - - Từng trường tổ chức học tập các chuyên đề bồ - - - - - Bảo đảm công minh,
184
Mẫu phiếu số 7 PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho CBQL, GVMN)
Để đánh giá các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NLSP cho
GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc, xin quý thầy, cô vui lòng cho biết ý
kiến về những vấn đề nêu ra dưới đây bằng cách đánh dấu X vào cột phù hợp
với nhận định của mình.
1. Tính cần thiết của các biện pháp quản lý HĐBD năng lực sƣ
phạm cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ TT Các biện pháp
Ít cần Không
Cần
Rất cần
cần
01
02
03
04
05
06
07
08
Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của giáo viên mầm non đối với hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP1) Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp (BP2) Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP3) Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại các lớp bồi dưỡng tập trung (BP4) Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP5) Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP6) Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ (BP7) Đề xuất thêm giải pháp (xin viết bổ sung vào ô này
185
2. Tính khả thi của các biện pháp quản lý HĐBD năng lực sƣ phạm
cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ TT Các biện pháp
Rất khả thi
Khả thi
Ít khả thi
Không khả thi
01
02
03
04
05
06
07
08 Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của giáo viên mầm non đối với hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP1) Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp (BP2) Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP3) Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại các lớp bồi dưỡng tập trung (BP4) Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP5) Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP6) Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ (BP7) Đề xuất thêm giải pháp (xin viết bổ sung vào ô này)
Xin quý thầy cô cho biết thêm:
- Quý thầy, cô thuộc dân tộc: - Quý thầy, cô là:
186
PHỤ LỤC 2 Những thông tin chung về tình hình đội ngũ GVMN ở các tỉnh miền núi phía bắc Nội dung tìm hiểu Trả lời
Tỷ lệ %
ST T
1
2
Số lƣợng 29,1 416 63,9 912 7,0 100 200 14,0 1228 86,0 36,1 516 27,7 396
3
43,1 29,1
4
36,1 516 912 63,9 1012 70,9 5
29,1 416
64,1 916 6
616 7 8
1428 100 9
1428 100 10
64,7 924 11
1012 70,9 12
Thày (cô) vượt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) đạt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo của GVMN Thày (cô) chỉ nói được tiếng Việt Thày (cô) nói được tiếng Việt và một thứ tiếng dân tộc Thày (cô) nói được tiếng Việt và hai thứ tiếng dân tộc trở lên Điều kiện kinh tế gia đình thầy (cô) đầy đủ, đạt mức khá ở địa phương. Điều kiện kinh tế gia đình thầy (cô) đạt mức trung bình ở địa phương 616 416 Điều kiện kinh tế của gia đình thầy (cô) còn khó khăn, thiếu thốn Thày (cô) dạy trường mầm non ở quê quán của mình Thày (cô) dạy trường mầm non xa quê quán của mình Thày (cô) hiểu rõ văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào nơi mình đang công tác Thày (cô) chưa hiểu nhiều về văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào nơi mình đang công tác Kiến thức thầy (cô) lĩnh hội ở trường sư phạm chưa đủ đáp ứng yêu cầu của thực tế giáo dục ở trường mầm non Thày (cô) muốn được tăng cường bồi dưỡng kỹ năng sư phạm 1428 100 43,1 Kiến tập, thực tập trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm hiệu quả chưa cao Thày (cô) có nhu cầu bồi dưỡng thêm về kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành sư phạm mầm non Thày (cô) có nhu cầu bồi dưỡng thêm về kỹ năng và phương pháp sư phạm Thày (cô) còn thiếu tự nhiên trong diễn đạt và giao tiếp nơi đông người Thày (cô) chưa thật tự tin khi phải độc lập giải quyết các công việc trong hoạt động xã hội Thày (cô) chưa thật sự say mê với nghề nghiệp GVMN 13,7 196 13
Ghi chú: Tổng số CBQL, GVMN được điều tra: 1428 Trong đó: Người dân tộc:1252 (87,7%); Người kinh : 176 (12,3%) CBQL: 154(10,,8%); Giáo viên: 1274 (89,2%)
187
PHỤ LỤC 3 Kết quả điều tra về thực trạng kiến thức, kỹ năng sƣ phạm của GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ đánh giá Tần suất/ %
TT
Nội dung đánh giá
Tốt
Khá
Yếu
1
3,11
2
3,38
3
3,39
4
3,12
5
3,27
6
3,16
7
3,05
515 36,1 803 56,2 811 56,8 349 24,4 592 41,5 413 28,9 273 19,1
56 3,9 43 3,0 44 3,1 37 2,6 64 4,5 45 3,1 28 1,9
8
3,01
Trung bình 253 17,7 169 11,8 161 11,3 103 7,2 77 5,4 95 6,7 151 10,6 125 8,8
181 12,7
19 1,3
9
