BỘ NỘI VỤ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ................./................. ........./........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ LAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ NỘI VỤ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ................./................. ........./........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ LAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Vũ Trọng Hách. Các kết quả nghiên cứu
được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan, có trích dẫn nguồn
tài liệu rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Lan
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi xin chân
thành cảm ơn đến Phân viện Học viện Hành chính khu vực miền Trung, Khoa
Sau đại học Học viện Hành chính Quốc gia cùng toàn thể quí thầy cô trong
Học viện Hành chính Quốc gia, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo
cho tôi suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến giảng viên PGS. TS. Vũ Trọng Hách
người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự
quan tâm.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự tận tâm
và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả
rất mong nhận được những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Nguyễn Thị Lan
Học viên
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng biểu, biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1.CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH .................................................... 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ...................................... 8
1.1.2. Khái niệm về công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và mối quan hệ
giữa Dân số và Kế hoạch hóa gia đình .......................................................... 15
1.1.3. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình ............. 16
1.1.4. Đặc điểm của quản lý nhà nước về công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình .............................................................................................................. 18
1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia
đình .............................................................................................................. 20
1.2.1. Bảo đảm cho công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình theo định hướng
mục tiêu chương trình của nhà nước ............................................................. 20
1.2.2. Bảo đảm các hoạt động về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tuân thủ
theo quy định của pháp luật .......................................................................... 21
1.2.3. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình là nâng
cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của quốc gia ........................................................................ 23
1.2.4. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình có vai trò
quan trọng đối với phát triển kinh tế vi mô và vĩ mô .................................... 25
1.2.5. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình góp phần
quan trọng đối với phát triển xã hội và ổn định môi trường ......................... 26
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình . 31
1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về công tác Dân số-
Kế hoạch hóa gia đình .................................................................................. 35
1.4.1 Tác động của yếu tố chính trị và pháp luật ........................................... 35
1.4.2. Tác động của tổ chức bộ máy Dân số-Kế hoạch hóa gia đình ............. 39
1.4.3. Tác động của yếu tố kinh tế ................................................................ 40
1.4.4. Tác động của yếu tố phong tục tập quán ............................................. 41
1.4.5. Tác động của yếu tố hội nhập quốc tế đối với quản lý nhà nước về công
tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình ................................................................ 42
1.5. Kinh ngiệm quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
ở một số địa phương ..................................................................................... 45
1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................... 45
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Trị ........................................................ 46
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Bình ......................................... 48
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 50
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
BÌNH ........................................................................................................... 51
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế
hoạch hóa gia đình của tỉnh Quảng Bình ...................................................... 51
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 51
2.1.2. Điều kiện phát triển kinh tế ................................................................. 52
2.1.3. Điều kiện phát triển xã hội .................................................................. 53
2.2. Thực trạng công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình .................................................................................................. 54
2.2.1. Quy mô dân số và biến động dân số.................................................... 54
2.2.2. Cơ cấu dân số ..................................................................................... 56
2.2.3. Chất lượng dân số ............................................................................... 59
2.2.4. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân ....................... 61
2.2.5. Kế hoạch hóa gia đình ........................................................................ 61
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa
gia đình tỉnh Quảng Bình ............................................................................. 63
2.3.1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về công tác Dân số -
Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................................... 63
2.3.2. Thực trạng tổ chức bộ máy Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình ........................................................................................... 69
2.3.3. Mối quan hệ phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện công
tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh .................................... 76
2.3.4. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về dân
số theo thẩm quyền ....................................................................................... 80
2.4. Đánh giá chung...................................................................................... 82
2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ............................................ 82
2.4.2. Những hạn chế.................................................................................... 85
2.4.3. Nguyên nhân hạn chế ......................................................................... 88
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 92
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH .................................................... 94
3.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch
hóa gia đình .................................................................................................. 94
3.1.1. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước ...................................................................................................... 94
3.1.2. Quán triệt văn bản của cấp ủy Đảng, chính quyền trên cơ sở phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương ............................................................ 98
3.1.3. Huy động nguồn lực thực hiện công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình .... 99
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa
gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ........................................................ 100
3.2.1. Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, các cơ chế, chính sách, pháp luật
về dân số .................................................................................................... 100
3.2.2. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về công tác Dân số-Kế
hoạch hóa gia đình ..................................................................................... 102
3.2.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số 103
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp liên ngành, phát huy vai trò của tổ chức Mặt
trận các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân và của cả cộng đồng trong công
tác dân số ................................................................................................... 105
3.2.5. Đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số ........... 105
3.2.6. Đảm bảo nguồn lực cho công tác dân số .......................................... 106
3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm 107
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................... 108
KẾT LUẬN ............................................................................................... 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
- CHDCND: Cộng hòa dân chủ nhân dân
- DS-KHHGĐ: Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
- UBND: Ủy ban nhân dân
- HĐND: Hội đồng nhân dân
- MTTQ: Mặt trận tổ quốc
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Dân số trung bình, tỷ lệ tăng dân số ............................................. 55
Bảng 2.2: Tỷ suất sinh thô, tổng tỷ suất sinh; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ..... 56
Bảng 2.3. Cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính năm 2017 ........................ 57
Bảng 2.4. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên theo giới tính ..................... 58
Bảng 2.5: Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên (%) ................................................ 59
Bảng 2.6: Số liệu người nhiễm HIV/AIDS qua từng năm ............................. 60
Bảng 2.7: Các chỉ tiêu đạt được về chăm sóc sức khỏe sinh sản ................... 61
Bảng 2.8: Mật độ dân cư của tỉnh Quảng Bình ............................................. 62
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh Quảng Bình từ năm 2011-2016
(bé trai/100 bé gái) ....................................................................................... 58
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại (%) .................... 63
Sơ đồ 1. Tổ chức bộ máy ngành DS-KHHGĐ từ cấp tỉnh đến cơ sở ............ 73
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân số - Kế hoạch hóa gia đình là sự nỗ lực mang tính quyết sách của
Nhà nước trong chủ trương khống chế một cách khoa học số dân, sao cho sự
phát triển dân số phù hợp và không gây cản trở tới việc phát triển kinh tế xã
hội đất nước, nâng cao chất lượng dân số và cơ cấu dân số hợp lý [22].
Nói đến dân số là nói đến con người mà con người là tổng hòa của các
mối quan hệ xã hội, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền
vững của đất nước bởi lẽ con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là
nhân tố quyết định sự phát triển bền vững kinh tế-xã hội. Ph.Ăngghen đã từng
nói "Xã hội nào điều chỉnh được sự sinh sản ra con người như chính sự điều
chỉnh phát triển kinh tế thì mới điều khiển được xã hội" [31].
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề phát triển dân số, sớm đề ra
chủ trương, chính sách về Dân số-Kế hoạch hóa gia đình và coi là một bộ
phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn
đề kinh tế-xã hội hàng đầu ở nước ta, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng
cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Quản lý nhà nước về
Dân số-Kế hoạch hóa gia đình chính là một trong những giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của con người [1]. Nhận thức được tầm quan
trọng đó, các vấn đề của công tác dân số bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân
số và nâng cao chất lượng dân số được triển khai đồng bộ trên cả nước và đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Mức sinh của nước ta giảm nhanh, hiện
đã đạt mức thấp.
Đối với tỉnh Quảng Bình, thực hiện các chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt là sau hơn 12
năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị
(Khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa
1
gia đình, nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển biến rõ rệt, ngày càng
có nhiều người kết hôn, sinh con phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe, hoàn cảnh
kinh tế, mô hình gia đình nhỏ có từ 1-2 con được nhân rộng. Tốc độ gia tăng
dân số nhanh đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ giảm từ 3 con năm 2000 xuống còn 2,38 con vào năm 2017 [13].
Tuy nhịp độ gia tăng dân số đã được khống chế nhưng chưa ổn định và
bền vững, Quảng Bình hiện được xếp vào tỉnh có mức sinh cao, tỷ lệ chênh
lệch giới tính khi sinh có xu hướng mất cân đối, chất lượng dân số chưa đáp
ứng yêu cầu của tỉnh, một bộ phận người dân chưa nhận thức đúng đắn về
DS-KHHGĐ. Giải quyết các vấn đề về dân số và năng lực quản lý nhà nước
về DS-KHHGĐ của các cấp ngành từ tỉnh đến cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập, khả năng tham mưu cho lãnh đạo của đội ngũ cán bộ dân số ở một số
địa phương vẫn chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến việc thực
hiện chính sách và các quy định về pháp luật chưa nghiêm, cách hiểu và vận
dụng còn khác nhau, chưa thống nhất, thậm chí không phù hợp với pháp luật
hiện hành. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ.
Trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước có nhiều thay đổi, công
tác DS-KHHGĐ tại Quảng Bình hiện đang đối mặt nhiều khó khăn, thách
thức. Nhiều vấn đề mới phát sinh liên quan đến quy mô, cơ cấu và chất lượng
dân số đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng, đồng bộ.
Để góp phần nào giải quyết thực trạng trên và nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước về DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, học viên xin lựa
chọn đề tài "Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình" để làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản
lý công, mã số 60 34 04 03.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thực tế đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
DS-KHHGĐ như:
- Năm 2015, Đề tài “Quản lý nhà nước về Dân số, Kế hoạch hóa gia
đình trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” của tác giả Hoàng
Thị Phương Thúy, đã đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về dân số, kế
hoạch hóa gia đình từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản
lý nhà nước về dân số kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn thành phố Bắc
Giang, tỉnh Bắc Giang [30].;
- Năm 2015, Đề tài “Đánh giá tình hình quản lý nhà nước về công tác
Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tại tỉnh An Giang giai đoạn 2010-2014” của
Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tỉnh An Giang, từ kết quả đánh giá
tình hình quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tại tỉnh
đưa ra những khuyến nghị một số vấn đề còn bất cập trong quản lý nhà nước
về công tác DS-KHHGĐ [14].
- Năm 2016, Đề tài “Đánh giá thực trạng ban hành văn bản triển khai
chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đìnhh tại một số tỉnh, thành phố” của
ThS.Trần Thị Ngọc Bích, nghiên cứu viên Khoa Dân số và Phát triển (Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế) và ThS. Phạm Minh Sơn, Tổng cục DS-
KHHGĐ. Công trình nghiên cứu này đã đề cập đến tầm quan trọng của việc
ban hành chủ trương, chính sách thể hiện sự quan tâm toàn diện về công tác
DS-KHHGĐ quyết định sự thành công của công tác DS-KHHGĐ. Công trình
nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng khoa học và thực tiễn cho việc nâng cao
chất lượng xây dựng, ban hành văn bản triển khai chương trình DS-KHHGĐ
tại các địa phương [12].
Tại Quảng Bình, có 03 Đề tài nghiên cứu khoa học về lĩnh vực nâng
cao chất lượng dân số của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà và các cộng sự, như:
3
- Năm 2015, Đề tài “Tìm hiểu kiến thức về Hôn nhân cận huyết thống
tại 20 xã đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình năm 2014 – 2015” [25].
- Năm 2016, Đề tài “Điều tra đánh giá thực trạng sàng lọc trước sinh,
sơ sinh và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sàng lọc trước sinh, sơ
sinh tại tỉnh Quảng Bình” [26].
- Năm 2017, Đề tài “Đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe
sinh sản/sức khỏe tình dục của vị thành niên/thanh niên trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình năm 2017”
Trong tất cả các công trình nghiên cứu nói trên có liên quan đến luận
văn, học viên đã nghiên cứu kế thừa, có chọn lọc. Tuy nhiên, thực tế trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình, chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích
đánh giá thực trạng cũng như đưa ra một hệ thống giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước trong công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình. Do đó,
đề tài được lựa chọn với mục đích nghiên cứu đầy đủ, thấu đáo nhằm đề xuất
nhóm giải pháp phù hợp và có ý nghĩa thực tiễn với hy vọng sẽ góp phần giải
quyết những vấn đề đặt ra đối với ngành Dân số-Kế hoạch hóa gia đình phù
hợp với thực tế tình hình địa bàn tỉnh Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất hệ thống
giải pháp giải quyết một số vấn đề về công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình.
- Nhiệm vụ
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ: các khái niệm, đặc điểm, vị trí vai trò của quản lý, quản lý nhà
nước, quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ.
4
+ Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình để xác định những kết quả mà công
tác DS-KHHGĐ đã đạt được cũng như các mặt còn tồn tại, hạn chế trong
quản lý.
+ Nghiên cứu, xác định những vấn đề đặt ra hiện nay về công tác DS-
KHHGĐ trong tình hình mới.
+ Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về
công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
+ Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của duy vật lịch
sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công
tác DS-KHHGĐ.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thu thập các tài liệu, tư liệu để
phân tích, tổng hợp.
5
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thống kê, tổng hợp kinh nghiệm
thực tiễn.
+ Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia.
+ Phương pháp xử lý số liệu: Toán học, phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn
đề lý luận quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ.
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đã phân tích, đánh giá được
thực trạng quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình,
nhận định kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại, hạn chế và xác định
nguyên nhân của những hạn chế, đặc biệt là các vấn đề mang tính chất đặc thù
vùng, miền, địa phương.
Luận văn đã đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
DS-KHHGĐ phù hợp thực tiễn trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình. Với mục tiêu thực hiện quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ là nhằm bảo vệ lợi ích con người, hướng đến sự phát triển con
người, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Điều đó có ý nghĩa quan
trọng tác động trực tiếp đến mỗi người dân, mỗi cặp vợ chồng, mỗi gia đình
và toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể góp phần bổ sung những vấn đề lý
luận trong công tác quản lý DS-KHHGĐ, tạo cơ sở khoa học cho việc hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật đối với hoạt động quản lý về DS-
KHHGĐ tại tỉnh Quảng Bình.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm kết quả tham khảo cho công
tác nghiên cứu, học tập trong cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu và thực
hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
7
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
1.1.1.1. Dân số
Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có nhiều quan điểm khác
nhau về dân số:
Dân số là dân cư được xem xét, nghiên cứu ở góc độ quy mô, cơ cấu và
chất lượng dân số [33]. Dân cư không chỉ bao gồm số người mà nó còn bao
gồm cả vấn đề kinh tế, văn hóa, sức khỏe, ngôn ngữ.
Dân số là một tập hợp người (hay cộng đồng người) sinh sống trong
một quốc gia, một địa phương hay một vùng lãnh thổ nhất định, được xác
định tại một thời điểm cụ thể.
Dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng
địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính [38].
Dân số luôn luôn biến động theo thời gian và không gian. Những biến
động về dân số có ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và
toàn xã hội. Nhằm đảm bảo sự kiểm soát nhất định đối với vấn đề dân số của
một quốc gia thì quốc gia thường có những cuộc điều tra dân số để làm cơ sở
đánh giá, nhận định và đưa ra những chính sách đối với vấn đề dân số của
quốc gia mình.
Dân số là vấn đề gắn bó mật thiết với mọi mặt của đời sống kinh tế- xã
hội. Nói đến dân số là nói đến mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với con
người hay mối quan hệ giữa các cộng đồng người ở cấp độ vĩ mô: Vùng,
miền, lãnh thổ, dân tộc. Dân số của một quốc gia được xác định tại thời điểm
tiến hành cuộc tổng điều tra dân số. Dân số toàn cầu được xác định dựa trên
8
số liệu thống kê và báo cáo hàng năm của quốc gia và các khu vực trên thế
giới.
Quy mô, cơ cấu dân số trên lãnh thổ không ngừng biến động do có
người được sinh ra, có người bị chết, có người di cư đến và có người di cư đi,
hoặc đơn giản chỉ là theo năm tháng, bất cứ ai cũng chuyển từ nhóm tuổi nay
sang nhóm tuổi khác [23]. Như vậy, Dân số là một tập hợp người sinh sống
trong một quốc gia, một địa phương hay một vùng lãnh thổ nhất định, được
xác định tại một thời điểm cụ thể và nói đến Dân số là nói đến quy mô, cơ
cấu, phân bố và những thành tố gây nên sự biến động của chúng như: sinh,
chết, di cư. Hay nói cách khác, dân số bao gồm 04 yếu tố cơ bản :
Thứ nhất là quy mô dân số: là sự biểu thị khái quát tổng số dân của
một địa phương (xã, huyện, tỉnh, vùng, quốc gia hay các khu vực khác nhau
trên thế giới). Sự thay đổi của quy mô dân số chịu ảnh hưởng của biến động
tự nhiên và của cơ học. Quy mô dân số có thể chia ra quy mô dân số thời điểm
(đầu kỳ, cuối kỳ, một thời điểm nào đó) và quy mô dân số trung bình của một
thời kỳ. Biến động dân số là sự tăng hay giảm quy mô dân số của một địa
phương theo thời gian. Nếu quy mô dân số của một địa phương tại thời điểm
cuối lớn hơn thời điểm đầu của một thời kỳ gọi là gia tăng dân số. Ngược lại,
nếu quy mô dân số của một địa phương thời điểm cuối nhỏ hơn thời điểm đầu
gọi là suy giảm dân số. Số lượng tuyệt đối của biến động dân số được tính bằng
chênh lệch về quy mô dân số ở thời điểm cuối và thời điểm đầu của một thời kỳ.
Nhà nước điều chỉnh quy mô và tốc độ tăng dân số phù hợp với sự phát
triển kinh tế-xã hội, tài nguyên, môi trường; đảm bảo cơ cấu nhân khẩu học thích
ứng cho sự phát triển bền vững. Điều chỉnh trực tiếp quy mô và tốc độ tăng dân
số thông qua việc điều chỉnh mức sinh; giảm tỷ suất chết do các nguyên nhân
chủ quan, tỷ suất chết của trẻ em dưới một tuổi, dưới năm tuổi và của người mẹ
trong thời gian thai sản; định hướng di dân phù hợp với yêu cầu phân bổ nguồn
9
lực, phát huy tiềm năng tài nguyên, bảo vệ an ninh, quốc phòng. Điều chỉnh gián
tiếp quy mô và tốc độ tăng dân số thông qua các chính sách, kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn.
Thứ hai là cơ cấu dân số: Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng số dân
của một quốc gia, của từng vùng theo các đặc trưng khác nhau. Trong đó cơ
cấu dân số theo tuổi và cơ cấu dân số theo giới tính là hai cơ cấu thường được
sử dụng nhiều nhất. Bởi vì cơ cấu theo tuổi và giới tính là các đặc tính quan
trọng của bất kỳ nhóm dân số nào, nó ảnh hưởng đến mức sinh, mức chết, di
dân trong nước và quốc tế, tình trạng hôn nhân, lực lượng lao động, thu nhập
quốc dân thuần túy, kế hoạch phát triển giáo dục và an sinh xã hội. Cơ cấu
dân số theo tuổi được thể hiện thông qua sự phân chia dân số theo từng độ
tuổi, nhóm 5 độ tuổi hoặc 10 tuổi hoặc các nhóm tuổi trẻ em (0-14 tuổi),
nhóm tuổi lao động (15-59 tuổi), nhóm tuổi già (trên 60 tuổi). Cơ cấu giới
tính là sự phân chia dân số thành hai nhóm nam và nữ. Hiện nay, các nhà
nhân khẩu học đưa ra một thuật nhữ mới là cơ cấu dân số vàng. Đây là một cơ
cấu dân số mà tỷ số phụ thuộc đạt mức thấp nhất, nếu vượt qua ngưỡng đó thì
tỷ số phụ thuộc lại tăng lên. Tỷ số giới tính khi sinh được tính bằng số bé trai
sinh ra sống so với 100 bé gái sinh ra sống trong cùng thời kỳ. Tỷ số giới tính
khi sinh thông thường là từ 103-106 bé trai trên 100 bé gái. Mất cân bằng giới
tính khi sinh là số bé trai được sinh ra còn sống vượt trên ngưỡng bình thường
so với 100 số bé gái được sinh ra còn sống trong một khoảng thời gian xác
định, thường là một năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh. Theo nhân
khẩu học khi tỷ số giới tính khi sinh của một quốc gia, một vùng hoặc một
tỉnh/thành phố từ 110 trở lên là mất cân bằng giới tính khi sinh. Giai đoạn
“già hóa dân số” khi tỷ lệ người 60 tuổi trở lên chiếm từ 10% đến dưới 20%
tổng dân số hoặc khi dân số 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% đến dưới 14% tổng
dân số. Cơ cấu “dân số vàng” khi tỷ số phụ thuộc chung nhỏ hơn 50%, hay
10
nói cách khác có trên 2 người trong độ tuổi lao động trên 1 người trong độ
tuổi phụ thuộc.
Nhà nước điều chỉnh cơ cấu dân số cân đối về giới tính, nhóm tuổi
trong dân số của cả nước, khu vực, địa phương; bảo đảm sự phát triển bền
vững. Điều chỉnh trực tiếp cơ cấu dân số thông qua điều chỉnh mức sinh, cơ
cấu dân số theo nhóm tuổi; điều chỉnh tỷ số giới tính khi sinh theo quy luật tự
nhiên; định hướng di dân theo nhóm tuổi, giới tính giữa các khu vực, địa
phương. Điều chỉnh gián tiếp cơ cấu dân số thông qua các chính sách, kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và lồng
ghép dân số trong phát triển.
Thứ ba là phân bố dân cư: là sự phân chia dân số theo các đơn vị hành
chính, vùng kinh tế. Để nghiên cứu phân bố dân cư người ta thường dùng chỉ tiêu mật độ dân số, thông thường là số người trên 01 km2. Qua đó có thể xác
định số dân theo các vùng địa lý-kinh tế, nhận biết vùng này đông dân, vùng
kia thưa dân và giúp cho việc phân bố và tái phân bố lực lượng sản xuất, lao
động và dân cư hợp lý hơn. Sự thay đổi dân cư theo vùng là do cả hai yếu tố
tự nhiên và cơ học. Tuy nhiên, có vùng số người nhập cư chiếm tỷ trọng lớn,
có vùng số xuất cư và tăng tự nhiên dân số gần tương đương nhau.
Nhà nước định hướng phân bổ dân số hợp lý giữa khu vực thành thị và
nông thôn, giữa các địa phương trên cơ sở tôn trọng quyền tự do di dân, tự do
cư trú. Điều chỉnh trực tiếp quá trình di dân giữa nơi đi, nơi đến theo quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án được duyệt và sự tự nguyện của người
di dân. Điều chỉnh gián tiếp quá trình di dân thông qua việc tổ chức thực hiện
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội; giảm sự phân bổ
nguồn lực không đồng đều giữa các khu vực, địa phương; ưu tiên đầu tư phát
triển vùng nghèo, vùng khó khăn. Bảo đảm bình đẳng về quyền, lợi ích của
11
người di dân với người dân sở tại; cải thiện môi trường, cơ sở hạ tầng đô thị
bảo đảm các tiêu chí của đô thị khi số dân tăng lên.
Thứ tư là chất lượng dân số: “Chất lượng dân số là khả năng của con
người thực hiện các hoạt động một cách hiệu quả nhất”[31].
Hội nghị Quốc tế lần thứ tư về dân số tại Mexico năm 1984 với sự
tham gia của 146 nước cũng đã thống nhất rằng vấn đề dân số không phải chỉ
là số lượng mà bao gồm cả chất lượng cuộc sống, phúc lợi xã hội.
Năm 1993, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội
nghị lần thứ 4 (Khóa VII) đã nói rõ “công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là
một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong
những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của đất nước ta, là một yếu tố cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã
hội” [10].
Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã xác định “Dân số là một trong những
yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước” [38].
Chất lượng dân số là tổng thể các yếu tố tạo nên thể lực, trí lực của con
người nói chung. Theo mục 6, Điều 3, Pháp lệnh Dân số năm 2003 thì “Chất
lượng dân số phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ, tinh thần của toàn bộ
dân số”.
Thể chất gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các số đo về chiều cao,
cân nặng, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo, dinh dưỡng, bệnh tật, tuổi thọ, các yếu
tố giống nòi, gen di truyền (như tật nguyền bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ, nhiễm
chất độc da cam) của người dân. Trí tuệ gồm các yếu tố trình độ văn hóa, thẩm
mỹ, trình độ khoa học, kỹ thuật, tay nghề thể hiện qua tỷ lệ biết chữ, số năm bình
quân đi học/ đầu người, tỷ lệ người có bằng cấp, được đào tạo chuyên môn kỹ
thuật giỏi. Tinh thần thể hiện qua mức độ tiếp cận và tham gia các hoạt động văn
hóa, thông tin, vui chơi giải trí, các phong trào xã hội [29].
12
Các chỉ tiêu để đo lường chất lượng dân số thường được sử dụng là
GDP/người; trình độ học vấn; tuổi thọ trung bình. HDI là chỉ số tổng hợp để đo
lường chất lượng dân số. Các yếu tố tác động đến nâng chất lượng dân số bao
gồm: phát triển kinh tế, tăng thu nhập, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, phát triển
giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, phát triển giá trị văn hóa và xã hội,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng cuộc sống.
Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của nhà nước trong sự
nghiệp phát triển đất nước. Nhà nước bảo đảm quyền cơ bản, quyền phát
triển, quyền thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số về thể chất,
trí tuệ, tinh thần mỗi người. Tăng cơ hội lựa chọn và tiếp cận dịch vụ nâng
cao chất lượng dân số đa dạng thuận tiện cho người dân. Tăng chỉ số cơ bản
về chiều cao, cân nặng, sức bền, tuổi thọ bình quân, nâng cao trình độ học vấn
và thu nhập bình quân đầu người; bảo đảm cho nhóm dân số đặc thù nâng cao
chất lượng dân số.
Chính phủ ban hành bộ chỉ số cụ thể phản ánh chất lượng dân số về thể
chất, trí tuệ, tinh thần của toàn bộ dân số và phân công các Bộ, cơ quan ngang
Bộ tổ chức thực hiện mục tiêu, biện pháp nâng cao chất lượng dân số.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về dân số không chỉ giới hạn ở những yếu tố
nói trên mà còn nói đến nghiên cứu mối quan hệ giữa quá trình dân số với các
yếu tố kinh tế xã hội, văn hóa và môi trường. Vì vậy, khi nói đến dân số,
không thể tách nó ra khỏi các điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường. Nghiên cứu dân số có ý nghĩa to lớn không chỉ trong công tác dân số
mà nó còn có ý nghĩa thực tiễn đối với quản lý kinh tế-xã hội ở cả tầm vĩ mô
và vi mô.
