ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ PHƢƠNG THÚY
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀ NH TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ PHƢƠNG THÚY
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo ho ̣c
Mã số: 60220309
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Kim Oanh
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình nào.
Tác giả
Trần Thị Phƣơng Thúy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần
Thị Kim Oanh - ngƣời Thầy đã chỉ bảo, hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình
trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của
các giáo sƣ, tiến sĩ, các đồng chí lãnh đạo, cán bộ Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội
vụ tỉnh Phú Thọ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Thọ trong quá trình
nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.
Tác giả
Trần Thị Phƣơng Thúy
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN
GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY ...................................................... 11
1.1 Nhận thức chung về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo .
............................................................................................................ 11
1.1.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ............. 11
1.1.2 Khách thể và chủ thể của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ....................................................................................................... 15
1.1.3 Mục tiêu, nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
....................................................................................................... 20
1.2 Tình hình tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay .................................. 24
1.2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội – văn hóa ........ 24
1.2.2 Tình hình, đặc điểm tôn giáo tỉnh Phú Thọ ................................... 27
CHƢƠNG 2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ..... 34
2.1 Thành tựu quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo của Ban
Tôn giáo tỉnh Phú Thọ .............................................................................. 34
2.1.1 Quá trình hình thành Ban Tôn giáo tỉnh Phú Thọ ......................... 34
2.1.2 Những thành tựu............................................................................. 39
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo ............................................................................................... 54
1
2.2.1 Vấn đề đặt ra từ khách thể quản lý ................................................ 54
2.2.2 Vấn đề đặt ra từ chủ thể quản lý .................................................... 59
CHƢƠNG 3. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ: BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP ............................ 65
3.1 Bài học kinh nghiệm rút ra từ quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn
giáo .............................................................................................................. 65
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nƣớc đối với
hoạt động tôn giáo ....................................................................................... 70
3.2.1 Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tôn giáo ... 70
3.2.2 Hoàn thiện bộ máy tổ chức làm công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo .................................................................................. 72
3.2.3 Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào có tôn giáo . 75
3.2.4 Đổi mới phương pháp quản lý tôn giáo ......................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Theo thống kê của Ban Tôn giáo
Chính phủ, hiện nay ở nƣớc ta có khoảng 13 tôn giáo đã đƣợc Nhà nƣớc cấp
đăng ký hoặc công nhận về tổ chức gồm có những tôn giáo nội sinh nhƣ đạo
Cao Đài, Phật giáo Hòa Hỏa, Tứ ân hiếu nghĩa… và những tôn giáo ngoại
nhập nhƣ Công giáo, Phật giáo, Islam giáo… Với số lƣợng tôn giáo đa dạng,
năm 2011, nƣớc ta có hơn 25 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm hơn ¼ dân số),
trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu ngƣời, Công giáo 6,1 triệu, Cao Đài 2,4
triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,2 triệu, Tin Lành 1,5 triệu và Islam giáo khoảng
100000 tín đồ. Với các tôn giáo đa dạng, số lƣợng tín đồ lớn trải rộng trên
phạm vi toàn quốc, hoạt động của các tôn giáo có tầm ảnh hƣởng không nhỏ
đến sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội - an ninh quốc phòng của đất nƣớc
cũng nhƣ của mỗi địa phƣơng, do vậy công tác quản lý đối với hoạt động tôn
giáo luôn đƣợc nhà nƣớc quan tâm thực hiện.
Từ Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 10 tháng 6 năm 1990 về Tăng
cƣờng công tác tôn giáo trong tình hình mới, Bộ Chính Trị đã xác định: tín
ngƣỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; đến Hiến
pháp năm 2013 (sửa đổi) của nƣớc CHXHCN Việt Nam (điều 24) cũng nhấn
mạnh, tự do tín ngƣỡng là quyền của con ngƣời, đƣợc Nhà nƣớc tôn trọng và
bảo hộ. Do đó, Nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn bản nhằm nâng cao hiệu quả
của quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo nhƣ Pháp lê ̣nh tín ngƣỡng tôn giáo (6/2004), Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết
về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo, Chỉ thị số 01/2005/CT-
TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành …cho
thấy Đảng và nhà nƣớc ta đã có nhiều thay đổi đáng kể trong hoạt động quản
lý nhà nƣớc đối với tôn giáo. Nƣớc ta đã có những quy định về việc tổ chức
3
nghi lễ tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo; việc công nhận tƣ cách pháp nhân của
các tôn giáo…. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến quản
lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo chƣa đƣợc giải quyết nhƣ: những hoạt
động truyền đạo trái phép đã và đang diễn ra ở một số nơi, tình hình khiếu
kiện đất đai, cơ sở thờ tự tôn giáo…Để giải quyết vấn đề này cần tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về hoạt
động tôn giáo.
Phú Thọ là một tỉnh miền núi thuộc khu vực Trung du miền núi Bắc
Bộ, là đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh miền núi phía Bắc với
toàn quốc. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm tỉ lệ
lớn nhất, sau đó đến các dân tộc Mƣờng, Tày, Nùng…Với vị trí địa lý quan
trọng và đặc điểm dân cƣ đa dạng, công tác quản lý nhà nƣớc tại tỉnh Phú
Thọ luôn đƣợc quan tâm; đặc biệt là công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo. Số lƣợng các tôn giáo hoạt động trên địa bàn Phú Thọ tƣơng
đối đa dạng nhƣng quy mô các tôn giáo không giống nhau, trong đó Phật
giáo và Công giáo là hai tôn giáo có số lƣợng tín đồ đông nhất, và có lịch sử
hình thành sớm nhất. Hoạt động của các tín đồ, chức sắc tôn giáo tại tỉnh
Phú Thọ về cơ bản đã chấp hành chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, pháp luật
của nhà nƣớc, chính sách của địa phƣơng, đóng góp vào sự phát triển chung
về kinh tế, xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những tôn giáo đƣợc nhà
nƣớc thừa nhận, tuân thủ pháp luật; trên địa bàn tỉnh cũng xuất hiện những
hiện tƣợng tôn giáo mới, những hoạt động lợi dụng tôn giáo để trục lợi,
chống chính quyền gây mất trật tự an ninh xã hội. Do đó, quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động tôn giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tỉnh.
Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay ” làm luận văn
thạc sỹ.
4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quản lý nhà nƣớc là chức năng cơ bản của nhà nƣớc; đƣợc thể hiện trên
nhiều phƣơng diện nhƣ kinh tế, văn hóa, du lịch…Sau khi ban hành nghị
quyết 24/NQ-TW năm 1990 về công tác tôn giáo, Đảng và nhà nƣớc nhận
định: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngƣỡng tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Do đó quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo trở thành một lĩnh vực quan trọng của quản lý nhà nƣớc. Với
vai trò và ảnh hƣởng đa chiều, quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo
trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều học giả, dƣới đây là những công
trình tiêu biểu:
Một là những công trình nghiên cứu về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo.
Năm 2001, Nguyễn Hữu Khiển viết cuốn Quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền
Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu đã làm rõ điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; sự ra đời, vận động và phát triển của tôn
giáo, các yếu tố cấu thành của tôn giáo. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Quan
điểm của Đảng CSVN về công tác tôn giáo và những nguyên tắc trong quản lí
nhà nƣớc đối với những hoạt động tôn giáo.