Hiểu biết về các vấn đề chính trị, pháp luật, chính sách của Nhà nước Hiểu biết về các quy định của ngành giáo dục, quy định của trường và kỷ luật lao động Hiểu biết về các yêu cầu đối với phẩm chất đạo đức, lối sống của GVMN Hiểu biết về đặc điểm tâm lý, sinh lý trẻ lứa tuổi mầm non Hiểu biết mục tiêu, nội dung chương trình GDMN Kiến thức về chăm sóc sức khỏe trẻ lứa tuổi mầm non Kiến thức về đánh giá sự phát triển toàn diện của trẻ Kiến thức về nội dung, phương pháp tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động và lễ hội cho trẻ Kỹ năng lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ
3,13
10 Kỹ năng tổ chức quản lý lớp học và đảm bảo
3,28
an toàn cho trẻ
11 Kỹ năng hướng dẫn, rèn luyện trẻ tự phục vụ
3,24
412 28,9 657 46,0 592 41,5
44 3,1 71 5,0 64 4,5
604 42,3 413 28,9 412 28,9 939 65,8 695 48,7 875 61,3 976 68,3 110 3 77,2 835 58,5 591 41,4 657 46,0
2,82
137 9,6 109 7,6 115 8,0 337 23,6
105 7,4
11 0,8
975 68,3
12 Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ
3,02
277 19,4
389 27,2
39 2,7
723 50,6
13 Kỹ năng sử dụng linh hoạt ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng dân tộc trong giáo dục trẻ ở vùng dân tộc, miền núi
14 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách
3,09
gần gũi, tình cảm
3,24
15 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách chân tình, cởi mở, thẳng thắn
165 11,6 117 8,2
384 26,9 592 41,5
44 3,1 64 4,5
835 58,5 655 45,9
16 Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với với cha mẹ của
3,21
trẻ gần gũi, tôn trọng và hợp tác
111 7,8
528 36,9
56 3,9
733 51,3
188
PHỤ LỤC 4 Kết quả điều tra về thực trạng bồi dƣỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nội dung đánh giá TT
Tốt Khá
Yếu
1
3,47
2
2,79
45 3,1 96 6,7
425 29,8 729 51,1
859 60,2 252 17,6
3
3,08
4
3,44
5
Bồi dưỡng kiến thức chung về các vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật và quy định, hướng dẫn của các cấp quản lý về GDMN Bồi dưỡng về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán ở vùng miền giáo viên đang công tác Bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học và hướng vận dụng vào giáo dục trẻ mầm non Bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành GDMN Bồi dưỡng kỹ năng ứng xử và thái độ nghề nghiệp của GVMN
3,37
6 Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
3,34
41 2,9 45 3,1 52 3,6 88 6,2
389 27,2 859 60,2 756 52,9 795 55,7
807 56,5 385 26,9 491 34,4 416 29,1
191 13,4 139 9,7 129 9,0 129 9.0
7
3,02
8
3,06
9
3,37
34 2,4 84 5,9 52 3,6
349 24,4 389 27,2 756 52,9
796 55,7 819 57,4 491 34,5
249 17,4 136 9,5 129 9,0
10
trong quá trình bồi dưỡng Tổ chức thực hành các quy trình, phương thức hành động quản lý, tổ chức và giáo dục trẻ mầm non Thảo luận chuyên đề về các kiến thức, kỹ năng GDMN Tham quan, rút kinh nghiệm tại các trường, lớp điển hình Sử dụng giáo viên cốt cán trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn hành động cho giáo viên ít kinh nghiệm, giáo viên mới
756 52,9
417 29,2
157 11,0
3,28
98 6,9
11 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên
đề dành cho giáo viên cốt cán
3,53
36 2,5
939 65,8
348 24,4
105 7,3
12 Hình thức bồi dưỡng tập trung theo chuyên đề dành cho giáo viên tại từng huyện, từng cụm trường
3,42
13 Hình thức bồi dưỡng thường xuyên tại
trường cho giáo viên
792 55,5 349 24,4
493 34,5 759 53,2
91 6,4 284 19,9
2,99
52 3,6 36 2,5
14 Hình thức bồi dưỡng bằng các bài giảng trực tuyến (online) trên mạng internet
2,92
69 4,8
245 17,1
899 63,0
215 15,1
15 Hình thức tự học tập, tự bồi dưỡng của
GVMN
350 24,5
767 53,7
232 16,2
2,97
79 5,5
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình 99 6,9 351 24,6
Ghi chú: Tổng số CBQL, GVMN được điều tra: 1428 Trong đó: Người dân tộc:1252 (87,7%); Người kinh : 176 (12,3%) CBQL: 154 (10,,8%); Giáo viên: 1274 (89,2%)
189
PHỤ LỤC 5
Kết quả điều tra về thực trạng quản lý hoạt động bồi dƣỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
TT Nội dung đánh giá
Tốt Khá
Yếu
1
2,44
84 8,9
686 48,0
437 30,6
221 15,5
2
2,99
341 23,9
763 53,4
298 20,9
26 1,8
3,26
591 41,4
657 46,0
146 10,2
34 2,4
Tổ chức xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NLSP của GVMN dựa trên chuẩn nghề nghiệp và khung năng lực hiện hành Tổ chức thu thập, tổng hợp thông tin về nhu cầu bồi dưỡng NLSP của GVMN 3 Xác lập mục tiêu, yêu cầu hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo từng loại đối tượng bồi dưỡng
2,45
92 6,4
682 47,8
435 30,5
219 15,3
5
3,30
611 42,8
663 46,4
125 8,8
29 2,0
4 Cụ thể hóa chương trình bồi dưỡng thường xuyên của Bộ GD&ĐT vào chương trình bồi dưỡng NLSP cho GVMN ở các địa phương Thực hiện phân cấp quản lý trong xây dựng kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
3,00
361 25,3
747 52,3
284 19,9
36 2,5
7
2,54
93 6,5
789 55,3
336 23,5
