LUẬN VĂN:
Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác đảng viên. Làm tốt
công tác quản lý đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng không chỉ nắm chắc diễn biến chất
lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên và từng cá nhân đảng viên mà đó cũng là quá
trình giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa đảng
viên với tổ chức đảng, kịp thời có những biện pháp công tác thích hợp để nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Chính vì vai trò quan trọng của công tác quản lý đảng viên như vậy nên Đảng ta
yêu cầu các tổ chức đảng phải thường xuyên quản lý đảng viên xây dựng nền nếp quản lý
chặt chẽ đảng viên, giúp cho Đảng nắm chắc đảng viên "không để một đảng viên nào đứng
ngoài sự quản lý của tổ chức"; mỗi đảng viên phải "tự giác đặt mình trong sự quản lý của
chi bộ" [18, tr.143].
Đất nước ta đang trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, có
nhiều cơ hội để tiến lên. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan
xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách
thức nào. Tỡnh hỡnh đó đòi hỏi công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác xây dựng
đội ngũ đảng viên nói riêng phải được tăng cường và có những đổi mới cho phù hợp với
đặc điểm, yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong đó phải chú trọng công tác quản lý đảng viên.
Đại hội X của Đảng yêu cầu: “...đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên
của chi bộ. Đảng viên có cương vị càng cao càng phải chấp hành sự quản lý của chi bộ”
[22, tr.299].
Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là lực lượng
đảng viên đang trực tiếp đi đầu thực hiện và lãnh đạo nhân dân Thủ đô thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ đảng viên này
đang đứng trước những yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất và năng lực, vừa chịu những
tác động phức tạp nhiều mặt của môi trường công tác, nên công tác quản lý đội ngũ đảng
viên này càng phải được quan tâm.
Trong thời gian qua, Thành uỷ, các quận uỷ và các đảng bộ phường ở thành phố
Hà Nội đó chú trọng đến công tác quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường. Nhiều nội dung, biện pháp quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường được triển khai thực hiện hoặc được đổi mới như: tổ chức cho nhân dân phường
tham gia giám sát, quản lý đảng viên thông qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tổ chức
nghiêm túc việc chi bộ giao nhiệm vụ và kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ;
thực hiện thành nề nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong đội ngũ đảng viên là cán bộ,
công chức phường... Do đó, đó gúp phần quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên là cán bộ, công chức phường, phòng ngừa và hạn chế một bước sự sai phạm của đội
ngũ đảng viên này.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ,
công chức phường, công tác quản lý đội ngũ đảng viên này vẫn còn nhiều bất cập. Tình
trạng đảng viên không gắn bó, tích cực hoạt động, và chi bộ không nắm được hoàn cảnh,
tư tưởng, phẩm chất của đảng viên còn xảy ra ở không ít nơi, ngay cả đối với những đảng
viên do môi trường công tác cần đặc biệt quản lý, giám sát. Kết quả là các đảng bộ phường
ở thành phố Hà Nội cũn nhiều bất cập, chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ
phường cũn bộc lộ nhiều yếu kộm, tồn tại. Một bộ phận đảng viên, trong đó có cả đảng
viên có chức có quyền đó phai nhạt lý tưởng, mất sức chiến đấu, hách dịch, cửa quyền,
gia trưởng… ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng.
Trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, việc nghiờn cứu, làm rừ cơ sở lý luận
và thực tiễn của vấn đề: “Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần tăng cường quản lý đội
ngũ đảng viên này có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liên quan đến đề tài
Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là vấn
đề thường xuyên được Đảng ta quan tâm chỉ đạo thực hiện, bởi vậy đã có nhiều nghị
quyết, chỉ thị đề cập đến. Nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn cũng đã có những
nghiên cứu về quản lý đảng viên ở các góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
* Sách:
+ PTS Ngô Kim Ngân (chủ biên), (Nhà xuất bả Chính trị quốc gia, 1999): “Về
nâng cao chất lượng đảng viên trong sự nghiệp đổi mới”.
+ TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, 2003): “Phỏt huy
vai trũ đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong
giai đoạn hiện nay”.
+ PGS, TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, 2003): “Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay”.
+ PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004):
“Nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở Thủ Đô Hà
Nội hiện nay”.
* Các luận án, luận văn:
+ Đặng Đỡnh Phỳ (1996): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức
cơ sở Đảng Phường, xó ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay” - Luận án Phó Tiến Sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Văn Giang (2002): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có
đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển Đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn hiện nay” -
Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Cao Thị Thanh Vân (2002): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông
thôn Đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy manh công nghiệp hoá” - Luận án Tiến sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Đặng Thị Minh Hảo (2003): “ Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong các
trường trung học phổ thông ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Huỳnh Long (2005): “ Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là giáo
viên trong các trường trung học phổ thông ở Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện
nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Thị Ngọc Loan (2006): “Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ
chuyên trách ở các Phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Trần Thị Bích Thuỷ (2006): “ Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp Phường Quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” - Luận văn
Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Văn Doãn (2008): Quản lý đảng viên là người công giáo ở các đảng bộ
xã của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sĩ,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Tôn Mạnh (2008): Công tác quản lý đảng viên ở đảng bộ các cơ quan dân chính
đảng, tỉnh Nghệ an trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn, ở những góc độ và mức độ khác nhau đã bàn đến
vấn đề quản lý đảng viên. Một số công trình đã đi sâu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn
quản lý đảng viên, chỉ ra phương hướng và giải pháp tăng cường, đổi mới công tác quản
lý đội ngũ đảng viên ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chưa cú cụng trỡnh nào đi
sâu nghiên cứu về quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Gúp phần làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề quản lý đội ngũ đảng viên
là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay; từ đó đề xuất những
giải pháp khả thi để tăng cường công tác quản lý đội ngũ đảng viên này trong giai đoạn
hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rừ đặc điểm đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội.
- Xây dựng quan niệm, nội dung, phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là cán
bộ,công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh gíá đúng thực trạng quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến nay; rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường quản lý đội
ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát công tác quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội cũ trong thời gian từ 2005 đến nay và đề xuất phương hướng, giải pháp
quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở Hà Nội từ nay đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc-Lờnin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng, xây dựng, quản lý đội ngũ đảng
viên. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đó
được công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, sử
dụng kết hợp các phương pháp tổng kết thực tiễn, lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp,
điều tra xó hội học...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Gúp phần làm rừ thờm quan niệm, nội dung, phương thức, biện pháp quản lý
đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi để tăng
cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ đảng ở Hà Nội trong công
tác quản lý đảng viên và làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập môn xây
dựng Đảng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.
Chương 1
QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ Lí
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. PHƯỜNG, ĐẢNG BỘ PHƯỜNG VÀ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Vai trũ và đặc điểm của phường ở thành phố Hà Nội
1.1.1.1. Vai trũ của phường ở thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, có vị trí từ 20053’ đến 21023’ vĩ độ Bắc từ 1050 44’ đến 106002’
kinh độ Đông. Hà Nội tiếp giáp 5 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên; phía Đông giáp Bắc
Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp Vĩnh Phúc; phía Nam giáp Hà Tây. Thành phố gồm 9
quận nội thành: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đỡnh, Cầu Giấy, Thanh Xuõn,
Tõy Hồ, Hoàng Mai, Long Biờn và 5 huyện ngoại thành: Súc Sơn, Đông Anh, Thanh
Trỡ, Từ Liờm, Gia Lõm.
Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá và là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
về chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phũng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Hơn hai
mươi năm đổi mới và phát triển, đi đúng định hướng và vận dụng sáng tạo đường lối đổi
mới của Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới của Hà Nội đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện, chuyển biến cơ bản trong đời sống xó hội.
Với 920,97 km2, và khoảng 3.118.200 triệu dân số trong 9 quận nội thành và 5
huyện ngoại thành.
Toàn thành phố Hà nội có 128 phường và 9 quận nội thành của Hà Nội. phường là
cấp hành chính cơ sở ở nội thành - đặc biệt đối với phường của thủ đô Hà Nội lại càng có
vai trũ quan trọng hơn trong việc lónh đạo, phổ biến và tổ chức, quản lý, động viên quần
chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước cũng như các nhiệm vụ chính của địa phương… thông qua đó, để đưa được các
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của
địa phương đó vào cuộc sống, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong phường. Từ việc thực hiện những chủ trương, đường
lối, chính sách… sẽ tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, vận động nhân dân làm trũn nghĩa vụ cụng dõn đối với nhà nước.
Vai trũ của phường ở thủ đô Hà Nội gắn liền với vị trí, vai trũ đặc biệt quan trọng
ở thủ đô, đó là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, giáo
dục, y tế của cả nước đó là nơi các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị - xó hội và cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế đặt trụ sở và làm
việc. Nơi đây diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ nghĩa.
Vị trí, vai trũ của phường ở Hà Nội được Đảng ta, Thành ủy Hà Nội nhất quán
khẳng định, thể hiện trong các chủ trương và những việc làm cụ thể nhằm xây dựng
phường ở Hà Nội ngày càng vững mạnh. Ngay sau khi thủ đô được giải phóng (10-10-
1954), việc quan tâm xây dựng cấp cơ sở ở Hà Nội đó được thể hiện và thu được
những thành quả đáng ghi nhận. Đến năm 1974, căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tế, thành
phố Hà Nội kiện toàn lại một bước về tổ chức và xác định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn cấp cơ sở của nội thành. Từ 231 ban đại diện dân phố được sắp xếp lại
thành 185 ban đại diện hành chính tiểu khu; quy mô mỗi tiểu khu từ 2.000 đến 5.000
dân. Năm 1978, Thành ủy Hà Nội tiến hành thí điểm, lập ra ủy ban nhân dân tiểu khu,
mỗi tiểu khu có khoảng 10.000 dân… Đi liền với quá trỡnh đó, tổ chức Đảng, chính
quyền, các đoàn thể cũng được sắp xếp, kiện toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
cơ sở nội thành. Đó là chủ trương và phương hướng phát triển đúng đắn.
Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam quy định,
đơn vị hành chính ở Hà Nội chia thành ba cấp. Riêng ở nội thành, dưới thành phố là cấp
quận và dưới quận là cấp phường. Quyết định số 94/HĐBT ngày 26-9-1981 của Hội đồng
Bộ trưởng quy định: Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo
khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7.000 đến 12.000 dân. Chức năng chủ yếu của
bộ máy chính quyền cấp phường là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội, quản lý
và chăm lo phục vụ đời sống dân cư.
Thực hiện quyết định nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định
số 1408/QĐUB ngày 15-4-1982 để hướng dẫn các phường hoạt động theo hỡnh thức
mới. Tiếp đến ngày 15-1-1986, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội đó họp và quyết định: đi đôi với việc quản lý hành chính về mặt
nhà nước, quản lý xó hội, quản lý dõn cư, chăm lo đời sống nhân dân, chính quyền
phường phải quản lý cỏc tổ chức sản xuất tiểu thủ cụng nghiệp (cả tập thể và cỏ nhõn) về
cỏc mặt xõy dựng, thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, phõn phối, chấp hành các
chế độ, thể lệ tài chính, giá cả và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước bước vào thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lónh đạo. Thủ đô Hà Nội cũng
dần dần chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường. Cấp phường lại có vai trũ rất quan
trọng trong điều kiện thực hiện cơ chế mới. Trên cơ sở các văn bản của Nhà nước và của
Thủ đô đó ban hành, Ủy ban nhõn dõn thành phố Hà Nội ban hành Quy định số
3940/QĐUB ngày 25-8-1990, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền phường. Bản quy
định gồm 20 điều, trong đó nêu rừ:
Phường là đơn vị hành chính cơ sở nội thành, nội thị, là nơi trực tiếp tổ
chức thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Chính quyền phường có chức năng chủ
yếu là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội và chăm lo phục vụ đời
sống dân cư [51, tr.9].
Điều 1 của Quy định ghi rừ: Ủy ban nhõn dõn phường thực hiện chức năng kiểm
tra, giám sát hoạt động của các đơn vị và công dân trên địa bàn phường về việc chấp hành
các chủ trương, chính sách, và pháp luật của Nhà nước, các quy định của thành phố về
quản lý kinh tế, xó hội và đô thị; chịu sự quản lý và điều hành tập trung, thống nhất của
quận, thị xó (gọi tắt là quận), thành phố trong quản lý dõn cư, quản lý xó hội, quản lý đô
thị [51, tr.10].
Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên địa bàn thủ đô, vị
trí, vai trũ của phường ở Hà Nội ngày càng được nhận thức và phát triển sâu sắc hơn,
được thể hiện rừ trờn thực tế thực hiện cụng cuộc đổi mới. Các phường ở Hà Nội đó
đóng góp to lớn trong phát triển kinh tế, quản lý đô thị, khắc phục các tệ nạn xó hội
do tỏc động của mặt trái cơ chế thị trường, giải quyết những vấn đề xó hội trờn địa
bàn, giữ vững an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội, gúp phần quan trọng vào thành
tựu cụng cuộc đổi mới của thủ đô. Thực tế đó khẳng đinh, phường mạnh thỡ quận
mạnh, quận mạnh thỡ thủ đô vững mạnh; thủ đô mạnh sẽ tác động lớn đến sự phát
triển của đất nước. Phường yếu kém không ổn định, có nhiều điểm nóng thỡ quận
khụng ổn định, không phát triển được, thậm chí gây hậu quả xấu đối với thủ đô; ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển của đất nước, đến uy tín, thanh danh của Đảng.
Như vậy, phuờng bên cạnh vai trũ là nơi phổ biến tổ chức, quản lý, động viên
quần chúng nhân dân trong phường thỡ cũn cú vai trũ trong việc bảo đảm ổn định chính
trị, chống lại những liệu điệu xuyên tạc đối với đuờng lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nuớc. Cấp phường là cấp cơ sở cuối cùng trong hệ thống
chính trị và là nơi tiếp nhận những ý kiến, những thắc mắc rất đời thường của quần chúng
nhân dân trên những vấn đề đang diễn ra về văn hoá, giáo dục; y tế; về kinh tế; về an
ninh, quốc phũng; về quản lý dõn cư và xó hội; về quản lý lao động, về quản lý nhà, đất
đai (đây là vấn đề nóng bỏng, đang diễn ra khá phức tạp hàng ngày, hàng giờ - đặc biệt là
ở một số xó vừa được chuyển lên phường khi Hà Nội mở rộng, phát triển thêm những
quận mới). Những vấn đề này liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân, nếu các
phường không giải quyết triệt để, tận gốc, hợp tỡnh, hợp lý thỡ sẽ xảy ra vấn đề khiếu
kiện kéo dài, thậm chí sẽ vượt cấp… điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới vai rũ lónh
đạo của các đảng bộ phường, các quận uỷ, Thành uỷ Hà Nội nói riêng cũng như của toàn
Đảng nói chung. Cũng từ những việc giải quyết không ổn thoả ở phường có thể sẽ tạo sơ
hở cho các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, xúi bẩy nhân dân, khiếu kiện đông người,
gây mất ổn định chính trị - xó hội.
Do vậy, để làm tốt được các vấn đề về kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc
phũng, quản lý về đất đai, dân cư, lao động… thỡ cần được định hướng và chỉ đạo thực
hiện đúng hướng, có hiệu quả. Có như vậy phường mới phát triển mạnh, bền vững; từ đó,
mới có thể khẳng định phưũng mạnh mà nếu phường mạnh thỡ quận mạnh và từ đó sẽ
tạo đà cho Thủ đô vững mạnh. Và Thủ đô Hà Nội là trung tâm, là trái tim của cả nước, vỡ
thế, nú cú thật sự vững mạnh thỡ sẽ tỏc động lớn đến sự phát triển của đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của phường ở thành phố Hà Nội
Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy các phường ở thành phố Hà Nội có một số đặc
điểm sau:
Một là, phường ở Hà Nội là đơn vị cơ sở thuộc hệ thống hành chính bốn cấp ở
nước ta, nằm trên địa bàn thủ đô, đó là trung tâm đầu nóo chớnh trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học - công nghệ và giao dịch quốc tế.
Phường là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, được Điều 118
Hiến pháp 1992 quy định: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tỉnh
chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xó; thành phố trực thuộc Trung ương chia
thành quận, huyện và thị xó;Huyện chia thành xó, thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị
xó chia thành phường và xó; quận chia thành phường. Như vậy, hệ thống chính trị ở nước
ta từ Trung ương đến cơ sở là một thiết chế xó hội bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính quyền, các đoàn thể chính trị - xó hội, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật, dưới sự lónh đạo của Đảng. Phường là đơn vị hành chính lónh thổ cấp cuối
cùng ở nước ta; phường có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị, có các tổ chức
kinh tế, các tổ chức xó hội, nghề nghiệp,… Cú thể núi phường là hỡnh ảnh thu nhỏ của
một xó hội, phần rất lớn cỏc hoạt động của đời sống xó hội đều được diễn ra ở phường.
Nghĩa là đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều hội tụ về phường và được tổ chức thực hiện. Phường là nơi phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, nơi kiểm nghiệm những chủ trương của Đảng và Nhà nước về quản lý
đô thị, xây dựng thủ đô văn minh, lịch sự, bài trừ các tệ nạn xó hội, phỏt triển kinh tế, văn
hóa giáo dục… Đó là nơi Đảng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với đông đảo nhân
dân; nắm bắt tâm tư, tỡnh cảm, nguyện vọng chớnh đáng của nhân dân… Đó là nơi đóng
góp cho Đảng những kinh nghiệm quý báu để Đảng sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn hơn và đề ra chủ trương, chính sách mới sát với phường.
Những hoạt động nêu trên cũng diễn ra ở các phường của các thành phố, thị xó khỏc.
Song, đối với các phường ở thủ đô Hà Nội, những hoạt động đó diễn ra với những đặc điểm
riêng. Các phường ở nơi khác hoạt động yếu kém cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế -
xó hội của tỉnh, thành phố đó. Nhưng đối với thủ đô Hà Nội, nếu phường hoạt động yếu sẽ ảnh
hưởng đến thủ đô và đến cả nước. Nếu xảy ra những vấn đề phức tạp, nhất là những điểm
nóng, sẽ ảnh hưởng nhất định đến sự ổn định chính trị của thủ đô, đến uy tín, thanh danh của
Đảng và của đất nước trên trường quốc tế; và các thế lực thù địch dễ lợi dụng tỡnh hỡnh đó để
phá hoại Đảng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội trờn đất nước ta.
Đặc điểm nêu trên quy định và đũi hỏi cỏc phường ở Hà Nội phải được đầu tư xây
dựng ngày càng vững mạnh, hoạt động đạt kết quả tốt, không được phép để xảy ra những
sai sót, nhất là xảy ra những phức tạp về an ninh, trật tự và các điểm nóng.
Hai là, nhiều phường ở Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan đầu nóo của Trung
ương và của thủ đô, các doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học của Trung ương
và của Hà Nội; nơi có nhiều di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh.
Đây là thế mạnh và đặc điểm riêng có của nhiều phường ở thủ đô Hà Nội. Các
phường có điều kiện thuận lợi trong việc trực tiếp quan hệ với các cơ quan Trung ương,
các doanh nghiệp, công ty, các trường đại học, cao đẳng để phối hợp hoạt động giữa
phường với các cơ quan đó trong hoạt động xây dựng phường, tạo điều kiện cho phường
phát triển, hoạt động đạt kết quả cao. Các xó cũng như các phường ở những nơi khác có
thể trực tiếp quan hệ với các cơ quan Trung ương, các trường đại học để hoạt động đạt
kết quả tốt hơn. Song, nhỡn chung họ gặp nhiều khú khăn và điều kiện cụ thể thường
không cho phép họ thực hiện điều đó.
Nhiều phường ở Hà Nội có các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đây là điều
kiện rất thuận lợi để các phường phát triển văn hóa, nâng cao trỡnh độ dân trí, cũng như
phát triển du lịch, dịch vụ để tăng thu ngân sách của phường. Đặc biệt các phường ở Hà
Nội là nơi cư trú của hàng ngàn cán bộ, công chức của Trung ương và Hà Nội, trong đó
có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Theo quy định của Trung ương, những cán
bộ này phải biết giữ mối liên hệ với cấp ủy, chính quyền nơi cư trú. Đây là điều kiện rất
thuận lợi để các phường tận dụng, phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của các cán bộ, công
chức đó, vỡ sự phỏt triển của phường.
