BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN KIẾM PHONG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH THƯỢNG, TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN KIẾM PHONG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH THƯỢNG, TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ QUANG THANH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số

liệu và kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và khách quan và chưa

từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn

này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ

rõ nguồn gốc.

Tác giả

Trần Kiếm Phong

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia,

Khoa sau Đại học, Lãnh đạo huyện ủy U Minh Thượng đã tạo điều kiện

thuận lợi để tôi được tham dự và hoàn thành khóa học thạc sĩ chuyên ngành

Quản lý công.

Luận văn sẽ không hoàn thành được nếu không có sự giúp đỡ nhiệt

tình từ thầy TS. Hà Quang Thanh đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành

luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy TS. Hà Quang Thanh cùng các

thầy cô trong Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi những kiến

thức để làm cơ sở cho tôi thực hiện thành công luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị của

Huyện, Xã và bạn bè đồng nghiệp… đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo

sát, thu thập số liệu và phân tích thực trạng QLNN đối với hợp tác xã trong

nông nghiệp trên địa bàn Huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Học viên Trần Kiếm Phong

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HTX: Hợp tác xã

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Danh mục từ viết tắt

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................. 6

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn .............................................. 6

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 6

Chương 1 ...................................................................................................... 8

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP

TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP .......................................................... 8

1.1. Những vấn đề chung về HTX trong nông nghiệp ............................. 8

1.1.1 Khái niệm HTX ............................................................................. 8

1.1.2 Hợp tác xã trong nông nghiệp ...................................................... 10

1.1.3 Vai trò hợp tác xã nông nghiệp .................................................... 14

1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp ......................................................................................................... 16

1.2.1 Văn bản quản lý nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp ......... 16

1.2.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp ..... 22

1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan quản lý

nhà nới đồi với HTX ............................................................................. 23

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp tại

một số địa phương. .................................................................................... 26

1.3.1 Kinh nghiệm tại các địa phương .................................................. 26

1.3.2 Bài học kinh nghiệm .................................................................... 29

Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 31

Chương 2 .................................................................................................... 32

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH

THƯỢNG TỈNH KIÊN GIANG .............................................................. 32

2.1. Tổng quan về quá trình xây dựng HTX trong nông nghiệp trên địa

bàn huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang ........................................ 32

2.1.1. Khái quát về kinh tế - xã hội huyện U Minh Thượng .................. 32

2.1.2. Quá trình xây dựng HTX nông nghiệp ........................................ 33

2.2. Đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng ........................................... 42

2.2.1. Về thực hiện và ban hành văn bản pháp lý, quản lý HTX trong

nông nghiệp ........................................................................................... 42

2.2.2. Việc xây dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương

trình chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX .......................................... 44

2.2.3. Về tổ chức và hướng dẫn đăng ký HTX ...................................... 47

2.2.4. Về thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với HTX; xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật của HTX, của cá nhân và tổ chức có liên

quan theo quy định của pháp luật .......................................................... 48

2.2.5. Hợp tác quốc tế về phát triển HTX ............................................. 49

2.3. Đánh giá chung ................................................................................... 50

2.3.1. Ưu điểm ..................................................................................... 50

2.3.2. Hạn chế ...................................................................................... 51

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên của công tác quản lý nhà

nước trên địa bàn huyện đó gồm: .......................................................... 54

Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 56

Chương 3 .................................................................................................... 57

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH

THƯỢNG TỈNH KIÊN GIANG .............................................................. 57

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ GIA ĐOẠN 2016-

2020 ............................................................................................................. 57

3.1.1. Quan điểm phát triển .................................................................. 57

3.1.2. Mục tiêu, chỉ tiêu: ....................................................................... 58

3.2 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI

VỚI HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP ...................................... 58

3.2.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý, cơ chế chính sách phát triển HTX ... 58

3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý và tăng cường công tác đào tạo bồi

dưỡng cán bộ, công chức quản lý HTX ................................................. 59

3.2.3. Hoàn thiện thủ tục đăng ký hoạt động của HTX nông nghiệp ..... 61

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các cấp .......................... 62

3.2.5. Hỗ trợ chính sách để HTX nông nghiệp thích ứng với cơ chế phát

triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ........................................... 63

3.2.6. Xây dựng mô hình chuẩn về HTX nông nghiệp .......................... 64

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 66

KẾT LUẬN ................................................................................................ 67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 68

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế hợp tác mà trọng tâm là hợp tác xã (sau đây viết tắt là HTX)

là hình thức tổ chức thích hợp để góp phần phát triển kinh tế-xã hội, cải

thiện đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, xóa đói giảm nghèo một

cách bền vững, dần đưa tinh thần hợp tác thành văn hóa trong xã hội. Thực

hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011- 2020. Chủ trương

của Đảng về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX là một trong

những biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tổng kết

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng

cao hiệu quả kinh tế tập thể, trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và thực tiễn

hoạt động của HTX kiểu mới theo Luật HTX năm 2003, Quốc hội đã thông

qua Luật HTX sửa đổi năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7

năm 2013.

Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế hợp tác và HTX của Đảng, hầu

hết các địa phương đều đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi HTX kiểu cũ sang

HTX kiểu mới cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và đặc điểm của hộ

kinh tế cá thể dựa trên quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc

điểm kinh tế xã hội của từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối

đổi mới HTX của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, việc chuyển đổi các

HTX đã diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Đáng chú ý là đã xuất hiện

nhiều mô hình HTX kiểu mới làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và

lợi ích của xã viên đặc biệt trong quá trình chuyển đổi sang sản xuất nông

nghiệp hàng hóa. Do vậy, việc nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp

bách cả về lý luận và thực tiễn.

1

U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang là huyện nông nghiệp, có điều kiện

tự nhiên và xã hội thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp sản

xuất hàng hóa. Từ khi Luật HTX đi vào thực tiễn, cùng với cả nước, HTX

trong nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng đã có những bước

phát triển đáng ghi nhận, đáp ứng được một phần nhu cầu của những người

lao động, hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào

quá trình phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, Tuy nhiên, trong quá

trình hoạt động, HTX nông nghiệp ở huyện còn bộc lộ nhiều hạn chế và

yếu kém, cụ thể là:

- Cấp ủy chính quyền nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm

quan trọng của HTX nông nghiệp. Ở một số xã vẫn coi HTX nông nghiệp

như công cụ của chính quyền, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chính

quyền cấp xã, hơn là một tổ chức kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Có

nơi cấp ủy và chính quyền can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh

doanh của HTX nông nghiệp, hoặc thiếu sự quan tâm buông lỏng quản lý

đối với HTX nông nghiệp, khiến nhiều HTX nông nghiệp hoạt động không

hiệu quả, trông chờ vào chính sách ưu đãi của nhà nước.

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp chưa

có sự phân công rạch ròi; đội ngũ cán bộ theo dõi chuyên trách về HTX

nông nghiệp còn thiếu kiến thức, phương pháp và kỹ năng, nghiệp vụ.

- Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện Luật HTX, thực hiện chính

sách đối với HTX nông nghiệp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tuyên

truyền nhân rộng các mô hình hiểu quả chưa được đia phương quan tâm

thực hiện đúng mức.

Có nhiều nguyên nhân để lý giải cho thực trạng đó, nhưng trong đó

có thể khẳng định, quản lý nhà nước về lĩnh vực này còn nhiều yếu kém

như:

2

- Thể chế pháp luật chưa rõ ràng, nhiều quy định chồng chéo khó

thực hiện; các văn bản hướng dẫn thực hiện luật HTX ban hành chậm, trên

lĩnh vực HTX nông nghiệp chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện riêng.

- Bộ máy quản lý HTX trong nông nghiệp vừa thiếu, vừa yếu; đầu tư

công trình hạ tầng nông nghiệp hạn chế

Từ đó cho thấy, đây là những trở ngại lớn cho phát triển HTX trong

nông nghiệp. Hướng tới hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp, chúng tôi chọn đề tài:"Quản lý nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang" làm

luận văn thạc sĩ Quản lý công, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề

đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

2. Tình hình nghiên cứu

Thời gian vừa qua vấn đề kinh tế hợp tác và HTX nói chung đã trở

thành chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều góc

độ, phạm vi khác nhau. Tiêu biểu là những công trình đã được công bố

như:

- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỳ: "Kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2003. Các tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn

về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô

hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế nông

nghiệp nông thôn nước ta. Từ đó đề xuất những giải pháp phát triển các mô

hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp nông thôn ở Việt nam hiện

nay.

- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý

các HTX trong nông nghiệp, nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999.

Trong công trình này, các tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để

3

phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; khái

quát quá trình phát triển các hình thức tổ chức và quản lý HTX giai đoạn

trước năm 1986 và từ năm 1986 đến nay. Từ thực trạng phát triển mô hình

tổ chức quản lý các HTX ở nông thôn của một số địa phương miền bắc tiêu

biểu, các tác giả cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể

để xây dựng mô hình tổ chức và quản lý có hiệu quả các HTX.

- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp

tác, HTX ở Việt Nam-Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb nông

nghiệp, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành,

phát triển các loại mô hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt

Nam với những thành công và tồn tại, từ đó xây dựng những định hướng

phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong thời

kỳ quá độ.

- Hồ Văn Vĩnh: "Phát triển HTX nông nghiệp trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, số 8-2005. Ở bài

viết này, tác giả đã bàn đến những cách thức chuyển đổi HTX nông nghiệp

kiểu cũ sang HTX nông nghiệp kiểu mới trên cơ sở quán triệt đường lối đổi

mới HTX nông nghiệp của Đảng. Tác giả cũng đã nêu lên mối quan hệ tác

động qua lại giữa HTX nông nghiệp và CNH, HĐH, đồng thời nêu ra

những nguyên nhân của sự khó khăn khi phát triển HTX nông nghiệp trong

thời kỳ mới và những giải pháp tháo gỡ những khó khăn này.

Cùng một số luận văn, luận án bàn về kinh tế tập thể nói chung,

HTX nói riêng.

Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu, đề cập đến nhiều khía

cạnh của kinh tế hợp tác và HTX, song chưa có đề tài, công trình nào

nghiên cứu cụ thể về HTX nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở một huyện nông nghiệp

4

một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống. Do đó vấn đề mà luận văn

nghiên cứu mang tính cấp thiết và không trùng lắp.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Mục đích cơ bản của luận văn này là nghiên cứu cơ sở lý luận và

pháp lý (cơ sở khoa học) của quản lý nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp trên địa bàn cấp huyện, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản

lý nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh

Thượng, tỉnh Kiên Giang.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nêu trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ

thể sau đây:

- Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với HTX

trong nông nghiiệp trên đia bàn cấp huyện

- Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp trên đia bàn huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước đối với HTX

trong nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện

4.2. Phạm vị nghiên cứu

- Về không gian: trên địa bàn huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên

Giang.

- Về thời gian: Từ năm 2012 đến nay .

5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp lý luận

Luận văn lấy Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tương Hồ Chí Minh; đường

lối, quan điểm của Đảng và những chính sách, pháp luật của Nhà nước về

nhà nước và pháp luật làm cơ sở phương pháp luận.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, các phương pháp nghiên cứu

khoa học chuyên ngành đều được áp dụng gồm:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp gồm các báo cáo, chương

trình, kế hoạch về kinh tế tập thể của địa phương.

- Phương pháp thống kê các số liệu, đánh giá tình hình kết quả thực

hiện quản lý Nhà nước đối với HTX nông nghiệp của địa phương.

- Phương pháp so sánh các số liệu HTX nông nghiệp qua các thời kỳ.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

6.1. Về lý luận

Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về HTX trong nông

nghiệp, về hoạt động quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp.

6.2. Về thực tiễn

Luận văn là nguồn tư liệu bổ sung phục vụ quá trình nghiên cứu, tìm

hiểu về hoạt động quản lý Nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Kết quả

nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu

giãng dạy tại các cơ sở đào tạo về hành chính, quản lý Nhà nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu 3 chương gồm:

Chương 1: cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp trên đia bàn huyện;

6

Chương 2: thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp trên địa bàn huyện U minh Thượng tỉnh Kiên Giang;

Chương 3: hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp trên đia bàn huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang.

7

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP

TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP

1.1. Những vấn đề chung về HTX trong nông nghiệp

1.1.1 .Khái niệm HTX

HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (giữa

thế kỷ XIX), bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh để có thể tồn tại và phát

triển, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau chống

lại sự chèn ép, khống chế và bần cùng hóa của tư bản lớn. Trên thực tế, ở

mỗi nước có những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, nên sự ra đời và

phát triển của các HTX có những đặc điểm khác nhau. Có nhiều định nghĩa

về HTX, tiêu biểu là định nghĩa của Liên minh HTX quốc tế (ICA), của Tổ

chức lao động quốc tế (ILO).

Liên minh HTX quốc tế (International Cooperative Alliancc-ICA) đã

định nghĩa HTX như sau: “HTX là một hình thức tự trị của những người tự

nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ

về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sỡ hữu và quản

lý dân chủ” [6, tr.18].

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của

những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện

liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài

sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải

quyết những khó đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng

cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho

lợi ích vật chất và tinh thần chung.

Ở nước ta khi bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta

thường dùng các khái niệm: tổ đổi công, tập đoàn sản xuất, HTX bậc thấp,

8

bậc cao. Khái niệm “HTX” ít được đề cập đến, nhiều nhận thức không

đúng về kinh tế hợp tác cùng với những lúng túng trong việc tìm tòi, thử

nghiệm mô hình HTX kiểu mới đã đặc ra yêu cầu phải đổi mới cả về nội

dung và phương thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế

mới khi đất nước bước vào thời kỳ mới.

Trước yêu cầu đó của thực tiễn, tháng 3 năm 1996, tại kỳ họp thứ 9,

Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX. Theo đó, HTX được định nghĩa:

HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích

chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật

để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực

hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải

thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước [18, tr.6].

Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi, thành lập HTX theo Luật

HTX năm 1996. Ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XI đã

thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm 2003). Theo đó,

HTX được định nghĩa:

HTX là tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân

(sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp

vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập

thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả

các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp

nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vị

vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định

của pháp luật [22, tr.6].

9

Qua thời gian thực hiện Luật HTX năm 2003, đã bộc lộ những bất

cập, để xây dựng và phát triển HTX trong điều kiện tình hình kinh tế mới,

ngày 20-11-2012 Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật HTX mới. Theo luật

này, HTX được định nghĩa: HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu,

có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp

tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm

nằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX.

1.1.2 . Hợp tác xã trong nông nghiệp

1.1.2.1. Các mô hình hợp tác xã nông nghiệp

Trong quá trình hình thành và phát triển HTX trong nông nghiệp đã

có những mô hình khác nhau, từ thấp đến cao. Tùy theo điều kiện kinh tế

xã hội, Đảng và Nhà nước có những chủ trương, chính sách để xây dựng và

phát triển HTX trong nông nghiệp. Qua thực tiễn của nước ta cụ thể là ở

các tỉnh phía nam có thể nêu một số mô hình HTX nông nghiệp sau đây:

- Tập đoàn sản xuất nông nghiệp: đây là mô hình hợp tác sản xuất

trong nông nghiệp giai đoạn sau giải phóng năm 1975 đến khoảng năm

1980.

Tập đoàn được thành lập theo đơn vị ấp, hoặc xã tùy quy mô số

lượng dân số, diện tích đất đai. Tất cả nông dân lao động và người lao động

làm thuê ở tại chổ (theo khu vực Tập đoàn) có lao động, nghề nghiệp, từ 16

tuổi trở lên tự nguyện xin vào Tập đoàn, thì đều có thể được xét kết nạp

vào Tập đoàn. Tập đoàn thực hiện tập thể hóa về đất đai, máy móc công cụ,

trâu bò cày kéo, phân phối thu nhập theo nguyên tắc công bằng, hợp lý,

quản lý dân chủ mỗi hộ, mỗi người lao động cần đăng ký lao động và tự

nguyện thực hiện đúng và tốt việc đăng ký lao động đó. Tập đoàn tạo mọi

điều kiện thực hiện đúng và tốt quản lý lao động có định mức, khoán việc

10

đúng mức, hạch toán công-điều chính xác, kịp thời, đảm bảo ăn chia phân

phối công bằng hợp lý.

