intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lý lơ xê mi cấp trong giai đoạn thai kỳ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lơ xê mi (LXM) cấp là một bệnh lý ác tính của hệ tạo máu và đặc trưng bởi sự tăng sinh các tế bào non ác tính của hệ tạo máu trong tủy xương và máu ngoại vi. Bài viết tập trung vào tổng quan tài liệu về việc quản lý bệnh nhân lơ xê mi cấp trong giai đoạn thai kỳ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lý lơ xê mi cấp trong giai đoạn thai kỳ

  1. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU QUẢN LÝ LƠ XÊ MI CẤP TRONG GIAI ĐOẠN THAI KỲ Nguyễn Hồng Sơn1 , Trần Thu Thủy1 , Nguyễn Quốc Nhật1 , Võ Thị Thanh Bình1 , Trần Thị Kiều My2 , Nguyễn Bá Khanh2 , Bạch Quốc Khánh1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 3 đến kết quả bất lợi cho thai nhi, bao gồm dị Lơ xê mi (LXM) cấp là một bệnh lý ác tật hoặc tử vong, đồng thời có thể ảnh hưởng tính của hệ tạo máu và đặc trưng bởi sự tăng đến kết quả điều trị của mẹ. Những khó khăn sinh các tế bào non ác tính của hệ tạo máu mà phụ nữ mang thai phải đối mặt khi không trong tủy xương và máu ngoại vi. Tế bào non thể sinh con là thường xuyên và người bệnh ác tính phát triển, lấn át và ức chế quá trình cần có đủ thời gian cũng như sự hỗ trợ đáng sinh sản và biệt hóa tất cả các dòng tế bào kể để đưa ra quyết định của mình. Mặc dù máu bình thường trong tủy xương [1]. Bệnh hướng dẫn chẩn đoán và quản lý bệnh LXM LXM cấp được chẩn đoán khi mang thai cấp trong thai kỳ đã được xuất bản bởi Ủy thường không phổ biến, xảy ra với tỷ lệ ban Tiêu chuẩn Huyết học Anh (British khoảng 1/75000 đến 1/100000 ca mang Committee for Standards in Haematology) thai. Trong đó, LXM cấp dòng lympho vào năm 2015 [3], nhưng quyết định điều trị chiếm khoảng một phần ba và LXM cấp thực tế bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, như dòng tủy chiếm hai phần ba các trường hợp thể LXM, mức độ nghiêm trọng của bệnh, [2]. tình hình tài chính, hoàn cảnh và niềm tin cá Khi mang thai, một số đặc điểm ban đầu nhân của người bệnh. Trong bài này, chúng của LXM cấp, ví dụ như mệt mỏi và khó thở, tôi tập trung vào tổng quan tài liệu về việc hoặc thay đổi tế bào máu ngoại vi, như thiếu quản lý bệnh nhân LXM cấp trong giai đoạn máu và giảm tiểu cầu, có thể nhầm lẫn với thai kỳ. các triệu chứng liên quan đến thai kỳ, dẫn đến chẩn đoán chậm trễ và điều trị không II. CHẨN ĐOÁN LƠ XÊ MI CẤP TRONG THAI phù hợp. Điều trị LXM cấp trong thai kỳ là KỲ một thách thức lớn đối với cả người bệnh, Việc sản xuất quá mức tế bào bạch cầu gia đình và đội ngũ y tế. Các thuốc sử dụng chưa trưởng thành hoặc bất thường sẽ dẫn trong quá trình điều trị bệnh như thuốc giảm đến ngăn cản quá trình sản xuất các tế bào bạch cầu, hóa chất tích cực có thể liên quan máu bình thường và hậu quả là gây các triệu chứng liên quan đến thiếu các tế bào máu 1 Viện Huyết học Truyền máu Trung ương như nhiễm trùng, xuất huyết, thiếu máu. Các 2 Đại học Y Hà Nội tế bào ác tính có thể ra máu ngoại vi, xâm lấn Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hồng Sơn vào các cơ quan như gan, lách, hạch, làm SĐT: 0981887871 tăng thể tích các cơ quan đó [1]. LXM cấp Email: mysunshine2110@gmail.com được chia thành 2 nhóm chính: LXM cấp Ngày nhận bài: 11/07/2024 dòng tủy (Acute Myelogenous Leukemia - Ngày phản biện khoa học: 01/08/2024 AML) và LXM cấp dòng lympho (Acute Ngày duyệt bài: 01/10/2024 Lymphoblastic Leukemia - ALL). Hiện nay, 30
  2. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 bảng phân loại LXM cấp dựa trên sự kết hợp do chứng chán ăn sau hóa trị liệu, cũng có của các đặc điểm về lâm sàng, hình thái, thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi miễn dịch và di truyền theo WHO 2016 đang và cân nặng khi sinh. Do đó, việc không phát được sử dụng phổ biến nhất. Bệnh nhân được hiện kịp thời cũng như không kiểm soát bệnh chẩn đoán xác định LXM cấp khi có ≥ 20% LXM cấp của người mẹ có thể đem lại những tế bào non ác tính trong tổng số các tế bào có bất lợi cho thai, dẫn đến tỷ lệ thai nhi chậm nhân trong tủy xương hoặc máu ngoại vi [4]. phát triển, sinh non và tử vong chu sinh cao Chẩn đoán bệnh LXM cấp trong thai kỳ hơn [5]. có thể khó khăn hơn so với những người 3.1.2. Ảnh hưởng của các thuốc điều trị không mang thai vì triệu chứng thiếu máu, có lên thai nhi thể do nhiều yếu tố, nhất là khi thiếu máu Nhau thai đóng vai trò là giao diện giữa thiếu sắt tương đối phổ biến trong thai khoang của mẹ và thai nhi và có hệ thống kỳ. Xét nghiệm tế bào máu ngoại vi có bất máu tương ứng. Nhau thai điều chỉnh mức độ thường hoặc trên lâm sàng có biểu hiện xuất truyền thuốc đến thai nhi, dẫn đến nồng độ huyết thường gợi ý một nguyên nhân thiếu thuốc khác nhau trong khoang thai, tùy thuộc máu nghiêm trọng hơn. Nếu như giảm tiểu vào cấu trúc phân tử của thuốc (trọng lượng cầu và thiếu máu là tương đối phổ biến trong phân tử, sự ion hóa, gắn kết với protein và độ thai kỳ, thì giảm bạch cầu trung tính lại hiếm tan trong lipid…) và sự vận chuyển tích cực gặp hơn và cần được tìm nguyên nhân hoặc hay khuếch tán. Các nghiên cứu trên động