5.1- Quản lý chất lượng môi trường trong ao nuôi

5.1.1- Những vấn đề chung

Một số vấn đề chung trong quản lý chất lượng

môi trường trong ao nuôi cần phải đạt, đó là:

- Độ béo của nước phải tốt (hàm lượng vật chất

tiêu hao oxy từ 15-25mg/l). Nước sạch và không bị ô

nhiễm.

- Nguồn cung cấp thức ăn phải tương đối đồng

đều giữa các phần trong ao.

- Nước có độ trong vừa phải (30-35cm). Để đạt

được điều trên thì thức ăn, phân bón phải có chất

lượng tốt. Việc bón phân phải phù hợp với điều kiện

môi trường ao nuôi. Cho cá ăn đầy đủ (không thiếu

cũng không thừa)

5.1.2- Các biện pháp kỹ thuật cơ bản

a- Cho ăn và bón phân

Nguyên tắc của việc bổ sung thức ăn và bón

phân mà người nuôi cá cần phải luôn quan tâm và

thực hiện cho đúng là cho cá ăn nhiều lần, mỗi lần

một lượng nhỏ. Điều này cần phải được thực hiện

một cách linh hoạt và mềm dẻo tùy thuộc vào điều

kiện thời tiết, hoạt động bắt mồi của cá, chất lượng

nước và sự thay đổi mùa vụ,... Một số nội dung cần

chú ý khi cho cá ăn:

- Tăng lượng thức ăn lên khi ta thấy mà chúng ta

đưa vào được cá ăn hết nhanh, hoặc phải giảm đi khi

thấy lượng thức ăn còn dư thừa của ngày hôm trước.

- Cho cá ăn nhiều vào ngày thời tiết đẹp, và cho ăn

ít vào ngày thời tiết xấu, hoặc trước khi mưa. Vào

ngày nắng nóng, nhiệt độ cao thì cho ăn nhiều vào

buổi sáng và chiều mát. Trái lại những ngày lạnh

nhiệt độ môi trường xuống thấp thì cho cá ăn nhiều

lần vào buôi trưa.

- Cho ăn nhiều khi cá khỏe mạnh, hoạt động tốt và

cho cá ăn ít khi dịch bệnh xuất hiện.

- Cho ăn nhiều ở ao nghèo dinh dưỡng, không

được bón phân. Cho ăn ít ở ao giàu dinh dưỡng và

được bón phân.

* Những điều cần lưu ý khi bón phân:

* Đối với phân hữu cơ:

- Bón đúng số lượng và đúng yêu cầu kỹ thuật (tức

việc bón phân phải được rải đều trong ao vào lúc

nhiệt độ thấp trong ngày và khi cá không bị nổi đầu)

- Không được bón một lần với liều lượng lớn mà

phải bón làm nhiều lần mỗi lần với một lượng nhỏ.

- Phân nên được ủ kỹ để giảm khả năng nhiễm

bệnh và tăng hiệu quả sử dụng phân.

* Đối với phân vô cơ:

- Hòa tan vào nước trước khi tưới đều ra ao.

- Chỉ được bón vào buổi sáng từ 9-10h khi mặt

trời đã mọc.

- Phải căn cứu vào màu nước ao để việc bón phân

có hiệu quả

- Để nâng cao hiệu quả của việc bón phân vô cơ

thi khi bón phải ngừng việc xáo trộn nước để TVPD

có thể hấp thụ tốt.

b- Ngăn ngừa độc tố

* Phòng ngừa thuốc bảo vệ thực vật:

- Dụng cụ phun thuốc sâu không được rửa trong

ao nuôi cá.

- Khi việc phun thuốc sâu được thực hiện ở đồng

ruộng thì nguồn nước có thuốc sâu không được dẫn

vào ao nuôi cá.

* Phòng ngừa chất thải độc hại từ nhà máy công

nghiệp

Các chất thải độc hại của các nhà máy công

nghiệp không được sử dụng đưa vào ao nuôi cá. Đặc

biệt lưu ý là nước thải của nhà máy hóa chất, nhà

máy giấy, nhà máy sắt và nhà máy sản xuất thuốc trừ

sâu.

c- Phòng ngừa sự biến đổi chất lượng nước do bọ

nước phát triển quá mạnh.

Sự biến đổi chất lượng nước thường được thực

hiện ở những ao đáy cát vào những ngày u ám, có

mưa nhỏ vào cuối Xuấn hoặc đầu mùa Hè. Điều này

được nhận biết nước trong ao rất trong sạch và có thể

nhìn thấy tận đáy ao. THực sự đó là do hàm lượng

Oxy hòa tan trong ao giảm xuống dưới 1mg/l. Cá bơi

lội lờ đờ trên mặt nước của ao xuốt cả ngày, và

những con bọ nước được tìm thấy rất nhiều ở những

mép bờ ao, thực vật phù du rất kém phát triển.

Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do

thành phần cá mè hoa thả trong ao nuôi quá ít, và

điều đó cũng đống nghĩa với việc không hạn chế

được sự phát triển quá mức của các loài bọ nước. Bọ

nước đã ăn hết thực vật phù du và sự cân bằng giữa

các nhóm sinh vật và các điều kiện môi trường lí hóa

bị phá vỡ. Bởi vì hàm lượng Oxy hòa tan trong môi

trường nước được cung cấp chủ yếu bởi quá trình

quang hợp của thực vật thủy sinh.