210 14,7
8
3,28
601 42,1
667 46,7
119 8,3
41 2,9
9
2,97
336 23,5
763 53,4
277 19,4
52 3,6
6 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tổ chức cho giáo viên đăng ký chỉ tiêu, kế hoạch tự bồi dưỡng về NLSP Tổ chức lực lượng biên soạn tài liệu bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp Tổ chức, điều hành lực lượng giảng viên, báo cáo viên tiến hành các HĐBD tập trung cho GVMN Tổ chức các tổ, lớp bồi dưỡng phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã xác định
3,29
597 41,8
687 48,1
112 7,8
32 2,2
10 Chỉ đạo đổi mới nội dung bồi dưỡng GVMN đáp ứng yêu cầu PTNL người được bồi dưỡng
2,93
321 22,5
753 52,7
293 20,5
61 4,3
11 Chỉ đạo việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, tăng cường các hình thức thảo luận, thực hành… trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN
2,45
95 6,7
678 47,5
436 30,5
219 15,3
12 Đảm bảo trang bị, phương tiện kỹ thuật trong hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN
2,47
13 Chỉ đạo các cơ sở GDMN tích cực, chủ động, thống nhất trong tổ chức cho giáo
101 7,1
681 47,7
430 30,1
216 15,1
Mức độ đánh giá Tần suất/ % Trung bình
3,26
597 41,8
631 44,2
178 12,5
22 1,5
viên nghiên cứu, học tập, thảo luận các chuyên đề chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm 14 Chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ, nhóm giáo viên ở trường mầm non
3,01
353 24,7
772 54,1
29 2,0
15 Tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng lẫn nhau về ứng dụng công nghệ thông tin, tạo hình, âm nhạc, múa, văn học nghệ thuật, ngoại ngữ và tiếng dân tộc
274 19,2
2,99
338 23,7
764 53,5
299 20,9
27 1,9
16 Đôn đốc và tạo điều kiện cho giáo viên tự học tập, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm hoạt động sư phạm
17 Thực hiện phân cấp trong tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
343 24,0
753 52,7
295 20,7
37 2,6
2,98
18 Thực hiện kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ
19 Thực hiện nền nếp đánh giá, phân loại
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp
109 7,6 601 42,1
679 47,5 617 43,2
432 30,2 187 13,1
208 14,7 2,49 23 1,6
3,26
190
Ghi chú: Tổng số CBQL, GVMN được điều tra: 1428 Trong đó: Người dân tộc:1252 (87,7%); Người kinh : 176 (12,3%) CBQL: 154(10,,8%); Giáo viên: 1274 (89,2%)
191
PHỤ LỤC 6
Kết quả điều tra thực trạng ảnh hƣởng của các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động bồi dƣỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo chuẩn nghề nghiệp
1. Những ảnh hưởng tích cực, thuận chiều
Nội dung ảnh hƣởng Số TT
Yếu
Mạnh
1
2,57
2
1019 71,4 921 64,5
2,64
205 14,4 507 35,5
204 14,3 0 0
3
607 42,5
2,28
612 42,9
209 14,6
4
812 56,9
2,57
616 43,1
0 0
5
2,39
6
2,07
7
2,21
8
2,36
9
2,09
10
2,29
Việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi. Sự quan tâm của hệ thống chính trị và ngành giáo dục đến phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng yêu cầu phổ cập GDMN cho trẻ năm tuổi. Tác dụng khuyến khích, động viên của chế độ ưu đãi đối với GVMN công tác ở vùng dân tộc, miền núi . Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương vùng núi phía bắc trong những năm đổi mới vừa qua Những mặt tích cực trong phong tục, tập quán, thói quen của nhân dân các dân tộc miền núi phía bắc Sự cải thiện về điều kiện ăn ở, sinh hoạt và làm việc của GVMN ở các tỉnh miền núi phía bắc Số lượng giảng viên ngành sư phạm mầm non tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở từng tỉnh đủ đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng GVMN. Chất lượng của đội ngũ giảng viên ngành sư phạm mầm non tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở từng tỉnh không ngừng được nâng cao. Cơ chế tổ chức, chế độ trách nhiệm trong huy động nguồn nhân lực cho hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN khá rõ ràng. Nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, GVMN đối với hoạt động bồi dưỡng NLSP. Phần lớn GVMN có tính kỷ luật tốt.
11
2,44
12
2,43
13
732 51,3 205 14,4 304 21,3 509 35,6 212 14,8 416 29,1 685 48,0 621 43,5 208 14,6
1,93
514 36,0 1124 78,7 1124 78,7 919 64,4 1131 79,2 1012 70,9 697 48,8 807 56,5 910 63,7
182 12,7 99 6,9 0 0 0 0 85 6,0 0 0 46 3,2 0 0 310 21,7
14
196 13,7
1,92
925 64,8
307 21,5
15
Sự đồng thuận, đoàn kết trong tập thể sư phạm ở các trường mầm non. Các trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc được đầu tư, phát triển về cơ sở vật chất, kỹ thuật . Tích cực đảm bảo tài liệu, phương tiện dùng trong các hoạt động giáo dục, rèn luyện trẻ em ở các lớp, các điểm trường Các trường, các địa phương quan tâm đảm bảo tài liệu, phương tiện dùng trong tự học, tự bồi dưỡng của GVMN.