theo dõi chặt chẽ. Sự xuất hiện của các tế bào vật cho thấy nồng độ thuốc gây độc tế bào non (blast) trong máu ngoại vi gợi ý một như Anthracycline và Vinblastine trong chẩn đoán bệnh ác tính về huyết học và chỉ huyết tương của thai nhi giảm so với nồng độ định xét nghiệm tủy đồ và các xét nghiệm huyết tương của mẹ [6]. Do đó, tùy thuộc huyết học chuyên sâu như phân loại miễn vào tác nhân gây độc tế bào được sử dụng, dịch, phân tích nhiễm sắc thể … để chẩn nhau thai hoạt động như một rào cản đối với đoán. khoang thai nhi. Bên cạnh đó, nhau thai sẽ là nơi tiếp xúc trực tiếp với các loại thuốc được III. ẢNH HƯỞNG CỦA LXM CẤP LÊN THAI KỲ dùng trong thời kỳ mang thai cho người mẹ 3.1. Ảnh hưởng lên thai nhi và sau đó, chức năng của nhau thai có thể bị 3.1.1. Ảnh hưởng của bệnh LXM cấp suy giảm. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có của mẹ lên thai liên quan đến tác động của thuốc đối với cấu Các nguyên nhân gây tử vong thai nhi do trúc và sự phát triển bình thường của nhau bệnh LXM cấp gây nên có thể bao gồm: Sự thai [7]. Gần đây, Verheecke và cộng sự đã thiếu máu của mẹ, đông máu nội mạch rải mô tả mức độ căng thẳng oxy hóa tăng lên ở rác và ứ trệ tế bào bạch cầu, sự hình thành nhau thai của con người sau khi tiếp xúc với các vi huyết khối, xuất huyết tổn thương tới thuốc điều trị ung thư với nhiều loại tác nhân hệ thống mạch máu ở nhau thai và ảnh hóa trị liệu khác nhau. Những thay đổi về hưởng đến lưu lượng máu, trao đổi chất dinh hình thái của cấu trúc nhau thai ở cấp độ vĩ dưỡng và cung cấp oxy trong các khoảng mô và vi mô, chẳng hạn như quá trưởng gian bào của nhau thai. Thiếu hụt dinh dưỡng thành nhung mao, thiểu sản nhung mao và ở người mẹ, gây ra do bệnh LXM cấp hoặc phù nhung mao đã được mô tả sau khi tiếp 31
  3. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU xúc với thuốc gây độc tế bào trong tam cá Tác động của thuốc gây độc tế bào lên nguyệt thứ 2 và thứ 3 của thai kỳ [8], [9]. thai nhi có thể được nghiên cứu theo hai góc Như vậy, nhau thai là cơ quan mục tiêu của độ: tác động tức thời, được biết rõ về sảy thai thuốc gây độc tế bào, mặt khác, nhau thai và quái thai; và tác động muộn, ít được biết cũng giúp vận chuyển một số thuốc gây độc đến hơn với các rối loạn nội tiết và tuyến tế bào vào khoang thai nhi, khiến thai nhi sinh dục tiềm ẩn khác, các vấn đề về tăng tiếp xúc với các tác nhân này. trưởng và phát triển, các rối loạn di truyền và quái thai ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Hình 1. Các giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển trước khi sinh [10] Các dấu chấm trên thai nhi đang phát những người dùng cùng một loại thuốc lại có triển cho thấy các vị trí tác động phổ biến độ nhạy cảm khác nhau. Sử dụng hóa chất của các chất gây quái thai. Thanh ngang biểu trong ba tháng đầu làm tăng nguy cơ sảy thai thị sự phát triển của thai nhi trong giai đoạn tự nhiên, thai chết và các dị tật lớn. Các dị tật rất nhạy cảm (màu tím) và giai đoạn ít nhạy phản ánh tuổi thai khi tiếp xúc: thai nhi đặc cảm hơn (màu xanh lá cây). biệt dễ bị tổn thương khi tiếp xúc trong quá Khả năng gây quái thai của bất kỳ loại trình hình thành cơ quan khoảng tuần thứ 2– thuốc nào đều phụ thuộc vào thời gian tiếp 8 sau khi thụ thai. Tim, ống thần kinh và các xúc, liều lượng và các đặc điểm ảnh hưởng chi bị ảnh hưởng sớm hơn vòm miệng và tai đến sự vận chuyển qua nhau thai. Các loại (hình 1). Sau khi hình thành cơ quan, mắt và thuốc có độ hòa tan trong lipid cao, trọng cơ quan sinh dục, cùng với hệ tạo máu và hệ lượng phân tử thấp và liên kết lỏng lẻo với thần kinh trung ương, vẫn dễ bị tổn thương protein huyết tương giúp chuyển thuốc từ mẹ khi tiếp tục bị phơi nhiễm. Phơi nhiễm hóa sang thai dễ dàng hơn. Khuynh hướng di chất trong quý II, quý III làm tăng nguy cơ truyền gây quái thai có thể giải thích tại sao thai chậm phát triển và nhẹ cân khi sinh. 32
  4. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 Đối với tác động muộn, các báo cáo với kết quả đáp ứng kém của mẹ đồng thời thời gian theo dõi lâu dài ở trẻ có tiền sử tiếp không giúp cải thiện kết quả cho thai nhi xúc với hóa chất trong thai kỳ còn ít nhưng [19]. Nếu không điều trị, người mẹ có thể tử đáng tin cậy. Avilés và Neri không tìm thấy vong trong vòng vài tuần hoặc vài tháng bất thường về nhận thức, thần kinh hoặc tâm [13]. Do đó, việc trì hoãn điều trị sẽ có thể lý ở 84 trẻ em tiếp xúc với hóa trị liệu của đưa đến kết quả bất lợi cho cả mẹ và thai. mẹ trước khi sinh trong 18,7 năm theo dõi. Trừ khi thai đã lớn, những trường hợp còn Khả năng sinh sản và nhận thức bình thường lại, việc điều trị nên được bắt đầu càng sớm đã được ghi nhận ở 12 trẻ em ở thế hệ thứ hai càng tốt và cần được thực hiện trong sự phối [11]. Elyce H Cardonick cũng đã chứng hợp chặt chẽ của các bác sĩ thuộc nhiều minh không có sự khác biệt đáng kể nào chuyên khoa, của gia đình và sản phụ [3], được ghi nhận về kỹ năng nhận thức, thành [20]. Cần cân nhắc đến sức khỏe của cả tích học tập hoặc năng lực hành vi giữa người mẹ và thai nhi cũng như mong muốn nhóm tiếp xúc với hóa trị liệu và trẻ em có hiểu biết của người mẹ. Sản phụ cần được không tiếp xúc [12]. Nhiều nghiên cứu khác cung cấp thông tin đầy đủ cả về chẩn đoán, cũng cho thấy sự kết quả tương tự về phát phương pháp điều trị bệnh và các biến chứng triển bình thường về thể chất, thần kinh và có thể xảy ra cho bản thân và thai nhi trong tâm lý cũng như các bất thường về huyết học và sau thai kỳ. Với từng giai đoạn của thai hoặc miễn dịch. Có thể thấy nếu bệnh nhân kỳ, các nguy cơ và rủi ro cho sản phụ và thai mang thai mắc bệnh ác tính về huyết học thì nhi sẽ khác nhau. có thể truyền hóa chất một cách an toàn [10], 3.3. Quản lý theo từng quý của thai kỳ [11], [13], [14], [15]. 