Năm 2005, Bùi Đức Luận chủ biên cuốn Quản lý hoạt động tôn giáo:
Cơ sở lý luận và thực tiễn. Công trình làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý
nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo ở nƣớc ta hiện nay; thực tiễn quản lý nhà
nƣớc đối với hoạt động tín ngƣỡng tôn giáo và quá trình xây dựng pháp lệnh
tín ngƣỡng tôn giáo
Năm 2009, Hoàng Quốc Bảo trong cuốn “Quản lý xã hội về tôn giáo”
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
của Đảng về quản lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở Việt Nam nhƣ đạo
5
Phật, đạo Công giáo, đạo Tin lành, đạo Hồi, đạo Cao đài, đạo Hoà Hảo. Các
nguyên tắc và phƣơng pháp quản lý xã hội về tôn giáo. Tổ chức và nội dung
quản lý xã hội về tôn giáo.
Năm 2012, Nguyễn Phú Lợi viết bài “Quan điểm, đường lối của Đảng
và chính sách của nhà nước về tôn giáo và công giáo : Những vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 3. Bài
viết đã trình bày một số vấn đề lý luận về tôn giáo và công giáo. Đánh giá
thực trạng việc thực hiện chính sách pháp luật về tôn giáo và công giáo ở Việt
Nam. Phân tích kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc thực hiện chính sách
đối với công giáo và bài học cho Việt Nam. Đề xuất giải pháp, kiến nghị
nhằm động viên tín độ công giáo thực hiện đƣờng hƣớng "Sống phúc âm giữa
lòng dân tộc".
Năm 2014, Luận án tiến sĩ Bùi Hữu Dƣợc, Quản lý nhà nước về tôn
giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Luận án trình bày cơ sở lý luận và
thực tiễn của quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở Việt Nam. Đánh giá, phân tích
thực trạng kết quả quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến
nay, đồng thời dự báo và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của
quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2015, Nguyễn Thanh Xuân chủ biên Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam: Sách kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Ban Tôn giáo Chính
phủ và ngày truyền thống ngành Quản lý nhà nƣớc về tôn giáo (1955-2015).
Công trình giới thiệu về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo
của Đảng, nhà nƣớc Việt Nam qua các thời kỳ.
Năm 2016, Hoàng Quốc Bảo chủ biên “Giáo trình quản lý xã hội về tôn
giáo” Giáo trình chỉ ra đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu quản lí xã hội
về tôn giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở
6
Việt Nam và nguyên tắc, phƣơng pháp, tổ chức, nội dung quản lí xã hội về
tôn giáo và công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo.
Năm 2016, Nguyễn Phú Lợi cuốn Chính sách, pháp luật về tôn giáo,
tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại : Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Công
trình gồm các bài nghiên cứu về cơ sở và thực tiễn của đƣờng lối, quan điểm
đổi mới về tôn giáo, tín ngƣỡng của Đảng Cộng sảnViệt Nam từ năm 1990
đến nay; đánh giá hiệu quả của chính sách tôn giáo, tín ngƣỡng trong thời kỳ
đổi mới đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống tôn giáo ở Việt Nam
nói riêng; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngƣỡng và tôn giáo trong thời gian tới.
Nghiên cứu trên báo tạp chí Trần Minh Thƣ viết“Quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan” đăng trên tạp chí Công
tác tôn giáo số 3 (2005); 2006. Hoàng Minh Đô “Quản lý nhà nước về tôn
giáo trong thời kỳ đổi mới” trên tạp chí Lịch sử Đảng số 8(2006)…
Bên cạnh đó có các tài liệu dùng trong các lớp bồi dƣỡng cán bộ làm
công tác tôn giáo các cấp. Các tài liệu này tìm hiểu công tác quản lý nhà nƣớc
đối với các hoạt động tôn giáo nhƣ: chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo; chủ chƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc về tôn giáo;
công tác quản lí nhà nƣớc đối với đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Tin Lành, Hồi
giáo, Phật giáo Hoà Hảo, đạo Cao Đài...
Hai là các công trình nghiên cứu quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động
tôn giáo của tỉnh Phú Thọ nổi bật có:
Năm 2005, Đề tài khoa học “Thực trạng hoạt động tôn giáo tỉnh Phú
Thọ; Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường quản lý trong tình
hình hiện nay” của Bùi Đức Nhẫn. Đề tài chỉ ra sự thay đổi tình hình tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trƣớc và sau khi ban hành Pháp lệnh Tín ngƣỡng
7
tôn giáo và đề ra một số giải pháp dựa trên tình hình tôn giáo tỉnh nhằm nâng
cao hiệu quả công tác tôn giáo.
Năm 2012, Nguyễn Văn Tiến nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ “Quan
điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước và thực hiện ở tỉnh Phú Thọ
hiện nay”; đề tài tập trung làm rõ những đặc trƣng trong chính sách của nhà
nƣớc đối với việc phát triển các tôn giáo, tín ngƣỡng trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ.
Năm 2013, luận văn thạc sĩ của Trần Mạnh Quang về “Quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động của đạo Thiên chúa trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ trong tình hình hiện nay”. Đề tài tập trung phân tích, làm rõ
hoạt động của đạo Công giáo tại tỉnh Phú Thọ có liên quan đến công tác quản
lý nhà nƣớc về an ninh trật tự và đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về an
ninh trật tự của Công an tỉnh Phú Thọ đối với hoạt động của đạo Công giáo
trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các đề tài trên chƣa nêu lên đƣợc vai trò quản lý
nhà nƣớc của UBND tỉnh, cụ thể là Ban Tôn giáo tỉnh đối với hoạt động tôn
giáo
Nhƣ vậy, từ khi ban hành Pháp lệnh Tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004,
một số tác giả đã nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và quản lý tôn giáo tại tỉnh
Phú Thọ. Tuy nhiên các nghiên cứu này tập trung nhiều vào miêu tả thực
trạng tôn giáo hoặc các vấn đề về an ninh trật tự đối với các tôn giáo hoạt
động trên địa bàn tỉnh; chƣa có nghiên cứu tìm hiểu về sự quản lý của nhà
nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Tìm hiểu những thành tựu, hạn chế của công tác quản lý nhà nƣớc đối
với hoạt động tôn giáo tại tỉnh Phú Thọ, chỉ ra nguyên nhân của những thành
8
tựu và hạn chế; từ đó đƣa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý nhà nƣớc trong thời gian tới.
* Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cƣ́ u: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
sau:
Một là, làm rõ các khái niệm về quản lý nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động tôn giáo
Hai là, phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ và những vấn đề đặt ra
Ba là, rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo; quan điểm,
đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về vấn đề dân tộc tôn
giáo; đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình hình quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ
Để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, đề
tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:phƣơng pháp lịch sử
cụ thể; phƣơng pháp nghiên cứu tôn giáo học nhƣ xuất phát từ cấu trúc chúc,
năng tôn giáo; phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp thống kê, so
sánh….Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành nhƣ: phƣơng pháp nhân học tôn giáo,
phƣơng pháp sử học…
9
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Do quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo đƣợc thực hiện bởi hệ
thống các cơ quan nhà nƣớc bao gồm nhiều cá nhân, tổ chức. Cho nên, để làm
rõ quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ, tôi xác định
đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý tôn giáo của Ban Tôn
giáo tỉnh Phú Thọ trực thuộc Sở Nội vụ Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Phú
Thọ.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Phú Tho ̣. Về thời gian: đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ sau
khi Chính phủ ban hành Pháp lệnh về tín ngƣỡng tôn giáo (từ năm 2004 đến
nay)
6. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận
- Về thực tiễn, luận văn sẽ góp phần tổng kết thực tiễn công tác quản
lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo của tỉnh Phú Thọ, xây dựng giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo tại tỉnh trong thời
gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc sử dụng phục vụ
nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động tôn giáo.