Ba là, phường ở Hà Nội phân chia thành nhiều loại rất đa dạng; kinh tế hàng hoá
trên địa bàn phường đang có xu hướng phát triển mạnh.
Phường ở Hà Nội rất đa dạng. Các phường thuộc khu phố cổ là trung tâm buôn
bán, sản xuất, dịch vụ như: phường Đồng Xuân, Phố Huế, Cửa Đông, Hàng Mã, Hàng
Đào… Có các phường lại chủ yếu là nơi đặt cơ quan của Trung ương hoặc của Thành
phố. Có những phường tập trung nhiều khu tập thể cao tầng của cán bộ, công chức, như:
phường Nghĩa Tân, Trung Tự, Thành Công, Thanh Xuân Bắc… Lại có nhiều phường
mới được chuyển đổi từ các xã do quá trình phát triển, mở rộng thủ đô; cơ cấu kinh tế
nên vẫn còn một bộ phận sản xuất nông nghiệp, như: phường Phúc Tân, Nhật Tân, Xuân
La, Mai Dịch…
Trên địa bàn các phường kinh tế hàng hoá đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các công ty liên doanh, công ty cổ
phần, các văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài được thành lập.
Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng gây nên những
khó khăn không nhỏ đối với hoạt động của phường. Những biểu hiện suy thoái đạo đức,
lối sống, những tệ nạn xã hội nảy nở, phát triển, một số tệ nạn đã trở thành nhức nhối,
bức xúc làm băng hoại đạo đức, lối sống… cần cấp bách được giải quyết.
Bốn là, số lượng dân cư trên địa bàn phường rất lớn, cơ cấu đa dạng.
Những năm gần đây kinh tế thị trường ở Hà Nội phát triển khá nhanh, tạo nên sự
phân tầng mạnh mẽ các giai cấp, các tầng lớp dân cư trên địa bàn các phường. Số người
không có việc làm ổn định ở các phường cũn lớn. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp cú tõm tư,
nguyện vọng, tỡnh cảm khỏc nhau; đây là những vấn đề khó khăn, phức tạp đối với hoạt
động của các phường.
Công cuộc đổi mới đất nước nói chung và trên địa bàn thủ đô nói riêng đó thu
được thắng lợi to lớn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các phường của Hà
Nội mặc dù cũn nhiều khú khăn; song, nhỡn chung khỏ ổn định, được cải thiện ở mức
cao hơn so với đời sống của nhân dân ở các thành phố, thị xó khỏc trong cả nước. Trỡnh
độ dân trí ở các phường của Hà Nội nhỡn chung vào loại cao nhất trong cả nước. Đây là
những điều kiện rất thuận lợi để các phường hoạt động có hiệu quả.
Trên địa bàn phường ở Hà Nội, làn sóng người nhập cư ồ ạt từ các tỉnh gây nên sự
hỗn hợp, phức tạp trong lối sống, văn hóa ảnh hưởng đến nếp văn minh thanh lịch của
người Hà Nội. Một số người truyền bá những tư tưởng lạc hậu, không lành mạnh và
những tệ nạn xó hội.
Những đặc điểm của các phường ở Hà Nội nêu trên có ảnh hưởng không nhỏ đến
cơ cấu, phẩm chất, năng lực và phong cách của đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội và công tác quản lý đội ngũ đảng viên này. Đội ngũ đảng
viên là cán bộ, công chức ở các phường thuộc nội thành cũ thường có ưu điểm nổi bật ở
trình độ mọi mặt, kinh nghiệm quản lý đô thị, phong cách làm việc...; nhưng trong quản
lý bộ phận đảng viên này cần chú ý quản lý quan hệ xã hội, nâng cao ý thức gần gũi phục
vụ nhân dân. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức ở các phường đang trong quá trình
đô thị hóa lại cần chú ý quản lý, nâng cao trình độ, năng lực quản lý đô thị, xây dựng
phong cách làm việc phù hợp yêu cầu của văn hóa đô thị ...
1.1.2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của đảng bộ phường ở thành
phố Hà Nội
Đảng bộ thành phố Hà Nội đến cuối năm 2007 (trước khi mở rộng) có 128 đảng
bộ phường với 199.262 đảng viên. Sau khi mở rộng (ngày 01-8-2008), số đảng bộ
phường tăng lên 148 với 314.670 đảng viên (số liệu tính đến 31-12-2008).
1.1.2.1. Vai trò của đảng bộ phường
Trong hệ thống chính trị ở phường, các đảng bộ phường là một bộ phận, đồng thời
lónh đạo hệ thống ấy. Ngoài những điểm chung về vai trũ tổ chức cơ sở đảng, các đảng
bộ phường cũn cú những điểm riêng đặc thù, do tính đặc thù của cấp phường quy định.
Các đảng bộ phường ở Hà Nội là nền tảng của Đảng, là người trực tiếp đưa đường
lối, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, nghị quyết, chủ trương của cấp trên
đến với nhân dân và lónh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị
quyết ấy; lónh đạo các hoạt động ở phường bảo đảm cho các hoạt động đi đúng đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Các đảng bộ phường có vai
trũ rất to lớn trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối, nghị
quyết của Đảng; đóng góp cho Đảng những ý kiến, kinh nghiệm để Đảng sửa đổi, bổ
sung chủ trương, chính sách cho đúng đắn hơn, và đề ra chủ trương, chính sách mới. Đó
là cầu nối tổ chức Đảng với nhân dân ở phường, nắm bắt tâm tư, tỡnh cảm, nguyện vọng
của nhõn dõn để phản ánh với Đảng. Thông qua hoạt động của các đảng bộ phường mà
Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu. Đảng bộ phường cũn là người trực tiếp giáo dục,
rèn luyện, kết nạp đảng viên, tiến hành tất cả các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.
1.1.2.2. Chức năng của đảng bộ phường
Theo quyết định số 94/QĐ-TW ngày 03-03-2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng, các đảng bộ phường có chức năng: Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn là hạt
nhân chính trị, lónh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; lónh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô
thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường giàu đẹp, văn
minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân
dõn làm trũn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Các đảng bộ phường ở Hà Nội là hạt nhân chính trị ở cơ sở, do đó phải luôn luôn quán
triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ phù hợp với phường
của mỡnh, cụ thể húa nhiệm vụ, mục tiờu, chương trỡnh hành động để thực hiện đạt kết quả
tốt. Hoạt động lónh đạo của đảng bộ phường phải thể hiện rừ sự định hướng chính trị đúng đắn
cho các hoạt động trên địa bàn phường, bảo đảm cho các hoạt động đó đi đúng đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các đảng bộ phường cũn phải trực tiếp
lónh đạo xây dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị - xó hội, cỏc tổ chức xó hội nghề
nghiệp. Nghĩa là lónh đạo hoạt động của các tổ chức đó theo đúng đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, uốn nắn kịp thời những lêch lạc trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của các tổ chức đó.
1.1.2.3. Nhiệm vụ của đảng bộ phường
Trên cơ sở vai trũ và chức năng đó nờu, đảng bộ phường có các nhiệm vụ cụ thể
như sau:
Thứ nhất, lónh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội, an ninh, quốc phũng.
Lónh đạo việc thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội theo
nghị quyết của đại hội đảng bộ, chi bộ phường và của cấp trên; tạo môi trường thuận lợi
để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia đỡnh phỏt triển sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; động
viên nhân dân làm trũn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng phường giàu đẹp, văn minh.
Lónh đạo việc thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính nhà nước và cụng tỏc
quản lý đô thị trên địa bàn phường; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy
hoạch; chăm lo phát triển sự nghiệp, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt
các chính sách xó hội, xúa đói giảm nghèo.
Lónh đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; giám sát mọi hoạt động ở cơ sở
theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng dân chủ đi
đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh
trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật; không để tích tụ được mâu thuẫn trở
thành điểm nóng; không để xảy ra tỡnh trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng
dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn.
Lónh đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phũng toàn dõn và chớnh sỏch hậu
phương quân đội; giữ vững an ninh chớnh trị và trật tự an toàn xó hội; đề cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, tính mạng
và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xó hội, nhất là ma tỳy, mại dõm.
Thứ hai, lónh đạo công tác tư tưởng.
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác
phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xó hội trong cỏc
tầng lớp nhõn dõn, nhất là trong thanh niờn, thiếu niờn; xõy dựng tỡnh đoàn kết, gắn bó,
thương yêu, giúp đỡ nhau; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở tổ dân phố, khu
dân cư và trong từng gia đỡnh; chỳ trọng tuyờn truyền và nhõn rộng gương người tốt,
việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực.
Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương;
kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo
lên cấp trên.
Lónh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng,
bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phũng, chống sự suy thoỏi về đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, lónh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
Lónh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị
kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ. Từng bước trẻ hóa đội ngũ cán
bộ, công chức ở phường.
Cấp ủy phải xây dựng quy chế về công tác tổ chức cán bộ; nhận xét, đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đói ngộ đối với cán bộ thuộc quyền, quản lý và
kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo phân cấp; giới thiệu người
đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ
chốt của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc; các đoàn thể nhân dân
theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức.
Cấp ủy đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ
quan lónh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở
cơ sở do cấp trên quản lý.
Thứ tư, lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở phường vững mạnh, thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt
các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; xây dựng khối đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
được giao.
Lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của
địa phương; trước hết là những chủ trương, chính sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải
quyết việc làm và cỏc chớnh sỏch xó hội khác.
Thứ năm, xây dựng tổ chức Đảng.
Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch,
vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao năng lực
lónh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện
và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lóng phớ và cỏc biểu hiện tiờu cực khỏc;
chỳ trọng xõy dựng và nõng cao chất lượng lónh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở tổ dân
phố, khu dân cư. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bỡnh và phờ bỡnh; thực hiện cú nền nếp và nõng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lónh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trũ tiền phong gương mẫu,
phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực; nghiêm chỉnh chấp hành
và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng, quyết
định của chính quyền và chương trỡnh hành động của các đoàn thể nhân dân. Cấp ủy
xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập,
không ngừng nâng cao trỡnh độ về mọi mặt.
Cấp ủy xõy dựng kế hoạch, biện phỏp quản lý, phõn cụng nhiệm vụ và tạo điều
kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác động viên, xử lý
nghiờm minh, kịp thời những cỏn bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy
trỡnh, chỳ trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và những
người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng.
Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực
sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Định
kỳ hàng năm, cấp ủy tổ chức để quần chúng tham gia đóng góp xây dựng Đảng; bí thư cấp
ủy cơ sở; chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân tự phê bỡnh trước đại diện
của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy ra tỡnh trạng quan liờu, tham nhũng, lóng phớ ở
địa phương.
Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Chính trị về những
điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các tổ chức, cơ sở đảng trên địa bàn có
đảng viên, cán bộ, công chức đang cư trú trên địa bàn đó thực hiện các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương.
1.1.2.4. Đặc điểm của đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội
Một là, các đảng bộ phường Hà Nội hoạt động trên địa bàn thủ đô- trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, xó hội cả nước.
Đây là đặc điểm riêng có các đảng bộ phường ở Hà Nội. Hàng ngày, hàng giờ tại
thủ đô Hà Nội diễn ra các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xó hội quan trọng; truyền
đi tỡnh hỡnh thời sự về chớnh trị, kinh tế - xó hội trong cả nước và quốc tế. Hoạt động
trong điều kiện rất thuận lợi đó, các đảng bộ phường ở Hà Nội có thế mạnh trong việc
tiếp nhận thông tin phục vụ cho sự lónh đạo của mỡnh. Cỏc cơ quan của Trung ương
Đảng, Nhà nước đặt trụ sở làm việc tại Hà Nội nên mọi chủ trương, chính sách của Đảng
được các đảng bộ phường nắm bắt nhanh chóng để đưa vào tổ chức thực hiện.
Các đảng bộ phường ở Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp với
các tổ chức đảng, các cơ quan của Đảng, của Nhà nước trên địa bàn thủ đô để học tập kinh
nghiệm, nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan đó đối với hoạt động của mỡnh để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ phường.
Hai là, đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường ở Hà Nội rất đông, cơ cấu đa
dạng, trong đó số đảng viên là người nghỉ hưu, nghỉ mất sức chiếm tỷ lệ cao.
Số đảng viên là người nghỉ hưu, nghỉ mất sức ở các đảng bộ phường chiếm
khoảng từ 70% đến 80%, có nơi gần 90% so với tổng số đảng viên của đảng bộ phường.
Đây là tỷ lệ rất cao so với các phường ở các thành phố, thị xó trong cả nước. Những đảng
viên này có trỡnh độ mọi mặt khá cao, có uy tín, năng lực công tác, có kinh nghiệm sống
và kinh nghiệm công tác. Trong số đó, nhiều người đó là cỏn bộ trung, cao cấp (kể cả
những người nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, bộ trưởng, thứ trưởng,
vụ trưởng …) của Đảng, là những cán bộ, công chức trong các cơ quan đảng, nhà nước,
các đoàn thể chính trị - xó hội, họ đó hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xó
hội. Đây thực sự là tiềm năng và thế mạnh của các đảng bộ phường ở Hà Nội. Nếu cấp ủy
biết khai thác, phát huy một cách hợp lý tiềm năng, thế mạnh đó, thỡ hoạt động lónh đạo
của đảng bộ phường sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Bộ phận đảng viên trưởng thành tại chỗ, trực tiếp tham gia công tác tại phường
chiếm tỷ lệ gần 20%. Đây là lực lượng chủ lực, tuổi đời cũn trẻ, kinh nghiệm cụng tỏc
cũn chưa nhiều, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trỡnh độ lý luận chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống để bảo đảm hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Trên địa bàn phường ở Hà Nội cũn cú một số khụng nhỏ đảng viên là cán bộ,
công chức đang công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể của Trung
ương, thành phố, quận…, cư trú trên địa bàn phường. Ngoài thời gian làm việc ở cơ
quan (sáu ngày trong một tuần), số thời gian rất lớn cũn lại họ sinh hoạt, hoạt động tại
các phường của Hà Nội. Đây là những cán bộ, đảng viên đang công tác nên thường
nắm chắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có
điều kiện tiếp thu những thông tin mới, thông tin đó được định hướng, do đó họ có
kinh nghiệm công tác. Thực hiện Quy định số 76/QĐ-TW ngày 15-6-2000 của Bộ
Chính trị về đảng viên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực
hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, những đảng viên này có điều kiện đóng góp trí tuệ,
kinh nghiệm cho các đảng bộ phường. Các đảng bộ phường cũng có điều kiện thuận
lợi để phát huy vai trũ và sự đóng góp của những đảng viên đó vào hoạt động của
mỡnh.
Ba là, các đảng bộ phường ở Hà Nội phân chia thành nhiều loại đa dạng.
Các phường ở Hà Nội gồm nhiều loại, mỗi loại có những đặc thù riêng. Hoạt động
lónh đạo của các đảng bộ phường cũng đa dạng, phong phú. Có thể chia các đảng bộ
phường ở Hà Nội thành các loại chủ yếu sau đây:
- Đảng bộ ở các phường đó đô thị hóa hoàn toàn.
Đây là các đảng bộ phường ở các quận trung tâm như: Hoàn Kiếm, Ba Đỡnh, Hai
bà Trưng, Đống Đa. Toàn bộ đất đai trên địa bàn phường đó được xây dựng thành đường,
thành phố, dân cư đều là dân đô thị. Đời sống của nhân dân ở đây cao hơn hẳn đời sống
nhân dân ở khu vực ngoại vi. Các đảng bộ phường chủ yếu lónh đạo sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, buôn bán, dịch vụ, quản lý đô thị, bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng khu phố
sạch đẹp, văn minh.
- Đảng bộ ở các phường đang trong quá trỡnh đô thị hóa.
Phần lớn các đảng bộ phường loại này thuộc các quận như: Thanh Xuân, Cầu
Giấy, Tây Hồ. Ở những nơi này một bộ phận đất đai đó được đô thị hóa, song vẫn cũn
một bộ phận đất đai dùng để sản xuất nông nghiệp hoặc bán nông nghiệp, do đó một phần
dân cư vẫn sống bằng nghề nông. Hoạt động ở những phường này đa dạng, phức tạp như:
buôn bán nhỏ, sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; các tệ nạn xó hội
cũng rất phức tạp. Sự lónh đạo của các đảng bộ phường ở đây cần tập trung vào phát triển
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phũng chống, bài trừ cỏc tệ nạn xó hội, giữ vững an
ninh, trật tự, xõy dựng khu phố sạch đẹp, văn minh.
- Đảng bộ ở các phường có nhiều cơ quan, khu tập thể, chung cư.
Cư dân ở những nơi này chủ yếu là cán bộ, công chức nhà nước. Sự lónh đạo của
các đảng bộ phường có nhiều thuận lợi mà trọng tâm là lónh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, giữ gỡn trật tự, an ninh, xõy dựng khu phố sạch đẹp, văn
minh. Tuy nhiên, hoạt động của đảng bộ phường ở những nơi này gặp nhiều khó khăn,
nhất là vấn đề kinh phí để hoạt động, phát động và duy trỡ cỏc phong trào quần chỳng.
- Đảng bộ ở các phường thuộc các khu buôn bán lớn.
Các đảng bộ phường ở những nơi này cần tập trung lónh đạo phát triển kinh tế,
khuyến khích các thành phần kinh tế, các hộ gia đỡnh phỏt triển sản xuất kinh doanh,
thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống trốn lậu
thuế, tăng nguồn thu cho phường, đồng thời đóng góp vào ngân sách của quận, thành
phố.
- Đảng bộ ở các xó chuyển thành phường.
Là đảng bộ phường ở các vùng ven nội đô trước kia và các quận mới thành lập trong
thời gian gần đây; cơ sở hạ tầng ở những nơi này cũn yếu kộm, kinh tế chậm phỏt triển, chủ
yếu là sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, do đó các tệ nạn xó hội cũng dễ nảy nở,
sự phỏt triển. Sự lónh đạo của các đảng bộ phường gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Trọng
tâm lónh đạo của các đảng bộ phường là phát triển kinh tế - xó hội, xõy dựng cơ sở hạ tầng
đô thị, giữ gỡn an ninh, trật tự, xõy dựng cơ sở hạ tầng tạo nên sự ổn định, phát triển.
1.1.3. Quan niệm, vai trũ và đặc điểm đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội
1.1.3.1. Quan niệm về đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội
Hệ thống chính trị cấp phường ở các thành phố nói chung, ở thành phố Hà Nội nói
riêng là một thiết chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xó hội
chủ nghĩa Việt Nam lập ra ở đơn vị cơ sở cấp phường. Hệ thống chính trị phường bao gồm
các tổ chức: Đảng bộ phường, chính quyền phường, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xó
hội phường. Trong hệ thống đó, đảng bộ phường là hạt nhân lónh đạo chính tri của toàn bộ
hệ thống.
Hoạt động trong hệ thống chính trị phường có đông đảo cán bộ đảng viên của
Đảng. Theo quan điểm của Đảng ta, hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và
cán bộ không chuyên trách. Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được
hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước…Cán bộ không chuyên
trách là những người chỉ tham gia công việc trong một phần thời gian lao động. Trên cơ
sở quan điểm này, Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công
chức (ban hành ngày 8/5/2003) qui định rừ, những cán bộ công chức hoạt động trong hệ
thống chính tri cấp xó núi chung, ở cỏc phường của thành phố Hà Nội nói riêng, là :
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; bí thư, phó bí thư đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức
chính trị xó hội xó, phường, thị trấn(gọi chung là cấp xó); Những người được tuyển
dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc uỷ ban nhân dân cấp xó.
