1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất thải y tế đã và đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội nói
chung và của ngành y tế, môi trường nói riêng. Chất thải y tế tiềm ẩn
những nguy cơ rủi ro lây nhiễm các mầm bệnh hoặc gây nguy hại cho
người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng nếu không được quản lý
theo cách tương ứng và từng loại chất thải. Phân loại và thu gom chất
thải rắn y tế đang nhận được sự quan tâm của cộng đồng, đặc biệt là
đối với các chất thải có chứa mầm bệnh [16]. Ước tính có tới 10 –
25% chất thải rắn y tế nguy hại, nếu không được quản lý và xử lý tốt
sẽ là nguồn lây nhiễm nguy hiểm cho con người. Ngoài ra, việc xả
rác bừa bãi chất thải y tế còn có thể gây ô nhiễm nguồn nước, ô
nhiễm không khí... [1], [37]. Hiện nay, vì nhiều lý do, trong đó có áp
lực từ nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, sự quá tải của nhiều
bệnh viện, sự thiếu đồng bộ cơ sở hạ tầng của bệnh viện nên dẫn tới
vệ sinh môi trường của nhiều bệnh viện chưa được đảm bảo. Phương
tiện thu gom chất thải y tế như túi, thùng đựng chất thải, xe đẩy rác,
nhà chứa rác, còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn
theo yêu cầu của Quy chế quản lý chất thải y tế. Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Thanh Hóa là bệnh viện hạng I với 1200 giường bệnh. Ngay khi
có Quyết định số 1788/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Thanh hóa đã tích cực triển khai nhiều hoạt động để
hướng tới xử lý triệt rác thải, giảm thiểu tối đa ô nhiễm môi trường
[3]. Để đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi trường của Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài
về: "Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
Thanh Hóa và một số yếu tố liên quan năm 2018”với 2 mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
Thanh Hóa năm 2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phân
loại và thu gom chất thải rắn y tế của đối tượng nghiên cứu.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm về quản lý chất thải y tế
1.1.1. Một số khái niệm về quản lý chất thải y tế
Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động của các
cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế thông
thường và nước thải y tế.
Chất thải y tế nguy hại là chất thải y tế chứa yếu tố lây nhiễm hoặc có
đặc tính nguy hại khác vượt ngưỡng chất thải nguy hại, bao gồm chất
thải lây nhiễm và chất thải nguy hại không lây nhiễm.
Quản lý chất thải y tế là quá trình giảm thiểu, phân định, phân loại,
thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái chế, xử lý CTYT và giám sát quá
trình thực hiện.
Giảm thiểu chất thải y tế là các hoạt động làm hạn chế tối đa sự phát
thải chất thải y tế.
Thu gom chất thải y tế là quá trình tập hợp chất thải y tế từ nơi phát
sinh và vận chuyển về khu vực lưu giữ, xử lý CTYT trong khuôn
viên cơ sở y tế.
Vận chuyển chất thải y tế là quá trình chuyên chở chất thải y tế từ nơi
lưu giữ chất thải trong cơ sở y tế đến nơi lưu giữ, xử lý chất thải của
cơ sở xử lý chất thải y tế cho cụm cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y
tế nguy hại tập trung hoặc cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung có
hạng mục xử lý chất thải y tế.
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế
Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về CTYT đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt ở các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Canada... Các
nghiên cứu đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực như tình hình phát sinh;
phân loại CTYT; quản lý CTYT (biện pháp làm giảm thiểu chất thải,
tái sử dụng chất thải, xử lý chất thải, đánh giá hiệu quả của các biện
pháp xử lý chất thải...); tác hại của CTYT đối với môi trường, sức
khoẻ; biện pháp làm giảm tác hại của CTYT đối với sức khỏe cộng
đồng, sự đe dọa của chất thải nhiễm khuẩn tới sức khỏe cộng đồng,
ảnh hưởng của nước thải y tế đối với việc lan truyền dịch bệnh;
những vấn đề liên quan của y tế công cộng với CTYT; tổn thương
3
liên tư
nhiễm khuẩn ở điều dưỡng, hộ lý và người thu gom rác; nhiễm khuẩn
bệnh viện, nhiễm khuẩn ngoài bệnh viện đối với người thu nhặt rác,
vệ sinh viên và cộng đồng; người phơi nhiễm với HIV, HBV, HCV ở
nhân viên y tế [50], [51], [54], [55].
Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
Hiện nay, cả nước có 13.511 cơ sở y tế bao gồm các cơ sở khám chữa
bệnh và dự phòng từ cấp Trung ương đến địa phương với lượng chất
thải rắn phát sinh vào khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có 47 tấn/ngày
là chất thải rắn y tế nguy hại. Lượng nước thải phát sinh từ các cơ sở
y tế có giường bệnh là khoảng 125.000 m3 /ngày. Theo số liệu thống
kê (công bố) của Cục Quản lý môi trường Y tế, năm 2011, uớc tính
đến năm 2015 lượng chất thải rắn y tế phát sinh sẽ là 590 tấn/ngày và
đến năm 2020 là khoảng 800 tấn/ngày. Về khí thải y tế nguy hại,
lượng phát sinh chủ định từ hoạt động chuyên môn của ngành y tế
không nhiều, chủ yếu phát sinh từ các cơ sở y tế có các phòng thí
nghiệm phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo y dược. Tuy nhiên
lượng khí thải hình thành không chủ định từ hoạt động xử lý chất thải
y tế vẫn còn chưa được kiểm soát [24].
1.3. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế
Hệ thống văn bản pháp lý về quản lý chất thải y tế:
- Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật.
Điều 39, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã đưa ra các quy định về bảo
vệ môi trường trong bệnh viện và các cơ sở y tế.
