BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN TRUNG LỚP: HC 21 – TN 05 NIÊN KHÓA: 2016 – 2018 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS – TS VŨ TRỌNG HÁCH Đắk Lắk, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Vũ Trọng Hách, các số liệu trình bày trong luận văn này đều có luận chứng rõ ràng. Những kết luận mới về khoa học của luận văn chưa hề được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn
NGUYỄN VĂN TRUNG
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại phân viện Học viện Hành chính khu vực Tây Nguyên, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm cũng như giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể để hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới Phó Giáo sư – Tiến sĩ Vũ Trọng Hách, là thầy giáo hướng dẫn khoa học cho tôi, sự quan tâm giúp đỡ tận tình của thầy đã giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đến lãnh đạo Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông, Bảo tàng tỉnh, Ban Quản lý các Di tích Lịch sử trên địa bàn tỉnh, các anh chị chuyên viên thuộc các phòng văn hóa và thông tin huyện, cô giáo chủ nhiệm cùng các thầy cô đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Với sự cố gắng hết sức của bản thân, song vẫn còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu, do vậy, Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của quý Thầy, Cô, học viên, đọc giả nhằm giúp Luận văn hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Đắk Lắk, ngày tháng 02 năm 2018
Tác giả luận văn
NGUYỄN VĂN TRUNG
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA 1. Một số khái niệm cơ bản………………………………...…………………8
1.1. Di sản văn hóa Việt Nam……………………...…………………………8
1.2. Di tích lịch sử văn hóa…………………………………………………...8
1.4. Khái niệm quản lý di tích lịch sử gắn với phát triển kinh tế văn hóa xã hội.............................................................................................................11 1.5. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa……….....12
1.6. Vai trò của di tích lịch sử đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.............................................................................................................18
1.7. Một số kinh nghiệm của các tỉnh trong việc quản lý, bảo tồn, phát huy các giá trị của di tích lịch sử…………………………………………………21
1.7.1. Tỉnh Kon Tum………………………………………………………...22 1.7.2. Tỉnh Lâm Đồng…….………………………………………………....25
1.7.3. Bài học kinh nghiệm được rút ra cho tỉnh Đắk Nông………………...26 Tiểu kết chương 1…………………………………………………………...27
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG………………………….29
2.1. Tổng quan về địa lý, lịch sử và văn hoá Đắk Nông…………………….29
2.1.1. Địa danh và tiến trình lịch sử………………………………………....29
2.1.2. Vị trí địa lý............................................................................................30
2.2. Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử ở Đắk Nông thời gian qua…31
2.2.1. Các di tích lịch sử vă hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay...........31
2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay……………………………………41
2.2.2.1. Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa tại tỉnh Đắk Nông…………………………………………………………………………41 2.2.2.2. Thực trạng hoạt động phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa tại tỉnh Đắk Nông……………………………………………………………….43
2.3. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay………………..56
2.4. Các hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa ở Đắk Nông……………51
2.4.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, dự án bảo tồn di tích ……………….51
2.4.2. Xây dựng kế hoạch bảo tồn di tích …………………………………...53
2.4.3. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về di tích lịch sử văn hóa...............................................................................................................55
2.4.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di tích……….57
2.5. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa……………………………………………………………………59
2.5.1. Hoạt động bảo tồn di tích……………………………………………..59
2.5.2. Hoạt động quản lý di vật, cổ vật tại các di tích……………………….62
2.5.3. Hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị của di tích lịch sử gắn với du lịch…………………………………………………………………………...62
2.5.4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học về di tích………….65
2.5.5. Tổ chức thanh tra, kiểm tra…………………………………………..67
2.6. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý, phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa ở Đắk Nông…………………………………67
2.6.1. Ưu điểm……………………………………………………………….67
2.6.2- Về hạn chế…………………………………………………………….70
2.6.3. Nguyên nhân của các hạn chế………………………………………...71
Tiểu kết………………………………………………………………………72
Chương 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ TRN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG............................................................................................................74 3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông……………………………………………………….74
3.1.1. Thống nhất quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh…………………………………………………………………………...75 3.1.2. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn và phát huy được các giá trị di tích trên địa bàn tỉnh, phải đàm bảo tính trung thực, tính nguyên gốc của các di tích lịch sử…………………………………………...75
3.1.3. Quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn và phát huy được giá trị các di tích gắn với cộng đồng, vì cộng đồng………………76
3.1.4. Quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn, phát huy được các giá trị của các di tích gắn với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương……………………………………………………………………….77 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông……………………………………………………….77
3.2.1. Xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông……………...78
3.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về di tích lịch sử văn hóa……………………………………………………………….78
3.2.3. Tiếp tục tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị các di tích; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh…………………………………………………………………………...79
3.2.4. Tiếp tục tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác quản lý các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh…………………………………………………….81
3.2.5. Tiếp tục huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ, gìn giữ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh……………………………………..82
3.2.6. Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng tạo động lực nâng cao chất lượng quản lý các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh………………….83
3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh………………………………………………….84
3.2.8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lỷ vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh……….……………………………………………85
3.3. Kiến nghị………………………………………………………………..85
3.3.1. Với Trung ương……………………………………………………….86
3.3.2. Với Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông…………………………………86
3.3.3. Đối với Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch…………………………...87
3.3.4. Đối với Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã…………………………..87
Tiểu kết………………………………………………………………………87
KẾT LUẬN.....................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIÉT TẮT
Bộ VH, TT&DL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch :
BQL Ban quản lý :
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
DSVH Di sản văn hóa :
HĐND Hội đồng nhân dân :
Sở VHTT-DL : Sở Văn hóa Thê thao và Du lịch
UBND : Ủy ban nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và quan tâm đến việc giữ gìn, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo
này, ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày
23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh bảo vệ cổ tích.
Ngày nay, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 23-11 hàng năm là ngày Di sản
Văn hóa Việt Nam.
Như vậy, di tích lịch sử cho dù ở hoàn cảnh lịch sử nào, giai đoạn
cách mạng nào, Đảng ta luôn luôn đặc biệt quan tâm bảo vệ vì nó là hồn của
dân tộc, là nền tảng tinh thần, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững,
nhất là giai đoạn đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát
triển hiện nay.
Đắk Nông là tỉnh nằm ở vùng đất cổ trên cao nguyên Mơ Nông, phía
Nam Tây Nguyên, Đắk Nông là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa,
như Mnông, Mạ, Ê-đê,… với nền văn hóa truyền thống lâu đời và không
ngừng được bồi đắp thông qua sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa của các dân tộc
anh em. Thời gian qua, Đắk Nông có nhiều nỗ lực trong công tác bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần gìn giữ sự đa dạng, phong
phú và đặc sắc cho bức tranh văn hóa cho cả nước nói chung và cho khu vực
Tây Nugyên nói riêng. Cùng với các tỉnh ở Tây Nguyên, Đắk Nông là một
trong những địa phương có bề dày truyền thống lịch sử với những địa danh
kiên cườnggắn với những sự kiện lịch sử, những chiến công lừng lẫy suốt
chiều dài 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Một trong những thành tố của kho tàng di sản văn hóa quý giá đó phải kể tới
1
hệ thống di tích lịch sử văn hóa của tỉnh. Theo thống kê, hiện nay Đăk Nông
có 6 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia phân bố ở các huyện trong tỉnh.
Trong những năm qua, nhất là từ khi tái thành lập tỉnh, nhiều di tích
lịch sử đã được Bộ Văn hóa thể thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử,
công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có nhiều
chuyển biến tích cực. Các di tích trọng điểm của tỉnh đã được quản lý, đầu tư
trùng tu, tôn tạo, phát huy tác dụng đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, nghiên
cứu về truyền thống cách mạng và hưởng thụ văn hóa của cộng đồng trong và
ngoài tỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý di tích vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế
như việc đầu tư, tôn tạo, khoanh vùng bảo vệ di tích, việc tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về di tích lịch sử đến cộng đồng các dân tộc trong tỉnh còn chưa thực hiện đầy
đủ, chưa có kế hoạch cụ thể…
Hiện nay, Đắk Nông là địa phương có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
chậm so với cả nước. Điều này có những tác động tiêu cực đến nhiệm vụ bảo
tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử, nó cũng có những tác động tiêu cực như
tình trạng di tích bị lấn át, hư hỏng, biến dạng hoặc bị hủy hoại... Đây là các
vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý, đứng trước một áp lực đối với việc bảo
vệ, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống một cách bền vững,
nhưng vẫn đảm bảo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.
Giá trị của di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói riêng là vô
cùng to lớn, song điều quan trọng hơn cả là việc bảo tồn và phát huy những giá
trị của nó như thế nào để phát triển mang tính bền vững trong giai đoạn hiện nay
mới chính là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm đúng mức của các ngành, các
cấp, nhất là những người làm công tác quản lý văn hoá hiện nay.
2
Cùng với danh thắng, điều dễ nhận ra là di tích lịch sử có tiềm năng
quan trọng với hoạt động du lịch, thậm chí nó còn được xem là tài nguyên của
du lịch, chính vì lẽ đó nếu không nhận thức đầy đủ về tầm đặc biệt quan trọng
của di tích lịch sử thì nguồn "tài nguyên" ấy cũng đến lúc cạn kiệt; ngược lại,
nếu không biết sử dụng một cách khoa học vốn "tài nguyên" ấy thì nó cũng
trở thành lãng quên, khô cứng, uổng phí những gì vốn có từ giá trị của nó.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử
phải trở thành bộ phận hợp thành nên nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần
vào tăng trưởng kinh tế mang tính bền vững thông qua các hoạt động du lịch
từ những giá trị của di tích mang lại, đó chính là vấn đề cần phải được giải
quyết một cách khoa học, biện chứng.
Nhận thức tầm quan trọng cũng như tính bức thiết của vấn đề nêu trên
ở tỉnh Đắk Nông, tôi đã chọn đề tài "Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông" làm luận văn tốt nghiệp bậc cao học của mình, với hy
vọng góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý di
tích lịch sử văn hoá nhằm bảo tồn và phát huy tác dụng của nó một cách bền
vững trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề quản lý, bảo tồn di tích lịch sử văn hoá cũng như khai thác
tiềm năng của di tích lịch sử là vấn đề của nhiều quốc gia, địa phương đã và
đang triển khai thực hiện; do vậy đây không phải là vấn đề mới, nhiều học
giả, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã đề cập đến vấn đề nay. Tuy nhiên, để
nghiên cứu một cách có hệ thống giữa công tác quản lý, bảo tồn và phát triển
một cách bền vững, mang tính khoa học và đồng bộ thì chưa có tác giả, nhóm
tác giả nào nghiên cứu đề tài này ở Đắk Nông.
3
Trong báo cáo chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giai
đoạn 2011 - 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cũng chỉ ban hành quyết
định mang tính tổng thể bao gồm các cơ chế chính sách để phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, trong đó đề cao tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự
phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Đề án bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá
trị văn hoá lễ hội, văn hoá cồng chiêng và nhạc cụ dân tộc thiểu số tại chỗ giai
đoạn 2010 – 2020; Để án “sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị hiện vật lịch sử,
văn hoá đến năm 2015, định hướng năm 2020 ở Đắk Nông cũng chỉ tập trung
vào các giải pháp nhằm bảo tồn, tôn tạo, phát huy tác dụng của di tích, danh
thắng thông qua giáo dục truyền thống, đi sâu tìm giải pháp phát triển du lịch
thông qua di tích lịch sử văn hóa.
Vì vậy, đề tài "Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông" có thể được xem là đề tài đầu tiên ở Đắk Nông đi sâu nghiên cứu về
một lĩnh vực mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức này.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, tác giả luận
văn sẽ tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn, luận văn
đi sâu phân tích thực trạng quản lý di tích lịch sử ở Đắk Nông hiện nay. Từ
đó, đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước về
di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
3.2. Nhiệm vụ
Để đáp ứng mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
4
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử.
- Một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa văn hóa và phát
triển kinh tế văn hoá, xã hội.
- Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử ở Đắk Nông.
- Quan điểm định hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước về di tích lịch sử nhằm phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông.
4. Đối tượng, phạm vi, thời gian nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm của đối tượng quản lý đó là các loại hình di tích
lịch sử văn hóa ở Đắk Nông.
- Nghiên cứu các chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương về bảo
tồn di tích và chính sách đối với cộng đồng tham gia bảo tồn di tích.
- Nghiên cứu cơ cấu tổ chức bộ máy và các hoạt động trong lĩnh vực quản
lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
- Nghiên cứu sự tác động của công nghiệp hoá ở Đắk Nông và những tác
động của nó đến quản lý di tích lịch sử văn hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lý di tích lịch sử; cơ chế quản lý, tổ chức
bộ máy, quan điểm định hướng và giải pháp nhằm vừa bảo tồn, tôn tạo di tích,
vừa phát triển kinh tế du lịch bền vững từ việc khai thác có hiệu quả những
giá trị của di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
5
Luận văn chủ yếu tập trung vào hoạt động quản lý di tích lịch sử văn
hóa theo tinh thần nội dung của Luật di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi,
bổ sung năm 2009.
4.3. Thời gian nghiên cứu
Tính từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu để thực hiện các mục tiêu đề ra, đề tài sử
dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, thu thập các nguồn tư liệu, các nghiên cứu về
công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích lịch sử trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông.
- Phương pháp: so sánh, đánh giá những hoạt động liên quan đến việc
quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông với một số địa
phương khác trong cả nước… nhằm đúc kết kinh nghiệm cho việc thực hiện
đề tài nghiên cứu.
Bên cạnh đó đề tài còn được thực hiện bằng việc sử dụng các phương
pháp nghiên cứu liên quan khác như: Phương pháp thống kê; phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp diễn dịch, quy nạp…
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Tập hợp và hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch
sử văn hóa.
6.2. Về mặt thực tiễn
6
- Đánh giá công tác quản lý và phát huy giá trị của hệ thống di tích
trong giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc cũng như góp phần phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội thông qua hệ thống di tích tỉnh Đắk Nông.
- Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp, cơ chế
chính sách nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý di tích
lịch sử văn hóa, đồng thời khai thác cùng với các danh lam thắng cảnh để phát
triển du lịch mang tính bền vững nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
Nếu có thể, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông nâng thành một
đề án trong Chương trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2020 - 2030.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Nội dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản lý di tích lịch sử văn
hóa.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa ở Đắk
Nông thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp để nâng cao công tác
quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Di sản văn hóa Việt Nam
- Di sản văn hóa Việt Nam
Là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam bao gồm di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất
có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở Việt Nam.
- Di sản văn hóa vật thể
Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di
tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
1.2. Di tích lịch sử văn hóa
Thuộc di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, di tích lịch sử- văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm
và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học.
1.2.1. Di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu
biểu của quốc gia hoặc địa phương.
8
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của các
anh hùng dân tộc, doanh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự
phát triển của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử.
- Địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu.
- Công tình kiến trúc nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc
đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn
phát triển kiến trúc nghệ thuật.
1.2.2. Di tích lịch sử văn hóa là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, bao
gồm
- Công trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan
trọng của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, doanh nhân, nhà hoạt động
chính trị, văn hóa nghệ thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh hưởng quan trọng đối
với tiến trình lịch sử của dân tộc.
- Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến
trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm có giá trị tiêu biểu trong các giai
đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
- Cảnh quan thiên nhiên đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh
quan thiên nhiên với công trình kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên
nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, và hệ
sinh thái dặc thù.
1.2.3. Di tích lịch sử - văn hóa được phân loại như sau
- Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
- Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh
9
- Di tích lịch sử văn hóa cấp huyện
- Di tích lịch sử văn hóa cấp xã
1.3. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa
- “Quản lý” là thuật ngữ được sử dụng để chỉ “sự tác động có kế hoạch,
sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn, kiểm tra của các chủ thể
quản lý (cá nhân hay tổ chức) đối với các quá trình xã hội và hoạt động của
con người, để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra
của tổ chức và đúng ý chí của nhà quản lý, với chi phí thấp nhất.
Quản lý là hoạt động thiết yếu nảy sinh khi con người hoạt động tập
thể, là sự tác động của chủ thể quản lý vào khách thể nhằm thực hiện các mục
tiêu chung của tổ chức, quản lý là một yếu tố hết sức quan trọng không thể
thiếu trong đời sống xã hội, xã hội phát triển càng cao thì vai trò của quản lý
càng lớn và nội dung càng phức tạp.
- “Quản lý nhà nước” là thuật ngữ chỉ sự tác động của các chủ thể mang
tính quyền lực nhà nước, bằng nhiều biện pháp, tới các đối tượng quản lý nhằm
thực hiện những chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các
quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước.
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động khách
quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý
diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp.
Trình độ xã hội hóa càng cao thì yêu cầu quản lý và vai trò của quản lý ngày
càng tăng lên. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của con
người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ
10
máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người,
duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước về văn hóa là thông qua những giải pháp về pháp luật,
thể chế, chính sách, kế hoạch… của nhà nước để quản lý các giá trị vật chất và
tinh thần, quản lý những hoạt động văn hóa theo đúng đường lối chủ trương
của Đảng đồng thời đảm bảo quyền tự do dân chủ trong hoạt động và sáng tạo
văn hóa, xác lập vai trò, vị trí của văn hóa trong sự phát triển của dân tộc.
Quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa là sự tác động có định
hướng trên cơ sở quyền hành pháp của hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước tới hành vi, hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức trong lĩnh vực văn hóa
nhằm mục tiêu bảo vệ, giữ gìn di sản, các di tích lịch sử - văn hóa và làm cho
giá trị các di sản, di tích lịch sử - văn hóa được phát huy theo chiều hướng
tích cực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu về vật chất và
tinh thần của nhân dân.
1.4. Khái niệm quản lý di tích lịch sử gắn với phát triển kinh tế
văn hóa xã hội
Như trên đã trình bày, quản lý là quá trình tác động có mục đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để đạt được mục đích nhất định.
Mục đích ở đây chính là thông qua quản lý để bảo tồn và phát huy giá
trị của di tích lịch sử. Bảo tồn không có nghĩa là "hoài cổ, hoài niệm", có tính
"chiêm ngưỡng" đơn thuần, mà bảo tồn để phát triển, phát huy. Trong phát
triển, phát huy có phát huy về giá trị tinh thần (giáo dục truyền thống cội
nguồn, bản sắc) và một điều hết sức quan trọng chính là phát triển và phát huy
về giá trị kinh tế (tăng trưởng kinh tế trong tỷ trọng nền kinh tế).
11
Sự tăng trưởng và phát triển ấy không tự di tích lịch sử làm nên thay
đổi sự tăng trưởng mà phải thông qua yếu tố về cơ chế, chính sách trên cơ sở
những giá trị của di tích lịch sử (vé tham quan, dịch vụ du lịch, dịch vụ lưu
trú,…) để tăng nguồn thu, phát triển kinh tế. Sự phát triển và tăng trưởng ấy
muốn bền vững phải thông qua hoạt động quản lý, đó là sự tác động của chủ
thể (hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra) đến đối tượng quản lý (di tích
lịch sử; đến các tổ chức, cá nhân đang trực tiếp quản lý, khai thác các giá trị
của di tích lịch sử).
Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm quản lý di tích lịch
sử gắn với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội như sau:
Là quá trình tác động liên tục của chủ thể (Nhà nước: Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; Ủy ban nhân dân tỉnh; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
các ngành hữu quan, chính quyền các cấp.) lên đối tượng quản lý (di tích lịch
sử; các tổ chức, cá nhân đang trực tiếp quản lý, khai thác di tích lịch sử) bằng
hoạch định cơ chế, chính sách, bằng pháp luật, bằng tổ chức, lãnh đạo, kiểm
tra để nhằm đạt được mục đích bảo tồn và phát huy giá trị của di tích (cả giá
trị tinh thần và giá trị kinh tế) thông qua hoạt động du lịch và ngược lại.
1.5. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa
1.5.1. Xuất phát từ vai trò, giá trị của di tích lịch sử văn hóa
Nước Việt Nam trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
những trang sử hào hùng của dân tộc được ghi lại qua nhiều loại hình sử liệu
khác nhau: di tích - di vật, hình ảnh, chữ viết, ngôn ngữ truyền miệng. Trong số
những nguồn sử liệu ấy thì di tích lịch sử - văn hóa đóng vai trò như một nguồn
sử liệu vật chất quan trọng nhất. Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia cho chúng ta
những thông tin trực tiếp về hoạt động của con người trong quá khứ và giúp cho
các nhà nghiên cứu lịch sử có những bằng chúng cụ thể để khẳng định sự có mặt
của cộng đồng dân cư đã sống và tồn tại trên mảnh đất này.
12
Di tích lịch sử - văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách
quan, trong đó có chứa đụng các điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân
con người trong lịch sử sáng tạo ra. Di tích lịch sử - văn hóa là những dấu
tích, dấu vết hoạt động của con người trong quá khứ, di tích là những gì còn
lại so với thời gian, những thông tin trực tiếp từ di tích lịch sử - văn hóa quốc
gia và sử liệu từ các di vật có trong di tích góp phần nghiên cứu lịch sử, văn
hóa của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể nhận biết kiến trúc của các di tích
lịch sử - văn hóa trải qua các thời đại thông qua các dấu tích, di vật còn sót
lại. Ví dụ, chúng ta có thể biết được kiến trúc các ngôi đình làng đa dạng ở
khu vực đồng bằng sông Hồng thay đổi qua các thời kỳ, dựa vào dấu tích còn
lại của kiến trúc đình làng người ta có thể suy ra niên đại của các ngôi đình,
chẳng hạn như những ngôi đình có niên đại trước sớm hơn thường có ván sàn
đình những ngôi đình có niên đại sau muộn hơn thường không có ván sàn
đình. Di vật được bảo lưu ở các di tích, là nguồn sử liệu trực tiếp mang lại
nhiều thông tin thú vị cho các nhà nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau như
tôn giáo, địa lý, lịch sử, thông qua di vật ở di tích như quả chuông được đúc
năm nào hay nội dung văn bia có thể suy ra niên đại khởi dựng hoặc trùng tu
lại ngôi chùa, xem qua tượng thờ, nghệ thuật chạm khắc thông tin cho chúng
ta biết được sự xuất hiện của tín ngưỡng dân gian khác nhau qua các thời kỳ.
Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia là một bộ phận quan trọng của di sản
văn hóa dân tộc, là nguồn sử liệu trực tiếp cho ta những thông tin quan trọng để
khôi phục những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Ngày nay có nhiều di
tích đã và đang được bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị đúng mức nhưng cũng
có không ít những di tích lịch sử - văn hóa quốc gia như bị bỏ quên, đang
xuống cấp hoặc đang bị xâm hại nghiêm trọng và đã bị khai thác sử dụng quá
mức. Chúng ta cần quan tâm, chú ý hành động chung tay góp sức bảo vệ, gìn
giữ những tài sản vô giá mà cha ông chúng ta đã để lại qua nhiều thế kỷ.
13
Di tích là dấu tích, công trình xây dựng, là bằng chứng của sự tiến hóa
hay biến cố về lịch sử, có ý nghĩa về văn hóa; di tích là cổ vật bất động sản, là
di sản văn hóa vật thể. Di tích lịch sử - văn hóa nói chung do nhân dân tạo ra,
là kết quả của hoạt động sáng tạo văn hóa bao gồm cả vật chất và tinh thần,
một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc. Tiềm ẩn trong mỗi di tích
lịch sử - văn hóa quốc gia có những giá trị cao, cả về mặt văn hóa và về mặt
kinh tế, những yếu tố hấp dẫn rất lớn không thể thiếu để góp phần vào việc
giữ gìn bản sắc độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, di tích lịch sử - văn hóa
được chia thành: Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu
của địa phương, do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di
tích Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc
gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích
cấp quốc gia; Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị
đặc biệt tiêu biểu của quốc gia, do Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng
di tích lịch sử - văn hóa quốc gia đặc biệt.
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lâu đời với những trang sử chói
lọi trong cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước, giành độc lập dân tộc. Trong
suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, các thế hệ trước đã để lại cho
chúng ta kho tàng di sản văn hóa vô cùng quý giá, được lưu giữ lại ở các di
tích lịch sử - văn hóa với nhiều giá trị. Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử
- văn hóa quốc gia để lưu truyền lại cho muôn đời sau là một việc quan trọng
và cần thiết. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 đã xác định: “Bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ then chốt của Chiến lược
phát triển văn hóa”.
1.5.2. Thách thức của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập
Nước ta một nước đang phát triển, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá
14
nặng nề, nên sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, ưu tiên hàng
đầu của Nhà nước và nhân dân là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Tuy
nhiên, tập trung phát triển kinh tế trong khi chưa xây dựng hoàn thành hành
lang pháp lý về bảo vệ di sản văn hóa đồng thời ý thức chấp hành pháp luật và
nhận thức cộng đồng về bảo tồn di sản văn hóa trong phát triển chưa đầy đủ
rất dễ dẫn đến tình trạng phát triển không bền vững. Hơn nữa di sản văn hóa
vật thể của Việt Nam phần lớn làm bằng chất liệu hữu cơ, lại bị thiên tai và
địch họa tàn phá, sự tác động của phát triển dân số, kinh tế, do nhu cầu khai
thác, xây dựng và sản xuất ngày càng tăng. Đó là những nguy cơ hiện hữu
đẩy di sản văn hóa đến với những cơ hội và thách thức lớn lao. Những sức ép
do sự tác động tiêu cực của sự phát triển cộng với sự xuống cấp hàng loạt của
di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa quốc gia, nhận thức chung của cộng
đồng về bảo vệ di sản, di tích vẫn còn bị hạn chế so với nhu cầu phát triển
kinh tế phục vụ đời sống hàng ngày. Chính vì vậy, di sản, di tích lịch sử - văn
hóa của nước ta đã và đang chịu tác động ngày càng nhanh chóng của sự biến
đổi môi trường tự nhiên và xã hội.
Giai đoạn hiện nay, những thách thức đối với quản lý nhà nước về di sản
văn hóa nói chung và di tích lịch sử - văn hóa quốc gia nói riêng chủ yếu gồm:
Một là, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa tạo cơ hội để chúng ta
tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, tuy nhiên cũng nảy sinh những nguy
cơ về sự thay đổi quan niệm sống, lối sống khác thâm nhập tác động tiêu cực
đến giá trị văn hóa truyền thống;
Hai là, đặc tính thương mại trong văn hóa nếu không được kiểm soát chặt
chẽ dễ bị chi phối bởi yếu tố thị trường, làm thay đổi chức năng của văn hóa;
Ba là, hoạt động quản lý văn hóa nói chung chưa gắn kết với thực tiễn
trên mọi phương diện do trình độ quản lý còn lạc hậu, yếu kém;
Bốn là, khoảng cách đời sống văn hóa ở các vùng miền còn cách xa nhau;
15
Năm là, dữ liệu cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách làm căn cứ
để đưa ra những quyết sách đúng đắn vì những số liệu liên quan để đánh giá
cần phải điều tra xã hội học, mất nhiều thời gian và chi phí.
Muốn phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo giữ gìn, phát
huy những nhân tố tích cực của văn hóa truyền thống thấm sâu vào lĩnh vực
kinh tế, kinh doanh, để kinh tế - xã hội có những bước phát triển bền vững thì
quản lý nhà nước cần phải có những chính sách và giải pháp đúng đắn cùng
với sự nỗ lực chung của toàn xã hội.
1.5.3. Từ thực trạng của quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa
- Những thành tựu đạt được từ thực trạng của quản lý nhà nước
Nhiều di tích lịch sử văn hóa bị các yếu tố tự nhiên và xã hội tàn phá
nhưng với truyền thống văn hóa dân tộc, trên nền móng cũ của nhiều công
trình như những ngôi đình thờ thành hoàng làng, ngôi chùa thờ được phục
dựng.
Đền thờ những người có công với dân với nước được phục hồi để bảo
tồn giữ gìn và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống văn hóa của dân tộc
xu thế toàn cầu hóa kinh tế là tất yếu, trong tiến trình phát triển mạnh mẽ và
đầy biến động, nhiều giá trị mới sinh ra cùng với sự mất đi của một số giá trị
truyền thống, vì vậy cần phải tăng quản lý nhà nước để bảo tồn các giá trị
truyền thống và phát hiện, giữ gìn các giá trị mới.
Tăng cường hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cập
nhật cùng với sự phát triển chung của thế giới vì lợi ích, sự phát triển của
quốc gia, dân tộc, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn và tăng cường
hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy để quản lý bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá
trị các di tích lịch sử - văn hóa.
Việc bảo tồn được các di tích lịch sử – văn hóa tại địa phương cũng
16
góp phần đáng kể vào quá trình phát triển du lịch, mang lại nhiều nguồn lợi
kinh tế cho địa phương.
- Bên cạnh những thành tựu thì cũng có rất nhiều những hạn chế
+ Thứ nhất là, do quá trình hội nhập kinh tế, những giá trị mới dần thay
thế những giá trị xưa cũ, vấn đề này đặt ra nhiều thách thức trong công tác
quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa, như việc trang phục cuả
khách tham quan đến các di tích, việc tham quan các di tích còn gắn với các
hoạt động mê tín dị đoan, việc công đức tại các di tích làm mục đích thương
mại hay quảng cáo… đòi hỏi nếu không tăng cường quản lý nhà nước về di
tích lịch sử văn hóa từ việc đầu tư bảo tồn, xây dựng một hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật đủ mạnh, có hiệu lực trong thực tiễn thì các di tích sẽ khó
gìn giữ được cho thế hệ tương lai của chúng ta.
+ Thứ hai là, những hạn chế đội ngũ cán bộ quản lý số lượng và chất
lượng không song hành, những cán bộ có chuyên môn về đúng chuyên ngành
bảo tồn di tích còn khiêm tốn, mà đa phần có thể có các cán bộ học kinh tế,
thương mại hay nông nghiệp. hiện lại đang làm công tác bảo tồn di tích
+ Thứ ba là, do sự thiếu đồng bộ, thiếu ý thức và thiếu sự quan tâm đến
việc bảo tồn di sản, di tích của một số ngành chức năng, địa phương không
tuân thủ các quy định của Nhà nước trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng,
dịch vụ, phát triển cơ sở sản xuất như: cầu đường, khai thác khoáng sản
không chú ý đến việc bảo tồn di sản, di tích trong khu vực triển khai dự án;
việc phát triển nhanh các đô thị, xây dựng nhà cao tầng vô hình chung đã làm
cho di sản, di tích bị mất không gian truyền thống, nhiều di tích còn bị các
công trình mới chèn lấn, có nguy cơ bị mai một. Các công trình cấp thoát
nước và xử lý rác thải, khói bụi gây ô nhiễm môi trường xung quanh khu vực
di sản, di tích.
+ Thứ tư là, đô thị hóa nông thôn, phát triển du lịch trong khi chưa có
17
đủ cơ sở hạ tầng, chưa có những công cụ pháp lý hữu hiệu để điều chỉnh các
hành vi liên quan dẫn đến tình trạng quá tải, tập trung quá đông người trong
mùa lễ hội tại di tích lịch sử, cơ sở dịch vụ, nhà hàng lấn át gây bất lợi cho di
tích.
+ Thứ năm là, nguồn kinh phí, bất kỳ vấn đề gì liên quan đến bảo tồn
hay trùng tu các di tích trong quản lý nhà nước tại địa phương thì mối quan
tâm lớn luôn là nguồn kinh phí, hiện nay ngoài ngân sách nhà nước thì nguồn
vốn xã hội hóa là nguồn vốn chính để duy trì hoạt động cũng như trùng tu tại
các di tích, tuy vậy việc huy động nguồn vốn này từ các doanh nghiệp hay
nhân dân là vấn đề khó nếu không có sự hướng dẫn của quản lý nhà nước tại
địa phương.
1.6. Vai trò của di tích lịch sử đối với sự phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội
1.6.1. Di tích lịch sử là cơ sở, là nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội
Ở nước ta, các di tích lịch sử gắn bó mật thiết với hoạt động du lịch.
Có thể xem di tích lịch sử là cơ sở, là nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hóa
– xã hội. Các ngày kỷ niệm, các lễ hội lớn tại các địa điểm di tích lịch sử
thường thu hút lượng khách lớn tham quan để tìm hiểu về lịch sử, để nghiên
cứu … Những di tích lịch sử cách mạng là nơi hướng mọi người tìm về cội
nguồn, tìm về với quá khứ hào hùng của dân tộc, cũng là nơi giáo dục truyền
thống cho thế hệ trẻ. Đối với các di tích lịch sử thì tự thân nó đã mang trong
mình những thông điệp của quá khứ và khi tham gia vào đời sống văn hóa
hiện đại sẽ làm cho văn hóa của mỗi dân tộc không bị tách rời khỏi truyền
thống, nó giữ lại những giá trị tự thân, đồng thời tạo nên những giá trị bên
trong của cốt cách, bản lĩnh, năng lực của mỗi dân tộc. Những hệ giá trị này
18
có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh to lớn đối
với cộng đồng… Và cũng vì thế, các di tích luôn được xem là nguồn tài
nguyên du lịch để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội.
Di tích lịch sử văn hóa ở nước ta nhiều về số lượng, đa dạng về loại
hình nên đã tạo ra sự hấp dẫn đối với rất nhiều du khách trong và ngoài nước.
Do giá trị nổi của di tích lịch sử hàng năm đón từ hàng vạn cho tới hàng triệu
lượt du khách tham quan, nghiên cứu, học tập. Quan sát sự phát triển du lịch
chúng ta thấy rằng danh hiệu di tích cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh đã tạo cho di
sản có một sức hút mạnh mẽ đối với khách tham quan du lịch trong và ngoài
nước. Lễ đón bằng di tích quốc gia đã trở thành những ngày hội lớn tại địa
phương, đó là dịp thuận lợi để quảng bá hình ảnh di tích lịch sử, về vùng đất
và con người nơi di tích đứng chân.
Khi đạt được danh hiệu di tích quốc gia, nhiều hoạt động nhằm bảo
tồn và phát huy giá trị di sản được các cấp chính quyền từ trung ương đến địa
phương, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, khách tham quan du
lịch, các tổ chức quốc tế - chính phủ và phi chính phủ, các học giả, các nhà
nghiên cứu, sưu tầm… đặc biệt quan tâm, bộ mặt di tích được cải thiện thông
qua các công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển du lịch. Nói một cách khác, việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị của
các di tích lịch sử liên quan mật thiết đến quá trình phát triển kinh tế, văn hóa
– xã hội của địa phương và đất nước.
1.6.2. Kinh tế, văn hóa – xã hội phát triển tạo điều kiện để bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị của di tích lịch sử
Du lịch nội địa và quốc tế đến nay là một trong những phương tiện
hàng đầu để trao đổi văn hóa, tạo cơ hội cho mỗi con người được trải nghiệm
19
không chỉ những gì quá khứ còn để lại mà cả cuộc sống và xã hội đương đại
của người khác. Du lịch ngày càng được thừa nhận rộng rãi là một động lực
tích cực cho việc bảo vệ di sản thiên nhiên văn hóa. Du lịch có thể nắm bắt
các đặc trưng về kinh tế của di sản và sử dụng chúng vào việc bảo vệ bằng
cách gây quỹ, giáo dục cộng đồng và tác động đến chính sách. Đây là một bộ
phận chủ yếu của nhiều nền kinh tế quốc gia và khu vực và có thể là một nhân
tố quan trọng trong phát triển khi được quản lý hữu hiệu.
Bản thân du lịch đã trở thành một hiện tượng ngày càng phức hợp
đóng một vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
giáo dục, sinh thái và thẩm mỹ. Để thành tựu được mối tương tác có lợi giữa
mong đợi và ước muốn của khách tham quan và cộng đồng chủ nhà hoặc địa
phương - mà có khi là xung đột nhau - là cả một thách đố và một cơ hội.
Di sản thiên nhiên và văn hóa cũng như tính đa dạng của các nền văn
hóa đang tồn tại là những hợp lực to lớn, mà một kiểu du lịch cực đoan hoặc
quản lý tồi và sự phát triển tùy thuộc vào du lịch có thể đe dọa tính toàn vẹn
của hình thể tự nhiên và ý nghĩa của di sản. Sự viếng thăm liên tục của khách
du lịch cũng có thể làm cho hệ sinh thái, văn hóa và lối sống cộng đồng chủ
nhà bị xuống cấp.
Đại hội đồng ICOMOS họp lần thứ 12 ở Mexico, tháng 10-1999 đã
thông qua Công ước quốc tế về du lịch văn hóa, trong đó nhấn mạnh:
Du lịch phải đem lại lợi ích cho các cộng đồng chủ nhà và tạo cho họ
một phương thức quan trọng và một động lực để chăm nom và duy trì di sản
và các tập tục văn hóa của họ. Sự tham gia và hợp tác giữa các cộng đồng địa
phương hoặc bản địa đại diện, các nhà bảo tồn, các điều hành viên du lịch,
chủ sở hữu tài sản, các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm kế hoạch phát
triển quốc gia và các nhà quản lý di tích là cần thiết để thực hiện được một 20
ngành kinh doanh du lịch bền vững và nâng cao việc bảo vệ các nguồn lực
của di sản cho các thế hệ tương lai.
Theo Luật Du lịch của Việt Nam, "du lịch văn hóa là hình thức du lịch
dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống". Du lịch văn hóa không chỉ dựa
vào văn hóa để phát triển mà còn mang sứ mệnh tôn vinh văn hóa, bảo vệ
những giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại. Đồng thời làm giàu thêm văn hóa
chính bằng những hoạt động của mình thông qua sự giao lưu văn hóa, làm cầu
nối cho sự tiếp xúc, tiếp nhận những tinh hoa văn hóa các dân tộc. Phát triển
du lịch văn hóa không chỉ đơn thuần thu được những lợi ích kinh tế như một
hoạt động kinh doanh mà còn nhằm những mục tiêu cao cả như góp phần
thực hiện những mục tiêu phát triển xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa dân tộc truyền thống, góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức về
nền văn hóa dân tộc. Tất cả những giá trị tốt đẹp của văn hóa thông qua hoạt
động du lịch có thể tạo nên sự phát triển tích cực nhất đối với con người và xã
hội. Những di sản văn hóa vật chất và tinh thần phải được khai thác tốt nhất
trong hoạt động du lịch. Kinh tế du lịch phát triển đem lại nhiều cơ hội cho sự
nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản như nguồn kinh phí tăng lên, nhiều
dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích được triển khai. Bởi vậy,
có thể nói kinh tế du lịch phát triển tạo điều kiện để bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị của di tích lịch sử.
1.7. Một số kinh nghiệm của các tỉnh trong việc quản lý, bảo tồn,
phát huy các giá trị của di tích lịch sử
Mỗi di tích lịch sử văn hóa (vật thể và phi vật thể) đều chứa đựng
trong đó những nội dung riêng biệt, độc đáo. Ở đó phản ánh, lưu giữ đặc
trưng lịch sử dân tộc, đặc trưng nhân cách, phẩm giá, thế giới tinh thần, đạo
21
đức tâm lý con người, qua các thời kỳ lịch sử, sự đặc sắc của phong tục tập
quán... của các dân tộc. Để chuyển tải một cách sinh động, trung thực, thuyết
phục và hấp dẫn những giá trị nội dung đó là việc hoạch định các cơ chế,
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, mà quan trọng nhất đó là ngành
du lịch. Công việc của hoạt động du lịch, tạo nên sức hấp dẫn của tài nguyên
du lịch nhân văn. Không chuyển tải được nó, khách du lịch chỉ còn tìm thấy
cái vỏ bề ngoài, cái vỏ kiến trúc, cái vỏ ngôn ngữ... của các di sản, nó vừa làm
nghèo nàn đi các giá trị văn hóa dân tộc trước mắt khách du lịch, vừa hạn chế
tính đa dạng của du lịch. Du lịch chỉ còn là phương thức giải trí, bồi bổ sức
khỏe, nghỉ ngơi, thư giãn mà giảm đi ý nghĩa, tác dụng của sự tự bồi dưỡng
tâm hồn, tự giáo dục nhân cách, tự làm phong phú thế giới tinh thần, tình cảm
- thẩm mỹ của con người.
Nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã làm rất tốt khi có các cơ chế, chính
sách để quản lý, trùng tu, khai thác các di tích lịch sử, tạo ra động lực để phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội.Ở một số tỉnh, các di tích lịch sử cũng giống như
Đắk Nông có thể không nhiều, không có gì thật đặc sắc nhưng đã biết khai
thác sinh động các di tích lịch sử đó, làm nổi bật được tính độc đáo của nó
trong sự tiếp nhận của khách du lịch nên hiệu quả của các di tích lịch sử. Đây
cũng là một bài học về sự quản lý di tích lịch sử để tỉnh Đắk Nông quan tâm,
tìm hiểu và học tập.
1.7.1. Tỉnh Kon Tum
Kon Tum, là một tỉnh nằm ở phía bắc của khu vực Tây Nguyên, cũng
giống như Đắk Nông, Kon Tum cũng là một tỉnh mới được tách ra. Theo
thống kê, hiện nay Kon Tum có 47 di tích lịch sử bao gồm các loại hình.
Nhưng nói tới di tích lịch sử ở Kon Tum là phải nói ngay tới 2 di tích nhà lao
nổi tiếng từ thời Pháp thuộc tại đây, đó là Di tích lịch sử Ngục Kon Tum và di
tích Ngục Đăk Glây. Bên cạnh đó còn có hàng chục di tích ghi dấu những 22
chiến thắng, các sự kiện lịch sử, ghi dấu những bước ngoặt lớn trong 2 cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm của quân và dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh
Kon Tum.
Nhìn chung các di tích lịch sử ở Kon Tum sau khi có quyết định xếp
hạng, Bảo tành tỉnh (trước đây công tác bảo tồn di tích thuộc Bảo tàng tỉnh
quản lý, tỉnh Kon Tum mới tách Ban quản lý di tích năm 2010) đã làm ngay
các việc như: Quy hoạch khoanh vùng bảo vệ di tích, có biển báo, biển cắm
mốc di tích,... Các di tích đã phần nào phát huy tác dụng, góp phần giáo dục
truyền thống cách mạng, nâng cao lòng tự hào dân tộc cho quần chúng nhân
dân đặc biệt là thế hệ trẻ, và phục vụ nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu của khách
tham quan.
Trong số các di tích trên địa bàn tỉnh Kon Tum thì di tích lịch sử Ngục
Kon Tum là di tích phát huy tác dụng tốt nhất. Do di tích nằm gần trung tâm
thành phố kon Tum, thuân lợi giao thông đi lại.
Ngay từ khi mới được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc
gia (1988), được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, di tích
lịch sử Ngục Kon Tum đã được đầu tư tôn tạo và xây dựng phòng trưng bày
nhằm phục vụ khách tham quan. Đặc biệt trong đợt tôn tạo năm 1998 - 1999,
di tích đã được đầu tư, với nhiều hạng mục công trình, tạo cảnh quan và xây
dựng Nhà trưng bày tại khu di tích. Cuối năm 2003 phòng trưng bày tại di
tích lịch sử Ngục Kon Tum đã mở cửa đón khách tham quan
Di tích lịch sử Ngục Kon Tum đã trở thành nơi góp phần quan trọng
trong việc giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng ngoài nhà trường cho
thế hệ trẻ trong tỉnh, đồng thời là điểm tham quan cho du khách khi đến với
Kon Tum. Mỗi năm di tích đã đón hàng chục ngàn lượt khách, và để lại ấn
tượng khá tốt cho du khách.
23
Để phát huy tác dụng di tích, Bảo tàng tỉnh, nghành Văn hóa thể thao
và du lịch tỉnh Kon Tum đã thực hiện tốt một số nội dung như:
- Tích cực tìm hiểu nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, hình ảnh về di tích
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan....
- Tham mưu với lãnh đạo tỉnh lấy ngày 25/9 hàng năm (ngày ra đời của
Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Kon Tum tại nhà lao Kon Tum) làm
ngày Truyền thống Đảng bộ tỉnh; Lấy ngày 12/12 (Ngày Đấu tranh lưu huyết
và hy sinh của 7 chiến sỹ cộng sản tại nhà lao Kon Tum) làm ngày giỗ và
Ngày truyền thống Ngục Kon Tum.