Như vậy, theo qui định này, cán bộ, công chức cấp xó là những cỏn bộ chuyên
trách hoạt động ở hệ thống chính trị cấp xó. Họ là những cỏn bộ được biên chế trong hệ
thống chính trị cơ sở, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các chế độ chính sách khác
về cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.
Đảng viên là thành viên của đảng, nhân tố cơ bản cấu thành các tổ chức của đảng.
Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong hệ thống chính trị cơ sở hết sức
đông đảo. Phần lớn cán bộ cơ sở (cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách), là
đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tất cả những cán bộ, công chức hoạt động
trong hệ thống chính trị phường ở thành phố Hà Nội, là đảng viên, đang sinh hoạt trong
các tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ thành phố, đều được hiểu là “đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội”.
Quan niệm như vậy chỉ rừ, đảng viên là cán bộ, công chức hoạt động trong hệ thống
chính trị phường ở Hà Nội hiện nay bao gồm những đảng viên là: Chủ tịch và phó chủ tịch
uỷ ban nhân phường; bí thư, phó bí thư và uỷ viên thường vụ đảng uỷ phường; các thành
viên uỷ ban nhân dân phường; cán bộ giúp việc uỷ ban nhân dân phường được tuyển chọn
gồm: trưởng công an, phường đội trưởng, cán bộ văn phũng, cỏn bộ địa chính, cán bộ tài
chính-kế toán, cán bộ tư pháp, cán bộ văn hoá xó hội, cỏn bộ xõy dựng đô thị; chủ tịch Mặt
trận tổ quốc Việt nam phường; bí thư đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
phường; chủ tịch hội phụ nữ phường; chủ tịch hội cựu chiến binh phường. Trong 128
phường của Hà Nội hiện đang có 2.610 đảng viên là cán bộ, công chức phường. Hiện
nay, tất cả số đảng viên này đều sinh hoạt tại chi bộ cơ quan phường.
Theo qui định mới hiện nay, Hội đồng nhân dân thuộc chính quyền phường sẽ thôi
hoạt động, vỡ vậy những cỏn bộ cụng chức của hệ thống chớnh trị phường sẽ không có
cán bộ của hội đồng nhân dân.
1.1.3.2. Vai trũ đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội
Phường là nơi hội tụ sự chỉ đạo của các ngành, các cấp, các đoàn thể thuộc hệ
thống ngành dọc từ trên xuống. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức ở các phường ở
thành phố Hà Nội phải là chủ thể giải quyết và phối hợp các mối quan hệ nêu trên. Để đạt
được điều đó, đòi hỏi phải có khả năng giải quyết công việc đảm bảo theo đúng đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp trên. Họ phải là những người
chịu trách nhiệm chính trước Đảng, Nhà nước và trước nhân dân. Đồng thời là người trực
tiếp giải quyết các vấn đề, nguyện vọng của đảng viên, quần chúng; là cầu nối giữa Đảng
với nhân dân nên đòi hỏi họ phải có phẩm chất trí tuệ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản lý của đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức ở
phường là yêu cầu cơ bản, là vấn đề cấp thiết nhằm đáp ứng nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước giao cho.
Quá trình đổi mới, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tác động
mạnh mẽ đến các phường của thành phố Hà Nội. Bước chuyển biến này có sự đóng góp
quan trọng của đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện
nay, đồng thời đặt ra yêu cầu cao đối với đội ngũ này để hoàn thành nhiệm vụ chính trị
được giao. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội vừa phải
đáp ứng yêu cầu của người đảng viên, vừa phải đáp ứng được yêu cầu của người cán bộ
cơ sở. Do đó, vai trò của đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội tập trung vào những vai trò chính sau:
Thứ nhất: đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là
những người tiên phong trong phong trào của quần chúng, vừa là người lãnh đạo, quản
lý, đồng thời vừa là người đi đầu thực hiện các nhiệm vụ chính trị của phường.
Điều này được thể hiện rất rõ trong các công việc hàng ngày, nơi đội ngũ đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội thường xuyên gặp gỡ, trao đổi công việc với
nhân dân. Họ cần phải thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu trong lãnh đạo và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ chính trị để đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của đại đa số quần
chúng nhân dân.
Trong một tập thể sẽ không thể phát huy được sức mạnh nếu như không có người
dẫn dắt, đưa đường chỉ lối. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội chính là người quyết định trong việc xây dựng và phát triển đơn vị phường. Họ
không chỉ đề ra phương hướng, nhiệm vụ mà còn đi đầu, gương mẫu thực hiện và hướng
dẫn tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trên địa bàn phường mình
đang công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mọi công việc của Đảng đều do đảng
viên làm, mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi khẩu hiệu, mọi kế
hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện” [45, tr.235-236].
Thứ hai: đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là
những người hàng ngày trực tiếp tiếp xúc với dân, sống cùng dân, đưa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những chủ trương, chính sách
của thành phố, các quận vào cuộc sống, biến những chủ trương chính sách đó thành hiện
thực.
Qua quá trình thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách đó, đội ngũ đảng viên
là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cùng với nhân dân còn phát hiện những
thiếu sót của chủ trương, đường lối, chính sách để kiến nghị và đề xướng những giải pháp
điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nó, góp phần hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng, cơ chế quản lý của Nhà nước.
Việc thực hiện chủ trương, chính sách chung có hiệu quả, không chỉ làm cho
phường phát triển, mà còn tạo cơ sở cho sự phát triển chung của quận và thành phố. Chủ
trương chính sách của cấp trên dù đúng đắn, nhưng năng lực trí tuệ của đội ngũ cấp cơ sở
mà không đáp ứng yêu cầu, ý thức trách nhiệm của họ không cao, thì không thể cụ thể
hoá được chủ trương, chính sách đó cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, cũng
không thể năng động, sáng tạo và toàn tâm toàn ý, đoàn kết và chỉ đạo tổ chức thực hiện
được. Vì vậy, vai trò này có được phát huy hay không, phụ thuộc vào chất lượng của cả đội
ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
Thứ ba: đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội vừa
phải là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện ở cấp cơ sở, vừa là người trực tiếp sản xuất,
lao động tại gia đình, vì vậy, việc công và việc tư của những người này gắn liền với nhau
trong công tác, sinh hoạt hàng ngày.
Họ phải giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp như: quan hệ công việc, quan hệ
hàng xóm, láng giềng… Các mối quan hệ đó đòi hỏi họ phải giải quyết sao cho thấu tình
đạt lý mà vẫn đảm bảo công việc chung có hiệu quả.
Vì thế, họ chính là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội của cấp cuối cùng của hệ thống chính trị nước ta. ổn định và phát triển là
đòi hỏi bức xúc, cấp bách mà mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội quan tâm. Bằng trí tuệ tập thể, sự đoàn kết nhất trí, bằng quyết tâm dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và nhân dân mà đội ngũ đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội đã có những sáng kiến, những thành quả không
phải là nhỏ.
Thứ tư: đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là lực
lượng nòng cốt, đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong các chi bộ, đảng bộ và trong toàn bộ
nhân dân trong phường.
ở nơi nào xảy ra tình trạng mất đoàn kết, biểu hiện rõ nhất ở năng lực và khả năng
lãnh đạo, quản lý và điều hành của người lãnh đạo. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội họ đều giữ một trọng trách rất quan trọng trong mọi
lĩnh vực, mọi tổ chức đoàn thể. Nhưng sức mạnh của Đảng không chỉ ở bản thân Đảng,
thông qua đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức mà còn ở sự gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động
của Đảng. Trong điều kiện hiện nay, các cấp uỷ đảng có nhiều “kênh thông tin” để thực
hiện và giữ vững mối quan hệ với quần chúng nhân dân, thực hiện đảm bảo được sự đoàn
kết nhất trí trong toàn đảng bộ, chi bộ mà mình đang sinh hoạt. Đội ngũ đảng viên là cán
bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội còn là người trực tiếp lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng của quần chúng, góp ý, trao đổi cũng như đưa ra những ý kiến cuối cùng để
đảm bảo được uy tín của Đảng nói chung, của đảng bộ phường mình nói riêng trong việc
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong toàn phường.
Do đó, đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là
nhân tố quan trọng ở cấp cơ sở, nơi gần dân nhất, nơi lắng nghe ý kiến, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân - thể hiện được mối quan hệ giữa Đảng và dân. Không ở nơi
nào có ảnh hưởng lớn bằng cấp cuối cùng này, bởi người dân không thể biết được hết cấp
quận, huyện như thế nào, và cả cấp thành phố, cấp tỉnh ra sao… nhưng đối với cấp xã,
phường, thị trấn - những cán bộ, công chức sẽ được biết đến nhiều hơn thông qua cuộc sống
hàng ngày, giải quyết những vấn đề về đất đai, rưộng vườn…, những xích mích của hàng xóm,
láng giềng.
Thực tế cho thấy ở xã phường, thị trấn nào giải quyết được những vấn đề về đất
đai, ruộng vườn, …, những xích mính trong quan hệ hàng xóm láng giềng thì ở nơi đó sẽ
ổn định, vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng viên, người cán bộ, công chức
được đề cao và thể hiện rất rõ nét.
1.1.3.3. Đặc điểm đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội
- Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội phần lớn
được trưởng thành sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, có
tuổi đời tương đối trẻ, trình độ khá, nhưng cần được quan tâm bồi dưỡng nhiều về kinh
nghiệm vận động quần chúng, bản lĩnh chính trị, phong cách làm việc. Đội ngũ đảng viên
là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện là lớp cán bộ khá trẻ được đào tạo
cơ bản, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, năng động, nhạy bén, tiếp cận với
cái mới nhanh, được các thế hệ cán bộ đi trước hướng dẫn, giúp đỡ nên họ trưởng thành
nhanh chóng, họ am hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nhiệt tình, tâm huyết với công việc. Tuy nhiên, do được trưởng thành trong
môi trường hòa bình, xây dựng nên họ cần được quan tâm bồi dưỡng nhiều về kinh
nghiệm vận động quần chúng, bản lĩnh chính trị, phong cách làm việc.
- Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hoạt động
trong môi trường chính trị - xã hội của Thủ đô, có đòi hỏi cao về trình độ, năng lực,
phong cách làm việc
Thực thi nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý các phường trên địa bàn Thủ đô; tiếp xúc,
phục vụ công dân của Thủ đô - một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước, trong đó nhiều người có trình độ dân trí, chính trị, văn hóa cao, là một áp lực lớn đối
với đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội - những cán bộ cơ
sở chỉ có trình độ cấp cơ sở.
- Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hoạt động
trong điều kiện kinh tế - xã hội đang phát triển mạnh và đô thị hóa nhanh, nên khá năng
động, sáng tạo. Vừa do yêu cầu lãnh đạo, quản lý sự phát triển năng động của kinh tế - xã
hội trong phường, vừa do ảnh hưởng tự nhiện của môi trường phát triển đó, nên đội ngũ
đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cũng phải năng động và luôn
cố gắng phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây
dựng và phát triển Thủ đô.
- Một bộ phận trong đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội làm việc gần như liên tục.
Đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, chỉ trừ
một số trường hợp phải làm việc thêm giờ. Còn đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội lại không có thời gian rảnh rỗi nhiều. Bên cạnh thời gian làm
việc theo giờ hành chính, buổi tối hoặc ngày nghỉ, nhiều đảng viên là cán bộ, công chức
còn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đi nắm bắt tình hình chung của từng tổ, từng người dân
trong phường.
Với ý thức trách nhiệm cao, mong muốn thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội của phường, phần lớn đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội
không nề hà khó khăn và sẵn sàng đón nghe những ý kiến phản hồi lại của quần chúng
nhân dân một cách trực tiếp.
1.2. Quan niệm, nội dung, PHƯƠNG THỨC, vai trò quản lý đội ngũ đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Quan niệm về quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao
động, là phạm trù lịch sử. Quản lý ra đời gắn liền với hoạt động chung của nhiều
người trong xã hội, bởi vì: “mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung thực
hiện trên quy mô tương đối lớn ở mức độ nhiều ít đều cần đến quản lý” [42, tr.34].
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người; là loại lao động
đặc biệt, lao động sáng tạo và phát triển từ thấp đến cao, gắn liền với nó là sự phân
công, chuyên môn hoá lao động quản lý, hình thành các chức năng quản lý. Từ chức
năng, nhiệm vụ, chủ thể quản lý có thể theo dõi kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh sự hoạt
động của mỗi bộ phận và toàn bộ hệ thống quản lý. Mỗi cá nhân trong hệ thống quản
lý đều phải hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể; chủ thể quản lý theo dõi, kiểm
tra, điều chỉnh, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ các hoạt động để tạo ra sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống quản lý hướng vào mục tiêu chung.
Quản lý (theo từ Hán Việt) là sự kết hợp của “quản” và “lý”. Quá trình “quản”
gồm sự coi sóc, giữ gìn duy trì một hệ thống ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm
sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ thống đó vào phát triển. Như vậy, quản lý là tích hợp
của hai mặt: lý và quản nhằm đưa hệ thống vào một thế ổn định và phát triển.
Theo Từ điển tiếng Việt: Quản lý có hai nghĩa: “1. Trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định. 2. Tổ chức và điều khiển theo những yêu cầu nhất định” [61,
tr.800].
Sách “Thuật ngữ pháp lý” của Vũ Duy Lâm định nghĩa quản lý là:
Các phương thức, biện pháp nhằm làm cho hoạt động, tư duy của con người
riêng lẻ, hoạt động của các tổ chức với những cơ chế khoa học được tiến hành
phù hợp với mục đích, lợi ích chung nhằm đạt hiệu quả cao. Các biện pháp
quản lý chủ yếu gồm các biện pháp kinh tế, biện pháp hành chính, biện pháp
giáo dục [29, tr.256].
Giáo sư Mai Hữu Khuê cho rằng: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc
biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các hoạt động lao động trí óc, liên kết
với bộ máy quản lý làm cho hoạt động nhịp nhàng đưa đến hiệu quả” [27, tr.61]. ở đây,
cần hiểu rằng quản lý là giải quyết công việc phải làm, phải cụ thể hoá mục tiêu chiến
lược thành mục tiêu kế hoạch công việc. Quản lý là xây dựng bộ máy cụ thể với điều kiện
có hiệu lực; xây dựng cơ chế chính sách để thực hiện mục tiêu. Như vậy, quản lý là điều
hành được tài lực, vật lực, nhân lực và quyền lực để đi đến kết quả quản lý.
Theo sách Tra cứu từ về tổ chức: Quản lý là quá trình thu thập và xử lý thông tin,
ra quyết định và truyền tải quyết định đó dưới dạng văn bản tới các đối tượng bị quản lý
[52, tr.545].
Dù cách dùng, cách hiểu của các tác giả nêu trên trong các trường hợp, các lĩnh vực
cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản, khái niệm quản lý bao hàm nghĩa chính của nó là
chăm sóc, là giữ gìn, là duy trì ổn định và phát triển.
Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, quản lý là hoạt động có mục đích
của chủ thể tác động vào các đối tượng bằng các phương thức, biện pháp nhằm duy trì,
ổn định, phát triển và đạt được hiệu quả cao nhất.
Về quản lý đảng viên của Đảng hiện nay có nhiều quan niệm:
Theo Tập bài giảng phục vụ cho các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức cán bộ Ngành xây dựng Đảng của Ban
Tổ chức Trung ương:
Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác đảng viên và
công tác xây dựng Đảng. Thông qua quản lý đảng viên, các cấp uỷ và các tổ
chức đảng nắm chắc đội ngũ đảng viên để có chủ trương, biện pháp thích hợp,
nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng; góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ nội bộ Đảng, ngăn ngừa kẻ địch, phần tử xấu chui vào
Đảng [8, tr.190].
Theo Tập bài giảng Nghiệp vụ công tác cán bộ, đảng viên (III), Viện xây dựng
Đảng - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa:
Quản lý đảng viên là một công tác quan trọng của Tổ chức Đảng, bao gồm quản
lý từng cá nhân đảng viên trên các mặt như: Quản lý hồ sơ lý lịch gia đình, quản
lý quá trình hoạt động, quản lý trong diễn biến tư tưởng của từng đảng viên, đồng
thời quản lý cả đội ngũ đảng viên về số lượng, về cơ cấu, về chất lượng; quản lý
việc phát thẻ và sử dụng thẻ đảng. Tất cả các công tác đó nhằm mục đích để tổ
chức đảng nắm bắt được thực chất đội ngũ đảng viên để có kế hoạch cho công tác
của Đảng nhằm phát huy và sử dụng có hiệu quả từng người, góp phần hoàn thành
nhiệm vụ chính trị chung của Đảng [26, tr.195].
Những quan niệm trên chỉ ra chủ thể, nội dung, tác dụng của công tác quản lý
đảng viên nói chung. Từ những quan niệm đó có thể thấy: Quản lý đảng viên là cán
bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là hoạt động của các cấp uỷ đảng ở
phường để nắm bắt rõ từng đảng viên về mặt lai lịch, quá trình học tập, công tác,
mức độ hoàn thành nhiệm vụ, quan hệ xã hội, gia đình..., thông qua đó đánh giá
được khả năng, triển vọng của từng đảng viên, phục vụ việc bồi dưỡng, bố trí sử dụng,
bảo vệ lực lượng đảng viên này nhằm góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên và hệ thống
chính trị phường vững mạnh.
Quan niệm về quản lý đảng viên là người cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội đã chỉ ra :
- Mục đích quản lý: Nắm chắc đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội một cách có hệ thống, để phục vụ việc xây dựng, bố trí sử dụng, bảo vệ lực lượng
đảng viên quan trọng này nhằm góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên, tổ chức đảng và
hệ thống chính trị phường vững mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị.
- Chủ thể quản lý: Quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội là trách nhiệm của cấp uỷ đảng từ Thành uỷ đến cơ sở, trong đó thường xuyên, trực
tiếp là đảng uỷ phường và chi bộ cơ quan phường.
- Đối tượng quản lý: các đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý ở từng mối quan hệ cụ thể có thể có sự
chuyển hoá. Mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là đối
tượng quản lý của cấp uỷ, tổ chức đảng nhưng lại là chủ thể năng động sáng tạo trong quá
trình tự quản của bản thân.
1.2.2. Nội dung, phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
1.2.2.1. Nội dung quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội
Quản lý đảng viên là quản lý con người. Nội dung chủ yếu trong quản lý đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội bao gồm:
Quản lý về tư tưởng chính trị
Tư tưởng chính trị đúng là yêu cầu đầu tiên cần phải có ở người đảng viên. Trở
thành đảng viên của Đảng, có nghĩa là trở thành người chiến sĩ tiên phong trong hoạt
động chính trị của Đảng. Vì vậy, người đảng viên gương mẫu, có tính đảng cao phải là
người đảng viên tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, kiên định với
mục tiêu xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng quản lý đảng viên
về tư tưởng chính trị là lĩnh vực quản lý rất trừu tượng, vì tư tưởng chính trị chỉ có thể
được nhận biết và đánh giá qua ngôn ngữ, hành vi và kết quả hoạt động thực tiễn của
người đảng viên. Quản lý tư tưởng chính trị của đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội là thông qua ứng xử chính trị, phát ngôn, thái độ đối với nhiệm vụ
đảng viên để nắm bắt thái độ chính trị, trình độ tư tưởng, lập trường chính trị để phát huy
hoặc định hướng tư tưởng cho họ.
Quản lý hoạt động công tác
Trong công tác quản lý đảng viên, quản lý hoạt động của đảng viên là nội dung
quản lý khó khăn và phức tạp, vì mỗi đảng viên có điều kiện sống, hoàn cảnh công tác rất
khác nhau, hoạt động của họ diễn ra hàng ngày.
Quản lý hoạt động của đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội
chủ yếu bao gồm quản lý hoạt động công tác. Hoạt động công tác là hoạt động thực hiện
nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ được giao gồm có nhiệm vụ của tổ chức đảng giao, nhiệm
vụ chuyên môn giao, nhiệm vụ của các đoàn thể chính trị - xã hội giao. Thông qua quản
lý thực hiện nhiệm vụ được giao để tổ chức đảng nắm bắt được năng lực công tác mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của từng đảng viên để từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện đảng viên, đồng thời đánh giá đúng đảng viên, phát hiện những đảng viên nào có
năng lực công tác tốt để đề bạt, cất nhắc.
Quản lý các mối quan hệ xã hội, đạo đức, lối sống
Hoạt động quan hệ xã hội là toàn bộ các hoạt động quan hệ bạn bè, gia đình, hàng
xóm, hoạt động vui chơi, giải trí, quan hệ, giao tiếp. Quản lý đảng viên trong lĩnh vực này
rất khó nhưng rất cần thiết. Quản lý về các mối quan hệ xã hội, đạo đức, lối sống đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội giúp cho đảng uỷ, chi bộ đánh giá
tư cách đảng viên, ngăn ngừa, đề phòng và ngăn chặn những tiêu cực, những tệ nạn xã
hội, "tấn công" vào mỗi người, làm tha hoá, biến chất đảng viên. Quản lý vấn đề này còn
nhắc nhở đảng viên nêu cao tinh thần cảnh giác, có ý thức trách nhiệm để tự quản lý
mình, chủ động ngăn ngừa những tác động tiêu cực, giúp đảng viên giữ được tư cách
đảng viên.
Người đảng viên luôn luôn chịu sự tác động nhiều mặt của các mối quan hệ gia
đình và xã hội. Những mối quan hệ này vốn đã đa dạng và phức tạp, trong tình hình hiện
nay lại càng đa dạng và phức tạp hơn.
Cùng với quản lý quan hệ xã hội, tổ chức đảng phải nắm được hoàn cảnh gia đình
của đảng viên, kịp thời giúp đỡ đảng viên khắc phục khó khăn của gia đình họ.
Quản lý hồ sơ đảng viên và quản lý thẻ đảng viên
Hồ sơ đảng viên là hệ thống các văn bản theo quy định của Trung ương, lưu giữ
những thông tin về lịch sử chính trị, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, quá trình công tác,
phẩm chất, năng lực, trình độ đảng viên. Hồ sơ đảng viên là gương mặt lịch sử của người
đảng viên. Vì vậy, hồ sơ đảng viên phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác, thống nhất, bí mật,
được cấp uỷ có thẩm quyền xác nhận và được cơ quan của cấp uỷ quản lý.
Quản lý hồ sơ là một phần rất quan trọng của công tác quản lý đảng viên nói
chung, quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội nói riêng.
Qua quản lý hồ sơ đảng viên giúp cho việc nắm rõ thông tin về quá khứ và hiện tại của
đảng viên thông qua những tài liệu được lưu trữ trong hồ sơ. Qua hồ sơ, chủ thể quản lý
cũng có thể đánh giá được những thay đổi về trình độ chuyên môn, chính trị; những
thành tích cũng như những hình thức kỷ luật nếu có của đảng viên.
Việc phát và quản lý thẻ đảng viên là một công tác quan trọng có ý nghĩa giáo dục sâu
sắc nhằm nâng cao ý thức Đảng, tinh thần phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên,
góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng tổ chức cơ sở đảng, ngăn ngừa kẻ địch
và những phần tử xấu chui vào Đảng.
Việc phát thẻ, đổi thẻ và quản lý thẻ đối với đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội cũng cần thực hiện tốt Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW của
Ban tổ chức Trung ương ngày 29-12-2006.
1.2.2.2. Phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là hệ thống các phương pháp, cách thức để
tổ chức đảng quản lý đảng viên. Phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay bao gồm những cách thức chủ
yếu sau:
Quản lý thông qua thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội đều có chức trách, nhiệm vụ được giao. Kết quả thực hiện
chức trách, nhiệm vụ là cơ sở hàng đầu để đánh giá năng lực, phẩm chất của đảng viên.
Vì vậy, giao nhiệm vụ và kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ là phương thức
quản lý hàng đầu đối với đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
Quản lý thông qua sinh hoạt chi bộ: chi bộ là tổ chức quản lý đảng viên chặt chẽ và
tốt nhất vì chi bộ gần đảng viên nhất. Chi bộ phải trực tiếp quản lý đảng viên về 5 nội
dung: lịch sử, tư tưởng, công tác, quan hệ xã hội, sinh hoạt đảng. Phẩm chất và năng lực
của đảng viên là cán bộ, công chức bao giờ cũng được biểu hiện ra trong quá trình sinh
hoạt chi bộ. Việc thường xuyên phê bình thực hiện nhiệm vụ, ý thức chấp hành các quy
định của Đảng trong sinh hoạt chi bộ của người đảng viên là cán bộ, công chức là cơ sở
quan trọng để cấp uỷ, tổ chức đảng đánh giá, phân tích, kết luận về phẩm chất, năng lực,
tác phong công tác của từng đảng viên.
- Quản lý đảng viên thông qua phong trào cách mạng của quần chúng ở địa
phương. Đảng viên là người đưa đường lối chủ trương, chính sách của Đảng vào quần
chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Đảng viên là người
duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Mặt khác, phong trào cách
mạng của quần chúng là môi trường tốt nhất để giáo dục, rèn luyện đảng viên, sàng lọc
đội ngũ đảng viên. Chất lượng quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở các đảng
bộ phường là quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tổ chức đảng với trách
nhiệm của từng đảng viên. Đó là hai mặt của một quá trình, trong đó phát huy tính tích
cực, tự giác, tự quản lý của từng đảng viên bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định trực tiếp.
Sự hình thành, phát triển về phẩm chất và năng lực, đạo đức, lối sống của đảng viên nói
chung và của đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng là một quá trình phấn đấu
lâu dài, bền bỉ, thông qua nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở nhà trường, tự giác rèn
luyện của đảng viên trong phong trào cách mạng của quần chúng. Chính phong trào cách
mạng của quần chúng ở cơ sở là trường học lớn để đội ngũ đảng viên thể hiện phẩm chất
và năng lực của mình, đồng thời, phong trào cách mạng của quần chúng giúp đảng viên
tự hoàn chỉnh mình, Đảng uỷ, chi bộ làm tốt công tác quản lý đảng viên.
- Phối hợp với chi bộ nơi cư trú trong công tác quản lý đảng viên. Quản lý đảng
viên là quản lý toàn diện, trong tình hình hiện nay, quản lý đạo đức, lối sống được xem là
nội dung quan trọng; quản lý tốt nội dung này tổ chức đảng có đảng viên đang công tác
cần kết hợp chặt chẽ với chi bộ nơi có đảng viên đang cư trú theo Quy định số 76-
QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Bộ Chính trị “Về việc đảng viên đang công tác ở
cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng
uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú” để quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức kịp thời ngăn ngừa, chấn chỉnh những vi phạm có thể xảy ra.
- Quản lý thông qua kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và nhân dân. Cấp uỷ, chi
bộ tiến hành kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, các nguyên
tắc tổ chức của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và của cấp mình bằng nhiều hình
thức, biện pháp quản lý đội ngũ đội ngũ là cán bộ, công chức phường được triển khai
thực hiện hoặc được đổi mới như: tổ chức cho nhân dân phường tham gia giám sát, quản
lý đảng viên thông qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức nghiêm túc việc chi bộ
giao nhiệm vụ và kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ, thực hiện thành nề
nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Qua kiểm tra, giám sát cấp uỷ, chi bộ sẽ có đầy đủ thông tin về quá trình hoạt động của
đảng viên là cán bộ, công chức, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những hạn chế lệch lạc.
- Quản lý đảng viên thông qua công tác quản lý hồ sơ. Quản lý đảng viên vừa là
nội dung, vừa là biện pháp quản lý đảng viên. Quản lý đảng viên thông qua hồ sơ là biện
pháp rất cơ bản không thể thiếu trong công tác quản lý đảng viên giúp cho cấp uỷ, tổ
chức đảng, người đứng đầu tổ chức hiểu đầy đủ, chính xác về quá khứ và hiện tại của
từng đảng viên. Đảm bảo cho mọi đảng viên là cán bộ, công chức có đủ hồ sơ và đúng,
đủ nội dung theo quy định. Chi uỷ, chi bộ có trách nhiệm quản lý Hồ sơ đảng viên và Sổ
danh sách đảng viên, bảo quản hồ sơ đảng viên, hướng dẫn kiểm tra, thu nhận phiếu bổ
sung hồ sơ đảng viên, ghi bổ sung vào lý lịch và danh sách đảng viên của đảng bộ cơ sở,
chuyển phiếu bổ sung lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp và bảo quản theo chế độ mật; nắm
vững, chấp hành nghiêm các nguyên tắc quản lý hồ sơ đảng viên đã được phân cấp.
- Quản lý đảng viên bằng sự phối hợp giữa quản lý cán bộ của chính quyền, đoàn
thể. Đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội đều là cán bộ của chính
quyền , các tổ chức trong hệ thống chính trị phường, do đó, quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội phải kết hợp quản lý đảng viên của tổ chức đảng
với sự quản lý cán bộ của chính quyền, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị phường.
- Phát huy trách nhiệm tự quản của từng đảng viên.
Đảng viên là cán bộ, công chức phường hiện đang sống và công tác xã hội nên họ
bị tác động bởi những yếu tố tích cực và tiêu cực của xã hội. Nếu đảng viên không thực
hiện tốt việc tự quản lý dễ mắc khuyết điểm dẫn đến vi phạm tư cách đảng viên. Do đó
mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường phải đề cao ý thức tự quản lý. Các đảng uỷ
cấp phường cần thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của đảng viên, về ý
nghĩa, tầm quan trọng của quá trình tự quản lý.
1.2.3. Vai trũ quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Vai trò quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội được
thể hiện như sau:
- Quản lý đảng viên giúp nắm vững tình hình chất lượng đội ngũ đảng viên là cán
bộ, công chức phường làm cơ sở để tiến hành các mặt công tác xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Quản lý đảng viên là một khâu quan trọng trong công tác đảng viên, là cơ sở để bố
trí, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, cũng như để tổ chức đảng giới thiệu đảng viên
ứng cử vào các cương vị lãnh đạo, quản lý quan trọng của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
- Quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường góp phần quan trọng vào công
tác quản lý đảng viên các phường và công tác xây dựng các đảng bộ phường, nâng cao
vai trò, uy tín của tổ chức đảng các phường ở Hà Nội. Là bộ phận đảng viên nắm giữ
những vị trí quan trọng nhất trong hệ thống chính trị phường, nếu được quản lý tốt, năng
lực, phẩm chất, phong cách làm việc của đảng viên là cán bộ, công chức phường được giữ
vững và nâng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thì không chỉ góp phần quan trọng thực hiện
nhiệm vụ quản lý đội ngũ đảng viên trong phường mà còn nâng cao vai trò, uy tín của tổ
chức đảng ở phường.
- Quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường giúp bảo vệ, phòng ngừa, ngăn
chặn những tác động tiêu cực đối với bộ phận đảng viên có chức quyền ở phường, tạo
điều kiện thúc đẩy sự rèn luyện, vươn lên của bản thân những đảng viên này.
Đảng viên là cán bộ, công chức phường là những đảng viên có chức, quyền nên có
nhiều cám dỗ và chịu sự tác động, lôi kéo của không ít nhân tố tiêu cực. Quản lý đảng viên
là cán bộ, công chức phường chặt chẽ, đúng nguyên tắc sẽ kịp thời phát hiện những hạn
chế, yếu kém, vi phạm khuyết điểm của đảng viên, những tác động tiêu cực, bất lợi để có
kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục hoặc xử lý kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng đảng
viên, bảo vệ nội bộ Đảng.
- Quản lý đội ngũ đảng viên góp phần quan trọng vào quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức phường, xây dựng chính quyền và các đoàn thể trong hệ thống chính trị
phường trong sạch, vững mạnh.
Đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là những người hoạt
động trong các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, chất lượng
của bộ phận đảng viên này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các tổ chức đó. Chất
lượng hoạt động và học tập, rèn luyện của đội ngũ đảng viên có ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng bộ phường, chính quyền cũng như các tổ chức chính
trị - xã hội. Quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội chặt chẽ
góp phần quan trọng vào việc xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh.
Chương 2
QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
2.1. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI (TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY)
2.1.1. Ưu điểm
2.1.1.1. Cấp ủy, chi bộ và đảng viên ở các đảng bộ phường của thành phố Hà
Nội đã quán triệt và tổ chức thực hiện khá tốt quy định của đảng về quản lý đảng viên
là cán bộ, công chức phường
Việc triển khai quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở các đảng bộ
phường của thành phố Hà Nội những năm qua có những ưu điểm sau:
Trên cơ sở nội dung Quy định số 14-QĐ/TW ngày 16/11/2001 của Bộ Chính trị
(khóa IX) và Quy định số 23-QĐ/TW ngày 31/10/2005 của Bộ Chính trị (khóa X) “Thi
hành Điều lệ Đảng”; Hướng dẫn số 04-HD/BTCTW ngày 05/02/2002 và Hướng dẫn 03-
BTCTW ngày 29/12/2006 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn một số vấn đề cụ thể
về thi hành Điều lệ Đảng; các đảng ủy phường, chi ủy đã tổ chức quán triệt tốt các Quy
định, Hướng dẫn của Trung ương cho đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức trong toàn
đảng bộ, nắm vững phương hướng, yêu cầu, nguyên tắc quản lý đảng viên, những đặc
điểm, thực trạng của đối tượng quản lý và cụ thể hóa thành các quy định cụ thể; đồng
thời, công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường được lồng ghép trong các
nghị quyết hàng tháng và được cụ thể hóa thành những yêu cầu chỉ tiêu cụ thể đối với các
chi bộ và đảng viên là cán bộ, công chức phường. Trên cơ sở các nghị quyết, quy định,
hướng dẫn của Trung ương, các đảng ủy phường đã xác định kế hoạch quản lý đội ngũ
đảng viên là cán bộ, công chức phường thuộc quyền, với mục địch, yêu cầu, nội dung,
hình thức, biện pháp quản lý cụ thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp các cấp ủy, các chi
bộ cùng tham gia hoạt động quản lý, từng bước khắc phục sự buông lỏng, chồng chéo,
thiếu thống nhất trong công tác quản lý. Việc làm đó, có tác dụng thiết thực giúp các cấp
ủy, chi bộ đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và biện pháp để quản lý tốt đội
ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường. Theo phân cấp quản lý đảng viên, Ban
Thường vụ đảng ủy phường chỉ đạo các chi bộ nắm chắc, hiểu rõ đảng viên là cán bộ, công
chức phường của chi bộ mình về lịch sử chính trị, phẩm chất năng lực, phân công nhiệm vụ
cho đảng viên rõ ràng, quy định hàng tháng, hàng quý đảng viên là cán bộ, công chức phường
phải báo cáo trước chi bộ về tình hình và sinh hoạt của mình.
Các đảng ủy phường luôn đi sâu đi sát cơ sở để nắm tình hình sinh hoạt của đảng
viên là cán bộ, công chức phường. Hàng năm, trong hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm về
công tác xây dựng đảng, nội dung quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng đảng viên,
trong đó có đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức luôn được các cấp ủy, chi bộ rất quan
tâm. Các cấp ủy, chi bộ đã thực hiên tốt việc lấy ý kiến đóng góp của quần chúng đối với
đảng viên, theo dõi việc thực hiện tự phê bình và phê bình, đánh giá phân loại đảng viên
là cán bộ, công chức phường hàng năm.
Những hoạt động cơ bản trên đã thể hiện sự nhận thức, trách nhiệm cao của các
đảng bộ phường trong thành phố Hà Nội, trong công tác quản lý đảng viên nói chung và
quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng.
2.1.1.2. Về thực hiện nội dung quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường
Cấp ủy, chi bộ đã bám sát nội dung quản lý đảng viên theo quy định, hướng dẫn
của Trung ương và của cấp ủy cấp trên và chú ý những nét đặc thù đối với đội ngũ đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
- Quản lý về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được coi trọng
Các cấp ủy, chi bộ ở các phường ở thành phố Hà Nội thường xuyên nắm bắt diễn
biến tư tưởng của từng đảng viên là cán bộ, công chức phường. Đối với đảng viên có biểu
hiện vi phạm về đạo đức, lối sống, chi bộ nhắc nhở và yêu cầu viết tường trình thông qua
sinh hoạt thường kỳ của chi bộ. Được các cấp ủy thường xuyên giáo dục, phần lớn đảng
viên là cán bộ, công chức ở các đảng bộ phường của thành phố Hà Nội có lập trường tư
tưởng vững vàng, tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, ủng hộ và quyết tâm thực
hiện đường lối đổi mới, có ý thức cảnh giác trước âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa
bình”. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong cuộc sống và công tác nhưng phần đông đảng
viên là cán bộ, công chức phường vẫn vững vàng một lòng theo Đảng, xác định rõ việc
công, việc tư, không để các phần tử xấu lôi kéo, lợi dụng. Do vậy, 78,5% ý kiến được hỏi
đã đánh giá việc quản lý về tư tưởng chính trị của đảng viên là cán bộ, công chức phường
thực hiện tốt.
Được tổ chức đảng giáo dục, rèn luyện và sự tu dưỡng của bản thân, phần đông
đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội ý thức được trách nhiệm
của người đảng viên, luôn chú ý giữ gìn đạo đức, lối sống trong sáng đạt 61%. Nhiều
đảng viên là cán bộ, công chức phường nêu cao tinh thần gương mẫu, nhân ái, đức tính
trung thực, công minh, tinh thần hăng say lao động, công tác; nghiêm khắc giữ mình
tránh khỏi những cám dỗ của quyền lực, tiền bạc, tửu sắc; rèn luyện cho mình lối sống
giản dị, khiêm tốn, trong sạch, lành mạnh, gần gũi, tôn trọng quần chúng, được quần
chúng quý trọng, tin tưởng.
- Quản lý hoạt động của đảng viên là cán bộ, công chức phường khá chặt chẽ.
Quán triệt Hướng dẫn số 04-HD/BTCTW ngày 16/11/2001 và Hướng dẫn số 03-
HD/BTCTW ngày 29/12/2006 của Ban Tổ chức Trung ương về “Một số vấn đề cụ thể thi
hành Điều lệ Đảng” cấp ủy, chi bộ đã đưa vào nghị quyết hàng năm và kế hoạch thực
hiện nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và xây dựng đảng bộ trong sạch, vững
mạnh. Hằng năm, các đảng viên trong chi bộ đều phải đăng ký mức độ hoàn thành nhiệm
vụ và nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Chi bộ cơ quan
phường thường xuyên theo dõi, kiểm tra giúp đỡ đảng viên được phân công công tác gặp
khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ. Đối với những đảng viên khó khăn về đời sống, chi bộ
kịp thời động viên giúp đỡ về vốn từ các chương trình, dự án để phát triển kinh tế gia
đình, cải thiện đời sống. Trong các cuộc sinh hoạt chi bộ hàng tháng, đảng viên phải báo
cáo trước chi bộ kết quả thực hiện nhiệm vụ tháng qua và đề ra kế hoạch tháng tới để cấp
ủy, chi bộ nhận xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
Việc phân công công tác cho đảng viên là nội dung quan trọng làm cơ sở cho việc
kiểm điểm tự phê bình và phê bình, phân tích chất lượng đảng viên cuối năm. Qua thực
hiện nhiệm vụ phân công, nhìn chung số đông đảng viên là cán bộ, công chức phường
của thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt nhiệm vụ, xác định được vai trò, trách nhiệm của
mình, có uy tín trong nhân dân.
- Quản lý về quan hệ xã hội của đảng viên là cán bộ, công chức phường được
quan tâm hơn. Các cấp ủy, chi bộ thường xuyên nhắc nhở đảng viên trong chi bộ nêu cao
tính tiên phong, gương mẫu, rèn luyện về phẩm chất đạo đức và lối sống, thực hiện đúng
những quy định của Đảng đối với đảng viên. Khi phát hiện đảng viên có quan hệ xã hội
không lành mạnh, nhiều cấp ủy gặp gỡ, phân tích cho đảng viên thấy rõ để có phương
hướng sửa chữa kịp thời. Trong sinh hoạt chi bộ hằng tháng, nhiều chi bộ yêu cầu đảng
viên là cán bộ, công chức phường báo cáo cho chi bộ biết mối quan hệ xã hội của mình,
nhất là quan hệ với người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài về thăm quê hương và
quan hệ với các chức sắc tôn giáo. Do quản lý về sinh hoạt và quan hệ xã hội của đảng
viên là cán bộ, công chức phường khá tốt nên số đảng viên là cán bộ, công chức phường
vi phạm kỷ luật rất ít.