- Thông tư 36/2015/TT- BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về quản lý chất thải nguy hại
- Thông
tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày
31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định
quản lý chất thải y tế
- Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về
quản lý chất thải và phế liệu
Nguồn nhân lực làm công tác quản lý chất thải
Trình độ hiểu biết của Nhân viên y tế về quản lý chất thải y tế
Về kinh phí và trang thiết bị xử lý chất thải:
Mức độ hiểu biết của nhân dân về quản lý chất thải y tế.
4
Chương II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ▪ Chất thải y tế:
- Chất thải rắn y tế: Chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
- Nước thải bệnh viện: Nước thải ra từ các hoạt động của bệnh viện. ▪ Nhân viên y tế là những người phơi nhiễm với chất thải y tế
nguy hại.
Gồm có Bác sỹ và Điều dưỡng. ▪ Cơ sở vật chất, trang thiết bị quản lý chất thải:
- Dụng cụ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế.
- Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu tháng 5 đến
tháng 9 năm 2018 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: là nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho mục tiêu 1:
▪ Chất thải rắn: Cân định lượng toàn bộ rác thải hàng ngày của bệnh viện 1 lần/ngày, cân liên tục hàng ngày.
+, N/NO3
-, N/NO2
▪ Nước thải bệnh viện: Lấy nước thải tại hố ga sau khi đã qua hệ
thống xử lý, 2 lần (tháng 6 và tháng 9). Làm 7 chỉ số xét nghiệm:
-, tổng chất thải lơ
pH, COD, BOD5, N/NH4
lửng và Coliforms.
▪ Cỡ mẫu quan sát thực trạng phân loại chất thải rắn y tế: quan sát tại
các khoa lâm sàng. Quan sát tất cả các thùng rác trên xe tiêm, xe
thay băng trong 3 ngày mỗi ngày 2 lượt sáng và chiều trước khi thu
gom. Cỡ mẫu: áp dụng công thức tính cỡ mẫu nghiên cứu mô tả.
n: Cỡ mẫu cần nghiên cứu
p=0,455: Tỷ lệ nhân viên y tế đạt thực hành thu gom chất thải rắn y tế
(45,5%) theo nghiên cứu của Phạm Đức Giang tại Bệnh viện Y học
cổ truyền Kiến Giang (2016) [30].
5
d: Sai số tuyệt đối so với p, chọn d = 0,049
Cỡ mẫu
55
117
93
96
39
Z1-α/2: Hệ số tin cậy, ứng với độ tin cậy 95%( α=0,05)→ Z1-α/2= 1,96
Thay các tham số vào công thức trên tính được n = 397
➔ Trên thực tế nghiên cứu thực hiện trên 400 đối tượng.
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu tầng theo tỷ lệ
Số NV
Khoa, phòng
88
I. Xét nghiệm
180
II. Khối ngoại
178
III. Khối nội
105
IV. Hồi sức tích cực, Cấp cứu
V. Chuyên khoa
70
Chọn mẫu phỏng vấn: Lập danh sách nhân viên y tế theo từng khoa,
sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thống để chọn đủ số
nhân viên y tế.
2.3. Biến số và chỉ số nghiên cứu: Biến số, chỉ số theo 2 mục tiêu
nghiên cứu.
- Cách đánh giá: ▪ Thang điểm cho các biến số nghiên cứu
Tiêu chuẩn đánh giá dựa theo Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-
BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định quản lý chất thải y tế và theo tác giả Nguyễn
Văn Chuyên [23], [13], nhóm nghiên cứu dưa ra cách cho điểm kiến
thức, thực hành về quản lý chất thải y tế của nhân viên y tế như sau: ▪ Kiến thức (điền phiếu trả lời)
Mỗi kiến thức đạt sẽ được 1 điểm, kiến thức chưa đạt là 0 điểm. Tổng
tối đa là 49 điểm. Phân loại: Kiến thức đạt: khi đạt từ 75% tổng số
điểm trở lên (≥ 36 điểm) Kiến thức chưa đạt: khi đạt duới 75% ▪ Tự đánh giá thực hành (điền phiếu trả lời)
Mỗi thực hành sẽ được 1 điểm, thực hành không đúng hoặc không
thực hành là 0 điểm. Tổng số điểm tối đa là 25. Phân loại: Thực hành
tốt: khi đạt từ 75% tổng số điểm trở lên (từ ≥ 18 điểm) ▪ Quan sát thực hành
Không làm 0 điểm, Có làm 1 điểm, làm đúng 2 điểm. Tối đa 50
điểm. Thực hành tốt: khi đạt từ 75% tổng số điểm trở lên
2.4. Phân tích và xử lý số liệu
6
Nhập liệu bằng phần mềm Epi Data 3.1. Số liệu được làm sạch và mã
hóa trước khi phân tích. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0
2.5. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức Trường Đại học Thăng Long thông
qua. Nghiên cứu được được lãnh đạo bệnh viện, Hội đồng Kiểm soát
nhiễm khuẩn bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh hóa phê duyệt và Hội đồng
đạo đức của Trường Đại học Thăng Long thông qua.
2.6. Hạn chế nghiên cứu
- Phiếu khảo sát được nhân viên đánh tập trung trong một phòng, nên
không tránh khỏi giống nhau và khi cán bộ khảo sát quan sát thì công
việc phân loại thu gom ý thức có thay đổi.
- Giới hạn của đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu trong phạm vi ở Bệnh viện
đa khoa tỉnh Thanh Hóa, do đó chưa có được những đánh giá sâu sắc, cụ
thể về thực trạng quản lý rác thải y tế trên phạm vi rộng của toàn tỉnh và
cả nước.