1.1.1.2. Kế hoạch hóa gia đình
Kế hoạch hoá gia đình là việc lập kế hoạch khi nào có con và việc sử
dụng kiểm soát sinh sản và các kỹ thuật khác để thực hiện các kế hoạch đó.
13
Các kỹ thuật khác thường được sử dụng gồm giáo dục giới tính ngăn chặn và
quản lý các bệnh lây truyền qua đường tình dục, tư vấn khi mang thai, quản lý
mang thai và quản lý vô sinh [32].
Kế hoạch hoá gia đình thỉnh thoảng được sử dụng như một thuật ngữ
đồng nghĩa với kiểm soát sinh sản, dù nó thường có nội hàm lớn hơn. Nó chủ
yếu được áp dụng với một cặp nam nữ muốn hạn chế số lượng trẻ em họ có
và kiểm soát thời gian mang thai (cũng được gọi là giãn khoảng cách sinh
sản). Lợi ích của KHHGĐ mang lại đó là giảm thiểu khả năng sinh con ngoài
ý muốn, giúp ngăn chặn tình trạng gia tăng dân số đột biến. Giúp ổn định dân số.
Kế hoạch hóa gia đình là sự cố gắng có ý thức của một cặp (hoặc cá
nhân) nhằm điều chỉnh số con và khoảng cách sinh con, không chỉ bao hàm
việc lựa chọn sử dụng các biện pháp tránh thai mà còn là những cố gắng của
các cặp vợ chồng để có thai.
Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới thì kế hoạch hóa gia đình bao
gồm những biện pháp thực hành giúp cho những cá nhân hay các cặp vợ
chồng để đạt được những mục tiêu tránh những trường hợp sinh không mong
muốn, đạt được những trường hợp sinh theo ý muốn, điều hòa khoảng cách
giữa các lần sinh, chủ động thời điểm sinh con cho phù hợp với tuổi của bố, mẹ.
Kế hoạch hóa gia đình hướng dẫn mọi người lựa chọn tuổi sinh đẻ phù
hợp. Tuổi tốt nhất và hợp lý nhất để sinh đẻ là từ 22 đến 35 tuổi vì trong giai
đoạn tuổi này, người phụ nữ đã phát triển đầy đủ về thể chất, đã ổn định việc
làm và tạo dựng những kiến thức nhất định về xã hội cũng như chăm sóc gia
đình. Đồng thời, kế hoạch hóa gia đình hướng dẫn mọi người lựa chọn số con
mong muốn và khoảng cách giữa các lần sinh. Mỗi gia đình chỉ nên có từ một
đến hai con dù trai hay gái để đảm bảo hạnh phúc gia đình, nuôi con khỏe,
dạy con ngoan, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Khoảng cách giữa các lần
sinh nên cách nhau từ 3 đến 5 năm để người phụ nữ hồi phục sức khỏe sau lần
14
thai sản và có điều kiện chăm sóc nuôi dạy con cái tốt hơn. Như vậy, Kế
hoạch hóa gia đình là việc lập kế hoạch nhằm kiểm soát quá trình sinh sản
của các cặp vợ chồng. Cốt lõi của kế hoạch hóa gia đình là việc chủ động sử
dụng các biện pháp tránh thai an toàn, nhằm kiểm soát tình trạng sinh con và
hạn chế sinh con ngoài ý muốn.
1.1.2. Khái niệm về công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và mối quan
hệ giữa Dân số và Kế hoạch hóa gia đình
1.1.2.1. Khái niệm
Công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình là sự nỗ lực mang tính quyết
sách của Nhà nước trong chủ trương khống chế một cách khoa học số dân,
sao cho sự phát triển dân số phù hợp và không gây cản trở tới việc phát triển
kinh tế xã hội đất nước, ổn định cơ cấu dân số và nâng cao chất lượng dân số.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa Dân số với Kế hoạch hóa gia đình
Vấn đề dân số có liên quan mật thiết tới kế hoạch hóa gia đình. Dân số
hiểu theo nghĩa rộng chính là vấn đề con người. Nếu dân số đông và tăng
nhanh sẽ gây sức ép lên mọi mặt của đời sống xã hội, làm suy giảm nghiêm
trọng đến chất lượng cuộc sống, cản trở sự phát triển nền kinh tế đất nước. Vì
vậy mục tiêu dân số là phải quản lý, điều chỉnh số sinh và để đạt được điều đó
thì phải xây dựng chính sách về kế hoạch hóa gia đình. Chính sách về kế
hoạch hóa gia đình lại được đặt ra trên căn cứ thực tiễn dân số của mỗi quốc
gia, mỗi địa phương. Ở địa phương có mức sinh cao, cần nỗ lực để giảm tỷ lệ
sinh và đạt được mức sinh thay thể, ngược lại ở những địa phương đã đạt
được mức sinh thay thế thì tiếp tục duy trì mức sinh ổn định.
Có thể thấy, kế hoạch hóa gia đình là một nội dung hẹp của vấn đề dân
số, là việc đặt ra chỉ tiêu một cách khoa học về sinh đẻ thông qua sử dụng các
biện pháp tránh thai. Kế hoạch hóa gia đình nếu thực hiện tốt sẽ có lợi về
15
nhiều mặt: đối với sức khỏe bà mẹ trẻ em, đối với kinh tế gia đình, đối với sự
phồn vinh của cộng đồng và đất nước.
1.1.3. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước
để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người.
Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình là nhà nước
thông qua hệ thống chính sách, luật pháp và cơ chế tổ chức các cơ quan quản
lý của mình để điều khiển và tác động vào các đối tượng của quản lý nhằm
thực hiện các mục tiêu về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số,
nhằm nâng cao chất cuộc sống của người dân và đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước. [24].
Như vậy, nhà nước quản lý công tác DS-KHHGĐ bằng pháp luật thông
qua các yếu tố của dân số với việc đặt ra các mục tiêu cụ thể về quy mô, cơ
cấu, phân bố và chất lượng dân số.
Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình là quá trình
tác động có ý thức, có tổ chức của nhà nước đến các quá trình và yếu tố dân
số nhằm làm thay đổi trạng thái dân số để đạt được mục tiêu đã đề ra [24].
Quá trình quản lý đó đi từ việc nghiên cứu hoạch định chính sách, xây
dựng pháp luật, các chiến lược, chương trình, kế hoạch, xây dựng hệ thống tổ
chức bộ máy, hình thành cơ chế quản lý điều hành và tác động làm cho các
chủ trương, chính sách đến tận người dân và biến nó thành hiện thực trong
cuộc sống. Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ đòi hỏi phải nắm được
một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác tình hình dân số bao gồm quy mô, cơ
cấu, phân bổ và chất lượng dân số [23].
Từ khái niệm quản lý nhà nước về công tác Dân DS-KHHGĐ cho thấy
quá trình này bao gồm các yếu tố:
16
Chủ thể quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ là nhà nước với hệ
thống các cơ quan của nhà nước được phân chia thành các cấp và bao gồm cả
3 lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quản lý hành chính
(hành pháp) về DS-KHHGĐ là cực kỳ quan trọng. Trong lĩnh vực DS-
KHHGĐ, nhà nước chỉ tác động vào nhận thức và hành vi về DS-KHHGĐ
hoặc liên quan đến DS-KHHGĐ. Hệ thống quản lý nhà nước được xây dựng
theo chiều dọc từ Trung ương đến địa phương, nhằm tạo được cơ cấu quản lý
phù hợp với chức năng quản lý theo vùng, lĩnh vực và theo ngành. Hệ thống
quản lý nhà nước là tập hợp các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội
được nhà nước ủy quyền và được xác định rõ chức năng, phạm vi quyền hạn,
nghĩa vụ của từng đơn vị và cán bộ công chức, viên chức.
Đối tượng quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ là các quá trình dân số liên
quan đến quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số. Khách thể của quản
lý nhà nước về dân số là các tổ chức, cá nhân. Mục tiêu quản lý nhà nước về
DS-KHHGĐ xét một cách chung nhất là trạng thái thay đổi về các yếu tố quy
mô, cơ cấu, phân bổ dân số, chất lượng dân số hoặc các quá trình sinh, chết,
di dân… mà nhà nước mong muốn đạt được cho phù hợp và tạo điều kiện
nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước về kinh
tế, xã hội và môi trường.
Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ cũng như các lĩnh vực khác
được thực hiện thông qua việc ban hành và thực thi các đường lối, chính sách
và pháp luật. Đồng thời trong những điều kiện cụ thể, nhà nước đảm nhiệm
việc tổ chức, cung cấp các dịch vụ về dân số như là các dịch vụ công, để quá
trình thay đổi nhận thức và hành vi của công dân, tổ chức diễn ra đúng
hướng và nhanh chóng hơn.
17
Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ phải được hoạch định và
thực hiện có kế hoạch, có tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá thường xuyên
như các hoạt động xã hội khác trong hệ thống quản lý nhà nước.
Việc thực hiện quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao giờ cũng diễn ra
trong các điều kiện, bối cảnh cụ thể và luôn được tính toán cho phù hợp với
các điều kiện và bối cảnh đó, đảm bảo đạt được mục tiêu cuối cung đồng thời
hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến sự ổn định xã hội trước mắt và lâu dài.
1.1.4. Đặc điểm của quản lý nhà nước về công tác Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình
- Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ ở nước ta là hoạt động chủ
động của nhà nước được tiến hành trước hết dựa vào quyền lực của nhà nước,
nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi
người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời đảm bảo các yếu
tố quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân số và chất lượng dân số, phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, tiến tới một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [23].
- Quản lý công tác DS-KHHGĐ phải dựa vào nhân dân, thông qua việc
tác động làm chuyển đổi nhận thức và hành vi của từng người dân và toàn xã
hội, đi đến tự nguyện thực hiện chính sách, luật pháp của nhà nước vì lợi ích
của chính mình và vì sự nghiệp phát triển đất nước.
- Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ là một khoa học vì có đối
tượng nghiên cứu riêng, đó là các quan hệ quản lý. Các quan hệ trong quản lý
nhà nước về DS-KHHGĐ chính là hình thức của quan hệ xã hội và quan hệ
kinh tế (gồm quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối....), thể hiện
mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tiến hành các hoạt
động DS-KHHGĐ, bao gồm quan hệ giữa hệ thống cơ quan DS-KHHGĐ cấp
trên với hệ thống cơ quan DS -KHHGĐ cấp dưới; quan hệ giữa người lãnh
18
đạo và người thực hiện; quan hệ giữa cơ quan thường trực với cơ qu an thành
viên Ban Chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ các cấp; quan hệ giữa cơ quan
thường trực DS-KHHGĐ với các cơ quan chính quyền cùng cấp; quan hệ
giữa người quản lý, thực hiện chương trình với đối tượng của chương trình....
Tính khoa học của quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ trước hết
đòi hỏi phải dựa vào sự hiểu biết sâu sắc quy luật khách quan, hình thức biểu
hiện của các quy luật, các yếu tố ảnh hưởng tới chương trình DS -KHHGĐ,
chứ không chỉ dựa trên kinh nghiệm cá nhân và trực giác của người lãnh đạo.
Sự hiểu biết và nhận thức đầy đủ về quy luật quá độ nhân khẩu học, quy luật
về sự phụ thuộc của hành vi sinh đẻ với các điều kiện kinh tế-xã hội và văn
hoá, quy luật về sinh học, quy luật hút -đẩy trong biến động dân số cơ học....
là cơ sở cho quá trình thiết lập đường lối, chính sách, xây dựng chiến lược
DS-KHHGĐ. Mặt khác, bản thân các hoạt động quản lý nhà nước về công tác
DS-KHHGĐ được tiến hành theo những quy trình thủ tục, chặt chẽ, được đúc
kết trên cơ sở khoa học quản lý và kinh nghiệm thực tiễn.
Tính khoa học trong quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ đòi hỏi
phải nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về các khía cạnh, không chỉ giới hạn về
mặt kinh tế - kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý của
quá trình đó. Tính khoa học của quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ
còn thể hiện ở chỗ nó dựa vào phương pháp đo lường, định lượng hiện đại,
dựa vào các nghiên cứu; phân tích, đánh giá khách quan các đối tượng quản lý.
- Quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ còn là một nghệ thuật, bởi
lẽ kết quả và hiệu quả của quản lý còn phụ thuộc vào các yếu tố tài năng,
nhân cách, hình thức tiếp cận của người lãnh đạo, quản lý cũng như cơ quan
DS-KHHGĐ các cấp. Nghệ thuật quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao gồm
nghệ thuật sử dụng các công cụ và phương pháp quản lý, nghệ thuật tác động
vào tư tưởng, tình cảm con người, nghệ thuật ứng xử, nghệ thuật dùng
19
người... Trong khi thực hành công tác DS-KHHGĐ, một công tác liên quan
tới con người, nếu không có tính nghệ thuật thì hiệu quả của quản lý chắc
chắn sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy đòi hỏi nhà quản lý phải suy nghĩ vận hành các
cách tiếp cận trong quản lý, cách thực hiện lồng ghép, điều phối chương trình
sao cho đạt được kết quả mong muốn [27].
1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa
gia đình
1.2.1. Bảo đảm cho công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình theo định
hướng mục tiêu chương trình của nhà nước
Nhằm đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát
triển bền vững đất nước về kinh tế, xã hội và môi trường, thông qua công cụ
quản lý bằng pháp luật để tác động vào nhận thức hành vi của con người, các
tổ chức, buộc mọi cá nhân, tổ chức phải hành động theo một định hướng và
mục tiêu nhất định đó là ổn định về các yếu tố quy mô, cơ cấu, phân bổ dân
số, nâng cao chất lượng dân số hoặc theo dõi, quản lý thay đổi của các quá
trình sinh, chết, di dân.... Công tác DS-KHHGĐ là công tác khó khăn, phức
tạp và lâu dài, bên cạnh việc sử dụng pháp luật như một phương thức cơ bản,
quan trọng nhất, nhà nước cũng chú trọng đến việc tuyên truyền, giáo dục và
động viên tinh thần nhân dân, kết hợp với việc xây dựng và thực hiện các
chính sách đòn bẩy kích thích kinh tế, vật chất nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo của cơ quan, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân.
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, chủ thể của xã hội và dân số cũng là
lực luợng tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ xã hội. Với cả hai khía cạnh này, dân
số có quan hệ chặt chẽ, cùng với sự phát triển và tương tác qua lại với kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, an ninh - quốc phòng, môi
trường... do vậy ngày càng đặt ra trước nhà nước nhiều vấn đề trong lĩnh vực
dân số, nội dung quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ ngày càng mở
20
rộng. Nếu những giai đoạn trước đây chỉ chú trọng nhiều đến lĩnh vực quy mô
dân số do sự “bùng nổ dân số” tạo ra áp lực mạnh mẽ đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội và môi trường, thì hiện nay các lĩnh vực toàn diện của dân số
được chú trọng. Các vấn đề của cơ cấu dân số, như: mất cân bằng giới tính
khi sinh, già hoá dân số, cơ cấu dân số vàng; Phân bố dân số, di cư và đô thị
hoá; chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần...
Do vậy, quản lý nhà nước về công tác DS- KHHGĐ là một nội dung
quản lý tất yếu của nhà nước và được mở rộng dần về nội dung, cùng với sự
phát triển của xã hội.
1.2.2. Bảo đảm các hoạt động về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tuân thủ
theo quy định của pháp luật
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự quản
lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ nói
riêng chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều 12, Hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Chức
năng chủ yếu của pháp luật là hướng dẫn, điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục để
đảm bảo ổn định và phát triển xã hội theo mục tiêu và định hướng đề ra.
Trong quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ, pháp luật tạo cơ sở
pháp lý vững chắc để điều chỉnh hành vi về hoặc liên quan đến DS-KHHGĐ
của các tổ chức và cá nhân một cách đúng hướng, thống nhất và ổn định nhằm
thực hiện được các mục tiêu về DS-KHHGĐ. Các yếu tố và quá trình dân số
diễn ra như là hệ quả phức hợp của hành vi của tất cả các cá nhân, gia đình và
cộng đồng, do vậy pháp luật là một công cụ không thể thiếu với tư cách tạo ra
hành lang, “đường ray” cho mọi hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức.
Nói cách khác pháp luật có vai trò định hướng cho công tác DS-
KHHGĐ. Trong điều kiện kinh tế-xã hội chưa phát triển lại chịu ảnh hưởng
21
nặng nề của các tư tưởng Nho giáo về việc sinh nhiều con, trọng nam hơn nữ
như nước ta, quá trình chuyển biến nhận thức, thái độ và hành vi về dân số
của cá nhân và tổ chức thường diễn ra một cách lâu dài và phức tạp. Pháp luật
nhà nước là một trong những điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự ổn định và
lâu dài để triển khai công tác DS-KHHGĐ đạt kết quả.
Công tác DS-KHHGĐ chỉ đạt được thành công nhanh chóng và vững
chắc với sự tham gia đông đảo trên cơ sở phối hợp chặt chẽ và đồng bộ của
các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các đoàn thể nhân dân ở
mọi cấp. Pháp luật tạo ra cơ chế huy động lực lượng, cơ chế phối hợp giữa
các lực lượng có vai trò và thế mạnh khác nhau một cách có hiệu quả, khắc
phục được sự trùng lặp, chồng chéo giữa các cấp, các ngành.
Để công tác DS-KHHGĐ diễn ra thuận lợi, nhanh chóng đạt được mục
tiêu đề ra, pháp luật không chỉ tạo nền tảng để huy động sự tham gia, động
viên khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia mà còn tạo cơ sở pháp lý để
trừng phạt những cá nhân, tổ chức cản trở, gây tác hại đến việc thực hiện các
hành vi tự do và tự nguyện về DS-KHHGĐ của mọi người dân. Đảm bảo sự
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ của các cá
nhân, tổ chức là hai mặt tương ứng với nhau, không được tách rời nhau và
cũng không được đối lập nhau.
Như vậy, quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ bằng công cụ luật
pháp là cần thiết để đảm bảo thực hiện sự bình đẳng của nhân dân về quyền
và nghĩa vụ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ, đồng thời đảm bảo các hoạt động về
DS-KHHGĐ phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
22
1.2.3. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình là nâng
cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của quốc gia
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và điều chỉnh quá
trình tái sản xuất con người ở mức hợp lý, nhịp độ gia tăng dân số phù hợp
với nền sản xuất vật chất điều chỉnh quy mô dân số với quá trình phát triển
kinh tế xã hội, việc tiến hành quản lý dân số và thực hiện chính sách Dân số-
Kế hoạch hóa gia đình là tất yếu của các quốc gia.
Thực hiện tốt KHHGĐ sẽ làm giảm được số sinh, giảm được tử vong
mẹ do sinh nhiều và phá thai ngoài kế hoạch, giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh và trẻ
em, giảm tỷ lệ vô sinh và chữa ngoài tử cung. Giải phóng phụ nữ, tạo điều
kiện để phụ nữ tham gia vào các công tác xã hội, chăm sóc nuôi dưỡng con
cái tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo hạnh phúc
gia đình.
Đối với thanh thiếu niên, KHHGĐ cung cấp các thông tin về giới và
giới tính, kiến thức và sức khỏe sinh sản, giáo dục tình dục an toàn và lành
mạnh, đề phòng có thai ngoài ý muốn, phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn
đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm HIV/AIDS,
giúp thanh thiếu niên có khả năng học tập, lao động, tăng chất lượng cuộc
sống, góp phần nâng cao nguồn nhân lực cho thế hệ tương lai của đất nước.
Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đưa ra ba lý do cần thiết nhằm
làm tốt hơn công tác DS-KHHGĐ, đó là:
Thứ nhất, công tác DS-KHHGĐ là biện pháp can thiệp giúp nâng cao
sức khỏe phụ nữ và các bà mẹ. DS-KHHGĐ giúp phụ nữ và các cặp vợ chồng
giãn khoảng cách giữa các lần sinh và tránh thai ngoài ý muốn.
Thứ hai, công tác DS-KHHGĐ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
quyền năng cho phụ nữ và bình đẳng giới. Thông tin và dịch vụ kế hoạch hóa
23
gia đình giúp các cá nhân và các cặp vợ chồng thực hiện được quyền của
mình trong việc sinh con, thời điểm sinh con và khoảng cách giữa các lần
sinh.
Thứ ba, thực hiện DS-KHHGĐ là một biện pháp hiệu quả trong thực
hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Gia đình có quy mô càng lớn thì càng
nghèo, những đứa con được sinh ra ngoài mong muốn càng làm tăng thêm sự
nghèo túng của gia đình. Đối với những gia đình có quy mô nhỏ cha mẹ có
thể có kế hoạch sớm cho tương lai và dành nhiều thời gian hơn cho giáo dục
và chăm sóc sức khỏe của từng đứa con và điều đó có lợi cho gia đình, cộng
đồng và quốc gia.
Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển năm 1994 đã nhất trí thông
qua Chương trình hành động với những mục tiêu quan trọng đã khẳng định
việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thông qua các chính sách
và chương trình dân số phù hợp nhằm phát triển nguồn nhân lực.
Thực hiện tốt chăm sóc sức khỏe, vận động phụ nữ sinh con tại các cơ
sở y tế, tăng cường chăm sóc trẻ em ngay sau khi sinh nhằm giảm tỷ lệ tử
vong trẻ em dưới 1 tuổi. Giải quyết vấn đề vô sinh, hiếm muộn, kết hôn cận
huyết thống là một giải pháp thực hiện chương trình nâng cao chất lượng
giống nòi. Quy mô gia đình ít con giúp cho cha mẹ đầu tư tốt hơn cho con cái
về giáo dục góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nhà nước thực hiện các chương trình nghiên cứu về những vấn đề liên
quan đến chất lượng dân số nhằm nâng cao chất lượng dân số về thể chất và
điều kiện sống của con người Việt Nam.
Nhà nước thực hiện các mô hình, giải pháp can thiệp góp phần nâng
cao chất lượng dân số như chương trình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn
nhân; sàng lọc trước sinh, sơ sinh để phát hiện và điều trị sớm một số bệnh
bẩm sinh, dị tật sơ sinh và các khuyết tật về gen; chăm sóc người cao tuổi;
24
thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời, giảm mạnh tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân
cận huyết thống ở một số dân tộc ít người; nâng cao chất lượng dân số của
một số dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân, có chất lượng dân số thấp; lồng
ghép dân số với phát triển gia đình bền vững; tăng cường dịch vụ chăm sóc
sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình.
Nhà nước thông qua chính sách và các chương trình, dự án phát triển
kinh tế-xã hội lấy mục tiêu tối cao của sự phát triển là vì con người nhằm
nâng cao điều kiện sống của con người và phát triển các năng lực của họ trên
tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội.
1.2.4. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình có vai
trò quan trọng đối với phát triển kinh tế vi mô và vĩ mô
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
VII) đã nêu rõ: “Đầu tư công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình là đầu tư
mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao” [1].
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy,
quy mô, cơ cơ cấu dân số có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu
dùng và tích lũy của xã hội. Trước hết, quy mô dân số ảnh hưởng trực tiếp
đến thu nhập bình quân đầu người, trong đó thu nhập quốc dân là tử số, quy
mô dân số lầ mẫu số, mẫu số càng lớn thì thương số càng nhỏ. Dân số tác
động đến kinh tế ở tầm vi mô và đến cả quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu
dùng và tích lũy. Quy mô, cơ cấu dân số, di cư góp phần quan trọng vào việc
xác định quy mô, cơ cấu sản xuất. Ở tầm vĩ mô, tác động của dân số đến kinh
tế thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: dân số và sử dụng vốn, dân số và công
nghệ, dân số và tổng sản phẩm quốc dân, dân số và tiêu dùng hàng hóa dịch
vụ. Ở tầm vi mô, sản xuất cái gì? Với khối lượng bao nhiêu? Phụ thuộc rất
nhiều vào nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhu cầu này theo độ tuổi và giới
tính của một dân số.
25
Khi mức sinh cao (nhóm tuổi 0-14) chiếm tỷ lệ lớn trong dân số, dẫn
đến tỷ lệ phụ thuộc cao nên khả năng đầu tư thấp, khả năng sản xuất kém,thu
nhập bình quân đầu người không tăng hoặc tăng chậm. Muốn tăng thu nhập
bình quân đầu người thì tốc độ tăng GDP phải cao hơn tốc độ tăng dân số.
GDP phụ thuộc vào các yếu tố: Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động, tỷ lệ
người hoạt động kinh tế, tỷ người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất
so với tổng số người đang làm việc.
Khi mức sinh giảm, quy mô dân số ổn định, đặc biệt là đối với những
quốc gia có cơ cấu “dân số vàng”, tỷ lệ người phụ thuộc giảm, tỷ lệ người
trong độ tuổi lao động cao, khả năng sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội
lớn, khả năng tích lũy cao, tái đầu tư lớn, tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng
kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển, để tăng thu nhập bình quân đầu người
thì việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các nước
đang phát triển hiện nay ở tình trạng thiếu vốn, khoa học kỹ thuật và quản lý
còn thấp, năng suất lao động thấp, số người chưa có việc làm cao là những
yếu tố dẫn đến GDP theo đầu người thấp. Nếu tỷ suất sinh vẫn giữ ở mức cao
thì thời gian họ vượt qua đói nghèo càng dài.
1.2.5. Quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình góp
phần quan trọng đối với phát triển xã hội và ổn định môi trường
Quản lý nhà nước đối với công tác DS-KHHGĐ có ý nghĩa quyết định
trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc
gia và từng địa phương. Dân số là nguyên nhân của mọi sự thay đổi ở các lĩnh
vực xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, an ninh, trật tự an toàn xã hội, giao
thông, liên quan mật thiết tới phát triển kinh tế và sự biến đổi môi trường.