- Về mô hình HTX nông nghiệp: chia làm hai loại HTX nông

nghiệp kiểu cũ và HTX kiểu mới.

HTX nông nghiệp kiểu cũ, là mô hình HTX nông nghiệp trước khi

có Luật HTX hay nói cách khác đây là mô hình HTX nông nghiệp trước

khoán 10 của Bộ Chính trị. Thành viên của HTX nông nghiệp theo mô hình

này chỉ là gồm các cá nhân, sở hữu cá nhân của người nông dân không

được thừa nhận, sở hữu của các gia đình bị xóa bỏ, chỉ thừa nhận chế độ sở

hữu tập thể về tư liệu sản xuất, người nông dân vào HTX phải góp ruộng

dất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu. Quan hệ xã viên với HTX là quan hệ

phụ thuộc, xã viên bị tách rời tư liệu sản xuất trở thành người lao động làm

công theo sự điều hành của HTX, tính chất HTX đích thực trong HTX

không còn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, hạch toán lỗ lãi, phân phối,

giá cả...của HTX đều theo sự chỉ huy của cơ quan quản lý cấp trên theo kế

hoạch của Nhà nước. Chế độ phân phối mang nặng tính bình quân bao cấp,

chủ yếu phân phối theo công lao động, việc phân phối theo vốn góp gần

như không thực hiện.

HTX nông nghiệp kiểu mới, là mô hình HTX nông nghiệp khi có

Luật HTX năm 1996 và sau đó sửa đổi bổ sung Luật năm 2003 và hiện nay

là Luật HTX năm 2012.

Theo mô hình HTX kiểu mới, thành viên HTX gồm cá nhân, hộ gia

đình và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sản xuất

kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh

tế...) là người có ít vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng

lập ra và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình theo quy định của

pháp luật về HTX. Trong HTX, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các

11

thành viên được phân định rõ. Thành viên khi tham gia HTX nông nghiệp

không phải góp ruộng đất và các công cụ sản xuất mà điều kiện tiên quyết

là phải góp vốn theo quy định của điều lệ HTX, suất vốn góp không hạn

chế song không vượt quá 20% so với tổng số vốn góp của các thành viên

(vốn điều lệ của HTX). Trong HTX nông nghiệp kiểu mới, mọi trói buộc

cứng nhắc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã được

tháo bỏ. Các HTX thực sự là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ có đầy đủ

tư cách pháp nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật như

các doanh nghiệp, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt

động sản xuất kinh doanh dịch vụ, đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với

nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên.

HTX kiểu mới quy mô và phạm vi hoạt động của HTX không còn bị

giới hạn như HTX kiểu cũ. Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực

khác nhau, không giới hạn địa giới hành chính mô hình hợp tác linh hoạt,

đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành với

nhiều trình độ phát triển khác nhau từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào,

đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, của các thành viên, đến

mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các

doanh nghiệp trực thuộc; Từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX.

HTX đăng ký hoạt động theo Luật HTX năm 2012, tuy vẫn còn

mang tính xã hội, nhưng trước hết là một tổ chức kinh tế. HTX chỉ thực

hiện nghĩa vụ xã hội trên cơ sở hoạt động kinh tế có hiệu quả. Những chăm

lo về mặt xã hội trước hết cũng dành cho các thành viên HTX. Đây cũng là

đặc điểm mới mà chính quyền các cấp phải lưu ý trong khi thực hiện chức

năng quản lý Nhà nước đối với HTX.

- Về mô hình liên HTX, đây là tổ chức kinh tế tập thể đồng sở hữu,

có tư cách pháp nhân, do ít nhất 4 HTX tự nguyện thành lập và HTX tương

12

trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp

ứng nhu cầu chung của các HTX thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, bình đẵng, dân chủ trong trong quản lý liên HTX.

Liên hiệp HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các

doanh nghiệp của HTX, liện hiệp HTX, doanh nghiệp của HTX hoạt động

theo Luật doanh nghiệp.

1.1.2.2. Đặc điểm

Từ các mô hình HTX nông nghiệp có thể rút ra đặc điểm của HTX

nông nghiệp như sau:

- Cơ sở hình thành và phát triển kinh tế HTX nông nghiệp là kinh tế

hộ nông dân.

- HTX trong nông nghiệp đã ra đời, tồn tại, phát triển và ngày càng

hoàn thiện xuất phát từ yêu cầu sản xuất hàng hóa, từ nhu cầu sản xuất kinh

doanh và đời sống quần chúng nhân dân. HTX là hình thức tổ chức và biện

pháp nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, hợp tác xả cũng là

con đường để xã hội hóa sản xuất nông nghiệp.

- HTX không thể là một sự áp đặt duy ý chí từ trên xuống mà là sự tự

nguyện của nông dân khi nảy sinh nhu cầu kinh tế khách quan trong quá

trình phát triển sản xuất kinh doanh.

- Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà HTX trong nông

nghiệp, về cơ bản không phải là các HTX sản xuất (làm ăn tập thể) mà là

các HTX làm chức năng dịch vụ phục vụ cho sản xuất còn việc trực tiếp

sản xuất là các hộ tự chủ.

- Trên thực tế đã tồn tại rất đa dạng các loại hình HTX với quy mô

rất khác nhau, tất cả đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất vào điều kiện cụ thể của từng nơi. Mỗi nông dân có thể tham gia

nhiều HTX.

13

- Về cơ bản, các HTX được hình thành không phải trên cơ sở tập thể

hóa mà theo con đường góp vốn và phân chia lợi ích. Nó không động chạm

đến quyền sở hữu của từng hộ gia đình (nông trại) nhưng lại tạo điều kiện

tăng thêm năng lực sản xuất, lợi ích của từng hộ. Chính điều này là cho

người nông dân dễ dàng chấp nhận tự nguyện tham gia.

- Các HTX thường liên kết với nhau thành lập các hiệp hội ở từng

địa phương và ở trong cả nước. Nhà nước tác động, kiểm tra, kiểm soát các

HTX theo quy định chung của pháp luật. Nhà nước không can thiệp vào

các hoạt động kinh doanh của các HTX. Các liên minh HTX ở cấp toàn

quốc có quyền thay mặt xã viên HTX ngành mình để tham gia với nhà

nước trong việc nghiên cứu ban hành các chính sách bảo vệ quyền lợi của

các nông trại và các HTX.

1.1.3. Vai trò hợp tác xã nông nghiệp

HTX nông nghiệp có vai trò cụ thể dưới đây:

Thứ nhất, là một tổ chức kinh tế như tổ chức kinh tế khác, nó tham

gia vào các hoạt động kinh tế và đem lại lợi ích cho các thành viên, xã hội

và nhà nước, góp phần tích cực vào công việc phát triển kinh tế ở địa

phương, đặc biệt thông qua hoạt động cho vay tín dụng của nó làm đòn bẩy

cho nền kinh tế phát triển. Các HTX nông nghiệp là kênh dẫn vốn, huy

động vốn quan trọng tạo huyết mạch cho nền kinh tế, đặc biệt là ở vùng địa

phương điều kiện phát triển còn nhiều khó khăn, hạn chế.

Thứ hai, thu hút đa phần cá nhân và hộ gia đình tại một địa phương

tham gia. HTX nông nghiệp phát triển góp phần duy trì và nâng cao mức

sống của thành viên. Nó góp phần duy trì và ổn định trật tự xã hội trên địa

bàn, đặc biệt thông qua các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của HTX

nông nghiệp, các mối quan hệ xã hội trên các giá trị tinh thần đoàn kết, tình

làng nghĩa xóm, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau thông qua HTX

14

nông nghiệp vì thế cần được giữ gìn và tôn trọng để các giá trị về đạo đức

xã hội của HTX nông nghiệp được bảo tồn và phát huy, góp phần tạo ra

một xã hội dân chủ, công bằng và phồn thịnh.

Thứ ba, gắn bó với người dân địa phương và cũng trở thành yếu tố

tinh thần không thể thiếu được của địa phương, những nét văn hóa, truyền

thống tốt đẹp như tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái...được tiếp tục

duy trì, chăm sóc và phát triển trong các HTX nông nghiệp.

Thứ tư, thông qua HTX nông nghiệp mà các thành viên có thể tương

trợ, giúp đỡ được cho nhau, có điều kiện tiếp cận với các loại thị trường

(thị trường nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, thị trường dịch vụ, sản phẩm

đầu ra) nhờ có mô hình kinh tế HTX nói chung và thông qua mô hình HTX

nông nghiệp nói riêng, các thành viên đã có điều kiện tiếp cận với các sản

phẩm và dịch vụ của thị trường tín dụng, ngân hàng. Như vậy các thành

viên sẽ được hưởng các sản phẩm dịch vụ mà tổ chức tín dụng hợp tác của

họ tạo ra và cung cấp một cách kịp thời, thuận tiện với mức giá chấp nhận

được với tư cách là khách hàng. Thành viên cũng được tư vấn, thông tin,

trao đổi kinh nghiệm thông qua HTX nông nghiệp, vì đó cũng thường là

nơi tập hợp kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm làm ăn của cả địa phương, họ

sẽ tự tạo ra công ăn, việc làm cho bản thân và có thể cho lao động khác ở

địa phương nữa. Họ cũng được hưởng những quyền lợi từ HTX nông

nghiệp với tư cách là chủ sở hữu như được chia cổ tức, được quyền tham

gia biểu quyết, quyết định các chính sách kinh doanh của HTX nông

nghiệp thông qua các bộ máy, cơ quan lãnh đạo để HTX nông nghiệp ngày

càng phục vụ họ đắc lực hơn và tốt hơn. Qua sự hỗ trợ này mà các hoạt

động kinh tế, sản xuất, kinh doanh của các thành viên đã được hỗ trợ thiết

thực, cuộc sống của họ được cải thiện và có những tích lũy.

15

Thứ năm, cung cấp các dịch vụ tín dụng, ngân hàng cho dân cư trên

địa bàn hoạt động. Bất kể người dân nào cũng sẽ được hưởng các sản

phẩm, dịch vụ của HTX nông nghiệp với tư cách là khách hàng. Qua hoạt

động của HTX nông nghiệp, ý thức tiết kiệm và tích lũy của người dân

được nâng cao. Những đồng vốn nhàn rổi được huy động đưa vào đầu tư

phục vụ cho phát triển, giảm sự lãng phí tài nguyên. HTX nông nghiệp vừa

là người quản lý tài sản của thành viên, dân cư, vừa là nhà đầu tư trên địa

bàn. Đó cũng là nơi học nghề cho nhiều người, trình độ và nhận thức của

người dân trên địa bàn cũng sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tư

vấn, thông tin của bản thân HTX nông nghiệp, góp phần nâng cao trình độ

dân trí, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật cho người dân. Khi địa

phương có HTX nông nghiệp hoạt động góp phần xóa đói giảm nghèo, hỗ

trợ địa phương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, vật nuôi, cây trồng.

Thứ sáu, HTX nông nghiệp đóng góp một cách đáng kể vào các

khoản thuế hàng năm của địa phương, thông qua hoạt động sản xuất, kinh

doanh HTX nông nghiệp góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội

cho địa phương. Các HTX nông nghiệp là những tổ chức hoạt động tại địa

phương bám sát địa bàn, tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế-

xã hội của địa phương, hỗ trợ đắc lực nhất cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào tăng trưởng

kinh tế của địa phương.

1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp

1.2.1. Văn bản quản lý nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp

- Sau nhiều năm tiến hành củng cố, hoàn thiện tổ chức và quản lý

khu vực HTX bằng các văn bản Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và chính

phủ. Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở những chủ trương, đường lối lớn của

16

Đảng đã khẳng định: kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác

sản xuất, kinh doanh. HTX được tổ chức với nhiều hình thức trên nguyên

tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố

và mở rộng các HTX hoạt động có hiệu quả. Điều đó là kết quả của một

thời gian dài vận động thực tiễn và tổng kết lý luận của Đảng và Nhà nước

ta về HTX. Sự khẳng định của Hiến pháp năm 1992 đã tạo đà cho sự đổi

mới không ngừng về cơ chế quản lý phát triển HTX của Nhà nước. Trên cơ

sở những quy định về kinh tế tập thể tại Hiến pháp năm 1992. Ngày 20-3-

1996 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX Luật HTX được thông qua. Năm

1996 Luật HTX ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1997 đã đặt cơ

sở pháp lý đầu tiên cho quá trình đổi mới mạnh mẽ tư duy về bản chất của

loại hình tổ chức kinh tế này. Điều cơ bản nhất mà Luật HTX năm 1996 là

đã đổi mới tư duy về bản chất HTX được thông qua định nghĩa: “HTX là tổ

chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự

nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát

huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có

hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời

sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước...”

Định nghĩa này khẳng định những người lao động có nhu cầu và tự

nguyện tuân thủ các nguyên tắc HTX đều có thể thành lập và tham gia

HTX. Các nguyên tắc cơ bản để thành lập và phát triển HTX là: tự nguyện

gia nhập và ra HTX; quản lý dân chủ và bình đẳng; tự chịu trách nhiệm và

cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.

Với sự khẳng định HTX là “Tổ chức kinh tế tự chủ” thì HTX được

hiểu là tổ chức kinh tế của chính những người lập ra và tham gia là xã viên,

HTX không phải do Nhà nước hoặc các tổ chức chính trị xã hội nào đó lập

ra. Sự khẳng định này đã từng bước giúp các HTX cũ thoát khỏi tư duy

17

xem HTX nặng về chức năng xã hội, đồng thời giúp các HTX được giải

phóng khỏi những can thiệp hành chính và không đúng của các cơ quan

Đảng và chính quyền vào công việc nội bộ của nó. Luật HTX ra đời còn

thúc đẩy đổi mới tư duy không coi các bộ, ngành, chính quyền địa phương

các cấp là “Các cơ quan chủ quản HTX”, sự vận động và phát triển của

HTX được điều chỉnh bởi khung luật pháp chặt chẽ, trong đó quy định rõ

về nguyên tắc tổ chức, các quan hệ nội bộ và vị trí của HTX trong quan hệ

với các tổ chức kinh tế khác.

Để thực hiện Luật HTX năm 1996, Chính phủ đã ban hành một loạt

các văn bản dưới luật như: (1) Nghị định 15/1997/NĐ-CP ngày 21-1-1997

quy định chính sách khuyến khích phát triển HTX; (2) Nghị định

16/1997/NĐ-CP ngày 21-2-1997 về xử lý công nợ của HTX cũ chuyển đổi

sang hoạt động theo luật; (3) Thông tư 14/1997/TT-BKHĐT ngày 29-3-

1997 của Bộ Kế hoạch và đầu tư về hướng dẫn việc chuyển đổi và đăng ký

HTX..v.v...

- Đút kết rút ra từ thực tiễn sau một thời gian thực hiện Luật HTX

năm 1996, ngày 26/11/2003, Luật HTX đã được sửa đổi và được Quốc hội

khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ tư và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-

2004.