- Từ thực trạng được bàn đến trong giới hạn của đề tài, các giải pháp đưa
ra có giá trị áp dụng trực tiếp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
rác thải y tế tại bệnh viên đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Đối với các bệnh
viện khác dừng lại ở mức độ để làm tài liệu tham khảo và có khả năng
áp dụng cho các bệnh viện có điều kiện, đặc điểm tương tự như Bệnh
viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
7
Trung bình
1200
5464,5
5295,6
168,9
4,6
0,14
3,1
Chương III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Thanh Hóa năm 2018
Bảng 3.1. Thực trạng lượng chất thải rắn y tế tại bệnh viện
Đơn vị
Chỉ số NC
GB
Giường bệnh
Kg/ngày
CTRYT
Kg/ngày
CT Thông thường
Kg/ngày
CTYT NH
Kg/ngày
CTRYT/GB
Kg/GB/ ngày
CTYTNH/ GB
%
CTYTNH/ CTRYT
Lượng chất thải y tế nguy hại chiếm gần 3,1% chất thải rắn y tế thải
ra hàng ngày trong bệnh viện.
Bảng 3.2. Thực trạng chất lượng nước thải bệnh viện
Kết quả
Đơn vị tính Tên chỉ tiêu Lần 1 Lần 2
pH 7,46 7,45
mg/l Hàm lượng COD 98,2 98,3
mg/l 46,8 46,7 Hàm lượng BOD5
mg/l Tổng chất rắn lơ lửng 89,5 89,4
+
mg/l 8,1 8,2 Hàm lượng N/NH4
-
mg/l 10,8 10,9 Hàm lượng N/NO3
-
mg/l 4,3 4,3 Hàm lượng N/NO2
4.6.103 4.6.103
Coliforms
MNP/100ml
Qua 2 lần quan trắc chất lượng nước thải y tế đầu ra, của hệ thống xử
lý nước thải, cho thấy các chỉ số đều cho phép trong nước thải y tế
khi thải vào các nguồn nước không dùng cho mục đích cấp nước sinh
hoạt (Theo QCVN 28:2010/BTNMT).
- Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
8
Bảng 3.3. Số NVYT làm ở các bộ phận tham gia khảo sát
Bộ phận công tác
Khối Ngoại
Khối Nội
Hồi sức tích cực, Cấp cứu
Chuyên khoa
Xét nghiệm Số lượng
117
93
96
39
55 Tỷ lệ %
29,3
23,3
24,0
9,7
13,7
Bộ phận có số người tham gia khảo sát đông nhất là khối Ngoại với
117 người chiếm 29,3%; Hồi sức tích cực, Cấp cứu 96 người chiếm
24% và khối Nội 93 người chiếm 23,3%. Hai khoa có số lượng tham
gia ít là: Chuyên khoa 39 người (9,7%) và Xét nghiệm 55 người
(13,7%).
- Kiến thức, thực hành về quản lý chất thải y tế Bảng 3.4. Kiến thức phân loại, thu gom chất thải y tế (n = 400)
Kiến thức Đạt Không
Kiến thức cơ bản về chất thải y tế 344 (86,0) 56 (14,0)
Quy định chung về quản lý chất thải y tế 383 (95,7) 17 (4,3)
Giảm thiểu chất thải y tế 356 (89,0) 44 (11,0)
383 (95,7) 17 (4,3) Mã màu, dán nhãn và tiêu chuẩn túi,
thùng đựng chất thải y tế
Quy trình phân loại, thu gom chất thải 392 (98,0) 8 (2,0)
An toàn lao động và ứng phó sự cố 354 (88,5) 46 (11,5)
Số liệu bảng 3.4 thể hiện kiếnthức phân loại, thu gom chất thải y tế
tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Trong số 400 người tham gia
khảo sát,kiến thức đúng về quy trình phân loại, thu gom chất thải đạt
tỉ lệ cao nhất (98,0%); quy định chung về quản lý chất thải y tế và
mã màu, dán nhãn tiêu chuẩn túi, thùng đựng chất thải y tế đều có tỉ
lệ 95,7% . Kiến thức cơ bản về chất thải y tế và an toàn lao động, ứng
phó với sự cố lao động có tỷ lệ thấp nhất với lần lượt là 86,0 và
88,5%.
9
Biểu đồ 3.1. Thực trạng tự khai báo phơi nhiễm với vật sắcnhọn
Biểu đồ 3.1 cho ta thấy có 5,8% nhân viên y tế khai báo bị phơi
nhiễm với vật sắc nhọn trong 6 tháng vừaqua và 94, 2% không bị
phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong vòng 6 tháng vừa qua.
Biểu đồ 3.2. Thực trạng tự khai báo phơi nhiễm với máu, dịch
Biểu đồ 3.2 cho thấy chỉ có 3% nhân viên y tế khai báo bị
phơi nhiễm với máu, dịch trong 6 tháng vừa qua và 97% không bị
phơi nhiễm với máu, dịch trong vòng 6 tháng vừa qua.
Biểu đồ 3.3. Thực trạng tự khai báo tiêm viêm gan B (n=400)
10
Biểu đồ 3.3 cho thấychỉ có 8,8% khai báo tiêm đủ 3 mũi
phòng viêm gan B; 73% tiêm không đủ 3 mũi còn lại 18,2% không
tiêm phòng..
Biểu đồ 3.4. Tập huấn kiến thức về quản lý chất thải y tế (n=400).
Biểu đồ 3.4 cho thấy có 98 % được tập huấn kiến thức về
quản lý chất thải y tế và chỉ có 2% không tham gia tập huấn.