- Tác động của dân số đối với lao động, việc làm
26
Dân số trong độ tuổi lao động là nguồn lao động của mỗi nước, vì vậy,
các quá trình biến động quy mô và cơ cấu dân số có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của nguồn lao động cả về số lượng, chất lượng việc làm.
Trong những năm gần đây, do thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ nên
mức sinh ở nước ta liên tục giảm và kết quả là số trẻ em dưới 15 tuổi giảm, số
người trên 60 tuổi đang tăng nên tỷ số người phụ thuộc thấp, nhiều người
trong độ tuổi lao động chỉ “phải nuôi” ít người trong độ tuổi phụ thuộc. Giai
đoạn này gọi là thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” và theo các nhà nhân khẩu học
thì gian đoạn này của Việt Nam sẽ diễn ra trong khoảng 35 năm. Trong giai
đoạn cơ cấu “dân số vàng” đất nước sẽ có một lực lượng lao động trẻ hùng
hậu. Nếu lực lượng này được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động thì sẽ tạo ra
khối lượng của cải vật chất, tạo giá trị tích lũy lớn cho đất nước. Trên thế giới,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã tận dụng tốt cơ hội nhân khẩu học này,
làm nền tảng cho những bước phát triển thần kỳ và trở thành những “con rồng
châu Á”.
Mặc dù giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” là cơ hội để sản xuất ra nhiều
sản phẩm cho xã hội nhưng cũng là áp lực rất lớn cho xã hội trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa trong bối cảnh nguồn lao động của chúng ta mặc dù rất dồi dào
nhưng trình độ chuyên môn tay nghề còn rất thấp.
- Tác động của dân số đến giáo dục
Sự thay đổi về qui mô và cơ cấu của dân số sẽ ảnh hưởng đến sự phát
triển về qui mô, cơ cấu và chất lượng của hệ thống giáo dục. Qui mô và tốc độ
tăng dân số có tác động trực tiếp và gián tiếp đến quy mô của ngành giáo dục.
Quy mô dân số, tốc độ gia tăng dân số hàng năm phản ánh nhu cầu đi học của
người dân. Nếu tốc độ gia tăng dân số ổn định, số lượng trẻ em đến tuổi đi
học tương đối ổn định thì việc mở rộng quy mô giáo dục sẽ tạo điều kiện thu
27
hút thêm nhiều trẻ em đến trường. Nhưng nếu dân số đông, tốc độ gia tăng
dân số nhanh, đòi hỏi phải mở rộng quy mô giao dục với một tốc độ tương
ứng. Dân số tăng nhanh không những làm tăng số trẻ em đến tuổi đi học, tăng
số học sinh phổ thông mà còn làm tăng nhu cầu học nghề và đại học. Tốc độ
gia tăng dân số quá nhanh sẽ tác động tiêu cực đối với giáo dục, tăng tỷ lệ trẻ
em thất học, bỏ học.
Khi dân số đông, tốc độ tăng dân số quá nhanh trong khi tốc độ tăng
trưởng kinh tế lại chậm hơn dẫn đến mức thu nhập bình quân thấp, khả năng
đầu tư cho giáo dục thấp và do đó quy mô giáo dục bị hạn chế, chất lượng
giáo dục bị giảm sút.
Trong những năm qua ở Việt Nam, nhờ mức giảm sinh giảm nhanh và
liên tục đã làm cho tỷ trọng dân số ở nhóm tuổi 0-19 tuổi giảm mạnh vì vậy
số lượng học sinh phổ thông đã giảm gần 3 triệu em (2001-2009), tạo điều
kiện để nâng cao chất lượng dạy và học.
- Tác động của dân số đối với y tế
Quy mô và tốc độ gia tăng dân số nhanh không những làm cho mức độ
cải thiện về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân bị chậm lại mà ngược lại có thể
không được cải thiện, thậm chí kém đi. Nói cách khác, trong trường hợp này
sự gia tăng dân số quá nhanh đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của sự
nghiệp y tế. Sự gia tăng dân số quá nhanh không phù hợp với tốc độ tăng
lương thực, thực phẩm làm cho chất lượng cuộc sống của người dân kém đi,
bệnh tật tăng lên trong khi mức độ đảm bảo y tế lại có hạn. Sự gia tăng dân số
quá nhanh dẫn đến điều kiện nhà ở thêm chật chội, các điều kiện vệ sinh
không đảm bảo, nhất là về nguồn nước sinh hoạt. Dinh dưỡng kém và môi
trường bị ô nhiễm là những điều kiện thuận lợi cho bệnh tật tăng lên.
Trong những năm qua, có thể nói hầu hết các bệnh viện nhất là bệnh
viện tuyến trên, bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện tuyến Trung ương đều quá
28
tải, tỷ lệ sử dụng giường ở các bệnh viện hầu hết đều vượt qua con số 100%,
không ít trường hợp hai đến ba người phải nằm chung 1 giường bệnh.
Như vậy, quy mô và tốc độ gia tăng dân số tác động tới hệ thống y tế
và chăm sóc sức khỏe ở cả hai khía cạnh: Thứ nhất nó đặt ra nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho người dân mà ngành y tế phải đáp ứng, thứ hai cùng với các
nhân tố khác nó tạo những gánh nặng về bệnh tật đòi hỏi ngành y tế phải đáp
ứng.
- Dân số với an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo
Trong những năm vừa qua, sản lượng lương thực nước ta vẫn tiếp tục
tăng. Tốc độ tăng sản lượng lương thực cao gấp 3 lần tốc độ tăng dân số, đảm
bảo giữ vững nhịp độ tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người
3,2%/năm. Vì vậy an toàn lương thực quốc gia được đảm bảo. Tuy nhiên vẫn
đề an ninh lương thực nước ta hiện nay đang đứng trước khó khăn và thách
thức không nhỏ. Quy mô dân số vẫn còn tiếp tục tăng, số người trong độ tuổi
lao động tăng lên nhưng lại thiếu việc làm nên thu nhập của người dân tăng
chậm. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng về xóa đói
giảm nghèo nhưng tỷ lệ các hộ nghèo đói vẫn còn cao, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa. Trong thời gian tới, tốc độ tăng lương thực và tốc độ tăng dân số
nước ta sẽ xấp xỉ nhau nên lương thực bình quân đầu người khó có thể tăng
như những năm trước đây.
Mức sinh thấp sẽ giảm tốc độ tăng dân số, điều này mở ra cơ hội cho
phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo bởi khi đó số dân số sống phụ thuộc
vào những người đang ở độ tuổi lao động sẽ giảm.
Do đó con đường tốt nhất để khắc phục nghèo đói, suy dinh dưỡng và
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là phải tiếp tục giảm tốc độ gia tăng dân
số, tiến tới ổn định quy mô dân số.
- Tác động của dân số đối với môi trường
29
Việc cân bằng giữa sử dụng tài nguyên và các yêu cầu về bảo vệ sinh
thái phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số. Dân số tăng sẽ dẫn đến tăng
số người tiêu thụ đòi hỏi phải khai thác tài nguyên nhiều hơn, sản xuất nhiều
hơn do vậy cũng làm môi trường ô nhiễm trầm trọng hơn. Tăng dân số làm
nảy sinh nhu cầu sử dụng đất cho nhà ở và các mục tiêu phục vụ cuộc sống
của dân cư. Sự di cư từ vùng này đến vùng khác và đặc biệt là sự di cư từ
nông thôn ra thành thị cũng là một nguyên nhân quan trọng làm tăng sự ô
nhiễm môi trường. Tốc độ đô thị hóa diễn ra quá nhanh cũng tạo ra một mối
họa khác cho môi trường. Mật độ dân số tập trung quá đông khiến lượng rác
thải ở thành phố bị ứ đọng và môi trường sẽ bị ô nhiễm.
Sự gia tăng dân số và hoạt động kinh tế tự nó mang theo những hiểm
họa như làm thay đổi hệ sinh thái, môi trường, khí quyển và thoái hóa đất.
Căn nguyên cơ bản dẫn đến ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển
hiện nay là mức tăng dân số, công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
- Tác động của dân số đến an sinh xã hội
Tình trạng dân số nói chung và dân số giai đoạn cơ cấu dân số vàng nói
riêng có tác động rất lớn đến nhu cầu an sinh xã hội, trước hết là nhu cầu an
sinh xã hội cho số phụ nữ sinh đẻ hàng năm, cho những người thực hiện biện
pháp KHHGĐ, bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi là một trong 3
nhóm đối tượng được hưởng những quyền lợi cao nhất về giáo dục, nước
sạch, vệ sinh môi trường, y tế và bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi.
- Dân số và bình đẳng giới
Mối quan hệ giữa phát triển dân số và bình đẳng giới trong xã hội ngày
nay là sự gia tăng dân số quá nhanh dẫn đến hậu quả xấu cho việc thực hiện
bình đẳng giới. Ở các nước có tập quán ưa thích con trai, dân số tăng quá
nhanh do mức mức sinh cao, các gia đình thường có đông con. Do quy mô gia
đình lớn, đặc biệt là các gia đình nghèo thì cha mẹ thường chỉ ưu tiên cho
30
chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở nhà trường cho con trai. Con gái thường rơi
vào cảnh thất học, ít được đi học phải đi làm và lấy chồng sớm, đẻ nhiều con.
Kết quả là so với nam giới, phụ nữ thường có học vấn thấp hơn, ít được tham
gia các hoạt động chính trị, xã hội. Bất bình đẳng nam nữ là điều khó tránh
khỏi. Ngược lại, trong một xã hội mặc dù kinh tế chưa phát triển mạnh, xã
hội vẫn còn tâm lý ưa chuộng con trai nhưng nếu công tác dân số được thực
hiện hiệu quả, làm cho mức sinh thấp, mỗi gia đình đều chỉ có từ 1 đến 2 con
thì trẻ em gái và phụ nữ đều có cơ hội được thực hiện quyền bình đẳng trong
giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và tạo nền tảng để tiếp tục thực hiện các
quyền bình đẳng khác.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Những nội dung trọng tâm quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ gồm:
- Thứ nhất, xây dựng, tổ chức và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy
hoạch, chương trình, kế hoạch và các biện pháp thực hiện công tác DS-
KHHGĐ.
Tại Trung ương, xây dựng và ban hành các chiến lược, chương trình, kế
hoạch để thực hiện công tác DS-KHHGĐ như: Chiến lược Dân số và Sức
khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Chương trình mục tiêu Y tế-
Dân số, các Đề án, Mô hình trong lĩnh vực Ds-KHHGĐ bao gồm: Đề án Sàng
lọc trước sinh và sơ sinh; Mô hình Tư vấn và Khám sức khỏe tiền hôn nhân;
Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; Mô hình Tư vấn
và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng; Đề án Kiểm soát dân số vùng
biển, ven biển.
Từ chiến lược, chương trình, kế hoạch nói trên, tại địa phương, xây dựng
các chương trình, kế hoạch mô hình, đề án và các biện pháp cụ thể tổ chức
thực hiện phù hợp với tình hình thực tế, đặc thù của vùng, miền, địa phương.
31
- Thứ hai, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
DS-KHHGĐ.
Trung ương xây dựng các dự án luật, pháp lênh, văn bản dưới luật, chính
sách về DS-KHHGĐ để trình Chính phủ. Nhiều văn bản quan trọng được ban
hành: Pháp lệnh Dân số, Nghị định, hướng dẫn một số điều thi hành của Pháp lệnh
Dân số. Ban hành theo thẩm quyền các Quyết định, Thông tư, Chỉ thị để hướng
dẫn kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước, quy chế quản lý các
chương trình và dự án DS-KHHGĐ…
Tại địa phương ban hành các quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch phát
triển dài hạn, năm năm và hàng năm, Chương trình, đề án về DS-KHHGĐ để cụ
thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Việc tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về DS-
KHHGĐ tại địa phương nhằm đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước đến với người dân, nâng cao nhận thức và làm thay đổi
hành vi của người dân về DS-KHHGĐ để đạt được các mục tiêu của dân số là ổn
định quy mô dân số, cơ cấu dân số, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân số
hợp lý.
Thực tế, một số văn bản quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ ban
hành chưa được kịp thời, hoặc khi có hiện tượng, sự vụ diễn ra mới ban hành văn
bản quy định. Ví dụ: Sau khi Pháp lệnh dân số 2003 được ban hành, Điều 10,
PLDS năm 2003 có nêu là mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định thời
gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh. Hai chữ “số con” đã khiến
nhiều người dân hiểu rằng Nhà nước không chủ trương chính sách mỗi cặp vợ
chồng chỉ có từ 1- 2 con nữa, mà để cho người dân tự quyết định số con của mình.
Người dân nghĩ nôm na là mình được đẻ thoải mái. Chính vì vậy, tình hình dân số
có những biến động khó lường, đặc biệt là năm 2003- 2004, sau khi PLDS 2003 ra
đời thì tỉ lệ sinh tăng lên, tỉ lệ tăng trưởng dân số cũng tăng lên. Khi Chính phủ
32
ban hành Nghị định 104, nêu rõ việc các cặp vợ chồng, cá nhân có nghĩa vụ thực
hiện quy mô gia đình nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1-2 con, thì việc sinh con
thứ 3 trở lên mới tạm lắng xuống. Tiếp đó, ngày 22/3/2005, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 47 về việc “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS -
KHHGĐ”, công tác DS - KHHGĐ mới được chấn chỉnh một bước. Năm 2005-
2006, tỉ suất sinh có giảm xuống. Tuy nhiên, đến năm 2007, tình hình lại có diễn
biến mới: Tỉ suất sinh không được như mong muốn, chỉ tiêu giảm sinh chỉ đạt
0,25%o, so với chỉ tiêu Quốc hội giao là 0,3%o. Đầu năm 2008, tình hình lại có
những diễn biến phức tạp hơn, cho đến khi Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh
Dân số được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 27/12/2008. Tuy nhiên,
mãi đến 08/03/2010, Chính phủ mới ban hành Nghị định 20/2010/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số.
- Thứ ba, tổ chức bộ máy và bố trí nguồn nhân lực làm công tác DS-
KHHGĐ.
Hiện nay, bộ máy quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ bao gồm: Tại
trung ương, Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về y tế, bao gồm cả lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình. Chủ thể quản lý
nhà nước ở địa phương là UBND các cấp. Cơ quan tham mưu cho UBND cấp
tỉnh là Sở Y tế, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh trực thuộc Sở Y tế thực hiện chức năng
tham mưu giúp Giám đốc Sở Y tế quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ, bao gồm
các lĩnh vực: Quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân số,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về DS-
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh. Trung tâm DS-KHHGĐ trực thuộc UBND huyện. Cán
bộ DS-KHHGĐ xã là viên chức của Trung tâm DS-KHHGĐ, biệt phái làm việc
tại xã. Tại các thôn, bản, tổ dân phố có đội ngũ cộng tác viên dân số.
Cần có các biện pháp để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của tổ chức
bộ máy và chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ từ tỉnh đến
33
cơ sở, đảm bảo đủ năng lực tham mưu, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao. Cần tiếp tục phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của đội
ngũ cộng tác viên dân số. Và quan trọng là phải có giải pháp ổn định tổ chức bộ
máy đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với trọng tâm công tác dân số trong giai
đoạn hiện nay.
- Thứ tư, huy động các nguồn lực phục vụ thực hiện công tác DS-
KHHGĐ.
Nguồn tài chính để thực hiện hoạt động DS-KHHGĐ từ ngân sách
trung ương Chương trình mục tiêu Y tế-Dân số, hiện nay rất hạn hẹp, cần huy
động sự hỗ trợ kinh phí từ ngân sách địa phương để chi thực hiện hoạt động
chuyên môn dịch vụ DS-KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số, chi phụ cấp
cộng tác viên dân số cơ sở…
- Thứ năm, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về DS-KHHGĐ.
Kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh
vực DS-KHHGĐ theo thẩm quyền; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy
định của pháp luật đối với các hoạt động: Cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình
và quản lý các phương tiện tránh thai; Triển khai thực hiện hoạt động thuộc các
mô hình, đề án lĩnh vực DS-KHHGĐ; Thực hiện các quy định của pháp luật để
đảm bảo cân bằng giới tính theo quy luật tự nhiên, xử lý vi phạm khi phát hiện có
hành vi lựa chọn giới tính thai nhi…
Việc thực hiện đầy đủ các nội dung trên là nhiệm vụ của nhiều cơ quan
quản lý nhà nước ở các cấp. Trong giai đoạn hiện nay, nội dung quản lý nhà
nước về công tác DS-KHHGĐ mà ngành DS-KHHGĐ được giao bao gồm
các lĩnh vực quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, quản lý hệ cơ sở dữ liệu DS-
KHHGĐ, phối hợp thực hiện nhiệm vụ quản lý về phân bố dân số.
34
1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về công tác Dân số-
Kế hoạch hóa gia đình
1.4.1 Tác động của yếu tố chính trị và pháp luật
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là Đảng cầm quyền.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính thức và toàn diện đối với Nhà
nước thông qua đề ra các quyết sách chính trị của Đảng như: Cương lĩnh,
chiến lược, chủ trương, đường lối, chính sách và các nghị quyết để làm cơ sở
cho hoạt động của nhà nước
Các quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị
của Đảng trong lĩnh vực có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo
và tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước.
Đối với lĩnh vực DS-KHHGĐ, Đảng và Nhà nước ta sớm nhận thức
được tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề dân số đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân;
đồng thời xác định việc kiểm soát quy mô dân số, giảm tốc độ gia tăng quy
mô dân số là vấn đề trọng tâm. Quyết định số 216-CP ngày 26-12-1961 của
Chính phủ về việc sinh đẻ có hướng dẫn, đánh dấu sự khởi đầu cho chương
trình dân số Việt Nam, hướng đến mục tiêu giảm mức sinh đẻ để kiểm soát
tốc độ tăng dân số ở miền Bắc.
Sau khi đất nước thống nhất, công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
được triển khai trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, do trong bối cảnh kinh tế-xã
hội hết sức khó khăn lại bị bao vây, cấm vận, chưa xác định được cách làm
phù hợp, thiếu một tổ chức chuyên trách chăm lo cho công tác này cộng với
cơ chế quản lý kém hiệu quả… nên kết quả đạt được còn hạn chế. Liên tục
qua 3 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), lần thứ V (1981) và lần
thứ VI (1986), công tác DS- KHHGĐ tuy đã đạt được một số kết quả, song
35
mục tiêu giảm tỷ lệ phát triển dân số hàng năm xuống mức 1,7% đều không
đạt được.
Trước tình hình công tác DS-KHHGĐ chậm đạt được kết quả, xác định
“tốc độ gia tăng dân số quá nhanh là một yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế-
xã hội, hạn chế những nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Nếu
tình hình trên vẫn tiếp tục diễn ra sẽ đặt nước ta trước những khó khăn rất
lớn”, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban
hành Nghị quyết về chính sách DS-KHHGĐ.
Với Nghị quyết này, lần đầu tiên Đảng ta có một văn bản hoàn chỉnh và
khoa học về chính sách dân số. Nghị quyết xác định 5 quan điểm, 3 giải pháp
chủ yếu để triển khai có kết quả công tác dân số. Trong đó tập trung đầu tư
ngân sách nhà nước, xây dựng bộ máy chuyên trách và huy động sự tham gia
của toàn xã hội, khẳng định vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số. Hướng đến “thực hiện gia đình ít con, tạo
điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”, Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ
thể đạt mức sinh thay thế - “bình quân toàn xã hội, mỗi gia đình (cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ) có 2 con vào năm 2015, tiến đến ổn định quy mô
dân số vào giữa thế kỷ XXI”.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII của Đảng,
Chính phủ đã phê duyệt các Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000, Chiến
lược Dân số Việt Nam 2001-2010. Để đôn đốc, chấn chỉnh những sai sót
trong quá trình thực hiện, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như
Chỉ thị 50/CT-TW ngày 5-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương, Nghị quyết
47-NQ/TW ngày 23-5-2005 của Bộ Chính trị và nhiều văn bản khác.
Triển khai các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, các
Chiến lược của Chính phủ, các cấp ủy Đảng và chính quyền đã ban hành
nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ, tập trung vào các giải
36
pháp đồng bộ, như: tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ từ Trung ương
đến cơ sở (thôn, xóm, bản làng); đầu tư kinh phí từ ngân sách kết hợp với
thực hiện một cơ chế quản lý hiệu quả; triển khai mạnh mẽ công tác truyền
thông, vận động, đưa công tác truyền thông kết hợp với cung cấp các phương
tiện, dịch vụ phù hợp đến tận người dân…
Có thể nói, việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, cùng với
sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền, việc triển
khai đồng bộ các giải pháp với sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đã đánh
dấu và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tổ chức thực hiện công
tác DS-KHHGĐ ở nước ta trong những năm qua, đạt được những kết quả hết
sức quan trọng.
Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay
thế sớm 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết đề ra và tiếp tục duy trì cho đến
nay, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích
cực. Dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 2007, nước ta bước
vào thời kỳ dân số vàng.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng
nhanh, đạt 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập
bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm
mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự
phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
37
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về dân số và kế hoạch hóa
gia đình của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá. Mỗi cặp vợ
chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội.
Dịch vụ dân số và kế hoạch hóa gia đình được mở rộng, chất lượng ngày càng
cao.
Thực tế đã minh chứng, có được thành quả trong công tác DS-KHHGĐ
trong hơn 25 năm qua với việc giảm nhanh mức sinh và tốc độ gia tăng quy
mô dân số là nhờ vào chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước
đã thể chế hóa các chủ trương đường lối đó bằng các chính sách pháp luật phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử, góp phần to lớn vào những thành tựu phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Việc giảm nhanh mức sinh đẻ cũng tác động tích cực
đến việc giảm tử vong bà mẹ, tử vong trẻ em, tạo điều kiện nâng cao sức khỏe
và tuổi thọ của nhân dân...
Để chính sách dân số tiếp tục phát huy hiệu quả, phù hợp với điều kiện
và tình hình mới, ngày 4-1-2016, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành Kết
luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-
KHHGĐ, trong đó xác định rõ trong giai đoạn tới phải chuyển trọng tâm
chính sách dân số từ kế KHHGĐ sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số
theo định hướng giải quyết tốt quan hệ dân số và phát triển.
Ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị
quyết số 21/NQ-TW về công tác dân số trong tình hình mới, là sự chuyển
hướng có tính bước ngoặt về định hướng chính sách dân số của Đảng ta trong
tình hình hiện nay.
Điểm mới đáng chú ý đầu tiên về công tác dân số trong tình hình mới
chính là việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình
sang dân số và phát triển, giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề dân số về
38
quy mô, cơ cấu, phân bố chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động
qua lại với phát triển kinh tế, xã hội.
1.4.2. Tác động của tổ chức bộ máy Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Chưa nói tới công tác dân số, đối với bất kỳ ngành nào, con người cũng
là yếu tố quan trọng nhất. Cán bộ có vai trò quan trọng, quyết định đến sự
thành bại của công việc, bởi chính cán bộ là người tổ chức, thực thi nhiệm vụ.
Đã có giai đoạn nhất là những năm 2007-2008, sau khi giải thể Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em, tổ chức bộ máy dân số chậm ổn định, nhiều nguy
cơ dẫn đến việc tăng sinh không chỉ của một năm, mà còn ảnh hưởng đến
mức sinh của các năm sau, vì dân số là một ngành đặc thù. Năm nay người ta
mang bầu, nhưng đến tận sang năm mới sinh con, do đó, nếu công tác dân số
bị ảnh hưởng, nhận thức của người dân không sâu sắc, thì việc mức sinh của
hai năm liên tiếp tăng cũng là điều dễ hiểu. Thực tế kết quả dân số vẫn chưa
bền vững, điều đó được chứng minh ngay bằng việc khi thay đổi bộ máy cán
bộ làm dân số vừa qua, nhận thức của người dân đã khác (đã có ý kiến cho
rằng được đẻ thoải mái). Do đó, bộ máy có ổn định thì công việc chuyên môn
mới được tiếp tục, các thành tựu khác, nhất là công tác dân số mới được bảo
tồn.
Bộ máy cán bộ làm công tác dân số là nguồn lực đặc biệt quan trọng góp
phần không nhỏ vào thành công của công tác DS-KHHGĐ. Đây là lực lượng
trực tiếp lên kế hoạch công tác, tuyên truyền, truyền thông, phổ biến và hướng
dẫn người dân thực hiện, chấp hành chính sách DS-KHHGĐ. Do tính đặc thù
của ngành mà người cán bộ làm công tác dân số phải là ngươì thực sự yêu
nghề, năng động, nhiệt tình, không quản ngại khó khăn thường xuyên quan
tâm, tìm hiểu kịp thời tâm tư nguyện vọng của người dân để có những giải
pháp, tư vấn kịp thời. Có như vậy các nội dung chính sách DS-KHHGĐ mới
đến tận người dân một cách nhanh chóng và thực sự đạt hiệu quả.
39
1.4.3. Tác động của yếu tố kinh tế
Mối quan hệ ngược chiều giữa kinh tế và mức sinh do các nguyên nhân
chủ yếu sau:
Thứ nhất, một nền kinh tế phát triển, dựa trên công cụ sản xuất hiện đại,
cơ giới hóa, tự động hóa thường có nhu cầu lao động ít về số lượng nhưng cao
về chất lượng. Điều này sẽ thúc đẩy các cặp vợ chồng sinh đẻ ít để dành
nguồn lực chăm sóc con cái về sức khỏe, giáo dục và đào tạo nghề.
Thứ hai, khi kinh tế phát triển, con người có thể nảy sinh nhiều nhu cầu
để nâng cao chất lượng cuộc sống, đòi hỏi chất lượng cao hơn đối với việc
thỏa mãn các nhu cầu: học tập, nhà ở, phương tiện đi lại, chăm sóc sức khỏe,
du lịch, vui chơi, giải trí…. Các nguồn lực, kể cả thời gian dành cho việc sinh
con và chăm sóc con sẽ phải cạnh tranh với các nhu cầu này. Đẻ ít như một
giải pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu nói trên.