Luật HTX năm 2003, tạo khung pháp lý phù hợp hơn cho các HTX

tiếp tục phát triển trong điều kiện mới, đã có nhiều thay đổi tích cực hơn so

với Luật năm 1996, Luật năm 2003 đã làm rõ hơn các nguyên tắc tổ chức

và quản lý HTX, đồng thời xác định HTX hoạt động như một loại hình

doanh nghiệp, có nghĩa là các HTX được tổ chức theo những quy định đặc

thù của loại hình kinh tế đang mang tính dân chủ và tập thể rất cao, nhưng

hoạt động thì phải tuân thủ các quy luật thị trường, chấp nhận cạnh tranh

như các doanh nghiệp khác để không ngừng vươn lên nâng cao hiệu quả về

18

mọi mặt, với Luật HTX năm 2003 các HTX có được khuôn khổ pháp lý

hoàn chỉnh, phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các chuẩn mực quốc tế.

Phạm vi hoạt động của các HTX đã được mở rộng không chỉ giới

hạn trong ngành nông nghiệp mà đã lan rộng sang các ngành và các lĩnh

vực khác trong nền kinh tế.

Nếu chỉ xét riêng lĩnh vực Nông nghiệp, khu vực có nhiều HTX

nhất, thì hầu hết các HTX đã đảm nhiệm nhiều dịch vụ nông nghiệp phục

vụ các hộ xã viên và cạnh tranh với các cơ sở dịch vụ khác trên cùng địa

bàn. Bên cạnh đó các HTX đã không chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của

mình trong nội bộ ngành mà đã mở rộng sang cung cấp dịch vụ tổng hợp

cho các xã viên của mình và cho thị trường.

Qua những năm đầu triển khai tổ chức thực hiện, Luật HTX năm

2003 đã mang lại một số kết quả đáng ghi nhận, song bên cạnh đó cũng bộc

lộ những hạn chế. Để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh

tế tập thể. Dự án Luật HTX trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá

XII, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XIII và tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá

XIII (Tháng 11-2012) đã thông qua dự án Luật HTX (Sửa đổi).

- Luật HTX năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013. Để

hướng dẫn thi hành Luật HTX, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

193/2013/NĐ-CP, ngày 21 tháng 11 năm 2013, quy định chi tiết một số

điều của Luật HTX, có hiệu lực thi hành từ ngày 27/01/2013; Chỉ thị số

19/CT-TTg, ngày 24/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh triển

khai thi hành Luật HTX; Quyết đinh số 2261/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2016-

2020. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 03/2014/TT-

BKHĐT, hướng dẫn đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình hoạt động

của HTX. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành Quyết đinh

19

số 710/QĐ-BNN-KTHT, ngày 10/4/2014 về kế hoạch đổi mới phát triển

các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Thông báo số

24/TB-VPCP ngày 29.1.2016 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại cuộc họp triển khai Kết luận số 56-

KL/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về việc đẩy mạnh triển khai thi hành luật HTX; Quyết định số 445/QĐ-TTg

ngày 21.3.2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm hoàn

thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại Vùng đồng bằng sông Cữu

Long giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 3951/QĐ-BNN-KTKT ngày

26.9.2016 của Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn phê duyệt kế hoạch

triển khai, thực hiện Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;

Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29.2.2016 của Bộ Tài chính hướng

dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của

HTX, thành lập mới HTX, tổ chức lại hoạt động của HTX theo chương

trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020; Công văn 464/BKHĐT-

HTX ngày 17.01.2017 của Bộ Kế hoạch và đầu tư về việc hỗ trợ phát triển

HTX giai đoạn 2016-2020.

Luật HTX năm 2012 có nhiều điểm mới mang tính đột phá, nhằm

định huớng cho các HTX hoạt động và phát triển theo đúng bản chất của

HTX.

Luật HTX năm 2012 không xác định HTX hoạt động như một loại

hình doanh nghiệp mà là tổ chức kinh tế tập thể, do các thành viên có

chung nhu cầu, lợi ích tự nguyên hợp tác, thành lập và tự quản lý nhằm

tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo điều kiện cho

thành viên tham gia cùng phát triển. HTX được thành lập để hợp tác tương

trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, quản lý theo nguyên tắc đối nhân,

khác với doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu tối đa lợi nhuận và quản lý

20

theo nguyên tắc đối vốn. HTX phải hoạt động hiệu quả, có lãi, nhưng còn

phải tuân theo mục tiêu cao hơn là đáp ứng nhu cầu chung về sản phẩm,

dịch vụ của thành viên.

Tuy nhiên, khi HTX, liên HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ

hình thành các doanh nghiệp của HTX, liên hiệp HTX hoạt động theo Luật

Doanh nghiệp.

Luật HTX năm 2012 đã làm rõ hơn về các chính sách hỗ trợ, ưu đãi

của Nhà nước bao gồm 6 danh mục chính sách hỗ trợ; 02 danh mục chính

sách ưu đãi chung cho các loại hình HTX; đặc biệt trong lĩnh vực nông

nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài các chính sách hỗ trợ,

ưu đãi trên HTX còn được thêm 5 mục ưu đãi nữa về đầu tư phát triển kết

cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động; tín dụng; vốn;

giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; những chính sách này sẽ

được Chính phủ quy đinh cụ thể.

Luật HTX năm 2012 quy định Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền

sở hữu tài sản, vốn, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của HTX,

liên hiệp HTX, bảo đảm môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa

HTX, liên hiệp HTX với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế

khác; bảo đảm quyền tự chủ; tự chịu trách nhiệm và không can thiệp vào

hoạt động hợp pháp của HTX, liên hiệp HTX. Chính phủ thống nhất quản

lý Nhà nước về HTX; Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất

quản lý Nhà nước về HTX, liên hiệp HTX trên phạm vi cả nước; đồng thời

quy định riêng về kiểm tra., thanh tra, giám sát việc thi hành Luật HTX để

nâng cao tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát thi hành luật. Luật

cũng quy định về Liên minh HTX tổ chức đại diện của HTX hoạt động trên

nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và theo điều lệ hoạt động được cơ quan Nhà

nước phê duyệt.

21

1.2.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp

Để phát triển có hiệu quả mô hình HTX, Nhà nước đã ban hành hệ

thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho quản lý Nhà nước đối với HTX, nội

dung quản lý nhà nước đối với HTX nói chung bao gồm:

- Ban hành, phổ biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản

pháp luật về HTX, liên hiệp HTX và văn bản pháp luật có liên quan

- Xây dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình,

chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX, liên hiệp HTX

- Tổ chức và hướng dẫn đăng ký HTX, liên hiệp HTX

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với HTX, liên hiệp

HTX; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của HTX, liên hiệp HTX, của cá

nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật

- Hợp tác quốc tế về phát triển HTX, liên hiệp HTX

Chi tiết quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp ở cấp

huyện bao gồm các nội dung sau đây:

Một là, việc xây dựng các chương trình, kế hoạch để phát triển và

quản lý HTX nông nghiệp trong từng giai đoạn; việc tổ chức thực hiện các

văn bản pháp luật, các quy định, hướng dẫn của Chính phủ, Bộ ngành

Trung ương và của tỉnh.

Hai là, phân công chức năng nhiệm vụ cho các phòng ban và bố trí

cán bộ phụ trách tham mưu cho UBND trong quản lý Nhà nước đối với

HTX nông nghiệp; vận dụng tổ chúc triển khai thực hiện các chính sách

của Trung ương, của tỉnh trong hỗ trợ ưu đãi đối với HTX nông nghiệp.

Ba là, tổ chức hướng dẫn và đăng ký HTX, hướng dẫn việc thành lập

mới, chuyển đổi và giải thể HTX.

22

Bốn là, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với HTX liên

HTX, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của HTX liên HTX, của cá nhân

và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.

Năm là, có chính sách tạo điều kiện cho HTX liên doanh liên kết với

các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tổ chức cho các HTX học tập rút

kinh nghiệm những HTX làm ăn có hiệu quả để áp dụng và nhân rộng trên

địa bàn huyện.

1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan

quản lý nhà nới đồi với HTX

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với HTX. Bộ Kế hoạch

và đầu tư được giao nhiệm vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước

về HTX, Liên hiệp HTX.

Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý nhà nước về HTX. Liên

hiệp HTX được quy định như sau:

Chủ trì nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản

pháp luật về HTX, Liên hiệp HTX và văn bản pháp luật có liên quan;

Phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản luật về HTX và

văn bản pháp luật có liên quan;

Thống nhất tổ chức thực hiện việc đăng ký HTX, Liên hiệp HTX

trên phạm vi toàn quốc;

Thống nhất tiếp nhận quản lý, báo cáo kết quả hoạt động hàng năm

của HTX, Liên hiệp HTX theo quy định của pháp luật; xây dựng hệ thống

thông tin về HTX, Liên hiệp HTX trên phạm vi toàn quốc;

Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình, chính

sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX, Liên hiệp HTX; chủ trì việc tổng kết, xây

dựng kế hoạch, chương trình, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX, Liên

hiệp HTX;

23

Thực hiện hoặc chỉ đạo thực hiện các mô hình thí điểm và nhân rộng

các mô hình HTX, Liên hiệp HTX phát triển có hiệu quả;

Chủ trì phối hợp với các cơ quan tiến hành thanh tra, kiểm tra việc

thực hiện pháp luật về HTX đối với các HTX, Liên hiệp HTX.

Xử lý và hướng dẫn xử lý các hành vì vi phạm pháp luật của HTX,

Liên hiệp HTX, của các nhân và tổ chức có hiệu quả theo quy định của

pháp luật; giải quyết những vướng mắc trong việc thực hiện các quy định

của pháp luật về HTX, Liên hiệp HTX.

Chủ trì công tác hợp tác quốc tế về phát triển HTX, Liên hiệp HTX.

Chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu, tổng kết việc thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với HTX, Liên hiệp HTX.

Phối hợp với các cơ quan tài chính các cấp hướng dẫn và kiểm tra,

thanh tra việc thực hiện chế độ tài chính đối với HTX, Liên hiệp HTX theo

quy định của pháp luật.

Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên Mặt trận

Tổ quốc tổ chức thi hành pháp luật về HTX. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, vận động nhân dân tham

gia xây dựng và phát triển HTX, Liên hiệp HTX; tham gia với cơ quan nhà

nước trong việc xây dựng chính sách và giám sát thi hành pháp luật về

HTX; triển khai các chương trình, dự án phát triển HTX, Liên hiệp HTX.

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với HTX, Liên hiệp

HTX:

Phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư trong việc thực hiện hoàn thiện

các quy định pháp luật về HTX, xây dựng chiến lược, chính sách, chương

trình, kế hoạch phát triển HTX, Liên hiệp HTX.

24

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với HTX, Liên hiệp HTX

theo lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công.

Thực hiện công tác tuyên truyền vận động nhân dân, tổ chức tham

gia và thành lập HTX.

Thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX, Liên hiệp

HTX trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của minh.

Tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, Liên hiệp HTX tham gia các chương

trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế-xã hội.

- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước

đối với HTX, Liên hiệp HTX.

Chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước của

cơ quan quản lý nhà nước về HTX trên địa bàn.

Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phát

triển HTX trên địa bàn.

Thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, tổ chức tham

gia và thành lập HTX.

Ban hành các biện pháp, chính sách hỗ trợ HTX, Liên hiệp HTX

theo thẩm quyền.

Tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, Liên hiệp HTX tham gia các

chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế-xã hội của địa

phương.

Phối hợp, hỗ trợ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

viên ở các cấp, các tổ chức xã hội khác trong khu vực. Tổ chức thi hành

pháp luật về HTX, Liên hiệp HTX; Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

HTX, Liên hiệp HTX; triển khai các chương trình, dự án phát triển HTX,

Liên hiệp HTX; khuyến khích thành viên của tổ chức mình tham gia HTX.

25

Chính phủ quy định cụ thể việc phân công, phân cấp giữa các Bộ, cơ

quan ngang Bộ và địa phương trong quản lý nhà nước đối với HTX, Liên

hiệp HTX như trên là để thực hiện quản lý nhà nước đối với HTX, Liên

hiệp HTX một các thống nhất, tránh chồng chéo chức năng nhiệm vụ, thẩm

quyền hoặc buông lỏng trong quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước, tạo điều kiện thuận lợi cho HTX, Liên hiệp HTX hoạt động và phát

triển.

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với HTX trong nông

nghiệp tại một số địa phương

1.3.1. Kinh nghiệm tại các địa phương

1.3.1.1. Tại tỉnh Tiền Giang

Củng cố bộ máy hiện có như Sở Kế hoạch đầu tư là cơ quan đầu mối

giúp UND tỉnh quản lý nhà nước đối với HTX, thành lập một phòng

chuyên trách theo dõi, quản lý HTX, các Sở ngành cấp tỉnh bố trí một cán

bộ chuyên trách theo dõi HTX trong lĩnh vực ngành quản lý. Cấp huyện

nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX đưa về một đầu mối là giao cho Phòng

Tài chính kế hoạch huyện và đảm bảo có cán bộ chuyên trách theo dõi

HTX lĩnh vực ngành phụ trách. Ở cấp xã bố trí một cán bộ chuyên trách

hoặc kiêm nhiệm tùy quy mô, số lương HTX tại địa phương giúp cho các

ngành, địa phương nắm chắc được tình hình hoạt động của các HTX trên

địa bàn, lĩnh vực phụ trách từ đó làm tham mưu cho UBND các cấp thực

hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về HTX, cũng như kịp thời giải quyết

những khó khăn vướng mắc của các HTX, giúp các HTX hoạt động đúng

Luật và có hiệu quả.

Các Sở, ban ngành, UBND các cấp tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến

thức về kinh tế tập thể, bản chất HTX kiểu mới cho cán bộ, công chức quản

lý nhà nước về kinh tế tập thể; việc tham gia các lớp tập huấn này mang

26

tính bắt buộc, xem như một tiêu chí đánh giá cán bộ hàng năm; tổ chức sơ

kết, tổng kết, đánh giá tình hình kinh tế tập thể trên địa bàn, nhân rộng

những mô hình HTX kiểu mới, hoạt động có hiệu quả, đồng thời giải quyết

những khó khăn vướng mắc của các HTX, xử lý những vi phạm, tạo điều

kiện thuận lợi để các HTX hoạt động đúng quy định của pháp luật về HTX.

Có cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát trong việc thực hiện các quy

định của pháp luật cũng như xây dựng chế tài xử lý trong trường hợp các

cơ quan chức năng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách

nhiệm của mình.

1.3.1.2. Tại tỉnh Vĩnh Long

Thực hiện Kết Luận 56-KL/TW, ngày 21-2-2013, của Bộ Chính trị

về “Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi

mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, Tỉnh ủy Vĩnh Long tổ

chức triển khai, quán triệt nội dung Kết luận trong toàn Đảng bộ với 6.726

cuộc cho 196.990 lượt cán bộ, đảng viên và nhân dân tham dự; đồng thời

ban hành Kế hoạch số 85-KH/TU cụ thể hóa Kết luận số 56-KL/TW cùng

với Quyết định số 780-QD/TU, ngày 30-12-2014, về việc kiện toàn Ban

Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2011-2015. Đến nay, tỉnh đã tổ

chức được 20 lớp tập huấn, bồi dưỡng về kinh tế tập thể cho 2.371 lượt cán

bộ, công chức các cấp, cán bộ chủ chốt các HTX, ban quản lý các tổ hợp

tác; 72 cuộc kiểm tra Luật HTX năm 2012 cùng với các nghị định của

Chính phủ và thông tư của các bộ, ngành Trung ương về hướng dẫn thực

hiện Luật cho 2.736 lượt cán bộ, công chức, thành viên Hội đồng quản trị,

ban kiểm soát, thành viên các HTX, Liên hiệp HTX tham dự. Tỉnh đã ban

hành một số chính sách để hỗ trợ, khuyến khích các đơn vị kinh tế tập thể

phát triển; xem xét điều chỉnh, bổ sung một số chính sách hỗ trợ, khuyến

27

khích kinh tế tập thể phù hợp với quy định của Luật HTX năm 2012; xúc

tiến thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX của tỉnh.