Biểu đồ 3.5. Thực trạng tập huấn kiến thức về quản lý chất thải y
tế theo nhóm tuổi (n =400)
Biểu đồ 3.5 cho thấy tỷ lệ được tập huấn theo các nhóm tuổi của
NVYT. Hầu hết NVYT ở các nhóm tuổi được tập huấn về quản lý
chất thải y tế chiếm tỷ lệ từ 96,8% đến 98,0%. Số người không tham
gia tập huấn chiếm tỷ lệ thấp. Ở độ tuổi dưới 35 tỷ lệ người không
tham gia tập huấn chiếm 2% (6 người); Tỉ lệ này ở độ tuổi từ 35-50
chiếm 1,4% (1 người), và độ tuổi trên 50 chiếm 3,2% (1 người).
11
Biểu đồ 3.6. Quan sát thực hành phân loại chất thải (n=400)
Biểu đồ 3.6 cho thấy qua quan sát thực hành về phân loại chất thải y
tế của nhân viên y tế đạt tỉ lệ 97,4%. Tỉ lệ không đạt là 5,3%.
Biểu đồ 3.7. Quan sát thực hành phân loại chất thải theo tuổi
Biểu đồ 3.7 trên cho thấy tỷ lệ NVYT được quan sát đã thực
hành phân loại chất thải đúng theo các nhóm tuổi. Tỷ lệ đạt chiểm
cao nhất ở người từ 35-50 tuổi (97,3 %), tiếp đến là ở người có độ
tuổi từ 50 trở lên (96,8%) và ở người dưới 35 tuổi (93,9%).
Biểu đồ 3.8. Quan sát thực hành xử lý phân loại sai chất thải
12
Biểu đồ 3.8 cho thấy tỉ lệ thực hành về xử lý phân loại sai
chất thải y tế của nhân viên y tế chỉ có 10,5% không đạt, còn 89,5%
là xử trí phân loại đúng chất thải y tế.
Biểu đồ 3.9. Quan sát thực hành xử lý sai phân loại chất thải theo tuổi
Biểu đồ 3.9 cho thấy tỷ lệ thực hành xử lý phân loại chất thải
theo các nhóm tuổi của NVYT được quan sát. Tỷ lệ đạt chiếm cao
nhất ở người từ 35-50 tuổi 90,4 %, tiếp đến là ở người dưới 35 tuổi
(89,9%) và ở người có độ tuổi từ 50 trở lên (83,9%).
Biểu đồ 3.10. Quan sát thực hành thu gom túi đựng chất thải
Biểu đồ 3.11. Quan sát thực hành thu gom túi chất thải theo
nhóm tuổi (n=400)
13
Biểu đồ 3.11 cho thấy tỉ lệ thực hành thu gom của NVYT
được quan sát theo các nhóm tuổi. Số người được đánh giá ở mức đạt
chiểm tỷ lệ cao hơn so với người không đạt, chiếm tỷ lệ từ 74,2% đến
80,8%. Số người không đạt chiếm tỷ lệ từ 19,2% đến 25,8%.
3.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phân
loại và thu gom chất thải rắn y tế
3.2.1. Kiến thức về phân loại và thu gom chất thải rắn y tế
OR (95%CI) p Bảng 3.5. Mối liên quan giữa giới tính với kiến thức của NVYT
Kiến thức thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
0,17 0,58
(0,60-1,30) 77
88,5 10 11,5
291 93,0 22 7,0
73
5
93,6
295 91,6 27 1
0,5-3,6 6,4
8,4 0,56
Đặc điểm
Giới tính
Nam
Nữ
Trình độ chuyên môn
Bác sỹ
Điều dưỡng
Bảng 3.5 cho thấy không có mối liên quan giữa giới tính với kiến
thức thu gom của nhân viên y tế.
OR (95%CI) p Bảng 3.6. Mối liên quan giữa bộ phận công tác với kiến thức
Kiến thức thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
90,0 5 Đặc điểm
Giới tính
Xét nghiệm 50
103 88 9,1
14 12,0 1
0,7 (0,3 - 2,2) 0,56 Khối Ngoại
87 93,5 6 6,5 1,5 (0,4 - 5,0) 0,55
91 5,2 94,8 5 1,8 (0,5 - 6,6) 0,36
94,9 2 5,1 37 1,9 ( 0,3 - 10,1) 0,47
4,6 1 (1,93-
12,17) 223 96,5
8
145 85,8 24 3,5
14,2 <0,01
Khối Nội
Hồi sức tích cực,
Cấp cứu
Chuyên khoa
Thâm niên công tác
>5 năm
1-5 năm
Không có mối liên quan giữa bộ phận công tác với kiến thức thu gom
của nhân viên y tế. Tỷ lệ kiến thức thu gom đạt cao hơn ở những
14
NVYT có thời gian công tác >5 năm: OR=4,61 (95%CI: 1,93-12,17),
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
OR (95%CI) p Bảng 3.7. Mối liên quan giữa giới tính với kiến thức của NVYT
Kiến thức thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
<0,01 102,76
(12,05-4641,3) 367 93,6 25 6,4
87,5
12,5 7
1
Đặc điểm
Tham gia tập huấn
Có
Không
Tỷ lệ kiến thức thu gom đạt cao hơn ở đối tượng có tham gia tập
huấn OR=102,76 (95%CI: 12,05-4641,26); mối liên quan có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
3.2.2. Thực hành về phân loại và thu gom chất thải rắn y tế
p Bảng 3.8. Mối liên quan giữa giới tính với thựuc hành của NVYT
Thực hành thu
gom Không đạt OR (95%CI)
SL % Đạt
SL %
<0,01 2,57
(1,24-5,20)
2,0
0,77-1,53 6,4
12,1 0,15
Đặc điểm
Giới tính
286 91,4 27 8,6
Nữ
Nam
80,5 17 19,5
70
Trình độ chuyên môn
73
Bác sỹ
5
93,6
Điều dưỡng
283 87,9 39
Bảng 3.8 cho thấy không có mối liên quan giữa trình độ chuyên môn
với thực hành thu gom của nhân viên y tế.