- Quản lý hồ sơ và thẻ đảng viên là cán bộ, công chức đã có nhiều tiến bộ.
Trong những năm qua, Đảng ủy các phường của thành phố Hà Nội và cán bộ làm
công tác tổ chức Đảng ở các phường đã làm tốt công tác lưu trữ, bảo quản hồ sơ đảng
viên nói chung và đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng, không để
thất lạc, từng bước thực hiện quản lý thông tin cá nhân đảng viên trên máy vi tính. Hàng
năm, việc bổ sung hồ sơ đảng viên theo quy định, kịp thời với ý thức trách nhiệm và
mang tính chủ động cao nên hồ sơ đảng viên được quản lý chặt chẽ, giúp cho cấp ủy cấp
trên nắm chắc và có hệ thống về lý lịch, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống
của từng đảng viên là cán bộ, công chức phường. Trước mỗi kỳ đại hội đảng bộ phường
và đại hội chi bộ, đảng ủy phường cùng với Ban Tổ chức quận ủy rà soát hồ sơ những
đảng viên là cán bộ, công chức dự kiến bầu vào cấp ủy, nếu thấy có nghi ngờ về lịch sử
chính trị thì cấp ủy tổ chức thẩm tra, xác minh làm rõ, kiên quyết không để những đảng
viên còn “nghi ngờ” tham gia cấp ủy. Thời gian qua, những đảng viên là cán bộ, công
chức được tín nhiệm bầu vào cấp ủy đều là những đảng viên có lý lịch rõ ràng, có năng
lực và phẩm chất đạo đức tốt, được nhân dân tín nhiệm.
Cấp ủy và chi bộ đã thực hiện khá tốt chế độ kiểm tra thẻ đảng viên hằng năm,
theo dõi chặt chẽ quá trình sử dung thẻ và bảo quản thẻ của từng đảng viên. Trong các
Đại hội Đảng như: Đại hội chi bộ, Đại hội đảng bộ, Hội nghị tổng kết công tác đảng hằng
năm đều dùng thẻ để biểu quyết các vấn đề về chủ trương, nghị quyết của Đại hội. Thông
qua đó, cấp ủy đã giáo dục tính đảng, tính kỷ luật cho đội ngũ đảng viên nói chung và
đảng viên là cán bộ, công chức nói riêng để mỗi người đề cao ý thức trong việc sử dụng
thẻ đảng viên đúng quy định và giữ gìn, bảo quản tốt, không để mất mát, hư hỏng.
2.1.1.3. Về phương thức quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội
Về quản lý thông qua thực hiện nhiệm vụ đảng viên: các chi bộ cơ quan phường
đều coi trọng quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường thông qua thực hiện nhiệm
vụ đảng viên. Việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên là cán bộ, công chức phường đó
cú sự chuyển biến đáng kể. Ngoài nhiệm vụ công tác chuyên môn, phần lớn đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội có nhiệm vụ được giao với tư cách là
đảng viên, như phõn cụng theo dừi địa bàn dân cư, nhóm hộ, phong trào, chuyên đề .v.v...
Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đã thật sự là một cơ sở quan trọng để nắm bắt
năng lực, phẩm chất của đảng viên.
Về quản lý thông qua sinh hoạt chi bộ: Các cấp ủy, chi bộ cơ quan phường đã cố
gắng duy trì và thực hiện nghiêm công tác quản lý đảng viên theo phân cấp; duy trì sinh
hoạt chi bộ có nền nếp để phân công, giao nhiệm vụ cho các đồng chí trong cấp ủy quản
lý, kiểm tra, giám sát bộ phận đảng viên là cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của
chi bộ.
Thông qua sinh hoạt chi bộ hàng tháng, các đợt tự phê bỡnh và phờ bỡnh, cỏc đợt
học tập nghị quyết đó quản lý và đánh giá đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội tương đối chặt chẽ về chấp hành chế độ sinh hoạt đảng, thái độ học tập, nhận
thức, tư tưởng chính trị và mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Các chi bộ cơ quan phường đó
triển khai nhiều biện phỏp để thực hiện quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường
trong sinh hoạt chi bộ như: thực hiện chế độ báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ, chế độ tự
phê bình và phê bình định kỳ, sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm ...
- Về quản lý đảng viên thông qua phong trào cách mạng của quần chúng ở địa
phương. Quần chúng nhân dân có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng đảng
và công tác quản lý đảng viên. Qua điều tra, 79% ý kiến được hỏi đánh giá cấp ủy và
chi bộ đã coi trọng hình thức này trong công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công
chức phường. Đảng ủy các phường thường xuyên phân công đảng ủy viên tham gia
sinh hoạt cùng các chi bộ hàng tháng để nắm bắt tình hình lãnh đạo của chi bộ và
trách nhiệm của đảng viên; Ban thường vụ đảng ủy phường thường xuyên xuống
các địa bàn dân cư để nắm bắt và lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân về đảng
viên trong đảng bộ nói chung và đảng viên là cán bộ, công chức nói riêng. Các cấp
ủy kịp thời giải quyết khiếu nại của nhân dân có liên quan đến đảng viên theo thẩm
quyền nên đã tạo được lòng tin của nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và phê bình đảng viên.
- Về phối hợp với chi bộ nơi cư trú trong công tác quản lý đảng viên: Các cấp ủy
luôn nhắc nhở đảng viên thực hiện nghiêm túc Quy định số 76-QĐ/TW và Hướng dẫn số
23-HD/TCTW ngày 14 tháng 10 năm 2003 của Ban Tổ chức Trung ương “Về thực hiện
quy định 76-QĐ/TW”. Sự phối hợp giữa tổ chức đảng nơi đảng viên công tác và tổ chức
đảng nơi đảng viên đang cư trú trong công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường đã góp phần củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, khắc phục biểu hiện
sống xa dân, thiếu trách nhiệm với địa phương nơi cư trú; tạo ra tính tự giác, gương mẫu
trong việc chấp hành những chủ trương, quy định của Đảng và chính quyền địa phương,
nâng cao uy tín của họ với nhân dân. Đồng thời, việc phối hợp quản lý trong quản lý
đảng viên là cán bộ, công chức phường giúp cho các cấp ủy nắm chắc và đánh giá đúng
các mối quan hệ xã hội và hoàn cảnh gia đình để kịp thời giúp đỡ, động viên họ phấn đấu
vươn lên làm tròn nhiệm vụ của một người đảng viên.
- Về quản lý thông qua kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và nhân dân. Nhận
thức đúng vai trò của kiểm tra, giám sát trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường , cấp ủy và chi bộ thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với
đảng viên nói chung và đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng theo quy định,
trong đó, coi trọng kiểm tra giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tinh
thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật. Các chi bộ tập trung kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nghị quyết của chi bộ của cấp trên, thực hiện nhiệm vụ do chi bộ phân công và theo
nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên; việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và mối quan hệ
với tổ chức đảng nơi cư trú.
Qua kiểm tra, giám sát cấp ủy và chi bộ đã sâu sát từng đảng viên, nắm bắt toàn bộ
các hoạt động như: trình độ năng lực, tình hình chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, các
mối quan hệ của đảng viên, từ đó giáo dục, rèn luyên, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách
mạng cho đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường để họ đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ hiện nay.
Cấp uỷ, chi bộ đã tăng cường tổ chức cho nhân dân phường tham gia giám sát,
quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường thông qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, tổ chức nghiêm túc việc chi bộ giao nhiệm vụ và kiểm tra, giám sát đảng viên thực
hiện nhiệm vụ, thực hiện thành nề nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong đội ngũ đảng
viên là cán bộ, công chức phường. Qua kiểm tra, giám sát, cấp uỷ, chi bộ có thêm thông
tin về quá trình hoạt động của đảng viên là cán bộ, công chức, kịp thời chấn chỉnh, uốn
nắn những hạn chế lệch lạc.
Một số cấp ủy đó thụng qua cỏc tổ chức quần chỳng và nắm dư luận trong nhân
dân kịp thời phát hiện những biểu hiện bất thường của đảng viên trong quan hệ xó hội,
sinh hoạt của bản thõn và gia đỡnh để có biện pháp giáo dục, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời.
- Quản lý đảng viên thông qua công tác quản lý hồ sơ cũng được chú trọng. Hàng
năm các chi bộ cơ quan phường đã tổ chức nghiêm túc việc bổ sung lý lịch đối với đảng
viên là cán bộ, công chức phường, thông qua đó nắm chắc các thay đổi lớn của đảng viên.
- Quản lý đảng viên bằng sự phối hợp với quản lý cán bộ của chính quyền, đoàn
thể. Các chi bộ cơ quan phường đã thực hiện sự phối hợp khá chặt chẽ với người phụ
trách các ban, ngành của chính quyền, đoàn thể trong phường để theo dừi, quản lý, đánh
giá đảng viên thực hiện nhiệm vụ được phân công, sử dụng kết quả đánh giá chuyên môn
làm một tiêu chí quan trọng để đánh giá đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội.
Cùng với sự quản lý đảng viên của các cấp ủy, chi bộ trong thời gian qua, công tác
quản lý đảng viên ở các đảng bộ phường của thành phố Hà Nội luôn có sự tham gia tích
cực của các tổ chức, các lực lượng. Ban Tổ chức quận ủy đã làm tốt công tác tham mưu
cho các quận ủy Hà Nội trong việc hướng dẫn nghiệp vụ quản lý đảng viên cho các
phường. Đồng thời, Ban Tổ chức quận ủy thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, giúp đỡ
đảng ủy các phường kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ công tác đảng
viên; nắm vững số lượng, chất lượng, cơ cấu; đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng cùng tham gia quản lý đảng viên là cán bộ, công chức.
- Đã coi trọng việc phát huy vai trò tự quản lý của đảng viên. Qua điều tra, 63% ý
kiến được hỏi cho rằng trong những năm qua, các đảng bộ phường của thành phố Hà Nội
kết hợp tốt sự quản lý của các cấp ủy, chi bộ với sự tự quản lý của mỗi đảng viên . Các cấp
ủy, chi bộ đã tăng cường giáo dục đảng viên là cán bộ, công chức phường ở các đảng bộ
phường, đề cao vai trò, trách nhiệm trong tự tu dưỡng, rèn luyện và tự quản lý; đồng thời, tạo
mọi điều kiện cho đảng viên học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, phân công các đồng chí
trong cấp ủy kèm cặp, theo dõi, giúp đỡ. Những đảng viên khi xếp loại cuối năm chỉ đạt ở
mức đảng viên đủ tư cách có mặt hạn chế hoặc đảng viên vi phạm tư cách, cấp ủy, chi bộ
định rõ thời gian để đảng viên khắc phục, phấn đấu tiến bộ. Từng đảng viên đã đề cao vai trò
tự quản lý, kết hợp tốt quá trình tự rèn luyện với tự phê bình. Vì vậy, đại đa số đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở các đảng bộ phường của thành phố Hà Nội có ý thức, trách
nhiệm, gương mẫu trong tự quản lý.
Kết quả tự quản lý của đảng viên là cán bộ, công chức phường ở các đảng bộ
phường của Hà Nội được thể hiện qua việc chấp hành tốt chủ trương, đường lối và những
quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; qua phân loại đảng viên cuối
năm.
2.1.2. Những khuyết điểm
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công
chức ở các đảng bộ phường của thành phố Hà Nội còn bộc lộ những hạn chế sau:
2.1.2.1. Lãnh đạo và tổ chức thực hiện chưa thống nhất, chưa phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng tham gia quản lý
Quản lý đảng viên là quản lý con người nên rất khó khăn, phức tạp, tế nhị, liên
quan đến nhiều mặt của công tác đảng viên phải tiến hành đồng bộ, lâu dài, khó đánh giá
ngay được. Công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà
Nội còn khó khăn hơn. Thời gian qua, công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường của thành phố Hà Nội còn lỏng lẻo, trong công tác quản lý đảng viên đã phát sinh
nhiều vấn đề bức xúc mà cấp quận và cấp phường không thể giải quyết được như: sự
thiếu thống nhất trong quy định quản lý đảng viên là cán bộ, công chức; việc hỗ trợ, bảo
vệ đảng viên là cán bộ, công chức phường trước khó khăn do sự “tấn công” của tiêu cực,
cám dỗ; sức ép của gia đình...
Sự lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng tham gia vào công tác quản lý
đảng viên nói chung và quản lý đảng viên là cán bộ, công chức nói riêng chưa chặt
chẽ, sự phối hợp giữa tổ chức đảng với các tổ chức chính trị xã hội nơi có đảng viên
đang công tác tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ đảng viên, chưa phát huy
tốt sức mạnh tổng hợp để quản lý tốt đảng viên. Có chi bộ chưa quan tâm đến quản lý
đảng viên là cán bộ, công chức, coi đó là trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu.
Có đảng bộ phường chỉ tập trung vào lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phấn
đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao, ít quan tâm đến nhiệm vụ quản lý đảng viên là cán
bộ, công chức phường. Một bộ phận cán bộ đảng viên có mặt sa sút về đạo đức, lối
sống nhưng cấp ủy đảng đấu tranh xây dựng chưa kịp thời. Kết quả điều tra xã hội học
cho thấy 79% số người được hỏi cho rằng chấp hành chế độ quản lý, giáo dục, rèn
luyện đảng viên là cán bộ, công chức ở các đảng bộ phường chưa tốt.
2.1.2.2. Về nội dung quản lý
Vẫn còn tình trạng quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường chủ yếu về mặt
hành chính, không nắm bắt được diễn biến tư tưởng của đảng viên, không biết hết mối
quan hệ xã hội và sinh hoạt của đảng viên, nhất là ngoài giờ làm việc và tham gia sinh
hoạt tôn giáo. Trong quá trình đảng viên thực hiện nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ khó khăn
cần được chỉ đạo, giúp đỡ kịp thời của cấp ủy, chi bộ, nhưng cấp ủy chưa thực sự quan
tâm, động viên, giúp đỡ. Sinh hoạt cá nhân, sức khỏe của đảng viên ít được quan tâm,
cho đây là việc riêng tư không cần quản lý. Do đó, quá trình phân loại, đánh giá đảng
viên thường không sát. Tỷ lệ đảng viên xuất sắc, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ ở các
đảng bộ phường thường đạt tỷ lệ cao, có đảng bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm liền,
nhưng qua kiểm tra, thanh tra có đảng viên mắc nhiều sai phạm mà chi bộ không phát
hiện được.
Công tác quản lý hồ sơ còn bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Một vài cấp ủy,
quản lý hồ sơ đảng viên chưa tốt, chưa khoa học, bổ sung hồ sơ, lý lịch đảng viên hàng
năm chưa kịp thời. Một số mẫu biểu thống kê đảng viên thiếu thống nhất giữa các
phường trong thành phố và không theo quy định của cấp trên; xây dựng cơ sở dữ liệu về
đảng viên còn chậm, nhất là bổ sung về trình độ văn hóa, chính trị của đảng viên. Cơ sở
vật chất phục vụ cho công tác quản lý đảng viên còn thô sơ, chưa đạt yêu cầu; công tác
lưu trữ, quản lý hồ sơ đảng viên chưa được các cấp ủy quan tâm, tin học hóa còn chậm,
chưa có biện pháp hữu hiệu chống mất cắp, cháy nổ, mối mọt.
2.1.2.3. Về phương thức quản lý
Còn không ít nơi chưa thực hiện tốt việc đồng bộ các biện pháp quản lý. Nội
dung, phương thức, biện pháp quản lý đảng viên ở một số cấp ủy còn hạn chế, kết quả chưa
cao, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp trong quản lý đảng viên nói chung và quản lý
đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng;
Thực hiện các phương thức, biện pháp thiếu linh hoạt, thiếu sáng tạo và còn máy
móc, còn có biểu hiện nặng về phương thức này xem nhẹ phương thức khác. Qua tìm
hiểu một số chi bộ trực thuộc đảng ủy phường, việc quản lý đảng viên là cán bộ, công
chức phường chủ yếu thông qua nhiệm vụ được phân công, ít đi sâu vào nội dung của
công tác quản lý đảng viên.
Trong sinh hoạt chi bộ, việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, phê bình đối
với đảng viên còn mang tính hình thức, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, chỉ nêu ưu
điểm, thành tích, chưa chỉ ra khuyết điểm của đảng viên cần phải sửa chữa.
Việc phối hợp với các tổ chức và tổ chức để quần chúng tham gia giám sát, quản
lý đảng viên ở nhiều nơi chưa được quan tâm thực hiện nghiêm túc, còn mang tính hình
thức, cách làm chiếu lệ. Qua điều tra xã hội học: số làm tốt mới 78,5%, số trung bình đến
21,5%.
Chưa chú trọng đúng mức việc phát huy vai trò của từng đảng viên là cán bộ, công
chức phường trong tự quản lý, tự giáo dục, tu dưỡng và tự rèn luyện. Bên cạnh một số cấp
ủy, chi bộ chú trọng đến việc nâng cao ý thức tự giác, tu dưỡng và tự rèn luyện của
đảng viên, vẫn còn một vài cấp ủy, chi bộ và đảng viên chưa nhận thức đúng về vấn
đề này, coi công tác quản lý đảng viên nói chung và quản lý đảng viên là cán bộ, công
chức phường nói riêng là trách nhiệm của tổ chức. Kết quả điều tra xã hội học cho
thấy có đến 22% ý kiến được hỏi cho rằng, vai trò tự quản lý của đảng viên phát huy
chưa tốt.
Việc phối hợp quản lý giữa tổ chức đảng nơi đảng viên đang công tác với tổ chức
đảng nơi đảng viên cư trú chưa chặt chẽ. Tuy một số đảng viên đang công tác ở các cơ
quan được cấp ủy giới thiệu về sinh hoạt ở nơi cư trú nhưng chi bộ nơi cư trú không mời
họp; có chi bộ nơi cư trú một năm chỉ mời họp một lần vào cuối năm. Do đó, việc nhận
xét quá trình sinh hoạt, lối sống và việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương đối với đảng viên
nơi cư trú để làm cơ sở cho việc xem xét tư cách đảng viên cuối năm ở một số chi bộ còn
mang tính chủ quan, tùy tiện, một số trường hợp nhận xét thiếu chính xác.
Dựa vào quần chúng để quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường chưa tốt.
Một số cấp ủy chi bộ chưa sâu sát nhân dân, chưa nghiêm túc lắng nghe ý kiến của nhân
dân phản ánh về tình hình đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống; nhiều cấp ủy chưa chủ
động tổ chức cho đảng viên tự phê bình trước nhân dân theo quy định; việc lấy ý kiến
nhân dân và tiến hành tự phê bình của đảng viên trước nhân dân đôi lúc còn có biểu hiện
hình thức, chiếu lệ nên hiệu quả chưa cao.
Việc tự quản lý của một bộ phận đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội chưa nghiêm túc, chưa chủ động tự quản lý, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
và năng lực. Bên cạnh những đảng viên là cán bộ, công chức phường ở Thành phố Hà
Nội phát huy vai trò tiên phong gương mẫu, nêu cao ý thức trách nhiệm, khắc phục khó
khăn vươn lên để tự hoàn thiện mình, thực hiện đúng các quy định của Đảng, vẫn còn
một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của việc tự quản lý, chưa
chủ động tự quản lý, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ
2.2. nguyên nhân và kinh nghiệm
2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
- Nhận thức của các cấp ủy về quản lý đảng viên là cán bộ, công chức đã được
nâng lên. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất quyết định đến chất lượng, hiệu quả của
công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội
Những năm qua, các cấp ủy đã “nắm chắc và vận dụng cụ thể hóa các chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện, tình
hình thực tế; nắm vững nhiệm vụ chính trị trọng tâm và cơ bản đã xác định được nội
dung, phương thức, biện pháp quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường phù hợp.