- Tích cực viết bài tuyên truyền về di tích trên các phương tiện thông
tin đại chúng như báo, tạp chí của địa phương, đài PTTH tỉnh, nhất là vào
những ngày kỷ niệm Truyền thống Đảng bộ tỉnh (25/9); Ngày truyền thống
Ngục Kon Tum (12/12).
- Vào những năm kỷ niệm chẵn, phối hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh ủy,
Thư viện tỉnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Di tích lịch sử Ngục Kon
Tum... Tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ tìm hiểu,
hiểu biết thêm về di tích, về một giai đoạn lịch sử đã qua của dân tộc, của địa
phương.
- Phối hợp với nghành giáo dục đào tạo tổ chức cho các thế hệ học sinh
tham quan ngoại khóa, tìm hiểu về di tích....
Du khách khi tới thăm và làm việc tại Kon Tum đều có một nguyện
vọng là tới thăm di tích ngục Kon Tum, Ngục Đăk Glây, những di tích lịch sử
cách mạng nổi tiếng, những nhà tù khét tiếng về sự tàn khốc ở miền Trung
những năm 30 của thế kỷ trước. Những năm qua 2 di tích đã đón hàng trăm
ngàn khách tới viếng thăm. Có người đã kinh qua một thời máu lửa về thăm
lại chiến trường xưa, có người là thân nhân của những chiến sĩ cộng sản đã
từng bị giam cầm tại đây; Nhưng nhiều hơn cả là lớp thế hệ những người
24
được may mắn sống trong độc lập, tự do. Điều đọng lại trong lòng mỗi du
khách khi tới địa danh lịch sử này niềm xúc động, cảm phục, tự hào về tinh
thần ý chí quật cường của cha anh.
Tương tự như thế, các di tích Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh, di tích
Chiến thắng PLây Cần, di tích Lịch sử và danh thắng Măng Đen, Căn cứ Tỉnh
ủy Kon Tum, Khu chứng tích Kon Hring, Chư Tan Kra, Điểm cao 601....
cũng đã được đầu tư tôn tạo và đã phần nào phát huy tác dụng của các di tích,
góp phần quan trong vào sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh Kon
Tum.
1.7.2. Tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồnglà một tỉnh nằm liền kề với tỉnh Đắk Nông, 5 năm qua, thực
hiện “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng,hàng năm, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chỉ đạo ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch triển khai có hiệu quả chương trình hành động quốc gia về bảo tồn
các di sản văn hóa tiêu biểu bằng việc sưu tầm, bảo quản, tu bổ, tôn tạo và
phát huy giá trị di tích.….
Trước hết, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về giá trị văn hóa của nhân dân các dân tộc, nâng cao lòng tự
hào về các giá trị văn hóa; cùng với chú trọng công tác sưu tầm, bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa các dân tộc, đặc biệt là việc chống xuống cấp và
tôn tạo di tích lịch sử quốc gia Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt; phục dựng Khu di
tích lịch sử quốc gia căn cứ kháng chiến Khu IV Cát Tiên và dự án bảo tồn,
tôn tạo Khu di tích khảo cổ Cát Tiên (di tích quốc gia đặc biệt)…
UBND tỉnh cũng chỉ đạo các ngành liên quan đẩy mạnh giữ gìn, tôn
tạo những công trình kiến trúc cổ đặc trưng của thành phố Đà Lạt, quy hoạch
kiến trúc thành phố phù hợp với sự phát triển hiện đại nhưng vẫn giữ nét
riêng, mang bản sắc và dấu ấn văn hóa địa phương. Củng cố và nâng cao chất 25
lượng hoạt động của Bảo tàng tỉnh thông qua việc hoàn thiện dự án xây dựng
không gian và nội thất nhằm nâng cấp thành Bảo tàng hạng 2, từng bước phát
triển thành Bảo tàng khoa học, hiện đại, có phong cách phục vụ riêng biệt, ấn
tượng. Toàn tỉnh hiện có 33 di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được
xếp hạng, trong đó có 13 di tích cấp tỉnh, 18 di tích thắng cảnh cấp quốc gia
và 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt. Một số công trình văn hóa tiêu biểu như: di
tích Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt, căn cứ kháng chiến Khu IV Cát Tiên, Bộ Mộc
bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu Thế giới). Công tác giữ gìn, phát huy và khai
thác danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh được cấp ủy, chính quyền quan
tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi về chính sách, đảm bảo an ninh, trật tự để tổ
chức, cá nhân và doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các giá trị, di tích lịch
sử, danh lam thắng cảnh phục vụ phát triển du lịch.
1.7.3. Bài học kinh nghiệm được rút ra cho tỉnh Đắk Nông
Những kinh nghiệm trên cho thấy hai bài học quan trọng:
- Thứ nhất, có cơ chế, chính sách phù hợp cùng một hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật hoàn chỉnh có tác dộng nâng cao hiệu quả công tác quản
lý di sản văn hóa, tạo động lực cho các hoạt động bảo tồn các di tích lịch sử -
văn hóa.
- Thứ hai, có hệ thống quản lý đủ mạnh, có khả năng triển khai trong
đời sống xã hội các cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo tồn các di tích này
- Thứ ba, có nguồn nhân lực chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp trong
lĩnh vực bảo tồn các các di tích.
- Thứ tư, truyền thống giáo dục về di sản văn hóa tốt để tăng cường
nhận thức, ý thức và hành vi ứng xử của cộng đồng và từng người dân.
26
- Thứ năm, đảm bảo đầu tư ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực
từ xã hội cho hoạt động bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa.
- Cuối cùng là sự kết hợp chặt chẽ các hoạt động bảo tồn, phát huy giá
trị của các di tích với hoạt động kinh tế, nhất là phát triển du lịch.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã hệ thống hóa và khái quát những quan niệm cơ bản về di
sản văn hóa, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; làm rõ khái niệm về di tích.
Đồng thời luận văn cũng đi sâu phân tích khái niệm quản lý và trình bày quan
niệm quản lý gắn với phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội. Trên cơ sở phân tích
mối quan hệ biện chứng giữa di tích lịch sử với phát triển của ngành du lịch
bền vững, luận văn đã khẳng định rằng, muốn bảo tồn, tôn tạo, giữ gìn các giá
trị củ di tích lịch sử thì phải dựa vào sự đầu tư về cơ chế, chính sách và ngược
lại muốn phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội thì phải dựa vào văn hóa, nuôi
dưỡng văn hóa. Văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói riêng chính là nguồn
lực, là động lực để phát triển du lịch và ngược lại, kinh tế phát triển, đặc biệt
là kinh tế du lịch tạo điều kiện để bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di
tích lịch sử (nói riêng) và văn hóa (nói chung). Việc làm rõ vai trò của di tích
lịch sử trong sự phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở để đưa ra những chính sách
và giải pháp để bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích lịch sử trong giai đoạn
phát triển mới của đất nước nói chung và của tỉnh Đắk Nông nói riêng.
Chương này cũng đề cập đến việc nghiên cứu kinh nghiệm của các
tỉnh như Kon Tum, Lâm Đồng... là những tỉnh có kinh nghiệm xây dựng
chính sách, giải pháp để bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích lịch sử nhằm vận
dụng sáng tạo những kinh nghiệm hay trong công tác quản lý, xây dựng và
ban hành một số chính sách giải pháp nhằm bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu
27
quả khai thác di tích thông qua hoạt động du lịch với một quan điểm nhất quán
là phát triển bền vững.
28
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG THỜI GIAN QUA
2.1. Tổng quan về địa lý, lịch sử và văn hoá Đắk Nông
2.1.1. Địa danh và tiến trình lịch sử
Vào thế kỷ XIX, vùng Đắk Nông là nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa
thớt, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, sống theo cộng đồng, thị
tộc, bộ lạc, trải trên một địa bàn rộng lớn. Ngay từ lúc này, Đắk Nông đã
được xác định là vùng đất giầu tiềm năng để phát triển kinh tế và có vị trí
chiến lược về quân sự đối với khu vực. Vì vậy, các giáo sĩ phương Tây đã tổ
chức khảo sát, vẽ bản đồ thổ nhưỡng và dân cư địa phương nhằm phục vụ cho
việc truyền giáo, chinh phục và khai thác của thực dân Pháp. Sauk hi xâm
lược Việt Nam, Pháp nhanh chóng đưa quân đến Vùng Tây Nguyên nói
chung và Đắk Nông nói riêng, thiết lập bộ máy cai trị của chính quyền thực
dân pháp. Pháp thành lập một số đồn điền ở vùng này để nghiên cứu và kiểm
soát dân chúng, tập trung ở huyện Đắk Mil, Đắk Song ngày nay.
Năm 1959, Chính quyền Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh thành lập tỉnh
Quảng Đức, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước,
tháng 5 năm 1975 thi hành chủ trương của Trung ương, chúng ta vẫn lấy tên
là tỉnh Quảng Đức.
Đến tháng 11 năm 1975 tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2004, tỉnh Đắk Nông được thành lập theo
Nghị quyết số 22/2003 QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội trên cơ sở chia
tách từ tỉnh Đắk Lắk. Khi thành lập tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên là
6.514,32km2, dân số là 392.070 người với 32 dân tộc anh em sinh sống.
29
Cho đến nay toàn tỉnh có 8 huyện và một thị xã, với dân số là 636.000
người, thu nhập bình quân đầu người 35 triệu đồng/năm, bào dân tộc thiểu số
chiếm 47%.
2.1.2. Vị trí địa lý
Tỉnh Đắk Nông nằm ở phía nam Tây Nam của Tây Nguyên, phía bắc
giáp tỉnh Đắk Lắk, phía nam giáp tỉnh Bình Phước, phía đông và đông nam
giáp tỉnh Lâm Đồng, phía tây giáp Campuchia.
Cao nguyên Mnông theo thư tịch của người Pháp thường được gọi là
cao nguyên trung tâm nam Đông Dương, gọi tắc là cao nguyên Trung Tâm
(Cplatteau Central). Theo cách gọi như vậy là trung tâm nằm ngay, “ngã ba
ranh giới” của ba xứ Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên.
Địa thế cao nguyên Mnông, nhìn chung như một mái nhà. Các nhà địa
lý học gọi đây là “mái nhà của cực nam Đông Dương”, đường nóc là một cao
nguyên dài và dẹp, rộng tương đương gần 4000km2, có độ cao trung bình
800m. Từ Cao nguyên này đổ xuống đường nóc chủ yếu sườn dốc, với mạng
lưới sông ngòi dày đặc.
Đắk Nông là tỉnh có vị trí quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an
ninh – quốc phòng. Là cửa ngõ phía Nam của Tây Nguyên. Đăk Nông có hệ
thống giao thông đường bộ quan trọng, trong thời kỳ chiến tranh cũng như
hiện nay, trên địa bàn tỉnh có quốc lộ 14 chạy qua, con đường lối liền tỉnh
Đắk Nông đi thành phố Hồ Chí Minh, là huyết mạch xuyên xuống vùng đồng
bằng châu thổ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, Ngoài ra,
tỉnh còn có quốc lộ 28 nối liền Đắk Nông với huyện Di Linh của tỉnh Lâm
Đồng, một tỉnh có điều kiện thuận lợi về phát triển du lịch dựa vào di tích lịch
sử và danh thắng, là một tỉnh có trên 130 km đường bộ chạy dọc biên giới nối
30
liền với tỉnh Mundunkiri qua cửa khẩu Bu Prang, đây là tuyến hết sức quan
trọng cả về kinh tế lẫn an ninh quốc phòng.
2.2. Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử ở Đắk Nông thời
gian qua
2.2.1. Các di tích lịch sử vă hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện
nay
Đắk Nông là tỉnh nằm ở vùng đất cổ trên cao nguyên Mơ Nông, phía
Nam Tây Nguyên, Đắk Nông là nơi sinh sống lâu đời của các dân tộc bản địa,
như Mnông, Mạ, Ê-đê,… với nền văn hóa truyền thống lâu đời và không
ngừng được bồi đắp thông qua sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa của các dân tộc
anh em. Thời gian qua, Đắk Nông có nhiều nỗ lực trong công tác bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần gìn giữ sự đa dạng, phong
phú và đặc sắc cho bức tranh văn hóa cho cả nước nói chung và cho khu vực
Tây Nugyên nói riêng. Cùng với các tỉnh ở Tây Nguyên, Đắk Nông là một
trong những địa phương có bề dày truyền thống lịch sử với những địa danh
kiên cườnggắn với những sự kiện lịch sử, những chiến công lừng lẫy suốt
chiều dài 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Một trong những thành tố của kho tàng di sản văn hóa quý giá đó phải kể tới
hệ thống di tích lịch sử văn hóa của tỉnh. Theo thống kê, hiện nay Đăk Nông
có 6 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
2.2.1.1. Di tích điểm lưu niệm N’Trang Gưh
N‘Trang Gưh, tên thật là Y Gưh H‘Đớk, là người dân tộc Ê đê, sinh
khoảng năm 1845, tại buôn Choáh Kplang, một buôn của nhóm Êđê Bih khu
vực bờ sông Krông Nô, tại đây, ông đã kiên cường cùng đồng bào đứng lên
kháng chiến trong suốt 14 năm ròng (1900-1914), là một trong những cuộc
kháng chiến lớn nhất ở Tây Nguyên thời bấy giờ.
31
Di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm N‘Trang Gưh thuộc xã Buôn Choáh
(huyện Krông Nô) đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận là di
tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 2366/QĐ-BVHTTDL, ngày
02/8/2011.
Sau khi N‘Trang Gưh mất, thi thể của ông được nhân dân đưa về chôn
cất tại quê hương, nơi ông sinh ra là buôn Choáh (nay thuộc thôn 1, xã buôn
Choáh (Krông Nô).
Để ghi dấu những chiến công lẫy lừng của người tù trưởng buôn làng
người Ê đê N‘Trang Gưh, người anh hùng của các dân tộc Tây nguyên trong
các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Di tích lịch sử Địa điểm lưu
niệm N‘Trang Gưh thuộc xã Buôn Choáh (huyện Krông Nô) đã được Bộ Văn
hóa – Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo
Quyết định số 2366/QĐ-BVHTTDL, ngày 02/8/2011.
2.2.1.2. Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp của đồng bào M Nông do N Trang Lơng lãnh đạo
Khu di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực
dân Pháp của đồng bào M‘Nông do N‘Trang Lơng lãnh đạo (gồm địa điểm
Đồn Buméra và Đồn Bu Nor) nằm trên địa bàn xã Đắk R‘tih và xã Đắk Buk
So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du
lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 04
/2007/QĐ-BVHTTDL, ngày 27/8/2007.
N‘Trang Lơng tên thật là Lơng, sinh khoảng năm 1870 tại Buôn
Bupar, một làng M‘Nông Biệt dưới chân núi Nam Drôn thuộc khu vực suối
Đắk Nha, phía bắc cao nguyên M‘nông. Thuở nhỏ, N‘Trang Lơng (lúc này
ông sống ở phía đông Srê Khơtum) được miêu tả là cậu bé nhanh nhẹn, tháo
32
vát, hay giúp đỡ người khác và dũng cảm. Người trong làng yêu quý cậu cũng
như em trai cậu là Rơ Leng Ong. Khi lớn lên, được nghe kể về tấm gương
chiến đấu của các tù trưởng Ama Jhao, N‘Trang Gưh, N‘Trang Lơng tỏ ra rất
khâm phục.
Từ năm 1909, sau sự đầu hàng của Khunjunob, Pháp bắt đầu tung
những đơn vị, những phái đoàn lên thám thính vùng cao nguyên M‘nông. Tên
Henri Maitre đã cho chiếm đóng và xây dựng đồn ở Buôn Bu Poustra và đã
tấn công làng Bu Nơtrang của N‘Trang Lơng, hãm hại gia đình ông.
Cuộc khởi nghĩa của các đồng bào dân tộc thiểu số chống thực dân
Pháp xâm lược kéo dài 24 năm (1911 – 1935) do thủ lĩnh N‘Trang Lơng đứng
đầu bị kẻ thù đàn áp, dập tắt. Nhưng ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết các
dân tộc trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung của N‘Trang Lơng và nghĩa
quân đã khích lệ các thế hệ người M‘Nông, Stiêng, Ê đê, Mạ, Chàm, Kinh,
K‘ho ở Đắk Nông, Krông Nô, Đắk Mil… kế tiếp nhau đứng lên chống bọn
xâm lược và tay sai. Thân thế và sự nghiệp của anh hùng N‘Trang Lơng là
một bộ phận lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam trước khi
có Đảng; là sự nối kết giữa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với công cuộc
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp trên cả nước và khối đại
đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, nhằm ghi nhớ công lao và những chiến tích của vị thủ lĩnh
người M‘nông, tỉnh Đắk Nông đã và đang triển khai xây dựng Tượng đài anh
hùng dân tộc N‘Trang Lơng và các dân tộc Tây Nguyên tại trung tâm thị xã
Gia Nghĩa; triển khai thực hiện dự án phục dựng di tích các địa điểm về
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M‘Nông do N‘Trang
Lơng lãnh đạo tại xã Đắk R‘tih và xã Đắk Buk So, huyện Tuy Đức. Di tích
bao gồm các hạng mục như: các điểm chiến đấu, hầm hào, công sự, hậu cần
33
bảo đảm lương thực; những trận địa chiến đấu và chiến thắng của phong trào
N‘Trang Lơng như: bon Bu Nơr, đồn Buméra, bia Henry Maitre. Đây cũng là
những di tích tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, nơi ghi dấu
ấn những chiến công hiển hách, hào hùng của dân tộc, phản ánh ý chí đấu
tranh kiên cường, bất khuất và biểu tượng tinh thần đoàn kết, gắn bó của các
dân tộc Tây Nguyên.
2.2.1.3.Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV (1959-
1975) tại Nâm Nung
Căn cứ kháng chiến B4- liên tỉnh IV từng là địa bàn hoạt động an toàn
của các cơ quan ban ngành, Huyện uỷ, Tỉnh uỷ, Liên tỉnh; là nơi đưa đón các
đồng chí lãnh đạo từ Trung ương vào thành lập chủ lực Miền, để chỉ đạo cuộc
cuộc tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Đồng thời là hành lang chiến
lược đưa sức người, sức của từ hậu phương ra tiền tuyến, đóng vai trò như
bản lề nối Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, miền Bắc với miền Nam.
Ngày nay, đến thăm Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - liên tỉnh
IV, có thể thấy Di tích như nằm lọt giữa thảm rừng nguyên sinh, với những
cây cổ thụ như ôm ấp và che chở các dấu tích của một thời lịch sử oai hùng.
Từ Lâm trường Nâm Nung (huyện Krông Nô) rẽ trái theo hướng Đông; từ
huyện Đăk Song theo tỉnh lộ 6 hoặc từ thị xã Gia Nghĩa theo tỉnh lộ 4 là
chúng ta có thể đến Khu di tích Tỉnh ủy B4 và Liên tỉnh IV.
Quần thể khu di tích bao gồm hai địa điểm: Địa điểm Tỉnh ủy B4, Liên
tỉnh IV và địa điểm Tỉnh đội B4. Khu căn cứ Tỉnh đội nằm ở chân đồi Yok
K&;Lé Lay. Vành đai ngoài khu vực Tỉnh đội hiện tại vẫn còn những vết tích
hầm, hào hình chữ Z, bếp Hoàng Cầm và những dấu tích địa dư mà các chiến
sỹ trước đây phát rẫy trồng màu (lúa, ngô, khoai, sắn...). Vào bên trong vành
đai là trung tâm của Tỉnh đội (1968-1971), nơi đây như một quần thể kết cấu
34
của nhà và hầm nối tiếp nhau. Từ trên đồi (phía Nam) đi xuống (theo hướng
Bắc) vẫn còn vết tích hầm của Tỉnh đội, có độ dài 2,5m, rộng 0,9m. Hầm làm
theo kiểu chữ Z để tiện cho việc đi lại - một cửa vào và một cửa ra. Tiếp đến
là căn nhà ở và làm việc từ 1968-1969 của đồng chí Bùi Đức Thành (Năm
Nhân) - Tỉnh đội trưởng, và sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Thanh, Tỉnh đội
trưởng ở và làm việc từ 1969-1971.
Ngược dòng chảy của con suối Đắk Đ‘Rouk khoảng 1 km là tới căn cứ
của Liên tỉnh IV và Tỉnh ủy B4, thuộc địa bàn thôn 2, bon Ja Rah, xã Nâm
Nung (Krông Nô), di tích hiện còn là một nền đất hình chữ nhật, có diện tích
13,5m2, độ sâu so với mặt đất 0,15m, bốn bên là tre nứa bao trùm, nơi trước
đây là căn nhà của Tỉnh ủy B4 và Liên tỉnh IV đóng và làm việc.
Ngoài khu vực căn cứ Tỉnh ủy B4 và Liên tỉnh IV, Khu di tích còn địa
điểm huyện ủy Đắk Mil đóng. Theo hướng Tây Nam qua suối Đắk Đ‘Looung
chừng 50m là đến bếp Hoàng Cầm và hội trường của Huyện ủy Đắk Mil (cuối
năm 1968 sau khi tỉnh Quảng Đức chuyển xuống phía Nam Nâm Nung,
Huyện ủy Đắk Mil chuyển về đây, đến năm 1973 chuyển ra suối Đắk P‘Rí).
Cũng như căn cứ của Liên tỉnh IV và Quảng Đức (B4) ở suối Đắk Đ‘Rouk,
hiện nay nhà và bếp Hoàng Cầm không còn nữa, nhưng nền bếp vẫn còn
nguyên vẹn, nằm cách hội trường Huyện ủy 4,5m về hướng Đông Nam, có
diện tích 4m2 (2m x 2m), độ sâu 0,15m so với mặt đất. Đi về hướng Tây Bắc
4,5m là nền hội trường Huyện ủy, có diện tích 22m2 (5,5m x 4m), sâu 0,1m,
mặt hướng về phía Tây Nam (suối Đắk R‘Looung).