OR (95%CI) p Bảng 3.9. Mối liên quan giữa bộ phận công tác với thực hành
Thực hành thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
Đặc điểm
Giới tính
Xét nghiệm 50
93 90,0 5
9,1
79,5 24 20,5 1
0,39 (0,14-1,1) 0,62 Khối Ngoại
88 94,6 5 5,4 1,8 (0,5-6,4) 0,38
93 96,9 3 3,1 3,1 (0,7-13,5) 0,12 Khối Nội
Hồi sức tích cực,
Cấp cứu
15
17,9 32 82,1 7 0,46 (0,13-1,6) 0,21
1,86
(0,91-4,00) 156 92,3 13
200 86,6 31 7,7
13,4 0,08
Chuyên khoa
Thâm niên công tác
>5 năm
1-5 năm
Không có mối liên quan giữa bộ phận công tác, thâm niên với thực
hành thu gom của nhân viên y tế.
OR (95%CI) p Bảng 3.10. Mối liên quan giữa tham gia tập huấn với thực hành
Kiến thức thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
<0,01 27,94
(4,70-287,2) 354 90,3 38 9,7
75,0
25,0 6
2
Đặc điểm
Tham gia tập huấn
Có
Không
Tỷ lệ thực hành thu gom chất thải y tế cao hơn ở đối tượng có tham
gia tập huấn OR=27,94 (95%CI: 4,70-287,19); mối liên quan có ý
nghĩa thống kê với p <0,05.
OR (95%CI) p Bảng 3.11. Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành của NVYT
Thực hành thu
gom Chưa từng
(n=77) Đã từng
(n=623)
SL % SL %
0,14 2,0
(0,8-5,2) 330 89,7 38 10,3
18,8
81,2 6
26
Đặc điểm
Kiến thức
Đạt
Không
Không có mối liên quan giữa kiến thức với thực hành thu gom của
nhân viên y tế.
16
Chương IV. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại bệnh viện Đa khoa tỉnh
Thanh Hóa năm 2018
4.1.1. Thực trạng quản lý về khối lượng chất thải rẳn y tể:
Khối lượng chất thải rắn thay đổi theo từng khu vực, theo mùa và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như quy mô bệnh viện, điều kiện
kinh tế địa phương, lưu lượng bệnh nhân, phương pháp, thói quen
của nhân viên y tế trong khám chữa bệnh [33], Trong nghiên cứu này
chúng tôi sử dụng chỉ số tổng lượng chất thải rắn y tế/ngày; lượng
chất thải rắn y tế trung bình/GB/ngày; tỷ lệ CTYT nguy hại/tổng
lượng CTYT tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa để xem xét về
khối lượng phát thải hàng ngày và so sánh với các bệnh viện khác để
có cơ sở xem xét lập kế hoạch bố trí nguồn lực cho công tác thu gom,
vận chuyển và xử lý, như: kinh phí hợp đồng với Công ty môi trường
đô thị; mua sắm bổ sung các trang thiết bị thu gom, vận chuyển, bố
trí nhân lực...Bảng 3.1 cho thấy lượng chất thải y tế/GB/ngày tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa (4,6 kg/GB/ngày) cao hơn so với
kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế (1998) ở bệnh viện tuyến tỉnh (0,88
kg/GB/ngày) [19]. Tuy nhiên, khi xét về lượng CTYT nguy
hại/GB/ngày với một số nghiên cứu trước đây lại cho thấy: kết quả
nghiên cứu ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh hóa là 0,14 kg CTYT
nguy hại/GB/ngày bằng kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế (1998) đối
với bệnh viện tuyến tỉnh (0,14 kg/GB/ngày)và cũng thấp hơn so với
kết quả nghiên cứu gần đây (2003 - 2004) ở bệnh viện tuyến Trung
ương (0,3 kg/GB/ngày) và bệnh viện tuyến tỉnh (0,2 - 0,25
kg/GB/ngày) [10], [46].Với kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ
lệ chất thải y tế nguy hại/ngày chiếm tỷ lệ nhỏ so với lượng
CTRYT/ngày (3,1%), thấp so với kết quả nghiên cứu của Tổ chức Y
tế thế giới (1994) 10% - 15% [10]. Qua phân tích trên cho thấy lượng
chất thải y tế/GB/ngày ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh hóa thấp hơn
so với kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế (1998) đối với bệnh viện tuyến
tỉnh (0,14 với 0,97). Qua đó cho thấy bệnh viện đã thực hiện tốt việc
phân loại CTYT, chất thải được phân loại thành các nhóm theo quy
định, trong đó đã tách được các chất thải tái chế ra khỏi chất thải y tế
17
+, NO3
-, NO2
để bán tận thu (bệnh viện đã cẩn thận cắt mảnh các đồ nhựa và đập
vỡ đồ thuỷ tinh trước khi bán để tránh việc tận dụng vào các mục
đích khác); mặt khác cũng có thể là do sự thay đổi về quy định phân
loại CTYT theo Thông tư liên tịch số: 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT
ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định về quản lý chất thải y tế Bộ y tế
và Bộ tài nguyên môi trường.
