VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN DIỆU

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN

TRONG KHU CÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN DIỆU

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN

TRONG KHU CÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Xuân Diệu

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn

Văn Phương – Trường Đại học Luật Hà Nội, người thày đã tận tình hướng dẫn em

trong suốt quá trình viết Luận văn tốt nghiệp.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Luật Kinh

tế đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức nền tảng trong suốt thời

gian học tập. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc,

Phòng Đào tạo, Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện cho em trong quá trình

học tập, nghiên cứu tại trường. Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè,

những người đã luôn bên, động viên và khuyến khích trong quá trình thực hiện đề

tài nghiên cứu của mình.

Luận văn tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận

được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp

để luận văn được hoàn thiện hơn.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ

CHẤT THẢI RẮN TRONG KHU CÔNG NGHIỆP ............................................. 5

1.1. Các vấn đề về chất thải rắn trong khu công nghiệp và pháp luật về quản

lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ................................................................. 5

1.2. Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu

công nghiệp ......................................................................................................... 17

1.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp . 23

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRONG KHU

CÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................ 30

2.1. Tình hình sản xuất công nghiệp ở Hà Nội ................................................... 30

2.2. Thực trạng áp dụng quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ở Hà

Nội ...................................................................................................................... 40

2.3. Các vấn đề đặt ra đối với quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ở

Hà Nội theo pháp luật Việt Nam ........................................................................ 48

Chương 3; CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ

CHẤT THẢI RẮN TRONG KHU CÔNG NGHIỆP ........................................... 56

3.1. Cơ sở để đưa kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn

trong khu công nghiệp ........................................................................................ 56

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu

công nghiệp ......................................................................................................... 65

3.3. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải

rắn trong khu công nghiệp tại Hà Nội ................................................................ 70

3.4. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải

rắn trong khu công nghiệp .................................................................................. 75

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bảo vệ môi trường BVMT

Chất thải nguy hại CHNH

Chất thải rắn CTR

Chất thải rắn công nghiệp CTRCN

CTRCNTT Chất thải rắn công nghiệp thông thường

Chất thải rắn xây dựng CTRXD

Chất thải rắn sinh hoạt CTRSH

Chất thải rắn thông thường CTRTT

CTRTKCN Chất thải rắn trong khu công nghiệp

Doanh nghiệp DN

Cụm công nghiệp CCN

Khu công nghiệp KCN

Khu chế xuất KCX

Khu công nghệ cao KCNC

Phát triển bền vững PTBV

Phân loại rác tại nguồn PLRTN

Tài nguyên và môi trường TN&MT

Thành phố TP

Ủy ban nhân dân UBND

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đến nay, nước ta tuy đã đạt được những thành công lớn trên con đường phát

triển, nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có

vấn đề về môi trường tự nhiên. Cũng như xu thế toàn cầu, nền kinh tế nước ta

không thể tách rời với môi trường tự nhiên được. Môi trường là vấn đề quan trọng

không chỉ với một ngành, một nghề, không chỉ đối với một quốc gia mà là vấn đề

của toàn nhân loại. Hiện tượng nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên, băng ở hai đầu

cực đang tan dần, lỗ thủng tầng Ozon tuy có co nhỏ lại phần nào, song vẫn chưa đạt

tới mức an toàn cho trái đất….đang là mối lo ngại đối với sự tồn tại của loài người.

Chẳng thế mà thời kỳ phát triển bằng mọi giá đã trôi qua, giờ đây phát triển kinh tế

phải gắn với BVMT. Nguyên lý phát triển trong thời đại hiện nay là PTBV.

Môi trường giờ đây, hơn bất cứ lúc nào, đã trở thành một tài nguyên vô cùng

quan trọng và cấp thiết cho mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là nền móng của sự

tồn tại và PTBV của xã hội, bất cứ hoạt động gì của con người cũng diễn ra trong

môi trường và ngược lại, nó cũng có những tác động nhất định trở lại môi trường.

Hiện nay, mặc dù tốc độ gia tăng dân số trên thế giới đã có dấu hiệu giảm lại một

cách khá rõ rệt, song dân số năm sau vẫn cao hơn năm trước và tốc độ công nghiệp

hóa cao và nhanh một cách chóng mặt đã gây ra những tổn hại đáng kể cho môi

trường. Bên cạnh đó, để hoàn thành mục tiêu "đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở

thành một nước công nghiệp" của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nền công

nghiệp nước ta đã có những bước dài trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Có thể khẳng định chính sách và tầm nhìn ấy của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn

đúng đắn, nhưng một bộ phận không nhỏ những người tham gia lại rất thờ ơ, vô ý

thức, vô trách nhiệm trong việc quản lý mà làm cho chất thải, đặc biệt CTRTKCN

ngày càng nhiều (trong khi đó, không ít chất thải, đặc biệt là CTRTKCN lại hoàn

thoàn có thể tái chế để nó quay lại phục vụ con người, thì họ lại không tận dụng triệt

để); điều này đã gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến môi trường nước ta. Song nhờ

sự phát triển về nhận thức của con người hiện nay về môi trường, cũng như sự bùng

nổ của mạng lưới thông tin, mà vấn đề bảo vệ môi trường đã ngày càng được quan

tâm hơn. Theo đó, việc quản lý chất thải, nhất là CTRTKCN và tái chế, khai thác nó

1

như thế nào để chất thải trở thành nguồn tài nguyên phục vụ cho đời sống con người

là vấn đề hết sức cần thiết. Điều đó đã thôi thúc tôi đến với đề tài “Quản lý chất

thải rắn trong khu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành

phố Hà Nội” làm luật văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến nay đã có một số đề tài về quản lý chất thải của một số tác giả như:

Lê Cường, Mô hình và giải pháp quản lý CTRSH khu ven đô thị trung tâm TP Hà

Nội đến năm 2030, năm 2018; Bùi Thị Nhung, Quản lý CTR tại thành phố Hưng

Yên năm 2014; Nguyễn Thị Loan, Quản lý CTR sinh hoạt huyện Quốc Oai, TP Hà

Nội năm 2013; Lê Thị Thùy Linh, Đánh giá hiện trạng quản lý CTRSH trên địa bàn

huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên năm 2012; Lưu Việt Hùng, Pháp luật về quản lý

chất thải rắn thông thường tại Việt Nam năm 2009; Nguyễn Văn Phương, Pháp luật

môi trường Việt Nam về nhập khẩu phế liệu năm 2007; Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp

luật về quản lý CTNH năm 2009; Nguyễn Hoà Bình, Điều tra, đánh giá tình hình

quản lý CTR nguy hại của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp quản lý có hiệu

quả năm 2004. Bên cạnh đó còn có khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên các

trường đại học: Hoàng Ngọc Mai (ĐH Thái Nguyên), Thực trạng và giải pháp nâng

cao hiệu quả quản lý CTRSH tại thị trấn Đu, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

năm 2015; Đặng Thái Học (ĐHDL Hải Phòng), Đánh giá hiện trạng quản lý

CTRSH tại quận Hải An – Hải Phòng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao

hiệu quả quản lý, năm 2012; Trần Thị Lan Hương (ĐHDL Hải Phòng), Đánh giá

hiện trạng quản lý CTRCN tỉnh Yên Bái và đề xuất giải pháp quản lý năm 2012;

Phạm Thị Liễu (ĐH Luật Hà Nội), Đánh giá các quy định của pháp luật về quản lý

chất thải năm 2008. Ngoài ra các nhà khoa học đã có những công trình nghiên cứu

về quản lý chất thải, có thể kể đến một số bài viết như: Tôn Thất Toản, Huỳnh Huy

Việt, Hiện trạng và các giải pháp quản lý CTR sinh hoạt tại tỉnh Phú Yên, Tạp chí

Môi trường ngày 18/7/2019; Hà Thu, Hà Nội: 100% lượng chất thải y tế nguy hại

được xử lý đạt chuẩn vào năm 2020, bài viết trên tạp chí điện tử Môi trường và

cuộc sống ngày 26/3/2019; Trần Trung Dũng, Điều tra, đánh giá hiện trạng thu

gom, vận chuyển và đề xuất phương án quy hoạch, xử lý CTR các tỉnh Tây Nguyên

và đề xuất phương án quy hoạch xử lý và quản lý CTR phù hợp đến năm 2020, công

2

trình khoa học được công bố năm 2015; Nguyễn Ngọc Nông, Hiện trạng và giải

pháp quản lý, sử dụng rác thải sinh hoạt khu vực đô thị tại thành phố Thái Nguyên,

đề tài cấp bộ năm 2011; Nguyễn Văn Phương, Khái niệm chất thải và quy định về

xuất nhập khẩu chất thải của Cộng hoà liên bang Đức trong cuốn “BVMT và

PTBV” do nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật ấn hành năm 2008; Nguyễn Văn

Phương, Một số vấn đề về khái niệm chất thải, được đăng trên tạp chí Luật học Số

10 năm 2006; Nguyễn Văn Phương, Chất thải và quy định quản lý chất thải, được

đăng trên tạp chí Luật học Số 4 năm 2003 Lê Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho

quản lý CTNH ở Việt Nam đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm

2002;…. Nhưng những bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá hay gợi mở một

vài khía cạnh của pháp luật quản lý chất thải nói chung, quản lý CTR nói riêng còn hầu

như không đi sâu nghiên cứu vần đề về quản lý CTRTKCN. Vì vậy, với đề tài “Quản

lý chất thải rắn trong khu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn

Thành phố Hà Nội”, tôi mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình

vào việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nói chung và CTRTKCN nói riêng.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Với luận văn này, người viết muốn đi vào tìm hiểu thực trạng quản lý

CTRTKCN tại TP Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung; trên cơ sở đó tìm hiểu,

phân tích nguyên nhân của những bất cập, thiếu xót, hạn chế trong công tác quản lý

CTRTKCN hiện nay; từ đó tìm ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ

chế thực hiện pháp luật về quản lý CTRTKCN cho phù hợp hơn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về CTRTKCN;

nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đối với hoạt động

quản lý chất thải; phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật để tìm ra những

sai sót, vướng mắc, những vấn đề phát sinh, các vi phạm pháp luật về quản lý

CTRTKCN hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Pháp luật về quản lý chất thải là một phạm trù nghiên cứu rộng, vì vậy Luận

văn không thể nghiên cứu hoạt động quản lý của tất cả các loại chất thải hiện nay,

3

cũng không đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực chuyên môn của quản lý chất thải mà

chủ yếu đề cấp đến các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý CTRTKCN ở nước ta

dựa theo tình hình thực tiễn ở TP Hà Nội.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng

phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp

khảo sát thực tiễn và đánh giá, phương pháp phân tích…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu của Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu

tham khảo cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về Luật học. Một số kiến nghị của

đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức thực hiện pháp

luật về BVMT, pháp luật về quản lý chất thải nói chung và pháp luật về quản lý

CTRTKCN nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được

chia làm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu

công nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp.

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn trong

khu công nghiệp.

4

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRONG KHU CÔNG NGHIỆP

1.1. Các vấn đề về chất thải rắn trong khu công nghiệp và pháp luật về quản lý

chất thải rắn trong khu công nghiệp

1.1.1. Khái niệm chất thải

Theo cách hiểu thông thường, chất thải là những chất mà con người bỏ đi,

không tiếp tục sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường

dưới những trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi

trường cũng như sức khoẻ con người. Chất thải, CTR là vấn đề quan trọng trong

cuộc sống ngày nay vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm hiểu để từ đó biết

cách để quản lý, phân loại, và tận dụng, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của

các chủ thể khi không tuân thủ quy trình xả, thải theo quy định của pháp luật.

Dưới góc độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn sử

dụng được nữa bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải

được sản sinh trong các hoạt động khác nhau của con người thì được gọi với những

thuật ngữ khác nhau như: CTR phát sinh trong sinh hoạt thì gọi là rác thải; chất thải

phát sinh sau khi sử dụng nguyên liệu trong quá trình sản xuất thì gọi là phế liệu;

chất thải phát sinh sau quá trình sử dụng nước thì gọi là nước thải… [20, tr.8].

Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là rác thải

và những đồ vật bị bỏ đi nói chung”. Theo cách hiểu của khái niệm này, chất thải

bao gồm rác là những thứ vụn vặt bị vất bỏ vương vãi, làm bẩn và đồ vật không có

giá trị, không có tác dụng nên không giữ lại [34, tr.86].

Từ điển môi trường Anh - Việt và Việt - Anh định nghĩa “Chất thải (waste)

là những chất không dùng đến được thải ra từ quá trình sản xuất.” [13, tr.211]

Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi

trường, được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel định

nghĩa: “Chất thải là chất hoặc các đồ vật mà người ta tiêu hủy, có ý định tiêu hủy

hoặc phải tiêu hủy theo qui định của pháp luật quốc gia”. Theo đó, yếu tố quyết

5

định để xác định một vật chất hoặc một đồ vật đó có bị chủ sở hữu “tiêu hủy, có ý

định tiêu hủy hoặc phải tiêu hủy” hay không [20, tr.9].

Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính

trị - kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về vận

chuyển chất thải ngày 1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 định nghĩa: “Chất thải

có nghĩa là bất kỳ chất hoặc vật nào nằm trong danh mục phân loại tại Phụ lục I mà

người giữ chúng thải bỏ hoặc có ý định thải bỏ”. Theo định nghĩa này, một vật chất

sẽ là chất thải khi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp vật chất đó không có

ý định sử dụng hoặc không được tiếp tục sử dụng theo yêu cầu của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền [20, tr.10].

Theo Điều 3 khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế tuần hoàn và đảm bảo xử lý

các chất thải phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994 được sửa đổi bổ sung ngày

25/8/1998 của CHLB Đức: “Chất thải là tất cả các động sản thuộc Phụ lục I của luật

này mà chủ sở hữu từ bỏ, có ý muốn từ bỏ hoặc bắt buộc phải từ bỏ. Những chất

thải có khả năng tái chế được thì chủ sở hữu có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tái

chế. Trong trường hợp không tái chế được thì chủ sở hữu có nghĩa vụ xử lý”. Theo

định nghĩa này, chỉ có động sản mới có thể trở thành chất thải, bất động sản không thể

trở thành chất thải. Một động sản có thể trở thành chất thải hay không phụ thuộc vào

việc đánh giá động sản đó có bị “từ bỏ” hoặc phải “từ bỏ” hay không [20, tr.11].

Quan niệm về chất thải còn được xem xét trên khía cạnh kinh tế. Theo quan

điểm chung thì chất thải có thể hiểu là chất có thể gây ô nhiễm môi trường; làm cho

môi trường suy thoái, hoặc gây ra sự cố môi trường. Nguồn gốc phát sinh ra chất

thải là những gì mà chủ sở hữu chúng hiện tại không sử dụng và thải bỏ. Tuy nhiên,

việc chủ sở hữu hiện tại không muốn sử dụng và thải bỏ có thể vì nhiều lý do khác

nhau như công nghệ, sở thích, nhu cầu,vv… Việc thải bỏ bao gồm từ công đoạn thu

gom, xử lý cho đến khi xử lý an toàn chất thải đều có ý nghĩa là cá nhân hay xã hội

phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định. Việc hạn chế thải bỏ chất thải cũng có nghĩa

là nguyên vật liệu, năng lượng … được sử dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong điều

kiện ngày càng khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, giá cả nguyên nhiên vật liệu ngày

càng cao thì lợi ích kinh tế của việc phòng ngừa, giảm thiểu chất thải lại càng quan

trọng. Điều đó cũng có nghĩa đối với chất thải, để quản lý tốt không chỉ là thu gom,

6

xử lý và chôn lấp an toàn mà cần xem xét cả đến lợi ích của nó, và tuỳ từng loại

chất thải có thể tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi cho mục đích khác mà không phải

tốn kinh phí cho việc thải bỏ

Chương 1, điều 3 khoản 12 Luật BVMT 2014 định nghĩa: “Chất thải là vật

chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”.

Từ các định nghĩa và dựa vào các tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại chất

thải thành các nhóm loại khác nhau:

Dựa vào dạng tồn tại của chất thải, chất thải tồn tại dưới dạng rắn (CTR),

lỏng (chất thải lỏng), khí (khí thải), nhiệt lượng, tiếng ồn…

Phụ thuộc vào sự độc hại của chất thải, chất thải bao gồm chất thải độc hại

nguy hiểm và chất thải thông thường.

Phụ thuộc vào nguồn sản sinh chất thải, chất thải được chia thành chất thải

sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế…

Phụ thuộc vào chu trình sản sinh ra chất thải, chất thải bao gồm nguyên liệu

thứ phẩm, phế liệu, vật liệu thứ phẩm, sản phẩm, đồ vật hư hỏng hoặc quá hạn sử

dụng [20, tr.15].

Để xác định một chất là chất thải hay không, cần dựa vào ba tiêu chí sau:

Chất thải tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các

dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể được coi là chất thải.

Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ hoặc bị buộc phải thải bỏ. Nói cách khác,

các dạng vật chất được coi là chất thải khi người chủ sở hữu hay sử dụng chúng thải

bỏ một cách chủ động theo ý chí của họ, hoặc phải thải bỏ một cách bị động theo ý

chí của Nhà nước, không sử dụng nó vào bất kỳ mục đích nào khác.

Nguồn gốc phát sinh ra chất thải là từ các hoạt động của con người. Đó là các

hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và các hoạt động khác [30, tr.14]

Thông qua các phân tích trên chúng ta thấy, vật chất là chất thải hay không

phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu của vật chất đó, trừ trường hợp chất thải được

sản sinh do đặc thù của chu trình hoạt động, được thải ra một cách bị động không

phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu cũng như các đối tượng khác.

1.1.2. Chất thải rắn trong khu công nghiệp

7

Vì KCN là nơi tập trung hoạt động sản xuất với rất nhiều cán bộ, công nhân

viên chức, kỹ sư, người lao động,… cho nên có thể coi đây là một khu dân cư thu

nhỏ với nhiều điểm đặc trưng. Bởi vậy, khi nói đến CTRTKCN thì ta sẽ thấy ngoài

CTRCN ra thì nó còn có CTRTT, CTRCNTT, CTRNH, CTRXD, CTRSH và chất

thải y tế,.

Về CTRCN, theo chương 1, điều 3, khoản 12 Luật BVMT 2014 và nhất là tại

chương 1, điều 3, khoản 4 của Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm

2015 của Chính phủ về quản lý chất thải, CTR, CTRCN, CTRTT, CTNH, CTRSH,

CTRXD.... có định nghĩa: "CTRCN là CTR phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ". Bên cạnh đó, CTRCN bao gồm CTRCN không nguy hại và

CTRCN nằm trong danh mục CTNH.

Nói về CTRCN không nguy hại, ta có thể hiểu đó là một chất thải thuộc thể

rắn hoặc sệt do chủ thể sở hữu thải ra nhưng lại không mang tính chất nguy hại đến

con người (chẳng hạn: giấy, vải, thủy tinh,…). Hay xét theo mục 2.3 Tiêu chuẩn

Việt Nam 6705-2009 về CTR không nguy hại thì CTRCN không nguy hại là: Chất

thải được thải ra từ các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hoặc từ các công trình xử lý

khí thải, xử lý CTRTT. [11; 06]

Còn nói về CTNH, tại chương 1, điều 3, khoản 13 Luật BVMT 2014 định

nghĩa về CTNH như sau: "CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây

nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác."

Vậy ta có thể hiểu CTNH là các chất thải (dạng phế phẩm, phế liệu hóa chất,

vật liệu trung gian, ...) sinh ra trong quá trình sản xuất công nghiệp có đặc tính bắt

lửa, dễ cháy nổ, dễ ăn mòn, chất thải bị oxy hóa, mang tính phóng xạ và gây độc

hại cho con người và hệ sinh thái.

Về CTRXD, để hình thành nên một hệ thống nhà xưởng ở KCN thì bắt buộc

phải thực hiện công việc xây dựng hệ thống nhà xưởng đó và công việc này là công

việc thường xuyên cho đến khi KCN đó hoàn trả lại nguyên trạng mặt bằng cho nhà

nước. Mà quá trình xây dựng thì không thể không sản sinh ra chất thải xây dựng

được. Theo chương 1, điều 2, khoản 1 của Thông tư số 08/2017/TT-BXD thì:

"CTRXD là CTR phát sinh trong quá trình khảo sát, thi công xây dựng công trình (bao

gồm công trình xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, di dời, tu bổ, phục hồi, phá dỡ)".

8

Tại chương 7, điều 50, khoản 1 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì: CTR từ

hoạt động xây dựng (kể cả cải tạo, phá dỡ công trình, gọi chung là CTRXD) phải

được phân loại và quản lý như sau: "Đất, bùn thải từ hoạt động đào đất, nạo vét lớp

đất mặt, đào cọc móng được sử dụng để bồi đắp cho đất trồng cây hoặc các khu vực

đất phù hợp;" và "Đất đá, CTR từ vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vữa, bê tông, vật

liệu kết dính quá hạn sử dụng) được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng

làm vật liệu san lấp cho các công trình xây dựng hoặc chôn lấp trong bãi chôn lấp

CTR xây dựng"; cũng như "CTR có khả năng tái chế như thủy tinh, sắt thép, gỗ,

giấy, chất dẻo được tái chế, tái sử dụng"

Theo đó, quản lý CTRXD phải tuân thủ 05 nguyên tắc sau: thứ nhất, phải

tuân thủ các nguyên tắc chung về quản lý chất thải có liên quan quy định tại Điều 4

Nghị định số 38/2015/NĐ-CP; thứ hai, khi thiết kế công trình phải có giải pháp

thiết kế và công nghệ, lựa chọn sử dụng vật liệu hợp lý nhằm hạn chế tối đa lượng

chất thải phát sinh; thứ ba, vị trí, quy mô các điểm tập kết, trạm trung chuyển và cơ

sở xử lý CTRXD phải phù hợp với quy hoạch xây dựng, quy hoạch quản lý CTR;

thứ tư, dự án đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý CTRXD được hưởng ưu đãi theo các

quy định về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT, sản xuất vật liệu xây dựng và các ưu

đãi khác theo quy định hiện hành; thứ năm, khuyến khích cộng đồng dân cư tham

gia giám sát việc thực hiện các quy định quản lý CTRXD trên địa bàn. Theo Thông

tư số 08/2017/TT-BXD, CTRXD phải được phân loại ngay tại nơi phát sinh theo

quy định tại Khoản 1 Điều 50 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP thành các loại sau đây:

một, CTR có khả năng tái chế được; hai, CTR có thể được tái sử dụng ngay trên

công trường hoặc tái sử dụng ở các công trường xây dựng khác; ba, hất thải không

tái chế, tái sử dụng được và phải đem đi chôn lấp; bốn, CTNH được phân loại riêng

và quản lý theo quy định tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP và các văn bản pháp luật

hướng dẫn về quản lý CTNH. CTRXD sau khi phân loại không được để lẫn với các

chất thải khác và phải được lưu giữ riêng theo quy định. Trong trường hợp CTRXD

thông thường có lẫn với CTNH thì phải thực hiện việc phân tách phần CTNH. Nếu

không thể tách được thì toàn bộ hỗn hợp phải được quản lý như CTNH.

Cũng theo Thông tư 08/2017/TT-BXD thì CTRXD phải được thu gom, vận

chuyển đến điểm tập kết, trạm trung chuyển và cơ sở xử lý được đầu tư xây dựng

9

theo quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc cơ sở tái chế,

công trình khác để tái chế, tái sử dụng. Việc vận chuyển phải theo thời gian và lộ

trình về tuyến đường, an toàn giao thông và tuân thủ các quy định của cơ quan có

thẩm quyền về phân luồng giao thông tại địa phương. Các phương tiện vận chuyển

CTRXD phải là phương tiện bảo đảm các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn,

đã được kiểm định và được các cơ quan chức năng cấp phép lưu hành theo quy

định. Trong quá trình vận chuyển, phương tiện vận chuyển phải đảm bảo không làm

rò rỉ, rơi vãi chất thải, gây phát tán bụi, mùi. Trong trường hợp chủ nguồn thải tự

vận chuyển CTRXD thì phải tuân thủ các quy định trên.

Việc xử lý CTRXD, theo Thông tư trên, cơ sở xử lý CTRXD phải được đầu

tư xây dựng theo quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khuyến

khích việc xử lý CTRXD tại nơi phát sinh với quy trình, công nghệ phù hợp, đảm

bảo các yêu cầu về an toàn, môi trường.

Về CTRSH và chất thải y tế, ta thấy trong quá trình vận hành, tại đây ngoài

hoạt động sản xuất thì còn diễn ra các hoạt động sinh hoạt của con người. Từ đó

không thể tránh khỏi phát sinh ra một lượng nhất định CTRSH và chất thải y tế. Bởi

vậy, đây cũng là những nguồn CTRTKCN cần được xử lý triệt để. Theo chương 1,

điều 3, khoản 3 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP đã quy định rõ: CTRSH (còn gọi là

rác sinh hoạt) là CTR phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người. Hay nói

một cách đơn giản thì CTRSH là CTR được thải (sinh) ra từ sinh hoạt cá nhân, các

khu nhà ở (biệt thự, hộ gia đình riêng lẻ, chung cư, ...), khu thương mại và dịch vụ

(cửa hàng, chợ, siêu thị, quán ăn, nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, trạm dịch vụ, ...),

khu cơ quan (trường học, viện và trung tâm nghiên cứu, các cơ quan hành chánh

nhà nước, văn phòng công ty,...), từ các hoạt động dịch vụ công cộng (quét dọn và

vệ sinh đường phố, công viên, khu giải trí, tỉa cây xanh,...), từ sinh hoạt (ăn uống,

vệ sinh, ...) của các khoa, bệnh viện không lây nhiễm, từ sinh hoạt của cán bộ, công

nhân trong các cơ sở công nghiệp (KCN, nhà máy, cơ sở sản xuất vừa và nhỏ).

CTRSH có nhiều loại, điển hình như túi nilon, bao bì, giấy, túi đựng thức ăn, kim

loại, sắt, inox, thép phế liệu… Cũng theo chương 7, điều 49 của Nghị định này thì:

Chất thải từ hoạt động y tế (trừ nước thải được đưa vào hệ thống xử lý nước thải của

cơ sở y tế) phải được phân loại tại nguồn như sau: chất thải y tế nguy hại bao gồm:

10

Chất thải lây nhiễm; chất thải nguy hại không lây nhiễm (phân loại riêng theo danh

mục và quy định về quản lý chất thải nguy hại tại Chương 2 Nghị định này); chất

thải phóng xạ (quản lý theo quy định về phóng xạ); chất thải y tế thông thường bao

gồm: CTRTT (kể cả CTR sinh hoạt); sản phẩm thải lỏng không nguy hại. Chất thải

lây nhiễm phải được quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt với cấp độ cao nhất trong các cơ

sở y tế, bảo đảm không phát tán mầm bệnh gây ảnh hưởng đến môi trường và

sức khỏe con người. Trường hợp để lẫn chất thải lây nhiễm vào CTR sinh hoạt, chất

thải thông thường thì hỗn hợp chất thải đó phải được quản lý theo quy định về chất

thải nguy hại. Các cơ sở y tế căn cứ vào quy hoạch, yếu tố địa lý, điều kiện kinh tế

và môi trường để lựa chọn áp dụng một trong các phương án xử lý chất thải y tế

nguy hại như sau: cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại tập trung hoặc cơ sở xử lý chất

thải tập trung có hạng mục xử lý chất thải y tế; xử lý chất thải y tế nguy hại theo mô

hình cụm cơ sở y tế (chất thải y tế của một cụm cơ sở y tế được thu gom và

xử lý chung tại hệ thống, thiết bị xử lý của một cơ sở trong cụm); xử lý chất thải y

tế nguy hại tại hệ thống, thiết bị xử lý trong khuôn viên cơ sở y tế.