7. Kết cấu luâ ̣n văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chƣơng và 6 tiết
10
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH
TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
1.1 Nhận thức chung về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo
1.1.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề quan trọng
luôn đƣợc ƣu tiên trong hoạt động quản lý của nhà nƣớc. Để hiểu rõ hơn về
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trƣớc hết ta cần hiểu về các khái
niệm quản lý, quản lý nhà nƣớc và hoạt động tôn giáo.
“Quản lý” nhiều tác giả đã đƣa ra các định nghĩa khác nhau về quản lý
dựa theo mục tiêu và góc độ nghiên cứu. Có quan điểm coi quản lý là quá
trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra những nỗ
lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác
nhau của tổ chức để đạt đƣợc mục tiêu đã định trƣớc. Cũng có quan điểm cho
rằng quản lý là sự tác động định hƣớng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm
trật tự hoá nó và hƣớng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định.
Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ quản lý đều đƣợc các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý thống nhất ở hai nội dung: thứ nhất, quản lý
là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý đến đối
tƣợng quản lý. Thứ hai, mục tiêu là nhằm làm cho đối tƣợng quản lý hoạt
động vận hành phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trƣớc. Nhƣ
vậy, quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên
đối tƣợng quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu đặt ra từ trƣớc.
“Quản lý nhà nước” là hoạt động quản lý xã hội của nhà nƣớc; trong
đó quản lý xã hội đƣợc hiểu là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển,
hƣớng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngƣời phù hợp
với ý chí của chủ thể quản lý và quy luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều
11
chủ thể tiến hành; khi nhà nƣớc xuất hiện, những công việc quản lý xã hội
quan trọng nhất do nhà nƣớc đảm nhiệm. Quản lý nhà nƣớc là một chức năng
cơ bản của nhà nƣớc, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của nhà
nƣớc, đồng thời quyết định sự hƣng thịnh, ổn định hay rối ren, thụt lùi, thậm
chí suy vong của một quốc gia, dân tộc. Thuật ngữ quản lý nhà nƣớc thƣờng
đƣợc tiếp cận theo hai góc độ: nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý
xã hội của Nhà nƣớc, sử dụng quyền lực Nhà nƣớc để điều chỉnh các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngƣời do tất cả các cơ quan Nhà
nƣớc (Lập pháp, Hành pháp, Tƣ pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng
của Nhà nƣớc đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là dạng quản
lý xã hội mang quyền lực Nhà nƣớc với chức năng chấp hành pháp luật và tổ
chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp).
Tôn giáo là một hiện tƣợng lịch sử, xã hội đã xuất hiện từ rất lâu và có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khi nghiên cứu về nguồn gốc của tôn giáo, C.Mác
đã chỉ ra rằng: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa
tìm thấy bản thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa… Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không
có tinh thần; tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[15;569-570]. Còn trong
tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăngghen đã đƣa ra khái niệm về tôn giáo
“Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con
người, của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ,
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình thức
những lực lượng siêu nhiên trần thế”[14;473]. Qua nhận định này có thể thấy,
tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con ngƣời. Nói cách
khác, tôn giáo là sự phản ánh xã hội vào ý thức con ngƣời. Vì vậy, tôn giáo là
12
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Song sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lý tính, hoang đƣờng để giải thích
hoặc chi phối hiện thực. Tôn giáo là sản phẩm của con ngƣời, nhƣng không
phải con ngƣời cá nhân, riêng lẻ mà là con ngƣời xã hội (hay xã hội con
ngƣời), do đó tôn giáo là một hiện tƣợng xã hội. Xét về mặt bản chất, tôn giáo
là một hiện tƣợng xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trƣớc những đau khổ,
bất hạnh của con ngƣời, vừa biểu thị sự bất lực của con ngƣời trƣớc sức mạnh
của tự nhiên và xã hội. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin và tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, Đảng nhận định tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Quan điểm này là cơ sở cho việc
quản lý, xem xét, giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nƣớc ta hiện nay, đòi hỏi
chúng ta phải có thái độ bình tĩnh, khách quan trong khi xem xét, giải quyết
các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo; đảm bảo cho các tôn giáo ở Việt
Nam sinh hoạt một cách bình thƣờng, tuân thủ pháp luật, đồng hành với dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tại Điều 24, Chƣơng II, Hiến pháp 2013 quy định:
"1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng
và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp
luật"[21;6]. Nhƣ vậy, tôn giáo, tín ngƣỡng đã trở thành quyền cơ bản của mọi
ngƣời dân Việt Nam; là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc
nhà nƣớc và pháp luật tôn trọng, bảo hộ.
Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở
nƣớc ta chƣa có văn bản nào định nghĩa cụ thể về khái niệm này. Mặc dù việc
giải thích khái niệm khá phức tạp, thậm chí khó có thể thống nhất, nhƣng khi
nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh bao gồm các dấu hiệu cơ bản sau: là đại diện
13
cho một cộng đồng ngƣời có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí;
có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống
cơ sở khá chặt chẽ.
Hoạt động tôn giáo là “ việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[61;2]. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn
gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của
tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ đƣợc
củng cố, luật lệ trong tôn giáo đƣợc tín đồ thực hiện. Thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự
tuân thủ pháp luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của
cộng đồng tín đồ. Hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo là thực hiện quy
định của giáo luật, thực hiện hiến chƣơng, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm
bảo duy trì trật tự trong tổ chức tôn giáo. Trong các hoạt động này, việc phân
biệt hoạt động truyền bá giáo lý giáo luật và hoạt động thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi chỉ mang tính tƣơng đối.
Từ các khái niệm đã trình bày ở phần trên, ta có thể đƣa ra khái niệm
về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo theo hai nghĩa. Nghĩa rộng: là
quá trình dùng quyền lực nhà nƣớc (quyền Lập pháp, Hành pháp, Tƣ pháp)
của các cơ quan Nhà nƣớc theo quy định của pháp luật để tác động, điều
chỉnh, hƣớng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt đƣợc mục tiêu cụ
thể của chủ thể quản lý. Nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất
nhà nƣớc; là chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc; là quá trình chấp hành pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp
để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó
là sự quản lý của nhà nƣớc đối với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong
14
việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ
tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của các tôn giáo. Từ đây, thuật ngữ
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo sử dụng trong luận văn đƣợc
hiểu theo nghĩa hẹp của thuật ngữ này. Nhƣ vậy, khi nhắc đến quản lý nhà
nƣớc đối với hoạt động tôn giáo là nói đến sự quản lý của các cơ quan hành
pháp đối với hoạt động tôn giáo.
1.1.2 Khách thể và chủ thể của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều
hành, điều chỉnh của các cơ quan hành pháp để các hoạt động tôn giáo diễn ra
theo đúng quy định của pháp luật. Với cách hiểu nhƣ vậy, quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động tôn giáo bao gồm các yếu tố: đối tƣợng quản lý (khách thể
quản lý), chủ thể quản lý.
Trƣớc hết, đối tƣợng của quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo
bao gồm hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc,
nhà tu hành và các cơ sở vật chất phục vụ hoạt động sinh hoạt tôn giáo nhƣ cơ
sở tôn giáo, các đồ dùng phục vụ hoạt động tôn giáo.