4.1.2. Thực trạng quản lý nước thải bệnh viện
Theo số liệu báo cáo của bệnh viện, lượng nước sử dụng hàng ngày
của bệnh viện vào khoảng 450 m3/ngày. Ước tính, mỗi ngày bệnh
viện dùng khoảng 375 lít nước/giường bệnh. Theo TCVN 4470 - 87,
bệnh viện có quy mô trên 700 giường thì tiêu chuẩn dùng nước là
600 lít/GB/ngày, như vậy lượng nước sử dụng/giường bệnh/ngày tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh hóa thấp hơn so với tiêu chuẩn. Lượng
nước sử dụng này cũng thấp hơn lượng nước sử dụng tại một số bệnh
viện đa khoa có cùng quy mô giường bệnh: Bệnh viện Quân đội 103
sử dụng 660 lít nước/GB/ngày; bệnh viện đa khoa Hải Dưong sử
dụng 600 lít nước/GB/ngày; Bệnh viện Việt Tiệp sử dụng 670 lít
nước/GB/ngày [27]. Hiện nay bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa,
đang xử lý nước thải bằng trạm xử lý nước thải, dạng hợp khối đúc
sẵn công nghệ AAO tiên tiến của Kubota Nhật Bản, công suất 700 m3
/24h. Để đánh giá hiệu quả xử lý của trạm xử lý nước thải của bệnh
viện, trong phạm vi và điều kiện tiến hành nghiên cứu tôi đã sử dụng
7 thông số đặc trưng ô nhiễm trong nước thải bệnh viện theo tiêu
chuẩn 7382:2004, Chất lượng nước - nước thải bệnh viện - tiêu chuẩn
thải để xác định mức độ ô nhiễm nước thải của bệnh viện trước khi
thải ra môi trường. Với lý do là đặc trưng ô nhiễm chính trong nước
thải bệnh viện là ô nhiễm các chất hữu co, các chất dinh dưỡng (nitơ
và hợp chất của nitơ, phốt pho và hợp chất của phốt pho) và các vi
khuẩn gây bệnh. Việc lựa chọn phân tích các chỉ số: pH, COD,
-, Tổng chất thải lơ lửng và Coliform phản
BOD5, N/NH4
ánh được đầy đủ đặc trưng ô nhiễm trong nước thải bệnh viện. Thông
thường các hợp chất nitơ có rất nhiều trong nước thải bệnh viện có
nguồn gốc động vật từ các chất bài tiết của người và từ các quá trình
phân huỷ protein. Nếu không loại bỏ chúng ra khỏi nguồn nước thải
18
thì chúng có thể làm cho nguồn tiếp nhận nước thải bị phú dưỡng,
làm cho các loài thuỷ sinh phát triển mạnh rồi chết đi, thối rữa và làm
cho nguồn nước bị ô nhiễm. Chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD) là
lượng ô xy cần thiết để vi sinh vật sử dụng trong quá trình ô xy hoá
các hợp chất hữu co của nguồn nước, khi giá trị BOD cao là phản ánh
mức độ ô nhiễm hữu cơ của nước thải lớn, việc ô xy hoá các hợp chất
hữu cơ này làm giảm lượng ô xy hòa tan trong nước gây tác động tiêu
cực đến đời sống của các sinh vật trong nước. Ion sunfat cũng thường
có trong nước thải có nguồn gốc từ lưu huỳnh, lưu huỳnh là một
nguyên tố cần thiết cho tổng hợp protein và được giải phóng ra trong
quá trình phân huỷ chúng, sunfat bị khử sinh học trong điều kiện kỵ
khí sẽ sinh ra khí H2S, khí H2S thoát vào không khí trên bề mặt nước
thải, trong cống, khí này gây mùi và độc hại cho công nhân vận hành
nước thải. Một yếu tố gây ô nhiễm quan trọng trong nước thải sinh
hoạt, nước thải bệnh viện, đặc biệt là trong phân, đó là các loại mầm
bệnh, phân chứa một lượng lớn vi sinh vật gây bệnh, mức độ ô nhiễm
về mặt vi sinh vật của nước thải thường được đánh giá thông qua các
chỉ tiêu vi khuẩn đại diện: E coli, coliform chịu nhiệt và coliform
tổng số.
Kết quả 2 lần phân tích với 7 chỉ số nghiên cứu (bảng 3.3)
cho thấy các chỉ số đều ở mức cho phép khi thải ra môi trường. Với
hệ thống xử lý nước thải bằng trạm xử lý nước thải, dạng hợp khối
đúc sẵn công nghệ AAO tiên tiến của Kubota Nhật Bản, bệnh viện đa
khoa tỉnh Thanh Hóa đã làm tốt được việc ô nhiễm môi trường nước
từ các cơ sở y tế thải ra.Với các bệnh viện khác thực trạng ô nhiễm
hiện còn khá phổ biến trong cả nước, kể cả những bệnh viện đã có hệ
thống xử lý nước thải. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Minh
Tâm (2006) tại bệnh viện tuyến huyện tỉnh Hải Dương cho thấy: hàm
lượng BOD5 trong nước thải ra môi trường cao hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 1,5 - 3,0 lần; ở các bệnh viện cùng tuyến đã có hệ thống xử
lý nước thải như: Bệnh viện Lao và Phổi Trung ương, Bệnh viện
quân y 103 cũng cho thấy chỉ số BOD5 vượt tiêu chuẩn cho phép khá
cao, từ 6,5 - 8 lần [39]; Theo nghiên cứu của Đào Ngọc Phong và
cộng sự (1998), nước thải bệnh viện đã làm ô nhiễm nguồn nước mặt:
19
nước sông, ao, đầm, hồ, giếng khơi (84,5 - 86,3%); ô nhiễm đất
(88,4%); tác động xấu đến mỹ quan ngoại cảnh, gieo rắc mầm bệnh
đặc biệt là bệnh đường tiêu hoá [36]. Đồng thời nước thải bệnh viện
cũng gây ra ô nhiễm không khí do mùi hôi, thối bốc lên trong quá
trình phân huỷ các chất hữu cơ từ các bể chứa nước thải, đường ống
dẫn nước thải, các nơi phát sinh chất thải, đặc biệt đối với nước thải
không qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn sẽ ảnh hưởng xấu
đến môi trường không khí. Khi mức độ ô nhiễm cao, các mùi hôi thối
khó chịu và các khí độc hại phát ra từ nước thải bệnh viện sẽ tác động
đến sức khoẻ con người, động vật, thực vật, ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh. Phần lớn các bệnh viện đều nằm trong các đô thị
hoặc khu dâncư đông đúc, nếu nước thải bệnh viện chưa được xử lý
mà vẫn thải ra môi trường sẽ gây nhiễm bẩn và làm lan truyền dịch
bệnh [39].