1.1.3. Ảnh hưởng của chất thải rắn đến môi trường và sức khỏe cộng đồng

Tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, việc hoạt động phân loại CTR

ngay tại nguồn chưa được thực hiện rộng rãi và chặt chẽ, điều kiện cơ sở vật chất,

trang thiết bị còn hạn chế, phần lớn phương tiện thu gom CTR tuy đã ngày càng

được hiện đại hóa, nhưng vẫn còn đó một số quy chuẩn kỹ thuật và vấn đề vệ sinh

môi trường chưa được đảm bảo. Các điểm tập kết, trạm trung chuyển chưa được

đầu tư xây dựng đúng mức, gây mất vệ sinh. Tại nhiều khu vực, hệ thống vận

chuyển chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển CTR hàng ngày, gây tình trạng ứ đọng.

Nhìn chung tất cả các giai đoạn quản lý CTR từ khâu thu gom đến công đoạn xử lý

(tái chế, đốt, chôn lấp) đều gần như đều gây ô nhiễm tới môi trường thiên nhiên.

Chẳng hạn như khi vận chuyển và lưu trữ, CTR sẽ phát sinh mùi do bị phân hủy

(đối với CTR có liên quan đến chất hữu cơ) gây ra mùi khai (ammoniac), hôi

thối,…; đối với các bãi chôn lấp thì có tới 30% các chất khí phát sinh trong quá

trình phân hủy để thoát lên mặt đất mà không cần một sự tác động ngoại lực nào;

còn đối với việc tiêu hủy bằng phương pháp thiêu đốt thì đương nhiên ngoài việc

tỏa nhiệt, bốc khói, tồn đọng tro bụi chúng còn phát tán ra môi trường vô số chất khí

11

độc hại như Clo, lưu huỳnh, nitơ, cácbôníc,… nhất là một số kim loại nặng và độc

hại (như thủy ngân, chì) có thể bốc hơi và phát tán vào môi trường. Không những

thế, trong thành phần CTR có chứa nhiều các chất độc, do vậy khi rác thải được đưa

vào môi trường, các chất độc sẽ xâm nhập vào đất và tiêu diệt nhiều loại sinh vật có

ích cho đất như: giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch,

nhái… làm giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây

trồng. Đặc biệt hiện nay sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong sinh hoạt và đời

sống, khi xâm nhập vào đất cần tới hơn 200 - 500 năm mới phân hủy hết (theo báo

Công an nhân dân số ra ngày 01/5/2018), do đó chúng tạo thành các “bức tường

ngăn cách” trong đất, hạn chế mạnh đến quá trình phân hủy, tổng hợp các chất dinh

dưỡnng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút

[30; 34].

Người dân sống ở khu vực xung quanh các bãi xử lý CTR có thể mắc các

chứng bệnh về da liễu, phế quản, xương khớp và nhất là ung thư. Hiện tại chưa có

một số liệu chính xác đánh giá đầy đủ về sự ảnh hưởng của các bãi chôn lấp tới sức

khỏe của người liên quan đến chất thải (nhất là CTR), tuy nhiên chúng ta cũng có thể

thấy rằng họ đang phải chịu thiệt thòi rất lớn bởi những ảnh hưởng của chất thải gây ra.

Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), "trên thế giới mỗi năm có 5 triệu người chết và có

gần 40 triệu trẻ em mắc các bệnh có liên quan tới rác thải. Nhiều tài liệu trong nước và

quốc tế cho thấy, những xác động vật bị thối rữa trong hơi thối có chất amin và các

chất dẫn xuất sufua hydro hình thành từ sự phân hủy rác thải kích thích sự hô hấp của

con người, kích thích nhịp tim đập mạnh gây ảnh hưởng xấu tới những người mắc bệnh

tim mạch" [30;36]. Cũng theo tổ chức này, "tỷ lệ người mắc bệnh ung thư ở các khu

vực gần bãi chôn lấp rác thải chiếm tới 15,25% dân số. Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh ngoại

khoa, bệnh viêm nhiễm ở phụ nữ do nguồn nước ô nhiễm chiếm tới 25%" [30;36]. "Ô

nhiễm không khí do quá trình phân huỷ của rác thải cũng ảnh hưởng không nhỏ đến

sức khoẻ cộng đồng. Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ mật thiết giữa ô nhiễm

không khí do đốt rác thải với các bệnh lý đường hô hấp". [30; 36]

1.1.4. Quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp

Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý được hiểu là việc “tổ chức và điều khiển

các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [34; 317]. Trong cuộc các nguyên

12

liệu, sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát triển đồng thời cũng vứt,

thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Nền kinh tế - xã

hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm công nghiệp càng tăng

nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp trở lại đời sống của

con người, làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ

cộng đồng, đất đai bị biến thành bãi rác, làm mất cảnh quan tại các khu đô thị.

Trong lĩnh vực quản lý chất thải, những hoạt động tổ chức và điều khiển của các cơ

quan nhà nước cũng như việc tổ chức quản lý chất thải của các tổ chức, cá nhân có

liên quan, nhằm giảm bớt những tác động xấu của chất thải đối với môi trường và

sức khỏe con người được hiểu là hoạt động quản lý chất thải. Đây là tổng hợp các

biện pháp, cách thức nhằm kiểm soát quá trình phát sinh, vận chuyển, xử lý chất

thải và những ảnh hưởng, tác động của chất thải đến môi trường.

Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà nước và cộng đồng đã đưa ra các biện

pháp xử lý rác thải, đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; xây dựng hệ thống

cống ngầm thoát nước, quy định những nơi chôn rác sinh hoạt, những quy chế,

phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và quản lý rác. Chính vì vậy, những khu

dân cư tập trung và cả đến tận thôn xóm vùng nông thôn của các nước này đều có

một cảnh quan đô thị, làng xóm sạch đẹp, văn minh, con người khoẻ mạnh có ý

thức giữ gìn vệ sinh chung, đặc biệt là vấn đề vứt rác và thu gom rác. Từ những kết

quả thu gom phế liệu, rác thải, con người nhận thấy họ có thể tái chế các nguyên

liệu phế thải thành các sản phẩm tiêu dùng mới vừa tiết kiệm bãi rác vừa tăng sản

phẩm xã hội. Từ cách thức thu gom, phân loại chất thải đã đem lại nhiều kết quả

cho cuộc sống của con người như: Môi trường sống không bị ô nhiễm, giảm diện

tích chôn rác, đem lại nguồn lợi kinh tế, thu nhập cho lao động xử lý rác.

Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả CTRTKCN), trên thế

giới hiện có ba phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không giống nhau. Đó là

phương thức quản lý cuối đường ống sản xuất, phương thức quản lý dọc theo đường

ống sản xuất và phương thức quản lý nhấn mạnh vào khâu tiêu dùng. Ưu điểm của

quản lý chất thải cuối đường ống sản xuất là thuận tiện, ít chi phí về tài chính và tiết

kiệm thời gian, nhưng phương thức này lại không tạo được sự chủ động trong

phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Theo phương thức này, vấn đề quản lý chất thải

13

chỉ đặt ra khi chất thải đã phát sinh tại nguồn thải, nên hiệu quả quản lý tuỳ thuộc

chủ yếu vào công đoạn xử lý chất thải. Nếu công đoạn này không được thực hiện tốt

thì việc phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực của chất thải hầu như

không thực hiện được. Ngược lại, phương thức quản lý chất thải dọc theo đường

ống sản xuất lại khắc phục được hạn chế này. Nó đảm bảo chất thải được kiểm soát

tại từng công đoạn của quy trình sản xuất, nên nếu có vấn đề phát sinh tại bất kỳ

công đoạn nào cũng có thể được xử lý mà không bị phụ thuộc vào hiệu quả hoạt

động của riêng một công đoạn như phương thức quản lý cuối đường ống. Cùng với

hai phương thức này, hiện nay, một số quốc gia, chủ yếu là các nước phát triển đã

bắt đầu tiếp cận với phương thức quản lý chất thải nhấn mạnh vào khâu tiêu dùng.

Phương thức này cho phép các loại chất thải được quản lý trên cơ sở nâng cao nhận

thức của người tiêu dùng để khuyến khích họ lựa chọn những sản phẩm thân thiện

với môi trường, qua đó khuyến khích các DN hướng tới sản xuất các sản phẩm đó

để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Ở nước ta, theo thống kê hàng năm có: Hơn 60 triệu tấn rác, trong đó rác thải

trong khu công nghiệp khoảng 15,4 triệu tấn. Như vậy, tại Việt Nam nếu chúng ta

thực hiện được việc quản lý, thu gom, phân loại và tái chế số lượng chất thải khổng

lồ này thì sẽ góp phần không nhỏ làm tăng ngân sách nhà nước và tăng lượng sản

phẩm xã hội. Nhưng để làm được việc này một mặt chúng ta cần xây dựng cơ chế

quản lý chất thải, trong đó có CTRTKCN, một mặt đưa ra những biện pháp nhằm

phát huy tinh thần hợp tác của quần chúng nhân dân.

Theo thông tư số 35/2015/TT-BTNMT, tại chương 3, điều 11 có thể hiện:

“Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KCN phải phân loại CTRTT, chất thải y

tế và CTNH; tự xử lý hoặc ký hợp đồng thu gom, xử lý với đơn vị có đủ điều kiện

theo quy định của pháp luật” và “Bùn cặn của nhà máy xử lý nước thải tập trung, hệ

thống thoát nước của KCN và các cơ sở trong KCN phải được thu gom, vận chuyển

và xử lý hoặc tái sử dụng theo quy định của pháp luật về quản lý bùn thải”.

Ngoài ra trong một số văn bản khác như: chương 1 điều 3 khoản 15 Luật

BVMT 2014; Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều chỉnh chiến lược

quốc gia về quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Chỉ thị

số 23/2015/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác quản lý CTR

14

tại các khu đô thị và công nghiệp;… cũng đưa ra các định nghĩa về quản lý CTR;

nhất là tại chương 9 Luật BVMT 2014 có đề cập đến vấn đề quản lý chất thải. Theo

đó ta có thể hiểu:

Quản lý CTRTKCN tại Hà Nội hiện nay phải bao gồm các hoạt động: phân

loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý, tiêu hủy các loại

CTRTKCN. Hoạt động quản lý CTRTKCN bao gồm các hoạt động: quy hoạch

quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở quản lý CTR, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu

trữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTR nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu

những tác động có hại đối với môi trường và sức khỏe của con người. Cuối cùng là

các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong quá trình quản lý

CTRTKCN.

Qua khái niệm này ta thấy quản lý CTRTKCN hiện nay ở nước ta được thể

hiện ở các khía cạnh sau:

* Chủ thể thực hiện quản lý CTRTKCN.

Cũng giống như hoạt động quản lý chất thải nói chung, CTNH hay chất thải

y tế nói riêng, quản lý CTRTKCN được thực hiện bởi hai nhóm chủ thể là nhà nước

và các tổ chức, cá nhân.

Nhà nước thực hiện quản lý CTRTKCN thông qua hoạt động của các cơ

quan quản lý nhà nước về BVMT. Đây là hệ thống cơ quan được tổ chức từ Trung

ương đến địa phương, chịu trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức thực hiện và giám sát

thực hiện các hoạt động quản lý CTRTKCN của các tổ chức, cá nhân trong xã hội,

nhằm đạt đến những mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Hoạt động của hệ thống các cơ

quan này giữ vai trò quan trọng quyết định hiệu quả quản lý CTRTKCN trên thực

tế. Không giống với các lĩnh vực khác, các vấn đề về quản lý chất thải, trong đó có

CTRTKCN thường dẫn đến sự mâu thuẫn lợi ích giữa lợi ích trước mắt và lợi ích

lâu dài; giữa lợi ích của từng tổ chức, cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng. Vì

thế, khó có thể trông chờ vào sự tự giải quyết của các bên mà cần có sự can thiệp

mạnh mẽ mang tính tổ chức quyền lực. Không chủ thể nào có thể đảm nhiệm được

vai trò này tốt hơn Nhà nước, với quyền lực và sức mạnh cưỡng chế của nó. Cùng

với Nhà nước, quản lý CTRTKCN còn được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân

trong xã hội. Đó là các chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, chủ xử lý

15

CTRTKCN; cộng đồng dân cư. Nhóm chủ thể này thực hiện quản lý CTRTKCN

thông qua việc áp dụng các biện pháp để giảm thiểu CTRTKCN, phân loại, thu

gom, xử lý, tái chế CTRTKCN, hay giám sát việc thực hiện quản lý CTRTKCN của

các chủ nguồn thải… Hiệu quả quản lý CTRTKCN cũng phụ thuộc không nhỏ vào

mức độ và khả năng thực hiện các hoạt động quản lý của nhóm chủ thể này.

* Mục đích quản lý CTRTKCN

Mục đích của quản lý chất thải nói chung và CTRTKCN nói riêng là phòng

ngừa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, khắc phục ô

nhiễm và phục hồi môi trường. Nếu vì những lý do khác nhau mà tình trạng ô

nhiễm môi trường vẫn xảy ra thì việc tiến hành các biện pháp khắc phục tình trạng ô

nhiễm, khôi phục lại môi trường đã bị ô nhiễm cũng là mục đích của quản lý

CTRTKCN.

* Nội dung của quản lý CTRTKCN.

Nội dung của quản lý CTRTKCN mà chủ thể thực hiện phải phù hợp với

từng giai đoạn cụ thể của quá trình quản lý. Có thể thực hiện việc quản lý từ giai

đoạn đầu tiên của hoạt động phát thải CTRTKCN là quản lý tại nguồn. Ở giai đoạn

này chủ thể quản lý phải nắm bắt toàn bộ các thông tin về CTRTKCN như: Thông

tin về số lượng nguồn phát sinh, lượng phát sinh, thành phần của CTRTKCN phát

sinh. Sau đó là giai đoạn thu gom, vận chuyển. Sau khi CTRTKCN được phân loại,

giảm thiểu tại nguồn sẽ được chuyển đến khu xử lý, đến trạm trung chuyển hoặc đến

nơi tạm giữ CTRTKCN. Đến giai đoạn cuối là xử lý và tiêu hủy CTRTKCN. Sau giai

đoạn này một số CTRTKCN sau khi tái chế được vận chuyển đến nơi sử dụng, phần

còn lại sau khi xử lý được đem thiêu hoặc chôn lấp.

Từ khái niệm trên ta thấy để quản lý CTRTKCN thì cần phải: Có nguồn đầu

tư, tập trung nguồn lực, khoa học kỹ thuật và nguồn tài chính lớn để xử lý, loại bỏ

hoàn toàn các đặc tính nguy hại của CTNH như: dễ cháy, dễ nổ, dễ lây nhiễm… để

biến nó thành CTRTT. Còn đối với công tác quản lý CTNH từ các khâu phân loại,

thu gom, bảo quản, vận chuyển, xử lý, tiêu hủy đều đòi hỏi nghiêm ngặt về công

nghệ và kỹ thuật. CTNH phải được xử lý tuỳ theo tính chất và thành phần của từng

loại CTNH. Không thể xử lý hoặc tiêu hủy tất cả các loại CTNH phát sinh chỉ bằng

một công nghệ. CTNH có những đặc tính lý hoá hoặc sinh học đòi hỏi phải có

16

phương tiện vận chuyển và quy trình đặc biệt để xử lý nhằm tránh những rủi ro đối

với môi trường và sức khoẻ con người.

* Đối với quản lý CTNH đòi hỏi các chủ thể phải có một trình độ chuyên

môn nhất định để nhận biết, kiểm soát và xử lý. Đáp ứng yêu cầu này là rất khó bởi

không phải bất cứ Chủ nguồn thải nào cũng có đủ trình độ để nhận biết CTNH.

1.2. Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu

công nghiệp

1.2.1. Quan niệm về pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp

So với các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật môi trường là một lĩnh vực khá

mới mẻ trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Các nhà luật học

Australia, một trong những quốc gia tiên phong trong BVMT bằng pháp luật đã

đánh giá rằng, không dễ dàng định nghĩa chính xác phạm vi của Luật môi trường

như chúng ta có thể làm với Luật hợp đồng hay Luật về các vi phạm ngoài hợp

đồng. Những lĩnh vực đó đã được định hình vững chắc bởi kinh nghiệm và án lệ

qua nhiều thế kỷ. Trong lúc đó, luật môi trường, nói một cách khái quát nhất, vẫn

còn trong thời kỳ thơ ấu của nó, được nảy sinh chủ yếu bằng các hoạt động lập pháp

của thế kỷ XX hơn là thông qua quá trình xử lý các nguyên tắc pháp lý thường

xuyên được tôi luyện, gọt rũa trong các tòa án. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy

luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp

luật điều chỉnh những mối quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình con người khai

thác, sử dụng hay tác động đến một hoặc một vài yếu tố khác nhau của môi trường,

trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh, nhằm bảo vệ một cách hiệu quả môi

trường sống của con người. Theo cách hiểu đó, hệ thống pháp luật môi trường được

xây dựng và thực hiện không chỉ nhằm bảo đảm sự trong lành của môi trường, bảo

vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng

xấu đến sức khoẻ con người và môi trường từ các loại chất thải [32; 40].

Khái niệm "quản lý chất thải" được hiểu là tổng thể các hoạt động gồm phân

loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải... Trong xã

hội hiện đại, việc đề cao ý thức BVMT và quản lý chất thải sao cho hợp lý, hiệu quả

ngày càng được chú trọng. Thay cho những quy định còn sơ sài về nội dung này

17

trong luật BVMT năm 1993, Luật BVMT năm 2005 và Luật BVMT 2014 được

đánh giá là đã có những "bước tiến vượt bậc" trong vấn đề quản lý chất thải.

Tại chương 1, điều 3, khoản 15 Luật BVMT 2014 định nghĩa: “Quản lý chất

thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển,

tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải.”

Theo đó: Hoạt động quản lý CTR bao gồm các hoạt động quy hoạch, quản lý

đầu tư xây dựng cơ sở quản lý CTR, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ, vận

chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTR nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác

động có hại đối với môi trường sống và sức khoẻ con người.

Trong hệ thống văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành đã đề

cập rất nhiều đến pháp luật về quản lý CTR nhất là quản lý CTRTKCN vì vậy ta

có thể thấy được tầm quan trọng của việc quản lý CTRTKCN. Do đó dựa vào các

định nghĩa nêu trên ta có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật về quản lý

CTRTKCN như sau:

Pháp luật về quản lý CTRTKCN là một hệ thống nguyên tắc, các quy phạm

pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể phát sinh CTRTKCN với cơ

quan quản lý nhà nước và với nhau để thực hiện liện tục các hoạt động phân loại,

thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn

nhằm bảo vệ, tái tạo môi trường và bảo đảm nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Như vậy pháp luật về quản lý CTRTKCN gồm các nguyên tắc và chế định

sau đây:

1.2.1.1. Các nguyên tắc của pháp luật quản lý CTRTKCN

Là một bộ phận của pháp luật môi trường, ngoài những nguyên tắc chung

(nguyên tắc đảm bảo quyền được sống trong một môi trường trong lành, nguyên tắc

phòng ngừa, nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất trong quản lý môi trường, nguyên

tắc PTBV) pháp luật quản lý chất thải còn có bốn nguyên tắc đặc thù sau:

Nguyên tắc chi phí - lợi ích. Theo nguyên tắc này, tất cả các hoạt động quản

lý chất thải bằng pháp luật phải được thực hiện trên cơ sở cân nhắc giữa chi phí để

phục hồi môi trường, phục hồi sức khỏe con người,… với những lợi ích kinh tế từ

việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý, tiêu hủy chất thải.

18

Nguyên tắc hạn chế phát thải. Nguyên tắc này đề cao trách nhiệm của các tổ

chức, cá nhân, đặc biệt là chủ nguồn thải đối với việc áp dụng các biện pháp kỹ

thuật trong quá trình tiến hành các hoạt động liên quan đến chất thải để hạn chế đến

mức thấp nhất lượng chất thải thải ra môi trường. Nói cách khác, đây là một trong

những nguyên tắc đề cao vai trò của chủ nguồn thải trong việc giảm thiểu chất thải

từ hoạt động của chính mình.

Nguyên tắc kiểm soát tại nguồn. Đây là nguyên tắc đảm bảo cho bất kỳ một

chất thải nào cũng đều được kiểm soát ngay từ nguồn phát thải về số lượng, trạng

thái tồn tại của nó. Kiểm soát tại nguồn là một hoạt động hết sức quan trọng, có ý

nghĩa quyết định đến các công đoạn tiếp theo của quá trình quản lý chất thải.

Nguyên tắc phối hợp, hợp tác. Nguyên tắc này đòi hỏi việc quản lý chất thải

bằng pháp luật phải được tiến hành trên cơ sở của sự phối hợp liên ngành. Có như

thế mới đảm bảo được các yêu cầu về kỹ thuật, về pháp lý và cả yêu cầu về phương

diện kinh tế của hoạt động này.

Hệ thống các quy phạm pháp luật về quản lý chất thải, trong đó có

CTRTKCN được xây dựng và thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc pháp lý cơ bản

nêu trên.

1.2.1.2. Nội dung pháp luật về quản lý CTRTKCN

Các chế định của pháp luật quản lý CTRTKCN có thể phân chia theo các

hoạt động của quá trình quản lý gồm: giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển,

tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy CTR bao gồm nhóm quy định sau;

Thứ nhất, các quy định về giảm thiểu CTRTKCN

Thứ hai, các quy định về phân loại, thu gom CTRTKCN

Thứ ba, các quy định về tái sử dụng, tái chế CTRTKCN

Thứ tư, các quy định về vận chuyển CTRTKCN

Thứ năm, các quy định về xử lý CTRTKCN

Bên cạnh đó, còn có quy định quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện các quy

định quản lý CTR nêu trên, gồm các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối

với CTRTKCN và quy định về xử lý vi phạm trong quản lý CTRTKCN.

Các chế định của pháp luật quản lý CTRTKCN còn có thể phân chia theo

mức độ ảnh hưởng xấu tới môi trường. Theo cách phân chia này, pháp luật quản lý

19

CTRTKCN bao gồm: Các quy định về quản lý CTRTT phát sinh KCN và Các quy

định về quản lý CTRNH phát sinh KCN. [19; 7]

1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp

Pháp luật về quản lý chất thải rắn khu công nghiệp có vai trò sau đây:

Thứ nhất, giảm thiểu và loại trừ nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường

Thực tế đã chứng minh, pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan

hệ xã hội, luôn có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội. Sự tác

động và ảnh hưởng đó thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng loại

đối tượng và từng quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của pháp luật

Kể từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển nhanh chóng

và vượt bậc cả về kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật ở các nước trên thế giới, các

vấn đề về ô nhiễm môi trường đã nảy sinh và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.

Ngày nay, gần như mọi quốc gia trên hành tinh dù là giàu hay nghèo, là nước phát

triển, đang phát triển hay kém phát triển,… đều đã nhận thức rõ được vai trò và tầm

quan trọng của việc phòng ngừa ô nhiễm và BVMT. Việc giải quyết các vấn đề môi

trường ngày càng được nhận thức rõ rằng không phải là vấn đề của riêng một quốc

gia hay một nhóm hưởng lợi nào mà là vấn đề của toàn thể nhân loại và đòi hỏi

trách nhiệm và sự tham gia của từng cá nhân sinh sống trên hành tinh này. Chính vì

vậy mà công tác huy động sự tham gia của các cộng đồng trong mọi hoạt động

BVMT và PTBV cũng ngày càng được nhiều chính phủ quan tâm và tăng cường.

Các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường rất đa dạng nhưng trong đó

không thể thiếu sự quản lý của nhà nước vai trò của Nhà nước là ban hành các văn

bản pháp luật, trong đó phải kể tới đó là pháp luật về quản lý CTRTKCN.

CTRTKCN sẽ đóng vai trò rất quan trọng như góp phần phát triển kinh tế nếu ta

khai thác, tái chế theo đúng quy cách, chất thải trở thành phân bón, thành nguyên

liệu để sản xuất… khi ta biết quản lý, thu gom, phân loại, tái chế nhưng cũng rất

nguy hiểm nếu chúng ta không quản lý được nó nhất là trong giai đoạn hiện nay

tình hình xả thải ngày càng nhiều do sự phát triển rất nhanh của kinh tế.

Pháp luật về quản lý CTRTKCN có vai trò quan trọng khi đặt ra những quy

định cho các chủ thể phát thải chất thải, quy định các loại phí giúp cho các chủ thể

có quyền dễ thực hiện trong việc thu lệ phí đối với các chủ thể xả, thải chất thải;

quy định rõ cách thức thu gom, phân loại, giảm thiểu, tái chế, xử lý …chất thải.

20

Ngoài ra, pháp luật còn đưa ra những hình thức xử lý cụ thể áp dụng đối với các chủ

thể khi xả thải chất thải chưa qua xử lý vào môi trường.

Cùng với sự phát triển của kinh tế, tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng, cùng

với đó là sự gia tăng dân số và nhu cầu sinh hoạt của con người nên hàng ngày con

người thải vào môi trường các loại chất thải khác nhau trong đó có CTRTKCN, vì

vậy pháp luật về quản lý CTRTKCN không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại ngày

nay, nó góp phần không nhỏ trong việc làm trong sạch môi trường, phòng ngừa,

khắc phục ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.

Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi theo chiều hướng xấu của môi trường, có

thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khoẻ con người, các loài động, thực vật

và các điều kiện sống khác; đó là “sự xuất hiện các chất lạ trong một hợp phần nào

đó của môi trường gây phương hại đến con người và các sinh vật khác” [29; tr.46].

Ô nhiễm môi trường có thể xảy ra bởi nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do

các chất gây ô nhiễm. Thông thường, các chất gây ô nhiễm là các chất thải. Vì vậy,

việc phát thải các chất thải trong đó có CTRTKCN là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi

trường, suy giảm chất lượng môi trường, đe doạ tính mạng và sức khoẻ của con người.

Thứ hai, pháp luật về quản lý CTRTKCN được quy định sẽ dần dần góp

phần nâng cao ý thức BVMT của người dân để đảm bảo cho họ được hưởng quyền

sống trong môi trường không ô nhiễm.