Sau 3 năm triển khai Kết luận số 56-KL/TW, thành phần kinh tế tập

thể của tỉnh đã có bước chuyển tích cực: thành lập mới 31 HTX và giải thể

23 HTX, tính đến tháng 12-2015, toàn tỉnh có 110 HTX (tăng 6,7% so với

năm 2012) và 1 Liên hiệp HTX; thu hút 7.088 thành viên, giải quyết việc

làm cho 6.972 lao động; tổng vốn hoạt động năm 2015 của các HTX, Liên

hiệp HTX đạt trên 335,5 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 167,6 tỷ đồng

(tăng 17,5% so với năm 2012).

Nhiều HTX trong lĩnh vực nông nghiệp đã được tập trung củng cố để

nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng dịch vụ cung cấp cho thành

viên, mạnh dạn đầu tư vốn, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với

các doanh nghiệp; hoạt động sản xuất gắn kết với thương mại dịch vụ; tham

gia các chương trình khuyến nông, đầu tư sản xuất sạch theo tiêu chuẩn

VietGap, GlobalGap, đăng ký thương hiệu sản phẩm.

1.3.1.3. Tại tỉnh Đồng Tháp

Đồng Tháp đang thúc đẩy kinh tế hợp tác, ban hành nhiều cơ chế,

chính sách hỗ trợ HTX. Tỉnh đã lập Quỹ hỗ trợ HTX để tạo điều kiện cho

các HTX tiếp cận được nguồn sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, chú trọng

nâng cao năng lực quản trị cho đội ngũ lãnh đạo và các chức danh khác của

HTX. Đặc biệt có chương trình đào tạo cán bộ ngành nông nghiệp; sinh

viên tốt nghiệp các ngành liên quan đến nông nghiệp, quản trị kinh doanh

được biệt phái về xã đảm nhận chức danh Phó giám đốc HTX trong thời

gian 3-5 năm.

Hiện nay, Đồng Tháp đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư theo

hướng liên kết bền vững, đầu tư công nghệ mới, tiên tiến trong sản xuất

28

nông nghiệp. Đã có nhiều doanh nghiệp tham gia mua cổ phần trong các

HTX để gắn bó lâu bền hơn với người nông dân. Đó là tín hiệu mới, cho

thấy ý thức cùng chịu trách nhiệm, cùng chia sẽ lợi nhuận và rũi ro giữa các

tác nhân tham gia chuỗi ngành hàng đã hình thành.

Đối với HTX chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012, sẽ được hỗ trợ

kiện toàn nhân lực cho các HTX, giúp các HTX xây dựng chiến lược phát

triển dài hạn. Bên cạnh đó tỉnh cũng sẽ hỗ trợ hình thành các "doanh

nghiệp nông nghiệp" khi đủ điều kiện.

Đồng Tháp tham gia Dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ, tổng vốn

tài trợ cho Đồng Tháp thực hiện Dự án khoảng 340 tỷ đồng. Để thực hiện

tốt Dự án, tỉnh đã chọn 6 địa phương tham gia thực hiện gồm: Tân Hồng,

Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông, Tháp Mười, Cao Lãnh với tổng diện

tích trên 37.000ha ở 39 HTX và 01 tổ hợp tác. Dự kiến, Dự án sẽ hỗ trợ cho

HTX 60% chi phí để đầu tư máy gặt đập liên hợp, máy cấy, máy trang

phẳng đồng ruộng...không quá 80% chi phí đầu tư trạm bơm điện, thủy lợi,

giao thông nối các khu sản xuất...Ngoài ra, HTX có 50% nông dân áp dụng

3 giảm 3 tăng, Dự án sẽ hỗ trợ cơ sở hạ tầng, hàng hóa thiết bị; nếu HTX

có 50% nông dân áp dụng 1 phải 5 giảm thì Dự án sẽ hỗ trợ hợp đồng liên

kết, xây dựng tiêu thụ, cung cấp các dịch vụ nông nghiệp...

1.3.2. Bài học kinh nghiệm

Khảo cứu về quản lý Nhà nước đối với HTX trong nông nghiệp tại

các địa phương nêu trên cho thấy:

Thứ nhất, để phát triển HTX địa phương đều nhận thức rõ về vị trí,

vai trò của HTX, bắt đầu từ việc quán triệt các nghị quyết của Đảng, xây

dựng được chương trình hành động toàn diện, cụ thể; đề ra các chỉ tiêu và

biện pháp sát thực tế, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, đi kèm theo đó là cân

đối được các nguồn lực, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

29

Thứ hai, có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy chính quyền

các cấp, nhất là người đứng đầu. Trong những năm qua, những địa phương

có HTX nông nghiệp phát triển đều có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp

ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; có sự phân

công cán bộ trực tiếp chỉ đạo một số chương trình trọng điểm trong nông

nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với phát triển HTX, tổ

chức thực thi các chính sách hỗ trợ HTX một cách đồng bộ, có trọng tâm,

trọng điểm.

Thứ ba, trên cơ sở các chính sách hỗ trợ do Trung ương quy định,

tỉnh cần xây dựng các chính sách đặc thù, các giải pháp đột phá giúp HTX

phát triển. Cụ thể, tăng đầu tư từ ngân sách cho công tác tuyên truyền hỗ

trợ thành lập HTX; có chính sách hỗ trợ về đất đai làm trụ sở, cơ sở sản

xuất, hỗ trợ lãi suất vay vốn, hỗ trợ nhân lực quản trị HTX... Đồng thời, đổi

mới cơ chế chính sách khuyến khích các HTX liên kết với doanh nghiệp

trong tổ chức sản xuất tiêu thụ chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất của

HTX và thành viên.

Thứ tư, trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển HTX phải xuất phát từ như

cầu của thực tiễn, tôn trọng các quy luật khách quan, không gò ép, chạy

theo thành tích mà phát triển HTX, nhưng cũng không buông lỏng lãnh

đạo, chỉ đạo, quản lý hỗ trợ, tạo điều kiện để HTX phát triển bền vững.

Nhiều địa phương đã chú trọng đến phát triển kinh tế tập thể, HTX, tổng

kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình mới, hiệu quả.

Thứ năm, ở từng cấp tỉnh, huyện, xã cần có phân công cơ quan quản

lý HTX thống nhất, các sở của tỉnh có phòng chuyên môn quản lý chuyên

trách, ở huyện phân công Phòng Tài chính kế hoạch tham mưu cho UBND

huyện quản lý Nhà nước về HTX nói chung, giao cho Phòng Nông nghiệp

30

và phát triển nông thôn trực tiếp theo dõi, quản lý, hướng dẫn và thực hiện

các chính sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã đi sâu vào phân tích khái niệm của HTX, khái quát một

số mô hình HTX ở Việt Nam, qua đó rút ra những kinh nghiệm trong quản

lý nhà nước về HTX. Nêu lên cơ sở pháp lý của việc xây dựng và phát triển

HTX và những nội dung quản lý nhà nước đối với HTX, trong đó có đi vào

những nội dung cụ thể của quản lý Nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở

cấp huyện. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của HTX nông nghiệp đối với sự

phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Tham khảo kinh nghiệm quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp của một số địa phương, từ đó rút ra

kinh nghiệm. Đây là cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển HTX

nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng, đồng thời là cơ sở để đối chiếu

công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong thực tiễn.

31

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH

THƯỢNG TỈNH KIÊN GIANG

2.1. Tổng quan về quá trình xây dựng HTX trong nông nghiệp

trên địa bàn huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang

2.1.1. Khái quát về kinh tế - xã hội huyện U Minh Thượng

Diện tích tự nhiên của huyện là 43.270 ha; huyện U Minh Thượng

sản xuất nông nghiệp là chính, kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông

nghiệp, cụ thể như diện tích đất nông nghiệp chiếm 40.750 ha, còn lại là đất

phi nông nghiệp. Khí hậu ở huyện U Minh Thượng ấm áp quanh năm rất

thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ

sản. Người dân U Minh vốn có truyền thống cần cù, không ngại gian khổ

khó khăn, sáng tạo trong sản xuất và xây dựng, từng thời kỳ đã đầu tư khai

thác tiềm năng sẳn có không ngừng đưa kinh tế - xã hội của huyện ngày

một phát triển đi lên.

Với diện tích đất quy hoạch sản xuất nông nghiệp 40.750 ha, chiếm

78% diện tích tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp 32750 ha, đất lâm nghiệp

8.000 ha. Do đặc diểm, điều kiện tự nhiên chi phối, sản xuất nông nghiệp ở

huyện hình thành 2 vùng sinh thái lớn gồm: vùng nước ngọt trong vùng

đệm vườn quốc gia và vùng nhiễm mặn thuộc các xã trên địa bàn huyện.

Do đó, tiềm năng phát triển nông nghiệp ở huyện phong phú, đa dạng bao

gồm: sản xuất lúa, trồng mía, khóm, rau màu, cây ăn trái, nuôi tôm, cá

đồng, rừng và các đặc sản vườn rừng..v..v... diện tích gieo trồng lúa là

21.000 ha, sản lượng 220.000 tấn, diện tích mía 3500 ha, sản lượng

245.000 tấn, là vùng nguyên liệu mía của hai nhà máy đường ở Cà Mau và

Hậu Giang; diện tích chuối và cây ăn trái khác 1.200 ha, sản lượng 20.700

32

tấn; khóm diện tích 525 ha, sản lượng 12.600 tấn. Các loại gia súc, gia cầm

cho sản lượng thịt hàng năm 17.600 tấn. Ngoài ra còn có 7200 ha nuôi tôm,

sản lượng 2160 tấn, có 3200 ha diện tích cá đồng nuôi xen trong ruộng lúa,

nương mía, nương chuối, liếp khóm và rừng tràm sản lượng 640 tấn.

Dân số huyện U Minh Thượng năm 2015 là 81000 người, với mật độ 160 người/ 1km2. Trong đó người kinh chiếm 89 %, Khơmer chiếm 8,2 %

và người hoa chiếm 2,8 %. Lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp

là chủ yếu chiếm 80 %.

Tóm lại, huyện U Minh Thượng có đủ điều kiện để phát triển một

nền kinh tế - xã hội toàn diện với thế mạnh nông nghiệp, nuôi trồng thủy

sản, khai thác tiềm năng du lịch từ Vườn Quốc Gia và các sản phẫm từ

rừng.

Tuy nhiên là huyện nghèo, cơ sở hạ tầng thấp kém, sản xuất phụ

thuộc vào thiên nhiên là chính, đất đai phần lớn bị nhiễm phèn mặn vào

mùa khô, việc bố trí sản xuất phải chú ý đến đất đai từng vùng. Là huyện

có hệ thống sông ngòi chằng chịch, tuy nhiên do lượng dòng chảy chậm,

nên độ bồi lắng nhanh, rất tốn kém trong việc đầu tư nạo vét các kệnh thuỷ

lợi hàng năm. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng trình độ và mặt bằng dân trí

thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao (10,8% năm 2016), đời sống nhân dân

gặp nhiều khó khăn. Những hạn chế này ít nhiều tác động đến quá trình

quản lý và phát triển kinh tế hợp tác nói chung và HTX trong nông nghiệp

trên địa bàn huyện nói riêng.

2.1.2. Quá trình xây dựng HTX nông nghiệp

- Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1980

Khi Miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất Tỉnh Kiên

Giang trong đó có huyện U Minh Thượng thực hiện Chỉ thị 43 của Ban bí

thư Trung ương Đảng, Quyết định 118 của Chính phủ, đã tiến hành điều

33

chỉnh lại ruộng đất, trang trãi đất đai cho các hộ nông dân không có đất

hoặc thiếu đất sản xuất. Trên cơ sở đó huyện đã tiến hành quy hoạch lại sản

xuất, đẩy mạnh khai hoang phục hoá, thâm canh tăng vụ. Đồng thời, chuẩn

bị mọi mặt để tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông

nghiệp.

Giai đoạn này huyện đã xây dựng được 55 tập đoàn sản xuất, trong

những năm đầu các tập đoàn này được sự giúp đở và hỗ trợ của Nhà nước

về nhiều mặt như thuỷ lợi, cơ giới, giống, thuốc trừ sâu và nguồn

vốn..v.v…. Cho nên phong trào lúc đó có phát huy những mặt tác dụng tích

cực.

Tuy nhiên, đến năm 1979 phong trào hợp tác hoá giảm sút, có nhiều

tập đoàn bị tan rã, sở dĩ có tình hình trên là vì trong quá trình tổ chức thực

hiện nhà nước mắc phải những sai lầm thiếu sót như: chủ quan nóng vội,

muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, làm sai với những điều nguyên lý

chủ nghĩa Mac – Lê Nin đưa ra như: thiếu dân chủ đối với nông dân, gò ép

cưỡng bức họ vào các tập đoàn sản xuất, phân phối sản phẫm thiếu bình

đẳng, xây dựng quan hệ sản xuất quá cao trong khi tính chất và trình độ lực

lượng sản xuất ở mức thấp.

- Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1985

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Huyện U

Minh Thượng tiếp tục vận động nông dân vào con đường làm ăn tập thể,

với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư nội dung nói về “Khoán sản phẫm đến

nhóm lao động và người lao động”.

Chỉ thị ra đời là một bước đổi mới trong lĩnh vực quản lý và một

phần về tổ chức của mô hình hợp tác hoá Nông nghiệp, người nông dân

nhận phần đất khoán, họ có quan tâm hơn đối với mảnh ruộng, miếng

vườn, từ đó năng suất lao động tăng hơn, một số đơn vị kinh tế tập thể làm

34

ăn hiệu quả hơn như tập đoàn sản xuất: Quyết tâm xã Thạnh Yên, HTX

kinh 1B xã Đông Yên, Tập đoàn sản xuất Thành Công xã Thạnh Yên..v.v..

Chỉ thị 100 đã tạo nên không khí phấn khởi trong nông dân, người nông

dân hăng hái nhiệt tình hơn đối với tập đoàn sản xuất, HTX.

- Giai đoạn 1986 đến năm 1990

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 tạo ra bước ngoặc trên

con đường đổi mới mà trọng tâm là đổi mới tư duy về kinh tế trên mặt trận

sản xuất nông nghiệp, có nhiều diễn biến mới, cơ chế khoán sản phẫm theo

tinh thần Chỉ thị 100 lúc đầu có phát huy tốt tác dụng, bên cạnh đó Bộ

Chính trị đã tổng kết Chị thị 100 và ngày 5/4/1988 đã ban hành Nghị quyết

10 “Đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp”.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá VI, Tỉnh uỷ Kiên Giang có

kế hoạch chỉ đạo cũng cố phong trào hợp tác hoá, nhưng nghị quyết Trung

ương 8 không được triển khai và tổ chức thực hiện đến nơi đến chốn trên

địa bàn huyện, cho nên sau những vụ tranh chấp ruộng đất, tranh chấp về tư

liệu sản xuất nhiều tập đoàn sản xuất, HTX sa sút trong tổ chức quản lý và

hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, đến năm 1990 các xã trên địa bàn

huyện đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng hợp tác hoá trong nông nghiệp

với 6 HTX nông nghiệp và 24 tập đoàn sản xuất dựa trên cơ sở tập thể hoá

về ruộng đất, đưa hơn 90% diện tích đất sản xuất lúa vào hợp tác hoá,

phong trào kinh tế hợp tác và HTX cũng đạt được những kết quả bước đầu

trong việc phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật như: mở mang

thuỷ lợi, cải tạo mặt bằng đồng ruộng, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất, đào tạo đội ngũ cán bộ; đặc biệt là góp phần xoá bỏ tập quán sản

xuất quản canh một vụ năng suất thấp, thúc đấy phong trào thâm canh tăng

vụ, tăng năng suất.

- Giai đoạn 1991 đến năm 1995

35

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định vai

trò, vị trí của kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, với

thời gian khá lâu Đảng, Chính phủ và các ngành chức năng mới ra các văn

bản để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VII về phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp.

Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Kiên Giang đã chỉ đạo cho các ngành chức

năng rà soát lại các loại hình kinh tế hợp tác trước đây để tiến hành củng cố

xây dựng và phát triển phù hợp với cơ chế quản lý mới.

Nhìn chung, đây là các tổ chức được quần chúng các giới tham gia,

trên tinh thần tự nguyện, dân chủ cùng có lợi. Đó cũng chính là tiền đề, là

cơ sở để xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác ở mức cao hơn.

- Giai đoạn từ 1997 đến 2003

Triển khai Chỉ thị 68-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về

"Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế", tỉnh Kiên

Giang đã xây dựng Chương trình hành động về đổi mới và phát triển kinh

tế hợp tác đa dạng trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang,

Tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 68 và chỉ đạo các

Huyện cũng phải thành lập Ban Chỉ đạo, đồng thời đề ra một số nhiệm vụ

cần phải tập trung thực hiện để phát triển và quản lý HTX trong nông

nghiệp. Có thể khẳn định giai đoạn này quản lý nhà nước gặp nhiều khó

khăn, nhưng với quyết tâm trong triển khai thực tế và tổng kết thực tiển đã

cho thấy nhiều tiềm năng để phát triển HTX bậc cao trong thời gian tiếp

theo.

- Giai đoạn từ năm 2003 đến 2012

Quán triệt Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18-3-2002 của Hội nghị

lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) và Chỉ thị số 20-

36

CT/TW ngày 02-01-2007 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, phát triển và

nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Huyện U Minh Thượng đã tập trung chỉ

đạo phát triển kinh tế tập thể trên các lĩnh vực, nhất là nông nghiệp, nông

thôn và đã có bước chuyển biến tích cực. Kinh tế HTX đã góp phần chuyển

dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông

thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức thu nhập của hộ nông dân, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương.

Nhận thức được vai trò quan trọng của HTX trong sản xuất nông

nghiệp, khi Luật HTX sửa đổi năm 2006 ban hành và có hiệu lực, Huyện

đã quan tâm chỉ đạo củng cố kiện toàn tổ chức HTX hiện có và chuyển đổi,

xây dựng mới theo Luật HTX năm 2006. Kết quả đến năm 2010 toàn

Huyện có 12 HTX nông nghiệp, tăng 3 HTX so với trước năm 2006 (chủ

yếu được hình thành từ các Tổ hợp tác, Tổ nhân dân tự quản, Câu lạc bộ

khuyến nông, Chi hội làm vườn ...) với 1.520 hộ xã viên, thu hút 4.560 lao

động trong HTX. Tổng vốn điều lệ 2.400 triệu đồng, với 2.370ha đất sản

xuất nông nghiệp.

Các HTX chuyển đổi và được thành lập mới xuất phát từ nguyện

vọng của các hộ nông dân và người lao động. Các HTX hoạt động theo

nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thỏa thuận mức góp vốn, thống

nhất phương hướng mục tiêu sản xuất, kinh doanh. Đại hội xã viên thông

qua vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý và điều hành của Ban chủ nhiệm;

nội dung hoạt động của HTX được cụ thể hóa và bàn bạc dân chủ từ khâu

xây dựng kế hoạch, phân công người chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức sản

xuất kinh doanh, có báo cáo hàng tháng, quý và hạch toán lợi nhuận cả mùa

vụ. chính vì vậy hầu hết các HTX nông nghiệm làm ăn có hiệu quả. Từng

bước đã có những liên doanh, liên kết với nhau giữa HTX với HTX, giữa

HTX với các doanh nghiệp. Thông qua các hình thức liên doanh liên kết

37

các HTX đảm bảo được việc cung ứng kịp thời. Có kế hoạch các loại giống

cây trồng, vậy nuôi, vật tư nguyên liệu, phục vụ cho sản xuất, ký kết hợp

đồng bao tiêu sản phẩm quy mô lớn. Điển hình là trong thời gia qua, Công

ty mía đường Hậu Giang và Cà Mau đã ký hợp đồng với các HTX trồng

mía bao tiêu sản phẩm hết sản lượng mía trên địa bàn Huyện; Công ty

Thương mại dịch vụ Kiên Giang ký kết với một số HTX trồng lúa theo

phương thức Công ty bán phân bón, thuốc trừ sâu trả chậm trong thời gian

4 tháng, hoặc theo thời vụ. Về phía HTX, có nghĩa vụ bán lại lúa cho Công

ty theo giá thỏa thuận. Từ chổ các xã viên được HTX cung cấp phân bón,

thuốc trừ sâu trả chậm với giá cả hợp lý, chất lượng đảm bảo và không phải

cầm cố, thế chấp tài sản, đã giúp xã viên yên tâm đầu tư sản xuất, kinh

doanh, hạn chế việc ép giá và cho vay nặng lãi ở nông thôn... góp phần

giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh

và giải quyết ổn định đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp làm ra.

Qua khảo sát phân loại, theo số liệu thống kê của Huyện, các HTX

hoạt động sản xuất kinh doanh khá giỏi ngày càng tăng. Năm 2006 HTX

khá chiếm 35,34%, trung bình chiếm 52,58%; yếu kém 12,06%. Năm 2012,

HTX khá giỏi chiếm 61,20%; trung bình chiếm 35,07%; yếu kém giảm còn

3,73%. Điều hành của HTX giỏi trong sản xuất nông nghiệp là: HTX Công

sự (xã An Minh Bắc); HTX Tiên Phong (xã Minh Thuận); HTX Thuận Yên

(xã Thạnh Yên).v.v...

Đi đôi với củng cố, phát triển HTX, Thực hiện theo sự chỉ đạo của

Tỉnh, Huyện U Minh Thượng đã quan tâm thực hiện các chính sách hỗ trợ

về vốn, kỹ thuật, khuyến nông, môi giới thông tin thị trường, đầu tư xây

dựng trạm bơm, xuống điện phục vụ bơm tưới...góp phần nâng cao năng

suất, tăng giá trị sản phẩm cho xã viên. Ví dụ về hỗ trợ tín dụng, đầu tư

công nghệ mới, Tỉnh có chủ trương hỡ trợ lãi xuất cho vay(hình thức tính

38

chấp) đới với Tổ hợp tác, HTX để nông dân tiếp cận nguồn vốn vay mua

máy cày, máy xới, máy sấy, máy gặt đập liên hợp, máy tuốt lúa...Từng

bước cơ giới hóa nông nghiệp, thay đổi tập quán sản xuất nhỏ lẽ, thủ công,

tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Huyện cử cán bộ khoa

học-kỹ thuật, cán bộ khuyến nông, cán bộ thú y trực tiếp hướng dẫn xã viên

HTX. Góp phần nâng cao năng lực, quy mô trình độ cơ giới hóa sản xuất

của nông dân trong Huyện. Giai đoạn này, toàn Huyện thực hiện cơ giới

hóa khâu làm đất đạt 95% diện tích sản xuất lúa, 30% diện tích gieo sạ

bằng công cụ cải tiến (sạ hàng) 100% khâu tuốt hạt, 90% diện tích bơm

tưới bằng điện, động lực. (Trong đó có 25% diện tích đặt bơm tưới bằng

động cơ điện) 70% sản lượng lúa được sấy bằng máy; 50% diện tích được

thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp.

Mặc dù tình hình sản xuất, kinh doanh của HTX ở Huyện đã đạt

được một số kết quả tích cực. Song vẫn còn những tồn tại, hạn chế, tiềm ẩn

nhiều rủi ro, thiếu bền vững, đó là: HTX tuy có bước phát triển nhưng còn

chậm, hiệu quả chưa cao; chất lượng, số lượng, giá trị sản phẩm nông

nghiệp của các HTX còn đơn điệu, bó hẹp cả về quy mô và địa bàn; hầu hết

các HTX chưa tổ chức được các dịch vụ gia tăng thu nhập cho xã viên (như

dịch vụ sơ chế sản phẩm rau quả, tổ chức sản xuất các sản phẩm phụ từ

nông nghiệp như trồng nấm rơm, kết hợp sử dụng sản phẩm phế thải của

nông nghiệp để chăn nuôi gia súc, gia cầm.v.v...) do đó chưa phát huy hết

nguồn nhân lực dư thừa. Một số HTX chưa chú trọng khâu tích lũy vốn

(chia hết lợi nhuận). Hầu hết các HTX chưa chú trọng đến việc xây dựng

cơ sở vật chất (văn phòng, trụ sở HTX), cũng như thiếu quan tâm đến việc

xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương. Qua đó quảng bá hình ảnh, thương

hiệu, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân góp phần hiện đại hóa nông

thôn. Cho đến nay các HTX phải mượn trụ sở ấp hoặc nhà riêng để làm nơi

39

giao dịch, hội họp, vì vậy sự thu hút các hộ nông dân vào HTX còn yếu.

Những bất cập này được đúc kết từ thực tiển làm cơ sở cho việc ban hành

các chính sách mới để quản lý và phát triển HTX trong nông nghiệp.

- Giai đoạn năm 2012 đến nay

Thực hiện Luật HTX năm 2012 và các nghị định, quyết định của

Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan hướng dẫn thực hiện Luật HTX

năm 2012, trong đó có Quyết định 710/QĐ-BNN-KTHT ngày 10-4-2014

của Bộ Nông nghiệp & PTNT về kế hoạch đổi mới, phát triển các hình thức

tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Huyện U Minh Thượng tập

trung chỉ đạo chuyển đổi, xây dựng mới HTX nông nghiệp theo quy định

của luật. Tính đến cuối năm 2016 toàn huyện có 11 HTX trong nông

nghiệp. Trong đó có 9 HTX cũ chuyển đổi đăng ký lại hoạt động, 2 HTX

mới thành lập, (có 3 HTX trước đây hoạt động không hiệu quả đã làm thủ

tục giải thể).

Về thành viên và hoạt động của HTX: Hiện toàn huyện có 1.650 hộ

thành viên HTX nông nghiệp, chiếm 10,6% số hộ trong huyện, trung bình

150 thành viên/HTX. Giá trị sản xuất kinh doanh khoảng 1 tỷ đồng 1 HTX,

lợi nhuận bình quân khoảng 200 triệu đồng/HTX/năm. Thu nhập bình quân

của các thành viên và người lao động ước đạt trên dưới 1 triệu

đồng/người/tháng. Đa số các HTX nông nghiệp thực hiện các dịch vụ phục

vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt ở nông thôn bao gồm: cung ứng các

dịch vụ đầu vào (giống, phân bón, tưới tiêu), tiêu thụ nông sản quản lý và

khai thác cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực hiện liên kết

với các doanh nghiệp để đầu tư sản xuất, tiêu thụ nông sản. Một số HTX

nông nghiệp có sự đổi mới về phương thức hoạt động, ứng dụng tiến bộ kỹ

thuật vào sản xuất, thực hiện liên kết với các doanh nghiệp, do đó đã nâng

40

cao được hiệu quả hoạt động của HTX, thu nhập của các thành viên và

khẳng định được vai trò kinh tế hợp tác cho các hộ gia đình thành viên.

Về tình hình vốn, quỹ của HTX: nhìn chung các HTX nông nghiệp

đều thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh. Mức vốn trung bình của HTX đều

rất thấp và chủ yếu là vốn tài sản cố định đã sử dụng lâu năm như Trạm

bơm, máy móc và thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng đã xuống

cấp, lạc hậu. Các HTX nông nghiệp thường rất khó tiếp cận được với

nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng do không có tài sản thế chấp, hoạt

động sản xuất kinh doanh rủi ro cao, sổ sách kế toán chưa minh bạch và

chưa xây dựng được phương án kinh doanh khả thi. Trong khi đó huy động

vốn đóng góp của các thành viên rất khó khăn. Nhiều HTX thiếu chủ động,

trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.

Những hạn chế chính của các HTX nông nghiệp hiện nay là:

Việc tổ chức lại HTX hoạt động theo Luật năm 2012 còn chậm. Đến

gần nữa năm 2016 các HTX mới chuyển đổi xong. Phần lớn các HTX đăng

ký lại hoạt động còn mang tính hình thức, hoạt động vẫn chưa có sự thay

đổi, tư duy hoạt động còn nặng về hành chính, bao cấp theo phương thức

HTX cũ.

Đa số các HTX nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động

đối với các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: cung ứng giống,

vật tự, phân bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng…; còn các dịch vụ

quan trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm,

chỉ một số HTX trồng mía mới thực hiện bao tiêu sản phẩm cho nông dân.

Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và giá trị sản xuất nông

nghiệp. Bên cạnh đó, một số HTX được hình thành không đúng bản chất

của HTX theo luật quy định, chủ yếu là để hưởng các chính sách hỗ trợ của

Nhà nước.

41

Nhiều HTX nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động

và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để

đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa HTX

với thành viên; vốn ít, doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao,

một số hoạt động hình thức. Nếu xem xét trên góc độ về khả năng tái mở

rộng các hoạt động dịch vụ sản xuất và lợi ít mà HTX mang lại cho thành

viên thì hiện mới chỉ có khoảng trên 10% HTX hoạt động đạt hiệu quả cao;

khoảng 80% hoạt động trung bình và yếu; trên 8% HTX hoạt động kém

hoặc ngừng hoạt động. Do hiệu quả hoạt động hạn chế, lợi ít mang lại cho

thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham gia, gắn bó

với HTX.

Tổng quan về quá trình xây dựng và hoạt động của HTX trong nông

nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói chung và cụ thể đối với huyện U

Minh Thượng, với trãi nghiệm 42 năm, trong đó có những thành tựu, hạn

chế sẽ là kinh nghiệm tốt cho quản lý nhà nước về lính vực này trong giai

đoạn mới.

2.2. Đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước đối với HTX trong

nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng

2.2.1. Về thực hiện và ban hành văn bản pháp lý, quản lý HTX

trong nông nghiệp

- Sau khi Luật HTX năm 2012 và Nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày

21-11-2013 của Chính phủ được ban hành. Tỉnh ủy đã xây dựng Nghị

quyết về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; UBND

tỉnh xây dựng kế hoạch cụ thể hóa thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy. Thực

hiện chỉ đạo của tỉnh, huyện đã có kế hoạch tổ chức triển khai quán triệt và

tổ chức thực hiện Luật trên địa bàn huyện.

42

Huyện ủy xây dựng chương trình xây dựng và phát triển kinh tế hợp

tác giai đoạn 2012-2020, theo đó UBND huyện xây dựng kế hoạch cụ thể

hóa thực hiện chương trình hành động của Huyện ủy.

Sở Nông nghiệp tỉnh có văn bản hướng dẫn chỉ đạo HTX tổ chức lại

hoạt động theo Luật HTX, theo đó huyện áp dụng thực hiện.

Luật HTX năm 2012 có hiệu lực cùng các nghị định, thông tư và các

văn bản hướng dẫn thực hiện luật đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng, khá

đồng bộ, cụ thể thuận lợi cho HTX phát triển, bước đầu góp phần tạo bước

chuyển biến trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân về mô hình tổ chức

HTX, theo đó HTX trở thành mô hình liên kết sản xuất, tương trợ nhau để

cùng phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp trong điều kiện cơ chế

thị trường.

Thực hiện Luật HTX và văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Chính phủ

và Bộ ngành Trung ương, Tỉnh ủy Kiên Giang đã xây dựng Nghị quyết về

phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2012-2020; UBND tỉnh

xây dựng kế hoạch cụ thể hóa thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy.

Theo đó Huyện ủy U Minh Thượng đã xây dựng chương trình xây

dựng và phát triển kinh tế hợp tác giai đoạn 2012-2020 trên địa bàn huyện

và thành lập Ban Chỉ đạo tham mưu Huyện ủy thực hiện nghị quyết này;

UBND huyện xây dựng kế hoạch cụ thể hóa thực hiện chương trình của

Huyện ủy.