4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành của nhân
viên y tế về phân loại, thu gom chất thải y tế
4.2.3.1 Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về phân loại và thu gom
chất thải y tế
Khi tìm hiểu về mối liên quan giữa giới tính với kiến thức
của NVYT trong phân loại, thu gom chất thải y tế đã cho thấy NVYT
nữ có kiến thức cao hơn NVYT nam với các tỉ lệ đạt 93% và 88,5%.
Tuy nhiên sự khác nhau này không ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chuyên và cộng sự năm 2012, nghiên cứu cũng cho kết
quả khi so sánh sự khác biệt về kiến thức giữa nữ giới và nam giới
khi nữ giới có kết quả kiến thức đạt cao hơn nam giới là 1,4 lần [23].
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi có thể được giải thích là tỷ lệ
nữ giới trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ cao với tỷ lệ là
78,2%. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc xác định mối liên
quan giữa hai nhóm giới tính với kiến thức của cán bộ. Bên cạnh đó
nữ giới thường cẩn thận và tỉ mỉ hơn trong việc phân loại và thu gom
chất thải y tế, chính vì thế nên tỷ lệ nữ giới có kiến thức đạt cao hơn
so với nam giới.
20
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bác sỹ có kiến thức đạt về
phân loại và thu gom chất thải y tế gấp 1,3 lần so với những người có
trình độ chuyên môn là Điều dưỡng và sự khác nhau này không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả phù
hợp với nghiên cứu Lê Vĩnh Thịnh và Đặng Thị Kim Loan về khảo
sát tình hình quản lý chất thải y tế của trạm y tế xã, thị trấn huyện
Long Thành, tác giả cũng chưa xác định được mối liên quan thống kê
giữa yếu tố trình độ chuyên môn với kiến thức của nhân viên y tế
[42]. Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Kiệm năm 2012 về đánh giá
thực trạng thu gom và phân loại chất thải rắn y tế tại bệnh viện Hữu
Nghị Việt Tiệp Hải Phòng cũng cho thấy mối liên quan giữa trình độ
học vấn với kiến thức về phân loại và thu gom chất thải rắn y tế, trình
độ học vấn càng cao thì kiến thức cũng càng cao hơn [32].
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi về kiến thức của NVYT theo
nơi làm việc có sự khác nhau giữa các cán bộ ở các khoa phòng khác
nhau. Tuy nhiên vẫn chưa thấy có mối liên quan giữa bộ phận công
tác với kiến thức của NVYT. Khối chuyên khoa là khoa có tỷ lệ cán
bộ có kiến thức đạt về phân loại và thu gom rác thải cao nhất trong số
các khoa phòng khác tại bệnh viện với tỷ lệ là 94,9% (37 người);
Khối ngoạicó tỉ lệ thấp nhất 88% (103 người)
Kết quả kết quả khảo sát cho ta thấy những NVYT có thời
gian công tác từ 1 – 5 năm đạt thấp nhất với 85,8%; NVYT công tác
trên 20 năm đạt cao nhất với 100%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Tuy nghiên nghiên cứu của chúng tôi lại có sự
khác biệt so với nghiên cứu của Lê Vĩnh Thịnh và Đặng Thị Kim
Loan. Nhân viên y tế có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có kiến
thức đạt thấp hơn 0,9 lần so với những người có thâm niên công tác ít
năm hơn [42].
21
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với
nghiên cứu của tác giả Tạ Vân Trầm và Ngô Ngọc Bích (2010) về
kiến thức, thái độ về công tác khử khuẩn tiệt khuẩn của Điều dưỡng
tại Bệnh viện đa khoa khu vực Cai Lậy, thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu đã thể hiện mối liên quan chặt chẽ có ý nghĩa thống kê
giữa có tập huấn/ chưa tập huấn quản lý chất thải y tế với kiến thức
đạt. Những nhân viên viên y tế đươc tham gia tập huấn có kiến thức
đạt cao hơn 5,8 lần so với những người không tham gia lớp tập huấn
[45].
Một số yếu tố liên quan đến thực hành về quản lý chất thải rắn y tế
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt giữa nam
giới và nữ giới với thực hành trong việc phân loại và thu gom chất
thải rắn y tế. Nhân viên y tế nữ có kiến thức thực hành về quản lý
chất thải rắn y tế cao hơn NVYT nam với tỉ lệ đạt của nữ là 92,3%,
nam là 80,5. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê với p <
0,05.Nghiên cứu của Trần Thị Kiệm (2012) đánh giá thực trạng thu
gom và phân loại chất thải rắn y tế tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp
Hải Phòng cũng cho thấy sự khác biệt về thực hành đạt trong phân
loại và thu gom chất thải rắn y tế giữa hai giới nam và nữ. Nữ giới có
thực hành đạt cao hơn nam giới 1,2 lần và sự khác biệt này là có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 [32].