3.3.1. Các vấn đề trong quý I của thai kỳ 3.2. Tiên lượng của người mẹ Sảy thai tự nhiên trước 12 tuần tuổi thai Ở bệnh nhân ung thư, mục tiêu chính của là khá thường gặp, xảy ra ở 20% trường hợp việc điều trị là sự sống sót lâu dài của bệnh mang thai ở phụ nữ khỏe mạnh. Tỷ lệ thậm nhân. Do đó, một trong những mối quan tâm chí còn cao hơn ở phụ nữ mắc LXM cấp chính của các bác sĩ ung thư là việc mang [10]. Hóa trị được thực hiện trong quý I có thai có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tiên nguy cơ sảy thai, tử vong thai nhi và dị tật lượng. Cho đến nay, đã có những dữ liệu bẩm sinh cao nhất, dao động từ 10% - 20% đáng tin cậy về tiên lượng của người [20]. Nguy cơ sảy thai tự nhiên cao, dị tật mẹ. Stensheim và cộng sự đã công bố một thai nhi nghiêm trọng và thai chết lưu do nghiên cứu theo dõi dựa trên dân số bao gồm bệnh LXM cấp liên quan đến các biến chứng 42511 phụ nữ với thời gian theo dõi trung của bệnh và các phương pháp điều trị, vì vậy, bình là 9 năm cho thấy tỷ lệ nguy cơ tử vong việc cân nhắc chấm dứt thai kỳ khi chẩn do nguyên nhân cụ thể không có khác biệt đoán được thực hiện trong ba tháng đầu là đáng kể ở phụ nữ mang thai hoặc cho con bú hợp lý. Chấm dứt thai kỳ có chủ đích được so với nhóm không mang thai, điều này cũng coi là an toàn hơn cho người mẹ so với nguy được nhìn nhận ở bệnh nhân LXM cấp [16]. cơ sảy thai tự nhiên do số lượng tiểu cầu và Nhiều nghiên cứu khác cũng đã cho thấy các thông số đông máu có thể được kiểm điều tương tự [17], [18]. Tuy nhiên, sự chậm soát chặt chẽ hơn trong tình huống có chủ trễ trong điều trị bệnh có thể ảnh hưởng đến đích. Chấm dứt thai kỳ bằng thuốc tốt hơn là 33
  5. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU can thiệp bằng phẫu thuật nhưng cả hai đều chất nên lời khuyên trong quý II và quý III có thể thực hiện được nếu kiểm soát chặt chẽ thường là tiếp tục mang thai và bắt đầu hóa quá trình đông cầm máu [3], [7]. trị liệu. Tuy nhiên, với từng trường hợp, vẫn 3.3.2. Các vấn đề trong quý II và III của cần xem xét và theo dõi chặt chẽ do ảnh thai kỳ hưởng ít nhiều của các thuốc hóa chất đến Giai đoạn bào thai (tức là quý II và quý thai nhi cũng như nguy cơ đẻ non, thai chết III) được đặc trưng bởi sự tăng trưởng và lưu có thể xảy ra trong giai đoạn giảm bạch trưởng thành chức năng của các cơ quan và cầu và tiểu cầu. hệ thống đã hình thành. Trong giai đoạn này, Ở tất cả các thai kỳ dưới 36 tuần, thai tác động của hóa chất sẽ giảm đi và có thể dự phụ nên được thảo luận về nguy cơ tử vong đoán được[5]. Việc điều trị hóa chất trong của thai liên quan đến sinh non với bác sĩ sơ quý II và III của thai kỳ trong nhiều bài báo sinh có kinh nghiệm. Trong khoảng thời gian cáo cho thấy hiếm khi gây dị tật bẩm sinh, từ 24 đến 28 tuần, nguy cơ sinh non là rất nhưng làm tăng nguy cơ sảy thai muộn, sinh cao, cần phải cân nhắc cân bằng giữa nguy non, thai nhi chậm phát triển, giảm bạch cầu cơ phơi nhiễm hóa chất của thai với nguy cơ trung tính và nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh sinh non trong giai đoạn này, vào thảo luận [3], [20]. Tuy vậy, ngày càng có nhiều báo kỹ với bác sĩ sơ sinh có kinh nghiệm. Tỷ lệ cáo ghi nhận về các phương pháp điều trị hóa sống sót sau khi sinh của thai khỏe mạnh chất thành công trong quý II và III đối với ngoài 28 tuần tuổi là > 90% ở hầu hết các nhiều nhiều bệnh lý ung thư khác nhau, bao trung tâm lớn, thậm chí còn cao hơn (trên gồm cả LXM cấp. Chính vì vậy, việc sinh ra 95%) nếu thai nhi được sinh ra sau khi được một em bé khỏe mạnh, không dị tật vẫn là trên 32 tuần. Việc sinh em bé trước khi bắt kết quả có khả năng cao. Với thai nhi ở quý đầu hóa trị liệu có thể được coi là hợp lý nếu II và quý III, những ảnh hưởng của hóa trị người mẹ mang thai sau tuần thứ 30. Việc liệu là tương đối thấp nhưng về lâu dài, điều trị hóa chất ở những tuần thai cuối những ảnh hưởng này đối với trẻ sơ sinh thì không được khuyến cáo do khả năng khởi vẫn chưa chắc chắn. Thai phụ cũng nên được phát chuyển dạ sẽ ngày càng tăng lên trước thông báo rằng việc trì hoãn điều trị bệnh sẽ khi tủy xương có thể hồi phục sau hóa chất gây rủi ro đáng kể cho sức khỏe của cả mẹ và [3]. Hơn nữa, suy tủy ở trẻ sơ sinh thoáng thai nhi. qua là một biến chứng hiếm gặp, được thấy Điều trị hóa chất có thể giúp người mẹ sau khi dùng hóa chất ở thai gần đủ tháng kiểm soát quá trình diễn tiến của bệnh đặc (tức là sau tuần thứ 34 của thai kỳ) [13]. Để biệt trong những tình huống, bối cảnh lâm tránh những kết quả như vậy, nên lên kế sàng cấp tính do bệnh lý LXM cấp gây nên, hoạch cách nhau ít nhất 3 tuần giữa thời và trong nhiều trường hợp các rối loạn này điểm dùng thuốc và thời điểm dự kiến sinh có thể đe dọa trực tiếp đến tính mạng của sản để tránh tích tụ độc tố suy tủy ở trẻ sơ sinh. phụ. Hơn nữa, việc kiểm soát bệnh tật cũng Nhiều khuyến cáo lấy mốc 36 tuần tuổi thai có thể tạo thêm thời gian để thai nhi phát để đưa ra khuyến cáo không điều trị hóa chất triển trong buồng tử cung. Do việc sinh con ở [3]. giai đoạn này là không thường xuyên và 3.3.3. Các vấn đề ở giai đoạn sau sinh cũng không nên trì hoãn việc điều trị hóa 34