Sở Nông nghiệp tỉnh có văn bản hướng dẫn chỉ đạo HTX tổ chức lại

hoạt động theo Luật HTX năm 2012, trên cơ sớ đó huyện áp dụng thực

hiện.

Những văn bản pháp lý của Trung ương và các Nghị quyết, kế hoạch

thực hiện tỉnh Kiên Giang và huyện U Minh Thượng đã tạo ra cơ sở cho

kinh tế tập thể nói chung hoạt động trong đó có HTX nông nghiệp. Tuy

43

nhiên những văn bản này chỉ nói chung cho hoạt động kinh tế tập thể, chứ

chưa hướng dẫn, chỉ đạo riêng đối với HTX nông nghiệp, từ đó mà trong

áp dụng chỉ đạo thực hiện ở cấp huyện và cơ sở trong xây dựng và phát

triển HTX nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn; các văn bản thực hiện

Luật HTX chậm ban hành, có những quy định hướng dẫn chưa phù hợp đối

với HTX nông nghiệp, chưa có nghị định của Chính phủ thực hiện riêng

đối với HTX nông nghiệp, chưa có một mô hình HTX nông nghiệp chuẩn

để đáp ứng thực hiện; các chương trình, kế hoạch của tỉnh và huyện có đề

ra được mục tiêu, chỉ tiêu, quan điểm giải pháp thực hiện nhưng chưa cụ

thể, rõ ràng, không đủ nguồn lực để thực hiện, mặc khác UBND huyện, xã

chưa quan tâm đúng mức công tác xây dựng kế hoạch cụ thể phát triển

HTX nông nghiệp, hoặc xây dựng kế hoạch còn sơ sài, biện pháp thực hiện

chưa phù hợp.

2.2.2. Việc xây dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch,

chương trình chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX

- Về kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về HTX. Để thực

hiện chức năng quản lý nhà nước về HTX, huyện đã giao cho Phòng Tài

chính-Kế hoạch cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện làm đầu mối

quản lý thống nhất về HTX, Phòng Nông nghiệp và Phát triên nông thôn

theo dõi, nắm tình hình và hướng dẫn các HTX trong nông nghiệp hoạt

động. Đối với Phòng Tài chính – Kế hoạch giao trách nhiệm trực tiếp cho

đồng chí Trưởng phòng và có 01 công chức tham mưu tổng hợp tình hình

và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn về quản lý nhà nước. Đối với

Phòng Nông nghiệp giao cho 01 đồng chí Phó Trưởng phòng phụ trách

theo dõi và hướng dẫn HTX nông nghiệp hoạt động. Đối các xã phân công

01 đồng chí công chức phụ trách sản xuất tham mưu cho chủ tịch UBND

về quản lý Nhà nước các xã đối với HTX nông nghiệp.

44

Huyện đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; đưa đi tập huấn bồi

dưỡng kiến thức quản lý, điều hành HTX cho thành viên Hội đồng quản trị

cho 32 người; đào tạo trung cấp kế toán cho 9 kế toán HTX, mở 01 lớp tập

huấn về Luật HTX, báo cáo tình hình hoạt động của HTX theo Thông tư số

03 của Bộ Kế hoạch và đầu tư, Thông tư số 83 của Bộ Tài chính về chế độ

quản lý tài chính đối với HTX, kỷ năng tổ chức các dịch vụ trong HTX

nông nghiệp và quy trình thành lập HTX, tổ hợp tác cho 120 đối tượng là

thành viên Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể huyện, xã; Thành viên

Hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán HTX, tổ trưởng tổ hợp tác trên địa

bàn huyện.

- Về triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp: Tính

từ tháng 10 năm 2013 đến hết năm 2016 (sau 3 năm thực hiện Luật HTX

năm 2012), ngân sách tỉnh và huyện đã hỗ trợ phát triển HTX 4,2 tỷ đồng,

gồm hỗ trợ trên các lĩnh vực sau: hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ đầu tư

kết cấu hạ tầng, hỗ trợ xây dựng trạm bơm, hỗ trợ thành lập mới HTX, hỗ

trợ HTX tổ chức lại hoạt động, hỗ trợ vốn, giống khi thiên tai, dịch

bệnh…Phối hợp với Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội chi nhánh

tỉnh Kiên Giang để cho vay ưu đãi đối với thành viên HTX đầu tư mở rộng

sản xuất, kinh doanh, thời gian vay tối đa 20 năm tùy theo mục đích sử

dụng vốn vay, mức vay tối đa 300 triệu đồng trên một thành viên, đã có 03

HTX làm thủ tục cho thành viên vay.

Huyện đã phối hợp với các ngân hàng để đầu tư cho thành viên HTX

nông nghiệp vay lãi suất ưu đãi, đã có 2/11 HTX nông nghiệp của huyện

được các ngân hàng cho thành viên HTX vay vốn để đầu tư sản xuất, kinh

doanh, mỗi thành viên HTX được vay tối đa 300 triệu đồng với lãi suất ưu

đãi.

45

Bên cạnh đó huyện cũng đã hỗ trợ các HTX nông nghiệp liên kết sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm: Phòng Nông nghiệp đã hỗ trợ cho 03 HTX thẩm

định 04 hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với công ty trong

và ngoài tỉnh. UBND huyện ra quyết định xác nhận kết quả xây dựng vùng

nguyên liệu theo hợp đồng liên kết sản xuất sản xuất và tiêu thụ mía đến

năm 2020 các Công ty mía đường Cần Thơ và Cà Mau. Hỗ trợ HTX xây

dựng thương hiệu, chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap và tiêu thụ

sản phẩm mắm cá lưỡi trâu, khô cá sặc rằng, mật ong..v.v...

Tuy nhiên, Bộ máy tổ chức làm công tác quản lý Nhà nước về HTX

tỉnh, huyện và xã trình độ, năng lực còn yếu, chưa được đào tạo chuyên sâu

về công tác quản lý Nhà nước về HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói

riêng, cán bộ tham mưu về quản lý HTX chủ yếu là kiêm nhiệm nên thời

gian để cho công tác nghiên cứu, nắm tình hình về hoạt động của HTX và

hướng dẫn HTX hoạt động chưa kịp thời và thông tin chính xác chưa đủ

năng lực tham mưu cấp chính quyền thực hiện một cách có hiệu quả quản

lý Nhà nước đối với kinh tế HTX. Cán bộ được giao quản lý, giúp đỡ hỗ trợ

HTX chủ yếu được điều động từ các lĩnh vực khác sang hoặc cán bộ trẻ,

thiếu kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức về HTX, cán bộ quản lý

HTX trình độ rất thấp (có người chưa hết lớp 9) và chưa qua đào tạo quản

lý về HTX năng lực quản lý chưa đáp ưng được yêu cầu hoạt động của

HTX, điều kiện để nắm bắt thông tin thị trường khó khăn, nhiều cán bộ

quản lý HTX thiếu nhiệt tình công việc, tình trạng gò ép làm cán bộ quản lý

HTX còn xảy ra, nhiều cán bộ quản lý HTX chưa thật sự tâm huyết với

HTX. Việc thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế số lượng và tỷ lệ các

HTX tiếp cận được các chính sách rất thấp. Trong 12 nhóm chính sách hỗ

trợ được thống kê hàng năm, cao nhất mới có khoảng gần 3%, thấp nhất

nhóm chỉ đạt 0,13% số HTX nông nghiệp tiếp cận được chính sách.

46

Những nhóm chính sách quan trọng để hỗ trợ HTX thực hiện tốt vai

trò của HTX trong việc giúp nông dân liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ

nông sản, an toàn và có giá trị cao như các chính sách hỗ trợ phát triển

khoa học kỹ thuật, sơ chế hay chế biến sản phẩm, bảo quản sau thu

hoạch…đều đạt tỷ lệ rất thấp. Tiếp cận tín dụng vẫn là nội dung khó khăn

nhất của HTX nông nghiệp. Đến nay chưa có HTX nào có đất làm trụ sở,

chủ yếu là tạm mượn nơi để làm trụ sở hoạt động.

2.2.3. Về tổ chức và hướng dẫn đăng ký HTX

Thực hiện Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch đầu

tư hướng dẫn đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của

HTX, Kế hoạch số 114/KH-UBND ngày 2-12-2014 của UBND tỉnh về

việc chuyển đổi các HTX hoạt động theo Luật HTX năm 2012 huyện đã tổ

chức hướng dẫn các HTX hiện có trên địa bàn. Các quy trình, thủ tục

chuyển đổi đăng ký hoạt động lại, hướng dẫn quy trình, thủ tục thành lập

mới, giải thể đối với những HTX hoạt động yếu kém.

Kết quả đã có 9 HTX cũ chuyển đổi đăng ký lại hoạt động, 2 HTX

thành lập mới và có 3 HTX hoạt động yếu kém làm thủ tục giải thể tự

nguyện theo quy định của Luật HTX năm 2012. Nhìn chung, việc đăng ký

kinh doanh của HTX thuận lợi, cơ quan chuyên môn làm nhiệm vụ đăng ký

kinh doanh của huyện đã chủ động hướng dẫn đăng ký kinh doanh mới và

thực hiện chuyển đổi đăng ký kinh doanh cho các HTX nông nghiệp, các

HTX được thành lập đúng quy trình, thủ tục và thực hiện đăng ký kinh

doanh theo quy định pháp luật hiện hành, Thực hiện cơ chế một cửa trong

tiếp nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho HTX thành lập

mới, bổ sung, thay đổi nội dung hoạt động của HTX. Thời gian đăng ký

kinh doanh hoàn thành chỉ từ 01 đến 02 ngày, đối với kinh doanh có điều

kiện từ 02 đến 03 ngày.

47

Tuy nhiên củng có trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh chưa

thực hiện đúng quy định pháp luật, cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh

yêu cầu HTX có thêm các giấy tờ khác ngoài quy định pháp luật như: phải

có phương án sản xuất kinh doanh, giấy xác nhận trụ sở, danh sách xã viên,

thông báo việc thành lập HTX, có lúc UBND xã ra quyết định thành lập

HTX rồi HTX mới được đăng ký kinh doanh. Ở huyện có lúc chưa thực

hiện thống nhất về người có thẩm quyền cấp giấy đăng ký kinh doanh, có

thời gian giao cho Trưởng Phòng Tài chính-Kế hoạch, có thời gian giao

cho Trưởng Phòng Nông nghiệp cấp giấy sản xuất kinh doanh cho HTX

nông nghiệp. Công tác theo dõi quản lý Nhà nước sau đăng ký kinh doanh

chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện đầy đủ như việc xây dựng quản lý hệ

thống thông tin, cung cấp thông tin về HTX, kiểm tra HTX hoạt động theo

nội dung đăng ký kinh doanh, xác nhận hiệu quả hoạt động định kỳ hàng

năm của HTX..v.v...

2.2.4. Về thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với HTX;

xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của HTX, của cá nhân và tổ chức có

liên quan theo quy định của pháp luật

Công tác kiểm tra, giám sát tuy được thực hiện thường xuyên đối với

hoạt động của HTX nông nghiệp và tổ chức cá nhân có liên quan. Thời

gian qua chủ yếu huyện mới tập trung khảo sát nắm tình hình hoạt động,

hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện để các HTX tháo gỡ khó khăn, khi phát

hiện sai phạm nhắc nhỡ, chấn chỉnh để HTX khắc phục.

Công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật chưa được triển khai

thực hiện toàn diện, chủ yếu mới tập trung vào sửa đổi, bổ sung nội dung

điều lệ, quyết toán tài chính hàng năm, tổ chức đại hội xã viên, xử lý giải

thể HTX, nhưng cũng chưa chặt chẽ. Một số xã buông lõng việc kiểm tra,

48

giám sát thực hiện HTX, hoặc nếu có thực hiện kiểm tra, giám sát thì cũng

mang tính hình thức, hiệu quả thấp.

Tại một số HTX, xã viên không góp vốn điều lệ, nhiều xã viên ...thời

hạn quy định không góp vốn và không có tư cách xã viên; việc sữa đổi bổ

sung điều lệ các HTX thành lập trước khi Luật HTX năm 2012 có hiệu lực

còn chậm; có HTX không tổ chức đại hội, việc giải thể HTX tuy thực hiện

đúng thủ tục, nhưng tiến hành chậm, gặp khó khăn về thủ tục vì không tổ

chức được hội nghị xã viên (do không còn xã viên). Một số HTX chuyển

đổi đến nay vẫn chưa xác định được xã viên và vốn góp..v.v...

Hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát chưa thực hiện

đúng, đủ các quy định về nhiệm vụ theo điều lệ, quy định của HTX. Hiệu

quả hoạt động của Ban kiểm soát HTX thấp. Hội đồng quản trị và giám đốc

HTX chưa chủ động và tích cực trong hoạt động, thành viên của HTX chưa

nhận thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của mình trong việc thực

hiện kiểm tra, giám sát thực hiện Luật HTX.

2.2.5. Hợp tác quốc tế về phát triển HTX

Hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế bước đầu được đẩy mạnh.

Hiện nay việc phối kết hợp giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

với các Bộ, ngành khác như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ủy ban Mặt trận tổ

quốc, Hội Nông dân, Liên minh HTX Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương

trong việc tuyên truyền, hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác, HTX ngày càng

chặt chẽ. Nhiều tổ chức quốc tế và khu vực (Jica, WB, FAO, các nước

Asean) ngày càng quan tâm hỗ trợ và phát triển kinh tế hợp tác.

- UBND huyện và Phòng Nông nghiệp đã chủ động liên hệ với nhiều

doanh nghiệp thực hiện chuỗi giá trị hàng hóa nông sản cho HTX thông

qua xây dựng cánh đồng liên kết, cánh đồng lớn, kết quả đã được nhà máy

mía đường Cần Thơ và Cà Mau bao tiêu 100% sản lượng mía trên địa bàn

49

huyện và một số nông sản khác như lúa chất lượng cao, dưa hoàng

kim....Đối với huyện thực hiện tổ chức một số đoàn cán bộ quản lý HTX đi

tham quan, tìm hiểu thực tế một số HTX nông nghiệp ở một số địa phương

như Đồng Tháp, Tiền Giang, An Giang và huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên

Giang.

Tuy nhiên trên địa bàn huyện các hoạt động hợp tác trong nước và

quốc tế của HTX chưa được phát huy và trong hoạt động quản lý nhà nước

chưa được quan tâm đúng mức và không đủ điều kiện khả năng để thực

hiện chức năng này.

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Ưu điểm

- Hệ thống cơ sở pháp lý và các chính sách khuyến khích phát triển

kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp đang dần từng bước hoàn thiện

hơn, tạo cơ sở pháp lý cho HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng

hoạt động và phát triển. Hạn chế dần từng bước tình trạng ban hành cơ chế

chính sách chung chung, không sát với thực tiễn. Việc vận dụng tổ chức

thực hiện cơ chế chính sách hỗ trợ đối với HTX ở địa phương linh hoạt hơn

và đem lại hiệu quả bước đầu trong việc tạo điều kiện thành lập HTX và

giúp HTX nâng cao năng lực hoạt động.

- Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác, HTX bước

đầu được cải thiện và dần bước thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của

mình. Sự phân công, phối hợp giữa các ngành các cấp trong quản lý, hỗ trợ

HTX hoạt động ngày càng tốt hơn. Ở huyện đã có sự phân công cơ quan

tham mưu quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, ở ngành có liên

quan và xã cũng đã có bố trí cán bộ theo dõi, hướng dẫn hoạt động đối với

HTX nông nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX được quan

tâm hơn, trình độ quản lý của cán bộ HTX có bước nâng lên, nắm được vai

50

trò, chức năng của HTX để điều hành quản lý và xây dựng các phương án

kinh doanh có hiệu quả.

Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp cũng

được quan tâm thực hiện, như hỗ trợ về thành lập HTX, hỗ trợ trong vay

vốn ngân hàng, hỗ trợ, hỗ trợ liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, hỗ trợ

đầu tư cơ sở hạ tầng về thủy lợi, điện..v.v...để tạo điều kiện thuận lợi cho

HTX hoạt động.

- Việc tổ chức và đăng ký hướng dẫn đăng ký HTX được UBND

huyện chỉ đạo các cơ quan chuyên môn và UBND thực hiện đúng quy trình

thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho HTX đăng ký hoạt động mới, chuyển

đổi hoặc giải thể theo luật định.

- Công tác kiểm tra, giám sát được UBND huyện, xã thực hiện

thường xuyên, định kỳ việc hoạt động của HTX, đã tập trung kiểm tra,

giám sát những vấn đề chủ yếu thực hiện pháp luật HTX như tổ chức đại

hội xã viên, quản lý tài chính HTX, vốn điều lệ, nộp thuế cho Nhà nước,

nhằm đánh giá những mặt làm được, chưa làm được và đưa ra các giải pháp

tiếp tục thực hiện Luật tốt hơn.

- Công tác chỉ đạo xây dựng mô hình liên kết và xây dựng cánh đồng

lớn được chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt nên bước đầu đã tạo động lực để

địa phương doanh nghiệp, HTX triển khai thực hiện có hiệu quả các mô

hình liên kết, cánh đồng lớn liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đem lại

hiệu quả cao hơn trong sản xuất của nông dân.

2.3.2. Hạn chế

- Các văn bản của Trung ương về cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện

Luật HTX ban hành chậm, nhất là các văn bản hướng dẫn, về cơ chế chính

sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển về HTX được luật quy định ban hành

chậm, thiếu đồng bộ nhất là chính sách đối với HTX nông nghiệp. Có chính

51

sách cấp tỉnh chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể và thiếu nguồn lực thực

hiện, nên huyện cũng khó khăn trong triển khai thực hiện. Mặt khác các

chính sách hỗ trợ HTX tuy nhiều nhưng chưa đủ mạnh, có nhiều điều chưa

phù hợp với HTX nông nghiệp, thiếu những cơ chế chính sách mang tính

đột phá để hỗ trợ mạnh mẽ và thiết thực cho HTX nông nghiệp. Thủ tục

rườm rà và thiếu nguồn lực cả về tài chính và con người để hỗ trợ HTX nên

nhiều chính sách chưa đi vào thực tiễn.

Mặc dù Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành kế

hoạch đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác giai đoạn 2014-2020 nhưng

việc triển khai thực hiện còn chậm. Ở địa phương công tác quy hoạch, kế

hoạch phát triển kinh tế hợp tác, HTX chưa được quan tâm đúng mức, biện

pháp tổ chức thực hiện có nội dung chưa sát hợp tình hình và yêu cầu phát

triển sản xuất nông nghiệp của huyện; chưa tổ chức sơ, tổng kết rút kinh

nghiệm về kinh tế hợp tác nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng để đề

ra phương hướng chỉ đạo thời gian tới.

Mặc dù công tác tuyên truyền về kinh tế hợp tác, HTX đã có những

tiến bộ, nhưng còn thiếu chiến lược tuyên truyền chưa đi vào chiều sâu và

thiếu thường xuyên. Vì thế nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất của kinh tế

hợp tác, HTX trong cán bộ và nhân dân chuyển biến còn chậm, chưa đáp

ứng yêu cầu. Ở một số xã vẫn coi HTX nông nghiệp như công cụ của chính

quyền, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chính quyền cấp xã hơn là một

tổ chức kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Có nơi cấp ủy, chính quyền can

thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX nông nghiệp

hoặc thiếu sự quan tâm buông lõng quản lý, khiến một số HTX hoạt động

không hiệu quả, trông chờ vào chính sách ưu đãi của nhà nước.

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hỗ trợ phát triển kinh tế HTX

ở cấp huyện và cấp xã chưa hoàn chỉnh, vừa thiếu vừa yếu về kỷ năng

52

nghiệp vụ, cán bộ quản lý Nhà nước về HTX chủ yếu là phân công kiêm

nhiệm nên trong hoạt động còn nhiều hạn chế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác tuy có quan tâm nhưng cán bộ

phụ trách lĩnh vực thay đổi nhiều, dẫn đến năng lực quản lý tổ chức hoạt

động còn nhiều hạn chế.

- Công tác tổ chức triển khai thực hiện Luật HTX năm 2012 ở địa

phương còn lúng túng, nhất là trình tự, thủ tục thực hiện việc đăng ký lại

HTX và thành lập mới HTX, do vậy tiến độ đăng ký lại HTX và thành lập

mới HTX rất chậm, hầu hết các HTX chuyển đổi trên địa bàn huyện đều

chậm so với thời gian Luật quy định (ngày 1/7/2016). Việc củng cố, phát

triển hoặc giải thể các HTX hoạt động yếu kém cũng như thực hiện triệt để

và hiệu quả, kết quả không được như mong muốn. Ngoài tiến độ chậm vẫn

còn tình trạng thực hiện đăng ký lại hoạt động của HTX một cách hình

thức, chiếu lệ vì thế kết quả “bình mới rượu cũ” vẫn tiếp tục diễn ra. Việc

xây dựng mô hình HTX, mô hình liên kết hợp tác trong chuỗi giá trị với

doanh nghiệp chưa được triển khai sâu rộng. Một số ngành, xã chưa quan

tâm đầy đủ đến công tác tổng kết rút kinh nghiệm và xây dựng mô hình phù

hợp với điều kiện thực tế cùa từng lĩnh vực, địa bàn. Việc tuyên truyền

nhân rộng các mô hình HTX làm ăn có hiệu quả còn hạn chế. Chưa xây

dựng được tiêu chí phân loại HTX nông nghiệp nên việc định giá hiệu quả

hoạt động của HTX nông nghiệp tính sát thực chưa cao. Công tác báo cáo

theo hệ thống về tình hình xây dựng phát triển và hoạt động của HTX nông

nghiệp có lúc không kịp thời, đầy đủ nên khó khăn cho việc theo dõi chỉ

đạo, thực hiện trên thực tiễn. Theo quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là

ngày 15/1 hàng năm.

Việc thực hiện đăng ký kinh doanh của HTX nông nghiệp còn có sự

chồng chéo giữa Phòng Tài chính-Kế hoạch và Phòng Nông nghiệp, thủ tục

53

hành chính còn gồm rà; việc hướng dẫn của cơ quan chuyên môn và cán bộ

phụ trách đăng ký kinh doanh có trường hợp chưa đúng quy định, việc

thẩm định hồ sơ đăng ký kinh doanh của HTX có lúc chưa chặt chẽ để sai

sót hoặc phải tốn kém thời gian của HTX.

- Công tác kiểm tra, giám sát thi hành luật chưa được triển khai thực

hiện toàn diện, còn một số nội dung chưa được quan tâm kiểm tra, giám sát

để chấn chỉnh kịp thời, việc xử lý vi phạm qua kiểm tra chưa thực hiện triệt

để, công tác kiểm tra, giám sát còn mang tính hình thức. Công tác kiểm tra,

giám sát chỉ mới thực hiện theo định kỳ. Hoạt động của Ban kiểm soát

HTX còn yếu.

- Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện hợp tác quốc tế về HTX của chính

quyền huyện, xã tuy có quan tâm nhưng có những khó khăn tác động từ

điều kiện kinh tế-xã hội, vị trí địa lý của huyện, nên việc kêu gọi đầu tư của

các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của HTX

nông nghiệp làm ra rất hạn chế. Chỉ có một số hàng hóa nông sản của các

HTX trong huyện được bao tiêu sản phẩm nhưng cũng mang tính vụ chưa

thật vững chắc.

Trình độ, năng lực giao tiếp của cán bộ quản lý HTX hạn chế nên

cũng khó khăn trong quan hệ kêu gọi đầu tư, trong thực hiện các hợp đồng

kinh tế về liên kết, bao tiêu hàng hóa nông sản..v.v....

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Nguyên nhân của những hạn chế trên của công tác quản lý nhà nước

trên địa bàn huyện đó gồm:

Một là, công tác tổ chức triển khai thực hiện Luật HTX còn lúng

túng, chồng chéo trong chỉ đạo và thực hiện, Năng lực và kinh nghiệm của

bộ máy quản lý nhà nước và các đơn vị cung cấp dịch vụ cho các HTX

chưa đáp ứng yêu cầu; còn có sự lúng túng trong thực hiện chức năng,

54

nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Sự vào cuộc của hệ

thống quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa mạnh

mẽ. Bộ máy quản lý nhà nước và các đơn vị cung cấp dịch vụ cho HTX

năng lực yếu, thiếu cán bộ nên còn lúng túng trong thực hiện chức năng,

nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Hai là, nhận thức của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, các phòng,

ban ngành huyện và các xã, cán bộ và nhân dân về tầm quan trọng, vai trò,

vị trí của HTX trong phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đầy đủ và

đúng với quan điểm chủ trương phát triển kinh tế hợp tác nói chung, HTX

trong nông nghiệp nói riêng.

Ba là, sự phân công nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp giữa các cơ quan ban ngành từ Trung ương xuống địa phương (cấp

tỉnh, huyện, cấp xã), chưa thật sự rõ ràng, vẫn còn xảy ra tình trạng chồng

chéo giữa các cơ quan, ban ngành.

Bốn là, nhiệm vụ phát triển kinh tế HTX là nhiệm vụ khó khăn, kết

quả và tác động các giải pháp chính sách không đến lập tức mà đến từ từ,

đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn. Bên cạnh đó HTX đã bị rơi vào tình trạng yếu

kém trong thời gian dài do ảnh hưởng của mô hình HTX cũ rất trầm trọng

không dễ gì thay đổi một sớm một chiều.

Năm là, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương công tác kiểm tra, đôn

đốc thực hiện Luật HTX, thực hiện các chính sách đối với HTX nông

nghiệp chưa được quan tâm, việc giám sát kiểm tra và xử lý những sai

phạm trong việc thực hiện Luật HTX như vấn đề không tổ chức đại hội xã

viên hàng năm, các HTX đã ngưng hoạt động trên 01 năm không giải thể,

hoặc công tác báo cáo tài chính định kỳ…chưa được các cơ quan chức

năng quản lý nhà nước xử lý kịp thời và kiên quyết.

55

Tiểu kết chương 2

Chương 2 đã nêu lên đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của huyện U

Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, về quá trình xây dựng và phát triển HTX

nông nghiệp trên địa bàn huyện qua từng giai đoạn từ năm 1975 đến khi có

Luật HTX năm 1996 và quá trình xây dựng và phát triển HTX theo các

Luật HTX năm 1996, 2003, 2012 đến nay (năm 2016). Qua đó đánh giá

những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của công tác quản lý nhà

nước đối với HTX trong nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng.

Đây là cơ sở để đưa ra những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối

với HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng trong thời gian

tới.

56

Chương 3

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN U MINH

THƯỢNG TỈNH KIÊN GIANG

3.1. Định hướng phát triển Hợp tác xã giai đoạn 2016-2020

3.1.1. Quan điểm phát triển

- Đảm bảo nguyên tắc hoạt động HTX theo Nghị quyết TW5 (khóa

IX) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dựa trên sở hữu của các thành

viên và sở hữu tập thể; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ

tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm;

tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.

- Đảm bảo được lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích của các

thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội, góp phần

giảm nghèo, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển.

- Phát triển HTX trong nông nghiệp phải căn cứ vào đường lối quan

điểm của Đảng về nông nghiệp, nông thôn, nông dân; gắn với đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới;

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phát triển HTX theo phương châm xuất phát từ nhu cầu thực tiễn,

đi từ thấp đến cao vững chắc, đạt hiệu quả thiết thực, không chạy theo hình

thức số lượng; gắn với các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội của

huyện; nhất là chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với HTX, thực hiện tốt các

chính sách khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế HTX. Khơi dậy ý

thức tự vươn lên của các HTX, đồng thời có sự hỗ trợ của nhà nước tạo

điều kiện cho HTX hoạt động có hiệu quả.

57

3.1.2. Mục tiêu, chỉ tiêu

- Mục tiêu tổng quát: phát triển HTX với quy mô, tốc độ hợp lý và

bền vững. Phát triển có chọn lọc, chỉ thành lập mới HTX (kể cả quỹ tín

dụng nhân dân) ở những nơi có điều kiện, có nhu cầu thực sự của nhân dân

về sản xuất và đời sống. Tập trung phát triển HTX trong nuôi trồng thủy

sản, trồng lúa, trồng mía, chuối và rau màu.

- Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020 phấn đấu có trên 80% HTX hoạt

động có lãi. Trung bình đạt trên 50% HTX khá giỏi, 40% trở lên HTX

trung bình, hạn chế thấp nhất HTX yếu kém. Thu nhập bình quân của thành

viên HTX, người lao động trong HTX dạt 100 triệu đồng/hộ/năm. Từng

bước hình thành liên HTX trên địa bàn huyện. Có 100% cán bộ quản lý

HTX được bồi dưỡng, tập huấn. Cán bộ quản lý nhà nước về HTX cơ bản

qua đào tạo bồi dưỡng quản lý nhà nước.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với Hợp tác

xã trong nông nghiệp

3.2.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý, cơ chế chính sách phát triển

HTX

Trung ương cần nghiên cứu xây dựng ban hành nghị định riêng về

HTX nông nghiệp để từ đó có những cơ chế chính sách phù hợp với HTX

nông nghiệp. Khẩn trương ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn theo

luật định và tổ chức triển khai thực hiện. Rà soát sửa đổi bổ sung, hoàn

thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông

nghiệp, đặc biệt là chính sách về cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực, đất đai,

tài chính-tín dụng, khoa học-công nghệ và thị trường. Nhà nước cần có

chính sách hỗ trợ về lương cho đội ngũ cán bộ HTX trong giai đoạn đầu

mới thành lập, mới chuyển đổi. Có cơ chế đột phá để giải quyết vốn tín

dụng cho HTX nông nghiệp, cho vay đối với HTX theo cơ chế bảo lãnh. tín

58

chấp, miễn hoặc giảm thuế cho HTX. Có chính sách cho HTX thuê quỹ đất

công của địa phương, hoặc giao đất để tạo điều kiện cho HTX mở rộng

nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tăng cường năng lực, hiệu lực bộ

máy quản lý nhà nước từ trung ương đến tỉnh, huyện và xã về kinh tế tập

thể và HTX. Phân công, phân cấp rõ ràng cụ thể trách nhiệm của từng cấp,

từng ngành trong tổ chức thực hiện, trong ban hành cơ chế chính sách, phân

bổ nguồn lực tài chính, trong công tác quản lý, điều hành thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể và HTX trong nông nghiệp.

3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý và tăng cường công tác đào tạo bồi

dưỡng cán bộ, công chức quản lý HTX

Đối với huyện sẽ thành lập Ban Chỉ đạo kinh tế tập thể do Thường

trực cấp ủy làm Trưởng Ban, Thường trực UBND huyện làm phó ban và cơ

cấu các phòng, ban, mặt trận và các đoàn thể là thành viên, trong đó có

phân công một tổ chỉ đạo về xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp. Về

tổ chức bộ máy quản lý nhà nước cấp huyện giao cho Phòng Tài chính-kế

hoạch quản lý nhà nước chung về kinh tế hợp tác, Phòng Nông nghiệp và

phát triển nông thôn quản lý chuyên trách về hợp tác nông nghiệp, trong

Phòng Nông nghiệp phân công trực tiếp một đồng chí phó phòng và một

chuyên viên trực tiếp tham mưu, theo dõi, quản lý đối với HTX nông

nghiệp. Đối với các xã phân công đồng chí phó chủ tịch Ủy ban nhân dân

phụ trách sản xuất và một công chức phụ trách về xây dựng và phát triển

kinh tế hợp tác nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng. Bảo đảm quyền

lợi cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập

thể nói chung, quản lý HTX nông nghiệp nói riêng.