Tín đồ tôn giáo là “người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn
giáo thừa nhận”[61;3]. Tín đồ của các tôn giáo có sự thống nhất trên hai mặt:
công dân và tín đồ. Về mặt công dân, họ bình đẳng trƣớc pháp luật về quyền
lợi và nghĩa vụ nhƣ các công dân không tôn giáo (thể hiện trong Hiến pháp).
Về mặt tín đồ, là ngƣời có tín ngƣỡng tôn giáo (có niềm tin và tình cảm tôn
giáo ở mức độ khác nhau); có quyền lợi và nghĩa vụ do tổ chức tôn giáo quy
định (thể hiện trong giáo lý. Mặt công dân và mặt tín đồ thống nhất trong con
ngƣời tín đồ tôn giáo; nhƣng không đồng nhất với nhau (mặt công dân là số
một, mặt tín đồ là số hai).
Nhà tu hành là “tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo”[61;3]
15
Chức sắc là “tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo”[61;3]. Các
chức sắc tôn giáo có sự thống nhất ba mặt: công dân, hành đạo và đại diện. Về
mặt công dân, là ngƣời chuyên việc đạo, bình đẳng trƣớc pháp luật về nghĩa
vụ và quyền lợi nhƣ các công dân khác. Mặt hành đạo, đƣợc Giáo hội đào tạo,
tấn phong, bổ nhiệm giữ các phẩm trật khác nhau trong chức vị thánh và chức
vị phẩm quyền (tùy theo từng tôn giáo). Chức sắc tôn giáo có uy quyền khác
nhau tùy theo phẩm trật, năng lực hành đạo. Mặt đại diện, ở những mức độ
khác nhau cho tổ chức giáo hội trong mối quan hệ đối nội và trong quan hệ
đạo – xã hội. Ba mặt nói trên thống nhất trong con ngƣời chức sắc tôn giáo
nhƣng không đồng nhất; mặt công dân là số một, các mặt khác là số hai, đặc
biệt là mặt hành đạo. Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của chức sắc tôn
giáo đƣợc quy định trong Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004. Tại
Điều 2 Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo nêu rõ: “Chức sắc, nhà tu hành và
công dân có tín ngưỡng, tôn giáo được hưởng mọi quyền công dân và có
trách nhiệm thực hiện quyền nghĩa vụ công dân. Chức sắc, nhà tu hành
có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật”[61;1]
Sinh hoạt tôn giáo, lễ nghi tôn giáo: có hai đặc điểm chính. Về chủ thể:
có thể do các thể nhân tôn giáo thực hiện đơn lẻ (nhƣ: đọc kinh, cầu
nguyện…) và có thể do các pháp nhân tôn giáo thực hiện (nhƣ: Ban hành
giáo, hộ tự, Ban chấp sự, Hội đồng tinh thần…). Về diễn biến: thực hiện theo
lề luật và lễ nghi nhất định, ví dụ: lễ thƣờng, lễ trọng, các phép bí tích, các
khóa hạ, giới đàn…Lề luật và lễ nghi thƣờng chứa đựng trong văn tự (hiện
hữu trong ngôn ngữ văn tự) và đƣợc thể hiện thành các hành vi có thể đo
đếm(định lƣợng và định tính) thông qua các sinh hoạt tôn giáo cụ thể: lễ hôn
phối, lễ cầu siêu, lễ tấn phong…
16
Cơ sở tôn giáo là “ nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt
động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo
được Nhà nước công nhận”[61;2]. Cơ sở tôn giáo có sự thống nhất giữa bốn
mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt cộng đồng. Mặt vật chất, đó là
những địa điểm đƣợc xây dựng bằng vật liệu khác nhau, theo những mô hình
kiến trúc khác nhau, thể hiện niềm tin của từng tôn giáo. Mặt tôn nghiêm, là
nơi bái vọng, ngƣỡng mộ, biểu hiện tình cảm và đức tin tôn giáo, nơi diễn ra
những nghi lễ tôn giáo quan trọng. Mặt trụ sở, là nơi diễn ra hoạt động hành
chính của đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi
sinh hoạt các hội đoàn tôn giáo…Trong các mặt trên, tôn nghiêm là mặt chi
phối.
Đồ dùng việc đạo bao gồm: kinh, sách, tƣợng, bài vị, tranh ảnh, cờ
trống…; trong đó mỗi đồ dùng có vai trò, vị trí khác nhau tùy theo lễ nghi của
từng tôn giáo. Đồ dùng việc đạo có chung một đặc điểm là sự thống nhất và
đồng nhất giữa tính vật chất và tính biểu đạt. Mặt vật chất, các đồ dùng đƣợc
tạo nên bởi các chất liệu khác nhau dƣới dạng vật chất cụ thể. Mặt biểu đạt,
mỗi đồ dùng biểu đạt một nội dung nào đó và cái đƣợc biểu đạt chỉ đƣợc hiện
hữu khi đồ dùng đƣợc sử dụng vào một nội hoạt động tôn giáo cụ thể theo
một lễ nghi nào đó. Trong các đồ dùng việc đạo thì kinh sách, tƣợng, bài vị là
quan trọng nhất.
Cơ sở vật chất khác: nhƣ khuôn viên (tạo nên cảnh quan kiến trúc văn
hoá môi trƣờng), ruộng, đất, nhà chung, trƣờng học, cơ sở từ thiện,... những
cơ sở vật chất kỹ thuật này có hai mặt cơ bản. Một mặt là tài sản của giáo hội,
là nơi diễn ra các hoạt động của tổ chức tôn giáo, của giáo hội cơ sở... Một
mặt đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ bằng cách cấp các văn bản mang giá trị pháp lý,
đƣợc giáo hội giao trách nhiệm quản lý hay giao quyền sử dụng các cơ sở
thuộc quyền sở hữu của giáo hội.
17
Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo đƣợc thực hiện bởi cơ
quan quản lý nhà nƣớc các cấp nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng tín
ngƣỡng, tôn giáo để đạt mục đích của chủ thể cầm quyền đặt ra. Khi hiểu
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo là sự quản lý của các cơ quan
hành pháp đối với hoạt động tôn giáo thì chủ thể của quản lý nhà nƣớc đối với
hoạt động tôn giáo chỉ bao gồm các cơ quan nhà nƣớc thuộc hệ thống hành
pháp (Chính phủ: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp).
Trong đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về hoạt động tôn
giáo, toàn quyền quyết định các vấn đề có liên quan trên phạm vi cả nƣớc.
Chính phủ sử dụng quyền hành pháp để thi hành pháp luật và chấp hành
các Nghị quyết của Quốc hội, đồng thời chủ động tham gia quá trình lập
pháp về các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; sử dụng quyền lập quy để ra
các văn bản dƣới luật để thực hiện và thống nhất quản lý nhà nƣớc về các
hoạt động tôn giáo. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động quản lý nhà nƣớc về hoạt động
tôn giáo trong phạm vi ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Uỷ
ban nhân dân là cơ quan hành chính ở địa phƣơng có trách nhiệm chấp
hành pháp luật và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp
trên, chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và ra các quyết định,
chỉ thị về lĩnh vực tôn giáo của địa phƣơng, nói cách khác trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn
giáo tại địa phƣơng.