  6. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 Đối với trẻ sơ sinh, nồng độ các tác nhân xúc càng sớm càng tốt, đặc biệt là trong vài hóa chất khác nhau trong sữa mẹ và mặc dù ngày đầu sau sinh. Điều này có thể ảnh độc tính ở trẻ sơ sinh trong thời kỳ cho con hưởng tới thời điểm tối ưu của việc điều trị bú vẫn chưa được xác định chính xác, nhưng hóa chất tiếp theo. Việc trì hoãn điều trị có hầu hết người mẹ được khuyên nên ngừng thể đưa đến kết quả bất lợi cho người mẹ [3]. cho con bú trong quá trình điều trị ung thư vì Sản phụ có nguy cơ cao bị huyết khối tĩnh lo ngại tác dụng phụ nghiêm trọng có thể xảy mạch, đặc biệt là trong 10 ngày đầu sau khi ra đối với trẻ bú mẹ. Tuy nhiên, việc cai sữa sinh. Cần đánh giá nguy cơ khi sinh và có thể gây tổn thương tâm lý cho cả mẹ và heparin trọng lượng phân tử thấp được con và trong một số trường hợp có thể là khuyến cáo nên dùng sau sinh 4h nếu số không cần thiết. Theo giá trị sinh học và tâm lượng tiểu cầu được duy trì trên 50 G/L, và lý của việc cho con bú, các bác sĩ ung thư, nên làm xét nghiệm theo dõi sát tình trạng bác sĩ huyết học và bác sĩ sơ sinh nên nhận đông cầm máu sau sinh [3]. thức được sự an toàn của một số loại thuốc được sử dụng trong quản lý ung thư khi dùng IV. QUẢN LÝ THEO TỪNG BỆNH LƠ XÊ MI trong thời gian cho con bú. Etoposide dường CẤP như không thể phát hiện được trong sữa mẹ 4.1. Với LXM cấp dòng tủy (AML) nói sau 24 giờ kể từ khi dùng. Tương tự, có một chung số bằng chứng về tính an toàn của Phác đồ điều trị AML ở người trẻ tuổi đã metoclopramide và các yếu tố tăng trưởng trở thành phác đồ tiêu chuẩn, kinh điển bao (granulocyte colonystimulating factor G- gồm sự kết hợp của cytarabine với CSF). Ngược lại, nên tránh dùng anthracycline trong liệu trình điều trị tấn Doxorubicin, Mitoxantrone và Methotrexate công để đạt được lui bệnh hoàn toàn. Điều trị liều cao ở những bệnh nhân đang cho con bú củng cố được thực hiện để giảm thêm gánh do thuốc có thể bài tiết qua sữa [21]. Rất ít nặng tế bào LXM và duy trì tình trạng thuyên dữ liệu về sự bài tiết sữa của các tác nhân giảm (ví dụ phác đồ cytarabine liều cao), thuốc nhắm đích và không thể đưa ra kết điều trị hóa chất phải được thực hiện càng luận chắc chắn. Như vậy, sự an toàn của việc sớm càng tốt. Tuy nhiên, việc điều trị nên cho con bú trong quá trình điều trị hóa chất được lựa chọn cho những tình huống cụ thể nên được đánh giá dựa trên sức khỏe của bà tùy theo thời kỳ mang thai, tình trạng thai mẹ và các loại thuốc được sử dụng. Nên nhi, cũng như tình trạng lâm sàng của người tham khảo các chuyên gia về việc cho con bú mẹ. Tỷ lệ đạt lui bệnh khoảng 70–75% hiện với bác sĩ sơ sinh. Khi nghi ngờ, không nên được báo cáo ở phụ nữ mang thai trong nhiều cho con bú. nghiên cứu, trong khi thời gian sống sót Đối với người mẹ, sau khi sinh nên lập trung bình phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác kế hoạch điều trị hóa chất tiếp phù hợp để nhau, bao gồm cả những bất thường về di hoàn thành sớm nhất có thể, nhằm đạt tình truyền tế bào [13]. Tỷ lệ sống sót được thấy trạng thuyên giảm, các yếu tố nguy cơ tiên nhiều hơn đáng kể ở những bệnh nhân bắt lượng và số chu kỳ được áp dụng theo cách đầu điều trị tấn công trước khi sinh so với tương tự như ở bệnh nhân không mang thai. những bệnh nhân trì hoãn và được điều trị Điều quan trọng là nên cho mẹ và con tiếp sau khi sinh. 35
  7. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU Cytarabine là một chất chống chuyển hóa nếu được sử dụng trong khoảng thời gian thai có khả năng gây quái thai ở mô hình động từ 3 đến 5 tuần tuổi có liên quan đến tỷ lệ dị vật, do vậy có nguy cơ đáng kể đối với thai tật thai nhi cao, đặc biệt là các khuyết tật về nhi, hầu hết các dị tật thai nhi dường như xảy xương và bất thường của ống thần kinh, ra sau khi tiếp xúc với thuốc trong ba tháng tuyến ức, tim và thận. Mạng lưới Bệnh bạch đầu tiên, việc sử dụng cytarabine không được cầu châu Âu (ELN) khuyến nghị tránh dùng khuyến khích trong quý I. Anthracyclines là ATRA trong ba tháng đầu và phụ nữ nên một phần không thể thiếu trong phác đồ điều được tư vấn để xem xét việc chấm dứt thai trị AML; các dị tật thai nhi được quan sát kỳ [23], [24]. Nếu việc chấm dứt thai kỳ thấy sau khi điều trị bằng anthracycline không được chấp nhận do mong muốn từ dường như xảy ra trong quý I, đặc biệt khi phía gia đình và sản phụ; nên bắt đầu điều trị tiếp xúc với thuốc từ tuần thứ 2 đến tuần thứ bằng anthracycline và áp dụng ATRA trong 8 của thai kỳ. Trong các anthracycline, quý II của thai kỳ [3], [20]. Daunorubicin và daunorubicin hoặc doxorubicin được ưu tiên doxorubicin là anthracycline được lựa chọn, sử dụng hơn idarubicin và doxorubicin không chỉ bởi vì có nhiều kinh nghiệm hơn liposome, vì chúng ít ưa lipid hơn nên ít vận về việc sử dụng trong thai kỳ, mà còn bởi vì chuyển qua nhau thai [3], [5], [20], [22]. Độc nó có thể gây ra ít độc tính cho thai nhi hơn tính do chế độ điều trị gây ra trong ba tháng so với idarubicin. Asen trioxide (ATO) nay đầu được công nhận rộng rãi cũng như kết đã trở thành thuốc điều trị hàng một cho quả thai kỳ không thuận lợi đã dẫn đến các bệnh nhân APL nhưng không được khuyến khuyến cáo đồng thuận nên đình chỉ thai nghị dùng ở bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ nghén để điều trị bệnh. Nguy cơ dị tật thai vì nó có độc tính cao đối với phôi thai. nhi thường được chấp nhận là sẽ giảm khi Điều trị sau khi bắt đầu quý II của thai kỳ thai kỳ tiến triển, việc tiếp xúc với hóa chất mang lại kết quả thành công hơn. Nhiều quý II và III có thể làm tăng tỷ lệ thai chậm nghiên cứu cho rằng, ATRA có thể được phát triển trong tử cung, sinh non và thai chết dùng đơn độc và việc bổ sung anthracycline lưu, nhưng không làm tăng tỷ lệ mắc các dị có thể tiến hành sau khi sinh. Điều này có thể tật bẩm sinh. Điều trị trong quý III thường ít dẫn đến tỷ lệ thuyên giảm tương đương với gây ra biến chứng nhất, tuy nhiên, thời điểm ATRA kết hợp và hóa trị. Tuy nhiên, sử chính xác của hóa trị phải được lên kế hoạch dụng ATRA như một tác nhân đơn độc làm cẩn thận để không gây ra tình trạng suy tủy tăng nguy cơ mắc hội chứng biệt hóa và khả ngay trước khi sinh và lập kế hoạch chăm năng kháng ATRA [25]. Điều này cần được sóc hỗ trợ sau khi sinh. [3], [20] theo dõi cẩn thận và việc đánh giá bằng các 4.2. Với LXM cấp thể tiền tủy bào đáp ứng phân tử có thể được sử dụng để chỉ (APL) ra sự cần thiết phải của hóa chất kết Rối loạn đông máu là một trong những hợp. Ngoài ra, sự kết hợp ATRA và đặc trưng liên quan đến APL làm phức tạp Anthracycline được khuyến nghị cho những thêm việc quản lý trong thai kỳ, chuyển dạ người bệnh nhóm nguy cơ cao, bị tăng bạch và sinh nở. Điều trị tiêu chuẩn bao gồm các cầu. Vì liệu pháp ATRA trong thai kỳ có liên thuốc ATRA, asen trioxide và anthracycline, quan đến độc tính trên tim của thai nhi bao nhưng tất cả các loại thuốc này đều có thể gồm rối loạn nhịp tim có thể hồi phục, nên gây ảnh hưởng trong thai kỳ. ATRA vẫn là cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo yếu tố then chốt trong điều trị APL, nhưng dõi tim thai [20]. 36
  8. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 Bảng 1: Một số báo cáo trường hợp điều trị APL trong thai kỳ trên thế giới. Kết quả thai Phác đồ điều Trẻ khỏe Kết quả sản Tác giả Năm N Quý (n) kỳ trị mạnh phụ Miguek A Quý I (5) 5 ST ATRA+IDA - 11/12 đạt lui Sanz và cs 2015 14 Quý II, III(7) 8 (6 đẻ mổ, 2 bệnh hoàn ATRA+IDA 8 [23] Sau sinh(2) đẻ thường) toàn (CR) Youcef 2 ST, Quý I (3) ATRA - Chelghoum 2005 4 1 thai chết lưu 100 % đạt CR và cs [13] Quý III (1) 1 đẻ đủ tháng ATRA 1 Quý I (1) ST AIDA - Troitskaia và 2013 7 Quý II (3) 4/6 đẻ mổ IDA+ATRA 100 % đạt CR cs [26] 5 Quý III (3) 2 đẻ thường 3+7+ATRA Quý I (4) 5 ST, Dauno+ATRA - CR Zhang Xinhui Quý II (2) 1 phá thai ATRA+ATO 2021 8 và cs [27] 1 CR, 1 tử Quý III (2) 2 đẻ mổ 2 ATRA vong Quý I (1) Phá thai ATRA - CR A.J.M. Saleh 1 CR, 3 2014 5 Quý 2 (3) 3 Sảy thai ATRA (2) [28] 1 trường hợp Quý 3 (1) 1 Đẻ thường ATRA+3+7 (1) mất theo dõi 4.3. Với LXM cấp dòng lympho (ALL) tật và tử vong thai nhi trên mô hình động vật. Tỷ lệ mắc bệnh ALL cao hơn ở trẻ em và TKI, cần thiết cho bệnh nhân ALL có nhiễm thanh thiếu niên và do đó có ít báo cáo hơn sắc thể Philadelphia dương tính, lại có nguy về kết quả trong thai kỳ. Dữ liệu hạn chế về cơ gây quái thai. Với những hạn chế này, tại điều trị ALL trong thai kỳ gây cản trở trong một số tài liệu hướng dẫn đã chia thời gian việc đưa ra các khuyến nghị tuyệt đối cho mang thai thành 2 nhóm để xem xét: trước và việc quản lý trên nhóm đối tượng này. Việc sau 20 tuần tuổi thai. Trước tuần thứ 20 của quản lý ALL trong thai kỳ cũng đưa ra thai kỳ, nên cân nhắc chấm dứt thai kỳ và sau những thách thức tương tự AML, tuy nhiên đó tiến hành điều trị thông thường. Sau 20 trong các phác đồ điều trị ALL đòi hỏi nhiều tuần tuổi thai, có thể tiến hành hóa trị bắc cầu chế độ điều trị bao gồm: tấn công, củng cố, mà không dùng Methotrexate cho đến quý III duy trì và dự phòng thâm nhiễm thần kinh của thai kỳ. [5], [20] Một thời gian ngắn điều trung ương. Với nhiều thuốc đa dạng hơn với trị bằng Prednisolone đơn thuần trong 1 đến phác đồ điều trị AML. Methotrexate liều cao 2 tuần có thể cho phép người bệnh bước vào đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các thời kỳ mang thai qua 20 tuần để sau đó phác đồ, nhưng chất này được xác nhận là được hóa trị liệu chuyên sâu gây ra hội chứng Aminopterin (loạn sản hơn. Prednisolone đơn thuần cũng có thể xương sọ, dị tật tai và tật hàm được khuyến nghị cho người bệnh mang thai nhỏ). Asparaginase gây ra sự gia tăng tỷ lệ dị gần 32 tuần. 37