Đối với tỉnh cũng cần phân công cụ thể rõ ràng thẩm quyền, nhiệm

vụ của Sở ngành tỉnh trong quản lý, hướng dẫn và thực hiện các chính sách

hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp. Nhất là phân công cụ thể giữa Liên minh

59

HTX của tỉnh với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và

đầu tư.

Các phòng, ban ngành huyện và ủy ban nhân dân các xã cần tập

trung nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hợp tác nông nghiệp. Theo đó

trên cơ sở quy hoạch chung, quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp của

huyện, của xã. Tập trung xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển

HTX nông nghiệp và đề ra giải pháp cân đối các nguồn lực để triển khai

thực hiện, chủ động rà soát, ban hành, bổ sung, vận dụng các chính sách

khuyến khích phát triển HTX, có biện pháp lòng ghép kế hoạch phát triển

hợp tác nông nghiệp trong các chương trình dự án, đề án phát triển kinh tế-

xã hội hàng năm và 5 năm của huyện và từng xã.

Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về kinh tế tập thể đội ngũ

cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, giám đốc, ban kiểm soát các HTX.

Nghiên cứu đưa nội dung quản lý về kinh tế tập thể vào trong chương trình

đào tạo, bồi dưỡng tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Đồng thời đưa

cán bộ đi đào tạo chuyên sâu về chuyên môn quản lý kinh tế tập thể tại các

trường tỉnh và Trung ương.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý

Nhà nước về HTX từ huyện đến xã, đối với cán bộ Phòng Tài chính-kế

hoạch và Phòng Nông nghiệp phụ trách tham mưu quản Nhà nước về HTX

cần phải có trình độ chuyên môn về quản lý kinh tế và được bồi dưỡng

chuyên sâu về quản lý HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng. Đối

với công chức xã phụ trách về HTX ít nhất cũng được đào tạo về trung cấp

quản lý hành chính, trung cấp kinh tế hoặc đại học nông nghiệp và bồi

dưỡng thường xuyên về quản lý HTX nông nghiệp.

Đối với cán bộ quản lý HTX nông nghiệp cần có chính sách khuyến

khích đối tượng này học nâng lên trình độ văn hóa, tổ chức đào tạo bồi

60

dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế, về quản lý HTX nông nghiệp, kiến

thức kinh tế thị trường, kỷ năng nắm bắt thông tin thị trường.

Trung ương và tỉnh cần nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung

tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về

HTX và cán bộ quản lý HTX phù hợp với tùng đối tượng. Theo hướng có

một chương trình giãng dạy chuyên sâu về quản lý điều hành đối với HTX

nông nghiệp, trong cán bộ quản lý HTX nông nghiệp như giám đốc, Hội

đồng quản trị, Ban kiểm soát, thành viên. Mỗi đối tượng này cần có một

chương trình tập huấn riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đối

tượng. Về lâu dài Trung ương cần có mở các lớp đào tạo trung cấp hoặc đại

học chuyên về quản lý kinh tế tập thể để đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ

quản lý nhà nước về HTX để nâng cao trình độ năng lực quản lý Nhà nước

đối với HTX đáp ứng với yêu cầu phát triển HTX nói chung và HTX nông

nghiệp nói riêng trong thời gian tới.

Cán bộ quản lý khu vực HTX phải là những người có hiểu biết đúng

đắn về bản chất HTX cũng như các quy định pháp luật liên quan đến khu

vực kinh tế tập thể. Do vậy UBND các cấp, các sở ban ngành và phòng

chuyên môn huyện, hàng năm hoặc đình kỳ cử cán bộ tham gia các khóa

bồi dưỡng cho cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể. Việc tham gia

các lớp tập huấn này cần mang tính bắt buộc. Hàng năm cơ quan quản lý

HTX cần kiểm tra sát hạch trình độ các cán bộ phụ trách lĩnh vực HTX tại

địa phương mình.

3.2.3. Hoàn thiện thủ tục đăng ký hoạt động của HTX nông nghiệp

Huyện xây dựng một bộ thủ tục hành chính về quy trình thủ tục

đăng ký hoạt động của HTX theo hướng giảm bớt các thủ tục không cần

thiết. Mở các lớp tập huấn hướng dẫn các thủ tục đăng ký hoạt động HTX,

61

quy trình thủ tục chuyển đổi, đăng ký hoạt động lại HTX cho cán bộ quản

lý HTX.

Tổ chức tiếp nhận và trả kết quả thủ tục hành chính về đăng ký mới,

chuyển đổi, đăng ký lại hoạt động HTX tại tổ một cửa, hướng dẫn một cửa

liên thông, nhằm tạo thuận lợi cho cán bộ quản lý HTX.

Hướng dẫn xây dựng điều lệ HTX, phương án sản xuất kinh doanh

cho HTX, các quy định về quản lý tài chính, báo cáo định kỳ và công khai

minh bạch tài chính, tài sản cho thành viên HTX.

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các cấp

Tăng cường công tác giám sát Hội đồng nhân dân, của Ủy ban mặt

trận tổ quốc và các đoàn thể đối với việc thực hiện chính sách pháp luật về

phát triển HTX theo Luật hợp tác năm 2012; kịp thời phát hiện những hạn

chế, bất cập khi triển khai thực hiện luật và các văn bản hướng dẫn trên

thực tế để kiến nghị tỉnh, Trung ương bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện. Thường

xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về HTX

kể cả đối với cán bộ quản lý nhà nước về HTX và hoạt động của các HTX,

của thành viên HTX. Tập trung thanh tra, kiểm tra về các quy trình điều

kiện thành lập HTX, về đại hội thành viên, về quản lý tài chính, về báo cáo

công khai minh bạch tài chính, tài sản…

Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán

bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng

tập huấn đối với đội ngũ thanh tra, kiểm tra để nâng cao trình độ năng lực,

phẩm chất nghề nghiệp thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao…có

chế độ đãi ngộ về vật chất tinh thần để họ có thể yên tâm thực hiện tốt

nhiệm vụ của mình. Mặc khác cần xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ

không hoàn thành nhiệm vụ, có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ảnh

hưởng đến hoạt động của HTX.

62

Trung ương và tỉnh quy định về cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát

trong việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật cũng như xây

dựng chế tài trong trường hợp các cơ quan chức năng không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng trách nhiệm của mình. Mặc khác Nhà nước cần quy

định bổ sung giao cho cơ quan quản lý HTX chức năng kiểm tra, giám sát

xử lý các HTX vi phạm pháp luật. Đồng thời cần hoàn thiện khung pháp lý,

nhất là Luật HTX hiện hành để đảm bảo quyền độc lập, tự chủ của HTX.

3.2.5. Hỗ trợ chính sách để HTX nông nghiệp thích ứng với cơ chế

phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Phát triển kinh tế thị trường đi đôi với chủ động, tích cực hội nhấp

quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện

nay. Ngoài những thuận lợi cho phát triển HTX nông nghiệp như: thị

trường mở rộng hơn và dễ tiếp cận hơn, có môi trường để học hỏi…, các

HTX nông nghiệp phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: phát

triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sẽ tạo nên sức ép cạnh tranh gay

gắt đối với HTX nông nghiệp, ngay cả trên thị trường nội địa; hội nhập làm

tăng phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài. Do vậy

HTX nông nghiệp có thể dễ bị tổn thương trước những biến động của thị

trường quốc tế.

Như vậy, vấn đề đặt ra là trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp phải đạt được mục tiêu cho các HTX nông nghiệp khai

thác tốt các thời cơ, thuận lợi, đồng thời vượt qua những khó khăn thách

thức trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, phát huy vai trò

của HTX nông nghiệp trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

Để các HTX nông nghiệp thích ứng với phát triển kinh tế thị trường

và hội nhập quốc tế, trước hết nhà nước cần hoàn thiện hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp trên cơ

63

sở các nguyên tắc cơ bản của HTX và phù hợp với điều kiện phát triển

HTX nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội hập quốc tế hiện

nay. Giảm thiểu các thủ tục hành chính theo hướng hỗ trợ cho sự ra đời và

theo hướng các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Nhà nước cần tập trung vào việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ

trợ các HTX nông nghiệp phát triển. Ở địa phương tổ chức thực hiện

nghiêm túc và vận dụng thực hiện các chính sách hỗ trợ đó một cách linh

hoạt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho HTX nông nghiệp phát triển. Thứ hai,

xây dựng các mô hình điển hình các HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu

quả, mô hình liên hiệp các HTX nông nghiệp. Các mô hình này sẽ giúp

nông dân khắc phục cơ bản những thua thiệt trên thị trường, gia tăng lợi ích

thông qua liên kết hữu cơ trong chuỗi giá trị sản phẩm nhằm tăng cường

sức mạnh tập thể của các thành viên. Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

của các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương từ địa phương (tỉnh,

huyện, xã), tạo sự thống nhất, chặt chẽ trên cơ sở công khai, minh bạch và

ổn định trong công tác quản lý nhà nước để thuận lợi cho HTX nông

nghiệp hoạt động thích ứng với thị trường và hội nhập quốc tế.

3.2.6. Xây dựng mô hình chuẩn về HTX nông nghiệp

Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm nhân rộng từng vùng, miền

và cả nước. Trong đó chú ý về cách thức quản lý Nhà nước ở địa phương

cấp huyện, việc xây dựng các chương trình, kế hoạch xây dựng và phát

triển HTX nông nghiệp, việc vận dụng cơ chế chính sách hỗ trợ của Trung

ương, tỉnh đối với HTX nông nghiệp; đối với việc đào tạo bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý HTX nông nghiệp, việc xây

dựng tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về HTX nói chung, HTX nông

nghiệp nói riêng trên địa bàn cấp huyện để các địa phương vận dụng thực

hiện.

64

Đối với huyện thường xuyên tổ chức sơ tổng kết, đánh giá rút kinh

nghiệm về phát triển HTX nông nghiệp. Qua đó kịp thời rút ra những bài

học tốt để phát huy, những kinh nghiệm chưa tốt để khắc phục. Xây dựng

và nhân rộng mô hình HTX điển hình trong nông nghiệp. Tập trung xây

dựng và từng bước nhân rộng mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp,

hỗ trợ các HTX trong liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ tại các

vùng nguyên liệu tập trung có lợi thế cạnh tranh của địa phương như: lúa,

mía, khóm, thủy sản, rau màu, chuối… Khi có điều kiện chú trọng quan

tâm xây dựng hình thành liên hiệp HTX, có cơ chế khuyến khích doanh

nghiệp liên doanh, liên kết với các HTX, hộ nông dân; phối hợp liên kết

giữa các doanh nghiệp, HTX, tổ chức tín dụng với hộ nông dân là thành

viên với HTX trong việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, giúp các

HTX trở thành đầu mối chủ yếu trong việc ký kết hợp đồng mua bán và

làm đại lý mua bán với doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản và vật tư

nông nghiệp trên thị trường nông thôn; thực hiện lòng ghép các chương

trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với mở rộng và nâng cao hiệu quả

hoạt động của HTX.

Xây dựng mô hình HTX nông nghiệp chuyên ngành, phát triển đa

dạng các loại hình HTX nông nghiệp ở từng địa bàn với các điều kiện tự

nhiên, kinh tế xã hội và văn hóa khác nhau nhằm phát huy thế mạnh tiềm

năng ở từng địa bàn trong huyện.

Tổ chức, củng cố lại hoạt động của HTX nông nghiệp theo đúng bản

chất của HTX, Luật HTX năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thực hiện

luật, phát huy vai trò làm chủ của thành viên, vận động thành viên HTX

góp vốn và nâng mức vốn góp, vận động thu hút thêm thành viên, hợp nhất,

sát nhập HTX cùng ngành nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài

chính và quy mô hoạt động của HTX, giải thể HTX hoạt động kém hiệu

65

quả, hoạt động hình thức đi đôi với việc thành lập mới theo Luật HTX năm

2012.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 đã đưa ra quan điểm phát triển hợp tác nông nghiệp giai

đoạn 2016-2020, cùng những mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Để thực hiện đúng

quan điểm đạt được mục tiêu, chỉ tiêu đó, trên cơ sở những kết quả đạt

được, cũng như những hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp trên dịa bàn huyện U Minh Thượng đã nêu

ở chương 2, ở chương này đã nêu lên các giải pháp để hoàn thiện công tác

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện.

66

KẾT LUẬN

Xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp là một yêu cầu tất yếu

trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, nó là khâu đột

phá để tái cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp, gia tăng sức cạnh tranh và nâng

cao giá trị hàng hóa nông sản và tăng thu nhập cho người nông dân. Tuy

nhiên HTX nông nghiệp phát triển còn nhiều khó khăn, hiệu quả đem lại

còn thấp, trong đó có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân có tầm quan

trọng đặc biệt đó là công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của HTX. Luận văn này trên cơ sở lý

luận khoa học về HTX, thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp trên địa bàn huyện U Minh Thượng đã đưa ra một số giải pháp

nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên địa bàn

huyện. Những giải pháp đó nếu được thực hiện tốt trong thực tế tin rằng sẽ

đem lại hiệu quả cao trong xây dựng và phát triển HTX trong nông nghiệp

trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư, Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo thực hiện Nghị quyết

Hội nghị TW5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả kinh tế tập thể.

2. Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết

Hội nghị TW3 (khóa IX).

3. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị

TW7 (Khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

4. Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), Kinh tế

tổ hợp tác, HTX ở Việt Nam-thực trạng và định hướng phát triển, Nxb.

Nông nghiệp, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị, Kết luận về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết

TW5 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế

tập thể.

6. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp nước ta, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Chính phủ (2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội năm 2011-

2020.

8. Chính phủ (2013), Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật

HTX năm 2012.

9. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2012), Chương trình "củng cố, phát triển

và nâng cao hiệu quả quá trình kinh tế tập thể giai đoạn 2012-2020".

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VIII.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ IX.

68

12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ X.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Khóa IX.

16. Nguyễn Văn Giàu (2015), Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả

Luật HTX năm 2012, góp phần phát triển bền vững mô hình HTX kiểu

mới", Tạp chí Cộng sản (số 90).

17. Vương Đình Huệ (2015), "Về xây dựng, phát triển và nâng cao

hiệu quả của HTX trong nông nghiệp", Tạp chí Cộng sản (số 105) .

18. Liên minh HTX Việt Nam (2005), Báo cáo của BCH Liên minh

HTX Việt Nam khóa, Hà Nội.

19. Phạm Quang Phan và TS Nguyễn Văn Linh (2002) "Bàn về vai trò

kinh tế hợp tác trong nền kinh tế quá độ ở Việt nam", Tạp chí kinh tế và

phát triển, (số 36).

20. Vũ Văn Phúc (2002), "Về chế độ kinh tế HTX ở nước ta", Tạp chí

lý luận chính trị, (số 1).

21. Quốc hội (1996), Luật Hợp tác xã.

22. Quốc hội (2003), Luật Hợp tác xã.

23. Quốc hội (2012), Luật Hợp tác xã.

24. Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và

quản lý các HTX trong nông nghiệp, nông thôn, Nxb. nông nghiệp, Hà Nội.

25. Ủy ban nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang (2016)

Báo cáo của huyện U Minh Thượng về kinh tế tập thể giai đoạn 2012-2016.

69

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang , Các Báo cáo tổng kết về kinh

tế hợp tác, HTX của tỉnh Kiên Giang.

27. Hoàng Việt, "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác trong

nông nghiệp", Tạp chí Cộng sản, (số 19).

28. Hồ Văn Vĩnh (2005), "Phát triển HTX nông nghiệp trong thời kỳ

CNH, HĐH ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (số 8).

29. Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (chủ biên) (2005), Mô hình phát

triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

70