BVMT không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà phải được thực hiện bởi

mỗi cá nhân. Tuy nhiên, con người chỉ có thể làm được điều đó khi có nhận thức

đúng đắn về BVMT. Vì thế, trong BVMT, trình độ nhận thức của cộng đồng là yếu

tố giữ vai trò quan trọng, quyết định không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động này.

Pháp luật quản lý CTRTKCN thông qua các định hướng xử sự và chế tài của mình

đã góp phần làm thay đổi và nâng cao nhận thức của cộng đồng, nâng cao hiệu quả

BVMT ở nước ta. Hướng các chủ thể xử sự đúng theo quy định của pháp luật trong

các hoạt động phân loại, giảm thiểu, thu gom, vận chuyển, xử lý CTRTKCN. Xác

định mục tiêu cho các hoat động liên quan đến quản lý CTRTKCN của các chủ thể

là vì môi trường, vì con người và bên cạnh đó là vì lợi ích của chính họ.

Quyền được đảm bảo về chất lượng môi trường sống là một trong những

quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật

của các quốc gia trên thế giới. Ngay tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất về môi

21

trường năm 1972 tại Stockholm, trong tuyên bố của Hội nghị đã ghi nhận: “Con

người có quyền cơ bản được sống trong một môi trường có chất lượng, cho phép

cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ,

cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Sau đó 20 năm, tại Hội nghị thượng đỉnh

lần thứ hai về môi trường, Tuyên bố Rio 1992 một lần nữa khẳng định lại quyền cơ

bản này của con người trong lĩnh vực môi trường; đó là: “Con người là trung tâm

của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một

cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hoà với thiên nhiên". Tuy nhiên, thực trạng ô

nhiễm môi trường ngày một gia tăng tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có

Việt Nam đang là một thách thức không nhỏ cho việc đảm bảo quyền cơ bản này

của con người [29; 47]. Tuy nhiên trên thực tế do những nguyên nhân khác nhau

như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế kéo theo sự đô thị hoá ngày càng tăng, sự tăng lên

của dân số… đang xâm phạm đến quyền được sống trong môi trường trong lành của

con người. Vì vậy, pháp luật về quản lý CTRTKCN cần phải xác định vai trò của

mình trong công cuộc bảo vệ quyền này của con người. Pháp luật về quản lý

CTRTKCN phải thực sự là công cụ phòng ngừa ô nhiễm môi trường từ các hoạt

động có liên quan đến quản lý CTRTKCN; quy định các quy tắc xử sự mà các chủ

thể phải thực hiện khi tiến hành những hoạt động có liên quan đến phát thải chất

thải vào môi trường với các chế tài cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện; quy định

cụ thể thiết chế thực thi quản lý CTRTKCN bằng pháp luật, trong đó chức năng

nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về CTRTKCN được xác lập.

Thứ ba, pháp luật về quản lý CTRTKCN góp phần giảm các chi phí cho việc

phải tìm phương án cho việc quản lý, thu gom, vận chuyển CTRTKCN

Xét về mặt kinh tế, pháp luật về quản lý CTRTKCN được ban hành sẽ làm giảm

các chi phí cho việc phải tìm phương án cho việc quản lý, thu gom, vận chuyển

CTRTKCN do có các quy định và áp dụng các phương pháp tái chế khác nhau nên có

thể biến rác thải thành tiền. Pháp luật quản lý CTRTKCN luôn gắn kết các lợi ích kinh tế

và lợi ích xã hội với lợi ích môi trường, góp phần đảm bảo cho sự PTBV của đất nước.

Lợi ích kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các cơ sở sản xuất

kinh doanh, dịch vụ. Điều này ở nước ta càng trở nên quan trọng hơn bởi chúng ta

đang xây dựng và phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường, khi mà tất cả các

hoạt động của nó đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị, quy luật cung cầu của thị

22

trường. Chính vì thế, mục tiêu lợi nhuận có thể làm các nhà sản xuất bỏ qua những

lợi ích chung của cả cộng đồng về môi trường, đặc biệt trong điều kiện nhận thức về

BVMT của đại đa số dân chúng còn hạn chế như ở Việt Nam hiện nay. Riêng trong

lĩnh vực quản lý chất thải nói chung và quản lý CTRTKCN nói riêng, vì lợi ích kinh

tế, các nhà sản xuất sẵn sàng bỏ qua những chi phí cần thiết cho việc giảm thiểu và

xử lý chất thải từ quá trình hoạt động để tiết kiệm kinh phí, đạt mục tiêu lợi nhuận ở

mức cao nhất. Rõ ràng, trong trường hợp này, các lợi ích xã hội và lợi ích môi

trường đã bị xâm phạm và vì thế cần sự can thiệp thích hợp của nhà nước để điều

hòa các mâu thuẫn về lợi ích. Pháp luật quản lý CTRTKCN thực sự là công cụ quan

trọng để nhà nước thực hiện sự can thiệp đó.

Thông qua các quy phạm pháp luật cụ thể, pháp luật quản lý CTRTKCN gắn

kết lợi ích của các nhà sản xuất với lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng trong

việc cùng sử dụng chung những giá trị của môi trường, phòng chống ô nhiễm môi

trường. Pháp luật quản lý CTRTKCN là công cụ hữu hiệu để ràng buộc nghĩa vụ

bảo vệ các lợi ích xã hội, lợi ích môi trường của nhà sản xuất, bên cạnh đó còn tạo

những điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện nghĩa vụ của mình. Những khuyến

khích về mặt kinh tế như miễn, giảm thuế hay những ưu đãi khi thuê đất, những hỗ

trợ tài chính cần thiết khi tái chế, tái sử dụng CTRTKCN, thực hiện tốt việc giảm

thiểu CTRTKCN, đảm bảo chất lượng môi trường… sẽ làm cho các nhà sản xuất

thấy rõ lợi ích thu được từ hoạt động này, thúc đẩy họ tích cực hơn trong việc đảm

bảo các lợi ích xã hội, lợi ích môi trường.

1.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp

1.3.1 Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Con người muốn tồn tại và phát triển, tất nhiên cần phải khai thác và sử dụng

nguồn tài nguyên thiên nhiên và thải ra các chất thải. Môi trường vừa là nơi cung

cấp những gì cần thiết cho cuộc sống của muôn loài, trong đó có con người, lại

chính là nơi chứa đựng mọi thứ được thải ra. Trong tự nhiên, chu trình vật chất ấy

có thể duy trì được, nếu như mọi hoạt động, nhất là hoạt động của con người không

vượt quá khả năng cung cấp và chứa đựng của thiên nhiên

Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con

người và giới tự nhiên; con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự

nhiên. Chính Ph. Ăng-ghen cách đây gần hai thế kỷ, trong tác phẩm “Biện chứng tự

23

nhiên” khi bàn về vấn đề PTBV, ông đã cảnh báo với loài người rằng: chúng ta

không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì,

cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta.

Phát triển kinh tế bằng mọi giá mà không cân bằng sinh thái thì sẽ để lại sau lưng

những hoang mạc. Giải quyết vấn đề này, theo Ph. Ăng-ghen: "Chúng ta hoàn toàn

không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác,

như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả

xương thịt, máu mủ và đầu óc của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên. Chúng ta nằm

trong giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ

chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của

giới tự nhiên và có thể sử dụng được quy luật đó một cách chính xác." [16; 655].

Trong thời đại chúng ta, khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang

ngày càng bùng nổ đến đỉnh cao, chất lượng sống của xã hội loài người đã có những

bước tiến rõ rệt do khoa học công nghệ và năng suất lao động xã hội mang lại.

Những của cải được nhân loại tạo ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng loại

đã phần nào thoả mãn về vật chất và tinh thần của con người, đưa tới sự phát triển

nhanh của nền văn minh nhân loại. Nhưng bên cạnh đó là các vấn đề đáng lo ngại

đối với cuộc sống con người như vấn đề dân số ngày càng tăng, tốc độ đô thị hoá

ngày càng cao, môi trường ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt...

Trong một giai đoạn rất dài của phát triển kinh tế đất nước chúng ta “tôn

sùng” quan điểm “phát triển bằng mọi giá” nên vấn đề pháp luật về môi trường nói

chung và pháp luật quản lý CTRTKCN nói riêng hầu như không được quan tâm vì

vậy môi trường ngày càng bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng không được giải quyết

và không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Chất thải, nhất là CTRTKCN

không được quản lý, thu gom, vận chuyển, xử lý theo một trình tự nhất định đã dẫn

đến tình trạng môi trường ở nhiều nơi nhất là các đô thị lớn bị ô nhiễm gây tác động

xấu đến đời sống của nhân dân.

Nhưng trong giai đoạn hiện nay quan điểm “phát triển bằng mọi giá” đã

được thay thế bằng “PTBV”. Quan điểm này đã trở thành đường lối, quan điểm của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. PTBV cũng đã được đề cập tới như một

yêu cầu cấp thiết trong hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch

và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các cấp, các ngành và các lĩnh vực,

24

bên cạnh đó các chính sách pháp luật cũng như các quy định về quản lý CTRTKCN

đã được ban hành.

Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng đó của quy luật tự nhiên, Đảng ta

đã nêu rõ quan điểm PTBV: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo

vệ và cải thiện môi trường theo hướng PTBV"[1; 301].

Bên cạnh đó, kế hoạch, nhiệm vụ PTBV đã được thể hiện trong đường lối và

chính sách phát triển dài hạn, chẳng hạn Chương trình nghị sự 21 về PTBV ở Việt

Nam (VA21); lồng ghép PTBV vào các kế hoạch phát triển đất nước; thành lập hội

đồng và văn phòng PTBV từ trung ương đến địa phương, thực hiện các chương

trình nâng cao nhận thức, đào tạo, bồi dưỡng về PTBV. Đồng thời, hoàn thiện thể

chế, chính sách PTBV như xây dựng Luật BVMT sửa đổi (2014),...

Như vậy, ta có thể thấy rằng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước

ảnh hưởng rất nhiều đến pháp luật về quản lý CTRTKCN. Từ các chính sách,

đường lối của Đảng đòi hỏi Nhà nước phải ban hành pháp luật, nhất là pháp luật

môi trường trong đó có pháp luật về quản lý CTRTKCN như thế nào cho phù hợp.

Không những thế pháp luật về quản lý CTRTKCN khi được ban hành vừa phải đảm

bảo các chính sách kinh tế, xã hội vừa phải đảm bảo các yếu tố môi trường. Đảm

bảo và phát huy chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn của sự PTBV là

phải biết tận dụng nguồn chất thải có thể tái chế, tái sử dụng và phải đảm bảo tính

an toàn trong quá trình xử lý. Tính an toàn trong quá trình xử lý là phải đảm bảo:

Thiêu đốt chất thải không hoặc hạn chế phát thải vào môi trường các loại khí

thải độc hại, không tạo ra tro đốt... Vì vậy, lò nung phải từng bước đuợc trang bị các

thiết bị giám sát phát thải hiện đại để giám sát toàn bộ các phát thải khí như: HCl,

VoC, NH3, CO, NOx, SO2, H2O, O2…

Chôn lấp chất thải phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn như chất thải ở dạng rắn

hoặc sau khi đã cố định ở dạng viên được đưa vào các hố chôn lấp có ít nhất hai lớp

lót chống thấm, có hệ thống thu gom nước rò rỉ để xử lý, có hệ thống thoát khí, có

giếng khoan để giám sát khả năng ảnh hưởng đến nước ngầm.

Tái chế chất thải có thể áp dụng các công nghệ tiên tiến như: Công nghệ

Seraphin, công nghệ “Đồng xử lý” trong lò nung xi măng…để biến chất thải thành

gạch lát đường, dầu mỡ bôi trơn, phân bón hữu cơ, nhựa cao cấp…

1.3.2. Ý thức trách nhiệm của các chủ thể có liên quan và cộng đồng

25

BVMT không phải của riêng ai, không chỉ dừng ở việc ban hành pháp luật

của Nhà nước mà còn cần phải được thực hiện từ dưới lên, từ chính những người

dân. Chỉ khi huy động được cộng đồng, mà nhất là người dân cùng thấy được

lợi ích của mình thì mới có thể BVMT được... Có thể thấy rằng việc pháp luật về

quản lý CTRTKCN được thực hiện trong cuộc sống hay không là phụ thuộc phần

lớn vào ý thức của người dân. Trên thực tế, đa số người dân đều cho rằng quản lý

chất thải là của cơ quan và người có thẩm quyền, trách nhiệm chứ không phải của

họ vì vậy cho nên việc họ xả rác bừa bãi luôn xảy ra và nghĩ rằng ngày mai nó sẽ

sạch, họ luôn cho rằng sạch trước hết là sạch nhà mình. Điều này gây ra nhiều khó

khăn cho các chủ thể thu gom và quản lý chất thải.

Như vậy, vấn đề đặt ra là pháp luật được ban hành phải quy định chế tài xử

lý. Chế tài xử lý về kinh tế được áp dụng bên cạnh các biện pháp tuyên truyền vận

động để vừa thực thi đối với các trường hợp vi phạm vừa để đại đa số người dân

hiểu rằng môi trường sống của họ sẽ bị ảnh hưởng và BVMT không phải là trách

nhiêm của riêng ai mà là trách nhiệm của cả cộng đồng. Phải phát huy được sức

mạnh của nhân dân trong cuộc chiến chống lại rác thải, trong cuộc chiến BVMT.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn

lần dân liệu cũng xong”.

Bên cạnh đó, đối với DN, mục đích đầu tiên của các chủ thể kinh doanh là

lợi nhuận, cho nên họ có thể thực hiện tất cả các biện pháp miễn sao đạt được lợi

nhuận tối đa. Họ có thể tự ý bỏ qua một hoặc một vài quy định của pháp luật với

mục đích càng mất ít chi phí càng tốt.

Theo qui định của pháp luật, một DN trong quá trình thành lập có một điều

kiện là phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường để tính toán tất cả những rủi

ro có thể xảy ra đối với môi trường trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN.

Nhưng việc này còn nhiều tranh luận xung quanh vấn đề lập báo cáo đánh giá tác

động môi trường trước hay sau khi được phê duyệt dự án khả thi. Nhưng chắc chắn

là các DN không muốn thực hiện điều kiện này bởi khi thực hiện thì họ phải tính

toán vào chi phí sản xuất sản phẩm dẫn đến lợi nhuận sẽ giảm đi. Hơn nữa họ phải

xây dựng hệ thống xử lý chất thải trước khi xả, thải vào môi trường. Về vấn đề tái

chế, tái sử dụng chất thải, cũng vì lợi ích cho nên chủ các DN chỉ tái chế khi DN

mình có lợi, khi chi phí cho việc tái chế thấp.

26

Tất cả những điều này ảnh hưởng đến quá trình áp dụng và thực hiện pháp

luật về quản lý CTRTKCN, cho nên pháp luật phải đưa ra những quy định để thực

sự áp dụng một cách có hiệu quả công cụ quản lý kinh tế trong quản lý môi trường.

Cần phải áp dụng quy định về thu thuế môi trường, phí BVMT, phí phát thải chất

thải vào môi trường, hoặc có thể ra quyết định đình chỉ hoạt động của DN nếu vi

phạm môi trường. Như ở Thuỵ Điển, Pháp quy định thu thuế Cácbon đối với nhiên

liệu và phương tiện giao thông; hay tại Long An, UBND tỉnh đã từng ra quyết định

đình chỉ hoạt động của 10 DN có trụ sở tại huyện Đức Hoà, chuyên sản xuất, đun

nấu sắt thép gây ô nhiễm môi trường.

1.3.3. Trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ

Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, phát triển cho nên yếu tố trình độ

khoa học kỹ thuật cũng ảnh hưởng nhiều đến việc áp dụng và thực hiện pháp luật về

quản lý CTRTKCN. Bởi trong quá trình quản lý, thu gom, phân loại, vận chuyển,

xử lý muốn đạt hiệu quả thì không chỉ đòi hỏi sức người mà còn chủ yếu đòi hỏi sự

phục vụ của máy móc trang thiết bị. Chúng ta cũng đã nhận được sự viện trợ của

một số quốc gia về trang thiết bị, công nghệ với các dự án lớn như: sự viện trợ của

Hà Lan, Thuỵ Điển, Nhật Bản … nhưng đó chỉ được thực hiện ở một số TP lớn và

cũng là phần nhỏ so với số lượng rác thải hàng ngày ở nước ta. Hơn nữa, hệ thống

hạ tầng kỹ thuật phục vụ công tác thu gom, vận chuyển, phân loại, tái chế và xử lý

chế biến rác chưa hoàn chỉnh, năng lực và trách nhiệm quản lý CTRTKCN chưa

được quy định rõ ràng, chưa tập trung và phát huy đầy đủ ở các cấp quản lý. Bên

cạnh đó là sự thiếu hụt các chuyên gia trình độ cao, các kỹ thuật viên và cán bộ

chuyên môn có kinh nghiệm chuyên sâu về quản lý CTRTKCN.

Theo số liệu của Bộ Xây dựng năm 2018, hiện nay các địa phương trong cả

nước hầu hết đều đang sử dụng biện pháp chôn lấp CTR, với số lượng trung bình

một đô thị có một bãi chôn lấp, trong đó chiếm tới 85-90% là các bãi chôn lấp

không hợp vệ sinh, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao bởi mùi và nước rỉ rác.

Theo thống kê, toàn quốc hiện có tới 52 bãi rác bị xếp vào số các cơ sở gây ô nhiễm

môi trường nghiêm trọng cần được xử lý. Theo đánh giá chung, công nghệ xử lý rác

bằng phương pháp chôn lấp tuy giá thành rẻ nhưng đòi hỏi nhiều diện tích đất, trong

lúc quỹ đất hiện nay rất hạn chế. Mặt khác, phương pháp này không có khả năng

thu hồi, tái chế, sử dụng lại nguồn nguyên liệu từ rác thải và lại nảy sinh một vấn đề

27

là phải xử lý nước rỉ rác đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Đây là công việc khó

khăn, phức tạp không kém việc xử lý CTR. Việc xử lý rác thải nói chung và CTR

nói riêng vẫn là bài toán đau đầu trong quản lý đô thị và đang trở thành vấn đề bức

xúc. Rác thải ở khu vực TP Hà Nội, ngoài việc xử lý bằng biện pháp chôn lấp

truyền thống, cũng đã có Nhà máy rác thải Cầu Diễn. Tuy nhiên, nhà máy này công

suất nhỏ, chỉ có thể đáp ứng khoảng 20% nhu cầu của khu vực nội thành, chưa kể

vùng ven đô với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ, lượng rác ngày một nhiều thêm. Thực

trạng đó đòi hỏi TP và các ngành cần đưa ra phương pháp xử lý chất thải đạt hiệu

quả hơn.... [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Trên thế giới việc áp dụng công nghệ hiện đại vào quá trình quản lý chất thải

được áp dụng từ rất lâu như: Thuỵ Điển. Từ những năm 1990, Thụy Điển áp dụng

các biện pháp nhằm đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên chất thải đã mang lại những

kết quả đáng kể. Việc phân loại chất thải tại nguồn tăng lên và những thay đổi trong

công tác xử lý chất thải đã làm giảm việc chôn lấp chất thải và tăng tái chế, xử lý

sinh học và thiêu đốt để thu hồi năng lượng. Do đó năng lượng và các vật liệu được

thu hồi đã tăng lên rõ rệt. Những biện pháp quản lý chất thải được đưa ra đã làm

giảm tác động môi trường. Phát thải khí nhà kính và các chất nguy hại như các kim

loại nặng và chất ô nhiễm hữu cơ cũng giảm xuống.

Tại Đức, ngành công nghiệp chất thải ở Đức sử dụng hơn 200.000 lao động

với mức doanh thu mỗi năm hơn 50 tỷ Euro. Trong vài năm tới, sẽ không cần phải

xây dựng các bãi chôn lấp mới mà ngược lại hầu hết các bãi chôn lấp sẽ phải đóng

cửa. Nhìn chung, mỗi năm khoảng 50 triệu tấn chất thải đô thị (không chỉ của riêng

các hộ gia đình) được phát sinh. Hiện nay, khoảng một nửa lượng chất thải loại này

đã được tái chế; trong khi đó vào năm 1990, tỷ lệ tái chế chỉ khoảng 12%. Khảo sát

các dòng chất thải chính, Đức tái chế 2/3 chất thải là giấy (13,2 triệu tấn/năm) và

87% thuỷ tinh thải (2,7 tấn/năm). CTR đô thị (46,6 triệu tấn/năm), thu hồi (27,6

triệu tấn/năm), xử lý (19 triệu tấn/năm), thiêu đốt (10,2 triệu tấn/năm), chôn lấp trực

tiếp (8,7 triệu tấn/năm). Từ tháng 6/2005, chôn lấp trực tiếp là bất hợp pháp. [nguồn

http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Như vậy, có thể thấy việc áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào quản lý

chất thải là điều hết sức cần thiết. Công nghệ được áp dụng sẽ đem lại rất nhiều lợi

ích cho các quốc gia. Vì vậy có thể khẳng định rằng ở việt Nam thực sự cần phải

28

đưa khoa học công nghệ hiện đại vào trong quá trình quản lý chất thải. Đối với các

công đoạn của quá trình quản lý chất thải như phân loại chất thải tại nguồn nếu

được áp dụng sẽ đạt hiệu quả cao; thu gom, vận chuyển chất thải nếu có công nghệ

hiện đại sẽ giảm bớt nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do vương vãi chất thải trong

khi vận chuyển; đối với xử lý chất thải nếu áp dụng công nghệ hiện đại sẽ tạo điều

kiện cho việc chất thải được tái chế và sử dụng lại nhiều hơn, tạo điều kiện cho

ngành kinh tế rác thải phát triển, tăng qũi đất, giảm nguồn đầu tư từ ngân sách nhà

nước và đảm bảo cho cuộc sống người dân xung quanh khu chôn lấp, xử lý chất

thải. Tuy nhiên chúng ta không thể đảm bảo việc áp dụng một cách đồng bộ công

nghệ tiên tiến như các quốc gia khác, mà phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, một

nước đang phát triển. Bên cạnh đó chúng ta cần áp dụng cách biện pháp như đầu tư

phải đúng, phải phát huy được hiệu quả của công cụ, phương tiện; đầu tư phải xem

xét trên khía cạnh vị trí địa lý, địa bàn dân cư, trình độ dân trí, trình độ sử dụng các

công cụ, phương tiện hiện đại; tránh đầu tư giàn trải, không đem lại hiệu quả.

Tiểu kết chương 1

Chất thải, trong đó có CTRTKCN, dưới nhiều dạng thù hình khác nhau, đã

và đang tác động đến môi trường tự nhiên và sức khỏe của cộng đồng. Việc quản lý

chất thải đã được luật hóa ở hầu khắp các quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu.

Ở Việt Nam ta, pháp luật về quản lí chất thải, đặc biệt là CTRTKCN, đang ngày

càng được quan tâm và hiểu rõ hơn. Theo đó, pháp luật về quản lý CTRTKCN ngày

càng thể hiện được tầm quan trọng cũng như vai trò của mình trong công cuộc

BVMT và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, để pháp luật về quản lý

CTRTKCN được hoàn thiện và triệt để thi hành thì vẫn còn đó khá nhiều các yếu tố

tác động tới nó như: sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ý thức trách nhiệm của

các chủ thể liên quan cũng như của cộng đồng, trình độ khoa học kỹ thuật của thời

đại,… Do đó, để nhìn nhận, tìm hiểu một cách thấu đáo, cặn kẽ về những khó khăn,

khúc mắc đối với pháp luật về quản lý CTRTKCN, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu thực

trạng áp dụng pháp luật trong công tác quản lý CTRTKCN ngay tại Hà Nội sau đây,

để từ đó tìm ra được cách thức giải quyết vấn đề cho phù hợp nhất.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN

TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2.1. Tình hình sản xuất công nghiệp ở Hà Nội

2.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên của thành phố Hà Nội

Hà Nội là thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm

đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về

giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển,

kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô

cho muôn đời, Hà Nội đã chứng kiến sự thăng trầm của hầu hết các triều đại phong

kiến Việt Nam từ Lý - Trần - Lê - Nguyễn… kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán,

trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc. Cho đến nay, cùng với TP Hồ Chí Minh,

Hà Nội là một trong hai đầu tàu về kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước.

Hà Nội hiện nay có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến

106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên - Vĩnh Phúc ở phía Bắc;

Hà Nam - Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang - Bắc Ninh - Hưng Yên ở phía Đông

và Hòa Bình - Phú Thọ ở phía Tây.

Về diện tích đất tự nhiên; thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X)

và Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29

tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm

2008, toàn bộ hệ thống chính trị của TP Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành

chính Thủ đô bao gồm: TP Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc

và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở

rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào

tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2

triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp quận,

huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn. Hà Nội hiện nay vừa có núi, có đồi và địa

hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, trong đó đồng bằng chiếm tới

¾ diện tích tự nhiên của TP Độ cao trung bình của Hà Nội từ 5 đến 20 mét so với mặt

nước biển, các đồi núi cao đều tập trung ở phía Bắc và Tây. Các đỉnh cao nhất là Ba Vì

30

1.281 mét; Gia Dê 707 mét; Chân Chim 462 mét; Thanh Lanh 427 mét và Thiên Trù 378

mét…Khu vực nội đô có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.

Về thủy văn, Hà Nội được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng

của vùng địa lí TP Hà Nội là “TP sông hồ” hay “TP trong sông”. Nhờ các con sông

lớn nhỏ đã chảy miệt mài hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ

phì nhiêu này. Hiện nay, có 7 sông chảy qua Hà Nội: sông Hồng, sông Đuống, sông

Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Trong đó, đoạn sông Hồng chảy

qua Hà Nội dài tới 163km (chiếm 1/3 chiều dài của con sông này chảy qua lãnh thổ

Việt nam). Trong nội đô ngoài 2 con sông Tô Lịch và sông Kim ngưu còn có hệ

thống hồ đầm là những đường tiêu thoát nước của Hà Nội. Ở thế kỉ trước có trên

100 hồ lớn nhỏ, phần nhiều là hồ đầm tự nhiên, là vết tích của những khúc sông

chết để lại một số hồ nhân tạo, cải tạo các cánh đồng lầy thụt thành hồ. Hiện nay, dù

phần lớn đã bị san lấp lấy mặt bằng xây dựng, đến nay vẫn còn tới hàng trăm hồ

đầm lớn nhỏ được phân bổ ở khắp các phường, xã của thủ đô Hà Nội. Nổi tiếng

nhất là các hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Quảng Bá, Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu,

Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô, Suối Hai… Những hồ đầm

này của Hà Nội không những là một kho nước lớn mà còn là hệ thống điều hòa

nhiệt độ tự nhiên làm cho vùng đô thị nội thành giảm bớt sức hút nhiệt tỏa nóng của

khối bê tông, sắt thép, nhựa đường và các hoạt động của các nhà máy… Hồ đầm

của Hà Nội không những tạo ra cho TP khí hậu mát lành - tiểu khí hậu đô thị mà

còn là những danh lam thắng cảnh, những vùng văn hóa đặc sắc của Thăng Long -

Hà Nội.