  9. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU Bảng 2: Khuyến cáo sử dụng một số hóa chất khác điều trị ALL trong thai kỳ [3], [14], [20], [29] Hóa chất Ảnh hưởng đến thai nhi/trẻ sơ sinh Khuyến cáo Các nghiên cứu trên động vật cho thấy những bất thường về xương của thai nhi do E. Chỉ sử dụng thận trọng khi coli asparaginase. Không có nghiên cứu trên có chỉ định rõ ràng, sau khi Asparaginase người về asparaginase đơn trị. Cân nặng khi cân nhắc cẩn thận giữa rủi sinh thấp được ghi nhận sau asparaginase ro và lợi ích. trong hóa trị liệu đa tác nhân. Báo cáo có khả năng gây quái thai không đặc hiệu ở 6 trong số 11 (55%) phơi nhiễm với Quý I: Nên chấm dứt thai Cyclophosphamide một tác nhân. Điều này trái ngược với một số kỳ. báo cáo về việc sử dụng các phác đồ kết hợp Quý II/III: Bình thường mà không có kết quả bất lợi. Quý I: Các dị tật ở chi và tai, thai chết lưu, Quý I: Nên chấm dứt thai Cytarabin thai chậm phát triển được ghi nhận sau khi kỳ. điều trị toàn thân. Quý II/III: Bình thường. Nguy cơ phơi nhiễm với một tác nhân đơn lẻ Quý I: Sử dụng thận trọng. chưa được biết đến. Phơi nhiễm trong quý I 6-MP Quý II/III: có thể sử dụng kết hợp với hóa trị liệu khác cho thấy khoảng bình thường. 30% nguy cơ gây quái thai nói chung. Quý I: Chống chỉ định. Thuốc ức chế Quý II/III: Tránh nếu có Các dị tật bẩm sinh, đặc biệt là thận, ruột, Tyrosine kinase thể. Hãy hết sức thận não, tim, xương. Rủi ro lớn nhất trong ba (dasatinib, trọng; sử dụng khi lợi ích tháng đầu tiên. imatinib, nilotinib) cho người mẹ rõ ràng lớn hơn nguy cơ cho thai nhi. Không có dị tật bẩm sinh hoặc độc tính thần Không có bằng chứng hạn Vincristin kinh được ghi nhận. Do thuốc có ái lực cao chế sử dụng trong thời kỳ với protein, không qua được hàng rào rau thai mang thai. Rituximab, một kháng thể đơn dòng xúc với rituximab cho đến khi có dữ liệu xác kháng CD20, thuốc này được sử dụng trong định hơn. [20] Với các thuốc nhắm đích mới những trường hợp ALL tế bào B với CD20 hơn, các nghiên cứu trên phụ nữ có thai còn dương tính, có khả năng đi qua nhau thai rất khiêm tốn. thông qua một cơ chế trung gian thụ thể đặc Kết quả của ALL được phân tầng theo hiệu [5]. Các đánh giá về việc tiếp xúc với một số yếu tố rủi ro và những người bệnh có rituximab trong thời kỳ mang thai đã bị ảnh tiên lượng tốt có thể áp dụng các phương hưởng do sử dụng hóa trị liệu đồng thời và pháp hóa trị liệu ít chuyên sâu hơn, và những mặc dù ít có dị tật bẩm sinh hoặc nhiễm người bệnh có bệnh nguy cơ cao hơn sẽ cần trùng sơ sinh xảy ra, phụ nữ nên tiếp tục can thiệp theo tốc độ tiến triển của bệnh. Các tránh mang thai trong ≥12 tháng sau khi tiếp chế độ điều trị trong thời kỳ mang thai bao 38
  10. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 gồm cytarabine, cyclophosphamide, L- sinh chủ động sau 32 tuần nên được lên kế asparaginase, anthracyclines, vincristine và hoạch nhằm mục đích tránh tình trang suy steroid đã được xem xét trong các báo cáo tủy khi sinh [20]. (Bảng 2) [30], [31]. Cũng như AML, việc Bảng 3: Một số báo cáo điều trị AML và ALL trong thai kỳ trên thế giới Chẩn đoán Điều trị hóa chất Tác giả Năm N Quý thai (n) Kết quả thai kỳ (n) trong thai kỳ (n) 15 sảy thai (ST) Quý I (9) Cheghoum AML (31), 23 trẻ đc sinh ra (trong 2005 37 Quý II (10) 15 [13] ALL (6) đó có 15 trẻ đã tiếp xúc Quý III (18) với hóa chất trước sinh 12 ST Quý I (7) A.J.M. Saleh AML (15), 10 9 trẻ được sinh ra (6 trẻ 2014 21 Quý II (7) [28] ALL (6) (7 AML, 3 ALL) đã tiếp xúc với hóa chất Quý III (7) trước sinh) 1 phá thai Fracchiolla Quý I (1) 2017 5 AML (5) 4 1 thai chết lưu [32] Quý II, III (4) 3 trẻ sinh ra AML (28) Quý I (12) 10 sảy thai hoặc phá thai Peng Wang ALL (16) 2021 52 Quý II, III 17 7 trẻ sinh ra có tiếp xúc [18] APL (6) (40) với hóa chất MPAL (2) V. ĐIỀU TRỊ HỖ TRỢ KHÁC TRONG THAI KỲ những bệnh nhân có các triệu chứng liên 5.1. Kiểm soát tình trạng ứ trệ bạch quan đến ứ trệ bạch cầu, hoặc dự phòng tiêu cầu khối u ở trường hợp bạch cầu cao, đây như Hydroxyurea là thuốc gây độc tế bào có một biện pháp tạm thời. Liệu pháp này được tác dụng ức chế tổng hợp DNA. Phương bà mẹ và thai nhi dung nạp tốt và có thể pháp điều trị này không có tác dụng chữa được sử dụng tạm thời. Tuy nhiên phương bệnh. Thuốc thường được sử dụng trong điều pháp này không khuyến cáo cho APL khi trị AML tại thời điểm chẩn đoán trong bạch cầu tăng cao [24]. trường hợp tăng bạch cầu quá cao trong lúc 5.2. Thuốc chống đông chờ bắt đầu chế độ hóa trị. Thuốc lại có khả Bản thân quá trình mang thai thường kèm năng gây quái thai nghiêm trọng ở động vật, theo trạng thái tăng đông, điều này có thể nhưng không có báo cáo nào cho thấy bất trầm trọng hơn trên bối cảnh bệnh lý LXM thường về nhiễm sắc thể ở trẻ sơ sinh hoặc dị cấp kèm theo, do vậy phụ nữ mang thai mắc tật nặng. Tuy nhiên, hydroxyurea không nên LXM cấp sẽ tăng nguy cơ huyết khối nhau là lựa chọn điều trị trong thời kỳ mang thai thai và huyết khối tĩnh mạch, đặc biệt là [29]. Gạn bạch cầu là phương pháp hiệu quả trong 10 ngày đầu sau khi sinh. Heparin để giảm nhanh tình trạng tăng cao bạch cầu ở trọng lượng phân tử thấp (LMWH), không 39