Có thể nói, Khu căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV giữ vai trò vừa là
tiền tuyến vừa là hậu phương, là nơi xây dựng lực lượng cách mạng và tham
gia sản xuất cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, cho các vùng
khác để cứu đói. Đồng thời cũng là nơi tổ chức các trận đánh lớn ngay trên
35
địa bàn căn cứ, làm tiêu hao sinh lực địch, khai thông đường hành lang chiến
lược, phục vụ đắc lực cho chiến trường miền Nam.
Di tích lịch sử cách mạng Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV khẳng
định tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa các dân tộc anh em Kinh - Thượng;
khẳng định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong việc tổ chức bộ máy
lãnh đạo các cấp, xây dựng được thế trận lòng dân, tranh thủ sự nhiệt tình ủng
hộ của quần chúng nhân dân với cách mạng trong điều kiện hết sức khó khăn.
Di tích là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do cho các tầng
lớp nhân dân các dân tộc, tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa các dân tộc anh
em, truyền thống yêu nước xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử, Di tích lịch sử cách mạng Căn cứ
kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV còn có ý nghĩa về mặt du lịch sinh thái với môi
trường tự nhiên đa dạng, phong phú. Cả khu di tích như nằm lọt thỏm giữa
màu xanh của những ngọn núi cao, thảm rừng nguyên sinh bạt ngàn, tới đây
du khách có thể được tận hưởng không khí trong lành, tắm mát trên dòng
suối, nằm nghe tiếng chim hót, tiếng róc rách của con suối Đắk P‘Rí, Đắk
R‘Looung. Tại đây, vẫn còn lại nhiều loại động vật quý hiếm như: Trăn gió,
đại bàng, lợn, na, mèo, gấu, khỉ, trâu (mil)… và nhiều loại thực vật như: Chò
xót, dầu đỏ, trắc, kiền kiền, sao,… Trong quần thể di tích còn có những ngọn
núi cao, thảm rừng nguyên sinh bạt ngàn xanh biếc, được bao bọc bởi các
dòng suối, những ngọn thác nhỏ thơ mộng, làm tăng thêm vẻ đẹp huyền bí
của đất Tây Nguyên hoang sơ. Bên cạnh đó, ẩn mình dưới những dãy núi cao
hùng vĩ là các bon làng với dân cư chủ yếu là người dân tộc M&;nông, Mạ
mang đậm nét văn hóa truyền thống độc đáo người bản địa.
Quần thể Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - liên tỉnh IV đã được
Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích cấp Quốc gia tại Quyết định số
10/2005-QĐ-BVHTT, ngày 17/3/2005. Cùng với những giá trị về mặt lịch sử,
36
ý nghĩa về mặt địa chất và sinh thái - văn hóa, nơi đây là điểm đến lý tưởng
thu hút sự quan tâm của du khách với vẻ đẹp tự nhiên sẵn có bên cạnh những
truyền thống văn hoá độc đáo, lâu đời của các bon làng người M&;Nông. Đây
thực sự là một trong những tiềm năng phát triển lịch sử - văn hoá - du lịch -
kinh tế của tỉnh Đắk Nông nói riêng và Tây Nguyên nói chung.
2.2.1.4.Di tích lịch sử địa diểm bắt nối liên lạc khai thông đường Hồ
Chí Minh đoạn Nam Tây Nguyên – Nam Trung Bộ
Thực hiện chủ trương chi viện cho miền Nam- Bộ chính trị Trung ương
Đảng khoá 2 quyết định tố chức tuyến giao liên vận tảiquân sự Trường Sơn.
Đoàn công tác quân sự đặc biệt 559 được thành lập.
Tổng quân uỷ- Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn B90 tăng
cường cho liên khu 5 xoi đường nối hai chiến trường khu 5 và Nam Bộ- hành
lang chiến lược Bắc- Nam. Khi đoàn vào đến Đăk lăk lấy phiên hiệu B4 do
đồng chí Bí thư tỉnh uỷ phụ trách. B4 chia hai đoàn xoi đường vào Nam Bộ.
Đồng thời khu uỷ miền Đông nam Bộ tổ chức các đoàn từ chiến khu Đ mở
đường ra bắt liên lạc với B4.
Trải qua bao gian nan, thử thách để thực hiện nhiệm vụ, vào lúc 16 giờ
ngày 30 tháng 10 năm 1960 một cánh cửa của B4 bắt liên lạc với đoàn C200
tại vàm Đăk Tik- tỉnh Đồng Nai thượng. Lúc 20 giờ ngày 04- 11- 1960 cánh
thứ hai của B4 bắt liên lạc với bộ phận vũ trang- tỉnh Phước Long- miền
Đông Nam Bộ tại khu vực ngã 3 Đăk Song trên đường 14B- nơi đặt đài tưởng
niệm(Thôn 8- Nam Bình).
Nhân dịp kỉ niệm 20 năm thành lập Hội Cựu chiến binh Việt
Nam(06/12/1989- 06/12/2009), Hội CCB xã Nam Bình phối hợp với Đoàn
Thanh niên xã tổ chức tu sửa, tôn tạo, chăm sóc Đài tưởng niệm.
37
Chi hội CCB thôn 8 – xã Nam Bình đảm nhận việc trông coi và bảo vệ
di tích. Trường THCS Trần Phú nhận chăm sóc di tích.
Đài tưởng niệm thường xuyên đuợc khách bộ hành trong nước và quốc
tế ghé tham quan.
2.2.1.5.Di tích lịch sư nhà ngục Đắk Mil
Vào đầu những năm 1940, để mở rộng bộ máy cai trị tại vùng đất nam
Tây Nguyên, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, đàn áp bắt bớ những người
yêu nước. Chúng chọn những nơi có khí hậu khắc nghiệt để xây dựng hàng
loạt nhà tù. Tại thôn 9A, xã Đăk Lao (huyện Đăk Mil ngày nay), thực dân
Pháp đã dựng lên nhà ngục Đăk Mil.
Nhà ngục Đăk Mil gồm 9 gian, vách gỗ, mái lợp tranh, xung quanh là
hàng rào dây thép gai, bên trong có 2 dãy sàn gỗ làm chỗ ngủ cho tù nhân, có
cùm chân, xiềng tay. Từ năm 1940 đến 1943, thực dân Pháp đã giam giữ hàng
trăm lượt chiến sĩ cộng sản, có thời điểm giam giữ 120 người. Tại đây, thực
dân Pháp đã thực hiện một chế độ lao tù hết sức khắc nghiệt và tàn bạo, mỗi
tù nhân chỉ được phát một mảnh chăn mỏng, một chiếc chiếu và một bát cơm
mỗi ngày. Hằng ngày, tù nhân phải đi lao dịch nặng nề như đào đất, đóng
gạch, làm đường... Khi đi làm, người tù bị xiềng tay chân và bị lính canh gác
chặt chẽ, tối phải ngủ trong tư thế bị cùm.
Cũng từ những nơi tăm tối này, một số anh em binh lính và chỉ huy
người M&;nông, Ê Đê đã được các cán bộ chiến sĩ trong tù giác ngộ, cảm hóa
bỏ hàng ngũ của địch quay về với cách mạng. Có người sau này trở thành cán
bộ cao cấp như ông YBih Aléo - Phó Chủ tịch Mặt trận giải phóng miền Nam
Việt Nam. Một số chiến sĩ vượt ngục thành công cũng giữ chức vụ quan trọng
như: thiếu tướng Lê Nam Thắng - Tư lệnh Quân khu thủ đô Hà Nội, Phó Ban
38
thanh tra Bộ Quốc phòng; ông Nguyễn Tạo - Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp; ông
Trần Quế - Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp; thượng tướng Trần Sâm, thượng
tướng Trần Văn Quang..
Năm 2004, sau khi tỉnh Đăk Nông được tái lập, Sở VHTT và DL đã
sưu tầm hàng trăm tài liệu, hiện vật lịch sử để xây dựng hồ sơ khoa học cho di
tích. Được sự quan tâm của cơ quan chính quyền trung ương và địa phương,
đặc biệt là các cựu tù chính trị từng bị giam giữ tại đây, ngày 17-3-2005, nhà
ngục Đăk Mil đã được Bộ VHTT và DL công nhận là di tích lịch sử quốc gia.
Tỉnh Đăk Nông đã tiến hành xây dựng, tu bổ di tích theo nguyên trạng
ban đầu. Theo đó, toàn cảnh nhà ngục được phục dựng trên khuôn viên rộng
hơn 2.000m2. Bên cạnh đó, tiến hành xây dựng thêm các hạng mục phụ như
nhà trưng bày hiện vật, bia đá tưởng niệm... với tổng vốn đầu tư hơn 9 tỷ
đồng.
Sau khi đi vào hoạt động, nhà ngục Đăk Mil trở thành địa điểm du lịch
về nguồn hết sức bổ ích.
2.2.1.6.Di tích lịch sử Đồi 722
Địa điểm ghi dấu nhiều trận đánh ác liệt của lực lượng bộ đội chủ lực ta
và quân, dân địa phương trong suốt chặng đường lịch sử từ năm 1968 đến
1975 nhằm tiêu hao sinh lực địch, đánh phá hệ thống đồn bốt đang án ngữ phá
hoại đường Hồ Chí Minh trên chiến trường nam Tây Nguyên.
Địa điểm Đồi 722 - Đắk Sắk là một trại lực lượng đặc biệt Đức Lập
(Camp Duc Lap) được Mỹ - Ngụy thiết lập năm 1965, cách trung tâm quận
Đức Lập (tỉnh Quảng Đức cũ) khoảng 10 km về hướng đông (nay thuộc địa
phận thôn Thổ Hoàng 4, xã Đắk Sắk, huyện Đắk Mil). Tại đây địch xây dựng
các công sự kiên cố với 12 lớp hàng rào, bên trong là tường đất có ụ chiến
39
đấu, hào sâu cắm chông, gài mìn. Lực lượng địch tại đây là 01 tiểu đoàn được
trang bị quân trang vũ khí hiện đại.
Năm 1968, bộ đội chủ lực của ta phối hợp với quân và dân địa phương
nổ súng tấn công quận lỵ Đức Lập và một loạt vị trí đóng quân của địch trên
toàn tuyến Sapa, Đắk Lao và Đắk Sắk... đồng thời chặn đánh các cánh quân
chi viện của địch. Đêm 24/8/1968, căn cứ trại lực lượng đặc biệt Đức Lập –
nơi cố thủ cuối cùng của địch đã bị tiêu diệt, đại bộ phận quân chiếm đóng và
hệ thống Ngụy quyền từ huyện đến xã tan rã, giải phóng hàng ngàn dân, bộ
đội ta hoàn toàn làm chủ trận địa.
Ta chiếm đóng trại lực lượng đặc biệt Đức Lập được 3 đến 4 ngày thì
địch huy động tổng lực quân đội từ Buôn Ma Thuột và các căn cứ quân sự
đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Đức tiếp ứng, bao vây tấn công bất ngờ, chúng
huy động máy bay B52, dùng hỏa tiễn, pháo 105mm, pháo 155mm, pháo
175mm, gài mìn Claymore và đại liên dội xuống trại lực lượng đặc biệt Đức
Lập trong suốt hơn 3 ngày đêm.
Sau gần 10 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt hơn 1.300 tên địch; bắn hạ
nhiều phương tiện chiến tranh và thu nhiều quân trang, vũ khí. Tuy nhiên, do
thông tin chậm, lại chưa được chi viện lực lượng và tiếp tế lương thực kịp
thời nên ta chỉ chống trả và cầm cự được trong 3 ngày. Trong trận chiến quyết
tử đầy khốc liệt này, ta đã hy sinh hơn 200 đồng chí. Địch tái chiếm trại Đức
Lập.
Địa điểm chiến thắng đồi 722 – Đắk Sắk được Bộ Văn hóa, Thể thao &
Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số
4063/QĐ-BVHTTDL ngày 24/10/2012.
2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay
40
Từ giữa năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã có quyết định
thành lập quản lý di tích, nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước giúp tỉnh
làm tốt hơn việc quản lý, bảo vệ di tích lịch sử. Song vấn đề đáng nói ở đây là
vẫn chưa có được sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất cao giữa các cấp, các ngành
để biến các di sản văn hóa thực sự trở thành những sản phẩm du lịch, nhằm đưa
du lịch vào hoạt động, tạo buớc phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của Đắk Nông.Công tác quy hoạch phát triển du lịch Đắk Nông
giai đoạn 2010 đến năm 2020 tuy đã được xây dựng và ban hành song chưa thật
được chú trọng cũng như chưa hướng sự quan tâm của toàn xã hội, các ngành,
các cấp đến việc bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích trong phát triển du
lịch. Vì thế các điểm du lịch ở Đắk Nông phát triển còn mang nặng tính chất tự
phát, công tác quản lý gặp nhiều lúng túng. Mặc dù việc giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa quản lý chuyên môn của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch với
việc bảo vệ, trùng tu, khai thác của chính quyền địa phương là một vấn đề tế
nhị, phức tạp, nhưng không phải là không thể giải quyết được. Hiện nay, lĩnh
vực du lịch đã được thống nhất trong một ngành, chắc chắn sẽ tạo được mối liên
kết và phối hợp chặt chẽ. Trong quy hoạch mới về phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2010 đến 2020 nói chung, phát triển du lịch nói riêng sẽ có những định
hướng, tạo sự gắn kết trong công tác bảo tồn và phát triển, đem lại hiệu quả kinh
tế và văn hóa ngày càng cao.
2.2.2.1. Thực trạng công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa tại tỉnh Đắk
Nông.
Do có sự quan tâm của chính quyền địa phương và các ngành chức
năng trong tỉnh nên việc quản lý, bảo tồn di tích lịch sử văn hóa trong thời
gian qua được thực hiện bước đầu mang lại kết quả như: Công tác điều tra,
khảo sát các di tích được quan tâm, thực hiện định kỳ để kịp thời có các chính
sách để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Qua công tác điều tra, khảo sát,
41
hàng năm, UBND tỉnh có nguồn kinh phí phân bổ cho công tác trùng tu, tôn
tạo các di tích. Một số di tích quan trọng thường xuyên được trùng tu, tôn tạo
và bảo vệ.
Trong những năm qua, công tác tu bổ, chống xuống cấp và tôn tạo di
tích được đầu tư nhiều tỉ đồng hàng năm từ ngân sách Nhà nước, từ sự đóng
góp to lớn của các ngành, các cấp, của nhân dân trong và ngoài dành cho các
di tích, một số được đầu tư tu bổ, tôn tạo khá tốt, hàng năm có phân bổ kinh
phí cho sự án chống xuống cấp, cải tạo, xây dựng các hạng mục tại di tích.
Từ năm 2011 đến 2015, một số các di tích lịch sử quốc gia trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông được Bộ VH-TT-DL phân bổ cấp vốn để đầu tư cho việc cải
tạo, sửa chữa, chống xuống cấp di tích từ nguồn vốn chương trình mục tiêu
quốc gia về văn hóa, cụ thể như:
- Năm 2012, được cấp 1,9 tỷ đồng phân bổ cho 03 dự án (chống xuống
cấp di tích Nhà Ngục Đắk Mil: 800 triệu đồng; thực hiện tôn tạo, xây dựng
các hạng mục công trình; 600 triệu đồng để biên soạn quyển sách về Lịch sử
nhà ngục Đắk Mil; 500 triệu đồng biên soạn cuốn sách khu kháng chiến Nâm
Nung).
- Năm 2013, được cấp 700 triệu đồng, chống xuống cấp 02 khu di tích
Căn cứ kháng chiến B4 – Liên khu IV, di tích lịch sử Đồi 722.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về bảo tồn di tích mặc dù có sự
quan tâm của chính quyền địa phương nhưng chưa đúng mức và ngang tầm,
các ngành, các cấp, các cơ quan chuyên môn còn chủ quan trong công tác
quản lý nên dẫn đến tình trạng:
Mặt dù đề án phân cấp quản lý nhà nước đối với các di tích lịch sử văn
hóa trong tỉnh đã được ban hành và qua hai năm tổ chức thực hiện. Nhưng
42
hiện nay, ở một số cấp, ngành chức năng trong tỉnh vẫn còn tình trạng buông
lỏng quản lý, thực hiện Đề án phân cấp không đạt hiệu quả.
Công tác bảo tồn, tôn tạo di tích chưa phát huy được nghiên cứu tổng
thể và chưa có quy hoạch tổng thể được cấp trên có thẩm quyền quyết định
(việc chọn địa điểm xây dựng các di tích bia tưởng niệm còn mang tính chủ
quan và thiếu hệ thống).
Nhiều di tích đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng điển hình
như: Địa điểm N’Trang Gưh, di tích địa điểm bắt nối liên lạc khai thông
đường Hồ Chí Minh đoạn Nam Tây Nguyên – Nam Trung bộ, di tích các địa
điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’Nông do
N’Trang Lơng lãnh đạo… là di tích cấp quốc gia được khoanh vùng quy
hoạch, bị xâm lấn diện tích của di tích.
Có tình trạng các di tích với công tác quản lý tại một số nơi bị buông
lỏng để dân lấn chiếm đất, tình trạng tự ý chặt cây trong khuôn viên di tích
lịch sử như điểm lưu niệm N’Trang Gưh.
Trong công tác quản lý chuyên ngành đối với việc trùng tu di tích, vẫn
còn nhiều bất cập, như di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp của đồng bào M’Nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, một
di tích về lòng dũng cảm của quân và dân vùng Tây Nguyên. Nhưng hiện
nay, Ban quản lý Di tích thực hiện triển khai dự án phục dựng di tích các
điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân pháp còn nhiều bất cập.
2.2.2.2. Thực trạng hoạt động phát huy giá trị các di tích lịch sử văn
hóa tại tỉnh Đắk Nông.
- Hoạt động phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa cũng được chú
trọng, các nghành, các cấp trong tỉnh được phân cấp quản lý Di tích đã chủ
động tổ chức hoặc phối kết hợp để tổ chức các ngày lễ lớn gắn với lịch sử 43
hình thành các Di tích lịch sử văn hóa, UBND tỉnh đã có thành lập Ban tổ
chức các ngày lễ lớn của tỉnh (các thành viên gồm lãnh đạo một số ban, ngành
có liên quan trong tỉnh).
- Việc tổ chức các lễ hội gắn với di tích cũng được phục hồi và hoạt
động theo đúng pháp luật.
- Công tác giáo dục truyền thống và giới thiệu về di tích lịch sử cũng
được chú trọng với chương trình tìm hiểu Di tích lịch sử văn hóa phát sóng
hàng tháng trên đài phát thanh – Truyền hình Đắk Nông; thông qua ngày hội
tuyển quân, tổ chức hội trại, về nguồn, lễ kỷ niệm tại các khu Di tích lịch sử
cách mạng qua đó các ngành, các cấp phối hợp với ngành văn hóa của tỉnh đã
tuyên truyền giáo dục ý nghĩa lịch sử hình thành, truyền thống dựng nước và
giữ nước vẻ vang của dân tộc ta nói chung, của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân Đắk Nông nói riêng. Ngoài ra, phong trào “trường học thân thiện, học,
học sinh tích cực” của ngành giáo dục và đào tạo trong tình đã huy động
nguồn lực từ các em học sinh trong việc nhận chăm sóc và bảo vệ các khu di
tích góp phần giáo dục những gia trị truyền thống lịch sử, văn hóa cho các thế
hệ trẻ. Sở VH-TT-DL đã phối hợp xuất bản sách giới thiệu tóm tắt về lý lịch
di tích, Ban quản lý các khu Di tích lịch sử đã phối hợp Đài phát thanh –
Truyền hình làm phim tư liệu, dựng pano chỉ dẫn và giới thiệu về các di tích,
thực hiện việc biên soạn tài liệu.
- Ngoài ra, việc phát huy, quảng bá những giá trị của di tích lịch sử đến
với du khách trong nước và quốc tế đã tạo được hiệu ứng xã hội cao, kích
thích người dân tham gia vào việc bảo tồn, gìn giữ di tích lịch sử. Một số lễ
hội gắn với các di tích được tổ chức chu đáo, tạo sự phấn khởi trong nhân
dân, thu hút ngày càng đông khách đến tham quan và du lịch. Hàng năm, các
44
di tích lịch sử đã thu hút hàng ngàn người đến tham quan và học tập, góp
phần thúc đẩy các hoạt động văn hóa, du lịch, thương mại.
Bên cạnh các mặt đạt được, qua khảo sát thực tế tại một số di tích trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay, công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập.
- Công tác sưu tầm tư liệu, bảo tồn, tôn tạo di tích chưa được các cấp,
ngành chức năng trong tỉnh chú trọng. Hệ thống tư liệu, hiện vật của nhiều di
tích lịch sử là những tài liệu có giá trị to lớn về chính trị, lịch sử còn thiếu,
công tác sưu tầm, bổ sung tư liệu, bảo quản giữ gìn hiện vật ở các khu di tích
trong thời gian qua còn nhiều bất cập, cụ thể là: Công tác đánh giá, quản lý hệ
thống tư liệu, hiện vật di tích với tư cách là ngành khoa học bảo tồn, bảo tàng
chưa được đặt ra. Thực chất mới thực hiện việc thống kê, kiểm kê định kỳ và
kiểm nghiệm sơ bộ hàng năm. Công tác sưu tầm, bổ sung tư liệu, hiện vật liên
quan đến các di tích, nhất là thời kỳ các đồng chí lãnh đạo sống, làm việc tại
di tích lịch sử còn hạn chế.
- Công tác giáo dục, tuyên truyền phát huy ý nghĩa chính trị, lịch sử,
văn hóa của di tích được các cấp, ngành văn hóa trong tỉnh thực thực hiện
chưa tương xứng với vị trí, ý nghĩa của di tích lịch sử. Công tác tuyên truyền
qua các phương tiện thông tin đại chúng về ý nghĩa của di tích chưa được
nhiều. Hầu hết người đến thăm quan các di tích lịch sử trong và ngoài nước
đều do cùng tuyến du lịch, khám phá thắng cảnh nổi tiếng trên địa bàn
tỉnh.Chỉ có 10% biết đến qua sách, báo, tìm hiểu truyền thống lịch sử. Công
tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục,
tuyên truyền phát huy ý nghĩa chính trị, lịch sử, văn hóa của các Di tích còn
hạn chế.