Thứ ba, ở các nước giàu có, việc sinh con không có mục tiêu kinh tế mà
đơn thuần là thỏa mãn nhu cầu về tình cảm. Trong khi đó chi phí nuôi con lại
lớn. Do vậy mức sinh thấp, ở các nước nghèo thì tình hình ngược lại.
Chế độ kinh tế cũng tác động mạnh đến mức sinh. Chế độ bao cấp, nhất
là bao cấp trong nuôi, dạy và phòng, chữa bệnh cho trẻ em sẽ khuyến sinh.
Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, cha mẹ có trách nhiệm trang trải chi
phí cho các dịch vụ nuôi dạy trẻ, do đó cũng dẫn đến hạn chế sinh.
Đối với mức chết, nghèo đói thường đi đối với tình trạng suy dinh
dưỡng, mù chữ, mất vệ sinh, hệ thống y tế kém phát triển… Những yếu tố này
sẽ nâng cao tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Chất lượng dân số sẽ hạn chế.
Đối với di cư, ở những nơi giàu có, kinh tế phát triển, mức sống cao tạo
nên lực hút cho di cư đến. Ngược lại những vùng ghèo đói, việc làm ít, tạo ra
lực đẩy nên xuất cư mạnh.
40
Do tác động đến cả mức sinh, mức chết và di cư, đương nhiên kinh tế tác
động đến quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số và đó chính là 04 yếu
tố cơ bản của quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ.
1.4.4. Tác động của yếu tố phong tục tập quán
Trong thực tế đời thường, dễ nhận thấy phong tục tập quán tồn tại như
một cơ chế song hành bên cạnh luật pháp, có tác dụng điều tiết hành vi ứng
xử của cộng đồng, của nhóm hay cá nhân. Nếu luật pháp chủ yếu mang tính
cưỡng chế thì phong tục tập quán chủ yếu lại mang tính tự điều chỉnh cá nhân
và quan hệ xã hội, tính chất căn bản của phong tục tập quán là tự nguyện. Đi
ngược về lịch sử, khi luật pháp còn phôi thai, thì phong tục tập quán là điều
kiện duy trì quan hệ xã hội, xét theo không gian, nơi hoạt động luật pháp yếu
ớt, ảnh hưởng của phong tục tập quán càng lớn hơn.
Phong tục tập quán vốn có hai mặt: tích cực và tiêu cực, nếu xem xét mặt
tiêu cực của những phong tục tập quán lạc hậu đối với vấn đề DS-KHHGĐ là
sự cản trở và đi ngược những mục tiêu chính sách DS-KHHGĐ như: Cổ vũ
kết hôn sớm để con cái yên bề gia thất, con đầu, cháu sớm; Duy trì trọng nam
khinh nữ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”…
Phong tục tập quán là biểu hiện của ý thức và hành vi xã hội, nó bắt
nguồn sâu xa từ tồn tại xã hội, ý thức vốn có tính bảo thủ, vì vậy, phong tục
tập quán tuy hình thành trên cơ sở xã hội nhất định nhưng khi đã hình thành
thì sẽ tồn tại dai dẳng mặc dù cơ sở xã hội đã thay đổi. Một số phong tục tập
quán nảy sinh và tồn tại trong nhiều thế kỷ đến nay đã và không còn phù hợp
với yêu cầu ổn định dân số, phát triển kinh tế-xã hội.
Với chính sách bền bỉ và lâu dài là tăng cường truyền thông, vận động
‘mưa dầm, thấm lâu” từ xưa đến nay trong thực hiện công tác DS-KHHGĐ đã
tác động tích cực đến nhận thức và hành vi của người dân để dần xóa bỏ
những quan niệm cũ phong tục tập quán không phù hợp.
41
Tuy nhiên, cho đến nay trong cộng đồng vẫn còn tồn tại một số phong
tục tập quán ảnh hưởng đến việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ như: Có bằng được con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên,
chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ khi về già; Tư tưởng trọng nam khinh nữ, ảnh
hưởng do phong tục tập quán làm phá vỡ sự cân bằng tỷ lệ giới tính; Quan
niệm lấy vợ/chồng là người trong họ hàng để của cải không rơi vào tay người
khác dẫn đến tình trạng hôn nhân cận huyết thống tăng và đó chính là một
trong những nguyên nhân gây ra bệnh, tật dị tật bẩm sinh ở trẻ…
1.4.5. Tác động của yếu tố hội nhập quốc tế đối với quản lý nhà nước về
công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách
quan. Đây là một bước đi tất yếu và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Đặc biệt, Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ
hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó
khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ
nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam
hiện nay cũng như sau này. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa
trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên một vấn
đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Ngoài những cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra
cho Việt Nam những thách thức to lớn, như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nạn
thất nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội
phạm có xu hướng tăng, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hoá văn hoá và sự
huỷ hoại văn hoá dân tộc,... Con đường để vượt qua những thách thức đó
không phải là đóng cửa lại để sống biệt lập với thế giới; mà trái lại, phải chủ
42
động và tích cực hội nhập quốc tế, bồi dưỡng và giáo dục con người nhằm
nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc, khơi dậy và
phát huy tinh thần dân tộc ở họ.
Tác động của hội nhập quốc tế về kinh tế
Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất
yếu và đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển
hội nhập vào nền kinh tế thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ.
Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển
xuyên biên giới,…. Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập
các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như BTA, AFTA, WTO… Đây là cơ
hội mà để ngành kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có điều kiện
phát triển và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự
chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng tăng. Sự chênh lệch đó diễn ra ở
mọi phương diện, ở từng địa phương, trong từng doanh nghiệp.
Và cuối cùng, như đã phân tích ở trên, kinh tế tác động trở lại đối với
quy mô, cơ cấu, phần bố và chất lượng dân số.
Tác động của hội nhập quốc tế về xã hội
Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các
nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên,
Việt Nam cũng giống như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước
những hiểm hoạ của thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,… Những vấn
đề đó đều liên quan trực tiếp đến con người, chất lượng cuộc sống, chất lượng
dân số của mỗi người dân Việt Nam.
43
Tác động của hội nhập quốc tế về văn hoá
Sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế toàn cầu
cũng có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn hóa. Cùng với việc phục
hồi, phát huy các giá trị văn hoá; nền văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu
các giá trị mới của nền văn hoá thế giới và ngày càng trở nên đa dạng, phong
phú. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng gây ra
những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam như: một số giá trị văn
hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh
chóng lối sống, tha hoá đạo đức,…
Đặc biệt, đối với nhóm đối tượng thanh niên và vị thành niên, hội nhập
quốc tế một mặt mang đến cho họ những cơ hội mở mang tri thức, được tiếp
cận với những nền văn hóa văn minh, hiện đại nhưng đồng thời mặt khác sự
xâm nhập của các trào lưu văn hóa ngoại do quá trình hội nhập đã khiến một
bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên và lực lượng lao động trẻ thiếu việc làm
sa ngã. Các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm… ngày càng gia tăng và diễn
biến phức tạp. Đây là mối lo ngại lớn đối với mỗi gia đình và toàn xã hội.
Sức ép đối với an ninh quốc phòng và các vấn đề xã hội khác: Dân số gia
tăng cùng với việc di dân do quá trình đô thị hóa đã để lại hệ quả tất yếu khó
kiểm soát về các lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng
định rằng, chủ động và tích cực hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ
hội và vượt qua những thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Đúng như
Mahatma Gandhi đã khẳng định một cách hùng hồn rằng: "Tôi không muốn
ngôi nhà của tôi bị bao quanh bốn phía và các cửa sổ bị đóng kín. Tôi muốn
làn gió văn hóa của tất cả các xứ sở thổi quanh nhà tôi một cách tự do đến
mức có thể. Song tôi không cho phép bất kỳ điều gì làm nghiêng ngả đôi chân
của mình". Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để vẫn hội nhập vào xu thế phát
44
triển của thế giới, nhưng vẫn giữ được cái riêng của dân tộc mình, không tự
đánh mất mình.
Như mọi người đều biết, bất kỳ sự biến đổi và phát triển nào trong xã
hội, suy cho đến cùng, cũng do con người quyết định; con người vừa là đạo
diễn, vừa là diễn viên của vở kịch về chính bản thân mình. Vì vậy, để tranh
thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức của toàn cầu hóa, việc chuẩn bị
và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá trình hội nhập là hết sức quan
trọng.
Tuy nhiên, một trong những nội dung giáo dục và đào tạo cần quan tâm
đó chính là vấn đề giáo dục và phát huy truyền thống của dân tộc, giáo dục ý
thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc nhằm phát huy và khơi
dậy tinh thần dân tộc. Trong suốt lịch sử dân tộc, đặc biệt là trong các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, chúng ta đã phát huy tốt các truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc của mỗi công dân. Song,
trong những năm qua, dường như việc giáo dục truyền thống và ý thức công
dân chưa được chú ý đúng mức.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, phải tạo được những con người vừa có khả
năng nắm bắt công nghệ hiện đại, vừa có trách nhiệm cao với Tổ quốc và đất
nước. Chỉ có như vậy, đất nước ta mới tránh được các nguy cơ tụt hậu và sánh
vai được với các cường quốc năm châu như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh hằng mong mỏi.
1.5. Kinh ngiệm quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia
đình ở một số địa phương
1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên Huế
Thực hiện tinh thần của Nghị quyết 47-/NQ-TW ngày 22 tháng 3 năm
2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 35-NQ/TU ngày 21 tháng 9 năm 2005 của
Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số
45
và kế hoạch hoá gia đình”, các văn bản của HĐND và UBND tỉnh, sự nỗ lực
của các ngành, các cấp về công tác DS-KHHGĐ nên hầu hết các chỉ tiêu về
DS-KHHGĐ đều đạt và vượt kế hoạch đề ra qua các năm. Về giảm sinh: Từ
năm 2005 đến nay, tỷ suất sinh hàng năm đều giảm bình quân hàng năm
khoảng 0,2‰, đạt và vượt kế hoạch giao. Tỷ suất sinh thô giảm từ 17,3‰
năm 2005 xuống còn 15,46‰ năm 2014. Về tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên: Năm
2005 là 26%, năm 2014 giảm xuống còn 15,4%, bình quân mỗi năm giảm
1,16% và đều đạt chỉ tiêu kế hoạch. Số con trung bình của một phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ trên địa bàn tỉnh vào năm 2005 là 2,5 con và đến nay giảm
xuống còn khoảng 2,2 con. Quy mô gia đình nhỏ ít con dần dần được xã hội
chấp thuận [56].
Kết quả cho thấy, công tác DS-KHHGĐ của tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt
và vượt chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Theo đánh giá của Chi cục Dân số-KHHGĐ
tỉnh, để đạt được những thành quả đó là nhờ vào việc triển khai đồng bộ các
nội dung sau:
Tạo được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của cấp ủy đảng chính
quyền và lồng ghép một cách cụ thể với hoạt động, chương trình, phong trào
của các ban, ngành, đoàn thể; Công tác DS-KHHGĐ được xã hội hoá cao, thu
hút sự tham gia tích cực của cả cộng đồng dân cư; Tổ chức bộ máy được
thống nhất, ổn định từ tỉnh đến cơ sở, có đội ngũ cán bộ làm công tác dân số
các cấp nhiệt tình, trách nhiệm, được kiện toàn, củng cố, được đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ; Đổi mới công tác truyền thông đi
đôi với việc đáp ứng kịp thời đa dạng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản/kế hoạch hóa gia đình…
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính cấp huyện và 141 xã, phường, thị
trấn; dân số toàn tỉnh có gần 65 vạn người. Trong đó, trong độ tuổi lao động
46
chiếm gần 63,1% tổng dân số của tỉnh, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên chiếm
tỷ lệ 12,9%, Quảng trị đã bước vào giai đoạn già hóa dân số.
Tại báo cáo kết quả việc thực hiện Nghị quyết 06/2010/NQ-HĐND ngày
20/4/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị về chính sách DS-
KHHGĐ đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, nêu những thành tựu
quan trọng về công tác DS- KHHGĐ đạt được như: Nhận thức của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, của nhân dân về công tác DS- KHHGĐ có những chuyển
biến tích cực; tổ chức, bộ máy làm công tác Dân số từ tỉnh đến cơ sở không
ngừng được củng cố, kiện toàn và phát triển; chất lượng, hiệu quả các hoạt
động Dân số/SKKSS/KHHGĐ được nâng lên rõ rệt… Tuy nhiên, công tác
DS-KHHGĐ ở Quảng Trị vẫn còn gặp nhiều khó khăn thách thức đó là: Tổng
tỷ suất sinh vẫn còn rất cao 2,48 con (bình quân cả nước là 2,09 con); tỷ lệ
sinh con thứ ba cao xấp sỷ 19% (bình quân cả nước 14,5%); mất cân bằng
giới tính khi sinh cao 112,5 bé trai/100 bé gái (bình quân cả nước 112 bé
trai/100 bé gái); nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống có khả năng tăng
trở lại; chất lượng dân số thấp [55]. …. Nguồn kinh phí của Trung ương đầu
tư cho công tác Dân số – KHHGĐ bị cắt giảm nhiều. Chính vì vậy, để thực
hiện mục tiêu “tiếp thục giảm mức sinh một cách hợp lý, tiến tới đạt và duy trì
mức sinh thay thế, ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, giải quyết tốt những
vấn đề về cơ cấu dân số, đặc biệt là giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới
tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; nâng cao chất lượng dân số cả về
thể chất, trí tuệ và tinh thần”, UBND tỉnh Quảng Trị ban hành đề án ” Chính
sách Dân số – KHHGĐ tỉnh Quảng Trị, giai đoạn 2017 -2020 tầm nhìn đến
2030″. HĐND tỉnh Quảng Trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 11/2017/NQ-
HĐND ngày 29/7/2017 về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình tỉnh
Quảng Trị giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 [28].
47
Công tác DS-KHHGĐ được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Quảng Trị
quan tâm thể hiện trong việc ban hành hệ thống văn bản về cơ chế, chính
sách, hỗ trợ nguồn lực thực hiện, cụ thể: Từ năm 2010 chính sách hỗ trợ cho
CTV được nâng lên 150.000 đồng/tháng, trong đó Trung ương hỗ trợ 100.000
đồng, tỉnh 50.000 đồng, hàng năm có 634 CTV dân số được mua thẻ BHYT
tự nguyện, chiếm tỉ lệ 39% CTV dân số toàn tỉnh. Đối với những cán bộ
chuyên trách dân số xã nếu không đủ điều kiện tuyển dụng vào viên chức cấp
xã thì được bố trí kinh phí giải quyết chế độ nghỉ việc. Hàng năm có nguồn
lực để thực hiện chính sách khám, điều trị phụ khoa cho phụ nữ tại xã thuộc
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biển, địa bàn có mức sinh cao; hỗ trợ
nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ tại các địa bàn vùng đồng bào thiểu số;
tổ chức đào tạo cho 100% cán bộ y tế thực hiện dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ từ
huyện đến xã về kỹ thuật cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ; Tổ chức đào
tạo kỹ năng tư vấn, truyền thông về DS-KHHGĐ cho 100% viên chức dân số
xã và CTV dân số. Khen thưởng làng không sinh con thứ 3 trở lên…
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Bình
Từ những kinh nghiệm quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ của
các tỉnh bạn, Quảng Bình đã rút ra được những bài học kinh nghiệm như sau:
- Kịp thời nắm bắt xu hướng biến đổi nhanh, dự báo được những vấn đề
mới nảy sinh để có biện pháp thích ứng phù hợp trong tình hình mới, đặc biệt
là việc triển khai lồng ghép các vấn đề dân số trong phát triển kinh tế xã hội
của địa phương. Để làm được điều đó, công tác lãnh, chỉ đạo cần được triển
khai khẩn trương và quyết liệt. Văn bản chỉ đạo cần đảm bảo nội dung, tính
chất cho việc chỉ đạo điều hành hệ thống chính trị từ tỉnh xuống cơ sở, nhất là
lồng ghép một cách cụ thể với hoạt động, chương trình, phong trào của các
ban, ngành, đoàn thể.
48
- Cụ thể hóa chính sách dân số thành các tiêu chí phấn đấu và đưa vào bộ
tiêu chuẩn văn hóa để xây dựng đời sống văn hóa cơ sở sẽ tạo được động lực
phấn đấu ở từng cộng đồng dân cư trong thực hiện chính sách chung trong đó
có chính sách DS-KHHGĐ. Xây dựng và duy trì các phong trào ở từng địa
bàn dân cư để tạo sự đồng thuận, cam kết của cộng đồng trong việc đưa chính
sách DS-KHHGĐ vào cuộc sống. Đảm bảo xã hội hóa công tác DS-KHHGĐ
trong tương lai.
- Ổn định tổ chức bộ máy, ổn định tư tưởng công tác cho đội ngũ cán bộ
dân số các cấp là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của quản lý nhà nước
về công tác DS-KHHGĐ.
- Việc ban hành chính sách và đầu tư nguồn lực cho công tác DS-
KHHGĐ cần tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ đề ra là điều kiện quan trọng
để đạt được kết quả trong quá trình thực hiện.
- Nhận thức của người dân về tầm quan trọng của dân số là yếu tố để
phát triển, cần thiết và quan trọng. Cần triển khai thực hiện đúng vai trò, tính
chất của công tác tuyên truyền - vận động, truyền thông - giáo dục chuyển đổi
hành vi về DS-KHHGĐ (kịp thời, thường xuyên liên tục, đa dạng phong phú
hình thức lẫn nội dung và phối hợp phù hợp với các kênh truyền thông đại
chúng).
- Đảm bảo chế độ, chính sách động viên tinh thần, vật chất cho đội ngũ
cán bộ DS-KHHGĐ, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở và lực lượng cộng tác viên
dân số ở địa bàn dân cư; đồng thời quan tâm chăm lo việc đào tạo bồi dưỡng
nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số các cấp.
- Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá là khâu không thể thiếu trong quá
trình triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ nhằm phát hiện những hạn chế,
khó khăn và có biện pháp khắc phục kịp thời
49
Tiểu kết Chương 1
Hoạt động quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ luôn được xác
định là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Làm tốt
công tác DS-KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa
lớn trong chiến lược phát triển đất nước, đồng thời cũng là một trong những
giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Qua
nghiên cứu một số vấn đề chung của quản lý nhà nước về công tác DS-
KHHGĐ đã cho thấy được tầm quan trọng của công tác DS-KHHGĐ trong
công cuộc phát triển đất nước. Điều này cũng thể hiện rõ hơn trong Nghị
quyết Trung ương IV khoá VII và các chủ trương chính sách khác của Đảng
và nhà nước ta. Song, để làm tốt công tác DS-KHHGĐ đòi hỏi phải có sự
quản lý của nhà nước đối với công tác này. Tuy nhiên, công tác DS-KHHGĐ
thường gặp rất nhiều khó khăn do con người vừa là chủ thể quản lý đồng thời
cũng là đối tượng bị quản lý, bên cạnh đó nó còn phụ thuộc rất lớn vào các
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục, tập quán, truyền thống của từng
địa phương.
Vì vậy, để đánh giá một cách khách quan, có cơ sở khoa học về quản lý
nhà nước đối với công tác DS-KHHGĐ cấp tỉnh, thành phố cần phải căn cứ
vào các điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng vùng, từng miền để từ đó
làm rõ được các mặt còn tồn tại đang hiện hữu và đề ra các giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại đó.
50
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về công tác Dân số-
Kế hoạch hóa gia đình của tỉnh Quảng Bình
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung bộ, Việt Nam với diện tích tự
nhiên 8.065,27km2. Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía Đông và có chung
biên giới với Lào 201,87 km ở phía Tây, có cảng Hòn La, cảng Hàng không
Đồng Hơi, Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ
12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và
một số cửa khẩu phụ khác nối liền với Nước CHDCND Lào.
Vị trí địa lý là một lợi thế trong sự phát triển kinh tế của tỉnh. Phía Bắc
giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp với Lào, phía
Đông giáp với biển Đông. Quảng Bình có 01 thành phố Đồng Hới và 01 thị
xã Ba Đồn và 6 huyện: Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ (4
huyện giáp biển); Tuyên Hoá, Minh Hoá (02 huyện miền núi).
Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông, 85% tổng
diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái
cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven
biển.
Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí
hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ
tháng 9 đến tháng 3 năm sau và mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 26oC - 35oC.
51
2.1.2. Điều kiện phát triển kinh tế
Trong thời gian qua, với sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, các
tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong việc triển khai thực
hiện đồng bộ, quyết liệt các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo điều
hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh nên kinh tế - xã hội tỉnh Quảng
Bình đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng và phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các ngành, lĩnh vực, nhiều công trình
và các dự án quan trọng trên lãnh thổ được triển khai... Nền kinh tế của tỉnh
Quảng Bình tiếp tục tăng trưởng cao và tương đối vững chắc; tiềm năng một
số ngành, lĩnh vực, địa phương đã được chú trọng đầu tư khai thác; môi
trường, chính sách thu hút đầu tư được cải thiện đáng kể; Vườn Quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đã mở ra
cho tỉnh có một vị thế mới trong phát triển du lịch; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội được chú trọng đầu tư; lĩnh vực văn hóa, xã hội có những chuyển biến tiến
bộ; công tác an sinh xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân ổn định và có
bước cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững.
Năm 2016, tỉnh Quảng Bình đối mặt với quá nhiều khó khăn, thách
thức. Sự cố môi trường biển do Công ty Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà
Tĩnh gây ra, nắng nóng kéo dài và 2 trận lũ, lụt xảy ra liên tiếp trong tháng 10
năm 2017 đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống; gây thiệt
hại lớn về người, tài sản của nhân dân và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, Quảng Bình bước vào thời kỳ phát triển mới trong bối
cảnh có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách
thức trong xu thế cạnh tranh thị trường trong và ngoài nước ngày càng tăng.
Với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Quảng Bình nhanh
52
hơn theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ, rút bớt khoảng cách chênh
lệch mức sống và phát triển với bình quân cả nước theo hướng phát triển bền
vững và phấn đấu trở thành một tỉnh trọng điểm về kinh tế trong khu vực Bắc
Trung Bộ, Quảng Bình vẫn đang xây dựng để trở thành một trong những tỉnh
phát triển của cả nước với vai trò là trung tâm du lịch và dịch vụ, công
nghiệp, thương mại, nông nghiệp trong thời gian tới.
Theo đó, phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng
năm giai đoạn 2016 - 2020 đạt 13%. Đến năm 2020 GDP bình quân đầu
người đạt khoảng 70 – 72 triệu đồng (khoảng 3.500 - 3.700USD); Tỷ trọng
công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế vào năm 2020 cơ
cấu kinh tế tương ứng là 44 - 45,0%, 41,0% và 14 - 15%; Phấn đấu đến năm
2020 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 260 - 270 triệu USD; Thu ngân sách
trên địa bàn tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân
18 - 18,5% [37].
2.1.3. Điều kiện phát triển xã hội
Dân số Quảng Bình năm 2017 có 882.505 người. Phần lớn cư dân địa
phương là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-
Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân
Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và
Minh Hoá và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Dân cư
phân bố không đều, 80,31% sống ở vùng nông thôn và 19,69% sống ở thành
thị.
Quảng Bình được đánh giá là địa phương có tài nguyên du lịch độc đáo
hàng đầu Việt Nam cũng như khu vực Đông Nam Á. Trong đó nổi bật là Di
sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO
hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với các tiêu chí về địa chất,
địa mạo, đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường. Đây cũng là di sản đầu
53
tiên trong khu vực Đông Nam Á đạt 3 trên 4 tiêu chí dành cho một di sản
thiên nhiên thế giới. Bên cạnh đó, Quảng Bình cũng có đường bờ biển dài
nhất Việt Nam với nhiều bãi tắm đẹp, hoang sơ, nước trong, cát mịn và nhiều
món ăn hải sản độc đáo… Quảng Bình cũng là quê hương Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, quê hương người mẹ anh hùng đã đi vào thi ca – Mẹ Suốt.
Mảnh đất này diễn ra nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc; nơi đang lưu giữ
nhiều giá trị văn hóa độc đáo, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể quý như:
Ca trù, Hò khoan Lệ Thủy…
Tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình có Bệnh viện tuyến trung
ương là Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới, 01 Trường Đại
học, nhiều trường cao đẳng, chuyên nghiệp khác.
Phấn đấu giảm dần việc tăng dân số để đến năm 2020 tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên khoảng 0,9%; giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn hiện nay) bình quân
mỗi năm giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 3 - 3,5%; Đến năm 2020 có 100%
huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học; Đến năm 2020 có
100% xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
khoảng 10 - 12%; giải quyết việc làm hàng năm giai đoạn 2016 - 2020
khoảng 3,6 - 3,8 vạn lao động; phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 65%, trong đó đào tạo nghề đạt 50%; Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ đô
thị hoá đạt khoảng 30 - 35%. Đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông
thôn mới [37].
2.2. Thực trạng công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
2.2.1. Quy mô dân số và biến động dân số
2.2.1.1. Dân số trung bình, tỷ lệ tăng dân số
Sự thay đổi số lượng xã, phường của tỉnh Quảng Bình qua các thời kỳ,
cùng với sự gia tăng dân số cơ học làm thay đổi quy mô dân số của tỉnh. Theo
54
kết quả điều tra Dân số và nhà ở ngày 01/4/2009, tỉnh Quảng Bình có 844.893
người, trong đó tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi chiếm 65,4%. So với năm 1999,
dân số Quảng Bình tăng thêm 50.013 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm
trong thời kỳ giữa hai cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999 và 2009 là
0,61%/năm, đây là thời kỳ có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất trong vòng 30 năm
qua. Tỷ lệ này tính bình quân thời kỳ 1989 đến 1999 là 2,08%/năm; thời kỳ
1979 đến 1989 là 2,0%/năm [3].
Trong gian đoạn từ 2011 đến năm 2017, quy mô dân số tỉnh Quảng
Bình và tỷ lệ tăng dân số hàng năm càng giảm hơn, được thể hiện tại Bảng 2.1
dưới đây.