  11. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU qua nhau thai, có thể được sử dụng cả trong gây quái thai. Không có sẵn dữ liệu về con dự phòng và điều trị huyết khối [5]. Warfarin người liên quan đến các chế phẩm chứa là thuốc chống đông đường uống có tác dụng liposom hoặc phức hợp lipid, mặc dù bản ức chế tổng hợp các yếu tố đông máu phụ chất ưa mỡ của chúng có khả năng làm tăng thuộc vitamin K, nhưng chống chỉ định sử quá trình vận chuyển qua nhau thai. Tuy dụng trong thai kỳ [29]. nhiên, các nghiên cứu trên động vật không 5.3. Thuốc chống nôn tiết lộ bằng chứng về khả năng gây quái Buồn nôn và nôn sau hóa trị liệu là điều thai. Ambisome, abelcet và amphotericin B có thể xảy ra và có thể cần điều trị, thuốc được xếp hạng nhóm B về các thuốc dành chống nôn được lựa chọn đầu tiên là thuốc cho thai kỳ của Cơ quan Quản lý Thực phẩm kháng histamine, cyclizine và promethazine. và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Do giảm tác Prochlorperazine và metoclopromide được dụng gây độc thận của thuốc Amphotericin B coi là thuốc thứ hai vì chúng có thể liên quan tiêu chuẩn và giảm tỷ lệ độc tính liên quan đến phản ứng loạn trương lực cơ ở đến truyền dịch, Amphotericin phức hợp mẹ. Ondansetron có thể được sử dụng trong liposome hoặc lipid là thuốc chống nấm trường hợp các liệu pháp chống nôn bậc một được ưu tiên trong điều trị dự phòng và điều và bậc hai không thành công [3], [5]. trị trong thai kỳ. Các azoles đã được chứng 5.4. Thuốc kháng sinh minh là có tác dụng gây quái thai trong các Người bệnh thường bị giảm bạch cầu nghiên cứu trên động vật. Posaconazole, trung tính nghiêm trọng khi điều trị hóa caspofungin và itraconazole được xếp loại C chất. Nguy cơ nhiễm trùng cao, đặc biệt là và fluconazole thuộc loại D [20]. khi bắt đầu sinh và sau khi màng ối 5.6. Vấn đề truyền máu vỡ. Thuốc kháng sinh có thể được xem xét Máu và các sản phẩm máu âm tính với cho mục đích dự phòng hoặc điều Cytomegalovirus (CMV) nên được sử dụng trị. Penicillin, erythromycin, metronidazole trong thai kỳ bất kể tình trạng CMV huyết và cephalosporin có thể được sử dụng một thanh (để ngăn ngừa CMV bẩm sinh) nhưng cách an toàn. Nên tránh sử dụng augmentin không cần thiết trong quá trình chuyển (amoxicillin và acid clavulanic) nếu có thể vì dạ. Trong trường hợp khẩn cấp, nếu không làm tăng nguy cơ viêm ruột hoại tử ở trẻ sơ có sản phẩm âm tính với CMV thì nên ưu sinh. Clindamycin, piperacillin-tazobactam tiên sử dụng sản phẩm đã lọc bạch cầu. (tazocin), carbapenem và gentamicin có thể cân nhắc sử dụng nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn VI. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ huyết. Dữ liệu tương đối hạn chế tồn tại về Cách tiếp cận để quản lý LXM cấp trong khả năng dung nạp của aminoglycoside. Nên thai kỳ vẫn luôn là một thách thức đáng kể, tránh quinolone, tetracycline và liên quan đến việc xem xét loại LXM cấp, sự sulphonamides [3]. cần thiết phải can thiệp và đánh giá cẩn thận 5.5. Thuốc chống nấm rủi ro cho mẹ và thai nhi. Đối với LXM cấp Amphotericin B đại diện cho phương diễn biến phức tạp xuất hiện trong quý I, việc pháp điều trị bằng thuốc kháng nấm toàn chấm dứt thai kỳ thường được khuyến khích. thân đã có nhiều kinh nghiệm nhất trong thời Đối với LXM cấp được chẩn đoán muộn kỳ mang thai, không có báo cáo nào về việc hơn, vào quý II, III trong thai kỳ, có thể lựa 40
  12. TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 544 - THÁNG 11 - QUYỂN 1 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024 chọn phương pháp điều trị mang lại kết quả chemotherapeutic agents in a mouse model. thuận lợi nhất tùy theo thực tế. Luôn cần Reprod Sci, 18(1), 57–63. phối hợp giữa các chuyên ngành Huyết học, 7. Maggen C., Wolters V.E.R.A., Cardonick Sản khoa và Nhi khoa để bảo đảm chăm sóc E. và cộng sự. (2020). Pregnancy and toàn diện kịp thời cho cả mẹ và con. Cancer: the INCIP Project. Curr Oncol Rep, Tại viện Huyết học – Truyền máu Trung 22(2), 17. ương, chúng tôi đã hoàn thành báo cáo 8. Verheecke M., Cortès Calabuig A., Finalet nghiên cứu trên nhóm đối tượng này trong 5 Ferreiro J. và cộng sự. (2018). Genetic and năm với 22 sản phụ, cho thấy tiên lượng vẫn microscopic assessment of the human hết sức dè dặt ở cả sản phụ và thai nhi. chemotherapy-exposed placenta reveals Chúng tôi vẫn cần tích lũy thêm kinh nghiệm possible pathways contributive to fetal về kết quả và việc quản lý tình trạng tương growth restriction. Placenta, 64, 61–70. đối hiếm gặp này để có thể tăng cường 9. Abellar R.G., Pepperell J.R., Greco D. và chuyên môn và độ chính xác của các khuyến cộng sự. (2009). Effects of chemotherapy nghị hiện có. during pregnancy on the placenta. Pediatr Dev Pathol, 12(1), 35–41. TÀI LIỆU THAM KHẢO 10. Cardonick E. và Iacobucci A. (2004). Use 1. Phạm Quang Vinh (2019), Lơ xê mi cấp, of chemotherapy during human pregnancy. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. The Lancet Oncology, 5(5), 283–291. 