45
- Công tác đón tiếp, tuyên truyền, phục vụ cán bộ và nhân dân đến
thăm quan, học tập và tổ chức sinh hoạt chính trị tại Di tích lịch sử nhiều nội
dung còn thiếu, cần được bổ sung, hoàn thiện, như: chưa xây dựng những quy
định, quy chế bảo đảm cho công tác đón tiếp, tuyên truyền, vừa không ảnh
hưởng tới nhiệm vụ chính trị, vừa phục vụ nhân dân tận tình chu đáo; chưa
phối hợp với ngành du lịch trong và ngoài tỉnh để xây dựng quy trình du lịch
tham quan các di tích lịch sử văn hóa liên thông trong và ngoài tỉnh một cách
hợp lý (xây dựng tuyến du lịch thác Trinh nữ - Drâysap – Khu căn cứ kháng
chiến B4; Khu du lịch hang động núi nửa ở huyện Krông Nô gắn với tuyến di
tích lịch sử địa điểm lưu niệm khởi nghĩa N’Trrang Gưh) các dịch vụ văn hóa
phẩm tuyên truyền, giới thiệu về di tích còn ít; nội dung giới thiệu về di tích
tuy đã được bổ sung, chính lý, nhưng cần tiếp tục được hoàn thiện, nhất là
những tư liệu lịch sử quý; đọi ngũ cán bộ, nhân viên đón tiếp, tuyên truyền
hướng dẫn chưa chuyên nghiệp, do đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng,
hiệu quả công tác đón tiếp, tuyên truyền. Khi giới thiệu, hướng dẫn cho khách
tham quan tại các di tích chưa tạo đượcn sự hấp dẫn, tạo cảm xúc lắng đọng
cho người nghe.
2.3. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hiện nay
2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý di tích lịch sử ở Đắk Nông
Cơ cấu tổ chức quản lý di tích lịch sử văn hóa ở nước ta được thiết lập
và có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. Ở mỗi cấp quản lý đều có
những chức năng, nhiệm vụ cụ thể, đảm bảo tính thống nhất với mục tiêu bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH nói chung và di tích lịch sử văn hóa nói riêng
đạt hiệu quả cao.
46
Việc phân cấp quản lý di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Đắk Nông được
quy định cụ thể tại Quy chế quản lý và sử dụng di tích lịch sử văn hóa của
tỉnh Đắk Nông ban hành năm 2010 và được sửa đổi, bổ sung trong quyết định
số 37/2015/QĐ-UBND, ngày 03-12-2015 của UBND tỉnh Đắk Nông Quy
định về quản lý di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông.
- Ủy ban nhân dân các cấp
Theo quy định của Luật di sản văn hóa, UBND tỉnh chịu trách nhiệm
quản lý nhà nước về DSVH ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Trong Quy chế quản lý và sử dụng di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Đắk Nông
ban hành năm 2015 đã quy định trách nhiệm của UBND là tiến hành chỉ đạo
các hoạt động về quản lý DSVH như: xây dựng quy hoạch; lập kế hoạch bảo
vệ và phát huy giá trị di tích; kiểm kê nghiên cứu đối với di tích và toàn bộ cổ
vật của di tích; chỉ đạo và cấp phép cho các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị
di tích, tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về di tích...
UBND cấp huyện, thị xã chịu trách nhiệm quản lý, xây dựng và tổ chức
thực hiện bảo tồn và phát huy giá trị di tích, di vật trong địa bàn quản lý;
Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với UBND tỉnh về tình hình quản
lý di tích, di vật trong phạm vi địa giới hành chính quản lý; Tổ chức các hoạt
động thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm về di tích, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia theo thẩm quyền…
Các UBND cấp xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thành lập BQL di
tích cấp xã để quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia tại địa phương;
47
Thu nhận và bảo vệ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được phát hiện trên
địa bàn; phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi vi phạm làm ảnh
hưởng đến di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
Kiến nghị việc xếp hạng di tích; Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử
lý vi phạm theo thẩm quyền…
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Cơ quan quản lý di tích cấp tỉnh là đơn vị có chức năng trực tiếp quản
lý DSVH nói chung và quản lý di tích lịch sử văn hóa nói riêng theo sự phân
công của UBND tỉnh. Sở VHTTDL chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên
chế và hoạt động của cấp tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, thanh
tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ VHTTDL.
Theo nội dung của Quyết định số 37/2015/QĐ-UBND của UBND tỉnh
Đắk Nông, thì Sở VHTTDL “...là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh;
tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa
bàn tỉnh về DSVH”. Trách nhiệm của Sở VHTTDL trong quản lý di tích lịch
sử văn hóa được quy định rõ trong Quy định về quản lý di tích, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Nông với 9 nội dung về quản lý nhà
nước đối với di tích, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý các di tích lịch sử văn hóa,
UBND tỉnh Đắk Nông đã ký quyết định số 127/2010/QĐ-UBND về việc
thành lập BQL di tích tỉnh Đắk Nông.
Theo quyết định này, BQL di tích tỉnh là đơn vị sự nghiệp có thu, trực
thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Nông, chịu sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp của giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin; có tư cách pháp nhân, có
con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật. BQL di tích tỉnh Đắk
48
Nông sẽ có chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về di tích lịch
sử văn hóa.
Mô hình quản lý di tích ở địa phương đã có sự kết hợp giữa chính
quyền và cộng đồng người dân. Việc chịu trách nhiệm trước các cơ quan các
cấp, trước pháp luật về sự an toàn của di tích, di vật, cổ vật thuộc về các
trưởng ban (là người của chính quyền). Sự tham gia của các hội người cao
tuổi, hội cựu chiến binh, phụ nữ, đoàn thanh niên… là đại diện của cộng đồng
nhân dân, những đại diện này là chủ nhân của các di tích, tham gia vào BQL
di tích sẽ trao cho họ trách nhiệm bảo vệ, giám sát các di sản của địa phương.
Trách nhiệm của BQL di tích địa phương được quy định trong văn bản
Quy định về quản lý di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông, bao gồm 8 nhóm trách nhiệm cụ thể như: Bảo vệ, gìn giữ toàn bộ
di tích (cảnh quan, môi trường, đất đai, kiến trúc, điêu khắc, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia…); Chịu trách nhiệm trực tiếp khi để di tích bị xâm phạm,
hủy hoại như: xâm lấn đất đai, mất mát thất lạc cổ vật của di tích…; Thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm,
hủy hoại đến di tích lịch sử; Thông báo kịp thời cho cơ quan chủ quản cấp
trên trực tiếp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa khi di tích có
nguy cơ bị xâm phạm, hủy hoại, lấn chiếm, mất mát cổ vật, hoạt động mê tín
dị đoan; Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài đến tham quan, nghiên cứu, du lịch, lễ hội hợp pháp tại di tích lịch sử.
Như vậy, quan điểm quản lý di tích lịch sử ở tỉnh Đắk Nông được thực
hiện theo hình thức quản lý tập trung, thống nhất, toàn bộ các di tích quốc gia
đều được đặt dưới sự quản lý của Sở VHTTDL mà trực tiếp là BQL di tích
tỉnh. BQL di tích tỉnh có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp
49
vụ cho các BQL di tích được xếp hạng, chính quyền địa phương nơi có di tích
chưa được xếp hạng.
Về cơ chế phối hợp của cơ quan quản lý các cấp Quản lý di tích được
tổ chức theo cấp hành chính, theo chiều dọc từ tỉnh xuống đến các cấp
huyện/thị xã, xã/phường, thôn, buôn, bon/khu dân cư.
Về phương diện chuyên biệt tổ chức tương ứng sẽ là BQL di tích cấp
tỉnh, phòng Văn hóa - Thông tin huyện/thị xã, BQL di tích cấp xã/phường,
BQL di tích ở di tích cụ thể.
+ Về mô hình quản lý
Mô hình mang tính chất cộng đồng tự quản: Ở các BQL trực tiếp tại
các di tích về nguyên tắc, chính quyền và người dân cùng tham gia thực hiện
việc quản lý đối với các di tích được Nhà nước công nhận xếp hạng. Tuy
nhiên, trên thực tế ở nhiều di tích việc quản lý thực chất là mô hình cộng đồng
tự quản.
Vai trò tự quản được thể hiện ở tất cả các khâu từ chăm nom, bảo vệ di
tích, giữ gìn cảnh quan môi trường, tiến hành những tu sửa nhỏ, đến các công
việc như lên kế hoạch, lập nội dung và tổ chức các hoạt động, quản lý các
nguồn thu - chi, giữ gìn an ninh trật tự, trông giữ xe máy, xe đạp, ô tô cho du
khách…
Các Ban quản lý di tích lịch sử hoạt động theo phương châm: đoàn kết,
công khai và minh bạch, nhất là minh bạch về tài chính. Các thành viên của
BQL làm việc với tinh thần tự nguyện, có một phần hỗ trợ kinh phí.
Việc tổ chức quản lý có sự đồng thuận cao của cộng đồng, đồng thời có
sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn sẽ đưa lại hiệu qủa như
50
trường hợp tại khu di tích lịch sử nhà Ngục Đắk Mil. Vẫn cùng mô hình như
vậy nhưng nếu thiếu sự giám sát hoặc giám sát không chặt chẽ, thiếu sự điều
tiết của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ dẫn đến tình trạng quản lý sai
nguyên tắc thể hiện trong việc tiến hành trùng tu, tu bổ, khai thác, phát huy
giá trị di tích, quản lý các nguồn thu, chi…
2.4. Các hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa ở Đắk Nông
Trong những năm qua, hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa ở Đắk
Nông đã được thực hiện theo các nội dung cụ thể quy định tại Điều 54 của
Luật di sản văn hóa. Trong quá trình nghiên cứu về hoạt động quản lý di tích
ở tỉnh Đắk Nông, tác giả luận án đi sâu nghiên cứu tập trung những nội dung
nổi bật nhất thể hiện được vai trò, chức năng của các cơ quan quản lý, đánh
giá những thành công cũng như hạn chế trong công tác quản lý di tích của
Đắk Nông trong thời gian vừa qua.
2.4.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, dự án bảo tồn di tích
Việc xây dựng quy hoạch cho di tích là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên
của cơ quan quản lý di tích. Hiện nay, việc xây dựng quy hoạch được căn cứ
vào Nghị định 70/2012/NĐ-CP quy định về việc thẩm quyền, trình tự, thủ tục
lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn
hóa. Trong đó bao gồm Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi hệ thống di tích
(quy hoạch hệ thống di tích) và Quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ, phục hồi
di tích (quy hoạch tổng thể di tích). Các di tích được đưa vào Quy hoạch tổng
thể là quy hoạch đối với một di tích quốc gia đặc biệt, cụm di tích quốc gia, di
tích cấp tỉnh theo từng quần thể phân bố trên địa bàn các huyện, thị xã.
Hiện nay, Đắk Nông chưa tiến hành xây dựng quy hoạch hệ thống cho
toàn bộ di tích trên địa bàn tỉnh, bao gồm di tích quốc gia đặc biệt, di tích
51
quốc gia, di tích cấp tỉnh và các đối tượng đã được kiểm kê di tích. Tuy nhiên,
trong những năm qua, Đắk Nông đã đưa nhiều di tích vào quy hoạch tổng thể,
tiến hành việc trùng tu, tu bổ, bảo quản như: Căn cứ kháng chiến B4 – Liên
tỉnh IV; địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh – đoạn Nam Tây
Nguyên đến Đông Nam bộ. Giám đốc BQL di tích tỉnh cho biết: Quan điểm
của UBND tỉnh là quy hoạch tu bổ, tôn tạo một số di tích trọng điểm chú
trọng gắn với phát triển du lịch. Mục tiêu cần hướng tới của việc tổ chức quy
hoạch là đảm bảo giữ gìn tối đa các yếu tố nguyên gốc của di tích, đồng thời
khai thác phát huy giá trị di tích phục vụ sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội, đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân.
Về quy mô của quy hoạch tổng thể di tích đều hướng tới thực hiện quy
hoạch ba vùng: Vùng I được xác định là vùng trung tâm hay vùng lõi, nơi có
di tích gốc tồn tại, cần giữ nguyên trạng các yếu tố gốc, tùy thuộc vào không
gian vật chất có thể khả thi của từng di tích.
Vùng II là vùng để phát triển các công trình thuộc hạng mục trong tôn
tạo di tích như các khu nhà khách, các công trình dịch vụ công cộng, khu vực
bãi đỗ xe, xây dựng tượng đài, nhà trưng bày bổ sung… Vùng II có thể chiếm
một không gian rộng lớn.
Ngoài ra, tại các điểm di tích được quy hoạch còn có thể có vùng III
(vùng sinh thái), hướng tới triển khai phát triển các hạng mục như cây xanh,
hồ nước, khu vui chơi giải trí…
Năm 2011, tỉnh Đắk Nông đã phê duyệt Quy hoạch tu bổ, tôn tạo di
tíchbắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh – đoạn Nam Tây Nguyên đến
Đông Nam bộ. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giao Sở VHTTDL lập quy hoạch khu
di tích này.
52
Trong những năm tới, Đắk Nông tiếp tục xây dựng những quy hoạch
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của
mình. Trong Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hoá tỉnh Đắk Nông đến năm
2020, định hướng đến năm 2030 ban hành năm 2015 đã đưa ra những quy
hoạch sẽ thực hiện theo từng giai đoạn cụ thể như: năm 2015 - 2020 lập quy
hoạch và tu bổ tôn tạo một số di tích tiêu biểu, đồng thời triển khai thực hiện
dự án tu bổ, phục hồi khu di tích lịch sử văn hóa.
2.4.2. Xây dựng kế hoạch bảo tồn di tích
Việc trùng tu, tôn tạo nhằm bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa hiện nay
được thực hiện bằng các kế hoạch cụ thể theo kế hoạch ngắn hạn hàng năm và
các kế hoạch trung, dài hạn. Năm 2015, kế hoạch Quản lý, bảo tồn và phát
huy di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2015 -
2020 được phê duyệt. Mục tiêu của kế hoạch đề ra là tăng cường sự quản lý,
đầu tư tu bổ, tôn tạo, bảo tồn để phát huy giá trị di tích góp phần thiết thực
vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc vùng cao
nguyên Đắk Nông.
Trong kế hoạch nêu rõ nhiệm vụ:
- Về quản lý di tích:
Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đầu tư thỏa đáng cho việc quy
hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng, nâng cao
nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các tầng
lớp nhân dân về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng
theo hướng xã hội hóa nhằm huy động mọi nguồn lực của tổ chức, cá nhân và
toàn xã hội tham gia vào hoạt động này; Xây dựng kế hoạch và tổ chức tổng
điều tra đánh giá thực trạng toàn bộ di tích, các tài liệu, hiện vật liên quan đến
53
sự kiện cách mạng, triển khai nghiên cứu lập hồ sơ và đề nghị công nhận xếp
hạng đối với các di tích có đủ điều kiện.
- Về bảo tồn di tích:
Khắc phục tình trạng xuống cấp, triển khai các dự án tu bổ, tôn tạo các
di tích. Quan tâm đến việc phục chế các di vật, hiện vật của các di tích. Tiếp
tục sưu tầm, bổ sung các tài liệu, hiện vật có liên quan đến các di tích lịch sử
trên địa bàn tỉnh.
- Về phát huy tác dụng di tích:
Tổ chức các hoạt động như hội thảo, tọa đàm, lễ hội, xuất bản sách và
các tài liệu giới thiệu. Đầu tư tôn tạo, xây dựng các công trình, các hạng mục
về du lịch, dịch vụ văn hóa ở di tích nhằm gắn kết văn hóa với kinh tế thông
qua các dịch vụ và thu phí tham quan di tích.
Kế hoạch được thực hiện theo từng năm và tập trung vào các nhóm cụ
thể. Nguồn kinh phí đầu tư cho việc thực hiện kế hoạch được xác định từ các
nguồn chủ yếu là kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia do Nhà nước cấp
hàng năm; ngân sách của tỉnh; các nguồn vốn hỗ trợ khác và huy động sự
đóng góp của nhân dân, các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh. Trong hoạt động hàng năm, BQL di tích tỉnh đã xây dựng những kế
hoạch cụ thể, trong đó tập trung vào các hoạt động như: thống kê, kiểm kê di
tích, thống kê di vật, cổ vật tại các di tích, sưu tầm, in dập các tư liệu về di
tích, tổ chức thăm dò thám sát tại các địa điểm khảo cổ…
2.4.3. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về di tích lịch sử văn
hóa
54
Trong những năm gần đây, lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhiều chủ trƣơng, chính sách
cùng các văn bản 67 pháp quy về lĩnh vực này đã được ban hành.
Điều này được thể hiện rõ bằng việc Luật di sản văn hóa được thông
qua và áp dụng vào thực tế. Luật di sản văn hóa đã tạo hành lang pháp lý cho
việc bảo vệ và phát huy giá trị DSVH, góp phần thiết thực vào công cuộc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đối với tỉnh
Đắk Nông, ngay từ những năm đầu tái lập, Đảng bộ và chính quyền địa
phương đã dành nhiều quan tâm đến lĩnh vực DSVH, coi đó là một thế mạnh
tiềm năng cần phát huy, khai thác phục vụ sự phát triển chung của toàn tỉnh.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI (2015) nêu rõ quan điểm: “…Tăng
cường quản lý Nhà nước, quan tâm đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp văn hóa -
xã hội, tiếp tục xây dựng nền văn hóa mang đậm dấu ấn truyền thống, lịch sử.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân ca quan họ, lễ hội, làng nghề truyền
thống, di tích lịch sử và cách mạng”. Xuất phát từ đặc điểm và tình hình thực
tế, tỉnh Đắk Nông đã ban hành ra một số văn bản phục vụ cho hoạt động quản
lý DSVH nói chung, di tích lịch sử văn hóa nói riêng. Năm 2015, UBND tỉnh
ra quyết định số 143/2015/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế quản lý và
sử dụng di tích Lịch sử - Văn hoá tỉnh Đắk Nông.
Mục đích của việc ban hành quy chế này là nhằm cụ thể hóa một số
điều của Luật di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, phân công trách
nhiệm các cấp, các ngành nhằm nâng cao ý thức của tổ chức, cá nhân trong
việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hoá, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông. Quy chế
gồm 3 chương, 19 điều, đây là văn bản quan trọng giúp các nhà quản lý di
tích lịch sử có được công cụ pháp lý tiến hành các hoạt động nhằm bảo tồn và
55
phát huy giá trị các di tích trên địa bàn. Quy chế quy định rõ những vấn đề
liên quan đặc biệt là vấn đề bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích đã quy định rõ
đối tượng được bảo quản, tu bổ; Thẩm quyền cấp phép và các nguyên tắc, quy
trình cụ thể của việc tiến hành bảo quản tu, tu bổ, phục hồi di.
Với vấn đề quản lý sử dụng di tích lịch sử, quy định nêu ra các nội
dung khá chặt chẽ về các mặt: quản lý về đất đai của di tích; công trình kiến
trúc; cổ vật; tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội; các nguồn kinh phí có liên quan
đến di tích; quản lý các hoạt động nghiên cứu, tham quan du lịch tại di tích.
Ngày 03/5/2015, UBND tỉnh Đắk Nông ra Quyết định số 40/2016/QĐ-UBND
về việc ban hành Quy định về quản lý di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Văn bản này được ban hành căn cứ vào các văn
bản Luật, Nghị định, Thông tư của Nhà nước và Bộ VHTTDL về DSVH, di
tích lịch sử văn hóa. Phạm vi điều chỉnh của được quy định là các hoạt động
về quản lý di tích lịch sử văn hóa, di tích lịch sử cách mạng và danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; trách nhiệm, mối quan hệ phối
hợp của các cấp, ngành trong quản lý di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Quy định này có nhiều điểm kế thừa từ bản Quy chế nhưng đã được bổ
sung và hoàn thiện hơn vì đã đề cập tới những vấn đề liên quan đến di vật, cổ
vật và bảo vật quốc gia, vấn đề tiếp nhận, quản lý các di vật, cổ vật từ những
cuộc thăm dò khai quật khảo cổ học; vấn đề đăng kí, quản lý và công nhận
cho các di vật, cổ vật cũng được đề cập đến trong văn bản… đây là những vấn
đề được nhiều người quan tâm. Do vậy, quy định được ban hành là cơ sở, tạo
hành lang pháp lý cho việc quản lý di tích, di vật, cổ vật ở Đắk Nông có nhiều
thuận lợi.
56
Ngoài các văn bản trên, tỉnh Đắk Nông còn ban hành một số các văn
bản liên quan đến công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của DSVH, di
tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh như: Qui định chế độ thù lao đối với
người trông coi, bảo vệ di tích lịch sử cách mạng, văn bản này được thay thế
bằng Quy định chế độ thù lao đối với người trông coi, bảo vệ di tích lịch sử
cách mạng xếp hạng Quốc gia và di tích lịch sử - văn hóa …
2.4.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di tích
Tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy về bảo vệ di tích lịch sử
văn hóa là việc làm có ý nghĩa quan trọng. Hằng năm, BQL di tích tỉnh đều tổ
chức các lớp tập huấn tuyên truyền, hướng dẫn các văn bản pháp quy của
trung ương cũng như của tỉnh Đắk Nông có liên quan đến DSVH. Đối tượng
tham gia các lớp tập huấn là các lãnh đạo phòng Văn hóa - Thông tin các
huyện, thị xã; đại diện các BQL di tích địa phương, cán bộ văn hóa xã…
Nội dung phổ biến trong các lớp tập huấn bao gồm:
- Giá trị của di sản văn hoá.
- Phát huy giá trị di tích phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội;
- Vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ DSVH.
- Luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
- Các văn bản dưới luật như các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị…có liên
quan đến DSVH;
- Các văn bản do UBND tỉnh, Sở VHTTDL ban hành về di tích lịch sử
văn hóa như Quy chế quản lý và sử dụng di tích lịch sử văn hóa tỉnh Đắk
Nông, Quy định về quản lý di vật…Cán bộ giảng dạy tại các lớp tập huấn
57
thường là lãnh đạo của Sở VHTTDL, Phòng Di sản văn hóa, lãnh đạo BQL di
tích tỉnh.