- Do sự phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và tự giác đặt mình trong sự quản lý của tổ
chức của từng đảng viên là cán bộ, công chức. Đây là nguyên nhân trực tiếp góp phần
quyết định hiệu quả quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của các đảng bộ
phường ở thành phố Hà Nội.
Mỗi đảng viên vừa là đối tượng quản lý của tổ chức vừa phải phấn đấu, tu dưỡng,
rèn luyện bản thân, tự quản lý mình. Cùng với quá trình giáo dục nâng cao ý thức, trách
nhiệm tự quản lý của cấp ủy, chi bộ, mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường đã từng
bước nâng cao nhận thức trách nhiệm chính trị trong tự quản lý. Đây là nguyên nhân trực
tiếp, quyết định đến chất lượng quản lý đảng viên nói chung, quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường nói riêng. Bởi vì, sự quản lý chặt chẽ của tổ chức dù có chặt chẽ đến
đâu cũng không thể quản lý được mọi hoạt động của đảng viên, nhất là diễn biến tư
tưởng của đảng viên.
- Sự phối hợp tích cực giữa các tổ chức các lực lượng tạo nên sức mạnh tổng hợp
trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Thành ủy Hà Nội mà thường xuyên là của các cấp ủy, chi bộ ở các phường nên đã phát
huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị của địa phương, trong đó có nhiệm vụ quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường. Các tổ chức đảng, các tổ chức đoàn thể quần chúng theo chức năng, nhiệm vụ
của mình đã tích cực tham gia quản lý giám sát đội ngũ đảng viên bằng nhiều hình thức,
biện pháp. Những việc làm đã gắn chặt sự quản lý của tổ chức với sự tự quản lý của
đảng viên, tạo điều kiện để từng đảng viên thấy được ưu điểm, khuyết điểm của mình, có
phương hướng sửa chữa và từng bước tự hoàn thiện mình.
- Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, những kết quả trong phát triển kinh
tế, xã hội ở địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý đảng viên. Kinh tế, xã hội
phát triển đã tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, lực lượng cho tất cả các mặt công
tác quản lý đảng viên; động viên, tạo điều kiện cho đảng viên hăng hái tham gia các mặt
công tác đảng viên; tăng tính thuyết phục, hiệu quả của công tác giáo dục, rèn luyện đảng
viên; làm tăng uy tín của Đảng, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh công tác đảng viên nói
chung, quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng.
* Nguyên nhân khuyết điểm
- Về nhận thức, một số cấp ủy, chi bộ nhận thức về vị trí, vai trò của công tác quản
lý đảng viên là cán bộ, công chức chưa cao; trong quá trình tổ chức thực hiện chưa chủ
động, chưa tích cực. Việc nghiên cứu, quán triệt, vận dụng các quy định, hướng dẫn của
Đảng về quản lý đảng viên ở một số cấp ủy, chi bộ chưa sâu sắc, chưa chú trọng nhiều
đến quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường; nghị quyết lãnh đạo và nội dung sinh
hoạt chi bộ đôi lúc chưa quan tâm đến vấn đề quản lý đảng viên nói chung và bộ phận
đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng, còn có một số cấp ủy, chi bộ có biểu
hiện buông lỏng sự quản lý đảng viên.
- Trình độ, năng lực của cấp ủy phường, chi bộ còn hạn chế là một nguyên nhân
quan trọng dẫn đến hạn chế trong công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường của thành phố Hà Nội. Theo kết quả điều tra xã hội học, có 81% số người được
hỏi cho rằng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng hạn chế là yếu tố tác
động tiêu cực đến việc tăng cường công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường của thành phố Hà Nội thời gian qua. Điều đó được thể hiện: một mặt, một số cấp
ủy, chi bộ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, tầm quan trọng của công tác quản lý đảng
viên; chưa thật sự nắm vững đặc điểm, chất lượng của từng đảng viên là cán bộ, công
chức phường; chưa xác định phương hướng, nội dung, phương thức, biện pháp quản lý
cho phù hợp; mặt khác, trong tổ chức thực hiện, công tác quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường còn lúng túng, thiếu nhạy bén.
- Sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và các tiêu cực, tệ nạn xã hội. Trong
những năm qua, đất nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát triển mạnh nhưng vẫn còn nhiều
vấn đề bức xúc cần giải quyết: cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả sản xuất
chưa cao, thiếu việc làm, mức sống của nhân dân và cán bộ đảng viên nhìn chung còn
thấp. Do đó, việc đầu tư cho xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, đoàn thể còn rất
hạn chế, công tác giáo dục, rèn luyện, phát triển và bồi dưỡng đảng viên là cán bộ,
công chức phường chưa được làm thường xuyên do thiếu kinh phí. Bên cạnh đó, những
tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, các tiêu cực, tệ nạn xã hội đang có chiều
hướng gia tăng. Những yếu tố trên ở mức độ khác nhau, nhưng tác động đến nhận thức,
tình cảm lòng tin của đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung và bộ phận đảng viên là cán bộ,
công chức phường nói riêng.
Đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, có những mặt tích cực như: tiếp thu
khoa học công nghệ của nhân loại cho xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, tư tưởng, văn
hóa, đạo đức lối sống phương Tây đang thâm nhập vào xã hội ta. Các mối quan hệ xã hội
của đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội cũng rộng hơn, đa
dạng hơn và khó kiểm soát hơn. Đây là nguyên nhân khách quan của những hạn chế,
khuyết điểm về công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường của thành phố Hà
Nội trong thời gian qua.
- Chưa phát huy tốt vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và quần chúng
ở cơ sở tham gia xây dựng đảng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến công
tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội còn thiếu
chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Đã có 81% ý được hỏi trả lời: quần chúng nhân nhân
chưa tích cực tham gia xây dựng đảng. Không ít cấp ủy và chi bộ cho rằng công tác
xây dựng Đảng là công việc thuần túy của nội bộ Đảng, không biết phát huy vai trò
của hệ thống chính trị, không biết “dựa vào dân” để xây dựng Đảng, chưa thực hiện
tốt việc lấy ý kiến đóng góp, phê bình của quần chúng và các tổ chức trong hệ thống
chính trị đối với đảng viên.
Những nguyên nhân của khuyết điểm nêu trên tác động với mức độ khác nhau,
song đã làm ảnh hưởng đến chất lượng quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường
của thành phố Hà Nội.
2.2.2. Kinh nghiệm
Từ thực tế những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức ở đảng bộ phường, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, việc nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường phải gắn với các mặt của công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền địa
phương, và cần phải có sự quan tâm chỉ đạo và kiểm tra thường xuyên của cấp uỷ cấp
trên. Để nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường
phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và chỉnh đốn đảng, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng nói chung, đảng bộ phường nói riêng. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, coi trọng công tác kiểm tra, đề cao kỷ luật đảng, giữ vững nguyên
tắc lãnh đạo đảm bảo sự đoàn kết nhất trí.
Công tác đảng viên là công tác xây dựng con người nên rất phức tạp, phải kiên trì,
khéo léo, lâu dài, đòi hỏi sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của cấp uỷ cấp trên,
thiếu đi sự quan tâm này các cấp uỷ cơ sở dễ buông lỏng, coi nhẹ công tác đảng viên.
Hai là, các cấp uỷ đảng cần cụ thể hoá các văn bản quy định của Trung ương,
hướng dẫn của Thành uỷ, quận uỷ về quản lý đảng viên vào tình hình thực tiễn của
phường một cách sát hợp. Có quy định cụ thể, tổ chức đảng mới có cơ sở để xác định nội
dung quản lý và tiến hành quản lý đảng viên và bản thân đảng viên mới có cơ sở để tự rèn
luyện, quản lý mình.
Ba là, đề cao trách nhiệm quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của chi
bộ cơ quan phường , hàng năm chi bộ cơ quan phường phải xác định rõ chủ trương, mục
tiêu, yêu cầu, kế hoạch quản lý đảng viên. Là chi bộ trực tiếp quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội, các chi bộ cơ quan phường phải chủ động và chịu
trách nhiệm trực tiếp quản lý bộ phận đảng viên này bằng kế hoạch cụ thể, tránh cách làm
tùy tiện được đâu hay đấy. Cuối năm, phải tổ chức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế
hoạch quản lý đảng viên.
Bốn là, Nêu cao vai trò gương mẫu của các cấp uỷ viên, của các ủy viên thường
vụ, nhất là bí thư và chủ tịch phường trong chấp hành kỷ luật của Đảng, các quy định về
quản lý đảng viên. Thực tiễn cho thấy, nếu những đảng viên là cán bộ chủ chốt phường,
quận, thành phố gương mẫu, nói đi đôi với làm thì các đảng viên khác sẽ noi theo và tự
giác chấp hành các quy định về quản lý đảng viên, ngược lại, khi cán bộ chủ chốt thiếu
gương mẫu thì đảng viên khác sẽ không tự giác và dù có quy định gì cũng khó thực hiện
quản lý được đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ
TĂNG CƯỜNG QUẢN Lí ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
LÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
3.1.1. Dự báo những thuận lợi và khó khăn
Thuận lợi:
- Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ở thành
phố Hà Nội sẽ tiếp tục được đẩy mạnh và thu thêm nhiều thành tựu to lớn, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, của đội ngũ đảng viên, trong đó có đảng viên là
cán bộ, công chức phường, tạo thêm cơ sở cho đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, công
tác đảng viên, trong đó có công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở
thành phố Hà Nội.
- Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
Thủ đô tiếp tục phát triển sẽ đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong đó có bộ phận đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội, đòi hỏi phải tăng cường công tác đảng viên nói chung, công tác quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường nói riêng.
- Nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh. Đại hội X của Đảng sẽ tiếp tục đặt ra những yêu
cầu mới đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Sau Đại hội đảng bộ các
cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Thành ủy, các quận ủy và đảng ủy phường
trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ triển khai các nhiệm vụ xây dựng Đảng theo nghị
quyết Đại hội. Trong bối cảnh đó, công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội sẽ được quan tâm hơn.
- Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện ngày một hiệu quả, thiết thực hơn.
Những quy định về quần chúng giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên ở nơi cư trú đang
được hoàn thiện và đi vào cuộc sống, phát huy mạnh hơn vai trò của quần chúng nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, tạo ra môi trường tốt hơn để thực hiện quản lý đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
- Đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội sẽ ngày càng trưởng
thành về mọi mặt, ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước những đòi hỏi của
nhiệm vụ cách mạng, sẽ tích cực tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực, phẩm
chất và bản lĩnh, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý bộ phận đảng viên này .
Khó khăn:
- Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đã mang lại những thành tựu to
lớn, song quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế đang đặt ra những khó khăn rất lớn cho công tác quản lý
đảng viên nói chung và quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng.
Mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới có ảnh hưởng lớn đến
các giá trị truyền thống trong nhận thức và lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Sự phân hóa giàu nghèo làm xuất hiện cơ cấu mới về giai cấp và thành phần xã hội, có
tác động đến cơ sở giai cấp của Đảng và sự thuần nhất về tư tưởng, sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên ngày càng mở rộng trên các lĩnh
vực đời sống, có cả việc thực hiện các hình thức kinh tế xoay quanh những tính toán
được thua, lỗ lãi - đó là môi trường tốt cho những biểu hiện tiêu cực thẩm thấu làm xói
mòn bản lĩnh chính trị, tha hóa phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên, trong đó có
đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
- Một số phường ở thành phố Hà Nội mới được thành lập, đang trong quá trình đô
thị hóa mạnh mẽ, song cũng còn tồn tại nhiều tập tục của làng xã Việt Nam do một số
làng được nâng cấp lên phố nên xuất hiện nhiều những vấn đề xã hội phức tạp như tệ nạn
xã hội, ô nhiễm môi trường, vấn đề việc làm... Những vấn đề này cũng tác động tiêu cực
đến đảng viên là cán bộ, công chức phường và gây khó khăn cho công tác quản lý những
đảng viên này..
- Quản lý đảng viên là quản lý con người nên luôn luôn là vấn đề khó khăn. Hơn
nữa, đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội có nhiều hoàn cảnh sống,
công tác khác nhau, có chức, có quyền với vô vàn mối quan hệ xã hội, gia đình, hoạt
động trong môi trường đô thị lớn ngày càng phát triển, phức tạp nên công tác quản lý họ
càng khó khăn.
- Trong thời gian không ngắn sắp tới, thu nhập chính thức của đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội vẫn chưa đáp ứng cơ bản nhu cầu cuộc sống; cơ
chế chính sách vẫn còn những sơ hở, bất hợp lý; tình trạng tiêu cực, thoái hóa, tham
nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn chưa thể ngăn chặn ngay được... Những vấn đề đó sẽ tác
động tiêu cực không nhỏ đến công tác giáo dục, quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội.
Xu thế của những thuận lợi và khó khăn đối với công tác quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội nêu trên cần được tính đến trong
phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên này.
3.1.2. Phương hướng tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội
Công tác quản lý đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng góp phần
vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của các tổ chức Đảng.
Với những đặc điểm riêng của phường ở Hà Nội đặt ra cho công tác quản lý đảng
viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội phải tiếp tục tăng cường, đổi mới
phương thức quản lý để nắm vững phẩm chất chính trị, đạo dức, trình độ, năng lực và phong
cách làm việc của đảng viên là cán bộ, công chức phường, hướng tới mục tiêu xây dựng đội
ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất,
đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật; kiên định lập trường giai cấp công nhân,
phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó
khăn, thử thách, đóng góp sức mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao nói riêng và nhiệm
vụ chung của phường cũng như của Thành phố Hà Nội nói chung.
3.2. Những giải pháp chủ yếu để tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán
bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cấp uỷ và đảng viên về quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, xuyên suốt trong quá trình quản lý đảng
viên cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức
đúng là cơ sở để con người có hành động đúng, khoa học và có hiệu quả.
Trước hết, cấp ủy các cấp ở thành phố Hà Nội, nhất là quận ủy, đảng ủy phường
và chi ủy cơ quan phường cần nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải tăng cường, yêu cầu,
nội dung, phương thức quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường, làm cơ sở cho việc
chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác đảng viên và công tác quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường đến các tổ chức, các chi bộ theo yêu cầu đã được xác định. Nếu nhận
thức không đúng, không đầy đủ sẽ dẫn đến buông lỏng sự quản lý, gián tiếp tạo cơ hội
cho đảng viên thuộc quyền tha hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng.
Để nâng cao nhận thức của cấp uỷ, chi bộ và đảng viên về quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cần thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường quán triệt các quy định, hướng dẫn của Trung ương về quản lý
đảng viên nói chung, quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng. Đây là nội
dung quan trọng hàng đầu nhằm làm cho các cấp uỷ và đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội có nhận thức đúng đắn về công tác quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường ở thành phố Hà Nội.
Những quy định, hướng dẫn của Trung ương về quản lý đảng viên có vai trò rất
quan trọng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong nhận thức, quản lý và rèn luyện. Do
đó cần quán triệt để hướng tới sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động, giữa tư
tưởng và tổ chức thực hiện; hiểu rõ yêu cầu quản lý chặt chẽ đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội là tất yếu khách quan và cấp bách; đồng thời biết được
nội dung, biện pháp quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Từ nhận thức đó xác định trách nhiệm của các cấp uỷ, chi bộ trong tổ chức, thực
hiện nhiệm vụ quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường; khắc phục những nhận
thức lệch lạc hoặc không đầy đủ về công tác này ở một số cấp uỷ, đảng viên hiện nay.
Đảng uỷ các phường cần quán triệt sâu sắc quy định, hướng dẫn của đảng về quản lý
đảng viên cho đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Hai là, việc quán triệt, nâng cao nhận thức về công tác quản lý đảng viên cho cấp
uỷ, chi bộ và đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cần kết hợp
chặt chẽ với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đảng bộ, chi bộ thông qua các
hình thức sinh hoạt, lãnh đạo, học tập tư phê bình và phê bình. Cấp uỷ, chi bộ ở các đảng
bộ phường ở thành phố Hà Nội phải chấp hành nghiêm các qui định về sinh hoạt đảng và
nâng cao chất lượng về sinh hoạt đảng. Thông qua sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ để xác định
trách nhiệm của tập thể cấp uỷ, bí thư, phó bí thư, các cấp uỷ viên về công tác quản lý
đảng viên. Đồng thời, thông qua kiểm tra, giám sát tìm ra những ưu điểm để phát huy,
hạn chế, khuyết điểm để khắc phục. Trên cơ sở đó tiếp tục giáo dục, định hướng nâng cao
nhận thức về quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cho cấp
uỷ, chi bộ và cán bộ, đảng viên trong đảng bộ.
Ba là, thông qua thực tiễn hoạt động quản lý và thực hiện nhiệm vụ chính trị để
nâng cao nhận thức cho đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội
Thực tiễn hoạt động quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên và thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở phường chính là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn các chủ trương, biện pháp
quản lý. Qua đó giúp cho cấp uỷ, chi bộ, người đứng đầu các tổ chức nhận thức đúng về
phương hướng, yêu cầu quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội; đồng thời đề ra chủ trương, biện pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công
tác quản lý. Do đó, trong quá trình quản lý, cấp uỷ cần nhận thức rõ công tác quản lý
đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội phải được coi trọng và làm
chặt chẽ hơn.
Đối với đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội bên cạnh
những hình thức, biện pháp quán triệt, nâng cao nhận thức của cấp uỷ, chi bộ, cần coi
trọng việc giáo dục, thông qua phân công công tác và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của
đảng viên. Muốn vậy, thành uỷ hoặc quận uỷ cần có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về
công tác quản lý đảng viên nêu rõ vị trí, tầm quan trọng, ý nghĩa, nội dung, các biện pháp
tăng cường công tác quản lý đảng viên, phổ biến đến chi bộ để nghiên cứu, học tập. Đồng
thời các cấp uỷ phải xây dựng và hoàn thiện các qui định về chế độ quản lý đảng viên.
Những qui định quản lý đảng viên rõ ràng, cụ thể giúp cho đảng viên thấy rõ việc được
làm và không được làm đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện các qui định đó.
Bốn là, thông qua việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở
để giáo dục nâng cao nhận thức quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành
phố Hà Nội.
Kiểm tra, giám sát là khâu quan trọng trong tổ chức thực hiện, “kiểm tra là chức
năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng”. Làm tốt kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị sẽ góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể quản lý đảng viên.
Chủ thể thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trước hết là cơ quan, tổ chức, cơ
quan kiểm tra, đảng uỷ chi bộ và đảng viên. Đồng thời cũng coi trọng vai trò giám sát của
quần chúng, nhân dân đối với đảng viên là biện pháp hữu hiệu trong việc giáo dục trách
nhiệm và giữ gìn tư cách, phầm chất của người đảng viên.
Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát là: “Phải góp phần phát hiện và khắc phục
những khuyết điểm, thiếu sót mới manh nha” [22, tr.302]. Công tác kiểm tra, giám sát
bảo đảm giúp các cấp uỷ, chi bộ, người đứng đầu các tổ chức ở cơ sở thấy được mặt
mạnh và những khuyết điểm của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đồng thời
thông qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị để khẳng định cái đúng-
sai, từ đó nâng cao nhận thức cho tổ chức và đảng viên về công tác quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội.