18
Mô hình quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo đƣợc thể hiện cụ
thể qua sơ đồ sau
Sơ đồ 1.1: Hệ thống tổ chức quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn
giáo
Cấp Quản lý Cơ quan giúp việc
Ban tôn giáo của Chính Trung ƣơng Thủ tƣớng phủ
Ban tôn giáo thuộc Sở Tỉnh Phó Chủ tịch Nội vụ
Huyện, thành phố Phó Chủ tịch Phòng Tôn giáo
Xã, phƣờng Ủy ban nhân dân Cán bộ tôn giáo
Điểm nổi bật của sơ đồ này là đã chỉ ra hệ thống và tính thống nhất của bộ
máy quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo. Quan hệ giữa bốn cấp từ
trung ƣơng đến địa phƣơng trong hoạt động điều hành chung của Nhà nƣớc
dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi cấp vừa có quyền hạn riêng vừa chịu sự tác
động của các cấp trong hệ thống theo chiều dọc. Nếu một khâu nào đó của
một cấp bị trục trặc thì sự điều hành của các cấp còn lại sẽ gặp trắc trở.
Trong hệ thống các cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ
thuộc Bộ Nội vụ có chức năng chính là quản lý nhà nƣớc về hoạt động tôn
giáo trong phạm vi cả nƣớc, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác
tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
19
Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng là cơ quan chuyên
môn thuộc Sở Nội Vụ - Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm trƣớc Ủy ban
nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về các hoạt động tôn giáo
theo pháp luật của Nhà nƣớc trong phạm vi địa phƣơng. Ban Tôn giáo chịu sự
chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời
chịu sự hƣớng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ
trực thuộc Bộ Nội vụ.
Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo là
cơ quan chuyên môn, tham mƣu, giúp Uỷ ban nhân dân huyện quản lý nhà
nƣớc về lĩnh vực công tác tôn giáo trên địa bàn huyện, thành phố. Phòng Tôn
giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, hƣớng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tôn giáo tỉnh
hoặc Sở có chức năng quản lý công tác tôn giáo.
Do năng lực nghiên cứu còn hạn chế, luận văn xin tập trung nghiên cứu
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo của cơ quan quản lý hoạt động
tôn giáo cấp tỉnh; cụ thể là Ban tôn giáo tỉnh Phú Thọ.
1.1.3 Mục tiêu, nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
* Mục tiêu quản lý nhà nƣớc về hoạt động tôn giáo
Mục tiêu tổng quát: góp phần xây dựng các giá trị văn hóa và chuẩn
mực xã hội, tạo nên những mối quan hệ lành mạnh.
Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất, quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trƣớc hết phải
bảo đảm đƣợc quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho
các hoạt động tôn giáo đƣợc diễn ra bình thƣờng theo đúng quy định của pháp
luật Nhà nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tự do tín ngƣỡng
là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời. Tại Đại hội Đại biểu toàn
20
quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng đã nhận đinh: tín ngƣỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.“Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”[30;46]
Thứ hai, quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy
đƣợc những mặt tích cực của tôn giáo nhƣ tính hƣớng thiện, từ bi; khắc phục
đƣợc những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội.
Nhà nƣớc tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng Nhà
nƣớc giải quyết những vấn đề của xã hội. Mặt khác, nhà nƣớc phải luôn tăng
cƣờng cảnh giác đề phòng những âm mƣu lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo
chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quản lý nhà nƣớc về hoạt
động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần tuý với hành vi
lợi dụng hoạt động tôn giáo để đề ra những biện pháp quản lý phù hợp.
Thứ ba, quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện
đƣợc mục tiêu đoàn kết đồng bào có tín ngƣỡng, tôn giáo và đồng bào không
có tín ngƣỡng, tôn giáo, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết đồng bào có tôn giáo và không có tôn giáo luôn là ƣu tiên hàng đầu
của Đảng.
Thứ tư, quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự
tăng cƣờng vai trò của Nhà nƣớc trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn
giáo, góp phần phát triển văn hóa, khoa học. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo là
một bộ phận của xã hội, đƣợc nhà nƣớc quản lý. Mọi hoạt động tôn giáo phải
tuân theo quy định của Nhà nƣớc; các hành vi khiến tổ chức tôn giáo chống
lại sự quản lý của nhà nƣớc là bất hợp pháp và bị xử lý theo quy định của
pháp luật.
21
* Nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích
bảo đảm cho hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật, vì lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi
ích của các Giáo hội.
Quản lý nhà nƣớc về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính
sau:
Một là, nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân đƣợc bình đẳng trƣớc
Hiến pháp và pháp luật . Nguyên tắc này đƣợc thể hiện tại Điều 52 của Hiến
pháp 1992. Đây là nguyên tắc thể chế dân chủ trong hoạt động của Nhà nƣớc
ta. Nội dung của nguyên tắc này đƣợc hiểu: Nhà nƣớc đảm bảo quyền tự do
tôn giáo hay không tôn giáo của công dân và công dân (dù là tín đồ tôn giáo
hay không phải là tín đồ tôn giáo) bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc hƣởng
quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Từ cơ sở này, tín đồ
đƣợc tự do hành đạo trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ công dân.
Hai là, nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo và tự do
không tín ngƣỡng tôn giáo của công dân. Tất cả công dân Việt Nam dù là
ngƣời có tôn giáo hay không có tôn giáo, hoặc giữa tín đồ của các tôn giáo
khác nhau đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trƣớc pháp luật. Nguyên
tắc này tạo cơ sở pháp lý của việc theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó
của công dân. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của con ngƣời, không cá
nhân hoặc tổ chức nào có quyền áp đặt hoặc tƣớc bỏ nhu cầu đó. Sự tự do tín
ngƣỡng tôn giáo thể hiện sự tự nguyện của cá nhân hƣớng tới hoặc phản đối
một Đấng tối cao nào đó. Tuy nhiên quyền tự do tín ngƣỡng luôn phải đƣợc
đặt trong khuôn khổ của luật pháp, của sự quản lý của nhà nƣớc nhằm đảm
bảo không có bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng quyền này để phá hoại
22
hòa bình, độc lập, thống nhất đất nƣớc, kích động bạo lực, chia rẽ dân tộc, gây
rối trật tự công cộng…
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn
giá trị văn hoá. Niềm tin tôn giáo đƣợc thể hiện thông qua sinh hoạt vật chất
của con ngƣời: lễ nghi, trang phục…; đƣợc thể hiện thông qua các công trình
kiến trúc, kinh sách…Những dạng vật chất của tôn giáo đồng thời cũng là sản
phẩm của văn hóa. Các giá trị này trải qua giai đoạn phát triển, dần kết hợp,
hòa quyện với các truyền thống dân tộc. Sự tồn tại của tôn giáo là động lực
cho sự phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những
giá trị văn hoá đích thực vẫn còn những hiện tƣợng phản văn hoá có trong tôn
giáo, những hủ tục, mê tín dị đoan… Do đó sự quản lý của nhà nƣớc đối với
hoạt động tôn giáo phải vừa giữ gìn đƣợc bản sắc văn hoá dân tộc, vừa loại
bỏ dần những hiện tƣợng phản văn hoá trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hoà lợi ích cá nhân –
cộng đồng và lợi ích quốc gia, xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tôn
giáo của họ đƣợc nhà nƣớc coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ thực hiện
những hành vi tôn giáo của mình. Nhƣng ở vào một thời điểm nào đó đứng
trƣớc nhiều nhu cầu khác đòi hỏi tín đồ phải giải quyết hài hoà, thoả đáng
giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã hội. Thực hiện
nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt các xung đột, mâu thuẫn xuất hiện
giữa các chủ thể nói trên.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp
của tín đồ phải đƣợc đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ
quốc và của nhân dân đƣợc khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do
tín ngƣỡng, tôn giáo, lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nƣớc
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân,
phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm phƣơng hại đến nền văn hoá lành
23
mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm
theo luật định.