Về khí hậu, thời tiết, Hà Nội nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Hà

Nội có đặc trưng nổi bật là gió mùa ẩm, nóng và mưa nhiều về mùa hè, lạnh và ít

mưa về mùa đông; được chia thành bốn mùa rõ rệt trong năm: Xuân, Hạ, Thu,

Đông. Mùa xuân bắt đầu vào tháng 2 (hay tháng giêng âm lịch) kéo dài đến tháng 4.

Mùa hạ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, nóng bức nhưng lại mưa nhiều. Mùa thu bắt

đầu từ tháng 8 đến tháng 10, trời dịu mát, lá vàng rơi. Mùa đông bắt đầu từ tháng 11

đến tháng 1 năm sau, thời tiết giá lạnh, khô hanh. Ranh giới phân chia bốn mùa chỉ

có tính chất tương đối, vì Hà Nội có năm rét sớm, có năm rét muộn, có năm nóng

kéo dài, nhiệt độ lên tới 40°C, có năm nhiệt độ xuống thấp dưới 5°C. Hà Nội quanh

31

năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời khá dồi dào. Tổng lượng bức xạ trung

bình hàng năm khoảng 120 kcal/cm², nhiệt độ trung bình năm 24,9°C, độ ẩm trung

bình 80 - 82%. Lượng mưa trung bình trên 1700mm/năm (khoảng 114 ngày

mưa/năm). Trong lịch sử phát triển, Hà Nội cũng đã nhiều lần trải qua các biến đổi

bất thường của khí hậu - thời tiết. Tháng 5 năm 1926, Hà Nội chứng kiến một đợt

nắng khủng khiếp có ngày nhiệt độ lên tới 42,8oC. Tháng 1 năm 1955, mùa đông

giá buốt nhất trong lịch sử, Hà Nội sống trong cái giá lạnh xuống đến 2,7oC. Và gần

đây nhất tháng 11 năm 2008, sau khi vừa mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội hứng

chịu một cơn mưa dữ dội chưa từng thấy. Hầu như tất cả các tuyến phố đều ngập

chìm trong nước, lượng mưa lớn vượt quá mọi dự báo đã gây ra một trận lụt lịch sử

ở Hà Nội, làm nhiều người chết, gây thiệt hại vật chất đáng kể.

[nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.1.2. Hà Nội với việc phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế của mình

Nghị quyết 15/2008/NQ-QH12 (ngày 29/5/2008) của Quốc hội (khóa XII) về

điều chỉnh địa giới hành chính TP Hà Nội và một số tỉnh có liên quan đã đặt dấu

mốc lịch sử, mở ra nhiều tiềm năng, cơ hội và không gian để Thủ đô phát triển. Với

quy mô diện tích 3.344km2 (gấp 3,63 lần so trước khi mở rộng), dân số tăng gấp 1,5

lần, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm gần 68%, hơn 1.350 làng nghề

truyền thống, hơn 5.900 di tích lịch sử, nhiều di sản văn hóa đặc sắc của văn hóa

Thăng Long, văn hóa xứ Đoài và nhiều vùng văn hóa khác…, Hà Nội có nhiều tiềm

năng, điều kiện để thực hiện cơ cấu lại không gian kinh tế - xã hội, gia tăng nguồn

lực về kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nền tảng để phát triển đồng bộ, toàn diện hơn.

Tuy vậy, những khó khăn, thách thức đặt ra rất lớn, bởi quy mô diện tích, dân số,

đơn vị hành chính tăng nhiều; điều kiện địa lý, dân cư, văn hóa khác biệt; kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội chưa phát triển, hầu hết các đơn vị hợp nhất về Hà Nội còn khó

khăn, chưa có xã nào đạt chuẩn nông thôn mới. Đó là chưa kể tới những xáo trộn về

tâm lý, tình cảm của cán bộ, người dân trước sự thay đổi lớn…

Ý thức sâu sắc và đầy đủ trách nhiệm trước Trung ương và cả nước, với tinh

thần tất cả vì sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô, mười năm qua, Đảng bộ,

chính quyền và nhân dân Hà Nội đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách,

biến tiềm năng, thế mạnh thành những kết quả to lớn, tạo chuyển biến rõ nét trên

32

các lĩnh vực. Trước tiên là tiến hành hợp nhất tổ chức bộ máy, sắp xếp bố trí cán bộ

trong hệ thống chính trị. Nguyên Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Công Soái cho biết:

Thời điểm sau hợp nhất, tổng biên chế hành chính, sự nghiệp của Hà Nội tăng từ

57.000 người lên 102.700 người. Sau khi sáp nhập, có cơ quan có đến 13 lãnh đạo,

còn “bình quân” mỗi sở có từ sáu đến tám phó giám đốc.

Với số lượng cán bộ đông như vậy, để bộ máy vận hành hiệu quả, không

chồng chéo thật sự là thử thách lớn. Nhưng bằng cách làm chủ động, bài bản, nhất

là hoàn toàn công tâm, khách quan, lấy yêu cầu công việc và chất lượng cán bộ làm

thước đo, kiên quyết tránh tư tưởng cục bộ địa phương, công tác cán bộ đã được

thực hiện tốt, tạo sự đồng thuận cao trong cả hệ thống chính trị. Trước thực trạng

đội ngũ cán bộ lãnh đạo có số lượng lớn, nhất là cấp phó các sở, ban, ngành, lãnh đạo

TP đã coi công tác luân chuyển cán bộ là khâu trọng tâm, đột phá nhằm sắp xếp lại đội

ngũ. TP không tăng biên chế cho các sở, ngành, nhưng cho phép bổ sung biên chế cho

cấp huyện thuộc địa bàn Hà Tây (cũ) để thực hiện tốt yêu cầu trong tình hình mới. Sự

đoàn kết, đồng thuận trong hệ thống chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo từ TP đến cơ

sở thông suốt đã giúp việc thực hiện các nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.

Với vai trò là một đầu tàu kinh tế của cả nước, nhiệm vụ đặt ra cho Hà Nội là

bảo đảm duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đồng thời huy động các nguồn lực

đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô. Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Mạnh

Quyền chia sẻ: Giải pháp quan trọng xuyên suốt được TP thực hiện trong 10 năm

qua là thiết lập môi trường đầu tư minh bạch, an toàn và thân thiện, để thu hút

nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo động lực thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội. TP tập trung rà soát thủ tục hành chính (TTHC) của các sở,

ban, ngành, trên cơ sở đó, cắt giảm, phối hợp liên thông các thủ tục. Thí dụ rút ngắn

thời gian thực hiện TTHC trong công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển

mục đích sử dụng đất còn 12 ngày; thời gian cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất từ 30 ngày xuống còn 14 ngày, thời gian các DN thực hiện đăng ký kinh doanh

qua mạng được rút ngắn từ ba ngày xuống còn hai ngày làm việc (giảm ba ngày so

với năm 2008).

TP luôn đồng hành cùng DN trong việc tiếp cận các nguồn lực cho hoạt động

đầu tư, sản xuất kinh doanh: tiếp cận đất đai, điện năng, tiếp cận thị trường, tiếp cận

33

khoa học công nghệ, chăm lo đời sống của công nhân trong các KCN. Sự thay đổi

tích cực trong môi trường đầu tư được các DN phấn khởi đón nhận. Với cách làm

đó, giai đoạn 2008 - 2017, tổng đầu tư xã hội của Hà Nội đạt 2,03 triệu tỷ đồng,

tăng trung bình 15,21%/năm; trong đó, năm 2017, vốn đầu tư xã hội đạt 308.219 tỷ

đồng, gấp 2,85 lần so với năm 2008. Thu hút 3.237 dự án đầu tư trực tiếp nước

ngoài, với vốn đăng ký đạt 19,1 tỷ USD, riêng hai năm 2016, 2017 và sáu tháng đầu

năm 2018, thu hút được 12 tỷ 460 triệu USD, bằng 59% tổng số vốn đầu tư nước

ngoài đã thu hút từ năm 1986 đến 2015, đưa Hà Nội dẫn đầu cả nước về thu hút vốn

FDI. [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Sau khi hợp nhất, không gian kinh tế của Hà Nội được mở rộng. Để thúc đẩy

cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, đạt hiệu quả cao, trong lĩnh vực

công nghiệp, TP hoàn thiện cơ sở hạ tầng và hiện nay đã lấp đầy 9/24 KCN, 14

CCN; tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ,

công nghiệp công nghệ cao; thúc đẩy sản xuất tại 1.350 làng nghề để nâng cao thu

nhập của người dân. Những yếu tố nêu trên giúp kinh tế Thủ đô tiếp tục tăng trưởng

nhanh, bình quân đạt 7,41%/năm, TP giữ vững vị thế đầu tàu trong vùng Thủ đô,

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, hằng năm

đóng góp 51,1% GRDP của vùng và 16,46% GDP của cả nước; thu ngân sách bằng

54,1% của vùng và 19,05% của cả nước...

Để cơ cấu lại không gian kinh tế - xã hội, TP đã huy động mọi nguồn lực thực

hiện công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tạo sự khởi sắc cho

diện mạo TP Sau khi Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến

năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, TP đã nhanh chóng lập các quy hoạch

chuyên ngành, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và các quy chế quản lý quy

hoạch kiến trúc, làm cơ sở mở rộng không gian đô thị về nhiều hướng.

Các công trình hạ tầng giao thông được mở mang, xây dựng, nâng tỷ lệ diện

tích đất dành cho giao thông tăng 0,28% đất đô thị mỗi năm và đến cuối năm 2017

đạt khoảng 9,2% đất đô thị. Không chỉ tập trung đầu tư mở rộng không gian đô thị,

TP rất quan tâm đầu tư cho khu vực nông thôn, bởi đây là khu vực chiếm diện tích

rất lớn và liên quan đến sinh kế, đời sống vật chất và tinh thần của quá nửa số dân

Thủ đô. Mười năm qua, TP đã hỗ trợ khu vực nông thôn khoảng 18 nghìn tỷ đồng,

34

trong đó riêng đối với 14 huyện, thị xã của Hà Tây (cũ) và huyện Mê Linh là hơn 13

nghìn tỷ đồng, để đầu tư hệ thống lưới điện, xây dựng hệ thống đường giao thông,

thủy lợi, trường học, bệnh viện, trạm y tế. Tập trung huy động vốn trong và ngoài

ngân sách đầu tư cho chương trình xây dựng nông thôn mới gần 43 nghìn 420 tỷ

đồng. Nhờ đó, đến nay Hà Nội dẫn đầu cả nước về công tác này với bốn huyện và

294 xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Thời điểm mới hợp nhất, nhiều ý kiến từng lo ngại, trước sự giao thoa của

hai dòng văn hóa lớn sẽ nguy cơ bị phai nhạt đi bản sắc. Nhận thức được điều này,

ngành văn hóa Hà Nội đã chủ động triển khai các biện pháp bảo tồn, phát huy các

giá trị văn hóa, trong đó, chú trọng đến văn hóa cơ sở. Các di tích, di sản lớn trên

địa bàn Hà Tây (cũ) được đầu tư tu bổ, tôn tạo. Các di tích: chùa Thầy, chùa Tây

Phương, đình Tây Đằng… được lập hồ sơ công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt. TP

đã triển khai tổng kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể, tuyên truyền, nâng cao nhận

thức của người dân địa phương về những di sản họ đang sở hữu. Thông qua cuộc

kiểm kê, những gì tinh túy nhất của văn hóa Thăng Long, văn hóa xứ Đoài được

nhận thức lại. Đó là tục kết chạ đã hàng nghìn năm giữa người dân ở khu vực chùa

Bối Khê với chùa Trăm Gian, là tiếng lóng của làng Đa Chất, là tri thức, bí quyết

làm nghề của nhiều làng nghề ở “đất trăm nghề” Hà Tây…

Ở khu vực Hà Nội, đó là việc phát huy những nghề cổ, những lễ hội trong

phố, là những nét tinh hoa của nghề chạm bạc, đúc đồng, nghề ướp trà sen hay nghề

gốm Bát Tràng. Việc hướng đến cơ sở trong công tác bảo tồn văn hóa giúp cho

mạch văn hóa của mỗi phố phường, mỗi làng quê có sự nối tiếp, tạo nên sức mạnh

mới của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, là sức hút đưa du lịch Thủ đô phát triển

vượt bậc trong những năm gần đây.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện vẫn còn một

số hạn chế khiến các tiềm năng, lợi thế chưa khai thác, phát huy hiệu quả. Mục tiêu

của việc mở rộng địa giới hành chính là giúp Thủ đô có điều kiện phát triển cả về

không gian kinh tế, hệ thống kết cấu hạ tầng, kiến trúc đô thị theo hướng văn minh,

hiện đại, khắc phục những vấn đề bất cập vì quá tải trong nội đô. Quy hoạch chung

xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 cũng thể hiện rõ chiến

lược này. Tuy nhiên, việc thực hiện xây dựng các đô thị vệ tinh còn chậm. Hiện

35

nay, đô thị vệ tinh Hòa Lạc mới hoàn thành quy hoạch 1/500, các khu đô thị vệ tinh

Sơn Tây, Sóc Sơn, Phú Xuyên mới đang được lập quy hoạch chi tiết, đô thị vệ tinh

Xuân Mai đang kêu gọi nhà đầu tư. Trong khi đó, việc kiểm soát dân số khu vực nội

thành, nhất là khu vực nội đô lịch sử còn chưa tốt, các dự án nhà ở thương mại được

đầu tư xây dựng vượt quá tốc độ phát triển hạ tầng, dẫn đến dân số trong nội đô

ngày càng tăng, gây quá tải về hạ tầng.

Về kinh tế, tuy đạt mức tăng trưởng hơn 7%/năm, nhưng quy mô và tốc độ

phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế, nhất là tiềm năng, thế

mạnh và không gian phát triển và nguồn lực đất đai, con người của Thủ đô, sau khi mở

rộng. Công nghệ, quản lý sản xuất chậm đổi mới, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp,

chưa tạo được những sản phẩm mũi nhọn, có sức cạnh tranh cao. Giám đốc Sở Công

thương Hà Nội Lê Hồng Thăng thừa nhận, mười năm qua, TP trăn trở mãi vẫn chưa có

sản phẩm công nghiệp chủ lực của kinh tế tri thức. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo

hướng tập trung, theo chuỗi chuyên canh vẫn dừng lại ở những mô hình, chưa được

nhân rộng. Việc khuyến khích các DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhất là các

khâu chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm.

Phát triển văn hóa - xã hội chưa xứng tầm với vị thế của Thủ đô và truyền

thống ngàn năm văn hiến. Văn hóa ứng xử của người dân vẫn còn nhiều lo ngại, kể

cả cán bộ các cơ quan công quyền. Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô,

song, chưa tạo nên môi trường thân thiện cho khách du lịch. Trong số nhiều nguyên

nhân của hạn chế này, có nguyên nhân chủ quan là do năng lực lãnh đạo, quản lý,

điều hành giải quyết công việc của một số cơ quan của TP chưa quyết liệt. TP còn

thiếu cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, thu hút

nhân tài, huy động nguồn lực.

Chặng đường phía trước còn không ít khó khăn, song chúng ta tin tưởng

rằng, TP Hà Nội sẽ tiếp tục tận dụng các cơ hội, phát huy những kết quả và thành

tựu to lớn đạt được, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, huy động mọi trí tuệ,

nguồn lực của Nhà nước và xã hội, tạo thế và lực mới để Thủ đô vững bước phát

triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 15 của Quốc hội (khóa

XII), đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân cả nước. [nguồn

http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

36

2.1.3. Tình hình hoạt động công nghiệp ở Hà Nội

Hà Nội là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Chính vì vậy, không có gì

ngạc nhiên khi ta thấy ở đây có rất nhiều KCN với nhịp độ sản xuất liên tục và hối

hả; có thể kể ra đây các KCN lớn như: KCN Bắc Thăng Long, KCN công nghệ cao

sinh học, KCN Nội Bài, KCN Quang Minh, KCNC Hòa Lạc,... Với vị thế của mình,

ngành công nghiệp Hà Nội luôn đạt được những thành tích đáng nể. Song bên cạnh

đó cũng còn nhiều khó khăn cản trở. Chẳng hạn trong tháng 8/2016, nhóm ngành

khai khoáng giảm 7,8% so tháng trước và đạt 20,2% so cùng kỳ năm trước; công

nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,2% và 8,2%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước

nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,3% và tăng 7,8% so cùng kỳ. Cục

Thống kê Hà Nội nhận định, sau một thời gian dài trì trệ bởi ảnh hưởng chung của

nền kinh tế tình hình sản xuất công nghiệp trong tám tháng năm 2016 tương đối ổn

định, với nhịp độ tăng trưởng luôn ở mức khả quan. Tính chung tám tháng chỉ số

sản xuất ngành khai khoáng đạt 56,3%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 7,4%; sản

xuất và phân phối điện tăng 7,6%; cung cấp nước và hoạt động thu gom xử lý rác,

nước thải tăng 1,5%. So với cùng kỳ năm 2015, một số ngành sản xuất chiếm tỷ

trọng lớn và có chỉ số sản xuất tăng cao như: sản xuất chế biến sản phẩm tăng

19,6%; sản xuất trang phục tăng 30,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng

25,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 85,7%... Bên cạnh đó, vẫn còn những

ngành chưa vượt qua được khó khăn về vốn cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như:

Sản xuất đồ uống giảm 7%; chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, vật liệu mây tre đan

giảm 35,4%... Một số sản phẩm của ngành công nghiệp trong tháng 8 tăng cao so

với cùng kỳ như: Vải dệt kim tăng 20,2%; giấy, bìa dùng để viết và in tăng 164,8%;

tủ lạnh tăng 44,1%...Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm như:

Bia các loại giảm 7,4%; thuốc trừ sâu giảm 17,2%; sản phẩm vệ sinh giảm 7,2%…

Vì thế, tại hội nghị tổng kết năm 2018 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ

năm 2019 của ngành công thương TP ngày 04/01/2019; ông Nguyễn Doãn Toản,

Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã cho biết: "Phát triển công nghiệp của Hà Nội

đang có xu hướng chững lại, so với cả nước đã có sự sụt giảm, cho nên để ngành

công nghiệp tiếp tục tăng lên là rất khó do các KCN đã được lấp đầy". Theo báo cáo

của Sở Công Thương Hà Nội năm 2018, TP Hà Nội đã hoàn thành 20 chỉ tiêu, vượt

37

kế hoạch 9 chỉ tiêu, vượt sớm 3 chỉ tiêu; chỉ tiêu xuất nhập khẩu tăng 21,6%, vượt

xa chỉ tiêu đặt ra, kim ngạch xuất khẩu khối kinh tế tư nhân tăng trưởng tốt, đặc biệt

chỉ tiêu thu ngân sách vượt 2,52%. Trong năm 2018, cung cầu hàng hóa trên địa bàn

TP khá ổn định, hàng hóa dồi dào, giá cả được kiểm soát tốt, không xảy ra hiện

tượng thiếu hàng hoặc tăng giá đột biến, nhất là trong các dịp lễ, Tết. Năm 2018,

giá trị tăng thêm của nhóm ngành dịch vụ tăng 7,23%, đóng góp quan trọng cho

tăng trưởng chung do có cơ cấu lớn (57,6%); Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán ra

doanh thu dịch vụ đạt 2,52 triệu tỷ đồng, tăng 9,5%; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và

dịch vụ xã hội đạt 509 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9%; trong đó, doanh thu bán lẻ hàng

hóa đạt 306,3 nghìn tỷ đồng, tăng 11%. Tốc độ tăng trưởng trung bình 3 năm từ

2016-2018 của tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội đạt 9,63%; trong đó

doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng trung bình 12,43%/năm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

bình quân cả năm 2018 tăng 4,22%. CPI tăng diễn ra chủ yếu từ tháng 7/2018 và do

tăng giá ở các nhóm hàng vận tải, nhà ở và vật liệu xây dựng, thuốc và dịch vụ y tế,

lương thực. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn cả năm 2018 đạt 14,23 tỷ USD, tăng

21,6%, vượt chỉ tiêu được giao (tăng 7,5-8%). Năm 2019, ngành công thương Thủ

đô đặt ra một số chỉ tiêu chủ yếu như: Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp đạt từ

130.000 - 130.300 tỷ đồng, tăng 8,6 - 8,8% so với năm 2018; kim ngạch xuất khẩu

đạt từ 15,66 - 15,73 tỷ USD, tăng 7,5 - 8% so với năm 2018. Tổng mức bán lẻ và

doanh thu dịch vụ trên địa bàn đạt từ 554,7 - 559,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9 – 10% so

với năm 2018; trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 357,7 - 361 nghìn tỷ đồng,

tăng 12 - 13% so với năm 2018. Bên cạnh đó, Sở Công Thương Hà Nội cũng chú

trọng thực hiện 8 chương trình của Thành ủy Hà Nội nhiệm kỳ 2015-2020, tiếp tục

thực hiện có hiệu quả chủ đề năm "Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ

thống chính trị". Đồng thời, chủ động tạo thêm nhiều kênh tiếp xúc, đối thoại để

nắm bắt kịp thời tình hình khó khăn của DN trên địa bàn TP; từ đó, hỗ trợ DN phát

triển sản xuất, kinh doanh.

Tuy nhiên, dù có khó khăn bộn bề nhưng Hà Nội vẫn là một đầu tàu trong

lĩnh vực kinh tế – công nghiệp của cả nước. Theo đó, năm 2018, 20 chỉ tiêu phát

triển mà TP Hà Nội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch. Trong đó, thu ngân sách vượt

dự toán, tám chỉ tiêu vượt kế hoạch. Thu hút đầu tư nước ngoài lần đầu đứng đầu cả

38

nước sau hơn 30 năm mở cửa và hội nhập. Tăng trưởng kinh tế của Hà Nội năm

2018 đạt khá, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng. GRDP tăng 8,56% và duy trì năm

sau tăng cao hơn năm trước (năm 2016 tăng 8,20%; năm 2017 tăng 8,48%); bình

quân ba năm 2016-2018 tăng 8,41%, cao hơn mức 7,3% của giai đoạn 2011-2015.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng các ngành

dịch vụ, công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. GRDP bình

quân đầu người năm 2018 đạt 4.080 USD/người, gấp 1,12 lần năm 2015. Khách du

lịch quốc tế đạt 5,74 triệu lượt, tăng 16%, về đích trước hai năm so với mục tiêu đặt

ra. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và liên kết sản xuất được khuyến khích

phát triển. An sinh xã hội được bảo đảm, tích cực hỗ trợ nhà ở cho người có công,

người nghèo và hoàn thành trước hai năm mục tiêu giảm nghèo. Riêng về công

nghiệp, chín tháng đầu năm 2018, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 7,7%,

đóng góp 1,24 điểm % vào tốc độ tăng chung. Dự kiến năm 2019, giá trị tăng thêm

ngành công nghiệp đạt 145.734 tỷ đồng, tăng 7,8% so với năm 2018. Chỉ số sản

xuất ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trên địa bàn Hà Nội

hiện có 24 KCN đang hoạt động, tổng diện tích 1.610 ha, trong đó chín KCN cơ bản

lấp đầy diện tích; 100% các KCN đi vào hoạt động đều có hệ thống xử lý nước thải.

Năm KCN đang chuẩn bị đầu tư xây dựng, tổng diện tích 817 ha. Lũy kế đến tháng

12/2018 có 640 dự án đầu tư tại các KCN. Trong đó có 327 dự án đầu tư nước ngoài

với số vốn đăng ký 5,4 tỷ USD, 313 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký

14.700 tỷ đồng. Tổng số lao động làm việc tại các KCN là 148.120 người. Sở Công

thương Hà Nội đã tham mưu trình UBND TP ban hành Quyết định thành lập năm

CCN mới với tổng diện tích 53,33 ha, tổng mức đầu tư 1.171 tỷ đồng; hoàn thành

thẩm định 15 CCN với diện tích khoảng 250 ha; đang thẩm định hồ sơ đề nghị

thành lập chín CCN, diện tích khoảng 230 ha. Ðến nay, TP Hà Nội đã có 70 CCN

đang hoạt động, diện tích là 1.337 ha với khoảng 3.100 cơ sở sản xuất đang hoạt

động; nộp ngân sách tám tháng đầu năm 2018 khoảng 631 tỷ đồng; thu hút khoảng

60 nghìn người lao động. Trong số đó, có ba CCN tập trung gồm: CCN Chương Mỹ

rộng 50 ha; CCN Sơn Tây rộng 70 ha; CCN Phúc Thọ rộng 55 ha. Ðây là điều kiện

cơ bản để phát triển làng nghề, kinh tế nông thôn và kêu gọi đầu tư phát triển các

ngành công nghiệp có lợi thế của Hà Nội. Hiện nay, xu hướng đầu tư vào các KCN,

39

CCN của Hà Nội là đầu tư công nghệ cao, công nghệ sạch, PTBV, cho nên các DN

sẽ tăng vốn đầu tư vào một đơn vị diện tích đất bằng việc tăng mật độ sử dụng đất,

đầu tư thiết bị, công nghệ cao, đầu tư dây chuyền đồng bộ; sử dụng công nghệ

thông tin trong điều hành sản xuất…, qua đó tăng hiệu quả sử dụng đất. Trước đây,

DN đầu tư từ hai đến ba triệu USD/ ha đất công nghiệp, năm 2018 đã tăng lên hơn

mười triệu USD/ha, như: Công ty Meiko (KCN Thạch Thất, Quốc Oai) mở rộng 15

ha, đầu tư 200 triệu USD; Công ty TNHH HANWHA AERO ENGINES đầu tư nhà

máy sản xuất linh kiện hàng không tại lô CN1-02B-4-8, KCN Công nghệ cao Hòa

Lạc 1, tổng mức đầu tư là 260 triệu USD, diện tích 9,7 ha…[nguồn

http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.2. Thực trạng áp dụng quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ở Hà Nội

2.2.1. Các quy định về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn trong khu

công nghiệp ở Hà Nội

Tại khoản 2, điều 86, chương 9 Luật BVMT 2014 có quy định: "chủ cơ sở

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ làm phát sinh chất thải có trách nhiệm giảm thiểu, tái

sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải hoặc chuyển giao cho cơ sở có

chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng."

Theo khoản 1, điều 4, chương 1 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP: "Tổ chức,

cá nhân có trách nhiệm tăng cường áp dụng các biện pháp về tiết kiệm tài nguyên

và năng lượng; sử dụng tài nguyên, năng lượng tái tạo và sản phẩm, nguyên liệu,

năng lượng sạch thân thiện với môi trường; sản xuất sạch hơn; kiểm toán môi

trường đối với chất thải và các biện pháp khác để phòng ngừa, giảm thiểu phát sinh

chất thải."

Còn ở khoản 1, điều 7, chương 3 của Thông tư 35/2015/TT-BTNMT có đề

cập: "Quy hoạch các khu chức năng trong khu công nghiệp phải bảo đảm giảm

thiểu ảnh hưởng của các loại hình sản xuất gây ô nhiễm với các loại hình sản xuất

khác; thuận lợi cho công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường."