Ngoài ra, Sở Văn hoá thể thao và Du lịch còn mời các chuyên gia của
Cục Di sản văn hóa, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực di sản… tham gia nói
chuyện, cập nhật các thông tin về DSVH. Tại các lớp tập huấn, các gương
tiêu biểu trong công tác quản lý di tích được mời để làm báo cáo điển hình ở
các địa phương có công tác quản lý di tích lịch sử tốt. Việc tổ chức các lớp
tập huấn nghiệp vụ quản lý di tích lịch sử nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức
về việc trùng tu, tu bổ, phát huy lợi thế của di tích lịch sử.
Tại các cuộc tập huấn, hội thảo, ban Tổ chức sẽ chú trọng hướng dẫn
quy trình, thủ tục lập hồ sơ tu bổ di tích cho các đối tượng là lãnh đạo các
phòng Văn hóa - Thông tin huyện, thị xã, các chủ tịch UBND xã, phường, các
Trưởng thôn, buôn, bon có di tích nằm trong danh sách được hỗ trợ kinh phí.
Tại hội nghị tập huấn, những vấn đề khúc mắc, chưa nắm rõ được quy trình,
thủ tục lập hồ sơ cho việc tu bổ, tôn tạo di tích được đưa ra trao đổi, thảo luận.
Hoạt động này đã góp phần thiết thực giúp cho các địa phương xây dựng
được hồ sơ trùng tu, tu bổ di tích theo đúng quy định của nhà nước. Việc tổ
chức các lớp tập huấn giúp cho các đối tượng đang tham gia trực tiếp vào hoạt
động quản lý di tích tại cơ sở hiểu biết sâu về Luật di sản văn hóa, từ đó áp
dụng trong quá trình quản lý DSVH nói chung và di tích nói riêng.
Trên cơ sở nhận thức rõ những văn bản pháp quy mà nâng cao vai trò,
trách nhiệm trong tiến trình bảo tồn DSVH dân tộc. Điều cơ bản cần tuân thủ
những nguyên tắc đã được nêu ra trong các văn bản pháp lý của Đảng và Nhà
nước. Ở cấp xã/phường, việc tuyên truyền về bảo vệ DSVH, bảo vệ di tích
lịch sử văn hóa được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống đài phát thanh.
58
Ngoài ra, ở một số địa phương có di tích lịch sử còn tổ chức được các
buổi nói chuyện, sinh hoạt tập thể, các chương trình văn nghệ, mở các cuộc
vận động tuyên truyền, quán triệt pháp luật về bảo vệ di tích lịch sử văn hóa,
giới thiệu về lịch sử, giá trị của di tích ở địa phương. Từ đó hình thành được ý
thức trách nhiệm của mỗi người dân đối với việc bảo vệ, giữ gìn các di tích
nơi mình đang sinh sống, khơi dậy được lòng trân trọng của cộng đồng đối
với các DSVH của địa phương.
2.5. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa
2.5.1. Hoạt động bảo tồn di tích
Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông được khởi dựng
cho đến nay nhiều công trình đã xuống cấp, sự khắc nghiệt của thời tiết của
vùng Tây Nguyên cùng với sự thiếu quan tâm trùng tu, sự động của con người
làm hư hại. Do vậy nội dung quan trọng của hoạt động quản lý là phải tiến
hành các hoạt động cần thiết để duy trì, bảo vệ các DSVH này. Kiểm kê, lập
hồ sơ khoa học di tích là công việc xác định giá trị của di tích, phát hiện và
thu thập các tư liệu để khẳng định giá trị của các di tích từ đó lập hồ sơ khoa
học đề nghị xếp hạng. Hoạt động này phải tuân theo các quy trình khoa học
và pháp lý chặt chẽ. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã tiến hành phối hợp
với các BQL tiến hành kiểm kê các di tích trên địa bàn tất cả các huyện, thị xã
theo quan điểm nhất quán, tổ chức thường xuyên.
Hoạt động kiểm kê di tích được tiến hành theo các nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu, phát hiện thống kê di tích lịch sử;
- Khảo sát phân tích để nắm được giá trị, thực trạng và tình trạng kỹ
thuật của di tích lịch sử;
59
- Lập hồ sơ khoa học di tích lịch sử;
- Quản lý và phổ biến hồ sơ.
Việc thống kê, kiểm kê được tiến hành hàng năm, trên địa bàn các
huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn, thôn, bon, buôn và từng di tích. Trong mỗi
di tích được kiểm kê phản ánh rõ tình trạng về mọi mặt giá trị như lịch sử
khởi dựng, quá trình trùng tu tôn tạo…
Năm 2013, cơ quan quản lý đã tiến hành thống kê di tích trên địa bàn
toàn tỉnh, bao gồm các di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia, di tích xếp
hạng cấp tỉnh và các di tích chưa được xếp hạng theo từng địa bàn cụ thể.
Tính đến hết năm 2015, Đắk Nông đã có 8 di tích được công nhận xếp
hạng, trong đó có 6 di tích lịch sử quốc gia, 02 danh thắng cấp quốc gia. Việc
xếp hạng di tích là hoạt động quan trọng, cần được nhận thức một cách đầy đủ
và đúng đắn. Thực chất xếp hạng di tích chính là một biện pháp quản lý nhà
nước hướng tới mục tiêu đặt di tích dưới sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp
luật, phải nhìn nhận xếp hạng di tích trong cả một quá trình hoạt động.
Trước hết, xếp hạng di tích được xuất phát từ nguyện vọng của cộng
đồng được đón nhận, ủng hộ và hướng dẫn của cơ quan quản lý di tích các
cấp. Việc xây dựng hồ sơ xếp hạng di tích là quá trình nhận diện giá trị di
tích, thức tỉnh nhận thức của cộng đồng, bằng xếp hạng và hồ sơ khoa học về
di tích là cơ sở khoa học và pháp lý cho việc bảo tồn và đấu tranh chống lại
các hiện tượng vi phạm xảy ra. Trên thực tế cho thấy, hiệu quả của việc xếp
hạng di tích không chỉ mang lại niềm tự hào cho người dân địa phương mà
nếu có cách thức phù hợp sẽ làm cho di tích đó có vai trò quan trọng trong đời
sống cộng đồng.
60
Hiện nay, việc thực hiện tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử chủ yếu bằng
nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình trạng xuống cấp
của nhiều di tích vẫn chưa được khắc phục triệt để, trong đó có cả một số di
tích có giá trị đặc biệt và tiêu biểu chưa được đầu tư, tu bổ dẫn đến tình trạng
hoang phế như: Di tích lịch sử N’Trang Gưh là Di tích lịch sử cấp quốc gia,
sau 5 năm đón nhận, di tích này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Theo
ông Phan Xuân Diến, Trưởng Phòng VH-TT huyện Krông Nô thì từ khi được
công nhận, địa phương chỉ có một quyết định chứng nhận, còn bộ phận tiếp
nhận di tích cũng không hề có một văn bản cụ thể nào về việc trùng tu, bảo
quản. Do trên không cấp kinh phí nên các hoạt động tại di tích chỉ dừng ở
mức độ duy trì hiện trạng.
Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo bị người dân xâm lấn
diện tích đất để canh tác … Ở một số di tích lịch sử, việc tu bổ, tôn tạo vẫn
còn hiện tượng tùy tiện, không tuân thủ sự quản lý của nhà nước và hướng
dẫn của cơ quan chuyên môn, nhiều vi phạm chưa được phát hiện, ngăn chặn
và xử lý kịp thời.
2.5.2. Hoạt động quản lý di vật, cổ vật tại các di tích
Các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là một bộ phận cấu thành không thể
thiếu trong các di tích lịch sử - văn hóa, gắn liền với không gian bên trong của
di tích. Công trình kiến trúc là bất động sản, không thể di dời khỏi không gian
mà nó tồn tại, trong khi đó các di vật, cổ vật trong di tích lại dễ dàng lấy đi
khỏi nơi tồn tại của nó. Hiện nay, số lượng các di vật, cổ vật trong các di tích
đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông là không nhiều chính vì vậy đòi
61
hỏi hoạt động quản lý di vật, cổ vật phải được đặc biệt quan tâm. Năm 2015,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, sở Văn hoá thông tin thể thao và Du lịch đã
ban hành các văn bản để quản lý và sử dụng các di vật, cổ vật.Những văn bản
này quy định cụ thể vấn đề bảo vệ di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia tại các di
tích.
Về các hoạt động cụ thể, BQL di tích Đắk Nông trong những năm qua
đã tiến hành kiểm kê, thống kê di vật, cổ vật tại một số điểm di tích.Việc làm
này được tiến hành theo hướng dẫn của chỉ thị số 05/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ cổ vật trong di
tích. Triển khai theo tinh thần của chỉ thị, cơ quan quản lý di tích tổ chức
thống kê di vật, cổ vật; bước đầu tổ chức liệt kê các di vật, cổ vật và lập phiếu
cho các di vật, cổ vật trong các di tích tiêu.
Hiện nay, các di tích cũng như các di vật, cổ vật tại các di tích lịch sử
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thường được giao cho các BQL di tích lịch sử
quản lý.
2.5.3. Hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị của di tích lịch sử gắn
với du lịch
Những năm qua, việc phối hợp giữa quản lý di tích lịch sử văn hóa và
phát triển du lịch ở Đắk Nông bước đầu được chú trọng. Với lợi thế về vị trí
địa lý và tiềm năng du lịch, Đắk Nông có nhiều điều kiện để phát triển du
lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái.
Đắk Nông là tỉnh có tài nguyên du lịch từ các di tích lịch sử ít, mặc dù
có hệ thống cụm thác đẹp, tuy nhiên chưa được đầu tư mang tính toàn diện,
chưa tạo được dấu ấn đặc sắc, lại không phải là điểm đến để mua sắm, nghỉ
62
dưỡng nên có thể khẳng định rằng, số lượng khách chủ yếu được thu hút bởi
các lượt khách tự phát.
Năm 2011, tỉnh Đắk Nông phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030. Theo
đó, quan điểm chỉ đạo là phát triển du lịch dựa trên sự phát huy nội lực đồng
thời gắn với gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Mục tiêu là đưa Đắk
Nông trở thành một trong những trung tâm du lịch sinh thái của Cao Nguyên,
đưa ngành du lịch tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Phát triển,
khai thác các tiềm năng di tích lịch sử văn hóa để phát triển du lịch góp phần
vào tăng Trưởng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng dần tỷ trọng GDP du lịch, dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động và cộng đồng dân cư, tăng nguồn thu ngân sách; hỗ trợ
các ngành kinh tế khác phát triển.
Đắk Nông sẽ tạo các sản phẩm đặc thù trên cơ sở tiềm năng vốn có đó
các DSVH tiêu biểu như lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên.
Cùng với việc phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa thông qua hình
thức du lịch, thì việc gắn các di tích với hoạt động giảng dạy, học tập của các
nhà trường, các cuộc thi tìm hiểu về truyền thống lịch sử của địa phương cũng
là một hình thức phát huy giá trị có tác dụng tích cực.
Hầu hết các di tích lịch sử là những công trình lịch sử qua hai cuộc
kháng chiến. Vì vậy các di tích lịch sử có vai trò quan trọng trong đời sống,
trong việc giáo dục truyền thống lịch sử và văn hóa, động viên nhân dân đoàn
kết, thi đua thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
63
Thực hiện theo chỉ thị xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực của Bộ Giáo dục - Đào tạo với mục đích học sinh tham gia tìm hiểu,
chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa
phương…góp phần làm cho di tích ngày một sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn, giới
thiệu các công trình, di tích của địa phương. Cho đến nay, một số các di tích
đã xếp hạng ở Đắk Nông đều được các trường phổ thông trên địa bàn định kỳ
phối hợp với BQL di tích tại địa phương để tổ chức cho học sinh tiến hành vệ
sinh cảnh quan, môi trường tại di tích và thường xuyên tổ chức cho học sinh
tới học tập, thăm quan, tìm hiểu về các di tích ở địa phương.
Đoàn thanh niên của các cơ quan cũng tổ chức các hoạt động mang ý
nghĩa uống nước nhớ nguồn, như tổ chức thăm viếng, kể chuyện truyền
thống, thi tìm hiểu về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của danh nhân cách
mạng. Nhiều hoạt động có ý nghĩa khác cũng được tổ chức …
Hiện nay, tỉnh Đoàn đang thực hiện chương trình Tuổi trẻ Đắk Nông
hành trình theo dấu ấn lịch sử với nhiều hoạt động thiết thực gắn với các di
tích lịch sử cách mạng tại địa phương, phát động cuộc thi sáng tác văn học
nghệ thuật về đề tài cách mạng Đắk Nông - mục đích thông qua tác phẩm văn
học nghệ thuật để tuyên truyền quảng bá tới nhân dân, du khách thập phương
trong nước và quốc tế về con người và những nét đẹp của vùng quê giàu bản
sắc và cách mạng. Đối tượng tham dự cuộc thi được mở rộng cho tất cả
những ai quan tâm, mong muốn tham gia. Cuộc thi là cơ hội tốt để cho người
dân trong cả nước thêm hiểu biết về các DSVH vật thể mà cụ thể là các di tích
lịch sử của Đắk Nông.
Do vậy việc giới thiệu, quảng bá di tích bằng các nguồn thông tin đại
chúng là điều rất cần thiết nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ. Những năm qua, ngành văn hóa Đắk Nông đã
64
tổ chức giới thiệu, quảng bá về DSVH nói chung, di tích lịch sử văn hóa nói
riêng.
Báo Đắk Nông số ra hàng ngày có các chuyên mục giới thiệu về các di
tích lịch sử… Tạp chí Nâm Nung của Hội văn học nghệ thuật tỉnh Đắk Nông
thường giới thiệu về những di tích lịch sử của đất Đắk Nông.
Các website cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, Sở VHTTDL cũng
có những chuyên mục văn hóa, di tích, lễ hội, phong tục tập quán…thường
xuyên đưa tin bài, ảnh về các di tích lịch sử văn hóa của địa phương. Việc
giới thiệu, quảng bá về di tích cũng được chính quyền địa phương, các BQL
di tích tiến hành in ấn, xuất bản các cuốn sách, các tờ gấp… giới thiệu về di
tích, lễ hội tại di tích tiêu biểu như cuốn Lịch sử đường hành lang chiến lược
trong kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông (1954- 1975); cuốn
Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912 - 1936)
2.5.4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học về di tích
Muốn thực hiện tốt công tác quản lý trước hết phải hiểu về di tích, điều
đó cũng có nghĩa muốn quản lý tốt đối tượng ta phải hiểu đối tượng mà mình
cần quản lý, muốn làm được như vậy thì việc nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng
ấy phải được thực hiện một cách thật thấu đáo, kỹ càng trên tất cả các mặt,
các khía cạnh. Việc nghiên cứu để nhận biết, phân loại giá trị các di tích, nhận
thức những mặt tiêu biểu và những nét tiềm ẩn, đề ra hướng bảo vệ, phát huy
tác dụng di tích một cách tích cực nhất. Việc tổ chức các hoạt động nghiên
cứu khoa học phục vụ cho quản lý, bảo tồn và phát huy di tích lịch sử văn hóa
được tiến hành dưới một số hình thức sau:
- Phối hợp tổ chức các hội thảo chuyên ngành về di tích lịch sử văn
hóa: Hội thảo khoa học Đường hành lang chiến lược trong kháng chiến chống
65
Mỹ (1954- 1975). Hội thảo thu hút các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực
DSVH, sử học, các nhà quản lý di sản. Các tham luận đã đề cập tới di tích
lịch sử. Nhiều ý kiến, tham luận tập trung phân tích hiện trạng các di tích, các
giá trị văn hóa gắn với các di tích đó cũng như những giải pháp bảo vệ, giữ
gìn, phát huy các giá trị lịch sử văn hóa
Tại một số di tích lịch sử nhưdi tích lịch sử Căn cứ kháng chiến B4, di
tích lịch sử Đồi 722 …cũng tổ chức các hội thảo khoa học nhằm làm rõ giá
trị, các vấn đề có liên quan trực tiếp tới di tích, những kết quả nghiên cứu sẽ
là những định hướng cho việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
- Tổ chức nghiên cứu, viết bài, xuất bản ấn phẩm giới thiệu về giá trị
của các di tích cũng là một hình thức nhằm tìm hiểu sâu về di tích, qua đó có
thể giới thiệu quảng bá về các di tích này.
Những năm qua, nhiều ấn phẩm viết về các di tích lịch sử văn hóa ở
Đắk Nông đã được xuất bản tiêu biểu như: cuốn Lịch sử đường hành lang
chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông (1954-
1975); cuốn Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912 - 1936), cuốn lịch sử
phong trào đấu tranh của tù nhân nhà ngục Đắk Mil. Các ấn phẩm này là tập
hợp các bài viết nghiên cứu sâu trên cơ sở của sự nghiên cứu, nội dung đề cập
về các mặt như lịch sử hình thành, những đóng góp của di tích lịch sử, giá trị
tiêu biểu, hiện trạng…
- Tổ chức các hoạt động khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về giá trị các di
tích cũng được tiến hành. Các hoạt động nghiên cứu, khảo sát khảo cổ diễn ra
ở nhiều di tích tiêu biểu. Từ những kết quả nghiên cứu khảo cổ này đã đặt ra
những vấn đề cần bảo tồn các di sản đó một cách hợp lý, vừa giữ được di sản
vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa của cộng đồng.
66
2.5.5. Tổ chức thanh tra, kiểm tra
Căn cứ vào Luật di sản văn hóa và các văn bản dưới Luật của Đảng và
Nhà nước; Căn cứ vào quyết định số 143/2008/QĐ-UBND và quyết định số
242/2014/QĐ- UBND, từ năm 2010 đến nay, Thanh tra Sở VHTTDL tỉnh
Đắk Nông đã xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra hàng năm với các vấn đề
có liên quan đến chấp hành pháp luật về bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch
sử, văn hóa như: tu bổ, tôn tạo di tích, bảo vệ di vật, cổ vật trong di tích, lấn
chiếm đất đai của di tích; Theo dõi, tiếp nhận thông tin phản ánh từ nhân dân
về những vi phạm có liên quan đến việc quản lý di tích để có biện pháp kịp
thời hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lý theo pháp luật.
Thanh tra Sở VHTTDL đã phối hợp với các đơn vị có liên quan: BQL di tích,
Thanh tra của UBND tỉnh, Sở Công an, Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên môi
trường, Ban Tuyên giáo tỉnh, Sở Tài chính… để tổ chức kiểm tra theo định kỳ
và xử lý đơn thư khiếu nại các vụ vi phạm di tích.
2.6. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý, phát
huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa ở Đắk Nông
2.6.1. Ưu điểm
- Về bộ máy cơ cấu tổ chức quản lý: đã phân cấp quản lý đến cấp xã,
phường, tất cả các di tích được nhà nước xếp hạng đều được thành lập BQL,
điều này ít nhiều đảm bảo cho các di tích có được sự quan tâm từ hai phía là
chính quyền và cộng đồng người dân địa phương. Các BQL di tích cũng bước
đầu có sự phối hợp với chính quyền, với BQL cấp trên vì vậy đã xây dựng
được cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong công tác quản lý di tích lịch sử
văn hóa.
67
- Vai trò quản lý của nhà nước được thể hiện thông qua các hoạt động
cụ thể:
Nhiều văn bản pháp quy được chính quyền địa phương ban hành mang
tính chỉ đạo, định hướng cho hoạt động bảo tồn - gìn giữ DSVH, tiêu biểu
như: UBND tỉnh ban hành Quy chế quản lý và sử dụng di tích lịch sử - văn
hoá năm 2008; năm 2015, ban hành Quy định về quản lý di tích, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh. Đây là những văn bản có ý nghĩa quan
trọng, là cơ sở, hành lang pháp lý cho các ban ngành, tổ chức nắm rõ quyền
và nghĩa vụ của các cấp trong vấn đề quản lý và khai thác giá trị DSVH. Có
thể nói, cùng với các văn bản pháp quy về DSVH do Chính phủ, Bộ
VHTTDL ban hành thì các văn bản của địa phương là cơ sở, là những chính
sách đặc thù để các cơ quan chuyên môn tiến hành công tác bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH trên địa bàn tỉnh một cách tốt nhất.
Thường xuyên tổ chức các lớp tuyên truyền về các văn bản luật, dưới
luật về DSVH, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ các phòng Văn hóa -
Thông tin, Ban Văn hóa xã, thôn, BQL các di tích… và có phối kết hợp để
kiểm tra, nắm bắt tình hình quản lý các di tích lịch sử, các lễ hội diễn ra trên
địa bàn tỉnh. Do vậy nhiều hành vi vi phạm di tích được phát hiện và kịp thời
ngăn chặn, xử lý.
Việc nghiên cứu, lập hồ sơ, tiến hành xếp hạng di tích là biện pháp
quan trọng và có hiệu quả. Các di tích được pháp luật bảo vệ, mọi sự xâm hại
di tích sẽ bị ngăn chặn, xử lý. Hiện nay, toàn bộ các di tích trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông đã được thống kê về loại, loại hình, đặc điểm và sự phân bố từ đó
đã cho thấy được cái nhìn tổng quát về hệ thống di tích trên địa bàn để làm cơ
sở tiến hành xây dựng quy hoạch hệ thống tu bổ, tôn tạo cho toàn bộ các di
tích trên địa bàn tỉnh.
68
Nguồn vốn của nhà nước cấp cho việc trùng tu, tu bổ, tôn tạo di tích đã
được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Nhiều di tích trọng điểm được
trùng tu, tôn tạo như: nhà ngục Đắk Mil, khu căn cứ địa B4…
Ngoài ra, đã huy động các nguồn kinh phí từ cộng đồng tham gia vào
việc tu bổ, tôn tạo di tích với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng
làm”. Sở VHTTDL, BQL di tích tỉnh Đắk Nông cùng chính quyền, các BQL
di tích địa phương đã phối hợp cùng cộng đồng thực hiện có hiệu quả. Kết
quả là nhiều di tích đã thoát khỏi nguy cơ bị hủy hoại, biến mất và nhiều di
tích được trùng tu, tu bổ đưa vào phục vụ nhu cầu tham quan, học tập, nghiên
cứu như: di tích nhà Ngục Đắk Mil, Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV.
- Việc tiến hành việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về di tích,
giải quyết đơn thư khiếu nại, tranh chấp di tích, di vật tại các địa phương
bước đầu đã giải tỏa được bức xúc của người dân ở một số địa phương. Bên
cạnh đó đã có những hình thức khen thưởng, biểu dương các cá nhân, tập thể
có thành tích trong bảo vệ, phát huy giá trị DSVH.