1.2 Tình hình tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
1.2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội – văn hóa
Phú Thọ là một tỉnh miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong khu vực
giao lƣu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 80 km về phía Bắc. Có diện tích tự nhiên là 3.532,5 km2 (chiếm 1,2%
diện tích cả nƣớc, chiếm 5,4% diện tích vùng miền núi phía Bắc), dân số là
1.313.926 ngƣời (chiếm 1,5% dân số cả nƣớc); có 13 huyện, thành phố, thị xã
(thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, 11 huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên
Lập, Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Hạ Hòa, Thanh Ba, Đoan Hùng,
Lâm Thao, Phù Ninh), thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị - kinh tế - văn
hóa của tỉnh; có 277 đơn vị hành chính cấp xã; có trên 30 dân tộc anh em sinh
sống, trong đó , trong đó chủ yếu là ngƣời Kinh, Mƣờng, Dao, Cao Lan và
ngƣời H‟Mông.[1;1]
Tỉnh Phú Thọ đƣợc coi là vùng Đất tổ cội nguồn của Việt Nam. Từ khi
vua Hùng dựng nƣớc Văn Lang cho đến ngày nay, địa bàn Phú Thọ đã trải
qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính.
Năm 1962, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập thành phố Việt
Trì thuộc tỉnh Phú Thọ. Năm 1968, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội ra Nghị quyết
hợp nhất 02 tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú, lấy thành phố
Việt Trì làm tỉnh lỵ. Ngày 06/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã
thông qua Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú, tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Tỉnh Phú Thọ chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997.
Về địa hình, khu vực đƣợc chia thành hai vùng: thứ nhất là vùng núi
cao phía tây và phía nam, chủ yếu thuộc địa phận tỉnh Thanh Sơn, Yên Lập,
Cẩm Khê. Vùng thứ hai là vùng đồi gò thấp xen kẽ đồng ruộng, dải đồng
24
bằng ven sông.
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23độC, lƣợng mƣa trung bình trong năm
khoảng 1600 đến 1800mm, độ ẩm trung bình lớn, khoảng 85%-87%
Phú Thọ có địa thế khá thuận lợi về giao thông, vị trí “ngã ba sông”
cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, với ba con sông lớn là sông Hồng,
sông Lô, sông Đà chảy qua, hệ thống giao thông đƣờng sắt Hà Nội - Lào Cai
- Côn Minh; có quốc lộ 2, đƣờng cao tốc xuyên Á là cầu nối quan trọng
trong giao lƣu kinh tế giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nƣớc ASEAN.
Ngoài ra, Phú Thọ còn có các yếu tố khác để phát triển kinh tế - xã hội nhƣ
con ngƣời, tài nguyên, các khu công nghiệp, khu du lịch văn hoá lịch sử Đền
Hùng, khu du lịch sinh thái Xuân Sơn...
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh Phú
Thọ đã có những chuyển biến tích cực
Theo Báo cáo tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm 2016,Tổng sản phẩm
trong nƣớc (GDP) tăng 5,52%, trong đó khu vực dịch vụ tăng 6,35%; công
nghiệp chế biến chế tạo tăng 10,1%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng tăng 9,5%. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu
năm ƣớc tính tăng 7,21% so với cùng kỳ năm trƣớc, trong đó; khu vực nông
lâm thủy sản tăng 3,84%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,37%, khu
vực dịch vụ tăng 5,81%. Tình hình thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
trên địa bàn tỉnh (tính đến hết tháng 5/2016) có dấu hiệu khởi sắc: thu hút
đƣợc 5 dự án mới với tổng số vốn đăng ký 31 triệu USD; có 5 dự án tăng vốn
với mức tăng 25.17 triệu USD[57;1]. Tỉnh đã hoàn thành nhiều công trình
phục vụ phát triển kinh tế và văn hóa nhƣ: đƣờng giao thông, hệ thống thủy
lợi, trƣờng học, trạm y tế…
Về dân số, Phú Thọ là tỉnh miền núi với 34 dân tộc, dân số hơn 1,3
25
triệu ngƣời, trong đó dân số miền núi gần 962.000 ngƣời (chiếm 74% dân số
toàn tỉnh), riêng dân tộc thiểu số gần 213.000 ngƣời (chiếm 21% dân số miền
núi và chiếm 16% dân số toàn tỉnh) [1;1].
Về văn hóa, Phú Thọ có nền văn hóa lâu đời với các di tích khảo cổ của
nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đậu Đồng, Đông Sơn và nhiều đình,
chùa lăng tẩm. Theo số liệu thống kê năm 2015 của Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Phú Thọ, tỉnh hiện có 1.372 di tích lịch sử văn hóa, trong đó, 302
di tích đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng (73 di tích quốc gia, 228 di tích cấp tỉnh), 02
bảo vật quốc gia. Các di tích khảo cổ thời tiền sử và sơ sử với mật độ dày đặc
trên địa bàn nhƣ các di tích khảo cổ lớn Sơn Vi, Phùng Nguyên, Gò Mun,
Làng Cả. Đặc biệt, tỉnh có khu di tích lịch sử Đền Hùng, đƣợc coi là nơi thờ
các vua Hùng – ngƣời có công dựng nên nhà nƣớc Văn Lang, nhà nƣớc đầu
tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đƣợc xếp hạng là di tích quốc gia đặc
biệt. Đây là lợi thế đặc biệt của vùng để phát triển du lịch lễ hội. Năm 2011,
nghệ thuật Hát Xoan Phú Thọ đã đƣợc Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn
hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Bên cạnh đó, tỉnh có nhiều lễ hội đƣợc tổ
chức hàng năm với các hình thức phong phú, đa dạng, đậm bản sắc dân tộc: lễ
hội phết Hiền Quang (Tam Nông), hội bơi chải Bạch Hạc (Việt Trì), hội rƣớc
voi Đào Xá (Thanh Thủy), hội ném còn, bắn nỏ, cồng chiêng của các đồng
bào dân tộc Mƣờng (Yên Lập)….
Về xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng đƣợc nâng cao. Thu nhập
bình quân/ngƣời/tháng ƣớc tính đạt trên 4 triệu đồng. Toàn tỉnh hiện có 314
trƣờng mầm non, 299 trƣờng tiểu học, 259 trƣờng THCS và trƣờng có cấp
THCS, 45 trƣờng THPT. Tính đến nay đã có 166/314 trƣờng mầm non đạt
chuẩn Quốc gia, có 135/259 trƣờng THCS đạt chuẩn và 20/45 trƣờng THPT
đạt chuẩn[66;2]
26
Với mức tăng trƣởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 9%, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; các lĩnh vực
văn hoá, y tế, giáo dục và công tác xã hội đã có những tiến bộ đáng kể; điều
kiện và mức sống của nhân dân trong tỉnh đƣợc nâng cao rõ rệt, bƣớc đầu tạo
diện mạo mới về kinh tế - xã hội, đƣa Phú Thọ cùng cả nƣớc trong quá trình
phát triển và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế.
1.2.2 Tình hình, đặc điểm tôn giáo tỉnh Phú Thọ
* Tình hình tôn giáo của tỉnh Phú Thọ
Tỉnh Phú Thọ có 02 tôn giáo chính là Phật giáo và đạo Công giáo với
trên 184.978 tín đồ chiếm 13,9% dân số toàn tỉnh, ngoài ra còn có một số
hệ phái Tin Lành, tôn giáo Baha‟i và các hiện tƣợng tôn giáo (nhƣ Long
Hoa Di Lặc, Đoàn 18 Phú Thọ, Quang Minh, Cửu trùng thiên, Pháp Luân
công...).