199 13,9
2,14
1229 86,1
0 0
Mức độ ảnh hƣởng Tần suất/ % Trung bình
192
2. Những ảnh hưởng tiêu cực, cản trở
Nội dung ảnh hƣởng Số TT
Mạnh
Yếu
1
2,57
2
812 56,9 516 36,1
0 0 0 0
2,36
3
2,07
4
2,29
5
2,21
6
2,29
7
97 6,8 612 42,9 305 21,4 416 29,1 509 35,6
1331 93,2 619 43,3 1123 78,6 1012 70,9 919 64,4
0 0 197 13,8 0 0 0 0 0 0
2,36
8
2,08
9
Khung năng lực GVMN còn thiếu thống nhất, chưa cụ thể.. Quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non thiếu ổn định. Tình trạng thiếu GVMN ở một số địa phương còn chậm được giải quyết, làm tăng áp lực công việc của GVMN . Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân vùng núi phía Bắc nhìn chung còn thấp Điều kiện ăn ở, sinh hoạt và làm việc của GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn khó khăn Một bộ phận GVMN còn có tâm lý sản xuất nhỏ, thiếu khát vọng vươn lên trong nghề nghiệp Thiếu cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên cứu, biên soạn tài liệu dùng trong bồi dưỡng NLSP cho GVMN. Các Trường Sư phạm tỉnh chậm được quy hoạch, tổ chức lại để tập trung vào nhiệm vụ đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trước hết là GVMN. Chưa phát huy được vai trò CBQL, giáo viên cốt cán vào bồi dưỡng NLSP cho GVMN.
413 28,9 304 21,3
716 50,1 709 49,6
299 20,9 415 29,1
1,92
10
677 47,4
698 48,9
53 3,7
2,44
11
2,45
12
687 48,1 701 49,1
693 48,5 695 48,7
48 3,4 32 2,2
2,47
13
2,28
14
708 49,6 722 50,6
417 29,2 514 36,0
303 21,2 192 13,4
2,37
15
Một bộ phận cán bộ, GVMN chưa tích cực, tự giác tham gia hoạt động bồi dưỡng NLSP theo chuẩn nghề nghiệp. Một bộ phận GVMN chưa có thói quen và thiếu cố gắng trong tự học tập, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm. Một bộ phận GVMN còn tự ti, thiếu chủ động giúp đỡ lẫn nhau theo yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp. Chậm khắc phục tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, kỹ thuật của các trường mầm non. Chưa tận dụng được hệ thống mạng Internet vào phục vụ hoạt động bồi dưỡng NLSP cho GVMN GVMN còn hạn chế về khả năng khai thác, sử dụng công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật trong bồi dưỡng, tự bồi dưỡng NLSP
309 21,6
911 63,8
208 14,6
2,07
Mức độ ảnh hƣởng Tần suất/ % Trung bình 616 43,1 912 63,9
Ghi chú: Tổng số CBQL, GVMN được điều tra: 1428 Trong đó: Người dân tộc:1252 (87,7%); Người kinh : 176 (12,3%) CBQL: 154(10,,8%); Giáo viên: 1274 (89,2%)
193
PHỤ LỤC 7 Kết quả điều tra nhu cầu của GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc về bồi dƣỡng NLSP
1. Kiến thức nào cần được quan tâm bồi dưỡng nhất cho giáo viên các
1 2 3 4 5
Nội dung Trả lời trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc: ST T
Số lƣợng 496 580 204 1192 260
Tỷ lệ % 34,7 40,6 14,3 83,5 18,2
Kiến thức cơ bản về GDMN Kiến thức về chăm sóc sức khỏe trẻ lứa tuổi mầm non Kiến thức cơ sở chuyên ngành Kiến thức về phương pháp giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non Kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội liên quan đến GDMN
2. Kỹ năng sư phạm nào cần được quan tâm bồi dưỡng nhất cho giáo
1 2
Nội dung Trả lời viên các trường mầm non ở các tỉnh miền núi phía Bắc: ST T
Số lƣợng 728 380
Tỷ lệ % 51,0 26,6
3 4 5
54,9 51,3 35,3
784 732 504
Lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ Kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ Kỹ năng quản lý lớp học Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng 3. Khâu cần tập trung tháo gỡ để phát triển nhanh và bền vững đội ngũ
Nâng cao chất lượng đào tạo GVMN Tổ chức tốt việc tuyển chọn GVMN Luân chuyển hợp lý GVMN đến vùng khó khăn Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức bồi dưỡng tập trung GVMN Từng trường tổ chức học tập các chuyên đề bồi dưỡng GVMN Tăng cường rút kinh nghiệm qua thực tế công tác Thực hiện tốt phân công giáo viên kèm cặp, giúp đỡ lẫn nhau Thúc đẩy tự học tập, tự tu dưỡng của GVMN Thực hiện nghiêm quy trình đánh giá, xếp loại GVMN Bảo đảm công minh, chính xác trong khen thưởng, kỷ luật