Bảng 2.1: Dân số trung bình, tỷ lệ tăng dân số
Tổng số Nam Nữ Tỷ lệ tăng dân số (%) Năm
853.401 426.868 426.533 0.56 2011
858.293 429.348 428.945 0.57 2012
863.350 434.512 433.662 0.59 2013
868.174 434.512 433.662 0.56 2014
872.925 436.907 436.018 0.55 2015
877.702 439.315 438.387 0.55 2016
882.505 441.736 440.769 0.55 2017
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Quảng Bình)
Qua bảng số liệu cho thấy, tỷ lệ tăng dân số dao động ở mức từ 0,55-
0,59%.
2.2.1.2. Tỷ suất sinh thô, tổng tỷ suất sinh; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
Các chỉ tiêu về dân số trong giai đoạn 2011 đến 2017 được trình bày tại
Bảng 2.2 dưới đây:
55
Bảng 2.2: Tỷ suất sinh thô, tổng tỷ suất sinh; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
Các chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tỷ suất sinh thô
16.00 16.86 16.06 15.88 15.85 15.64 14.92 (CBR) (%o)
Tổng tỷ suất sinh
(TFR) (số con
3.41 2.61 2.22 2.49 2.52 2.35 2.38 trung bình)
Tỷ lệ sinh con thứ
16.06 17.39 16.28 16.16 15.5 14.65 13.84 3 trở lên (%)
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Quảng Bình)
Qua bảng số liệu cho thấy, tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên những
năm gần đây có giảm nhưng giảm chậm. Tổng tỷ suất sinh tiệm cận với mức
sinh thay thế 2,22 con năm 2013 đã tăng cao trở lại 2,38 con năm 2017 và ở
mức cao.
2.2.2. Cơ cấu dân số
2.2.2.1. Cơ cấu dân số theo giới tính
+ Tỷ số giới tính chung: Tỷ số giới tính của dân số của tỉnh năm 2011
là 426.868 nam/100 nữ và đến năm 2017 là 441.736 nam/100 nữ [13].
+ Tỷ số giới tính khi sinh: Năm 2011, 2012 tỷ số giới tính khi sinh của
tỉnh chênh lệch đột biến, cao hơn nhiều mức bình thường (103-106 nam/100
nữ), từ năm 2013 mức chênh lệch giới tính khi sinh giảm dần nhưng vẫn ở
mức chênh lệch.
56
Biểu đồ 2.1: Tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh Quảng Bình
từ năm 2011-2017 (bé trai/100 bé gái)
(Nguồn: Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình)
2.2.2.2. Cơ cấu dân số theo độ tuổi
Tuổi
Tổng số
Nam
Nữ
Số người
882505 51409 65571
441736 27829 34175
% 50,05 54,21 52,12
Số người 440769 23580 31396
Tổng số 0-4 5-9
% 49,95 45,79 47,88
64661 64374 90505 93110 78549 59814 60457 53407 46125 44944 32628 21681
51,04 50,76 50,83 51,49 53,28 51,98 50,20 49,16 47,28 46,41 44,66 44,70
31659 32012 44321 44829 36553 29035 30422 27466 24315 23956 17780 11923
33002 32675 45952 47942 41996 31092 30348 26254 21810 20988 14573 9756
10-14 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69
49,00 49,73 48,80 48,15 46,29 48,54 50,32 51,43 52,72 53,59 54,49 55,30
Bảng 2.3. Cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính năm 2017
57
70-74 75-79 80+
15381 14420 25165
6832 6138 10474
44,42 42,57 41,49
8549 8282 14691
55,58 57,43 58,51
(Nguồn Niên giám thống kê – Cục Thống kế tỉnh Quảng Bình)
Qua bảng số liệu trên cho thấy, tỷ số giới tính chung của tỉnh Quảng
Bình chưa có sự chênh lệch đáng kể, tuy nhiên, ở nhóm tuổi 0-4, sự chênh
lệch lớn và cao nhất trong tất cả các nhóm tuổi. Điều này có liên quan đến tỷ
số giới tính khi sinh của tỉnh những năm gần đây đều ở mức chênh lệch cao.
Năm 2012, tỷ số giới tính khi sinh là 129 bé trai/100 bé gái; Năm 2017, tỷ số
này là 108/100.
2.2.2.3. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên theo giới tính
Dân số trong lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Quảng Bình
thể hiện ở bảng 2.4 dưới đây
Bảng 2.4. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên theo giới tính
Năm Tổng số Nam Nữ
2011 484.416 247.396 237.020
2012 514.278 263.658 250.620
2013 529.023 217.307 257.716
2014 528.930 264.639 264.291
2015 530.064 264.706 265.358
2016 531.095 264.903 266.192
2017 531.416 263.672 267.744
(Nguồn Niên giám thống kê – Cục Thống kế tỉnh Quảng Bình)
+ Cơ cấu dân số vàng: Cơ cấu dân số của tỉnh Quảng Bình đang dịch
chuyển từ dân số trẻ sang thời kỳ “dân số vàng”. Dân số trong độ tuổi lao
động năm 2011 là 484.416 người (chiếm 56,76% dân số) và đến năm 2017
tăng 631.416 người (chiếm 60.21% dân số).
58
Bảng 2.5: Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên (%)
Tổng số Dân số từ 60 tuổi trở lên Tỷ lệ (%) Năm
868.174 102.470 11.80 2014
872.925 105.047 12.03 2015
877.702 108.573 12.37 2016
109.275 61.225 12.38 2017
(Nguồn Niên giám thống kê – Cục Thống kế tỉnh Quảng Bình)
+ Già hóa dân số: Xu hướng già hóa dân số Quảng Bình đang diễn ra
với tốc độ khá nhanh. Đến năm 2016, tổng số người cao tuổi (từ 60 tuổi trở
lên) chiếm tỷ lệ 12.38% dân số toàn tỉnh.
2.2.3. Chất lượng dân số
Tuổi thọ bình quân tỉnh Quảng Bình hiện nay đạt 72,7 tuổi [13]. Tuổi
kết hôn trung bình lần đầu là 25,5 tuổi so với toàn quốc 24,5 tuổi.
Quảng Bình đã triển khai nhiều mô hình nâng cao chất lượng dân số
như: Sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh nhằm phát hiện, điều trị sớm các
tật, bệnh, các rối loạn chuyển hóa di truyền; Tư vấn và khám sức khỏe tiền
hôn nhân; Giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; Tư vấn và chăm
sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng; khai Mô hình Can thiệp giảm thiểu
mất cân bằng giới tính khi sinh nhằm ổn định cơ cấu dân số; Đề án Kiểm soát
dân số vùng biển, ven biển. Đến nay, đã đạt được những kết quả bước đầu
nhưng so với các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về nâng cao chất lượng dân
số mà Nghị quyết của Bộ Chính trị và Kế hoạch thực hiện Chiến lược Dân số-
Sức khỏe sinh sản của tỉnh giai đoạn 2011-2020 đã đề ra thì vấn đề nâng cao
chất lượng dân số trong tình hình mới vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức.
59
Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là số lượng người khuyết tật của tỉnh
Quảng Bình khá cao, trên 45.000 người (nguồn số liệu: Hội NKT và TMC),
nguyên nhân chủ yếu do dị tật bẩm sinh và người khuyết tật. Việc triển khai
thực hiện Đề án sàng lọc trước sinh và sơ sinh chưa có tác động tích cực cho
việc giảm tỷ lệ người khuyết tật, mới chủ yếu dừng lại ở khâu tuyên truyền,
truyền thông, hoạt động kỹ thuật can thiệp sàng lọc chẩn đoán trước sinh và
sơ sinh còn rất hạn chế. Số lượng phụ nữ mang thai được khám sàng lọc trước
sinh và trẻ sơ sinh được lấy mẫu máu gót chân qua từng năm đạt rất thấp.
Nguyên nhân một phần do thiếu kinh phí hỗ trợ triển khai chương trình, bên
cạnh đó một số đơn vị y tế chưa mặn mà phối hợp thực hiện, xem đây là
nhiệm vụ của cơ quan DS-KHHGĐ.
Tình trạng dịch bệnh, nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua
đường tình dục, HIV/AIDS ngày càng tăng (Bảng 2.6. Số liệu người nhiễm
HIV/AIDS qua từng năm) cũng đang là mối quan tâm ảnh hưởng đến chất
lượng dân số.
Bảng 2.6: Số liệu người nhiễm HIV/AIDS qua từng năm
2013 TT Số liệu 2014 2015 2016 2017
1331 1 Lũy tích người nhiễm 1161 1229 1274 1301 HIV
271 296 325 263 276 2 Lũy tích bệnh nhân AIDS
3 Tổng số bệnh nhân chết
96 99 113 130 147 do AIDS
(Nguồn: Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Quảng Bình)
60
2.2.4. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân
Các chỉ tiêu đạt được về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân
trong giai đoạn 2011 đến 2017 được thể dưới tại Bảng 2.7 dưới đây
Bảng 2.7: Các chỉ tiêu đạt được về chăm sóc sức khỏe sinh sản
TT Các chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
01 6.6 9.2 10.2 9.8 9.1 8.7 8.4 Tỷ suất tử vong trẻ em < 1 tuổi (%o)
02 8.5 10.5 11.1 10.8 9.8 9.4 9.0 Tỷ suất tử vong trẻ em < 5 tuổi (%o)
03 21.9 21.6 19.8 18.9 18.4 18.2 18.0 Tỷ lệ SDD trẻ em < 5 tuổi (%)
04 36.7 52.7 14 14.1 7.3 14.5 12.2 Tỷ lệ tử vong bà mẹ ( /100.000)
(Nguồn: Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Quảng Bình)
Qua bảng số liệu, tỷ suất tử vong trẻ và tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em < 5
tuổi giảm đáng kể cho thấy công tác chăm sóc bà mẹ trẻ em, chương trình “vi
chất dinh dưỡng”của tỉnh Quảng Bình đã được thực hiện khá tốt, ngành Y tế
đã nâng cao chất lượng điều trị, cải tiến công nghệ để góp phần vào sự nghiệp
chăm sóc sức khỏe nhân dân.
2.2.5. Kế hoạch hóa gia đình
Hiện, tổng số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (từ 15-49 tuổi) năm 2017 là
253.203 người, trong đó phụ nữ 15-49 tuổi có chồng là 140.710. Tỷ lệ các cặp
vợ chồng chấp nhận các biện pháp tránh thai trên 76.8% [15].
Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại được thể hiện ở biểu đồ 2.2
dưới đây.
61
77
76.5
76
75.5
75
74.5
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại (%)
(Nguồn: Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Quảng Bình)
2.2.6. Phân bổ dân số và mật độ dân cư tỉnh Quảng Bình
Dân số tỉnh Quảng Bình được phân bố trên 08 đơn vị hành chính, thể
hiện ở Bảng 2.8.
Bảng 2.8: Mật độ dân cư của tỉnh Quảng Bình
Đơn vị hành chính 2013 2014 2015 2016 2017 Diện tích (Km2)
Tổng số 8.000 107 108 109 110 110
156 737 743 749 755 764 Thành phố Đồng Hới
162 639 644 652 656 660 Thị xã Ba Đồn
1.394 34 35 36 36 36 Huyện Minh Hoá
1.129 68 68 70 70 71 Huyện Tuyên Hoá
239 448 233 234 237 238 Huyện Quảng Trạch
2.115 86 86 87 87 87 Huyện Bố Trạch
1.194 75 75 75 76 76 Huyện Quảng Ninh
1.402 100 100 102 102 102 Huyện Lệ Thuỷ
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2013-2017 tỉnh Quảng Bình)
62
Qua bảng mật độ dân cư ở trên cho thấy, dân số tỉnh Quảng Bình phân
bố không đều, chủ yếu tập trung nhiều ở Thành phố Đồng Hới và Thị xã Ba
Đồn vì đây là hai địa bàn thành thị, có điều kiện về cơ sở hạ tầng và dịch vụ
phát triển nên đã thu hút phần đông số dân đến định cư tại đây. Mặc dù các
nhà máy công nghiệp đóng tại một số địa bàn khác như Tuyên Hóa, Lệ
Thủy... nhưng chỉ thu hút được một bộ phận lực lượng lao động chứ không
thu hút dân nhập cư.
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch
hóa gia đình tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về công tác Dân số
- Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
2.3.1.1. Tham mưu ban hành văn bản
Căn cứ vào các văn bản quy pháp luật về công tác DS-KHHGĐ như:
Pháp lệnh Dân số năm 2003 và Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh Dân số
năm 2003 của Ủy ban Thường vụ quốc hội; các nghị định quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số, Nghị quyết số 31/NQ-
CP ngày 18/8/2010 về ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ giai đoạn
2010-2015 về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số-kế hoạch hóa
gia đình” của Chính phủ, Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ; Kết luận số 119-KL/TW ngày
04/01/2016 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW
của Bộ Chính trị (Khóa IX) “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân
số, kế hoạch hóa gia đình” và các văn bản liên quan khác của Trung ương.
Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành nhiều văn bản
để cụ thể hóa cũng như tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, kế
hoạch, biện pháp giải quyết các vấn đề dân số tại địa phương:
a) Văn bản của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh:
63
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành:
+ Chỉ thị số 37 CT/TU ngày 14/6/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chính sách DS-KHHGĐ và xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước;
+ Kế hoạch số 11-KH/TU ngày 06/5/2016 của Tỉnh ủy Quảng Bình về
triển khai thực hiện Kết luận số 119-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22/3/2005 của Bộ Chính
trị khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số-Kế hoạch hóa
gia đình;
+ Chương trình hành động số 18-CTr/TU ngày 13/3/2018 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.
- Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND) đã ban hành:
+ Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 10/10/2005 về việc ban hành
Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 37 CT/TU ngày 14/6/2005 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy
+ Chỉ thị số 20/CT-UBND ngày 21/8/2008; Chỉ thị số 08/CT-UBND
ngày 03/6/2010 về tăng cường công tác Dân số – Kế hoạch hóa gia đình trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình
+ Kế hoạch số 1116/KH-UBND ngày 03/6/2011; Kế hoạch hành động
của tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011-2015 thực hiện Kết luận số 44-KL-
NQ/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị
quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình;
+ Kế hoạch hành động số 908/KH-UBND ngày 06/8/2012 về việc thực
hiện Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2012-2015 và định hướng đến năm 2020;
64
+ Quyết định số 2289/QĐ- UBND ngày 19 tháng 8 năm 2015 về việc
kiện toàn Ban chỉ đạo công tác DS- KHHGĐ tỉnh Quảng Bình.
+ Kế hoạch số 1025/KH- UBND ngày 04/7/2016 của UBND tỉnh
Quảng Bình về việc thực hiện Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016- 2020;
+ Quyết định số 555/QĐ-UBND ngày 24/2/2017 của UBND tỉnh
Quảng Bình về việc phê duyệt Đề án “Xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh
thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình/sức khỏe sinh sản tại khu vực thành thị
và nông thôn phát triển giai đoạn 2015-2020”;
+ Kế hoạch số 644/KH-UBND ngày 19/4/2017 thực hiện Đề án kiểm
soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2017-2020;
+ Kế hoạch số 1707/KH-UBND ngày 18/9/2017 thực hiện Đề án Chăm
sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025.
+ Kế hoạch số 604/KH-UBND ngày 26/4/2018 thực hiện Chương trình
hành động số 18-CTr/TU ngày 13/3/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XII) về công tác dân số trong tình hình mới.
b) Văn bản của Thành ủy, Thị ủy, Huyện uỷ và Ủy ban hhân dân các
huyện, thị xã, thành phố
Trên cơ sở đó, hàng năm Thành uỷ, Thị ủy, Huyện uỷ và UBND các
huyện, thị xã, thành phố đều ban hành Chỉ thị, Nghị quyết, Kế hoạch hành
động thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết và Quyết định của tỉnh về chương
trình trình Dân số-KHHGĐ và thực hiện Pháp lệnh Dân số, Pháp lệnh Dân số
sửa đổi.
- Sở Y tế, Chi cục DS-KHHGĐ đã ban hành các văn bản hướng dẫn
chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý
nhà nước, tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ có hiệu quả như: Kế hoạch
65
triển khai Chiến dịch tăng cường tuyên truyền, vận đồng lồng ghép cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình đến vùng đông dân,
vùng có mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao, vùng khó khăn, vùng biển,
ven biển; Kế hoạch triển khai tiếp thị xã hội các phương tiện tránh thai; Hướng
dẫn kế hoạch kinh phí chương trình mục tiêu và ngân sách tỉnh về DS-KHHGĐ
hàng năm; Hướng dẫn triển khai các hoạt động thuộc các mô hình, đề án nâng
cao chất lượng dân số; Hướng dẫn thực hiện các sự kiện truyền thông nhân
ngày Dân số thế giới (11-7), Tháng hành động quốc gia về Dân số, ngày Dân
số Việt Nam (26-12)...
2.3.1.2. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về công tác DS-
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh
Quán triệt tinh thần, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà
nước đối với công tác DS-KHHGĐ cũng như mối quan hệ giữa dân số và phát
triển, tỉnh Quảng Bình đã có sự quan tâm chỉ đạo đồng bộ sâu sát hệ thống
chính trị trong việc chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ; Chính sách DS-
KHHGĐ đã được cụ thể hóa và lồng ghép vào các kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, kế hoạch hoạt động của chính quyền các cấp ở địa phương.
Ngoài các quy định, chế độ chính sách do Trung ương ban hành thì
UBND tỉnh đã có các nghị quyết, quyết định về việc thực hiện công tác DS-
KHHGĐ, trong đó có quy định cụ thể một số chế độ nhằm khuyến khích động
viên những cá nhân, tập thể có thành tích trong việc thực hiện chương DS-
KHHGĐ.
Hàng năm, UBND tỉnh có quyết định giao các chỉ tiêu thực hiện về DS-
KHHGĐ trên toàn tỉnh và cho các địa phương. Trên cơ sở đó, chính quyền địa
phương triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ của từng địa phương, đơn vị, đề ra giải pháp khắc phục những yếu kém,
bất cập trong việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ hàng năm.
66
Thành lập Ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ cấp tỉnh, Ban điều hành
công tác DS-KHHGĐ cấp huyện, Ban DS-KHHGĐ cấp xã để đảm bảo sự
lãnh đạo, chỉ đạo và phối kết hợp trong thực hiện công tác DS-KHHGĐ
xuyên suốt từ cấp tỉnh đến cơ sở. Hàng năm, Ban chỉ đạo công tác DS-
KHHGĐ tỉnh, huyện, thị xã, thành phố đều tổ chức họp, đánh giá tình hình
hoạt động, kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, đưa ra các giải pháp phù
hợp để chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
Ở một số địa phương đã đưa công tác DS-KHHGĐ vào hướng ước, quy
ước của thôn, bản, tiểu khu đặc biệt là trong xử lý vi phạm sinh con thứ 3 trở
lên đối với người dân.
Có chế độ khen thưởng các tập thể, cá nhân, cặp vợ chồng thực hiện tốt
công tác DS-KHHGĐ. Những trường hợp vi phạm sinh con thứ 3 trở lên được
xử lý theo các quy định.
2.3.1.3. Thực trạng tổ chức và chỉ đạo thực hiện mục tiêu kế hoạch DS-
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
a) Về thực hiện mục tiêu giảm sinh - ổn định quy mô dân số
Trong giai đoạn từ 2011-2017, tỷ suất sinh của tỉnh Quảng Bình giảm
dần qua các năm, từ 16%o năm 2011 giảm xuống 14,92%o năm 2017. Tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên từ 16.06% năm 2011 giảm còn 13,84% năm 2017. Nhìn
chung, tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có giảm nhưng chậm và hiện
còn ở mức cao. Ở một số địa phương, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở có xu hướng
tăng trở lại [15] [16] [17].
Mặc dù, số sinh giảm qua các năm nhưng Quảng Bình hiện nằm trong
nhóm các tỉnh có mức sinh cao, tổng tỷ suất sinh (TFR>2,3), số con trung
bình của một người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ của tỉnh mặc dù đã gần tiệm
cận mức sinh thay thế là 2,22 con năm 2013 nhưng nay đã tăng cao trở lại
2,38 con năm 2017 [13].
67
Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chấp nhận sử dụng các
biện pháp tránh thai hiện đại ngày càng tăng, đạt trên 76%, trong đó nhu cầu
sử dụng thuốc tiêm tránh thai, thuốc cấy, dụng cụ tử cung, bao cao su có xu
hướng ngày càng tăng.
b) Về thực hiện mục tiêu ổn định cơ cấu dân số
Quảng Bình bước đầu thực hiện tốt mục tiêu giảm thiểu tình trạng mất
cân bằng giới tính khi sinh, tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh bắt đầu chênh lệch
những năm trước đó và chênh lệch cao nhất vào năm 2012 là 129 nam/100
nữ, qua nhiều năm triển khai Mô hình can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh nay giảm còn 108 nam/100 nữ năm 2017 [15], tuy còn chênh
lệch so với mức cân bằng từ 103-106 nam/100 nữ.
Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở ngày 01/4/2009, tỷ số phụ
thuộc của tỉnh Quảng Bình đã đạt dưới 50%, hay nói cách khác, cứ hai người
trong độ tuổi lao động chỉ phải gánh 1 người ngoài tuổi lao động, điều đó
chứng tỏ rằng thời điểm dân số Quảng Bình bước vào giai đoạn cơ cấu “dân
số vàng”. Năm 2009, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động từ 15-59 là
63,3%, tỷ lệ người phụ thuộc đạt mức thấp, người từ 0-14 tuổi là 27%, người
từ 60 tuổi trở lên chiếm 9,76% [3]. Tuy nhiên, năm 2017, tỷ trọng người cao
tuổi từ 60 trở lên tăng nhanh, chiếm 12,38%, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên vẫn trên mức 60%. Điều này dự báo dân số Quảng Bình dần dần chuyển
từ cơ cấu “dân số vàng” chuyển sang cơ cấu “dân số già”.
c) Về thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dân số
Trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ (nay là
Chương trình mục tiêu Y tế-Dân số), thời gian qua, các mô hình, đề án nâng
cao chất lượng dân số được triển khai trên địa bàn tỉnh Quảng Bình: Đề án
Sàng lọc trước sinh, sơ sinh nhằm phát hiện sớm các tật, bệnh bẩm sinh; Mô
hình Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân nhằm cung cấp thông tin và dịch
68
vụ chăm sóc SKSS cho nhóm đối tượng vị thành niên, thanh niên, các cặp
nam nữ chuẩn bị kết hôn; Mô hình Tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa
vào cộng đồng nhằm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tư vấn và chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi trong cộng đồng; Đề án kiểm soát Dân số vùng biển, ven
biển nhằm cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ cho người dân vùng biển, ven
biển.
2.3.2. Thực trạng tổ chức bộ máy Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình
2.3.2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ
Công tác tổ chức bộ máy đã có sự biến động sau khi Ủy ban Dân số-
Gia đình & Trẻ em giải thể theo Nghị quyết của kỳ họp thứ nhất Quốc hội
Khóa XII, kéo theo công tác DS-KHHGĐ phải đương đầu với nhiều khó
khăn, thách thức.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quan tâm, chỉ đạo
kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác Dân số từ tỉnh đến cơ sở,
đặc biệt là trong hai năm 2008-2009, bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ dần
được hình thành theo Thông tư 05/BYT ngày 14 tháng 5 năm 2008 của Bộ Y
tế. Theo đó, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh được thành lập tại Quyết định số
1239/QĐ-UBND ngày 9 tháng 6 năm 2008 của UBND tỉnh, tiếp theo là thành
lập Trung tâm DS - KHHGĐ các huyện, thị xã, thành phố trên toàn tỉnh.
Sau 03 năm thực hiện đã gặp một số khó khăn trong quá trình chỉ đạo
và quản lý, để tháo gỡ những khó khăn đó, tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ cấp
huyện một lần nữa lại thay đổi, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết
định số 1164/QĐ-UBND ngày 09/5/2014 về việc chuyển giao Trung tâm DS-
KHHGĐ cấp huyện trực thuộc Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh thuộc Sở Y tế về
UBND huyện, thành phố quản lý. Chi cục DS-KHHGĐ có nhiệm vụ chỉ đạo
69
và triển khai công tác chuyên môn về DS-KHHGĐ. Tổng số biên chế được
giao cho mỗi Trung tâm DS-KHHGĐ huyện, thị xã, thành phố là 6 biên chế.
Mô hình tổ chức công tác DS-KHHGĐ theo Thông tư 05/2008/TT-
BYT phát huy được hiệu quả hoạt động từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện, đã huy
động được cả hệ thống chính trị tham gia, gắn các chỉ tiêu về DS-KHHGĐ
vào các chỉ tiêu kinh tế, chính trị quan trọng của địa phương. Về chức năng,
nhiệm vụ, phương thức hoạt động cũng đã được hoàn thiện và ổn định.
Riêng mô hình ở tuyến xã giai đoạn này chưa đồng bộ, cán bộ Chuyên
trách DS-KHHGĐ tùy theo từng địa phương trực thuộc Trạm Y tế hoặc
UBND cấp xã quản lý. Khi thực hiện mô hình mới, khó khăn nhất của cán bộ
dân số cấp xã là họ không nhận được nhiều quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy,
UBND xã, không được hoạt động độc lập mà phụ thuộc vào Trạm y tế xã nên
không chủ động trong công việc.
Với thực trạng đó, ngày 30/12/2016, UBND tỉnh đã ban hành Quyết
định số 4216/QĐ-UBND về việc giao tổng chỉ tiêu biên chế công thức hành
chính, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập và hợp đồng
theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP năm 2017. Theo đó, tỉnh đã giao 159 chỉ
tiêu viên chức cho chuyên trách Dân số - KHHGĐ các xã, phường, thị trấn
trên toàn tỉnh. Hiện cán bộ dân số cấp xã là viên chức của Trung tâm DS-
KHHGĐ huyện quản lý “biệt phái” làm việc tại UBND xã, hoạt động theo
đúng chuyên môn.