* Phương pháp hạn chế:

- Vào mùa Đông nên lấy bớt lớp bùn thải trong

đáy ao ra khỏi ao làm cho môi trường nước luông

luôn trong sạch.

- Cá mè hoa nên được thả vào nuôi với giống cỡ

lớn và mật độ thích hợp, hoặc thả từ 1500 - 2000 cá

rô phi đực cho 1 ha ao nuôi ghép để hạn chế sự phát

triển của bọ nước.

* Phương pháp xử lý:

- Tăng lượng Oxy hòa tan bằng cách liên tục đảo

trộn và bổ sung thêm nước.

- Diệt các loại bọ nước bằng cách rải 1,5kg hóa

chất dipterex cho 1 ha. Việc rải nên thực hiện ở vùng

nước ven bờ ao.

- Thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của thực

vật phù du bằng cách bổ sung một lượng phân bón

thích hợp (chủ yếu là phân vô cơ)

d- Ngăn cản hiện tượng nở hoa của nước

Hiện tượng nở hoa của nước là khi trên bề mặt

của ao xuất hiện một lớp vảng màu xanh lục hoặc

xanh nâu, đôi khi là mầu nâu (tùy thuộc vào loài tảo

nào chiếm ưu thế). Và từ nguồn nước này có mùi hôi

khó chịu bốc ra.

* Nguyên nhân chính gây tình trạng nước nở hoa là

do chúng ta thả quá ít cá mè trắng, mè hoa vào ao, và

điầu đó đã làm cho không thể quản lí được sự phát

triển quá mức của của các loài tảo có hại như:

Mycrocystis; Anabaena; Oscilatoria,... sau khi những

loại tảo này chết sẽ tạo ra chất độc cho cá.

* Phương pháp phòng ngừa:

- Thả cá mè trắng, mè hoa có kích kỡ lớn với mật

độ thích hợp.

- Diệt tảo để hạn sự phát triển quá mạnh của

chúng bằng cách sử dụng CuSO4 với liều lượng 1,5 -

3,0kg/ha. Nên rải ở vùng cuối gió (nơi tập trung

nhiều tảo bị chết và thối).

- Rải vôi sống, vôi bột để gây độc cho tảo vào

những lúc mà hoạt động sinh sản của tảo này xảy ra,

làm hạn chế sự phát triển của chúng đến mức tối

thiểu.

e- Hiện tượng nước bị acid hóa

Độ pH của ao thường tùy thuộc vào việc ao đó

mới được xây dựng hay đã sử dụng từ lâu và phụ

thuộc vào hàm lượng ion sắt chứa trong nó. Khi ao có

lượng ion sắt lớn thì có thể nhìn thấy rõ ràng lớp cặn

màu nâu phủ toàn bộ đáy ao. Đó là một lượng lớn

sinh vật đã bị chết lắng đọng và cá nuôi ở ao này

thường phát triển rất khó khăn. Vì vậy việc bổ sung

vôi vào ao là điều cần thiết. Khi pH trong ao nhỏ hơn

5 thì việc bón vôi với liều lượng 1.050 - 1.500 là việc

làm cần thiết và cải thiện được môi trường tốt hơn.

g- Quản lý sự thay đổi đột ngột của môi trường do

yếu tố thời tiết

Sự thiếu hụt Oxy trong ao thường xuất hiện và

khoảng giữa mùa Hè và mùa Thu, khi mà gió mùa

chuyển đột ngột sang gió mùa Đông Bắc,hoặc khi

những cơn giông đột ngột không mong đợi vào buổi

chiều những ngày nắng nóng, oi bức. Chính điều đó

đã gây nên tinh trạng nổi đầu nghiêm trọng của cá và

thậm chí làm cho cá bị chết do bị gạt thở.

Sự thiếu hụt Oxy trong nước ao thường được gây

ra bởi lượng bùn đáy trong ao quá nhiều, cho ăn thức

ăn quá dư thừa, việc bón phân hữu cơ quá mức, hoặc

mật độ thả cá quá dày,....

Vào mùa Hè và mùa Thu khi mặt trời chiếu sáng

quá mạnh, thời tiết ngột ngạt và có những trận mưa

rào vào buổi chiều, nhiệt độ nước tầng mặt có thể bị

giảm đột ngột và tầng nước này sẽ bị chìm xuống do

có tỷ trọng lớn hơn, đồng thời đẩy lớp nước tầng đáy

trồi ngược lên trên (do nhiệt độ tầng đáy lớn hơn, tỷ

trọng nhỏ hơn). Chính sự đối lưu của lớp nước tầng

mặt và tầng đáyđã làm khuấy đục lớp bùn đáy, chính

lớp bùn này đã chiếm dụng một lượng Oxy hòa tan

và đã gây tình trạng nổi đầu và làm chết cá do ngạt

thở đột ngột.

* Phương pháp loại trừ:

- Loại bỏ hết ra ngoài lượng bùn dư thừa.

- Cho thức ăn và phân bón vừa đủ (không dư

thừa).

- Cung cấp nước mới ngay lập tức khi tình trạng

nổi đầu xuất hiện.

- Rải phèn chua với lượng 25-45kg/ha để kết tủa

bùn đáy.