Ở mục c, khoản 5 điều 1 của Quyết định số 491/QĐ-TTg cũng nêu:

"CTRCNTT phải được quản lý và kiểm soát từ nguồn thải đến phân loại, thu

gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý theo quy định;

40

Thúc đẩy tái sử dụng, tái chế CTRCNTT; ưu tiên xử lý chất thải kết hợp thu

hồi năng lượng, hạn chế tối đa lượng chất thải phải chôn lấp;

Tăng cường tái chế, tái sử dụng tro, xi, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất,

VLXD, san lấp đáp ứng yêu cầu BVMT;

Tiếp tục triển khai sản xuất sạch hơn tại các cơ sở sản xuất công nghiệp

nhằm hạn chế phát thải CTR ra môi trường."

Ở mục c, khoản 5 điều 1 của Quyết định số 491/QĐ-TTg cũng nêu:

"Rà soát, thực hiện các quy hoạch quản lý CTR vùng kinh tế trọng điểm, lưu

vực sông, quy hoạch quản lý CTR ở các địa phương, nội dung về quy hoạch CTR

trong quy hoạch đô thị có tính đến vấn đề biến đổi khí hậu, phù hợp với mục tiêu

của điều chỉnh Chiến lược;

Rà soát, điều chỉnh, lập các kế hoạch đầu tư, phát triển cơ sở xử lý CTR theo

quy định đã được phê duyệt, xác định chủ đầu tư, các dự án ưu tiên đầu tư và các

nhiệm vụ theo từng giai đoạn của quy hoạch hoặc kế hoạch của từng địa phương;

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế

hoạch quản lý CTR đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt."

Trong khi ấy, tại Hà Nội, nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất hàng ngày, hàng giờ

vẫn xả thải ra môi trường gây ô nhiễm đất, nước, không khí, ảnh hưởng tới sức khỏe

người lao động và cộng đồng dân cư. Vì vậy, vấn đề quản lý ô nhiễm công nghiệp

tại các khu, CCN là rất cần thiết, trong đó quản lý CTR, một trong những hợp phần

quan trọng của quản lý ô nhiễm môi trường công nghiệp đang được đặt lên hàng

đầu. Theo báo cáo hiện trạng môi trường TP Hà Nội năm 2019, TP Hà Nội hiện nay

có 24 KCN và 70 CCN bao gồm các lĩnh vực hoạt động như công nghiệp hóa chất,

công nghiệp dệt, thuộc da, da giày, chế biến thực phẩm, khai thác và chế biến tài

nguyên khoáng sản…. Cùng với quá trình hoạt động thì lượng CTR phát sinh không

hề nhỏ CTRCN phát sinh chủ yếu từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề,

kinh doanh, dịch vụ.... Thành phần CTRCN gồm: các phế thải nhiên liệu phục vụ

cho sản xuất, phế thải trong quá trình sản xuất công nghiệp, các bao bì vật liệu tổng

hợp đóng gói sản phẩm... Hiện nay, hoạt động sản xuất công nghiệp của TP tập

trung đa ngành nghề với nhiều loại hình như: sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí,

điện tử, điện lạnh, chế biến thực phẩm, may mặc, chế biến nhựa, da giầy. Số liệu

41

thống kê cho thấy, tổng khối lượng CTRCN trên địa bàn TP phát sinh khoảng 750

tấn/ngày, trong đó, lượng CTRTT là 646 tấn/ngày và lượng CTNH khoảng 104

tấn/ngày. Thành phần chính của CTNH công nghiệp bao gồm: Giẻ lau dính dầu mỡ,

dầu mỡ thải, bóng đèn huỳnh quang, vỏ bao bì chứa CTNH... CTNH công nghiệp

phát sinh chủ yếu tại các KCN. Các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ nằm ngoài KCN cũng là

nguồn phát sinh CTNH không nhỏ. Lượng CTNH công nghiệp chiếm khoảng 15-

20% lượng CTRCN không nguy hại. Mức độ phát sinh CTNH công nghiệp trong

các KCN tùy thuộc vào loại hình sản xuất chủ yếu. Theo số liệu thống kê năm 2018

của Sở TN&MT, tỷ lệ thu gom CTRTT (không chứa thành phần nguy hại) từ 85 -

90%, tương đương 649 – 981 tấn/ngày. Trong đó đã tiến hành xử lý khoảng 382-

405 tấn/ngày [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd].

2.2.2. Các quy định về phân loại, thu gom chất thải rắn trong khu công nghiệp ở

Hà Nội

Theo khoản 2, điều 4, chương 1 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP: "tổ chức, cá

nhân có trách nhiệm phân loại chất thải tại nguồn nhằm mục đích tăng cường tái sử

dụng, tái chế, đồng xử lý, xử lý và thu hồi năng lượng"

Theo điều 29, chương 4 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP: CTRCNTT phải

được phân định, phân loại riêng với chất thải nguy hại, trường hợp không thể phân

loại được thì phải quản lý theo quy định về chất thải nguy hại và Việc phân định,

phân loại, lưu giữ CTRCNTT phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý

theo quy định.

Theo khoản 1 và khoản 3, điều 31, chương 4 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP:

"Việc thu gom, vận chuyển, trung chuyển CTRCNTT phải bảo đảm không được

làm rơi vãi, gây phát tán bụi, mùi hoặc nước rò rỉ và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy

trình quản lý theo quy định." và "Tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển CTRCNTT

có trách nhiệm chuyển giao chất thải cho cơ sở xử lý CTRCNTT được phép hoạt

động theo quy định của pháp luật."

Thì ở Hà Nội, CTNH, có 97% các cơ sở đã ký hợp đồng vận chuyển, thu

gom, xử lý với các đơn vị có chức năng hành nghề quản lý CTNH. Tuy nhiên, đến

nay, lượng CTNH được thu gom mới đạt khoảng 62-73 tấn/ngày, chiếm 60- 70 % tỷ

lệ phát sinh và được xử lý tại khu xử lý chất thải Nam Sơn và các cơ sở xử lý khác.

42

Lượng CTNH còn lại vẫn được lưu giữ tại các cơ sở phát sinh theo đúng quy định,

do lượng không đủ lớn để đơn vị đã ký hợp đồng xử lý vận chuyển đi. Phần lớn, các

cơ sở đều thực hiện báo cáo quản lý CTNH định kỳ theo quy định. Hiện tại, còn có

rất nhiều khó khăn trong việc thu gom và xử lý chất thải công nghiệp. Một lò đốt

CTRCN theo công nghệ đốt phát điện công suất 75 tấn/ngày do tổ chức NEDO

Nhật Bản tài trợ đã đi vào hoạt động từ ngày 16/9/2016 tại khu xử lý Nam Sơn.

Theo đó sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng tồn đọng trên. Để công tác quản

lý ô nhiễm công nghiệp được hiệu quả, hàng năm Sở TN&MT Hà Nội đã tiến hành

thanh tra, kiểm tra đối với một số cơ sở hoạt động trong các khu, CCN theo kế

hoạch. Ngoài ra, Sở TN&MT lập danh sách các chủ đầu tư KCN, CCN gửi Thanh

tra Sở tổng hợp, kiến nghị Bộ TN&MT thanh tra theo quy định. Bên cạnh đó

UBND TP phối hợp với Sở Công thương, chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng CCN và

các cơ sở sản xuất công nghiệp hoạt động tại các CCN tổ chức tập huấn, đào tạo

nâng cao năng lực chuyên môn, phổ biến kế hoạch điều tra các cơ sở sản xuất công

nghiệp tại các CCN trên địa bàn TP Hà Nội. Theo Sở TN&MT Hà Nội thì: Dù còn

nhiều bất cập trong công tác thu gom và xử lý chất thải công nghiệp, nhưng qua

những con số thống kê có thể nhận thấy trong 5 năm trở lại đây, công tác thu gom,

xử lý CTCN đã được TP quan tâm, đầu tư và chỉ đạo sát sao. Hy vọng với những nỗ

lực của cơ quan quản lý nhà nước, ban quản lý hạ tầng các khu, CCN trong công tác

BVMT và ý thức chấp hành pháp luật BVMT của các nhà máy, các DN nằm trong

khu, CCN sẽ sớm góp phần giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp, đem lại môi trường

trong lành cho người dân thủ đô. [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.2.3. Các quy định về vận chuyển chất thải rắn trong khu công nghiệp ở Hà Nội

Tại chương 2, điều 8 và chương 4, điều 31 của Nghị định số 38/2015/NĐ-CP

thì: việc thu gom, vận chuyển CTRCN chỉ được phép thực hiện bởi các tổ chức, cá

nhân được cấp phép hoạt động, công việc này phải được đảm bảo an toàn tuyệt đối;

không để rơi vãi, gây phát tán, rò rỉ và phải đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, quy

trình quản lý theo quy định.

Chúng ta lại thấy ở chương 9, mục 2 và mục 3 của Luật BVMT 2014 quy

định: CTNH phải được vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp

và được ghi trong giấy phép xử lý CTNH; đồng thời chủ nguồn thải và chủ xử lý

43

CTNH phải lập hồ sơ về chất thải và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về

BVMT cấp tỉnh. Theo đó, các nhà máy, xí nghiệp hoạt động trong các khu công

nghiệp, CCN ở Hà Nội đã phải bố trí đủ và đúng quy định thiết bị thu gom để tiếp

nhận CTR phù hợp với việc phân loại tại nguồn.

Còn theo kết quả nghiên cứu mới đây của Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi

trường - Đại học Xây dựng và Công ty Môi trường đô thị thì bình quân mỗi năm TP

Hà Nội có khoảng 117,6 nghìn tấn CTCN trong đó 21 nghìn tấn (chiếm tỷ lệ 17,8%)

là thành phần nguy hại; sự gia tăng trên đã và đang tạo ra tình trạng quá tải tại cơ sở

sản xuất, một lượng rác thải không nhỏ cùng với rác thải sinh hoạt được đổ ra môi

trường xung quanh. Hiện tại, Cty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường và

Đô thị đang chịu trách nhiệm thu gom vận chuyển CTRCN của TP về khu xử lý

CTCN Nam Sơn để xử lý với khối lượng trung bình khoảng 150 - 200 tấn/ ngày

chiếm khoảng 50 - 60% lượng CTCN được thu gom. Số còn lại do một số Cty

TNHH khác kinh doanh dịch vụ thu gom vận chuyển để xử lý tái chế. Ở khu xử lý

CTCN Nam Sơn, CTNH cơ bản được xử lý bằng phương pháp đốt với công suất 5

tấn/ ngày. Khu xử lý Nam Sơn tại huyện Sóc Sơn có quy mô 140 -160 ha được quy

hoạch để xử lý CTCN cho TP Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hưng

Yên. Tuy nhiên, quy hoạch này được xây dựng trên cơ sở TP Hà Nội cũ chưa sáp

nhập với tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc vì vậy trong tương lai cần thiết phải có sự điều

chỉnh quy hoạch cho riêng thành phố Hà Nội. Hiện tại hệ thống các phương tiện vận

chuyển CTRCN nguy hại còn thiếu, dẫn đến bất cập giữa phát sinh, lưu chứa, thu

gom vận chuyển CTNH làm tăng rủi ro, nguy cơ độc hại tiềm tàng chất thải đó đối

với sức khỏe và môi trường. [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.2.4. Các quy định về xử lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ở Hà Nội

Theo khoản 1 và khoản 4 điều 87, chương 9 Luật BVMT 2014 thì:"Chủ cơ sở

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ." và "Việc thu hồi,

xử lý sản phẩm thải bỏ phải thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ."

Điều 33 của Nghị định 35/2015/NĐ-CP cũng đề cập trách nhiệm của chủ xử lý

CTRCNTT, sau đó được sửa đổi tại khoản 16 điều 3 của Nghị định 40/2019/NĐ-CP.

Ở mục c, khoản 5 điều 1 của Quyết định số 491/QĐ-TTg cũng nêu: "Ưu tiên

triển khai các hoạt động đồng xử lý CTRCNTT tại các cơ sở sản xuất."

44

Về năng lực xử lý CTNH công nghiệp ở Hà Nội thì hầu hết các dây chuyền

công nghệ tại khu xử lý đã đạt đến công suất thiết kế. Như vậy, trong những năm

tới, các công trình xử lý CTNH hiện tại sẽ không đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng

của chất thải. Việc thiếu các cơ sở xử lý CTNH tập trung đang dẫn đến việc các DN

sản xuất tự thực hiện một số biện pháp xử lý và tiêu hủy chất thải của cơ sở mình

không an toàn. Theo dự báo đến năm 2030, tổng lượng CTCN phát sinh trên địa bàn

thành phố 4.609.496 tấn/năm trong đó thành phần nguy hại là 821.963 tấn/năm

(chiếm 18%). Theo Quyết định phê duyệt quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR ba

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và miền Nam đến năm 2020 của Thủ

tướng Chính phủ thì khu xử lý rác thải Nam Sơn của Hà Nội sẽ được mở rộng đến

160ha. Về khoảng cách từ KCN đến khu xử lý chất thải Nam Sơn hiện nay và trong

tương lai thì các KCN có khoảng cách đến Nam Sơn nhỏ hơn 70 km nên đều có thể

vận chuyển CTNH đến trung tâm xử lý CTNH vùng tại Nam Sơn. Nhằm giảm thiểu

CTNH từ nguồn phát sinh thì việc quy hoạch các KCN mới cần thiết phải quan tâm

đến các chất thải của quá trình sản xuất, khả năng tái chế hay quay vòng chúng, khả

năng cung cấp nguồn nguyên liệu; nhập và sử dụng dây chuyền kỹ thuật sản xuất

tiên tiến, ít chất thải. Phát triển và xây dựng các cơ sở sản xuất các mặt hàng thân

thiện với môi trường, ít hoặc không sử dụng các nguyên liệu độc hại, đắt tiền,

không tái tạo. Quy hoạch tập trung loại hình công nghiệp theo ngành để thuận lợi

cho việc tập trung xử lý chất thải và kiểm soát chúng. Việc thiết kế các ô chôn lấp

an toàn CTNH phải được tuân thủ theo tiêu chuẩn thiết kế quốc gia và ban hành

chính sách khuyến khích thực hiện phân loại rác tại nguồn trong các KCN, KCX trên

địa bàn TP Với tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh như TP Hà Nội mở rộng

hiện nay thì công tác quản lý môi trường cần được quan tâm và đầu tư thích hợp để

ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm, đem lại môi trường sống trong lành cho nhân dân.

Bên cạnh CTRCN thì CTRXD cũng là một vấn đề mà thành phố Hà Nội

đang rất quan tâm. Bởi mỗi ngày, Hà Nội phát sinh 2.000 tấn rác thải rắn xây dựng

(trong đó CTRXD trong các KCN, CCN chiếm 25,7%). Trong khi đó, TP hiện chỉ

có 4 bãi đổ CTRXD là Nguyên Khê, Vân Nội - huyện Đông Anh, Vĩnh Quỳnh

huyện Thanh Trì và Dương Liễu - huyện Hoài Đức, không đủ để tiếp nhận khối

lượng CTRXD ngày càng tăng. Nhiều chủ đầu tư công trình xây dựng cũng tìm mọi

45

cách để giảm chi phí xử lý chất thải bằng cách đổ trộm trên đường, gây ra nhiều hệ

lụy như: ô nhiễm, bụi bẩn, tai nạn giao thông… ảnh hưởng tới cảnh quan môi

trường TP Mặc dù, khối lượng chất thải xây dựng là một vấn đề lớn đối với môi

trường đặc biệt là tại các đô thị, tuy vậy, hiện nay, vấn đề về xử lý chất thải còn khá

hạn chế. Vì vậy, TP Hà Nội đặc biệt khuyến khích và tạo điều kiện cho các DN tư

nhân thực hiện các giải pháp xử lý chất thải xây dựng góp phần giải quyết vấn đề

môi trường, tiết kiệm quỹ đất… Như vậy, với lượng chất thải ngày một tăng, Hà

Nội đã cố gắng hết sức mình trong công tác xử lý CTR trên địa bàn thành phố nói

chung và trong các KCN nói riêng. Tuy nhiên, tình trạng vô ý thức, vô tổ chức, vô

kỷ luật trong công tác này vẫn còn xuất hiện ở đâu đó. Mong rằng tình trạng này

sớm được Hà Nội giải quyết dứt điểm để trả lại cho người dân cái quyền được

hưởng bầu không khí trong lành vốn có. [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.2.5. Các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quản lý chất thải rắn

trong khu công nghiệp ở Hà Nội

Về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trong quản lý CTRTKCN;

chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, vì thế có thể hiểu đây là công tác

chung của các bộ, ban ngành, cơ quan, tổ chức chuyên môn, các cấp chính quyền

của nhà nước. Cụ thể tại chương 18 của Luật BVMT 2014 có nêu tại các điều 159,

điều 160. Theo đó, trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra về

BVMT được giao cho Bộ TN&MT, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, UBND tỉnh/ TP

trực thuộc trung ương tổ chức và chỉ đạo, tùy theo quyền hạn của mình.

Cũng là công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trong quản lý CTRTKCN;

tại điều 53 và điều 55, chương 1 của Nghị định 155/2016/NĐ-CP cũng đã đề cập

đến với tư cách bảo vệ môi trường nói chung.

Tại khoản 25, điều 2 của Nghị định 36/2017/NĐ-CP, Chính phủ đã giao

nhiệm vụ và quyền hạn cho Bộ TN&MT trong công tác này: "Kiểm tra, thanh tra;

giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của tổ chức, công dân; thực hiện phòng,

chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh

vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ."

Bên cạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trong quản lý

CTRTKCN, Chính phủ và Bộ TN&MT còn giao trách nhiệm BVMT, mà trong đó

có việc quản lý CTRTKCN cho từng đối tượng cụ thể.

46

Theo Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT thì Ban quản lý các khu kinh tế,

KCX, KCN, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, chủ dự án và chủ cơ

sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khu công nghiệp được giao trách nhiệm cụ thể tại

các điều 14, điều 15, điều 16 tại chương 4 của Thông tư này.

Còn Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, ngoài trách nhiệm của chủ nguồn thải,

chủ xử lý CTR, CTNH, CTRCNTT thì thủ trưởng cơ quan của các đon vị: Bộ

TN&MT, Sở TN&MT, UBND tỉnh/ TP trực thuộc trung ương,… cũng phải chịu

trách nhiệm với công việc mình được giao.

Đến năm 2019, Nghị định số 40/2019/NĐ-CP khi đề cập đến CTRCNTT, tại

khoản 18 điều 3 cũng có nêu: "Tổ chức cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về

CTRCNTT phát sinh trên địa bàn tỉnh; hàng năm thống kê, tổng hợp, cập nhật về tình

hình phát sinh, quản lý, xử lý CTRCNTT tại địa phương và báo cáo về Bộ TN&MT để

tổng hợp, theo dõi; thời hạn của báo cáo trước ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo."

Như vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quản lý CTR nói

chung và CTRTKCN nói riêng đã được đề cập trên hệ thống các văn bản pháp luật,

tuy nhiên công tác này tại TP Hà Nội lại gặp không ít khó khăn. Thời gian qua,

Tổng cục Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương, tổ chức, cá nhân và

các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động thanh, kiểm tra về môi trường.

Thông qua hoạt động thanh, kiểm tra đã phát hiện nhiều bất cập, vướng mắc của

DN trong quá trình thực thi các quy định BVMT; kịp thời phát hiện vi phạm pháp

luật về môi trường để có biện pháp chấn chỉnh, răn đe và xử lý vi phạm theo quy

định, tạo tính nghiêm minh, công bằng trong việc tuân thủ chính sách pháp luật

BVMT. Nhưng, trên thực tế hoạt động thanh, kiểm tra vẫn tồn tại một số khó khăn

như: việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT còn kéo dài do nhiều

đối tượng vi phạm trốn tránh, hoặc không hợp tác; các vi phạm về BVMT ngày

càng tinh vi, khó phát hiện, đặc biệt là các hành vi vi phạm công tác quản lý

CTRTKCN. Hành vi này của DN có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, thường che giấu

rất tinh vi và thường lén mang đi đổ trộm vào ban đêm. Việc tiếp cận các vi phạm

ấy gặp nhiều khó khăn.

Trong khi đó, hoạt động thanh tra chuyên ngành còn bị ràng buộc bởi nhiều

thủ tục hành chính theo quy định của Luật Thanh tra và chưa được sửa đổi, bổ sung

kịp thời (phải có Quyết định thanh, kiểm tra; phải thông báo trước; chỉ làm việc

47

trong giờ hành chính...) làm hạn chế việc phát hiện và xử lý các vi phạm hành

chính, đặc biệt là đối với hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường. Hoạt động thanh,

kiểm tra, kiểm soát các DN, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ còn chồng chéo

giữa Bộ TN&MT với các Bộ, ngành liên quan và lực lượng cảnh sát môi trường các

cấp; giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương... làm ảnh

hưởng đến hoạt động sản xuất của DN. Mặt khác, lực lượng thanh tra chuyên ngành

môi trường từ Trung ương đến địa phương còn yếu và thiếu. Mỗi Sở TN&MT có từ

5 - 6 công chức/thanh tra viên cho 6 hoặc 7 lĩnh vực chuyên ngành, trong khi số

lượng đối tượng phải thanh tra rất lớn. Mặc dù, thẩm quyền kiểm tra được quy định

cho tất cả các cơ quan quản lý nhà nước, tuy nhiên, hiện chưa có hướng dẫn về trình

tự, thủ tục, thời hạn kiểm tra dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, chồng chéo trong

hoạt động. Việc thay đổi cơ cấu, tổ chức thanh tra nhanh gây lúng túng và ảnh

hưởng đến hoạt động thanh tra chuyên ngành, trong đó có lĩnh vực môi trường.

2.3. Các vấn đề đặt ra đối với quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp ở

Hà Nội theo pháp luật Việt Nam

2.3.1. Với cơ quan quản lý nhà nước

Trong thời gian qua đã có nhiều chính sách, văn bản về quản lý CTR được

ban hành, trong đó phải kể đến Chiến lược quản lý CTR tại các đô thị và KCN ở

Việt Nam năm 1999, nay được điều chỉnh, thay thế bằng Chiến lược quốc gia về

quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Quan điểm của

Chiến lược là quản lý CTR theo phương thức tổng hợp, thực hiện liên vùng, liên

ngành và là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Với mục tiêu hệ thống quản lý tổng

hợp CTR được xây dựng, CTR được phân loại tại nguồn, thu gom, tái sử dụng, tái

chế và xử lý triệt để bằng những công nghệ tiên tiến, phù hợp, hạn chế tối đa lượng

CTR phải chôn lấp. Theo đó, Chiến lược đặt ra những giải pháp để thực hiện như

xây dựng Chương trình thúc đẩy phòng ngừa, giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng CTR;

Chương trình thúc đẩy phân loại CTR tại nguồn;... Năm 2018, đứng trước tình hình

mới, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về

quản lý tổng hợp CTR. Theo đó, quản lý tổng hợp CTR là việc kết hợp các phương

pháp, phương thức, biện pháp theo tiếp cận tổng thể để quản lý chất thải trong toàn

bộ vòng đời chất thải từ khi phát sinh đến xử lý cuối cùng; được thực hiện liên vùng

liên ngành, bảo đảm sự tối ưu về kinh tế, kỹ thuật, an toàn về xã hội và môi trường;

48

CTR phát sinh được quản lý theo hướng coi là tài nguyên, được phân loại, thu gom

phù hợp với công nghệ xử lý được lựa chọn; đầu tư hệ thống quản lý CTR đồng bộ.

Chiến lược cũng đã xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025 và 2050 nhằm

phòng ngừa, kiểm soát, hạn chế cơ bản mức độ phát sinh CTR gia tăng, giảm thiếu

tối đa ô nhiễm môi trường do CTR gây ra; tăng cường năng lực quản lý tổng hợp

CTR bằng các giải pháp để đẩy mạnh công tác lưu giữ, thu gom, vận chuyển, tái sử

dụng, tái chế và xử lý CTR; ứng dụng các công nghệ xử lý CTR tiên tiến, thân thiện

với môi trường và phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH. Để tiếp tục đẩy mạnh

và đưa công tác quản lý chất thải thông thường đi vào nề nếp, Nghị định

38/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể về quản lý chất thải; về giảm thiểu, tái sử dụng,

tái chế, thu hồi năng lượng từ CTR sinh hoạt, CTRCN không nguy hại. Theo đó, đối

với việc quản lý CTRSH, CTRCN không nguy hại phải được thực hiện đồng bộ từ

các khâu phân loại, lưu giữ, thu gom, vận chuyển đến xử lý. Đồng thời, Nghị định

quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh trong xác nhận hoặc điều

chỉnh xác nhận bảo đảm yêu cầu BVMT đối với cơ sở xử lý CTR.

Tuy nhiên, với CTRTKCN (trong đó có cả ở Hà Nội) thì chưa được đề cập

một cách cụ thể. Do đó vẫn còn mang tính chất chung chung. Không những thế, đối

với việc phân công thực hiện công tác quản lý chất thải (mà đặc biệt là CTRTKCN

tại Hà Nội), một số quy định trong các văn bản hiện hành còn chồng chéo dẫn đến

công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý môi trường và các cơ quan chuyên môn

khác ở cấp địa phương còn có vướng mắc trong triển khai nhiệm vụ. Đây là vấn đề

tồn tại từ nhiều năm nay nhưng chưa được giải quyết hiệu quả. Việc triển khai thực

thi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về chất thải vẫn còn những khó

khăn, vướng mắc. Có thể thấy điều này ở tỷ lệ thu gom CTRTKCN vẫn tăng hàng

năm, nhưng do lượng CTR phát sinh lớn, năng lực thu gom còn hạn chế, cùng với ý

thức cộng đồng chưa cao, nên tỷ lệ thu gom vẫn chưa đạt yêu cầu, công tác quản lý

còn nhiều bất cập. Quản lý CTR được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật của

nhiều bộ như Bộ TN&MT, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế... Điều đáng nói là sự phối hợp

trong việc ban hành các quy định này để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp

luật về quản lý CTR lại chưa có. Hiện Bộ TN&MT chủ yếu chịu trách nhiệm ban

hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về chất thải khi phát thải ra môi trường

(chủ yếu là nước thải, khí thải, CTNH). Các tiêu chuẩn quy chuẩn liên quan đến

49

chất thải phát sinh từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.... lại được giao cho Bộ Xây

dựng và các Bộ chuyên ngành, dẫn đến việc không thống nhất trong quản lý CTR.

Việc này sẽ dẫn đến những giao thoa, chồng chéo thiếu thống nhất trong quản lý

nhà nước về CTR. Cùng với đó, việc tổ chức định kỳ đánh giá hiện trạng và dự báo

tình hình CTR đang được nhiều bộ thực hiện căn cứ vào quy định chức năng và

nhiệm vụ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, Bộ TN&MT hướng dẫn

kiểm tra lập và công bố báo cáo hiện trạng môi trường... Bộ Xây dựng lập quy

hoạch quản lý CTR; Bộ Y tế thống kê nguồn thải, xử lý chất thải của các viện, cơ sở

y tế... Việc phân công công tác quản lý nhà nước về CTR hiện nay còn chưa thống

nhất, theo như Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, giao

UBND các tỉnh, TP chủ động phân công các sở, ngành cơ quan nên mỗi nơi lại

phân công khác nhau, có nơi giao Sở Xây dựng, có nơi giao Sở TN&MT.