Toàn tỉnh có 159 cán bộ Chuyên trách DS-KHHGĐ cấp xã, phường, thị
trấn, đến nay đã tuyển dụng vào viên chức nhà nước 113 cán bộ, còn 46 cán
bộ chuyên trách chưa đạt chuẩn đang có kế hoạch thi tuyển, số chưa thi tuyển
vào viên chức hiện đang hưởng mức thù lao 1,0 mức lương tối thiểu chung
theo Nghị quyết số 28/2011/NQ-HĐND ngày 02/12/2011 của HĐND tỉnh.
70
Cán bộ tại thôn, bản, tiểu khu là Cộng tác viên DS-KHHGĐ có 1.738
người [15].
2.3.2.2. Phân tích thực trạng tổ chức bộ máy và bố trí nguồn lực thực
hiện công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
a) Thực trạng tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ
Để vận động người dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng
chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều quan trọng nhất là phải có một mô
hình tổ chức phù hợp giúp đội ngũ cán bộ dân số phát huy được vai trò tại địa
phương, đơn vị, tạo cơ hội để họ vận dụng tối đa khả năng của mình khi tuyên
truyền vận động người dân, “kéo” cả hệ thống chính trị từ trên xuống dưới
chung tay làm công tác DS-KHHGĐ. Đây chính là điều mà ngành DS-
KHHGĐ đang rất cần.
Tại tỉnh Quảng Bình, UBND tỉnh là chủ thể quản lý nhà nước theo lãnh
thổ, Sở Y tế là cơ quan chuyên môn tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý nhà
nước về lĩnh vực y tế-dân số, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh là đơn vị trực thuộc
Sở Y tế, có chức năng tham mưu giúp Sở Y tế quản lý nhà nước về lĩnh vực
DS-KHHGĐ. Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế có chức năng tham gia
hoạt động chuyên môn liên quan đến lĩnh vực DS-KHHGĐ, gồm Trung tâm
Chăm sóc SKSS (tuyến tỉnh), Trung tâm Y tế (tuyến huyện), Bệnh viện Đa
khoa tuyến huyện và Bệnh viện Đa khoa khu vực.
Đối với UBND cấp huyện, Phòng Y tế có chức năng tham mưu giúp
UBND huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực y tế-dân số và chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Y tế. Trung tâm DS-KHHGĐ
trực thuộc UBND các huyện, thị xã, thành phố nhưng chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn về chuyên môn nghiệp vụ DS-KHHGĐ của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh.
Tại cấp xã, Trạm y tế là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Trung tâm Y tế
cấp huyện có chức năng thực hiện công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức
71
khỏe ban đầu thuộc lĩnh vực y tế-dân số. Cán bộ chuyên trách Dân số là viên
chức thuộc Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện, biệt phái làm việc tại UBND
UBND TỈNH
SỞ Y TẾ
CHI CỤC DÂN SỐ - KHHGĐ
cấp xã.
PHÒNG Y TẾ
TRUNG TÂM DS-KHHGĐ
TRUNG TÂM Y TẾ
BỆNH VIỆN ĐA KHOA
UBND XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
VIÊN CHỨC DÂN SỐ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
UBND HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ
Sơ đồ 1. Tổ chức bộ máy ngành DS-KHHGĐ từ cấp tỉnh đến cơ sở
Thông tư 05/2008/BYT ngày 14/5/2008 của Bộ Y tế quy định cụ thể
chức năng nhiệm vụ của các Chi cục DS-KHHGĐ, Trung tâm DS-KHHGĐ
huyện, thị xã, thành phố là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ
đặt tại huyện, có chức năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn kỹ
thuật, truyền thông giáo dục về DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện. Thực tế mô
72
hình này thể hiện nhiều bất cập, công tác DS-KHHGĐ tại các địa phương ít
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,chính quyền và phối kết
hợp của các ban ngành, đơn vị. Từ năm 2014, chuyển Trung tâm DS-KHHGĐ
trực thuộc UBND cấp huyện, chịu sự quản lý nhà nước trên địa bàn huyện và
chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, kỹ thuật về dịch vụ KHHGĐ, truyền thông
giáo dục DS-KHHGĐ của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh.
Với chức danh cán bộ bán chuyên trách, làm việc tại Trạm Y tế xã và
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Trưởng Trạm Y tế, chịu sự quản lý, chỉ đạo,
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm DS-KHHGĐ huyện, thực
tế mô hình này bộc lộ nhiều bất ổn. Do đó, hiện nay đã chuyển đổi mô hình,
Chuyên trách dân số cấp xã là viên chức Trung tâm DS-KHHGĐ huyện biệt
phái làm việc tại UBND xã, thực tế cho thấy mô hình này phù hợp hơn, cán
bộ dân số cấp xã được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, ổn định tư tưởng
công tác, có tinh thần làm việc tốt hơn không như trước đây thường xuyên
thay đổi. Hiện đã có 15 tỉnh, thành phố trong cả nước triển khai mô hình này.
Mạng lưới Cộng tác viên dân số được phân bố đến từng thôn, bản, tổ
dân phố theo phương thức quản lý từng hộ gia đình theo địa bàn được phân
công
Với mô hình tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ từ cấp tỉnh đến cấp xã như
hiện nay là phù hợp, cơ bản thuận lợi trong công tác quản lý, điều hành, đã
nhận được sự đồng tình ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền và ngành
Dân số cũng như đội ngũ cán bộ dân số các cấp, đảm bảo phát huy được hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, đối với đội ngũ Cộng tác viên Dân số tại thôn, bản, tổ dân
phố vẫn đang là vấn đề nan giãi. Hoạt động của mạng lưới Cộng tác viên
đóng góp quan trọng cho sự thành công của công tác DS-KHHGĐ nhưng biến
động lớn hàng năm do chế độ phụ cấp quá thấp (100.000đ/người/tháng) và
73
hiện nay càng khó khăn hơn vì theo quy định, từ năm 2017, khoản phụ cấp
này do ngân sách địa phương đảm bảo, trong khi nguồn ngân sách địa phương
hạn hẹp. Nếu như không có chế độ phụ cấp sẽ rất khó duy trì được hoạt động
của đội ngũ cộng tác viên dân số ở cơ sở.
Tại Quảng Bình, tỉ lệ dân số sống ở nông thôn còn lớn. Điều kiện tiếp
cận các phương tiện truyền thông còn nhiều hạn chế. Kênh truyền thông phổ
biến và hiệu quả nhất đối với những vùng này vẫn là thông qua đội ngũ cộng
tác viên. Những cộng tác viên chuyển đến người dân chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, thu thập thông tin của người dân, là cầu
nối của người dân với chính quyền cơ sở. Ngoài ra, những cộng tác viên dân
số còn là người phổ biến trực tiếp, cung cấp dịch vụ KHHGĐ và chăm sức
khỏe sinh sản đến người dân, giúp người dân hiểu lợi ích của quy mô gia đình
ít con, của việc tham gia các hoạt động nâng cao chất lượng dân số. Thành tựu
dân số đạt được vừa qua không thể không có vai trò quan trọng của hàng
nghìn, hàng vạn cộng tác viên dân số. Nếu để mất đội ngũ cộng tác viên là
thiệt hại lớn cho ngành dân số, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chính
sách dân số.
Để giải quyết vấn đề nan giãi này, có thể lồng ghép đội ngũ cộng tác
viên dân số với y tế thôn bản. Những cộng tác viên dân số này vừa được đào
tạo về dân số, lại vừa có chuyên môn y tế, sẽ tốt hơn cho việc chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Để làm được việc này, đòi hỏi khả năng quản lý và tổ chức
của cán bộ địa phương để vừa quản lý được cộng tác viên, vừa giúp cộng tác
viên nâng cao năng lực thực hiện được nhiệm vụ.
b) Thực trạng bố trí nguồn lực thực hiện công tác DS-KHHGĐ tại tỉnh
Quảng Bình
Công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình được thực hiện
trên cơ sở đầu tư từ 03 nguồn lực, bao gồm:
74
- Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ (giai đoạn 2011-2015)
nay là Chương trình mục tiêu Y tế-Dân số (kể từ năm 2016). Kế hoạch ngân
sách và hoạt động được Trung ương phân bổ hàng năm nhưng nguồn kinh phí
ngày càng bị cắt giảm. Ngân sách hoạt động năm 2017 đến tháng 11 vẫn chưa
được phân bổ.
- Ngân sách địa phương (tỉnh, huyện) hỗ trợ cho công tác DS-KHHGĐ
rất hạn hẹp, bao gồm các khoản chi:
+ Tiền lương, phụ cấp, các khoản đóng góp và chi hoạt động theo biên
chế của Chi cục Dân số-KHHGĐ và Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện;
+ Chi các hoạt động sự nghiệp Dân số-KHHGĐ;
+ Chi đặc thù các hoạt động Dân số-KHHGĐ;
+ Hỗ trợ mua sắm, sữa chữa, cải tạo trụ sở làm việc.
- Nguồn huy động hợp pháp từ các dự án, chương trình do Tổ chức tài
trợ như: Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) giai đoạn 2012-2016, Tổ chức
Marie Stopes International tại Việt Nam (MSIVN) giai đoạn 2015-2020.
Hàng năm tỉnh, huyện có bổ sung thêm kinh phí cho hoạt động DS-
KHHGĐ. Đồng thời, các xã, phường, thị trấn đã dành một phần kinh phí đầu
tư cho công tác DS-KHHGĐ tại địa phương và hỗ trợ cho các đối tượng thực
hiện KHHGĐ, khen thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính sách
DS- KHHGĐ với nhiều hình thức.
Tổng mức đầu tư: khoảng 12-18 tỷ đồng/năm, trong đó: Ngân sách
chương trình mục tiêu: từ 5-7 tỷ đồng/năm; Ngân sách tỉnh: từ 1-3 tỷ
đồng/năm; Ngân sách huyện: 30-200 triệu đồng/năm/huyện; Ngân sách xã: 3-
5 triệu đồng/năm.
75
2.3.3. Mối quan hệ phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện
công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh
- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức cung cấp thông tin và
định hướng tuyên truyền về công tác dân số-sức khỏe sinh sản; lồng ghép các
nội dung DS/SKSS/KHHGĐ vào các chuyên đề trong công tác khoa giáo, các
buổi báo cáo tình hình thời sự; phối hợp kiểm tra, nắm bắt tình hình cán bộ,
công chức, viên chức, Đảng viên vi phạm và tình hình xử lý chính sách DS-
KHHGĐ.
- Phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý và tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ của Ban Dân vận các cấp
trong quá trình phối hợp tổ chức thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Hướng
dẫn Ban Dân vận các cấp tuyên truyền thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ.
- Phối hợp với Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các quy định có liên quan đến Chính sách DS-KHHGĐ. Xử lý kỷ luật
đảng viên vi phạm DS-KHHGĐ thuộc thẩm quyền thi hành kỷ luật của Uỷ
ban kiểm tra Tỉnh ủy. Tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy xem xét, xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm DS-KHHGĐ, thuộc thẩm quyền thi hành kỷ luật
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức
thực hiện công tác DS-KHHGĐ đối với Uỷ ban kiểm tra các cấp.
- Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh đưa nội dung DS-KHHGĐ vào
giảng dạy cho học viên của các lớp bồi dưỡng chính trị của trường như Mô
hình sàng lọc trước sinh và sơ sinh; Mô hình Tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn
nhân, nguyên nhân và hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh; Mô hình
nâng cao chất lượng dân số dân tộc ít người; Mô hình chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi dựa vào cộng đồng; Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển,
đảo và ven biển…
76
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch kết hợp tuyên truyền các nội dung
chương trình DS-KHHGĐ với việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách,
pháp luật của nhà nước và đặc biệt là cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hoá, làng xã văn hoá. Tiếp tục đẩy mạnh việc đưa chính sách dân số vào
hương ước, quy ước xây dựng làng, thôn, bản, cụm dân cư, tổ dân phố văn
hóa; tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo về việc triển khai phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” lồng ghép đưa chính sách DS -
KHHGĐ vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
- Phối hợp với Sở Thông tin Truyền thông tổ chức cung cấp thông tin
và định hướng tuyên truyền các chính sách dân số mới, các vấn đề dân số mới
cho đội ngũ phóng viên, tuyên truyền viên, cán bộ các cơ quan quản lý báo
chí nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền chuyển đổi hành vi về DS -
KHHGĐ đối với các nhóm đối tượng trên địa bàn.
- Phối hợp với Sở Giáo dục Đào tạo nâng cao chất lượng giáo dục
DS/SKSS/KHHGĐ cho vị thành niên, thanh niên trong trường học. Duy trì
mô hình sinh hoạt ngoại khóa về truyền thông chăm sóc SKSS VTN, TN tại
các trường trung học phổ thông nhằm cung cấp cho học sinh các kiến thức, kỹ
năng sống liên quan đến các vấn đề như tình bạn, tình yêu; quan hệ tình dục
trước hôn nhân, có thai ngoài ý muốn, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống...
- Phối hợp với Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn tổ chức tập huấn
cho các các khuyến như viên cơ sở, các nông ngư dân tại các huyện nhằm
nâng cao kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản, thực hiện các chính sách
về dân số-sức khỏe sinh sản.
- Đối với các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội khác như Sở Kế hoạch -
Đầu tư, , Sở Tài chính Sở Tư pháp, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội và các
ban ngành khác liên quan tuỳ chức năng nhiệm vụ của ngành đã xây dựng kế
77
họach hoạt động lồng ghép nội dung về DS-KHHGĐ vào chương trình công tác
của ngành cũng như qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh triển khai các hoạt động
thông qua cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc đời sống văn hóa
ở khu dân cư. Tổ chức các lớp tập huấn về các nội dung chính sách dân số-kế
hoạch hóa gia đình trong tình hình mới cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận
các huyện, thị xã, thành phố; các chức sắc, chức việc tôn giáo; người có uy tín
tại cộng đồng; trưởng ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố. Triển khai các
hoạt động tuyên truyền giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh
tại các địa bàn tôn giáo.
- Phối hợp với Liên đoàn Lao động tỉnh tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý và tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ của Liên đoàn Lao
động đến các cấp trong quá trình phối hợp tổ chức thực hiện chính sách DS -
KHHGĐ. Tổ chức nói chuyện chuyên đề về công tác DS/SKSS/KHHGĐ cho
công nhân lao động tại các cơ quan, công, nông trường, xí nghiệp. Đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền, vận động về nâng cao chất lượng dân số, cải thiện
tình trạng sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chủ động điều chỉnh tốc độ gia tăng dân
số, kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh trong cán bộ công đoàn, đoàn viên, công
nhân viên chức lao động. Đặc biệt chú trọng đến lực lượng lao động nữ và lao
động di cư.
- Phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức tập huấn cho lãnh đạo
chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ từ tỉnh đến các xã, phường, thị trấn về các
chính sách, nội dung dân số mới. Lồng ghép tuyên truyền giảm thiểu tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, bình đẳng giới trong chăm sóc
SKSS/KHHGĐ vào nội dung hoạt động của các cấp Hội, các buổi sinh hoạt
của các Câu lạc bộ Phụ nữ không sinh con thứ 3 trở lên, các buổi tư vấn
nhóm, nói chuyện tại cộng đồng. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh cũng đã có văn
78
bản chỉ đạo Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp phối hợp với ngành dân số triển
khai các đợt chiến dịch truyền thông.
- Phối hợp với Hội Nông dân tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai, kiểm tra,
giám sát của các cấp Hội trong công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động cán
bộ, hội viên và nông dân thực hiện DS-KHHGĐ. Tổ chức tập huấn về kỹ
năng tuyên truyền, vận động về dân số-KHHGĐ cho các chi hội nông dân.
Chỉ đạo Các cấp Hội đẩy mạnh hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức,
kiến thức và vận động cán bộ, hội viên và nhân dân thực hiện chính sách dân
số - KHHGĐ, thực hiện các hành vi có lợi và bền vững về DS-KHHGĐ cho
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, các cặp vợ chồng, em gái tuổi vị thành niên, phụ
nữ cao tuổi, các nhóm dân số đặc thù. Tuyên truyền vận động cán bộ, hội viên
và nông dân thực hiện chính sách DS - KHHGĐ, góp phần chủ động duy trì
mức sinh thấp hợp lý; khống chế tốc độ tăng nhanh tỷ số giới tính khi sinh;
nâng cao chất lượng dân số về thể chất, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển nhanh,
bền vững của đất nước.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh triển khai các hoạt động
về DS/SKSS/KHHGĐ VTN/TN lồng ghép với phong trào Thanh niên tình nguyện, thanh niên xung kích với các cuộc vận động không sinh con thứ 3 trở
lên, không kết hôn sớm, nâng cao nhận thức cho lớp trẻ về thực hiện chính
sách dân số, sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tuyên truyền vận
động nhân dân cùng thực hiện các mục tiêu DS-SKSS. Phối hợp triển khai Đề
án Tư vấn và khám sức khỏe Tiền cho nhân cho đối tương thanh niên trên địa
bàn.
- Phối hợp Hội Cựu chiến binh tỉnh tổ chức tập huấn và tuyên truyền
các chủ trương, chính sách mới về dân số-sức khỏe sinh sản cho lãnh đạo và
79
cán bộ Hội Cựu chiến binh cấp tỉnh, huyện, Chi hội trưởng, hội viên cựu
chiến binh cơ sở.
- Phối hợp với Hội Người cao tuổi tỉnh tổ chức tập huấn cung cấp thông
tin về các chính sách, nội dung dân số-sức khỏe sinh sản trong tình hình mới
cho hội viên Hội Người cao tuổi từ tỉnh đến các xã, phường, thị trấn; triển
khai Đề án tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng.
- Phối hợp với Bộ đội Biên phòng tỉnh tổ chức tăng cường cung cấp thông
tin và quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
các văn bản mới liên quan đến công tác DS-KHHGĐ cho lãnh đạo, cán bộ các
Đồn biên phòng trên toàn tỉnh, cán bộ chủ chốt tại địa phương và nhân dân tại
các vùng biên giới, vùng biển, góp phần nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi
về dân số-sức khỏe sinh sản.
- Phối hợp với Báo Quảng Bình, Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh thực
hiện các phóng sự, chuyên đề, chuyên mục tuyên truyền các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ với các nội
dung như triển khai chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc
SKSS/KHHGĐ; tuyên truyền mô hình “Xã, phường, cụm dân cư không có
người sinh con thứ 3 trở lên”; đề án kiểm soát dân số vùng biển, ven biển; các
mô hình, đề án về nâng cao chất lượng dân số như sàng lọc trước sinh và sơ
sinh, khám sức khỏe và tư vấn tiền hôn nhân, tuyên truyền giảm thiểu mất cân
bằng giới tính khi sinh, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, chuyển tải
thông điệp truyền thông về dân số trên sóng phát thanh truyền hình tỉnh.
2.3.4. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về
dân số theo thẩm quyền
- Để triển khai tốt Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ (nay là
Chương trình mục tiêu Y tế-Dân số) trên địa bàn tỉnh, ngay từ đầu năm, Chi
cục DS-KHHGĐ tỉnh tham mưu Sở Y tế có văn bản hướng dẫn hoạt động,
80
thường xuyên giám sát hỗ trợ tuyến dưới trong quá trình triển khai. Kiểm tra,
giám sát hoạt động cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ của các tổ
chức dịch vụ công và thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật đối với các hoạt
động tư vấn và cung cấp dịch vụ KHHGĐ và quản lý hậu cần phương tiện
tránh thai. Hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai thực hiện các mô hình, đề án
liên quan đến quy mô dân số, cơ cấu dân số và nâng cao chất lượng dân số.
- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh tham mưu Sở Y tế tổ chức kiểm tra các cơ
sở siêu âm, nhà sách, nhà xuất bản nhằm phát hiện các hành vi vi phạm liên
quan đến lựa chọn giới tính thai nhi.
- Phối hợp với các cơ quan liên quan như Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Sở
Nội vụ, Đảng ủy khối các quan tỉnh; Liên đoàn lao động tỉnh xử lý các trường
hợp cán bộ, đảng viên, công viên chức, người lao động vi phạm sinh con thứ
3 trở lên. Theo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, từ năm 2011 - 2017, toàn tỉnh có
970 trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách dân số về sinh con thứ
3 trở lên, trong đó khiển trách 886, cảnh cáo 65, cách chức 13 trường hợp,
khai trừ ra khỏi đảng 6 trường hợp.
- Phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và du lịch kiểm tra việc thực hiện
xử lý các trường hợp là nhân dân vi phạm sinh con thứ 3 trở lên theo các chế
tài đã được người dân tự nguyện cam kết trong hương ước, quy ước xây dựng
làng văn hoá.
Nhìn chung, việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm chính sách DS-
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thời gian qua chưa được triển khai một
cách triệt để, còn mang tính hình thức. Công tác tuyên truyền về các quy định
và chính sách DS-KHHGĐ cho cán bộ, công chức, viên chức ở một số cơ
quan, đơn vị còn hạn chế, chưa sâu rộng, qua loa về ngữ nghĩa dẫn đến một số
người hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai về Pháp lệnh Dân số và các quy định có
81
liên quan về DS-KHHGĐ. Việc cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vi
phạm chính sách DS-KHHGĐ ngày càng có xu hướng tăng đã ảnh hưởng
không nhỏ đến cuộc vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Do đó,
công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình cần phải được quan tâm, chú trọng đầu tư hơn nữa, thực
hiện sâu rộng, thường xuyên hơn nữa để nâng cao nhận thức của người dân,
từ đó thay đổi hành vi về sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc sức khỏe sinh sản,
nâng cao chất lượng dân số.
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.4.1.1. Những kết quả đạt được
Trong thời gian qua, trên cơ sở các văn bản, nghị quyết, pháp lệnh,
quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Bộ Y tế, tỉnh Quảng Bình đã có nhiều văn bản cụ thể hoá chính sách DS-
KHHGĐ của cấp trên tại địa phương để giúp hoạt động quản lý nhà nước về
DS-KHHGĐ phát triển bền vững hơn, giải quyết kịp thời những vướng mắc
trong quá trình thực hiện.
Tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ tiếp tục được kiện toàn, củng cố và ổn
định từ tỉnh đến xã để thực hiện đạt được các mục tiêu nhiệm vụ đề ra trong
tình hình mới và phù hợp với sự chuyển hướng toàn diện về nội dung của
chương trình và yêu cầu cải cách hành chính. Năm 2008, giải thể Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em, thành lập Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và
Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình các huyện, thành phố. Phát hiện có
những bất cập trong quản lý, điều hành, tổ chức bộ máy dân số cấp huyện
thay đổi, Trung tâm DS-KHHGĐ chuyển từ trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ
chuyển về trực thuộc UBND huyện. Ở tuyến xã, cán bộ chuyên trách dân số
xã, phường, thị trấn từ chế độ bán chuyên trách thì hiện nay là viên chức
82
thuộc Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện và được hưởng các chế độ chính
sách theo quy định của nhà nước. Đội ngũ cộng tác viên tại thôn, bản, tổ dân
phố được phân bố đầy đủ. Hằng năm, đội ngũ cộng tác viên được rà soát lại,
những người trẻ tuổi thay thế cho những người lớn tuổi đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi cán bộ ngoài lòng nhiệt tình, cần phải
nhạy bén, có kiến thức, kỹ năng tuyên truyền tư vấn vận động nhân dân tham
gia thực hiện tốt chính sách Dân số. Đội ngũ này đã thực hiện có hiệu quả
việc thu thập, cập nhật thông tin biến động về DS-KHHGĐ và tư vấn, tuyên
truyền vận động trực tiếp công tác DS-KHHGĐ tại cộng đồng.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước cho công tác DS-KHHGĐ ngày
càng cắt giảm, tại các địa phương hàng năm đều có hỗ trợ kinh phí cho công
tác DS-KHHGĐ, ít nhất cũng để đảm bảo cho việc thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch được giao; thực hiện chế độ khen thưởng cho những tập thể, cá nhân
thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác
dân số được quan tâm, triển khai thường xuyên. Hàng năm, Sở Y tế, Chi Cục
DS-KHHGĐ đều phối hợp với các đơn vị trong tỉnh tổ chức các lớp đào tạo,
bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác cho đội
ngũ cán bộ dân số từ tỉnh đến cơ sở, đến nay đã 100% cán bộ chuyên trách đã
được đào tạo lớp dân số cơ bản 3 tháng. Cộng tác viên dân số được tập huấn
về kiến thức, kỹ năng tư vấn nội dung của các mô hình nâng cao chất lượng
dân số, lựa chọn và sử dụng biện pháp tránh thai tại cộng đồng.
Công tác phối hợp với các cơ quan, ban ngành liên quan tổ chức thực
hiện các hoạt động truyền thông, vận động, giáo dục đã góp phần làm thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi về DS-KHHGĐ của các nhóm đối tượng. Quy mô
gia đình ít con ngày càng được chấp nhận; hiểu biết và thực hành về sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hóa gia đình trong các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ
83
rệt, góp phần thúc đẩy việc xây dựng chính sách, huy động nguồn lực và tạo
môi trường xã hội thuận lợi cho việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
Hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành về DS-KHHGĐ được cải
tiến, từng bước được tin học hóa và hình thành 09 kho dữ liệu điện tử dân số
ở tuyến huyện và ở tỉnh, bước đầu phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành chương
trình, xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở.
Hệ thống báo cáo, thông tin, số liệu về DS-KHHGĐ các cấp được cập nhật,
cung cấp số liệu ngày càng đầy đủ hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết cơ bản được thực hiện
định kỳ, qua đó đánh giá khách quan những kết quả đạt được, kịp thời đề xuất
thực hiện các giải pháp khắc phục khó khăn, hạn chế trong quá trình triển khai
thực hiện. Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm khắc
phục những yếu kém, đề ra mục tiêu và có các giải pháp cụ thể cho các năm
tiếp theo nhằm giảm sinh và giảm nhanh tình trạng sinh con thứ 3 trở lên cũng
như giải quyết tốt các vấn đề dân số khác.