2. Hurley, Timothy J., James V. McKinnell, 11. Avilés A. và Neri N. (2001). Hematological and Mehraboon S. Irani. “Hematologic malignancies and pregnancy: a final report of malignancies in pregnancy.” Obstetrics and 84 children who received chemotherapy in Gynecology Clinics 32.4 (2005): 595-614., . utero. Clin Lymphoma, 2(3), 173–177. 3. Ali S., Jones G.L., Culligan D.J. và cộng 12. Cardonick E.H., Gringlas M.B., Hunter K. sự. (2015). Guidelines for the diagnosis and và cộng sự. (2015). Development of children management of acute myeloid leukaemia in born to mothers with cancer during pregnancy. British Journal of Haematology, pregnancy: comparing in utero 170(4), 487–495. chemotherapy-exposed children with 4. Arber D.A., Orazi A., Hasserjian R. và nonexposed controls. Am J Obstet Gynecol, cộng sự. (2016). The 2016 revision to the 212(5), 658.e1–8. World Health Organization classification of 13. Chelghoum Y., Vey N., Raffoux E. và cộng myeloid neoplasms and acute leukemia. sự. (2005). Acute leukemia during Blood, 127(20), 2391–2405. pregnancy: a report on 37 patients and a 5. Lishner M., Avivi I., Apperley J.F. và cộng review of the literature. Cancer, 104(1), 110– sự. (2016). Hematologic Malignancies in 117. Pregnancy: Management Guidelines From an 14. Van Calsteren K. (2010). Chemotherapy International Consensus Meeting. JCO, during pregnancy: pharmacokinetics and 34(5), 501–508. impact on foetal neurological development. 6. Van Calsteren K., Verbesselt R., Van Bree Facts Views Vis Obgyn, 2(4), 278–286. R. và cộng sự. (2011). Substantial variation 15. Nulman I., Laslo D., Fried S. và cộng sự. in transplacental transfer of (2001). Neurodevelopment of children 41
  13. KỶ YẾU CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU exposed in utero to treatment of maternal European LeukemiaNet. Blood, 133(15), malignancy. Br J Cancer, 85(11), 1611– 1630–1643. 1618. 25. Fenaux P., Chastang C., Chevret S. và 16. Stensheim H., Møller B., van Dijk T. và cộng sự. (1999). A randomized comparison cộng sự. (2009). Cause-specific survival for of all transretinoic acid (ATRA) followed by women diagnosed with cancer during chemotherapy and ATRA plus chemotherapy pregnancy or lactation: a registry-based and the role of maintenance therapy in newly cohort study. J Clin Oncol, 27(1), 45–51. diagnosed acute promyelocytic leukemia. 17. Maggen C., Dierickx D., Lugtenburg P. và The European APL Group. Blood, 94(4), cộng sự. (2019). Obstetric and maternal 1192–1200. outcomes in patients diagnosed with 26. Troitskaia V.V., Parovichnikova E.N., Hodgkin lymphoma during pregnancy: a Sokolov A.N. và cộng sự. (2013). multicentre, retrospective, cohort study. [Treatment for acute promyelocytic leukemia Lancet Haematol, 6(11), e551–e561. during pregnancy]. Ter Arkh, 85(10), 56–63. 18. Wang P., Yang Z., Shan M. và cộng sự. 27. Xinhui Z., Shanglong F., Li Z. và cộng sự. (2021). Maternal and Fetal Outcomes of (2021). Treatment and prognosis analysis of Acute Leukemia in Pregnancy: A acute leukemia patients during pregnancy. Retrospective Study of 52 Patients. Frontiers Journal of Leukemia and Lymphoma, 30(04), in Oncology, 11. 212–215. 19. Greenlund L.J., Letendre L., và Tefferi A. 28. Saleh A.J.M., Alhejazi A., Ahmed S.O. và (2001). Acute leukemia during pregnancy: a cộng sự. (2014). Leukemia during single institutional experience with 17 cases. pregnancy: Long term follow up of 32 cases Leuk Lymphoma, 41(5–6), 571–577. from a single institution. 20. Milojkovic D. và Apperley J.F. (2014). Hematology/Oncology and Stem Cell How I treat leukemia during pregnancy. Therapy, 7(2), 63–68. Blood, 123(7), 974–984. 29. Koren G. và Lishner M. (2010). Pregnancy 21. Pistilli B., Bellettini G., Giovannetti E. và and Commonly Used Drugs in Hematology cộng sự. (2013). Chemotherapy, targeted Practice. Hematology, 2010(1), 160–165. agents, antiemetics and growth-factors in 30. Nadeem S., Elahi E., Iftikhar I. và cộng sự. human milk: How should we counsel cancer Management of Acute Lymphoblastic patients about breastfeeding?. Cancer Leukemia During Pregnancy: A Case Report Treatment Reviews, 39(3), 207–211. and Review of the Literature. Cureus, 16(1), 22. Thomas X. (2015). Acute myeloid leukemia e52489. in the pregnant patient. European Journal of 31. Aldarweesh M., Khadadah F., Alazmi E. Haematology, 95(2), 124–136. và cộng sự. (2023). Acute Lymphocytic 23. Sanz M.A., Montesinos P., Casale M.F. và Leukemia (ALL) in Pregnancy, Case Report cộng sự. (2015). Maternal and fetal and Literature Review. Blood, outcomes in pregnant women with acute 142(Supplement 1), 5814. promyelocytic leukemia. Ann Hematol, 32. Fracchiolla N.S., Sciumè M., Dambrosi F. 94(8), 1357–1361. và cộng sự. (2017). Acute myeloid leukemia 24. Sanz M.A., Fenaux P., Tallman M.S. và and pregnancy: clinical experience from a cộng sự. (2019). Management of acute single center and a review of the literature. promyelocytic leukemia: updated BMC Cancer, 17(1), 442. recommendations from an expert panel of the 42
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2