Với Hà Nội, công tác quản lý CTR giao cho Sở Xây dựng, đã có giai đoạn

giao phần quản lý rác thải sinh hoạt đô thị tại các quận do Sở Xây dựng, các huyện

giao cho Sở TN&MT, vừa qua lại thống nhất giao lại cho Sở Xây dựng. Việc quản

lý, phối hợp giữa các ngành tốt, tuy nhiên Bộ TN&MT cần quy định rõ luôn, giao

sở TN&MT là đầu mối quản lý nhà nước, tham mưu cho địa phương quản lý CTR.

Cũng từ đó, cần sửa đổi bổ sung một số Luật, Nghị định như sửa đổi Nghị

định 81/2017/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ Bộ Xây dựng; Nghị định

36/2017/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ Bộ TN&MT, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật BVMT; Luật Xây dựng; Nghị định 38/2015/NĐ-CP về

quản lý chất thải và phế liệu...

Về nguyên lý quản lý CTR theo quy trình quản lý hiện nay của các nước trên

thế giới đều đang hướng tới việc quản lý tổng hợp CTR theo chu trình hoàn chỉnh:

Phòng ngừa, giảm thiểu, phân loại, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải; xây dựng

chính sách, tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, đào tạo, truyền thông nâng cao

nhận thức cộng đồng; chỉ đạo thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

Do vậy, quản lý CTR như quy định hiện nay như đã nêu ở trên là giao từng phân

đoạn quản lý cho các bộ, ngành, địa phương là không phù hợp và khó thực hiện.

Một số bất cập cụ thể: Bộ TN&MT thống nhất quản lý nhà nước về BVMT, nhưng

một số nội dung về: hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTR theo quy

hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá

50

dịch vụ xử lý CTR; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và

xử lý CTR; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất CTR lại được giao Bộ Xây

dựng thực hiện dẫn đến Bộ TN&MT khó thống nhất quản lý nhà nước về CTR. Bên

cạnh đó, Nghị định số 36/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng nhiệm

vụ của Bộ TN&MT lại giao trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức thực hiện thẩm định,

kiểm tra, đánh giá công nghệ xử lý chất thải. Với các quy định như vừa nêu, hiện

nay chưa rõ đơn vị nào sẽ chịu trách nhiệm quy định chi tiết về xử lý CTR phát sinh

trong hoạt động sản xuất công nghiệp.

Vấn đề đầu tư kinh phí đối với việc kiểm soát, xử lý và giảm thiểu ô nhiễm

từ CTR cũng chưa thích đáng, đặc biệt là vấn đề huy động nguồn lực theo nguyên

tắc “người gây ô nhiễm trả tiền”. Đối với loại hình CTRCN và y tế, theo số liệu báo

cáo, cơ bản, CTR từ hai nguồn này đều được các cơ sở tự thu gom, xử lý hoặc thuê

đơn vị bên ngoài tuy nhiên cũng mới chỉ chủ yếu tập trung cho CTRTT. Vấn đề xử

lý CTNH, đặc biệt là nguồn kinh phí đầu tư dành cho việc xử lý CTNH chiếm tỷ lệ

rất thấp. Với những vấn đề nêu trên, việc tiếp tục có những định hướng, chính sách

và giải pháp để huy động được nguồn lực tài chính cho công tác BVMT theo đúng

nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền” là một trong những trọng tâm đặt ra đối với

công tác BVMT hiện nay của nước ta.

2.3.2. Với đơn vị chủ nguồn thải

Theo Nghị định số 38/2015/NĐ-CP tại: chương 2 điều 6 và điều 7, chương 3

điều 16 và điều 17, chương 4 điều 29 và điều 30, chương 7 điều 49 và điều 50,

chương 8 điều 63; thì chủ nguồn thải tự tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử

lý, thu hồi năng lượng hoặc ký hợp đồng chuyển giao cho đơn vị có chức năng vận

chuyển, xử lý CTR; định kỳ báo cáo tình hình phát sinh, quản lý CTR trong báo cáo

giám sát môi trường định kỳ. Tuy nhiên, hiện nay công tác này mới chỉ được số ít

các DN (mà chủ yếu là DN nước ngoài) nghiêm chỉnh chấp hành, còn lại nếu không

làm chống chế thì cũng tìm mọi cách để qua mặt các cơ quan quản lý nhà nước.

Theo phân tích của các chuyên gia trên lĩnh vực xử lý chất thải, đặc thù của hoạt

động dịch vụ môi trường là vốn của tư nhân. Vì vậy, lợi nhuận là ưu tiên hàng đầu

của các DN này. Nếu có quá nhiều DN tham gia mà không được điều tiết, định

hướng của cơ quan quản lý sẽ tạo ra một sự cạnh tranh khốc liệt trong việc tìm chất

thải để xử lý và dẫn đến việc đổ chất thải ra môi trường để giảm chi phí. Cụ thể, chi

51

phí sẽ tăng thêm do phải vận chuyển về nhà máy xử lý, trong khi đó, việc đổ chất

thải ra môi trường rất dễ, giảm được chi phí vận chuyển. Bên cạnh đó, do sự kiểm

soát chưa chặt chẽ của cơ quan chức năng với DN trong lĩnh vực này nên hoạt động

cũng rất nhốn nháo. Khi bị bắt quả tang xả chất thải gom được ra môi trường họ

thường đổi xe, đổi số điện thoại, thay đổi vị trí xả thải… Bên cạnh đó, hiện nay

nhiều chủ nguồn thải do thờ ơ với trách nhiệm BVMT và giảm chi phí nên thường

ký hợp đồng với cá nhân, DN không có chức năng xử lý chất thải. Ký hợp đồng

xong, chất thải chuyển đi là chủ nguồn thải xong nhiệm vụ, chủ nguồn thải không

cần biết chất thải đó được đưa đi đâu và xử lý ra sao. Trong khi đó, ngành TN&MT

cũng chưa có chế tài để buộc chủ nguồn thải chịu trách nhiệm đến cùng với số

lượng chất thải do mình thải ra. Khi kiểm tra, nếu DN có hợp đồng thu gom, xử lý

chất thải với một DN nào đó là coi như đã hoàn thành trách nhiệm. Trước những

phát hiện hàng loạt DN xử lý chất thải gây ô nhiễm bằng cách đổ chất thải thu gom

từ các nhà máy trên địa bàn rồi đổ ra môi trường, chúng tôi đã liên lạc với cơ quan

liên quan để xác minh sự việc. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơ quan, DN là chủ

nguồn thải nào nhận trách nhiệm về mình.

Hiện trạng quản lý, xử lý CTCN kém hiệu quả đã và đang gây sự phản ứng

của dư luận trong cộng đồng, đặt ra nhiều thách thức đối với các cấp, ngành, đặc

biệt là ngành môi trường. Tuy nhiên, theo Sở TN&MT Hà Nội, vấn đề này không

thể giải quyết trong một sớm một chiều, vì còn nhiều khó khăn, bất cập và thiếu giải

pháp đồng bộ; những khó khăn chủ yếu là nguồn kinh phí đầu tư cho công tác xử lý

rác thải, nhất là đối với rác thải độc hại là rất lớn. Vốn đầu tư này lại cần được huy

động từ các nguồn ngân sách nhà nước, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, nguồn giúp

đỡ của các chính phủ và tổ chức phi chính phủ. Theo số liệu thống kê của Sở

TN&MT Hà Nội năm 2018, tổng khối lượng CTNH công nghiệp trên địa bàn TP

phát sinh khoảng 160,8 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom, vận chuyển khoảng 89,8% (tương

đương hơn 144 tấn/ngày), tỷ lệ xử lý đạt 83,17% (tương đương hơn 133 tấn/ngày).

Còn lại một số cơ sở do lượng CTCN phát sinh quá ít hiện được lưu giữ tạm thời tại

cơ sở. Tương tự, về chất thải y tế, trên địa bàn TP có khoảng 5.440 cơ sở y tế, khám

chữa bệnh. Lượng CTR y tế phát sinh gần 9,8 tấn/ngày, trong đó, 1,13 tấn/ngày là

rác thải nguy hại được xử lý tại chỗ bằng lò đốt tại các bệnh viện và tại các khu xử

lý tập trung. Tổng lượng CTR y tế của các bệnh viện, cơ sở y tế đã được thu gom,

52

xử lý là 294 tấn/tháng, đạt 100%. Lượng rác thải y tế được thu gom, phân loại tại

nguồn đồng bộ với việc bố trí các điểm thu gom rác thải phù hợp và theo đúng quy

cách quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý. Trong lĩnh vực xây dựng, theo

thống kê sơ bộ, lượng CTR thải ra hằng ngày trên địa bàn TP khoảng 2.000 tấn,

chưa tính đến khối lượng phát sinh đột biến từ các dự án xây dựng, giao thông.

Trong thành phần CTR chủ yếu là gạch và bê tông. Đây là nguồn đầu vào khả thi để

thực hiện xử lý, tái chế, bởi trên địa bàn TP chỉ có 4 bãi đổ CTR xây dựng gồm

Nguyên Khê, Vân Nội, Vĩnh Quỳnh, Dương Liễu nhưng hiện cơ bản đã lấp đầy.

Nhiều ý kiến cho rằng, với lượng CTR nếu không được xử lý tốt sẽ dẫn đến hàng

loạt hậu quả tiêu cực đối với môi trường sống. Ví như, nước rò rỉ từ các bãi chôn

lấp rác thải không hợp vệ sinh sẽ gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm. Dù

việc xử lý CTRTKCN đã được TP quan tâm, nhưng để xử lý tận gốc khó có thể

thực hiện trong một sớm, một chiều. Một trong những nguyên nhân sâu xa chính là

sự thiếu ý thức của một số DN xử lý chất thải công nghiệp, lén lút đổ CTNH ra môi

trường không phải là không có. Công tác xử lý CTNH trong KCN, đô thị, cụm công

nghiệp, thời gian qua được Sở TN&MT thành phố quan tâm thực hiện theo đúng

quy định về quản lý chất thải và phế liệu. Sở cũng đã phối hợp với Ban Quản lý các

KCN và KCX, các sở, ngành liên quan triển khai nhiệm vụ rà soát, điều tra các cơ

sở sản xuất công nghiệp, kiểm kê nguồn thải công nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu

về tình hình ô nhiễm công nghiệp. Các sở, ngành liên quan của TP cũng đã triển

khai nhiệm vụ rà soát, điều tra các cơ sở sản xuất công nghiệp, kiểm nguồn thải

công nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu về tình hình ô nhiễm công nghiệp. [nguồn

http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

2.3.3. Với cộng đồng xã hội

Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương, đường lối “xã hội hóa

công tác BVMT”, trong đó có xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý

CTR, nhưng thực tế vẫn còn thiếu nhiều văn bản và cơ chế để cụ thể hóa chủ trương

này. Đặc biệt là chưa có chế tài phù hợp đối với công tác xã hội hóa, tư nhân hóa

đối với hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR, nên chưa thực sự

thu hút được nhiều sự tham gia của các đoàn thể quần chúng, của toàn xã hội đặc

biệt là thu hút sự tham gia của các nhóm đối tượng liên quan. Các cấp chính quyền

53

cũng chưa có nhiều chương trình huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý

CTR.

Thêm vào đó, người dân vẫn còn tư tưởng “thu gom, vận chuyển, xử lý rác

thải là trách nhiệm của các nhà quản lý”. Nhận thức và năng lực của cộng đồng

chưa đảm bảo để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong công tác quản lý

môi trường nói chung và quản lý CTR nói riêng, đặc biệt là ở các khu vực tập trung

đông dân nghèo.

Một vấn đề nảy sinh khác, đó là nhiều Công ty Môi trường đô thị không

muốn tư nhân hóa mà vẫn muốn duy trì hình thức hoạt động công ích của nhà nước,

đồng thời lại muốn độc quyền quản lý CTR ở địa phương. Dẫn đến công tác thu

gom, xử lý CTR của địa phương không đạt hiệu quả cao. Công nghệ xử lý CTR, tái

chế, tái sử dụng CTR còn lạc hậu và chưa phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhìn

chung, công nghệ xử lý CTR hiện nay của nước ta còn khá lạc hậu, nhiều công nghệ

được nhập khẩu từ nước ngoài chưa phù hợp với hiện trạng CTR ở nước ta. Đa

phần các công nghệ nhập về có hiệu quả xử lý thấp, vòng đời ngắn, tác động trở lại,

gây ô nhiễm môi trường. Các hoạt động tái chế rác cũng chưa được triển khai ở quy

mô rộng. Trong những năm qua, một số nhà máy chế biến phân compost từ rác thải

được đầu tư xây dựng với kinh phí lớn nhưng hoạt động lại kém hiệu quả. Ngoài ra,

một số hoạt động tái chế rác hình thành tự phát như trường hợp các cơ sở tái chế tư

nhân hoặc làng nghề tái chế phế liệu hình thành trong các khu dân cư còn là nguồn

gây ô nhiễm môi trường. Đối với vấn đề áp dụng công nghệ xử lý CTNH. Theo các

báo cáo đánh giá, hầu hết các công nghệ xử lý CTR nguy hại đã được cấp phép đều

đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành, đảm bảo hiệu quả xử lý. Tuy nhiên, đây

là kết quả do các cơ sở tự giám sát hoặc kết quả giám sát khi có các đoàn thanh tra,

kiểm tra nên cũng chưa phản ánh đầy đủ được thực chất công tác xử lý CTNH tại

các cơ sở.

Kinh phí đầu tư cho quản lý CTR chưa đáp ứng yêu cầu. Nhìn chung, kinh

phí đầu tư cho công tác quản lý CTR chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Tổng thu

từ các loại phí dịch vụ quản lý CTR chỉ chiếm khoảng 60% tổng chi phí vận hành,

duy tu và bảo dưỡng hệ thống quản lý, trong đó hơn 90% là dành cho hoạt động thu

gom và vận chuyển chất thải. Do vậy, chi phí dành cho xử lý, tiêu huỷ chất thải là

không hợp lý và rất thấp. Kinh phí đầu tư cho các nhà máy ủ rác (loại hình hoạt

54

động phổ biến ở nước ta) là rất thấp. Quỹ BVMT Việt Nam cũng là một trong

những nguồn đã hỗ trợ khá nhiều cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTR

trong những năm qua. Tuy nhiên, nguồn vốn từ Quỹ BVMT chưa đáp ứng đủ nhu

cầu thực tế, nguồn bổ sung hàng năm cho Quỹ là không đáng kể. Thêm vào đó,

nhiều DN kinh doanh dịch vụ xử lý môi trường thường chưa đủ điều kiện đảm bảo

vốn vay hoặc thế chấp để tiếp cận với Quỹ.

Về nhận thức của cộng đồng còn thấp. Ý thức của cộng đồng dân cư nói

chung và tập thể đội ngũ cán bộ công nhân viên chức trong các KCN nói riêng thì

công tác quản lý CTR, giữ gìn vệ sinh công cộng còn rất thấp. Hiện tượng đổ trộm

CTRXD ra bờ sông, cống rãnh, bãi đất trống còn diễn ra khá nhiều... dẫn đến tình

trạng ngập úng khi có mưa to và cũng gây ra những tác động tiêu cực đến vệ sinh

môi trường và cảnh quan đô thị. Ý thức tham gia chương trình 3T (tiết giảm – tái sử

dụng – tái chế) của họ còn thấp. Không ít trường hợp còn trốn tránh, không nộp phí

vệ sinh, tuy rằng phí vệ sinh mới chỉ đảm bảo khoảng 30 – 50% chi phí quản lý

CTR thực tế.

Có thể thấy rằng, để công tác quản lý CTR (nhất là CTRTKCN) đạt được

hiệu quả như mong đợi thì phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Bắt đầu từ việc

hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, phân

công đủ, đúng, rõ trách nhiệm của các đơn vị từ Trung ương đến địa phương. Ngoài

ra, cần chú trọng tới việc thực hiện chương trình 3T, xã hội hóa công tác thu gom,

xử lý CTR, đầu tư tài chính, đổi mới công nghệ xử lý CTR… Song song với đó là

tăng cường công tác giám sát, thực thi trách nhiệm và các hình thức xử phạt cần

được thực hiện nghiêm túc và đầy đủ.

Tiểu kết chương 2

Là thủ đô của cả nước, lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, cùng với TP

HCM, Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế với các hoạt động sản xuất, thương

mại rất sôi động. TP không chỉ hoàn thành mà luôn vượt các chỉ tiêu được giao

trong lĩnh vực sản xuất và thương mại. Bên cạnh đó, chính quyền TP luôn cố gắng

thực thi pháp luật về BVMT nhằm đưa hoạt động kinh tế của mình đi theo con

đường PTBV. Song, vẫn còn đó không ít các vấn đề tồn đọng trong công tác BVMT

mà chính quyền, doanh nghiệp và cả cộng đồng nơi đây cần phải chung tay giải

quyết.

55

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRONG KHU CÔNG NGHIỆP

3.1. Cơ sở để đưa kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn

trong khu công nghiệp

Quản lý CTRTKCN là một quá trình, vì thế không thể tách rời bất cứ một

giai đoạn nào của quá trình đó, từ phân loại, giảm thiểu, thu gom đến xử lý đều phải

tuân thủ những qui định của pháp luật. Như đã trình bày ở phần trên “Quản lý

CTRTKCN là một quá trình thực hiện liện tục các hoạt động phân loại, thu gom,

vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn thông

thường”. Tuy nhiên, quá trình quản lý CTRTKCN ở nước ta hiện nay còn rất nhiều

vấn đề bất cập cần được xem xét và đưa tới hoàn thiện. Ta thấy trong quá trình thực

hiện quản lý CTRTKCN còn gặp phải những hạn chế vì vậy muốn nâng cao hiệu

quả của quá trình quản lý chất thải nói chung, CTRTKCN nói riêng cần phải dựa

trên những căn cứ sau:

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp dựa trên

quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường

BVMT là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải

thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả

xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý

và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Nhiệm vụ của công tác BVMT là quản lý và

bảo vệ chất lượng các thành phần môi trường sống của con người và sinh vật trên

trái đất.

Quan điểm PTBV đã được thể hiện trong chủ trương chính sách của Đảng,

Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi giành được chính quyền. Sau ngày

thống nhất đất nước cho đến nay trước thời kỳ đổi mới hoạt động BVMT với quan

điểm PTBV được triển khai nhiều hơn và từng bước tiếp cận với những nội dung,

phương pháp của Cộng đồng quốc tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần XII đã nhận định

hiện trạng môi trường nước ta nêu rõ: Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi

trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên ngày càng tăng; mức độ ô nhiễm và huỷ hoại

56

về môi trường, môi sinh rất đáng lo ngại. Đại hội khẳng định quyết tâm ngăn chặn

tình trạng ô nhiễm môi trường và đề ra chủ trương, phương hướng cơ bản các công

tác BVMT. Theo đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác BVMT được

thể hiện như sau:

* BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại

Trong thời đại ngày nay, BVMT không còn là vấn đề của riêng một quốc gia,

một khu vực, mà đã thực sự trở thành mối quan tâm toàn cầu. Do vậy, việc xem xét,

giải quyết vấn đề này cũng không thể tiến hành riêng lẻ ở từng nước, cho dù nước

đó có giàu mạnh, có tiềm lực to lớn đến mức nào đi chăng nữa. Thực tế cho thấy

tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn đề môi trường toàn cầu đang đòi hỏi

chúng ta cần phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường

trong quá trình thực hiện PTBV.

Trên cơ sở quan điểm này, việc hoàn thiên pháp luật quản lý CTR (gồm

CTRTKCN) phải đặt ra những quy định mang tính phòng ngừa, răn đe nhằm loại trừ

ngay từ đầu những hành vi vi phạm gây tác động xấu đến môi trường. Từng bước xác

định cho các chủ thể nhận thức rõ được tầm quan trọng của môi trường với cuộc sống

của con người và vấn BVMT sống là vấn đề mang tính sống còn của nhân loại. Đó là

hướng các chủ thể thực hiện các công đoạn của hoạt động quản lý chất thải như: Phân

loại, thu gom, vận chuyển, xử lý… phải tuân thủ những quy định của pháp luật, phải đáp

ứng các yêu cầu của PTBV.

* BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của

PTBV.

Đảng ta chỉ rõ, BVMT là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình phát triển phải coi trọng bảo vệ

và cải thiện môi trường. BVMT phải gắn với từng hoạt động phát triển. Quan điểm

này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, là nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng

của Đảng, Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân trong quá trình phát triển đất nước

thời gian tới [19; 151].

Pháp luật về quản lý CTRTKCN cần đặt ra những quy định thích hợp, tạo

điều kiện để các chủ thể của hoạt động quản lý chất thải có thể phát huy tốt vai trò

và năng lực của mình. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần tăng cường công tác

57

quản lý nhà nước nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động quản lý CTRTKCN. Bên

cạnh đó cần phải đặt ra những quy định nhằm ngăn chặn những hành vi vi pháp luật

về quản lý CTRTKCN, loại trừ những hành vi gây ô nhiễm môi trường.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp dựa trên

cơ sở các điều kiện về kinh tế - xã hội Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế có thể gây ô nhiễm môi trường đó là điều không thể

tránh khỏi ở bất kỳ quốc gia nào. Vì vậy, bài toán đặt ra cho những người có trọng

trách là, chúng ta phải làm gì và làm thế nào để có chính sách đặc biệt vừa phát

triển kinh tế vừa BVMT và PTBV. Công nghiệp hóa, chúng ta đang phải đối mặt

với nhiều thách thức về BVMT. Có số liệu đưa ra là Hà Nội mỗi năm tổn thất lên

tới 23 triệu USD do ô nhiễm không khí (mỗi ngày thiệt hại hơn 1 tỷ đồng)... Để có

thể đạt được tất cả các mục tiêu BVMT và PTBV (đến năm 2025, thu gom 90%

CTR từ dân sinh, công nghiệp và dịch vụ,...). Chính phủ cần tạo khung chính sách,

cơ chế đưa vào văn bản pháp luật môi trường hợp lý và đủ mạnh.

Pháp luật, kinh tế, xã hội là các yếu tố không thể tách rời nhau, một xã hội sẽ

không phát triển được nếu không kết hợp hài hoà các yếu tố này. Pháp luật muốn tồn

tại và áp dụng trong thực tế thì phải phù hợp với xã hội, kinh tế. Theo đó pháp luật về

quản lý CTRTKCN phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế, xã hội Việt Nam.

* Về kinh tế:

Sự nghiệp đổi mới kinh tế của Việt Nam được khởi xướng từ năm 1986; với

việc kiên trì thực hiện các chính sách chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá

tập trung sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tiền

đề có lợi do thời đại mới mang lại, những tiềm năng của một dân tộc có truyền

thống cần cù, thông minh, đã được vận dụng một cách đầy đủ cho mục tiêu đó. Một

hệ thống thể chế, chính sách tạo hành lang pháp lý cho công cuộc đổi mới được ban

hành để đảm bảo cho sự PTBV.

Hiện tại nước ta vẫn còn là một nước đang lẫm chẫm trên con đường trở

thành một nước công nghiệp, công nghiệp chưa phát triển, sức cạnh tranh thấp, quy

mô công nghiệp quá nhỏ và thiếu tập trung, theo thống kê bình quân thu nhập năm

2018 ước đạt 2.587 USD/người. Tuy tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục trong

58

những năm qua, nhưng với điểm xuất phát rất thấp, do đó, Việt Nam còn gặp rất

nhiều khó khăn để tạo lập những đột phá mạnh trong phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó nền kinh tế Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa nhưng tàn dư của cơ chế quản lý cũ vẫn ăn sâu trong mối hoạt

động quản lý như những quy định mang yếu tố mệnh lệnh, quyền uy và cơ chế “xin

- cho”. Điều này gây ra rất nhiều bất lợi khi đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật nói

chung và hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN nói riêng.

Tuy nhiên, các thể chế, chính sách đảm bảo tính bền vững của sự phát triển ở

Việt Nam đã phát huy tác dụng, làm cho quá trình phát triển kinh tế diễn ra nhanh,

tốc độ tăng trưởng cao, thời gian duy trì tăng trưởng cao kéo dài, đồng bộ với sự

PTBV về môi trường, dấu hiệu suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên

nhiên bước đầu được ngăn chặn. Nguyên lý không phải sản xuất ít đi để đảm bảo

bền vững, mà sản xuất khác đi để vừa đảm bảo tăng trưởng, vừa để đảm bảo tính

bền vững của quá trình phát triển đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn ở Việt Nam.

Từ các đặc thù trên của nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi khi hoàn thiện pháp

luật về quản lý CTRTKCN cần phải chú trọng giải quyết một cách hoàn chỉnh mâu

thuẫn giữa một nền kinh tế đang phát triển với rất nhiều khó khăn và mục tiêu

PTBV. Phải thực hiện việc hoàn thiện trên cơ sở vừa đảm bảo sự phù hợp với nền

kinh tế đang phát triển vừa tạo cơ sở cho hoạt động kiểm soát của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền đối với vấn đề quản lý CTRTKCN.

* Về mặt xã hội.

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam đến ngày 01 tháng

4 năm 2019 là hơn 96 triệu người, với mật độ dân số là 290 người/km2; trong đó với

Hà Nội thì số liệu lần lượt là: 8,05 triệu người và 2.398 người/km2. Với số lượng

tăng dân số cũng như mật độ dân số như hiện nay thì rất nhiều vấn đề đặt ra, không

chỉ đối với một lĩnh vực pháp luật mà đối với tất các các ngành luật. Riêng đối với

lĩnh vực pháp luật môi trường và pháp luật quản lý CTRTKCN luôn phải đương đầu

với vô vàn khó khăn. Dân số tăng, các hoạt động sinh hoạt, dịch vụ, sản xuất cũng

tăng theo và chất thải của các hoạt động này phát thải vào môi trường ngày càng

nhiều. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành bãi chứa chất thải của chính

59

mình. [nguồn https://news.zing.vn/dan-so-viet-nam-2019-hon-96-trieu-nguoi-dung-

thu-15-the-gioi-post965734.html]

Theo thống kê năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp trung bình cả nước là 4,65%, đến

quý 1 năm 2019 tỷ lệ này còn khoảng 2,17%. Dù tỷ lệ thất nghiệp có giảm nhưng

các tệ nạn xã hội lại ngày càng ra tăng gây ra nhiều bức xúc đòi hỏi cơ quan có

thẩm quyền phải thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn trong thời gian tới.