Những kết quả nói trên đã cải thiện cơ bản được tình trạng DS-
KHHGĐ tại tỉnh Quảng Bình hiện nay so với những năm 2011. Quy mô dân
số tăng chậm lại, tỷ suất sinh của tỉnh Quảng Bình giảm từ 16%o năm 2011
giảm xuống còn 15,53%o năm 2017. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên từ 16.06%
năm 2011 giảm còn 14,28% năm 2017; tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm và đạt
được “cơ cấu dân số vàng”; Chất lượng dân số được nâng lên: năm 2017, tuổi
thọ bình quân tăng lên 72,7 tuổi (nam là 70,1 và nữ là 75,5 tuổi) [13][15].
Điều đó chứng tỏ điều kiện sống của người dân đã được nâng lên đáng kể về
vật chất lẫn tinh thần, đã và đang tác động toàn diện, tích cực đối với sự phát
triển bền vững của tỉnh nhà, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa
và xã hội của đất nước.
84
2.4.1.2. Nguyên nhân của kết quả
Có được kết quả trên là nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
Đảng, chính quyền, đặc biệt là sự nỗ lực lực phấn đấu và lòng nhiệt tình của
đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ từ cấp tỉnh đến cơ sở.
UBND tỉnh đã kịp thời ra các văn bản chỉ đạo, điều hành đặc biệt là
trong những thời điểm công tác DS-KHHGĐ gặp nhiều khó khăn như chia
tách, sáp nhập (giai đoạn 2008-2010), hoặc thời điểm Chương trình mục tiêu
quốc gia DS-KHHGĐ bị cắt (2016-2017)..., điều đó đã giúp hoạt động quản
lý nhà nước về DS-KHHGĐ được củng cố, duy trì ổn định, giải quyết kịp thời
những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Việc thay đổi tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ cấp huyện, xã (Trung tâm
DS-KHHGĐ trực thuộc UBND huyện, cán bộ chuyên trách là viên chức của
Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện biệt phái làm việc tại xã) đã mang đến
nhiều thuận lợi cho công tác tham mưu, quản lý, điều hành và huy động
nguồn lực thực hiện công tác DS-KHHGĐ ở địa phương. Các hoạt động phối
hợp liên ngành chính vì vậy được tăng cường hơn. Với mô hình này, việc
triển khai các hoạt động về DS-KHHGĐ trên địa bàn không chỉ là nhiệm vụ
của một số cán bộ của Trung tâm DS-KHHGĐ mà trở thành trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị ở địa phương. Từ đó, cam kết chính trị của các cấp ủy
Đảng, chính quyền tuyến huyện với chương trình DS-KHHGĐ được tăng
cường hơn.
2.4.2. Những hạn chế
- Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền chưa đúng và đầy đủ dẫn
đến buông lỏng trong quản lý, lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác DS-
KHHGĐ. Tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn còn khá phổ
biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên. Trong 7 năm qua,
mặc dù tỷ suất sinh năm sau giảm hơn năm trước, tuy nhiên Quảng Bình vẫn
85
là tỉnh có mức sinh cao, chưa đạt mức sinh thay thế, tổng tỷ suất sinh tăng trở
lại trong những năm gần đây. Tỷ số giới tính khi sinh có xu hướng mất cân
bằng giới tính khi sinh theo quy luật sinh sản tự nhiên. Quảng Bình vẫn nằm
trong nhóm các tỉnh có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình. Tuổi thọ
có tăng nhưng vẫn thấp hơn so với tuổi thọ của toàn quốc. Tỷ lệ người cao
tuổi tăng cao nhưng chế độ an sinh xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu, dịch
vụ chăm sóc người cao tuổi còn thiếu về số lượng và chất lượng. Tình trạng
quan hệ tình dục sớm, có thai tuổi vị thành niên, phá thai không an toàn, ly
hôn, ly thân sớm trong giới trẻ có chiều hướng gia tăng. Tình trạng nam nữ
thanh niên tảo hôn, kết hôn cận huyết thống xảy ra ở một số địa bàn dân tộc ít
người như: huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Lệ Thủy... cũng để lại
những hậu quả, hệ lụy làm giảm chất lượng dân số của các thế hệ tương lai.
- Việc ban hành văn bản tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế
hoạch và các biện pháp phù hợp ở địa phương còn chậm, đôi lúc mang tính
hình thức. Từ trước đến nay, tại Quảng Bình, chưa có Nghị quyết chuyên đề
về công tác DS-KHHGĐ do HĐND tỉnh ban hành, mà hàng năm chỉ 01 chỉ
tiêu duy nhất về công tác DS-KHHGĐ là tốc độ tăng dân số được đưa vào
trong Nghị quyết phát triển kinh tế-xã hội hàng năm của tỉnh. Theo đó, những
vấn đề trọng tâm của công tác DS-KHHGĐ vẫn chưa được quan tâm giải
quyết như: Hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ một số nơi
cũng còn một số bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em có giảm nhưng vẫn còn cao. Việc đáp ứng nhu
cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về sức khỏe sinh sản, sức khẻo tình dục cho
nam giới, người di cư, người khuyết tật, người có HIV; dự phòng và điều trị
các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản/bệnh lây truyền qua đường tình dục, vô
sinh còn hạn chế. Sàng lọc trước sinh, sơ sinh; khám sức khỏe tiền hôn nhân
tại các tuyến triển khai còn chậm, rời rạc.
86
- Tổ chức bộ máy nhiều lần thay đổi và tiếp tục còn biến động trong
thời gian tới ảnh hưởng đến tư tưởng công tác của đội ngũ cán bộ DS-
KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở. Thường xuyên có sự biến động ở đội ngũ cộng tác
viên dân số đã ảnh hưởng đến công tác thu thập, cập nhật thông tin và tính
chính xác của các thông tin số liệu về dân số tại địa phương trong hệ thống cơ
sở dữ liệu từ huyện đến tỉnh.
- Nguồn lực bao gồm kinh phí và nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của công tác DS-KHHGĐ đặc biệt trong giai đoạn hiện nay: Kinh
phí hoạt động hàng năm phân bổ chậm và bị cắt giảm nên đã ảnh hưởng đến
tiến độ triển khai chương trình hoạt động. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại của cán
bộ dân số nhất là ở cấp huyện, xã còn tồn tại và mang tính chất lan truyền, do
đó việc triển khai công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện pháp
luật dân số còn hạn chế trong nội dung lẫn hình thức. Trình độ chuyên môn,
kỹ năng tư vấn và kỹ năng truyền đạt thông tin của đội ngũ cán bộ làm công
tác truyền thông tư vấn ở cơ sở còn yếu. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ chuyên
trách trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm trong công tác tham mưu cấp ủy, chính
quyền trong ban hành văn bản chỉ đạo cũng như tổ chức thực hiện hoạt động
và đặc biệt còn thiếu kinh nghiệm trong vấn đề quản lý đội ngũ cộng tác viên
dân số tại cơ sở. Trình độ công nghệ thông tin của cán bộ ở cấp cơ sở nhất là ở
vùng sâu vùng xa còn hạn chế.
- Công tác phối hợp của một số ban, ngành, đơn vị còn hạn chế, mang
tính hình thức, hiệu quả hoạt động chưa cao. Một số ban ngành ký kết hợp
đồng tuyên truyền đầu năm nhưng cho đến cuối năm vẫn chưa thực hiện hoạt
động hoặc tổ chức hoạt động sơ sài.
- Nội dung và hình thức truyền thông chưa thật phù hợp với đặc điểm
vùng, miền; chưa tạo được sự chuyển biến sâu sắc về ý thức và tâm lý trong
thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
87
- Công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo các vấn đề DS-KHHGĐ còn
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, điều hành. Việc lồng ghép các biến dân
số vào công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển chưa trở thành quy trình
bắt buộc trong công tác kế hoạch hóa và hoạch định chính sách của các
ngành, các địa phương.
2.4.3. Nguyên nhân hạn chế
- Về chủ trương, chính sách, có thể nói Pháp lệnh Dân số sau gần 14
năm kiểm nghiệm, đã chứng minh có nhiều tác động tích cực trong việc điều
chỉnh toàn diện vấn đề dân số. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của thực tế đặt
ra với những thay đổi về dân số, kinh tế và xã hội, Pháp lệnh dân số đã không
còn phù hợp, mặt khác pháp luật về dân số có liên quan trực tiếp và đi sâu, đi
sát vào đời sống của mỗi con người, do đó có nhiều vấn đề phát sinh trong
quá trình phát triển và thi hành. Việc Dự thảo Luật Dân số đã được lấy ý kiến
và thông qua nhiều lần từ những năm trước đây nhưng đến nay vẫn chưa được
ban hành để đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành đồng thời đáp
ứng và giải quyết các vấn đề phát sinh trong tình hình mới. Do vậy, cho đến
thời điểm này, việc chỉ đạo triển khai thực hiện công tác DS-KHHGĐ tại địa
phương đang có những lúng túng, nhất là đang có định hướng tiếp tục thay
đổi mô hình tổ chức bộ máy cấp huyện.
Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về tính chất
lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác DS-
KHHGĐ, lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và trong xây dựng phương hướng hoạt động của một số cấp
ủy, chính quyền địa phương chưa chú trọng và chưa đặt công tác DS-KHHGĐ
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đôi khi còn coi công tác DS-KHHGĐ là
việc riêng của ngành dân số, do vậy việc triển khai hoạt động ở cơ quan, đơn
vị, địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Ở một số địa phương có biểu
88
hiện chủ quan thỏa mãn với những kết quả đạt được dẫn đến buông lỏng quản
lý, giao khoán việc thực hiện công tác dân số cho ngành Dân số. Sự phối hợp
của một số cơ quan, ban ngành trong việc tổ chức thực hiện công tác DS-
KHHGĐ chưa được thường xuyên, thiếu đồng bộ, chặt chẽ.
- Việc thay đổi tổ chức bộ máy liên tục, năm 2014 chuyển Trung tâm
DS-KHHGĐ trực thuộc UBND cấp huyện và hiện nay theo tinh thần Nghị
quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập,
trong thời gian tới thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một
trung tâm y tế đa chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở lên),
bao gồm y tế dự phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng
và các dịch vụ y tế khác, theo đó, nhập Trung tâm DS-KHHGĐ về Trung tâm
Y tế cấp huyện, dẫn đến có nhiều xáo trộn, thiếu ổn định, đây là một trong
những nguyên nhân và là yếu tố làm ảnh hưởng tới các nguyên nhân khác.
Trong vòng 10 năm, bộ máy làm công tác dân số hai lần thay đổi và tiếp tục
thay đổi đã tác động không nhỏ đến việc triển khai thực hiện, phải mất một
thời gian khá dài để ổn định mô hình tổ chức bộ máy, điều này cũng đã tạo
nên tư tưởng không an tâm công tác cho đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở. Bên
cạnh đó, định mức biên chế sự nghiệp cho các Trung tâm DS-KHHGĐ không
được linh hoạt, mềm dẻo, không dựa trên thực tế của tùng vùng mà giao chỉ
tiêu đồng đều nên các huyện có dân số đông, địa bàn rộng gấp đôi huyện khác
gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện các hoạt
động, chương trình, mô hình, đề án.
- Hoạt động quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện còn bất cập, hạn
chế, chưa xác định rõ nội dung ưu tiên trong lĩnh vực DS-KHHGĐ do đó việc
đầu tư và triển khai hoạt động còn dàn trải, kém hiệu quả.
89
- Nhận thức và ý thức chấp hành thực hiện chính sách DS-KHHGĐ của
một bộ phận nhân dân và cán bộ chưa cao. Tư tưởng muốn có đông con, trọng
nam hơn nữ vẫn còn khá phổ biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ,
đảng viên. Ý thức của người dân về tự chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản,
tham gia sàng lọc chẩn đoán dị tật, bệnh tật để phòng ngừa và điều trị nhằm
nâng cao chất lượng dân số còn hạn chế.
- Về nhân lực và vật lực:
+ Đầu tư nguồn lực chưa phù hợp, chưa đảm bảo yêu cầu cho việc triển
khai đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực quy mô, cơ cấu, nâng cao chất lượng dân
số và phân bố dân số, chưa đảm bảo yêu cầu và tình hình công tác này trong
giai đoạn hiện nay.
+ Trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ làm công tác dân
số vẫn còn nặng về kế hoạch hóa gia đình, chưa chú trọng các mặt cơ cấu,
phân bố, chất lượng dân số và tác động qua lại với phát triển. Hơn thế nữa,
một số cán bộ chuyên trách trẻ chưa nắm được các chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước về DS-KHHGĐ, chưa hiểu rõ vai trò của công tác dân số
đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, do đó vận dụng trong thực tế khi tuyên
truyền vận động còn hạn chế. Đối với đội ngũ cán bộ mới trẻ này, cần có biện
pháp bồi dưỡng cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn chủ trương, đường lối của
Đảng về công tác dân số trong tình hình mới. Đặc biệt là lực lượng cộng tác
viên dân số ở cơ sở, những người mà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ luôn
đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng để tuyên truyền vận động nhân
dân nhưng chế độ phụ cấp còn khiêm tốn, bên cạnh đó, trình độ cộng tác viên
hạn chế, tuối lớn nên có một số làm việc qua loa, khả năng ghi chép, hoàn
thiện báo cáo chuyên ngành kém. Việc tổ chức cung cấp dịch vụ chăm sóc
SKSS/KHHGĐ cũng có nhiều khó khăn, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, miền
núi. Nhân lực đáp ứng dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch
90
hóa gia đình còn thiếu và trình độ chuyên môn chưa đồng đều, thiếu trang
thiết bị y tế..., do đó chưa đáp ứng các yêu cầu tư vấn và dịch vụ chuyên môn
kỹ thuật chăm sóc SKSS/KHHGĐ của người dân.
- Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện ở một số địa phương
thiếu thường xuyên. Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về nghiêm
cấm lựa chọn giới tính khi sinh được triển khai nhưng chưa đạt được hiệu quả
như mong muốn. Việc nới lỏng các biện pháp hành chính, thiếu quyết liệt
trong triển khai các hoạt động DS-KHHGĐ, chế tài xử lý chưa nghiêm, cán
bộ, đảng viên thiếu gương mẫu đã vi phạm chính sách DS-KHHGĐ. Đối với
cộng đồng dân cư, việc xử lý các trường hợp vi phạm chính sách dân số theo
quy định tại hương ước, quy ước làng, thôn, tổ văn hóa chưa được thực hiện
đồng bộ và triệt để, còn tâm lý nể nang nên dẫn đến việc một số bộ phận nhân
dân không chấp hành nghiêm túc. Những điều nói trên đã có tác động tiêu cực
đến phong trào thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
- Công tác nghiên cứu khoa học về lĩnh vực DS-KHHGĐ trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình rất hạn chế và cũng chưa được coi trọng đúng mức, do đó
chưa phát huy được tính sáng tạo tìm tòi những cách làm hay, ý tưởng giỏi để
có thể đưa ra những giải pháp thực hiện công tác DS-KHHGĐ phù hợp, hiệu
quả hơn.
91
Tiểu kết Chương 2
Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
thời gian qua có nhiều biến đổi từ tổ chức bộ máy đến chủ trương, định hướng
triển khai thực hiện nhưng đồng thời cũng gặt hái được nhiều thành tựu, đó là
cả một quá trình thực hiện tốt công tác DS – KHHGĐ trong suốt nhiều năm
qua.
Trong từng giai đoạn và hàng năm, tỉnh Quảng Bình cũng đã bám sát
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công
tác DS-KHHGĐ, ban hành các văn bản chỉ đạo ngành Y tế-Dân số phối hợp
với các ban ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã, thành phố để tổ chức
triển khai thực hiện. Kết quả minh chứng, công tác DS-KHHGĐ đã thực sự đi
vào cuộc sống, nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển biến rõ rệt, ngày
càng có nhiều người kết hôn, sinh con phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe. Tỷ suất
sinh năm sau giảm hơn so với năm trước, từ 16%o năm 2011 xuống còn
14,92%o năm 2017. Kết quả đạt được về DS-KHHGĐ đã góp phần vào sự
phát triển kinh tế – xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người, xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao mức sống của người dân, nâng cao chất lượng dân số của
tỉnh nhà.
Qua nhiều lần thay đổi, hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác DS-
KHHGĐ đã được hình thành nhằm phù hợp với các giai đoạn phát triển và
nhu cầu của xã hội.
Hiện nay, mô hình Trung tâm DS-KHHGĐ trực thuộc UBND huyện
nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, HĐND, UBND huyện, phát huy
tối đa việc vận động các ban, ngành, đoàn thể vào cuộc cùng ngành Dân số,
thuận lợi hơn trong đầu tư kinh phí, dễ dàng hơn trong lồng ghép với kế
92
hoạch phát triển kinh tế-xã hội và trong công tác chỉ đạo triển khai thực hiện
công tác DS-KHHGĐ tuyến xã.
Chức danh Chuyên trách dân số được đưa vào viên chức thuộc Trung
tâm DS-KHHGĐ huyện và biệt phái làm việc tại UBND xã được coi là một
thắng lợi trong công tác tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ của tỉnh Quảng Bình.
Đây cũng chính là mô hình có nhiều điểm ưu việt, giúp nâng cao vai trò, trách
nhiệm cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Từ năm 2016, Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ bị cắt, thay
bằng Chương trình mục tiêu Y tế-Dân số, bên cạnh việc cắt giảm kinh phí
hoạt động, lĩnh vực dân số cũng được thu hẹp trong ngành y tế, điều đó có
ảnh hưởng đến quy mô, phạm vi tác động và hiệu quả của công tác DS-
KHHGĐ.
Nhìn chung, so với toàn quốc, Quảng Bình vẫn đang là tỉnh nghèo, nền
kinh tế đang đứng trước những thách thức trong tiến trình phát triển và hội
nhập. Công tác DS-KHHGĐ vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức: Là một trong những tỉnh chưa đạt mức sinh thay thế, nhịp độ gia tăng
dân số tuy đã được khống chế nhưng chưa ổn định và bền vững, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng có mức sinh cao. Tỷ suất sinh giảm chậm và thiếu
vững chắc. Tỷ lệ sinh con thứ 3 có nơi tăng đột biến. Nguồn cung ứng
phương tiện tránh thai hạn chế và dần phải chuyển sang tiếp thị xã hội. Tỷ lệ
chênh lệch giới tính khi sinh mất cân đối. Chế tài xử lý vi phạm chính sách
dân số chưa đủ mạnh với mọi tầng lớp người dân. Việc triển khai hoạt động
của các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số gặp khó khăn do kinh phí
đầu tư từ ngân sách trung ương và địa phương quá hạn chế.
93
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế
hoạch hóa gia đình
3.1.1. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước
Quyết định số 216 ngày 26/12/1961 về việc hướng dẫn sinh đẻ cho nhân
dân của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là văn bản pháp quy đầu tiên
của Nhà nước ta về công tác DS-KHHGĐ, mang đậm tính nhân văn, sâu sắc
về ý nghĩa và tầm cao về hiệu quả . Quyết định số 216 ra đời thể hiện Việt
Nam là một trong những quốc gia sớm đi đầu trong việc thực hiện công tác
DS-KHHGĐ đồng thời chính thức tuyên bố Việt Nam tham gia chương trình
dân số toàn cầu. Trên cơ sở đó, ngày 19/5/1997 Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 326 lấy ngày 26/12 hàng năm là Ngày Dân số Việt Nam
và Quyết định số 2161 ngày 26/11/2010 lấy tháng 12 hàng năm là Tháng hành
động Quốc gia về Dân số nhằm nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm, tăng
cường sự phối hợp của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã
hội, mỗi gia đình và toàn xã hội đối với công tác Dân số - KHHGĐ.
Trong suốt 56 năm qua dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định công tác DS-KHHGĐ là yếu tố quan trọng hàng đầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp
thiết, vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Ở mỗi giai đoạn, thời
kỳ lịch sử tương ứng với mục tiêu bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước,
Đảng và Nhà nước luôn đặt công tác DS-KHHGĐ là một trong những nội
dung quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành, nhờ đó công tác
94
DS-KHHGĐ đã đạt được những thành tựu quan trọng: Từ một nước có mức
sinh cao, tuổi thọ trung bình thấp, đã kiên trì, quyết tâm thực hiện chính sách
dân số và kế hoạch hóa gia đình từ đó đã khống chế tốc độ tăng dân số, tăng
tuổi thọ trung bình của người dân, kiểm soát được tốc độ phát triển dân số…
Những thành tựu đó đã góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao
thu nhập bình quân đầu người và góp phần thực hiện thành công các mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc và được Liên hợp quốc tặng giải
thưởng Dân số; ngành Dân số được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương
Độc lập hạng Nhất.
Đặc biệt từ năm 1993 khi bắt đầu triển khai Nghị quyết 04/NQ-HNTW
(Khóa VII) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, chính sách dân số đã có sự
gắn kết với chính sách phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Trên cơ sở thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và quan điểm phát
triển thì chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã phát triển từ tập
trung giảm sinh sang chính sách dân số toàn diện, khuyến khích sự tự nguyện
của người dân trong thực hiện, trong đó nêu bật 5 quan điểm của Đảng về
công tác DS-KHHGĐ, đó là:
Thứ nhất, công tác DS-KHHGĐ là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội
hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống
của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Thứ hai, giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS-KHHGĐ là vận
động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hóa gia
đình đến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người
chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực
hiện kế hoạch hóa gia đình.
95
Thứ ba, đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quả
kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác
DS-KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ
sự viện trợ quốc tế.
Thứ tư, huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác DS-
KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo
chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng
hiệu quả và đến tận người dân.
Thứ năm, để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có
ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo
tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ theo chương trình.
Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) ngày 22 tháng 3
năm 2005 về việc “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ” đã
xác định quán triệt và kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII về
chính sách DS-KHHGĐ, trong đó nhấn mạnh các nhiệm vụ và giải pháp để
thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
đảng và chính quyền; Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục; Củng cố,
kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và nâng cao hiệu lực quản lý; Chính sách
và đầu tư nguồn lực; Mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình [4].
Kết luận số 44 KL/TW của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 01 tháng 4
năm 2009 ban hành về “Kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW
ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đầy mạnh thực hiện chính
sách DS-KHHGĐ” đã nhấn mạnh những thành tựu của công tác DS-
KHHGĐ đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước,
96
nhất là đóng góp vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe, giáo dục và đào tạo của nhân dân [5].
Kế thừa và phát huy những thành tựu đạt được trong công tác DS-
KHHGĐ sau 25 năm thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
trung ương Khóa VII và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đặc biệt, để đáp ứng và bắt kịp sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước trong tình hình mới, tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã nêu rõ
quan điểm [2].
Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu
dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để bảo đảm
nguồn lực cho công tác dân số;
Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình
sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt
quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan
hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm
phát triển nhanh, bền vững.... Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát
triển;
Để khắc phục hạn chế về sự chậm đổi mới của cơ chế, chính sách
trong vấn đề dân số, Nghị quyết số 21-NQ/TW yêu cầu chính sách dân số
phải bảo đảm cân bằng, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân;
giữa việc tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với
thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ
thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của nhân dân;
97
Bên cạnh đó, cần tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp
với trọng tâm công tác dân số trong từng thời kỳ, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự quản lý chuyên môn,
nghiệp vụ.
Hiện nay, Việt nam đang tập trung thực hiện mục tiêu Chương trình
nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, trong đó con người luôn được đặt ở vị trí
trung tâm của sự phát triển bền vững, mà trước hết là đảm bảo môi trường
hòa bình, ổn định, an toàn và công bằng xã hội, tập trung nâng cao chất
lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp
hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp
phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
một trong những mục tiêu hàng đầu của Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh
sản Việt Nam, giai đoạn 2011-2020.
Thực hiện quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình phải bám sát những quan điểm, mục tiêu, định hướng của Đảng
và Nhà nước và căn cứ tình hình thực tế về điều kiện tự nhiên, điều kiện phát
triển kinh tế-xã hội, đặc thù vùng miền để từ đó đưa ra những giải pháp thực
hiện cụ thể, phù hợp.
3.1.2. Quán triệt văn bản của cấp ủy Đảng, chính quyền trên cơ sở phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương
Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động của các
cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với công tác dân số trong
tình hình mới, trước hết cần tổ chức nghiên cứu, quán triệt các nội dung phù
hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành để cán bộ, công chức, viên
chức và nhân dân nắm vững những quan điểm, nội dung cơ bản của Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và Chương trình hành động số 18-CTr/TU ngày 13/3/2018 của Ban Thường
98
vụ Tỉnh ủy [35]. Các sở, ban ngành, địa phương xây dựng chương trình, kế
hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực
hiện Chương trình hành động số 18-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước trong việc
tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang
dân số và phát triển.
Vẫn tiếp tục giải quyết vấn đề giảm sinh, giảm sinh con thứ 3 trở lên,
đưa mức sinh của tỉnh tiệm cận mức sinh thay thế, quyết tâm hoàn thành đạt
mức sinh thay thế đến năm 2025. Những địa phương nào đạt mức sinh thay
thế thì sẽ chuyển hướng mạnh sang tập trung nâng cao chất lượng dân số.
Địa phương nào chưa đạt mức sinh thay thế, cần phải triển khai mạnh các
chiến dịch truyền thông để đạt mức sinh thay thế trên phạm vi cả tỉnh.
Song song thực hiện mục tiêu giảm sinh, ổn định quy mô dân số, tập
trung triển khai thực hiện các hoạt động can thiệp nâng cao chất lượng dân số
bao gồm: Đề án Sàng lọc trước sinh và Sơ sinh; Mô hình tư vấn và khám sức
khỏe tiền hôn nhân; Mô hình giảm tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống;
Mô hình Tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng; Đề án kiểm
soát dân số vùng biển, ven biển (Đề án 52).
Kiểm soát tình trạng chênh lệch giới tính khi sinh thông qua việc triển
khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động can thiệp giảm thiểu mất cân bằng
giới tính khi sinh, hạn chế tình trạng thừa nam, thiếu nữ trong tương lai để ổn
định cơ cấu dân số.