3.2.2. Thực hiện tốt các nội dung quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội
- Tăng cường quản lý diễn biến tư tưởng:
Chúng ta đều nhận thức rõ vai trò to lớn của tư tưởng đối với từng con người nói
chung và mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường nói riêng. Tư tưởng có tác dụng
dẫn dắt hành động, nếu nhận thức đúng thì hành động sẽ đúng, ngược lại nhận thức sai
lầm sẽ đưa hành động tới những vấp váp, sai lầm. Thực tiễn cho thấy, những hành vi tiêu
cực xuất hiện trong đội ngũ đảng viên trước tiên là sự sai lầm nhận thức, thoái hóa về tư
tưởng. Chính vì thế, việc theo dõi, nắm bắt những diễn biến tư tưởng của đảng viên là cán
bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là một đòi hỏi trong công tác quản lý của các
đảng ủy phường. Trong cách nắm bát tư tưởng của đảng viên là cán bộ, công chức phường
chú ý các biện pháp sau;
- Thông qua phát ngôn, phát biểu của đảng viên tại các diễn đàn;
- Thông qua bài viết thể hiện chính kiến của đảng viên;
- Thông qua cách cư xử của đảng viên với công việc, với đồng chí, đồng nghiệp và
những người xung quanh.
- Quản lý tốt hoạt động của đảng viên là cán bộ, công chức phường
Con người biểu hiện rõ nhất trong hoạt động thực tiễn, phẩm chất, năng lực đều
phải thông qua hoạt động để nhận biết. Chính vì thế, quản lý hoạt động của đảng viên là
cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là nhiệm vụ quan trọng của các đảng ủy
phường, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Cần tăng cường theo dõi, quản lý đảng viên tại nơi công tác: mỗi đảng viên đều
tồn tại trong một tổ chức đảng nhất định và chịu sự quản lý trực tiếp của tổ chức đảng đó.
Đảng ủy các phường cần thông qua nơi công tác của đảng viên để nắm thông tin về việc
chấp hành đường lối, chính sách, pháp luật. Quản lý tại nơi công tác rất phù hợp với đảng
viên là cán bộ, công chức phường. Thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn là
căn cứ quan trọng để theo dõi đánh giá về người đảng viên.
Kiểm tra giám sát chặt chẽ những việc được làm và việc không được làm đối với
đảng viên đang là cán bộ, công chức theo Quy định số 15 như sau:
1. Không được thành lập, tham gia thành lập hoặc quản lý doanh nghiệp, bệnh
viện tư, trường học tư, tổ chức nghiên cứu khoa học tư.
2. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, vợ hoặc chồng
của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi
ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
3. Không được làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ và tổ
chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật
nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc
mình tham gia giải quyết.
4. Không được mượn danh nghĩa người khác để sản xuất, kinh doanh; không
được để vợ, chồng, con lợi dụng chức vụ, quyền hạn và uy tín của mình để làm kinh tế tư
nhân.
5. Được góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, mua cổ
phần của công ty cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.
- Thực hiện nghiêm chế độ quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường tại nơi
cư trú: Ngoài thời gian làm việc tại cơ quan có tổ chức đảng nơi công tác theo dõi, còn
lại khoảng thời gian rất dài, đảng viên làm những gì tổ chức đảng cũng cần nắm chắc.
Đảng ủy các phường không thể đủ sức quán xuyến hết những hoạt động khác của đảng
viên nên phải thông qua tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng sinh
sống cùng đảng viên tại nơi cư trú để quản lý.
- Quản lý chặt các quan hệ xã hội của đảng viên là cán bộ, công chức phường:
Quan hệ xã hội của đảng viên là những quan hệ mà họ tiến hành trong hoạt động công tác
theo chức trách, nhiệm vụ và trong đời sống xã hội. Việc quản lý các quan hệ xã hội của
đảng viên là một yêu cầu khách quan và được thực hiện trong thời gian dài. Trên thực tế
đã hình thành cơ chế, phương thức để quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ đảng viên,
góp phần giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực để đội ngũ đảng viên là cán
bộ, công chức phường hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng giai
đoạn cách mạng. Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với
bên ngoài, đảng viên hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố rất phức
tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng. Điều đó đặt ra cho công tác quản lý đảng
viên là cán bộ, công chức phường về các quan hệ xã hội cần tiến hành thường xuyên, chặt
chẽ bằng nhiều cách, nhiều chiều với cách nhìn “động” và phải chủ động phân tích đầy
đủ các quan hệ xã hội cơ bản, thường xuyên của đảng viên. Để các đảng bộ phường ở
Thành phố Hà Nội quản lý tốt các quan hệ xã hội của đội ngũ đảng viên, cần chú ý hơn
các vấn đề sau:
+ Nâng cao vai trò của tổ chức đảng ở cơ sở và xác lập thiết chế trong công tác
quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường, có nội dung quản lý các quan hệ
xã hội. Phải thiết lập và thực hiện chế độ báo cáo lịch trình công tác, nội dung công việc
theo chức trách được giao, các quan hệ xã hội cơ bản của đảng viên là cán bộ, công chức
phường với cấp ủy. Theo định kỳ, đột xuất cần kiểm tra việc thực hiện chế độ này.
+ Đưa công khai trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc đưa ra những cuộc
sinh hoạt của các tổ chức đảng và tổ chức quần chúng một số vụ đảng viên phạm sai
lầm nghiêm trọng về phẩm chất trong quan hệ xã hội để giáo dục đảng viên là cán bộ,
công chức phường, ngăn ngừa sai phạm, làm tăng sự tin cậy của nhân dân đối với
Đảng, thúc đẩy phát huy vai trò của quần chúng tham gia quản lý các quan hệ xã hội của
đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Tích cực tuyên truyền, giáo dục và kiểm tra, giám sát đảng viên là cán bộ, công
chức phường thực hiện tốt 19 điều cấm đảng viên không được làm theo Quy định số 115-
QĐ/TƯ ngày 12-11-2007 của Bộ Chính trị.
- Quản lý hồ sơ đảng viên là cán bộ, công chức phường :
Hồ sơ đảng viên là tài liệu mật của Đảng, phải được các cấp uỷ và tổ chức đảng
xây dựng, quản lý theo đúng Điều lệ Đảng nhằm góp phần ngăn ngừa phần tử xấu
chui vào Đảng. Để quản lý tốt đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà
Nội cần coi trọng cả quản lý hồ sơ đảng viên của họ.
Việc quản lý hồ sợ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội phải
theo đúng Quy định số 23-QĐ/TW ngày 31 - 10 - 2006 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn
một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng số 03-HD/BTCTW ngày 29 - 12- 2006 của
Ban Tổ chức Trung ương. Trước hết phải bảo đảm đầy đủ các nội dung trong hồ sơ đảng
viên gồm:
* Hồ sơ khi được kết nạp Đảng:
+ Giấy chứng nhận học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng
+ Đơn xin vào Đảng
+ Lý lịch của người vào Đảng và các văn bản thẩm tra kèm theo
+ Giấy giới thiệu của đảng viên chính thức được phân công
+ Nghị quyết giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng của Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh hoặc của công đoàn cơ sở nếu có.
+ Tổng hợp ý kiến nhận xét của đoàn thể nơi làm việc và chi uỷ nơi cư trú đối với
người vào Đảng.
+ Nghị quyết xét, đề nghị kết nạp đảng viên của chi bộ.
+ Báo cáo của đảng uỷ bộ phận (nếu có)
+ Nghị quyết xét, đề nghị kết nạp đảng viên của đảng uỷ cơ sở
+ Quyết định kết nạp đảng viên của cấp uỷ có thẩm quyền.
+ Lý lịch đảng viên.
+ Phiếu đảng viên.
* Khi đảng viên đã được công nhận chính thức có thêm các tài liệu sau:
+ Giấy chứng nhận học lớp bồi dưỡng đảng viên mới
+ Bản tự kiểm điểm của đảng viên dự bị
+ Bản nhận xét đảng viên dự bị của đảng viên được phân công giúp đỡ
+ Tổng hợp ý kiến nhận xét của đoàn thể nơi công tác và chi uỷ nơi cư trú đối với
đảng viên dự bị
+ Nghị quyết xét, đề nghị công nhận đảng viên chính thức của chi bộ
+ Báo cáo của đảng uỷ bộ phận (nếu có)
+ Nghị quyết xét, đề nghị công nhận đảng viên chính thức của đảng uỷ cơ sở.
+ Quyết định công nhận đảng viên chính thức của cấp uỷ có thẩm quyền
+ Các bản bổ sung hồ sơ đảng viên hàng năm
+ Các bản thẩm tra, kết luận về lý lịch đảng viên (nếu có)
+ Các quyết định của cấp có thẩm quyền (đảng, chính quyền, đoàn thể) về điều
động, bổ sung, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, kỷ luật, khen
thưởng,…
+ Hệ thống giấy tờ sinh hoạt đảng từ khi vào Đảng
+ Các bản tự kiểm điểm hàng năm và khi chuyển sinh hoạt đảng của đảng viên.
Ngoài những tài liệu trên, những tài liệu khác kèm theo trong hồ sơ đảng viên đều
là tài liệu tham khảo.
*Bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ đảng viên. Do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, các tài
liệu trong hồ sơ đảng viên ở từng thời kỳ có khác nhau nên hồ sơ đảng viên cần được bổ
sung, hoàn chỉnh thường xuyên. Đối với những đảng viên được kết nạp vào Đảng từ khi
thực hiện quy định số 29-QĐ/TW ngày 2-6-1997 của Bộ Chính trị khoá 8 đến nay, trong
hồ sơ đảng viên phải có đủ các tài liệu như quy định trên.
3.2.3. Nâng cao ý thức tự quản lý của đảng viên là cán bộ, công chức phường
ở thành phố Hà Nội
ý thức tự quản lý của đảng viên là cán bộ, công chức phường có vai trò quan
trọng, mang tính quyết định. Quan hệ xã hội của đảng viên ngày nay đa dạng, phức tạp,
khó kiểm soát, các biện pháp tổ chức dù có chặt chẽ đến đâu, nhưng từng đảng viên
không có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức tự quản thì tổ chức cũng không thể quản lý được
hết các quan hệ xã hội của họ.
Để nâng cao ý thức tự quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường cần tập
trung giải quyết những nội dung sau đây:
Một là, phải thường xuyên giáo dục cho đảng viên là cán bộ, công chức phường
nhận thức rõ mình là người đảng viên, người lãnh đạo, người “đày tớ” của nhân dân,
gương mẫu, tự giác, tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, giữ gìn
phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách người đảng viên.
Hai là, từng đảng viên là cán bộ, công chức phường phải có ý thức về vai trò và
trách nhiệm của mình trong mọi hành động cách mạng. Trước hết là nghiêm chỉnh chấp
hành những quy định của tổ dân phố, khu dân cư và các quy định chung.
Ba là, từng đảng viên là cán bộ, công chức phường phải kiên định lập trường
chính trị, kịp thời tiếp cận thông tin và chủ động đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực.
Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành phố Hà Nội có điều kiên thuận
lợi trong nâng cao nhận thức chính trị và tiếp nhận thông tin chính trị - xã hội, vì trình độ
chính trị của đội ngũ đảng viên khá cao, nhiều đảng viên từng là cán bộ lãnh đạo, quản lý,
cán bộ tham mưu có trình độ cao, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn; hơn nữa lại được sống,
hoạt động trên địa bàn Thủ đô là trung tâm chính trị của cả nước. Tuy nhiên, việc tiếp cận
thông tin phải có sự sàng lọc, nhất là những thông tin chưa được định hướng và không
chính thống. Sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa
bình”; sự lưu hành, tán phát tài liệu, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách. Do đó, việc tự quản lý đòi hỏi từng đảng viên là cán bộ,
công chức phường phải kiên định lập trường chính trị, kịp thời tiếp cận thông tin và chủ
động đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Thực tế cho thấy, một số ít đảng viên có
quá trình công tác tốt nhưng vẫn mất cảnh giác trước những quan điểm cơ hội, chống phá
Đảng từ các tài liệu xấu. Tình hình nói trên đòi hỏi mỗi đảng viên phải nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh với các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước.
Năm là, mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường phải phấn đấu hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo. Từng đảng viên phải thật
sự tích cực tham gia mọi hoạt động ở đường phố, tổ dân phố, khu dân cư. Đây cũng là
môi trường cơ bản chủ yếu để mọi đảng viên tự bồi dưỡng, rèn luyện, hoàn thiện mình
trong cuộc sống. ý thức tự quản lý và gương mẫu của từng đảng viên được biểu hiện
thông qua việc hoàn thành tốt nhiệm vu được cấp ủy giao. Với truyền thống “đảng viên đi
trước, làng nước theo sau” đã được đúc kết trong những năm chiến tranh giải phóng dân
tộc thì việc mỗi đảng viên tự giác sửa mình, gương mẫu trong công việc cũng như trong
cuộc sống đời thường chính là bài học tốt nhất trong việc phát động các phong trào hành
động cách mạng của quần chúng nhân dân. Những tấm gương người tốt, việc tốt thông
qua vai trò của đội ngũ đảng viên chính là thể hiện rõ ràng nhất của những đức tính
khoan dung, độ lượng, khiêm tốn mà truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc để lại. Đó
cũng là phương cách tốt để từng đảng viên giữ mình trước mọi cám dỗ vật chất của cuộc
sống đời thường, vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường cần chủ động tích cực học tập, rèn
luyện, tích lũy kinh nghiệm. Không có vốn tri thức rộng, kinh nghiệm phong phú và khả
năng giao tiếp thì mỗi đảng viên không thể tự quản lý mình khi tham gia các hoạt động
xã hội.
3.2.4. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đổi mới đánh giá chất lượng đảng
viên
3.2.4.1. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng viên là cán bộ, công
chức phường ở thành phố Hà Nội
Kiểm tra, giám sát và quản lý đảng viên có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong kiểm tra, giám sát có quản lý đảng viên và trong quản lý đảng viên có kiểm tra,
giám sát. Kiểm tra, giám sát để phục vụ lãnh đạo và quản lý, kiểm tra, giám sát tốt sẽ
giúp cho quản lý đảng viên tốt góp phần làm tốt công tác kiểm tra, giám sát.
Công tác kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận xét. Giám sát là
theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều qui định không. Đối với Đảng
cộng sản, công tác kiểm tra, giám sát là hoạt động thường xuyên của Đảng, được tiến
hành với tổ chức đảng và đảng viên, nhằm theo dõi, xem xét tình hình chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đựơc giao để đánh giá, nhận xét về mỗi tổ
chức đảng và đảng viên, góp phần hoàn thiện qui trình lãnh đạo, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương và xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
Công tác kiểm tra, giám sát có vai trò đặc biệt quan trọng và là phương thức hành
động không thể thiếu để thực hiện mục đích của Đảng đề ra. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền cùng với công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trở thành công việc then chốt
trọng tâm nhất. V.I.Lênin khẳng định: “Theo ý tôi điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ
soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc kiểm
tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt nhất” [35, tr.450].
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng đánh giá rất cao vai trò của công tác kiểm
tra, giám sát, coi đây là công tác không thể thiếu và có tính quyết định đối với hiệu quả
lãnh đạo. Người khẳng định: “ Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại
của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [43, tr.520]. Lãnh đạo có
nghĩa là kiểm tra; buông lỏng việc kiểm tra thì cũng bằng không coi như không lãnh đạo.
Cấp uỷ nào buông lỏng kiểm tra là đã để mất một công cụ quan trọng giúp mình trong
công tác lãnh đạo.
Quán triệt và vận dụng sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác kiểm tra, Đảng ta xác định: “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ
quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của
Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng” [18, tr.150].
Công tác kiểm tra, giám sát đảng viên là một nhiệm vụ không thể thiếu trong hoạt
động lãnh đạo của tổ chức đảng, đồng thời cũng là một biện pháp quan trọng để tăng
cường quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội. Có kiểm tra,
giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của đảng viên mới có nội dung, biện pháp giáo dục
đúng, làm cho đảng viên nêu cao tính tự giác, tự điều chỉnh bản thân. Kiểm tra, giám sát
chặt chẽ sẽ giúp cho đảng viên tránh vi phạm kỷ luật, là cơ sở để tổ chức đảng nắm chắc
thông tin về đảng viên và đánh giá, phân loại đảng viên chính xác. Nội dung kiểm tra,
giám sát bao gồm việc chấp hành Điều lệ Đảng, các qui định của Đảng đối với đảng viên;
việc thực hiện nhiệm vụ được phân công; đạo đức, tư cách, lối sống, sinh hoạt của đảng
viên và vấn đề rèn luyện, tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức năng lực của
đảng viên.
Để phát huy tốt vai trò công tác kiểm tra, giám sát trong quản lý đảng viên là cán
bộ, công chức các đảng bộ phường cần phải:
Một là, công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên nhưng đồng
thời phải tăng cường kiểm tra đột xuất theo yêu cầu, vụ việc.
Các đảng uỷ phường phải chú trọng thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chi
bộ trực thuộc và đảng viên theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Các cấp uỷ
và tổ chức đảng hàng năm phải có chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra giám sát và
nghiêm túc thực hiện chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Nội dung kiểm tra đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cần
chú ý về việc chấp hành đường lối, quan điểm, các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng,
chính sách pháp luật và các quy định của nhà nước; về phẩm chất đạo đức, lối sống, các
mối quan hệ ở nơi công tác và nơi cư trú. Chú trọng việc tạo điều kiện và kiểm tra đảng
viên thực hiện các nhiệm vụ công tác đựợc phân công. Trong điều kiện hiện nay, việc
kiểm tra, giám sát đảng viên chủ yếu tập trung vào chức trách nhiệm vụ và các hoạt động
hiện tại đang diễn ra của người đảng viên. Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát phải được
tiến hành thường xuyên, đúng qui trình, giúp cho cấp uỷ đánh giá đúng chất lượng đảng
viên là cán bộ, công chức; kịp thời phát hiện những ưu khuyết điểm, hạn chế cuả đảng
viên để có kế hoạch, quản lý, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; đồng thời đưa ra khỏi Đảng
những đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống… không còn uy tín
với quần chúng.
Kết hợp kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra đảng
viên có dấu hiệu vi phạm. Trong sinh hoạt chi bộ hàng tháng, đảng uỷ, chi bộ có thể chỉ
định đảng viên báo cáo đột xuất một vấn đề nào đó để kiểm tra. Không nhất thiết phải
tiến hành đồng loạt, cuối năm, cuối kỳ mới kiểm tra.
Hai là, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của mỗi đảng viên và tổ đảng. Chủ thể kiểm
tra, giám sát đảng viên là cán bộ, công chức phường là cấp uỷ đảng nhưng bản thân đảng
viên là cán bộ, công chức phường cũng phải tự quản lý, phải kiểm tra, giám sát chính
mình đồng thời kết hợp với việc đảng viên kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Trong sinh hoạt
đảng, tổ đảng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong quản lý, kiểm tra, giám sát lẫn nhau
nhưng gần đây không ít đảng bộ phường không coi trọng sinh hoạt của tổ đảng. Có nơi
buông lỏng hoặc bỏ sinh hoạt tổ đảng. Cần củng cố lại tổ đảng, qui định trách nhiệm của
tổ đảng trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên.
Ba là, kết hợp công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra của tổ chức đảng với thanh
tra nhân dân, kiểm tra của cơ quan và các đoàn thể. Mỗi cơ quan trên đều có chức năng,
nhiệm vụ riêng nhưng công tác kiểm tra, giám sát đều tập trung vào mục đích kiểm tra,
thanh tra đối với đảng viên là cán bộ, công chức phường trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ chính trị.
Để kết hợp tốt giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, các cấp uỷ phải xây dựng quy
chế phối hợp làm việc, quy định rõ ràng nhiệm vụ của từng cơ quan trong phối hợp làm
việc. Khi đảng đảng viên là cán bộ, công chức phường có dấu hiệu vi phạm, uỷ ban kiểm
tra cơ sở phải nghiêm túc kiểm tra đảng viên chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thanh tra nhân
dân và kiểm tra của các đoàn thể, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn, nhiệm vụ của các tổ chức đoàn thể phân công, sau đó cùng kết luận gửi cấp uỷ, cơ
quan có thẩm quyền để đưa ra hình thức kỷ luật.
3.2.4.2. Đổi mới đánh giá chất lượng đảng viên
Chất lượng đảng viên là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng và năng lực (đức-tài) được thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Đây là yếu tố
quan trọng nhất, giữ vị trí quyết định tạo thành chất lượng đội ngũ đảng viên.