[nguồn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=19136]

Từ các vấn đề đang phát sinh trong xã hội hiện nay đòi hỏi sự hoàn thiện của

pháp luật về quản lý CTRTKCN phải đặt trên cơ sở xã hội, phải một phần nào giải

quyết được các vấn đề xã hội, phải kết hợp được việc giải quyết các vấn đề đang

nảy sinh trong xã hội với sự PTBV. Hoàn thiện cơ chế quản lý và cơ chế áp dụng

pháp luật nhưng phải chú trọng đến việc phối hợp với các cơ quan chức năng giải

quyết một số vấn đề phát sinh trong xã hội hiện nay.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp cần căn

cứ vào thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật quản lý chất thải

rắn ở Việt Nam

Cơ bản đến nay, hệ thống chính sách pháp luật về BVMT đã tương đối đầy

đủ và đồng bộ, tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho công tác quản lý nhà nước về

BVMT trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và thúc

đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, nhiều văn bản, nhiều quy định cụ thể về quản lý

CTRTKCN được ban hành đã xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên

quan cũng như chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

Các văn bản này đã trở thành một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu góp phần

nâng cao hiệu quả của công tác quản lý chất thải trên phạm vi cả nước.

Hiện tại, hệ thống pháp luật liên quan đến chất thải nói chung và CTRTKCN

nói riêng tại Việt Nam còn chưa đồng bộ và không đầy đủ. Việt Nam đã ban hành

khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Riêng trong lĩnh vực quản lý chất thải tuy đã

có khá nhiều văn bản nhưng vẫn còn gây không ít khó khăn cho công tác quản lý.

Như Luật BVMT 2014 Chương 9 quản lý chất thải được ban hành năm 2014 nhưng

đến năm 2015 chính phủ vẫn phải ban hành thêm Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của

Chính phủ về quản lý CTR để hướng dẫn chi tiết hơn;

60

Hơn nữa riêng đối với CTRTKCN thì không thấy đề cập cụ thể trong Luật

mà chỉ nói chung chung, cũng chẳng có thông tư hay nghị định nào hướng dẫn chi

tiết. Ngoài ra, tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của chính phủ cũng chỉ đề cập đến

vấn đề quản lý CTR. Như vậy, vấn đề bức xúc hiện nay là làm thế nào để thực hiện

được tốt quá trình quản lý CTRTKCN bởi đây là vấn đề hết sức quan trọng. Đây là

vấn đề đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các ngành, các cơ quan có thẩm quyền. Một

số văn bản đó lại không đưa ra những quy định cụ thể đối với những hành vi vi

phạm thì sẽ bị áp dụng mức xử lý như thể nào và cơ quan xử lý theo thẩm quyền là

cơ quan nào còn khi quy định lại chỉ quy định một cách chung chung dẫn đến việc

chủ thể quản lý không biết căn cứ vào văn bản nào để xử lý thậm chí còn bỏ qua

cho các hành vi vi phạm.

Đó là việc ban hành pháp luật, còn việc thực hiện pháp luật, nhất là pháp luật

về quản lý CTRTKCN trong thời gian qua còn gặp phải những hạn chế sau: Một số

thuật ngữ, khái niệm về CTRTKCN và một số chất liên quan đến CTRTKCN như

phế liệu, phế thải, rác, rác thải, chất thải hữu cơ, chất thải vô cơ…cũng chưa được

xác định chuẩn xác và hệ thống. Điều đó dẫn đến việc chủ nguồn thải, nhất là các

chủ thể phát thải chủ yếu của CTRTKCN không biết hoặc cố tình không biết cách

phân loại. Mặt khác, các văn bản quản lý CTRTKCN chưa có quy định cụ thể về

biện pháp, cách thức giảm thiểu chất thải, cũng như hậu quả pháp lý mà chủ thể

phải gánh chịu nếu không giảm phát sinh chất thải như luật định. Bên cạnh đó,

trong thực tế việc phân loại CTRTKCN mới được thực hiện một cách nghiêm túc ở

một vài KCN, nhưng dụng cụ để phân loại (chưa được chuẩn hoá) lại chính là các

túi nilon, vật dụng cần hạn chế sử dụng vì túi nylon là chất thải có hại cho môi

trường mà hiện nay nhiều nước trên thế giới như ở Canada, Trung Quốc…..đã cấm

sử dụng, một số nước dẫn đầu là các nước Châu Âu: Đức, Hà Lan, Pháp..., đang

thực hiện việc thay thế túi ni lông thông thường bằng cách dùng túi chế tạo từ tinh

bột khoai tây hoặc giấy.

Xuất phát từ thực tế ban hành pháp luật và việc áp dụng pháp luật hiện nay

đòi hỏi đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN cần:

Xác định pháp luật về quản lý CTRTKCN là một bộ phận của pháp luật về

quản lý chất thải trong hệ thống các chế định của pháp luật BVMT. Vì vậy, khi

61

hoàn thiện cần phải đóng góp các quy định cho sự phát triển của cả hệ thống, đồng

thời góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước về CTRTKCN và nâng cao vai

trò của pháp luật BVMT.

Coi trọng tính hiệu quản của quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm soát các hoạt

động quản lý CTRTKCN như: Phân loại, giảm thiểu, thu gom, vận chuyển, xử lý,

tái chế, tái sử dụng CTRTKCN.

Coi trọng các biện pháp phòng ngừa nguy cơ gây tác động xấu đến môi

trường từ các hành vi phát thải CTRTKCN, đồng thời đề cao các biện pháp chế tài

áp dụng cho các hành vi vi phạm.

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp trên cơ

sở tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia khác

Việt Nam - quốc gia với nền kinh tế đang phát triển rất cần được sự quan tâm

giúp đỡ của các quốc gia khác trên thế giới và chúng ta cũng đang được sự quan

tâm thực sự từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển đặc biệt là sự giúp đỡ trong

hoạt động BVMT.

Môi trường trái đất đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng. Để giảm

bớt nguy cơ đó mỗi quốc gia đã và đang tự xác định cho mình các phương thức

BVMT trong đó có hoạt động quản lý chất thải. Chúng ta có thể tìm hiểu hoạt động

quản lý chất thải ở một vài quốc gia để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Tại Thuỵ Điển, từ những năm 1990, Thụy Điển áp dụng các biện pháp nhằm

đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên chất thải đã mang lại những kết quả đáng kể: Chất

thải sinh hoạt được đưa đi chôn lấp giảm từ 1,38 triệu tấn trong năm 1994 xuống

0,38 triệu tấn trong năm 2004. Năm 2004, khoảng 1,3 triệu tấn các vật liệu và 5,7

terawat-giờ (01TWh = 1012 Wat-giờ) năng lượng dưới dạng nhiệt và điện năng

được thu hồi từ chất thải sinh hoạt; tăng lần lượt 140% và 70% kể từ năm 2004.

Việc chôn lấp các loại chất thải khác cũng giảm. Trong năm 2004, khoảng 2,1 triệu

tấn chất thải, trừ chất thải sinh hoạt được chôn lấp ở ngoài các KCN, giảm 56% kể

từ năm 1994. Trong năm 2004, 10,4% hay 0,43 triệu tấn chất thải sinh hoạt phải qua

qúa trình xử lý sinh học, tăng 7,7% kể từ năm 2003. Lượng chất thải gồm: 0,11 triệu

tấn chất thải thực phẩm được tách tại nguồn, 0,14 triệu tấn chất thải xanh (ở các

công viên và các khu vườn), 18.000 tấn chất thải sinh hoạt được tách tại nguồn và

62

ước tính có 70.000 tấn chất thải sinh hoạt được ủ phân tại nhà. Có khoảng 48 kg

chất thải sinh học/người (gồm chất thải xanh và chất thải thực phẩm) được xử lý.

Thuỵ Điển áp dụng phương thức biến chất thải thành năng lượng. Hiện nay ở Thuỵ

Điển có 29 nhà máy thiêu đốt chất thải sinh hoạt. Trong năm 2004, các nhà máy này

đã xử lý được 1,94 triệu tấn hay 46,7% chất thải sinh hoạt, tăng 4,1 % so với năm

2003. Năm 2005, ở Thuỵ Điển tổng lượng chất thải sinh hoạt được thiêu đốt là 216

kg /người. Một số nhà máy lưu giữ chất thải trong khoảng thời gian một năm,

thường để dưới dạng đóng kiện, sau đó chất thải có thể được đưa đi thiêu đốt vào

mùa lạnh trong năm, khi nhu cầu về nhiệt lớn nhất.

Tại Singapore - một quốc đảo được coi là Quốc đảo đẹp và sạch bậc nhất thế

giới, họ đã lựa chon và áp dụng hình thức quản lý chất thải thực sự hữu hiệu. Để

đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá với tốc độ cao, không những

cần kinh phí cho môi trường mà còn phải tổ chức bộ máy. Ngay từ những năm đầu

của thập kỷ 70 (Thế kỷ XX), Singapore đã tổ chức Cục Phòng chống ô nhiễm

không khí, ô nhiễm nước và Cục Quản lý CTR. Tiếp đó, hai tổ chức này lại kiêm

thêm trách nhiệm kiểm soát chất độc và xử lý chúng. Chiến lược BVMT đô thị của

Singapore gồm 4 thành phần: Phòng ngừa, cưỡng bách, kiểm soát và giáo dục.

Những vấn đề cơ bản về ô nhiễm được phòng ngừa thông qua kế hoạch sử dụng đất

đai hợp lý, lựa chọn địa điểm công nghiệp thận trọng, kiểm soát gắt gao việc phát

triển xây dựng, tăng cường trang bị phương tiện thu gom và xử lý chất thải. Một khi

đã thực hiện biện pháp phòng ngừa thì bắt buộc kiểm tra nghiêm ngặt nhằm đảm

bảo các phương tiện thu gom và xử lý chất thải được khai thác và bảo trì hợp lý.

Việc kiểm soát thường xuyên môi trường không khí và nước trong đất liền và nước

biển cũng được thực hiện để tiếp cận các chương trình kiểm tra ô nhiễm môi trường

một cách đầy đủ và có hiệu quả. Việc thực hiện nhiều chương trình giáo dục dân

chúng tham gia bảo vệ và quản lý môi trường cũng là một nội dung quan trọng

trong chiến lược chung.

Còn Thái Lan, đây là đất nước du lịch nên vấn đề BVMT của họ rất cấp

thiết, vì lượng khách du lịch đến với đất nước Thái Lan là rất lớn, nếu không có giải

pháp cần thiết để giữ gìn vệ sinh môi trường thì có lẽ nguy cơ ô nhiễm môi trường ở

Thái Lan sẽ rất nguy hiểm. Chính vì thế chính phủ Thái Lan có những biện pháp

63

thiết thực như : Đầu tư về công nghệ xử lý rác thải có năng xuất lớn có khả năng

tiêu hủy rác mà không ảnh hưởng đến môi trường. Đầu tư về mặt thiết bị, bố trí và

đặt rất nhiều thùng rác ở tất cả mọi nơi ở đất nước Thái Lan nói chung và đặc biệt

bố trí rất nhiều thùng rác ở các khu du lịch cùng với các TP lớn để thuận thiện cho

người dân và du khách có thể thuận tiện sử dụng, giữ gìn được vệ sinh môi trường

và mỹ quan của nơi đó. Thái Lan là gần như là nước tiên phong trong việc sử dụng

khí ga vào làm nhiên liệu cho phương tiện giao thông ở đây. Sử dụng khí vào làm

nhiên liệu có nhiều mặt ích lợi, giá thành rất rẻ và không gây ô nhiễm môi trường

nhiều bằng xăng hoặc dầu diesel. Bởi vì các TP lớn ở Thái Lan quá tải phương tiện

giao thông, nếu Chính phủ không tìm được hướng giải quyết vấn nạn này chắc họ sẽ

thải vào bầu khí quyển một lượng khí độc hại gây ô nhiễm môi trường. Ý thức

người dân Thái cũng rất được xem trọng, Thái Lan là đất nước đạo Phật nên việc

giáo dục về môi trường, họ đưa ngay vào trường học, mà trường học ở Thái Lan

chính là Chùa, mỗi ngôi chùa là có 1 trường học ở trong đó, bởi vậy việc ý thức của

người dân Thái cũng góp phần đáng kể cho việc hạn chế ô nhiễm môi trường. Ngoài

ra, Chính phủ còn có một số biện pháp xử phạt hành chính cho những ai xả rác bừa

bãi nơi công cộng. Mức phạt sẽ căn cứ theo mức nặng nhẹ từ 1000 bath cho đến

2000 bath (Tiền Thái Lan). [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Từ phương thức BVMT và quản lý chất thải ở một vài quốc gia nêu trên ta

có thể rút ra kinh nghiệm để vận dụng thích hợp vào quá trình hoàn thiện pháp luật

nói chung và pháp luật về quản lý CTRTKCN nói riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên,

việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN ở Việt Nam cần chú ý những vấn

đề sau:

Không thể áp dụng toàn bộ các công đoạn trong hoạt động quản lý chất thải

ở một hay một vài quốc gia khác bởi nền kinh tế Việt Nam không thể đáp ứng đủ

các yêu cầu đặt ra. Vì vậy, chúng ta nên tiếp thu nhưng có chọn lọc những kinh

nghiệp từ các quốc gia trên thế giới.

Tiếp thu các kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN

phải xuất phát từ các yếu tố xã hội và môi trường cũng như trình độ nắm bắt khoa

học kỹ thuật tiên tiến ở Việt Nam.

64

Từ kinh nghiệm quốc tế, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN ở

Việt Nam cần phải được sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước và các cấp có thẩm

quyền như quan tâm đến việc đầu tư cho hoạt động xử lý chất thải trong đó có

CTRTKCN, đầu tư phương tiện để đáp ứng như cầu thu gom và vận chuyển chất thải.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu

công nghiệp

Trong tất cả các văn bản pháp luật hiện hành về BVMT, đều đã đề cập đến

vấn đề quản lý chất thải, CTR, CTRCN, CTRCNTT, CTNH,… tuy nhiên nếu để có

một chương điều cụ thể cho vấn đề quản lý CTRTKCN thì lại chưa có. Vì vậy người

viết xin đề xuất một số giải pháp sau và mong muốn các nhà làm luật sớm đưa nó trở

thành một văn bản pháp quy, để từ đó việc thực hiện công tác quản lý CTRTKCN có

một cơ sở rõ ràng, không còn lúng túng trong công tác quản lý, điều hành.

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải

rắn trong khu công nghiệp

Lượng CTRTKCN ngày càng gia tăng, tập trung nhiều tại các vùng sản xuất

công nghiệp trọng điểm phía Bắc và phía Nam, gây ảnh hưởng lớn tới môi trường.

Vậy phải làm thế nào để giảm tái sử dụng, tái chế CTRTKCN trong khi chưa có một

hướng dẫn hay quy chuẩn cụ thể?

Chúng ta cần biết thành phần CTRTKCN thường bao gồm: rác thải hữu cơ

(30-40%), tro xỉ (10-15%), kim loại (5-10%), bao bì (2-4%) và các thành phần vô

cơ khác (như: thủy tinh, cao su, giẻ lau chiếm đến 20-30%). Ngoài ra, thành phần

chất thải nguy hại như: Dầu thải, sơn keo, dung môi… cũng thường chiếm không

quá 20%, tùy thuốc loại hình sản xuất công nghiệp. Đáng chú ý là lượng chất thải

này hiện không được thu gom, xử lý triệt để mà bị chất đống hoặc thải vào các kênh

rạch, sông, hồ, gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, đất và không khí.

[nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Cho nên cần tăng cường vai trò của các DN tham gia quản lý CTR. Hiện ở

hầu hết các địa phương, Công ty Môi trường đô thị là DN Nhà nước, chịu trách

nhiệm chính trong việc quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đô thị và

CTRCN. Tuy nhiên, ngoại trừ một số đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…,

65

còn lại đa phần các địa phương đều gặp khó khăn trong công tác này do thiếu nhân

lực và trang thiết bị.

Mặt khác, việc quy hoạch và lựa chọn các công nghệ xử lý CTR phải phù

hợp với điều kiện địa phương. Theo đó, cần tiến tới quy hoạch khu quản lý và xử lý

CTR trên phạm vi cả nước, đồng thời áp dụng các công nghệ xử lý tiên tiến, an

toàn, phù hợp.

Ngăn chặn nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài, tăng cường thu gom và sử

dụng nguồn phế liệu trong nước là phù hợp với định hướng PTBV, vừa giúp đất

nước tiết kiệm chi phí nhập khẩu nguyên liệu và xử lý rác thải, vừa ngăn ngừa nguy

cơ Việt Nam trở thành bãi rác của thế giới.

Tại Nhật Bản, việc tái chế và tái sử dụng phế liệu luôn được khuyến khích

bằng các sắc thuế, các chính sách ưu đãi về tài chính. Người dân nước này phải

phân chia rác theo từng loại. Các cơ quan môi trường sẽ đến thu gom rác theo từng

loại và chuyển tới các nhà máy xử lý rác.

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân loại, thu gom chất thải rắn trong

khu công nghiệp

Việc phân loại, thu gom chất thải rắn công nghiệp thật ra không phải là vấn

đề khó, nếu nó được các cá nhân, chủ nguồn thải nhận thức được rõ tác dụng cũng

như tác động của nó đối với môi trường.

Nói đến đây, chúng ta cùng nhìn lại công tác phân loại và thu gom rác thải ở

TP Đà Nẵng những năm 2000, cũng như ở TP Hồ Chí Minh gần đây. Theo đó lãnh

đạo TP phát động và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên sự thiếu đồng bộ,

làm nửa vời, không kín kẽ đã khiến kế hoạch bị phá sản trong thời gian đầu; nhưng

đến nay, phong trào đã quay trở lại và được thực hiện một cách chuẩn chỉnh hơn,

đem lại hiệu quả thiết thực hơn.

Từ công tác phân loại và thu gom rác thải ở hai TP nói trên, chúng ta có thể

đi đến hai vấn đề:

Thứ nhất là đối với cá nhân, chủ nguồn thải CTRTKCN, trước tiên, họ phải

xác định và hiểu đúng đắn của việc BVMT, cũng như tác động xấu trở lại đối với họ

nếu như môi trường bị họ cố tình hủy hoại. Vì vậy, đối với những cá nhân, tập thể là

chủ nguồn thải mà cố tình vi phạm, gây cản trở đối với đơn vị xử lý CTRTKCN thì

66

cần phải có những hình phạt mang tính răn đe cao. Đồng thời cũng cần có chế tài

khen thưởng đối với các cá nhân, đơn vị làm tốt công việc phân loại, thu gom

CTRTKCN (chế tài này sẽ dần được hủy bỏ khi phần lớn cá nhân trong xã hội đã có

ý thức trong BVMT).

Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước, trước khi "đi bắt phạt" thì hãy

làm cho các chủ nguồn thải hiểu rằng họ không nên "phạm lỗi". Cụ thể ở đây, cần

phải đưa vào luật những hình phạt đủ sức răn đe, tiếp đến là tuyên truyền phổ biến

và sau cùng là cung cấp, trang bị cho các đơn vị hoạt động sản xuất công nghiệp

những yếu tố vật chất cần thiết (giảm trừ đợt đầu tiên qua thuế cho họ chi phí xây

dựng khu lưu trữ CTR theo từng chủng loại) để họ thực hiện. Như vậy sau khi công

bố, tuyên truyền phổ biến, lại được trang bị tận nơi tận chốn mà vẫn còn cố tình vi

phạm thì công tác xử lý vi phạm trên đây mới không gặp phải cản trở nào.

3.2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về vận chuyển và xử lý chất thải rắn trong

khu công nghiệp

Tại Hà Nội, ngoài Công ty TNHH MTV Môi trường Đô thị (URENCO), còn

nhiều đơn vị khác cùng tham gia thu gom rác, như: Công ty cổ phần Thăng Long,

Công ty cổ phần Tây Đô, Công ty cổ phần Xanh, Hợp tác xã Thành Công..., nhưng

hầu như vẫn không thể thu gom hết vì lượng CTR tăng nhanh. Trừ lượng rác thải đã

quản lý, số không ít còn lại đều bị các chủ nguồn thải đổ bừa bãi xuống các sông,

hồ, ngòi, khu đất trống gây ô nhiễm môi trường nước và không khí. Tại nhiều quận,

huyện trên địa bàn Hà Nội, những hồ, đầm, ao chưa được xây dựng kè chắn, đường

bao là địa điểm “lý tưởng” để các đối tượng đổ trộm rác, phế thải xây dựng. Trên

địa bàn các quận Hà Đông, Nam Từ Liêm, Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, nạn đổ

trộm phế thải diễn ra đáng báo động. Trong 9 tháng năm 2018, lực lượng chức năng

quận Hà Đông đã phát hiện, xử phạt gần 200 vụ vi phạm với tổng số tiền hơn 200

triệu đồng... [nguồn http://vanban.hanoi.gov.vn/kttd]

Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do hầu hết các KCN đều chưa

có quy hoạch khu tập trung CTR cũng như chưa có quy hoạch bãi chôn lấp chất

thải. Trong khi đó, trong các văn bản pháp luật về việc cấp phép hoạt động cho các

DN vận chuyển và xử lý CTRTKCN nói riêng và CTR đô thị nói chung lại chưa có

tính bắt buộc các DNnày phải thực hiện nghiêm chỉnh công tác BVMT.

67

Việc thiết kế và xử lý chất thải hiện tại ở các đô thị đã có bãi chôn lấp, thì lại

chưa phù hợp, đúng tiêu chuẩn mà thực chất chỉ là những nơi đổ rác không được

chèn lót kỹ, không được che đậy. Do vậy, những nơi này đã và đang tạo ra sự ô

nhiễm nặng nề tới môi trường đất, nước, không khí... ảnh hưởng trực tiếp đến sức

khỏe cộng đồng.

Vì vậy cần phải nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ,

khuyến khích thu gom, vận chuyển và đầu tư cơ sở xử lý, giảm thiểu và tái chế chất

thải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương. Cần lưu ý

tới giải pháp xây dựng cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia

đầu tư xây dựng và trực tiếp quản lý, khai thác, vận hành dự án xử lý chất thải sau

khi xây dựng xong đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của dự án xử lý chất

thải. Ngoài ra, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu nội dung về quản lý chất thải

quy định tại Luật. Tăng cường trao đổi, tham quan, học tập kinh nghiệm trong việc

hạn chế sử dụng, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, chú trọng đến tính khả thi, sự phù

hợp khi triển khai áp dụng cùng mô hình xử lý CTRTKCN giữa các địa phương.

Nghiên cứu đưa nội dung giáo dục môi trường trong đó có quản lý chất thải vào

chương trình chính khóa của các cấp học phổ thông. Nhất là, cần đào tạo và tăng

cường nguồn nhân lực biên chế phục vụ cho công tác quản lý chất thải.

Một giải pháp cần lưu ý thực hiện đó là tăng cường sự phối hợp giữa các cơ

quan quản lý nhà nước về môi trường của các địa phương trong kiểm soát chặt chẽ

các khu xử lý chất thải, bãi chôn lấp chất thải giáp ranh giữa các địa phương và việc

vận chuyển chất thải liên tỉnh. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động

thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện

và xử lý các vi phạm.

Bên cạnh đó, cần tăng nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho việc đầu tư

xây dựng các khu tập trung chất thải chuyên dụng, cũng như đầu tư xây dựng các

khu xử lý chất thải tập trung, hiện đại, đủ tiêu chuẩn; Nhà nước cần thực hiện các

chính sách kinh tế xã hội hỗ trợ cho các đơn vị xử lý CTRTKCN để chúng quay lại

vòng đời của mình hoặc biến chuyển thành những dạng vật chất khác phục vụ tốt

cho đời sống con người.

68

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi

phạm về quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp

Nhìn chung, công tác quản lý CTR trên cả nước nói chung và địa bàn TP Hà

Nội nói riêng trong những năm qua đã có nhiều sự quan tâm cải tiến, cả về quy trình

xử lý cũng như bộ máy quản lý và điều hành. Tuy nhiên, tình trạng vệ sinh môi

trường vẫn chưa được đảm bảo ở mức cao nhất có thể; do nhiều nguyên nhân, ngoài

những nguyên nhân khách quan như thiếu kinh phí, thiếu diện tích đất quy hoạch

bãi chôn lấp đúng tiêu chuẩn thì nguyên nhân quan trọng là ý thức của người dân

còn chưa cao, chưa quản lý được hoạt động của lực lượng thu gom rác, việc phối

hợp giữa khâu thu gom, vận chuyển rác và lưu chứa/xử lý rác gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật dù đã được ban hành nhưng vẫn còn

đó sự lúng túng trong thực thi nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong

quản lý CTRTKCN. Do đó chúng ta cần phải:

Kiện toàn hệ thống tổ chức phục vụ công tác BVMT từ Trung ương đến địa

phương theo Luật BVMT 2014.

Rà soát, quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh tới cấp

huyện, cấp xã; trách nhiệm các cơ quan chuyên môn; trách nhiệm của tổ chức chính

trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp; trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ; trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong công tác quản lý chất thải.

Đẩy mạnh công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện các nghị

định, nghị quyết, quyết định, thông tư về quản lý CTRTKCN và các quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia liên quan đến lĩnh vực quản lý CTRTKCN. Phải xây dựng được hệ

thống văn bản pháp luật về công tác tranh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quản lý

CTRTKCN thật cụ thể, chặt chẽ, dễ thực hiện; tránh tình trạng "ra luật rồi phải

hướng dẫn thi hành luật hoặc sửa luật".

Triển khai hiệu quả công cụ pháp lý trong công tác quản lý CTRTKCN: xác

nhận bảo đảm yêu cầu BVMT đối với cơ sở xử lý CTRTKCN trước khi hoạt động.

Nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích cán

bộ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong công tác quản lý CTRTKCN. Nếu cần

thiết thì có thể cho phép "xã hội hóa", thành lập đội giám sát việc thực hiện quy

định của pháp luật về quản lý CTRTKCN tại từng nhà máy, xí nghiệp,.... bên cạnh

69

lực lượng chức năng. Với giải pháp này lại cần có thù lao trả cho thành viên đội

giám sát, cho nên cần yêu cầu các chủ nguồn thải phải cam kết thực hiện nghĩa vụ

đóng góp tài chính để đội giám sát này được duy trì hoạt động.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường

của các địa phương trong kiểm soát chặt chẽ các khu xử lý chất thải, bãi chôn lấp

chất thải giáp ranh giữa các địa phương và việc vận chuyển chất thải liên tỉnh.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận chuyển và

xử lý CTR để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm

Như vậy, nếu chúng ta hoàn thiện được những vấn đề nói trên, thiết nghĩ đó cũng

là một giải pháp không hề nhỏ để góp phần BVMT KCN nói riêng và toàn cầu nói

chung.