3.1.3. Huy động nguồn lực thực hiện công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Trước hết, đảm bảo thực hiện tiết kiệm, có hiệu quả nguồn kinh phí
chương trình mục tiêu Y tế-Dân số, cần ưu tiên lựa chọn những hoạt động
trọng tâm, có tác động can thiệp để giải quyết toàn diện nội dung về quy mô,
99
cơ cấu, phân bổ và đặc biệt nâng cao chất lượng dân số đồng thời tiết kiệm
được nguồn lực.
Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa về DS-KHHGĐ nhằm huy động nguồn
lực từ cộng đồng, các dự án, tổ chức để tăng nguồn lực giải quyết có hiệu quả
những thách thức của công tác dân số trong tình hình mới, đảm bảo thực hiện
các mục tiếu của Chiến lược Dân số-sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020.
Trước hết là đẩy mạnh việc xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai
và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình/sức khỏe sinh sản tại khu vực thành thị và
nông thôn phát triển nhằm đáp ứng ngày càng cao và đa dạng về phương tiện
tránh thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình/ sức khỏe sinh sản có chất lượng
cho người dân, đảm bảo sự công bằng xã hội, sự bền vững của chương DS-
KHHGĐ; huy động và nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho chương trình phù hợp với
xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh việc xã hội hóa các nguồn lực tài chính cho công tác DS-
KHHGĐ đặc biệt là tại cơ sở thông qua sự đóng góp, ủng hộ của cộng đồng
dân cư mà đã được người dân thống nhất trong hương ước, quy ước xây dựng
làng, thôn, bản, tổ dân phố văn hóa.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch
hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, các cơ chế, chính sách, pháp
luật về dân số
Tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về công tác dân số
trên cơ sở ban hành các văn bản, chương trình, kế hoạch. Trên cơ sở các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, tiếp tục rà soát để sửa
đổi, bổ sung và ban hành một số chính sách dân số phù hợp với yêu cầu
chuyển hướng của công tác dân số, cũng như thực tế của địa phương. Trước
100
hết, đề xuất để sớm ban hành Luật Dân số nhằm điều chỉnh hành vi đến tất cả
nhóm đối tượng, đặc biệt là cộng đồng dân cư khi mà Pháp lệnh Dân số
không còn phù hợp với tình hình hiện nay.
Hiện, các văn bản của Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, Ủy ban Nhân dân
tỉnh mới chỉ tác động đến đối tượng là cán bộ, công viên chức và đảng viên.
Người dân tại cộng đồng mới chỉ dừng lại ở hình thức là cuộc vận động, chủ
yếu dựa vào sự cam kết tự nguyện của cộng đồng trong việc thực hiện chính
sách dân số thông qua các hương ước, quy ước làng, thôn, bản, tổ dân phố.
Xây dựng văn bản pháp luật, nhất là các văn bản nhạy cảm cần thể hiện quyền
và nghĩa vụ của người dân phải đi liền với nhau để tránh hiểu nhầm. Khi Luật
được ban hành cần có văn bản hướng dẫn ngay để thực hiện đúng tinh thần
nội dung Luật đã ban hành.
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nên đồng bộ và cần chú
trọng đến các hoạt động về chất lượng dân số và các biện pháp để thực hiện
quy mô dân số hợp lý.
Tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của địa phương
đối với công tác dân số như: Chính sách khuyến khích xây dựng mô hình
thôn, bản, khu phố không có người sinh con thứ 3 trở lên; Hỗ trợ triển khai
chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ đến
các xã có mức sinh cao, xã khó khăn; Chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ
nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số...; Xem
xét điều chỉnh bổ sung chính sách Chi phí thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia
đình cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, cận nghèo; Hỗ trợ cho Cộng tác viên
Dân số thôn bản, khu phố, cụm dân cư phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của đội
ngũ này trong tình hình mới.
Nghiên cứu, xây dựng, thử nghiệm và thực hiện các chính sách nhằm
hỗ trợ, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng
101
đồng và xã hội như: Chính sách hỗ trợ về vật chất, tinh thần cho các cặp vợ
chồng sinh con một bề gái thuộc hộ nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu
số thuộc vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn. Các chính sách bảo vệ, chăm sóc
và phát huy vai trò người cao tuổi như: Chính sách khuyến khích người cao
tuổi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người di cư được tiếp cận đầy
đủ và công bằng với các dịch vụ cơ bản về DS-KHHGĐ. Thực hiện có hiệu
quả chính sách bảo vệ và phát triển các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân
tộc thiểu số rất ít người.
3.2.2. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về công tác Dân số-Kế
hoạch hóa gia đình
Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công
tác dân số. Thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và tầng lớp nhân
dân, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội về chủ trương chuyển trọng tâm
chính sách dân số từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn
diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số trong mối quan
hệ hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng.
Đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số thành nội
dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các
cấp. Chủ động lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng ngành, từng địa
phương.
Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong
việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2
con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng
trong toàn xã hội.
102
Đưa các tiêu chí về dân số vào các nội quy, quy chế, công tác thi đua,
khen thưởng của cơ quan, đơn vị nhà nước; xem việc chấp hành chính sách
dân số là một tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn
vị, cũng như mỗi cá nhân; xử lý nghiêm những trường hợp đảng viên vi phạm
chính sách dân số theo Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ
Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm [5].
3.2.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số tỉnh đến cơ sở
theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả đủ sức thực hiện chức năng
quản lý điều hành và đảm nhiệm vai trò điều phối hoạt động của các cơ quan
liên quan trong lĩnh vực dân số; bảo đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương, đồng thời quản lý chuyên môn thống nhất
theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề
về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017
của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trên thực tế, mô hình Trung tâm DS-KHHGĐ trực thuộc UBND huyện
như hiện nay là rất phù hợp, nhận được đa số sự đồng tình ủng hộ của các cơ
quan, ban ngành liên quan và cán bộ dân số các cấp vì mô hình này vừa tăng
cường được sự chỉ đạo của chính quyền, huy động được nguồn lực của địa
phương, vừa đẩy mạnh được sự phối hợp ban, ngành và sự tham gia mạnh mẽ
của cộng đồng. Việc đưa cán bộ chuyên trách dân số trực thuộc Trung tâm
biệt phái làm việc tại xã là hợp lý và hiệu quả, đúng người đúng việc.
Do đó, khi thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một
trung tâm y tế đa chức năng, cần thống nhất sáp nhập nguyên trạng Trung tâm
103
Dân số-KHHGĐ huyện vào Trung tâm Y tế, vì dân số là một mảng có tính
đặc thù, để không làm mất đi hay hòa tan lĩnh vực dân số thì việc giữ được
nguyên trạng bộ máy làm công tác dân số sẽ giúp cho công tác y tế, dân số hỗ
trợ nhau tốt hơn. Để hoạt động hiệu quả sau khi sáp nhập, phải tạo được vị thế
rất rõ của công tác dân số trong bộ máy tổ chức của Trung tâm Y tế cấp
huyện. Vì vậy, nhất thiết khi xây dựng đề án sáp nhập cần lưu ý bố trí giám
đốc Trung tâm DS-KHHGĐ là phó giám đốc Trung tâm Y tế phụ trách lĩnh
vực dân số.
Ở cấp xã, công tác dân số là tuyên truyền, vận động, để đạt được chỉ
tiêu, mục tiêu đề ra, cán bộ chuyên trách dân số không thể đơn lẻ thực hiện
vận động nếu không có sự vào cuộc của cấp ủy Đảng, chính quyền và phối
hợp của các đoàn thể. Do đó, khi sáp nhập về Trạm Y tế, viên chức dân số cần
được biệt phái về UBND xã, là thành viên thư ký của Ban Dân số-KHHGĐ xã
thực hiện công tác tham mưu về lĩnh vực DS-KHHGĐ mới phát huy được
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước tại cấp xã.
Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội
ngũ cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố, cụm dân cư. Nếu không thể duy trì
được đội ngũ cộng tác viên như hiện nay, có phương án lồng ghép đội ngũ
cộng tác viên dân số với y tế thôn bản. Những cộng tác viên dân số này vừa
được đào tạo về dân số, lại vừa có chuyên môn y tế, sẽ tốt hơn cho việc tư vấn
và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý, thực hiện chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng với yêu cầu chuyển
hướng sang chính sách dân số và phát triển. Đưa nội dung dân số và phát triển
vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học.
104
Bộ máy hoạt động hiệu quả sẽ hoàn thành được các mục tiêu ngành
DS-KHHGĐ đề ra với chi phí thấp nhất có thể. Đối với bộ máy quản lý nhà
nước, hiệu quả được xem xét trên phương diện hiệu quả kinh tế-xã hội.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp liên ngành, phát huy vai trò của tổ chức
Mặt trận các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân và của cả cộng đồng trong
công tác dân số
Tăng cường phối hợp liên ngành, đề cao trách nhiệm của từng cơ quan,
đơn vị trong thực hiện công tác DS-KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở, đặc biệt giữa
các lĩnh vực có liên quan đến các mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp.
Cơ quan DS-KHHGĐ các cấp xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả
giữa các cơ quan, đơn vị, thực hiện công tác DS-KHHGĐ trên cơ sở chức
năng của các ngành, đoàn thể. Trong quá trình thực hiện cần phân công trách
nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan, đoàn thể trong thực
hiện các mục tiêu, giải pháp; đặc biệt là đưa nội dung, chỉ tiêu dân số vào việc
thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác dân số, thực
hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, nâng cao sức
khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Huy động các đoàn thể, tổ
chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp trong việc tuyên truyền vận động, tư
vấn của tổ chức và cộng động dân cư thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
3.2.5. Đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Triển khai
đồng bộ các hoạt động truyền thông chuyển đổi hành vi về dân số trên tất cả
các lĩnh lực quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số với nội dung, hình thức phù
hợp với đặc điểm của từng vùng, từng nhóm đối tượng.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo
đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt. Ưu tiên
105
tập trung tuyên truyền tại địa bàn vùng có đồng bào công giáo, dân tộc thiểu
số, vùng biển và các vùng, đối tượng có mức sinh cao.
Nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới; đẩy mạnh truyền
thông giáo dục chuyển đổi hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính
khi sinh, tạo dư luận xã hội lên án hành vi phân biệt, đối xử giới, khẳng định
vai trò, con cái trong gia đình, không phân biệt nam hay nữ trong việc nuôi
dưỡng, thờ cúng cha mẹ, ông bà tổ tiên.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy phong trào mọi
người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh,
chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khỏe tầm vóc, thể lực người Việt
Nam. Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cư
trú, về cấm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Nhân rộng, nâng cao chất lượng hoạt động của các mô hình can thiệp
truyền thông tại cộng đồng như mô hình Câu lạc bộ tiền hôn nhân; Câu lạc bộ
người cao tuổi giúp người cao tuổi; mô hình Chi hội không có người sinh con
thứ 3 trở lên của các ngành, đoàn thể và một số mô hình khác.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và
ngoài nhà trường, chú trọng lồng ghép đưa nội dung dân số, sức khỏe sinh
sản, giới và bình đẳng giới vào hệ thống giáo dục của các cấp học, bậc học từ
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học, các trường
dạy nghề; Trường chính trị và các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
3.2.6. Đảm bảo nguồn lực cho công tác dân số
Tăng cường vận động đầu tư từ các nguồn lực trung ương, địa phương
và nguồn hỗ trợ khác cho việc thực hiện công tác dân số nhằm bảo đảm
nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số trên tất cả các
lĩnh vực (Quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số và phân bố dân số)
của địa phương.
106
Có biện pháp đẩy mạnh xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các tổ
chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở
sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
Tiếp tục duy trì hoạt động thanh tra, kiểm tra giám việc thực hiện chính
sách dân số tại các địa phương nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những
mặt chưa làm được, rút ra những kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những sai
sót trong quá trình thực hiện, đồng thời có những hình thức khen thưởng các
tổ chức, đơn vị, cá nhân gương mẫu thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ. Xử
lý nghiêm các cá nhân vi phạm chính sách dân số.
Để thực hiện thanh tra việc triển khai, thực hiện chính sách, pháp luật
về chương trình mục tiêu, đề án, dự án, mô hình về DS-KHHGĐ, bao gồm
các lĩnh vực: Quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, các hoạt động
dịch vụ công về DS-KHHGĐ theo quy định, cơ quan DS-KHHGĐ tỉnh
Quảng Bình cần được giao chức năng thanh tra chuyên ngành theo Nghị định
số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ “Quy định cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành” và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Trên cơ sở được giao chức năng, nhiệm vụ về thanh tra chuyên ngành,
cơ quan DS-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình mới đủ có sở pháp lý và thẩm quyền
để lập kế hoạch tổ chức thanh tra hoạt động quản lý và thực hiện công tác dân
số trong phạm vi toàn tỉnh; Phối hoặc hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan
tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định
về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý về DS-KHHGĐ; Phối hợp với các
cơ quan, đơn vị liên quan tiến hành thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật từ đó kiến nghị xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp
luật.
107
Tiểu kết Chương 3
Có thể nói, Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương có
tính chất bước ngoặt, đưa chính sách dân số sang một trang phát triển mới,
trong đó nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách
dân số từ Kế hoạch hóa gia đình sang Dân số và Phát triển. Công tác dân số
phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất
lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
Dân số Quảng Bình cũng như Việt Nam hiện nay xét toàn diện trên các
mặt quy mô, cơ cấu, phân bổ, chất lượng và đặt trong mối quan hệ với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bao hàm cả cơ hội và thách thức. Quy
mô dân số nước ta đã khá lớn (94 triệu người, đứng hàng thứ 14 thế giới về
dân số), khoảng 2/3 dân số đang trong độ tuổi lao động (cơ cấu dân số vàng),
chất lượng về thể chất, trí tuệ và tinh thần đã được nâng lên, là cơ hội thuận
lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Làm thế nào
để thích ứng với tiến trình già hóa dân số để người cao tuổi già hóa một cách
chủ động, khỏe mạnh? Làm thế nào để nắm bắt, tận dụng được cơ hội dân số
vàng, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ? Làm thế nào để giảm được tình trạng
mất cân bằng giới tính khi sinh, dẫn đến tình trạng “thừa nam, thiếu nữ” trong
tương lai?... Đó là những câu hỏi với nhiều thách thức đang cần những giải
pháp đồng bộ và quyết liệt để thực hiện.
Vì vậy, để công tác DS-KHHGĐ tiếp tục thực hiện đạt hiệu quả cao và
mang tính bền vững, đòi hỏi phải gắn mục tiêu của công tác dân số với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, có những chính sách phù hợp và quyết liệt hơn
để giải quyết những vấn đề và thách thức mới về dân số trong thời gian tới.
108
KẾT LUẬN
Dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Dân số ổn
định, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc là mục tiêu mà chương trình DS-
KHHGĐ trong mọi giai đoạn ở nước ta phấn đấu để đạt tới.
Trong bối cảnh Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về dân số
trong hơn nửa thế kỷ qua, trọng tâm chính sách dân số bắt đầu có sự chuyển
hướng thì công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần có các
chính sách, giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương và thích ứng
với yêu cầu của toàn quốc, đó là chuyển hướng từ DS-KHHGĐ sang Dân số
và phát triển. Tuy nhiên, trọng tâm Kế hoạch hóa gia đình vẫn cần phải được
chú trọng song song với dân số và phát triển, bởi quy mô dân số của phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ của tỉnh đang ở giai đoạn cực đại, cứ một phụ nữ bước
ra khỏi giai đoạn sinh đẻ thì có 1,5 người bước vào giai đoạn này, kéo theo
nhu cầu cung ứng các dịch vụ về kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe
sinh sản và phương tiện tránh thai vẫn rất lớn.
Bên cạnh đó, cần tập trung các giải pháp nhằm tận dụng cơ hội thời kỳ
cơ cấu “dân số vàng” mang lại, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh
và bền vững của đất nước; thích ứng với thời kỳ già hóa dân số thông qua
việc phát huy vai trò và tăng cường chăm sóc người cao tuổi; đồng thời can
thiệp giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Đảng và Nhà nước đã khẳng định, bản chất của công tác DS-KHHGĐ
là một cuộc vận động lớn với hai giải pháp chính là truyền thông và cung cấp
dịch vụ. Với những yêu cầu mới đi kèm với những đặc điểm và xu hướng dân
số mới, trong giai đoạn tiếp theo, ngành dân số của tỉnh cần đẩy mạnh công
tác truyền thông, giáo dục và vận động theo hướng chú trọng nâng cao chất
lượng dân số và phát triển, phù hợp với từng nhóm đối tượng, đặc điểm văn
109
hóa vùng miền; cùng với triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dân số về cả thể chất, trí tuệ và tinh thần, cũng như thực hiện tốt các
chương trình, giải pháp nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam.
Trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước ngày càng khó khăn, nhất là
đối với tỉnh nghèo như Quảng Bình thì việc đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư là điều cần thiết, nhằm khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung
cấp các dịch vụ KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số.
Đặc biệt, để nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với công tác DS-
KHHGĐ trong giai đoạn hiện nay, cần có một hệ thống văn bản sát với thực
tế, cần có tổ chức bộ máy phù hợp tình hình địa phương, đội ngũ cán bộ làm
công tác DS-KHHGĐ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có khả năng
tham mưu cho lãnh đạo địa phương thực hiện công tác DS-KHHGĐ trong
tình hình mới. Vận dụng, huy động các nguồn lực tùy theo tình hình của địa
phương là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của quản lý nhà
nước về DS-KHHGĐ. Yếu tố cuối cùng nhưng hết sức quan trọng là tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát sớm phát hiện những sai sót trong
quá trình tổ chức triển khai thực hiện để kịp thời chấn chỉnh giúp cho công tác
DS-KHHGĐ ở địa phương ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn.
Hoạt động quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ là công việc khó khăn,
phức tạp, tế nhị và lâu dài nhưng tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống
của mỗi người dân. Vì vậy, cần có sự tham gia tích cực và linh hoạt của các
cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác này, mà trước hết là việc chủ
động, sáng tạo trong ban hành văn bản triển khai thực hiện, đồng thời đòi hỏi
sự chung sức, phối hợp của các cấp, các ngành và của cả cộng đồng cùng thực
hiện tốt công tác DS-KHHGĐ vì một mục tiêu chung là xây dựng một xã hội
tiến bộ, công bằng, văn minh.
110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII Hội nghị lần thứ 4 (1993), Nghị
quyết số 04/NQ-TW ngày 14/01/1993 về chính sách DS-KHHGĐ.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII Hội nghị lần thứ 6 (2018), Nghị
quyết số 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình
mới.
3. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở tỉnh Quảng Bình, Kết quả Tổng
điều tra Dân số và Nhà ở tỉnh Quảng Bình năm 2009.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 47/NQ-TW ngày 22/3/2005 về việc tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số và kế hoạch hóa gia đình.
5. Bộ Chính trị (2007), Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm.
6. Bộ Chính trị (2009), Kết luận số 44/KL/TW ngày 01/4/2009 về kết quả 3
năm thực hiện Nghị quyết số 47/NQ-TW ngày 22/3/2005 về việc đẩy mạnh
thực hiện chính sách Dân số và kế hoạch hóa gia đình.
7. Bộ Y tế (2008), Thông tư 05/2008/TT-BYT ngày 14/5/2008 về Hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ ớ địa phương.
8. Bộ Y tế- Tổng cục Dân số- KHHGĐ và Học viện Hành chính (2010), Quản
lý Nhà nước về dân số- Kế hoạch hóa gia đình. Hà Nội
9. Bộ Y tế- Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (2011), Dân số là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Hà Nội
10. Bộ Y tế, Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (2008), Một số văn bản
của Đảng, Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ hiện nay. Hà Nội
11. Bộ Y tế, Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (2011), Công tác DS-
KHHGĐ Việt Nam 50 năm xây dựng và phát triển (1961-2011). Hà Nội
111
12. ThS.Trần Thị Ngọc Bích và ThS. Phạm Minh Sơn (2016), Đánh giá thực
trạng ban hành văn bản triển khai chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia
đìnhh tại một số tỉnh, thành phố.
13. Cục Thống kê Quảng Bình (2011-2017), Niên giám Thống kê Quảng
Bình
14. Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tỉnh An Giang (2015), Đánh giá
tình hình quản lý nhà nước về công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tại
tỉnh An Giang giai đoạn 2010-2014
15. Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình (2011-2017), Báo cáo tình
hình thực hiện công tác DS-KHHGĐ năm.
16. Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo tổng kết thực
hiện Pháp lệnh Dân số.
17. Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình (2014), Báo cáo tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị
“về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình”
18. Chính phủ (2006), Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định
xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em.
19. Chính phủ (2010), Nghị định 20/2010/NĐ-CP ngày 08/03/2010 về quy
định chi tiết về thi hành Pháp lệnh sữa đổi Điều 10 Pháp lệnh Dân số.
20. Chính phủ (2011), Chiến lược Dân số-Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-
2020.
21. Chính phủ (2011), Nghị định 18/2011/NĐ-CP ngày 17/03/2011 về sữa
đổi khoản 6 Điều 2 Nghị định 20/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh sữa đổi điều 10 Pháp lệnh Dân số.
22. Giáo trình Quản lý chương trình DS, SKSS và KHHGĐ, Trường Cao
đẳng Y tế Hà Đông, Hà Nội, 2011
112
23. Giáo trình Quản lý Nhà nước về DS-KHHGĐ, Hà Nội, 2014.
24. Giáo trình xã hội học Dân số của Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
25. h Nguyễn Thị Ngọc Hà (2015), Tìm hiểu kiến thức về Hôn nhân cận
huyết thống tại 20 xã đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình năm 2014
– 2015
26. hNguyễn Thị Ngọc Hà (2016), Điều tra đánh giá thực trạng sàng lọc
trước sinh, sơ sinh và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sàng lọc
trước sinh, sơ sinh tại tỉnh Quảng Bình.
27. Học viện Hành chính (2011), Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực –
Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước. Hà Nội
28. Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Quảng Trị (2017), Nghị quyết số 11/2017/NQ-
HĐND ngày 29/07/2017 về chính sách Dân số KHHGĐ tỉnh Quảng Trị
giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến năm 2030
29. lĐoàn Minh Lộc, Dương Quốc Trọng, Võ Anh Dũng (2012), Bộ Tiêu
chí đánh giá chất lượng Dân số. Tạp chí Dân số và Phát triển.
30. t Hoàng Thị Phương Thúy (2015), Quản lý nhà nước về Dân số, Kế hoạch
hóa gia đình trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
31. Toàn tập C.Mác và Ănghen, NXB Chính trị Quốc gia, 2002, t.23, tr23.
32. Tổng cục Dân số-KHHGĐ và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2011), Dân
số và Phát triển (Tài liệu dùng cho chương trình bồi dưỡng kiến thức cơ
bản về DS-KHHGĐ). Hà Nội
33. Tổng cục Dân số-KHHGĐ và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2011), Dân
số học (Tài liệu dùng cho chương trình bồi dưỡng kiến thức cơ bản về DS-
KHHGĐ). Hà Nội.
34. Thủ tướng chính phủ (2006), Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày
10/01/2006 về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
113
hiện Nghị quyết số 47/NQ-TW ngày 27/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.
35. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày
04/8/2008 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ.
36. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011
phê duyệt Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn
2011-2020.
37. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày
23/6/2011 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh Quảng Bình đến năm 2020.
38. Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày
01/01/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Pháp lệnh Dân số.
39. Thường vụ Quốc hội (2007), Nghị quyết số 01/2007/QH12 ngày
31/7/2007 của Quốc hội.
40. Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 ngày
27/12/2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sửa đổi Điều 10 của Pháp
lệnh Dân số.
41. Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ thị số 37 CT/TU ngày 14/6/2005 về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ và xây dựng gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
42. Thường vụ Tỉnh ủy, Chương trình hành động số 18-CTr/TU ngày
13/3/2018 thực hiện Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 về công
tác dân số trong tình hình mới.
43. Thường vụ Tỉnh ủy, Kế hoạch số 11-KH/TU ngày 06/5/2016 của Tỉnh ủy
Quảng Bình về triển khai thực hiện Kết luận số 119-KL/TW ngày
04/01/2016 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW,
114
ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chính sách Dân số-Kế hoạch hóa gia đình;
44. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2008), Chỉ thị số 20/2008/CT-UBND
ngày 21tháng 8 năm 2008 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác công tác dân
số và kế hoạch hoá gia đình
45. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2008), Quyết định số 1239/QĐ-
UBND ngày 09/6/2008 về việc thành lập Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia
đình tỉnh Quảng Bình
46. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2009), Quyết định số 1462/QĐ-
UBND ngày 13/7/2009 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc thành lập Ban
Chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ tỉnh Quảng Bình.
47. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2010), Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày
03/6/2010 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc tăng cường công tác Dân số
- KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
48. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Kế hoạch số 1116/KH-UBND
ngày 03/6/2011; Kế hoạch hành động của tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011-
2015 thực hiện Kết luận số 44-KL-NQ/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính
trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005
của Bộ Chính trị (Khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân
số - Kế hoạch hóa gia đình;
49. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Kế hoạch hành động số
908/KH-UBND ngày 06/8/2012 về việc thực hiện Chiến lược Dân số và
Sức khỏe sinh sản tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2012-2015 và định hướng
đến năm 2020;
50. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2014), Quyết định số 1164/QĐ-
UBND ngày 09/5/2014 về việc chuyển giao Trung tâm DS-KHHGĐ cấp
115
huyện trực thuộc Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh thuộc Sở Y tế về Ủy ban
nhân dân huyện, thành phố quản lý
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016), Kế hoạch số 1025/KH-
UBND ngày 04/7/2016 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc thực hiện
Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai
đoạn 2016- 2020
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Kế hoạch số 644/KH-UBND
ngày 19/4/2017 thực hiện Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh
giai đoạn 2017-2020;
53. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Kế hoạch số 1707/KH-UBND
ngày 18/9/2017 thực hiện Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai
đoạn 2017-2025.
54. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Quyết định số 555/QĐ-UBND
ngày 24/2/2017 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc phê duyệt Đề án “Xã
hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia
đình/sức khỏe sinh sản tại khu vực thành thị và nông thôn phát triển giai
đoạn 2015-2020”;
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị (2017), Đề án Chính sách Dân số-
KHHGĐ tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình.
116