Công giáo:
Công giáo đƣợc du nhập vào địa bàn tỉnh Phú Thọ khá sớm, vào những
năm đầu của thế kỷ XVII, do linh mục ngƣời Pháp là Alexandre de Rhodes và
các linh mục khác của Hội Thừa sai Paris truyền giáo cùng với quá du nhập
đạo Công giáo vào Việt Nam.
Năm 2003, Công giáo có 112.943 tín đồ, chiếm 8,68% dân số; có 12
linh mục thƣờng trú và làm mục vụ; trong đó, có 18 chủng sinh học các Đại
chủng viện; có 2 nhà Dòng Mến Thánh giá với 12 tu sỹ; gần 500 chức việc và
hàng chục các tổ chức hội đoàn thu hút hàng ngàn tín đồ tham gia. Về tổ chức
giáo hội: trên địa bàn tỉnh có 19 giáo xứ và phiên xứ với 117 họ giáo thuộc 2
giáo phận Hƣng Hóa và Bắc Ninh (giáo phận Bắc Ninh có 1 giáo xứ (Vân
Cƣơng) gồm 2 họ giáo: Vân Cƣơng và Vân Tập thuộc xã Hữu Đô, huyện
Đoan Hùng; họ giáo Bạch Hạc thuộc phƣờng Bạch Hạc, thành phố Việt Trì).
Cơ sở thờ tự có 115 nhà thờ, nhà nguyện[56;1]
27
Hiện nay, đạo có 127.193 tín đồ, chiếm 9,18% dân số tỉnh; có 27 linh
mục thƣờng trú và làm mục vụ; 05 linh mục, 03 tu sinh đang đi đào tạo tại
nƣớc ngoài, 53 chủng sinh các khoá đang học tại các Đại chủng viện; 1080
chức việc, có 3 nhà Dòng Mến Thánh giá với 18 tu sỹ. Về tổ chức giáo hội:
trên địa bàn tỉnh có 31 giáo xứ với 138 họ giáo thuộc 2 giáo phận Hƣng Hóa
và Bắc Ninh (giáo phận Bắc Ninh có 1 giáo xứ Vân Cƣơng, gồm 2 họ giáo:
Vân Cƣơng và Vân Tập; họ giáo Bạch Hạc thuộc giáo xứ Hoà Loan) và trên
20 loại tổ chức hội đoàn tôn giáo thu hút hàng chục ngàn tín đồ tham gia. Cơ
sở thờ tự có 125 nhà thờ, nhà nguyện[56;4]
Đại đa số ngƣời Công giáo Phú Thọ là ngƣời nông dân, một số rất ít
làm nghề buôn bán nhỏ và sản xuất tiểu thủ công nghiệp, có truyền thống
chăm chỉ, làm ăn lƣơng thiện, kính Chúa, yêu nƣớc ngày càng gắn bó với dân
tộc. Trong 2 cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, đồng bào theo đạo Công
giáo đã tích cực tham gia, đóng góp nhân tài, vật lực, xƣơng máu cùng cả dân
tộc chống xâm lƣợc. Hiện Phú Thọ có 4 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2767 gia
đình bệnh binh, thƣơng binh, liệt sỹ, 2633 đối tƣợng hƣởng trợ cấp có công
với nƣớc là ngƣời Công giáo, ghi dấu ấn sâu sắc của ngƣời Công giáo tỉnh
Phú Thọ vào sự nghiệp giải phóng dân tộc qua các thời kỳ cách mạng
Phật giáo
Phật giáo đƣợc truyền vào nƣớc ta từ rất sớm với trung tâm Phật giáo
đầu tiên tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Phú Thọ nằm gần với Luy
Lâu nên ngay từ những năm đầu Công nguyên, Phật giáo đã đƣợc truyền vào
các khu dân cƣ dọc bờ sông Lô và sông Hồng cùng với quá trình phát triển
chung của đạo Phật ở Việt Nam.
Năm 2003, Phật giáo có 32.570 phật tử chiếm 2,5 % dân số, sinh hoạt
tôn giáo tại 195 ngôi chùa, có 08 sƣ (trong đó, có 01 sƣ tăng và 07 sƣ ni) . Về
tổ chức, Ban trị sự Phật giáo tỉnh đƣợc thành lập và hoạt động qua 2 nhiệm kỳ
28
với 21 thành viên tham gia; có 10/12 huyện, thành, thị thành lập Ban Đại diện
Phật giáo (huyện Thanh Sơn và Tam Nông chƣa thành lập Ban Đại diện). Tại
các địa phƣơng đã thành lập đƣợc 169 Đại diện Phật giáo tại các xã, phƣờng,
thị trấn. Có 187 Ban Hộ tự chùa với 836 ngƣời tham gia[56;1].
Hiện nay, đạo có 74.450 phật tử chiếm 5,37% dân số, sinh hoạt tôn giáo
tại 308 ngôi chùa, có 122 sƣ; trong đó, có 70 sƣ tăng và 52 sƣ ni. Về tổ chức,
Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh đƣợc thành lập và hoạt động qua 3
nhiệm kỳ; hiện tại đã có 12/13 huyện, thành, thị thành lập Ban Trị sự Giáo hội
Phật giáo Việt Nam cấp huyện. Tại các địa phƣơng đã thành lập đƣợc 238 Đại
diện Phật giáo tại các xã, phƣờng, thị trấn[56;4].
Trong những năm gần đây, nhìn chung hoạt động của đạo Phật trên địa
bàn tỉnh có chiều hƣớng phát triển. Ngoài việc tăng cƣờng đẩy mạnh có tổ
chức, Ban trị sự Phật giáo tỉnh còn tăng cƣờng công tác phát triển tín đồ, mở
nhiều lớp bồi dƣỡng nâng cao nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
hội các cấp, phƣơng pháp truyền giáo cho ủy viên Ban đại diện Phật giáo các
huyện, thành, thị. Bồi dƣỡng kiến thức Phật học phổ thông, nghi lễ của đạo
Phật và chính sách pháp luật về tôn giáo của Nhà Nƣớc cho các tín đồ Phật tử
ở cơ sở.
Đạo Tin Lành
Năm 2003, đạo có 01 hệ phái đạo Tin lành Phúc âm ngũ tuần hoạt động
chủ yếu ở thị trấn Hƣng Hóa và xã Hƣơng Nộn (huyện Tam Nông); các phƣờng:
Nông Trang, Gia Cẩm, Vân Cơ ( thành phố Việt Trì); xã Thanh Hà (huyện
Thanh Ba), xã Hƣơng Cần (huyện Thanh Sơn); các xã: Xuân Huy, Sơn Vi, Tứ
Xã, Bản Nguyên (huyện Lâm Thao); xã Võ Miếu (huyện Thanh Sơn). Tổng số
có 83 ngƣời tham gia. Đáng chú ý có bà Vũ Thị Huy, sinh năm 1940, nguyên
Chủ tịch UBND xã Xuân Huy, huyện Lâm Thao đã nghỉ hƣu, là đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam tham gia[56;2]
29
Hiện nay có 6 hệ phái đạo Tin Lành đang hoạt động với 239 tín đồ. Cụ
thể nhƣ sau: hệ phái Phúc âm toàn vẹn Việt Nam, có 136 tín đồ (trong đó, có
20 ngƣời dân tộc Mƣờng) ở 17 xã thuộc 6 huyện, thành, thị, có 7 điểm nhóm
hoạt động thƣờng xuyên. Hội thánh Ngũ tuần Việt Nam: có 33 tín đồ ở 9 xã,
phƣờng thuộc thành phố Việt Trì. Hệ phái Tin lành Phúc âm Ngũ tuần Việt
Nam có 01 điểm nhóm với 19 tín đồ thuộc huyện Tam Nông. Hệ phái Tin
lành Liên hữu cơ đốc: có 2 điểm nhóm hoạt động tại Thanh Sơn (01) và Đoan
Hùng (01) với 25 ngƣời tham gia (trong đó có 16 nam, 09 nữ; 13 tín đồ là
ngƣời dân tộc Mƣờng). Hội thánh Tin lành Việt Nam truyền giáo: có 19 tín
đồ ở thành phố Việt Trì. Hệ phái Tin lành nước hằng sống: có 07 ngƣời. Hiện
hệ phái này tại tỉnh Phú Thọ những biểu hiện tuyên truyền, lôi kéo tín đồ mở
rộng tổ chức tập trung chủ yếu ở huyện Yên Lập và Tân Sơn[56;5]
Đạo BaHa’i
Đạo Baha‟i xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX ở Iran. Đƣợc truyền vào
Miền Nam Việt Nam từ 1954, đƣợc chính quyền Ngụy nâng đỡ, cho thành lập
Hội đồng tinh thần Baha‟i quốc gia, Hội đồng tinh thần Baha‟i địa phƣơng.