3.3. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải

rắn trong khu công nghiệp tại Hà Nội

3.3.1. Nâng cao hiệu quả trong quản lý chất thải rắn trong khu công nghiệp tại

Hà Nội

Thứ nhất và cũng là điều tiên quyết, ấy chính là nâng cao ý thức BVMT của

các cá nhân, tổ chức làm phát sinh CTRTKCN. Theo đó, tại Hà Nội nói riêng và cả

nước nói chung, chúng ta cần phải: Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ

biến chính sách, chủ trương, pháp luật về CTRTKCN cho tất cả các đối tượng (quần

chúng nhân dân, cán bộ, công nhân viên chức trong các KCN), đặc biệt là vào Ngày

môi trường thế giới 5/6, để khơi gợi lối sống yêu thiên nhiên, gần gũi với môi

trường. Song song với đó là phát triển các phong trào quần chúng tham gia BVMT,

khen thưởng những cá nhân có thành tích tốt trong công tác BVMT.

Để thực hiện công tác này, đối với quần chúng nhân dân và công nhân thì đối

tượng đi tuyên truyền phải là những người gần gũi với họ, từ đó dễ dàng nắm bắt

được tâm tư, nguyện vọng, tâm lý của họ cũng như đi sâu đi sát cùng họ hơn; đối

với cán bộ, viên chức trong các KCN, đối tượng đi tuyên truyền phải là những

người nắm rõ, hiểu biết về pháp luật tốt cũng như có trình độ lý luận cao, có thế mới

thuyết phục được nhóm đối tượng này chấp hành pháp luật về BVMT một cách chủ

động và tích cực.

70

Bên cạnh đó, muốn vận động, tuyên truyền thì cũng cần phải có cách thức

tuyên truyền sao cho phù hợp nhất, hiệu quả nhất. Đối với người dân thường và

công nhân trực tiếp lao động sản xuất thì cần sử dụng những cách thức đơn giản mà

đạt nhiều hiệu quả: ngoài việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng

thì Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung cần đưa vào chương trình giáo dục phổ

thông những kiến thức cụ thể để dần đào tạo nên những lớp người có ý thức và

trách nhiệm đối với môi trường chung. Đối với lãnh đạo, cán bộ quản lý trong các

nhà máy, xí nghiệp thì có thể yêu cầu họ cam kết không xả thải bừa bãi và chấp

nhập chịu mức phạt cao hơn quy định của nhà nước trước khi cấp phép cho doanh

nghiệp hoạt động.

Thứ hai, triệt để quản lý chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh; đây có thể

coi là phần gốc rễ của vấn đề.

Thật vậy, bởi khi chúng ta làm tốt việc hạn chế sử dụng, giảm thiểu, tái sử

dụng, tái chế CTRTKCN ngay tại các KCN thì chúng ta đã góp phần vào việc giảm

đi rất nhiều CTRTKCN phát sinh ra môi trường. Để làm tốt được công tác này,

UBND TP Hà Nội cần phải khuyến khích các DN sử dụng các vật liệu, nguyên liệu

sản xuất thân thiện với môi trường. Nếu nguồn CTRTKCN là bắt buộc bị phát sinh

thì nên có chính sách khuyến khích đối với các DN thực hiện công tác giảm thiểu,

tái sử dụng, tái chế CTRTKCN bằng các chính sách đãi ngộ như ưu đãi về thuế,

khen thưởng,..

Về công đoạn phân loại, thu gom, lưu trữ; sau khi cấp phép hoạt động,

UBND TP Hà Nội cung cấp (có thể chỉ một lần hoặc nhiều lần, tùy vào nguồn kinh

phí của địa phương) cho mỗi đơn vị sản xuất công nghiệp những vật dụng cần thiết

để phân loại, thu gom, lưu trữ CTRTKCN.

Về công tác xử lý CTRTKCN, Hà Nội cần phải yêu cầu các chủ nguồn xử lý

CTRTKCN thực hiện nghiêm cam kết cũng như pháp luật về BVMT. Theo đó, xe

vận chuyển CTRTKCN cần phải được thiết kế riêng, phù hợp với công việc của

mình, thùng kín để không phát tán ra môi trường các chất thải từ KCN. Với các nhà

máy xử lý CTRTKCN, có nên chăng học tập theo Nhật hoàng Minh Trị đã từng làm

ở Nhật Bản những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; đó là UBND TP sẽ xúc

tiến hợp tác quốc tế, đầu tư kinh phí xây dựng các nhà máy xử lý CTRTKCN với

71

công nghệ hiện đại, tiên tiến hàng đầu thế giới, sau đó cổ phần hóa tiến tới tư nhân

hóa các nhà máy này?!

Thứ ba, đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT. Mục đích của xã hội hóa công

tác BVMT là nhằm phát huy tối đa các nguồn lực trong xã hội tham gia vào các

hoạt động BVMT. Các giải pháp thực hiện xã hội hóa hoạt động BVMT: Xác định

rõ trách nhiệm và phân công hợp lý nhiệm vụ BVMT giữa các ngành trong huyện,

trong đó ngành tài nguyên và môi trường đóng vai trò chủ đạo và làm đầu mối quản

lý Nhà nước về BVMT trên địa bàn huyện. Xây dựng và phát triển các cơ chế giải

quyết vấn đề môi trường liên ngành. Tăng cương công tác thanh kiểm tra, giám sát

các hoạt động BVMT. Áp dụng các chế tài cần thiết để xử lý nghiêm các nhà máy,

xí nghiệp vi phạm pháp luật về BVMT.

Thứ tư, Hà Nội cần lập quỹ ký hoàn trả. Với quỹ này, nó cũng như các quỹ

ký hoàn trả của các giải đấu thể thao nhằm đảm bảo được tất cả các đội tham dự giải

đấu nào đó phải có đầy đủ năng lực khi tham gia giải đấu đó. Để được cấp phép

hoạt động, các đơn vị kinh tế cũng cần phải có đầy đủ năng lực như vậy, có thế họ

mới không thể trốn tránh trách nhiệm đối với những vi phạm do mình gây ra. Nghĩa

là trước khi được đi vào hoạt động, doanh nghiệp đó cần phải có một khoản nhất

định để ký gửi vào quỹ này. Với quỹ này, mỗi DN sẽ được cấp một tài khoản trong

quỹ, nếu DN nào không chịu nộp phạt thì sẽ bị trừ vào tài khoản của mình trong quỹ

này; nếu DN không bị xử lý vi phạm, hoặc bị xử lý nhưng chủ động nộp phạt thì tài

khoản của họ sẽ được bảo toàn và phát sinh lãi. Hàng năm, TP sẽ ấn định vào một

ngày nào đó để thanh - quyết toán quỹ, nếu tài khoản của DN nào không đủ định

mức trong quỹ thì DN đó bắt buộc bị ngừng hoạt động; tài khoản của DN trong quỹ

này sẽ được chấm dứt và tất toán khi DN đó chính thức ngừng hoạt động. Có như

vậy mới đảm bảo công bằng cho các DN khi tất cả đều chấp hành nghiêm những xử

lý vi phạm bằng hình thức tài chính từ cơ quan quản lý nhà nước.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong công

tác quản lý CTRTKCN. Tại Hà Nội kiểm soát ô nhiễm là quá trình theo dõi, kiểm

tra về phương diện môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ….

Thực hiện có giấy xác nhận bản cam kết BVMT hoặc phiếu xác nhận bản đăng ký

BVMT theo phân cấp, đề án BVMT đơn giản. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước

72

cần thường xuyên thực hiện kiểm soát ô nhiễm để đưa công tác BVMT của cơ sở

sản xuất kinh doanh đi vào nề nếp. Đối với các cơ sở sản xuất, đơn vị kinh doanh

phải định kỳ tiến hành quan trắc, kiểm soát nguồn thải và báo cáo kết quả về cơ

quan quản lý.

3.3.2. Hoàn thiện đội ngũ chuyên môn trong công tác quản lý chất thải rắn trong

khu công nghiệp ở Hà Nội

Hà Nội cần có các quy định pháp lý về phân công, phân cấp chức năng,

nhiệm vụ rõ ràng giữa các sở, ngành tại địa phương trong quản lý nhà nước về quản

lý CTRTKCN; xác định rõ nội dung của quản lý nhà nước về môi trường, xác định

rõ chức năng, quyền hạn và quan hệ phối hợp giữa "cơ quan quản lý Nhà nước

thống nhất" về môi trường và "cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành” để tạo

thuận lợi cho việc quản lý mà không gây phức tạp cho cơ sở. Bên cạnh đó, phân

công trách nhiệm BVMT của đội ngũ chuyên môn trong công tác quản lý

CTRTKCN là một trong số các trụ cột của PTBV trong hoạt động sản xuất công

nghiệp tại Hà Nội. Do đó cần có các quy định về tổ chức chuyên môn, chuyên trách

về BVMT trong các đơn vị chấp pháp này; đây là cơ sở để BVMT ở các KCN tại

Hà Nội. Rồi việc phân cấp rõ ràng trong việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật

xử lý vi phạm trong công tác quản lý CTRTKCN tại Hà Nội để BVMT một cách tốt

hơn cũng là một vấn đề cần quan tâm. Trong đó quy định rõ thanh tra cấp nào thì

được thanh tra vấn đề gì. Tránh tình trạng nhiều đoàn thanh tra cùng thanh tra về

một vấn đề đối với một đối tượng thanh tra, gây khó khăn cho các đơn vị sản xuất,

kinh doanh. Do vậy, UBND TP Hà Nội cần ban hành quyết định về thành lập tổ

chức hoặc bộ phận chuyên môn về BVMT tại các KCN phù hợp với nhiệm vụ

BVMT trên địa bàn mình quản lý. Trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan cũng

cần có văn bản hướng dẫn rõ việc củng cố đội ngũ cán bộ môi trường tại các KCN

(cán bộ chuyên trách hay cán bộ kiêm nhiệm, số lượng cán bộ làm công tác BVMT

có quan hệ gì với quy mô, điều kiện đặc thù của mỗi KCN). Thêm vào đó, cũng cần

có quy định cụ thể về cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đại diện cho nhà nước khởi

kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp làm ô nhiễm môi trường,

gây thiệt hại cho các thành phần môi trường thuộc sở hữu của nhà nước mà nhà

73

nước chưa giao cho ai quản lý, sử dụng ổn định lâu dài hoặc các thành phần môi

trường không thể phân chia như hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên,…

Bên cạnh đội ngũ chuyên môn do UBND TP Hà Nội quản lý, cũng nên

chăng cho phép quần chúng nhân dân thành lập các đội tự quản, tự giám sát để giám

sát các hoạt động về BVMT của các cơ quan nhà nước tại Hà Nội? Nguồn kinh phí

để các đội này hoạt động tách rời ngân sách địa phương.

3.3.3. Tăng cường thực hiện quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn

trong khu công nghiệp tại Hà Nội

Với giải pháp này, UBND TP Hà Nội cần chỉ đạo rà soát, hoàn thiện cơ chế,

chính sách, hệ thống văn bản pháp luật của TP để phù hợp với thực tế các quy định

mới của Chính phủ, trong đó có Nghị định 38/2015/NĐ-CP và Nghị định

40/2019/NĐ-CP; tiếp tục rà soát bổ sung quy trình, định mức, đơn giá thu gom, vận

chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt; cơ chế khuyến khích người dân phát hiện vi phạm;

các quy chế phối hợp hiện có hoặc xây dựng bổ sung các quy chế phối hợp giữa

chính quyền cơ sở và các cơ quan chuyên môn thuộc TP trong việc giám sát, phát

hiện và xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong xả thải, thu gom,

vận chuyển và xử lý CTRTKCN.

Rà soát, đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các bãi đổ CTRXD theo quy

hoạch, tăng cường ứng dụng công nghệ tái chế rác thải xây dựng. Rà soát đánh giá

kết quả thực hiện chính sách thí điểm hỗ trợ 200 triệu đồng/điểm tập kết, trung

chuyển CTRTKCN, đề xuất biện pháp để thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.

Chỉ đạo các sở, ngành, UBND các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra, xử lý vi phạm về lĩnh vực môi trường theo quy định. Xem xét trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương để xảy ra tình trạng vi phạm quy định

về BVMT kéo dài nhưng không có biện pháp xử lý quyết liệt, triệt để hoặc không

tham mưu theo thẩm quyên có hiệu quả với UBND TP tháo gỡ kịp thời.

Chỉ đạo các sở, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã xây dựng kế hoạch cụ

thể và có lộ trình tổ chức khắc phục ngay đối với các tồn tại, ý kiến của các đại biểu

HĐND TP

Đối với UBND các quận, huyện, thị xã: Quán triệt và thực hiện nghiêm túc,

trách nhiệm Nghị quyết của HĐND TP, Quyết định số 41/2016/QĐ-UBND phân

74

cấp của TP trong công tác quản lý vệ sinh môi trường, công viên, vườn hoa, cây

xanh, hồ nước trên địa bàn TP.

Phối hợp với các sở, ngành và các tổ chức liên quan chấp hành nghiêm chủ

trương của TP về bố trí và hoàn thành đầu tư các điểm tập kết, trung chuyển

CTRTKCN trên địa bàn TP; khẩn trương và hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới

điểm tập kết, trung chuyển rác thải cấp huyện, đảm bảo mỗi xã, phường, thị trấn có

tối thiểu từ một đến hai điểm tập kết, trung chuyển rác thải; đồng bộ áp dụng các

thiết bị cơ giới hiện đại trong hoạt động thu gom rác thải.

Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã tăng cường kiểm tra, rà soát, chấn chỉnh

lại công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực BVMT. Tăng cường công tác tuyên

truyen để người dân chấp hành và tự giác chấp hành pháp luật về BVMT, xây dựng

phương án, kế hoạch để xử lý vi phạm về đổ CTRTKCN trái phép; xây dựng, lấn

chiếm ao, hồ thuộc địa bàn quản lý. Thực hiện công khai và nâng cao chất lượng

giám sát việc thực hiện thu gom, vận chuyển rác thải trên địa bàn của DN thực hiện

theo hồ sơ thầu.

Tổ chức rà soát, xây dựng kế hoạch, làm rõ lộ trình cụ thể để tổ chức khắc

phục ngay những vấn đề còn hạn chế theo yêu cầu của Thường trực HĐND và

UBND TP

Đối với các Ban, tổ đại biểu, đại biểu HĐND TP: tăng cường giám sát, khảo

sát việc thực hiện của UBND TP, các sở, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã

trong việc tổ chức khắc phục các hạn chế đươc nêu tại các phiên giải trình; báo cáo

đề xuất với Thường trực HĐND TP để thực hiện giám sát theo quy định…

3.4. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải

rắn trong khu công nghiệp

3.4.1. Hoàn thiện sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khu

công nghiệp

Sự phối hợp của các cơ quan, cấp hành chính nhà nước trong hoạt động quản

lý và thực thi công vụ là một yêu cầu tất yếu khách quan. Sự phối hợp giữa các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hoàn thiện pháp luật nhất là pháp luật về

quản lý CTRTKCN càng quan trọng hơn vì không có bất cứ cơ quan, cấp hành

chính nào thực hiện được chức năng quản lý, hoàn thành được nhiệm vụ của mình

75

một cách biệt lập. Bởi vậy, việc nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động quản lý

và thực thi công vụ của các cơ quan, cấp hành chính cũng là một trong những nhiệm

vụ quan trọng của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.

Đối với vấn đề phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc

hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTKCN cần xác định trách nhiệm và phân công

hợp lý nhiệm vụ quản lý chất thải nói riêng và BVMT nói chung giữa các ngành,

các cấp. Rà soát, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhằm khắc

phục triệt để tình trạng trùng lặp, chồng chéo, ôm đồm về chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan trong cùng hệ thống. Trên cơ sở đó, sắp xếp lại về tổ chức bộ máy cho

phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại cơ quan này nhằm thực hiện Nghị định

số 36/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ “Quy định tổ chức,

bộ phận chuyên môn về BVMT tại cơ quan nhà nước và DN nhà nước". Cụ thể:

Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường cả về nhân lực và trình độ chuyên

môn, tổ chức đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ cũng như pháp luật để đội ngũ cán

bộ thanh tra môi trường có đủ năng lực, trình độ thực thi hiệu quả công tác kiểm

soát việc thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chất thải;

Kiện toàn tổ chức và tạo điều kiện để Cảnh sát Môi trường các cấp hoạt động

có hiệu quả.

3.4.2. Tăng cường cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật để quản lý chất thải rắn trong

khu công nghiệp

Muốn hoàn thiện bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào cũng cần đến sự quan tâm của

toàn Đảng, toàn dân. Không chỉ tạo điều kiện về mặt vật chất mà còn tạo điều kiện

để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến của mình. Với một nền kinh tế đang phát

triển như nước ta hiện nay thì việc áp dụng công nghệ, phương tiện kỹ thuật hiện

đại cho việc hoàn thiện pháp luật là khó. Vì thế, muốn áp dụng các công nghệ kỹ

thuật hiện đại vào hoàn thiện pháp luật thì một mặt cần phát huy nội lực và một mặt

cần kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ cả về nhân lực và vật lực của của các quốc gia hiện

đại trên thế giới. Tăng cường quốc tế hoá vấn đề hoàn thiện pháp luật về quản lý

CTRTKCN bởi đây là vấn đề liên quan đến BVMT là vấn đề của toàn cầu.

Tăng cường đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho việc nghiên cứu, triển khai

ban hành các văn bản pháp luật về quản lý CTRTKCN. Cần phân định rõ phạm vi

76

đầu tư và phân cấp giữa đầu tư trung ương và đầu tư địa phương để đầu tư thực sự

có hiệu quả.

Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi, học tập kinh nghiệm của các quốc gia và

tổ chức có uy tín trên thế giới trong lĩnh vực hoàn thịên BVMT và pháp luật quản lý

CTRTKCN để từ đó rút kinh nghiệp áp dụng vào Việt Nam.

3.4.3. Các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công

nhân viên chức trong các khu công nghiệp

Trước hết: Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp;

kiện toàn, củng cố và ổn định bộ máy cán bộ làm công tác BVMT từ tỉnh đến cơ sở

để nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong công tác BVMT của từng nhà máy, xí

nghiệp.

Thứ hai: Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tạo sự

chuyển biến về nhận thức và hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc, các đoàn thể, cán bộ, đảng viên và các cán bộ, công nhân viên chức trong các

KCN về công tác BVMT trong đó có hoạt động quản lý CTRTKCN. Phát động phong

trào thi đua BVMT một cách rộng khắp và thường xuyên, liên tục; xây dựng tiêu chí và

đưa tiêu chí về BVMT vào đánh giá hoạt động của từng DN, cơ quan, đơn vị, xã,

phường, thị trấn, ấp, khu phố, gia đình,.v.v..Hàng năm tổ chức xét duyệt và khen

thưởng đối với những tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong công tác BVMT, nghiêm

túc kiểm điểm phê phán, xử phạt, răn đe đối với những tổ chức, cá nhân cố tình vi

phạm gây ô nhiễm môi trường. Thường xuyên kiểm tra lập “danh sách đen” và “danh

sách xanh” về công tác BVMT và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ ba: Đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT; tăng đầu tư và sử dụng đúng

mục đích, hiệu quả các nguồn chi cho công tác BVMT của địa phương

Thứ tư: Cần phối hợp một cách có hiệu quả với Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm

đẩy mạnh hơn quá trình đưa giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân.

Thứ năm: Thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các Gameshow về công tác

BVMT cho cán bộ, công nhân viên chức trong các KCN nhằm tạo thói quen BVMT

cho mọi người.

77

Tiểu kết chương 3

Với hai chương đầu tiên, chúng ta đã nắm được những vấn đề cơ bản về

pháp luật quản lý CTR cũng như thực trạng áp dụng pháp luật quản lý CTR tại các

KCN ở TP Hà Nội. Từ đó chúng ta thấy còn đó nhiều bất cập cũng như kẽ hở trong

công tác quản lý CTRTKCN theo pháp luật ở nước ta nói chung và Hà Nội nói

riêng. Vì thế, dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở các điều kiện

kinh tế - xã hội, trên tình hình thực tế cũng như tiếp thu kinh nghiệm của các nước

tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đã trình bày một số giải pháp với mong muốn

pháp luật về quản lý CTRTKCN được hoàn thiện hơn.

78

KẾT LUẬN

Qua ba chương của đề tài này, chúng ta đã nắm bắt được các vấn đề sau đây:

Một là, CTR (trong đó có CTRTKCN) đã được các nhà môi trường thế giới

cũng như các văn bản pháp luật về môi trường ở nước ta định nghĩa khá rõ ràng và

đã phân chia chúng ra làm nhiều loại khác nhau. Theo đó, CTRTKCN là một dạng

vật chất ở thể rắn, không phải là thể lỏng, thể khí, không phải là CTNH và được thải

ra từ các hoạt động khác nhau của con người trong các KCN. CTRTKCN là nguồn

nguyên liệu tái chế quan trọng cho sản xuất kinh doanh nhưng nếu ta không biết

cách quản lý thì sẽ gây ảnh hưởng rất xấu đền môi trường và sức khoẻ của con

người.

Hai là, trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội thì quản lý CTRTKCN là

một đòi hỏi tất yếu của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển gắn với BVMT theo

quan điểm PTBV. Đây là tổng hợp những hoạt động mà các cơ quan nhà nước và

các tổ chức, cá nhân thực hiện để phòng ngừa, giảm thiểu những tác động xấu của

CTRTKCN, đảm bảo sự an toàn cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Hoạt động

này có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, quản lý

CTRTKCN bằng pháp luật là vấn đề đã được chú trọng ở Việt Nam.

Ba là, công tác quản lý CTRTKCN hiện nay chịu sự ảnh hưởng của nhiều

yếu tố khác nhau như: Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức của

người dân; trình độ khoa học, kỹ thuật; lợi ích kinh tế của DN.

Bốn là, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý CTRTKCN là một

đòi hỏi bức thiết của Việt Nam hiện nay nhằm tăng cường hiệu quả của công tác

quản lý chất thải nói chung và quản lý CTRTKCN nói riêng bằng pháp luật. Hoạt

động này cần thực hiện trên cơ sở đảm bảo PTBV; đảm bảo sự đồng bộ của hệ

thống pháp luật môi trường; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và quan hệ

hợp tác quốc tế trong BVMT. Việc quản lý CTRTKCN được điều chỉnh bằng Luật

BVMT 2014, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP và một số văn bản khác. Các văn bản

này bước đầu đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất thải nói chung và

CTRTKCN nói riêng, tuy nhiên còn những bất cập cần được hoàn thiện:

Hoàn thiện về các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý CTRTKCN; hoàn

thiện về quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý CTRTKCN; hoàn

79

thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực pháp luật quản lý

CTRTKCN.

Hoàn thiện về cơ chế quản lý CTRTKCN.

Như vậy, nếu chúng ta giải quyết tốt được những vấn đề nêu trên, chắc hẳn

công tác quản lý CTRTKCN theo pháp luật ở nước ta sẽ thuận lợi hơn cho cơ quan

quản lý nhà nước, các DN và cộng đồng sẽ chủ động chấp hành,… Từ đó, môi

trường tự nhiên sẽ được giảm thiểu đến mức tối đa những tác động tiêu cực từ hoạt

động sản xuất, kinh doanh của con người.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quỳnh Anh (2008), Xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh: Giải pháp tối ưu

cho môi trường, Hà Nội mới số tháng 3/2008

2. Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia (2009), Tiêu chuẩn Việt Nam 6705 - 2009,

NXB Lao động - xã hội

3. Bộ TN&MT (2005), Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2004 –

CTR

4. Bộ TN&MT (2006), Báo cáo hiện trạng môi trường toàn quốc năm 2005 -

Phần tổng quan

5. Chính phủ (2015), Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý

chất thải và phế liệu, Hà Nội

6. Chính phủ (2015), Thông tư số 35/2015/NĐ-CP ngày 30/6/2015 về bảo vệ

môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,

Hà Nội

7. Chính phủ (2015), Thông tư số 36/2015/NĐ-CP ngày 30/6/2015 về quản lý

chất thải nguy hại, Hà Nội

8. Chính phủ (2016), Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 về quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội

9. Chính phủ (2017), Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 về quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ tài nguyên và môi

trường, Hà Nội

10. Chính phủ (2017), Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 về phê duyệt

điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm

2025, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội

11. Chính phủ (2019), Nghị định số 40/2019 ngày 13/5/2019 về sửa đổi, bổ sung

một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật bảo

vệ môi trường, Hà Nội

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 301

81

13. Vũ Hồng Khánh và nhóm biên soạn (2017), Từ điển môi trường Anh Việt,

NXB Khoa học và kỹ thuật

14. Khánh Khoa (2009), Tỷ lệ thu gom CTR đạt 80%, Hà Nội mới 7/2009

15. Phạm Sỹ Liêm (2007), Quản lý CTR ở Việt Nam, Tóm lược tham luận tại

Hội nghị xây dựng Châu Á lần thứ 4 tổ chức tại Đài Bắc từ 26-28/6/2007

16. Hoàng Đức Liên (2006), Kỹ thuật và thiết bị xử lý chất thải BVMT. Nhà xuất

bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr 33-46

17. Nguyễn Thị Loan (2010), Nghiên cứu mô hình xử lý CTR sinh hoạt bằng

phương pháp ủ phân vi sinh tại thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội .

Khóa luận tốt nghiệp năm 2010, tr34-38

18. C.Mác, Ph.Ăng-ghen toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1994

19. Nguyễn Văn Phương (chủ nhiệm đề tài cấp trường - 2008), Báo cáo tổng

thuật, Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải, trường Đại học luật Hà Nội

20. Nguyễn Văn Phương (2007), Pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu

phế liệu ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học

21. Nguyễn Văn Phương (2006), Một số vấn đề về khái niệm chất thải, tạp chí

Luật học số 10/2006

22. Nguyễn Văn Phương(2003), Chất thải và quy định về quản lý chất thải, Tạp

chí Luật học số 4/2003

23. Quốc hội (2005), Luật BVMT, Hà Nội

24. Quốc hội (2014), Luật BVMT, Hà Nội

25. Số liệu quan trắc của CEETIA

26. Sở TN&MT TP Hà Nội, Phòng TN&MT (2018), Báo cáo về công tác quản

lý CTR tại TP Hà Nội 2018

27. Nguyễn Danh Sơn (2007), Sử dụng chất thải trong quá trình phát triển kinh tế ở

Việt Nam, Hội nghị Môi trường toàn quốc 2005, Tài liệu Hội nghị

28. Thiên Tâm (2009), Cần phải hoàn thiện văn bản pháp luật BVMT, Tạp chí

Công nghiệp 3/2009

82

29. Dương Thị Thơ, Tô Kim Oanh (2003), Báo cáo nghiên cứu tổng quan, Nâng

cao vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong BVMT thông qua tăng cường

công tác phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng, Hà Nội mới 12/2003

30. Vũ Thị Duyên Thuỷ (2009), Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, Luận

án Tiến sỹ Luật học

31. Tổng cục Thống kê (2018), Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong

độ tuổi ở khu vực thành thị năm 2018 phân theo vùng

32. Tổng cục Thống kê (2019), Dân số và mật độ dân số năm 2019 phân theo

địa phương

33. Đức Trường, Quản lý chất thải và chất lượng môi trường, Hà Nội mới

11/6/2008

34. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Trẻ

83