- Vai trò của cộng đồng: trong quản lý di tích lịch sử, cộng đồng đóng
vai trò quan trọng, đã thu hút, huy động được một lượng lớn người dân tham
gia vào hoạt động quản lý. Hầu hết các BQL di tích tại địa phương đều có
thành phần đại diện của cộng đồng tham dự.
2.6.2- Về hạn chế
- Về khách quan: Các di tích ở Đắk Nông cũng như nhiều địa phương
khác trong cả nước đã tồn tại theo thời gian, cho đến nay đã xuống cấp. Điều
kiện khí hậu của khu vực Tây Nguyên khắc nghiệt đã gây tác động trực tiếp
đến các di tích lịch sử...
- Về chủ quan:
69
+ Vai trò quản lý của cơ quan quản lý còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập
+ Việc tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn Luật di sản văn hóa cho cộng
đồng chưa có kế hoạch cụ thể, chưa tiến hành thường xuyên, mới chỉ tập
trung vào các BQL di tích còn đối với cộng đồng địa phương nơi có di tích thì
chưa được quan tâm, dẫn tới nhận thức của cộng đồng về di tích còn sơ sài,
nhiều hành động đơn giản nhưng lại ảnh hưởng xấu tới di tích lịch sử.
+ Công tác kiểm kê di tích, cắm mốc giới các khu vực di tích trên thực
địa, lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử, lập quy hoạch khảo cổ, quy
hoạch tổng thể và công bố danh mục di tích để bảo vệ theo quy định của Luật
di sản văn hóa thực hiện còn chậm do chưa có kế hoạch và lộ trình cụ thể.
+Tình trạng xuống cấp của nhiều di tích vẫn còn tồn tại ở nhiều địa
phương, thậm chí đối với cả một số di tích có giá trị đặc biệt và tiêu biểu.
Việc thực hiện các chương trình đầu tư chống xuống cấp hàng năm, xây dựng
và thực hiện các dự án tu bổ, tôn tạo di tích cách mạng, di tích đặc biệt quan
trọng còn thiếu tính lâu dài, kế hoạch mang tính nhỏ lẻ, kinh phí đầu tư chưa
xứng với quy mô và giá trị của di tích.
+ Nhiều vụ việc về xâm phạm đất đai của các khu di tích lịch sử vẫn
diễn ra chưa được xử lý kịp thời hoặc biện pháp xử lý chưa hợp lý nên đã gây
dư luận không tốt, đồng thời làm cho cộng đồng nhân dân địa phương có
những sự nhìn nhận chưa đúng về quản lý di tích lịch sử…
+ Việc tổ chức khai thác phát huy giá trị của di tích lịch sử chưa có
định hướng và biện pháp kế hoạch cụ thể, có nơi chỉ chú trọng đến khai thác
giá trị kinh tế, chưa quan tâm đúng mức tới khai thác giá trị truyền thống. Tổ
chức khai thác ở các di tích còn đơn điệu, nghèo nàn, sản phẩm du lịch văn
hóa chủ yếu dựa vào những giá trị sẵn có của các điểm di tích lịch sử, hơn
70
nữa lại chưa kết hợp giữa khai thác DSVH vật thể và phi vật thể, việc tuyên
truyền về di tích, xây dựng các tour du lịch DSVH còn nhiều hạn chế.
+ Nhận thức của cộng đồng trong quản lý, bảo vệ di tích cũng thể nhiều
bất cập.Việc huy động nguồn lực từ cộng đồng để tu bổ, tôn tạo di tích tạo
điều kiện cho người dân được quyền thể hiện vai trò làm chủ của họ đối với
các di tích lịch sử còn hạn chế.
2.6.3. Nguyên nhân của các hạn chế
- Việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về DSVH đã được thực hiện nhưng chưa có kế hoạch, chương trình
cụ thể. Ở một số địa phương, các cấp chính quyền chưa có sự quan tâm đúng
mức tới việc tuyên truyền, vận động người dân thực hiện Luật di sản văn hóa
và các văn bản dưới luật. Do đó nhận thức của người dân còn hạn chế, nhất là
sự hiểu biết về Luật di sản văn hóa còn chưa sâu sắc, dẫn đến việc thiếu ý
thức chấp hành pháp luật. Người dân còn chưa thấy hết được giá trị của di
tích trong đời sống của cộng đồng địa phương, từ đó có được những hành
động thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở địa
phương mình.
- Sự phối hợp giữa BQL di tích tỉnh, các Phòng Văn hóa, BQL di tích
địa phương và cộng đồng chưa đồng bộ, chặt chẽ và thường xuyên. Việc kiểm
tra, phát hiện, xử lý để ngăn chặn các vi phạm ngay từ đầu còn chưa thường
xuyên, liên tục. Mối liên hệ giữa cơ quan quản lý với chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn còn thiếu chặt chẽ.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý từ cấp tỉnh đến địa phương còn
mỏng, cán bộ quản lý ở cấp huyện, cán bộ quản lý di tích tại địa phương còn
71
thiếu chuyên môn, không được đào tạo đúng chuyên ngành nên gặp nhiều khó
khăn, hạn chế trong công tác quản lý.
- Sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan trong hoạt động quản lý, bảo
tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa chưa chặt chẽ và có hiệu quả.
- Thiếu những định hướng, những chính sách, chế tài cụ thể nhằm
khuyến khích, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa. Việc quản lý hoạt động
trùng tu, tu bổ di tích bằng nguồn vốn xã hội hóa gặp nhiều khó khăn do thiếu
đội ngũ cán bộ giám sát, thi công chuyên nghiệp. Quá trình tu bổ, tôn tạo di
tích chưa được nghiên cứu thấu đáo về các mặt: địa điểm, thiết kế, chất liệu,
kỹ thuật, công nghệ để từ đó đề ra một giải pháp thích hợp…
Tiểu kết
Việc phân cấp quản lý di tích lịch sử văn hóa ở Đắk Nông đến nay đã
tới cấp xã, phường, thị trấn thể hiện sự thống nhất, tập trung. Điều này tạo sự
thuận lợi khi triển khai các kế hoạch, nhiệm vụ về quản lý, bảo tồn và phát
huy giá trị của di tích. Các mô hình quản lý khi được áp dụng vào thực tiễn sẽ
có những thay đổi tùy theo đặc trưng của từng loại hình di tích lịch sử. Tuy
nhiên, nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các thành
phần khác khi tham gia hoạt động quản lý.
Luận án đã tiếp cận các hoạt động quản lý trên những khía cạnh cụ thể
như việc ban hành và triển khai các văn bản liên quan đến di tích lịch sử văn
hóa vào thực tế, việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch bảo tồn tôn tạo hệ
thống di tích, các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong điều kiện
hiện nay... Vai trò của cộng đồng đối với việc bảo vệ di tích là điều rất quan
trọng được thể hiện qua việc huy động các nguồn lực để trùng tu, tu bổ cho
72
các di tích ở địa phương. Trên thực tế, hoạt động quản lý di tích đã có những
hiệu quả tích cực là đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng về đời sống văn
hóa.
Tuy nhiên, do một số yếu tố khác nhau, việc bảo tồn gìn giữ di tích còn
bộc lộ những hạn chế như: việc đầu tư kinh phí để tôn tạo, phục dựng lại các
hạng mục công trình của di tích lịch sử còn hạn chế, chưa được đầu tư thoả
đáng, việc trùng tu sai nguyên tắc, lấn chiếm đất đai, việc đầu tư không hiệu
quả, công tác sưu tầm tư liệu, hiện vật chưa được đảm bảo…đó là những vấn
đề cần có những giải pháp cụ thể để giải quyết nhằm góp phần gìn giữ, phát
huy những DSVH nhiều giá trị này. Các hoạt động quản lý di tích được tiến
hành theo những quy định của Luật di sản văn hóa. Những hiệu quả bước đầu
của hoạt động này đã góp phần thực hiện chủ trương của Đảng được thể hiện
trong nội dung của Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng khóa XI
nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng tới chân - thiện - mỹ, văn hóa là sức mạnh nội sinh
quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững…
73
Chương 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG
CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn
hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
Nhìn lại quá trình Đổi mới, từ năm 1986, trong Nghị quyết Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đưa ra khái niệm Bản sắc văn hoả
dân tộc. Sự hoàn thiện dần về luật pháp đối với lĩnh vực bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá được bắt đầu bằng những quy định trong Hiến pháp năm
1992, trong đó, quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức xã hội, nhân
dân về bảo vệ, giữ gìn và phát huy tích lịch sử văn hóa dân tộc được nhấn
mạnh: Nhà nước chủ trương bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam, các
di tích lịch sử dân tộc, những giá trị của nền văn hiến Việt Nam.
Trong văn bản số 4739/KG -TƯ ngày 28/6/1994, Thủ tướng Chính phủ
đã cho phép Bộ VHTT triển khai Chương trình mục tiêu qụốc gia về văn hoá.
Đây là sự thể hiện một sự đầu tư đúng hướng, trên cơ sở các định hướng
chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hoá. Việt Nam đã ký vào "Công ước bảo vệ văn hoá phi
vật thể" của UNESCO với tư cách là một thành viên. Năm 1997, Bộ Văn hoá
- Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã bổ sung mục tiêu sưu
tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể trong Chương trình
mục tiêu quốc gia về văn hoá từ năm 1997 đến năm 2005. Mục tiêu đặt ra
trong chương trình này đã được thực hiện tương đối trọn vẹn.
Nhìn chung, trong những năm qua, các cơ chế, chính sách bảo vệ và
phát huy giá trị di tích và danh lam thắng cảnh của Nhà nước đã góp phần
quan trọng làm thay đổi nhận thức của toàn xã hội về vai trò, giá trị các di
74
tích, đồng thời cải thiện một bước tình trạng kỹ thuật, góp phần bảo vệ và
chuyển giao di văn hóa dưới dạng nguyên gốc cho các thế hệ tương lai, đặc
biệt là bước đầu tạo được cơ sở pháp lý đế từng bước thực hiện chủ trương
lớn "xã hội hóa các hoạt động văn hóa". Để tăng cường quản lý nhà nước về
di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, theo chúng tôi cần quán
triệt các quan điểm sau:
3.1.1. Thống nhất quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa trên
địa bàn tỉnh
Trách nhiệm quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích phải là trách
nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở được phân
cấp, Ủy ban nhân dân huyện tỉnh Đắk Nông chủ động chỉ đạo, điều hành
thống nhất quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh. Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu và giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực
hiện quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh. Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh phối hợp với các ngành, các cấp thực hiện quản
lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn. Các cơ quan quản lý di
tích các cấp có vai trò giám sát, điều hành các hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di tích lịch sử. Bên cạnh đó, đề cao vai trò của cộng đồng trong việc
tham gia quản lý di tích. Cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo tồn, phát
huy các di tích duới sự giám sát, định huớng và hỗ trợ của cơ quan quản lý về
chuyên môn, nghiệp vụ và có vai trò giám sát nguợc trở lại đối với hoạt động
quản lý của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các dự án bảo tồn các di
tích. Điều này tạo ra cơ chế hoạt động hai chiều giữa các bên tham gia hoạt
động quản lý. Các thành phần tham gia vào hoạt động quản lý di tích đều phải
tuân thủ chặt chẽ những quy định của luật pháp cũng như những vấn đề
chuyên môn về lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa.
3.1.2. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn và
75
phát huy được các giá trị di tích trên địa bàn tỉnh, phải đàm bảo tính trung
thực, tính nguyên gốc của các di tích lịch sử
Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông là bằng chứng
vật chất phản ánh trung thực lịch sử quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
Việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích phải đảm bảo yêu cầu không làm sai lệch
các giá trị vốn có hàm chứa trong di tích là một yêu cầu đặt ra đối với hoạt
động quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa. Nếu các giá trị hàm chứa
trong di tích bị mất đi, hoặc bị sai lệch thì sẽ không phản ánh đúng quá trình
phát triển của lịch sử, thậm chí sẽ dẫn đến cái nhìn lệch lạc, mất đi giá trị vốn
có của di tích. Đây là quan điểm có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo
tồn di tích.T u y nhiên, việc bảo tồn di tích không có nghĩa là cố gắng giữ lại
được càng nhiều càng tốt những gì thuộc về quá khứ hoặc giữ nguyên trạng
một cách cứng nhắc làm cho di sản đó đóng băng và về lâu dài sẽ đưa tới sự
xuống cấp, hủy hoại chúng. Trong quá trình bảo tồn cần linh hoạt, căn cứ vào
những điều kiện cụ thể để đưa ra các giải pháp bảo tồn hợp lý đối với di tích,
làm hài hòa giữa tính khoa học và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng,
không để tính nguyên gốc trở thành vật cản cho sự phát triển, nâng cao chất
lượng sống cho con người.
3.1.3. Quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn và
phát huy được giá trị các di tích gắn với cộng đồng, vì cộng đồng
Trong quá trình quản lý, bảo vệ và phát huy di giá trị các di tích, cùng
với vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, chúng ta thấy rõ vai trò rất quan
trọng của cộng đồng cư dân địa phương cũng như người dân trong cả nước.
Những đóng góp của cộng đồng vào việc trùng tu, tu bổ di tích lịch sử đã
được thể hiện qua phân nghiên cứu thực trạng quản lý trên đây. Do vậy, quan
điểm bảo tồn, phát huy giá trị di tích cần gắn với cộng cồng, tôn trọng và đề
cao vai trò của cộng đồng với tư cách là chủ thế sáng tạo văn hóa, chủ sở hữu
76
di tích, người hưởng thụ giá trị của di tích, đóng vai trò chủ động trong việc
quản lý các di tích lịch sử văn hóa tại địa phương. Cũng cần nhận thức rằng:
mọi nỗ lực bảo vệ di tích không phải vì các cơ quan quản lý mà đó phải dành
cho cộng đồng, cư dân địa phương. Bảo tồn, gìn giữ được các giá trị di tích
cũng chính là bảo vệ được bản sắc văn hóa, đặc trưng văn hóa của mỗi cộng
đồng.
3.1.4. Quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn,
phát huy được các giá trị của các di tích gắn với sự phát triển kinh tế xã hội
của địa phương
Hiện nay, chúng ta đều nhận thấy rằng di tích lịch sử văn hóa có chức
năng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Đây là các sản phẩm do con
người tạo nên, hàm chứa những giá trị nhất định, có khả năng khai thác để
phục vụ con người. Quan điểm di tích là tiềm năng, là tài nguyên đế phát triến
du lịch, thu lợi nhuận đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
Chúng ta vừa tiến hành bảo tồn, gìn giữ các di tích đó, một mặt phục vụ cho
đời sống tinh thần, văn hóa của cộng đồng nhưng mặt khác cũng thu lợi
nhuận, kinh tế từ các di tích đó. Nhiều điểm di tích khi đưa vào khai thác
cùng với các danh thắng giá trị phục vụ du khách đã làm thay đổi bộ mặt đời
sống kinh tế của người dân trong vùng, thúc đẩy nhiều hoạt động dịch vụ phát
triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng ta không khai thác chạy theo những
lợi nhuận kinh tế, không khai thác di tích bằng mọi giá, mà cần có chiến lược
phát triển bền vững, điều chỉnh hài hòa giữa mục tiêu bảo vệ di tích và khai
thác, phát huy; cân nhắc những lợi ích và tác hại khác nhau, để tránh việc khai
thác di tích một cách thái quá dẫn đến những ảnh hưởng không nhỏ tới bản
thân của các di tích.
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn
hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
77
3.2.1. Xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ, giữ gìn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
Triển khai việc quy hoạch chi tiết đối với các di tích lịch sử văn hóa
trên địa bàn tỉnh để giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững giữa bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa quốc gia và phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương. Việc xây dựng quy hoạch các khu dân cư, khu công nghiệp,
các đô thị mới phải bố trí quỹ đất phù hợp và thuận lợi để xây dựng các công
trình văn hóa, công trình hạ tầng xung quanh khu vực bảo vệ di tích lịch sử
văn hóa trên địa bàn.
Tập trung tổ chức, chỉ đạo thực hiện các dự án thành phần thuộc quy
hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị cụm di tích lịch sử, thắng
cảnh Khu bảo tồn Thiên nhiên Nâm Nung, Rừng đặc dụng Dray Sáp, Di tích
lịch sử ngục Đắk Mil, Di tích lịch sử kháng chiến B4 để phát triển du lịch.
Lập hồ sơ xây dựng công viên địa chất núi lửa tỉnh Đắk Nông; Khu bảo tồn
thiên nhiên Tà Đùng, Công viên vui chơi giải trí Liêng Nung, Điểm du lịch Hồ
Tây, điểm du lịch sinh thái thác Len Gun; thực hiện qui hoạch tổng thể bảo tồn
khu di tích lịch sử - văn hóa nhằm khoanh vùng bảo vệ quần thể di tích lịch sử
văn hóa trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở cho việc quản lý, sử dụng đất đai trùng tu
tôn tạo các công trình di tích và đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, dịch
vụ phục vụ nhân dân và phát triển du lịch; xây dựng phương án bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, không gian văn hóa cồng chiêng;
phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu du lịch trong quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
di tích lịch sử văn hóa
Ủy ban nhân dân tỉnh sớm phê duyệt kế hoạch bảo vệ khẩn cấp đối với
các di tích lịch sử văn hóa quốc gia; ban hành quy định cụ thể danh mục di
78
tích ưu tiên đầu tư và huy động nguồn lực xã hội để tu bổ, sửa chữa chống
xuống cấp các di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Ban hành quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích trên địa bàn tỉnh.
Ban hành cơ chế phối hợp công tác liên ngành để quản lý các di tích lịch sử
văn hóa quốc gia; xây dựng và ban hành cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tố
chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân trong việc bảo vệ, giữ gìn và khai
thác sử dụng giá trị của các di tích lịch sử văn hóa quốc gia; quy định cụ thể
trách nhiệm, có chế độ, chính sách hỗ trợ, đãi ngộ thỏa đáng và động viên
khuyến khích những người trực tiếp trông coi tại di tích lịch sử văn hóa quốc
gia.
Cần sớm ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể của Ủy ban nhân
dân tỉnha về công tác xã hội hóa giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị của di tích
lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh. Những văn bản hướng dẫn đó phải rõ ràng,
dễ hiểu, thể hiện sự cụ thể hóa các quy định chung của Nhà nước để mọi
người dân tiếp thu và tự giác chấp hành. Ngoài ra cần làm rõ và gắn lợi ích
của người dân khi tham gia các hoat động giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị
của di tích lịch sử. Đây là cách thực thu hút đông đảo người dân tham gia lưu
giữ di sản văn hóa truyền thống của mình. Trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện này, việc vân động tuyên tuyền để nâng cao ý thức tự giác của người dân
cần gắn với cuộc vận động xã hội hóa trong công tác này. Chỉ khi người dân
có ý thức trong công tác này thì mọi khó khăn đều giải quyết nhanh chóng,
hiệu quả.
3.2.3. Tiếp tục tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị các di tích; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa
trên địa bàn tỉnh
Tăng cường các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo quản,
79
tu bổ và phục hồi di tích lịch sử văn hóa và tổ chức lễ hội tại các di tích lịch
sử văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Hạn chế các công trình phụ trợ như mạng lưới đường giao thông nội
bộ, hệ thống đèn điện chiếu sáng, thoát nước làm giảm vẻ đẹp truyền thống
của di tích; thực hiện triệt để việc cắm mốc giới hiện trạng khu vực bảo vệ di
tích; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức
của người dân, khơi dậy lịch sử, văn hóa truyền thống đối với những giá trị
của di tích lịch sử văn hóa quốc gia trong bối cảnh ý thức xã hội đang bị suy
giảm hiện nay; Đổi mới hình thức, đa dạng về nội dung tuyên truyền làm nổi
bật giá trị quý báu của di tích lịch sử văn hóa quốc gia ở địa phương; lồng
ghép nội dung chương trình vào những thời điếm thu hút đông đảo quần
chúng nhân dân đến tại di tích. Ngày Di sản văn hóa vào 23/11 hằng năm là
một dịp tốt để tôn vinh giá trị của di tích, di sản văn hóa của dân tộc, để tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về di sản văn hóa trong nhân dân.
Tổ chức ghi danh, báo cáo thành tích học tập hằng năm của con em
nhân dân và tôn vinh những người đỗ đạt cao tại di tích lịch sử văn hóa quốc
gia. Ban hành quy chế ghi sổ vàng để ghi danh những có nhiều cống hiến tiếp
nối truyền thống anh hùng của ông cha trong hai cuộc kháng chiến; tổ chức,
phát động cuộc thi tìm hiểu về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử gắn với di
tích lịch sử văn hóa quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử phát triển của tỉnh;
tăng cường tuyên truyền trên website, internet thường xuyên giới thiệu, quảng
bá rộng rãi các giá trị của di tích lịch sử - văn hóa quốc gia trên địa bàn tỉnh;
biên tập và xuất bản các ấn phẩm sách, tờ rơi, tờ gấp, bưu ảnh được dịch ra
nhiều thứ tiếng để tuyên truyền, giới thiệu; biên tập, soạn thảo chương trình
giáo dục ngoại khóa cho học sinh gắn với tham quan, tìm hiểu về các di tích
lịch sử văn hóa quốc gia. Ở mỗi di tích lịch sử văn hóa luôn gắn với các giai
đoạn, sự kiện, nhân vật lịch sử của đất nước và của địa phương. Sở Văn hóa
80
Thể thao và Du lịch phối hợp với ngành Giáo dục và Đào tạo tố chức cho học
sinh tham gia tìm hiếu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn
hóa quốc gia ở địa phương và tuyên truyền, giới thiệu các di tích với bạn bè,
công đồng dân cư và khách tham quan, du lịch; giới thiệu các giá trị văn hóa,
lễ hội truyền thống tại di tích. Thông qua thục tế để học sinh trực tiếp tìm hiểu
di tích một cách chân thực, sinh động, trực quan như lời Bác Hồ đã dạy “dân
ta phải biết sử ta cho tường quốc tích mới là người Việt Nam”. Giáo dục
truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước cho học sinh, thế hệ trẻ cần phải
hiểu rõ, biết được văn hóa, lịch sử dân tộc để có thể tự hào, trân trọng và nâng
cao ý thức trách nhiệm của mình cho xứng đáng với lịch sử của dân tộc.