Tìm hiều về mối liên quan giữa trình chuyên môn của NVYT
với thực hành, về phân loại và thu gom chất thải rắn y tế trong nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy, những cán bộ có chuyên môn là bác sỹ
có tỉ lệ đạt cao hơn gấp 2 lần NVYT là điều dưỡng. Nhưng sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm Diệu Hương (2013) về
đánh giá thực trạng quản lý chất thải rắn nguy hại tại bệnh viện Hữu
Nghị Việt Đức và bệnh viện 19.8 Bộ Công An cũng cho kết quả phù
22
hợp với nghiên cứu của chúng tôi. tỷ lệ giữa trình độ chuyên môn với
kiến thức quản lý chất thải rắn y tế nguy hại có sự khác biệt khá rõ
nét. Tỷ lệ giữa trình độ chuyển môn từ cao đẳng trở lên với kiến thức
quản lý chất thải rắn y tế nguy hại cao hơn hẳn so với tỷ lệ giữa trình
độ chuyên môn trung cấp, sơ cấp ở cả hai bệnh viện Việt Đức và
bệnh viện 19.8 [31].
Nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu về mối liên quan giữa bộ
phận công tác với thực hành đạt của NVYT trong công tác phân loại,
thu gom chất thải rắn y tế. Trong nghiên cứu chúng tôi cho thấy
NVYT ở các bộ phận đều có thực hành về quản lý chất thải rắn y tế
cao từ 90,9 đến 96,9. Riêng khối ngoại và chuyên khoa kiến thức
thấp hơn đạt 79,5% và 82,1%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những NVYT có thời
gian công tác từ 1-5 năm có khả năng có thực hành đạt cao hơn hơn
1,7 lần so với những người có thời gian công tác 6 – 10 năm; gấp 2,2
lần so với những người công tác 11 – 20 năm và 1,9 lần với người
công tác trên 20 năm. Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, cho thấy những NVYT
không tham gia các lớp tập huấn chỉ đạt 25% và không đạt 75%.
Nhân viên y tế tham gia tập huấn đạt 90,3% và không đạt 9,7%. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác
giả Tạ Vân Trầm và Ngô Ngọc Bích (2010) về kiến thức, thái độ thực
hành công tác khử khuẩn tiệt khuẩn của Điều dưỡng tại Bệnh viện đa
khoa khu vực Cai Lậy, thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã thể
hiện mối liên quan chặt chẽ có ý nghĩa thống kê giữa có tập huấn/
chưa tập huấn quản lý chất thải y tế với kiến thức thực hành. Những
nhân viên viên y tế đươc tham gia tập huấn có kiến thức thực hành
23
đạt cao hơn 5,8 lần so với những người không tham gia lớp tập huấn
[45]. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nghiên
cứu của Nguyễn Nghiêm Diệu Hương (2013) về đánh giá thực trạng
quản lý chất thải rắn nguy hại tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức và
bệnh viện 19.8 Bộ Công An, khi những nhân viên y tế có kiến thức
tốt sẽ có thực hành tốt cao hơn 2,1 lần so với những nhân viên không
có kiến thức tốt [31]. Kết quả này đã cho thấy nếu nhân viên y tế
thiếu kiến thức về phân loại và thu gom chất thải rắn y tế thì thực
hành của nhân viên đó cũng không đạt yêu cầu.
KẾT LUẬN
1. Thực trạng quản lý chất thải y tế ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh
Hóa năm 2018.
- Khối lượng chất thải rắn y tế mỗi ngày là 4,6 kg/giường bệnh/ngày;
lượng chất thải y tế nguy hại là 0,14 kg/giường bệnh/ngày chiếm
3,1% so với tổng lượng chất thải y tế hàng ngày.
- Chất thải y tế đã được bệnh viện phân nhóm theo qui định của Bộ y
tế và bộ tài nguyên Môi trường, đặc biệt nhóm chất thải lây nhiễm đã
được phân loại, thu gom, xử lý theo quy định, nhằm hạn chế ô nhiễm
môi trường.
- Chất lượng hoạt động của hệ thống xử lý nước thải y tế đạt kết quả
tốt. Nước thải bệnh viện, sau khi thải ra môi trường đều đạt các chỉ số
cho phép theo QCVN 28:2010/BTNMT.
2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về quản lý chất
thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm 2018.
- Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về quản lý chất thải rắn y tế:
tỷ lệ kiến thức thu gom đạt cao hơn ở những NVYT có thời gian
công tác >5 năm: OR=4,61 (95%CI: 1,93-12,17); đối tượng có tham
24
gia tập huấn OR=102,76 (95%CI: 12,05-4641,26); mối liên quan có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
- Một số yếu tố liên quan đến thực hành về phân loại và thu gom chất
thải rắn y tế: tỷ lệ thực hành thu gom đạt cao hơn ở: nữ giới OR=2,57
(95%CI: 1,24-5,20); có tham gia tập huấn OR=27,94 (95%CI: 4,70-
287,19); mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
KHUYẾN NGHỊ
Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu và tình hình thực tế tại Bệnh viện
đa khoa tỉnh Thanh Hóa chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau:
- Tiếp tục tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của Ban giám đốc bệnh
viện và vai trò quản lý của các bộ phận chức năng đối với công tác
quản lý chất thải y tế.
- Tập huấn định kỳ cho cán bộ, nhân viên y tế về quy chế quản lý
chất thải, đảm bảo 100% nhân viên y tế được tập huấn quy chế quản
lý chất thải.
- Tăng cường công tác truyền thông giáo dục đảm bảo an toàn và
phòng tránh các nguy cơ do chất thải y tế gây ra đối với nhân viên y
tế, với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để kiểm soát chất thải y tế của bệnh viện.
- Chú trọng đầu tư thêm các dụng cụ thu gom, vận chuyển đáp ứng
yêu cầu đảm bảo cho công tác quản lý chất thải y tế trong bệnh viện.
- Bảo dưỡng định kỳ, hệ thống xử lý nước thải y tế trong bệnh viện.