Trả lời GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Nội dung ST T
Số lƣợng 1224 848 0 512 0 524 0 508 784 488
Tỷ lệ % 85,7 59,4 0 35,9 0 36,7 0 35,6 54,9 34,2
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Ghi chú: Tổng số CBQL, GVMN được điều tra: 1428 Trong đó: Người dân tộc:1252 (87,7%); Người kinh : 176 (12,3%) CBQL: 154 (10,,8%); Giáo viên: 1274 (89,2%)
194
PHỤ LỤC 8 Kết quả kiểm định sự khác nhau giữa giá trị trung bình trong đánh giá của hai nhóm đối tƣợng: CBQL và GVMN về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
Cần
KT
Rất cần
Ít cần
Kh cần
Ít KT
Kh KT
Rất KT
Tính cần thiết của các biện pháp Ký hiệu Tính khả thi (KT) của các biện pháp
35
49
10
3,27
0
32
60
2
0
3,32
t t
CBQL
BP 1
0,04 9
0,79 5
212
311
26
3,34
0
183
356
10
0
3,32
GV
68
26
0
3,72
0
45
49
0
0
3,48
CBQL
1,54 5
BP 2
0,37 1
355
149
45
3,56
0
258
278
13
0
3,45
GV
55
33
6
3,52
0
41
48
5
0
3,38
CBQL
BP 3
0,77 0
0,13 3
315
212
22
3,53
0
258
280
11
0
3,45
GV
47
46
1
3,49
0
37
56
1
0
3,38
CBQL
BP 4
0,21 2
0,55 1
3,44
0
0
3,36
256
279
14
218
313
18
GV
58
18
18
3,43
0
54
35
5
0
3,52
CBQL
BP 5
0,07 7
1,37 0
378
110
61
3,58
0
305
229
15
0
3,53
GV
41
53
0
3,44
0
31
63
0
0
3,33
CBQL
BP 6
218
306
25
3,35
0
180
350
19
0
3,29
GV
47
46
1
3,49
0
42
49
3
0
3,41
CBQL
BP 7
0,43 1 0,03 5
0,93 0 0,75 6
251
278
20
3,42
0
247
281
21
0
3,41
GV
195
PHỤ LỤC 9 Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động bồi dƣỡng NLSP cho GVMN ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Mức độ đánh giá Tần suất / %
Biện pháp quản lý (tên và ký hiệu)
S TT
Thứ bậc
khả
Nội dung khảo nghiệm
Cần thiết/ Khả thi
Ít cần thiết/ Ít khả thi
1
Không cần/ Không khả thi 0
360
36
Rất cần/Rấ t thi 247
Tính cần thiết
7
56,0 416
5,6 12
0 0
38,4 215
Tổ chức xây dựng động cơ, thái độ tích cực của giáo viên mầm non đối với hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP1)
Tính khả thi
6
64,7 175
1,9 45
0 0
33,4 423
Tính cần thiết
1
27,2 327
7,0 13
0 0
65,8 303
2 Kế hoạch hóa hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non tại các địa phương theo chuẩn nghề nghiệp (BP2)
Tính khả thi
47,0
50,9
2,0
3,3 3 3,3 2 3,5 9 3,4 5
0
2
3
370
245
28
0
3
Tính cần thiết
3,5 3
57,5
38,1
4,4
0
Tổ chức huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP3)
328
16
0
299
Tính khả thi
3
4
51,0 325
2,5 15
0 0
46.5 303
Tính cần thiết
4
Thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng bồi dưỡng NLSP cho GVMN tại các lớp bồi dưỡng tập trung (BP4)
50,5 369
2,3 19
0 0
47,1 255
Tính khả thi
5
5
57,4 128
2,9 79
0 0
39,7 436
Tính cần thiết
2
19,9 264
12,3 20
0 0
67,8 359
Tổ chức kết hợp giữa bồi dưỡng dựa vào nhà trường và tự bồi dưỡng của giáo viên mầm non về năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp (BP5)
Tính khả thi
1
6
41,1 359
3,1 25
0 0
55.8 259
Tính cần thiết
6
Tổ chức áp dụng công nghệ số vào hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non (BP6)
55,8 413
3,9 19
0 0
40,3 211
Tính khả thi
7
64,2 324
3,0 21
0 0
32,8 298
Tính cần thiết
5
50,4 330
3,3 24
0 0
46,3 289
7 Kết hợp giữa kiểm tra hoạt động bồi dưỡng NLSP với đánh giá giáo viên theo năng lực làm việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ (BP7)
Tính khả thi
3,7
3,4 4 3,4 5 3,3 7 3,5 6 3,5 3 3,3 6 3,3 0 3,4 3 3,4 1
0
4
44,9
51,3
Ghi chú: Tổng số người tham gia khảo nghiệm: 643 Trong đó: CBQL: 94(14,6%); Giáo viên: 549 (85,4%)
196
PHỤ LỤC 10
Thông tin đơn vị thử nghiệm - Trƣờng mầm non thị trấn Pác Miầu,
huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng
+ Tổ khối nhà trẻ:10 giáo viên
- Hiệu trưởng: Nguyễn Thị Thu Hà - Tổ chuyên môn: + Tổ khối Mẫu giáo: 28 giáo viên; - Tình hình chung của trường:
NỘI DUNG KHẢO SÁT Số lƣợng
ST T 1
Số lượng trẻ em đến trường mầm non
Mẫu giáo bé Mẫu giáo nhỡ Mẫu giáo lớn 2 Lực lượng GVMN CBQL trường
3 Trình độ đào tạo
của GVMN
4 Thâm niên giảng dạy của GVMN
Cơ cấu đội ngũ GVMN
5
6
Số lượng giáo viên cốt cán của trường