Năm 2003, đạo hoạt động tại các xã Thục Luyện, Cự Thắng, Cự Đồng
và thị trấn Thanh Sơn (huyện Thanh Sơn), có 25 ngƣời tham gia[56;2].
Hiện nay, đạo BaHa‟i có 11 tín đồ phát triển ở huyện Thanh Sơn. Nhìn
chung, hoạt động của tôn giáo này diễn ra thuần túy và chấp hành đầy đủ quy
định của pháp luật. Do không phù hợp với phong tục tập quán của địa phƣơng
nên tôn giáo này không phát triển đƣợc.
Sau hơn mƣời năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn
giáo và áp dụng Pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo vào quản lý nhà nƣớc đối với
hoạt động tôn giáo, tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh có nhiều thay đổi, đặc
biệt với hai tôn giáo chính của tỉnh là Phật giáo và Công giáo. Số lƣợng tín đồ
tôn giáo tăng 56.130 ngƣời; trong đó, số lƣợng tín đồ Phật giáo tăng nhanh
30
nhất. So với năm 2003, tín đồ Phật giáo tăng 41.880 ngƣời – tăng gần 3 lần.
Số lƣợng chức sắc tôn giáo tăng 129 ngƣời; trong đó, Công giáo tăng 15
ngƣời, Phật giáo tăng 114 ngƣời. Số lƣợng cơ sở thờ tự tăng 123 cơ sở; trong
đó, Công giáo tăng 10 cơ sở, Phật giáo tăng 113 cơ sở. Về tổ chức: Công
giáo tăng 12 giáo xứ, 21 họ giáo; Phật giáo tăng 2 Ban đại diện phật giáo cấp
huyện (Thanh Sơn, Tam Nông) và 69 đại diện Phật giáo ở cơ sở.
Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh có chiều hƣớng tăng cả về số
lƣợng tín đồ, trình độ chức sắc tôn giáo cũng nhƣ phạm vi hoạt động. Các tôn
giáo đều hoạt động tích cực trong khuôn khổ pháp luật. Chức sắc, tín đồ tôn
giáo luôn tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của các cấp chính
quyền, tích cực tham gia các phong trào phát triển kinh tế, xã hội, hoạt động
từ thiện nhân đạo, góp phần tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Các hoạt động củng cố tổ chức, củng cố đức tin thu hút các
tín đồ vào các hoạt động tôn giáo, củng cố vật chất của giáo hội, đào tạo giáo
sỹ, giáo lý viên đƣợc đẩy mạnh; gia tăng các mối liên hệ với các tổ chức tôn
giáo trong và ngoài nƣớc.
Tuy nhiên, tình hình tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ cũng tồn tại một số vấn đề
cần quan tâm từ phƣơng diện quản lý nhà nƣớc. Đó là: còn xảy ra hoạt động
mê tín, dị đoan ở một số tôn giáo; một số hoạt động tại cơ sở thờ tự của tôn
giáo chƣa tuân thủ các quy định của Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo, của Luật
di sản và các quy định khác của TW và địa phƣơng. Trong xây dựng, sửa
chữa cơ sở thờ tự, một số chức sắc tự ý huy động giáo dân triển khai khi hồ sơ
xin phép còn thiếu, hoặc chƣa đƣợc sự đồng ý của các cấp có thẩm quyền.
* Một số đặc điểm về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Đại bộ phận tín đồ tôn giáo tại Phú Thọ sống ở khu vực miền núi. Nghề
nghiệp chủ yếu là nông dân, một số ít làm nghề buôn bán nhỏ, công nhân, cán
bộ nhà nƣớc. Do đó, UBND tỉnh Phú Thọ và Ban Tôn giáo tỉnh xác định công
31
tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo luôn phải gắn liền với công
tác dân tộc, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của đồng bào theo đạo
Các tôn giáo trên địa bàn tỉnh chung sống hòa bình, tuân theo quy định
của pháp luật. Mặc dù trong quá trình mở rộng ảnh hƣởng, các tôn giáo có sự
cạnh tranh, lôi kéo những tín đồ gia nhập tôn giáo của mình. Tuy nhiên, với
mục đích "sống tốt đời, đẹp đạo", các tôn giáo trên địa bàn hòa thuận, tôn
trọng nhau. Điều này tạo thuận lợi cho công tác quản lý của nhà nƣớc đối với
hoạt động tôn giáo.
Phần lớn các chức sắc và tín đồ tôn giáo trên địa bàn đều tuân thủ tốt
các quy định của pháp luật nhà nƣớc, nghiêm chỉnh thực hiện các điều răn của
tôn giáo. Tuy nhiên vẫn còn một số cá nhân có âm mƣu dùng tôn giáo để
chống phá nhà nƣớc và một số tín đồ tôn giáo do thiếu hiểu biết bị các thế lực
xấu lợi dụng gây ra những vụ việc mất trật tự an ninh địa phƣơng.
Tiểu kết chƣơng 1
Chƣơng 1 đã làm rõ những khái niệm liên quan đến quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động tôn giáo, bao gồm khái niệm về quản lý, quản lý nhà nƣớc,
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo. Từ đó chỉ ra khách thể và chủ thể,
mục đích, nguyên tắc, phƣơng pháp quản lý của quá trình quản lý nhà nƣớc đối
với hoạt động tôn giáo.
Giới thiệu về tỉnh Phú Thọ thông qua vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, các
lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội và khái quát tình hình, đặc điểm tôn giáo
của tỉnh. Nhận thấy tỉnh có số lƣợng tôn giáo đa dạng, trong đó có hai tôn giáo
chính đã đƣợc nhà nƣớc công nhận là Phật giáo và Công giáo. Nêu lên đặc
điểm cơ bản của tôn giáo ở Phú Thọ nhƣ các tôn giáo sống hòa thuận với nhau,
cùng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội của tỉnh; nhƣng cũng tồn
tại những mặt trái cần các cấp quản lý chú ý nhƣ các cá nhân lợi dụng tôn giáo
để gây mất trật tự an ninh hoặc sự xuất hiện của nhiều hiện tƣợng tôn giáo mới.
32
Những nội dung trên là cơ sở quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá
thực trạng công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo đƣợc trình
bày ở chƣơng sau.
33