3.2.4. Tiếp tục tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác quản lý các di tích
lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh
Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về di tích lịch sử văn hóa
quốc gia, tổ chức các cuộc hội thảo nghiên cứu khoa học về di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể nằm trong mỗi di tích gắn liền với lễ hội văn hóa truyền
thống ở địa phương; xin ý kiến chuyên gia đánh giá xác thực yếu tố gốc của
di tích; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức khoa học hiện đại về bảo tồn, bảo tàng,
cung cấp tài liệu, chỉ dẫn, thông tin và giải đáp chuyên môn cho cán bộ
chuyên trách theo dõi, quản lý di tích của địa phương, ứng dụng một cách hợp
lý và có hiệu quả các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới; xây
dựng ngân hàng dữ liệu về hiện vật, di vật quý hiếm, ứng dụng tin học vào
lưu trữ tài liệu. Thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ hoạt động nghiên
cứu sáng tạo, sưu tầm, bảo quản hiện vật gốc có giá trị tiêu biểu về các mặt
lịch sử, văn hóa và khoa học, giới thiệu, phổ biến di sản văn hóa phi vật thể,
văn hóa dân gian gắn với di tích lịch sử văn hóa quốc gia; Nghiên cứu văn
hóa tinh thần không chỉ quan tâm tìm hiểu di tích dưới dạng vật chất đơn
81
thuần mà phải nghiên cứu thấu đáo, sâu sắc di tích, di vật thuộc chất liệu hóa
học nào hữu cơ, vô cơ hay hỗn hợp để có thể bảo quản đúng cách, phát hiện
và dự báo được mức độ hư hại, dấu ấn các thời kỳ trùng tu để có kế hoạch bảo
quản, tu bổ di tích hiệu quả. Nghiên cứu tìm hiểu giá trị của di tích lịch sử -
văn hóa quốc gia để biết quý trọng tài sản quý báu của dân tộc. Huy động trí
tuệ, kinh nghiệm của đội ngũ các nhà khoa học, các nhà văn hóa tài năng đã
nghỉ hưu, hoặc đang công tác ở các đơn vị trong và ngoài ngành tiếp tục sự
nghiệp nghiên cứu, sáng tạo, tham gia đào tạo, hướng dẫn cán bộ trẻ. Gắn thu
nhập chính của cán bộ làm công tác nghiên cứu hưởng theo kết quả thực hiện
đề tài nghiên cứu khoa học; xây dựng cơ chế khuyến khích cán bộ trẻ tham
gia công tác nghiên cứu khoa học.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn
hóa: xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ quản lý có đủ năng
lực, trình độ để đảm đương công việc; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
để xã hội hóa hoạt động đào tạo, xây dựng chương trình kế hoạch cụ thể đào
tạo đội ngũ hướng dẫn viên văn hóa du lịch có chất lượng cao, có năng khiếu
và am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hóa truyền thống của tỉnh, tạo sức hấp dẫn
đối với khách đến tham quan; có chính sách khuyến khích về vật chất, tinh
thần để thu hút nhân tài, sử dụng chuyên gia có trình độ cao; chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, nhiệm vụ; hỗ trợ cán bộ trẻ tự
đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn; cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối
với chuyên gia, cán bộ có năng lực quản lý chuyên ngành di sản văn hóa đến
công tác, phục vụ lâu dài tại địa phương.
3.2.5. Tiếp tục huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ,
gìn giữ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh
Ưu tiên tập trung đầu tư đồng bộ các dự án bảo tồn, tôn tạo di tích lịch
sử văn hóa quốc gia, dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng du lịch xung quanh
82
khu vực di tích. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích; tạo cơ chế
huy động các nguồn lực cho việc tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
Về huy động các nguồn lực: tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
với chính sách ưu đãi đặc biệt khuyến khích, kêu gọi các dự án đầu tư vào
lĩnh vực văn hóa - xã hội để phát triển du lịch văn hóa, đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, hạ tầng du lịch và dịch vụ. Tập trung ngân sách đầu tư của
trung ương, của tỉnh để nhanh chóng hoàn thiện hệ thống hạ tầng du lịch xung
quanh các khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia; khôi phục các lễ hội truyền
thống theo hướng văn minh nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư xây dựng các khu du lịch sinh thái, khu vui chơi giải trí
tổng hợp ở những vị trí địa lý thuận lợi gắn kết với những di tích lịch sử văn
hóa quốc gia; phát triển các công ty dịch vụ du lịch liên kết chặt chẽ với tỉnh,
các huyện và các tỉnh lân cận để hình thành các tour du lịch liên tỉnh, liên
huyện.
Về việc quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ, giữ gìn và phát huy
giá trị di tích lịch sử văn hóa quốc gia: cơ quan quản lý chuyên ngành cần
phối hợp với cơ quan quản lý tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng theo đúng
quy định hiện hành của Nhà nước và của địa phương; nâng cao tinh thần tự
chủ của nhân dân, phù hợp với điều kiện của địa phương tránh lãng phí, sử
dụng không đúng mục đích nguồn lực.
Tổ chức phát huy giá trị di tích: tạo không gian di tích để người dân
đến hưởng thụ các giá trị, để nhân dân nhận thức chính mình là người tạo ra
và có quyền làm chủ những giá trị văn hóa đó; phát huy sức mạnh dư luận xã
hội gắn với các phong trào hành động thiết thực, tinh thần tự nguyện, tính tự
quản, năng lực làm chủ của nhân dân trong việc bảo vệ, giữ gìn và khai thác
sử dụng hiệu quả giá trị của các di tích lịch sử văn hóa quốc gia trên địa bàn.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng tạo động lực nâng
83
cao chất lượng quản lý các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh
Bảo đảm khen thưởng theo quy chế công khai minh bạch, tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh để các tập thể và cá nhân tham gia gìn giữ
và bảo tồn các di tích phát huy hết khả năng của mình.
Kịp thời biếu dương các tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động
bảo vệ, gìn giữ di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh; đổi mới hình thức thi
đua khen thưởng cả về vật chất và tinh thần để ghi nhận công sức đóng góp,
tạo động lực tích cực cho các cá nhân, tổ chức và thu hút nhân dân tham gia
bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di tích lịch sử.
Có chính sách khen thưởng động viên, khuyến khích những người có
nhiều cống hiến và đóng góp lớn bằng cách vinh danh khen thưởng xứng
đáng.
3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước về các di
tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, cơ quan đầu mối về quan hệ hợp tác
quốc tế chủ động theo dõi, giám sát và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng tư
vấn nước ngoài đã ký kết với địa phương; tích cực tham gia thực hiện các
chương trình, dự án hợp tác, quản lý và sử dụng nguồn viện trợ, tài trợ của
nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực di sản văn hóa; tăng
cường xúc tiến du lịch, giới thiệu, quảng bá các giá trị di tích lịch sử văn hóa
quốc gia của địa phương.
Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn quốc tế thực
hiện các dự án thành phần trong quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo các di
tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt để phát triển du lịch.Tiếp tục hợp tác và vận động kêu gọi các dự án
đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA, tìm kiếm vốn hỗ trợ đầu tư của các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài để thực hiện dự án bảo tồn, tôn tạo
84
và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa gắn với phát triển du lịch.
3.2.8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lỷ vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về các di tích
lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh
Xây dựng kế hoạch phối hợp thanh tra chuyên ngành giữa Thanh tra
Sở Văn hoá với các cơ quan chuyên môn liên quan; tăng cường hoạt động
thanh tra, định kỳ kiểm tra việc chấp hành pháp luật;kiên quyết xử lý vi phạm
về xây dựng, lấn chiếm sử dụng khuôn viên di tích, hoạt động kinh doanh,
phá hoại cảnh quan, gây ô nhiễm môi truờng.
Tăng cuờng phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức
chính trị - xã hội và đoàn thế nhân dân; kiện toàn và nâng cao trình độ cho đội
ngũ cán bộ thanh tra của ngành và liên ngành của tỉnh; phát huy vai trò giám
sát của nhân dân trong việc thực hiện các dự án đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo
di tích lịch sử văn hóa quốc gia trên địa bàn tỉnh.
3.3. Kiến nghị
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ Trung
ương đến địa phương mà nhất là Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc
giữ gìn, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hoá trên địa
bàn tỉnh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối với nhiệm vụ chính trị của địa phương,
đơn vị. Tuỳ từng điều kiện, thời gian cụ thể, các cấp uỷ Đảng, chính quyền
địa phương có những chủ trương, chính sách cụ thể, có sự chỉ đạo tổ chức các
hoạt động tại các di tích cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhất là
tổ chức các ngày lễ lớn tại các di tích lịch sử cách mạng để tỏ lòng tri ân
những người có công với nước, thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy giá trị
các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh.
Các cơ quan cuyên môn trực tiếp quản lý di tích lịch sử vă hoá phải
thường xuyên bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền
85
địa phương đối với nhiệm vụ bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích
lịch sử văn hoá để thực hiện nhiệm vụ của mình đạt chất lượng, hiệu quả.
Để nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp đối với công tác quản lý, phát huy các giá trị của di tích
lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh, xin đề xuất, kiến nghị như sau:
3.3.1. Với Trung ương
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
DSVH. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng kế hoạch, chính sách kịp
thòi, phù họp, cụ thể hóa Luật Di sản văn hóa trong từng lĩnh vực hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa hiện nay.
Hai là, tăng cường tuyên truyền phổ biến Luật Di sản văn hóa, xây
dựng cơ chế, chính sách phù họp hỗ trợ, khuyến khích, huy động các tổ chức,
cá nhân tham gia vào công tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ các di tích.
Ba là, theo dõi chặt chẽ việc thực hiện các quy hoạch các di tích xây dựng
cơ chế chính sách tài chính mang tính chuyên ngành liên quan đến lập dự án,
thiết kế, giám sát thi công tu bổ di tích để thực hiện thống nhất trên cả nước.
Bốn là, tăng cường kiểm tra công tác quản lý bảo vệ và phát huy giá trị di
tích và hoạt động tu bổ di tích trên cả nước; xây dựng cơ chế xử lý vi phạm đối
với các vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích trong
quản lý di tích lịch sử văn hóa.
3.3.2. Với Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông
Cần ban hành văn bản chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh tăng cường
quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh
nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm tại các di tích, nhất là không để xảy ra
tình trạng lấn chiếm đất của khu di tích.
Chỉ đạo các địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm Quyết
địnhSố: 37/2015/QĐ-UBND, có kế hoạch trùng tu, sửa chữa, chống xuống
86
cấp của các di tích.
Chỉ đạo Sở Tài Nguyên – Môi trường phối hợp với Sở Văn hoá Thể
thao và Du lịch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các di tích lịch sử
văn hoá trên địa bàn tỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý.
Ban hành Chương trình mcụ tiêu giai đoạn 2020 – 2025 tầm nhìn 2030
để hỗ trợ trong thời gian đầu đối với các di tích lịch sử.
Ưu tiên ngân sách để xây dựng trụ sở Bảo tàng tỉnh tại trung tâm Thị xã
để thuận lợi trong thu hút khách tham quan, nghiên cứu, học tập, giới thiệu và
giáo dục các giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống trong tỉnh.
3.3.3. Đối với Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 73/CT-BVHTTDL của Bộ Văn hoá Thể thao
và Du lịch về tăng cường công tac quản lý di tích và nâng cao chất lượng các
hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích; xây dựng kế hoạch bảo quản, tu
bổ, phục hồi di tích cấp tỉnh đến năm 2025.
Cần tăng cường mở các lớp tập huấn về nghiệp vụ cũng như công tác
quản lý cho cán bộ phụ trách văn hoá ở các địa phương và ban quản lý di tích.
Thực hiện công tác tuyên truyền Luật Di sản văn hoá và các văn bản hướng
dẫn để nâng cao ý thức người dân trong bảo vệ, giữ gìn giá trị di tích.
Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện xử lý
theo thẩm quyền, phối hợp với các ngành liên quan tham mưu Uỷ ban nhân
dân tỉnh xử lý triệt để các trường hợp vi phạm theo đúng qui định nhằm hạn
chế tình trạng xâm hại di tích.
Phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh công tác nghiên
cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý
nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn
tỉnh gắn việc kinh doanh du lịch.
3.3.4. Đối với Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã
87
Chỉ đạo phòng Văn hoá thông tin hàng năm xây dựng kế hoạch bảo vệ,
bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hoá theo Quyết định
số 37/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc phê duyệt Đề
án phân cấp quản lý di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Kiểm tra, rà soát lại các di tích trên địa bàn nhằm phát hiện, xử lý hành
vi xâm hại và có biện pháp khắc phục để phục hồi giá trị di tích.
Chỉ đạo các ngành phối hợp thực hiện tốt phong trào “trường học thân
thiện, học sinh tích cực” do ngành giáo dục và đào tạo phát động để góp phần
chăm sóc, bảo vệ và giữ gìn di tích, mặt khác có thể giáo dục truyền thống
cách mạng, giá trị của các di tích lịch sử văn hoá cho các em học sinh.
Tiểu kết
Để tăng cường quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông, cần quán triệt các quan điểm thống nhất quản lý nhà nước về
lĩnh vực này. Có sự phân công, phân cấp hợp lý, khoa học, khả thi giữa Trung
ương và địa phương, có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan được giao chủ trì
là Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch với các cơ quan, tổ chức khác trên địa
bàn trong quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa ở địa phương. Quản
lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa phải bảo tồn, tôn tạo, phát huy được các
giá trị của các di tích; phải phục vụ tốt cộng đồng và phát triển kinh tế – xã
hội ở địa phương; phải huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, nhân dân trên địa bàn và các tổ
chức quốc tế trong tôn tạo, trùng tu, phát huy các giá trị của các di tích.
Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về các di tích lịch sử văn hóa
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp:
sớm hoàn thiện quy hoạch, có kế hoạch trùng tu, tôn tạo, bảo vệ và phát huy
88
các giá trị các di tích; ban hành và tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn; phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa; hoàn thiện bộ máy, đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa
bàn tỉnh; huy động mọi nguồn lực trong đó có các nguồn lực xã hội và quốc tế
cho tôn tạo, trùng tu các di tích; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về di tích lịch
sử văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương cần
thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong quản lý nhà nước về di sản văn hóa
(di tích lịch sử – văn hóa) theo quy định của pháp luật.
89
KẾT LUẬN
Trước hết cần khẳng định di tích lịch sử tồn tại một cách khách quan, có vị
trí vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng
như mỗi địa phương. Với ý nghĩa đó, trong nhiều năm qua, chúng ta cũng đã đạt
được những thành tựu đáng kể trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
dân tộc nói chung, di tích lịch sử nói riêng ở những quy mô khác nhau. Hàng loạt
di tích lịch sử văn hóa cách mạng đã được công nhận, tu bổ, tôn tạo và rất nhiều cổ
vật, di vật đã được bảo vệ... Những thành tựu trên đã khẳng định tính đúng đắn
trong đường lối phát triển văn hóa của Đảng cũng như của toàn dân trong bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa để xây dựng nền văn hóa "Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc" như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng đã đề ra.
Từ khi Đất nước ta khởi xướng chủ trương đổi mới, sau 30 năm, diện mạo
về một hình ảnh Việt Nam đã thay đổi về cơ bản, là một nước có mức tăng trưởng
kinh tế cao so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, đời sống tinh
thần ngày càng được đề cao, tình hình chính trị ổn định... Một trong những nguyên
nhân quan trọng đó là chúng ta đã biết phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã
hội; hay nói đúng hơn là chúng ta đã phát triển kinh tế trên nền tảng của văn hóa,
là sự gắn kết giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái cốt cách của dân tộc với cái văn
minh của nhân loại... trong đó, sự trầm lắng của di sản văn hóa là một trong những
yếu tố hết sức quan trọng.
Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi công cuộc đổi mới của đất nước
tương đối phát triển, du lịch Việt Nam mới thực sự được cất cánh. Các di tích lịch
sử văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật, làng nghề, sản phẩm nghề thủ công truyền thống
và những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc đã được khai thác giới thiệu với du
khách và luôn là những đề tài nghiên cứu, xây dựng, để cho những tài nguyên văn
90
hóa đó trở thành những sản phẩm du lịchvăn hóa đặc sắc, mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam.
Trong thực tiễn hiện nay, còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong
việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy, khai thác, sử dụng các giá trị di sản văn hóa
mang tính bền vững và xem nó là một nguồn tài nguyên độc đáo, chủ yếu của du
lịch mà luận văn này đã đề cập tới.
Du lịch văn hóa nói chung, di tích và danh thắng nói riêng đã và đang được
xem là đối tượng chính cho du lịch phát triển, nhưng nếu không chú trọng xác lập
được mối quan hệ giữa văn hóa du lịch với những sản phẩm du lịch độc đáo riêng
biệt của mỗi vùng, địa phương thì ngay cả du lịch văn hóa với đầy đủ sức hấp dẫn
tiềm tàng của nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc cũng sẽ ít cơ hội phát triển
bền vững.
Từ những bất cập và bài học nêu trên, luận văn đã phân tích và đưa ra khái
niệm quản lý di tích, danh thắng gắn với phát triển du lịch; phân loại về di tích,
danh thắng cũng như phân tích đặc điểm nổi trội của hệ thống di tích danh thắng
Đắk Nông để từ đó xây dựng các tuyến du lịch phù hợp với đối tượng và nhu cầu
tham quan du lịch. Từ thực tiễn của công tác quản lý di tích, danh thắng của Đắk
Nông; từ kinh nghiệm của một số nước có kinh nghiệm hơn ta về bảo tồn di tích
gắn với phát tiễn du lịch cũng như mô hình tổ chức quản lý khai thác có hiệu quả
của một số tỉnh khác, luận văn đã đi sâu phân tích, khái quát hóa những vấn đề
thực tiễn của quá trình ban hành, tổ chức thực hiện và kết quả bảo tồn, tôn tạo và
khai thác di tích, tìm ra những mặt được, chưa được, nguyên nhân của nó nhằm
đưa ra những quan điểm, định hướng, những giải pháp để nâng cao chất lượng và
hiệu quả của công tác quản lý di tích, danh thắng nhằm phát triển du lịch bền vững
ở Đắk Nông trong giai đoạn phát triển mới.
91
Tám nhóm các giải pháp đã trình bày có tính cơ bản nhất nhằm bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hoá ở Đắk Nông; dẫu biết rằng đó
chưa hẳn đã phù hợp với cả nước song dẫu sao cũng là cơ sở để tham khảo và có
thể vận dụng phần nào cho các tỉnh khác nếu có những điểm tương đồng.
Để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói riêng,
việc tìm giải pháp phù hợp, có hiệu quả là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Với
việc đưa ra một số chính sách và giải pháp chủ yếu để bảo tồn, tôn tạo và khai thác
di tích lịch sử văn hoá ở tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, hy vọng nội dung nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giúp cho những
người tổ chức thực hiện tham khảo và có thể vận dụng vào thực tiễn để phát triển
văn hóa và du lịch ở Đắk Nông hiện nay.
92
ANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Đắk Nông (1930-2005) (2006), nhà in Đắk Nông.
2 . Phong trào khởi nghĩa N’ Trang Lơng (1912- 1936), Nxb Chính trị Quốc
gia – sự thật 2012.
3. Cẩm nang xúc tiến đầu tư Đắk Nông (2015), Nxb Thông tấn.
4. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 –
2015.
5. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-
2020.
6. Bộ Văn hoá - Thông tin - Bộ Tài chính (1992), Thông tư liên bộ số 54/TT- LB ngày 11-8 của Bộ Văn hoá - Thông tin - Bộ Tài chính về chế độ cấp phát, quản lý tài chính đối với các bảo tàng và di tích, Hà Nội.
7. Bộ Văn hóa - Thông tin (1993), Chỉ thị 72/CT-BVHTT, ngày 30-8 về tăng
cường quản lý bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, Hà Nội.
8. Bộ Văn hóa - Thông tin (1999), Chỉ thị số 60/CT-BVHTT, ngày 06-5
vềtăng cường quản lý bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, Hà Nội.
9. Bộ Văn hóa - Thông tin (2001), Quyết định 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24-7 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin về phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh, Hà Nội.
10. Bộ Văn hóa - Thông tin (2003), Quyết định 05/2003/QĐ-BVHTT ngày 06-2 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin về ban hành Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh, Hà Nội.
11. Bộ Văn hóa - Thông tin (2006), Văn bản pháp quy về văn hóa - thông tin,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
12. Chính phủ (2000), Chỉ thị 07/CT-CP, ngày 30-3 về bảo vệ di tích lịch sử -
văn hóa, Hà Nội.
13. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg, ngày 18-2 của Thủ tướng
Chính phủ nước về bảo vệ di tích lịch sử - văn hoá, Hà Nội.
14. Chính phủ (2007), Quyết định số 123/2007/QĐ-TTg ngày 30-7 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử đường Hồ Chí Minh - Đông Trường Sơn, Hà Nội.
93
15. Cục Di sản văn hóa (2008), Một con đường tiếp cận Di sản văn hóa, tập 4,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Nguyễn Tri Nguyên (2006), Văn hoá - tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
17. Nhiều tác giả (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. Dương Văn Sáu (2008), Di tích lịch sử - văn hoá và danh thắng Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Trường Đại học Văn hóa (1993), Giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn
hóa, Xưởng in Trung tâm thông tin Khoa học kỹ thuật Quân sự.
20. Lịch sử Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Đắk Nông (1945 - 2007).
21. Lịch sử công tác Đảng, công tác Chính trị lực lượng vũ trang nhân dân
tỉnh Đắk Nông (1945 - 2010).
22. Lịch sử Nhà ngục Đắk Mil; Lịch sử căn cứ kháng chiến Nâm Nung…
TRANG WEB
23. http://dangcongsan.vn/cpv/index.html.
24. http://dulich.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?
25. http://www.sggp.org.vn/kinhte/dulichkhampha/2008/12/174630/
26. http://whc.unesco.org/archive/convention-en.pdf.
94