Cán bộ tổ chuyên môn Giáo viên Tổng số Đại học Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo chính quy Trên 20 năm Từ 11 năm đến 20 năm Tử 4 năm đến 10 năm Dưới 4 năm Nữ Nam Người dân tộc Người kinh Đại học Cao đẳng Tổng số 126 trẻ em (3 lớp) 157 trẻ em (3 lớp) 140 trẻ em (2 lớp) 4 6 32 42 18 20 4 0 0 1 15 21 5 42 0 38 4 5 6 11
197
PHỤ LỤC 11 Bảng phân phối đại lƣợng kiểm định t (Student)
Kiểm định hai phía 0,05 0.02 0,01 0,002 0,10
0,05 3,37 3,14 3,00 2,90 2,82 2,76 2,72 2,68 2,65 2,62 2,60 2,58 2,57 2,55 2,54 2,53 2,52 2,51 2,50 2,49 2,49 2,48 2,47 2,47 2,46 2,46 2,42 2,39 2,36 2,33 0,01 4,03 3,71 3,50 3,36 3,25 3,17 3,11 3,05 3,01 2,98 2,95 2,92 2,90 2,88 2,86 2,85 2,83 2,82 2,81 2,80 2,79 2,78 2,77 2,76 2,76 2,75 2,70 2,66 2,62 2,58 0,005 5,89 5,21 4,79 4,50 4,30 4,14 4,03 3,93 3,85 3,79 3,73 3,69 3,65 3,61 3,58 3,55 3,53 3,51 3,49 3,47 3,45 3,44 3,42 3,41 3,40 3,39 3,31 3,23 3,17 3,09 0,001
f 2,01 5 1,91 6 1,89 7 1,86 8 1,83 9 1,81 10 1,80 11 1,78 12 1,77 13 1,76 14 1,75 15 1,75 16 1,74 17 1,73 18 1,73 19 1,73 20 1,72 21 1,72 22 1,71 23 1,71 24 1,71 25 1,71 26 1,71 27 1,70 28 1,70 29 1,70 30 1,68 40 1,67 60 120 1,66 >120 1,64 f 2,57 2,45 2,36 2,31 2,26 2,23 2,20 2,18 2,16 2,14 2,13 2,12 2,11 2,10 2,09 2,09 2,08 2,07 2,07 2,06 2,06 2,06 2,05 2,05 2,05 2,04 2,02 2,00 1,98 1,96 0,02 5 Kiểm định một phía
198
PHỤ LỤC 12 Kết quả đánh giá NLSP của GVMN ở Trƣờng mầm non thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng trƣớc và sau thử nghiệm
(người đánh giá: 3; người được đánh giá: 35; tổng lượt đánh giá: 105)
Tiêu chí đánh giá NLSP (tên và ký hiệu)
Cấp độ đánh giá (Tần suất - lượt đánh giá) Đạt Yếu Tốt Khá 0 24 55 26 Thời điểm đánh giá Trước thử nghiệm
Sau thử nghiệm
S T T 1 Năng lực tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ (NL1) 43 46 16 0
Trước thử nghiệm
31 45 28 0
Sau thử nghiệm
37 50 18 0
2 Năng lực thúc đẩy, khuyến khích trẻ tham gia các hoạt trình theo chương động GDMN (NL2)
Trước thử nghiệm
3 Năng 35 48 22 0
Sau thử nghiệm
lực xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ (NL3) 41 52 12 0
Trước thử nghiệm
33 52 20 0
Sau thử nghiệm
4 Năng lực chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ (NL4) 43 49 13 0
Trước thử nghiệm
25 59 21 0
Sau thử nghiệm
34 55 16 0
5 Năng lực xây dựng quan hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ trong lĩnh vực GDMN (NL5)
Trước thử nghiệm
30 56 19 0
Sau thử nghiệm
39 54 12 0
6 Năng lực kết nối và hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng nhằm phát triển GDMN (NL6)
Trước thử nghiệm
29 54 22 0
Sau thử nghiệm
7 Năng lực tự nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân (NL7) 38 56 11 0
3,0 2 3,2 6 3,0 2 3,1 8 3,1 2 3,2 8 3,1 2 3,2 9 3,0 4 3,1 7 3,1 0 3,2 5 3,0 7 3,2 6
199
PHỤ LỤC 13 Bảng các công thức tính dùng trong xử lý số liệu của luận án
Công thức Chú thích
i=
ST T 1
Tên gọi và ký hiệu Công thức tính điểm trung bình - (CT3.1)
i là mức điểm trung bình tính cho nội dung cụ thể thứ i; nij là tần suất (số người) đánh giá nội dung cụ thể thứ i ở mức điểm j gij là điểm của nội dung cụ thể i ở mức điểm j; n là tổng số người tham gia đánh giá
2
là mức điểm cao nhất;
là mức điểm thấp nhất;
K=
N là số bậc trong thang
3
S2 =
Công thức tính cách khoảng giữa các bậc, theo thang đo Likert -(CT3.2) Công thức tính phương sai - (CT 4.1)
là điểm trung bình của
● là điểm theo từng theo từng mức đánh giá (tốt, khá, trung bình, yếu); mẫu,
là số cá thể trong mẫu khảo
sát
là điểm trung bình của
t =
nhóm mẫu A;
Công thức tính đại lượng kiểm định t -(CT 4.2)
là điểm trung bình của nhóm mẫu B trong cùng một nội dung đánh giá;
với n ≥ 30
là phương sai của nhóm
mẫu A;
là phương sai của nhóm
mẫu B;
và
là số cá thể trong
4
nhóm mẫu A, B
5
R = 1-
số
Công thức tính tương hệ quan thứ bậc Spearman - (CT 4.3)
R < 1 : Tương quan
R < 0,7 : Tương quan
R < 0,5 : Tương quan
N là số lượng các đơn vị được xếp hạng; X là thứ bậc được xếp hạng tính cần thiết các biện pháp; Y là thứ bậc được xếp hạng tính khả thi các biện pháp. R là số nhỏ hơn 1; khi 0,7 thuận và chặt; 0,5 bình thường; 0,3 không chặt.