Đánh giá chất lượng đảng viên là đánh giá, phân loại đảng viên, làm rõ mặt mạnh
mặt yếu, làm rõ ưu điểm, khuyết điểm của mỗi đảng viên, để phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết điểm làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục, rèn luyện, phân công
công tác cho đảng viên cũng như xem xét đưa những người không đủ tư cách đảng viên
ra khỏi đảng. Đánh giá đảng viên đầy đủ, chính xác là cơ sở vững chắc cho công tác quản
lý đảng viên. Đây cũng là một trong những giải pháp mà nghị quyết Trung ương VI khoá
X đưa ra là: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ
sở đảng và đảng viên” [24, tr.108].
Đối với thành phố Hà Nội việc đổi mới đánh giá chất lượng đảng viên là cán bộ,
công chức ở các đảng bộ phường cần làm tốt các vấn đề sau:
Một là, các cấp uỷ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo sát sao làm cho đảng viên là cán bộ,
công chức nắm vững nội dung, yêu cầu, cách thức tiến hành đánh giá chất lượng đảng
viên, khắc phục tư tưởng hữu khuynh, nể nang né tránh, cũng như biểu hiện cá nhân, cục
bộ, bè phái, lợi dụng đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên để đả kích lẫn nhau; đồng
thời cụ thể hóa tiêu chuẩn đánh giá đảng viên là cán bộ, công chức phường theo Hướng
dẫn số 20-HD/BTCTW ngày 10/10/2008 của Ban Tổ chức Trung ương về đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên nhằm khắc phục tình trạng đánh giá chất lượng
đảng viên một cách chung chung thiếu chính xác.
Hai là, duy trì nề nếp, thực hiện nghiêm túc việc đánh giá chất lượng đảng viên
hàng năm; gắn đánh giá chất lượng đảng viên là cán bộ, công chức phường với đánh
giá chất lượng chuyên môn; tổ chức cho quần chúng phê bình đảng viên là cán bộ,
công chức phường, có thể công bố kết quả đánh giá sơ bộ về chất lượng đảng viên để
lấy ý kiến của quần chúng và các đoàn thể, tổ chức đảng xem xét kết luận một cách
dân chủ, công khai ý kiến của quần chúng về từng đảng viên và kết quả đánh giá chất
lượng đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Ba là, chỉ đạo nghiêm túc quá trình đánh giá chất lượng đảng viên nói chung, đảng
viên là cán bộ, công chức phường nói riêng, uốn nắn kịp thời những lệch lạc như làm
lướt, chạy theo thành tích. Ban tổ chức quận uỷ cần làm tốt việc thẩm định kết quả đánh
giá chất lượng đảng viên của từng đảng bộ phường và hướng dẫn các đảng bộ phường xử
lý kết quả đánh giá chất lượng đảng viên là cán bộ, công chức phường không đúng.
3.2.5. Xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ quan phường trong sạch, vững mạnh, đề
cao trách nhiệm quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của đảng ủy phường,
nhất là chi bộ cơ quan phường
Đảng viên phải sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở đảng (chi bộ, đảng bộ) nhất định
và chịu sự quản lý, giáo dục, rèn luyện ở chi bộ ấy, cho dù đảng viên ấy có giữ cương vị
cao nhất trong Đảng, Nhà nước đi nữa. Thực tiễn cho thấy ở đâu chi bộ được kiện toàn
củng cố, nội bộ đoàn kết thì nơi đó công tác quản lý đảng viên tốt, ít có sai phạm. Do đó,
đảng bộ, chi bộ cơ quan phường trong sạch, vững mạnh là cơ sở cho việc quản lý tốt
đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Để phát huy vai trò của đảng bộ, chi bộ cơ quan phường trong quản lý đảng viên là
cán bộ, công chức phường, cần làm tốt những nội dung sau:
- Phải thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố đảng bộ, chi bộ cơ quan phường
thật sự trong sạch vững mạnh đủ sức thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, qua đó phát huy tốt nhất
vai trò của mỗi đảng viên là cán bộ, công chức phường. Duy trì nghiêm túc nền nếp sinh
hoạt chi bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình.
- Chi bộ phải thường xuyên giáo dục đảng viên là cán bộ, công chức phường
gương mẫu rèn luyện tính tự giác,ý thức giữ gìn kỷ luật, chấp hành chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước. Tiên phong gương mẫu là thuộc tính của người đảng viên cộng
sản, nhưng ở đây sự gương mẫu của đảng viên là cán bộ, công chức phường có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc nêu gương sáng cho đảng viên và quần chúng noi theo. Sự
gương mẫu của đảng viên là cán bộ, công chức phường được thể hiện trong việc quan hệ,
tiếp xúc, giải quyết công việc đối với nhân dân, không được làm trái các quy trình công
tác, các quy định của pháp luật, gây khó dễ để được nhận “sự cảm ơn” như câu cửa
miệng của quần chúng nói: “làm khó để ló tiền ra”, hoặc lợi dụng chức trách, nhiệm vụ
để tham nhũng bòn rút công quỹ. ở nơi cư trú đảng viên là cán bộ, công chức phường
phải hăng hái giữ gìn vệ sinh môi trường, nếp sống văn minh, trật tự, an toàn xã hội,
trong đoàn kết xóm phố, giáo dục gia đình, người thân gương mẫu chấp hành chủ trương,
chính sách.
- Chi bộ phải xây dựng được quy chế thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc.
Việc này đã nêu thành nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhưng trong thực tế không
được coi trọng thường xuyên và cũng chưa có cơ chế để bảo đảm cho việc tự phê bình và
phê bình có hiệu quả, chất lượng. Từ đó dẫn đến tình trạng phê bình chiếu lệ, hình thức hoặc
lợi dụng phê bình để đả kích, gây nghi ngờ, mất đoàn kết nội bộ. ở chi bộ cơ quan phường
phải căn cứ vào việc phân công trách nhiệm, chức trách, nhiệm vụ cho từng đảng viên để
trên cơ sở đó mà tự phê bình và phê bình. Phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để quần chúng
nhân dân giám sát, phê bình giúp đỡ cán bộ đảng viên một cách thẳng thắn, chân tình (kể cả
ở nơi công tác và nơi cư trú). Cần tổ chức cho đảng viên là cán bộ, công chức phường tiếp
xúc với nhân dân, nghe nhân dân phê bình; duy trì hòm thư, “số điện thoại nóng” để thu nhận
thông tin về đảng viên là cán bộ, công chức phường của dân. Mọi ý kiến của nhân dân được
xử lý, giải đáp triệt để, chu đáo, không làm qua loa chiếu lệ và phải bảo vệ người phê bình, tố
giác.
- Chi bộ cơ quan phường phải thường xuyên quan tâm tới việc động viên đảng
viên có thành tích tốt, xây dựng tình thương yêu đồng chí, sự cảm thông, tinh thần hợp
tác trong công tác. Xây dựng tình thương yêu đồng chí, quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ nhau
trong lúc khó khăn, rủi ro, xây dựng môi trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh ở đơn vị,
tạo không khí dân chủ, đoàn kết, phấn khởi để thúc đẩy các mặt công tác phát triển. Công
tác quản lý, giáo dục đảng viên cần được nghiên cứu, phân tích sâu sắc để có được những
giải pháp tích cực và đồng bộ từ những chủ trương, chính sách mang tính vĩ mô đến
những biện pháp cụ thể, sáng tạo ở từng, tế bào quan trọng của tổ chức đảng.
3.2.6. Tăng cường phối hợp giữa các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội ở phường trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường
Đối với các đảng viên là cán bộ, công chức đang sinh hoạt và hoạt động ở các
phường của thành phố Hà Nội, có thể tham gia hoạt động trong các cơ quan, đơn vị, tổ
chức đoàn thể nhất định, họ vừa là đảng viên vừa là thành viên của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Do vậy, để quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường một
cách hiệu quả không chỉ là nhiệm vụ, trách nhiệm của mình tổ chức đảng mà còn cần có
sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các đoàn thể ở hệ thống chính trị cơ sở.
Để nâng cao hiệu quả sự phối hợp này cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
- Thực hiện sự phối hợp giữa chi ủy quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường với chi ủy nơi đảng viên cư trú theo Quy định 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ
Chính trị về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp
thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân nơi cư trú. Phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy nơi công tác và cấp ủy nơi cư trú là
một trong những giải pháp quản lý đảng viên có hiệu quả góp phần đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi tệ tham nhũng, quan liêu, xa dân; đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra
khỏi Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu
của nhân dân.
Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị là môt chủ trương đúng đắn và là hình
thức, biện pháp thích hợp huy động sức mạnh tổng hợp nhằm tăng cường quản lý đảng
viên trong tình hình mới. Qua thực hiện sẽ có thêm sự giám sát đối với đội ngũ đảng
viên đang công tác, qua đó giúp đảng viên rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống.
Việc thực hiện Quy định 76 và Hướng dẫn số 14 của Thành ủy Hà Nội ở các đảng
bộ phường của Thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt được kết quả bước đầu nhưng
cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Để thực hiện thiết thực và hiệu quả Quy định 76 và
Hướng dẫn 14, cần có những biện pháp cụ thể và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các
quy định đó. Định kỳ sáu tháng hoặc một năm, cấp ủy quản lý đảng viên phải lấy nhận
xét của cấp ủy nơi đảng viên cư trú đối với toàn thể đảng viên, không phân biệt đảng
viên là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên không là cán bộ lãnh đạo, gắn nhận xét ở nơi cư
trú do tập thể cấp ủy chi bộ khu dân cư, đại diện tổ dân phố thống nhất nhận xét với
đánh giá của tổ chức đảng. Đảng viên được thông báo về những nhận xét đó.
Trước khi tiến hành tự phê bình và phê bình hằng năm, chi ủy cơ quan phường cần
gửi văn bản lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi cư trú, không nên để đảng viên tự lấy
nhận xét, bảo đảm những nhận xét của cấp ủy thật sự trung thực, khách quan, công tâm,
trên tinh thần xây dựng. Hết sức tỉnh táo với những nhận xét và dư luận xuất phát từ động
cơ không trong sáng như “ghen ăn ghét ở”, đố kỵ hẹp hòi, thành kiến cá nhân... Cấp ủy
nơi cư trú cần duy trì sinh hoạt với đảng viên đương chức vào giữa năm và cuối năm,
thông báo tình hình của cơ sở đồng thời động viên đảng viên đương chức đóng góp ý
kiến, kinh nghiệm với cơ sở.
- Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị của phường đều phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong việc quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường là thành viên của tổ chức
mình theo nhiệm vụ được phân công, theo những mặt công tác có liên quan. Việc theo
dõi phải được thực hiện linh hoạt và là trách nhiệm trước hết của những người đứng đầu
của từng tổ chức và có sự phân công cho cấp phó theo khu vực hoặc lĩnh vực cùng công
tác. Bên cạnh đó cần sử dụng nhiều kênh thông tin để có nhiều thông tin cụ thể về đảng
viên cần quản lý, trong đó thông tin của quần chúng nhân dân rất quan trọng và cần thiết
cho công tác quản lý.
- Trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường, nếu phát hiện những
khuyết điểm của đảng viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị, những đồng chí cấp ủy
được phân công theo dõi, quản lý cần có biện pháp kịp thời giúp đảng viên đó sửa chữa,
tránh từ khuyết điểm nhỏ thành khuyết điểm lớn. Đối với những trường hợp sai phạm lớn
cần báo cáo với cấp ủy có thẩm quyền xử lý theo quy định của Điều lệ Đảng, thông báo
cho chính quyền để xử lý theo Pháp lệnh Cán bộ công chức hoặc các tổ chức chính trị xã
hội xử lý theo điều lệ của hội...
Trong phối hợp quản lý đảng viên giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị của
phường, tổ chức đảng cần sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức hằng năm theo
chức trách được phân công để làm cơ sở cho việc đánh giá đảng viên.
3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, quận uỷ đối với việc
quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện
nay
Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là một bộ
phận đảng viên có vai trò quan trọng của Đảng bộ thành phố Hà Nội, vì vậy quản lý đội
ngũ đảng viên này cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ Hà Nội, các quận
uỷ.
Thành uỷ Hà Nội, các quận uỷ thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm
tra các đảng ủy phường quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường. Quận ủy cần chỉ
đạo các phường giáp ranh phối hợp trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Quận uỷ cần duy trì nề nếp giao ban với các bí thư đảng uỷ phường theo định kỳ
để kịp thời nắm bắt tình hình cơ sở, định hướng nội dung công tác, giải quyết những vấn
đề phát sinh về quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường.
Thành uỷ và quận uỷ cần tăng cường công tác tổng kết các chuyên đề và các điển
hình tiên tiến, từ đó biểu dương, khen thưởng kịp thời các đảng viên, đảng bộ, chi bộ có
thành tích xuất sắc; đồng thời phổ biến những kinh nghiệm hay, những điển hình tốt về quản
lý đảng viên là cán bộ, công chức phường.
KẾT LUẬN
Quản lý đảng viên là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng- yếu tố quan
trọng để xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo
chính trị, thúc đẩy sự phát triển bền vũng, ổn định mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội trên
địa bàn phường.
Đảng viên là cán bộ, công chức phường là người trực tiếp tổ chức thực hiện và
vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đoàn kết thống
nhất, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương; huy động mọi khả năng để phát triển
kinh tế- xã hội, chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng chống lại
Đảng và Nhà nước ta. Quản lý tốt đảng viên là cán bộ, công chức phường của thành
phố Hà Nội là một yêu cầu khách quan.
Ưu điểm nổi bật của công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của
thành phố Hà Nội là các cấp uỷ, chi bộ đã nêu cao vai trò là chủ thể trực tiếp quản lý
đảng viên, nắm chắc các quy định, hướng dẫn của Trung ương về quản lý đảng viên, do
đó đã triển khai thực hiện khá tốt nội dung, phương thức quản lý đảng viên là cán bộ, công
chức phường, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
phường.
Bên cạnh những ưu điểm, công tác quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường
còn bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, như: tình trạng chi bộ không nắm được tư
tưởng, phẩm chất của đảng viên còn xảy ra ở một số nơi, ngay cả đối với những đảng viên
do môi trường công tác cần đặc biệt quản lý, giám sát; việc tổ chức để quần chúng giám
sát, quản lý đảng viên ở nhiều nơi chưa được quan tâm thực hiện chưa nghiêm túc... Kết
quả là các đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội cũn nhiều bất cập, chất lượng đội ngũ
đảng viên là cán bộ, công chức phường cũn bộc lộ nhiều yếu kộm, tồn tại. Một bộ phận
đảng viên, trong đó có cả đảng viên là cán bộ, công chức phường đó phai nhạt lý tưởng,
mất sức chiến đấu, hách dịch, cửa quyền, gia trưởng… ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay có nhiều tác động đến đảng viên và quản lý đảng viên là
cán bộ,công chức phường như sự tác động của cơ chế thị trường, chiến lược diễn biến
hoà bình của các thế lực thù địch. Để tăng cường công tác quản lý đảng viên là cán bộ,
công chức phường trong thời gian tới cần phải: nâng cao nhận thức của cấp uỷ và đảng
viên về quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay; thực hiện tốt các nội dung quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường
ở thành phố Hà Nội; nâng cao ý thức tự quản lý của đảng viên là cán bộ, công chức
phường ở thành phố Hà Nội; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đổi mới đánh giá chất
lượng đảng viên; xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ quan phường trong sạch, vững mạnh, đề
cao trách nhiệm quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường của đảng ủy phường, nhất là
chi bộ cơ quan phường; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận
và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường trong quản lý đảng viên là cán bộ, công chức
phường; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, quận uỷ đối với việc quản lý đội
ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay
danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Bí thư Trung ương (2004), Quy định số 94-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ của
Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn.
2. Ban Tổ chức Quận uỷ Tây Hồ (2006), Báo cáo số 07-BC/TCQU ngày 2/4/2006 về
kết quả công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2001-2005, phương hướng, nhiệm
vụ nhiệm kỳ 2005-2010, Hà Nội.
3. Ban Tổ chức Quận uỷ Thanh Xuân (2006), Báo cáo số 12-BC/TCQU ngày
12/4/2006 về kết quả công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2001-2005, phương
hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2005-2010, Hà Nội.
4. Ban Tổ chức Quận uỷ Hai Bà Trưng (2006), Báo cáo số 52-BC/QU ngày 28/6/2006
tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định số 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ
Chính trị - Hướng dẫn số 14-HD/TU ngày 12/12/2003 của Ban Thường vụ
Thành uỷ Hà Nội, Hà Nội.
5. Ban Tổ chức Trung ương (2001), Hướng dẫn số 04-HD/BTCTW ngày 16/11/2001
"Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng".
6. Ban Tổ chức Trung ương (2006), Hướng dẫn số 03-HD/BTCTW ngày 29/12/2006
"Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng".
7. Ban Tổ chức Trung ương (2007), Đề cương bồi dưỡng công tác đảng viên, Hà Nội.
8. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Tập bài giảng phục vụ các lớp đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức cán bộ
ngành tổ chức xây dựng Đảng, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
9. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 20-HD/BTCTW ngày 10/10/2008
về đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tài liệu bồi dưỡng công tác Đảng cho bí thư chi
bộ và cấp uỷ viên cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Chính trị (2000), Quy định số 76-QĐ/TW "về đảng viên đang công tác ở các cơ
quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với Đảng
uỷ, chi uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nhiệm vụ công dân nơi cư trú".
12. Bộ Chính trị (2007), Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 về xử lý kỷ luật đảng
viên vi phạm.
13. Bộ Chính trị (2007), Quy định số 115-QĐ/TW ngày 7/12/2007 về những điều đảng
viên không được làm.
14. Chính phủ (2003), Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi) ban hành ngày 8/5/2003.
15. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ
Thành phố Hà Nội, Hà Nội.
16. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIV,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thời kỳ
1975-1995, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 khoá IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khoá IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (2007), Giáo trình
xây dựng Đảng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
26. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (2007), Tập bài
giảng Nghiệp vụ công tác tổ chức cán bộ và đảng viên III, Hà Nội.
27. Mai Hữu Khê (1998), Phân tích hệ thống trong quản lý và tổ chức, Nxb Lao động,
Hà Nội.
28. Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hoà (2005), Một số vấn đề xây
dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Vũ Duy Lâm (2004), Thuật ngữ pháp lý, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
30. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
31. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
32. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
33. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
34. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
35. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
36. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
37. C.Mác và Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - J.Stalin (1970), Vấn đề cán bộ, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
38. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. C.Mác và Ph.Ăngghen (1963), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đỗ Ngọc Ninh (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng
bộ phường của Thủ đô Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Vũ Hào Quang (2004), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
53. Thành uỷ Hà Nội (2004), Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
54. Thành uỷ Hà Nội (2006), Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội, định hướng phát
triển đến năm 2010, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
55. Thành uỷ Hà Nội (2008), Báo cáo số 02-BC/BTCTU ngày 26/8/2008 về sơ kết công
tác tổ chức xây dựng Đảng giữa nhiệm kỳ Đại hội XIV Đảng bộ thành phố
(2005-2010).
56. Thành uỷ Hà Nội (2008), Báo cáo số 04-BC/BTCTU ngày 24/9/2008 về mô hình tổ
chức và hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ thành
phố Hà Nội.
57. Thành uỷ Hà Nội (2008), Báo cáo số 14-BC/TU ngày 6/11/2008 về phương hướng,
nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ thành phố Hà Nội từ nay đến hết
nhiệm kỳ Đại hội XIV (2005-2010).
58. Mạch Quang Thắng (2006), Vấn đề đảng viên và phát triển đảng viên trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
59. Nguyễn Phú Trọng (2006), Hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, xây dựng Thủ
đô phát triển toàn diện, bền vững, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
60. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Một số quy định của Bộ Chính trị và hướng
dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật
Đảng, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
61. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
62. Hồ Văn Vĩnh (2003), Một số vấn đề tư tưởng quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
63. Nguyễn Như ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.