200
201
Phụ lục 14 Bộ tiêu chí đánh giá năng lực sƣ phạm của giáo viên mầm non
S TT Năng lực cốt lõi
1 Năng lực tổ quá chức trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ
Tiêu chí đánh giá (mô tả khái quát) Khá - Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ; - Biết thực hiện các kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tổ chức hoạt động học tập, vui chơi, tự phục vụ.. của trẻ; - Thái độ chuyên môn nghiêm túc, ham học hỏi; - Hoàn thành khá nhiệm vụ giáo dục, dạy học. Tốt - Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ; - Thành thạo các kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tổ chức hoạt động học tập, vui chơi, tự phục vụ.. của trẻ; - Thái độ tận tâm với nhiệm vụ,yêu nghề, yêu trẻ, ham tìm tòi, sáng tạo; - Có sáng kiến đổi mới dạy học, giáo dục, trẻ trong lớp đạt và vượt các chỉ số về phát triển toàn diện theo lứa tuổi. Đạt - Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, nhưng còn một số sai sót về tổ chức quá trình học tập và phát triển toàn diện của trẻ; - Có biểu hiện máy móc trong thực hiện các kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tổ chức hoạt động học tập, vui chơi, tự phục vụ.. của trẻ; - Thái độ chuyên môn đúng mực, ít tìm tòi, sáng tạo; - Hoàn thành những yêu cầu cơ bản trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, dạy học.
lực đẩy,
- Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về động viên, khuyến khích và tổ chức hoạt động cho trẻ; - Biết thực hiện các kỹ năng thiết kế hoạt động dạy học, trò chơi, lễ hội, phát triển ngôn ngữ cho trẻ …; - Thái độ kiên nhẫn, chủ động cuốn hút trẻ vào các hoạt động; - Hoàn thành khá công việc tổ chức các loại hình hoạt động của trẻ theo chương trình GDMN.
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về động viên, khuyến khích và tổ chức hoạt động cho trẻ; - Thành thạo các kỹ năng thiết kế hoạt động dạy học, trò chơi, lễ hội, phát triển ngôn ngữ cho trẻ; kỹ năng thể hiện khả năng nghệ thuật …; - Thái độ kiên nhẫn và sôi nổi, nhiệt tình cuốn hút trẻ vào các hoạt động; - Có sáng kiến đổi mới tổ chức các loại hình hoạt động của trẻ theo chương trình GDMN.
- Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, nhưng còn một số sai sót về động viên, khuyến khích và tổ chức hoạt động cho trẻ; - Có biểu hiện máy móc trong thực hiện các kỹ năng thiết kế hoạt động dạy học, trò chơi, lễ hội, phát triển ngôn ngữ cho trẻ …; - Thái độ đúng mực, thân thiện với trẻ; - Hoàn thành những yêu cầu cơ bản trong tổ chức các loại hình hoạt động của trẻ theo chương trình GDMN.
trẻ gia hoạt theo
2 Năng thúc khuyến khích tham các động chương trình GDMN
Yếu Không đáp ứng được yêu cầu về nắm, vận dụng kiến kỹ thức, năng, thái độ chuyên môn về tổ quá chức trình học tập và phát toàn triển diện của trẻ Không đáp ứng được yêu cầu về vận nắm, kiến dụng kỹ thức, thái năng, độ chuyên môn về thúc đẩy, khuyến trẻ khích tham gia các hoạt động
202
3 Năng
- Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, nhưng còn một số sai sót về xây dựng môi trường thân thiện, an toàn, đáp ứng toàn diện nhu cầu về thể chất, xã hội và cảm xúc của trẻ; - Có biểu hiện máy móc trong thực hiện các kỹ năng quản lý lớp học,thiết lập quan hệ với trẻ, tổ chức hoạt động tìm tòi,khám phá và sáng tạo của trẻ; - Thái độ đúng mực với trẻ; - Hoàn thành những yêu cầu cơ bản trong xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ.
Không đáp ứng được yêu cầu về vận nắm, dụng kiến kỹ thức, năng, thái độ chuyên môn về xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ
lực xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ
4 Năng lực sóc chăm sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ
- Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về xây dựng môi trường thân thiện, an toàn, đáp ứng toàn diện nhu cầu về thể chất, xã hội và cảm xúc của trẻ; - Biết thực hiện các kỹ năng quản lý lớp học,thiết lập quan hệ với trẻ, tổ chức hoạt động tìm tòi,khám phá và sáng tạo của trẻ; - Thái độ thân thiện, chủ động chăm sóc trẻ; - Hoàn thành khá công việc xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ. - Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ;; - Biết thực hiện các kỹ năng đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Thái độ chủ động trong đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Hoàn thành khá công việc chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ
5 Năng
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về xây dựng môi trường thân thiện, an toàn, đáp ứng toàn diện nhu cầu về thể chất, xã hội và cảm xúc của trẻ; - Thành thạo các kỹ năng quản lý lớp học,thiết lập quan hệ với trẻ, tổ chức hoạt động tìm tòi,khám phá và sáng tạo của trẻ; kỹ năng sử dụng tiếng dân tộc… - Thái độ thực sự yêu thương và quan tâm chăm sóc trẻ; - Có sáng kiến xây dựng môi trường giáo dưỡng cho trẻ. - Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Thành thạo các kỹ năng theo dõi, đánh giá sức khỏe, nuôi dưỡng, giữ vệ sinh, đảm bảo an toàn, sơ cấp cứu cho trẻ; - Thái độ thận trọng, tỷ mỷ, khuyến khích trẻ tự phục vụ, tự bảo vệ an toàn; - Có sáng kiến đổi mới tổ chức chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ. - Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về văn hóa giao tiếp, phong tục, tập quán của địa phương, hiểu biết về gia đình của trẻ; - Thành thạo các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ở địa phương; - Thái độ cởi mở, thân thiện, biết
- Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về văn hóa giao tiếp, phong tục, tập quán của địa phương, hiểu biết về gia đình của trẻ; - Biết thực hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ở địa phương; - Thái độ thân thiện, chủ động hợp
- Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, nhưng còn một số sai sót về đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Có biểu hiện máy móc trong thực hiện các kỹ năng đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Thái độ đúng mực trong đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng, sự an toàn và bảo vệ trẻ; - Hoàn thành những yêu cầu cơ bản về chăm sóc sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ - Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, về văn hóa giao tiếp, phong tục, tập quán của địa phương, hiểu biết về gia đình của trẻ; - Biết thực hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ở địa phương; - Thái độ đúng mực với bố mẹ, gia đình trẻ;
Không đáp được ứng yêu cầu về nắm, vận dụng kiến kỹ thức, năng, thái độ chuyên về môn sóc chăm sức khỏe và bảo vệ an toàn cho trẻ Không đáp ứng được yêu cầu về nắm, vận dụng kiến kỹ thức, năng, thái độ chuyên
lực xây dựng quan hệ hợp tác với bố gia mẹ, trẻ đình
203
lắng nghe, sẵn sàng hợp tác; - Có quan hệ hiểu biết, gần gũi, tin cậy với nhiều gia đình của trẻ.
tác với bố mẹ, gia đình trẻ; - Có quan hệ hiểu biết, đúng mực với gia đình của trẻ.
- Hoàn thành những yêu cầu cơ bản về xây dựng quan hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ
trong lĩnh vực GDMN
6 Năng
- Hiểu và vận dụng được kiến thức cơ bản, về luật pháp, quy định của ngành giáo dục, phong tục, tập quán của địa phương vào xây dựng quan hệ hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng; - Biết thực hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm; - Thái độ đúng mực với đồng nghiệp và cộng đồng. - Hoàn thành những yêu cầu cơ bản về xây dựng quan hệ hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng.
lực kết nối và hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng nhằm phát triển GDMN
7 Năng lực tự cao nâng độ trình chuyên môn của bản thân
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo kiến thức về luật pháp, quy định của ngành giáo dục, phong tục, tập quán của địa phương vào xây dựng quan hệ hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng; - Thành thạo các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm; - Thái độ cởi mở, thân thiện, biết lắng nghe, sẵn sàng hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng ; - Có quan hệ hiểu biết, gần gũi, tin cậy với đồng nghiệp và cộng đồng. - Nắm và vận dụng linh hoạt các kiến thức về tự học tập, tự bồi dưỡng, tự đúc rút kinh nghiệm chuyên môn; - Thành thạo kỹ năng xây dựng kế hoạch tự nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp tự học, tự kiểm tra, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào tự bồi dưỡng; - Thái độ tự đòi hỏi cao, tích cực, chủ động trong học tập, rèn luyện về chuyên môn - Nâng cao được kết quả hoạt động chuyên môn.
Hiểu và vận dụng được các kiến thức về tự học tập, tự bồi dưỡng, tự đúc rút kinh nghiệm chuyên môn; - Biết thực hiện nhưng chưa thuần thục các kỹ năng xây dựng kế hoạch tự nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp tự học, tự kiểm tra, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào tự bồi dưỡng; - Thái độ miễn cưỡng trong học tập, rèn luyện về chuyên môn; - Tiến bộ chưa rõ nét trong hoạt động chuyên môn.
- Nắm và vận dụng được kiến thức cơ bản về luật pháp, quy định của ngành giáo dục, phong tục, tập quán của địa phương vào xây dựng quan hệ hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng; - Biết thực hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm; - Thái độ thân thiện,chủ động hợp tác với đồng nghiệp, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể; - Có quan hệ hiểu biết, đúng mực với đồng nghiệp và cộng đồng. - Nắm và vận dụng được các kiến thức về tự học tập, tự bồi dưỡng, tự đúc rút kinh nghiệm chuyên môn; - Biết thực hiện các kỹ năng xây dựng kế hoạch tự nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp tự học, tự kiểm tra, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin vào tự bồi dưỡng; - Thái độ nghiêm túc chấp hành yêu cầu về tự nâng cao trình độ chuyên môn; - Có một số tiến bộ trong hoạt động chuyên môn.
môn về xây dựng quan hệ hợp tác với bố mẹ, gia đình trẻ trong lĩnh vực GDMN Không đáp ứng được yêu cầu về nắm, vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ chuyên môn về kết nối và hợp tác với đồng nghiệp và cộng đồng nhằm phát triển GDMN Không đáp ứng được yêu cầu về vận nắm, dụng kiến kỹ thức, năng, thái độ chuyên môn về tự cao nâng trình độ chuyên môn của bản thân